Giáo Án Tu Tập 61 Băng

ĐƯỜNG LỐI TU HÀNH CỦA ĐẠO PHẬT

(Đánh máy từ 61 băng Giáo Án Tu Tập)

Kính thưa quí vị,

Bộ "Giáo Án Tu Tập 61 Băng" được đánh máy theo hai nguồn khác nhau. Đó là từ 61 băng của bác Chơn Đức (Bản A) và của sư Bảo Nguyên (Bản B). Hai bản này có sự lệch nhau về nội dung. Do đó, để tiện tra cứu, Ban Biên Tập sẽ sắp xếp các bài theo bản cũ hơn (bản bác Chơn Đức). Các phần thiếu (có bên bản A mà không có bên bản B) sẽ được đánh dấu, ghi chú rõ ràng.

Ngoài ra, mỗi đoạn sẽ được chua để đánh dấu bắt đầu, kết thúc theo quy tắc sau:

(BBT:Tên bản,Số Băng-Thời điểm bắt đầu-Thời điểm kết thúc). Ví dụ:

(BBT:CĐ,01A,B00:00:00) Có nghĩa là bản ghi âm A , bắt đầu ở vị trí 00:00:00

(BBT:CĐ,01A,E00:37:05) Có nghĩa là bản ghi âm A , Kết thúc ở vị trí 00:37:05

(BBT:BN,01,E00:37:05) Có nghĩa là bản ghi âm B , Kết thúc ở vị trí 00:37:05

Trước mỗi phần chua, chúng tôi thêm 3 chữ BBT để quí vị dễ dàng tìm kiếm, đối chiếu.

Xin cảm ơn các đạo hữu đã dày công đánh máy giáo án này.

BBT Thư Viện Chơn Như


Chi tiết nội dung đánh máy:

*Từ file 1-20 gõ theo bản của Thầy Bảo Nguyên
1.file 1--->17 Tâm Huệ, Ong Bầu, Huệ Như, Tâm Pháp ...đã gõ xong.
2. File 18 Ong Bầu, Tâm Huệ, Kim Thoa đã xong
3.File 19,20 Thanh Tâm, Minh Bảo đã gõ xong.

*Từ file 21 đến file 48 là bản chú Chơn Đức
YouTube  (Lọc nhiễu)

4. File 21 -:- 28 Kim Thoa, Vũ Văn Vinh đã gõ xong
5. File 29: Bạn của Tịnh Nhật Thịnh, Tâm Huệ đã xong. Minh Bảo đã xong file 30.
6. File 31-35: Kim Thoa, Kiều Diễm Nguyễn đã gõ xong.
7. File 36: Kiều Diễm Nguyễn, Huệ Như đã gõ xong
8. File 37: Phạm Đình Quyền, Tâm Huệ, Huệ Như đã gõ xong
9. File 38: Huy Núi Đã gõ xong
10. File 39 - 40: Khánh Bùi xong.
11. File 41 – 45: 41 Duong Ha xong. 42 Minh Bảo, Nguyệt Như đang gõ. 43 Kim Thoa đã gõ xong 44 Duong Ninh xong. 45 Bùi Tá Cường.
12. File 46: Thanh Hưng Nguyễn đã gõ xong
13. File 47: Huy Núi, Huệ Như gõ xong. 48 Hiệp, Huy Núi, Vũ Yến đã xong.

*Từ 49 – 61 gõ theo bản của Thầy Bảo Nguyên
14. File 49-55:
49,50,51 Nguyễn Bá Thiện xong. 52 Long Hoa, Huệ Như xong. 53 Nguyệt Như xong. 54 Phạm Như Nguyện xong. 55 Long Hoa, Nguyệt Như xong
15. File 56-58. Tâm Pháp đã gõ xong.
16. File 59-61 Tâm Pháp đã gõ xong

TÓM TẮT TIỂU SỬ

LỜI TRI ƠN ĐỨC TRƯỞNG LÃO

Chúng con thành kính tri ân đức Trưởng lão Thích Thông Lạc, bậc Thầy tôn kính đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết; người dựng lại Chánh pháp của đức Phật, thắp sáng ngọn đèn đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh cho nhân loại trên hành tinh này.

Chúng con nguyện làm theo lời dạy của Người, sống một đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, biết thương yêu và tha thứ, biết nhẫn nhục tùy thuận bằng lòng để không làm khổ mình – khổ người và khổ các loài chúng sanh.

Chúng con cùng ước nguyện thực hiện đời sống ly dục, ly bất thiện pháp; sanh thiện tăng trưởng thiện pháp như lời Thầy dạy cho đến ngày giải thoát hoàn toàn khỏi các lậu hoặc.

Chúng con thành kính khắc ghi,

NHÓM ĐÁNH MÁY

 

LỜI NÓI ĐẦU

Kính thưa quý Thầy, quý Sư cô, cùng toàn thể quý Phật tử!

Chúng con là nhóm thực hiện việc đánh máy bộ Giáo án đường lối tu tập đạo Phật do đức Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng dạy cho quý tu sinh tại Tu viện Chơn Như năm 1997.

Chúng con thật hoan hỷ khi có đầy đủ phước báu được nghe những lời giảng dạy của đức Trưởng lão trong bộ Giáo án. Từ chỗ nhận thức được tầm quan trọng của những lời dạy của Thầy trong bộ Giáo án - bộ Giáo án này được xem như kim chỉ nam, là đường lối, là lý pháp và hành pháp của Đạo Phật Thích Ca - đã có một cư sĩ phát nguyện đánh máy lại toàn bộ 61 cuốn băng này. Từ đó, nhiều cư sĩ cũng thấy lợi ích thiết thực cho mình và cho nhiều người nếu như có bản đánh máy ra đời nên đã phát nguyện chung tay chia nhau công việc cùng thực hiện.

Đến nay, sau gần hai tháng cùng đánh máy, chúng con đã có kết quả ban đầu và chúng con tập hợp lại các băng mà Thầy dạy cho người cư sĩ tu tập giai đoạn 1, gồm 16 băng (từ băng số 01 đến băng 16).

Thực ra, dầu chúng con đã hết sức cố gắng nhưng cũng không sao tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được sự bổ khuyết, góp ý từ quý Thầy, quý Sư cô, cùng quý Phật tử để lần tái bản sau được hoàn chỉnh hơn.

Chúng con xin nguyện sống theo đạo đức nhân bản – nhân quả mà Thầy đã dạy, hướng đến ly dục – ly ác pháp để giải thoát thân tâm khỏi các lậu hoặc đem đến hạnh phúc cho mình, cho người và muôn loài chúng sanh.

Chúng con ước nguyện người người, nơi nơi đều hướng về Giáo pháp của đức Phật Thích Ca để thấy lối thoát, để thấy đường đi, để thắp lên ngọn đèn giải thoát cho chính mỗi người, để luôn thanh thản, an lạc.

Kính ghi,

NHÓM ĐÁNH MÁY

LỜI CĂN DẶN CỦA TRƯỞNG LÃO KHI SỬ DỤNG GIÁO ÁN NÀY

(BBT:CĐ,14A,B00:06:24)(BBT:BN,13,B00:49:40)

Bây giờ Thầy tiếp tục buổi giảng này bằng những các pháp để nhắc nhở cái tâm của Thầy như thế nào sau các buổi học tập, tu tập những cái pháp mà Thầy đã giảng trạch.

Này các thầy, Thầy dạy giáo án này là nhằm phục hồi giáo pháp chơn chính của đạo Phật, có đầy đủ lý pháp và hành pháp để giúp cho mọi người tự thắp đuốc lên mà đi, không còn lạc đường lạc lối, nếu họ tự có quyết tâm tìm đường giải thoát khổ đau và chấm dứt luân hồi. Ở đây Thầy dạy cái pháp này nhằm để cho chúng ta thấy được con đường đi, thấy được cách hành trì để cho chúng ta chấm dứt đau khổ, chấm dứt luân hồi. Ở đây các thầy đừng nghĩ rằng Thầy thuyết giảng giáo án này là để thu hút các đệ tử của người khác, là khiến cho họ trở về quy y với Thầy. Quý thầy chớ hiểu như vậy. Bổn sư của quý thầy thì quý thầy hãy giữ nguyên vị bổn sư ấy cho quý thầy. Không khéo rồi quý thầy nghe Thầy thuyết giảng rồi ở đâu cũng ùn ùn tới xin thầy quy y hết. Thầy không có mơ ước điều đó đâu. Mà Thầy chỉ mong vị bổn sư mà quý thầy nương vào theo Phật pháp mà tu hành thì bây giờ các vị thầy đó vẫn là những vị thầy của quý thầy chứ đừng có lấy Thầy mà làm thầy. Mà Thầy chỉ đem cái giáo án để cho quý thầy biết được đường đi, tu cho đúng mà thôi. Chớ đừng có bỏ họ, nghĩ họ là như thế này thế khác. Điều đó là điều sai quấy.

Vì vậy mà hôm nay Thầy mới nhắc nhở điều này để cho quý thầy thấy hiểu. Ở đây Thầy cứ theo lời Phật dạy trong kinh mà can ngăn, vứt bỏ chứ Thầy không có ý bài bác người này, bài bác người kia. Cho nên cái bài này Thầy muốn nhắc để cho quý thầy hiểu cái lòng của Thầy như thế nào trên con đường xây dựng giáo án này.

Quý thầy cũng đừng nghĩ rằng Thầy giảng giáo án này là để quý thầy từ bỏ những kinh sách của quý thầy. Quý thầy chớ hiểu như vậy, quý thầy hãy giữ nguyên kinh sách của quý thầy. Nghĩa là quý thầy học kinh sách nào,họcđạo nào thì quý thầy cứ giữ nó chứ quý thầy đừng có bỏ. Nghĩa là quý thầy thấy đường lối giáo án mà Thầy dạy theo đạo Phật đã dạy có lợi ích cho quý thầy thì quý thầy cứ tập luyện cho nó có lợi ích, có giải thoát cho quý thầy thôi. Chứ quý thầy đừng có ném kinh sách này là không đúng, sai; quăng, đốt đó là cái sai; cái đó là cái làm không đúng.

Cho nên ở đây Thầy nhắc nhở quý thầy. Bây giờ các thầy có cả một tủ kinh sách của các tôn giáo khác các thầy cũng không được ném. Cho nên các thầy đừng có xem nó là thường, mà các thầy có cái gì thì cứ để nguyên nó, đừng có phê phán nó bằng cách này, bằng cách khác là quý thầy đã sai. Các thầy chỉ biết giáo án Thầy đã nêu ra đây để giúp cho quý thầy, để các thầy đi trên con đường thiện, để giải thoát cho quý thầy được cái nhân ác, để giúp các thầy hưởng được phước báu, giải thoát. Chứ không phải các thầy coi thầy mình không ra gì, coi kinh sách mình đang học không ra gì thì cái điều đó là điều không đúng.

Quý thầy cũng đừng hiểu Thầy giảng giáo án này là muốn cho quý thầy từ bỏ gia đình, sống không gia đình; từ bỏ tài sản lớn tài sản nhỏ, từ bỏ bà con quyến thuộc lớn quyến thuộc nhỏ để xuất gia tu hành. Quý thầy chớ có hiểu như vậy, tất cả những cái gì của quý thầy thì quý thầy hãy giữ nguyên như vậy, nghĩa là tình cảm thương yêu gì quý thầy cứ giữ nguyên như vậy. Rồi quý thầy cứ tu tập đến chừng nào đó nó ly thì nó ly.Chứ quý thầy đừng có nghe Thầy nói, bảo như vậy rồi quý thầy tìm mọi cách cách ly gia đình mình bằng cách này cách kia. Bởi vì Thầy hiểu tâm trạng của quý thầy là tâm trạng không có hiểu rõ, không có thông minh. Mà ở đây Thầy nhằm khai triển ra để thấy cái pháp đúng để cho chúng ta thực hiện con đường giải thoát, chứ không phải nghe như vậy rồi về nạt nộ vợ con tụi bây là báo này kia nọ, nhà cửa tài sản là oan gia tội báo nó làm cho tao dính mắc thì cái đó là cái sai. Phải hiểu tất cả những cái đó là cái sai, chúng ta đừng có vội vàng, chúng ta hãy thực hiện những pháp này, rồi chúng ta trau dồi lần lượt rồi tự nó nó thấy cái đúng cái sai, chứ đừng có về mà vội vàng xua đuổi hoặc bằng cách khác, thì điều đó là điều sai.

Quý thầy cũng đừng hiểu Thầy giảng giáo án này là dạy quý thầy từ bỏ các phong tục tập quán, tụng kinh, cúng bái, cầu siêu cầu an, mê tín coi sao bói quẻ, coi ngày tốt xấu hoặc bỏ phế tất cả các nghề nghiệp, quý thầy đừng có hiểu như vậy mà hãy giữ nguyên như cũ. Nghĩa là quý thầy cứ hoàn toàn giữ nguyên như nó, đừng có chê bai nó. Hầu hết quý thầy nghe rồi mượn cái chỗ giáo án của Thầy mới chỉ trích người này cúng bái cầu siêu đều là bậy, coi sao bói quẻ đều là sai, hay coi ngày tốt xấu đều là bậy. Đừng có nói cái điều đó, chúng ta đừng có nói cái điều đó mà chúng ta hãy tu. Chúng ta biết đó là những pháp ác, đem đến cho chúng ta khổ đau thì chúng ta không làm nó mà thôi. Quý thầy cứ nghĩ quý thầy bây giờ quý thầy làm cái nghề gì đó mà quý thầy giết hại chúng sanh, làm đau khổ chúng sanh thì quý thầy không làm chứ không phải quý thầy bác, đừng có nói. Ai người ta có nghiệp nấy, người ta làm. Còn mình nói là coi chừng mình bị phạm đó. Đó là cái chỗ thầy cảnh giác, khi mà nghe Thầy giảng rồi quý thầy dễ lầm lạc lắm.

Cũng như nghe Thầy dạy tu Tứ vô lượng tâm, tâm từ tâm bi của mình mà hốt cơm cho chó ăn, hốt cơm cho kiến ăn thì điều đó là điều sai. Cơm của đàn na thí chủ người ta làm bằng mồ hôi nước mắt, còn con vật thì nó là nghiệp báo của nó. Tại sao chúng ta lại hốt mồ hôi nước mắt của người khác trong khi chúng ta đang ăn nhờ của người khác. Chúng ta vô lượng tâm từ, đó là từ sai, từ không trí tuệ. Các thầy đừng hiểu một cách bây giờ chùa mình không có chó mà Phật có nuôi chó bao giờ, thế mà gặp con chó nào cũng đem cơm cho ăn, cái chùa chúng ta bây giờ một bầy chó vô ở. Bởi vì chỗ đó có ăn nó phải đến chứ gì. Thầy thấy mấy cái thất nào có bỏ cơm cho chó ăn thì cái thất đó chó lảng vảng hoài, còn cái thất nào không cho chó ăn thì cái thất đó không có chó lảng vảng. Mình quyến rũ người ta, mình tạo cho người ta cái nghiệp nợ. Mình ăn cơm của đàn na thí chủ, mình biết mình trả được cái nợ này chưa. Cái nợ này rất lớn, tu hành chưa xong thì cái nợ này biết ngàn đời trả cho hết. Thế mà bây giờ lại lấy lòng từ, lòng từ của mình phải từ mồ hôi nước mắt mình làm ra cho thì mới gọi là lòng từ chứ. Còn cái này lấy của người ta cho người khác. Mình mượn hình thức của tu hành để lấy của người ta mình cho người khác ăn. Thì như vậy mình có từ không. Người ta làm bằng mồ hôi nước mắt người ta dành ra. Đó là những cái hiểu sai, cái lầm lạc.

Cho nên cái bài này để Thầy vạch ra cho các thầy thấy sai lệch của các thầy. Khi nghe nói đến từ bi hỷ xả thì các thầy tưởng làm như vậy là đúng. Không đúng đâu, phải đúng như thế nào mới đúng. Cho nên nghe giáo án của Phật nói như vậy, phải trắng bạch như vỏ ốc về chúng ta làm cách này cách khác, làm cho gia đình tan nát, khổ sở. Có nhiều người đã hiểu qua lời dạy của Thầy về làm đau khổ gia đình hết mà không thấy sự giải thoát, mà thấy địa ngục trước mắt. Đó là những cái hiểu lầm lạc lời Thầy dạy. Nếu mà Thầy không có lời cảnh giác này thì chắc chắn là đạo Phật đưa đến khổ đau cho thế gian này chứ chưa phải là hạnh phúc cho ai hết.

Quý thầy cũng đừng hiểu Thầy giảng giáo án này là muốn cho quý thầy từ bỏ gia đình, Thầy nhắc lại cái đoạn đó. Quý thầy cũng đừng hiểu Thầy giảng giáo án này để quý thầy từ bỏ các phong tục. Nghĩa là Tết nhứt, mùng năm, cúng bái giỗ quảy này kia thì kiểu này về bác sạch hết, không ai cúng bái hết. Thì cái đó là cái sai, cái không đúng. Cho nên chúng ta phải giữ nguyên như cũ. Ai làm gì làm, ta biết cái đó là pháp ác thì chúng ta không làm. Bây giờ trong nhà mình đến ngày cúng bái, người ta giết heo giết bò thì người ta giết mặc ta, không có được cản. Mình đừng nên giết, đừng nên ăn thịt là đúng; là mình biết đó là pháp ác. Chứ mình chưa có đủ sức độ ai hết, đừng có học ở đây mình đem ra mình nói người này, nói người kia, nói đó là làm ác này kia. Cái đó là cái phong tục người ta đã quen rồi, để cho người ta làm. Cho nên có nhiều người hỏi Thầy, bây giờ con là người nội trợ ở trong nhà bếp, ngày tư ngày Tết mà trong nhà còn ăn thịt chúng sanh thì phải làm thịt này kia, phải làm thực phẩm từ chúng sanh như vậy thì con biết ăn chay thì con làm sao. Hỏi một cách Thầy nói rất là ngu ngơ thiệt, hổng biết gì hết. Nghĩa là mình phải làm cho mọi người vui ở trong gia đình của mình. Bây giờ mọi người ta đang ở trong cái phong tục như vậy, người ta quen như vậy. Thì mình là cái người dâu con trong nhà mình phải làm cho người ta vừa lòng. Thì mình làm cho mọi người vui lòng, cái tâm của mình mình biết như vậy mình đừng có ăn thịt chúng sanh. Mình biết như vậy mình đừng có mua con gà sống mình về cắt cổ, mình hãy mua con gà chết người ta làm sẵn. Mình phải khéo léo linh động để bớt đi bàn tay đẫm máu của mình. Và mình biết trong thiện pháp cũng từ từ tập chứ không lẽ bây giờ đùng một cái mình không làm gì hết. Ví dụ giờ nấu chay đậu hũ đi; nhà người ta mọi người không bằng lòng thì mình làm chuyện đó sao được. Đó là cái tu chứ không phải cái là thành Phật liền. Nghe cái như là mình thành Phật rồi, từ bi dữ lắm rồi. Bao nhiêu kiến cũng đổ cho ăn, cho ăn xong nó cắn mình gần chết. Đó là quá ngu, Phật gì mà ngu quá ngu.

Quý thầy đừng nghĩ rằng Thầy giảng giáo án này là Thầy dạy quý thầy bỏ chùa to, tháp lớn, bỏ giáo hội, bỏ phế sự giảng dạy kinh sách, bỏ phế các pháp yết ma, bỏ phế các pháp thiền định mà quý thầy đang tu tập. Quý thầy đừng có nghĩ như vậy mà hãy giữ nguyên tất cả. Nghĩa là mình thấy, mình xét thấy các pháp thiền này nó không đúng thì mình tu chứ không được bỏ, mình bỏ là mình bài bác. Nghĩa là mình thấy không đúng thì mình tu còn ai chưa hiểu thì người ta tu gì người ta tu không được nói một lời nói nào. Nói anh tu như vậy là sai thì cái đó không phải là Phật, cái đó là bài bác người ta, tức là có sự tranh luận chống trái nhau.

Cho nên ở đây Thầy cảnh giác vấn đề này, qua bài pháp này để cho quý thầy hiểu được tâm trạng của Thầy không muốn có sự chống trái nhau ở trên con đường tu tập theo đạo Phật, dù là giáo pháp của ai cũng đều quý trọng hết. Họ có đi tới được hay không đi tới được mình không động chạm. Chứ không phải mình thấy tu tập giới luật mình được rồi bắt đầu mình chê rề họ. Đó là cái sai, là cái pháp ác chứ không phải là pháp đúng đâu. Ai làm gì thì mặc người ta, chúng ta làm sao cố gắng làm cho tâm chúng ta giải thoát được trong pháp thiện, đem lại an vui hạnh phúc cho chúng ta trước, rồi sau chúng ta làm gương hạnh sống để người ta thấy đúng để người ta theo. Chứ không phải bảo người ta, dạy người ta bằng cái miệng lưỡi mà người ta theo đâu.

Quý thầy đừng nghĩ rằng Thầy giảng giáo án này là muốn quý thầy từ bỏ những gì mà các Tổ đã truyền thừa, Tổ Tổ truyền nhau. Quý Thầy đừng nghĩ như vậy. Tất cả những gì mà các Tổ đã truyền cho quý thầy, quý thầy hãy giữ nguyên như cũ. Nghĩa là ông thầy đó dạy mình cúng bái, tụng niệm, kệ ngâm hoặc gì đó bây giờ cũng làm y như vậy hết. Nhưng mình thấy cái điều đó nó không đem đến thiện pháp thì mình lần lần mình tự sửa lấy mình. Rồi mình dần dần tu tập cho mình đi vào con đường thiện pháp mà đức Phật đã nêu ra. Chớ không nói thầy Tổ mình làm cái đó sai, cái đó trật, cái đó là mê tín; không được nói cái điều đó. Đó là cái ý của Thầy muốn giảng cái bài này là như vậy đó.

Quý thầy đừng nghĩ rằng Thầy giảng giáo án này là Thầy muốn quý thầy từ bỏ nghề thầy thuốc trị bệnh, làm việc từ thiện, bố thí, v.v.. quý thầy chớ nghĩ như vậy. Tất cả những gì làm lợi ích cho mọi người, cho xã hội thì quý thầy hãy giữ nguyên. Nghĩa là quý thầy biết được những các pháp ác để quý thầy tu tập cái tâm của mình, trau dồi cái tâm thương yêu của mình. Còn những việc làm kia thì quý thầy hãy giữ nguyên mà làm chứ đừng lấy cái đó mà quý thầy bỏ, quý thầy xiên qua một góc độ nào đó. Thì cái ðó không phải là cái ý của Thầy giảng giáo án này đâu.

Quý thầy cũng đừng nghĩ Thầy giảng giáo án này là muốn cho quý thầy không viết kinh, soạn sách, dịch kinh, viết sách. Quý thầy chớ có nghĩ như vậy.Tất cả những điều mà quý thầy đã làm có tính cách phổ biến mọi đường lối tu tập thì quý thầy cứ giữ nguyên. Nghĩa là mọi đường lối đó đều có thể là tốt chứ không xấu đâu, nó không giúp ích cho người ta cái này thì nó cũng giúp ích cho người ta cái khác. Cho nên cứ giữ nguyên mà làm nhưng quý thầy cứ sửa những cái điều không tốt, điều ác trong tâm của mình, điều hành động ác, hành động không tốt trong tâm của mình để sửa dần theo cái giáo án của Phật để quý thầy được giải thoát.

Quý thầy cũng đừng hiểu Thầy giảng giáo án này là chống trái, bài bác quý thầy phá giới, phạm giới mà tất cả những gì quý thầy đang sống quý thầy cứ giữ nguyên. Nghĩa là đừng có nghĩ rằng Thầy dạy giáo án này ra là chống trái với những thầy phá giới đâu, không phải đâu. Nghĩa là quý thầy đó làm những gì thì mặc quý thầy, cứ giữ nguyên chứ không phải bắt buộc quý thầy đó phải giữ gìn, ngày ăn sống ngày một bữa giống như Thầy, hoặc ngủ ít, hoặc độc cư, hoặc là nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng ai hết. Thầy không bắt buộc họ, tất cả giáo án này là không bắt buộc người nào hết. Miễn là cái người đó nhận ra cái pháp ác, cái pháp thiện. Pháp ác thì họ dứt, mà pháp thiện thì họ tăng trưởng, thì họ hưởng được sự giải thoát. Có như vậy thôi, giáo án này ra đời là nhằm mục đích như vậy. Ai thấy được cứ thực hiện, ai thấy không được thì thôi. Chứ không được cái chỗ giáo án này mà bài bác người ta đúng hay sai, điều đó là không được.

Quý thầy cũng đừng hiểu Thầy dạy giáo án này là bắt buộc quý thầy phải tu theo Giới – Định – Tuệ của đức Phật, mà bây giờ quý thầy đã tu theo giới định tuệ nào thì quý thầy cứ giữ nguyên. Nghĩa là mình tu theo giới định tuệ nào, của kinh điển nào thì mình cứ giữ nguyên. Còn mình thấy được Giới – Định – Tuệ của đức Phật đúng thì mình cố gắng mình khắc phục dần dần theo đó. Còn những giới định tuệ nào mà không đúng, nó có ác pháp trong đó, có những cái phi thời trong đó thì chúng ta lần lần chúng ta dứt. Chứ chúng ta không nói nó là đúng nó là sai. Chúng ta từ từ chúng ta dứt chứ không phải là chúng ta dứt được đâu. Giờ có quý thầy cũng nói tu Giới – Định – Tuệ nhưng mà một ngày ăn hai ba bữa thì đó là phi thời, mà mình không nói là phi thời mà mình biết là Giới – Định – Tuệ của Phật dạy ngày ăn một bữa mới không phi thời thì mình biết đó dần dần mình sửa. Bởi vì mình còn đang ăn ngày ba bữa nên mình sửa lần cho mình ăn ngày một bữa. Đó là đi vào thiện pháp không phi thời nữa. Còn quý thầy người ta chưa hiểu biết hoặc người ta hiểu biết mà người ta sống khắc phục chưa được thì mình không được nói, không được phê bình họ, không được nói giới định tuệ đó là giới định tuệ sai. Giới định tuệ đó là của Đại thừa chứ không phải giới định tuệ của Tiểu thừa. Mình đừng có nói điều đó, nói điều đó là điều không tốt.

Này quý thầy, Thầy giảng giáo án này là chỉ quý thầy biết nó những pháp bất thiện. Nghĩa là dạy cho biết đó là những pháp bất thiện mà chưa được từ bỏ, làm cấu uế đưa đến tái sanh luân hồi, đem lại khổ đau, đưa lại quả khổ, đem lại già chết trong tương lai. Thầy dạy giáo án này mục đích của nó là cho quý thầy biết pháp nào là bất thiện, pháp nào là thiện. Và pháp bất thiện mà quý thầy chưa từ bỏ thì quý thầy hãy cố gắng từ bỏ vì pháp bất thiện đó nó làm cho cấu uế, đưa đến tái sanh luân hồi, làm khổ đau, đưa lại quả khổ, đem lại già chết ở trong tương lai của chúng ta. Nghĩa là giáo án Thầy dạy để quý thầy biết pháp thiện, pháp bất thiện để cho quý thầy tu tập dứt bỏ nó chứ không phải đem ra để quý thầy thấy cái sai cái đúng của thế gian. Phải hiểu như vậy mới biết được cái tâm trạng của thầy khi giảng giáo án này. Tại sao từ xưa Thầy không giảng giáo án này. Là tại vì Thầy thấy nó chưa có đủ duyên, đồng thời Thầy nói ra thì sợ người ta không hiểu mình. Thầy giảng ra thì nói Thầy có ý chống báng các pháp này của mọi Phật pháp trên thế gian.

Thầy giảng giáo án này có những pháp thiện mà quý thầy chưa được trau dồi như Thầy giảng giáo án Tứ vô lượng tâm thì trau dồi tâm từ tâm bi tâm hỷ tâm xả. Thì quý thầy chưa bao giờ được trau dồi, bây giờ Thầy giảng cách thức để cho quý thầy biết, để trau dồi tâm mình để nó đi vào thiện pháp. Đó là mục đích của Thầy là như vậy.

Thầy giảng giáo án này, có những thiện pháp mà quý thầy chưa được trau dồi để thanh tịnh, không làm cấu uế, chấm dứt tái sanh luân hồi, hết sự đau khổ, đưa đến quả lành, không già bệnh chết.Thì mục đích của thầy giảng giáo án này để quý thầy trau dồi để thân tâm mình thanh tịnh, để không còn cấu uế, không còn ô nhiễm nữa chấm dứt sự tái sanh luân hồi đau khổ, đưa đến những quả lành và thoát khỏi già bệnh chết. Đó là mục đích của giáo án chứ không phải mục đích như hồi nãy nói ở trên cho nên các thầy đừng hiểu như những cái ở trên đó là sai. Những pháp ấy Thầy đã giảng dạy trong giáo án để cho quý thầy thực hành theo đúng lời giảng dạy của Thầy, thời các pháp cấu uế, bất tịnh, bất thiện pháp của quý thầy chưa được diệt trừ, các pháp thiện thanh tịnh được tăng trưởng và quý thầy sẽ tự chứng biết, chứng ngộ và đạt đến an trú ngay trong hiện tại, trí tuệ cụ túc viên mãn, chấm dứt sanh tử luân hồi, làm chủ sự sống chết. Đó là những cái pháp mà Thầy giảng trong giáo án này là để quý thầy chứng nghiệm được sự tu tập của quý thầy và quý thầy sẽ được an trú ngay trong hiện tại của sự giải thoát đó. Nơi quý thầy, quý thầy sẽ chứng minh cụ thể cho sự giải thoát đó. Chớ không phải nói một cách mà không có trạng thái đó, không có sự giải thoát đó gọi là vô sở đắc đó đâu, nó có sự an lạc, có sự giải thoát thật sự, có tâm thiện thực sự, có lòng thương yêu thật sự để chứng nghiệm qua cái sự tu tập của quý thầy, qua sự trau dồi của quý thầy. Bằng cách là quý thầy siêng năng tu tập ngay trong hiện tại, ngay trong khi tu tập đã có sự chứng nghiệm đó rồi. Thì như vậy quý thầy mới tin giáo án mà thầy vạch ra nó có kết quả thực sự như vậy, đem lại hạnh phúc cho con người thật sự như vậy thì quý thầy mới tin.

Đến đây, qua phần này thì quý thầy đã thấy rằng Thầy đã dạy giáo án này là ý như vậy. Chứ không phải để cho quý thầy hiểu rồi không có cảnh giác, không có răn nhắc quý thầy thì quý thầy không hiểu, để cho quý thầy lấy cái chỗ này để quý thầy bài bác chống đối người ta, hoặc thế này thế khác thì điều đó là pháp ác chứ không phải pháp thiện nữa.

Các thầy nhớ kỹ như vậy, các thầy nói đúng chứ không phải sai, nhưng mà người ta đứng trong góc độ người ta hiểu thì người ta thấy quý thầy là những người ác pháp chứ không phải người thiện pháp đâu. Bởi vì nói cho người ta tức tối, người ta giận dữ. Người ta còn kiến chấp, người ta còn lầm chấp, còn ôm chặt cho nên người ta đau khổ, người ta tức tối, người ta giận dữ, người ta tranh luận với quý thầy. Thì lúc đó quý thầy tự đem cái thiện pháp mà biến cái thiện pháp trở thành ác pháp với mọi người. Thì điều quý thầy nói là quý thầy đã làm sai không đúng lời dạy của Thầy.

Cho nên khi mà nghe được lời dạy của Thầy rồi thì quý thầy phải âm thầm mà nỗ lực tu hành, không được đem cái giáo án này mà dạy người khác. Tại sao vậy? Chỉ khi nào có những người, người ta có quyết tâm tu để tìm giải thoát thì chúng ta thấy họ có sự tha thiết, sống đúng cái hạnh của người quyết tu. Người ta muốn xả bỏ thì mình cho người ta đọc, hoặc người ta nghe. Còn những người ta sống phi thời, sống theo dục lạc thế gian thì đem sách này ra người ta tìm mọi cách chống đối, người ta bị tội lỗi với Phật pháp. Vì Phật đã dạy chứ đâu phải của Thầy, Thầy chỉ là người khai triển lại những lời của Phật chứ không phải pháp này là của Thầy. Thầy đâu phải là đức giáo chủ của đạo Phật mà Thầy có giáo pháp, triết, đường lối của đạo Phật đâu, Thầy chỉ khai triển lại cái đường của đức Phật mà để cho người ta lầm chấp, người ta đang say mê ở trong dục lạc thế gian thì tức là người ta phải có sự tranh luận, sự bài bác cái pháp này, tức là người ta bài bác cái pháp của Phật. Và vì vậy làm cho người ta tội lỗi hơn, và người ta sẽ trôi lăn trong lục đạo sáu nẻo, biết khi nào người ta gặp Phật pháp.

Cho nên chúng ta phải biết thương người, biết thương người là biết ngăn ngừa tội lỗi của họ. Cũng như mình biết ngăn ngừa tội lỗi của thằng ăn cắp thì mình để cái xe, cái vật dụng gì mình phải cảnh giác. Vì cảnh giác cho nên thằng ăn cắp nó không lấy được nên nó không tội lỗi. Cũng như mình biết thương người thì mình phải cảnh giác đừng để cho những cái pháp rơi vào những người mà đang sống trong dục lạc. Vì đang sống trong dục lạc họ phải có những lý luận để che đậy những điều đó, do đó họ thành ra phỉ báng Phật pháp. Mà phỉ báng Phật pháp thì họ tội vô lượng. Cho nên vì vậy mà họ bị đọa địa ngục cho biết đến kiếp nào mà họ gặp Phật pháp.

Cho nên vì một cái duyên không tốt thì đời đời kiếp kiếp họ không gặp được Phật pháp. Được thân đã khó, được gặp Phật pháp còn khó hơn. Thế mà hôm nay chúng ta vô tình đã làm cho họ rơi vào cái vô lượng kiếp mà không gặp Phật pháp thì đó là cái tội quá tội. Chúng ta phải biết thương người. Cho nên vì thế mà khi học được giáo án này rồi thì quý thầy cẩn thận mà truyền pháp chứ không phải đụng đâu phô ra hết hoặc là đăng trên báo chí, hoặc in thành sách bán ở các hiệu sách, điều đó không phải.

Pháp này là pháp quý giá, pháp này đem đến cho mọi con người được giải thoát, sống được an vui, được thương yêu nhau, đùm bọc lấy nhau trong mọi hình thức. Pháp này phải được xem là cái pháp quý nhất trong đời sống của nhân loại, của con người. Vì thế pháp này được đem bố thí, được đem làm tài liệu học tập cho những con người biết tìm đường giải thoát. Và cái pháp này không được bán, cái pháp này luôn luôn được trao đến một người quyết tìm con đường giải thoát. Còn những người không quyết tìm con đường giải thoát, chạy theo dục lạc thế gian, ham thích dục lạc thế gian thì những người đó chưa đủ duyên, chúng ta chưa nên trao. Chờ khi nào họ chạy theo dục lạc thế gian, đâm đầu vào cái khổ; chừng nào họ thấy đời là khổ thật, họ than thở đời là không có gì là hạnh phúc thì chúng ta mới đem cho họ xem, đưa cho họ biết để cho họ thức tỉnh. Còn họ đang say trên đống tiền, trên danh lợi, trên sắc dục thì thôi chúng ta khoan đã, hãy dừng lại đối với những người này. Cho nên muốn trao pháp phải trao cho người có đủ duyên. Trao cho những người không đủ duyên thì họ càng làm thêm tội ác.

Đó là những lời cảnh giác, những lời khuyên của Thầy đối với quý thầy. Cho nên Thầy không muốn dùng cái pháp này để tạo cái danh của mình, mà chỉ dùng cái pháp này để làm lợi ích cho chúng sanh. Cho nên đâu cần phổ biến cho rộng rãi, đâu cần quảng bá cho nó rộng lớn. Rộng lớn bao nhiêu mà có bao nhiêu người tu được. Thà là âm thầm xem xét xem người nào đủ duyên, vì đủ duyên thì đâu họ cũng có gặp, còn không đủ duyên thì dù bày bán giữa chợ họ cũng không thèm mua. Cho nên ở đây chúng ta sống trong pháp nhân duyên của Phật thì chúng ta đã hiểu rõ, và sống trong pháp nhân quả của Phật thì cũng đã rành. Cho nên chúng ta ngồi đây mà chờ người có đủ duyên thì mới đem pháp trao chớ không phải đem đi bán pháp để độ người. Độ người kiểu đó là độ danh, độ lợi chứ không phải độ người. Cho nên khi quý thầy khi trở về quê hương của mình mà có đủ duyên in được sách này thì cần phải trịnh trọng. Người nào có tâm thành đến để đảnh lễ pháp ta mới bố thí cho họ. Người nào không đảnh lễ dù có bỏ hàng triệu bạc cũng không cho, hàng tỷ bạc cũng chẳng cho chứ nói gì năm ngàn, mười ngàn thì pháp bảo của Phật coi quá rẻ. Đó là những lời nói nhắc nhở quý thầy và cũng là những lời nói sau cùng khi Thầy trao cái giáo án này ra./.(BBT:BN,13,B00:74:40)(BBT:CĐ,14A,E00:31:23)

BĂNG SỐ 01

BĂNG SỐ 1: SƠ LƯỢC GIÁO ÁN

(BBT:CĐ,01A,B00:00:00)(BBT:BN,01,B00:00:00) Bây giờ bắt đầu chúng ta sẽ học, nhưng mà trước khi học cái giáo án này thì chúng ta niệm hồng danh đức Phật, bởi vì đây là con đường đức Phật vạch cho chúng ta đi. Vậy xin quý thầy chắp tay lên đồng niệm NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT (3 lần)

Bây giờ Thầy đọc sơ lược cái Giáo án tu tập của đạo Phật.

Một người có đủ duyên được đọc kinh sách của đạo Phật thấy được chân lý của đạo rất thực tế và cụ thể, hướng dẫn con người tu tập thoát khỏi kiếp sống trầm luân khổ đau bằng sức tự lực của chính mình, nhứt là làm chủ được sự SỐNG - CHẾT theo ý muốn và còn chấm dứt được sự tái sanh luân hồi. Vì thế khi bắt đầu đến với đạo Phật, để trở thành người đệ tử của Phật chân chính quý vị phải từ bỏ 6 nghề nghiệp sanh sống.

Bây giờ Thầy sẽ giảng cái đoạn này cho quý thầy thấy rằng, khi một người mà chưa biết Phật pháp gì hết thì có đủ một cái duyên nào đó thì vị này được đọc một cuốn kinh Phật như Thầy thường nghe các Phật tử có nói: Con từ hồi nào tới giờ chẳng biết Phật pháp gì hết, một hôm con được người bạn trao cho cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm. Rồi con đọc cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm, con thấy Đạo Phật sao mà hay quá tuyệt, cho nên từ đó con hướng tâm đến đạo Phật. Rồi con được đi nghe thuyết giảng hoặc là mua thêm những loại kinh sách cần thiết, con tham cứu và nghiên cứu, từ đó con rất thích thú đạo Phật. Đó là những người có cái duyên may được đọc một cuốn kinh như kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa, như toàn bộ giáo lý A Hàm hoặc là kinh Nikaya.

Thì tất cả những người mà có duyên được đọc kinh sách của Phật thì người ta có cái tâm hướng đến đạo Phật. Nếu mà những người mà chưa có duyên được đọc kinh sách đạo Phật thì họ chưa hiểu đạo Phật như thế nào, vì vậy mà giáo đầu vào cái sơ lược của giáo án này thì Thầy đã ghi nhận khi mà có đủ cái duyên thì chúng ta mới đến được đạo Phật, mà không có đủ duyên thì chúng ta không có đọc kinh sách Phật. Cho nên chúng ta không có biết đạo Phật như thế nào.

Vì thế mà khi có đọc kinh sách Phật, thì thứ nhất là cái người mà muốn đi vào con đường chân chánh của đạo Phật thì người ta phải nghĩ đến đời người nó khổ và làm sao mà thoát khỏi cái cảnh khổ đó. Cho nên, mà bằng cái sức tự lực của mình, nghĩa là thoát khỏi cảnh khổ của con người mà bằng cái sức tựlực của mình chứ không bằng tha lực của người khác.Cho nên nhiều khi chúng ta đọc những kinh sách, nhưng mà những loại kinh sách nó đọc đến chúng ta thấy phải nhờ cậy đến một cái tha lực để mà hộ trợ cho chúng ta con đường mà để đến được cái sự giải thoát. Thì trái lại khi mà nghiên cứu đọc nhiều kinh sách của Phật thì chúng ta thấy hầu hết đạo Phật là đạo tự lực cứu chính mình chứ không phải là tha lực. Một phần nhỏ có một số bản kinh nhỏ thì nó nói về tha lực thôi. Nhưng chúng ta không nói đến. Bởi vì cái tha lực nó trợ giúp cho người mới tu, còn cái người tu lâu thì nó phải tự lực. Cho nên dù sao thì kinh sách tha lực nó rất ít trong kinh sách tự lực.

Vì vậy mà hôm nay khi chúng ta đến với đạo Phật, thì đức Phật dạy cái đầu tiên của chúng ta là phải bỏ 6 cái nghề nghiệp mà chúng ta đang sinh sống, nghĩa là chúng ta bỏ, đổi cái nghề khác, không có nên làm 6 cái nghề này. Vậy 6 cái nghề này là nghề gì? Mà đức Phật phải nói khi đến với đạo Phật thì không nên hành 6 nghề này. Có bản kinh thì đức Phật nói có 5 cái nghề không nên làm. Nhưng mà Thầy thấy 6 cái nghề này nó tạm đủ. Có chỗ thì đức Phật có nói có cái nghề bán thuốc độc, thì không nên bán thuốc độc, nhưng Thầy thấy cái chỗ mà những người mà tu theo đạo Phật thì chắc chắn không ai là bán thuốc độc. Cho nên Thầy chọn lấy 6 cái nghề nó phù hợp với cái tâm Từ Bi của đạo Phật. Sáu nghề đó Thầy sẽ đọc cho quý vị nghe:

1. Không làm nghề săn bắn

Nghĩa là cái người muốn đến với đạo Phật thì không được làm nghề săn bắn như đi vào rừng săn bắn nai, hươu, khỉ hoặc chồn, cheo, chim chóc. Thì không được làm nghề đó - nghĩa là không làm cái nghề săn bắn thú vật và chim muông.

2. Không được làm nghề chài lưới

Tức là không được làm nghề mà bắt cá. Dù là đi câu, dù là đặt rọ hoặc là chài lưới ở ngoài sông ngoài biển. Thì cái nghề đó coi như là phải đổi nghề khác, không được làm nghề đó.

3. Không được làm nghề buôn thịt sống

Ở trong một chỗ Phật nói có 5 cái nghề, đức Phật nói không được làm, không được buôn bán thịt chứ không nói thịt sống. Nhưng mà có chỗ thì nói thịt sống, chỗ thì nói thịt chín. Thì tất cả những chỗ này theo Thầy nghĩ rằng có khi đức Phật nói có 5 cái nghề thì trong ấy có không bán thịt sống và thịt chín. Còn ở đây muốn ghi cho rõ ràng, vì bán thịt sống nó khác mà bán thịt chín nó khác, bởi vì thịt chín họ nấu thành thực phẩm mà thịt sống thì nó còn để nguyên. Cho nên khi một người mà đến với đạo Phật thì phải đổi cái nghề mà buôn bán thịt sống này.

Rồi cái số 4 thì không được làm nghề buôn bán thịt chín.

Tức là nấu thành phở, cháo lòng, hủ tíu rồi đó. Đó là thịt chín.

5. Không được làm nghề buôn bán rượu

Không được làm nghề buôn bán rượu vì bán rượu làm cho người ta nghiện ngập, say sưa, rồi người ta không còn cái trí thông minh cho nên họ có thể chửi mắng hàng xóm, làng xóm hoặc là chửi vợ, mắng con hoặc là làm cái cảnh bịnh tật, say sưa nằm ngoài đường, ngủ sương, ngủ tuyết. Do vì vậy đó mà đức Phật cấm không có làm cái nghề bán rượu, vì mình bán rượu là đem đến cái chỗ say sưa cho người khác.

6. Không được làm nghề buôn bán người

Tức là mãi nô đó, bán nô lệ đó. Thì trong thời đức Phật chắc chắn là cái nghề này chắc có chứ không phải không, cho nên đức Phật cũng có cấm không bán. Nhưng chúng ta thấy cái nghề buôn bán người nó có nhiều mặt, thí dụ như người ta thấy như những người mà đi bán thân để mà nuôi sống hàng ngày thì cũng là bán người đó. Thì tất cả những nghề nghiệp đó như vậy, mà theo Thầy nghĩ khi đến với đạo Phật thì chúng ta phải thanh tịnh thân tâm của mình, chứ không nên làm những cái nghề đó mà buôn bán thân người như vậy, rồi bán nô lệ và chuyện mãi dâm thì không nên làm những cái nghề đó. Cho nên tất cả những nghề đó chúng ta đổi qua những nghề khác mà làm, vì vậy nó thanh tịnh, trong sạch hơn.

Thì cái phần mà 6 cái nghề này thì trong giáo án Thầy có ghi chú thêm là cái phần này để cho chúng ta thấy rõ là cái chỗ bán thịt chín, để chúng ta thấy chỗ đức Phật trong bài kinh Jivaka, đức Phật có nói đến cái đoạn này mà Thầy thấy rất là sâu sắc. Trong kinh đức Phật dạy, khi thọ dụng thực phẩm động vật phải không thấy, không nghe, không nghi. Nghĩa là đức Phật nói khi một tu sĩ, một người mà ăn thịt động vật thì cái thịt động vật đó thì phải không thấy, không nghe, và không nghi mà tâm còn phải dùng lòng từ bi biến mãn khắp mười phương đối với tất cả chúng sanh. Nghĩa là lúc bấy giờ ăn một thực phẩm nào đó thì tâm của chúng ta phải có sự thương yêu đối với chúng sanh khắp cùng trong mười phương.

Thì quý thầy nghĩ khi chúng ta ăn một miếng ăn mà nếu có sự đau khổ trong đó thì có từ bi ở đâu mà biến mãn khắp mười phương được? Cho nên ý này rất là tuyệt vời ở trong ăn chay mà trên cái sự ăn chay nữa. Ăn chay, ăn trong miếng ăn của chúng ta nó phải có tâm từ bi. Vậy thì trong thực phẩm của chúng ta ăn, nó không có thịt động vật ở trong đó, nó toàn là hoa quả, trái cây hoặc là những món ăn mà không có sự đau khổ trong đó. Nhưng chúng ta vẫn phải biến mãn cái tâm từ bi của chúng ta đối với những người làm ra thực phẩm đó, chứ không riêng gì cái thực phẩm động vật. Đó thì hôm nay giải thích chỗ này chúng ta mới thấy ý nghĩ của đạo Phật rất là tuyệt vời khi chúng ta ăn miếng ăn là chúng ta đã nghĩ đến công lao của người đàn na thí chủ trước tiên, mặc dù món ăn đó là món ăn chay, không có sự giết hại chúng sanh. Còn cái món ăn đó mà có sự giết hại chúng sanh thì nó nằm ở trong 3 cái điều kiện mà Phật đã đặt: không thấy, không nghe và không nghi.

Cho nên bắt đầu mà đi vào trong con đường của đạo Phật thì chúng ta thấy không được làm cái 6 nghề, thì chúng ta thấy quả là chúng ta muốn đến với đạo Phật là chúng ta phải từ giã những nghề mà gọi là không phải là CHÁNH NGHIỆP, nó thuộc về tà nghiệp cho nên nó có sự đau khổ ở trong đó, nó có sự chết chóc, nó có sự giết hại. Mà giới luật của Phật thì quý thầy thấy, giới thứ nhất tức là không sát sanh, không giết hại chúng sanh, không vui theo với người giết hại. Cho nên ở đây chúng ta phải thực hiện cái tâm từ bi mà đức Phật đã ghi nhận ở trong chỗ này. Vì vậy mà khi muốn đến với đạo Phật thì chúng ta phải đến với thực hiện với lòng từ bi của mình, là từ giã không làm 6 cái nghề mà thầy đã kể ở trên.

Đây là giai đoạn thứ nhất ở trong bước đường tu tập, nghĩa là người muốn tu tập theo đạo Phật, muốn hướng đến đạo Phật thì chúng ta phải từ giã 6 nghề, phải đổi 6 nghề đó, không còn hành 6 cái nghề đó nữa. Thì như vậy là chúng ta phải có một sự suy tư rất kỹ, nhiều khi chúng ta làm cái nghề đó mà chúng ta không thấy rằng trong cái nghề đó tạo nên cái sự đau khổ, rồi nuôi cái thân của chúng ta như ở trong Bát Chánh Đạo, thì như quý thầy đã thấy, nuôi Chánh mạng của chúng ta bằng những cái đau khổ, mặc dù là chúng ta ăn chay, chúng ta không ăn thịt chúng sanh, ăn thịt động vật, nhưng chúng ta làm cái nghề nó không tốt, chúng ta vẫn nuôi cái thân mạng của mình nó chưa phải là chân chánh đâu, không phải là chánh mạng đâu. Cũng như bi giờ chúng ta làm cái nghề ăn trộm đi, chúng ta lấy của của người ta, rồi chúng ta mới bán cái của đó đi, chúng ta lấy tiền đi, rồi chúng ta mới lấy tiền đó mua gạo, mua thóc, mua thực phẩm rồi chúng ta mới sống. Thì như vậy chúng ta lấy từ cái chỗ mà tham lam trộm cắp đó mà đem lại bằng thực phẩm để nuôi thân mình thì như vậy mình có nuôi chánh mạng mình không? Đó là tà mạng chứ không phải chánh mạng. Vì thế, mà khi đến với đạo Phật thì chúng ta phải nuôi thân mình bằng những nghề chơn chính, bằng những hành động chơn chính chứ không phải bằng hành động mà không chơn chính được.

 Đó là giai đoạn thứ nhất của bước đường tu tập theo đạo Phật. Nó chưa phải là cái người xuất gia, mà đây là cái người cư sĩ muốn đến với đạo Phật, muốn hiểu đạo Phật bằng một tự lực cứu mình như ở trên mà Thầy đã nói. Thì bây giờ chúng ta phải chuyển những nghề nghiệp cho lương thiện, cái nghề cho chơn chánh, Chánh nghiệp chứ không phải ở trong những cái tà nghiệp, ở trong nghề nghiệp mà có sự đau khổ, sự chết chóc ở trong đó thì đạo Phật không chấp nhận cho những người đó trở thành những người đệ tử của mình.

Mặc dù đức Phật không nói ra điều này nhưng những người còn hành những nghề đó mà còn không có thực hiện được thì dù có đi theo con đường đức Phật, đi tu cho đến mức thiền định nào đi nữa thì vẫn xem những người này vẫn là tu theo cái đường lối thiền của ngoại đạo, của tà đạo, của tôn giáo ngoại đạo chứ không phải là chân chính của đạo Phật. Vì cái cơ bản lúc đầu là phải thực hiện từ cái tâm từ bi, mà 6 cái nghề này chúng ta thấy từ chiếc áo cư sĩ phải hành nghề mà sống, thế mà chúng ta hành nghề không lương thiện, không lương thiện ở đây có nghĩa là hành nghề giết hại làm đau khổ chúng sanh, đem đến những tai họa cho chúng sanh. Ví dụ như cái nghề bán rượu, cái nghề có thể đem lại tai họa, cái sự đau khổ cho người khác, khi một người say rượu họ không có từ một cái gì mà họ không làm. Cho nên cái nghề này thì tức là không được làm. Cả 6 nghề này thì chúng ta thấy là người theo đạo Phật thì không nên làm. Đó là giai đoạn thứ nhất mà chúng ta muốn bước chân vào đạo Phật thì chúng ta phải từ giã những cái nghề này.

Bởi vì giáo án của Phật phải đi từ chỗ mà chúng ta làm được. Cũng như bây giờ chúng ta đang làm cái nghề chài lưới mà chúng ta thấy rằng mình muốn hướng đến con đường của đạo Phật thì mình phải thay đổi cái nghề đi bắt cá này đi, thì bằng cách chúng ta đổi cái nghề đó ra nghề thợ mộc, được không? Được. Còn bây giờ cái người đó họ đang buôn bán thịt nè, thì bây giờ họ đổi cái nghề đó họ đi buôn bán hoa quả được không? Được. Họ buôn bán hàng vải được, có sao đâu. Đức Phật đâu có cấm họ làm cái nghề để họ sống, nhưng mà cái nghề nó không phải là cái nghề đau khổ, cái nghề tạo nên những cái sự đau khổ cho chúng sanh. Mà cái sự đau khổ cho chúng sanh tức là mình tạo nên cái nghiệp ác, do đó thì mình cũng phải thọ lấy những sự đau khổ đó. Cho nên vừa tránh đau khổ cho chúng sanh mà cũng vừa tránh sự đau khổ cho chính bản thân của mình. Vì vậy ngay từ bước đầu, cái phương pháp tu tập đầu tiên tức là phương pháp đổi nghề. 

Các thầy có thấy cái chuyện đó dễ làm không? Đâu có khó làm, mình thấy cái chuyện nghề nghiệp đó không làm được thì mình chuyển sang cái nghề khác, thì chuyện ấy nó quá dễ, đâu có gì mà phải khó. Cho nên đạo Phật mới thực tế và cụ thể chứ không phải chúng ta chỉ vô chùa rồi tụng kinh, niệm Phật, rồi hằng ngày ngồi thiền, niệm chú, cái đó có phải là tu đâu. Chính chúng ta đổi nghề là chúng ta đã tu rồi đó. Cái hành động đó là hành động tu.

Cũng như mấy ngày hôm nay quý thầy đến đây quý thầy thấy nè, từ đến cái giờ ăn của chúng ta đó, mà chúng ta đứng tuần tự để rồi chúng ta chào nhau, rồi tuần tự chúng ta đi lần lượt mà mỗi người đều đến cái xô cơm để mà khất thực từng bát cơm để đến giờ chúng ta ăn cơm. Trong cái thời gian đó có thể 30 phút hoặc 1 giờ, nhưng chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta tu hành được những gì? Chúng ta sẽ tu được hạnh nhẫn nhục. Nếu một người ở ngoài đời họ bước lên mâm cơm là họ lo họ ăn rồi chứ họ đâu có nghĩ đứng như vậy được. Còn chúng ta thì vẫn thản nhiên trong khi chúng ta ăn ngày có một bữa, mà giờ đó chúng ta vẫn thản nhiên đứng một cách tự tại. Chúng ta lần lượt chứ không tranh giành nhau, thì ở ngoài đời khi số lượng đông đảo như vậy thì trước cái ăn, trước cái mặc của họ, họ giành giật, họ chen lấn nhau. Như bây giờ chúng ta đi lên xe chúng ta cũng vẫn chen lấn với nhau bằng cách này, bằng cách khác. Cho nên chúng ta tu tập ngay từ những cái điều kiện chúng ta tập như vậy đó. Đó là chúng ta đã tu theo đạo Phật rồi đó.

Qua những hành động ở đây mà chúng ta tu tập, chúng ta thấy rất rõ vừa tập được nhẫn nhục, vừa tập được cái sự tuần tự của hành động chúng ta trước giờ ăn mà chúng ta không có gì vội vàng. Còn không tâm của chúng ta lúc nào cũng có cái sự vội vàng đó. Ra bến xe mà thấy cái xe đến thì chúng ta ào ào giành nhau mà chạy lên. Không lẽ cái xe đó bỏ chúng ta sao mà chúng ta lật đật vậy? Tuần tự mà chúng ta đến chứ, nó rước chúng ta thì nó có ăn tiền chứ phải đâu nó cho chúng ta, thế mà tại sao chúng ta lại lật đật lên trước, chen với nhau. Như vậy là chúng ta chưa có cái kiên nhẫn của một người tu tập. Cho nên ở đây chúng ta từng tập luyện như vậy, gọi là trên bước đường tu tập của chúng ta để làm cho chúng ta có những sức kiên nhẫn của nó.

Thì cái việc làm đầu tiên của giáo án này, bài học mà đầu tiên để tu tập thì chúng ta phải nhớ rõ ràng là chúng ta thay đổi nghề nghiệp, làm cho nghề nghiệp của chúng ta được trong sạch, thanh tịnh, không có đau khổ, không có chết chóc ở trong đó. Đó là cái bước đường tu tập đầu tiên.

Khi đã thay đổi nghề nghiệp ác bằng những nghề nghiệp lương thiện, quý vị phải đặt trọn niềm tin ở đức Phật, ở Pháp của đức Phật, ở chư Thánh Tăng đệ tử của đức Phật và ở Giới luật của đức Phật. Nghĩa là đến giai đoạn thứ 2 này, nếu mà chúng ta không tin đạo Phật, không tin Phật thì làm sao mà chúng ta thay đổi nghề nghiệp - do đó chúng ta đã có tin. Nhưng niềm tin đó nó chưa sâu. Vì vậy chúng ta phải tin ở Phật như thế nào, ở Pháp của Phật như thế nào, ở chư Thánh Tăng như thế nào và ở Giới luật của Phật như thế nào?

Muốn niềm tin đó được bền bỉ và lâu dài thì kết quả giải thoát ở thân tâm phải được thành tựu cụ thể trong mỗi bước tu tập, mỗi pháp môn tu tập.Nghĩa là cái bước đầu tiên mà chúng ta đổi nghề nghiệp thì chúng ta thấy được tâm hồn giải thoát chỗ nào? Nếu thấy được giải thoát thì chúng ta mới có tin ở Phật được, mới có tin ở Pháp của Phật, mới có tin ở các vị đệ tử Phật, mới có tin ở Giới luật của Phật được. Bởi vì khi đổi nghề nghiệp thì bàn tay chúng ta không còn vấy máu nữa, khi đổi nghề nghiệp chúng ta không còn thấy sự lăn lộn đau khổ của chúng sanh nữa và khi đổi nghề nghiệp chúng ta không thấy những người say rượu ở ngoài đường mà chửi vợ, mắng con hoặc chửi làng chửi xóm. Khi thay đổi nghề nghiệp thì chúng ta thấy tâm của chúng ta thanh thản và từ đó chúng ta biết thương yêu mọi người hơn, biết thương yêu chúng sanh hơn.

Do cái chỗ mà chúng ta thấy cái giai đoạn đầu tiên mà chúng ta tu tập đổi nghề nghiệp, chúng ta đã thấy được cái tâm hồn của chúng ta sau một thời gian thay nghề đổi nghiệp thì chúng ta vẫn thấy cuộc sống mình vẫn bình thýờng, không đến đỗi mà sa sút và đồng thời còn có thể thấy càng ngày càng phát triển hơn nữa. Không phải như còn hồi đi còn chài lưới, đi bắt cá, nhiều khi, khi còn làm nghề chài lưới ở ngoài sông, ngoài biển thì trong gia đình khi thấy trận bão, hay mưa gió là lo lắng cho người thân của mình đang làm những cái nghề không biết chết nay chết mai. Do cái sự đau khổ, do cái sự lo lắng của người thân của mình đó, cho nên chúng ta xét thấy từ cái ngày đổi nghề gia đình không còn khổ đau nữa. Mỗi lần đi biển mà thấy trời chuyển mưa giông bão thì người trong gia đình kể như người thân của mình mất mạng ở dưới biển. Đó là cái nỗi khổ tâm nhất của những người làm nghề giết hại chúng sanh.

Vì cái sự tu tập của giai đoạn đầu tiên mà cái người chịu nghiệm xét thấy thì khi mà đổi nghề chúng ta thấy nó có những cái điều may mắn đến cho chúng ta nhiều hơn vì đó là thiện pháp. Còn khi mà sống ở trong những cái nghề như vậy, ác pháp như vậy thì cái người đó có nhiều sự kiện xảy ra cho gia đình của họ mà họ không để ý, nhưng khi bước đến đạo Phật mà thay đổi nghề thì họ thấy có gì thanh thản hơn, có những cái gì giải thoát hơn trong cái đời sống của họ, cả gia đình họ chứ không phải riêng bản thân của họ. Cho nên ngay từ cái bắt đầu mà thay đổi nghề nghiệp, người ta vẫn tìm thấy được một sự giải thoát ở trong đó.

Như vậy thì quý vị thấy bước vào đạo Phật thì chúng ta thấy có một sự giải thoát thật sự chứ không phải chờ 5 năm, 10 năm, 2 chục năm tôi mới thấy được cái sự giải thoát đó. Cho nên vì có kết quả đó làm cho người ta tin tưởng ở đạo Phật. Nếu không có kết quả thì chắc chắn là không bao giờ mà ai tin tưởng. Chẳng hạn là như quý thầy bây giờ, ngồi thiền mà suốt cả 5 năm 10 năm mà cứ ngồi đó hết vọng tưởng rồi, mà ngồi đó từ 1 giờ cho đến 2 giờ cho đến 4, 5 giờ mà không thấy tiến tới nữa thì quý thầy có thối tâm không? Quý thầy chỉ an ủi mình, chắc có lẽ là mình tu chưa có đúng thôi, mình ráng nữa ráng nữa, ráng quá 10 năm nhìn lại cũng chưa thấy đến đâu hết. Rồi mình lại ráng nữa, 2 chục năm nhìn lại, sao mỗi lần có ai động đến tâm là dễ tham, sân, si phiền não vậy? Tu hoài mà sao không hết? Ngồi thiền thì 7, 8 tiếng đồng hồ thì ngồi được, nhưng mà hơn nữa thì không được, không thể nào mà một ngày hai ngày được. Tại sao vậy? Tâm thì có lúc hết vọng tưởng, có lúc thì không hết vọng tưởng? Tại sao nó lu bù vậy? 

Cho nên vì cái không kết quả đó làm cho tâm chúng ta thối chuyển hoặc là chúng ta dậm chân tại chỗ. Nhưng chúng ta đã lỡ tu mà bây giờ bỏ thì cũng tiếc mà lấy thì cũng không được, tới thì cũng khó mà lui thì cũng khó, làm cho một người tu sĩ lưỡng nan ở trên bước đường tu tập. Còn đạo Phật đến thì ngay đó có sự giải thoát liền, chiêm nghiệm liền được sự giải thoát đó. Thì cho nên cái bước đầu tiên mà chúng ta đã thấy tu tập đó, chúng ta thấy rõ ràng là chúng ta có sự giải thoát. Nếu một người đổi nghề nghiệp, và khi một năm mà thay đổi nghề nghiệp người đó thấy cả gia đình có hạnh phúc, có an vui hơn trong khi còn làm những nghề nghiệp ác.Thầy tin rằng trong cái luật nhân quả sẽ chứng nghiệm được điều này rất rõ ràng. Dù người đó vô tình nhưng cái luật nhân quả vẫn đem đến cái phước báu cho những người vô tình đó. 

Muốn thành tựu được lòng tin, tịnh tín sâu sắc ấy quý vị phải suy nghĩ và so đo giữa cuộc đời và đạo. Đây, đến đây là cái chỗ mà chúng ta phải so sánh giữa cuộc sống của đời và cái cuộc sống của đạo. Bởi vì trong đạo có cuộc sống của đạo chứ không phải nói chúng ta có pháp môn tu không đâu, mà cái sống của đạo nó khác với cái sống của đời. Cho nên chúng ta đem những cái hành động sống của quý Thầy, của những bậc tu hành so sánh với cuộc sống của đời thử coi, để lên trên cái bàn cân thử coi bên nào khổ mà bên nào thoát khổ? 

Chúng ta so sánh như vậy chúng ta mới có một cái tâm mà quyết tâm đi vào con đường của đạo mới được, còn nếu không so sánh mà chúng ta bồng bột nông nổi mà vào đạo coi chừng chúng ta sẽ vấp ngã giữa đường, mà đạo thì chẳng ra đạo, mà đời thì chẳng ra đời đó. Chúng ta đem so sánh, chúng ta thấy như thế nào? Chúng ta bây giờ so sánh cái đời sống của mình đang ở trong gia đình thì thấy như thế nào đây? Đời sống trong gia đình đầy rẫy những triền phược, đường đời thì đầy những bụi bặm ô trược và biết bao dây mơ rễ má trói buộc, biết bao nhiêu vật chất và duyên sự lôi cuốn, cám dỗ, biết bao những chông gai hố thẳm của ác pháp đang chờ đón. Đó là chúng ta so sánh rồi chúng ta suy nghiệm có phải vậy không?

Một khi chúng ta mới lớn lên, chưa lập gia đình này, chúng ta thấy còn vui chơi ăn học thôi chứ còn không có lo nghĩ gì hết. Cha mẹ làm thì hằng ngày cho con ăn học chứ mình không có phải nghĩ làm cho có cơm ăn áo mặc gì hết. Áo rách thì ba cho con may áo, còn đói thì mẹ cho con ăn cơm. Cứ vậy thôi chứ chưa biết nghĩ lo gì hết, ăn với chơi với đi học thôi chứ không biết gì hết. Nhưng mà đến khi mà lớn lên một chút thì ham muốn cái này, cái kia thì bắt đầu tìm cái nghề nghiệp làm hoặc là xin tiền cha mẹ sắm cái này cái kia, nhưng mà cũng chưa biết khổ đâu. Trong đó có những cái khổ là đi đánh lộn, đánh lạo rồi uống rượu say sưa với bè bạn nhau hoặc là chạy xe rồi bị xe đụng gãy chân, gãy tay thì lúc bấy giờ thì mới thấy được cái khổ. Nhưng mà cái khổ của tuổi trẻ chưa phải thấy khổ đâu. Cho đến khi mà lập gia đình, chừng đó mới thấy được cái khổ của nó, rồi sanh ra một vài đứa con mới thấy cái khổ của nó, rồi tất cả những cái lo toan khi mà cha mẹ chết rồi không còn giúp đỡ cho tiền bạc hoặc là cái cuộc sống, thì tự mình phải lo lấy cái cuộc sống của mình thì bao cái cuộc sống ở trên vai của mình mình gánh nặng đó, thì mình thấy cuộc đời quá khổ. Rồi vợ con đâu phải là nó luôn luôn lúc nào nó cũng ngọt ngào với mình đâu, nó cũng phải có những cái tư tưởng của nó, nó cũng phải có cái lối sống của nó. Cho nên cái lối sống của mình với lối sống nó đâu phải hợp nhau được, cho nên cả hai người là nó có những cái khác biệt nhau. Từ cái khác biệt đó, ở trong nhà nó hay có những sự lục đục, rầy rà hay hoặc là trái ý nhau, nó làm cho mình chướng ngại đủ mọi điều chớ đâu có phải mà sung sướng được.

Cho nên so sánh mới thấy được những sự triền phược, trói buộc đó, những dây mơ rễ má đó. Chẳng hạn bây giờ có hai vợ chồng, rồi bây giờ lỡ có một người chết thì thử hỏi rằng có khổ đau không? Khổ đau. Rồi hai người ngồi lại trong một mâm cơm ăn, nói chuyện đâu ở ngoài không à, mà rồi rốt cuộc lại gây lộn nhau thì thử hỏi trong lúc đó có vui sướng gì không? Đâu có vui sướng gì. Rồi bây giờ làm không tiền không bạc mà ham muốn cái này cái kia thì vợ chồng rầy rà nhau, cãi cọ nhau, người thì này, kẻ thì khác. Thì quý thầy nghĩ coi cuộc đời có khổ không? Rất khổ, đủ mọi điều khổ. Thế mà người ta đâu có thấy được cái nỗi khổ đó, mà người ta chỉ thấy cái lạc của nó mà thôiNgười ta thấy đôi vợ chồng ngồi ở trên xe hơi hoặc là xe honda, người ta thấy như vậy là hạnh phúc. Nhưng trong cái hình dáng đó, cái khổ đau của họ ai biết trong tâm lòng.

Một người nghèo nói tôi không có cơm ăn áo mặc tôi khổ, nhưng cái người giàu nói tôi có tiền bạc mà tôi còn khổ hơn nữa, tối tôi ngủ không yên sợ trộm sợ cướp. Thì đó là cuộc đời rẫy đầy những sự đau khổ, mọi thứ. Ở gần nhau con gà con vịt qua lại, con chó con heo qua lại là đã gây gổ, đã là làm khổ cho nhau rồi. Rồi con cái chơi giỡn nhau thì cũng là đủ mọi cách sinh chuyện nhau, làm cho cái đời sống bất an luôn luôn là bất an. Đời sống ở ngoài đời quý thầy thấy rất là bất an, không có lúc nào mà gọi là an ổn. Do cái sự so sánh đó chúng ta mới nhìn lại đời sống của người xuất gia như thế nào? 

Ở trong giáo án ghi lại: ngược lại, đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không, không có một vật gì trói buộc, không có một đối tượng vật chất, một hoàn cảnh nào cám dỗ được họ. Bởi vậy, thật khó cho một người sống ở trong gia đình có thể sống theo Phạm Hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc.

Đó là cái sự so sánh để chúng ta thấy một cái đời sống của người xuất gia và một cái đời sống của một người ở ngoài thế gian. Hai cái đời sống này, một cái đời sống giải thoát hoàn toàn, chúng ta không còn một vật dụng gì hết cho nên chúng ta ngủ rất yên, không sợ trộm cắp và cũng không sợ hư hao bởi có gì đâu mà hư hao, nhà không có mà gia đình cũng không có cho nên đâu sợ vợ đói, con đói. Cho nęn chúng ta thanh thản, an vui hoŕn toŕn hạnh phúc, tâm hồn chúng ta trắng bạch như vỏ ốc không có còn bị hoen ố một chút gì trong những ác pháp. Đó là phần so sánh để chúng ta bước vào một giai đoạn tu tập thứ 2.

Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ nhà cửa, của cải tài sản, sự nghiệp, sống không gia đình. Suy nghĩ như vậy sau một thời gian quý vị quyết tâm đoạn dứt. Từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn. Thật sự cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa và xuất gia từ bỏ nhà cửa, của cải tài sản sự nghiệp, sống không gia đình, đây là giai đoạn thứ 2 trên đường tu tập. 

Nghĩa là khi chúng ta so sánh rồi chúng ta mới thật sự cạo đầu, thật sự đắp áo cà sa chỉ nhận ba y một bát. Đây là giai đoạn thứ hai, giai đoạn này nghe thì nó có dễ nhưng nó khó vô cùng. Nếu một người có gia đình như các cư sĩ trong cái hoàn cảnh trước mặt thầy đây, bây giờ từ bỏ gia đình mà đi làm cái chuyện này có dễ không? Chúng ta muốn đó, nhưng vợ con ta có muốn không? Đó là cái khó, rồi chúng ta có bỏ được sự, cái bổn phận của chúng ta đã sinh con còn nhỏ dại chúng ta bỏ được không? Điều đó quá khó không phải chuyện dễ đâu. Một người mà làm được điều này như một bầy cá mà trong một cái lưới, mà chỉ có con cá nào giỏi nhất là vọt ra khỏi cái lưới. Sự thật ra khó mà có thể vọt ra khỏi lưới. Thầy thấy hầu như một trăm một vạn cái lưới cá của người chài lưới họ kéo lên ít có con cá nào nhảy ra cái lưới của họ. Cho nên khi chúng ta bị những cái lưới của gia đình, của đời sống, của vật chất mà bao vây rồi Thầy thấy khó mà có thể rãy ra được. Mà rãy ra được thì muôn ngàn con cá chỉ có được một con cá mà thôi.

Đây, ở đây Thầy xét lại Thầy thấy Minh Tông là một người có vợ, có con, con cái còn nhỏ còn đi học chứ chưa phải lớn lao, có mẹ già đang bệnh đau, nhưng rất mạnh dạn trong một cái giai đoạn quyết tâm tu hành từ đó vượt ra khỏi cái mạng lưới này để mà thực hiện con đường giải thoát cứu mình và có thể cứu người. Một người cư sĩ như Minh Tông không phải ai cũng làm được hết, cho nên ở đây hầu hết là quý vị có theo Thầy, những người cư sĩ có theo Thầy đi nữa chẳng qua chỉ để nghe mà vui chơi chứ thật sự đi tìm sự giải thoát thật sự là phải cạo bỏ râu tóc, xuất gia, cái đời sống thay đổi hoàn toàn cắt đứt những dây mơ, rễ má tình cảm của chúng ta đối với gia đình. Thì lúc bấy giờ chúng ta mới thực hiện được con đường thiền định của đạo Phật, mới làm chủ được sự sống chết, mới tịnh chỉ được các hành trong thân chúng ta chứ không phải đơn giản.

Các thầy cứ nghĩ rằng các hành đang hoạt động trong thân chúng ta, tim đập, gan phèo phổi nè, thần kinh đang hoạt động như thế này, hơi thở đang ra vô tự động nè. Mà chúng ta thật sự muốn điều khiển làm sao cho ngưng được, không phải là một cái chuyện dễ. Nếu tâm của quý vị chưa thanh tịnh, còn thương, còn ghét, còn giận, còn hờn, còn ham vật chất, không cắt bỏ được cái đời sống của thế gian thì chắc chắn quý thầy không làm được cái chuyện vĩ đại này được. Chắc chắn như vậy, không thể nào hơn được. Cho nên giáo lý của đức Phật, giáo án mà đức Phật đã vạch cho chúng ta thấy một con đường đi rất rõ ràng.

Cho nên chúng ta bắt đầu thay đổi nghề nghiệp, chúng ta đã thấy có sự giải thoát. Nếu từ đó chúng ta đi vào con đường thiện, lấy nhân quả làm cái nòng cốt cho con đường tu tập của người cư sĩ mà thực hiện trong các nghề nghiệp thanh tịnh, tốt đẹp này, thiện nghiệp này, và tuần tự đó chúng ta lập những hạnh bố thí, cúng dường hoặc là tập những hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mỗi đối tượng, mỗi hoàn cảnh thì chắc chắn là quý vị sống trong gia đình của quý vị vẫn hạnh phúc, vẫn an vui, vẫn đem lại một hạnh phúc hẳn hòi rõ ràng. Còn tiến tới để mà so sánh giữa đạo và đời để bắt đầu chuyển mình qua một cuộc sống mới thì chắc chắn quý vị khó mà đi đến cái giai đoạn thứ 2 này.

Đây là cái giai đoạn mà so sánh để chúng ta trở thành một người tu sĩ chứ không phải còn là một người cư sĩ. Nếu quý vị không thực hiện được đời sống của một tu sĩ thì chắc chắn con đường thiền định mà của đạo Phật đã vạch ra cho quý vị đi, thì quý vị khó mà thực hiện được. Đó là sự xác định thật sự của Thầy. 

Cho nên khi tuần tự mà khi mà so sánh như vậy rồi, thì quý vị nghe trong cái giáo án này đức Phật đã dạy: suy nghĩ như vậy sau một thời gian quý vị mới quyết tâm đoạn dứt. Bắt đầu mới từ bỏ tài sản nhỏ, nghĩa là mình lần lượt mình phải sắp xếp đó, mà đức Phật gọi là từ bỏ cái tài sản nhỏ đó. Rồi lần lượt mới từ bỏ tài sản lớn, nghĩa là lần lượt mình sắp xếp đâu đó này kia nọ cho vén khéo rồi mới cạo bỏ râu tóc được. Rồi lần lượt mới từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, nghĩa là cắt đứt những tình cảm của chúng ta đối với những người bạn bè này kia xa xa đó, gọi là nhỏ đó. Rồi bắt đầu tuần tự mới cắt đứt những bà con quyến thuộc lớn, tức là những người như cha mẹ, rồi vợ con… lần lượt cũng phải cắt đứt những cái đó luôn, đó là đức Phật gọi là bà con quyến thuộc lớn đó. Còn bà con quyến thuộc nhỏ là anh em, chú bác này kia xa xa gần gần, dòng họ đó, là bà con quyến thuộc nhỏ. Còn bà con quyến thuộc lớn là cha mẹ sinh mình ra đó, vợ con của mình đó, đó là bà con quyến thuộc lớn đó. Lần lượt phải bỏ tuần tự. Còn tài sản nhỏ, tài sản lớn thì quý vị phải hiểu rằng, tài sản mà nhỏ là những của cải tiền bạc rất nhiều, đó là những cái tài sản nhỏ. Còn tài sản lớn, đó là những cái cuối cùng mà quý vị quét sạch ra đó, mà quý vị còn ba y một bát đó. Đó là những cái mà nó dính mắc nhất cho đời sống của quý vị đó là cái ăn chứ không phải cái gì khác. Bởi vì vốn chúng ta có cái tài sản lớn, tài sản nhỏ đều là để phục vụ cho cuộc sống của chúng ta mà thôi. Cho nên từ đó đến cái tài sản lớn nhất là tài sản hàng ngày mà chúng ta có một bữa ăn ngon lành, có một bữa ăn tốt đẹp đó. Đó là cái mà chúng ta khó có thể bỏ lắm. Cho nên đến khi mà thành một người tu sĩ, đối với cái ăn người ta không còn có ham thích nữa cho nên người ta bỏ sạch những tài sản lớn tài sản nhỏ đó.

Khi mà sắp xếp được, khi mà giải quyết được mọi cái thì lúc bấy giờ chúng ta mới đi qua được một cái giai đoạn thứ 2 của giáo án, của phương án tu tập này. Quý vị thấy trong hiện giờ, nghe Thầy thuyết giảng tới đây quý vị thấy mình có thực hiện được không, à quý vị có thực hiện được không, nghĩa là quý vị có bỏ được, có cắt đứt được cái điều này không?

Cho nên cái giai đoạn này mà trong thập nhị nhân duyên, 12 duyên đó, thì đức Phật có giảng nhị duyên cho chúng ta trong 12 duyên này: sanh đã tận thì phạm hạnh mới xong. Sanh tức là có cái duyên sanh thì mới có cái duyên ưu bi sầu khổ bệnh chết, nếu không có sanh thì nó sẽ không có ưu bi sầu khổ. Cho nên khi mà chúng ta đoạn duyên sanh thì ưu bi sầu khổ bệnh chết nó không có. Cho nên trong thập nhị nhân duyên thì 2 cái duyên cuối cùng này, mà đức Phật ngay từ bắt đầu người tu ấy, tức là phải đoạn dứt duyên sanh. Ở đây chúng ta phải xét cho đúng cái duyên sanh, sanh ở đây là sanh y. Y là nương tựa, sanh là sanh sống chứ không phải là sanh đẻ, không phải là đản sanh như người ta giải thích. Người mà giải thích như vậy là không hiểu. Chữ sanh ở đây là sanh y, là nhà cửa, của cải, tài sản, anh em ruột thịt, dòng họ... Cho nên khi mà cái người xuất gia mà tu thì sanh đã tận, nghĩa là đoạn tận, đoạn dứt nó đi thì phạm hạnh, cái con đường tu của đạo Phật nó mới đạt được. Mà nếu mà chúng ta không đoạn tận, còn thương, còn ghét, ngồi đây tu mà nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ cha, nhớ mẹ, ... thì chắc chắn là cái người đó không bao giờ đi đến con đường của đạo Phật.

Quý vị có hai bàn tay, một bàn tay đời và một bàn tay đạo. Tay nào quý vị cũng muốn nắm hết thì quý vị không có thể nào mà nắm gọn hết được cái con đường tu của quý vị đâu. Quý vị phải bỏ cái tay đời của quý vị đi, rồi dùng cái tay đời đó rồi quý vị ôm chặt được cái tay đạo thì quý vị mới thực hiện được. Cho nên cái đạo Phật chỉ dạy chúng ta rất rõ ràng, xác định cho chúng ta rất rõ ràng: một người mà còn nắm hai tay là không thể nào thực hiện con đường của đạo giải thoát, chỉ tu tập trong thiện pháp mà thôi chứ không thể nào đi đến sâu sắc được. Cho nên nhìn chung, chúng ta thấy hầu hết một số tu sĩ của chúng ta hiện giờ mà đi đến sâu của đạo Phật, để thực hiện được con đường thiền định của đạo Phật là cái Định Vô lậu thì không ai mà vô lậu được. Và cái định mà để làm chủ được thân tâm, sự sống chết như định Hiện tại an lạc trú thì chưa ai mà nhập được 1 tháng, 2 tháng, 1 năm, 2 năm, 3 năm không ăn không uống được. Và cái định làm chủ được sự sống chết, muốn chết hồi nào, muốn sống hồi nào thì chưa có một người nào mà làm được. Do cái chỗ mà chúng ta tu hành mà còn bắt hai tay, đời không muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm.

Vì vậy, mà cái giai đoạn thứ 2 của giáo án này chúng ta mới thấy đức Phật vạch rất rõ, suy nghĩ rất rõ chớ không phải nói đơn thuần, nói sơ sơ mà thực hiện được. Cho nên nhiều người cư sĩ vẫn ham tu theo Phật, vẫn ngồi thiền, vẫn nỗ lực tu mà không dám bỏ vợ con, không dám cắt lìa cái tài sản, không dám bỏ một đồng bạc của mình ra nữa, luôn lúc nào cũng phải lo làm ra tiền ra bạc hết. Thì thử hỏi họ tu tập như vậy họ tới chỗ nào, hay là ngồi cho có hình thức? Ngày nào, đêm nào cũng thức chong lên mà ngồi thiền, mà thiền đó nó đi về đâu? Tâm thì không rời đồng bạc, tâm thì không rời vợ, rời con thì thử hỏi họ làm sao họ đạt được những gì? Đó là thấy giáo án của đức Phật chưa?

Đầu tiên là phải rời nghề nghiệp để đi vào con đường thiện pháp, sống cho đúng cái sống của người cư sĩ, chứ chưa phải là người tu sĩ thật sự, đây là mới người cư sĩ mà thôi. Đến cái giai đoạn thứ hai, so sánh để chúng ta bước qua cái giai đoạn thứ 2 này, nó rất là ngặt nghèo, phải đoạn dứt cho được, mà đoạn dứt được thì ưu - bi - sầu - khổ - sanh - tử nó mới chấm dứt. Bởi vì duyên sanh đoạn thì ưu - bi - sầu - khổ và bệnh - tử nó mới đoạn. Đó là nhị duyên chúng ta thấy rất rõ ràng. 

Bởi vậy khi mà giải thích, giảng về cái giáo án này thì quý thầy suy nghĩ cho kỹ mình còn bắt hai tay hay là không? Nếu mà còn bắt hai tay thì hãy chặt cái tay kia đi, đừng có nắm nó nữa, hãy xả cái đời xuống đi. Chọn lấy đạo là đạo mà đời là đời, chết là chết trong đạo, chết là chết trên bồ đoàn chứ không thể chết dưới cái tình cảm của gia đình, của vợ của con mà hãy chết ở trên đạo. Cho nên, chúng ta thà chết ở trên đạo chứ không thể nào chết ở trong gia đình của chúng ta, chết trong tình cảm của con người.

Cho nên chúng ta bỏ hết, bỏ hết, dẹp hết mới có thể đi vào con đường của đạo Phật được. Xả hết, từ bỏ, viễn ly, xa lìa tất cả những gì gọi là cuộc sống của thế gian. Chúng ta chấp nhận đời sống của chúng ta chỉ có một cái nghề chơn chính đó là nghề đi xin. Chúng ta không còn làm ra đồng bạc, không có đi ra cày ruộng, không có đi trồng rau, trồng cải để mà ăn. Đói thì chúng ta xin, ai có cho cái gì chúng ta ăn cái nấy, mà không cho thì chúng ta chịu đói chứ không bao giờ chúng ta hành cái nghề gì.

Vì hành động sống của đức Phật ngày xưa quý thầy có thấy đức Phật đi ra trồng rau không? Giờ này đức Phật đi xin về rồi ăn thôi chứ không có bao giờ làm một cái gì hết. Ở trong khu rừng mà không trồng một cái cây có trái mà ăn nữa. Thầy chưa từng nghe đức Phật trồng cây xoài để có trái xoài, Thầy cũng chưa từng nghe trồng một cây thơm có trái thơm mà ăn. Mà tất cả đệ tử của đức Phật trong thời đức Phật, Thầy cũng chưa từng. Nhưng Thầy có nghe rằng khi đến chỗ nào đó thì ông Xá Lợi Phất dọn dẹp rất là sạch sẽ để chư tăng đến và khi rời khỏi khu vực mà đang ở thì ông Xá Lợi Phất dọn dẹp rất sạch sẽ để rồi để lại một cái khu rất là vệ sinh sạch sẽ, chứ không có bừa bãi. Thầy chỉ nghe trong kinh nói như vậy, chứ Thầy không nghe nói rằng để lại một cái vườn xoài, để lại một cái vườn rau, để lại một cái sở ruộng ở đó(BBT:CĐ,01A,E00:46:21),(BBT:CĐ,01B,B00:00:00)không bao giờ có cái điều đó. Cho nên chúng ta tu hành theo đạo Phật, chúng ta phải lấy cái nghề đi xin ăn. Tất cả áo quần mà chúng ta đang mặc, y áo mà chúng ta đang mặc cái nào mà còn vá được chúng ta hãy tiết kiệm vá tận cùng mà mặc, không được phí bỏ. Mặc dù thời đại của chúng ta…

Nãy giờ Thầy đã giảng về cái phần thứ 2, là cái giai đoạn để cắt, đoạn dứt cái đời sống thế gian, để chuyển qua đời sống xuất gia tu tập. Quý vị hãy suy nghĩ cho kỹ, nếu đến với đạo Phật không phải đến với hình thức, đến với cái hình thức của bộ áo, đến với hình thức ngày ngồi thiền hay niệm Phật hay tụng kinh. Đạo Phật đến với thực tế của tìm con đường giải thoát, chớ không phải đến cầu an, cũng không phải đi tìm đến cuộc sống cho nó đầy đủ vật chất hơn nữa. Đến với đạo Phật thì quý vị, quý thầy phải suy nghĩ rất kỹ là chúng ta phải thực hiện làm chủ được sự sống chết và chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Mục đích đó là mục đích của đạo Phật, để đem con người thoát khỏi sự đau khổ của chính bản thân họ. Đến với đạo Phật thì quý vị phải suy tư cái giai đoạn thứ 2 này rất là kỹ lưỡng. Đời là mình phải làm sao cho xứng đáng đời, lợi ích cho mọi người, lợi ích cho mình. Mà đạo thì phải hoàn toàn đoạn lìa đời, không được ngồi đây mà còn lo đời. Cho nên đối với Phật tử chỉ là những cái duyên để mà chúng ta độ họ tu hành mà thôi. Chớ đừng có đem họ trở thành những sự trói buộc của chúng ta. Nhiều khi chúng ta làm một vị trụ trì ở một ngôi chùa nào đó, hầu hết chúng ta không bị gia đình trói buộc mà bị Phật tử trói buộc. Họ cúng dường chúng ta cái này, cái nọ, cái kia, họ muốn sai chúng ta làm cái gì chúng ta cũng phải vâng lời làm hết. Đó là chúng ta đã lìa khỏi cuộc sống của đời mà chúng ta bị đời sai trong cái việc đạo của chúng ta. Cho nên chúng ta phải lìa khỏi những cái sai lệch này để mà chúng ta thực hiện được sự giải thoát chính bản thân của chúng ta. Chúng ta cứu chúng ta cho được.

Vả lại, cái giai đoạn này chúng ta còn phải suy nghĩ cái tâm đời chúng ta còn mang theo ở trong cái tâm đạo chứ chưa phải sạch, do đó cái bản ngã chúng ta vẫn còn, khi chúng ta mới hiểu được một chút nào đó, chúng ta vội đem ra giảng dạy cho người khác, điều đó là cái tâm đời của chúng ta đó. Cái tâm danh của chúng ta. Cho nên quý vị cũng nhớ rằng khi đoạn dứt cái đời là đoạn dứt cái tâm danh của mình, cái tâm lợi. Cho nên, do vì vậy khi nào chúng ta tu hành thành đạt giải thoát làm chủ thật sự, biết rõ rằng mình đã giải thoát hoàn toàn, tâm không còn lậu hoặc, thiền định làm chủ được sống chết lúc nào là chúng ta tự tại trong lúc đó. Bấy giờ chúng ta mới có đủ khả năng đi ra dạy đạo, dạy cho người tu hành, mà nhiều khi chúng ta còn ẩn bóng, chúng ta còn không muốn dạy ai nữa, vì đâu phải dạy người ta tu hành là dễ.

Còn quý thầy, quý vị vừa học được 5, 3 chữ, hiểu được một vài khía cạnh nho nhỏ vội đem ra trong khi mình chưa thực hành được gì hết, mình giảng cho người này hiểu, người kia hiểu, tỏ ra đó là cái hành động danh của mình, tỏ ra đó là cái bản ngã của mình chứ chưa phải là sự thực tu, thực chứng giải thoát cho chính mình. Cho nên chúng ta phải hiểu khi bước qua cái giai đoạn đạo thì coi chừng đời nó xen vào đó mà nó mượn đạo để cầu danh, cầu lợi ở trong đó. Hầu hết một số quý thầy đã bị vấp ngã trên cái giai đoạn này. Chúng ta cứ ngỡ rằng đó là đạo nhưng thật ra đó là đời chứ không phải đạo, qua cái danh hiệu đạo.

Đó là giai đoạn thứ 2 mà quý vị cần phải suy nghĩ và xét cho kỹ rồi từ đó chúng ta buông hết không còn để ở trong tâm một cái gì chúng ta dính mắc nữa. Xưa đức Thế Tôn, Ngài từ giã ngai vàng, của báu, vợ đẹp, con xinh đi vào trong rừng núi mà tu tập, 6 năm khổ hạnh. Quý thầy có thấy Ngài cắt đứt toàn bộ không còn một cái tài sản nhỏ, tài sản lớn nào hết. Còn chúng ta có nhiều người nghĩ như thế này: bây giờ mình làm cho có một ít tiền rồi mình để dành, rồi chừng đó mỗi tháng mình cứ bỏ ra một chỉ, mình ngồi mình tu khỏe re. Như ông Phật mà nghĩ như vậy thì chắc chắn không bao giờ ông khổ hạnh hết. Ngày ăn có bảy hạt mè, sống thì rờ da bụng thì đụng xương sống, rờ xương sống thì đụng da bụng, tiết thực đến mức độ, khổ hạnh đến mức độ mà đi không nổi, đứng không nổi, chỉ còn nằm không. Tu tập như vậy người ta mới thấy được, người ta mới lìa được những dục lạc của thế gian, bởi vì những dục lạc của thế gian quá đầy đủ, quá nhiều và thời đại của chúng ta nó còn nhiều vật để mà cám dỗ chúng ta.

Cho nên chúng ta là một người tu hành, chúng ta phải sáng suốt, phải nhận định ở giai đoạn thứ hai này là cái giai đoạn đoạn trừ cái tâm đời của chúng ta, cái tâm danh của chúng ta, cái tâm lợi của chúng ta. Phải đoạn dứt. Không phải đoạn dứt cái danh lợi của đời không, mà chúng ta phải đoạn dứt những danh lợi mà chúng ta mang cái tên là đạo đó, nó còn mang tính đời của nó đó.

Vì vậy mà khi mà quyết tâm tu hành rồi thì hãy sáng suốt suy nghĩ cho rõ. Phỏng chừng như quý vị bây giờ chết đi thì vợ con quý vị ai lo đây? Tại sao quý vị không bỏ được để mà quý vị đi vào thẳng con đường đạo? Khi quý vị đi thẳng vào con đường đạo thì vợ con phải tự sống như quý vị đã chết. Có cắt đứt được như vậy thì đó là cái giai đoạn thứ 2 của quý vị mới thực hiện được con đường của đạo. Nếu giai đoạn thứ 2 mà quý vị chưa thực hiện được thì quý vị nên về tập lại cái cuộc sống giai đoạn thứ nhất thực hiện nhân quả, làm đầy đủ bộn phận của một người, một con người cư sĩ, đối với vợ con cha mẹ phải hiếu hạnh, vợ con phải có sự trung thành với nhau, chớ đừng có làm những điều tồi tệ để gây sự đau khổ cho gia đình. Làm hết bổn phận, phải nuôi con cái lớn khôn có đầy đủ nghề nghiệp. Như vậy là cũng xứng đáng là đệ tử cư sĩ của đạo Phật rồi. Cho nên Thầy chưa nói đến giai đoạn thứ 3, là vì giai đoạn thứ 3 nó còn nhiều cái khó khăn, không phải dễ.

Bây giờ thầy sẽ tiếp tục ở giai đoạn thứ ba. Khi đã quyết tâm cắt ái, xuất gia như vậy, cắt ái là đoạn lìa những thương, ghét của chúng ta đối với gia đình, đối với tài sản đó. Quý vị phải siêng năng học tập Giới luật. Nghĩa là bấy giờ cạo tóc rồi đó, thì tất cả những Giới luật của Phật là phải học trước, chứ không được học Kinh. Quý vị nhớ kỹ, học Kinh quý vị không thấy được cái phạm hạnh của quý vị, không thấy được những oai nghi tế hạnh của quý vị đâu. Cho nên quý vị phải học Luật. Cho nên khi mà xuất gia trong Kinh luật cũng dạy phải 5 năm mà học luật, rồi sau 5 năm đó mới học Thiền. Quý vị hiểu điều đó! Không có giới luật nào mà quý vị không thuộc, quý vị phải thường hằng cố gắng, sống đúng Giới luật, không cho phạm phải một lỗi nhỏ, sống đúng nếp sống oai nghi tế hạnh của người tu sĩ đạo Phật. Nghĩa là bắt đầu vào cái giai đoạn thứ 3 thì quý vị phải đoạn dứt cái tâm đời của quý vị, cái cuộc sống đời của quý vị, mà quý vị phải siêng năng học tập Giới luật, thuộc tất cả những cái hành động, cái oai nghi tế hạnh trong Giới luật, quý vị phải cố gắng giữ gìn, không cho phạm những lỗi nhỏ ở trong Giới luật.

Muốn sống đúng nếp sống của người tu sĩ đạo Phật, quý vị phải tu tập 4 pháp hạnh đầu tiên. Đây, nếu mà muốn sống đúng cái nếp sống của người tu sĩ của đạo Phật thì quý vị phải tu 4 cái pháp hạnh đầu tiên đó là Tứ Bất Hoại Tịnh(BBT:CĐ,01B,E00:10:03). Khi thực hiện tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh quý vị phải tu tập từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, từ bỏ trượng gậy, kiếm đao, bỏ những loại vũ khí giết hại chúng sanh. Đó là giai đoạn tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh. Nhưng mà muốn tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh thì quý vị phải tu tập những giới đầu tiên của quý vị tức là từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh. Đó là cái giới đầu tiên của quý vị. Nhưng ở đoạn trên là chúng ta đã học những giới đó rồi thì bây giờ ở đoạn dưới mà tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì bắt đầu chúng ta phải từ bỏ sát sanh, tránh xa sự sát sanh. Thì cái này sẽ được Thầy giảng dạy từ bỏ sát sanh như thế nào mà tránh xa sát sanh như thế nào. Nhưng trước khi giảng dạy cái này thì Thầy sẽ giảng dạy Tứ Bất Hoại Tịnh. Hôm nay thì đã hết giờ, ngày thứ 5 tới chúng ta sẽ tiếp tục giáo án này (BBT:BN,01,E00:56:50)…

(BBT:CĐ,01B,B00:10:04)Nhưng trước khi học, tu Tứ Bất Hoại Tịnh Thầy sẽ giảng cho quý vị oai nghi tế hạnh của người xuất gia theo lộ trình thứ 2 của đạo Phật.

Sau khi quý vị đã xuất gia, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa. Đây là một lối sống đối với người thế gian thì được xem là rất mới mẻ và còn lạ lùng, sống không giống lối sống của mọi người trên thế gian này. Mà muốn sống được như vậy thì người xuất gia phải sống chế ngự thân mình, chế ngự lời nói của mình, chế ngự ý nghĩ của mình. Luôn luôn phải bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo, thuốc thang, sàng tọa. Vui theo nếp sống trong sự an tịnh. Thường sống cô đơn, trầm lặng, sống một mình, không bạn bè thân thuộc, không Phật tử thân thương. Sống với mục đích chủ động thân tâm. Bất động trước mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, mọi sự việc và mọi nhân duyên đều chủ động.

Đây là cái người mà muốn đi vào lộ trình thứ 2, xuất gia của đạo Phật thì đương nhiên là phải có một lối sống, không phải sống như lối sống khi còn ở thế gian được, mà phải dứt bỏ hết của cải tài sản, lòng thương yêu, và dứt hết không còn có gì gọi là mang theo trong thân tâm của mình. Nghĩa là bỏ sạch, bỏ thật sạch và còn phải sống một đời sống cô đơn, trầm lặng; sống không còn thân hữu bạn bè, không còn thích vui chơi, nói chuyện; không còn thích ăn uống, không còn thích cái này cái nọ kia nữa và cũng không còn sợ hãi phải có Phật tử thân thuộc để lo cho mình miếng ăn, áo mặc. Mà chỉ cần phải sống, sống với một mình trước hoàn cảnh nào, trước sự việc nào, trước đói khát, trước bệnh tật đều luôn luôn chế ngự, giữ gìn thân mình, ý mình, lời nói mình, không để cho dao động trước mọi hoàn cảnh, mọi sự việc xảy ra.

Bước qua cái lộ trình xuất gia, người tu sĩ phải dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ. Vậy dứt bỏ những gì? Muốn dứt bỏ người tu sĩ phải sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha. Nghĩa là người tu sĩ, người mà bước qua cái lộ trình của người tu sĩ theo đạo Phật thì phải lấy giới luật của Phật làm cuộc sống của mình. Cho nên hằng ngày phải chế ngự tâm mình, phải chế ngự thân mình, phải chế ngự lời nói của mình, phải đúng ở trong giới bổn Ba la mộc xoa đề hay là Patimokkha. Luôn luôn phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh, phải thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, phải nhận ra được sự nguy hiểm khi mà chúng ta phạm phải những cái lỗi nhỏ nhặt ở trong giới bổn, ở trong những oai nghi thiếu sót làm chúng ta không xứng đáng là một vị tu sĩ, thì chúng ta nên cẩn thận và cảnh giác cho nó rõ ràng. Vì có cẩn thận, ý tứ từng hành động thân - khẩu - ý của mình do vì vậy mà mình mới giữ gìn giới hạnh, mới chế ngự cái thân khẩu ý của mình mới trọn vẹn trong giới bổn Ba la mộc xoa đề. Còn nếu mà mình không có chế ngự, không có giữ gìn thân khẩu ý của mình thì những cái lỗi nhỏ, oai nghi tế hạnh nhỏ thì mình sẽ bị phạm, mà bị phạm thì nó sẽ làm cho mình xấu hổ, làm cho mình luôn luôn có sự sợ hãi trong chúng tăng, trong những vị tu hành. 


Bước qua lộ trình xuất gia, người tu sĩ phải dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ. Muốn dứt bỏ, người tu sĩ phải biết sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Ba la mộc xoa đề hay còn gọi là Patimokkha. Luôn luôn phải sống đầy đủ oai nghi chánh hạnh của người tu sĩ. Phải thấy rõ sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt của giới bổn. Phải luôn luôn thọ trì học tập, trau dồi, tu tập trong giới học. Thân nghiệp, ngữ nghiệp luôn luôn phải nhờ giới hạnh trau dồi, rèn luyện, tu tập. Hằng ngày sinh hoạt trong mọi cuộc sống luôn luôn được trong sạch là nhờ giữ gìn, trau dồi, tu tập giới hạnh trọn vẹn đầy đủ. Lúc nào người tu sĩ cũng luôn luôn phòng hộ 6 căn, giữ gìn mắt tai mũi miệng thân ý của mình. Vì lúc bấy giờ mình biết mắt tai mũi miệng thân ý của mình mới bước vào lộ trình xuất gia tu hành thì còn rất yếu, dễ bị dính mắc 6 trần, dễ bị say đắm lôi cuốn 6 trần, nhất là cái đời sống giới hạnh và giới đức của đức Phật làm cho cuộc sống mới mẻ và khắc khổ đối với con người mới vào tu. Vì vậy mà 6 căn tiếp xúc 6 trần dễ sanh sự bất mãn, sự thối chí của người mới tu, cho nên phải cố gắng mà phòng hộ 6 căn mắt tai mũi miệng thân ý của mình đừng cho duyên 6 trần sẽ sanh ra 6 thức và sanh nhiều cái lý luận để đưa đến chỗ bỏ đạo, xa thầy và trở về cuộc sống thế tục.

Muốn được như vậy thì người tu sĩ phòng hộ 6 căn giống như một người lính gác cổng thành, luôn luôn phải tỉnh táo biết kẻ ra người vào, kẻ nào tốt, người nào xấu, kẻ nào gian, kẻ nào thật, phải luôn luôn đề cao cảnh giác ý tứ từng chút một. Đó là bổn phận, trách nhiệm của một người lính gác cổng thành. Thì đối với người tu sĩ mới vào đạo Phật xuất gia, mới đi vào lộ trình của người người tu theo đạo Phật cũng giống như người lính gác cổng thành vậy. Phải luôn luôn ý tứ và cảnh giác từng chút vì đó là bổn phận của người tu sĩ khi muốn tìm cầu sự giải thoát thì phải cảnh giác tâm mình giống như người lính vậy. Lúc nào thiếu một sự cảnh giác thì bị các trần, các pháp trần xâm chiếm tâm, tức là tâm chiếm thành, những kẻ gian ác lừa bịp sẽ dối trá, sẽ gạt gẫm. Đó là bổn phận và trách nhiệm của người tu sĩ, cần phải cảnh giác tâm mình giống như người lính vậy. Lúc nào thiếu cảnh giác là tâm bị xâm chiếm, nhờ có sự cảnh giác tâm mới được yên ổn; nhờ có sự cảnh giác tâm mới được bảo vệ và giữ gìn, được an ổn không bị dính mắc các trần cũng như người lính đã giữ trật tự an ninh trong thành.

Đã cảnh giác canh phòng như vậy mà còn phải biết thiểu dục tri túc, tức là phải biết ít muốn mà biết đủ, chớ không phải nói rằng cảnh giác canh phòng như vậy là đủ mà còn phải giữ gìn sự ít muốn, ít ham muốn biết đủ của mình. Cái gì có thì mình sống cái đấy, không được đòi hỏi thêm nhiều hơn, đó là bổn phận và trách nhiệm của người tu sĩ mới bước đầu vào đạo Phật, là phải sống hiểu biết như vậy, không có đòi hỏi hơn vì lúc bấy giờ khi chưa bước chân vào đạo Phật là sống đầy đủ những vật chất, những sự ham muốn theo dục lạc thế gian. Nhưng khi đã bước chân vào đây rồi thì phải hiểu rằng đời sống hôm nay không phải đời sống của ngày mai, đời sống của hôm nay là đời sống đạo, không phải là đời sống của thế tục. Vì vậy tất cả những gì phải bỏ xuống là bỏ xuống sạch. Vì mục đích cao cả, vì mục đích lớn lao của cuộc sống đầy đau khổ và sinh tử luân hồi, muốn ra khỏi nó thì phải sống như thế này thì mới ra khỏi được. Còn muốn trôi lăn trong 6 nẻo luân hồi, sống đời sống đau khổ và sinh tử luân hồi thì cứ tiếp tục sống theo dục lạc thế gian như mọi người trên hành tinh này vậy, thì không bao giờ có ngày giải thoát được, thì không bao giờ có ngày chấm dứt được luân hồi. Vì chính tâm ham muốn dục lạc thế gian là tâm sanh tử luân hồi không thể nào làm sao tránh khỏi. Biết được vậy, hiểu được vậy thì người tu sĩ phải thấy trách nhiệm đầu tiên của mình xuất gia theo đạo Phật là mục đích phải chấm dứt sinh tử luân hồi, làm chủ sự sống chết. Người tu sĩ xuất gia cần phải biết dứt trừ như đã dạy ở trên, tức là phải dứt trừ sự sát sanh, tránh xa sự sát sanh, phải từ bỏ những vật dụng giết hại chúng sanh như gươm, đao, dao, mác, kiếm, cung, tên, trượng, gậy, kích, mâu, côn, chùy, thương, súng, đạn, bom, mìn, lựu đạn, chất nổ...Phải biết xấu hổ và sợ hãi khi lỡ tay làm đau khổ và đoản mạng chúng sanh, phải biết luôn luôn tu tập trau dồi lòng từ, thương xót tất cả chúng sanh, làm cho chúng sanh được an vui; nghĩ đến hạnh phúc của chúng sanh, của tất cả loài hữu tình, phải làm sao cho chúng được an lạc thảnh thơi, như vậy đó là giới hạnh của vị tu sĩ đầu tiên bước vào lộ trình xuất gia của đạo Phật. 

Kế đến, người tu sĩ dứt bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những của được cho, chỉ mong những của được cho. Tự sống thiểu dục tri túc, biết đủ, ít muốn, trong sạch, thanh tịnh, không có trộm cướp, không có lấy của không cho, dù cây kim sợi chỉ, những vật nhỏ nhất cũng không được lấy. Như vậy người tu sĩ phải hiểu đó là giới hạnh của người mới bắt đầu xuất gia trong giới luật của đạo Phật. 

Kế tiếp, người tu sĩ phải dứt bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật mà nói, nói chắc chắn, nói đúng tin cậy, không nói lường gạt ai, không nói phản lại lời nói của mình, phản lại lời nói của đời sống, của mọi người. Như vậy là giới hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật mới bước vào lộ trình xuất gia của đạo Phật.

Kế tiếp, người tu sĩ phải dứt bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì chỗ này không được đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi đến chỗ này nói để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy vị tu sĩ sống hòa hợp với những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ vui mừng trong sự hòa hợp, thoải mái trong sự hòa hợp, vui mừng trong sự hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Như vậy là giới hạnh đầu tiên của người tu sĩ trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật. 


Kế tiếp, người tu sĩ dứt bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, vị ấy nói những lời nói không có lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm với mọi người, lời nói tao nhã, nhẹ nhàng, êm ái, làm đẹp lòng nhiều người. Như vậy là giới hạnh đầu tiên của người tu sĩ mới xuất gia trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.

Kế tiếp, người tu sĩ cần phải dứt bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về chánh pháp, nói những lời về giới luật nghi, nói những lời hợp thời, hợp lý có mạch lạc, có hệ thống, có lợi ích cho mọi người. Như vậy là giới hạnh đầu tiên của người tu sĩ trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật. 

Kế đến, người tu sĩ phải dứt bỏ ăn uống phi thời, ngày dùng một bữa, không ăn ban đêm, dứt bỏ ăn uống phi thời, dứt bỏ ăn uống lặt vặt; dứt bỏ đi xem múa, hát, nhạc, diễn kịch; dứt bỏ trang sức làm đẹp, làm sang; dứt bỏ nằm giường cao rộng lớn; dứt bỏ nhận vàng bạc, tiền bạc của người cư sĩ cúng dường; dứt bỏ cất giữ tiền, bạc, của báu; dứt bỏ nhận thịt sống, dứt bỏ nhận thịt chín. Như vậy là giới hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.

 Đây là giới hạnh của những người tu sĩ mới bước đầu vào lộ trình xuất gia đầu tiên theo đạo Phật.

Những giới hạnh này người tu sĩ cần phải nhớ kỹ và ghi nhớ không được để vi phạm những lỗi lầm này. Người mới tu cần phải ghi nhớ mãi mãi những điều này, không được vi phạm. Có vi phạm nhỏ phải xấu hổ, phải hằng răn sám hối, phải hằng sửa sai không được kéo dài, không được tiếp tục phạm nữa. Có như vậy mới xứng đáng là người bước đầu vào đạo Phật.

Và người tu sĩ mới bước đầu vào đạo Phật cần phải hiểu thêm, cần phải tu tập thêm theo những bài kệ dưới đây để dứt trừ những điều ác, mà tăng trưởng các điều lành. 

Quý thầy hãy nghe những lời dạy này để mà cố gắng cho cái giai đoạn mới bước đầu vào đạo Phật: 

Hãy mau mau làm điều lành,

Thường ngăn tâm làm điều ác.

Hai cái câu kệ đầu thì khi mà chúng ta mới bắt đầu chúng ta vào đạo Phật, đi vào cái lộ trình thứ hai trở thành một vị Tỳ kheo tu hành thì tất cả những cái điều lành thì chúng ta đều là thực hiện làm tất cả những điều lành. Còn những cái điều ác thì luôn luôn ngăn chặn cái tâm của mình làm cái điều ác, điều ác lớn điều ác nhỏ gì thì chúng ta phải ngăn chặn nó lại. Đây là 4 cái câu kệ kế:

Nếu người làm điều ác

Chớ tiếp tục làm ác

Đừng ước muốn điều ác

Chứa ác chịu khổ đau

Ở đây, thì Phật dạy bảo khi mới bắt đầu vào tu, người mới bắt đầu vào tu thì tâm chúng ta còn quen đi ở trong đời sống thế tục cho nên nó có những pháp ác còn đang lẫn lộn ở trong tâm hồn của chúng ta. Cho nên đức Phật dạy: Nếu người còn đang ở trong các pháp ác, chớ nên tiếp tục các pháp ác, dứt nó ra đi và đừng có muốn, ước ao muốn, như bây giờ mình ham muốn cái này kia, ham muốn ăn cái này kia, ham ăn rồi đó, hoặc là còn tham sân si, thì đó là các pháp ác đó. Cho nên đừng có ước muốn các điều ác, vì chứa ác thì cuộc đời chúng ta sẽ gặp nhiều cái sự đau khổ. Mặc dù là hiện giờ chúng ta là những người tu nhưng còn có gặp những cái khó khăn chứ không phải là không có những cái khó khăn. Muốn cho được an ổn, yên ổn tu hành thì chúng ta phải nỗ lực dứt các điều ác.Đừng có ước muốn nữa, đừng có ham muốn nữa vì tất cả những ham muốn đó nó sẽ đem đến những sự khổ đau, mà là những khổ đau đó toàn là những sự ác đem đến cho chúng ta.

Nếu người làm điều thiện

Tiếp tục làm thiện thêm

Lòng ước muốn điều thiện

Chứa thiện được an lạc

Nếu mà chúng ta bước qua giai đoạn, vào lộ trình tu tập của đạo Phật, bắt đầu mới vào tu thì chúng ta luôn luôn ước muốn làm cái điều lành, tiếp tục làm điều lành ước muốn làm điều lành và chất chứa những điều lành đó. Thì con đường tu của chúng ta được an lạc, không còn khó khăn nữa. 

Còn trái lại chúng ta có những cái tâm niệm chứa những cái ác, coi như là nghi ngờ Thầy tổ của mình, nghi ngờ bằng cách này bằng cách kia. Trước khi mà chúng ta muốn đến với vị Thầy đó thì ít ra chúng ta cũng phải chọn lấy có đủ niềm tin hay không, không đủ niềm tin khi đến đó mà khi mình nhận người ta làm thầy mình rồi mình đâm ra nghi cái này nghi cái kia, đứng núi này trông núi nọ, rồi dùng những lời lẽ phỉ báng thầy mình, chê bai thầy mình bằng cách này bằng cách khác thì đó là mình đã chứa những điều ác trong tâm của mình. Và chứa những điều ác trong tâm của mình như vậy á, là tự mình đã đem lại cái sự bất an, đem lại cái sự muôn đời chẳng bao giờ tìm được con đường giải thoát. 

Một khi biết Thầy mình, mình đến xin vị đó làm thầy mình, mà mình biết thầy mình chưa có đạt đến mức giới luật cũng như thiền định cao siêu thì mình vẫn là quý trọng thầy mình, đừng có dùng cái lời lẽ phỉ báng thầy mình bằng cách này bằng cách khác đối với một vị thầy đã đưa dắt mình lúc đầu. Ơn không có mà trả oán, những cái hạng người đệ tử như vậy thì suốt đời của họ tu hành cũng chẳng ra gì.Vì đó là những điều mà họ đã chứa trong tâm họ toàn là những điều ác. 

Người ác thấy là lành

Khi ác nghiệp chưa đủ

Đến khi đã chín muồi

Người ác mới thấy khổ.


Nghĩa là bây giờ chúng ta nói cái này, nói cái kia thì cái nghiệp ác nó chưa có đến với chúng ta đâu. Nhưng mà khi nó đến đủ rồi thì chúng ta mới thấy rõ cái khổ đó là do cái hành động ác của mình, cái hành động mà do cái tâm không tốt của mình.

Người hiền đang sống khổ

Khi thiện nghiệp chưa đến

Nay thiện nghiệp chín muồi

Người lành được an vui.

Nghĩa là hiện bây giờ chúng ta đang làm lành, nhưng mà cuộc sống chúng ta đang gặp những cái khó khăn, là do nhân quả của đời trước mà mình hôm nay mình chịu lấy. Khi mà cái thiện nghiệp hiện giờ mình đã làm, nó chưa có đến đâu, một ngày nào đó nó sẽ đem đến cho mình. Mà nó đem đến cho mình chín muồi rồi thì cái người làm điều lành đó sẽ được an vui và an vui mãi mãi trong cuộc sống của họ. Họ sẽ không có thiếu thốn một cái gì cả.

Bài kệ kế:

Chớ khinh chê điều ác

Cho rằng chưa đến mình

Như nước nhỏ từng giọt

Rồi bình cũng đầy tràn

Người ngu chứa đầy ác

Do chất chứa dần dần

Nghĩa là hiện giờ chúng ta coi chuyện ác nhỏ chẳng ra cái gì hết, mình chê mình nói người này thế này thế khác, hoặc mình làm đau khổ người khác, mình coi nó không có gì. Nhưng mà nó sẽ là những giọt nước mà nhỏ lần lần nó sẽ đầy cái bình của chúng ta. Cho rằng nó chẳng có hại gì mình được hết, nhưng mà cuối cùng nó đầy đủ rồi thì cái bình kia nó vẫn phải tràn đầy. Và khi tràn đầy thì chúng ta sẽ thọ lấy những quả khổ, mà không ngờ trước những cái quả khổ do từng giọt nước ác nhỏ, tuy nhỏ nhưng mà lâu ngày nó sẽ đầy cái bình. Tuy giọt nước nó mềm nhưng nó có thể xoi mòn được đá cứng và cái giọt nước ác cũng vậy, nó có thể giết hại đời sống của chúng ta toàn là gặp những đau khổ.

Chớ khinh chê điều thiện nhỏ

Cho rằng chưa đến mình

Như nước nhỏ từng giọt

Rồi bình cũng tràn đầy

Người trí chứa đầy thiện

Do chất chứa dần dần

Cái người mà trí thì luôn luôn mỗi việc thiện nhỏ chúng ta đều cố gắng làm, giống như từng giọt nước nhỏ đến ngày nào đó, một bình nước đầy, chúng ta mặc sức mà dùng, đời sống chúng ta được an vui và hạnh phúc.

Đây là những điều mà phải nói rằng trên bước đường tu hành theo đạo Phật thì phải nói rằng cái giai đoạn mà đầu tiên mà bước qua lộ trình thứ 2 này, trở thành một vị tu sĩ của đạo Phật. Thì chúng ta phải nhớ những bài kệ này, là những cái hành động mà đầu tiên chúng ta phải dứt trừ những cái điều ác.

Những cái điều ác mà nó đưa đến cho đời sống của chúng ta, nó có nhiều cái quả khổ, mặc dù chúng ta tu hành nhưng phải gặp nhiều cái quả khổ. Chúng ta cố gắng mà dứt trừ nó thì may ra chúng ta sẽ được an vui trong cuộc đời tu hành của chính mình.

Bởi vì hằng ngày trên cái đường tu tập của chúng ta, chúng ta hãy tích lũy từng chút cái việc làm lành. Thấy một con vật mà bị trôi trên một vũng nước, đang sắp chết đuối trên vũng nước nhỏ chúng ta mau mau cứu chúng, thì đó là một việc làm lành nhỏ của chúng ta. Thấy một miểng chai, hoặc là một cây đinh, hoặc là một cây gai nằm, hoặc cái miểng chai nằm ở trên đường mà người qua kẻ lại thì do đó chúng ta nên nhặt cái vật đó đi, không khéo thì người vô ý họ sẽ đạp phải, sẽ gây đau khổ cho thân người đó. Do đó chúng ta muốn tránh sự đau khổ cho mọi người thì chúng ta nên lượm cái vật đó đi, đó là một cái việc làm lành nhỏ.

Cũng như chúng ta đi, chúng ta nhìn xuống chân, mà chúng ta tránh đi, đừng có để đạp con kiến hoặc là côn trùng dưới chân, tránh cái sự chết hoặc là sự gãy chân đau khổ của chúng chính cũng là một điều lành nhỏ mà chúng ta hằng ngày chúng ta gặp phải. Thấy một con vật đang đói khát, trong khi đang quằn quại trên cái sự đau khổ của cơn đói hoặc là cơn bệnh của chúng, thì chúng ta ngồi mà chúng ta nhìn rồi chúng ta khởi một cái tâm thương yêu, mong rằng sự đau khổ của chúng sanh này sẽ giảm đi, sẽ bớt đi. Sự ước mong, sự ước muốn của chúng ta nó cũng được cảm thông với cái sự đau khổ của chúng sanh.

Đó là những việc làm lành nhỏ mà góp nhặt từng chút để tạo nên cái lành lớn. Nếu chúng ta không làm được những điều nhỏ này thì khó có thể dứt trừ được những điều ác. Hằng ngày chúng ta ngồi lại thấy 2 con vật đang cắn lộn nhau, đang giành nhau cái vật thực gì đó mà cắn nhau, chúng ta vội vàng can ngăn chúng ra, đừng để chúng đánh nhau, thì đó cũng là một việc lành nhỏ.

Hằng ngày chúng ta có những điều vô tình làm đau khổ chúng sanh, khi chúng ta đang ngồi ăn thấy một con kiến hay một con vật gì, rớt ở trên mình chúng ta, bị nó cắn làm cho chúng ta ngứa hoặc đau, chúng ta sau khi bị đau ngứa không có ý tứ, không nghĩ đến thương chúng cho nên chúng ta lấy tay vò đi, chà đi làm cho con vật bị chết đi, đó là chúng ta làm một điều ác nhỏ.

Cũng như chúng ta ngồi chơi có một con muỗi đáp trên mặt chúng ta hút máu, chúng ta bắt đầu nghe ngứa ở tại chỗ đó thì chúng ta phải ý tứ, trên mặt chúng ta có chỗ ngứa chắc lẽ có một con vật, con muỗi hay con gì cắn chúng ta, hãy từ từ nhẹ tay để cho con vật đó không chết, đó là một việc làm thiện nhỏ.

Hằng ngày còn biết bao nhiêu việc nhỏ, như chúng ta đổ một cái xô nước nóng, chúng ta nhìn trước sau coi dưới đất chúng ta đổ có chúng sanh không, nếu không có chúng ta sẽ đổ, và đổ nước nóng xuống đất mà không có chúng sanh thì không có chết hại chúng sanh, đó là một việc làm thiện của chúng ta.

Chúng ta nắm một cái cây mà chúng ta ném, cái cây rớt rủi ro trúng một con vật nhỏ như một con cuốn chiếu, hoặc là một con trùng, hoặc một con kiến, nó cũng làm cho con vật đau khổ. Tốt hơn, chúng ta đừng vô tình ném một cái cây, một khúc cây mà rớt để làm cho đau khổ chúng sanh. Chúng ta hãy để nhẹ nhàng khúc cây vào cái nơi vị trí của chúng, thì thứ nhất là oai nghi tế hạnh của chúng ta rất là nhẹ nhàng, rất là có oai nghi, và thứ hai là không làm đau khổ chúng sinh. 

Đó là những việc làm thiện nhỏ mà chúng ta phải nhặt nhạnh từng chút, từng ngày để tạo cho chúng ta có những cái điều lành lớn sau này.

Và đối với cái hành động ác hằng ngày mà hành động nhỏ chúng ta cũng cần lưu ý, và đối với cái hành động thiện nhỏ hằng ngày chúng ta cũng cần lưu ý để mà trau dồi thân tâm của mình trong những oai nghi, tế hạnh của người tu sĩ mới bắt đầu tu tập giới hạnh của Phật, thực hiện cái đời sống hằng ngày oai nghi tế hạnh đầy đủ, nhẹ nhàng, để giúp đỡ tất cả chúng sanh không vì mình mà đau khổ. 

Đây là những điều căn bản đầu tiên giới hạnh của người tu sĩ mới bước qua lộ trình xuất gia cần phải thông hiểu rõ ràng để không có lỗi lầm, để không phạm phải. Nhưng bấy nhiêu đây chưa đủ để đi suốt cái quãng đường xuất gia tu hành, đi đến chấm dứt sanh tử luân hồi được mà còn phải tu tập nhiều hơn nữa, và phải tu tập nhiều hơn nữa.

Người tu sĩ Phật giáo mới bước đầu vào đạo cần phải sống độc cư, sống trầm lặng, sống một mình, còn phải tu tập Chánh niệm tỉnh giác định, Định vô lậu, Định sáng suốt... Cho nên chúng ta không bước vào lộ trình của người tu sĩ thì thôi, mà đã bước vào cái lộ trình của người tu sĩ thì thứ nhất là chúng ta phải thấy hạnh độc cư rất là quan trọng đối với người tu sĩ, bởi vì cuộc sống ngoài đời chúng ta rất thích là ham vui, nói chuyện này, chuyện kia, cười cợt, nói diễu, nói đùa, nói móc, nói máy, nói mỉa mai người này, người nọ, người kia...để cho mình thỏa thích cái tâm vui, cái tâm cô đơn của mình. Nhưng khi mà bước vào cái nẻo xuất gia tu hành rồi thì chúng ta phải thấy những cái mà sống như vậy nó không đúng là cái hạnh của người tu sĩ. Mà phải sống đúng cái hạnh người tu sĩ là phải sống độc cư, sống một mình, sống không nói chuyện với ai, luôn luôn phải ưa thích trầm lặng, phải sống cuộc sống trầm lặng, phải luôn sống cho mình, phải luôn sống để tâm mình hợp nhất đừng bị phân tán các ngoại cảnh, các đối tượng, các hoàn cảnh.

Vì vậy mà chúng ta thường xuyên phải tu tập cái Chánh niệm tỉnh giác định và cái Định vô lậu và phải sống hằng ngày trong cái Định sáng suốt.

Và hằng ngày, muốn sống trong cái Định sáng suốt thì cái người tu sĩ mới bắt đầu qua lộ trình thứ 2, cái lộ trình của người xuất gia đó, thì phải tu tập ở trong cái Chánh niệm tỉnh thức. Mà cái Chánh niệm tỉnh thức thì lấy sự đi kinh hŕnh, lấy việc làm hằng ngày của ḿnh trong lao tác, trong cái lao động đó mà tập trung tâm của mình ở nơi cái hành động để biết cái hành động của mình đang ý tứ làm những công việc cho tỉnh táo, cho sáng suốt và thường phải dùng pháp hướng nhắc cái tâm của mình. Thí dụ như mình đang lặt rau hoặc đang nấu cơm, thì đang lặt rau nói “tôi biết tôi đang lặt rau", và khi lặt rau xong rồi đến giai đoạn nấu cơm thì "tôi biết tôi đang nấu cơm", thỉnh thoảng mình lại nhắc "tôi biết tôi đang nấu cơm". Tập cho cái sức tỉnh thức của mình ở trong cái hành động đó để cho nó luôn luôn nó tỉnh thức, nó không có một niệm vọng tưởng xen vào và cũng không có niệm vô ký quên đi cái hành động của chúng ta.

Đó là cái phần tu Chánh niệm tỉnh thức, thì cái phần đó nó giúp cho chúng ta được ý tứ trong hành động để mà giữ gìn giới hạnh cho nó đừng có vi phạm, đừng có mà phạm phải. Và kế tiếp thì chúng ta phải tu cái Định vô lậu, và cái Định vô lậu thì chúng ta phải thường xuyên đặt cái niệm ở trước mắt của chúng ta, bây giờ chúng ta vẫn là người mới rời khỏi gia đình, tình cảm chúng ta nó còn dính dấp đối với những người thân cho nên mình đặt cái niệm nhân quả đối với người thân như cha mẹ, vợ con, anh em... Thì chúng ta nhìn nó và quán xét cái nhân quả. Nếu không có nhân quả thì làm gì ngày nay chúng ta trở thành con cái hoặc là trở thành cha mẹ của mình. Nếu không có nhân quả thì làm sao những người này họ trở thành vợ con mình được. Có nhân quả một là mình nợ họ, hai là họ nợ mình. Do chỗ đó chúng ta quán xét suy tư, từ đó mới dứt được tình thương yêu một cách rất là vô minh không có sáng suốt. Làm cho cái tâm của chúng ta càng ngày càng lìa xa cái tình thương yêu nhỏ mọn, nó không rộng lớn như cái tâm từ bi của Phật dạy.

Muốn được vậy thì hằng ngày chúng ta đặt cái niệm lòng thương yêu của chúng ta đối với gia đình, đối với những người thân, chúng ta phải quán xét nó bằng đường lối của Nhân quả. Bằng những cái nợ, hoặc là mình nợ họ, hoặc là họ nợ mình. Cho nên đây là một sự vay trả, một sự đòi hỏi để trả nợ với nhau trong hiện kiếp này, mà cái đời kiếp kia là con nợ với nhau mình nợ họ, họ nợ mình. Do như vậy chúng ta mới dứt được những cái điều thương (BBT:CĐ,01B,E00:46:12)… 

BĂNG SỐ 02

(BBT:CĐ,02B,B00:00:00)

Do đó chúng ta mới dứt được, nó mới không còn trói buộc chúng ta được. Do đó chúng ta mới yên tâm giữ gìn Giới Hạnh, để chúng ta ly dục, ly ác pháp. Nhờ thế, chúng ta mơi ngồi lại tu cái Định Sáng Suốt. Vậy thầy sẽ đọc cho quý thầy nghe bài kệ Nhất Dạ Hiền.
Bây giờ thầy đọc bài kệ: (BBT:BN,01,B00:56:51)

Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Chỉ có Pháp hiện tại
Chánh Niệm Tỉnh Giác đây
Tuệ tri quán Vô Lậu
Không động, không rung chuyển
Biết vậy nên tu tập
Hôm nay nhiệt tâm làm
Đêm ngày không mỏi mệt
Xứng gọi Nhất Dạ Hiền
Luôn luôn sống trầm lặng

Đó là một bài kệ mà thầy nhắn nhủ quý thầy, trầm lặng đó là độc cư đó, sống một mình mình, sống trong cái trạng thái tâm hồn trầm lặng, đừng có lăng xăng, đừng có nhôn nhao ở trong cái tâm của mình. Và cái sự tu tập thì ở đây chỉ rõ đó là hai cái Định: Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và cái định Vô Lậu Định. Cho nên hai câu kệ này để hàng ngày hàng đêm quí vị cố gắng mà tu tập trong hiện giờ, chớ không phải tu tập cái hơi thở, mà hãy tu tập hai cái định này trước. Vì cái bước đầu tu theo Đạo Phật, không phải đi vào cái Định mà phải đi vào cái sức Tĩnh Giác, chớ không phải là cái Định

(Missing)

(BBT:CĐ,02B,E00:37:06)

(BBT:CĐ,02B,B00:37:07)Xưa Phật thuyết pháp 49 năm, hơn 300 hội, không lường diệu nghĩa nhưng không ngoài Giới Định Huệ. Vì có giữ Giới tâm mới Định, tâm có Định mới phát sinh trí Huệ.Như thế, Giới là căn bản thành Phật, tác Tổ. Nghĩa là, Giới là căn bản để làm cho chúng ta thành được Phật và làm được Tổ sau này. Giới có công năng như chiếc bè báu đưa người qua biển khổ. Ở đây người ta ví dụ Giới luật như là chiếc bè mà đưa chúng ta qua biển khổ(BBT:BN,01,E01:33:39). (BBT:BN,02,00:00:21)Nhưng theo Thầy thiết nghĩ, ở đây cái Giới luật là hàng rào đầu tiên để ngăn, làm cho chúng ta không vượt qua hàng rào của Giới này để cho chúng ta không phạm phải những cái ác pháp. Đó là phải hiểu cái giai đoạn đầu. Và giai đoạn kế là chúng ta đã đắc được Giới, đã thành tựu được Giới, đã chứng lý được Giới thì đó là công năng như chiếc bè báu đưa người qua biển khổ.

Giới là cửa ngõ vào Niết bàn, tức là người nào muốn vào cảnh giới được giải thoát hoàn toàn thì phải lấy Giới, phải đi ngang qua cửa ngõ Giới. Mà cái người nào muốn vào được cảnh giới được giải thoát hoàn toàn mà không đi ngang qua cửa ngõ Giới thì không bao giờ mà vào được cảnh giới Niết bàn. Cho nên ở đây ví nó Giới là cửa ngõ vào Niết bàn. Cho nên quý vị đến với đạo Phật là đi tìm sự giải thoát chớ không phải đi tìm danh, tìm lợi trong đó. Mà tìm giải thoát tức là Niết bàn. Mà muốn tìm giải thoát dù muốn dù không quý vị vẫn phải đi vào cửa ngõ này. Nếu quý vị không đi vào cửa ngõ này thì quý vị sẽ không đi vào Niết bàn được, dù là quý vị có lý luận, có những cái cao siêu hơn, lý luận siêu việt hơn nhưng quý vị không đi vào cửa ngõ này thì chắc chắn là quý vị không được giải thoát, không có Niết bàn trong tâm của quý vị được.

Vì Giới là biệt giải thoát, nghĩa là riêng ta giữ một giới nào cũng được giải thoát cả. Khi chúng ta đến với Giới dù chúng ta tu tập hay là lấy một cái Giới đó mà chúng ta giữ gìn thân và tâm của mình không cho phạm vào giới đó thì chúng ta được giải thoát ngay liền chứ không phải đợi đến thời gian nào cả. Cho nên Giới đem lại sự giải thoát cho quý vị, rất là cụ thể, hơn tất cả. Thí dụ như bây giờ quý vị giữ gìn cái giới sát sanh, quý vị không có giết hại chúng sanh thì ngay đó quý vị thấy tâm hồn của mình không có làm đau khổ người khác nên quý vị không sợ sự đau khổ nơi chính bản thân của quý vị. Đó là một sự giải thoát thật sự và cụ thể.

Giới luật còn là Đạo pháp còn. Giới luật mà còn hiện tiền thì đạo Phật sẽ còn, mà Giới luật mất, nghĩa là nhìn chung tu sĩ mà phạm giới thì đương nhiên chúng ta xem như là đạo Phật mất. Chứ không phải thấy sắc áo của những tu sĩ còn mà cho rằng đạo Phật còn đâu, mà đạo Phật đã mất rồi. Còn mỗi vị tu sĩ đều giữ gìn giới luật nghiêm túc thì đạo Phật hưng thịnh, đạo Phật còn mãi với thế gian. Còn nếu tu sĩ mà chỉ còn 1, 2 người tu sĩ giữ gìn giới thì đạo Phật còn duy trì chứ chưa có phát triển cao được. Ngày nào chư tăng còn Bố tát tụng giới là đạo Pháp còn thịnh, cho nên mỗi tháng 2 kỳ Bố tát là ngày rằm và 30, nếu tháng thiếu thì 29 để nhắc lại giới mình đã lãnh thọ.

Thường xuyên trong hàng tu sĩ phải tụng giới, nhưng hầu hết là người ta tụng để mà tụng chứ sống thì người ta không sống. Do tụng giới mà không sống thì không đúng, mà tụng giới là để nhắc nhở chúng ta mà thôi, chứ không phải tụng giới để mà có hình thức tụng. Hầu hết giờ chúng ta nhìn lại, tụng giới thì có mà phạm giới thì không có ai nghĩ đến cái chỗ phạm giới, mà họ chỉ nghĩ đến đời sống thế gian cho nên toàn bộ giới tụng là có tụng chứ không sống đúng Giới luật của Đức Phật. Vì tụng giới là để kiểm điểm lại nửa tháng vừa qua mình có phạm phải một điều nào hay không? Để làm gì? Để xin ăn năn sám hối cho thanh tịnh.

Lẽ ra thì chiều 14 và 29 phải sám hối trước một vị tỳ kheo thượng thủ, tức là một vị tỳ kheo đắc giới thanh tịnh, thì mỗi vị đều phải đến với 1 vị tỳ kheo giới luật thanh tịnh và đắc giới đó mình phải xin phát lồ sám hối với vị đó trước, rồi sau đó thì tới ngày rằm, ngày 30 tụng giới thì mới đúng nghĩa. Còn ngày rằm và ngày 30 mà tụng giới là để nhắc nhở mình mà thôi. Còn sám hối là vị nào thấy mình trong nửa tháng có bị lầm lỗi với phạm một lỗi nhỏ nào đó, thì ngày 14 và ngày 29 chứ không phải là mình phạm lỗi rồi mình chạy lại mình xin sám hối liền đâu. Mình để suốt trong cái thời gian phạm lỗi đó mình ăn năn, mình suy tư, mình quán xét để cho mình cố gắng, mình khắc phục để không cho phạm cái lỗi đó nữa. Và đến ngày 14, ngày 29 mỗi tháng mình sẽ đến cái vị giới luật thanh tịnh, mình quỳ xuống, mình phát lồ, tức là mình khai ra những cái lỗi của mình cho vị ấy nghe, rồi mình xin với vị đó, mình hứa khả mình sẽ cố gắng khắc phục không cho phạm phải lỗi ấy nữa. Thì vị tỳ kheo mà giới luật thanh tịnh này hoan hỷ chấp nhận và hứa khả cho mình được sám hối ăn năn cái lỗi đó. Và vị khuyên mình những lời khuyên giúp cho mình càng ngày càng tiến tu hơn, càng giữ gìn giới luật nghiêm túc hơn. Những vị tỳ kheo giới luật thanh tịnh này có đầy đủ uy lực của họ trong giới luật cho nên lời khuyên của họ làm chúng ta không bao giờ còn phạm phải cái lỗi đó nữa. Còn nếu mà không được bậc tỳ kheo thanh tịnh giới như vậy thì chúng ta khó mà khắc phục được những lỗi nhỏ trong giới luật của Phật.

Ngày xưa người ta tụng giới bằng chữ Tàu, tức là tiếng Hán đó, vì lúc bấy giờ tu sĩ của chúng ta thời trước thì họ giỏi tiếng Hán. Còn bây giờ mà đọc tụng bằng tiếng Hán thì tu sĩ của chúng ta không có hiểu, do vì vậy mà các bậc tiền bối của chúng ta, tức là các bậc hòa thượng của chúng ta cũng hiểu biết chỗ đó cho nên họ dịch ra tiếng Việt để khi tụng chúng ta hiểu ngay liền cái nghĩa. Mà không còn phải ngồi đó mà không hiểu, thì tức là nghe tụng giới mà không hiểu thì chúng ta sẽ ngủ gục đi. Khi mà ngồi nghe giới không có nghĩa là ngồi đó mà nhiếp tâm ở trong thiền định, hoặc là nhiếp tâm ở trong câu niệm Phật, mà phải nghe, nghe và hiểu rất rõ những giới luật của Phật để xem coi mình có phạm cái tội nào trong giới luật đó. Chớ không phải ngồi khi mà nghe người ta đọc giới mà mình ngồi đó mình nghe với cái tâm nhiếp không cho nó ra khỏi hơi thở, cũng không cho tâm hiểu biết cái gì mà giới luật hết, luôn luôn hoặc là niệm Phật, hoặc là lần chuỗi thì cái điều đó là điều sai, không đúng. Vì trong giờ tụng giới để mà chúng ta nghe từng giới coi chúng ta có phạm phải những lỗi nào, và đồng thời càng nghe nhiều giới chúng ta mới thấm nhuần được cái giới luật của Phật.

Vì sao Phật chế Giới?(BBT:CĐ,02B,E00:46:38)

1.(BBT:CĐ,02A,B00:00:00) Vì các Thánh Tăng sợ về sau chư tăng sanh tội lỗi.

Nghĩa là trong thời của đức Phật, có một thời tất cả chư Tăng không có phạm Giới. Sau này thì chư Tăng phạm Giới do đó Phật mới chế Giới. Mà nếu không có Giới thì không có sự kềm thúc cho nên họ dễ bị phạm giới. 

2. Vì các Tỳ kheo bị phạm tội nên Phật tùy cơ mà chế Giới.

Mỗi khi muốn kiết một Giới nào, trước hết Ngài quở trách người phạm giới rằng: Việc ông làm là quấy, không phải oai nghi, không phải sa môn, không phải tịnh hạnh, không phải hạnh tùy thuận, ông không nên làm như thế. Từ nay về sau các Tỳ kheo kiết giới gồm đủ 10 nghĩa như sau. Nghĩa là cái sự kiết giới đó nó giúp cho giáo đoàn như thế nào thì nó có 10 điều kiện của nó như thế này:

          1. là chỉnh đốn chư Tăng.

          2. khiến cho chư Tăng hoan hỷ.

          3. khiến cho chư Tăng an lạc.

          4. khiến cho người chưa tin sanh lòng tin ở Giới.

          5. người đã tin khiến cho tăng trưởng lòng tin hơn thêm.

6. điều phục người khó điều phục.

Nghĩa là lấy giới mà điều phục người, tức là cái người mà hay còn phạm giới, tâm còn phóng dật, lăng xăng theo dục lạc thế gian, khi mà được kiết giới thì điều phục được họ, họ bỏ những cái tâm phóng dật đó.

          7. người biết xấu hổ được an lạc.

Nghĩa là giúp cho cái người chưa biết xấu hổ, chưa biết tàm quý đó, chưa biết sợ hãi lỗi nhỏ họ sẽ biết sợ hãi và biết xấu hổ. Cho nên từ đó họ sẽ được an lạc.

          8. đoạn nghiệp hữu lậu đời hiện tại

Nghĩa là cái người biết giữ gìn giới luật là họ đã đoạn dứt được cái nghiệp hữu lậu ngay trong cuộc sống của họ hiện tại. Nghĩa là cái người giữ gìn giới luật thì trong hiện tại họ không tạo ra lậu hoặc mới. Cho nên họ sống được yên ổn, được thanh tịnh. 

          9. đoạn nghiệp hữu lậu đời vị lai

Nghĩa là cái người giữ gìn giới luật nghiêm túc không bị vi phạm, thì cái lậu hoặc của đời vị lai, tức là đời kế tới không còn có nữa. Gọi là đoạn dứt cái nghiệp hữu lậu đó.

          10. khiến chánh pháp được cửu trụ

Nếu mà 10 điều này mà người tu sĩ giữ gìn trọn vẹn thì Phật pháp sẽ mãi mãi trường tồn, cửu trụ, không có bao giờ mà mất.

Giới tướng của Tỳ kheo có 250 điều, Tỳ kheo ni có 348 điều. Bắt đầu từ vườn Lộc Uyển cho đến cuối cùng nơi Hạc Thọ, Phật đã từ kim khẩu, tức là cái miệng của Phật nói ra, trong trạng thái tịch tĩnh, thấy xa ba đời, cùng vô biên hữu tình xoay quay 3 cõi, với lòng từ bi vô lượng, Ngài đã xây dựng nền tảng giáo pháp rất kiên cố. Nghĩa là Ngài đặt ra 250 giới, 348 giới, là nền tảng Giới luật rất kiên cố cho tu sĩ của chúng ta đời sau. Dù trải qua bao thời gian vô cùng, không gian vô tận, Giới pháp này vẫn có giá trị tối thượng và dẫn đầu cho các hành giả tiến bước vững chắc trên giác lộ giải thoát. Đó là các nhân duyên. (...)

Bây giờ phần mà kiết giới Baladi 

Quý vị nhớ ghi kỹ đây là cái phần mà đức Phật đã kiết cái giới. Bắt đầu cái giới thứ nhất, quý vị nhớ cái giới thứ nhất, giới thứ nhất là giới hạnh bất tịnh.

Nghĩa là cái hành động làm cho không thanh tịnh. Vậy thì cái hành động làm cho không thanh tịnh này như thế nào? Đây Phật sẽ giải thích cho chúng ta thấy, và cái trường hợp nó xảy ra như thế nào mà Đức Phật chế cái giới này. Vì sao Phật kiết giới này? Vì khi Phật thành đạo, giáo hóa trong 12 năm đầu chúng tăng đều thanh tịnh. Nghĩa là 12 năm đầu đức Phật không có kiết giới, là vì những người tu trong 12 năm đầu đó là những người rất là thanh tịnh, họ không phạm những lỗi lầm, họ luôn luôn dùng thánh phòng hộ 6 căn của họ. Mắt họ, mũi họ, tai họ, tất cả 6 cái căn đó họ đều phòng hộ rất là nghiêm túc. Cho nên họ không phạm phải một cái lỗi nào cả. Vì vậy mà Phật không chế giới. Cho nên Phật cùng vô sự tăng. Đến năm thứ 13 trở đi, các pháp hữu lậu, phiền não lậu hoặc sanh khởi dần dần nơi chúng tăng nên Ngài mới tùy theo chỗ vi phạm mà kiết giới. Bởi vì 12 năm đầu là tất cả những bậc tu hành trong rừng trong núi, họ xả bỏ cái tâm thế gian của họ, họ xả thật sạch, không phải như chúng ta vừa tu mà đời thì chưa chịu bỏ, mà đạo thì muốn tu thêm. Cho nên chúng ta xét thấy qua đến năm thứ 13 đó thì người ta thấy đạo Phật rất là vi diệu, cho nên người ta có theo đạo Phật tu rất nhiều trong năm thứ 13. Do sự tu tập quá nhiều này, cho nên có những người chưa có hiểu biết sâu sắc, chưa có bỏ sạch cuộc đời, cho nên đời vẫn còn mà đạo thì muốn thêm. Vì vậy mà họ bị phạm phải những lỗi lầm, sai phạm làm mất thân tâm thanh tịnh. Do cái chỗ đó mà Phật mới kiết giới.

Ngài Anan bạch hỏi: Tại sao 12 năm đầu Phật không kiết giới, đến năm thứ 13 Ngài mới kiết giới?

Phật bảo: 12 năm đầu Ta không kiết giới, vì chúng tăng còn thanh tịnh, ví như cái áo còn lành lẽ. Nhưng qua năm thứ 13 trở đi Ta mới kiết giới là vì chúng tăng vọng động, thường sanh tội lỗi ví như cái áo bị rách cần phải vá cho lành.

Không phải chư Tăng theo đức Phật một thời gian tu tập rồi nó sanh vọng động, không phải đâu. Cái lý do, cái chỗ mà người viết bài này chắc có lẽ là chưa hiểu. Theo Thầy hiểu là vì sau 13 năm đó, là cái số tu sĩ mà xa lìa tâm thế gian thì nó không còn nữa. Bởi vì các bậc đó người ta đã quy tụ với đức Phật người ta tu, cho nên người ta được thanh tịnh tâm, từ đó người ta tu nhanh chóng, người ta nhập định rất dễ dàng. Sau 13 năm này thì người ta thấy đạo Phật phát triển, ai cũng tôn trọng, tôn kính đạo Phật cho nên có một số người ham tu theo đạo Phật nhưng họ không ý thức được do cái chỗ tu tập đó họ chưa có lìa bỏ cái giai đoạn thứ nhất như Thầy đã thấy trong giáo án. Vì thế mà Phật ghi cái giáo án này rất kỹ lưỡng, rất là rõ ràng qua những bài kinh mà Thầy thấy tuyệt diệu. 

Có hiểu được như vậy chúng ta mới thấy 13 năm sau này có một số người theo Phật tu hành mà đời thì chưa bỏ, mà đạo thì muốn thêm, cho nên nó mới có những sự xảy ra phạm Giới. Vì vậy mà bắt đầu Phật mới chế giới. Khi bấy giờ có ông Tu Đề Na, con ông trưởng giả Hảo Tâm xuất gia, bà mẹ muốn cho có cháu nối dòng, bảo ông Tu Đề Na trở về với vợ 3 hôm. Ông Tu Đề Na không dám cãi lời mẹ, trở về nhà, làm như lời mẹ dạy. Khi đó lại có người con ông Bạc Xà, dục tâm bồng bột lén về nhà ở với vợ. Các tỳ kheo hay biết bạch Phật. Phật kêu cả 2 đến quở trách nói rằng: thà để nam căn vào miệng rắn độc mà chết chớ không nên phạm bất tịnh hạnh như vậy. Người nào theo đạo giải thoát của Ta phải luôn luôn nghĩ dục như là xương khô, nghĩa là cái xương khô mà con chó gặm, nước miếng nó chảy ra mà nó cho đó là ngon, chớ không có cái gì là ngon cả. Nếu có tỳ kheo nào không giữ tịnh hạnh nữa được ta cho xả giới về nhà, chừng nào muốn xuất gia tu tịnh hạnh ta sẽ cho thọ giới lại.

Đó là lời đức Phật dạy 2 tỳ kheo phạm giới. Một người thì do cái tâm còn dục mà về nhà lén ở với vợ con, một người thì do mẹ ép bảo là phải sinh con nối dòng rồi mới được đi tu. Thì 2 người đều không được đức Phật chấp nhận, đều cho sai hết. Chớ không phải do cái chỗ cho rằng bà mẹ bắt buộc mà cho cái chỗ đó đúng. Cho nên trong giới luật này, những câu chuyện như vậy chúng ta cần phải hiểu cho rõ, để chúng ta biết được cái chỗ chúng ta có làm chủ hay không?

Một vị thì không làm chủ trở về làm cái hạnh bất tịnh. Còn một người thì có cái sức làm chủ, nhưng vì không dám cãi lời mẹ, gọi là hiếu hạnh để nối dõi tông đường của mình, đối với đạo Phật thì điều đó là điều sai. Nhưng đối với một tôn giáo khác thì đó là hiếu hạnh, nhưng đối với đạo Phật thì đó không phải là hiếu hạnh. Cho nên ở đây Phật mới quở hai vị đó, chứ mà nếu vị kia mà đã hiếu hạnh mà đức Phật cho đúng thì chắc chắn là không quở. Nhưng đằng này Phật quở hai vị cả hết.

Trong giới này có câu: cho đến cùng súc sanh, có nhân duyên như thế này: khi bấy giờ có các tỳ kheo khất thực đi ngang qua cụm rừng, gặp một con khỉ cái to, nó ra dáng khiêu chọc. Tỳ kheo nhận biết rằng trước chắc có 1 tỳ kheo nào chung cùng giao thông với nó. Nên các thầy tỳ kheo về bạch Phật, Phật cho họp chúng và kiết giới này. Cho nên trong luật Phật cấm tỳ kheo không được ở chung nhau trong 1 nhà, ở chung với 1 người nữ, không hạn già hay là bé nhỏ, hay là một con súc cái, 1 con vật cái. Nghĩa là một vị tu sĩ không được ở chung một người nam với một người nam, cũng như một người nữ với một người nam, cũng như không có phân biệt người đó già tôi còn nhỏ hay người đó còn bé mà tôi là già thì không được, Đức Phật cấm. Bởi vì già vẫn còn bất tịnh hạnh, mà trẻ cũng bất tịnh hạnh. Và ở chung với một con súc vật cái nó cũng khởi sanh tâm dâm dục. Cho nên Đức Phật cấm không được ở chung với con vật cái, không được ở chung với người nữ, không được ở chung với người già nữ, không được ở chung với người gái bé nhỏ nữ. Đó là giới luật của đức Phật cấm như vậy, vì nó có những trường hợp xảy ra mà chúng tỳ kheo đã trình cho Phật, do đó Phật mới chế cái giới như vậy.

Tỳ kheo ở chỗ vắng một mình cũng dễ phạm giới. Trong khi chúng ta thường thường là những vị tỳ kheo ngày xưa hay ở trong rừng núi, những chỗ thanh vắng một mình mà nhất là ở chỗ thanh vắng một mình mà không có một vài vị cùng ở với nhau thì chúng ta dễ phạm giới này lắm. Cho nên đối với một tỳ kheo tăng cũng như một tỳ kheo ni, nói chung là một vị tu sĩ nữ và một vị tu sĩ nam đều là phải có ở chung nhau nhưng không được ở chung nhau trong một nhà. Mà ở riêng ra, ở chung nhau ít ra cũng có từ 2 người chứ không thể nào ở một mình. Vì ở một mình dễ phạm phải giới dâm này. 

Xưa có một vị tỳ kheo tu trong núi, lúc ngồi nhập định, ma hiện một người nữ đẹp đến gần bên tỳ kheo ấy, tỳ kheo liền xuất định đứng dậy, người nữ dang ra đi, nàng đi mau dần thì tỳ kheo cũng đi mau dần, nàng chạy tỳ kheo cũng chạy theo. Người nữ hóa ra con ngựa cái nằm chết, tỳ kheo ấy không ngăn lòng dục, bị phạm giới. Cho nên tu ở chỗ vắng cần phải 2 người nhắc bảo nhau mới được.

Cho nên đời sống của quý vị, giới luật mà được đặt ra, thì quý vị phải hiểu rằng cái người cất thất ở một mình dễ dàng tu hành chứ thật ra rất là nguy hiểm. Vì ở một mình tu hành thì mình khó mà có thể ngăn ngừa được cái phạm giới bất tịnh hạnh này. Nhưng tu hai người cũng chưa chắc, còn có khi còn phạm giới. Như xưa có 2 vị tỳ kheo tu trong núi, 1 vị nằm ngủ trưa, một vị ra ngoài rừng. Một vị ngủ trưa vì ngủ mê, tiều nữ lén làm bậy, tiều nữ tức là người nữ đi chặt đốn củi. Vị ra ngoài về thấy liền đuổi đi, tiều nữ hoảng chạy mà bị rơi xuống hố mà chết. Ngài Upali cứ theo luật mà kết tội, một vị phạm giới dâm, một vị phạm giới sát. Ở đây câu chuyện này ở trong kinh Duy Ma Cật, cho nên câu chuyện này nói như vậy. Theo đúng lẽ thì chúng ta thấy nó không hợp, không đúng, nhưng mà trong kinh giới lại đem cái câu chuyện này ra cho nên buộc lòng Thầy phải giải thích để cho quý thầy hiểu. Khi một vị mà nằm ngủ trưa mà một người tiều nữ đến lén làm cái việc bất tịnh hạnh đó thì chắc chắn là cái ông này phải thức chứ không thể ngủ. Và cái tâm của người tu sĩ này vẫn còn đắm trong cái dục lạc của cái dâm này chứ không phải không. Cho nên 2 người này mới làm bậy. Vì vậy vị đi ra rừng (như đi kinh hành) về mới gặp thấy thì cô này cô hoảng sợ cô chạy đi, vì quá sợ mà rớt hố mà chết. Thì theo cái luật sát sanh thì đâu phải cái vị tu sĩ ở ngoài rừng kia mà đuổi theo cái vị này. Nhưng mà vị này là hoảng sợ chạy và cái vị kia là phải phạm vào cái tội dâm và đồng lõa với tiều nữ đó chứ không phải không đồng lõa. Vì nếu mà ngủ mê làm sao dâm dục được. Cho nên phải có một sự đồng tình ở trong đó mới có làm bậy. Nhưng mà khi làm bậy thì cái vị này, vị đi về, thấy, thì cái cô tiều nữ này phải sợ mà chạy, chạy mà rớt chứ không lý nào mà cái vị tu sĩ này lại đuổi theo cái tiều nữ này, thì cái điều đó là không đúng. Là vì thấy giữa hai người này, cái người tu sĩ này họ vẫn thấy hai người phạm chứ không phải một người. Đó là một cái điều mà trong kinh viết câu chuyện này, theo Thầy thiết nghĩ nó không là một sự thật, chỉ là câu chuyện tưởng tượng nghĩ ra mà thôi. Cho nên ở đây chúng ta phải lấy một cái gì bằng sự thật nói ra, thì cái giới dâm này nếu một người không phạm dâm thì không ai làm gì mình được hết, dù là mình chết thì không ai mà vô tình mà bắt mình làm cái chuyện đó được.

Tại sao tỳ kheo để giới dâm ban đầu còn sa di để giới bất sát trước hết? Chúng ta thấy sa di thập giới, thì giới bất sát là trước hết mà giới dâm thì sau chứ không trước. Mà tại sao khi học về giới của tỳ kheo thì giới dâm lại trước. Ở đây, cái sự giải thích rất là đúng. Tỳ kheo vì tuổi vọng tâm thường phát khởi, tức là tỳ kheo phải 20 tuổi mới thọ giới tỳ kheo, cho nên cái tuổi đó thường là tuổi vọng tâm thường phát khởi, nên cái giới dâm là phải đứng đầu. Còn sa di thì tuổi trẻ ưa thích sát sanh, hay bắt bướm bắt chim, hay giết sâu giết bọ, giết kiến, cho nên giới sát phải để cho tuổi sa di.

Thấy như vậy là chúng ta biết Phật có một cái tâm lý mà chế giới rất cụ thể và rõ ràng chớ không phải như câu chuyện ở trong kinh Duy Ma Cật, mơ hồ, một cách rất là mơ hồ. Một tiều nữ đến hiếp dâm một vị tu sĩ đang ngủ mà vị tu sĩ không biết à? Điều đó là điều không thể nói được. Do tư duy của chúng ta thì chúng ta thấy những câu chuyện như vậy là câu chuyện không đúng sự thật. Còn ở đây Phật chế giới tỳ kheo, giới dâm thì đi đầu, mà cái giới cho sa di là giới sát đi đầu thì chúng ta thấy rất hợp tâm lý của từng người một, như vậy là chúng ta biết Phật có một hiểu biết về tâm lý con người rất là sâu sắc, đó là đúng sự thật.

Vì sao không được ở chung? Vì tỳ kheo phạm giới dâm như người thế tục nên không được ở chung, bị dứt bỏ ngoài bể Phật pháp. Nghĩa là cái người mà phạm cái giới đó rồi thì đương nhiên là phải bị đứt đầu, bị bỏ ra ngoài không có cho tu học nữa được. 

Nếu chúng sinh trong 6 đường tâm không dâm thì không theo sinh tử nối nhau. Nếu chúng ta mà tâm không ham dâm thì chắc chắn là sinh tử chúng ta đoạn dứt. Mà vì cái tâm dâm dục đó là con đường sanh tử của con người, của loài chúng sanh. Người tu chánh định muốn ra khỏi trần lao nếu tâm dâm không chừa thì trần lao không thể ra khỏi được. “Dâm tâm bất trừ trần bất khả xuất”. Dù có nhiều trí tuệ thiền định hiện tiền nếu không đoạn dâm quyết lạc đường ma. Thế nên người tu hành muốn chứng thành đạo quả mà không đoạn trừ tâm dâm thì như người lấy cát, sạn mà nấu cơm thì làm sao mà thành cơm được. Dù ra công nấu một trăm năm nấu cũng không thành cơm, cát sạn cũng hoàn cát sạn, vì nhân nào quả nấy. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy ông Anan: “ Xuất gia giã huyễn đoạn trừ dâm dục, tất sử trừ dâm cơ, thân tâm câu đoạn, đoạn tánh diệt vô, bồ đề diệt khả hy kí”. Nghĩa là người xuất gia phải nguyện đoạn trừ dâm dục ắt phải trừ duyên dâm, thân tâm đều dứt cho đến tánh biết dứt tâm ấy cũng không còn thì quả Phật mới có thể trông mong được.

Thân tâm câu đoạn là sao? Ví như 2 ông già nằm chung 1 giường, không ai chạm ai và cũng không ai động tâm cả. Giới này có đủ 4 duyên mới thành tội.

   1. Chơn thật tỳ kheo (theo giới pháp mà đã được đắc thì mới được gọi là chơn thật tỳ kheo).

   2. Tình cảm đôi bên còn nguyên vẹn, người và súc sanh còn chưa hư nát.

Nghĩa là cái người tuổi trẻ mà chưa có bất tịnh lần nào đối với người nữ, nó còn nguyên vẹn, thì sự tu hành nó mới tốt. Còn nó chưa nguyên vẹn thì phải cố gắng đừng phạm phải nữa thì nó mới tốt.

  3. Để vào nữ căn quá đầu sợi lông.

  4. Tâm biết thọ vui như đói gặp thức ăn, như khát gặp nước uống. Trái lại thì như ăn phẩn nhơ, như tắm sắt nóng áp vào mình…

Ở đây 4 cái duyên này nếu mà chúng ta phạm phải một cái. Ví như bây giờ chơn thật tỳ kheo, mà chúng ta chưa phải là chơn thật tỳ kheo thì coi chừng chúng ta sẽ phạm phải cái giới này. Tình cảm đôi bên còn nguyên vẹn, nghĩa là chúng ta chưa có cái gì hết mà chúng ta để cho nó phạm phải thì chúng ta không thể thoát khỏi cái tội Ba la di. Để vào nữ căn quá đầu sợi lông sợi, nghĩa là chúng ta thấy cái cọng lông rất là nhỏ thế mà chúng ta để nam căn vào nữ căn mà chỉ quá cái sợi lông thì chúng ta cũng phạm giới này rồi chứ chưa phải là cái gì. Tâm mà thích thú ở trong cái sự giao hợp đó thì người đó phạm phải giới Ba la di rồi. Nghĩa là nói về cái hành động thì không quá cái đầu sợi lông, mà nói về tâm thì không được vui theo cái dục lạc của cái dâm dục đó thì mới không có phạm tội Ba la di.

Cho nên tâm mà chơn thật mà đắc giới thì không phạm phải cái tội này thì nó không phạm tội Ba la di. Còn tình cảm đôi bên giữ trọn nguyên vẹn thì không phạm cái tội Ba la di. Mà không trọn vẹn trong tình cảm, mới bắt đầu trẻ tuổi cũng như một người mới bước đầu vào đạo tu hành phải giữ trọn vẹn cho bước đường tu hành của mình. Tâm phải nguyên vẹn, khi bắt đầu vào đạo thì không được còn phạm phải cái lỗi đó nữa. Mà nếu còn phạm phải cái lỗi đó thì đương nhiên được xem là phạm vào cái tội Ba la di. Mà cái tội Ba la di là cái tội không thể cứu chữa được vì con đường của đạo Phật là con đường diệt dục. Diệt cái tâm dâm dục chứ không phải là tà dâm đâu. Bởi vì một người tu sĩ mà còn có tâm dâm dục là còn tái sanh luân hồi. Vì con đường sanh tử là con đường dâm dục chứ không phải con đường nào xa lạ. Cho nên người tu sĩ theo đạo Phật rất cẩn thận ở trên con đường dâm dục này. Phải tránh xa, phải lìa nó. 

Cho nên, do đó mà ông Anan hỏi Phật: chúng con là những tu sĩ trẻ tuổi đối với giới nữ chúng con phải làm sao? 

Thì ông Phật dạy, bảo: đừng gặp.

Quý thầy nhớ: đừng gặp. Nếu mà gặp thì chúng ta nó sẽ có sự cám dỗ chúng ta.

Cho nên trong kinh Tăng Chi, Phật nói: Ta không thấy một pháp nào cám dỗ và lôi cuốn hấp dẫn mạnh bằng cái sắc của người nữ, bằng cái âm thanh, bằng cái tiếng nói, bằng cái miệng cười của người nữNó hấp dẫn, nó lôi cuốn chúng ta rất mạnh. Không có pháp nào mà mạnh hơn.

Cho nên ông Anan hỏi Phật, Phật nói đừng gặp thì ông Anan hỏi thêm Phật. Lỡ gặp rồi thì làm sao?

Phật nói: đừng nhìn.

Lỡ mình đã gặp thì đừng có nhìn nó.

Ông Anan nói: lỡ nhìn thì làm sao?

Phật nói: đừng nói.

Đừng nói chuyện với nó.

Ông Anan nói: lỡ nói chuyện thì làm sao?

Đức Phật nói:Hãy quán nó như là mẹ, là chị, như là những người thân ruột thịt của mình.

Thì vua Ba Tư Nặc nói: như quý thầy thì quán như vậy được, còn chúng con là cư sỹ chúng con có mẹ, có chị, có em chúng con quán làm sao như vậy được. Họ là những người xa lạ.

Cho nên đức Phật nói: quán bất tịnh.

Thì quý thầy phải hiểu rằng cái không gặp nó quý nhất cho quý thầy, chứ cái quý thầy quán mẹ chị em và bất tịnh đó là trễ quá rồi. Bệnh quý vị đã trầm kha rồi, không thể cứu chữa được. 

Vậy thì không gặp thì quý vị có nên sống độc cư ở chỗ nào không? 

Cho nên quý vị phải sống độc cư.

Vì vậy mà Thầy ở đây có giới luật nòng cốt của Tu viện là sống độc cư. Không cho quý vị đi tới đi lui, không cho quý vị nói chuyện để cho quý vị tránh xa những điều kiện mà quý vị có thể gặp.

Ở đây Tu viện quá là hẹp cho nên Thầy không có những cơ sở riêng tư được, chứ lẽ ra thì Thầy phải thành lập những cơ sở riêng tư. Để làm gì? Để nam theo nam, mà nữ theo nữ.

Vì những hình ảnh của người nữ dễ cám dỗ tâm của quý vị. Mặc dù một người già dù 80 tuổi cái tâm đó vẫn còn chứ không phải nói tui già rồi tui hết. Nó vẫn còn như một người tuổi trẻ. Cơ thể họ có thể suy yếu chớ còn cái tâm họ không suy yếu. Thầy xác định như vậy là qua nhiều kinh nghiệm của kinh sách đã nói đến cái tâm dục của người dù họ già đến mức tuổi nào họ vẫn còn dâm dục.

Nếu người phạm mà có lòng tin giới, sợ hãi, không che dấu, buồn rơi huyết lệ. Nghĩa là người phạm vào giới đó mà buồn khổ mà rơi đến máu, nước mắt mà như máu đó thì cái người này có thể ăn năn, có thể chừa cái lỗi Ba la di này được. Còn cái người mà không thấy buồn khổ, không thấy gì hết, mà che dấu thì cái người này hoàn toàn là phải ra khỏi tăng đoàn, ra khỏi giáo đoàn chứ không thể ở chung chỗ chư Tăng thanh tịnh mà tu hành được.

Cái người mà biết buồn khổ rơi huyết lệ như vậy đó thì có thể trong đại chúng, mới có thể cho vị ấy 3 phen cầu khẩn ai sám (tức là buồn khổ mà sám hối, tha thiết mà sám hối, khóc thương mà sám hối) tăng bạch tứ Yết Ma thì mới có tu tập lại được.

Ở trong các pháp Yết Ma khi cho một người phạm giới này biết ăn năn sám hối chừa bỏ như vậy thì nó phải có 35 việc mà người đó phải chấp nhận:

1. Người đó dù là tu sĩ cho đến suốt đời họ, họ không được trao giới cụ túc cho ai hết.

Nghĩa là họ là một người tu sĩ như quý thầy, bây giờ được nghe Thầy mà nói giới, mà quý thầy không hiểu biết quý thầy phạm là quý thầy tội, là quý thầy chịu. Bởi vì quý thầy đến đây là quý thầy quyết tìm con đường giải thoát. Cho nên Thầy mới đem giới này ra mà Thầy giảng cho quý vị, mặc dù quý vị còn chiếc áo người cư sỹ nhưng quý vị đã quyết tìm đến đây để học đạo. Cho nên Thầy đem những giới luật của Phật ra là làm cho quý vị thanh tịnh thân tâm, để cho quý vị không có phạm phải. Mà nếu quý vị thấy rằng mình không thể thanh tịnh thân tâm mình được thì không nên dự nghe những buổi thuyết giảng này. Tại sao vậy? Tại vì mình chưa phải là người quyết tâm đi con đường của đạo giải thoát. Còn mình quyết tâm đi con đường đạo giải thoát thì ngay giới này là giới hoàn toàn là phải cấm bặt, không có được cho vi phạm. Cho nên quý vị mới được nghe giới này và được giữ gìn giới này. Còn nếu không thì quý vị nghe mà quý vị không làm thì đương nhiên là quý vị phải chịu tội lỗi, quý vị đọa địa ngục. Sau này quý vị trôi lăn mãi trong con đường sanh tử luân hồi và không bao giờ gặp lại Chánh Pháp để tu tập. Bởi vì một người hiểu giới luật mà phạm giới luật là tội nặng hơn. Còn một người không hiểu giới luật mà phạm thì người đó coi như không tội.

2. Không được cho người y chỉ.

Nghĩa là không được cho người nào xin theo mình mà tu tập, không được cho người đó y chỉ theo mình được. Nghĩa là có người đến xin mình làm đệ tử, làm học trò mình. Mà mình là người đã phạm giới, mà đã xin chư tăng cho mình để giữ trọn. Thì người tu sĩ đã phạm giới đó sau này không còn y chỉ cho người nào được hết.

3. Không được nuôi sa di.

Nghĩa là không được nuôi những người tuổi trẻ vào tu.

4. Không được giáo giới tỳ kheo ni.

Nghĩa là không được đem giới luật thuyết giảng cho tỳ kheo ni. Bởi vì thành tích của mình, mình nói ra người ta không tin mặc dù mình sám hối, mình sửa mình, mình thanh tịnh rồi nhưng mà mình vẫn còn cái tỳ vết đó cho nên mình không đủ uy tín, lòng tin của người khác. Cho nên mình giáo giới ra là không được. Tức là người được cho ở lại tu sửa mà ăn năn sám hối thì người đó không được đem giới luật hay giáo pháp Phật mà dạy cho người khác, chỉ có lo tu sửa mình mà thôi.

5. Nếu được sai rồi cũng không được dạy.

Nếu được có người sai bởi thấy mình có khả năng giảng thuyết hay hoặc là nói giới giỏi thì ở trong Tăng nếu có người sai mình đi giáo giới, dạy người ta thì mình cũng từ chối ngay liền, không được dạy nữa. Chứ không phải là không được sai.

6. Không được vì Tăng thuyết giới.

Người tu sĩ phạm giới đó bây giờ ăn năn sám hối rồi, trải qua 5 năm 10 năm 20 năm nhưng họ không được thuyết giới cho Tăng.

7. Không được vấn đáp tỳ ni trong tăng.

Nghĩa là không được hỏi giới luật ở trong chúng tăng.

8. Không được làm người tri sự của Tăng.

9. Không được làm người đoán sự của Tăng.

Nghĩa là mọi việc ở trong Tăng đoàn dự định cái này cái kia thì người này không được có ý kiến gì trong Tăng đoàn hết.

10. Không được làm người sứ mạng cho Tăng.

Nghĩa là mình không được sai đi làm thay mặt cho vị Tăng này, vị tăng kia.

11. Không được vào tụ lạc sớm và về tối.

Nghĩa là người tu sĩ này đúng giờ thì đi xin, mà không đúng giờ thì không được đi ngồi lê ngồi la mà nói chuyện với người này người kia thì không được. Mà xin rồi thì về chớ không được mà về tối.

12. Nên gần gũi các tỳ kheo giới luật thanh tịnh.

Cái vị tu sĩ này mà phạm giới này thì luôn luôn sống sát bên cạnh các vị tỳ kheo giới luật thanh tịnh.

13. Không nên gần gũi bạch y.

Tức là người tu sĩ phạm giới này không được gần gũi cư sỹ.

14. Nên thuận theo pháp tỳ kheo.

Nghĩa là luôn luôn thuận theo giới luật của Phật, của các tỳ kheo.

15. Không được nói chuyện của người đời.

Nghĩa là người tu sĩ phạm giới này không được đem chuyện người đời mà nói với người này người kia, tức là chuyện phiếm đó.

16. Không được trong chúng tụng luật.

Người này không được cầm luật mà tụng.

17. Không được phạm lại giới này.

Nghĩa là người này hoàn toàn không được phạm lại giới dâm này nữa.

18. Không được phạm các tội khác.

Nghĩa là tất cả các tội khác không được vi phạm nữa.

19. Không được ngăn chúng tăng Yết Ma.

Nghĩa là khi chúng tăng hợp nhau làm pháp Yết Ma, thì người này có ý kiến như vầy như vầy thì không được mà ngăn chúng tăng. Người ta làm gì thì mình hoàn toàn không có ý kiến gì hết. 

20. Không được chê người làm Yết Ma.

Nghĩa là người làm Yết Ma đó có sai, có trật thì mình cũng không được chê là người đó sai.

21. Không được thọ sự trải tọa cụ cho tỳ kheo thanh tịnh.

Nghĩa là mình không được trải tọa cụ một vị chơn tu.

22. Không được nhận nước rửa tay chân nơi tỳ kheo thanh tịnh.

Nghĩa là một vị tỳ kheo thanh tịnh rửa tay chân rồi, rối mình mới nhận nước đó để rửa tay thì không được.

23. Không được nhận nước uống nơi tỳ kheo thanh tịnh.

Nghĩa là người tỳ kheo thanh tịnh uống xong rồi, nó còn thừa lại thì người kia không được uống nước đó nữa.

24. Không được để tỳ kheo thanh tịnh lau giày guốc.

Nghĩa là cái vị tỳ kheo thanh tịnh giới, mặc dù mình lớn tuổi, mình già nhưng mình có phạm phải lỗi đó, xưa kia mình có phạm phải lỗi đó. Bây giờ có một vị tân tỳ kheo họ mới đến nhưng mà người ta giới luật thanh tịnh, người ta không biết người ta lau giày guốc cho mình, người ta thấy mình già ở trong chúng do đó người ta làm cái công việc đó. Thì ngay đó là mình ngăn không để cho tân tỳ kheo mà chưa bị phạm giới đó lau giày guốc cho mình thì không được.

25. Không được nhận sự thoa chà nơi thân của một tỳ kheo thanh tịnh.

Nghĩa là mình là người già yếu, mình có bệnh đau, mình nhờ người khác cạo gió hoặc chà bóp cho nó bớt đau thì không được nhờ vị tỳ kheo dù vị đó mới vào nhưng mà người ta chưa phạm giới thì mình không được nhờ người đó xoa bóp cho mình.

26. Không được thọ lễ bái của tỳ kheo thanh tịnh.

Nghĩa là mình mặc dù là trưởng lão, mình già cả, nhưng mà vị tỳ kheo thanh tịnh mới vào đó thì mình không có để cho vị đó lễ bái mình.

27. Không được nhận sự đưa đón của tỳ kheo thanh tịnh.

Nghĩa là mình có đi đâu thì mình đi một mình chứ không để các vị tân tỳ kheo nhỏ tuổi đó đưa đón mình hoặc thế này thế khác. Tức là nói chung, vị tỳ kheo này khi phạm giới như vậy không có thị giả, không có người hầu hạ, luôn luôn phải sống một mình. 

28. Không được nhận sự xá chào của tỳ kheo thanh tịnh.

Nghĩa là mình luôn luôn từ chối tất cả sự xá chào của người khác khi mình là người phạm tội. Mặc dù mình phạm tội cách đây 2 chục năm hoặc là 3 chục năm.

29. Không được để tỳ kheo thanh tịnh cầm y mình.

Nghĩa là cái y của mình mình mặc chớ bây giờ có 1 con kiến hay một con gì đó, mình đang vắt cái y của mình như thế này bỗng dưng có con kiến thì mình tháo ra mình nhờ cái vị tỳ kheo kia cầm cái y hộ mình thì không được. Mình để chỗ nào thì tự để chứ không nhờ vị tỳ kheo thanh tịnh cầm y của mình.

30. Không được nhận sự bưng bát của tỳ kheo thanh tịnh.

Nghĩa là mình không để bình bát cho một vị tỳ kheo trẻ tuổi thanh tịnh bưng dùm mình.

31. Không được làm pháp cử tội, làm pháp tự tứ, nói tội của tỳ kheo thanh tịnh.

Nghĩa là mình không có quyền kê tội của người nào. Mình là người có tội rồi, bây giờ dù là những vị tỳ kheo đó có tội mình cũng không được kê cái tội họ ra, nói cái tội họ ra. Để cho những người khác người ta thanh tịnh hơn, người ta tu trước mà thanh tịnh người ta kê, chứ mình không được quyền kê tội người ta ra.

32. Không được làm chứng cho người.

Nghĩa là người mà mà phạm giới này rồi thì mình không được làm chứng cho ai hết. Nghĩa là mình đã phạm rồi thì mình không có những quyền hạn ở trong tăng đoàn đó nữa. Mình chỉ còn được ở lại để mình tu để mình được giải thoát mà thôi.

33. Không được ngăn tỳ kheo thanh tịnh thuyết giới.

Nghĩa là khi một vị tỳ kheo thanh tịnh thuyết giới, mặc dù là người đó có thuyết sai đi nữa mình cũng không được quyền mà ngăn họ. Để cho những người khác người ta hiểu biết người ta ngăn chứ mình không được ngăn nữa.

34. Không được ngăn tỳ kheo thanh tịnh tự tứ.

Nghĩa là mình không có ngăn người khác làm lễ tự tứ.

35. Không được cùng tỳ kheo thanh tịnh cãi lẫy.

Đối với mình thì không được cãi lẫy ai hết.

Nếu tái phạm thì bị tẩn xuất ra khỏi nơi chúng tăng thanh tịnh, bị đuổi vĩnh viễn. 

Nếu mà mình còn phạm phải 35 điều này, 35 sự việc này thì người đó bị tẩn xuất ra khỏi tăng đoàn. Cho nên thấy trong 35 điều này một người mà phạm phải lỗi về dâm dục rồi thì Thầy thấy ở trong chúng tăng không còn có cái gì đối với vị tu sĩ nữa hết.

Cho nên ở đây khi mà đã quyết tâm hướng về con đường thứ 2, về lộ trình thứ 2 của đạo Phật rồi thì chúng ta phải coi như giới dâm là một giới rất là vĩ đại cho cuộc đời tu hành của chúng ta. Vì đó là chúng ta đã quyết chấm dứt con đường sanh tử. Và con đường sanh tử tức là ở trong cái đường dâm dục đó chứ không phải ngoài đó, ngoài cái con đường dâm dục đó mà đi tìm con đường sanh tử thì không bao giờ có. Vì cũng sanh từ nơi đó mà cũng vì chết từ nơi đó chớ không phải cái chỗ nào khác hết.

Nếu tỳ kheo ni đồng phạm cũng như vậy. Thức xoa, sa di, sa di ni đồng phạm mắc tội Đột kiết la và cũng bị diệt tẩn. Nghĩa là tội Bất Định, tội Đột kiết la thì cái tội đó người ta vẫn có thể xét qua phạm vào cái tội Ba la di, thì người ta sẽ vẫn có thể đuổi chứ không thể nào mà tha thứ được.

Trường hợp không phạm ban đầu chưa chế giới. Lúc mà đức Phật chưa chế giới thì không có gọi là phạm. Cho nên trường hợp này chúng ta nghĩ rằng cái người mà đã học giới mà phạm, đã nghe được cái giới mà Thầy giảng rồi mà còn phạm phải cái giới đó thì coi như là phạm giới Ba la di. Còn người chưa nghe, chưa có biết giới thì đương nhiên là không có phạm giới. Cho nên ban đầu chưa chế giới thì đương nhiên là không phạm. Mà đã chế giới rồi, sau này tỳ kheo đã được nghe, được hiểu biết giới đó rồi thì đương nhiên người nào mà phạm phải đều là bị phạm hết, còn trước đó chưa chế giới ra thì chúng ta có phạm vẫn chưa phải là tội, cũng chưa phải có tội.

Si cuồng tâm loạn, tâm không thọ lạc vì bị bức ép khốn khổ, ngủ mê không hay biết gì cả. 

Si cuồng tâm loạn là không phạm, là tại vì cái tâm điên khùng nó không còn sáng suốt không còn tỉnh táo nữa, như một người điên mà làm cái chuyện dâm dục thì người điên không có phạm.

Trong dâm dục đó mà tâm không thấy cảm giác thọ lạc thì người đó không phạm, còn có cảm giác thọ lạc thì người đó phải phạm.

Ngủ mê không biết thì không phạm, sự thật không có bao giờ có thể ngủ mê trong dâm dục được hết, cho nên cái này thì nó không đúng. Chỉ có chúng ta bị người ta bỏ thuốc mê thì chúng ta mới không hay biết. Còn vấn đề ngủ mê trên cái chuyện dâm dục mà không hay biết thì không thể nào xảy ra cái chuyện đó được.

Đó là cái không đúng, còn tất cả các cái khác thì có thể Thầy chấp nhận rằng đúng. Như ban đầu chưa chế giới thì không ai hiểu biết cái giới đó là phạm cho nên không có tội, còn chế giới ra rồi thì người nào phạm tức là người đó bị tội. Còn người điên khùng tâm loạn, họ không sáng suốt mà họ phạm vào cái dâm thì đó là không phạm. Còn cái tâm đang ở trong sự thọ lạc đó mà không cảm giác thọ lạc thì người đó không phạm, còn nếu có cảm giác thọ lạc trong đó thì người đó bị phạm. Còn cái sự ngủ mê thì không có cho nên ở đây bỏ cái chỗ ngủ mê.(BBT:CĐ,02A,E00:46:26)(BBT:BN,02,E00:54:48)

(BBT:CĐ,02A,B00:46:27)Đó là giới thứ nhất chúng ta đã học xong. Bây giờ chúng ta tìm hiểu thêm 10 điều quan trọng trong khi tu tập giới cụ túc.

1. Nhiếp thủ ư tăng:Nghĩa là những thiện nam, tín nữ trong thế gian có tâm tin Phật, đi xuất gia thọ giới cụ túc ở trong chánh pháp của đức Như Lai được gồm thu vào thành chúng thanh tịnh.

2. Linh tăng hoan hỷ:Nghĩa là ở trong pháp luật chân chánh tu phạm hạnh thanh tịnh khiến việc lành được tăng trưởng nên trong lòng thường vui mừng, hoan hỷ.

3. Linh tăng an lạc:Nghĩa là do vì sự vui mừng hoan hỷ nên mới được cái qủa vui thiền định tịch diệt, cũng nhờ tu phạm hạnh thanh tịnh mới trả được cái nợ áo cơm của đàn na thí chủ, tâm ta mới được an lạc, sung sướng, thanh thản.

4. Linh vị tín giải:Nghĩa là những người chưa được tin Phật, Pháp thấy chư Tăng tu phạm hạnh thanh tịnh mà sinh lòng tịnh tín nơi các vị Thánh tăng.

5. Vĩ tín giả linh tăng trưởng:Nghĩa là vì người đã sanh lòng tin phải khéo giữ cái niềm tin ấy cho được thêm nhiều.

6. Năm điều giả linh điều thuận:Nghĩa là có những người phạm giới, không biết xấu hổ nên dùng giới luật này mà (BBT:CĐ,02A,E00:48:04)...

(BBT:CĐ,03A,B00:00:00)

7. Tàm quý giả đắc an lạc: Nghĩa là, vì khiến những người tu phạm hạnh có biết tàm quý, có biết xấu hổ, khởi đem lòng nghi nan và hết sự tranh luận được yên ổn tu hành cùng nhau.

8. Đoạn hiện tại hữu lậu: Nghĩa là vì hiện tại mắc cái tâm phiền não làm cho không tu hành được tốt.

9. Đoạn vị lai hữu lậu: Nghĩa là những phiền não chưa sanh làm cho, đừng cho nó sanh, và nếu phiền não sanh lỡ ra rồi ta hãy cương quyết đoạn cho tận nguồn gốc.

10. Chánh pháp đắc cửu trụ: Nghĩa là do giữ gìn phạm hạnh, chánh giáo của Phật, Đức Như Lai được còn mãi mãi ở thế gian.

Mười món công đức ở đây trong mỗi giới đều có, cho nên trong mỗi giới đều hay sanh ra mười món công đức, công đức tốt như vậy.

(BBT:CĐ,03A,E00:01:04)

(BBT:BN,02,B00:54:49)

Bắt đầu bây giờ quý thầy niệm hồng danh đức Phật

Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

(BBT:CĐ,03A,B00:01:05)Hôm nay chúng ta tiếp tục học giáo án của đức Phật, giai đoạn 1 mà Thầy đã giảng cho người cư sĩ, họ bắt đầu là họ thay đổi 6 nghề nghiệp họ không có làm, nhưng rồi họ sẽ tu cái gì đây? Nếu mà chúng ta bắt qua cái giai đoạn hai, là giai đoạn của những bậc xuất gia, cắt ái ly gia? Vì vậy mà người cư sĩ họ chỉ biết thay đổi nghề nghiệp thôi sao, cho nên hôm nay Thầy phải giảng đủ để biết được vị trí tu tập của người cư sĩ ở chỗ nào. Thay đổi nghề nghiệp đó là một điều chánh nghiệp để đưa họ làm những điều thiện, còn sự tu tập để cho đời sống của họ được sự an vui, được hạnh phúc ở trong gia đình cũng như đối với mọi người xung quanh, đem lại an vui cho nhau. Thì như vậy, những bài pháp của Phật có dạy cho người cư sĩ tu rất là rõ ràng chứ không phải dạy riêng cho những người tu sĩ xuất gia mà không có pháp cho người cư sĩ tu. Từ giới luật của các vị xuất gia cho đến giới luật của người cư sĩ tại gia đức Phật dạy rõ ràng chứ không phải không có. Nếu giai đoạn 1 mà chúng ta chỉ lướt qua có thay đổi 6 nghề nghiệp mà không dạy cách thức tu thì sợ e chúng ta sẽ có sự thiếu khuyết.

Cho nên bắt đầu bây giờ chúng ta trở lại giai đoạn thứ nhất để dạy cho người cư sĩ tu tập. Như vậy là chúng ta đi từng bước một, từ người cư sĩ cho đến người tu sĩ phải tu như thế nào cho đúng cách, nếu không khéo thì người cư sĩ họ cũng không biết pháp của họ tu cho nên họ tu lầm lạc sang pháp của người xuất gia. Rồi người tu sĩ lại cũng không hiểu pháp nào là của mình tu, do đó lại tu nhầm lẫn qua pháp của người cư sĩ.

Cho nên ở đây Phật dạy có sự phân biệt rất rõ ràng, nhưng dù sao chúng ta cũng phải hiểu rằng từ chiếc áo của cư sĩ nó sẽ trở thành chiếc áo của tu sĩ, vì vậy mà các pháp của cư sĩ đã tu tập hoặc sẽ tu tập thì người tu sĩ chúng ta phải tu tập, tu tập hết không có pháp nào của Phật dạy tu tập mà không tu. Vì chúng ta cũng từ chiếc áo của người cư sĩ để bước vào người tu sĩ chớ không phải chúng ta là người tu sĩ ở trên trời rớt xuống làm người liền được. Cho nên từ đó các pháp từ thấp đến cao, từ dễ đến khó nó rất rõ ràng và cụ thể. 

Vì vậy mà bài pháp, giáo án hôm nay để giúp cho mọi người bắt đầu chúng ta tu từ chiếc áo cư sĩ chúng ta tu những pháp nào. Rồi đến giai đoạn của người tu sĩ thì chúng ta tiến tới những pháp nào sâu hơn, cao hơn. Để không khéo người cư sĩ họ không hiểu họ lại tu những pháp cao hơn, sâu hơn ví dụ như Bốn thiền. Thì không thể nào người cư sĩ thực hiện được pháp như Tứ thiền, tại sao vậy? Vì Phật nói tịnh chỉ các hành, mà Tứ thiền của Phật nhằm tịnh chỉ các hành ở trong nội thân của chúng ta. Mà cái người cư sĩ thì tâm, thân của họ nó chưa có được thanh tịnh. Vì có sự thanh tịnh Phật mới nói là tịnh, tịnh nó mới chỉ chứ không phải định chỉ. Tịnh là thanh tịnh, mà thanh tịnh ở đây chúng ta biết rằng cái pháp mà của người cư sĩ được tu nó mới làm cho tâm của họ thanh tịnh. Từ chỗ thanh tịnh đó họ mới ly trần, mới cắt ái ly gia, họ mới trở thành người tu sĩ, từ đó họ mới thực hiện được Bốn Thánh Định tức là từ Sơ thiền tới Tứ thiền. Chớ không phải Bốn thánh định này tu tập dễ dàng đâu, khi nào tâm chúng ta thanh tịnh, ngũ triền cái chúng ta đã đoạn dứt chúng ta mới thực hiện được Tứ thánh định.

Do vì vậy mà hiện giờ nghe nói đến tu thì người ta chuyên môn là ngồi thiền chứ người ta không biết là thứ thiền nào của người cư sĩ tu, thứ thiền nào của người tu sĩ tu. Phân biệt được rõ như vậy thì chúng ta mới thấy được giáo án của Phật đi từ thấp đến cao, từ dễ đến khó. 

Trên giai đoạn tu tập thứ 2 này quý vị cần phải tư duy nhiều hơn để thấy rõ đời sống…

Thầy xin nhắc lại giai đoạn tu tập thứ nhất của đạo Phật, người mới bắt đầu đến với đạo phải không hành 6 nghề và còn phải tu tập những gì?

Phật dạy có bốn điều người cư sĩ tại gia phải rõ:

1. Thông hiểu những gì phải thông hiểu

Nghĩa là người cư sĩ khi đến với đạo Phật trước tiên họ cần phải tìm hiểu những gì cần hiểu của đạo Phật, mà tìm hiểu đúng pháp họ đang tu của người cư sĩ, chứ nếu mà họ tìm hiểu pháp xuất gia của người tu sĩ thì họ tu nhầm ở trên đó họ tu chẳng có thành công, chẳng có kết quả gì hết. Cho nên ở đây Phật dạy thông hiểu những gì phải thông hiểu. Những gì mà đáng thông hiểu của họ chứ không thông hiểu hết được. Mà phải thông hiểu ở góc độ, những pháp môn của người cư sĩ chứ không phải thông hiểu pháp môn của người tu sĩ, chẳng hạn như bây giờ 250 giới của tỳ kheo thì người cư sĩ không nên thông hiểu 250 giới đó mà nên thông hiểu 5 giới của chính mình, đó là thông hiểu những gì phải thông hiểu. 

2. Trau dồi những gì phải trau dồi

Nghĩa là người cư sĩ khi đến với đạo Phật cái thứ nhất là phải thông hiểu những gì ở mức độ, vai trò của mình cần thông hiểu. Còn đến giai đoạn trau dồi thì những gì mình phải trau dồi thân tâm của mình như thế nào. Có những pháp để trau dồi, có những pháp phải thông hiểu, có những pháp phải trau dồi.

3. Dứt bỏ những gì phải dứt bỏ

Nghĩa là người cư sĩ khi đến với đạo Phật, đức Phật nói cái này phải bỏ là phải dứt bỏ chứ không có được còn dính dáng với nó. Cũng như người tu sĩ khi đến với đạo mà đức Phật đã dạy những pháp cần dứt bỏ thì hoàn toàn chúng ta cố gắng mà phải dứt bỏ, chớ đừng có mà không dứt bỏ nó thì không thể nào tiến tới con đường của đạo được. 

4. Tu tập những gì phải tu tập

Nghĩa là có những pháp để tu tập, có những pháp cần phải dứt bỏ, có những pháp cần phải trau dồi và có những pháp cần phải thông hiểu. 

Đó là bốn điều kiện khi chúng ta bước chân vào đạo Phật phải hiểu, nghĩa là trước tiên chúng ta phải thông hiểu sau đó chúng ta phải trau dồi thân tâm mình, rối kế đó chúng ta phải dứt bỏ những gì cần dứt bỏ, rồi đến những pháp môn mà hằng ngày cần phải tu tập. Thì đó là những điều chúng ta cần phải hiểu và thông rõ. Chứ nếu chúng ta không nắm vững được cái này chắc chắn chúng ta không biết đường lối đâu mà đi. 

Như vậy khi thay đổi nghề nghiệp đời sống quý vị mới sống thiện, nghĩa là thay đổi nghề nghiệp ác đó để sống những nghề nghiệp thiện hơn, cho nên đời sống của mình bây giờ mới là sống thiện. Vì vậy mà người cư sĩ cần phải tu tập những cái gì? 

Thứ nhất cần phải nghiên cứu tìm hiểu những lời của Phật dạy. Nghĩa là đầu tiên mà chúng ta, cũng như giai đoạn thứ nhất, ở chỗ này có 4 điều kiện mà chúng ta cần phải nắm cho vững, phải hiểu cho rõ. Thứ nhất, Phật dạy ở đây phải thông hiểu những gì cần thông hiểu. Vậy thì bây giờ chúng ta phải thông hiểu cái gì, đi tìm hiểu cái gì đây. Ở đây Phật dạy rất rõ là chúng ta phải tìm hiểu những cái gì. Tìm hiểu:

1. Tứ diệu đế

2. Thập nhị nhân duyên

3. Nghiệp

4. Thân ngũ uẩn

5. Tứ bất hoại tịnh

6. Tứ chánh cần

7. Tứ niệm xứ

8. Tứ thiền

9. Tứ như ý túc

10. Ngũ căn

11. Ngũ lực

12. Thất giác chi

13. Thập thiện

14. Nhân quả luân hồi

15. Tam minh[1]

16. Tứ vô lượng tâm

Đó là tất cả những cái pháp mà Phật dạy, người cư sĩ đến với đạo Phật cần thông hiểu những gì phải thông hiểu, tức là thông hiểu 16 pháp Phật đã nêu tên ra, lúc bấy giờ chúng ta sẽ đi tìm hiểu từng pháp đó như thế nào để chúng ta rõ ràng, coi có phải cái đó có hợp với mình không, có phải là ước vọng trên bước đường mình gửi thân tâm vào đó để tu hành không? 

Cho nên khi mà nghiên cứu thông suốt được rồi, thấy nó phù hợp với ước vọng, nguyện vọng của mình thì người cư sĩ đó mới tiếp tục trau dồi những gì mà mình đã tìm hiểu được trong những pháp trau dồi. Chứ không phải bây giờ tôi ngồi thiền, nhập định hoặc nghiên cứu như vậy rồi tôi tu Tứ thiền hoặc dùng Tứ như ý túc hoặc là tôi dùng những điều kiện cao siêu thì nó không đúng cách đâu. 

Cho nên ở đây khi mà được nghiên cứu kỹ như vậy rồi thì bắt đầu phải tu tập cái gì đây, phải trau dồi những cái gì đây?

Đó là những điều kiện nó phải phân minh, nó phải rõ ràng đường lối tu tập. Chứ nếu mà không không phân minh, không rõ ràng đường lối tu tập như vậy thì chắc chắn là chúng ta nhào vô chúng ta chẳng biết đường lối nào mà chúng ta tu. Cho nên ở đây hầu hết là Thầy thấy như thế này: khi quý thầy đến với Thầy thì hầu như là thiền à, ngồi thiền, người thì nhiếp hơi thở, người thì tri vọng, biết vọng liền buông, người thì công án, người thì niệm Phật, chứ không nghe người ta đi từng bước một của sự tu tập. Người ta chưa bỏ hết những gì mà người ta chưa có từ bỏ, từ giã mà người ta vội vàng tu những cái của những bậc ly trần xuất thế.Thì điều đó là cái sai của thời đại tu tập bây giờ rất nhiều. Người ta không thấy được qua đời sống phạm hạnh, qua đời sống chuyên tu thiền nó khác hơn là đời sống của cư sĩ đang bao nhiêu gia duyên, đang bao nhiêu sự việc trói buộc, ràng buộc phải làm cho hết bổn phận của người đời, của người cư sĩ. Thế mà vội vàng tu, nó không hiểu rõ được đường lối cách thức thì chúng ta tu mãi mà dậm chân tại chỗ, uổng phí, vừa mất thì giờ mà chẳng đi đến đâu. 

Hôm nay Thầy vạch một lối đi cho cụ thể và rõ ràng để cho quý thầy, quý cư sĩ tìm hiểu rất rõ ngọn nguồn để bước đi vững chắc không bị vấp ngã. Đây là những bài pháp mà đức Phật đã dạy cho các đệ tử của Người trong thời xa xưa mà đến bây giờ người tu hành đúng theo lời dạy này vẫn thấy hiệu quả giải thoát thân tâm rõ ràng.

Nghĩa là qua 16 bài pháp Thầy kể tên ở trên, đến bây giờ nếu chúng ta tu đúng chúng ta vẫn thấy được sự giải thoát thân tâm rõ ràng, làm chủ được sự sống chết và sanh tử luân hồi.

Qua kinh nghiệm bản thân của Thầy, những lời dạy này tu tập cụ thể có thứ lớp, có tầng bậc, sắp xếp có thứ tự rất khoa học từ dễ đến khó, từ mới tu cư sĩ cho đến người xuất gia tu sĩ đâu đâu rõ ràng. Người cư sĩ tại gia phải tu những pháp nào, người xuất gia tu sĩ phải tu những pháp nào, rõ ràng và rất minh bạch.

Theo như lời đức Phật đã dạy ở trên, ở giai đoạn đầu người cư sĩ phải thông hiểu những gì cần phải thông hiểu. Vậy phải thông hiểu cái gì đây?

Có rất nhiều điều trong đời sống cần phải hiểu và phải thông suốt nó. Nghĩa là quý vị cư sĩ khi vào đạo Phật, mặc dù chúng ta đang sống ở trong cuộc sống nhưng chúng ta chưa hiểu cuộc sống chúng ta như thế nào. Phải nói rằng chưa hiểu, không biết nó như thế nào mà mọi người đều ham mê mà điên cuồng chạy theo nó mà không bao giờ chịu buông nó ra. Đó là những điều mà chúng ta cần phải hiểu tại sao nó cuốn hút, nó lôi người ta dữ tợn như vậy, nó xâm chiếm người ta dữ vậy, nó sai bảo người ta dữ vậy? Để cho người ta ở trong cái khổ mà người ta không thấy cái khổ đó, người ta biết nhưng mà người ta không tránh được nó. 

Đầu tiên chúng ta tìm hiểu trong đời sống thế gian. Tại sao, nghĩa là bây giờ bắt đầu chúng ta mới suy nghĩ, nghĩa là chúng ta mới thông hiểu những cái gì đó, qua những bài pháp này của Phật dạy chúng ta mới thông hiểu đời sống của chúng ta, chúng ta so sánh đời sống của chúng ta nó như thế nào đây?

Tại sao có người yểu tử, có người trường thọ, đó là một cái tìm hiểu, bởi vì Phật dạy cái gì cần hiểu thì phải tìm hiểu cho nó thông. Vì vậy mà bây giờ chúng ta đặt ra những câu hỏi như thế này, tại sao có người yểu tử, có người trường thọ? Có người mới sanh ra là chết, có người được 12, 13 tuổi là chết, có người thì 3,40 tuổi chết mà tại sao có người 100 tuổi mới chết?

Tại sao nó lạ lùng vậy? Lẽ ra con người 100 tuổi thì nó đều 100 tuổi chứ, tại sao lại có người yểu tử mà có người trường thọ?

Đó là những cái chúng ta thấy ở trong cuộc sống của chúng ta, nhan nhản những điều kiện mà nêu ra đây cụ thể và rõ ràng. Vậy thì chúng ta phải tìm hiểu những điều này như thế nào?

Tại sao có người bệnh nhiều mà có người lại ít bệnh? Cái điều đó là điều thực, chứ không thể nào chúng ta chối cãi được ở trong xã hội này, loài người này. Tại sao có người sanh ra cho tới lúc già chết họ bệnh có tí xíu họ chết, còn có người sinh ra từ nhỏ họ bệnh liên miên bất tận, cái gì mà làm cho họ như vậy?

Đó chúng ta cần phải đặt ra để tìm hiểu cuộc đời chúng ta đang sống, trong cuộc sống của chúng ta.

Tại sao có người xấu, có người đẹp? Nghĩa là tại sao có người sanh ra tướng mạo phương phi, đẹp đẽ nhưng có người gù lưng tật nguyền rồi xấu xa mặt mày, mũi tẹt răng hô… đủ loại xấu. Như vậy thì nó có cái gì ở trong đó, tại sao con người sinh ra không đồng đều, lẽ ra đẹp thì phải đẹp hết, xấu thì phải xấu hết chớ, tại sao có người vầy người khác. Đó là những cái mà chúng ta cần phải tìm hiểu.

Tại sao có người có quyền thế nhỏ mà có người có quyền thế lớn? Ở trong xã hội chúng ta có người thì có quyền thế lớn mà có người thì có quyền thế nhỏ. Mà có người không có quyền thế gì hết, suốt cuộc đời đi làm đầy tớ người khác hoặc làm nô lệ cho người khác mà không có quyền hạn gì hết. Đó là những cái người cư sĩ cần phải tìm hiểu trong cuộc sống của mình.

Tại sao có người tài sản nhỏ, có tài sản nhỏ mà có người tài sản lớn? Tại sao có người sanh vào gia đình hạ liệt, có người lại sanh vào gia đình cao quý? Đó là những cái mà nhan nhản trước mắt của chúng ta không thể nào chối bỏ được điều đó.

Tại sao có người trí tuệ thông minh mà có người trí tuệ yếu kém, không thông minh?

Do duyên gì, nhân gì giữa con người với nhau lại có kẻ hạ liệt, người ưu tú như vậy?

Đó là những điều chúng ta đặt ra câu hỏi để chúng ta tìm hiểu, mà đây là tìm hiểu ra một sự thật. Chính đức Phật đã dạy chúng ta để so sánh và phân biệt được, để tìm ra nguyên nhân đó. Từ tìm ra nguyên nhân đó thì chúng ta mới biết con đường của đạo Phật để chúng ta giải quyết được những cái điều này nếu không thì chúng ta đâm ra hoang mang, nghi ngờ cuộc sống của chúng ta.

Nếu chúng ta đặt thành vấn đề: nếu chúng ta có một đấng vạn năng, một đức cha lành, một đức Phật toàn năng thì không lẽ những người đó sinh chúng ta ra mà lại đặt chúng ta có người xấu có người tốt sao? Đặt thành vấn đề quý vị là những người cư sĩ, khi quý vị sinh đứa con ra quý vị muốn đứa con của quý vị như thế nào? Đứa nào cũng phải tốt đẹp, thông minh chứ sao lại có đứa xấu, đứa tốt. Thì đặt vấn đề một đấng toàn năng mà họ sáng tạo ra loài người, thì họ cũng phải nghĩ rằng những con người mà họ sáng tạo ra tốt đẹp như nhau, tại sao lại như vậy?

Như vậy có phải có thượng đế hay không? Hay là không có thượng đế ở đây? Tại sao thượng đế sanh con người ra kẻ vầy người khác? Kẻ đau khổ nhiều người đau khổ ít?

Do vì vậy mà đạo Phật giảng bài này cho chúng ta hiểu do vì đâu mà có sự việc này.

Muốn hiểu rõ điều này thì chúng ta phải hiểu Nghiệp.

Bây giờ đức Phật đặt ra vấn đề Nghiệp, vậy Nghiệp là cái gì đây?

Đức Phật dạy nghiệp là chủ nhân của loài người. Nghĩa là nghiệp nó đẻ ra loài người đó. Nghiệp là người chủ muốn cho người đó tốt xấu nọ kia là do nghiệp, chớ không phải có người nào sanh chúng ta ra, do nghiệp mà sanh chúng ta ra.

Nghiệp thường sai khiến con người như thế này như thế khác, nó bảo gì thì con người phải làm theo chứ không có chống lại nó được.

Con người là thừa tự của nghiệp. Nghĩa là mình sinh ra đây là thừa tự của nghiệp của chính mình.

Nghiệp là thai tạng của con người, tức là nghiệp sanh ra con người đó.

Nghiệp là quyến thuộc, là điểm tựa, và nghiệp lại phân chia ưu liệt của loài người. Nghĩa là người tốt, người xấu nó phân chia ra đó. Nó sanh con người ra rồi nó phân chia con người ra. 

Vậy nghiệp từ đâu mà đến? Nó có phải là đấng vạn năng không? Đó là những điều mà chúng ta đặt ra để mà chúng ta hiểu, để mà chúng ta thấu rõ được đời sống con người, số mệnh của con người ở trong cuộc đời chúng ta, nó sanh ra từ cha mẹ là nghiệp. Thì như vậy chúng ta tìm hiểu cái nghiệp này như thế nào để cho nó đúng?

Vậy thì nghiệp là cái gì?

Thứ nhất chúng ta phải hiểu nó, nghiệp là một cái thói quen của chúng ta. Nghĩa là một người mới sinh ra họ chưa biết ghiền thuốc đâu, họ cũng chưa biết ghiền rượu đâu, nhưng mà lớn lên rồi gặp môi trường bạn bè hoặc người ở trong nhà buôn bán rượu này kia thì bắt đầu họ nếm thử chút chút. Ban đầu họ thấy đắng, cay, hôi, họ không có uống được nhưng rồi lần lần họ thấm nhuần, họ quen đi rồi trở thành ghiền đi. Mà trở thành ghiền là đó là nó đã trở thành cái nghiệp rồi.

Cho nên bây giờ cái người nghiện rượu nghe mùi rượu thì thấy như thế nào? Họ thích liền, họ không có từ giã được, họ không có ly nó ra được, mà họ sáp vô để họ uống một ly rượu. Có nhiều người mà đã ghiền rồi thì mỗi buổi sáng mà họ không có ly rượu thì họ thấy con người của họ nó khó chịu, nó ụa, nó ọe, nó làm những cái điều kiện như người bị bệnh vậy. Họ làm cho cái thân của họ quá khổ sở, cái tâm của họ chao động, không có tỉnh táo được nữa. Mà khi uống vào ly rượu họ thấy họ tỉnh táo và cái thân của họ bình thường trở lại. Nghe nó sảng khoái, nghe nó có hỷ lạc ở trong đó. Cho nên họ rất thích thú. Từ đó thói quen đó gọi là nghiệp. Cho nên cái thói quen đó mới dẫn chúng ta đi vào trong sinh tử luân hồi, cho nên gọi nghiệp là thai tạng đó.

Nghiệp là chủ nhân tức là nó sẽ sai chúng ta, nó sai, nó làm chủ chúng ta. Nó sai chúng ta làm cái gì chúng ta làm cái nấy. Bởi vì khi mà chúng ta quen cái đó rồi, khi mà cái thói quen đó khởi lên, nó muốn cái gì đó thì chúng ta không ngăn chặn được nó. Nên coi đó là cái nghiệp sai chúng ta làm cái điều đó.

Chẳng hạn bây giờ do cái tâm sắc dục của chúng ta, vì cũng là cái thân của chúng ta sinh ra nơi sắc dục nên nó mang cái thân nó cũng có những đòi hỏi sắc dục. Vì vậy mà khi chúng ta thấy người khác phái thì nó sinh ra cái tâm đó, rồi nó đòi hỏi hỷ lạc của sắc dục đó. Cái thân sinh ra từ đó nó đã có cái nghiệp đó rồi, thế mà chúng ta không ngăn chặn, chúng ta bước vào nghiệp, nó trở thành thói quen, nó nghiện ngập, xa cái đó không được. Cho nên từ đó đức Phật dạy cắt ly nó, đoạn dứt nó để chúng ta chấm dứt sự sanh tử luân hồi.

Như bài giảng Thầy vừa giảng xong về giới luật, mà giới bất tịnh thì chúng ta đã biết con đường sinh tử, nó không phải cái gì khác hơn là tâm dâm dục của chúng ta. Thì ở đây, chúng ta thấy cái tâm dâm dục đó chính là cái nghiệp, mà từ cha mẹ sinh mình ra cũng từ nơi cái nghiệp đó, cho nên ngay cả thân và tâm chúng ta được sinh ra cũng từ cái nghiệp đó, vì vậy mà chúng ta thừa tự cái nghiệp đó. Cho nên Phật nói con người thừa tự của nghiệp. Thì quý thầy thấy có đúng không?

Phật dạy: con người chúng ta là thừa tự của nghiệp, nghĩa là cha mẹ mình đã vì cái nghiệp dâm đó mà sinh mình ra, cho nên mình được sinh ra từ cái thân tâm của mình thì không phải là mình thừa tự cái nghiệp dâm đó sao. Do vì vậy đó mà chúng ta đi vào con đường tu hành của đạo Phật là chúng ta phải xa lìa nó, đoạn dứt nó, chấm dứt nó. Thì chúng ta đi ngược lại nó có khó chịu không? Nghĩa là chúng ta chống lại nó. Cho nên đức Phật dạy chúng ta như hồi nãy, Thầy nói có 4 điều kiện, cái gì thông hiểu thì chúng ta phải thông hiểu, cái gì trau dồi thì chúng ta phải trau dồi, cái gì dứt bỏ thì chúng ta phải dứt bỏ...

Bây giờ cái mà chúng ta đã hiểu được là cái nghiệp dẫn chúng ta đi ở trong sinh tử luân hồi, cái sự đau khổ. Bây giờ chúng ta biết rằng bản thân chúng ta, thân tâm chúng ta đang là thừa tự của cái nghiệp, vậy thì bây giờ cái nghiệp, cái đau khổ, cái nghiệp đưa dẫn người ta tới chỗ khổ mãi mãi đau khổ trong bốn cái khổ sanh - lão - bệnh - tử. Do cái nghiệp mà tạo ra, cho nên chúng ta đang thừa tự cái nghiệp vậy thì chúng ta phải đoạn dứt nó. Phải mạnh mẽ đừng có yếu kém, mà chúng ta yếu kém thì không thể nào dứt bỏ nó được. Cho nên Phật nói: có những pháp cần phải dứt bỏ thì phải dứt bỏ, chớ không thể nuôi dưỡng nó được, chớ không thể kéo lê thê theo mình được, mà phải dứt bỏ ngay liền, chấm dứt ngay liền.

Đó là những cái pháp gọi là nghiệp, thì chúng ta biết mình đang thừa tự những cái đó, thì mình không nhận cái thừa tự đó nữa, nghĩa là mình chấm dứt cái đó đi. Thì bắt đầu bây giờ mình đừng có, cái tâm mình khởi lên dâm dục thì mình dùng những pháp để tu tập. Cái pháp đó là gì? Cái tâm dâm dục mà mình dùng cái pháp để loại trừ thân tâm thừa tự nghiệp này, do đó mình phải quán bất tịnh. Mình phải xét thân tâm của mình nó như thế nào là thanh tịnh, như thế nào là không thanh tịnh. Từ đó mình sẽ thấy cái thân ghê gớm, mình sẽ thấy cái thân bất tịnh, nhơ bẩn, ô uế, uế trược từ đó chúng ta thấy không còn thừa tự sản nghiệp của cái nghiệp dâm dục này nữa.Tức là chúng ta sẽ chấm dứt sự sanh tử rồi đó.

Như vậy thì quý thầy thấy rõ ràng là những gì chúng ta cần dứt bỏ là chúng ta phải dứt bỏ. Nghĩa là chúng ta thấy cái đó nguy hiểm, đừng vì một chút dục lạc ở đó mà chúng ta kéo lê thê cái đời của mình, để luôn luôn mãi thừa tự nghiệp này, thừa tự những cái sanh tử này. Cho nên chúng ta biết thừa tự cái này là đem đến cho chúng ta sự khổ đau. Cho nên muốn chấm dứt cái nghiệp thì có những cái mà chúng ta phải đoạn dứt. Vì vậy chúng ta phải tu tập siêng năng, luyện tập những điều mà Phật đã dạy: quán thân bất tịnh để đoạn dứt được những cái nghiệp. Nếu không có quán bất tịnh thì khó mà đoạn dứt được nghiệp dâm. Cho nên từ đó mà chúng ta mới có những thai tạng của cái nghiệp sanh chúng ta ra.

Vậy thì chúng ta biết rằng cái nghiệp là cái thói quen, cái nghiệp là cái sự ô nhiễm làm cho chúng ta khó bỏ nó. Đó là những thói quen mà hằng ngày trong những hành động của chúng ta tạo ra nghiệp thiện, nghiệp ác, nghiệp ham muốn chứ không gì khác hơn hết. Nếu chúng ta hằng ngày chửi bới thiên hạ thì nó quen đi, thành ra lúc nào chúng ta cũng dễ dàng chửi bới người ta được hết. Còn ngày ngày chúng ta không mắng không chửi ai hết, ngày này qua ngày khác thì nó không thành cái nghiệp của chúng ta.

Cho nên ở đây Phật dạy chúng ta làm điều thiện thì không có chửi mắng ai, làm điều thiện thì không có trộm cắp của ai, làm điều thiện thì không bao giờ có những hành động tà dâm bất tịnh. Đó là những điều mà chúng ta phải hiểu và thông suốt, và biết từ bỏ, dứt bỏ nó. 

Nói như vậy chúng ta đã hiểu sơ qua về nghiệp, nếu mà giảng rộng thì giảng nghiệp đi trong luân hồi, nghiệp tái sanh thì nó còn phải rất nhiều thời gian mà giải thích để cho quý vị thấu suốt.

Tạm thời ở đây Thầy ngắn gọn, sau này có những việc chúng ta cần phải nghiên cứu về các nghiệp này nữa để chúng ta thông suốt tất cả các nghiệp trong thân chúng ta. Chúng ta biết rằng trong thân chúng ta có ba nơi hành nghiệp này, đó là thân của chúng ta, đó là miệng của chúng ta, đó là ý của chúng ta. Ba chỗ hành động này gọi là hành động nghiệp. Nghĩa là nghiệp cũ có rồi tạo nghiệp mới có. Do vì vậy mà chúng ta luôn luôn trôi lăn trong 6 nẻo luân hồi, do chỗ nghiệp này chứ không phải gì khác hơn hết.

Bây giờ quý thầy đã hiểu được nghiệp thì chúng ta sẽ biết được hồi nãy đặt ra những câu hỏi tại sao có người giàu người nghèo, người tốt người xấu, người bệnh nhiều, người bệnh ít, thì đây quý thầy sẽ thấy nghiệp nó sẽ dẫn vào thế giới cuộc sống của quý vị, quý thầy đang sống thì có sự sai khác nhau như vậy.

Đây quý thầy nghe kỹ, nhất là những người cư sĩ đang ở giai đoạn tu tập thứ nhất phải lắng nghe và chú ý cho kỹ. Nghĩa là các vị còn sống trong gia đình, còn vợ, còn con, còn cha mẹ, bạn bè thân thuộc, bà con xóm làng, không phải là người xuất gia đã bỏ tất cả, thì quý vị lắng nghe bài so sánh này để biết được cái nghiệp nó chi phối và phân chia ra con người có ưu liệt và có tốt xấu đó. Vì vậy quý vị phải lắng nghe cho kỹ để thực hiện được những gì mà chúng ta cần phải chấm dứt, phải đoạn dứt nó.

1. Nhân Quả Yểu Tử Và Trường Thọ

Khi một người đàn ông hay một người đàn bà tàn nhẫn giết hại chúng sanh, tay lấm đầy máu, tâm chuyên sát hại, đả thương, lòng không có chút từ bi biết thương xót loài vật, do nghiệp sát sanh ấy thành tựu. Nghĩa là ở đây Phật muốn nói cái nghiệp mà giết hại chúng sanh, đả thương làm cho chúng sanh chết chóc mà tâm lòng không thương xót chút nào đó, thì khi mà nó đã thành cái thói quen rồi, thói quen giết hại đó, cho nên ở đây Phật nói câu nói như thế này: do nghiệp sát sanh ấy thành tựu, tức là thành cái thói quen rồi, tức là thành cái nghiệp rồi. Lúc bấy giờ cái người đó sau kiếp sống này họ bỏ thân này đi, họ bị chết đi thì họ sẽ đi về đâu đây?

Họ sẽ vào cái cõi dữ, ác xứ, đọa xứ, địa ngục, sau một thời gian sống trong cảnh giới súc sanh, cảnh giới đau khổ của địa ngục, ở cảnh giới ác thú của những thú dữ đang giết chóc lẫn nhau…thì lúc bấy giờ trải qua nhiều đời nhiều kiếp họ mới được làm người. Con người họ sinh ra vì cái nhân của họ trước kia, vì cái nghiệp của họ thành tựu rồi thì con người họ sinh lên họ yểu tử. Nghĩa là có người mới vào trong bào thai chừng 1 tháng, 2 tháng là đã bị trôi thai. Có người vừa sanh ra là đã bị yểu tử, rồi có người sanh ra được ba, bốn tháng, có người sanh ra được 1, 2 tuổi, có người sanh ra được 11,12 tuổi rồi xe đụng hoặc là bệnh tật chết. Có người sanh ra được 20 tuổi chết, có người sanh ra được 50, 60 tuổi chết, có người thì được trường thọ 100 tuổi chết. Thì cái chết đó là do cái chỗ mà chúng ta đã sát hại chúng sanh, cho nên chúng ta bị yểu tử, cho nên tuổi những người yểu tử này họ không được trên 30 tuổi. Nghĩa là khoảng từ 30 trở lại là yểu tử, từ 30 đến 60 tuổi là trung thọ. Từ 60 trở lên là trường thọ. Cho nên có sự phân chia để thấy được sự yểu tử thì chúng ta biết dưới 30 tuổi là dạng yểu tử.

Nếu có người đàn ông hay người đàn bà từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, tay không bao giờ lấm máu chúng sanh, luôn có lòng từ bi thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh các loài hữu tình. Do nghiệp ấy thành tựu, nghĩa là thành nghiệp thiện không giết hại chúng sanh sau khi họ bỏ thân họ thì họ sinh vào cảnh giới thiện, cõi giới thiện. Nghĩa là cõi giới tốt không có ác pháp ở trong đó, hoặc là sanh vào cõi trời, sau cùng thì họ sinh làm người, tuổi họ được trường thọ từ trên 60 đến 100 tuổi. Con đường ấy đưa họ đến trường thọ. (BBT:BN,02,E01:33:28) (BBT:CĐ,03A,E00:37:49)



[1]Trong băng là Ngũ minh, tuy nhiên, theo chúng tôi hiểu Thầy muôn nói là Tam minh.

BĂNG SỐ 03

(BBT:CĐ,03A,B00:37:50)(BBT:BN,03,B00:00:00)Phật so sánh bài này để làm gì?

Để nhắn nhủ người cư sĩ chúng ta, tay chúng ta đừng lấm máu. Tâm chúng ta thường thương xót chúng sanh dù loài nhỏ nhất như côn trùng, sâu bọ cho đến những loài lớn nhất như sinh mạng con người, chúng ta đừng có đoản mạng, đừng giết hại chúng, đừng có làm đau khổ chúng, đừng giết chúng để cho chúng ta sanh làm người hoặc là ở cõi trời hoặc là cõi thiện nào đó chúng ta cũng hưởng được cái thân không có yểu tử, cái thân được yên ổn mà không có sự đau khổ trong đó.

Chúng ta đã hiểu như vậy thì chúng ta tu pháp nào đây?

Tức là ở đây Phật dạy chúng ta phải dứt bỏ, phải từ bỏ, nghĩa là dứt bỏ những gì phải dứt bỏ. Đó là chúng ta hiểu, hiểu tức là chúng ta thông rồi, mà chúng ta biết rằng cái hành động giết hại chúng sanh đó thì nó sẽ đưa đến chúng ta thọ mạng yểu tử. Cho nên chúng ta thấy điều đó là điều không tốt, và cái điều đó là làm cho chúng sinh đau khổ, khổ sở vì chính chúng ta bị ai đánh đập, bị người ta giết mình thì mình cũng đau đớn, mình khổ sở, mình cũng ham sống. Thì mình suy tư như vậy mình thông suốt, cho nên mình đi vào giai đoạn thứ 3 để mà chúng ta dứt bỏ những gì phải dứt bỏ, nghĩa là dứt bỏ không sát sanh nữa. Từ đây về sau chúng ta không sát sanh nữa, và cũng từ đây về sau chúng ta không ăn thịt chúng sanh nữa. Vì chúng ta ăn thịt chúng sanh thì chúng ta phải giết chúng sanh.Cho nên chúng ta biết được như vậy chúng ta đem hết lòng từ của chúng ta biến mãn khắp chúng sanh. Con kiến đi trên mặt đất chúng ta đi dè dặt không đạp, vì lỡ đạp chúng gãy giò, gãy chân chúng đau, chúng khổ cũng như chúng ta bị gãy giò, gãy chân cũng đau cũng khổ.

Cho nên từ suy nghĩ đó mà chúng ta thấy mọi vật mà hữu tình, mọi vật mà có sự hoạt động - gọi là động vật thì loài vật nào cũng có sự đau khổ, có sự nhức nhối cũng như chúng ta vậy. Cho nên chúng ta không bao giờ có thể làm đau khổ từ cái loài vật nhỏ cho đến loài vật lớn. Thậm chí như con muỗi, con mòng nó đi tìm máu của chúng ta để mà sống, vô tình nó đâu có ngờ rằng chúng ta sẽ mạnh tay mà đập chúng, giết chúng đi? Cho nên chúng ta khi tu hành chúng ta phải có mùng ngăn cách, chúng ta không bố thí máu cho chúng vì chúng ta biết rằng cơ thể chúng ta không thể nào thừa thãi mà bố thí cho chúng được. Cho nên chúng ta kiếm cách chúng ta ngăn cản chúng mà không giết hại chúng, để chúng đi tìm thực phẩm khác mà sống. Đó là cái điều chúng ta không nỡ tâm làm điều ác, lấm máu chúng trong bàn tay của chúng ta. Do vì vậy mà chúng ta phải thực hiện điều thứ 3 là dứt bỏ những gì cần dứt bỏ.

Đến đây quý thầy đã hiểu rõ sự dứt bỏ của chúng ta. Vậy thì chúng ta biết rồi thì chúng ta cố gắng dứt bỏ cái điều sát hại chúng sanh và cũng từ đây thì các vị cư sĩ cũng phải nỗ lực dứt bỏ không giết hại chúng sanh nữa, không làm đau khổ chúng sanh nữa và không ăn thịt chúng sanh nữa.

Điều đó là điều cần thiết,chúng ta không ăn chay nhưng vì lòng thương của chúng ta mà chúng ta không nỡ ăn thịt của chúng sanh chớ không phải chúng ta ăn chay. Bởi vậy, đức Phật không có dạy các tỳ kheo ăn chay mà đức Phật chỉ dạy các vị tỳ kheo ăn thịt động vật thì không thấy, không nghe, không nghi mới ăn, mà thấy, nghe, nghi thì không ăn. Đồng thời bài kinh đó Phật dạy tiếp, khi chúng ta ăn một thực phẩm thì tâm từ bi của chúng ta biến mãn khắp chúng sanh, mà tâm từ bi biến mãn khắp chúng sanh thì trong thực phẩm có sự chết chóc, có sự đau khổ trong đó thì chúng ta còn ăn được nữa không?

Cho nên Phật đâu cấm chúng ta ăn thịt. Nhưng chúng ta không ăn là tại vì tâm từ bi của chúng ta. Cho nên Thầy xét qua bài kinh Jivaka này, Thầy thấy rằng đức Phật dạy chúng ta ăn chay trên ăn chay chứ không phải là ăn chay như người ta đã nghĩ rằng mình ăn chay là mình làm những món chay mình ăn. Cho nên hầu hết có một số người nghĩ rằng mình ăn chay mình làm đùi gà này, mình làm sườn này, mình làm mắm chay này, mình làm miếng thịt heo chay này… đều là bằng bột, bằng đậu, bằng rau cải mà hình thức của nó là hình thức của loài vật. Thì như vậy, khi mà thấy những hình thức như vậy mà một người tu theo đạo Phật thì chắc chắn là người ta không ăn rồi. Nhưng cái người mà ăn chay thì họ nói trong này toàn đậu hũ không hà, không có gì hết, không phải là thịt cá đâu. Cho nên cái người ăn chay thì họ thấy là món này không có thịt cá cho nên họ ăn, mà họ không thấy cái hình dáng của đùi gà, của đầu gà, hoặc đầu vịt mà họ giả tạo họ làm ra. Thì như vậy, đối với đức Phật mà thấy như vậy là đức Phật không ăn, hình dáng đó là đau khổ, hình dáng chết chóc.

Đó chúng ta mới thấy được điều đức Phật dạy chúng ta ăn chay trên tâm từ bi chứ không phải dạy chúng ta ăn chay trên cái ăn chay đâu, mà dạy chúng ta siêu việt hơn. Thế mà có người lầm lạc lại đi ăn thịt chúng sanh mà lại gọi là đệ tử của Phật, đệ tử xuất gia của Phật.

2. Nhân Quả Bệnh Tật Và Khỏe Mạnh

Đây, bây giờ kế đến chúng ta sẽ đọc cái sự so sánh kế đến để chúng ta thấy được đức Phật dạy người cư sĩ như thế nào mà có người bệnh nhiều mà lại có người bệnh ít đây?

Nếu có người đàn ông hay đàn bà tánh hay đánh đập làm đau khổ chúng sanh bằng tay, bằng gạch, bằng gậy, bằng gộc, bằng roi, bằng đao kiếm. Nghĩa là ví dụ như mình có một đứa đầy tớ ở trong nhà, hoặc là con cái trong nhà của mình hoặc vợ con mình đi nữa, mình tức giận, mình đánh nó một bạt tai đi, đó là làm đau khổ nó đó. Con cái của mình, mình giận quá mình đá, mình đạp nó hay hoặc là những người tôi tớ ở trong nhà của mình nó làm những gì không vừa ý, lỡ tay làm vỡ một cái ly, một cái tách gì bể đó, rồi chúng ta vì tiếc của mà chúng ta không nương tay đánh, đạp, đá người tôi tớ trong nhà.

Đây là Thầy nói con người với con người, còn với con vật chúng ta đâu có thương xót gì đâu. Lúc tuổi trẻ, Thầy thấy mấy cháu trai cũng như cháu gái bắt dế, rồi bắt con vật này con vật kia để cho nó đá nhau, nó cắn nhau, như cá cũng vậy, làm cho chúng đau khổ, rồi dùng roi, dùng gậy mà đánh đập như con chó, con gà, con mèo. Thầy thấy nhiều khi nó vô tình nó ăn vụng chúng ta lại lấy roi, gậy đập phang nó, nhiều khi nó chết, nhiều khi nó bị gẫy chân, què cẳng, đau đớn mà chúng ta không thấy những điều đó.

Do cái hành động, cái tánh mà hay đánh đập làm đau khổ chúng sanh bằng tay bằng chân, bằng gạch, bằng đá, bằng roi, bằng đao kiếm như vậy, do cái nghiệp mà hay tạo sự đau đớn cho chúng sanh như vậy, thì người đó bỏ thân này rồi họ sanh vào nơi cõi dữ, ác thú. Do sanh vào cõi dữ, cõi ác thú đó (BBT:CĐ,03A,E00:46:35) thì trong địa ngục đó họ chịu đau khổ hành hạ cái thân của họ cho đến khi họ được sanh ra làm người, họ sanh ra làm người thì họ bệnh hoạn suốt đời họ, họ bệnh rất nhiều, chớ họ ít có khi mà được mạnh khỏe. Do vậy, chúng ta thấy có người bị bệnh liên miên bất tận mà không thấy hết, đó là những điều kiện là họ đã tạo những hành động làm đau khổ chúng sanh, trong đó có con người ở trong đó nữa.

Bằng ngược lại,(BBT:CĐ,03B,B00:00:23) không lúc nào chúng ta đánh đập làm đau khổ chúng sanh, cũng như mình đi mình tránh không đạp con kiến gẫy chân, gẫy giò thì đó là mình không có làm đau khổ chúng sanh.Vô tình mình cũng làm đau khổ chúng sanh. Nhiều khi chúng ta thấy những con cuốn chiếu nó bò, con vật nó rất hiền lành, chân cẳng nó nhiều, nó không cắn, nó không có làm cho mình đau khổ thế mà mình vô tình mình đi kinh hành mình đạp trên nó nghe cái rốp. Nhìn lại mình nhìn thấy nó quằn quại, nó đau đớn, trong người nó tiết ra một cái nước mình thấy như là máu ở trong người mình chảy ra, mình thấy mình rất là đau đớn thương xót.

Một cái người tu hành của mình vậy, nhưng cái người ngoài thế gian họ có thấy thương xót không?

Họ còn lấy cây, lấy gậy gộc đập cho nó chết nữa, con vật này dơ bẩn, con vật này thế này thế khác, họ còn đập cho nó chết nữa, chớ họ đâu có nghĩ như chúng ta nghĩ.

Cho nên cái tâm của họ do cái chỗ đó mà họ sanh ra làm người họ rất là nhiều bệnh tật. Cho nên xét qua người này sống trong thế gian này có nhiều bệnh tật cũng đều do cái chỗ hành động vô tình hoặc hữu ý đó, mà chúng ta làm đau khổ bằng tay, bằng chân đối với chúng sanh.

Như vậy thì khi được học bài này rồi chúng ta sẽ từ giã, tức là chúng ta sẽ từ bỏ, chúng ta sẽ dứt trừ hành động làm đau khổ chúng sanh.

Nghĩa là con cái trong nhà của mình có sai, có làm không đúng cái gì đó, mình cũng không nên lấy tay mình tát nó nữa. Cái hành động làm cho nó đau một chốc lát đó mà sau này mình sẽ bị bệnh hoạn thì nó lại càng đau biết bao nhiêu hơn. Đó, cho nên chúng ta tránh nghiệp khổ đau đó cho chính bản thân mình thì mình đừng làm khổ đau ai cả hết. Vợ con nó có làm điều gì sái quấy, do nhân quả để nó gặt lấy, mình cũng không vì đó mà mình lại đánh nó thì tạo cho chúng ta có cái nghiệp thân sau này phải chịu những bệnh hoạn khổ đau.

Ngược lại mà chúng ta thực hiện không đánh không đập, không làm đau khổ chúng sanh như vậy thì chúng ta không có bệnh hoạn, ít bệnh hoạn.

Đời chúng ta thì chắc chắn là chúng ta có nhiều sự kiện chúng ta đã làm đau khổ chúng sanh, chưa chắc chúng ta không có người nào là không làm đau khổ chúng sanh. Vì vậy mà chúng ta hiểu, đời trước chúng ta khi chưa biết Phật pháp, chắc chắn chúng ta phải có làm những điều gì đau khổ, cho nên hiện giờ thân chúng ta phải có những bệnh tật, không thể nào tránh khỏi. Do nhân quả nghiệp báo mà chúng ta phải vay trả, bây giờ chúng ta vui vẻ mà trả những bệnh tật chứ đừng nên buồn.

Có nhiều người cứ nghĩ rằng đời nay tôi làm lành, làm thiện, tôi đâu có làm gì ác đâu, tôi luôn luôn thương xót mọi người, tôi làm việc từ thiện bố thí mà sao thân tôi khổ như thế này?

Trong tuổi trẻ lúc nhỏ chúng ta chưa hiểu biết, nhiều khi chúng ta bắt 2 con kiến như vầy chúng ta ngắt chân, ngắt càng nó nữa. Nhiều khi chúng ta đi ra biển bắt mấy con còng, mấy con dã tràng, rồi chúng ta chơi chúng ta ngắt chân ngắt giò nó. Đó là những cái mà chúng ta làm nó đau khổ. Vô tình, nhưng mà bây giờ chúng ta thọ lấy những cái bệnh thì chúng ta trách ai đây?

Có phải do từ hành động chúng ta làm đau khổ chúng sanh mà bây giờ chúng ta phải thọ lấy những bệnh tật thì chúng ta làm sao than phiền trách ai?

Đó là nói về cái thân bệnh của chúng ta, bệnh nhiều bệnh ít là do cái nghiệp làm đau khổ chúng sanh mà trong bài kinh này Phật đã dạy rất rõ ràng.

Bây giờ chúng ta tiếp tục, chúng ta sẽ nghiên cứu và đi tới để hiểu những gì mà chúng ta cần phải dứt bỏ đây?

Rồi sau này chúng ta còn phải biết những pháp để tu tập, đây là những điều kiện cần phải hiểu để mà chúng ta dứt bỏ.

3. Nhân Quả Xấu Xí Và Xinh Đẹp

Nếu một người đàn ông hay một người đàn bà tánh hay phẫn nộ, nhiều phật ý, bị nói đến một chút thì bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, tỏ vẻ phẫn nộ, bất mãn. Đó là cái hành động mà tánh tình phẫn nộ đó, nghĩa là luôn luôn lúc nào cũng phật ý mình, ai nói ra cái gì cũng phật ý mình cho nên khi bị nói đến một chút thì sân ầm ầm lên, phẫn nộ lên, sân dữ tợn lên, rồi tỏ vẻ chống đối đủ mọi cách, thậm chí như còn đánh lộn với người khác nữa. Rồi nếu mà không thì bất mãn, không muốn ăn, không muốn ở trong nhà này nữa, đó là những điều kiện tỏ vẻ như vậy đó.

Do cái nghiệp đó thì người đó họ sẽ có những quả nào đây?

Đây đức Phật đưa ra để cho chúng ta thấy rất rõ ràng. Do nghiệp ấy đã thành tựu - tức là nghiệp nó đã thành rồi đó, thì khi thân này họ hoại, tức là họ chết, họ sinh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục. Nghĩa là họ sanh vào cảnh giới khổ đau, khổ đau nhất mà đức Phật gọi là địa ngục. Rồi sau đó họ được sinh làm người, mà khi làm người thì mặt mày họ thô xấu.

Bây giờ mình thấy người nào mặt mày mà không đẹp đẽ, không có trang nghiêm, không có những tướng vẻ tốt thì đó là những người đã có những sân hận, những phẫn nộ dữ tợn cho nên họ mới có thân hình xấu, cái gương mặt xấu xí.

Đó thì hôm nay cái bài kinh này thì chúng ta nhìn ở trong chúng ta người nào mà có khuôn mặt xấu xí, có thân hình gù, thân hình tật nguyền, không được đẹp đẽ, tướng không được cao đẹp thì do đó họ có những cái phẫn nộ, những cái dữ tợn ở trong lòng của họ, có những sự bất mãn, bất bình, đối phó, chống lại đó là họ tạo cho họ có thân hình xấu xí. Họ tạo cho họ có gương mặt không đẹp đẽ, răng hô, mặt rỗ hoặc là trán vồ. Tất cả những thân, mặt của họ là do những hành động dữ tợn, phẫn nộ sinh ra.

Đây là con đường đưa đến để cho con người có một thân hình xấu xí.

Ngược lại, chúng ta có những điều gì chúng ta không phẫn nộ, không phật ý, lúc nào chúng ta cũng nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ sanh lên làm người có gương mặt đẹp đẽ, tướng hảo quang minh, không có còn xấu xí nữa. Đó là con đường đưa đến chúng ta có được thân người đẹp đẽ, tốt đẹp.

Qua bài kinh này chúng ta thấy sự phẫn nộ, sự sân hận của chúng ta có tốt không?Không tốt. Vậy từ đây về sau chúng ta phải nỗ lực, nhất là người cư sĩ chúng ta chung đụng trong gia đình quá nhiều, con cái, rồi vợ con, bè bạn, hàng xóm, người thân, cha mẹ… thì chúng ta thấy rằng phẫn nộ đem đến hậu quả cho chúng ta là những con người tật nguyền xấu xí, không có còn đẹp nữa. Cho nên chúng ta nỗ lực mà thực hiện đừng có phẫn nộ, đừng có sân hận, mà luôn lúc nào chúng ta cũng nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi ý nghĩ của người khác, mọi tư tưởng của người khác. Thì như vậy chúng ta sẽ tự tạo cho mình sau này có thân hình rất là đẹp đẽ.

Đó là cái sự so sánh, bài pháp này là bài pháp để cho người cư sĩ tu, bởi vì tu trong các đối tượng của mình nó có sẵn sàng. Còn người tu sĩ giờ họ sống trong rừng, họ sống trong cảnh như mình đây làm sao có sân hận, có phẫn nộ đâu.

Cho nên trước khi chúng ta đi vào cảnh xuất gia rồi thì chúng ta đã thực hiện dứt trừ được cái sân hận, cái phẫn nộ này, thì như vậy chúng ta đã tạo được duyên tốt cho gia đình, cho chính bản thân mình không làm khổ mình, không làm khổ người.

4. Nhân Quả Quyền Thế, Uy Tín

Kế đến Phật dạy tiếp, nếu một người đàn ông hay một người đàn bà tâm tánh tật đố, ganh ghét đối với người khác, thấy người ta được quyền lợi, được sự tôn trọng, được sự tôn kính, cúng dường, đảnh lễ thì mình sanh ra ôm ấp trong lòng tật đố, ganh tỵ.

Đó cái lòng như vậy đó, luôn luôn ôm ấp trong lòng của mình, cũng như bây giờ Thầy thí dụ như quý thầy thấy trong huynh đệ có người tu được, mình thấy mình tu dở hơn họ, đâm ra mình tức tối hoặc thế nọ thế khác, thì cái sự tức tối đó cũng là do lòng ganh tỵ. Nhưng lòng ganh tỵ đó nó có 2 góc độ, một cái ganh ghét rồi tìm cách hại người khác – cái đó quá tệ, một cái mình thấy mình tu hành thua hoặc là mình học hành thua người ta cho nên mình ráng cố gắng mình học hành để cho bằng hoặc hơn chứ mình không chịu thua, thì cái ganh tỵ đó nó cũng có cái ganh tỵ, nhưng cái ganh tỵ đó tốt. Còn cái ganh tỵ kia là mình tìm cách dìm người ta, mình hại người ta, thấy người ta hơn mình mình không muốn họ hơn, mình đem ra nói xấu họ với người này người khác, làm cho người ta bị họ chê cười này kia nọ, mình đặt ra thế này thế khác vu khống họ bằng mọi cách thì mình sẽ tạo nên cái nghiệp đó như thế nào?

Ở đây Phật có vạch cho chúng ta thấy rõ, do nghiệp ấy đã thành đạt, tức là nó thành tựu được, cái nghiệp ấy trở thành nghiệp rồi, khi mà mình có những tâm tật đố ganh ghét như vậy nó đã thành cái nghiệp, lúc bấy giờ khi thân hoại mạng chung mình cũng sẽ sinh vào những cõi giới ác thú, nghĩa là sinh làm những con thú dữ, cõi giới dữ và sa xuống địa ngục để thọ lấy những quả khổ ganh tỵ đó. Nghĩa là mình ganh tỵ, lòng ganh tỵ đó mình làm ra những hành động: mình vu khống hoặc mình tạo thế này thế kia để người mình ganh tỵ thọ lấy những sự đau khổ rất nhiều, và những hành động ác đó thì mình phải gánh chịu ở trong cảnh địa ngục, bị người ta hành hạ, bị người ta cũng làm cho mình đau khổ đủ điều. Sau khi thọ lấy những quả khổ đó hết rồi thì mình sanh ra làm người, thì con người của mình nó không có quyền thế hoặc là có quyền thế rất nhỏ, không có quyền thế lớn. Nghĩa là người ta không tin tưởng mình nhiều, không có thế lực lớn để cho mình làm các công việc lớn được, mình hầu như là không có được quyền thế, mà có được thì có rất nhỏ, rất ít.

Đó là con đường đưa đến không có quyền thế.

Con đường mà mình ghen ghét, tật đố người khác nó tạo cho mình tu hành cũng chẳng ra gì, chẳng đi đến đâu hết. Cho nên vì vậy khi chúng ta hiểu biết được cái này do đó chúng ta không ganh tỵ ai hết, không nói xấu ai hết. Mình nói xấu người khác tức là có lòng ganh tỵ rồi, mình phải thấy cái điều này rất rõ. Cho nên mình thấy người đó mình không ưa mình nói người đó như thế này như thế kia thì cái đó là ganh tỵ. Chẳng hạn như bây giờ thấy ông thầy đó có một cái chùa tốt, thầy thì không có cho nên thầy ganh tỵ cái chùa tốt ông ta, thầy nói ông ta thế này thế khác, thì đó là lòng ganh tỵ của thầy.

Vì vậy mà cái uy thế của thầy, quyền thế của thầy lần lần nhỏ đi đến khi nó mất, nó không còn có nữa. Còn mình không nói ai, mình không có ganh tỵ ai hết thì càng ngày người ta xét thấy thì quyền thế của mình, lòng tin của mình đối với mọi người càng nhiều lên. Mà lòng tin của mình đối với mọi người càng nhiều lên thì mình nói ra lời nói có thế, có thần, người ta tin tưởng ngay liền, cho nên nó có cái lực.

Còn mình nói ganh tỵ, nói những điều mà mình chê bai người này, chê bai người kia đó là cái lòng ganh tỵ của mình. Thí dụ Thầy bây giờ dạy về pháp Giới - Định - Tuệ, có người dạy thiền Đông Độ, Thầy nói thiền Đông Độ không đúng, sai hoặc là thế này thế khác, thì đó là lòng ganh tỵ của Thầy.

Hoặc là Thầy nói thiền Công án sai hoặc Thầy nói Đại Thừa sai hoặc thầy nói niệm Phật sai thì đó là cái lòng ganh tỵ của Thầy.

Bởi vậy, chúng ta đặt thành vấn đề, bảo là sai thì đó là chúng ta đã cón tâm ganh tỵ, mà đã có tâm ganh tỵ thì lần lượt chúng ta sẽ mất quyền hạn và từ đó không ai còn tin tưởng chúng ta nữa.

Cho nên quý thầy thấy rõ ràng, những cuộn băng mà Thầy dạy cho chúng ở đây, hầu như là Thầy phá chấp của họ trong những đường lối tu không đúng đường lối Giới - Định -Tuệ, mà phá chấp như vậy quý thầy thấy cuộn băng nào Thầy cũng cấm không cho lưu hành, tại sao vậy?

Tại vì cho lưu hành như vậy tức là mình bài bác người ta, mà bài bác người ta tức là tâm ganh tỵ của mình, cho nên do đó những cuộn băng mà Thầy dạy cho chúng ở đây để người ta chuyên vào Giới – Định – Tuệ người ta tu hành, vì vậy mà người ta không còn lầm lạc cái đường khác nữa. Do vì vậy mới có những lời nói mạnh bạo, mà lời nói mạnh bạo thì nếu mà đem phổ biến lưu hành ra những lời nói này thì đương nhiên người ta sẽ xem thấy mình và chính để tỏ lòng mình là đang ganh tỵ.

Cho nên Thầy rất cấm bặt là không được lưu hành,thế mà lần lượt rồi các vị cũng lén để cho người này nghe, người kia nghe. Ở đây mục đích của Thầy là nhằm dạy chúng ở đây tu hành, chớ không phải đem ra cho người khác nghe, không được phổ biến những lời Thầy dạy.

Bởi vì trong thế gian này về Phật pháp thì có nhiều đường lối tu tập, mà nếu đứng ở góc độ mình chê người khác thì đó là người sai, người không đúng. Người ta tu được ở trong pháp nào của Phật nó cũng đem đến lợi ích cho họ. Họ lẽ nào tu theo pháp của Phật mà họ làm điều ác. Cho nên chúng ta thấy mỗi Pháp đều có điều lợi ích. Nhưng đi đến cái mức cuối cùng để đạt mục đích của đạo Phật, có tới đó hay không thì đó là tùy phước báu, cái duyên của họ ở trên Pháp môn đó. Còn chúng ta mà có đạt được mục đích cuối cùng đó thì cũng là phước duyên của chúng ta mà thôi, chứ không phải chúng ta hơn thua với họ, không phải chúng ta ganh tỵ với họ.

Ai có duyên với Pháp nào thì chúng ta tu Pháp ấy, mà Pháp ấy nó cũng có lợi ích dù ít dù nhiều nó cũng đem đến cho sự tu tập của chúng ta.

Vì thế mà trên bước đường tu tập, Thầy nhắc quý thầy khi chúng ta được học tu ở đây và giữ gìn được giới luật của mình nghiêm túc ở đây thì chúng ta không nên: thứ nhất là không nên khoe khoang; thứ hai là không nên lấy giới luật, thiền định của chúng ta đã làm được ở đây mà chê bai chỉ trích người ta tu không đúng. Cái điều đó là điều Thầy đại kỵ. Người tu sĩ đúng đắn của đạo Phật thì chúng ta phải biết lòng ganh tỵ, tật đố này là cái xấu, là cái tệ chớ không phải là cái tốt đẹp. Và nhân quả của nó sẽ làm người đó mất uy tín, không còn thế lực, không còn quyền lực nữa, mất đi. Vì vậy mà chúng ta là những người tu để thắp lại ngọn đèn của Phật pháp, để thắp sáng lại ngọn đuốc của Phật pháp thì chúng ta cần phải lưu ý về phần tu tập này. Tâm không được đố kỵ, không được ganh ghét một pháp nào trên thế gian này, dù pháp đó của tôn giáo nào cũng vậy.

Cho nên ngày xưa đức Phật rất là cấm kỵ, khi người ta hỏi để tu thì cùng cực lắm đức Phật mới đem ra giảng chớ không bao giờ muốn tranh luận và hý luận. Phật cấm các đệ tử của mình không được tranh luận, không được hý luận với ai, dù người ta có chê bai mình thế nào, mặc, mình biết rằng con đường mình tu là giải thoát, là đem đến sự hạnh phúc cho bản thân mình và cho những người xung quanh. Vì vậy mà mình không nên đố kỵ, không nên ganh ghét ai cả hết.

Ngược lại thì chúng ta không tật đố, không ganh ghét ai hết thì chúng ta sẽ có quyền thế lớn.

Đó thì quý thầy phải nghe lời Thầy dạy là mình không chê bai ai hết thì quyền thế, uy tín của mình càng ngày càng to lớn. Còn mình chê bai, rỉ tai nói người này, rỉ tai nói người kia thì cái quyền thế mình càng ngày bị mất đi, uy tín của mình càng ngày bị mất đi. Thí dụ như trong huynh đệ chúng ta có những người mà chúng ta không hòa hợp nhau được, rồi chúng ta đem ra nói thầy đó vầy vầy vầy thì tức là chúng ta đã tự hại quyền thế của mình, uy quyền của mình, mình đã tự làm mất vì điều mình nói ra người ta sẽ nghe mà người ta không phải tin mình ngay liền mà người ta còn suy nghiệm, không ai nghe mà người ta tin liền đâu.

Cho nên quý thầy cẩn thận, chúng ta không nên đem một người nào, huynh đệ chúng ta mà nói ra. Mà nói ra thì coi chừng chúng ta vì lòng ganh tỵ hoặc vì cái gì bất mãn, không ưa nhau rồi chúng ta nói ra, rồi chúng ta tự mình giết mình chứ không phải giết người đó đâu. Vì người đó còn quan sát, xét mình nói ra, người ta còn theo dõi coi người đó có đúng không, nếu mà thấy người đó không đúng như lời mình nói thì ngược lại nó sẽ giết mình, lời nói của mình sẽ tự giết mình chết đi, nó làm cho mình mất uy tín với mọi người. Làm cho mình không còn ai tin tưởng mình nữa hết.

Đó là một cái bài học để chúng ta hôm nay Thầy răn nhắc, những bài học mà hôm nay cái giáo án của đức Phật đã đem cái bài này để mà giảng dạy chúng ta, đó là chúng ta phải biết nó ngầm có cái ngã của chúng ta, tâm tật đố ganh ghét là cái ngã của chúng ta đồ sộ nó mới có những cái tâm tật đố ganh ghét này.

Vì vậy mà chúng ta phải thực hiện từ bỏ tâm này, luôn luôn lúc nào không bao giờ nói xấu ai hết. Nghĩa là ai làm nhân nào thì họ gặt quả nấy, chúng ta hoàn toàn không nói ai hết. Ai làm gì mặc họ, chẳng biết gì đến ai. Nếu chúng ta đem rỉ tai nói người đó vầy vầy, người kia vầy vầy là chính người đó là người xấu.

Cho nên chính thầy đã học Phật pháp, một người nào mà nói với Thầy người đó vầy, người kia vậy thì Thầy làm thinh chứ Thầy biết, Thầy đánh giá trị cái người nào rồi, chứ Thầy không đánh giá trị người bị nói xấu đâu mà Thầy đánh giá trị cái người đang nói cho Thầy biết.

Thầy nói như vậy là quý thầy biết rằng Thầy không phải là cái người còn ở trong tâm phàm phu, nghe lời những người khác. Chớ Thầy thấy là hầu hết có một số người không sáng suốt ở chỗ này, khi nghe người đó nói thì người đó liền tin lời liền.

Cho nên Thầy nói như thế này để cho quý thầy biết, biết bao nhiêu người mà họ nói với thầy Thanh Từ về Thầy, Thầy là như thế này, như thế khác. Nhưng thầy Thanh Từ có nghe không? Chắc chắn là Thầy không nghe đâu. Bởi vì một bậc tu hành như HT Thanh Từ, chắc chắn là HT Thanh Từ rất rất là sáng suốt. Vì những bài học này là Phật đã dạy, một người mà đem cái người khác nói xấu người kia cho mình nghe, hoặc là nói cái người đó với mình có những cái này cái kia, nói xấu mình thế này thế kia thì cái người được nghe đó họ có tin không? Nếu là một bậc tu thì họ không bao giờ tin đâu. Mà họ quay lại đặt câu hỏi người đang nói xấu đó là cái người xấu.

Vậy quý thầy phải hiểu, Thầy thì ở trong tâm niệm đó, cho nên Thầy nghĩ rằng HT Thanh Từ cũng là con người ở trong tâm niệm đó, không phải bậc chân tu mà người ta theo tâm trạng phàm phu, nói đâu nghe đó, tin đó đâu, không bao giờ tin.

Hôm nay Thầy nói để cho quý thầy rút tỉa những kinh nghiệm, nhiều khi Thầy thấy cái tâm quý thầy còn yếu đuối, rồi tâm nghĩ đến thương Thầy, vì mình theo Thầy mà người ta phỉ báng thầy mình cho nên mình bảo vệ bằng cách này bằng cách khác cũng sai không đúng.

Là tại sao? Tại vì cách bảo vệ vậy nó không đúng, người ta nói gì thì nói, mặc. Không bảo vệ gì hết, để cho người ta sẽ thấy được. Và người đệ tử của Thầy không lý luận, thầy tôi vầy vầy, thì cái đó cũng là cái sai. Người ta nói mèo khen mèo dài đuôi. Cũng như giờ quý thầy học Thầy, ra nói thầy tôi tu như vầy như vậy, khen Thầy như là ông Phật vậy đó. Thì người ta có tin không?

Người ta đâu có tin quý thầy, quý thầy là đệ tử của Thầy cho nên người ta không tin, người ta còn phải thấy thật, người ta còn phải chứng nghiệm thật. Mà chứng nghiệm thật bằng cái gì?

Bằng cái mà quý thầy huênh hoang khoe Thầy như vậy là người ta thấy: học trò của ông thầy đó như vậy, huyênh hoang ông thầy đó như vậy thì ông thầy đó cũng như vậy mà thôi.

Các thầy phải hiểu điều đó, cho nên một người trí người ta đánh giá trị ngược lại khi mình huyênh hoang khoe ông thầy mình. Còn trái lại người ta khen, người ta chê, mặc.

Rồi đây các người sẽ thấy, hiểu biết được. Do đó người ta thấy cái người đệ tử của Thầy trước lời người ta phỉ báng thầy mình vẫn âm thầm vui vẻ, không có buồn, không có tức giận gì hết thì biết rằng hạnh tu của những bậc này không phải thường.

Còn thấy người ta mạ nhục thầy mình, nói thầy mình như thế này như thế khác, mình sùng lên, thì kia ở thế gian họ cũng vậy, có hơn gì mình đâu.

Cho nên hôm nay những bài học này là bài học của những người cư sĩ để chúng ta biết, chúng ta giữ gìn. Nhất là những người cư sĩ thường tiếp xúc, còn chúng ta là những tu sĩ xuất gia chúng ta ít tiếp xúc đời, cho nên chúng ta không có cái khen chê đó.

Nhưng những người cư sĩ đến với Thầy rồi về sống trong gia đình, nhiều khi nghe người ta chạm đến Thầy mình là sùng tức lên liền. Do bài này là bài học của những người cư sĩ còn tại gia muốn bảo vệ thầy mình, chẳng bao giờ nói lời nói nào hết. Họ nói gì mặc, còn mọi người còn để phán xét chứ đâu phải nói ra rồi người ta tin theo cái lời ông đó đâu.

Cho nên quý thầy phải hiểu biết ở cái chỗ Thầy dạy ra là mỗi mỗi chúng ta đều phải thực hiện ở oai nghi tế hạnh, cái đức hạnh của chúng ta ở chỗ đó.

Nhân cái bài dạy người cư sĩ tu tập ở giai đoạn thứ nhất này thì quý thầy sẽ hiểu biết được cái chỗ trích dẫn ra những lời Phật dạy này nhằm mục đích để chúng ta sẽ thực hiện được đức hạnh của người cư sĩ là đệ tử của đức Phật.

5. Nhân Quả Giàu Và Nghèo

Nếu một người đàn ông hay một người đàn bà tâm lòng nhỏ mọn, ích kỷ, không bố thí, không san sẻ, nghĩa là người nhỏ mọn, ích kỷ không có bố thí, không có san sẻ, không có cúng dường, thí dụ luôn luôn lúc nào cũng 9 đồng kiếm thêm đồng nữa để được 10 đồng. Tiết kiệm không dám xài phí thì cái người đó là người không có bố thí, không có lòng rộng rãi thì người này họ chết đi, họ sanh làm người thì con người của họ nghèo khổ. Tài sản của họ không có, mà có đi nữa cũng chỉ có rất nhỏ.

Đó là hiện bây giờ chúng ta thấy trong xã hội có những người nghèo khổ, rách rưới lang thang không nhà không cửa hoặc là có chút ít tài sản đủ ăn qua ngày. Thì những người đó trước là có lòng ích kỷ, hẹp hòi không có biết bố thí san sẻ. Không phải chúng ta nghèo mà chúng ta không bố thí được. Do cái lòng chúng ta đâu có cần chúng ta phải nhiều tiền nhiều bạc. Thí dụ bây giờ chúng ta nghèo, chúng ta không có mà chúng ta thấy người đó nghèo hơn mình, khổ hơn mình hoặc là đang cơn đói, mình chỉ cần san sẻ cho họ một bát cơm, một đồng bạc nó quý hơn là người giàu bỏ ra một triệu bạc. Cái lòng của chúng ta, cái lòng mà người nghèo mà san sẻ, cái tâm mà biết san sẻ bố thí biết cúng dường nó sẽ làm người đó sống trong cảnh đầy đủ và giàu sang, có của cải tài sản lớn.

Cho nên khi mà chúng ta ích kỷ, bỏn xẻn, tiện tặn, không dám bỏ ra cho ai hết, để có bao nhiêu thì mình chi dụng cho mình, cho gia đình mình, thì ngay trong kiếp này họ chắt bóp từng đồng chứ chưa chắc là đã giàu được. Thế rồi kiếp tới họ, họ còn nghèo khổ hơn và tài sản chẳng có gì, có chăng cũng chỉ chút ít mà thôi, cho qua ngày trong cuộc sống của họ.

Phật dạy ở đây để chúng ta muốn được làm giàu, được có tiền nhiều là do có sự bố thí, sự san sẻ, giúp đỡ những người bất hạnh ở trong xã hội của chúng ta.

Do vì vậy mà con đường này, hành động này đưa đến cảnh nghèo khổ của con người.

Hành động ngược lại, mà bố thí, san sẻ, cúng dường. Hành động đó sẽ đưa chúng ta đến tài sản lớn, giàu sang, có tiền của đầy đủ không bao giờ thiếu ăn thiếu mặc.

So sánh được như vậy thì trong cảnh nghèo chúng ta vẫn bố thí.

Cho nên xưa có một bà già đi ăn xin, bà rất nghèo, trong buổi hôm đó bà đi xin mà không được gì hết. Nhưng ông Ca Diếp thấy bà già này cần phải độ bà. Mà bây giờ bà nghèo quá, suốt đời bà không biết bố thí cho ai hết, đi xin mà bà còn không đủ ăn mà, làm sao bố thí cho ai được. Cho nên ông Ca Diếp tìm mọi cách cứu bà này thoát ra cảnh nghèo đói. Cho nên ông đến xin bà: bà hãy bố thì cho tôi thì bà sẽ được giàu sang sung sướng, bà sẽ được đầy đủ hơn, bà hãy bố thí đi, có cái gì bà bố thí đi.

Bà nói: tôi xin hồi sáng đến giờ không được 1 đồng xu đồng điếu nào hết, làm gì tôi bố thí được ông. Tôi còn đói gần chết mà làm sao tôi cho ông được.

Thì ông Ca Diếp ông nài nỉ: bà hãy bố thí đi, bà hãy bố thí cái gì mà bà có trong người của bà, cái gì mà bà có trong lòng của bà thì bà hãy bố thí đi.

Bà nghe ông thầy này nài nỉ bà bố thí một cách rất tha thiết cho nên bà quỳ xuống nói: bây giờ bà chỉ có tấm lòng bố thí cho ông mà thôi, bà dâng 2 bàn tay lên đối với ông Ca Diếp.

Thì ông Ca Diếp nhận sự bố thí của bà với tấm lòng thành của bà chứ chẳng có đồng xu, đồng điếu nào hết, hoàn toàn chẳng có vật gì. Nhưng đêm hôm đó bà chết, thì bà được sanh lên cõi trời. Bây giờ bà đã được hưởng đầy đủ, cái ăn cái mặc gì cũng được đầy đủ.

Đó thì chúng ta thấy chỉ cái một cái lòng bố thí chỉ một chút như vậy với một bậc Alahan thì ngay đó phước báu rất là lớn, rất là vĩ đại, được sanh lên cõi trời liền tức khắc.

Qua một chuyện bố thí này thì chúng ta, người cư sĩ chúng ta cũng cần phải học, học để làm gì? Để chúng ta biết bố thí, để chúng ta biết san sẻ trước những cảnh khổ. Mình khổ còn có người khổ hơn. Mình còn có mái nhà còn người ta ngủ ngoài hè phố, người ta còn ngủ dưới gầm cầu. Mình còn sung sướng hơn. Do đó, mình hãy bố thí cho họ một nắm cơm, một đồng bạc, mặc dù mình đang trong cảnh rất là bức bách, nghèo khổ.

Mình hãy cúng dường cho những bậc chơn tu, giới đức thanh tịnh, thiền định sâu mầu thì công đức thành tâm cúng dường đó nó sẽ đưa chúng ta đến đầy đủ cơm ăn áo mặc hơn. Nhớ cái hạnh bố thí là cái điều rất tốt để giúp cho đời hiện tại cũng như mai sau, chúng ta mãi mãi đầy đủ cơm ăn áo mặc, không thiếu.

Đến đây chúng ta sẽ học thêm một bài nữa.

6. Nhân Quả Hạ Liệt Và Cao Quý

Nếu một người đàn ông hay một người đàn bà tính tình ngạo nghễ, kiêu mạn, không tôn kính những bậc đáng tôn kính, không biết nhường chỗ ngồi, nhường lối đi cho những người già yếu, bệnh tật.

Thì bây giờ chúng ta thấy cái tính tình ngạo nghễ, kiêu mạn là tính tình rất xấu. Nó sẽ đưa đến chỗ nhân quả nào đây?

Đây chúng ta sẽ thấy con đường này. Do nghiệp ấy thành tựu, tức là trở thành thói quen ngạo nghễ, kiêu mạn đó, sau khi thân hoại mạng chung người ấy được sanh về nơi ác thú, đọa xứ, trong cảnh khổ đau. Sau khi sanh lên làm người, sanh trong gia đình hạ liệt, ăn học không đến nơi đến chốn, thường làm những việc lao công cực khổ, bị người khác sai khiến, sai bảo. Đó là con đường đưa đến những gia đình hạ liệt, nghèo khổ.

Vậy thì nếu mà đời này mình ỷ mình có tiền có bạc, có quyền thế nọ kia, có học hành nọ kia mà mình kiêu mạn, coi người ta không ra gì. Ỷ mình tu hành tốt, mà người khác tu không ra gì. Mình có vẻ tự kiêu tự đại của mình, ngạo nghễ của mình, thì hành động, nhân quả này, nghiệp này sẽ đưa chúng ta sanh trong những gia đình hạ liệt. Làm chúng ta không đủ phương tiện đi học, hạ liệt làm sao chúng ta có tiền, gia đình hạ liệt làm sao có sự hiểu biết cho nên làm sao cho con mình đi học đầy đủ, làm sao có đủ duyên mà tu hành.

Cho nên tất cả những cái này là do tánh kiêu mạn, ngạo nghễ của chúng ta mà đưa chúng ta đi đến cái lối này. Làm cho cái đời của chúng ta kế tiếp nó sẽ là bước đường rất là đau khổ, không bằng ai hết trong xã hội.

Ngược lại, quý thầy thấy rất rõ, nếu mà chúng ta diệt tính kiêu mạn, ngạo nghễ, mặc dù chúng ta sống trong gia đình rất là giàu sang chúng ta không kiêu mạn ai hết, không khinh chê ai hết. Chúng ta học hành giỏi, chẳng kiêu mạn, chẳng ngạo nghễ hơn ai hết. Rồi chúng ta có làm những nghề nghiệp kinh tế dồi dào chúng ta cũng chẳng khinh chê ai hết, nghĩa là mình phải xét qua những nhân ác, nhân thiện, qua những hành động bố thí của người ta, do đó lúc nào mình cũng khiêm hạ, từ tốn, không có kiêu mạn, không có ngã mạn trước mọi người, mọi hoàn cảnh. Thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ sanh vào ở trong những gia đình cao quý, giàu có.

Đó là con đường đưa đến gia đình cao quý, khi mà mở mắt chào đời thì chúng ta sinh trong gia đình có học thức, cao quý, có tiền bạc, có đầy đủ những quyền thế.

Đó là cái tánh ngã mạn, kiêu căng của chúng ta, mà Thầy thấy hầu hết chúng ta sanh ra là mọi người đều có tánh ngã mạn, kiêu căng đó, hoặc là ngầm hoặc là lộ ra cho mọi người thấy.

Thì tất cả những cái này là những cái đưa đến con đường hạ liệt hay cao quý. Cho nên những lời dạy của Thầy ở đây hầu như giúp cho quý cư sĩ phải thấy rõ được con đường tu tập của mình. Để cho mình dứt bỏ cái tâm ngạo mạn, cái tâm ngã mạn của mình đi. Đừng có xem thường ai hết, bởi vì ai cũng là một con người, thậm chí như một con vật mình cũng thấy nó bằng mình. Vì Phật đã nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tức là đều có sự bình đẳng với nhau đó.

Cho nên vì vậy chúng ta đối xử với mọi người, người nghèo người khổ cũng như tất cả mọi người xấu tốt gì, tất cả đều là do nhân quả của họ, chúng ta hoàn toàn là không khinh chê người nào hết. Mà khinh chê thì tức là có ngã của chúng ta, mà có ngã thì coi chừng cái kiêu căng ngạo nghễ của chúng ta theo đó mà ra. Cho nên từ đó chúng ta phải thấy nghiệp của chúng ta, cái nhân nào nó sẽ chiêu cảm nghiệp nấy mà nó đưa chúng ta đi đến khổ sở.

Sau khi quý thầy đã nhận thấy nghiệp dẫn đi trong luân hồi, trong cảnh giới khổ vui, hạnh phúc hay bất hạnh, giàu sang tốt xấu đều do nghiệp dẫn đi.

Nghiệp là gì, nghiệp là những hành động thân khẩu ý của quý thầy tạo ra.Quý thầy thấy cái nghiệp từ đâu mà có, nó đi từ cái miệng của mình, cái thân của mình, cái ý của mình mà nó ra, mà nó tạo ra những cái mà Thầy đã nói ở trên, để tạo ra cho chúng ta chỗ hạnh phúc an vui hoặc là chỗ đau khổ, hoặc là chỗ trường thọ, chỗ yểu tử.

Đó là những điều mà chúng ta đã thấy, vì vậy mà chúng ta phải phòng hộ, giữ gìn mắt tai mũi miệng thân ý của mình rất là cẩn thận kỹ lưỡng. Cho nên Phật dạy chúng ta Thánh phòng hộ. Nghĩa là chúng ta phải phòng hộ đúng mực của nó. Luôn luôn lúc nào cũng dè dặt cẩn thận giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, nhất là thân - khẩu - ý của chúng ta, ba nơi hành động của thân chúng ta để tạo thành nghiệp.(BBT:CĐ,03B,00:36:08)

(...)

Thập ác đem đến cho quý vị khổ đau, do đó quý vị phải học thập thiện, sống thập thiện. Đó bây giờ người cư sĩ phải tu tập cái gì, họ phải học cái gì đây?Họ phải học thập thiện tức là 10 điều lành, họ phải sống đúng trong 10 điều lành.

Quý vị đã nghe, đã biết cái nghiệp của mình rồi chứ gì. Những hành động mà tạo cho quý vị khổ đau, đưa quý vị đến khổ đau thế này thế khác mà kinh Phật đã dạy chúng ta như vậy, Thầy trích ra những điều thế này, Thầy giảng thêm để cho quý vị rất rõ về nghiệp nó từ đâu mà có, và bây giờ chúng ta đại khái, nó rất nhiều chứ nó không phải chỉ có những phần này không đâu. Bởi vì nếu mà được thầy giảng về nhân quả luân hồi, nói về nhân quả thì nó có những bài, cái hành động của quý vị làm cái gì thì nó sẽ có cái nghiệp đó đến với quý vị, có cái nhân quả của nó đến với quý vị.

Thì ở đây những bài này nói nghiệp nhưng thực ra đó là nhân quả đó, cái nhân quý vị làm cái gì thì cái quả quý vị phải thọ lấy cái đó. Như cái nhân của mình ngạo nghễ, kiêu mạn thì mình sẽ sanh được vào quả của mình là sinh vào nhà nghèo khổ, hạ liệt. Còn cái nhân của mình không có kiêu mạn, không có ngạo nghễ, không khi dễ ai hết thì cái nhân đó mình sẽ sinh được vào nhà quyền quý, cao quý.

Quý thầy thấy từ đó mà chúng ta suy ra nhân quả, mà nhân quả thì đó là nó tạo thành thói quen, mà thói quen đó gọi là Nghiệp.

Học Tập Thập Thiện

Thì chúng ta biết được con đường như vậy, thì chúng ta là những người cư sĩ, chúng ta phải tiến tới học thập thiện. Thập thiện tức là 10 điều lành. Mà 10 điều lành này là của người cư sĩ. Mà đức Phật nói 10 điều lành này là để tạo cho chúng ta một cái hướng sanh về cõi trời. Thập thiện tức là những vị trời đều là những người sống ở trong thập thiện hết, cho nên mới được sanh về cõi đó, cho nên trời là phải sống thập thiện.

Vì vậy mà người cư sĩ chúng ta còn tại gia, chúng ta chưa xuất gia thì chúng ta phải tu học, tập luyện và sống cho đúng thập thiện. Kế đến quý vị phải tu Tứ chánh cần. Nếu muốn thực hiện thập thiện cho đạt được thì pháp Tứ chánh cần quý vị phải tu tập. Quý vị phải thấy được đường lối của đạo Phật.

Nếu mà quý vị học hiểu được Thập thiện, mà quý vị không tu Tứ chánh cần á, thì quý vị chẳng hề mà thực hiện được Thập thiện. Tức là quý vị không sống được Thập thiện. Và quý vị phải giữ gìn Ngũ giới, lúc bấy giờ quý vị phải được người ta trao cho quý vị những cái giới để quý vị nghiêm chỉnh, thì cái hạnh phúc của gia đình quý vị sẽ mãi mãi, suốt đời không còn khổ đau, không còn phiền não nữa. Nghĩa là vợ nói chồng nghe, chồng nói vợ nghe, không bao giờ mà có sự rầy rà ở trong gia đình, con cái rất là hiếu thảo. Đó đến đây thì quý vị thấy rất rõ, khi mà quý vị học Thập thiện và sống được Thập thiện thì quý vị phải tu tập Tứ chánh cần. Mà phải tu tập Tứ chánh cần thì trong Tứ chánh cần quý vị thấy rằng: cái giai đoạn mà ở đây Phật dạy đó, cái giai đoạn mà Tứ chánh cần thì đức Phật dạy dứt bỏ những gì phải dứt bỏ. Thì cái giai đoạn thứ ba là rất cần thiết cho người cư sĩ, nghĩa là mình phải dứt bỏ.

Thì Tứ chánh cần như thế nào, Thầy giảng sơ, sau này Thầy sẽ giảng Thập Thiện này, Thầy sẽ giảng Tứ chánh cần để cho biết cách thức tu bởi vì đây là giai đoạn thứ nhất của người cư sĩ phải tu, nếu mà không biết pháp tu làm sao tu cho được.

Cho nên muốn tu Tứ chánh cần thì trong bài kinh Phật dạy nó rất đơn giản, nhưng mà giải ra thì nó không phải là đơn giản đâu, không đơn giản như quý vị hiểu đâu. Nghĩa là Tứ chánh cần Phật nói các pháp ác chưa sanh thì chúng ta không cho sanh, mà đã sanh thì cần phải đoạn dứt, từ bỏ liền, không có cho nó tăng trưởng. Các pháp thiện chưa sanh thì chúng ta cho nó sanh, khởi lên cho nó sanh, mà nó đã sanh thì chúng ta tăng trưởng. Đó là Tứ chánh cần, đơn giản chúng ta hiểu như vậy. Nhưng mà sau này thì Thầy sẽ giảng thêm cách thức chúng ta tu tập Tứ chánh cần. Bởi vì nói về thiền định thì gọi Tứ chánh cần là Định tư cụ, là cái dụng cụ để tu thiền định sau này, cho nên ngay từ người cư sĩ mà chúng ta tu tập Tứ chánh cần này là chúng ta chuẩn bị cho con đường tu thiền định của mình sau này chớ không phải gì khác hết.

Mà chính tu Tứ chánh cần này nó sẽ giúp cho chúng ta có một đời sống thập thiện, sống đời sống 10 điều lành. Mà đời sống 10 điều lành này làm cho đời sống quý vị, gia đình quý vị, bà con chòm xóm, làng xã, xã hội của quý vị rất là an vui và hạnh phúc.

Được học và hiểu Phật pháp đến đây sau những ngày áp dụng những bài học vào đời sống của quý vị, quý vị sẽ thấy kết quả an vui hạnh phúc chơn thật của đời sống con người. Nghĩa là lúc bấy giờ quý vị đến xin, lúc này quý vị đã áp dụng được bài học này rồi thì mới đến xin thọ Tam quy, Ngũ giới. Được một vị thầy đại diện cho ba ngôi Tam bảo truyền Tam quy, Ngũ giới cho mình. Còn nếu mình chưa được thì mình vô mình xin thọ Tam quy, Ngũ giới coi chừng mình phạm những lỗi rất lớn. Bởi vậy khi chuẩn bị cho một người cư sĩ thì nó phải đâu ra đó hẳn hòi rồi mới thọ Tam quy - Ngũ giới. Nhưng mà hiện tại bây giờ thì Thầy thấy người cư sĩ muốn đến xin thọ Tam quy - Ngũ giới thì họ nghiên cứu kinh sách một cách rất là bừa bãi… chứ chưa hiểu cách thức tu tập như thế nào.

Cho nên mình chưa có giữ gìn được những cái hạnh, cái đức của mình cho nghiêm chỉnh như một người đệ tử. Mình vô rồi bắt đầu từ đó mình mới tu tập sau. Nhiều khi mình tu tập cũng không thành ra một vấn đề gì nữa hết. Nghĩa là thọ Tam quy cho có Tam quy vậy chứ còn thiệt ra chưa có hẳn làm mình sống như Phật - Pháp - Tăng. Mình thọ Tam quy tức là mình nương theo 3 ngôi Tam Bảo, thế mà mình không có theo ba ngôi Tam bảo mình sống. Ông Phật sống như thế nào? Mình sống được như ông Phật chưa? Chưa.

Vậy mà mình thọ Tam quy là thọ làm sao? Còn thọ Ngũ giới thì có người khi thọ Ngũ giới thì nói con bị nghiền rượu thôi con xin để cái này tập tu lần lần lần lần chứ bây giờ con không dám hứa là con giữ gìn được cái giới đó đâu. Thầy thấy có nhiều người khi mà hỏi họ giới thứ 5 này có giữ được hay không, họ nói cái giới này con giữ chưa được vì con còn nghiền rượu. Để chừng nào con bỏ rồi con mới giữ được. Thôi bây giờ cái giới này để con từ từ sau rồi con giữ. Mà bây giờ 5 giới như vậy đó mà mình không chuẩn bị cho mình, đến đó mình còn hứa hẹn để cho mình tu từ từ thì chắc chắn là người này không bao giờ từ từ được hết và đồng thời họ cũng xem thường Tam quy - Ngũ giới của Phật là cái điều lành, là một pháp môn để đem lại đời sống cho người cư sĩ hạnh phúc và an vui trong gia đình của họ.

Những gì của Phật pháp đều là đem lại sự giải thoát, đem lại sự an vui, mà chúng ta đi đến với Phật pháp thọ Tam quy - Ngũ giới rồi, Thầy thấy mà gia đình Phật tử thọ Tam quy - Ngũ giới rồi, thầy thấy lộn xộn chứ chưa hẳn là có trật tự, có hạnh phúc ở trong đó. Cha vẫn rầy mắng con, không có tìm hiểu con mình như thế nào. Con thì cãi lẫy cha mẹ, muốn đi chơi là đi, muốn ngang dọc như thế nào cũng không cần thiết cha mẹ. Vợ con ở nhà thì rầy rà, giận hờn, canh chẳng ngon mà cơm chẳng lành, nó đủ thứ ở trong gia đình hết. Thế mà người nào cũng đến quy y Tam bảo - Ngũ giới. Người nào cũng có pháp danh này, pháp danh kia rẫy đầy. Thế mà cuối cùng thì cái giải thoát, đem lại đời sống cho họ thì không có. Cho nên Thầy thấy thiệt là quá đau khổ cho những người đệ tử của Phật trong giai đoạn này.

Nếu mà được học giáo án này mà chấp nhận cho một người cư sĩ vào đạo, chúng ta phải trang bị cho họ những pháp môn tu hành nào, những cái gì chúng ta phải dạy cho họ trước. Sau khi họ đã thấm nhuần được, bây giờ mới làm lễ cho họ thọ Tam quy - Ngũ giới thì chừng đó người cư sĩ đệ tử của Phật có phải là đem lại hạnh phúc cho gia đình họ, đem lại sự không đau khổ cho mọi người trong gia đình họ. Còn bây giờ chúng ta không có trang bị cho họ những gì theo giáo án này mà nếu trang bị cho họ đầy đủ rồi thì khi họ thọ Tam quy - Ngũ giới xong rồi, thì họ làm đệ tử Phật thì họ đã xứng đáng chưa? Rất xứng đáng. Họ đem lại hạnh phúc cho gia đình họ, sự an vui cho chòm xóm của họ, không bao giờ họ còn say sưa chửi bới chòm xóm, không bao giờ họ còn giận giữ một con chó, con gà của chòm xóm qua nhà họ mà họ làm thế này thế khác. Đó là những cái chúng ta phải trang bị những pháp môn, những sự thông hiểu, những hiểu biết cho người cư sĩ sắp sửa là đệ tử Phật. Khi họ thọ Tam quy - Ngũ giới thì họ là đệ tử Phật.

Đạo Phật không chấp nhận những người cư sĩ chuyên tâm:

Quý vị phải hiểu khi mình đã thọ Tam quy - Ngũ giới rồi mà mình còn những điều này thì đức Phật làm sao chấp nhận mình là đệ tử của Phật được:

1. Làm khổ người

Hở ra một chuyện gì mình mạ nhục mình đánh đập người ta, mình coi đầy tớ của mình không phải là con người nữa, lúc mình tức giận. Cho nên đó là cách thức mình làm khổ người.

2. Làm khổ mình

Mỗi mỗi chút nào cũng rầu lo, cũng tức giận ở trong người của mình, thì như vậy mình có xứng đáng là đệ tử của Phật không? Người đệ tử của Phật không bao giờ tức giận, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thấy sự phiền não tức giận của mình tức là mình đã tự làm khổ lấy mình rồi. Mình hãy xả bỏ cái đó đi. Thì cái người mình đã đã trang bị cho người cư sĩ sắp sửa trở thành người đệ tử của Phật chính thức thì họ không bao giờ họ làm khổ họ, mà không bao giờ họ làm khổ người.

Thì như vậy, một cái người thầy mà đại diện cho Phật Pháp, là một vị Tăng, là khi một người cư sĩ họ trở thành một (BBT:CĐ,03B,E00:47:35) đệ tử của Phật là mình (BBT:CĐ,04A,B00:00:17) phải trang bị cho họ đầy đủ những pháp môn, những điều kiện để đến khi họ trở thành một người đệ tử của Phật thì họ thấy rõ ràng đi vào đạo Phật có sự giải thoát cụ thể, có một đời sống rất là an vui hạnh phúc chứ không phải là như những gia đình chưa biết đến đạo Phật. Còn bây giờ chúng ta thấy bao nhiêu Phật tử đến với đạo Phật, là đệ tử cư sĩ đạo Phật, cúng dường thì có nhưng mà hạnh phúc của họ thì có không? Họ cúng mãi cúng mãi, bao nhiêu chùa tháp xây dựng lên vĩ đại mà cuối cùng gia đình họ Thầy thấy hoàn toàn là tan nát, rầy rà chửi mắng đủ điều chứ chưa phải là hạnh phúc trong đó.

3. Làm khổ người, làm khổ mình

Nghĩa là làm cho người ta khổ, làm cho mình khổ. Ví dụ bây giờ một đứa con mình sai thì mình không nên tức giận, la rầy, chửi mắng đứa con, mà phải nên ôn tồn, nhỏ nhẹ khuyên bảo với những lời nói nghiêm trang cộng với gương mặt nghiêm nghị. Mỗi lời nói của mình phải vạch ra cho nó thấy những hậu quả tai hại sẽ làm khổ bản thân chính nó, mà còn chính những điều này sẽ liên lụy làm khổ cha mẹ và anh em trong gia đình. Bắt đầu từ đây con phải chừa bỏ vì đó là một điều tai hại làm buồn khổ cho cả gia đình. Tuy bây giờ chưa có gì xảy ra, nhưng những hành động của con vui chơi với bạn bè vô ý thức, hậu quả sẽ xảy ra to lớn, khổ đau cho gia đình chúng ta. Con hãy suy nghĩ kỹ lại đi, đừng bê tha với những người bạn bè hư thân, rượu chè, bài bạc, đua xe gắn máy cùng những gái buôn hương bán phấn mất nết hư thân. Hãy tìm bạn tốt mà chơi con ạ. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Con hãy nhớ lấy những câu tục ngữ này, còn nhỏ phải siêng năng học tập, sau này lớn lên mới trở thành người hữu dụng cho bản thân con và xã hội. Cha mẹ sẽ mất đi không thể sống mãi nuôi con. Con phải tự nuôi sống lấy, phải bảo bọc gia đình của con bằng chính bàn tay và khối óc của con.

Những lời dạy này đã không làm khổ người mà có những lời khuyên răn dạy bảo con đúng cách làm cha mẹ. Bởi vậy không chấp nhận làm khổ người. (BBT:BN,03,E00:55:40)(BBT:CĐ,04A,E00:03:03)

 

BĂNG SỐ 04

(BBT:CĐ,04A,B00:00:00)(BBT:BN,03,B00:55:41)

Bắt đầu quý thầy niệm hồng danh đức Phật.

Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( 3 lần)

Vừa rồi Thầy dạy đến đoạn mà (BBT:CĐ,04A,B00:03:14) đức Phật không chấp nhận những người cư sĩ chuyên tâm:

1. Làm khổ người.

2. Làm khổ mình.

3. Làm khổ người, làm khổ mình.

Và chấp nhận những cư sĩ không làm khổ mình, không làm khổ người. Những người cư sĩ này mới chính là đệ tử của đức Phật, còn những hàng cư sĩ kia chưa phải là những người cư sĩ chân chánh.

Những hàng cư sĩ chân chánh của đạo Phật cần phải được hằng ngày trau dồi Tứ vô lượng tâm.

1. Tâm từ được trau dồi sẽ diệt sân hận.

2. Tâm bi được trau dồi sẽ diệt tánh hung bạo.

3. Tâm hỷ được trau dồi sẽ diệt lòng ganh tỵ

4. Tâm xả được trau dồi sẽ diệt hận thù.

Tứ vô lượng tâm này là người cư sĩ sau khi tu tập thập thiện, là 10 điều lành, thì bước qua giai đoạn 2 của nó thì trau dồi tứ vô lượng tâm.Vì tứ vô lượng tâm tu tập nó là trau dồi cái tâm của mình: tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả để đối trị với tâm sân, tánh hung bạo, lòng ganh tỵ, lòng hận thù. Đó là những điều người cư sĩ cần phải trau dồi, tu tập nó.

Người cư sĩ theo đạo Phật phải ước nguyện trọn đời sống:

1. Thân hành thanh tịnh.

Nghĩa là người cư sĩ mà đã quyết tâm theo đạo Phật tu hành thì thứ nhất mình phải làm sao cho thân của mình được thanh tịnh. Mình phải hiểu như thế nào gọi là thân thanh tịnh.

2. Khẩu hành thanh tịnh.

Tức là mình phải hiểu làm sao cho lời nói, cho miệng của mình luôn luôn trong sạch thanh tịnh.

3. Ý hành thanh tịnh.

Nghĩa là làm sao cho tư tưởng suy tư của mình được thanh tịnh.

4. Sinh sống thanh tịnh.

Tức là cách thức làm ra tiền, ra của, ra vật dụng được trong sạch thanh tịnh, không có gian ác ở trong đó, không có xảo quyệt trong đó.

Đó là 4 cách mà người cư sĩ phải nguyện trọn đời của mình phải thực hiện 4 cách này thì mới làm cho thân tâm của mình được thanh tịnh và đời sống mới được giải thoát an vui.

Nếu người cư sĩ sống được như vậy từ đó mới chứng được tri kiến bồ đề. Nghĩa là cái người cư sĩ mà sống được 4 cái sự thanh tịnh này thì cũng từ trong 4 cái sự thanh tịnh này thì người cư sĩ đó sẽ có phát triển những tri kiến giải thoát của họ.

Người cư sĩ đến đây còn phải tiếp tục tu tập Tứ chánh cần để dứt bỏ toàn bộ những điều ác, lìa xa những điều ác, từ giã, từ khước những điều ác. Nhờ Tứ chánh cần mà người cư sĩ xa lìa tất cả những điều ác trong tâm, cũng như trong việc làm của mình.

Kế đến phải tu tập Thiền định. Thiền định của người cư sĩ phải như thế nào? Người cư sĩ phải tu Chánh niệm tỉnh giác định. Người cư sĩ phải tu một loại định nào nữa? Phải tu Vô lậu định. Đó là 2 loại định mà trong đời sống hằng ngày của người cư sĩ cần phải siêng năng, chuyên cần, nhiệt tâm tu tập 2 loại định này để đem lại một đời sống an vui và hạnh phúc, rất là hòa thuận trong gia đình cũng như là mọi người xung quanh trong xã hội.

Đến đây Thầy sẽ dạy tiếp vì trong giáo án này người cư sĩ bắt đầu phải tu tập, học hiểu 10 điều lành mà trong kinh Phật dạy là thập thiện.

Để tóm lại bài giảng kỳ rồi, để cho quý thầy thông hiểu Nghiệp. Đối với đạo Phật được xem Nghiệp là tạo hóa sinh ra loài người và chúng sanh. Nên nó thường sai khiến con người, vì thế con người là kẻ được thừa tự của Nghiệp. Đời đời kiếp kiếp của con người tiếp nối nhau trong 6 nẻo luân hồi đau khổ đều do chính nghiệp mà ra. Biết vậy, chúng ta cần phải chấm dứt nghiệp. Chấm dứt nghiệp là chấm dứt tái sanh luân hồi, sanh tử và đau khổ. Muốn chấm dứt nghiệp thì chúng ta cần phải xem Nghiệp đang hành xử ở chỗ nào?

Trên thân chúng ta có 3 nơi mà nghiệp đang hành xử, 3 trụ sở đó là đâu? Làthân, miệng, ý của chúng ta. Hằng ngày đêm nghiệp thường đến 3 nơi này làm việc liên tục, nó làm việc gì ở đây, nó đến 3 nơi này để chỉ đạo điều khiển con người và tất cả chúng sanh làm điều thiện, điều ác. Vậy điều thiện như thế nào và điều ác như thế nào?

Muốn biết được điều thiện và điều ác chúng ta cần phải tư duy, suy nghĩ. Con người sinh ra đời mang theo thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Nếu thân, khẩu, ý nghiệp thiện thì con người được hạnh phúc, ấm no, an vui, yên ổn. Bằng ngược lại thân miệng ý nghiệp ác thì phải thọ lấy bệnh tật, tai nạn, nghèo đói, phiền não, đau khổ, giận hờn, thương ghét, sầu muộn, sợ hãi .v.v…

Như thầy đã giảng trạch ở trên, nghiệp phân chia loài người và chúng sanh có tốt xấu, sang hèn, quyền thế, vua chúa, dân dã, quan quân, sỹ tốt, người nghèo, người giàu, người thông minh, người u tối, v.v..

Ước vọng của con người khi sinh ra đời đều mong được mạnh khỏe, an vui, sống lâu, hạnh phúc, ít bệnh, ít tật, nhiều may mắn. Nhưng mấy ai trên đời này được toại nguyện? Sự thật đời người từ khi sinh ra cho đến ngày đi về lòng đất chỉ một chuỗi dài thời gian chịu biết bao nhiêu gian khổ, lại còn bệnh tật, tai ương và chết! Thảm trạng của đời người là vậy nhưng mấy ai đã biết. Nếu không có đức Phật mở lối khai đường dẫn dắt cho chúng sanh thì biết chừng nào ra khỏi 6 nẻo luân hồi đau khổ này.

Vì chính vô minh mê mờ không hiểu, con người đã lầm chấp mọi việc trên thế gian này là thường hằng, thường còn. Cho thân tâm này là cái ngã của mình nên cố gắng bảo vệ nuôi dưỡng và phục vụ nó một cách điên khùng tạo nhiều điều ác độc. Thậm chí có người còn mơ mộng đi tìm thuốc trường sanh hoặc tu hành luyện đơn để được trường thọ sống lâu muôn đời. Nhưng xét cho cùng có mấy ai đã làm được. Chỉ vì vạn pháp trên thế gian này đều vô thường, nay còn mai mất, tan hợp như mây giữa trời. Vì vô minh không hiểu lý duyên hợp của vạn pháp nên không thấy nghiệp lực diễn biến trên lộ trình nhân quả kiếp này đến kiếp khác, liên tục không bao giờ dứt. Thân tâm này vừa tan hoại kế nối thân tâm khác như cây đuốc này vừa tắt nối tiếp cây đuốc khác, cứ mãi tiếp nối tiếp như vậy suốt thời gian vô tận mà không có một lộ trình thoát ra khỏi. Mỗi kiếp người sinh ra phải chịu biết bao quả báo đau khổ do chính hành động thân - miệng - ý của mình nhưng nào ai có biết. Cứ mải chạy theo danh lợi và vật chất thế gian, càng lúc càng tạo thêm nhiều điều ác độc, tội lỗi.

Người cư sĩ muốn chấm dứt hoàn cảnh khổ đau đời sống của mình, vượt thoát cảnh tù tội ở thế gian, những tai nạn hiểm nghèo, bệnh tật nan y, những xung đột, lòng tỵ hiềm ganh ghét, tánh ích kỷ nhỏ mọn hẹp hòi và tâm dối trá xảo quyệt, v.v.. thì trước tiên phải thông hiểu thập thiện tức là 10 điều lành Phật đã dạy, rồi sau lần lượt phải trau dồi thân tâm trong 10 điều lành này để dứt trừ 10 điều ác.

Thập thiện là con đường đưa con người đi đến hạnh phúc chân thật, giúp con người thoát ra khỏi tâm niệm thường tình thế gian. Thập thiện rèn luyện con người đạo đức nhân quả trở thành người tốt trong xã hội hiện nay và mai sau. Giúp tâm tánh con người không còn ác độc, xảo trá, gian dối, lừa bịp; khiến con người trở thành điềm đạm, khiêm tốn, giản dị, hiền lành, có đầy đủ nhân cách làm người, mà còn đủ sức nhẫn nại vượt qua bao cam go thử thách của cuộc đời.

Thập thiện chuyển cảnh khổ đau, đói rét, bất toại nguyện trở thành cảnh an vui, yên ấm hạnh phúc và tạo cảnh thuận duyên mãi mãi cho cuộc sống con người.

Thập thiện xây dựng cho chúng ta một cuộc sống đạo đức chân thật, luôn luôn mọi cá nhân làm gương tốt cho người khác.

Thập thiện biến kẻ hung ác sát nhân, trộm cướp, hãm hiếp trở thành những người trong sạch lương thiện, tâm hồn trong sạch, không còn lo lắng tù tội thế gian và 3 đường ác.

Thập thiện cải biến nghiệp ác thân - miệng - ý trở thành nghiệp thiện thanh tịnh không phạm phải lỗi lầm, lỗi ác.

Người cư sĩ không tu tập thiện, 3 nghiệp thân miệng ý tạo đầy đủ 10 điều ác đó là tạo nhân quả khổ đau cho kiếp sống hiện nay và đưa đến ngày mai. Địa ngục là con đường đau khổ nhất trong 6 nẻo luân hồi. Đâu phải đợi ngày mai mới chết sa địa ngục mà chính ngay trong cuộc sống hiện tại nếu ai đã làm đủ 10 điều ác chắc chắn phải chịu thọ một đời sống hoàn toàn đau khổ như trong địa ngục vậy. Quý thầy cứ xem có một kẻ nào ưa làm điều ác, sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời thêu dệt, nói lời hung ác, tham lam, sân hận và si mê có lúc nào người này được an vui đâu? Dù ở địa vị nào trong xã hội, bản thân và tâm hồn của họ vẫn đen tối và đau khổ bất tận. Phật dạy chúng ta tu thập thiện cốt là tạo đầy đủ phước báu để chuyển hóa cuộc sống của chúng ta hiện nay được an vui hạnh phúc và đời sau còn được thỏa mãn mọi nhu cầu trong cuộc sống dù sanh bất cứ nơi đâu.

Thập thiện có lợi ích, có thành quả lớn như vậy, ai là người đã đủ duyên được nghe, đọc thấy, hiểu biết và được tu tập đó là một phước báu lớn của kiếp làm con người. Vậy hôm nay chúng ta đã được biết thập thiện đừng để luống qua một đời đen tối và đau khổ. Được kho báu đạo đức làm người tốt mà không biết dùng kho báu đành để một đời nghèo khổ đạo đức, lang thang trong 6 nẻo luân hồi khổ đau bất tận. Như trên Thầy đã dạy người nào muốn thoát khỏi thân bệnh, tâm bệnh, tai nạn này hoặc tai nạn khác và cầu mong gia đình được an vui đầm ấm, con cái hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận sống trong tình nghĩa yêu thương mặn nồng tràn đầy hạnh phúc thì hãy tu tập thập thiện.

Thập thiện là 10 điều lành do thân, miệng, ý hành động.

1. Thân có 3 nghiệp thiện, ngược lại là 3 nghiệp ác:

Không giết hại sanh

Không trộm cắp

Không tà dâm

2. Khẩu có 4 nghiệp thiện, bằng ngược lại là 4 nghiệp ác:

Không nói dối

Không nói thêu dệt

Không nói 2 chiều

Không nói lời hung ác

3. Ý có 3 nghiệp thiện, ngược lại là 3 nghiệp ác:

Không tham lam

Không sân hận

Không si mê

Bây giờ chúng ta trở lại giải thích từng phần của Thập thiện.

Bây giờ trở lại Thầy giải thích để hiểu biết về cái phần 1 là do thân của chúng ta. Bởi vì thân chúng ta có cái 3 hành động của nó, là cái hành động thứ nhất của nó là nó giết hại chúng sinh như tay chân của mình đánh đập hoặc làm đau khổ chúng sanh là hành động của thân.

Trên đường đi mà chúng ta vô tình đi không nhìn xuống đất thì chúng ta sẽ đạp phải những loài côn trùng, dế hoặc những loài vật nhỏ dưới mặt đất thì chúng ta cũng phạm vào tội vô tình mắc vào tột sát sanh, còn huống hồ là chúng ta cố ý bắt những con vật giết đi, rồi làm thịt để biến nó thành những thực phẩm nuôi cơ thể chúng ta, đó là những điều rất là ác. Cho nên cái thân của chúng ta có những hành động làm ác nhiều lắm.

Đó là cái hành động nó tạo thành cái nghiệp đau khổ, cái nghiệp giết chóc cho nên đạo Phật dạy chúng ta khi thọ thực thì tâm từ bi của chúng ta biến mãn khắp cùng chúng sanh, nghĩa là lòng thương yêu của chúng ta đối với chúng sanh. Khi miếng ăn là cái vật để nuôi thân chúng ta sống, thế mà trước khi ăn chúng ta đã thấy, nghe và nghi. Cái thấy, nghe và nghi đó giúp cho chúng ta trau dồi được tâm từ bi, tức là lòng thương yêu của chúng ta đối với muôn loài. Người đời không hiểu, họ ăn để sống, họ nghĩ để cho sức khỏe họ được đầy đủ, dồi dào nên họ không nghĩ đến sự đau khổ, sự chết chóc của chúng sanh trong sự ăn uống của họ.Vì thế thân họ hay làm những điều độc ác để biến chúng sanh thành những thực phẩm họ ăn, từ đó họ tạo cho họ có nhiều sự đau khổ diễn biến trong cuộc đời của họ do tâm ác độc này.

Cái thứ hai cũng do thân hành động của họ, đó là lấy của không cho, tức là trộm cắp. Người đời người ta muốn ở không mà ăn, muốn rảnh rang mà sướng, cho nên có nhiều người nghĩ rằng tham lam lấy của người nó thêm cho mình cái này nọ kia mà không mất sự lao động của mình. Vì thế mới có trộm cắp tham lam do thân chúng ta làm. Cũng như khi tâm chúng ta ham ăn một cái bánh, cái kẹo hoặc là một cái trái cây do vậy chúng ta không dừng được, không ngăn được, không xả bỏ được hành động thân mới lấy cái bánh, mới trộm trái cây mà ăn. Thì đó cũng thuộc về loại trộm cắp. Do thân hành động đó tạo cho chúng ta nghèo khổ và đói rách sau này.

Thân chúng ta còn hành động một điều nữa là tà dâm, đối với người cư sĩ thì Phật không cấm sinh lý con người, nhưng đừng có dan díu với người này người kia để tạo cho gia đình mình không yên ổn. Không có người nào mà vợ mình khi tà dâm với người khác mà không ghen. Ngược lại khi một người chồng của mình tà dâm với người khác mà người vợ không ghen. Mà nỗi ghen tuông là sự đau khổ có thể đi đến cái tai hại rất lớn là giết người.

Vì thế thân có 3 hành động người cư sĩ chúng ta cần phải lưu ý, mỗi hành động chúng ta làm ra do thân chúng ta phải hiểu, phải biết thương yêu chúng sanh, đừng làm đau khổ, đừng đánh đập đau khổ chúng sanh.

Như vừa rồi có một con vật, có một con chó ở xóm này, nó chỉ ăn 2 cái trứng gà của một người, người chủ mới bắt nó trói lại rồi treo lên, cứ khoảng độ 2, 3 giờ đồng hồ lại đánh cho con chó 1 chập và cứ như vậy mà suốt ngày hôm qua con chó mỗi lần bị đánh đập là kêu la đau khổ. Nhưng người đời người tưởng như vậy là người ta đã cái nư giận và làm cho con chó không phạm phải cái điều đó nữa.

Nhưng thiết nghĩ chúng ta nuôi dưỡng chúng, không cung cấp cho chúng đầy đủ, chúng đói khát mới đi ăn trộm ăn cắp để mà sống, thì lỗi của người chủ chứ không phải lỗi của con chó, thế mà người chủ lại hành hạ con chó rất đau khổ.

Cũng như chúng ta trong khi đang khi ngồi trong thất tu hành, nghe tiếng con ếch con nhái bị con rắn cắn, tiếng kêu cầu cứu rất đau khổ, chúng ta thản nhiên ngồi tu hành nhiếp tâm không lưu ý, nhưng đối với người tu sĩ đạo Phật không thể ngồi thiền trong 1 ngày mà thành đạo được, mà hãy thực hiện tâm từ bi khi có 1 chúng sinh kêu cứu, chúng ta vội tháo chân ra để làm động cho 2 con vật bỏ ra. Một con vật thoát khỏi sự đau khổ, sự chết chóc là chúng ta thấy an vui trong lòng hơn là chúng ta ngồi thiền trong 1 giờ hoặc 2 giờ.

Lòng thương xót chúng sanh chúng ta không nỡ nghe tiếng kêu cầu cứu của 1 con vật mà chúng ta vô tình, cũng như chúng ta nghe 2 con mèo cắn lộn nhau, chúng ta biết chúng là con vật không trí tuệ, không hiểu được Phật pháp cho nên thường tranh nhau ăn, hoặc là những điều gì chúng mới đánh lộn nhau gây thương tích đau khổ. Nghe 1 con vật khác không đủ sức chống cự, kêu cầu cứu mà chúng ta nỡ đành tâm để cho chúng đau khổ. Như vừa rồi Thầy và Minh Tông ngồi trong thất đang hỏi cách thức tu hành thì nghe một bầy chó cắn hiếp 1 con chó khác, tiếng kêu la của con chó kia làm Thầy không yên, Thầy vội chạy ra và đuổi bầy chó, cứu con chó đang bị chúng nỗ lực xé nhau mà giết con chó nọ.

Người tu sĩ chúng ta cần phải trau dồi lòng thương yêu của chúng ta trước muôn loài, bất kỳ trong giờ nào, phút nào, trước cái đau khổ, trước cái chết của một chúng sanh chúng ta đừng đành tâm mà vì công việc của mình mà để chúng bị đau khổ, bị giết hại.

Thân hành của chúng ta có 3 chỗ không giết hại mà còn nỗ lực giúp cho chúng sanh thoát khỏi cảnh khổ và chết chóc.

Thân hành thứ 2 của chúng ta là không tham lam, không lấy trộm, không lấy của không cho, nhất định dù một vật nhỏ nhất chúng ta cũng không lấy.

Thân hành thứ 3 đối với người cư sĩ thì chúng ta không nên dan díu với người ngoài làm cho gia đình tan nát, lòng trung nghĩa đối với nhau không còn nữa. Bởi vậy chúng ta là con người chúng ta phải tránh những điều, hành động theo cách này để tạo cho gia đình được đầm ấm, hạnh phúc an vui. Còn riêng đối với tu sĩ đã xuất gia thì hoàn toàn phải đoạn dứt tâm dâm dục. Như Thầy đã dạy, tâm dâm dục là con đường sinh tử của con người. Ở đây, chúng ta trong bài này, Thầy dạy cho người cư sĩ mới bước đến đạo Phật cho nên giữ gìn nghiêm túc tránh sự tà dâm để tạo cho gia đình mình một sự hòa thuận yên vui. Cần phải suy ngẫm cho kỹ điều này không khéo vì tâm sắc dục mà chúng ta tạo cảnh khổ cho bản thân mình và cho những người xung quanh mình.

Không giết hại chúng sanh, tại sao hành thập thiện con người thoát khỏi bệnh tật, tai nạn, giận hờn, phiền não, đau khổ và yểu tử?

Như trên thầy đã giảng, con người do nghiệp sinh ra mà cũng chính con người tạo ra nghiệp để rồi con người chịu lấy những hậu quả của nghiệp.(BBT:BN,03,E01:34:26)

Nếu nghiệp ác tạo ra thì họ phải chịu lấy những sự khổ đau tai ương hoạn nạn hoặc yểu tử chia lìa, bệnh và chết. Nếu Nghiệp thiện được tạo ra thì họ phải hưởng lấy những hạnh phúc an vui như câu hỏi đã nêu trên.

Thập thiện tạo ra nghiệp lành vì thế chúng ta cần phải tư duy suy nghĩ chín chắn, tại sao không giết hại chúng sinh? Điều quả quyết vạn vật sanh ra trong vũ trụ này không một loài vật nào không sợ chết, không sợ đau khổ và bệnh tật. Chẳng có sự vui mừng nào hơn sự vui mừng khỏi bị giết, khỏi bệnh tật, tai nạn. Người đời thường nói thà nghèo mạnh giỏi còn hơn giàu sang đau ốm. Câu tục ngữ dân tộc Việt Nam ta: “ Ăn được, ngủ được là tiên”. Ở đời không ân huệ nào lớn hơn ân huệ tha mạng chết. Loài vật sắp bị giết mà được tha thì nỗi lòng vui mừng không tả được. Hòa Thượng Thiện Hoa dạy: Như khi chúng ta thả một con chim sắp bị cắt cổ nhổ lông, một con cá sắp đem chặt kỳ đánh vảy. Chim được sống vui mừng bay nhảy, cũng như cá khỏi chết hớn hở lội bơi.Thế mới rõ thoát nạn giết hại chúng sanh nào không khấp khởi vui mừng. Nên chi không giết hại chúng sanh mà lại còn phóng sanh là nghiệp lành đứng đầu trong thập thiện. Suy bụng mình nghĩ loài vật chúng ta có nỡ lòng nào giết hại chúng sanh chăng? Chúng ta còn ham sống sợ chết lẽ đâu lại cướp sự sống của muôn loài. Đừng mượn câu: “Nhơn dưỡng vật, vật dưỡng nhơn” mà hiểu nghĩa cạn cợt để đôi tay của chúng ta vấy máu chúng sanh, để tâm hồn chúng ta ngày càng hung ác. Chúng sanh dẫy dụa trên thớt, dưới dao, tiếng kêu la thương đau quằn quại, nhìn lại chúng ta lăn lộn trên giường bệnh trong cơn bệnh ngặt nghèo, cơ thể rã rời đau đớn vô kể, tiếng kêu chẳng dứt. Xét cái đau của thân mình thương cái đau của chúng sanh chẳng khác nhau. Vậy mà chúng ta nỡ lòng nào ăn thịt chúng sanh, sát hại chúng sanh.

Khi đã hiểu thấu pháp môn thập thiện là pháp môn tạo ra nghiệp lành đưa chúng ta thoát cảnh lầm than của nghiệp ác. Cải tạo đời sống của chúng ta từng hành động biết yêu thương muôn loài vì thế chúng ta đâu còn nhẫn tâm làm đau khổ chúng sinh, giết hại chúng sinh và ăn thịt chúng sinh được nữa. Muốn không sát hại chúng sinh chúng ta hãy chế ngự và khắc phục tâm mình đừng chạy theo những thực phẩm ăn ngon khoái khẩu mà tạo tội lỗi ác độc máu đổ thịt rơi như núi như biển, mà chẳng lấp đầy lỗ miệng của chúng ta. Thấu hiểu sự đau khổ của muôn người, muôn vật như chính sự đau khổ trong thân tâm mình, thì chúng ta phải cố gắng từng phút từng giây tỉnh thức để tu tập và tránh khỏi vô tình giết hại chúng sanh. Vì sát sanh là cái nhân tạo ra nghiệp bệnh khổ, tử vong, tai nạn, bệnh tử. Nợ máu xương này phải đền bù dù trốn đâu cũng không khỏi.

Kinh thập thiện nghiệp đạo dạy: Nếu ai không giết hại chúng sanh, không làm đau khổ chúng sanh thì sẽ được 10 điều lợi ích:

1. Tất cả chúng sanh đều kính mến.

2. Lòng từ bi biến mãn khắp chúng sanh. (BBT:CĐ,04A,E00:44:50)

3. Trừ sạch thói quen giận hờn.(BBT:CĐ,04B,B00:00:00)

4. Thân thể thường được mạnh khỏe.

5. Tuổi thọ được lâu dài.

6. Thường được người lành giúp đỡ.

7. Ngủ ngon giấc không ác mộng.

8. Trừ được sự thù oán

9. Khỏi bị đọa vào 3 đường ác.

10. Sau khi chết được sanh vào cõi hạnh phúc an vui.

Quả thực kẻ nào biết sự đau khổ chúng sanh chính là sự đau khổ chính mình thì người ấy không bao giờ giết hại, làm đau khổ và ăn thịt chúng sanh nữa. Thân người ấy sẽ ít bệnh, ít tai nạn, sống trường thọ, ít khổ đau.

Pháp môn thập thiện là lộ trình đưa con người đến hạnh phúc chân thật của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi xã hội. Nếu ai hằng ngày siêng năng tu tập trau dồi thập thiện thì ngay trong đời hiện tại thân thể được mạnh khỏe, tinh thần được thơi thới nhẹ nhàng an lạc, tâm hồn lúc nào cũng an vui, thanh thản. Người cư sĩ đệ tử Phật phải thực hiện tu tập và sống cho được đúng 10 điều lành này. Vì thập thiện là giáo pháp căn bản đạo đức nhân quả của người xuất gia cũng như người tại gia. Không thể bỏ qua, đừng xem nó tầm thường, nó xây dựng đạo đức cho mỗi người và cũng chính từ đó xã hội mới đi đến tốt đẹp thanh bình an lạc.

Muốn cầu đạo giải thoát ra khỏi nhà sanh tử thì phải hết sức thiết tha tu tập nhiệt tình, nhiệt tâm, trau dồi thân tâm sống đúng 10 điều lành này thì kết quả an vui hạnh phúc đến với quý vị ngay đây, tức thời.

Hai, hành động của thân kế tiếp là không trộm cắp.

Trộm cắp do lòng tham lam, làm ít mà muốn được nhiều, không làm mà có ăn, không đổ mồ hôi mà có của cải, tài sản. Hòa Thượng Thiện Hoa dạy: Người không gian tham trộm cắp là người yêu chuộng sự công bằng, thường trọng của kẻ khác như trọng của mình. Biết rằng tiền bạc là huyết mạch của con người nên ai ai cũng có tiền bạc mới có thể sắm ăn, sắm mặc, chỗ ở và tất cả nhu cầu cho cuộc sống. Ta thường thấy nhiều người bị trộm cắp của cải thất vọng đến đỗi phải quyên sinh, như vậy ai nỡ lòng nào trộm cắp cho đành. Vì của cải của mình mất mình cũng biết tiếc, biết buồn khổ rầu rĩ, thì của cải người mất, người cũng biết than, biết sầu khổ.

Vả lại chúng ta cũng phải hiểu, của phi nghĩa có giàu đâu, vào cửa trước ra cửa sau, tiêu hao như nước soi cát chảy, manh tâm giành giật cho lắm chết rồi cũng 2 bàn tay không. Người không trộm cắp cuộc sống luôn được an vui tinh thần không hồi hộp vì không sợ pháp luật, chẳng lo ngại ai thù oán. Trong nhà người này không trộm cắp của người kia thì mọi người đều sống hòa thuận, thương mến, còn ngược lại bất hòa, sống nghi kị với nhau khiến cho gia đình sống như trong địa ngục. Người này để ý người kia vì thế lòng thương yêu tổn giảm, không còn nữa.

Ngoài xã hội người này không lấy của người kia thì nhà nhà khỏi đóng cửa, ra đường người không lượm của rơi, giữa xã hội loài người đều là lương dân thì thế giới đâu còn chiến tranh tàn khốc. Trộm cắp là một tánh xấu đời đời kiếp kiếp phải chịu cảnh nghèo đói, tai ương, vì nhân trộm cắp quả nghèo đói. Do hiểu biết nghiệp tham lam trộm cắp thì đời đời nghèo cùng khốn khổ, biết như vậy chúng ta phải quyết tâm không bao giờ khởi ý trộm cắp tham lam của ai. Dù trái cà, trái bí, cây đinh, sợi kẽm, nói cho cùng từ bụi đậu phộng không nhổ cắp đến bụi măng tre cũng không hề cắt trộm. Vì không bao giờ muốn bị mất của thì há nào lại lấy của kẻ khác cho đành.

Kinh thập thiện dạy người không trộm cắp mà còn bố thí cho kẻ khác, giúp đỡ cho kẻ đang nghèo đói thì sẽ được 10 quả báo phước lành:

1. Tiền của dư giả, không bị vua quan giặc giã cướp mất, không bị nạt lụt trôi lửa cháy và con cái không phá tán.

2. Được nhiều người kính mến và tin cậy.

3. Không bị ai lừa dối, gạt gẫm.

4. Xa gần đều khen ngợi, lòng ngay thẳng từ thiện.

5. Luôn lòng được an ổn không sợ mất mát hư hao.

6. Tiếng lành đồn xa.

7. Ở chỗ đông người không lòng khiếp đảm.

8. Tiền của, tánh mạng, nhan sắc, sức khỏe luôn được đầy đủ.

9. Tâm thường sẵn lòng bố thí cho người bất hạnh.

10. Khi chết thường sinh vào cõi an lành hạnh phúc.

Đó là hành động không tham lam sẽ được 10 điều lành như vậy.

Cuộc đời người ta có nhiều góc độ tham lam, nhưng có người tham tốt mà có người tham xấu. Tham tốt như thế nào? Cố gắng làm ra cho nhiều tiền nhiều bạc đó là sự tham tốt, lấy mồ hôi nước mắt của mình đó là sự tham tốt. Còn có nhiều người tham xấu là lén trộm cắp của người khác về làm của cái của mình đó là lòng tham xấu.

Người tham tốt thì vất vả suốt đời quần quật lao động bằng tay chân hoặc bằng trí óc. Người tham xấu thì chờ lúc sơ hở của kẻ khác mà lấy trộm của người. Người tham xấu bằng trí thì suy tư bằng những thủ đoạn gian ác lấy trộm của người mà không bị pháp luật bắt tội trộm cắp. Cho nên đối với hành động tham lam, hành động trộm cắp này nhiều hình thức chứ không phải một hình thức. Nhưng tóm lại dù hình thức nào, dù có thiện thì vẫn là đem đến sự khổ đau cho bản thân của mình. Người tham làm ra của nhiều thì đày ải thân tâm của mình phải suy tư tính toán làm cách nào, rồi phải chạy đông chạy tây giao thiệp bằng cách này bằng cách khác để có được nhiều tiền nhiều của, vẫn là đau khổ.

Nhưng đời người sinh ra thì chúng ta biết làm sao hơn. Nhưng chúng ta chọn lấy cái tham bằng mồ hôi nước mắt của mình thì cái tham đó rất là quý. Còn cái tham mà không có mồ hôi nước mắt của mình, không có sự suy tư tính toán ở trong đó thì tham đó là tham xấu, chúng ta nên tránh.

Nhưng chúng ta nên nghĩ rằng có nhiều người tiền bạc rất nhiều mà vẫn còn tham tiền tham bạc, ngồi trên đống tiền cao như núi mà ăn chẳng yên, ngủ chẳng yên, thế mà người ta không thấy cái nỗi khổ đó. Mặc dù việc làm người ta rất là lương thiện, không có những manh tâm gian ác trong đó thế mà họ không dám buông xả để họ được 1 giờ một phút an vui tâm hồn của họ. Dù họ có cố gắng làm cho nhiều, tham cho nhiều, chất cho nhiều tiền bạc nhưng phỏng chừng chết đi họ có giữ được đồng nào, có đem theo được đồng nào.

Chúng ta có đủ phước tạo được tiền bạc nhiều chắc chắn chúng ta sẽ không xài hết được thì chúng ta nên nhớ xung quanh chúng ta có nhiều người bất hạnh đang nghèo đói không cơm ăn áo mặc vì họ là người đã tạo nhiều nghiệp ác. Do vậy chúng ta hãy bố thí cho họ, giúp cho họ. Sự giúp và bố thí này sẽ giúp cho đời sống chúng ta hiện tại và mai sau, sẽ chuyển hóa được nghiệp khổ của chúng ta.

Thầy đem một cái ví dụ, như vừa trong hiện tại Thầy có 1 người đệ tử. Đó là chú Chơn Tâm, chú từ một giáo viên cấp 2, tiền lương rất là túng thiếu không đủ cung cấp cho gia đình sống trong cuộc sống hiện giờ. Thế mà phước chú đến, chú chuyển nghề giáo viên thành nghề vàng bạc đá quý, chỉ trong vòng 2 năm chú đã có một số tiền rất lớn. Chú thường về đây để hỏi Thầy pháp tu hành, Thầy khuyên chú nên bố thí và làm những việc lành. Chú nghe lời Thầy, lúc nào chú cũng đến thăm những trại mồ côi, những trại cùi, trại dưỡng lão, những nơi nghèo đói thì chú thường đến để bố thí. Trên bước đường làm ăn nó không phải suôn sẻ luôn đâu. Vì thế chú gặp những tai nạn, do những tai nạn đó mà khi xảy ra thì chánh quyền người ta xét thấy cái người này làm có tiền sống giúp xã hội chứ không có lo lắng cho cá nhân mình. Cho nên từ cái tai nạn xảy ra đó Nhà nước không có bỏ tù chú và thấy chú là 1 người rất tốt. Nếu chú chỉ tích lũy sự có tiền của này chỉ riêng cho cá nhân mình chắc chắn chú sẽ không thoát được cái tù tội. Vì người ta xét thấy hành động làm ra tiền mà không phục vụ cho riêng cá nhân gia đình mình mà cả xã hội, người ta nghĩ người này làm ra tiền mà rất tốt.Vì thế mà Thầy thiết nghĩ ngồi trên đống vàng mà rất đau khổ. Trong 1 chuyến xe mà chú chở vàng, 100 ký, 5,3 chục ký lô vàng thì tâm rất hồi hộp lo sợ chứ không đơn giản như chúng ta không có tiền bạc. Sau này Thầy khuyên chú, chú nên nghỉ làm đi đừng nên làm nữa, có bao nhiêu tiền bố thí cho người chỉ dành dụm đủ sống mà thôi. Từ ngày đó chú nghe lời Thầy chú rất là an ổn không còn lo lắng, không còn sợ hãi nữa.

Nhưng tâm con người nó không phải đứng yên một chỗ, tiền bạc là cái sự cám dỗ rất lớn, làm chúng ta khó mà giữ tâm mình yên ổn như những bậc tu hành. Cho nên càng thấy sự làm ăn khá giả lên thì chúng ta nên càng dè dặt, coi vậy chứ nó chưa được yên ổn cho đời chúng ta đâu. Tại sao vậy? Đức Phật đã xác định tiền bạc châu báu là rắn độc. Khi trong tay chúng ta có nó, mặc dù nó không phải là tiền bạc phi nghĩa mà chính mồ hôi chúng ta, nhưng nghiệp quả khi có tiền bạc vẫn đem đến cho chúng ta nhiều tai nạn. Vì vậy ở đây Thầy nhắc các cư sĩ khi các con làm có tiền bạc nhớ đến những nỗi bất hạnh của người khác. Vì phước của mọi người cộng lại lớn hơn phước của chúng ta, vì chúng ta có 1 cá nhân không thể nào có đủ phước để thọ hưởng sự giàu sang đó. Cũng như một nhà vua khi ngài lãnh đạo trong một nước, ngài giàu sang, tiền bạc rất nhiều. Thế cái phước nhà vua đó được hưởng bao lâu? Nếu cái phước đó dài thì được 10 năm, 2 chục năm, nếu cái phước ngắn vị vua đó vừa lên ngôi trong 5, 3 hôm thì bị truất phế hoặc là bị giết. Thường chúng ta thấy phước của cá nhân rất nhỏ mà cái phước của mọi người rất lớn. Nếu vị vua lên nắm quyền giàu sang mà biết bố thí giúp cho dân nghèo thì nhà vua chắc chắn sẽ được ở ngai vàng bền lâu, còn nếu nhà vua lên chỉ hoang phí lo ăn chơi thì Thầy nghĩ trong lịch sử chứng minh điều đó rất rõ ràng, nhà vua đó ở ngôi không lâu. Cũng như 1 người giàu có mà có lòng từ thiện thì sự giàu có đó sẽ được giữ vững không phải trong một đời của họ mà cả đến đời con cái của họ.

Nếu sự giàu có đó mà chỉ một mình họ hưởng, làm ra đó thì phước báo của người đó nó sẽ tiêu mòn rất nhanh. Từ đó trong một đời người của họ chưa hưởng trọn mà của cải đã bị nước lửa, bị giặc giã cướp bóc làm cho họ trở thành 2 bàn tay trắng, nghèo đói như người khác. Vì thế không tham lam trộm cắp mà có đủ duyên, có đủ tài làm ra tiền ra bạc thì nhớ phước báo của mọi người là lớn, phước của mình là nhỏ vì vậy mình cố gắng san sẻ cho những người bất hạnh trong xã hội từ đó của cải tài sản của mình được bảo vệ yên ổn không hao mất.

Nhớ những lời này là những kinh nghiệm trong đời Thầy, Thầy đã từng dạy 1 người cư sĩ và thường nhắc nhở nhiều người nữa trên cuộc sống của nhiều người cư sĩ. Họ đã được an vui hạnh phúc, họ đã được sung sướng thoát được cảnh tù tội, thoát khỏi cảnh ghen ghét của người khác, đó là lòng bố thí của họ.

Bây giờ đến hành động thứ 3: không tà dâm.

Phàm con người sanh ra đều do dâm dục, nhưng dâm dục là con đường sanh tử luân hồi. Nó là ma chướng làm ngăn trở bước đường tu giải thoát. Phật dạy, lòng dâm không trừ thì không ra khỏi trần lao. Muốn giải thoát mà không đoạn lòng dâm dục thì dù tu muôn ngàn kiếp cũng không bao giờ giải thoát được.

Kinh thập thiện dạy người cư sĩ phải ngăn ngừa tà dâm chứ chưa phải tu rốt ráo của bậc xuất gia. Hành động thiện đối với vấn đề sinh lý không phải đoạn trừ, chỉ đừng tà dâm, tức là không chung chạ ngoại tình với người khác, nhờ vậy cuộc sống chung của gia đình mới được an vui hạnh phúc, gia đình đầm ấm, làm ăn phát đạt. Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn. Sự dâm dục thái quá đưa con người đi đến chỗ bệnh tật nan y, thọ mạng không được lâu dài.

Kinh Thập thiện dạy người không tà dâm là người trung tính giữ gìn tiết hạnh được 4 điều lợi:

1. Sáu căn đều được vẹn toàn.

Nghĩa là người tà dâm thì 6 căn của họ khó được vẹn toàn, hoặc bị đui bị điếc hoặc là thân bị tật nguyền hoặc là mắt, tai, lưỡi. Tất cả những điều kiện họ giữ gìn được cái tâm mà đừng tà dâm thì họ sẽ giữ gìn 6 căn được trọn vẹn. Nhiều khi chúng ta có 6 căn mà lỡ 2 mắt đui thì đó là một điều bất hạnh cho chúng ta, lỡ 2 tai mà điếc thì đó là một điều bất hạnh cho chúng ta. Cho nên mỗi 6 căn chúng ta phải được trọn vẹn đầy đủ.

2. Đoạn trừ hết thảy phiền não uế nhiễm.

Người mà không có tà dâm thì họ dứt trừ tất cả những phiền não trong gia đình họ.

3. Ở đời được mọi người khen tiếng tốt.

4. Vợ con không ai dám xâm phạm.

(BBT:CĐ,04B,00:23:22) Bây giờ đến phần thứ 2 là do hành động miệng của mình,miệng mình có 4 hành động tạo nghiệp rồi từ chỗ nghiệp đó mà chúng ta đi vào trong cuộc sống hiện tại cũng như mai sau, khổ đau hay là hạnh phúc do nơi miệng của chúng ta.Cho nên người xưa nói “họa tùng khẩu nhập”, tai họa đều do nơi miệng chúng ta mà ra, vậy chúng ta phải cẩn thận trong lời nói của chúng ta.

Thứ nhất sống trong xã hội, nếu trong cuộc sống mà ai nói dối thì tự mình làm mất lòng tin của mọi người. Nghĩa là chúng ta gạt người ta, chúng ta nói láo người ta 1 lần người ta chưa biết chứ 2 lần thì người ta sẽ biết liền. Nói chung dù mình có khéo léo nói như thế nào thì sự thật vẫn là sự thật, ngày hôm nay người ta chưa biết nhưng ngày mai sự thật nó sẽ đưa đến người ta sẽ biết mình là người nói láo, người không thành thật cho nên người ta không bao giờ tin. Từ đó cái lòng tin của mình bị mất đi, cho nên mình có nói thật người ta cũng chẳng tin mình.

Nói dối là một điều tai hại cho sự chung sống trong gia đình mà mình nói láo, ví dụ như mình đi chơi mình nói mình đi làm thì vợ ở nhà tưởng mình đi làm thật nhưng mai mốt đổ bể ra thì rõ ràng là làm vợ con không tin mình được, chỉ một lần thôi cũng đủ không tin mình nữa. Cũng như như mình lãnh lương rồi mình dành ra một ít nào đó để cho mình tiêu phí mà mình không nói cho vợ con mình biết, mình nói đây là cái số lương của mình như vậy như vậy mình đưa cho vợ con mình để chi phí ở trong gia đình. Vợ con mình tin thật, nhưng một hôm bà ta đem cái áo của mình đi giặt thì móc trong túi ra thấy số tiền, bà ta nghi ngờ liền chồng mình không thật. Do cái sự nói không thật đó đã làm cho gia đình bắt đầu tan nát. Người ta không tin nhau nữa rồi thì có sự nghi kỵ nhau làm cho gia đình mình càng ngày càng đau khổ. Cho nên cái lời nói chúng ta mà nói dối thì chúng ta biết rằng sẽ đưa đến chúng ta những quả khổ sau này.

Do nói dối mọi người mất niềm tin với mình, cuộc sống xem như bị cô lập, người ta hết tin mình rồi cho nên mình nói gì ngoài mặt thì người ta làm ra tin nhưng sự thật người ta thằng này nói láo, người ta không bao giờ tin mình nữa. Không ai muốn thân cận với mình, người ta không có muốn gần gũi mình nữa. Hòa thượng Thiện Hoa dạy: người ta ở đời dù một việc nói chơi người ta cũng không nên nói dối vì lẽ nói dối quen miệng, người ta biết mặt, sau này nói thật cũng chẳng ai tin. Nhất là người học đạo thì không nên nói dối, nếu nói dối cứu khổ phò nguy cho người và vật thì ta còn không nói huống là nói dối hại người lợi mình thì càng không nên nói nữa.

Như Thầy đã nhớ một câu chuyện khi đức Phật ở trong rừng tu hành thì có 1 nhà vua đi săn bắn, ngài đuổi theo 1 con nai thì con nai chạy vào trong 1 cái nơi của đức Phật ngồi tu, nó chun vào trong cục đá đó nó núp, nó trốn. Thì nhà vua đuổi theo mới đến đây gặp đức Phật đang ngồi tu trên cục đá mới hỏi: ông có thấy con nai mà chạy ngang đây không? Nếu đức Phật nói không tức là vọng ngữ, mà nói thấy thì tức là nhà vua hỏi nó ở đâu, ông sẽ chỉ nó ở dưới hang cục đá của mình ngồi thì nhà vua sẽ giết con vật thì mình là tội sát sanh.

Nếu ở trong câu này như HT. Thiện Hoa dạy thì như thế này: Nếu nói dối mà cứu khổ phò nguy cho người và vật thì ta nên nói. Nhưng ở đây thì Thầy thấy qua hình ảnh của đức Phật, người tu hành thì không nên nói dù là cứu người cứu vật thì cũng không nên nói dối. Vì thế nhà vua hỏi đức Phật làm thinh. Lần thứ nhất đến lần thứ 3 thì nhà vua tức giận cho nên lấy gươm xẻo lỗ tai của cái người này và hỏi nữa thì đức Phật cũng không nói, nhà vua cắt lỗ mũi thì ông cũng không nói cho đến khi nhà vua tức quá chặt hai cánh tay ông thì ông cũng chẳng nói, cho đến khi nhà vua móc mắt ông ông cũng chẳng nói. Đó là chúng ta thấy giữ gìn cái hạnh không nói dối. Mặc dù là nói dối sẽ cứu được mình đó, nghĩa là thoát khỏi cảnh mà nhà vua giết mình đó thế mà ông vẫn thản nhiên giữ đúng cái hạnh không nói dối. Nghĩa là nói dối rất dễ dàng, con nai vừa chạy ngang đây mà nó chạy luôn đi rồi, không còn ở đây nữa. Thì nhà vua hãy chạy theo mà tìm giết nó đi, mà tìm bắn nó đi. Thì lẽ đương nhiên nhà vua phải đuổi theo chứ đâu có cắt tai móc mắt ông, rõ ràng nói dối một chút xíu mà mình không có đau khổ thế mà đức Phật thà chết, thà chịu đau khổ bằng sự hành hạ của nhà vua mà không phạm vào cái lỗi nói dối.

Do thế chúng ta mới thấy lời nói dối dù là 1 người tu sĩ mà nói dối khi người ta biết được thì giá trị của người tu sĩ không ra gì hết, cũng như chúng ta là những người cư sĩ đệ tử Phật đã biết Phật pháp rồi thì nói dối thì không nên cho dù nói dối có ích lợi cho mình cho người thì cũng không nên nói. Huống hồ là nói mà để làm lợi cho mình chắc chắn là không nói rồi.

Do qua cái hành động của đức Phật chúng ta cần phải học hỏi, cần phải theo gương đó mà giữ gìn cho trọn vẹn cái giới nói dối này, cho nên thà chết chúng ta không bao giờ phạm giới. Cũng như giới sát sanh hồi nãy, thì thà là chúng ta chết chứ không giết hại chúng sanh, đó là những quyết định của những người thực hiện theo con đường của đạo Phật để thực hiện được những nghiệp lành, từ những nghiệp lành đó đưa chúng ta đi đến cảnh giới không còn đau khổ nữa.

Kinh thập thiện nói người không nói dối được 8 điều lợi ích:

1. Được mọi người tin tưởng.

2. Lời nói ra được người người kính yêu.

3. Miệng thường thơm sạch.

Tức là miệng thường thanh tịnh đó.

4. Lời nói thường êm ái.

5. Luôn được an vui như ý nguyện.

6. Lời nói không buồn giận và luôn được vui vẻ.

7. Lời nói được mọi người vâng theo.

8. Trí tuệ thù thắng không ai hơn.

Đó là cái người không nói dối họ được 8 điều lợi ích như vậy. Và chúng ta cũng nhớ lấy gương của đức Phật làm cái gương là không bao giờ nói dối. Nhất là những người thân trong gia đình của mình đừng nên có 1 lời nói dối, vì nói dối làm mất niềm tin và từ đó trong gia đình bất an.

Người cư sĩ thì chúng ta sống còn chung đụng nhiều người, còn tiếp duyên nhiều người. Một người hay nói láo thì chúng ta không tin người đó.Và không tin người đó thì người đó dù có thất nghiệp, dù có trong cảnh đau khổ nào đó thì chúng ta cũng không giúp được, là tại sao? Là vì chúng ta nghĩ rằng người này hay nói láo là sẽ gạt mình trong khi họ, vợ con họ khổ sở, khốn khổ họ đến nói thật mà mình vẫn nghi rằng họ nói láo. Cho nên chúng ta vẫn thấy họ là người không giúp đỡ. Đó là những cái tai hại cho người nói láo. Vì vậy chúng ta cần phải biết, cần phải dè dặt không bao giờ nói sai sự thật, phải nói đúng sự thật, có thấy thì nói thấy, mà không thấy thì nói không thấy. Không nên nói 1 cách không đúng sự thật.

(BBT:BN,05,B00:04:41)

Bây giờ đến cái phần thứ 2 của cái miệng là không nói lời thêu dệt.

Người đời thường trau chuốt lời nói, đi buôn vật xấu nói tốt để bán cho được giá, gạt người mua về không xài được, đó là cái lời nói thêu dệt đó. Chỉ 1 chút lòng nhỏ mọn hờn ghen liền dùng lời nói thêu dệt để cho đôi bên thù hận có thể giết hại lẫn nhau làm tổn hại tánh mạng của người khác, đó là lời thêu dệt rất là tai hại, có thể giết người. Chỉ 1 chút lòng ganh tỵ thù vặt bèn dùng lời nói thêu dệt để lung lạc lòng người khác hoặc để quyến rũ hay gạt gẫm người khác làm tổn hại danh dự và tài sản cốt để đem lại cho mình được nhiều lợi lạc và còn được tiếng thơm, tiếng tốt cho mình.

Ngược lại, người không có lời nói thêu dệt dùng lời nói đúng đắn, chánh lý không gạt gẫm lừa bịp người, không làm tổn hại danh giá tài sản thậm chí cho đến tánh mạng. Thêu dệt tức là đặt điều nói xấu người khác, khiêu khích người khác khiến cho người phải buồn khổ có thể đi đến chỗ phải tự tử quyên sinh tánh mạng. Nghĩa là chuyện không có mà mình thêu dệt ra thành có chuyện, chuyện người ta không xấu mình nói người ta xấu, chuyện người ta xấu mình thêu dệt nói người ta tốt để được tình được nghĩa với người này người kia, điều đó là với lời nói đó chúng ta cần phải tránh.

Đem cái lời nói làm cho người ta giận hờn nhau, rồi đem cái lời nói làm cho người ta ưa nhau như những người làm môi giới. À, thấy chú này nó không được đến đằng gái khen chú này là tốt là học giỏi là này kia đủ thứ, là có đức hạnh đủ thứ. Nhưng sự thật chú này thì tham lam hút thuốc rượu chè bê bết thế mà cái ông làm mối thêu dệt nói chú này thế này thế khác cho tốt cho được lòng đằng gái. Rồi lại đến đằng trai thì nói cô này công dung ngôn hạnh như thế này thế khác, hiền đức đủ loại nhưng mà cô này thì chẳng ra gì hết, những cái tay mà có thể ăn chơi, mà có thể đủ cách ở trong thế gian này thế mà cũng được ca ngợi. Đó là những cái thêu dệt như vậy đó. Đã gạt người ta để làm cho người ta không biết, người ta tin theo người ta rước cô dâu đó về hay là người ta rước chú rể đó về. Chừng đùng 1 cái thì người ta hỡi ôi, mình lầm người. Đó là những lời thêu dệt chúng ta không nên. Cái tốt thì chúng ta nói tốt mà cái xấu thì chúng ta nói xấu. Không được thêu dệt tốt biến thành xấu mà xấu biến thành tốt. Điều đó là điều thêu dệt không được.

Kinh thập thiện dạy người không đặt điều nói xấu người khác có 3 điều lợi ích:

1. Được mọi người quý mến.

2. Thường đáp được những câu hỏi khó.

3. Có đầy đủ uy tín cao quý trong cuộc đời.

 

Sáu, không nói lật ngược.

Về cái hành động miệng của mình hay nói lật ngược trở lại, nói rồi rồi nói lại cái khác, vừa mới nói đó mà thấy cái điều đó có hại cho mình thì ngay đó thì mình lật ngược lại nói tôi không nói điều đó. Người đời có lắm kẻ nhiều mồm mép, vừa nói đó một lúc sau lại nói ngược lại, lấy quấy làm phải, lấy phải làm quấy.

Người ta nói: “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, miệng không vành nó méo tứ tung”. Đúng vậy, những hạng người nói lật ngược là hạng người lưỡi không xương, là những người miệng không vành, hạng người này là hạng người nhiều chuyện, họ là người dụm ba dụm bẩy chuyên nói xấu người khác, đem chuyện người này nói ra, nói vào bêu xấu khiêu khích người khác gây phe nhóm tạo cảnh bất hòa, thù hận, và còn đem chuyện người này dèm pha với người kia, nhạo báng chê bai làm cho người khác tức giận hoặc xấu hổ, đau khổ.

Dùng môi mép đứng trung gian gây ác cảm đôi bên để đi đến kiện thưa. Người không nói lưỡi 2 chiều thì không có chuyện lôi thôi với mọi người, không bị người ta lôi ra làm chứng cớ, còn ngược lại những kẻ ấy đều gọi là người nhiều chuyện.

Người không nói lưỡi 2 chiều không làm phiền một ai hết, được thân bằng quyến thuộc, kẻ xa người gần đều kính mến, người không có lưỡi 2 chiều thường dùng lời êm ái an ủi, khuyên giải giúp cho mọi người hòa thuận thân yêu nhau, khiến cho mọi người đều vui vẻ an lòng. Người này đi đến đâu, ở đâu cũng được mọi người kính yêu, gặp việc khó bất hòa người này đứng ra thu xếp hòa giải một cách dễ dàng.

Người không nói lưỡi 2 chiều khiến gia đình sum họp an vui tình làng nghĩa xóm hòa thuận kính yêu nhau.

Kinh thập thiện dạy: Người không nói lưỡi 2 chiều được 5 điều bất hoại.

1. Nhơn bất hoại.

2. Sống trong gia đình sum họp.

3. Đức tin bất hoại.

4. Pháp hạnh bất hoại.

5. Thiện hữu tri thức bất hoại.

Nghĩa là nhơn bất hoại, nghĩa là đối với cái thân của mình thường được vui vẻ, được tốt lành, nó không làm cho mình hư hoại.

Hai,sống trong gia đình sum họp: nghĩa là cái người này sống trong gia đình nào, người nào cũng có sự hòa hợp sum họp bởi họ không là người nói lưỡi 2 chiều. Ở đâu thì họ cũng được sự hòa hợp, Ví dụ như quý thầy là những người sống trong tăng đoàn mà không nói lưỡi 2 chiều, tức là không dựa theo người này nói như thế này, dựa theo người kia nói như thế kia. Nói thì đúng sự thật, không thêu dệt ra, những người này thường sống hòa hợp trong mọi người.

Ba,đức tin bất hoại: ai cũng tin những người này, cho cái lòng tin không bị hoại diệt.

Bốn,pháp hạnh bất hoại: Cái hạnh của người tu này dù là người cư sĩ cũng không sợ bao giờ hoại diệt. Cái đức hạnh của họ không bao giờ bị hoại diệt.

Năm,thiện hữu tri thức bất hoại nghĩa là họ luôn luôn gặp nhiều bậc thiện hữu tri thức, những người tốt, không phải là những người xấu. Còn cái người mà nói 2 chiều này thì họ không bao giờ có những thiện hữu tri thức tốt.

Đó thì tất cả những 5 điều lợi ích này cho 1 người không nói lưỡi 2 chiều.

7. Không nói lời hung ác.

Lời nói hung ác là lời nói dữ, lời nói hung ác là lời vu khống người, người ta không có làm một cái chuyện bậy mà mình vu khống người ta làm chuyện bậy. Ví dụ như người đó không ăn cắp mà mình hô người ta ăn cắp, người đó không tà dâm mà mình hô người đó tà dâm, người đó không nói láo mà mình nói rằng người đó nói láo; mình vu khống người ta những cái mà người ta không có làm rồi mình nói phao phản người ta, chẳng hạn người ta không phản phúc mà mình nói người ta phản phúc.

Lời nói hung dữ còn là lời nói bươi móc lỗi xấu của người khác ra, đó là lời nói hung dữ, người ta làm điều xấu thì để người ta thọ lấy quả xấu của họ, thế rồi chúng ta bươi móc ra cho người này nghe, người kia biết để cho mọi người cười chê, biếng nhạo người đó tức là lời nói đó là lời nói hung dữ.

Lời nói hung dữ còn là những lời nói cộc cằn, thô lỗ như lời nói mắng nhiếc, mạ lị người, khinh chê người, làm cho người khác tức giận, khổ đau.

Người không nói lời nói hung ác, thường dùng lời nói khen ngợi, lời lẽ ôn tồn, trang nhã, hiền hòa, lời nói luôn luôn làm cho mọi người được an vui, yên ổn.

Kinh thập thiện dạy kẻ nào không nói lời hung dữ sẽ được 8 món công đức:

1. Nói đúng pháp.

2. Lời nói có ích lợi.

3. Lời nói đúng chân lý.

4. Lời nói khôn khéo.

5. Nói điều chi ai cũng vâng theo.

6. Lời nói được nhiều người tin.

7. Lời nói không ai chê.

8. Lời nói được yêu mến.

Đó là 8 điều lợi ích cho một người không có lời nói hung ác, không có lời nói dữ tợn. Người nói dữ tợn thường lưu xuất từ cái tâm sân hận của họ. Lời nói dữ tợn do từ tánh xấu của họ. Lời nói dữ tợn do từ cái...(BBT:CĐ,04B,E00:45:37)

BĂNG SỐ 05

(BBT:CĐ,05A,B00:00:00)

(Missing)

(BBT:CĐ,05A,00:34:54)

Người cư sĩ muốn chấm dứt hoàn cảnh khổ đau đời sống của mình, vượt thoát cảnh tù tội ở thế gian, những tai nạn hiểm nghèo, bệnh tật nan y, những xung đột, lòng tỵ hiềm ganh ghét, tánh ích kỷ nhỏ mọn hẹp hòi và tâm dối trá xảo quyệt, v.v..

(Missing)

Thập thiện có lợi ích, có thành quả lớn như vậy, ai là người đã đủ duyên được nghe, đọc thấy, hiểu biết và được tu tập đó là một phước báu lớn của kiếp làm con người. Vậy hôm nay chúng ta đã được biết thập thiện đừng để luống qua một đời đen tối và đau khổ. Được kho báu đạo đức làm người tốt mà không biết dùng kho báu đành để một đời nghèo khổ đạo đức (BBT:CĐ,05A,E00:44:56),(BBT:CĐ,05B,B00:00:21) lang thang trong 6 nẻo luân hồi khổ đau bất tận.

(Missing)

Người đời thường nói thà nghèo mạnh giỏi còn hơn giàu sang đau ốm. Câu tục ngữ dân tộc Việt Nam ta: “ Ăn được, ngủ được là tiên”(BBT:CĐ,05B,E00:44:20).

Không nói dối

(BBT:BN,05,B00:00:00)Bởi vì con nai nó đâu có chạy luôn. Nó chạy nó chun dưới cục đá dưới đít của ông. Cho nên nếu ông nói: Ờ có con nai nó chạy nó chui dưới đít của tui đây thì như vậy nhà vua lôi con nai ra, chắc chắn là cái tội sát sanh của mình thôi. Cho nên giữa hai cái giới này ông Phật không biết làm sao hết nên đành câm miệng mà thôi. Còn nếu HT Thiện Hoa dạy chúng ta kiểu này chắc là dạy nói láo rồi. À bây giờ vua đến hỏi:

- Có con nai chạy ngang đây không?

- Có, có, nó mới chạy đây, nó chạy luôn đây nè.

Thay vì nó chạy đường này, ông chỉ: Ờ, nó chạy đường này nè. Tui thấy nó chạy đây.

Do đó, chỉ bậy để ông vua đừng có giết con nai. “Do không giết hại con nai thì ông Phật đành nói láo” cho nên HT viết câu này Thầy thấy Thầy không chấp nhận. Bởi vì Phật dạy quá rõ. Các hành động của Phật quá rõ, thà chịu khổ mà không phạm vào các giới. Cho nên Phật nói thà chết chứ không phạm giới mà. Do cái giới mà nói láo này là không được. Vì vậy mà Đức Phật phải làm thinh, làm thinh nhà vua tức quá hỏi:

- Sao ông làm thinh?

Trời ơi, tức quá thì nhà vua mới rút gươm ra xẻo 2 lỗ tai ông, xẻo rồi đau quá ông cũng làm thinh luôn, rồi chặt 2 cánh tay ông cũng làm thinh, móc 2 con mắt ông cũng làm thinh luôn. Nhà vua đành phải đầu hàng mà đi thôi chứ không có làm sao được hết. Thì các con thấy, trong cái sự tu hành là người ta giữ giới đến mức mà người ta bị xẻo 2 lỗ tai để cho ông ta sợ đi ông ta nói, chặt 2 cánh tay ông ta cũng không nói nữa, móc 2 con mắt cho ông ta đui mà ông ta không nói. Mà nhà vua mà, có quyền sanh sát người ta. Chỗ nào nhà vua cũng giết được hết. Vì vậy, cơn tức của nhà vua đang dí con nai mà ông dấu. Tức là tức giận là phải tra ông này mới lòi ra nhưng cuối cùng ông Phật ông giữ giới cho đến chết, chết là chết chứ không nói gì nữa.

Đó các con thấy HT dạy một cái điều mà Thầy thấy không được. Cho nên vấn đề mà vọng ngữ, vấn đề nói láo là cả một vấn đề. Một khi chúng ta nói một cái sự không đúng rồi thì hối hận lương tâm dữ lắm, nó đau khổ dữ lắm chứ không phải không đâu. Cho nên đừng có tưởng tầm thường, một người tu hành chân chính người ta rất sợ việc nói láo, nói là nói thật không được nói láo.

Cho nên ở đây Thầy sửa lại như thế này: “Nếu nói dối cứu khổ phò nguy cho người và vật thì ta còn không nói, huống là nói dối hại người lợi mình thì còn không nên nói hơn nữa”, chứ Thầy không để câu nói như vậy, Thầy thấy nó không đúng trong cái đạo, dù là người cư sĩ cũng không được cách nói dối đó nữa, thà là chúng ta chết.

Kinh Thập Thiện dạy: Người không nói dối được 8 điều lợi ích:

1. Được mọi người tin tưởng.

2.Lời nói ra được người người kính yêu.

3. Miệng thường thơm sạch.

4.Lời nói thường êm ái.

5.Được an vui như ý nguyện.

6.Lời nói không buồn giận và vui vẻ.

7.Lời nói được mọi người vâng theo.

8.Trí tuệ thù thắng không ai hơn.

Đó là phần khẩu miệng của mình không nói dối đó.

Thấy cái gì thì nói thấy, mà không thấy thì nói không thấy. Chứ không phải không thấy nói thấy, mà thấy nói không thấy. Nói ngược trở lại như vậy là không được. Cái gì mình nghe thấy thì mình nói nghe thấy, mà nghe lờ mờ không rõ cũng không nói. Cho nên Thầy nói ở đời người tu hành theo Đạo Phật là không nói là tốt nhất, nói ra coi chừng lầm lạc. Cái miệng của chúng ta có 4 điều ác, điều này nó kẹt ở điều khác, nó khó. Cái thân chúng ta có 3, cái ý chúng ta có 3 mà cái miệng chúng ta nó nhiều quá cho nên chúng ta phải dè dặt cẩn thận, nó là cái chỗ đau khổ nhất cho con người ở đời, chứ không phải là vừa.

Bởi vậy học Thập Thiện rồi, chúng ta mới biết các nghiệp của miệng nó nặng lắm. Nó tới 4 chỗ lận. Có một mình nó mà chiếm hơn người ta hết, nó làm anh cả của người ta hơn hết trong này mà. Thành ra mình phải coi chừng cái miệng của mình, nó độc lắm chứ không phải không. Nói ra cái lời nói của mình có thể giết người mà, chứ không phải thường đâu. Cái lời nói còn hơn gươm đao. Vì vậy chúng ta phải cẩn thận lời nói. Muốn nói ra một cái gì phải suy nghĩ. Cho nên người xưa người ta nói: muốn nói một lời nói phải suy nghĩ 7 lần, người ta gọi là là đánh lưỡi 7 lần đó.

 

Nói lời thêu dệt

Người đời thường hay trau dồi, trau chuốt lời nói, đi buôn vật xấu nói tốt. Đây là cái hành động thứ 2 cái miệng của mình là lời nói thêu dệt. Bây giờ chúng ta học tới cái hành động thứ 2 của cái miệng là nói lời thêu dệt. Lời nói thêu dệt đó ở đây người đời thường hay trau dồi, trau chuốt các lời nói của mình. Đi buôn vật xấu thì nói tốt để bán cho được giá, gạt người mua về không xài được. Chỉ một chút lòng nhỏ mọn, hờn ghen, liền dùng lời nói thêu dệt để cho đôi bên thù hận có thể giết hại lẫn nhau, làm tổn hại tánh mạng của người khác. Chỉ một chút lòng ghanh tị, thù vặt, bèn dùng lời thêu dệt để lung lạc lòng người hoặc để quyến rũ hay gạt gẫm người khác làm tổn hại danh dự và tài sản người khác, cốt để đem lại lợi ích cho mình được nhiều lợi lạc và còn được tiếng thơm, tiếng tốt cho mình. Minh thêu dệt này nọ kia để đem lại những lợi lạc, cái của cải tài sản là một, rồi được tiếng tốt này kia cho mình. Đó là lời nói thêu dệt.

Ngược lại, người không nói lời thêu dệt, dùng lời đúng đắn, chánh lý, không gạt gẫm, không lừa bịp, không làm tổn hại danh giá tài sản thậm chí cho đến tánh mạng. Thêu dệt tức là đặt điều nói xấu người khác, khiến cho người khác buồn khổ, có thể đi đến tự tử, quyên sinh tánh mạng.

Vì thế Thập Thiện dạy người không đặt điều nói xấu người khác có điều lợi ích cho mình thì:

1.Được mọi người quý mến.

2.Thường đáp được những câu hỏi khó khăn.

3.Có đầy đủ uy tín cao quý trong cuộc đời.

Đó là những điều chúng ta không có nói thêu dệt, không có đặt điều ra. Thêu dệt làm cho nó có vẻ đẹp hơn hoặc là người đó không tốt mình nói tốt hoặc là người đó tốt mà mình nói cho người khác là người đó xấu. Mình đặt ra cái này, thêu dệt ra cái này cái kia để làm cho người ta nghi ngờ người này, người nọ, người kia. Đó là các lời thêu dệt.

Chẳng hạn bây giờ có ông mai, ông đến làm môi giới, đến bên gái thì nói cái thằng đó như thế này, thế khác mà nó thì uống rượu, hút sách, nó thì chơi bời, nó không biết nghề nghiệp gì hết mà lại đằng gái thì ca ngợi cái thằng con trai trên mây xanh, gọi là thêu dệt đó. Rồi đến đằng nam để làm mai cho đằng nam thì nói cô ta là vậy: công dung, ngôn hạnh đầy đủ, con người hiền đức này kia rõ ràng. Nhưng mà trời ơi, rước về nhà rồi một cái, họ trên trời ngồi rớt xuống! Thì do đó những cái lời nói của ông mai như vậy là thêu dệt làm mai mối. Rồi tất cả những cái điều mai mối như mua đất, mai mối làm cái này, mai mối làm cái kia đều là có sự thêu dệt trong đó hết, để cho người ta nghe người ta tin người ta mới đi mua, đi làm cái chuyện đó, đó là những cái môi giới. Thì những cái thêu dệt đó là lời nói thêu dệt. Chúng ta không nên làm những điều đó, mà hãy tránh.

Thực ra những cái điều mà nói xấu người khác, thêu dệt ra cái tốt - cái xấu cho người khác, nói người ta không có chuyện đó mà nói người ta làm cái này, làm cái kia, làm cái nọ tồi tệ để cho mọi người không hiểu tưởng người đó là người xấu để người ta tránh xa người đó, đó là những người thêu dệt, là những người mà không tốt. Vậy thì chúng ta hiểu biết được như vậy chúng ta cố gắng tránh, giữ gìn cái miệng của mình, đừng có nói những cái đặt điều ra mà nói xấu kẻ khác hoặc nói tốt người khác, người nào xấu thì nói xấu, tốt thì nói tốt, mà tốt xấu mặc họ chúng ta nói làm gì.

Theo Thầy thiết nghĩ xấu người ta làm ác thì nhân nó chịu, mà tốt người ta làm thiện thì người ta hưởng được cái phước quả, còn riêng mình mình nói người ta tốt xấu làm gì, mình khen cũng không khen, chê cũng không chê, điều đó là điều tốt của người tu theo Thập Thiện. Chứ không phải là đem cái chuyện của người ta tốt mình nói, rồi cái chuyện người ta xấu mình cũng nói. Thầy thấy cái chuyện xấu của họ mình không dấu, mà cũng không nói; mà cái chuyện tốt của người ta mình cũng không phô bày, mà cũng không nói ra.

Hầu hết như các con bây giờ Thầy nói như thế này, các con sẽ ca ngợi khen Thầy thế này thế khác, nhiều khi ca ngợi Thầy như ông Phật thì tức cũng là lời thêu dệt đó, không đúng đâu. Thầy cũng là bằng xương, bằng thịt cũng như mọi người nhưng qua cái nhìn của các con, các con có niềm tin ở Thầy, nhiều khi Thầy không có thần thông, các con nói Thầy quá thần thông, nào là phóng hào quang, đặt điều nói láo đó là thêu dệt đó. Thầy đem những cái ví dụ để các con thấy, bởi vậy Thầy thấy có những người mến Thầy, trọng Thầy rồi ca ngợi Thầy một cách không đúng đắn, cho nên trong kinh Phật có dạylà khen mà không đúng thì cái đó làm hại Phật, mà chê không đúng cũng không làm hại Phật được. Cái gì đúng là đúng, cái gì mà không đúng là không đúng. Cho nên mình có nói đi nữa thì người ta nói mèo khen mèo dài đuôi thôi, chứ cũng không có gì hết. Cho nên để cho người ta còn nghiệm xét, chẳng hạn Thầy tu hành đúng thì để người ta còn thấy. Các con nói mà nói Thầy tốt thế này, Thầy như thế này thế khác, điều đó chẳng bao giờ mà người ta tin ở các con. Các con có nói gì thì người ta cũng chẳng tin. Người ta còn thấy qua cái hạnh của Thầy, người ta còn thấy qua cái đức của Thầy. Cho nên vì vậy, ngay cả Thầy mà các con còn như vậy thì các con nói ờ cái chị này tốt, cái chị này tu như thế này, cái chị kia tu như thế kia... họ có tin không? Cũng như bây giờ Thầy nói Mật Hạnh tu vậy, Minh Tông tu vậy…các con có tin được không? Chưa chắc đã tin. Bán tín bán nghi. Chưa chắc. Rồi lần lượt các con sẽ thấy những người đó tu được cái gì, cái gì… À vị này giới hạnh nghiêm túc, giờ giấc nghiêm túc, tu hành đúng đắn, vị này nhập định được, hơi thở ngưng, cái gì lần lượt các con cũng thấy hết thì chừng đó các con mới tin, còn bây giờ Thầy nói cũng chẳng qua Thầy nói, Thầy nói đúng sự thật đó nhưng các con chưa tin đâu.

Cho nên cái thêu dệt các con muốn làm cho người ta tin chứ gì nhưng mà người ta có tin mình được không? Cho nên cái nói của mình có ích lợi gì thì nói. Cho nên chẳng nói gì hết để cho người ta còn thấy được vậy. Cũng như bây giờ các con nói các con tu được, thì cái đó là cái thêu dệt. Mình được, mình biết chắc mình được không, để cho một người khác nhìn thấy cái chỗ được của mình. Người ta thấy được tức là người ta biết chớ sao. Gì mà mình còn giận, còn hờn, còn phiền nào, còn ủ ê cái mặt như là éo xào …mà nói tui tu được là tu được cái chỗ nào đâu. Cho nên cái chúng ta chẳng nói được mà chúng ta được an vui, được thanh thản thì người ta sẽ thấy được cái an vui, thanh thản đó mà người ta biết mình. Cho nên mình nói ra có lợi ích gì. Vì vậy, những cái lời nói mà chúng ta chưa có chứng nghiệm được cho nên chúng ta không nói. Vì vậy không nói thêu dệt, không nói những lời nói đó.

Hôm nay Thầy nói hết để cho các con biết được cái chỗ chúng ta giữ gìn, cái khẩu hành thứ 2 này là không nói lời nói thêu dệt. Không khéo chúng ta tưởng mình nói như vậy là đúng, không có sai, nhưng mà cái nói như vậy không có hay lắm, nó không tốt đâu.

Về cái khẩu hành thứ 3

Là không nói lật ngược. Nói rồi không nói ngược trở lại. Là nói lật ngược đó. Người đời có lắm kẻ nhiều mồm mép, vừa nói đó một lúc sau nói lật ngược lại. Lấy quấy làm phải mà lấy phải làm quấy. Nghĩa là người ta lanh mồm, lẻo mép lắm, nói rồi cái lật ngược lại, tức là nói tui không nói đâu, hồi nãy ai nói chứ tui không nói đâu nhưng chính mình nói, ai cũng nghe hết nhưng mà dám nói như vậy đó, thì cái chuyện qua một hai ngày tưởng đâu người ta quên rồi, mình nói mình vẫn có cái sửa những cái lời của mình để biến những lời của mình không có nói như vậy. Thì tất cả những cái này là những lời nói lật ngược, nói ngược trở lại cái sự thật.

Hạng người này là hạng người nhiều chuyện, họ là kẻ tụm ba tụm bảy chuyên nói xấu người khác, đem chuyện người này nói ra, nói vào, biêu xấu khiêu khích người khác, gây phe, gây nhóm, tạo cảnh bất hòa, thù hận và còn đem chuyện người này dèm pha với người kia, nhạo báng người nọ, chê bai người khác, làm cho họ tức giận hoặc xấu hổ đau khổ, dùng môi mép đứng trung gian gây ác cảm đôi bên để đi đến kiện thưa.

Người không nói lưỡi hai chiều thì không có chuyện lôi thôi với mọi người, không bị người ta lôi ra làm chứng cớ, còn ngược lại những kẻ ấy đều gọi là người nhiều chuyện. Người không nói lưỡi hai chiều không làm phiền muộn ai hết, được thân bằng quyến thuộc, kẻ xa người gần đều kính mến.

Người không có lưỡi 2 chiều thường dùng lời êm ái, an ủi, khuyên dạy giúp cho mọi người được hòa thuận, thương yêu nhau khiến cho mọi người đều vui vẻ, an lòng. Người này đến đâu, ở đâu cũng được mọi người kính yêu, gặp việc khó bất hòa người này đứng ra thu xếp, hòa giải một cách dễ dàng.

Người không nói lưỡi hai chiều khiến gia đình sum họp an vui, tình làng nghĩa xóm hòa thuận kính yêu nhau.

Kinh Thập Thiện dạy: Người không nói lưỡi 2 chiều được 5 điều bất hoại:

1.Nhơn bất hoại.

2.Sống trong gia đình sum họp

3.Đức tin bất hoại.

4.Pháp hạnh bất hoại.

5.Thiện hữu tri thức bất hoại.

Nghĩa là như thế nào?

·      Nhơn bất hoại: tức là người mà không nói lưỡi hai chiều thì mọi cái tình người xung quanh của mình, nó luôn luôn giữ trọn, nó không làm cho hoại diệt. Còn mình mà cái người nói 2 chiều thì những tình người xung quanh mình nó sẽ không giữ trọn được, nó bị hoại diệt.

·      Sống trong gia đình sum họp: thì hiểu rồi.

·      Đức tin bất hoại: Nghĩa là cái người mà không nói lưỡi 2 chiều được mọi người cái lòng tin, không bao giờ hoại diệt cái lòng tin trong lòng của họ.

·      Pháp hạnh bất hoại: Cái hạnh của người mà không nói lưỡi 2 chiều thì cái pháp đây là nói tất cả những cái hành động của chính mình, của bản thân mình không có bị hoại diệt, luôn luôn giữ đúng cái pháp hạnh của nó, cho nên nó không bao giờ lật ngược cái gì hết. Thì cái người luôn luôn có những cái hạnh mà nó không bao giờ bị hoại diệt.

·      Và thiện hữu tri thức bất hoại: nghĩa là luôn luôn người này có những thiện hữu tri thức sống sát ở bên họ. Nghĩa là có những người rất là thân tình, có những người rất là thương mến họ, có những người rất tận tình với họ để giúp họ từ cái này đến cái kia, gọi là thiện hữu tri thức bất hoại.

7. Không nói lời hung ác

Cái hành động thứ 7 này là cái hành động của miệng là không nói lời hung ác. Đây là cái hành động cuối cùng của khẩu nghiệp chúng ta, của hành động miệng chúng ta. Lời nói hung ác là lời nói dữ, vu khống người khác, phao phản, bươi móc việc xấu của người khác. Lời nói cộc cằn, thô lỗ mắng nhiếc, mạ lụy người, làm cho người khác tức giận, khổ sở, đau đớn.

Người không nói lời nói hung ác thường dùng lời nói khen, khen ngợi, lời lẽ ôn tồn, trang nhã hiền hòa, lời nói luôn luôn làm cho mọi người được an vui, yên ổn. Thì cái lời nói mà không hung dữ là cái lời nói mà rất êm ái, còn cái người mà nói hung dữ thì lời nói to, nói rất lớn và những lời nói thô tục, những cái lời mắng nhiếc người, những cái lời nói vu khống người. Có những người nói lời nói vu khống thì nói nhỏ nhẹ lắm nhưng mà vu khống người ta đó cũng là lời nói ác đó, mà mình nói xấu người ta cũng thuộc diện là lời nói ác đó. Mình bươi móc chuyện xấu của họ cũng là lời nói ác đó. Mình phao người ta cái này cái kia đó cũng là lời nói ác đó. Chứ không phải là lời nói ác là mình chửi mắng, nạt nộ người ta là lời nói ác đâu.

Lời nói cộc cằn là lời nói ác, mà nạt nộ người ta cũng là lời nói ác nhưng phải biết là có nhiều lời nói mà chúng ta không có cộc cằn, không thô tục, nhưng mà chúng ta bươi móc cái chuyện xấu của người ta, chúng ta nói xấu người khác, chúng ta phao tin vu khống người ta, đó cũng thuộc diện lời nói ác. Nói mà làm cho người ta bị tù tội, bị chết, người ta không ăn trộm mà nói người ta ăn trộm, người ta không tà dâm mà mình nói người ta tà dâm, người ta không có giết người mà mình nói người ta giết người. Thì những cái lời nói đó là những lời nói ác. Mặc dù là cái lời nói đó rất nhẹ nhàng: “tui thấy cái người đó giết cái người kia” nhưng sự thật ra người đó không có giết, nhưng vì thù hận nhỏ trong lòng của mình, họ không nói lời to, họ chỉ vu khống, phao du người ta làm cái chuyện như vậy để cho người đó ở tù chơi. Đó là những lời nói ác.

Cho nên lời nói ác phải biết phân biệt như thế nào để mà chúng ta biết lời nói ác, chứ không khéo người ta cứ nghĩ rằng, có lời nạt nộ, chửi mắng hay mắng nhiếc người ta mới là lời hung ác thì nó không phải đâu. Hung ác có nghĩa là lời nói dữ, lời nói làm cho người ta khổ đau thì đó là lời nói hung ác.

Hiểu rõ như vậy thì chúng ta mới biết được mà cảnh giác, để mà không thốt ra cái lời nói đó, thì chúng ta mới giữ được cái hành của miệng mình. Còn nếu mình không hiểu thì mình sẽ tưởng là mình nói như vậy không phải là lời nói hung ác. Cho nên ở đây, Thầy giải thích cho nó rõ để cho các con học cho nó kỹ vì nó là cái căn bản đạo đức của Đạo Phật. Nó là 10 cái điều mà đạo đức của Đạo Phật mà chúng ta cần phải trau dồi, cần phải tu tập, cần phải dứt bỏ, đó là những điều mà chúng ta cần phải hết sức tu tập, nhiệt tâm tu tập, siêng năng tu tập, chứ không phải chỉ nói miệng suông được mà phải đem hết cái thân tâm của chúng ta thực nghiệm đúng 10 điều lành này.

Cho nên kinh Thập Thiện dạy: Kẻ nào không nói lời hung dữ sẽ được 8 món công đức:

1.Nói đúng pháp. Nghĩa là lời nói chúng ta luôn luôn bao giờ cũng không sai.

2.Lời nói có ích lợi.

3.Lời nói đúng chân lý.

4.Lời nói khôn khéo.

5.Nói điều gì ai cũng vâng theo.

Ở đây cái chỗ 4 là lời nói khôn khéo, có cái khôn khéo mà xảo trá, nhưng cái khôn khéo ở đây là nói lời nói không có dữ dằn, làm cho người khác nghe nó êm tai, thuận tai, làm cho người khác nghe lời nói mà người ta được vững bụng, không sợ hãi, yên tâm đó là lời nói khôn khéo. Nhiều khi chúng ta không khôn khéo, chúng ta nói nó cũng đúng như vậy, cũng như vậy mà không dùng lời nói khôn khéo làm cho người khác nghe người ta thấy đau khổ trong tâm, mà người khác đã đau khổ trong tâm thì lời nói đương nhiên được xem là lời nói không khôn khéo, đương nhiên được xem là lời nói hung ác.

Nghĩa là cái lời nói nào mà làm cho người ta đau khổ thì lời nói đó đều là lời hung ác hết, nó bao gồm cả lời nói dối, lời nói thêu dệt, lời nói lật ngược đều là thuộc về lời nói hung ác hết, chớ không phải riêng những lời nói này là lời nói hung ác đâu.

Cho nên phải hiểu ở đây, cái chỗ 4 lợi ích của lời nói thứ 4 này là lời nói khôn khéo đó là chúng ta phải biết sử dụng lời nói chúng ta như là chúng ta cầm một cái bào, một cái cưa để cưa cây hoặc một cái dụng cụ nào đó làm cái nghề gì đó, phải tinh xảo. Cái lời nói của chúng ta phải sử dụng như một ông thợ mà rành nghề sử dụng cái vật dụng của nghề đó. Cũng như một nông dân ông sử dụng cái cuốc của ông. Cũng như một người thợ cưa, thợ mộc họ sẽ sử dụng cái cưa, cái bào của họ. Cũng như cái người viết văn thì họ sử dụng cái ngòi bút, thì chúng ta là cái người mà tu theo Đạo Phật mà tới cái lời nói hung ác này đó thì chúng ta sử dụng cái lời nói khôn khéo của chúng ta để làm cho mọi người đều vui, thì điều đó chúng ta sử dụng phải khéo léo, phải thiện xảo, chứ không phải thiếu cái này mà được. 

Đến cái chỗ này thì chúng ta tập dần đi cái chỗ mà chúng ta không có nói lời hung dữ thì nó đưa đến cái chỗ mà chúng ta có những lời nói khéo léo. Từ đó nó phát sinh ra chúng ta có những lời nói rất là khéo léo.

5. Nói điều chi ai cũng vâng theo.

6. Lời nói được nhiều người tin.

7. Lời nói không bị ai chê.

8. Lời nói được yêu mến.

Đó là 8 cái điều mà chúng ta cần phải hiểu để mà giữ gìn 4 cái hành động của cái miệng mình.

Vậy tóm lại, 4 cái hành động của miệng mình thì khi mà học biết được 4 cái hành động thiện này, thì từ đây về sau chúng ta phải cố gắng mà thực hiện giữ gìn cái khẩu nghiệp.

Trước tiên chúng ta nên tập độc cư, nên giữ cái miệng của mình, mà thường Thầy nhắc các con là sống trầm lặng, sống trầm lặng, như vậy là mình sống ở trong cái tâm hồn trầm lặng của mình, mình ưa thích trầm lặng này, mình sống trầm lặng này, mình ca ngợi trầm lặng này, mình tìm cái nơi để mình được sống trầm lặng. Do những điều kiện đó mà trong kinh Phật đã dạy chúng ta, tức là dạy chúng ta giữ gìn khẩu nghiệp của chúng ta. Mà Phật dạy độc cư cũng nhằm mục đích là sống trầm lặng. Sống giữ gìn 4 cái điều lành của cái cái miệng chúng ta. Như vậy chứ không phải gì.

Sau một thời gian mà chúng ta tịnh khẩu, chúng ta không nói thì từng đó khi chúng ta mở miệng ra, cái miệng chúng ta nó không có lanh đâu, nó chậm chạp lắm, rồi từ đó chúng ta nói lời nào nó có sự suy nghĩ nó nói, nó nói rất chín chắn. Nhưng mà chúng ta nói riết rồi, nó nhanh nó bén nhạy rồi, cái đầu óc chúng ta chưa có nghĩ kịp nó đã nói trước rồi. Cái miệng chúng ta nó đi trước cái ý, chứ không phải nó đi sau cái ý. Cho nên chúng ta phải khéo léo để giữ gìn làm sao cho cái miệng chúng ta đi sau cái ý thì nó mới tốt. Còn nếu nó đi trước cái ý coi chừng nó phạm vào 4 cái điều ác của cái miệng chớ không phải là điều lành đâu.

Đó thì hôm nay Thầy tóm lược để thấy 4 cái điều của cái miệng, 4 cái hành động của cái miệng thì rất quan trọng cho cái cuộc đời mà tu tập theo Đạo Phật chứ không đơn giản đâu.

Về phần ý, chúng ta có 3 cái hành động của ý

Vậy thì cái hành động của ý. Đầu tiên đó là: Không tham muốn.

Con người bị cám dỗ 5 thứ dục lạc. Người ta mà có tâm tham là vì có đối tượng để cho nó tham, không có đối tượng nó lấy gì tham? Cho nên nó có 5 cái đối tượng của nó. Đó là 5 món dục lạc. Vậy thì 5 món dục lạc này là cái gì? À, tiền của, đó là một. Sắc đẹp của phụ nữ đó là hai đó. Danh vọng, tức là làm quan, làm vua hoặc là đỗ bằng này bằng kia, những cái danh vọng đó, hoặc là được tiếng người ta nói mình là những nhà bác học, hoặc là những danh y, hoặc là người ta ca ngợi mình là chơn tu. Tất cả những cái danh đó là danh vọng đó. Tất cả những cái này, ngay cái danh Đức Phật đã dạy chúng ta: Được danh, được lợi (tức là tiền bạc đó), rồi được sự cung kính thì chúng ta nên ẩn bóng đi, thì đó là bậc chân tu.

Do Phật nhắc như vậy tức là chúng ta xa lìa cái gì? À, tiền bạc, sự cúng dường đó. Rồi danh, danh vọng. Rồi sự cung kính. Đó là những cái mà bậc chân tu phải tránh nó. Thì ở đây nó cũng nằm trong cái ngũ dục lạc, cho nên từ cái chỗ này chúng ta mới thấy rõ được cái ý của Đạo Phật, đối tượng của con người bị cám dỗ đó là 5 thứ dục lạc này. Rồi đến ăn uống là một trong 5 cái dục lạc này. Rồi đến ngủ cũng là một trong 5 cái dục lạc này. Cho nên chúng ta đọc lại là: tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Đó là 5 cái đối tượng dục lạc, làm cho tâm của chúng ta khởi lên ham muốn.

Vì vậy mà cái hành động của ý chúng ta là cái chỗ ham muốn. Mà ham muốn, có những đối tượng làm cho nó ham muốn. Vậy thì trong thế gian, người đời không ai tránh khỏi 5 thứ này, nghĩa là sống trong cuộc sống thế gian thì người ta không mắc cái này thì người ta cũng mắc cái kia, người ta dính tâm tham của chúng ta, không bám cái này thì cũng bám cái kia. Không thể nào mà rời khỏi 5 cái thứ dục lạc này hết.

Vì vậy mà Đạo Phật chỉ cho chúng ta thấy được cái đối tượng của cái ý mà nó có cái hành động tham muốn của nó là phải có 5 thứ dục lạc. Nếu tham muốn, mong cầu, chạy theo nó, tức là chạy theo 5 cái dục lạc này, đạt được thì sanh tâm vui mừng, còn ngược lại thì trở nên buồn khổ, sầu não. Nghĩa là chúng ta đạt được 5 cái thứ dục lạc này, dù là một thứ đi nữa mà đạt được chúng ta cũng mừng nữa chứ chưa nói cả hết 5 thứ. Mà không được thì sanh ra buồn não, khổ sở. Nhiều người vì đạt không được những cái trong 5 cái dục lạc này họ sẽ sanh muốn đi tu theo Phật. Cái kiểu này thật ra họ tu như vậy đó, theo Thầy nghĩ chắc là họ thành ma chứ không thể nào mà giải thoát được hết.

Đòi hỏi dục lạc không được rồi bỏ đi tu thì cái kiểu đó không phải cái người mà thấy được cuộc đời là khổ, thấy được cuộc đời sinh ra là bao nhiêu cái thứ khổ dày đặc ở trong đầu của mình. Cho nên nếu mà vô tu thời gian sau đó mà được người ta cung cấp tiền bạc, rồi cúng dường, rồi xây chùa lớn cho mình thì bắt đầu cái anh này hết tu rồi vì anh vui rồi, anh đạt được cái mục đích là dục lạc rồi. Cho nên từ đó ông thầy bị dục lạc mất rồi. Cho nên vì vậy mà mình thất vọng, thất tình, rồi mình vào chùa mình tu, cuối cùng thì đến chùa ở một thời gian sau thì 5 cái thứ dục lạc này lần lượt nó đến, đến nó ve vãn, nó khêu gợi, từ đó anh đâu phải là người có tâm tu, xa lìa nó đâu. Tại vì anh đạt không được 5 cái đối tượng dục lạc này, vì vậy mà anh bị nó cám dỗ thì từ cái hình thức của một vị tu sĩ bị rơi vào trong cái này. Đó là những cái lạc lầm, cái không hiểu của Thập Thiện.

Mà khi một người hiểu biết, người ta mới thấy được 5 cái đối tượng này làm cho chúng ta rất là đau khổ, nó cám dỗ chúng ta rất là lớn, rất là mạnh. Lòng ham muốn của người đời khi được toại nguyện thì phải trải qua vô vàn cực khổ. Nghĩa là chúng ta nếu mà ở ngoài đời chúng ta muốn có tiền, chúng ta phải làm lụng hết sức mới có tiền. Nhiều khi chúng ta phải tính toán suy tư, phải làm kinh tế bằng cách này, bằng cách khác. Có nhiều khi chúng ta phải vào tù ra khám rồi chúng ta mới lập nên sự nghiệp chứ không phải là ít. Chúng ta phải khổ sở lắm thì cái sự nghiệp chúng ta mới có được chứ không phải dễ. Nhiều khi mà chúng ta thành lập được cái sự nghiệp rồi chúng ta ngồi ở trên đống vàng chưa chắc chúng ta đã yên. Ở đây Thầy nói như Tâm Như đã chứng kiến được ngồi trên đống vàng mà chưa yên đâu. Thầy là ngồi trên cái cục đá mà Thầy rất yên, bởi vì ăn trộm nó không lấy cục đá; còn người ta ngồi trên đống vàng nhiều khi bước ra một bước thấy mất mạng liền tức khắc, nó không yên cho nên tâm họ bất an, luôn luôn bất an.

Lòng tham muốn của người đời khi được toại nguyện thì phải trải qua vô vàn cực khổ nhưng hưởng thọ thì sự vui đó thì rất là nhanh chóng. Vì thế chúng ta cần phải suy tư cho kỹ càng. Đó là cái vấn đề tiền bạc đó.

Bây giờ tới sắc đẹp đây

Tham sắc đẹp thì phải tổn phí tiền bạc rất nhiều lại còn mất sức khỏe và hao tổn tinh thần.

Tham tiền bạc thì phải đọa đày thân mạng lao động vất vả, đầu óc suy tư, tính toán, kinh doanh để làm ra tiền, thân và tâm không bao giờ được an vui, ngơi nghỉ, ngồi trên đống tiền như ngồi trên đống lửa.

Tham danh vọng, quyền cao tước trọng thì phải vào luồn ra cuối nịnh bợ, ton hót hoặc đem lo hối lộ. Chẳng hạn Thầy học dở mà Thầy muốn đậu để muốn cho người ta nói Thầy đậu tú tài, Thầy đậu cử nhân thì giờ mình phải đem tiền đem bạc hoặc là quà biếu cho mấy ông thầy chấm thi, hoặc là coi ông thầy đó cho những bùa phép gì đó để rồi mình quay cho nó đậu. Tất cả những cái này đều là những cái phải luồn cúi, nịnh bợ bằng cách là bắt buộc mình làm như vậy để cho mình tạo được cái danh vọng đó. Đó là cái sai cái không đúng.

Tham ăn uống thì món ngon vật lạ thì lại mắc nhiều bệnh tật khó trị, ăn uống phải điều độ - ăn uống phi thời thức ăn sẽ thành độc dược.

Tham ngủ nghỉ thì trí tuệ tối tăm, mê muội, sanh biếng nhác thiếu ý chí chủ động, thiếu nghị lực, dần dần biến thành kẻ ăn bám vào người khác.

Người cư sĩ theo Đạo Phật thường hằng ngày khắc phục và chiến đấu chống lại lòng tham muốn của mình để không bị 5 thứ dục lạc này lôi cuốn. Nhờ thế mới có được đời sống tri túc, thiểu dục, đơn giản, thanh tao và an nhàn. Nhận được sự lợi ích cho đời sống con người khi đã lìa xa tâm ham muốn thì được thảnh thơi, vâng vui, an lạc, không còn khổ đau phiền não nữa. Phật dạy: Diệt tâm tham muốn là diệt đế. Diệt đế là Niết Bàn là trạng thái tâm hồn thanh thản. Chỉ cần không ham muốn là quý vị đã đạt được cảnh giới Niết Bàn. Chỉ có 1 chút thôi, chúng ta đừng ham muốn, đừng có ham thích những cái dục lạc đó thì ngay đó chúng ta đã có Niết Bàn rồi, có cần gì mà phải tu nhiều, chỉ có 1 chút tâm đừng ham muốn là đủ rồi.

Vậy thì quý vị có cần gì mà phải cực khổ ngồi thiền, nhập định làm chi cho nó mất công? Chỉ cần dẹp qua cái lòng ham muốn là đã được rồi. Nhưng nói như vậy đâu phải chuyện dễ. Nếu dễ như vậy thì ai cũng làm Phật, cũng nhập được Niết Bàn được hết rồi. Khó lắm, cái lòng ham muốn của chúng ta khó lắm, khó mà dứt được nó lắm.

Quý vị đừng hiểu rằng khi tâm ham muốn dứt thì cuộc sống sẽ trở thành tẻ nhạt. Có nhiều người họ nghĩ rằng khi còn ham muốn thì chúng ta còn thích thú, còn làm cái này còn làm cái kia, giờ hết ham muốn rồi bắt đầu đời sống của mình không còn cái gì nữa hết, thôi chắc chắn là ngồi đó mà chờ chết thôi chứ có ước muốn gì nữa đâu. Đó là cái hiểu lầm lạc của quý vị, nó trở thành tẻ nhạt, nó trở thành vô vị, không còn ý nghĩa gì trong cuộc sống. Còn ham muốn thì còn thấy hy vọng cái này cái kia cho nên mình đâm đầu mình chạy bên đây chạy bên kia mình tìm nó. Còn giờ hết ham muốn rồi còn tìm gì nữa đâu. Cho nên đời sống bây giờ nó tẻ nhạt, sao mà lạnh lẽo vô cùng, con người mà tâm không ham muốn nữa chắc chắn là tiêu chứ còn gì! Đó là cái hiểu mà đứng ở trên núi này mà hiểu cái núi kia, làm sao hiểu được!

Chúng ta muốn hiểu nó chúng ta phải đi vào xem nó như thế nào. Vì vậy Phật dạy ly dục thì được tâm thanh thản, giải thoát. Từ cái chỗ mà mình không còn ham muốn nữa, mình lìa xa cái lòng dục của mình, lòng tham lam đó thì cái tâm mình nó thanh thản, nó thanh thản tức là nó giải thoát, chứ đâu phải tẻ nhạt đâu. Do còn cái ham muốn mà không đạt được nó mới thấy tẻ nhạt, còn bây giờ người ta không ham muốn thì tức là nó thanh thản, cho nên nó đâu tẻ nhạt. Vì cái chỗ tẻ nhạt này do cái ham muốn mà không đạt được bây giờ bắt buộc mình ngồi đây mà không ham muốn, chứ trong tâm của mình một khối ham muốn ở trong đó. Cho nên nó mới thấy tẻ nhạt. Phải hiểu được cái lý như vậy còn nếu không ông Phật ông bảo mình ly dục mà hết dục rồi gọi là Niết Bàn. Thì trời ơi, cái Niết Bàn gì nghe nó buồn khổ, sao nó không ham muốn gì hết trong đó. Thì như vậy mình tu làm gì nữa. Cho nên từ đó mình mới thấy được cái mấu chốt của nó, là cái mầm của nó là ham muốn dục lạc mà không đạt được. Cho nên bây giờ ngồi đây cái tâm ham muốn cho nên mới thấy tẻ nhạt, nó mới thấy lạnh lẽo ở trong đó. Chứ còn cái người mà người ta không còn ham muốn thì người ta ly được nó rồi thì cái tâm hồn nó thanh thản, nó giải thoát, nó đâu có tẻ nhạt, nó đâu có buồn khổ.

Cho nên quý vị hiện giờ các con thấy như thế nào, cho các con độc cư, mà riết độc cư các con thấy buồn khổ đó là tẻ nhạt đó, là vì cái tâm ham muốn các con còn, chứ còn nếu cái tâm ham muốn, cái tâm tham nó hết rồi thì đâu còn cái chuyện mà nó tẻ nhạt nữa đâu! Cho nên các con sống độc cư thấy an lạc là vô cùng thì không bao giờ thích nó nữa. Còn bây giờ thấy nó tẻ nhạt quá, nó buồn quá, thôi đi ra nói chuyện chút cho nó vui, tức là các con sẽ không giữ được hạnh độc cư. Vì vậy mà cái hạnh độc cư rất là tuyệt vời làm cho tâm hồn chúng ta thanh thản giải thoát. Chính vì mà các con sống không được độc cư là cái tâm ham muốn các con còn, tham muốn nó còn đó. Các con hiểu chỗ đó mới thấy được cái chỗ mà Thầy dạy nó rất là thực tế, cụ thể. Cho nên hầu hết một số người tu hành về đây rất đông mà cuối cùng đến độc cư họ phải ra đi, ra đi còn lại được 2 người mà thôi. Thì đủ biết rằng tại cái tâm ham muốn của họ còn, cho nên họ thấy tẻ nhạt, cô đơn, buồn bã. Vì vậy mà họ không chịu nổi, họ phải rời đi.

Sống là sự trả nghiệp chớ không phải sự tham đắm, si mê về dục lạc. Ở đây, cái câu nói này các con phải hiểu, nó rất là đầy đủ ý nghĩa của nó. Bởi vì hầu như người ta lầm lạc, người ta tưởng cuộc sống này là phải tham đắm những cái dục lạc đó, 5 cái dục lạc đó. Nhưng cuộc sống là cuộc sống trả nghiệp, bởi vì cái nghiệp nó sinh ra chúng ta ra do đó, những quả đó phải sẵn sàng cho cái bản thân của chúng ta rồi vì vậy chúng ta phải trả nghiệp, thay vì vừa trả nghiệp vừa tạo nghiệp thì nó mới có cuộc sống vị lai. Nếu mà chúng ta trả cái nghiệp này mà chúng ta không tạo cái nghiệp mới thì làm sao có cuộc sống tương lai được. Cho nên qua cái bài kệ Nhất Dạ Hiền thì quý vị còn nhớ 2 câu đầu Thầy đã nói như thế nào không?

Quá khứ không truy tìm

Vị lai không ước vọng

Phải không! Nếu mà quý vị không có truy tìm cái quá khứ, không có ước vọng ở vị lai thì hiện tại quý vị sẽ sống như thế nào? Thanh thản! Còn nếu quý vị đi tìm cái quá khứ, rồi ước vọng ở tương lai thì như vậy quý vị còn có được an vui không? Như vậy là quý vị truy tìm ở quá khứ và ước vọng ở tương lai thì đó là tham đắm, si mê của dục lạc chứ đâu phải là người trả nghiệp?

Chúng ta biết chúng ta sinh ra là những người đang trả nghiệp chứ không phải chạy theo tham đắm của dục lạc. Chúng ta không hiểu được vậy, chúng ta chạy theo tham đắm dục lạc vì vậy mà chúng ta tạo những cái nghiệp mới, vừa là chịu trả những nghiệp cũ, và trái lại tạo thêm những nghiệp mới do cái sự không hiểu biết. Quý vị có hiểu được chỗ này quý vị mới thấy được con đường của Đạo Phật vạch ra chúng ta một cái lối để chúng ta biết rằng chúng ta phải diệt trừ tất cả nghiệp. Vì nghiệp là ông chủ mà sanh chúng ta ra, là chủ nhân sai khiến chúng ta.

Người đời lầm tưởng dục lạc là có thật, nghĩa là 5 cái món dục lạc hồi nãy Thầy có nói như trên thì người đời, người chưa hiểu Phật Pháp thì người ta thấy cái đó là cái thật. Mà chính bây giờ các con người nào cũng là biết 5 thứ dục lạc đó nó không thật nhưng mà cái không thật đó là quý vị mới ngộ được cái lý không thật của 5 món dục lạc cho nên các vị chưa chứng được cái lý của 5 món dục lạc này. Vì vậy mà các vị biết nó như vậy, hiểu nó như vậy nhưng mà vẫn thích ăn. Phải không? Vẫn thích ngủ. Đêm nào mà không ngủ là quý vị thấy nó khổ sở vô cùng tận. Đó, quý vị có hiểu được điều đó không? Cho nên tiền bạc tuy rằng bây giờ mình không có nhưng mà vẫn còn thích chứ đâu phải không thích. Rồi sắc đẹp, đâu phải không thích. Rồi danh, không phải không thích. Tất cả những cái này, 5 món dục lạc này đều biết nó là không thật nhưng rồi quý vị vẫn còn thích nó.

Nếu biết nó không thật thì quý vị muốn nó như thật, mà không thật này thì quý vị phải tu tập như thế nào? Nếu quý vị không tu mà quý vị cứ ngồi hít thở thì làm sao mà thấy nó như thật được? Cho nên quý vị hiện giờ biết nó không thật nhưng vẫn thấy nó thật. Cho nên luôn luôn dính mắc nó. Không thể nào mà chúng ta thoát khỏi nó được. Do vì vậy mà hằng ngày mà Thầy dạy quý vị cái Định vô lậu để làm gì? Để quý vị ngồi xếp bằng lại thân nó bất động, tâm nó yên lặng, từ đó quý vị đặt cái niệm ngũ dục lạc này: ăn, ngủ; thức ăn quý vị quán bất tịnh; ngủ nó sinh ra mê muội hôn trầm, quý vị đặt cái niệm trước mặt, từ đó cái tri kiến ở trong đầu của quý vị nó sẽ phóng ra, nó làm cho quý vị không còn dính mắc say mê nữa. Từ đó quý vị mới thấy rõ được cái sự giải thoát nơi tâm hồn của quý vị. Quý vị mới chứng được cái lý, cái lý không thật của nó, cái lý của 5 thứ dục lạc này nó không có thật mà quý vị lầm chấp nó cho nó là thật, cho nên quý vị mới có cái tâm tham đắm nó, si mê với nó.

Đó là quý muốn 5 cái dục lạc này nó không thật, nó không có thật quý vị phải đặt niệm nó ở trước mặt, quý vị dùng cái tri kiến giải thoát của quý vị, quý vị phải rõ có những tri kiến, cái tri kiến đầu tiên của quý vị là quý vị hiểu, quý vị ngộ là 5 cái dục lạc này nó không thật, quý vị biết đó là cái tri kiến của quý vị. Nhưng mà khi quý vị đặt cái niệm 5 cái thứ dục lạc này trước của quý vị, quý mới phóng ra cái sự hiểu biết, suy tư hiểu biết, quán xuyến sự hiểu biết đó thì 5 cái thứ dục lạc này nó sẽ trở thành không có thật. Do đó từ ngày này tu tập tới ngày khác tu tập cứ đặt cái niệm đó trước mắt, quán xuyến rồi xả bỏ tất cả những dục lạc này để không còn nó ham thích. Trong cái giờ mà nó buồn ngủ, tức là nó còn cái dục lạc đó chứ gì, nó ham ngủ này nó còn mệt mỏi, nó còn lừ đừ, nó còn muốn đi ngủ nè. Do đó quý vị thấy quý vị phải chiến đấu nó bằng cách là quý vị phải đi kinh hành, quý vị phải động thân, quý vị phải chiến thắng nó đừng cho nó ngủ trong cái giờ đó, nhất định là không cho. Từ đó quý vị mới chiến thắng được cái dục lạc này, từng cái dục lạc. Từ cái dục lạc ăn, nếu quý vị mà không quán nó bất tịnh thì cái món ăn đó quý vị thích là quý vị không bao giờ chứng nó cái lý như thật được, cho nên quý vị không thấy nó bất tịnh. Còn để món ăn trước mặt quý vị, rồi quý vị đặt cái niệm đó trước mặt quý vị, rồi quý vị quán bất tịnh cái thức ăn đó đi, lâu ngày một lần hai lần ba lần, một ngày hai ngày, một tháng, hai tháng tới một năm thì quý vị không còn muốn ăn nữa. Nghĩa là quý vị thấy thực phẩm ăn để mà sống chứ không còn thèm ăn, thèm uống gì nữa hết.

Đó như vậy là cái phương pháp mà đặt niệm trước mặt để mà tu cái Định vô lậu nó lợi ích cho quý vị như vậy. Làm cho cái tâm mà tham đắm ngũ dục lạc này nó không còn dính mắc nữa.

Không ngờ do si mê, tham đắm dục lạc nên tạo ra biết bao nghiệp ác.Do nghiệp ác mà chúng ta mới chịu biết bao sự khổ đau. Đó, từ cái chỗ mà chúng ta đắm đuối theo những cái dục lạc này mà chúng ta tạo ra những cái nghiệp ác. Muốn đạt được nó, nó phải có nhiều thứ ác ở trong đó, chứ phải khi không mà nó đạt được, do đó mà chúng ta lại tạo ra nhiều cái nghiệp mới, làm cho chúng ta đời đời kiếp kiếp nó tiếp diễn nhau ở trong cái nghiệp lực của nó chứ đâu có gì khác hơn để rồi chúng ta mãi mãi đau khổ triền miên bất tận, kiếp này đến kiếp khác.

Kinh Thập Thiện nghiệp đạo dạy: Kẻ nào không tham đắm dục lạc thế gian thì được 5 món công đức tự tại:

1. Ba nghiệp thân, khẩu, ý được tự tại. Về nhân các căn đầy đủ. Về nhân tức là 3 cái ý của mình được tự tại về cái thân của mình. Các căn đầy đủ, sáu cái căn chúng ta đầy đủ không hao mất.

2. Của cái được tự tại. Nghĩa là của cải chúng ta nó không có sự hao mất cái này, cái kia, cái nọ. Nó rất là tự tại.

3. Phước đức tự tại.

4. Ngôi vua tự tại. Nếu mà chúng ta làm vua thì nó rất tự tại, nó không còn lo giặc giã, nó không còn lo quan quân của mình ăn lo hối lộ làm những điều xằng bậy dân chúng đau khổ, toàn là những người quan trung thành, đều là thanh liêm, đều là vì dân, vì nước mà lo chứ không là ăn lo hối lộ. Có nhiều người làm vua mà ngồi ở trên ngai vàng mà quan cuả mình, xung quanh mình, làm việc với mình những ông quan này ăn no hối lộ làm cho dân khổ mà ở trên mình không hay biết cho nên ông vua đó đâu có tự tại không. Rồi làm vua mà giặc giã đánh ở biên cương chỗ này chỗ nọ chỗ kia thì ông vua đó có tự tại không? Không bao giờ tự tại được. Cho nên cái người mà giữ gìn được cái công cái tâm mà không có những tham muốn này, tránh xa được 5 món dục lạc này thì ông vua được cái phước báu là tự tại trên ngôi vua. Đó là cái thứ 4.

5. Được hưởng lợi gấp trăm lần.

Đó là về cái phần của cái ý mà chúng ta tu được cái tâm không tham muốn thì được như vậy.

9. Không sân hận

Cái tâm của chúng ta, cái ý của chúng ta dễ sân hận lắm. Tâm sân hận là tâm đau khổ, tâm hung, tâm dữ tợn. Tâm sân hận vốn không có, chỉ vì chúng ta lầm chắc thân tâm của mình là ngã thật từ đó mới luôn luôn bảo vệ, che chở, nếu ai chạm đến nó, tức là cái thân tâm của mình đó tức thì cơn sân nổi lên đùng đùng.

Cho nên ở đây quý vị thấy do cái chỗ nào mà có cái tâm sân của mình? Do cái chỗ lầm chấp cái ngã của chúng ta. Vậy thì cái thân của chúng ta là cái ngã của mình, tâm của chúng ta là cái ngã của mình, lầm chấp cái đó cho nên người ta đụng tới cái ngã, ngay đó mình giận lên liền. Cho nên vì vậy mà chúng ta tu cái Định vô lậu thì chúng ta đặt cái thân và cái tâm để quán cái thân của mình có cái ngã ở trong đó không? Nó vô ngã. Cho nên Phật dạy: Vô thường, khổ, không, vô ngã. Nó không có cái gì hoàn toàn, cái ngã cũng không có, nó vô thường. Cái thân này nay vậy mai khác. Cho nên khi mà đặt niệm như vậy chúng ta phá trị cái ngã, mà phá trị cái ngã thì còn cái gì mà chúng ta sân, cho nên chúng ta phá ngay cái gốc của nó đi thì cái sân của nó sẽ không có.

Còn bây giờ chúng ta cố gắng, ờ biết mọi pháp là vô thường này kia mà chúng ta không đặt niệm để tu tập cho nó thấm nhuần được như cái lý chơn thật của cái vô ngã đó thì lúc bấy giờ chúng ta có nói tất cả các pháp người ta chửi mình cũng là giả, cũng không thật, người ta mắng mình cũng là điều vô thường bằng cách này cách khác nhưng mà đó là cái lý để mà chúng ta hiểu, chúng ta ngộ, chưa phải là chúng ta thấm được cái lý chứng được cái lý đó.

Cho nên vì vậy chúng ta đặt cái niệm trước mặt của chúng ta, cái vô ngã trước mặt của chúng ta, đặt cái thân tâm chúng ta rồi chúng ta quán xét nó vô ngã. Nó vô như thế nào, nó không ngã như thế nào, cái tâm nó như thế nào, chúng ta 4 cái chỗ để mà chúng ta quán xét nó, để nó trở thành vô ngã. Từ đó cái tâm sân của chúng ta nó không bao giờ có nữa. Cho nên ở đây Thầy giảng ra nó, để cho chúng ta có một cái hành động tu tập để diệt trừ cái tâm sân của mình, để thực hiện được điều lành mà cái tâm không còn sân nữa. Chớ không phải nó không sân rồi mình nói, mình giảng suông mà không biết hành động tu thì như vậy mà không biết cái định nào để tu cho được cái tâm hết sân thì như vậy chúng ta chưa bao giờ hết sân.

Trước kia, Thầy dạy quý vị tùy thuận nhẫn nhục, tùy thuận bằng lòng trong mọi điều kiện, để cho quý vị sống trong cái cuộc đời... Tùy thuận bằng lòng mọi đối tượng, mọi hoàn cảnh để tâm sân, tâm phiền não của quý vị không có nhưng Thầy thấy qua cái sự thiếu sót đó làm cho quý vị chuyên tâm về cái thiền định hơi thở nhiều hơn mà cái định vô lậu không có. Chỉ có cái ngộ được cái lý của nó cho nên quý vị chỉ chịu đựng mà nhẫn nhục, chịu đựng mà tùy thuận, chịu đừng để mà bằng lòng. Mà cuối cùng thì xét thấy qua cái tu tập của quý vị Thầy biết có 1 sự thiếu khuyết ở trong đó cho nên nó mới giậm chân tại chỗ, vì vậy bây giờ quý vị sẽ theo ngay cái lời dạy của Đức phật đặt cái niệm trước mặt để mà quán cái thân vô ngã, cái tâm vô ngã, từ đó nó không có cái ngã thì cái tâm sân nó sẽ không có nữa.

Một niệm tâm sân khởi thì trăm ngàn tai họa đem đến, biết vậy hàng ngày chúng ta thường nhắc tâm: giận hờn là đau khổ, là bao nhiêu tai nạn xảy đến, giận hờn khiến gia đình bất an, không vui, vậy từ đây về sau tâm không được giận hờn, tâm phải như cục đất. Thì như vậy đây là cái phương pháp hướng tâm tu, tức là phương pháp ám thị. Kèm theo phương pháp ám thị, chúng ta phải đặt cái niệm vô ngã thì như vậy chúng ta mới hoàn thành được cái tâm không sân hận, không giận hờn nữa.

Đó thì quý vị phải áp dụng cả 2 phương pháp chứ không phải áp dụng có một phương pháp không thì nó không đủ đâu, không đủ sức mà chuyển nó đâu, vì bằng chứng là trải qua thời gian quý vị cũng dùng pháp hướng, quý vị ám thị rất nhiều mà nó chưa thành tựu được. Cho nên hôm nay quý vị đặt luôn cả cái thân, cái tâm nó vô ngã để quý vị quán xét, quán triệt, để thấm nhuần thấu suốt cái lý vô ngã của nó, để quý vị phá đi cái lậu hoặc của quý vị. Cộng lại các phương pháp tu tập vậy làm cho tâm sân của quý vị không còn có nữa. Hàng ngày phải nhớ câu này, nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho thấm nhuần cho tận xương tủy, có như vậy tâm sân hận mới đoạn diệt.

Đó là Thầy đưa ra 2 cái pháp để quý vị tập luyện để cho cái tâm sân này nó hết.

Do dằn không được sự giận hờn nên từ việc nhỏ sẽ nở ra việc to lớn, từ đó biết bao nhiêu tai họa xảy đến không lường trước được. Tâm sân nó thường mang đến nhờ sự rắc rối và tạo ra vô vàn đau khổ. Nếu tâm sân không dằn được có khi gây ra án mạng tạo cảnh tù tội chung thân. Quý vị phải ý thức sân hận nó thường mang đến tai họa cho loài người, chính nó làm mất đi hạnh từ bi của người tu sĩ và lòng nhân ái của người thế gian. Thế thì cái tâm sân của quý vị nó diệt đi cái lòng từ bi của vị tu sĩ. Mà tâm sân của quý vị nó sẽ diệt đi cái lòng nhân ái của người cư sĩ. Vì vậy quý vị phải tìm mọi cách mà chấm dứt nó đi.

Trong tứ chánh cần Phật dạy: Các pháp ác chưa sanh, không cho sanh, đã sanh cần phải đoạn diệt, như vậy là cái tâm sân của mình tự nó đâu có đâu. Cho nên bây giờ đừng cho nó sân, mà đừng cho nó sân các vị phải sống như thế nào? Cho nên các vị phải sống độc cư, không có duyên để cho nó tạo ra cái cảnh sân đó, mà có duyên tức là cái tâm sân nó sẽ sanh ra. Còn quý vị chung đụng mãi với nhau thì tâm sân quý vị làm sao tránh khỏi.

Đó là những điều mà quý vị cần phải tu tập, cần phải sống cho đúng. Đoạn diệt các pháp ác là một điều khó khăn, phải có nghị lực, ý chí cương quyết. Như bây giờ tâm sân của quý vị nó bừng bừng nổi lên, bây giờ quý vị ngắt lìa nó, bảo quý vị đừng có sân liền, quý vị có làm nổi không? Nếu một người không có ý chí, không có nghị lực, chắc gì quý vị giữ được nó, đoạn dứt nó được. Cho nên nói khi mà pháp ác sanh lên thì ngay đó phải đoạn dứt nó liền. Bởi vị trong tứ chánh cần Phật dạy: Các pháp chưa sanh thì không cho sanh, đã sanh phải đoạn diệt nó liền. Đoạn diệt nó liền quả là khó khăn, nếu mà không có ý chí, không có nghị lực thì không thể nào đoạn diệt nó được, chúng ta hãy đem hết ý chí dũng mãnh để chiến thắng những cơn sân phát khởi ào như thác đổ.

Muốn làm chủ hoàn toàn tâm mình không để một phút giây sân hận khởi lên thì phải dùng tuệ tri, quán xét, đặt niệm trước mắt. Đó là Thầy nhắc lại cái chỗ tu cái Định vô lậu đó. Chúng ta phải rõ: thứ nhất chúng ta phải trau dồi tâm từ bi của mình; thứ 2 chúng ta phải quan sát thọ, tưởng, hành, thức, vô ngã, vô thường. Chúng ta phải đặt cái niệm sắc thọ tưởng hành thức. Sắc là cái thân của mình. Thọ là cái cảm giác. Cái tưởng là cái ngồi tưởng nhớ. Cái hành là cái hoạt động. Cái thức là cái biết của mình. Đặt nó để mà chúng ta quan sát, để chúng ta tu cái định vô lậu, phá cái ngã, cái chấp ngã của chúng ta. Chúng ta cho nó là thường còn, cho nó là có ngã thật cho nên nó mới có cái tâm sanh đó. Cho nên phải đặt cái niệm đó.

Cái thứ nhất là quý vị phải nhớ trau dồi cái tâm từ bi vì Phật dạy cái tâm từ bi nó sẽ đối trị cái tâm sân mà ở đây nó chưa đủ đâu, trau dồi từ bi chưa đủ đâu. Bởi vì chúng ta biết có cái ngã cho nên có trau dồi cái từ bi bao nhiêu đi nữa thì cái ngã nó vẫn nổi lên thì từ bi chúng ta sẽ mất. Cho nên chúng ta phải đặt cái niệm để chúng ta dùng cái Định vô lậu để chúng ta quét sạch cái chấp lầm của chúng ta về sắc thọ tưởng hành thức này. Do đó chúng ta quán vô ngã, vô thường khổ không thì tức là nó làm cho cái đối tượng đó không còn có nữa, tâm sân nó bị diệt đi nhờ thông hiểu. (BBT:BN,05,E00:55:30)

BĂNG SỐ 06

(File gốc số 5)

(BBT:CĐ,06A,B00:08:09)(BBT:BN,05,B00:55:31)Bởi vì cái giai đoạn đầu chúng ta vào đạo Phật chúng ta phải đi tìm hiểu cho rốt ráo, vậy bây giờ hiểu rồi, chúng ta trau dồi tức là chúng ta dùng Tứ vô lượng tâm, từ - bi - hỷ - xả mà chúng ta tu. Rồi bây giờ chúng ta dứt bỏ, chúng ta phải tu tập Tứ chánh cần là chúng ta dứt bỏ. Rồi chúng ta tu tập, chúng ta tu Định vô lậu, rồi Định chánh niệm tỉnh thức, đó chúng ta thấy tất cả các pháp chúng ta đều kê vào để mà chúng ta tu tập. Từ đó mà chúng ta mới quán các pháp bất tịnh, quán lý duyên hợp, quán vô ngã, vô thường, khổ … chúng ta quán tất cả các pháp.

Do sự tu tập đúng cách như vậy, chúng ta mới thực hiện được Thập Thiện chứ đâu phải Thập Thiện mà dễ dàng.Nó đâu có đơn giản như chúng ta nghĩ, học hiểu rồi chúng ta bỏ qua, rồi chúng ta bỏ qua thì Thập Thiện chẳng qua là đống sách rởm, đống kinh chứ không phải là nó có điều lành chân thật. Có đạo đức chân thật nơi tâm hồn của chúng ta thì tâm sân hận mới chấm dứt, cuộc sống mới được an vui, giải thoát. 

Kinh Thập Thiện đạo dạy: Kẻ nào làm chủ được tâm sân thì được 8 món công đức. Đây là 8 sự công đức của việc tu tập về tâm sân của mình:

1. Tâm không tổn não.

2. Tâm không giận hờn.

3. Tâm không tranh giành.

4. Tâm được hòa hợp.

5. Tâm được từ bi.

6. Tâm thường làm lợi ích và an vui, an ổn cho mình cho chúng sanh.

7. Thân tướng được trang nghiêm.

8.Có đức tánh nhu hòa và nhẫn nhục, khi chết đi được sanh vào cõi thiện.

Đó là 8 công đức mà người tu tâm này được thì đạt được 8 công đức đó.

10. Không si mê

Bây giờ đây là cái hành động cuối cùng của ý của chúng ta, đây tức là không si mê. Si mê là u mê, không hiểu rõ, không biết đúng sự thật, hiểu biết mà không đúng chân lý. Si mê là tà kiến.

Người không si mê là người phán đoán rành rẽ, nhận định một cách rõ ràng, không biện minh che đậy sự ngu si u tối và lầm lạc của mình. Cho nên cái người si mê không phải cái người đó không hiểu biết, cái người đó rất hiểu biết nhưng họ hiểu không rõ, không đúng, không đúng cái lý, họ hiểu qua một cái tâm tham đắm, dính mắc ngũ dục lạc. Họ rất là thông minh mà họ vẫn là u tối, bởi vì họ hiểu mà họ không làm cho cái tâm của họ được an vui, được yên ổn.

Người không si mê thì không có cố chấp, ngoan cố theo cái sự hiểu biết riêng tư chủ quan của mình. Cái người si mê họ ngoan cố, họ cố chấp, họ chấp chặt những cái sự hiểu biết của họ, cho nên ai mà động đến cái sự hiểu biết của họ thì họ tranh luận, họ lý luận đủ cách để họ bảo vệ cái sự hiểu biết của họ. Cho nên cái người mà thông minh, người mà không si mê thì người ta không bị cố chấp cái đó nên ít khi nào người ta tranh luận với kẻ khác. Người ta chịu nhịn thua người khác. Còn cái người mà si mê thì họ thích tranh luận. Không phải những người si mê là người không hiểu, họ hiểu họ mới tranh luận nhưng mà họ tranh luận theo kiểu kiến chấp của họ, cái sự ngoan cố của họ, cái sự cố chấp của họ chứ không phải là cái sự ngu si, ngu ngờ họ không biết.

Không si mê, không tin những tà thuyết, người mà không si mê thì những tà thuyết họ không bao giờ họ tin; không đúng chân lý, những tà kiến, mê tín dị đoan, không làm cho người này tin được. Cái người mà si mê những cái gì mà nó mù mờ, họ thấy những cái gì đặc biệt kỳ quái là họ tin theo chứ không có sáng suốt, cho nên đó là những người si mê.

Người không si mê là người có trí tuệ thông minh, thấu suốt lý nhân quả. Đây các con sẽ nghe cái chỗ mà người không si mê là cái người mà thông minh phải thấy ở chỗ nào, còn cái người thấy hoàn toàn ngoài vấn đề này thì người đó đều gọi là người si mê. Người không si mê là người có trí tuệ, thông minh, thấu suốt lý nhân quả luân hồi. Đó là cái thứ nhất. Cái thứ 2 là biết rõ thế giới này không có thế giới siêu hình. Biết rõ lý duyên hợp. Đó, phải biết rõ thập nhị nhân duyên, đó là lý duyên hợp, thế giới thành hoại, cái thế giới mà chúng ta thành hoại này nó do đâu mà thành và do đâu mà hoại, đó vì vậy mà chúng ta phải thấu suốt được cái nghiệp đó. Ở đây nói thế giới thành hoại là phải thấu suốt được nghiệp.

Người không si mê thấy biết và thấu suốt 4 chân lý của kiếp người, 4 chân lý của kiếp người là Tứ diệu đế; biết rõ nơi đến nơi đi của kiếp người, người ta ở đâu người ta đến đây, người ta về chỗ nào, thì cái người đó họ phải thấu rõ được cái điều đó, chứ họ không mơ hồ đặt câu hỏi không biết chúng ta từ đâu mà đến, chúng ta chết rồi chúng ta đi về đâu, thì cái đó còn mơ hồ. Cho nên đó là những người còn si mê, dù là một nhà bác học, dù là một người có bằng tiến sĩ nhưng họ vẫn đặt câu hỏi đó, họ chưa biết, do đó họ còn si mê chứ chưa phải là người không si mê.

Biết rõ con người là duyên hợp. Người không si mê là biết rõ con người là duyên hợp, các pháp trên thế gian này đều vô thường, vô ngã, khổ, đều là duyên hợp, đều là vô thường, vô ngã không có ngã, nó luôn luôn là cái khổ. Biết nhân nào, duyên nào sanh ra con người. Biết địa ngục, thiên đàng ở đâu. Biết các cõi trời, biết rõ ma phạm thiên vương, quỷ thần. Biết rõ con người có linh hồn hay không linh hồn. Biết Bát chánh đạo và các pháp tu hành giải thoát. Người biết rõ như vậy là người không si mê. Người không thấu rõ những điều này được xem là người si mê dù người đó có học thức cao, đậu bằng cấp thạc sĩ, tiến sĩ và những nhà bác học rộng rãi hiểu xa mà vẫn còn mù mờ không rõ những điều trên đây cũng được xem là vô minh, si mê.

Vì thế Đức Phật xác định người si mê có 4 cách. Nghĩa là trong bài kinh đức Phật xác định, Thầy sẽ đọc lại cái chỗ đức Phật xác định:

Một, “Có người đi Đông, đi Tây học hỏi cái này, cái nọ hiểu biết nhiều chuyện kim cổ, thời tiết, chính trị, văn học, khoa học, kiến trúc, hội họa, thi thơ…có thể gọi người này tri kiến hoàn toàn nhưng những sự hiểu biết này tâm họ luôn bất an đều được gọi là phi phạm hạnh, si mê hạng nhất”. Cái sự hiểu biết của họ được Phật xác định là người phi phạm hạnh, si mê hạng nhất. Chúng ta phục lăn Đức Phật ở chỗ này. Mặc dù những người này họ thông hiểu vậy, nhưng tâm họ vẫn bất an chứ chưa phải là được an, vì vậy Đức Phật gọi là thuộc loại si mê hạng nhất.

Đây là cái phần thứ 2, Phật gọi: “Y cứ vào kinh sách mà giảng nói ra hoặc những truyền thuyết, sự hiểu biết, sự giảng dạy, sự giảng nói này mà tâm họ vẫn bất an thì đây được gọi là phi phạm hạnh, si mê hạng nhì”. Trong kinh điển Phật chỉ cho chúng ta thấy, dù cho những người đó thuyết giảng mà tâm họ luôn bất an, còn chạy theo ngũ dục lạc thì người đó vẫn là người bất an.Vì chúng ta thấy họ thọ hưởng những cái dục lạc thế gian là biết rằng họ bất an chứ không phải họ an được mặc dù họ thuyết kinh rất hay, họ giảng rất hay nhưng họ vẫn sống trong dục lạc là biết tâm họ bất an thì đó là si mê phi phạm hạnh thứ nhì.

Ba,suy luận, lý luận, thuyết pháp theo nguyên tắc tự mình sáng tác mà tâm còn dính đầy danh sắc, tâm luôn bất an thì đây là phi phạm hạnh, si mê hạng 3. Đó thì chúng ta thấy Đức Phật xác định 3 cái hạng này. Còn cái hạng thứ 4 nữa, thuộc về loại si mê đó chứ không phải là hạng thông minh đâu, nhưng mà chúng ta nhìn thấy là hạng thông minh chứ không si mê chút nào hết, nhưng tại vì họ không hiểu cái lý giải thoát cho nên từ đó cái tâm họ bất an mà Đức Phật cho cái hiểu của họ chỉ là cái hiểu si mê chứ không phải là cái hiểu giải thoát.

Bốn,đần độn, ngu si. Đây tới cái người mà đần độn, nói ra không có hiểu, Đức Phật ghép cho họ vào cái loại si mê đó. Đần độn, ngu si tức là nói gì họ cũng không hiểu, hỏi cái này thì đáp cái kia, hỏi cái kia thì đáp cái nọ, họ không hiểu họ nói tầm bậy tầm bạ không trúng. Phật nói “trườn uốn như con lươn”, họ trườn qua bên đây, lách qua bên kia trả lời theo cái kiểu đó tức là cái hạng người mà không hiểu đó. Tâm người này thường bất an. Đó là hạng người phi phạm hạnh, si mê thứ 4.

Đó thì nắm đủ hết 4 hạng người này ở trong cái mà Đức Phật xếp trong hạng si mê, thì nó nằm trong cái ý si này thì nó nằm trong những cái điều kiện mà Phật vạch ra cho chúng ta biết rằng, chúng ta sẽ xét thấy những hạng si đó là cái tâm họ luôn luôn bất an, họ không có thấu hiểu. Như vậy là hiện bây giờ quý vị hoàn toàn đang có sự hiểu biết rất thấu suốt kinh sách mà tâm quý vị bất an đều được gọi là si chứ chưa được gọi là thông minh đâu. Đó bây giờ quý vị có ai mà xác định mình là người không si không? Chắc chắn là không có rồi đó. Vì vậy hôm nay Thầy dạy Thập Thiện mà quý vị xét qua các bài kinh của Phật xác định cho chúng ta ở điểm si. Chứ nhiều khi chúng ta chưa biết là ai si đâu, chưa biết như thế nào gọi là si đâu, bây giờ quý vị đã rõ rồi.

Bây giờ cũng hết giờ rồi, Thầy xin dừng tại đây, rồi sẽ tiếp tục kỳ tới chúng ta sẽ học tiếp theo cái phần này, nó rất nhiều để rồi cái phần mà kết luận cái Thập Thiện. Như vậy chúng ta học 2 ba lần rồi mà chưa hết Thập Thiện thì quý vị thấy cả cái giáo án mà Thầy trong 3 tháng không viết không biết nó có tròn hay không nhưng mà Thầy cố gắng cô đọng lại chừng nào tốt chừng nấy. Nhưng mà Thầy giảng như vậy Thầy tin rằng quý vị chắc có lẽ dễ hiểu, còn cô đọng lại không biết là nó có thể hiểu nổi không nhưng mà Thầy ráng như thế nào để cho quý vị hiểu cho rõ, mới học có Thập Thiện mà quý vị đã thấy được đã nhận được cái rõ của cuộc đời này qua những cái si mê, cái sân hận. Những cái pháp để mà tu, để diệt tham sân si của mình. Thì tất cả những cái này chúng ta đều đi lại đúng con đường của Đạo để chúng ta thực hiện từ bước đầu. Để rồi cái giáo án này ra đời thì quý vị là những người thực hành ngay từ bây giờ và tiếp tục kế tiếp sau này khi Thầy ẩn bóng không có mặt thì quý vị cứ theo đó. Mà con đường này Phật đã dạy đó là Thầy của quý vị, chứ không phải Thầy, Thầy chỉ là người có kinh nghiệm tu hành rồi góp nhặt lại những lời Phật dạy mà thành lập lại một cái con đường đi có thấp đến cao, có dễ đến khó, để cho quý vị đi được chứ Thầy không có cái gì của Thầy ở trong này, hoàn toàn Thầy không có. Thầy chỉ kết tập lại cho nó đúng từ thấp lên cao của nó thôi chứ hoàn toàn không có cái gì mới, toàn là của Phật dạy. Cho nên Thầy không có gì hết, Thầy chỉ có cái công để mà giúp cho quý vị biết con đường đi, đi cho đúng và từ đó quý vị sẽ đi trên con đường đó, nó sẽ tới đích giải thoát, chứ không có gì mà khó khăn hết.

Từ tới Thầy giảng thiền định, bốn cái thiền của Phật thì Thầy giảng cũng rất rõ, biết từng cái sai, cái đúng của mình để quý vị cảnh giác mà quý vị đi trên con đường đó, mà lúc bấy giờ không có Thầy quý vị vẫn đi được trên con đường đó mà không sai.

Đó thì hôm nay Thầy ra công, Thầy cố gắng mà Thầy thấy một số băng mà hằng ngày nó cứ như thế này thì chắc chắn chúng ta phải tốn một số băng cũng rất nhiều, vì cái Thầy giảng nó khác, mà cái viết ra thành cuốn sách thì nó khác, bởi vì giảng Thầy phải lặp đi lặp lại, nhắc đi nhắc lại rất nhiều, giảng rồi phải cô đọng lại và nhắc lại để cho chúng ta nhớ tới, nhớ lui. Những cái lời mà Thầy giảng mà ghi được trong băng, cái gì mà Thầy nhắc nhiều thì cái đó nó làm cho quý vị thấm nhuần chứ không phải là nó thừa đâu, nó không thừa đâu. Cho nên vì vậy khi mà viết ra thành sách thì những cái điều đó chúng ta phải gạch bỏ hết bởi vì lặp đi lặp lại thì sách nó không thể vậy được. Cho nên chúng ta phải viết cái nghĩa đó rồi thì đi tới cái nghĩa khác. Cho nên cái cuốn sách mà viết ra, cái giáo án này viết ra mà in thành sách thì tức là nó không có lặp đi lặp lại bằng những cái lời nói của Thầy ở trong băng đâu. Bởi vì Thầy nói ở trong băng tức là lặp đi lặp lại, làm cho quý vị thấm nhuần được cái đạo lý của nó, nhấn vào cái chỗ nào mà đúng, chỗ nào sai để cho quý vị tu tập cái đó nhiều, cái ít. Cái nào mà Thầy nhắc đi nhắc lại nhiều tức là cái chỗ đó quý vị phải tu tập nhiều, còn cái chỗ nào mà Thầy lướt qua là cái chỗ đó nó không cần thiết lắm để hiểu mà thôi.

Đó, quý vị nhớ những cái điều như vậy cho nên cái lời nói của Thầy ở trong băng rất là quan trọng chứ không phải thừa đâu. Những cái mà Thầy lặp đi lặp lại đó là cái để nhắc nhở cho quý vị tu hành nhiều cái chỗ đó, tập luyện nhiều cái chỗ đó hơn, chứ không nên coi thường những cái chỗ đó.

Đó là những cái Thầy trao lại những cái điều mà Thầy nói hôm nay là khi mà Thầy không còn gặp quý Thầy nữa, không còn gặp quý vị nữa thì quý vị còn nghe được cái lời mà nhắc đi nhắc lại rất nhiều, đó là một cái lời ông cha đã nói với các con phải lo làm ăn như vậy, như vậy thì mới sống được ở trong cõi thế gian này, mới tìm được con đường giải thoát, đó là quý vị phải nhớ.

Vì vậy hôm nay được những điều này thì quý vị phải nỗ lực thực hiện những gì Thầy nói, phải làm cho đúng đừng làm sai. Bởi vì không còn con đường nào mà có thể đạt được cái sự làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi bằng cái con đường mà Thầy vạch ra cho quý vị đi. Nghĩa là từ trước đến giờ, hàng bao nhiêu năm chưa có thành lập được cái giáo án này. Mặc dù Thầy đã nói HT Thiện Hoa, ngài viết cái bộ Phật Học Phổ Thông, đó là cái giáo án đầu tiên của Phật giáo từ thấp đến cao để chúng ta biết rõ ràng, nhưng đây là giáo thuyết để chúng ta hiểu Phật giáo chứ không phải là cái giáo trình để chúng ta tu tập.

Còn Thầy viết cái giáo án này là giáo trình tu tập, ngay từ vô cái giáo trình đầu tiên thì một người cư sĩ đến với Đạo Phật thì phải thay đổi 6 cái nghề nghiệp liền, thì các vị thấy rõ ràng cái hành động chúng ta phải thay đổi tức là chúng ta tu đó, nó bước đầu vào hành động. Còn cái kia khi mà vào thì HT dạy cho chúng ta nghe, hiểu, biết cái lịch sử của Đức Phật, cho nên nó đâu có biến ra cái hành động của quý vị đâu. Rồi Tam quy, rồi Ngũ giới, chỉ nói như vậy thôi, chứ đâu biến ra cái hành động. Rồi dạy tới Thập Thiện, quý vị có thấy biến ra hành động được không? Đâu có dạy chúng ta áp dụng cái định vô lậu để tu Thập Thiện như thế nào, dạy Tứ vô lượng tâm thực thiện Thập Thiện như thế nào, trau dồi nó như thế nào, dạy Tứ chánh cần để đoạn dứt ác. Dạy tứ chánh cần thì HT dạy Tứ chánh cần, chứ đâu có nói áp dụng trong Thập Thiện, còn Thầy dạy rất rõ để cho quý vị biết áp dụng vào chỗ nào, chỗ nào ở trong 10 cái điều lành này. Vì 10 cái điều lành này là con đường cuối cùng giải thoát tham sân si. Vì ý của chúng ta mà diệt được tham sân si là 3 độc, mà 3 độc diệt được tức là chúng ta đã sống ở trong Niết Bàn rồi.

Cho nên nói đến Thập Thiện quá tầm thường nhưng xét qua 3 cái độc của tham sân si này, chúng ta thấy nó không tầm thường đâu, nó cả 1 vấn đề, bao nhiêu Thiền định của Phật nhắm vào chỗ này để giải quyết nó, để cho nó đi đến con đường giải thoát hoàn toàn. Cho nên những cuộn băng mà Thầy giảng cho quý vị mà được thu như thế này nó là một gia tài quý báu mà của Phật đã từng để lại mà từ xưa đến giờ nó là những bài kinh rải rác, nó không kết tập được cái thấp, cái cao, cái dễ, cái khó cho nên quý vị không biết cái đường nào mà quý vị vào.

Hôm nay Thầy đã chỉ cho quý vị biết cái đường vào, biết cách thức tu tập, như nãy giờ quý vị đã nghe rõ rồi chắc chắn quý vị sẽ biết được cái đường lối mà quý vị sẽ tập cái gì trước, cái gì sau. Đây mới có giai đoạn 1 thôi, còn giai đoạn 2, giai đoạn 3 rồi giai đoạn 4, lần lượt tất cả các giai đoạn tu tập đều được Thầy bố trí, bố cục một cách chặt chẽ, vừa hiểu mà vừa tu, vừa học, vừa tu, nó có cái thực hành, nó có cái sự trau dồi, nó có sự dứt bỏ ở trong đó nó rất rõ ràng mà Phật đã dạy trong những bài kinh Thầy thấy quá tuyệt vời.

Không có một tôn giáo nào mà nó thực tế và cụ thể như là giáo lý của Đạo Phật dạy chúng ta thực hiện từ thân tâm của chúng ta chứ không phải dạy chúng ta mênh mông ở ngoài, không phải dạy chúng ta mê tín cầu khẩn, cúng bái mà dạy chúng ta thực hiện ngay cái đau khổ trong thân tâm của chúng ta.

Cho nên ở đây trên con đường mà tu tập, Thầy thấy quý vị là những người có phước nhất ở trong cuộc đời này, được nghe những cái này mà do từ kinh nghiệm tu hành của Thầy nói ra mà không sai một mảy của Đức Phật ngày xưa đã dạy các đệ tử của Ngài. Cho nên không bao giờ chúng ta lầm lạc được, chúng ta có một cái bản đồ, có một cái lối đi, có một con đường tu tập thật sự rõ ràng bằng hành động của chúng ta, chúng ta làm chủ được cái sống chết và chúng ta chấm dứt được tái sanh luân hồi của mình, cụ thể rõ ràng không còn mơ hồ nữa, không còn lạc lầm nữa, Thầy xác định điều đó là điều thực. Đạo Phật thực, rất thực không có dối ai hết, không có gạt người, không nói như vậy mà không làm được, làm được nhưng mà phải tu tập cho đúng cách, chớ tu tập không đúng cách thì không đạt được. Thôi đến đây Thầy xin chấm dứt.

                                                      ***

SÁU NGHIỆP ÁC TỔN HAO CỦA CẢI VÀ PHÍ SỨC

Bây giờ các Thầy nghe tiếp theo. Lúc hồi nãy Thầy có giới thiệu 6 cái nghiệp ác làm tổn tài hao của và phí sức:

1. Là đam mê rượu chè

Vậy thì uống rượu, ở đây Phật nói có 6 cái lỗi chứ không phải nói đơn giản, khi một người mà uống rượu có 6 cái lỗi để đưa đến cái chỗ hao tài tốn của.

-        Vậy thì cái lỗi thứ nhất của nó là mất của. Nghĩa là cái người mà say rượu thì khi mà say rồi thì tiền bạc bỏ trong mình thì người ta lấy không có biết, hoặc là mình đi say sưa rồi làm rớt mất thì mình không có biết, cho nên gọi là say rượu mất của.

-        Hailà sanh bệnh, người mà say sưa thì cái thân nó dễ bệnh tật.

-        Balà hay gây gổ.

-        Bốn là tiếng xấu đồn xa.

-        Năm là dễ sanh nóng giận.

-        Sáu là trí tuệ mỗi ngày một giảm dần.

Người nào mải mê uống rượu thì sạt nghiệp, cửa nhà của họ mỗi ngày một tiêu tan. Đó là cái vấn đề uống rượu thì quý thầy thấy ở đây rõ ràng là khi mà mình đi uống rượu thì chắc chắn phải có mang tiền theo, thì khi mà say rượu rồi thì tiền bạc vứt mà không có cần thiết cho nên mất của mà không biết, và khi mà uống rượu nhiều thì cơ thể nó hay sanh bệnh tật. Đó là hiển nhiên mà không ai chối cãi được, khi Phật dạy thì chắc chắn phải đúng như vậy. Người say rượu thì hay gây gỗ. Chắc ở trong đời của chúng ta, chúng ta cũng thấy những người say rượu chứ không ai mà không gặp, thì cũng biết rằng cái điều mà Phật dạy không có sai chút nào hết. Thì người say rượu khi say sưa thì không còn biết dơ, biết sạch, không còn biết tốt xấu; giữa đường, ngoài hè phố, dưới mương rãnh, chỗ dơ bẩn họ đều có thể nằm ở trên đó được hết. Cho nên họ múa tay múa chân, họ la, họ hét, họ chửi mắng người này người kia thì lúc bấy giờ người đi qua, kẻ đi lại người ta thấy cái ông đó như vậy thì người ta nói người này nói với người kia, cho nên tiếng xấu đồn xa, đó là vậy.

Năm dễ sanh nóng giận. Cái người uống rượu thường mà các Thầy thấy rất rõ là cái tánh họ dễ nóng lắm, ai nói gì đó thì ngay đó muốn đánh người ta liền, không bao giờ họ có cái tâm nhẫn nhục được, cho nên họ rất dễ giận hờn.

Về phần trí tuệ, cái người mà uống rượu say sưa thì mỗi ngày chúng ta thấy họ u mê, họ không hiểu, nhiều khi nói mà họ không thông suốt, cũng như họ mải mê say rượu mình khuyên họ cái đúng để cho họ chừa bỏ nhưng họ không bao giờ còn nghe mình nữa. Khi cái người mà uống rượu say sưa, nó đã quen rồi thì khó mà dứt bỏ. Vì vậy mà họ không còn làm lụng để mà giàu sang như người khác, họ chẳng cẩn biết gì đối với cái gia đình của họ, của cải của họ lần lần tiêu hao.

Đó là 6 cái điều kiện mà một cái điều kiện thứ nhất mà chúng ta đã thấy rất rõ là nếu mà người cư sĩ va vấp vào cái sự uống rượu say sưa thì đó là đưa tới của cải tài sản của họ hao mòn.

2. Về phần cờ bạc

Cờ bạc có 6 lỗi chứ không phải nghe nói đơn giản cờ bạc là không có lỗi mà cờ bạc có 6 lỗi. Vậy 6 cái lỗi đó là gì?

1.Là tài sản hao mòn.

2.Hai là thắng thì bị người oán.

3.Người hiểu biết chê cười.

4.Mọi người không kính trọng.

5.Người tốt xa dần.

6.Sanh tâm trộm cắp.

Người nào mải mê cờ bạc thì sản nghiệp của họ mỗi ngày một sa sút. Đúng vậy! Thứ nhất là tài sản của họ hao mòn vì họ đâu có dễ thắng mọi người, lần lượt ngồi không, không làm cứ thích chơi, đánh bạc thì làm sao mà có thêm của cải được cho nên bao nhiêu của cải thì chỉ còn chặn đứng lại rồi bắt đầu hao mòn dần, riết rồi bán nhà, bán cửa vì cái tánh ham mê cờ bạc. Do như vậy mà tài sản lần lượt hao mòn cho đến khi kiệt quệ.

Hai, thắng thì bị người oán nghĩa là mình thắng mình được tiền thì người ta lại thù oán, có thể người ta phục rượu mình say để rồi người ta tìm cách giết mình hoặc là người ta hại mình bằng cách này, bằng cách khác. Do đó thắng thì bị người khác oán mình. Người mà đi bài bạc mà không có đi một mình mà khi thắng thì chắc chắn dễ bị giết chết hoặc bị ám hại nơi sòng bạc chứ không có đi về nhà được. Đó là những điều Đức Phật xác định trong bài pháp này Thầy thấy rất là đúng, không có sai chỗ nào hết.

Ba, người hiểu biết chê cười. Cái người mà hiểu biết, người ta thấy cái người ham mê cờ bạc là người ta thấy người tham lam không đúng cách, làm những việc không đúng cách cho nên họ chê cười những người đó.

Bốn, mọi người không kính trọng. Người mà đức hạnh, có hiểu biết không bao giờ kính trọng những người đó. Và đồng thời cái người mà ham mê cờ bạc thì những người bạn tốt, những người tốt ở trong xã hội, dần dần họ không chơi với những người đó. Rồi khi thua quá không còn tiền bạc, nhà cửa tiêu mòn nhưng cái tánh ham cờ bạc nó vẫn còn do đó mới sanh ra trộm cắp để đi bài bạc hoặc là trộm cắp để rồi mình sống nuôi sống mình, từ đó là bước đường cùng của cái người mà ham mê cờ bạc.

Do vậy mà cái người cư sĩ phải hiểu biết 6 cái điều tai hại khi chúng ta cờ bạc, nó đưa đến cái tội lỗi như vậy, cái xấu xa như vậy, cái đau khổ như vậy. Cho nên người cư sĩ cần phải tránh và bỏ cái tánh ham mê cờ bạc để đem lại cái sự an vui hạnh phúc và tài sản của mình không bị sa sút. Đó là cái điều thứ 2 mà Phật dạy cho người cư sĩ.

Cái điều thứ 3 là phóng đãng, có 6 lỗi:

1. Không tự giữ lấy thân

Là cái người phóng đãng tức là người đi du thí, du thực bằng cách này bằng cách khác, cho nên không giữ lấy cái thân của họ, nên họ có thể hao mòn hoặc là đau bệnh hoặc là ham vui, những cái vui quá rồi cái thân của họ tiều tụy, càng ngày càng suy giảm. Đó là cái thứ nhất.

2. Cái thứ 2 là không giữ gìn được của cải

Khi mà phóng đãng họ tuôn ra, họ xài phí, của cai bao nhiêu họ tuôn ra như nước cho nên họ không giữ gìn của cả của họ được.

3. Không bảo trợ được con cháu

Nghĩa là cái người phóng đã họ không bao giờ mà lo cho con, cho cháu họ, họ không bao giờ nghĩ đến con cháu họ, họ không giúp đỡ cho con cháu họ.

4. Cái người mà phóng đãng này họ thường hay sợ hãi, cái tâm họ thường hay sợ hãi

5. Những điều ác khổ sẽ ràng buộc xác thân họ,nghĩa là người phóng đãng khi mà vui chơi, khi mà mải mê với bạn bè (loại phóng đãng) thì họ bắt buộc thế này, bắt buộc thế kia, làm cho mình không còn thoát ra khỏi, cho nên thấy khổ mà vẫn đâm đầu vào cái khổ mà không thể nào ra khỏi cái sự ràng buộc đó

6.Thường sanh dối trá

Cái người phóng đãng này tâm họ luôn dối trá gạt người này, gạt người kia, nói qua nói lại không bao giờ nói sự thật được. Bởi vị cái tâm phóng đãng nó thì không thể nào mà nói thật được là vì họ mải mê theo sự vui chơi thích thú của họ, họ phóng dật ra ngoài, họ chạy theo cái sự đắm mê của ngũ dục lạc cho nên họ không còn nghĩ đến tài sản, nhà cửa của họ. Cho nên lần lượt của cải tài sản của họ một ngày một hao dần mòn. Đó là cái tâm phóng đãng, cái người phóng đãng, cho nên nó có 6 cái điều tội lỗi làm cho thân và của cải, con cháu, tâm thường sợ và luôn luôn thân xác họ bị gò bó xung quanh những điều ác, người ác làm cho họ không dứt ra được. Thường thường là họ hay dối trá, gạt người này, gạt người khác. Đó là cái người cư sĩ khi hiểu biết được cái sự phóng đãng là nguy hiểm như vậy là tai hại như vậy cho nên cố gắng mà giữ gìn đừng để tâm phóng đáng. Đừng có chạy theo những điều cám dỗ của dục lạc thế gian mà tạo cho sự nghiệp mình tiêu mòn.

4. Say mê kĩ nhạc, có 6 lỗi.

Tức là người mà hay ca hát thì có 6 lỗi đó là điều thứ 4. Vì vậy đó.

1. Ưa ca hát

Cái người say mê kĩ nhạc thì hay ca hát, bài ca này cho đến bài ca khác, ngâm, vịnh. Đó là cái sự ưa thích ca hát.

2. Thích khiêu vũ

Người mà ưa ca hát họ lại thích khiêu vũ.

3. Mê đàn địch

Tức là họ ưa ca hát thì họ phải thích đàn địch

4. Chuộng tiêu sáo

Hễ họ ca hát đàn địch khiêu vũ thì họ cũng thổi sáo, thổi tiêu. Cho nên họ cũng thích những điều sáo tiêu.

5. Là ưa đánh trống

Họ cũng ưa thích đánh trống.

6. Mê thổi kèn

Tất cả những điều kiện nhạc cụ mà để phát ra những âm thanh thì cái người mà say mê kỹ nhạc đương nhiên là họ phải thông suốt những cái điều này. Vì vậy mà khi thông suốt những điều này thì họ còn biết đặt tâm hồn của họ vào trong say mê của âm thanh, âm thanh và những điệu nhảy nhót, khiêu vũ chứ họ không có còn nghĩ đến cái sự sống của một người biết đạo, một cái người rất là sợ hãi về cái sự cám dỗ của sự ca hát, khiêu vũ vì đó nó có thể đưa đến chỗ sanh ra cái tâm theo người xưa nói không có cái đạo luân, nghĩa là người ta nói xướng ca vô loài, nghĩa là họ cho rằng những người mà ưa ca hát thì họ không giữ được cái đạo đức luân thường, nay thì người này, mai họ kết với người kia. Cho nên ở đây theo ngày xưa đúc kết điều đó.

Nhưng trái lại thì theo Thầy nghĩ Phật không nghĩ như vậy. Mà Phật muốn thấy rằng cái người mà ưa ca hát, khiêu vũ, đàn địch, tiêu sáo, đánh trống, thổi kèn thì những người này họ không làm ăn theo cái người mà an vui yên ổn mà bằng cách là họ đem những câu hát tình tứ gợi cho những người khác thương vay, khóc mướn, làm cho người khác do những tiếng tiêu, tiếng sầu đó mà làm cho người ta khổ đau, cho nên vừa làm mình thổn thức trong lòng của mình vừa tạo cho người ta thổn thức trong lòng của người ta. Do như vậy khi mà người cư sĩ đến với Đạo Phật thì Đức Phật muốn khuyên họ không nên làm những cái điều đó là vì mình nghe âm nhạc, mình nghe tiếng đàn, tiếng ca làm cho tâm hồn mình dào dạt, làm cho tâm hồn mình bất an chứ không được giải thoát, chứ không phải là xướng ca vô loài cũng như ngày xưa người ta đặt cho người ưa ca hát là không đàng hoàng, nay thì cặp người này, mai thì lấy người khác. Nó không đúng nhưng ở đây cái mục đích của Đạo Phật là không hiểu như vậy mà phải hiểu qua tiếng hát, tiếng ca, tiếng đàn, tiếng trống … nó làm cho tâm hồn chúng ta lúc vui, lúc buồn. Nó không giữ cho tâm hồn chúng ta được thanh thản, được giải thoát làm cho chúng ta say mê mà quên đi những công việc làm để sống bằng cách lương thiện chứ không phải vô lương thiện.

Đó là những cách mà ở đây Phật dạy để nhằm mục đích chúng ta tránh những cái điều làm cho mình dao động tâm và đau khổ cũng như người khác, cho nên chúng ta không nên say mê kỹ nhạc mà hãy giữ tâm của mình luôn luôn được thanh thản, được an ổn thì tốt nhất.

Hầu hết trong thế gian này nói về ca nhạc, khiêu vũ và tiêu sáo, đàn địch thì chắc chắn ai cũng mê thích vì họ cho đó là một môn giải trí, nhưng sự thật theo Thầy thiết nghĩ qua một bài nhạc nó làm cho người ta xúc động nhưng sự thật nó không phải như vậy. Một bài nhạc làm cho họ khích động họ có thể chết họ cũng không từ nan. Đó là những lời ca tiếng nhạc mà làm cho tâm hồn người ta có thể bất an theo điệu nhạc, theo lời ca, theo văn thơ. Cho nên Phật muốn cuộc sống của người cư sĩ cũng như người tu sĩ luôn luôn phải bình thản, phải vững vàng, phải bất động thì đó là một cuộc sống mới được an vui, còn lúc thì thương vay khóc mướn qua tiếng ca, tiếng nhạc như vậy là nó giả dối, nó không thật.

Người nào mải mê kỹ nhạc thì sản nghiệp, nhà cửa của họ ngày một sa sút. Thật sự ngày xưa như vậy nhưng người mà chuyên môn ca nhạc, khiêu vũ đàn địch tiêu sáo thì họ cũng lấy cái nghề mà làm sống thì cũng có khá giả chứ không phải như sự xác định mà nhà cửa họ suy sụp. Nhưng ở đây theo Thầy thiết nghĩ nó không phải sợ sạt nghiệp, của cải sa sút, suy mòn mà chỉ ngại cho tâm chúng ta thương vay khóc mướn theo giọng ca, tiếng hát mà thôi, làm cho tâm chúng ta bất an. Và cũng từ đó mà tâm hồn chúng ta luôn luôn dễ dao động không được tự chủ.

Điều thứ 5: Kết bạn với người ác,(BBT:CĐ,06A,E00:46:38) có 6 lỗi.

1.Dễ sanh khinh lờn.

2.Ưa chỗ thầm kính

3.Dụ người nhà khác.

4.Mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người

5.Mưu đồ tài lợi về mình

6.Ưa phanh phui lỗi người

Đó là kết bạn với người ác thì cái tâm của chúng ta sẽ có 6 cái điều mà nó dễ sanh ra.

Thứ nhất,kết bạn với người ác thì họ làm những điều ác thì chúng ta sanh theo những điều ác đó,(BBT:CĐ,06B,B00:00:05) mà cái tâm của mình sẽ coi thường những điều ác, sanh ra những sự khinh lờn, không có sợ hãi mà chúng ta làm những cái điều tội lỗi mà chúng ta không sợ.

Ưa chỗ thầm kín nghĩa là chơi với người ác thì hay làm cái chuyện thầm kín, thầm lén, bằng cách này bằng cách khác để mà làm lợi cho mình. Hoặc là dụ người khác làm điều này điều kia như dụ người khác ăn trộm, dụ người khác đi làm cái chuyện tà hạnh, đó là dụ dỗ người khác. Hoặc là dụ người khác đi ăn cướp, đi giết người. Hoặc dụ người khác làm những chuyện sát sanh, giết con vật này hoặc con vật khác.

4. Mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người, nghĩa là chơi với người ác thì luôn luôn lúc nào cũng nghĩ mưu cách này, mưu cách kia mà lấy của cải tài sản của người khác.

5. Là luôn luôn mưu đồ cái gì đem về cái lợi cho mình, tiền bạc và danh dự đều là có thủ đoạn, mưu cách để mà đem lại cho mình những cái lợi, cái danh đó. Cho nên chơi với người khác thì đủ mọi cách họ có thể tìm cái gì có lợi cho họ mà thôi.(BBT:BN,05,E01:34:01)(BBT:CĐ,06B,E00:01:30)

(File gốc số 6)

(BBT:CĐ,06B,B00:01:30)(BBT:BN,06,B00:00:00)Miễn là ai như thế nào thì họ cũng chẳng cần hoặc là hại người khác để tù tội mà đạt được của thì họ vẫn làm, đó là những hành động của người ác. Khi chúng ta chơi với người ác chắc chắn chúng ta phải làm theo những người đó.

6. Ưa phanh phui lỗi người

Nghĩa là chơi với người ác. Thường thường là người ác hay đem những cái chuyện xấu của người khác, chuyện lỗi của người khác mà nói ra cho người khác biết để làm cho người khác người ta khổ đau, đó là những người ác mới làm những điều đó. Cho nên đây là kết bạn với người ác chúng ta sẽ học lấy những điều mà rất xấu. Vì cái phần thứ 6 này đương nhiên là phanh phui lỗi người khác cho người khác biết, cho người khác cười chê người khác, do vì vậy đó mình thuộc về loại người ác, đó là những lỗi của những người ác.

Vì vậy chúng ta trong 6 cái điều này mà đức Phật đã dạy, chúng ta thấy mình có những điều gì nó không phải thì mình phải bỏ cái điều đó đi, đừng có nói cái lỗi của người khác cho người khác biết, đừng có phanh phui những cái xấu của người khác để cho người khác biết thì nó thuộc về 6 phần tội lỗi ở trong cái kết bạn với những người ác. Mà nếu chúng ta là những người không ác thì chắc chắn không phanh phui cái lỗi của kẻ khác cho người khác biết, không biêu xấu người khác thì chúng ta không thuộc loại người ác. Nếu mà chúng ta phanh phui những cái lỗi của người và nói xấu người thì đó chúng ta thuộc về loại người ác. Cũng như chúng ta không mưu đồ làm lợi cho mình mà hại người khác thì chúng ta không phải là người ác. Mà chúng ta mưu đồ làm lợi cho mình bằng cách hại người khác để đem lại cái lợi hoặc cái danh cho mình thì đó mình là người ác.

Dụ người làm điều chẳng phải, điều ác thì chính mình cũng là người ác.

Ưa ở chỗ thầm kín, bàn tính chuyện này chuyện kia hoặc là nói lén nhau điều này điều kia thì đó cũng là người ác. Ở đây Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ người ác là người hay tìm cái chỗ thầm kín lén nói chuyện này lén nói chuyện kia, đều là thuộc loại người ác. Cho nên chúng ta biết như vậy khi mà chúng ta có nói chuyện với nhau thì đường đường phải nói chuyện ở nơi chánh đáng hẳn hoi đàng hoàng, vào nhà khách để nói chuyện. Nếu mà ưa nói chuyện chỗ thầm kín, chỗ lén lút thì đó là thuộc loại người ác.

Cho nên kết bạn với người ác thì có 6 cái điều để chúng ta thấy đó là những người ác.

Người mà sanh khinh chê người khác, coi rẻ người khác, khinh bỉ người khác thì đó cũng là thuộc loại người ác. Bởi vì ở đây kết bạn với người ác thì tâm chúng ta nó bắt chước theo, nó coi rẻ người khác, dù người đó hiện giờ họ thua mình gấp trăm, gấp ngàn lần nhưng mình không khinh lờn, mình không chê họ thì mình là người không ác.

Đó là những điều kiện, 6 cái điều kiện này để chứng minh chúng ta phạm phải một điều kiện thì tức là chúng ta phạm phải vào một cái người ác. Cho nên chúng ta biết được như vậy thì hãy cố gắng mà tránh những cái điều này vì đây là lời Phật dạy mà được Thầy ghi chép lại để hướng dẫn cho người cư sĩ cũng như nhắc nhở người tu sĩ. Vì đó là những hành động khi chúng ta không biết, cho nên chúng ta dễ lạc lầm. Vì vậy khi biết chúng ta hãy cố gắng mà khắc phục mình đừng để lạc lầm vào chỗ đó mà trở thành người ác.

6. Lười biếng có 6 lỗi

Một: Khi giàu không chịu làm việc.

Nghĩa là người lười biếng khi họ có tiền họ không làm việc, họ ăn cho hết của cải, tài sản chứ họ không làm việc, họ đi chơi chứ không có làm việc. Cho nên giàu có mà không chịu làm việc thì họ trở thành những người phóng đãng, kết bè, kết đảng với người ác, rồi rượu chè, rồi bài bạc. Từ cái chỗ lười biếng đó mà họ sanh ra những cái điều bất thiện, cái điều không tốt. Cho nên dù giàu chúng ta vẫn làm việc chứ không phải nói tui giàu tui không cần làm việc, ăn không hết thì cái đó là cái sai. Đó là thuộc về loại lười biếng.

Hai: Khi nghèo cũng không chịu làm việc.

Cho nên cái người nghèo mà không làm việc thì chúng ta cũng biết thuộc về loại lười biếng.

Ba: Khi lạnh cũng không chịu làm việc.

Khi thấy trời lạnh mình cũng không chịu làm việc, cứ co ro ngồi rúc ở trong nhà thì biết là loại lười biếng.

Bốn: Khi nóng cũng không chịu làm việc.

Bây giờ trời nắng nóng quá, thôi tui vô trong nhà ngồi chờ mát rồi tui hãy làm thì cái người đó cũng thuộc loại lười biếng.

Năm: Sáng sớm cũng không chịu làm việc.

Sáng sớm mình nói còn sương này kia làm việc rồi nó bệnh cảm, nó này kia thì do đó những người đó thuộc về loại lười biếng bằng cách lý luận đó.

Sáu: Chiều tối cũng không chịu làm việc.

Nếu mà chiều tối họ cho rằng tối rồi thôi nghỉ, không nên làm, để nghỉ ngày mai làm, họ luận bằng cách này bằng cách khác để buổi chiều đó họ không làm việc, vì vậy cũng thuộc về loại lười biếng.

Cho nên ở đây lười biếng có 6 cái hành động để mà chúng ta thấy cái người lười biếng:

Khi mà họ có của mà thấy họ cứ đi chơi không thì biết họ thuộc về loại lười biếng.

Khi mà họ nghèo mà thấy họ không chịu làm, tối ngày cứ co ro trong bếp, trong xó hoặc là đi chỗ này, chỗ kia chơi thì nghèo như vậy mà không chịu làm việc thì biết họ là loại lười biếng.

Khi trời lạnh mà không thấy họ làm việc là biết họ là người lười biếng.

Khi trời nóng không thấy họ làm việc cũng biết họ thuộc loại lười biếng.

Sáng sớm cũng không thấy họ làm việc thì biết họ là người lười biếng.

Chiều tối cũng không thấy họ làm việc thì biết họ là người lười biếng.

Cho nên 6 cái điều kiện này, 6 cái việc này chúng ta xét qua thì biết người đó là người lười biếng. Mà người lười biếng chúng ta có nên gần gũi những người đó không? Chắc chắn là chúng ta không nên gần gũi, vì gần gũi những người đó họ sẽ lôi cuốn chúng ta cũng trở thành những người lười biếng.

Như vậy chúng ta đã học được những cái điều cần phải học của một người cư sĩ. Chúng ta giữ gìn, cần phải giữ gìn những gì mà chúng ta đã học được ở đây: 6 cái nghiệp làm tổn hại tài của chúng ta, 6 cái điều kiện đưa chúng ta đến những người không tốt ở trong cái xã hội. Cho nên từ đó chúng ta cố gắng mà khắc phục để cho mình trở thành một người tốt ở trong gia đình cũng như một người công dân tốt ở trong một đất nước. Nếu mà chúng ta tránh được những điều này thì chắc chắn là phải có sự lợi lạc rất lớn cho chúng ta.

 

TRÁNH 4 HẠNG OAN GIA

Người cư sĩ, đệ tử Phật còn nên tránh 4 cái hạng oan gia. Nghĩa là đức Phật chỉ cho chúng ta biết để mà chúng ta tránh 4 cái loại oan gia mà nó có thể đưa đến cuộc đời chúng ta có những cái khổ đau. Bốn cái oan gia đó là như thế nào?

-     Một là hạng quý phục.

-     Hai là hạng mỹ ngôn.

-     Ba là hạng kính thuận.

-     Bốn là hạng ác hữu.

Bốn cái hạng người này là 4 cái hạng oan gia ở trong cuộc đời chúng ta. Cho nên chúng ta phải tránh 4 cái hạng người này.

Thật sự ra đức Phật dạy cho người cư sĩ chúng ta thấy rất là đầy đủ từ những cái gì nhỏ, rất là nhỏ nhặt ở trong cuộc sống của chúng ta, Ngài đều vạch ra cho chúng ta biết để mà chúng ta tránh, biết để chúng ta sửa mình, biết để đem lại một đời sống rất là hạnh phúc an vui. Chúng ta thấy ông Phật ông thông minh và ông sáng suốt, ông nhận ra từng chút để ông dạy cho chúng ta, thiệt là một trí tuệ vô cùng. Nhưng chúng ta được học cũng là một cái phước rất lớn. Nhiều khi chúng ta đọc qua hoặc là chúng ta chưa được nghe cho nên chúng ta không được hiểu được những lời dạy này. Một cuộc đời chúng ta sanh ra làm người rất khó mà được nghe Phật pháp dạy chúng ta từng cái cuộc sống như thế này thật là thấm thía, đối với Đạo Phật thật là khó mà hy hữu lắm chúng ta mới được trở thành những người đệ tử của Đức phật như ngày hôm nay. Bởi vậy đức Phật dạy chúng ta phải tránh 4 hạng oan gia, những người này, những hạng người này họ sẽ đem đến cho chúng ta những cái không hay cho cuộc sống của chúng ta.

Hạng quý phục có bốn.Nghĩa là đối với cái hạng mà quý phục có 4:

·      Một: Trước cho sau đoạt lại.

Cái hạng đó họ cho mình thì cho như vậy rồi họ tìm cách họ lấy lại.

·      Hai: cho ít mong trả nhiều.

Nghĩa là cho mình, ví dụ như đem cho mình cái vật gì đó thì họ có cái thâm ý của họ, là người này không bao giờ trả lại mình hoặc cho lại mình ít, cho nhiều hơn. Đó là thâm ý của người quý phục này.

·      Ba: Vì sợ nên làm thân.

Họ sợ mình cho nên họ làm thân với mình, chứ sự thật ra họ không muốn làm thân với mình. Vì lợi nên làm thân. Đó là họ làm thân mình để họ có những lợi lộc này kia nọ. Hoặc là lợi dụng mình bằng cách là tiền bạc hay của cải hay tài sản hoặc là mình giúp đỡ họ bằng cách gì đó, cho nên họ phục mình, họ làm như họ thân mình, chứ sự thật ra họ vì cái lợi, vì sợ. Cho nên những hạng người này thì chúng ta nên tránh(BBT:BN,06,E00:10:20). Họ không phải là người bạn mà họ là những người trước cho sau muốn lấy lại, cho ít thì mong phải trả nhiều, vì sợ mình nên mới làm thân với mình, nếu họ không sợ thì họ chẳng chơi với mình.

·      Vì lợi mà họ làm thân với mình, cho nên mình xét cái người nằm ở trong 4 cái hạng này thì mình không chơi những người đó mà ghép họ vào cái loại quý phục.

Quý phục có nghĩa là gì? Quý là sợ mà phục mình chứ không phải là không sợ mà phục mình, vì họ sợ mình có làm quan, làm vua có thể bắt họ bỏ tù thế này thế khác cho nên họ mới làm thân mình.

Ở đây Phật ghép 4 cái hạng người này để chúng ta thấy để chọn lấy những người bạn trong cuộc đời của chúng ta. Cái hạng người mà cho chúng ta rồi đoạt lại, cướp lại, sau này rồi cướp lại đoạt lại thì đó chúng ta không chơi với những hạng người này.

Những hạng người cho ít mà mong nhiều thì chúng ta không chơi với hạng người này.

Những hạng người mà sợ chúng ta mà làm thân với chúng ta thì hạng người này chúng ta không chơi.

Hạng người vì có lợi ích cho họ, có lợi cho họ bằng cách này bằng cách khác cho nên họ mới làm thân với mình thì những hạng người này chúng ta không chơi.

Cho nên ở đây đức Phật dạy chúng ta chọn những người bạn nào mà chúng ta chơi chứ không phải đụng ai chúng ta cũng chơi. Cho nên sau thời gian chúng ta thấy những hạng người thì chúng ta chơi với những người đó mà những loại này chúng ta ko nên chơi, chúng ta nên tránh xa.

Hạng mỹ ngôn có 4

Nghĩa là cái hạng mỹ ngôn, cái loại mà nói tiếng ngon tiếng ngọt này chia ra làm 4 hạng để chúng ta biết mà tránh mà không chơi những hạng này.

·      Một: Lành dữ đều chiều theo.

Chuyện tốt thì họ cũng nói đúng, chiều theo mình. Mà gặp chuyện dữ thì họ cũng nói theo mình. Ví dụ như trong khi đó mình làm việc từ thiện bố thí thì họ cũng nói thì ờ đó là tốt, khi mà mình đánh người ta hoặc là mình giết người ta thì họ nói anh làm cái đó cũng đúng, đó là lành giữ họ không can ngăn mình mà họ cứ xúi mình. Mình làm lành họ cũng nói tốt, mà mình làm giữ họ cũng nói tốt. Đó là cái hạng người mà nó chiều theo mình kiểu đó thì mình không chơi cái hạng người đó.

·      Hai: Gặp nạn thì lánh xa.

Khi mà mình có gặp tai nạn hay gì đó thì họ lánh xa mình, coi như họ không quen thân với mình nữa, họ sợ vạ lây thế này thế khác, cho nên mình có gặp tai nạn gì thì họ lánh xa, thì hạng này không nên chơi.

·      Ba: Có điều lành thì âm thầm ngăn đón.

Khi mà có những điều lành tức là cái điều đem lại cho họ cái lợi ích thì họ tìm cách họ ngăn đón không đem lại lợi ích đó cho mình. Ví dụ như có người đó họ khen tặng mình thì cái anh bạn này anh ngăn liền, anh nói: cái ông đó chưa hẳn đã tốt đâu, anh khen như vậy là không đúng; nhưng sự thật là người kia họ khen rất đúng là vì mình có những hành động tốt. Thí dụ như mình làm từ thiện thì có người khác nói: Ờ cái ông đó tốt quá thường hay giúp đỡ những người nghèo, trẻ mồ côi hay người bất hạnh trong xã hội thì cái ông này ông ngăn cái điều đó ra, ông nói: anh lầm rồi, cái người này họ làm như vậy là kinh doanh đó, chứ chưa phải là họ là người tốt thật đâu, đó là người mà họ có những tâm tánh như vậy thì mình không nên chới với người bạn đó.

·      Bốn: Khi thấy lâm nguy thì bài xích đả đảo.

Khi mình mà bị lâm nguy, bị kẹt cái gì đó thì họ a dua với người khác mà bài xích mình, nói xấu mình, đả đảo mình bằng cách này bằng cách khác. Cho nên những người mà như vậy thì mình không nên chơi thân với họ. Cho nên ở đây thuộc cái loại mà Phật ghép vào loại mỹ ngôn là những loại người như vậy.

Khi mà làm người cư sĩ, chúng ta phải có bạn bè, phải có những người mà chơi với nhau, vì vậy Phật dạy cho chúng ta ở đây để chúng ta chọn những người bạn tốt, những người bạn mà không hại chúng ta. Cho nên những người này là Phật ghép nó là 4 hạng, 4 cái hạng người oan gia, nó sẽ đưa chúng ta đến cuộc đời nhiều đau khổ mà chúng ta không thể được an vui.

Hạng kính thuận.

Có 4 việc mà chúng ta sẽ thấy đó là trước dối trá, sau dối trá, hiện tại dối trá, thấy có chút lỗi đã vội lánh xa. Nghĩa là cái người mà dối trá, trước mặt mình thì họ cũng nói láo nói này kia, sau lưng mình thì họ cũng đặt điều nói láo nói này kia, hiện tại họ cũng nói láo, trước sau và hiện tại thì họ cũng đều là nói dối hết. Những cái hạng mà nói dối này khi mà biết họ nói không thật thì những người mà nói không thật thì chúng ta không nên chơi với người đó. Vì họ có thể họ đặt điều, họ nói láo, họ vu oan giáo họa mình, mình không xấu mà họ đặt ra họ nói mình xấu. Ví dụ như bây giờ quý thầy là những người tu hành mà khi có một điều kiện gì thì gặp một phái nữ, thì quý vị nói chuyện hoặc có việc gì cần trao đổi nhau, thì người đó lấy cớ đó để mà nói xấu mình, nói mình mê cô ta, tu hành gì mà còn nói chuyện với người nữ, mà trong khi đó mình phải giao thiệp với những người này để cho họ giúp đỡ mình hoặc phụ mình làm những cái gì ví dụ nhờ họ cơm nước để cho mình cất nhà cất cửa hoặc làm cái gì khác thì họ lại nghi ngờ, họ lại đặt điều, họ nói mình không đúng cách thì đó là cũng thuộc loại bạn không tốt, dối trá, nói xấu mình.

Ví dụ như một người tốt thấy mình như vậy, thấy mình nói chuyện với cô ta như vậy thì người bạn tốt mà thấy như vậy sợ mình bị cám dỗ, bị sắc đẹp hoặc bị sắc dục mà cám dỗ thì mình đến mình trực tiếp, mình nói riêng với người bạn của mình: Tui thấy anh nói chuyện với cô ta, tui sợ anh có thể sa ngã không, anh phải giữ gìn tâm mình cho vững vàng, đừng có để như vậy. Đằng này không, thấy thì không nói mà lại đi nói với người khác để làm cho người bạn của mình trở thành xấu thì như vậy cho nên ở đây Phật nói trước cũng dối trá, sau thì cũng dối trá, hiện tại thì cũng dối trá, thấy có chút lỗi đã vội lánh xa. Nghĩa là thấy cái người đó có lầm lỗi một ít nhỏ đó thôi thì cho rằng cái người đó là không tốt với mình cho nên vội vàng tránh xa chứ không khuyên, không lơn gì hết thì cái đó là cái rất lỗi, rất tệ. Cho nên cái hạng người mà kính thuận cái kiểu này thì mình hoàn toàn là mình không chơi với hạng người này vì những người này là những người xấu chứ không phải là những người tốt.

Cho nên ở đây Phật ghép cái hạng người như vậy để chúng ta đừng có làm bạn, để chúng ta thấy được cái người đó là người không tốt.

Người mà dối trá như vậy đó là những người mà có thể làm cho mình mất cái niềm tin với mọi người, mặc dù là mình có lỗi, mình cố gắng mình sửa nhưng họ thêu dệt ra những cái lỗi đó, làm cho người khác nhìn mình với đôi mắt không tin tưởng, nhìn mình với đôi mắt coi rẻ rúng do những người bạn xấu làm cho mình rất là khổ sở trên cuộc đời của mình, thì những người bạn đó mình nên tránh xa mà không nên chơi với họ.

Hạng ác hữu.

Tức là cái hạng người mà ác có 4.

- Một: Khi uống rượu là bạn, nghĩa là vào trong một chỗ nào đó mà uống rượu với nhau đó là những người uống rượu cùng nhau. Phật ghép những người đó là những người bạn ác của mình. Hoặc là thấy mình mời vào uống rượu. Những người uống rượu mà mời mình để mình nhập bọn với họ, mình phải tránh xa cái người uống rượu này.

Những người ác hữu là những người bạn ác.

- Hai, là đánh bạc.Nếu mà mình thấy cái người đó đánh bạc thì mình tránh xa đừng có làm bạn với họ vì có làm bạn với họ thì mai mốt mình cũng trở thành những người đánh bạc, vì thế nào họ cũng cám dỗ mình, quyến rũ mình đi vào con đường này. Cho nên họ là những người bạn ác.

- Ba, dâm dục.Cái người mà hay đi vào cái nơi mà mua dâm, những nơi mà gái mại dâm rồi thì chúng ta không nên chơi gần những người này, những người này cũng thuộc về loại bạn ác, vì chơi những cái đó nó có những hành động không tốt mà còn hại sức khỏe cho mình nữa. Cho nên đừng có gần những người mà họ thích mua dâm, họ thích vào những nơi không tốt. Cho nên chúng ta không trong sạch thì không nên chơi với những người bạn này vì những người bạn này sẽ lôi cuốn chúng ta đi vào cái chỗ không lành, nó bất tịnh hạnh, nó không trong sạch cho nên không chơi loại bạn này.

- Bốn:Phật cũng dạy chúng ta không nên làm bạn những người ca hát và vũ múa vì những người mà ca hát vũ múa này lâu ngày nó cám dỗ bằng lời ca, điệu vũ, làm chúng ta cũng sẽ trở thành những loại ca kỹ, những người mà ca hát, cho nên Phật khuyên chúng ta đừng chơi với những bạn này vì sẽ rơi vào vòng thương vay, khóc mướn làm cho tâm hồn chúng ta bất an.

Do vậy chúng ta hãy tránh 4 cái loại người bạn này.

Những điều Phật dạy ở trên đây chúng ta thấy rất là thấm thía. Nếu mà một người cư sĩ, cũng như người tu sĩ mà chúng ta suy nghĩ cho kỹ, chúng ta nên tránh 4 cái hạng oan gia này để cho cuộc sống của chúng ta thanh thản và tiến bước trên con đường đạo để một ngày nào đó chúng ta thực hiện rốt ráo làm chủ cuộc sống, được giải thoát, chấm dứt được sinh tử luân hồi. Đó là cái điều mong muốn và cái ước vọng của mỗi người hướng đến Đạo Phật, mục tiêu mà chúng ta nhắm để chúng ta đi đến. Cho nên trước tiên chúng ta phải tránh 4 cái hạng bạn mà ở đây Phật nêu ra rất là rõ ràng. Bốn cái hạng bạn này thì nó lại chia ra 16 cái hạng người mà chúng ta cần phải cố gắng mà khắc phục mình để cho mình tránh xa những người mà không tốt sẽ cám dỗ và dẫn dắt mình vào con đường tội lỗi và con đường tạo nên những ác nghiệp mà mãi mãi trôi lăn trong 6 nẻo luân hồi mà không thể nào thoát ra được.

Ở đây đức Phật có ghi lại một bài kệ:

Quý phục gượng làm thân

Cái người đó, cái hạng mà quý phục thì họ gượng họ làm thân chứ họ ko thân với mình đâu.

Hạng mỹ ngôn cũng vậy.

Kính thuận thì dối trá.

Bạn ác thì gian ác.

Người trí thường biết rõ

Chỉ luận việc hơn thua

Gần ác không tình nghĩa

Nên mau xa lánh họ

Như tránh con đường hiểm.

Đó là đức Phật viết bài kệ ngắn gọn nhưng mà 2 câu kết của bài kệ này:

Nên mau xa lánh họ

Như tránh con đường hiểm.

Tức là con đường hiểm nghèo đó.

Thì như vậy chúng ta biết lời khuyên của đức Phật, chúng ta nên tránh những cái này, tránh những người bạn này để chúng ta được cái cuộc đời an ổn và yên vui, sống trong cuộc sống để thực hiện con đường đi của Đạo Phật. Còn nếu chúng ta không tránh những người bạn này thì chúng ta khó mà thực hiện được con đường chân chánh của Đạo.

 

BỐN HẠNG NGƯỜI ĐÁNG THÂN CẬN

Làm bạn có 4 hạng người đáng thân cận, nghĩa là chúng ta nên tìm những người nào đáng làm bạn. Ở đây Phật dạy cho chúng ta thấy rõ, nó có 4 hạng người chúng ta cần thân cận sống với họ, đó là 4 hạng người nào?

- Một: Hạng người thường ngăn mình làm điều quấy.

Cái người bạn nào nghe cái gì mình sai mình quấy thì họ ngăn chặn mình liền thì người đó là người bạn tốt của mình. Còn người nào mình làm cái gì họ cũng nịnh theo như đã nói ở trên: mình làm lành họ cũng xua theo, mình làm ác họ cũng xu theo họ không ngăn chặn gì hết thì đó là những người xấu chứ không phải là người tốt; còn cái hạng người mà mình làm một cái điều ác thì họ ngăn chặn, làm điều quấy thì họ ngăn chặn mình, làm cái điều lành thì họ khuyến khích mình mà làm điều ác thì họ ngăn chặn mình liền thì đó là những người bạn của mình, mình hãy thân cận với những người đó.

- Hai: Hạng người có lòng thương xót.

Mình chơi với những người mà biết thương người, biết đạo lý của con người, biết thương xót loài chúng sanh, biết sự đau khổ của loài chúng sanh thì chắc chắn những người đó họ là những người tốt chứ không phải là người xấu.

Còn những người mà giết hại chúng sanh, những hạng mà đồ tể giết chúng sanh mà bán thịt thì chúng ta đừng nên chơi những hạng đó, nó có thể giết chúng ta mà không lường trước được. Do những điều kiện này chúng ta chọn cái người mà có tâm từ bi biết thương mình thương người, không đánh lộn đánh lạo, không chửi mắng rủa người thì tức là người biết thương xót.

Còn người không thương xót thì chửi mắng người này, chửi mắng người kia hoặc đánh đập người này, đánh đập người kia hoặc là đánh đập những loài thú vật làm cho chúng đau khổ thì đó là chúng ta phải tránh xa những hạng đó, mà chúng ta hãy gần gũi những người có lòng từ bi biết thương người, biết thương chúng sanh.

- Ba: Hạng người biết làm lợi cho người,còn những người mà làm lợi cho mình, ích ký thì mình không nên chơi. Mà những người làm lợi người khác luôn luôn lúc nào thấy người khác gặp khổ hoặc là gặp tai nạn thì người này luôn luôn làm cho người kia thoát ra khỏi tai nạn, đó là làm lợi người, làm cho người ta được an vui, làm cho người ta được hạnh phúc, thì những người đó là những người bạn của mình nên gần gũi.

- Bốn: Hạng đồng sự.

Những người mà đồng cái việc làm với mình đó là những điều kiện mà chúng ta sẽ gần gũi với những người mà cùng nghề nghiệp, cùng làm, cùng ý cùng tư tưởng tất cả những người này là người bạn tốt của mình.

Kế đây đức Phật cũng có giải thích với chúng ta từng cái phần trong 4 hạng người tốt này để chúng ta ...

Hạng mà ngăn mình làm cái việc quấy, hạng bạn tốt này, họ thấy mình làm việc quấy mà họ ngăn mình thì qua việc làm của họ mình thấy những người có hành động này thì mình nên chơi với họ. Nó có 4 điều kiện mà mình chọn bạn mà mình chơi với họ. Nếu mà mình thấy người làm ác thì hay ngăn cản.

- Cái hành động thứ nhất:Thấy người nào mà làm cái điều ác mà cái người đó ngăn chặn: anh đừng có làm vậy.

Cũng như 2 đứa trẻ đều đi chơi với nhau, một đứa thì xách cây đuổi con tắc kè hoặc là con rắn mối đập thì thằng kia nói: mày đừng giết, đừng giết con vật tội nghiệp nó, nó không làm hại mày, thì tức là thằng bạn đó là thằng bạn tốt, nó ngăn mình không cho giết hại con vật thì những hành động chơi trẻ con mà có thằng tốt thằng xấu. Mà thằng tốt nó ngăn mình, còn thằng ác nó ùa với mình, nó chạy nó dí theo, nó bắn hoặc là nó đập cho chết một con vật thì đó là những người bạn ác chứ không phải là người không ác. Đây là Thầy nói những người trẻ con còn nhỏ mà có những đứa nó rất tốt như vậy, đó là những người tốt, chúng ta thấy hành động đó là chúng ta nên kết bạn với những người đó.

Cũng như thấy một người nào mà làm cái điều ác, đánh một con chó thì lúc bây giờ cái người đó ngăn: anh đừng có đánh con chó, anh đánh vậy tội nghiệp nó, con vật nó đâu có biết gì, nó lén nó ăn vụng vì nó đói quá anh đừng có đánh nó như vậy, hành hạ nó như vậy tội nghiệp. Thì cái người mà ngăn không cho cái người khác mà làm cái điều ác, làm cái sự đau khổ cho chúng sanh, đó là mình nên chọn lấy cái người đó mình làm bạn, mình chơi. Đó là một cái hành động để cho chúng ta thấy, để mà chúng ta chọn bạn.

Hoặc là chúng ta làm một điều gì đó mà cái người đó, ví dụ chúng ta vào trong quán uống rượu thì cái người đó bảo anh: uống rượu say sưa dần dần mất trí khôn, thân anh sẽ bệnh tật, người đó ngăn mình đừng có cho mình uống rượu, thì đó là người bạn lành, người bạn tốt.

Hoặc là một hôm nào đó trong gia đình của mình xảy ra cái sự xích mích, vợ chồng rầy rà, mình tức giận mình muốn đánh vợ mình thì ngay đó cái người bạn đến chơi nhà mình thấy như vậy cản ngăn: anh đừng đánh chị vì chị cũng không muốn như vậy đâu đó là sự kiện xảy ra như thế này thế khác, khuyên lơn người bạn của mình đừng có làm cái điều đó thì đó là những người mà mình nên chơi.

Còn có nhiều người bạn khi mà thấy bạn mình đánh vợ thì lại xúi thêm nữa: ờ chị đó chị làm vậy đó, chị cặp với người này người kia đó, anh đánh cho đã, anh đánh cho chừa cái tật đó đi thì cái người đó là người xấu mình nên tránh, vì họ xúi dục như vậy để làm cho gia đình mình càng ngày càng tan nát.

Ở đây cái hành động ngăn những điều ác, những điều làm cho người khác đau khổ thì những người mà ngăn như vậy thì đó là những người tốt của mình.

- Hai: Chỉ bày cho người những điều ngay thẳng.

Nghĩa là cái người mà thường hay chỉ cho mình những cái điều tốt, phải làm như vậy như vậy. Cũng như bây giờ Phật dạy cho chúng ta phải làm như vậy như vậy, đây là những điều ác: sát sanh là điều ác, trộm cắp là điều ác, tham sân si là điều ác. Do đó những người mà chỉ cho chúng ta những cái điều tốt, những cái điều mà không ác thì đó là những người mà chúng ta cần chơi.

- Ba: Có lòng thương.

Người bạn mà có lòng thương xót chúng sanh, cũng như thương người thì đó là những người mà mình cần chơi.

- Bốn: Chỉ bày cho con đường lớn.

Nghĩa là chỉ cho mình con người có cái tâm rộng lớn, có đạo đức. Bây giờ chỉ cho mình cách thức mình bố thí, mình cúng dường hoặc là mình làm những cái việc từ thiện thì những cái người đó họ chỉ con đường phước thiện, chỉ con đường lớn cho chính mình.

Theo Đạo Phật thì quý thầy thấy rất rõ là Ngài chỉ chúng ta từng chút để chúng ta chọn bạn tốt, chứ không nên chọn bạn xấu. Do từng chút như vậy Thầy thấy Đức Phật dạy rất kỹ lưỡng cho cuộc sống của chúng ta, như vậy chúng ta hãy cố gắng mà nhớ kỹ những cái điều này để mà chúng ta chọn lấy những người bạn tốt. Nhiều khi người ta nói hoa mỹ như mỹ ngôn, người ta nói hoa mỹ mình không ngờ là người đó tốt hay xấu nhưng khi mà sống gần rồi mình mới thấy những người đó có những cái không lọt vào những điều mà Phật đã ghi ở trong này, đã dạy ở trong này để chúng ta thấy được người tốt, người xấu ở trong xã hội vô cùng lộn xộn như thế này.

Cho nên những điều mà Phật dạy ở đây, chúng ta xét qua chúng ta biết được người tốt người xấu chứ không khéo chúng ta lầm lạc lắm.

Những hạng người này cứu giúp và làm lợi ích lớn cho chúng ta, cho chúng sanh. Thì bốn hạng người, bốn cái hành động này đã chỉ cho chúng ta biết rằng 4 hạng người tốt mà để chúng ta làm thân với họ thì luôn luôn lúc nào chúng ta chơi với họ chúng ta cũng sẽ làm lợi ích chọ xã hội, cho chính bản thân mình, cho lợi những người khác nữa. Thì chúng ta nên kết bạn với những người đó.

Kế nữa đức Phật dạy chúng ta kết bạn với những người từ mẫn.

Những người từ mẫn có 4 việc. Từ mẫn tức là lòng thương xót người. Nó có 4 việc, có 4 hành động mà chúng ta thấy được 4 cái hành động này.

- Một: Cái người bạn đó thấy cái người bạn mừng cho người bạn khác được làm cái lợi.Ví dụ như bây giờ mình trúng số thì cái người đó họ không phải làm vẻ vui mừng để mà xin tiền mình đâu mà cái người này mừng thật. Thấy anh này đang nghèo khổ mà bây giờ may mắn anh mua cái vé số mà anh trúng được thì gia đình anh đỡ biết bao nhiêu. Cho nên mình mừng, mình thấy người ta được lợi đó là những người bạn tốt. Hoặc là thấy người này làm ăn hôm nay khá giả được mình đến mình thăm thấy nhà cửa anh này khá lên, mình mừng cho anh ta. Thì đó là thấy người ta được lợi mình mừng.

Nhiều khi ngoài mặt mình làm vẻ mừng nhưng trong bụng thì mình ganh tỵ. Cái anh này, anh làm giàu hơn mình rồi, anh hơn mình rồi thì như vậy mình thua anh ta quá. Ngoài mặt thì mình làm mừng nhưng trong bụng chưa chắc đã là mừng thật. Đó là cái điều của người xấu. Còn cái người này mừng thật không có lòng ganh tỵ, không vì cái lợi, thấy người khác được lợi mà vì nịnh bợ mừng để rồi tìm cái lợi đó, chôm chỉa một ít nào đó đối với cái lợi của người khác thì cái đó cũng là bạn xấu. Còn này mừng thật là khi thấy người khác được lợi vui mừng cho người khác được lợi.

- Hai: Buồn khi thấy người gặp nạn.

Khi mình chọn người bạn mà tốt thì người này khi thấy người bạn mình bị nạn thì người này họ buồn khổ như chính bản thân họ bị nạn, cũng như chính người thân ở trong gia đình của mình vậy. Đó là những người bạn tốt mà mình nên thân cận và gần gũi

- Ba: Khen ngợi đức của người khác.

Nghĩa là thường thường mình khen ngợi, ca ngợi với những người khác là người đó có cái hạnh bố thí hoặc người đó bố thí hết tài sản của mình bây giờ đi tu, hoàn toàn không còn cái tài sản gì nữa hết, người này thật giữ đúng cái hạnh buông xả như Phật đã dạy, người này đáng được ca ngợi, đáng được khen vì họ dám xả của cải tài sản của họ.

Ví dụ như Thầy nói ở đây trong mọi người cư sĩ mà không có người nào dứt bỏ gia đình mình được như bằng Minh Tông, khi mẹ đang đau rồi khi vợ con nhỏ, còn đi học dứt bỏ để đi theo con đường tu của Đạo Phật, thật khó có người ở trên thế gian này làm được vì vậy cho nên chúng ta khen ngợi. Cũng như ngày xưa đức Phật vứt bỏ vợ đẹp, con xinh của cải tài sản của mình, ngai vàng ngôi báu mà vẫn dứt bỏ để mặc chiếc áo tu hành rất là nghèo khổ đi xin ăn từng bữa. Những việc mà làm được như vậy không phải là chuyện dễ của thế gian này. Những người mà dứt bỏ gia đình được để yên ổn ngồi trong thất tu cũng không phải là mọi người đều làm được như Minh Tông. Cho nên đó là những cái chúng ta khen ngợi rất đúng chứ không phải khen ngợi sai, không phải là khen ngợi nịnh bợ mà khen ngợi việc làm của người đó không thể có người khác làm được cho nên mình mới khen ngợi. Đó là khen ngợi đức của người khác, người ta làm được những điều đó.

Còn trái lại khi mà mình làm không được mà thấy người ta làm được thì mình lại ganh ghét, mình lại dèm pha bằng cách này: Ờ mẹ đau mà bỏ đi, như thế này thế khác là người bất hiếu, như vậy thật sự ra trong những người lý luận như vậy không thấy cái chỗ giải thoát là quan trọng. Nếu không chừng mẹ mình đau ở nhà, bà có chết mình cứu được không? Hoặc mình đau thế có được không? Hay cũng đứng nhìn ngó mà thôi? Hơn nữa mình đi tu được biết đâu chừng, sau khi giải thoát được, mình đi tìm mẹ mình sanh nơi đâu đó để độ người đền đáp trong một hiện kiếp người đã bố thí thân mạng cho chúng ta có thân này có phải là có lợi ích không? Còn bây giờ chúng ta cứ ôm cái gọi là cái hiếu, mà cái hiếu giả dối đó phỏng chúng ta có làm được điều gì chăng? Có lợi ích gì cho bà ta chăng? Hay chỉ đứng nhìn trước cơn đau của mẹ mình trên giường? Đó là những cái mà chúng ta khó mà làm được chứ không phải dễ.

- Bốn: Thấy người nói ác thì liên ngăn can.

Thấy người ta nói cái lời đó nó thô tục thì ngăn anh đừng nói tục tĩu như vậy, anh đừng nói hung ác như vậy, anh đừng chửi mắng như vậy, ngăn liền không ngại người đó oán ghét mình thì đó là những người ngăn những lời nói ác của mình thì mình hãy thân cận với những người này. Đó là đức Phật chỉ cho chúng ta thấy được, cho chúng ta biết chọn những người bạn có những hành động tốt như vậy. Còn ngược lại mà chúng ta lại dèm pha khi thấy người có những đức hạnh tốt, có những gương hạnh tốt thì mình tìm cách mình dèm pha người đó xuống để làm cho người khác người ta không hiểu người ta chê cười, người ta khinh bỉ cái người mà đang thực hiện những đức hạnh tốt. Vì vậy khi học đạo chúng ta phải học rất kỹ những cái điều này để chúng ta biết rõ mà chúng ta tránh, chúng ta không còn lầm lạc trên hành động ác, trở thành những người bạn ác của những người xung quanh chúng ta.

Hạng người ích lợi có 4 việc.

- Một: Là hộ vệ người, không phóng dật.

Nghĩa là giúp đỡ cho người mà không phóng dật.

Chẳng hạn bây giờ chúng ta vô trong Tu viện này tu hành, tâm giữ gìn không phóng dật thì lúc bấy giờ những người mà cư sĩ ở bên ngoài đem cơm gạo hay tiền bạc giúp chúng ta để chúng ta tu hành, đó là người hộ vệ làm cho chúng ta tu hành, đó là những người bạn tốt đó.

- Hộ vệ sự phóng dật của người khác để khỏi hao tài.Khi cái người đó phóng dật, chạy theo ngũ dục lạc, lúc bấy giờ nó sẽ hao tài tốn của, lúc bấy giờ cái người bạn tốt thì luôn luôn bảo vệ, hộ vệ trong sự khuyên lơn của người đó để cho người đó đừng chạy theo sự phóng dật đó mà hao tài tốn của. Ví dụ cái người đó họ mê uống rượu thì người này hộ vệ cái sự phóng dật của người mê uống rượu này bằng cách khuyên lơn họ đừng nên uống rượu, đừng nên làm cái điều ác, đừng nên nói, thì đó là những người hộ vệ cái sự phóng dật của kẻ khác làm cho người khác không phóng dật, đó là cái sự hộ vệ thì những người đó là những người tốt.

- Ba: Hộ vệ người khiến không sợ hãi.

Nghĩa là có cái người sợ hãi như bây giờ có một em bé đi ngang đường mà xe cộ chạy qua, nó sợ nó không dám đi thì mình đi lại nắm tay cháu bé dẫn qua đường làm cho nó ko sợ hãi. Nó thấy một con rắn nó sợ quá, nó la thì khi đó chúng ta đến an ủi nó và chúng ta đuổi con rắn đi để cho nó không sợ hãi. Đó là những điều mà chúng ta hộ vệ khiến cho những người không sợ hãi, những người đó là người bạn tốt của chúng ta. Như vậy thì chúng ta chọn lấy những người mà có điều kiện làm cho kẻ khác yên tâm mà không sợ hãi thì chúng ta chọn lấy những người đó làm những người bạn của mình.

- Bốn: Cân nhắc người lúc ở chỗ vắng.

Nghĩa là khi nào ở chỗ vắng mình cân nhắc hoặc chỗ đó sẽ trộm cướp hoặc chỗ đó sẽ bị nghi ngờ thế này thế khác hoặc người ta nghi mình ở chỗ vắng này để làm cái gì trộm cướp hoặc làm chính trị này kia, cho nên mình cân nhắc cái người bạn của mình mà cái người đó thường nhắc anh đừng có đến đó, chỗ đó nó thanh vắng thì có thể xảy ra tai nạn này tai nạn kia, sợ cho người bạn của mình bằng cách này cách khác thì đó là người bạn tốt. Cho nên cái người mà cân nhắc mình: Bây giờ anh đi trên con đường đó nó rất nguy hiểm, anh không nên đi ở chỗ đó mà anh nên đi phải mấy người chứ anh đừng có đi một mình, đó là những người cân nhắc đi ngang những chỗ vắng vẻ, truông vắng vẻ, núi rừng vắng vẻ mà lúc bấy giờ những người mà cân nhắc mình như vậy, lo lắng cho mình như vậy, đó là những người bạn tốt mà mình chọn lấy để mình kết bạn với họ.

Hạng đồng sự có 4 việc.

- Một: Vì người không tiếc thân mạng.

Nghĩa là gặp việc gì mà có thể liều chết mà cứu bạn mình được thì cái người đó là người tốt. Khi gặp tai nạn, ví dụ như bây giờ hai người đi ở trong rừng thì có 1 con hổ chạy ra để chực chụp người bạn mình thì cái người này họ tiến tới xông lên trước để họ chịu đựng, liều thân mạng để cứu bạn mình thì lúc bấy giờ người bạn là người tốt, chúng ta hãy chọn lấy những người bạn đó mà chúng ta chơi với họ. Khi mà gặp hữu sự, gặp tai nạn thì họ liều mình cứu mình, họ không để cho mình bị tai nạn bị hữu sự. Cũng như trong thời gian chiến tranh khi bom đạn nổ, có người họ nằm trên cái người thân của họ, họ lấy thân họ để che đạn cho người thân của họ thì đó là những người tốt cho nên chúng ta hãy chọn lấy những người đó mà chúng ta làm bạn

- Hai: Vì người không tiếc của báu.

Nghĩa là thấy người đó bị hoạn nạn mà cần phải có của cải tài sản để cứu nạn người đó thì tuôn ra hết để mà giúp đỡ cái người kia thoát nạn thì người đó là người bạn tốt của chúng ta.

- Ba: Giúp người khỏi sự sợ hãi.

Nghĩa là người đó đang lo sợ. Ví dụ như bây giờ trong một gia đình thì không còn tiền bạc mà vợ thì sắp sanh, người này quá lo sợ rồi không biết như thế nào, không biết tiền thuốc thang như thế nào, thế này thế nọ kia…Cái người mà biết được hoàn cảnh của người bạn của mình vậy họ sẵn sàng họ giúp người đừng lo lắng: Anh đừng lo lắng gì hết, tui sẽ lo lắng hết cho anh những phần này để cho gia đình anh được yên vui thì đó là những người tốt. Còn những người mà thấy những lo lắng như vậy bỏ qua, không giúp đỡ thì đó là người bạn xấu chúng ta không nên chơi.

- Bốn: Khuyên bảo người khi ở chỗ vắng.

Cái người đồng sự có 4 hành động, thì ở trên cái người ích lợi nó có sự cân nhắc ở chỗ vắng, thì đồng sự cũng có khuyên ở chỗ vắng. Bởi vì theo Thầy thiết nghĩ: Cái chỗ vắng nó thường hay nguy hiểm vô cùng, cho nên do như vậy mà muốn bảo vệ người bạn của mình thì mình nên tránh xa những chỗ vắng vẻ. Tránh xa cái chỗ vắng vẻ thì bảo vệ được sự sống của người bạn mình và người khuyên bảo như vậy là người bạn tốt của mình. Còn người bạn mà ko tốt thì mình làm gì làm họ chẳng khuyên bảo, mình đến cái chỗ nguy hiểm, cái chỗ vắng vẻ (BBT:CĐ,06B,E00:44:41)(BBT:CĐ,07A,B00:00:00) thì họ chẳng có khuyên bảo mình điều gì, xảy ra thì mình chịu, đó là những người bạn xấu.

Ở đây khi mà chọn bạn thì quý vị thấy rõ là Đức Phật đã vạch ra cho chúng ta thấy được người tốt và người xấu để mà chúng ta chọn, để chúng ta sống ở trong cuộc đời để đem lại sự an vui hạnh phúc của chính mình và chính người khác. Nhiều khi chúng ta không thấy được những hành động này rồi chúng ta chọn lầm bạn rồi từ đó nhiều khi nó đem đến chúng ta rất đau khổ.

Ví dụ như miệng lưỡi thôi, họ nói qua nói lại cũng đủ làm cho mình đau khổ chứ không phải là gì khác. Cho nên ở đây Phật dạy cho chúng ta biết để mà chúng ta cố chọn bạn tốt mà tránh bạn xấu để cuộc đời chúng tađược yên vui, hạnh phúc. Nếu lỡ có bạn xấu thì chúng ta phải chịu lấy mà thôi chứ biết làm sao được. Lỡ mà chúng ta chọn được bạn tốt thì chúng ta được an ổn trong cuộc sống của mình. Cho nên từ đó chúng ta phải cố gắng và suy tư tìm người bạn cho thật tốt trên bước đường tu tập, nó làm cho tâm chúng ta được an ổn mà yên ổn tu hành. Còn nếu mà gặp những người bạn xấu chúng ta không yên tâm ngồi lại nhiếp tâm thì bao nhiêu cái điều kiện nó làm cho tâm chúng ta dày vò trong tâm hồn, làm sao mà chúng ta tu được, rất là khó tu.

Như vậy thì các thầy nhớ kỹ trên con đường tu nó không đơn giản, tâm mà bất an, hoàn cảnh đưa đến bất an mà chúng ta không khắc phục được nó vì những người bạn xấu, vì những hoàn cảnh xấu đưa đến thì chúng ta sẽ khó mà tiến tu trên con đường đạo giải thoát này được. Vì vậy chúng ta phải cố gắng mà tìm đúng đối tượng, tìm đúng bạn, tìm đúng môi trường thuận tiện trên bước đường tu tập thì đạo Phật mới có thể thực hiện được.

NGƯỜI CƯ SĨ NÊN BIẾT RÕ SÁU PHƯƠNG

Người cư sĩ nên biết rõ sáu phương. Nghĩa là nếu mà không dạy cái này thì chúng ta thấy Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới thì không biết nó thuộc về cái gì, cái gì cho nên chúng ta phải rõ để chúng ta đối xử như thế nào cho đúng cách với phương hướng của nó.

Một là Phương Đông tượng trưng cho Cha Mẹ. Phương Đông nói lên là Cha Mẹ người sanh ra chúng ta là Phương Đông.

Hai là phương Nam tượng trưng cho sư trưởng.

Phương Nam tượng trưng cho Thầy của mình.

Ba là phương Tây, tượng trưng cho thê thiếp, tức là vợ con của mình.

Bốn là phương Bắc, tượng trưng cho bè bạn. Phương Bắc thì tượng trưng cho những người bạn của mình. Do vậy mà mình phải chọn ở phương Bắc tức là chọn những người bạn tốt thuộc về phương Bắc.

Năm là phương Dưới, tượng trưng cho tôi tớ những người mà làm công, những người mà mình sai làm việc trong nhà của mình.

Sáu là phương Trên, tượng trưng cho những người hiền đức. Nghĩa là phương trên tượng trưng cho trong cuộc đời chúng ta có những bậc tu hành, những bậc chân tu, những người hiền đức, những người đức hạnh thì đó là cái phương trên.

Cho nên ở đây 6 phương, chúng ta phải nhận ra cho đúng 6 cái phương này. Vậy mỗi cái phương, chúng ta phải làm sao cho đúng?

Ở đây Phật dạy chúng ta biết cách để chúng ta thực hiện cho đúng là cái giai đoạn của người cư sĩ, phải hiểu biết, hiểu biết để mà tu tập, hiểu biết để đem lại an vui, hạnh phúc cho chính gia đình mình, cho chính bản thân mình.

 

1. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái

Người có hiếu có 5 điều kính thuận cha mẹ, đây là nói về phương Đông, thì phương Đông có 5 điều mà chúng ta cần phải nhớ để ghi, để chúng ta làm tròn bổn phận của một người con hiếu.

- Một: Cung phụng, hiếu dưỡng cha mẹ không để thiếu thốn. Nghĩa là khi cha mẹ mình còn sống thà là mình nhịn ăn, nhịn mặc để mình cung phụng những gì cha mẹ cần thiết như thực phẩm, đồ ăn hoặc là y áo hoặc là những gì cần thiết cha mẹ mình dùng thì mình cố gắng mà cung phụng những điều kiện cha mẹ, nhất là cha mẹ già yếu thì mình cần cung phụng đầy đủ để cha mẹ mình yên tâm không còn lo nghèo, lo đói, lo sợ bệnh tật hoặc là không thuốc thang. Đó là cái thứ nhất của người con đối với cha mẹ.

- Hai: Phàm làm điều gì, trước phải thưa cho cha mẹ biết.Khi mà mình còn cha mẹ, mình làm 1 điều gì thì mình cũng phải thưa với cha mẹ để cha mẹ biết để người không lo, biết là người đã lớn tuổi đã đi qua trong cuộc đời, người có những lời khuyên thì mình nghe cái lời khuyên đó đúng hay sai rồi mình cố gắng mà mình chấp hành những lời khuyên của cha mẹ mình. Chứ không phải mình nói mình lớn rồi mình muốn làm gì làm, ông bà chẳng biết gì hết, ông bà là nông dân không có hiểu gì hết, già rồi đâu có hiểu biết cái gì mà thưa hỏi thì khi mình làm thì hữu sự gì cha mẹ mình lo lắng, khổ sở lắm cho nên mình phải thưa hỏi, làm cho cha mẹ biết được yên tâm trên cái việc làm của mình. Đó là thứ 2.

- Thứ 3: Cha mẹ làm điều gì mình phải kính thuận, không được chống báng, không được chống lại.Ví dụ trong phòng cha mẹ mình muốn dời cái bàn này hoặc trong nhà muốn đặt cái ghế kia theo ý của ông bà thì ông bà thích như vậy mà cái ý mình không thích như vậy nhưng mình là người con hiếu thì không nên chống lại: Ba má đừng có đặt cái này, chỗ này nó thế này thế khác làm cho ông bà không vui thì cái đó mình không phải là đứa con kính thuận, mà mình kính thuận là mình không chống lại những việc làm của cha mẹ mình. Mình chỉ góp ý với ông bà mà thôi chứ không nên chống trái tùy theo ông bà muốn làm gì thì làm nhưng mình góp ý: Cái này con thấy như ba má định làm cái này con e nó thất bại ba má xét kỹ lại chứ con không có ý gì chống báng ba má hết. Đó là những điều mà kính thuận. Mình ko có nghịch lại cái ý của cha mẹ.

- Bốn: Không trái với việc làm của cha mẹ.Nghĩa là mình không làm một điều gì đụng chạm đến việc làm của cha mẹ mình hết. Ví dụ như ông cuốc đất làm vườn, cái khu vườn gì đó thì mình lại làm trái lại, mình không muốn như vậy, mình làm trái ý cha mẹ mình thì mình không nên làm cái điều cha mẹ mình buồn phiền trong lòng.

- Năm: Không ngăn cản việc lành của cha mẹ.Cha mẹ mà làm việc lành, ví dụ như cha mẹ nói: Ờ bữa nay tao đi chùa tao lạy Phật thì đừng có ngăn cản. Hoặc là hôm nay tao đi nghe thuyết pháp thì đừng có ngăn cản, hoặc là hôm nay tao đi mua ít cá phóng sanh thì đừng ngăn cản. Hôm nay là ngày ăn chay tao mua ít thực phẩm ăn chay tao về ăn thì cái đó đừng ngăn cản. Nhiều khi cha mẹ bây giờ già yếu rồi mà ăn chay chắc chắn là cha mẹ ko đủ sức khỏe đâu phải ăn thịt cá nó mới bồi dưỡng thì như vậy là mình thương cha mẹ chứ không phải không thương. Nhưng mình thương như vậy mà biết đó là cái việc lành mà mình ngăn cản như vậy thì không đúng, để cho cha mẹ mình giữ gìn được một ngày chay không phạm vào cái lỗi mà ăn thịt chúng sanh thì đó là một điều tốt.

Vì vậy chúng ta phải học lấy 5 cái điều hiếu hạnh này mà đối với cha mẹ của mình thì như vậy mới là đứa có hiếu.

Thì hôm nay quý Thầy được học qua một cái lời dạy của Phật có 5 cái điều hiếu hạnh mà chúng ta giữ gìn đúng thì nó sẽ đem đến cái an vui, hạnh phúc cho cha mẹ và chính bản thân của mình, làm cho con thì hiếu thảo, cha mẹ thì nồng nàn thương con, con mình rất có hiếu.

Ngược lại, con thì có 5 điều đối với cha mẹ như vậy thì ngược lại cha mẹ cũng phải có 4 điều đối xử với con mình. Cho nên Phật dạy rất kỹ. Người con đối với cha mẹ có 5 điều mà cha mẹ chăm sóc con thì có 4 điều. Rõ ràng Phật dạy rất là kỹ. Không phải nói là cha mẹ mình như vậy, 5 điều mình rất là cung kính, mình như vậy là hiếu mà cha mẹ lại không có bổn phận của cha mẹ đối với đứa con thì đó cũng là cái sai. Cho nên cha mẹ phải có bổn phận chăm sóc đứa con mình như thế nào? Thì phật ở đây nói có 4 điều mà làm cha mẹ phải thực hiện 4 cái điều này là làm tròn bổn phận của cha mẹ đối với đứa con. Vậy 4 điều đó là gì?!

- Một: ngăn con không cho nghe và làm điều ác, nghĩa là ngăn cản con mình đừng có làm điều ác. Thì như chúng đã học thập thiện rồi thì chúng ta biết rằng 10 cái điều ác và 10 cái điều lành. Vậy thì nếu mà con mình làm những điều lành thì trong 10 cái điều lành thì mình chấp nhận mình luôn luôn sung sướng mà con mình nó làm những cái điều ác thì 10 cái điều ác thì mình ngăn chặn liền không cho con nó làm cái điều ác, tức là bổn phận làm cha làm mẹ thì phải ngăn con mình không được làm cái điều ác, không được nghe theo cái điều ác. Đó là cái thứ nhất.

- Hai: Chỉ dạy con làm điều lành, nghĩa là ngăn nó không cho nó làm 10 điều ác, dạy nó phải làm 10 điều lành.Thì 10 điều ác 10 điều lành đã là chúng ta đã học thập thiện đó. Do vậy mà cha mẹ cũng phải thông suốt được 10 điều lành, 10 điều ác này để chỉ dạy, để làm hết cái bổn phận của mình đối với con mình đó.

- Ba: Phải thương yêu con thắm thiết. Đứa con nào cũng phải thương hết chứ không phải đứa thương, đứa ghét. Đứa nào mình cũng phải thương, thương thắm thiết, dạy nó những điều lành, ngăn chặn nó những điều ác, nó làm ăn những cái gì thì mình có phần góp ý với nó, coi cái làm ăn đó có ác hay là không. Nếu mà nó đi ăn trộm, ăn cắp thì phải ngăn cản những ngành nghề đó. Nó đi làm nghề đồ tể, nghề bắt cá, săn bắn thì mình cũng phải ngăn chặn không có cho nó làm những nghề đó vì đó là những nghề ác. Và đó cũng là nỗi lòng của cha mẹ thương con thắm thiết, chứ không phải là những cái mà thắm thiết thương con bằng cách ngồi ngó mong ra ngoài chờ con đi về là không phải đâu mà thương con thắm thiết bằng cách thấy con mình làm được những điều lành, tránh những điều ác thì đó là lòng thắm thiết của mình đối với con mình.

- Bốn: Tùy thời cung cấp cho con những đồ cần dùng.Ví dụ nó còn học trò thì tùy lúc nó còn đi học thì mình phải cung cấp giấy mực hoặc là những thực phẩm đồ ăn gì đó để cho nó ăn, nó học cho nó đạt được sở nguyện, cho nó nên được cái nghề nghiệp chuyên môn để cho cuộc sống nó không thua ai, đem lại sự an vui, hạnh phúc cho gia đình. Thì làm cha mẹ phải cung cấp cho con những đồ đạc cần dùng, cần dùng khi đi học, rồi cần dùng khi mà nó lớn khôn thì nó cần dùng những cái gì thì mình giúp đỡ nó khi cha mẹ giàu có thì mình có điều này điều kia. Ví dụ bây giờ nó học đỗ ra bác sĩ mà nó đâu có tiền mở ra cái phòng mạch, cho nên mình cung cấp tiền bạc cho nó mở cái phòng mạch để cho nó có cái cơ sở nó làm ăn thì như vậy là tùy thời, tùy cái lúc bấy giờ nó hành cái nghề đó, nó không có tiền bạc nó bỏ ra cái vốn nó làm ăn cho nên vì vậy mình giúp cho nó cái tiền bạc, vốn liếng để cung cấp cho nó để cho nó có cái nghề nghiệp. Chẳng hạn bây giờ mình có những đứa con không có ruộng rẫy mà bây giờ không có ruộng rẫy thì làm sao mà nó làm được, cho nên mình phải mua đất ruộng để cho nó có những ruộng rẫy. Hoặc bây giờ nó có ruộng rẫy mà không có phương tiện như máy cày, máy kéo hoặc là máy gặt, máy hái thì mình là cha mẹ giàu có thì mình bỏ tiền mình giúp cho con mình nó có đủ phương tiện làm ăn như vậy tức là những đồ cần dùng, cần thiết cho đời sống của nó.

Đó là 4 điều cha mẹ chăm sóc con cái.

2. Quan hệ giữa thầy và đệ tử

Bây giờ nói về Phương Nam là sư trưởng. Sư trưởng là bậc thầy. Vị đệ tử đối với Thầy có 4 điều, cái người học trò đối với Thầy có 4 điều. Chúng ta phải nhớ là mình đối với Thầy phải có 4 điều mới xứng đáng là người học trò.

- Một: Hầu hạ Thầy, cung cấp điều cần thiết cho Thầy.Bây giờ mình luôn luôn mình gần Thầy, mình hầu hạ Thầy và mình thấy Thầy cần cái gì đó thì mình cung cấp cho Thầy những vật dụng. Như bây giờ Thầy đặt vấn đề Thầy thiếu cuốn tập để viết thì người học trò sẽ mua cho Thầy cuốn tập hay cuốn sổ này để Thầy viết. Bây giờ Thầy không có cây viết mình lại mua một cây viết cho Thầy để Thầy viết. Bởi vì người tu mà theo đạo Phật thì ông Thầy chẳng có một vật gì hết mà khi cần dùng một vật gì thì mình là người hầu hạ, người đệ tử thì mình cung cấp ngay cho ông Thầy của mình những vật dụng đó, rồi sau khi ông Thầy ông dùng xong ông cũng xả bỏ ông không nhận cái gì hết. Liền ngay đó Thấy y áo ông Thầy mình rách hết rồi thì mình bắt đầu cung cấp y áo cho Thầy để cho Thầy mặc lành lẽ hoặc là thấy y áo thầy rách thì mình cần phải vá đắp trở lại cho được kín đáo, thì đó là những người học trò hầu hạ Thầy bằng cách hầu hạ như vậy. Chứ không phải hầu hạ là đứng hầu hạ quạt hoặc này kia, đó là cái hình thức phong kiến, không đúng.

Hầu hạ có nghĩa là mình giúp đỡ Thầy mình, ví dụ như Thầy bệnh đau không giặt y áo được thì mình đem y áo dơ của Thầy mình giặt, đó là mình hầu hạ Thầy. Hầu hạ Thầy là mình làm công việc giúp Thầy là hầu hạ chứ không phải mình đứng gần Thầy mà quạt cho Thầy hoặc bưng nước hay bưng này kia trong khi Thầy mạnh khỏe thì cái đó không phải là hầu hạ Thầy mà cái đó là nịnh bợ Thầy.

Cái hầu hạ mà theo Thầy hiểu ở đây là giúp Thầy những cái điều cần thiết khi Thầy làm cái điều đó không được, còn Thầy làm được thì mình cứ để Thầy tự nhiên mà làm những công việc đó, còn Thầy không làm được thì mình làm giúp Thầy đó là cái sự hầu hạ. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy được cái tinh thần bình đẳng của đạo Phật, giúp cái người hầu hạ người không có nghĩa là hầu hạ theo kiểu vua quan mà hầu hạ ở đây theo cái nghĩa của sự giúp đỡ của mình đối với bậc Thầy mà mình rất là tôn kính.

- Hai: Cung kính cúng dường, tôn trọng và quý mến.Luôn luôn lúc nào lòng của mình cũng cung kính Thầy, luôn luôn lúc nào mình cũng có những vật khi Thầy cần thiết mình cúng dường, luôn luôn lúc nào mình cũng có lòng tôn trọng Thầy và quý mến Thầy đó là người đệ tử đối với Thầy.

- Ba: Thầy dạy bảo điều gì phải kính thuận, không chống trái.Nghĩa là thầy dạy cái điều đó mình cố gắng mình làm theo cái lời Thầy dạy, chứ không nói: Ờ thầy dạy cái đó không đúng, thầy dạy cái đó sai, chống lại bằng cách là mình biện luận cái này, cái nọ cái kia để mình bác thầy, điều đó không phải mình là người kính trọng thầy, không phải quý mến thầy. Nhiều khi mình còn đem cái sở học hơn thầy mình lý luận bài bác thầy mình chê bai thầy bằng cách này bằng cách khác, không những chê bai trước mặt mà còn lén lút nói chê bai thầy sau lưng thầy, người này người nọ kia thì đó là cái không kính thuận, không tôn trọng Thầy. Dù một ngày mình đến với thầy thì thầy cũng là thầy của mình. Dù một chữ mình học với thầy cũng là thầy của mình.

Thầy nhớ khi xưa, Thầy còn học lớp 1, lớp 2 gì đó thì có một câu chuyện, người ta thuật câu chuyện đó ở bên Pháp nói ông Các-Nô là khi còn nhỏ ông học với ông thầy lớp 1 của ông ta, ông học sau này đi ra ông làm quan, khi ông trở về ông thăm thầy thì ông thầy đã tóc bạc, ông đến ông nắm tay thầy, ông nhắc lại ông thầy: Thầy có nhớ em không? Em là Các-Nô đây. Em luôn luôn lúc nào cũng nhớ Thầy. Đó là sự kính trọng dù ông ta làm quan, ông vẫn không xem thường ông thầy lớp 1 của mình, dù ông đã đỗ bằng tiến sĩ, bằng thạc sĩ như thế nào thì ông vẫn kính trọng ông thầy lớp 1.

Còn học trò đời nay, khi mà họ học cao rồi, họ đỗ tiến sĩ thì họ chẳng xem cái ông thầy hay là cô giáo dạy mình ở trong lớp 1, mới ráp chữ A, B. Họ coi thường thầy mình học dở chưa bằng mình cho nên họ khinh dễ thầy. Vì vậy mà thiếu lòng cung kính, tôn trọng là ở chỗ đó. Nhờ có ông thầy đầu tiên sửa miệng, sửa môi của mình, nhờ ông thầy đầu tiên mới nắm tay mình mà viết từng chữ, cái ơn nghĩa đó biết bao đời mình quên được thế mà người ta dễ quên cái ơn của ông thầy, người ta không nhớ ơn của ông thầy.

Và đồng thời quý thầy về đây được học với Thầy, Thầy chỉ dạy cho con đường để làm chủ sanh tử, chấm dứt sự luân hồi, thoát ra khỏi kiếp đời lầm than, cái khổ sở của con người thì cái ơn đó biết bao nhiêu mà nghĩ, hơn là cái ơn sanh thành của cha mẹ. Vì cha mẹ sanh chúng ta ra, nuôi lớn chúng ta nhưng đời chúng ta phải thọ lấy những khổ, Thầy thì đem cho các con thoát khỏi cảnh khổ, cái ơn đó biết muôn vàn nào mà đền đáp cho cùng. Thế mà có người không nghĩ đến ơn nghĩa đó mà lại bài bác Thầy, nói thế này hoặc nói thế khác. Thời nay thật ra khó tìm người đệ tử có một lòng kính thuận, cái lòng tôn kính, tôn trọng thầy, quý mến thầy, rất là khó, nhiều người nhưng nhìn lại chẳng mấy ai, chỉ một hai người là cùng.

- Bốn:Theo thầy nghe pháp nhớ kỹ không quên, luôn luôn ghi khắc không quên lời thầy dạy. Ví dụ như Thầy dạy bảo độc cư, phải nhẫn nhục, phải tùy thuận, phải bằng lòng, phải ăn ngày một bữa, không nên ăn phi thời, phải cố gắng khắc phục, đừng có ham ngủ. Và những lời Thầy dạy thì nhớ kỹ không bao giờ quên, cố gắng khắc phục mình từng phút từng giây để đúng theo lời Thầy dạy. Thì khi mà thấy học trò mình thực hiện đúng lời dạy Thầy luôn luôn lúc nào cũng rất sung sướng vì các học trò của mình biết nghe lời Thầy. Còn các học trò không biết nghe lời thầy, ông thầy âm thầm mỏi mệt và đau khổ. Cho nên Thầy nghĩ sau những năm tháng hướng dẫn các thầy tu hành, nhiều khi các Thầy không nghe lời Thầy dạy, làm sai, không đúng, Thầy thấy sao mình mỏi mệt quá, hết muốn, và cũng chính ngày hôm nay Thầy không còn muốn hướng dẫn ai nữa hết là Thầy quá mệt mỏi rồi, Thầy quá mệt mỏi quá số người đệ tử của mình làm cho Thầy không muốn ở trên thế gian này nữa.

Đó là những điều mà Phật dạy để cho chúng ta biết 4 cách để mà người đệ tử đối với Thầy như thế nào đúng, như thế nào sai. Chúng ta cần phải nhớ, nhớ để mà không quên những điều này.

Và bây giờ vị Thầy cũng phải có 4 điều chăm sóc lại đệ tử của mình. Nghĩa là vị Thầy cũng có bổn phận chứ không phải bỏ quên người đệ tử của mình.

- Một: Dạy dỗ có phương pháp.Nghĩa là dạy dỗ đệ tử mình có cách thức, có phương pháp. Như Thầy vạch ra cái giáo án hôm nay tức là dạy dỗ các con, các Thầy có phương pháp hẳn hoi. Cho nên là một bậc Thầy dạy dỗ phải có phương pháp, nếu mà dạy dỗ không có phương pháp người đệ tử của mình tu không được, rồi nó sẽ bất mãn nó sẽ đau khổ, rồi nó phí hết cuộc đời của nó.

- Hai: Dạy những điều chưa biết.Người học trò mình chưa biết cái điều đó mình nên dạy cho nó biết để nó tu tập, nó sửa đổi tâm tánh của nó, nó trở thành người tốt. Còn những gì nó đã hiểu biết mình sách tấn, khích lệ cho nó để cho nó thực hiện được những sự hiểu biết đó càng lúc càng tiến tới con đường giải thoát.

- Ba: Giới thiệu bạn lành cho đệ tử.Nghĩa là mình biết những người nào tốt, mình giới thiệu cho nó. Ví dụ như bây giờ ở đây có những người bạn tu hành tốt, giữ gìn kỷ luật tốt thì Thầy thường giới thiệu với quý thầy để quý thầy lấy gương hạnh đó mà nỗ lực tu tập, thì trái lại quý thầy không nhận thấy cái điều đó mà nói rằng Thầy khen người này, Thầy khen người kia đem cái lòng ganh tị, tị hiềm trở thành chướng ngại. Nhưng ở đây Phật dạy: Mình phải giới thiệu những bạn lành tốt tức là những người tu tốt để cho những người đệ tử của mình lấy cái gương đó mà tu tập theo những người đó. Còn nếu mình không giới thiệu những người bạn tốt như vậy thì nó biết lấy ai mà làm gương, biết lấy ai mà nương theo. Cho nên làm bậc Thầy cũng nên giới thiệu những người mà đã tu tốt, những người mà đã làm được, những cái gì mà họ đã đi qua để giới thiệu cho những người khác họ biết, để họ đủ cái niềm tin đi tới. Nhưng có người khi nghe Thầy giới thiệu người đó tu như vậy như vậy thì có vị lại có tâm ganh tị làm cho mình rất là khó chịu.

- Bốn: Làm sáng tỏ điều hiểu biết của đệ tử.Khi người đệ tử chưa hiểu biết thì mình phải moi óc, moi tất cả những cái gì để làm cho người để tử của mình phải hiểu biết.

Con đường thiền định rất khó cho nên Thầy bao lần trầm ngâm suy nghĩ để tìm, vạch ra cho được cái lối đi, làm đúng cái đường lối, làm cho quý Thầy hôm nay hiểu được rõ ràng. Đó là bao nhiêu cái sức lực của Thầy thì dồn lại để làm cho các đệ tử, các thầy hiểu rõ, biết được những cái điều mà quý thầy đang muốn biết để mà tu tập. Cho nên Thầy cũng đem hết sức mình chứ không phải không đem hết sức mình thì không thể nào vạch ra được cái lối này. Do những bài kinh mà giảng dạy hôm nay, Thầy cũng phải suy ngẫm rất kỹ, nó phải ở trong một giai đoạn nào để cung cấp bài giảng của Phật dạy như vậy Thầy phải chọn đúng chỗ giảng dạy của nó.

Đó là những cái điều mà ở đây Phật dạy vị Thầy phải có 4 điều để dạy dỗ đệ tử của mình thì Thầy cũng đem hết sức mình để làm hết bổn phận của mình đối với đệ tử. Vì vậy từ cái ngày đầu tiên Thầy dạy những cái pháp quá cao, những cái tu tập quá sức của quý thầy làm cho quý thầy không thể tu tập nổi trong cái sức của quý thầy lúc đó thì quý thầy không thể tu tập. Cũng như bây giờ Thầy đem những cái điều mà tu tập của thầy mà Thầy dạy ngay thì chắc chắn là quý Thầy sẽ không vào được. Do vậy mà Thầy phải chẻ nhỏ ra, làm cho nhỏ ra, nhỏ rất nhiều ra để rồi dẫn dắt quý Thầy từng chút, từng chút để bước lên thì Thầy thấy có những kết quả. Đó là làm sáng tỏ những điều để cho đệ tử mình hiểu biết, để cho đệ tử mình tu tập được. Đó là những cách mà hôm nay quý thầy đã thấy rõ cái đường lối tu tập ở đây rất là cụ thể là do cái chỗ hết sức của một vị thầy mà tìm chứ không phải có ai vạch sẵn đường lối sẵn. Mà chính vị thầy đó phải hết sức vì cái trách nhiệm, cái bổn phận của mình đối với đệ tử cho nên mình phải đem hết sức của mình ra để làm sao cho đệ tử mình hiểu được cách thức tu tập và mình phải tìm hiểu từng người đệ tử, cái căn cơ, cái sự hiểu biết của nó, nhiều khi nói ra lời nói nó hiểu qua cái hiểu của nó mà không hiểu được ý của Thầy từ đó nó tu tập sai. Do vậy mà cần kề, theo sát không để cho người đệ tử của mình tự tu, tự tập thì nó đi lạc mất đi thì trách nhiệm, bổn phận của vị Thầy đối với đệ tử nó không được đầy đủ.

Ở đây từ người đệ tử đối với thầy thì nó có 4 cách rồi vị thầy đối với đệ tử thì nó cũng có 4 cách. Như vậy chúng ta mới thấy được con đường của đạo Phật dạy từng chút, cha mẹ như thế nào đối với con và con đối với cha mẹ như thế nào, rồi học trò đối với thầy, thầy đối với học trò như thế nào để đúng con đường của Đạo Phật. Chứ ở đời người ta cũng có cách thức người ta dạy con cái đối với cha mẹ ra sao nhưng nó không phải đúng vào con đường của Đạo Phật. Mà hiện nay chúng ta phải lấy những gì mà Phật dạy rồi chúng ta dạy trở lại để cho quý thầy hiểu biết rất rõ những gì mà quý thầy đi trên con đường của Đạo Phật để đối xử với nhau, để cho đúng cách chứ không khéo thì quý thầy không hiểu rồi quý thầy có những cái lệch lạc làm cho nó không đúng con đường của Đạo Phật.

3. Quan hệ giữa chồng và vợ

Bây giờ đến cái phần này chồng đối với vợ có 5 điều. Nghĩa là trong gia đình người cư sĩ thì có vợ, có chồng. Vậy thì chồng đối với vợ có 5 điều, Đức Phật dạy rất rõ:

- Một: Lấy lễ mà đối với nhau.Nghĩa là với vợ không được coi như là tôi tớ trong nhà mà phải lấy cái lễ đối xử với nhau.

- Hai: Oai nghiêm, đĩnh đạc đối với vợ mình, không được cười cợt bằng cách này, bằng cách khác sau đó vợ con nó sẽ lờn mặt, nó coi mình không ra gì. Mà mình phải nghiêm nghị, nhưng không phải là khắc khổ đối với nó để cho nó quá sợ hãi nhưng mình nói lời nói nào nó cũng đúng cách, không được đùa giỡn ở trong lời nói đối với vợ con của mình. Cho nên vì vậy mình dạy vợ, dạy con nó mới biết nghe lời, còn mình nói năng không đúng cách, cười cợt với nó, con cũng vậy vợ cũng vậy thì nó không có coi mình ra gì. Cho nên Phật dạy điều thứ hai này đối với vợ con phải oai nghiêm, đĩnh đạc tức là ăn nói, đối xử phải có sự nghiêm nghị chứ không phải là khắc khổ, chứ không phải như một ông quan đối với dân mà đối với gia đình nó có sự đĩnh đạc, đúng đắn, nó an ổn, nó yên ổn chứ nó ko làm cho người ta quá sợ hãi.

- Ba: Ăn mặc tùy thời.Nghĩa là tùy cái thời mà mình ăn mặc chứ không nên cố chấp. Ví dụ như bây giờ mình cố chấp mình ăn mặc cái áo dài đội khăn đóng như ngày xưa thì nó không tùy thời. Cho nên người chồng phải ăn mặc tùy thời.(BBT:CĐ,07A,E00:28:45)

BĂNG SỐ 07

(BBT:BN,07,B00:00:00)Trước khi tiếp tục bài giảng này, Thầy xin nhắc lại với quý thầy ở trong Tu viện của mình có những gương hạnh mà quý Thầy cần phải bắt chước. Vì trong thời đức Phật, đức Phật hay nhắc tất cả các vị tỳ kheo hãy nương vào cái hạnh của ông Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền Liên để mà tu tập. Thì ở trong chúng hiện giờ chắc cõ lẽ không phải cái lời Thầy nói là nói suông, mà cái lời nói nó còn có sự chứng nghiệm của quý thầy, quý thầy thấy ở trong chúng của mình, ai là người tu được những cái gì, làm được những cái gì đó là những người gương hạnh của chúng ta để chúng ta tiếp tục trên con đường tu tập. Vì không có những gương hạnh đó thì chúng ta biết lấy ai mà gương hạnh? Còn nếu lấy Thầy, thì thấy Thầy là cao vời vợi cho nên không gần gũi với mình. Vì có những người bạn đồng tu, đồng thực hiện được, cho nên trong thời đức Phật cũng có nói: đức Phật đã thực hiện được những gì đức Phật nói, nói thật, nói không có dối trá, nói không có lừa gạt ai và những người chứng nghiệm được lời đức Phật đó là những đệ tử của đức Phật, cũng làm được cũng như Phật, cũng chứng được những kinh nghiệm đó. Cho nên qua thời gian hướng dẫn quý thầy thì hôm nay Thầy thấy trong chúng ta có những người tu được đáng làm gương cho chúng ta.

Người thứ nhất mà ở trong Tu viện này mà làm gương cho chúng ta đó là cái gương độc cư. Người thứ nhất mà quý thầy đã từng đến đây để sống 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng…chắc chắn ai cũng phải công nhận rằng Minh Tông là người mà đã sống độc cư đệ nhất ở đây. Nghĩa là không bao giờ tiếp duyên nói chuyện với một người nào kể từ khi bước chân vào đây cho tới bây giờ. Chắc chắn là quý thầy ai từng ở đây sống một thời gian dài với Minh Tông thì thấy được cái hạnh này. Đó là cái để chúng ta bắt chước những người có gương hạnh, giữ gìn đúng không có còn sai, đó là Minh Tông, Minh Tông là người ngồi gần đây mà đeo mắt kiếng, chắc cõ lẽ là quý thầy biết.

Cái người thứ 2 mà giữ gìn cái hạnh giờ giấc nghiêm túc tu hành, giữ gìn cái hạnh mà không ăn uống phi thời đó là Mật Hạnh. Sau thời gian rời khỏi Tu viện để đi đến bệnh viện trị bệnh, biết bao nhiêu sự cám dỗ về sự ăn uống, mà qua cơn bệnh của mình, hầu như là có những lời khuyến khích về cái vấn đề ăn uống, nhất là những bác sĩ thế mà Mật Hạnh cũng giữ không phi thời dù một cái bánh, dù một cái kẹo cho đến 1 ly nước cũng không phi thời. Đó là những gương hạnh. Gần đây thì Chánh Đức có gửi cho thầy một ít thuốc mà đã pha sẵn ở trong cái phích. Rồi nói về cái bệnh của Mật Hạnh thì Chánh Đức có lòng tốt muốn muốn chỉ cách cho Mật Hạnh uống cái thuốc đó để trị cái bệnh, và đồng thời có thêm đậu xanh vào trong đó hoặc bỏ chút ít đường. Nhưng mà qua những điều này thì Mật Hạnh không bằng lòng trong vấn đề thọ dụng, thà là chết chứ không thọ dụng cái phi thời. Vì uống thuốc đâu phải là đợi mình ăn cơm rồi mình uống 1 lần, mà phải uống nhiều lần ở trong ngày. Cho nên Mật Hạnh cũng không chấp nhận, thà là mình chết chứ không phi thời. Đó là người mà ăn uống không phi thời và giữ gìn giờ giấc nghiêm túc, giờ nào ra giờ nấy đó là Mật Hạnh. Vậy là những người có gương như vậy chúng ta nên bắt chước, vì coi vậy chứ chúng ta chưa hẳn đã là giữ gìn trọn vẹn được. Môi trường nó dễ cám dỗ chúng ta, mà trước những môi trường cám dỗ mà Mật Hạnh vẫn giữ được cái hạnh như vậy là cái điều mà chúng ta phải noi gương cái người đã làm được.

Cái người nữa, người này biết xấu hổ, cố gắng giữ gìn những cái xấu hổ để cho mình giữ cái tâm xấu hổ đó, tức là tàm quý để thực hiện những lỗi lầm của mình, cố gắng hàng ngày khắc phục để sửa, người đó biết xấu hổ thực sự và thấy rằng con đường tu tập của mình cần phải có những sự xấu hổ đó và từng khắc phục những lỗi lầm mà mình đã lầm lạc. Người đó là Chơn Huệ. Sau thời gian ở đây Thầy thấy Chơn Huệ rất là hối hận qua những sự việc xảy ra là huynh đệ đến nói chuyện hoặc thế này thế khác, mà mỗi lần như vậy thì tâm Chơn Huệ rất là xấu hổ và rất là hối hận. Người mà đã có tâm hối hận mà hàng ngày cố gắng để giữ cho đúng những gương hạnh ở đây thì Thầy thấy cũng là rất ít vì chưa biết xấu hổ. Khi mà kỷ luật hoặc giới luật của Phật đã đặt ra hoặc là Pháp của Phật đã dạy mà chúng ta đã làm không đúng một lần, hai lần mà chúng ta không biết xấu hổ thì chúng ta sẽ phạm hoài, và những người đó không bao giờ đi đến con đường của đạo được.

Và người biết xấu hổ để cố gắng sửa mình, hối hận trong tâm của mình hằng những lỗi nhỏ đó là Thiện Huệ, một người mà cũng sống trong chúng ta đây. Chúng ta cũng biết đó là huynh đệ của chúng ta chứ không phải ai xa lạ.

Còn cái người thứ 4, người này từng đã theo học Thầy cách đây 6, 7 năm trong mùa hạ an cư đó, người này cũng quyết tâm theo Thầy tu học nhưng vì không đủ duyên, và cắt không đứt gia đình, nghĩa là cắt không rời được những sự ràng bó cũng như ở trong chùa chiền, hoặc là ở trong tình cảm gia đình của mình, cho nên muốn theo Thầy rất lâu nhưng mà không theo được cho đến mãi hôm nay. Mùa hạ năm rồi cũng có dự định đến đây cũng rồi cũng cắt chưa được, năm nay quyết dứt bỏ để mà đến đây với Thầy tu tập thì người đó là Thiện Thuận. Người mà cùng vào sau, có thể có khi mà vào đồng 1 lượt với quý thầy trong hạ này, cũng có khi mà đã vào sau, nhưng người này đã quyết tâm trên con đường tu tập cho nên có sự xả tâm như vậy để rốt ráo đến đây tu tập. Cũng như trước kia Minh Tông đã bỏ cả gia đình mẹ đang đau, con cái còn nhỏ đi học mà vẫn quyết tu hành, cắt đứt tình cảm của mình, cắt đứt cái nhiệm vụ, bổn phận lo lắng của mình mà để thực hiện. Thì người mà thứ hai thì Thầy thấy qua thầy Thiện Thuận dứt bỏ chùa mình, dứt bỏ những cái mà đang trói buộc mình để mà thực hiện cho được. Khi vào đây Thầy cũng thử xem coi có giữ độc cư được hay không thì thầy cũng cố gắng. Khi phật tử và gia đình có đến thăm thì Thầy đến Thầy hỏi ý thì thầy xin Thầy để giữ gìn đừng có cho nói chuyện, đó là trong mấy tháng Thầy thấy rằng thầy cũng có sự quyết tâm rất lớn do giữ gìn đúng kỷ luật. Nhưng có 1 lần Thầy có sai phạm, nhưng mà cái sai phạm đó chỉ là trong khi thầy cố gắng thầy tu tập thì Chơn Trí ở gần cái vách ở bên ho làm động, thầy giật mình. Thì các thầy biết khi mà chúng ta mới tu tập, mới được an tịnh mà có tiếng động lớn thì nó làm cho chúng ta giật mình, do đó thầy có lỗi là thầy viết mấy chữ Xin giữ gìn dùm đừng có ho lớn, để cho thầy khỏi giật mình thôi, mà Thầy không dám nói, Thầy chỉ viết mấy chữ thôi. Do đó Chơn Trí cũng hiểu được điều đó cho nên sợ mình làm động huynh đệ tu không được nên rời khỏi cái thất của mình đến cái thư viện cùng ở chung với một người khác. Đó là biết mình không giữ được cho nên Chơn Trí tránh khỏi để không làm động huynh đệ của mình, cũng là một cái tâm tốt. Gần đây thì thầy Thiện Thuận nỗ lực cố gắng tu tập có nhiều kết quả.

Thầy xin trình bày để quý thầy thấy con đường thiền định nó không đơn giản như chúng ta tưởng. Nhưng quý thầy đừng nghĩ rằng mỗi người đều có những trạng thái tu tập nó giống nhau đâu, nó khác nhau, nhưng rút kỹ kinh nghiệm nếu lỡ có giống nhau thì chúng ta biết cách mà sử dụng, chứ không khéo chúng ta sẽ rất là nguy hiểm. Quý thầy đừng nghĩ rằng khi mà nghe tuyên bố thì quý thầy xúm lại hỏi thầy Thiện Thuận điều này thế kia thì rất tội nghiệp cho thầy, vì con đường thầy đang đi mà thầy phải giữ độc cư trọn vẹn như Minh Tông, không thể nào mà khác hơn được mà đạt đến sức thiền định này được. Bởi vì cái sức thiền định của đạo Phật là phải tịnh chỉ các hành, ngưng hơi thở hoàn toàn như một người chết, không thể nào giống như một người còn sống, còn ngủ mà nhập định được. Cho nên cái đặc biệt như vậy, gần đây thầy đã trình bày cho Thầy thấy như có lần thầy tịnh chỉ các hành và hơi thở thầy ngưng, ngưng hoàn toàn. Thầy biết rất rõ chứ không phải thở nhẹ đâu, không hơi thở thầy biết, thở nhẹ thầy cũng nhận biết, nó ngưng thầy cũng biết rất rõ. Nhưng rồi tới chừng khi mà hơi thở nó ngưng thì nó kéo cái thân của thầy nó cúi xuống thì thầy thấy nó ngưng hoàn toàn, hơi thở ngưng mà cái thân của thầy cúi mọp xuống, trong lúc đó nó tự động khi mà nó ngưng hoạt động nó lại kéo thân thầy cúi xuống, nó cứ ngắc lên, thì thầy cố sức thầy xả, thì xả được có nửa thân người, còn nửa thân nó cứng ngắc, nó không xả được. Lúc bấy giờ thầy mong có người nào đi ngang qua, thầy kêu người đó đến gặp Thầy để cứu thầy. Nhưng trước khi mà thầy tu tập thì Thầy cũng đã nhắc nhở là cái pháp hướng là giúp thầy nhưng lúc bây giờ thầy không còn nhớ, thầy không còn nhớ, thầy không còn cựa quậy được nửa thân. Hai cái chân của thầy, nửa thân người ở dưới thầy không cựa quậy được cho nên từ đó thầy cứ hít thở, thầy dùng mũi thầy hít thở thì nó lại gươm lên, nó chết lên, tức là nó ngưng lên, nó làm cho thầy chết lên cao nữa, mà thầy giữ nhẹ nhàng một chút nó tuột xuống, nó đứng đó, nó không chịu xả ra hết. Đó là những cái khó mà hiện bây giờ quý thầy tu mà không có căn bản thì sau này nó rất khó.

Bắt đầu Thầy phải dùng cái miệng thầy, thầy xả, tức là thầy thở bằng miệng cho nên sức tập trung, cái tâm của thầy nó không tập trung ở trong hơi thở nhiều hơn, mạnh hơn cho nên nó không gươm lên, làm cho cơ thể nó ngưng hoạt động lại, cho nên thầy thở bằng miệng, một lúc sau nó lại xả ra. Đó là thầy chỉ tự động để cứu lấy mình chứ thầy cũng chưa biết như thế nào hết.

Nếu mà trong lúc đó mà theo Thầy dạy thì cứ giữ gìn hơi thở và khi nó xả được phân nửa thân rồi, nhẹ nhàng hơi thở đó thì lúc bấy giờ chúng ta nhắc hơi thở phải mạnh hơn 1 chút, nhanh hơn 1 chút và phần dưới phải hoạt động trở lại…cứ nhắc như vậy thì tự dưng chúng ta ngồi thẳng thốn như thế này, tự nhiên chúng ta cứ hướng tâm nhắc thì trong khi chúng ta giữ cái hơi thở cho nó hoạt động trở lại, đừng để cho nó nhẹ quá mà nó vô mạnh quá thì không được, cho nên chúng ta thở lại bình thường từ đó nó sẽ xả lần và sống lại hết. Đó là qua những kinh nghiệm mà Thầy đã tu tập Thầy biết rằng cái pháp hướng nó giúp cho chúng ta vô định cũng như xuất định.

Nếu quý thầy mà không lưu ý điều này thì lúc bấy giờ quý thầy nảy ra ý này nảy ra ý kia, quý thầy xả thì cái điều đó có khi nó thành bại liệt cơ thể của quý thầy. Bởi vì nó chết rồi mà bây giờ nó phải sống lại, tức là nó ngưng hoạt động chứ đâu phải như chúng ta còn đang hoạt động còn máu nó lưu thông thì tức là chúng ta muốn sao cũng được, còn đằng này nó không lưu thông nữa, chỉ còn sức nóng giữ máu đông đặc thôi cho nên chúng ta không khéo thì bại liệt cả thân người của chúng ta.

Do vì vậy chúng ta chỉ cần pháp hướng và nương nhẹ hơi thở chúng ta mà thôi, mà thô quá thì không được, mà nhẹ quá thì tập trung gôm lại thì nó lại ngưng lại nữa thì như vậy chúng ta khó mà có thể xuất định được. Đó là những cái quan trọng. Vì vậy hôm nay quý thầy thấy rằng trong chúng ta có nhiều kinh nghiệm để giúp trên bước đường tu tập của chúng ta.

Thứ nhất là chúng ta phải nương cái hạnh độc cư như thầy Minh Tông. Thứ hai chúng ta phải nương cái hạnh của Mật Hạnh để ăn uống không phi thời, những cái này là cái quan trọng trong đạo Phật. Thứ 3 là chúng ta nương vào Chơn Huệ, là người biết xấu hổ để sửa mình từng cái lỗi nhỏ. Chúng ta phải nương vào cái người biết xấu hổ. Nhiều khi chúng ta không biết xấu hổ những cái lỗi của mình đâu. Làm rồi cứ làm hoài, làm hoài mà không thấy xấu hổ.

Cho nên chúng ta ở đây chúng ta có những gương hạnh mà để chúng ta theo đó để chúng ta đi nốt quãng đường giải thoát mà Đạo Phật đã vạch ra để giúp chúng ta thoát khỏi sanh tử luân hồi, chấm dứt sự sống chết của chúng ta. Con đường rất là cao quý mà chúng ta thực hiện cho đúng thì mới đạt được cái cao quý đó. Nếu chúng ta thực hiện không đúng thì không làm sao mà chúng ta làm được, tu tập được con đường này. Cho nên mỗi hành động mà của quý thầy tu tập được kết quả nó phải có thời gian để chứng tỏ rằng các thầy đã thực hiện được. Như Minh Tông mà chứng nghiệm được cái hạnh độc cư cũng trải qua thời gian, Thầy xác định rằng người như vậy mới có thể tu thiền định nổi. Và người giữ cái hạnh không ăn uống phi thời, giờ giấc nghiêm chỉnh mà người giữ như vậy được thì sớm muộn người đó cũng thực hiện được con đường đạo giải thoát này, đó là Mật Hạnh. Người mà biết xấu hổtừng sửa những lỗi nhỏ mọn của mình, cố gắng không vi phạm nữa, người như Chơn Huệ chắc chắn là sớm muộn cũng sẽ đạt được ở con đường này. Người mà thực hiện thiền định mà để tịnh chỉ được các hành, làm chủ được sự sống chết của mình mà gần đây nhất là đó Thiện Thuận.

Thì quý thầy đã thấy trong chúng của chúng ta có những bậc có thể gọi là xuất chúng, làm hơn các thầy khác, sống đúng các hạnh của Phật. Trong đó mỗi mỗi chúng ta xét qua các hạnh của quý thầy đều có thể tương đối nhưng mà chỉ những cái hạnh riêng, tức là đặc tính riêng của quý Thầy, có đặc tướng riêng của mỗi người. Và cái đặc tướng riêng đó mà sau khi dạy về Tứ niệm xứ thì Thầy sẽ dạy về đặc tướng riêng đó cho quý thầy thấy rất nếu có thì giờ, còn không có thì giờ thì Thầy sẽ tóm lược lại để cho nó đủ giáo án, còn nói lòng vòng thì nó rất là nhiều, nói không bao giờ hết được.

Cho nên hôm nay đến buổi giảng này Thầy muốn nhắc lại những cái gương hạnh để trong chúng chúng ta còn hai tháng mấy nữa thì chúng ta cũng sẽ rời xa Thầy, không có Thầy ở bên mà nhắc nhở. Vì có Thầy, Thầy còn nhắc nhở các con cái sai, cái đúng, Thầy còn chăm nom được cái này, cái kia. Khi mà xa Thầy chắc chắn là không còn ai nhắc nhở mình nữa, như một đứa con đã mất mẹ, như một đứa con đã mất cha lấy ai nhắc nhở mình trong khi đúng khi sai, rồi ai lo lắng mình trong khi đau, khi bệnh thì các con phải cẩn thận trong thời gian còn ngắn lắm. Cho nên cố gắng mà giữ gìn cho đúng những cái điều mà Thầy đã dạy, những lời Thầy dạy là những lời vàng ngọc để cứu các con ra khỏi cuộc đời đau khổ. Cho nên các con ghi khắc mãi ở trong tâm để cố gắng sau khi không còn Thầy cố gắng thực hiện cho đúng cách, đừng để sai. Lấy những kinh nghiệm, gương hạnh các bạn, của những người mà đã thực hiện đúng, lấy đó mà làm gương hạnh tu của mình tiếp tục ở trên con đường đời này. Không còn ai cứu mình, không còn chỗ nào nương tựa vững chắc bằng những Phật Pháp, bằng những thân và tâm của mình để cho mình lấy đó mình thực hiện con đường giải thoát mới được. Cho nên phải ráng cố gắng mà vâng lời Thầy để tự mình cứu lấy mình chứ không ai cứu mình được.

(BBT:CĐ,07B,B00:00:00)Đến đây Thầy xin chấm dứt, quý thầy nhớ kỹ là lấy gương hạnh của huynh đệ mình, Thầy nói ra đây không có nghĩa là để cho quý thầy ganh tỵ những người đó, mà hãy lấy những người đó mà làm gương hạnh của mình. Đừng nhìn qua một góc độ nào nhỏ mình cho người đó còn thế này, thế khác, mà mình hãy thấy việc làm của người ta tốt để cho mình sửa mình, còn những việc xấu của người ta thì mình nên đừng có nghĩ ngợi vì biết đâu đó là những điều mà người ta còn tu tập, người ta chưa hết, chứ không phải người ta thành Phật. Còn mình muốn thấy người bạn của mình là như một bậc Thánh, đối với Thầy còn có những cái lỗi huống hồ là những người huynh đệ của các thầy đang tu thì có những cái sơ sót mà tu chưa hết, giữ gìn chưa trọn mà thôi. Nhưng người ta đã được trước hơn mình những cái cao quý thì mình nên bắt chước những cái đẹp, những cái đúng, cái tốt. Còn những cái sai thì điều kiện người ta còn đang trên con đường tu, đừng lấy những cái sai đó mà chỉ trích người ta thế này thế khác, mà trong lúc mình từ chuyện nhỏ, chuyện lớn mình chưa làm được điều gì hết. Thì cái mà bươi móc, chỉ trích như vậy tức là mình không biết sửa mình, mà cái lòng đó là cái lòng xấu, cái lòng ganh tị. Thấy người tu được những cái đó thì mình tìm những cái lỗi nhỏ mọn của người ta mình vạch ra để cho thấy người ta sai, để cho người khác nhận ra thấy người đó Thầy nói vậy chứ người đó còn lỗi chỗ này chỗ kia. Đó là con đường người ta còn tu, tức là người ta còn lỗi chứ làm sao người ta hết được. Người ta còn chút sai thì tuần tự trên bước đường tu thì người ta sẽ sửa lần cho đến khi lậu hoặc người ta quét sạch được qua sức tu tập của người ta. Nhưng người ta đã bước được những bước mà mình chưa bước được thì mình hãy lấy những bước mà người ta đã bước đi mình làm gương cho mình, đừng có lấy cái mà người ta còn tu chưa xong mà mình cho toàn bộ người ta xấu hết. 

Như các Thầy cũng thấy nhìn ngoài đời mọi người thì người thì người nào cũng có cái tốt, cái xấu chứ đâu phải toàn là người ta xấu hết đâu? Nhưng mình vơ cả nắm, mình thấy người ta có một cái xấu, mình cho người ta là người xấu hết thì không đúng. Cũng như trong quý thầy hiện giờ, chúng ta coi vậy chứ chúng ta còn là người có tốt, có xấu chứ không phải là xấu hết đâu. Do lấy cái tốt của người ta làm cái tốt cho tâm mình để làm gương tu tập cho mình, để làm cho sự sửa mình bằng những cái tốt của người khác. Rồi lần lượt người đó người ta cũng thấy được cái xấu của người khác, người đó người ta sẽ sửa chữa lại, người ta cũng sẽ trở thành người tốt hết.

Cũng như trong chúng chúng ta bây giờ, có những người mà đã phạm phải những lỗi chắc người ta không muốn điều đó đâu, không ai muốn điều đó, nhưng vì thói quen của người ta sống ở ngoài đời người ta chưa có giữ được thôi, chứ Thầy tin rằng những lời nói của Thầy là quý thầy cố gắng hết sức thực hiện. Nhưng cái duyên có khi mình muốn vậy, mình muốn giữ gìn được nhưng hoàn cảnh, đối tượng xảy ra làm chúng ta phải nói chuyện hoặc là thế này thế khác, đó là ngoài ý muốn của quý thầy chứ quý thầy đâu muốn vậy. Cái hoàn cảnh, trường hợp đó có người bị bệnh thì bắt buộc chúng ta phải giúp đỡ người đó chứ chúng ta đâu thể mà nỡ tâm mà làm ngơ được, hoặc người đó không biết máy móc mà chúng ta biết máy móc thì chúng ta giúp cho người bạn của mình. Do cái sự tiếp giao đó cũng làm cho mình động và người bạn kia động, nhưng hoàn cảnh đó làm sao chúng ta làm ngơ được.

Đó là những điều chúng ta phải xét thấy cái đúng, cái sai chứ không phải lúc nào chúng ta cũng thấy hai người nói chuyện là chúng ta cho rằng họ thích nói chuyện, không phải đâu, cái hoàn cảnh trường hợp đó làm cho họ mất độc cư trong lúc đó là tại cái duyên của họ chưa đủ, nhưng họ biết cố gắng họ khắc phục, họ giữ gìn hơn thì chắc chắn là họ sẽ độc cư như Minh Tông chẳng hạn.

Đó thì hôm nay những gì mà Thầy dạy chúng ta nhìn góc độ tốt của mọi người mà chúng ta làm gương, chúng ta tu học đừng có nhìn góc độ xấu của người mà chỉ trích người, phê phán người, điều đó thì chính chúng ta là người xấu.

Vì vậy mà hôm nay Thầy khuyên quý thầy hãy nhìn với đôi mắt tốt, đừng nhìn mọi người với đôi mắt xấu mà làm cho tâm chúng ta bất an và làm chúng ta trở thành những người xấu hơn, vì chúng ta thấy họ xấu thì tức là chúng ta sẽ nói những điều xấu của người khác ra thì lúc bấy giờ chúng ta trở thành người xấu.

Cho nên những điều xấu là khi mà mình thân tình với người đó, mình nói người đó biết nghe mình thì mình ngăn mình khuyên: Em làm như vậy hay Thầy làm như vậy là sai nên sửa lại, không khéo Thầy thấy Thầy sẽ rầy thì như vậy là mình biết thương người bạn của mình. Còn nếu mình thấy khả năng mình nói họ không nghe thì mình làm thinh, đừng nói gì hết vì nói thì người ta nghĩ rằng mình sẽ nói xấu người ta nhưng sự thật người xấu là phải nói với người khác, nói về người mình nói cho người khác biết, đó là người xấu. Còn người tốt thì người ta ngăn mình, thấy mình làm cái chuyện xấu thì người ta ngăn mình, đó là người tốt.

Trong khi các Thầy cũng đã học người bạn tốt của mình là người ngăn mình không cho mình nói hoặc không cho mình làm cái chuyện sai kỷ luật hay sai giới luật, hay những hành động không tốt thì người đó là người bạn tốt mình, nên tìm những người bạn đó để họ thẳng thắn họ chỉ bảo cho mình những cái sai để cho mình sửa thì như vậy đó là người bạn tốt của mình. Còn cái người mà thấy mình sai họ không có ngăn chặn, họ để cho mình làm sai rồi họ đi nói với người khác để cho mọi người cười chê mình thì đó là người không tốt.

Hôm nay Thầy nói như vậy để cho quý Thầy thấy được cái điều đúng, điều sai ở trong cuộc đời này mà lấy gương tốt của người khác bất kỳ, Thầy nói trong chúng ta đều là có những người tốt hết chứ không có người nào xấu. Vì mỗi người có cái tốt trong khía cạnh của họ nhưng những cái mà họ chưa biết, họ còn lầm lạc họ xấu chứ không phải là họ xấu đâu, họ sẽ là những người biết tu thì sẽ biết sửa chứ họ không phải là những người thiếu sửa đâu. Mà đạo Phật là cái đạo biết sửa mình, tu tập của đạo Phật là tu sửa chứ không phải là ngồi thiền bằng cách này, bằng cách khác gọi là giải thoát, mà chính sửa cái tâm của mình cho đến khi mình không còn lậu hoặc nữa, thanh tịnh thì mình mới tịnh chỉ được các hành. Đó là vấn đề quan trọng mà Thầy thường nhắc nhở các con rất nhiều. Tâm mà không tịnh, còn giận hờn phiền não, còn thương ghét, còn bị ham muốn cái này cái kia thì chắc chắn là quý thầy không tịnh chỉ nổi các hành trong thân, không tịnh chỉ nổi được cái hơi thở. Mà phải sắp xếp như thế nào để cho tâm mình dứt hết tất cả các duyên đó thì chắc chắn là quý thầy sẽ đạt được cái sức thiền định của Phật dạy, tức là Tứ Thánh Định, từ Sơ thiền đến Tứ thiền.

Đến đây Thầy xin chấm dứt và trở lại vấn đề học tập.

Bây giờ trở lại vấn đề học tập vừa rồi: chồng đối vợ có 5 điều mà Thầy dạy đến cái chỗ ăn mặc tùy thời.

- Bây giờ điều kiện thứ 4 thì trang sức hợp thời. Nghĩa là trong thời đại của chúng ta, cái sự trang sức cho người đàn ông như thế nào thì chúng ta phải ăn mặc, trang sức cho hợp thời đó. Nếu mà chúng ta lè phè coi như mình không cần cái sự ăn mặc cho hợp thời, trang sức cho hợp thời thì người vợ biết lo cho chồng thì rất buồn khổ. Chồng mình ăn mặc ra ngoài, cách thức trang sức thì không có hợp thời, làm cho người này chê cười chồng mình thế này thế khác. Do đó cho nên người vợ mình ấy, trang sức không hợp thời thì người chồng mà biết lo cho vợ mà thấy vợ mình lè phè như vậy, thời đại này mà bà ta ăn trầu tếch toác hoặc thế này thế kia không có như bà già ngày xưa thì nó làm cho người chồng thấy khổ tâm.

Do vậy khi mà người chồng khuyên người vợ như thế này, nghĩa là không bắt buộc người vợ mình phải trang điểm cho thật đẹp mà phải hợp thời trang của nó, rồi trang sức cũng cho hợp cái thời đó, đừng quá lòe loẹt như các cô gái trong thời điểm này, thái quá thì cũng không được mà không có nên lè phè, không chịu trang sức, tèm hèm ấy thì người chồng lần lần sẽ xa vợ và đối xử nhau nó cũng nhạt nhẽo đi. Cho nên người chồng biết lo cho vợ mà người vợ không chịu nghe thì rất là khó.

- Thứ 5 là giao phó việc nhà.Người chồng phải tin tưởng vợ mình, giao phó tiền bạc hoặc giao phó việc nhà. Khi đi xa thì tin tưởng vợ mình giao phó. Thầy nói thế này, ở đây là Thầy thấy có Chánh Đức là có người vợ rất tin tưởng, cho nên khi vào đây giao phó hết cái sự buôn bán, nhà cửa này kia cho vợ rồi yên tâm vào đây tu tập 3 tháng, rồi 5 tháng vẫn an nhiên mà không có thấy bận tâm lo lắng gì hết là vì tin tưởng vợ mình đảm đương được cái điều kiện đó. Và mình giao phó như vậy vợ mình mới đem hết khả năng của nó ra mà làm tròn bổn phận khi mà chồng vắng mặt.

Người chồng mà tin tưởng vợ mà giao phó như vậy thì người vợ rất là sung sướng, còn cái gì mình cũng quản lý, cái gì mình cũng làm hết, sợ vợ mình làm hư, làm hao, làm này kia thì tất cả những cái này người vợ thấy mình sống như là một người đầy tớ, không có quyền hạn gì trong nhà hết thì bà ta cũng rất buồn khổ, như vậy thì gia đình không hạnh phúc.

Cho nên 5 điều đức Phật dạy chồng đối với vợ thì rất là cụ thể và rõ ràng để tạo hạnh phúc sống cho chính mình. Và vì vậy mà sống ở trong thập thiện, 10 điều lành mà Phật đã dạy mà chúng ta còn biết những cách thức lo lắng, chăm sóc cho nhau. Chứ nếu chúng ta học 10 thập thiện không, mà chúng ta không học những cách thức đối xử nhau như chồng đối với vợ thì phải như thế nào? Chúng ta không học thì chắc chắn chúng ta không biết, nhưng chúng ta đã học thì chúng ta biết. Nhưng có những người không học mà họ đã làm được như trước đây chúng ta thấy Chánh Đức chưa học mà đã làm được cái chuyện đó, đã giao phó việc nhà cho vợ con. Thì các con thấy rõ ràng trong chúng ta cũng có thấy được những điều Phật dạy rất thực tế và cụ thể vì vậy hạnh phúc gia đình rất là đầm ấm.

Do sự hạnh phúc gia đình đó mà nếu người vợ hiểu hơn một chút nữa thì Chánh Đức sẽ tu hành rất tốt. Đừng có thấy gia đình của mình, chồng mình đã lo lắng cho mình như thế này thế kia, nghĩa là ông đi mất rồi thì chắc chắn là tui sẽ không còn người nào mà lo cho tui nữa, thì chắc chắn tui buồn khổ vô cùng, không có người chồng nào mà xứng đáng như là người chồng hiện giờ, giao phó cho vợ, rồi biết chăm sóc từ cái ăn mặc, từ cái trang sức, nhưng luôn luôn lúc nào cũng không cười cợt với vợ con bằng cách là dễ duôi. Phật dạy đối với người chồng là phải luôn luôn có cái sự nghiêm nghị với vợ con, đĩnh đạc, ăn nói tề chỉnh, vợ nó mới phục mình và kính trọng người chồng, còn không khéo thì nó cũng sẽ không kính trọng. Lấy cái lễ mà đối với nhau, thì ở đây Phật dạy Thầy thấy 5 cái điều này làm cho hạnh phúc gia đình ngày càng tươi đẹp và an ổn nhất.

Bây giờ đến cái phần mà vợ đối với chồng có 5 điều.Hồi nãy là chồng đối với vợ, còn bây giờ thì vợ đối với chồng. Vậy 5 điều như thế nào?

Người vợ mà được giao phó, được chồng chăm sóc từ cái ăn mặc, cái trang sức cho hợp thời trang, lấy cái lễ mà đối với vợ mình cho đàng hoàng thì người vợ phải có 5 điều kiện thì người chồng mới đối xử được. Còn người vợ mà không có 5 điều kiện này thì chắc chắn người chồng không thể nào đối xử như những điều ở trên được.

- Một: Người vợ phải dậy trước chồng.

- Hai: Phải ngủ sau chồng.Nghĩa là người phải lo lắng để chồng mình làm việc này kia để cho ông ta ngủ trước mình, phải dọn dẹp ở trong nhà đâu ra đó hết rồi mình mới đi ngủ. Mà thức dậy thì phải dậy trước để lo nước nôi hoặc là nấu cái này cái kia để cho chồng mình dậy có thực phẩm điểm tâm hay như thế nào, thì người vợ phải dậy trước và ngủ thì ngủ sau. Ngủ sau như vậy để làm gì? Ông chồng đi làm về mệt quá ông bật lưng ở trên giường ông ngủ mình, mùng màn gì ông cũng không xả xuống thì mình ngủ sau mới thấy được điều đó, chứ ngủ trước làm sao thấy được, do đó mình ngủ sau mình buông màn cho chồng. Thì như vậy đức Phật dạy chúng ta thấy rõ ràng từ cái hành động của người vợ mà đối với chồng như vậy làm sao người chồng không lo cho vợ mình bằng mọi cách.

- Ba: Nói lời hòa nhã.Luôn luôn người vợ không cộc cằn với chồng, luôn dùng lời hòa nhã đối với chồng, thì như vậy làm sao mà ông chồng không thương vợ mình.

- Bốn: Kính nhường.Luôn luôn kính nhường chồng mình. Chồng mình có ý kiến này, ý kiến kia thì mình nhẹ nhàng góp nhặt chứ không có dùng ý kiến của mình hoặc là cái sự học hỏi của mình lanh lợi, rồi mình lấn lướt chồng mình, chống trái lại thế này thế khác. Cho nên mình luôn luôn kính nhường chồng mình bằng ý. Như thí dụ như chồng mình muốn dời dọn ở trong nhà, cái bàn này đặt chỗ này, cái ghế kia đặt chỗ kia thì mình cũng nên kính nhường cái ý kiến đó để cho vợ chồng hòa hợp, mặc dù nó có trái với cái ý của mình.

- Cho nên điều thứ 5 thì Phật dạy phải tùy thuận, mình phải tùy thuận mọi ý đó. Cho nên kính nhường rồi còn phải tùy thuận. Nếu mình tùy thuận mà không kính nhường thì trong lòng của mình không an đâu. Cho nên mình kính nhường, chồng có ý gì thì mình nhường ý đó cho chồng để chồng mình vui vẻ. Và đồng thời phải tùy thuận để tâm mình nó xả, để nó không bị ý kiến của mình mà trói buộc, nó làm cho mình bất an. Cho nên cái thứ 4 là mình kính nhường, cái thứ 5 là tùy thuận.

Cái thứ 6,ở đây có 6 điều chứ không phải 5 điều, Thầy nói lầm, có 6 điều. Vợ đối với chồng có 6 điều mà chồng đối với vợ có 5 điều, các con ghi lại.

- Sáu là sớm nhận lãnh ý của chồng.Nghĩa là chồng giao mình cái gì đó thì mình nhận lãnh cái ý đó mình làm, không có sai ý chồng. Nghĩa là chồng bảo bữa nay phải làm cái gì đó thì mình nhận lãnh cái ý đó của chồng mình làm, chứ không từ chối bằng cách này, bằng cách khác. Ví dụ như Chánh Đức vào đây thì người bạn đời của mình nhận lãnh những cái việc buôn bán, hoặc nhà cửa, hoặc coi sóc cho con cái thì như vậy đó là nhận lãnh cái ý của chồng.

Như vậy Phật đã dạy chúng ta thấy nếu một người vợ mà đối với chồng đúng 6 điều này thì gia đình đó rất là hạnh phúc. Như vậy chúng ta phải nhớ những lời dạy này để mà giữ gìn cái hạnh phúc gia đình của mình, để cho chúng ta thực hiện 10 điều lành mà tránh xa 10 điều ác mới được. Còn nếu trong nhà mà nó không kính nhường, không tùy thuận, không nói lời hòa nhã với nhau thì Thập Thiện chúng ta có học nó cũng chẳng qua là học để mà chơi chứ không thể thực hiện được; học để mà nghe cho vui chứ khhông thể nào mà thực hiện được Thập Thiện vì chúng ta có những cách thức đối xử với nhau, sống với nhau thì chúng ta mới áp dụng được thập thiện. Nếu mà chúng ta sống mà không đối xử với nhau tốt như vậy thì Thập Thiện chẳng qua là để mà trang trí cho thêm tủ kinh sách của mình chứ chẳng ích lợi gì hết.

4. Quan hệ với bà con

Đến đây là cái phần có 5 điều thân kính đối với bà con.

Con người chúng ta sinh ra thì có gia đình, có vợ, có con rồi có chồng, có con thì xung quanh chúng ta có những bà con chứ đâu phải không có bà con. Thì những bà con đó đối xử như thế nào? Thì ở đây Phật dạy chúng ta cách thức đối xử. Có 5 điều mà chúng ta đối xử với bà con.

- Thứ nhất là giúp đỡ tiền bạc cho những bà con nghèo, túng thiếu.Nhưng giúp đỡ những bà con đó không có nghĩa là chúng ta cho, chúng ta giúp họ rồi họ lấy họ làm họ không trả lại mình, như vậy không có nghĩa là giúp đỡ, cái nghĩa đó là cho họ chứ không phải là giúp đỡ. Còn giúp đỡ là giúp cho họ, rồi họ làm ăn họ trả lại cái vốn của mình chứ không lấy lời một đồng xu cắc nào hết gọi là giúp đỡ. Còn nếu chúng ta lấy lời thì không được gọi là giúp đỡ mà là cho vay, nó khác đi rồi. Cho nên phải hiểu, cho là người ta không trả lại mình, giúp đỡ thì người ta trả lại mình. Còn cho vay thì người ta trả lại cái vốn của mình và cái lời nữa thì gọi là cho vay. Còn ở đây giúp đỡ tiền bạc tức là cho người đó rồi người đó giúp đỡ cho những người thân trong họ của mình rồi họ làm ăn có, họ trả lại cái vốn đó cho mình, một năm hai năm hay 5 năm, 10 năm, tùy theo trường hợp họ làm có họ trả, chứ chúng ta không vội vàng mà đòi gấp, như vậy là giúp đỡ dòng họ của mình.

- Hai là nói lời điều hòa.Tức là trong thân tộc của mình có những sự xích mích nhau, có điều này thế kia thì mình dùng lời ôn hòa, điều hòa làm cho thân tộc vui mừng, vui vẻ mà không có sự chống trái nhau, không có sự hiềm khích nhau. Cái thứ 2 này là dùng lời nói ôn hòa, nhã nhặn đối với nhau, điều hòa với nhau chứ không để sự xích mích với nhau.

- Ba: Làm việc lợi ích. Nghĩa là mình khuyến khích, cũng như là mình góp ý cho người khác hoặc là mình chỉ cho họ cách thức để cho họ làm cho có lợi ích cho họ. Cho nên cái thứ 3 này là chúng ta góp ý, hoặc là chúng ta chỉ bảo những điều kiện làm, hoặc là chúng ta hướng dẫn cho họ có những nghề nghiệp để họ làm họ sống trong thân tộc của mình không có người thất nghiệp, không có người vô nghề nghiệp cho nên họ không đói khổ. Hoặc là chúng ta giới thiệu cho họ có những công ăn việc làm trong cơ xưởng này hoặc nhà máy kia, đó là làm cho họ có những nghề nghiệp để cho họ sống mà không đói khổ.

- Bốn: Chung làm chung hưởng.Nghĩa là có khi chúng ta thấy cái người này họ không có vốn mà mình có vốn, mình biết bây giờ mình sẽ mở một cái hiệu buôn hoặc là một cái nhà máy thì mình mời người bà con của mình đến cùng nhau làm, làm không có nghĩa là mình trả tiền công họ sòng phẳng tiền công không mà mình thấy công lao của bà con mình làm chung nhau có cái lợi thì mình thưởng họ, hoặc là mình chia cho họ có số để mà sống dư giả, chứ không nên mình cướp lấy mồ hôi nước mắt của người. Cho nên ở đây Phật dạy: Chung làm chung hưởng, nghĩa là cùng nhau làm thì cùng hưởng với nhau chứ đừng đối xử người bà con mình như một người lao công, một người công nhân làm cho xưởng chỉ biết ăn lương mà thôi. Ở đây chúng ta đối xử với người bà con, ví dụ chúng ta làm giám đốc mà người đó làm những việc gì đó, thỉ chúng ta thấy cái lợi của công ty này của mình mà có lợi nhiều thì mình chia cho bà con của mình, cho họ khá hơn một chút chứ không phải nội có tiền lương không, giúp đỡ họ thêm để cho đời sống của họ không còn chật vật với số lương quá ít ỏi.

- Năm: Không hề khinh dễ.Tức là trong dòng họ của mình, dù cái người ngu dốt, dù cái người có điên khùng, dù cái người như thế nào thì trong dòng họ mình thì đừng nên khinh, đừng nên khinh bà con của mình vì bàn tay chúng ta cũng có ngón dài, ngón ngắn. Trong thân tộc của chúng ta cũng có người vậy, kẻ khác, người thì say rượu, người thì bài bạc, chúng ta khuyên được thì chúng ta khuyên giúp họ chứ chúng ta đừng khinh dễ họ. Nhiều khi mình lấy dòng họ của mình ra nói: Anh của chú tôi, hay anh của bác tôi, hay em của chú tôi thì làm cái điều này, điều kia, tầm bậy tầm bạ, nói ra người ta cười chê cho trong dòng họ mình, chẳng có ích lợi gì hết.

Cho nên mình nói như vậy là mình khinh người đó lắm, mình khinh người bà con mình lắm, mình mới đem ra mình nói người này, người kia cho nên mình không nên làm điều đó, cho nên mình không nên khinh dễ người nào hết mà mình nên thương họ, mình nên thương dòng họ của mình hơn. Có những cái mà họ chưa hiểu cho nên họ cũng có làm những cái phiền muộn ở trong lòng thì mình nên thương họ, chứ đừng thấy họ như vậy rồi mình khinh dễ họ như thế này, thế khác. Cho nên ở đây Phật dạy chúng ta đối xử những người thân của chúng ta tạo cho chúng ta có một cái niềm sống đoàn kết trong thân tộc của mình mà không có sự chia rẽ trong đó.

Toàn bộ 5 điều này nó đem lại cho gia tộc chúng ta được an vui, được hạnh phúc, trong dòng họ biết thương nhau, biết chia sẻ nhau từng chút, từng chút.

Về phần bà con cũng đối xử lại với mình và đối với những người trong bà con như thế nào?

- Thứ nhất là hộ vệ khiến cho không phóng dật.Nghĩa là ở trong dòng họ của mình có người nào ham chơi hoặc phóng dật thì mình luôn tìm mọi cách mình khuyên lơn họ đừng có nên chơi bời, đừng có nên phóng dật mà hãy lo làm ăn, đừng có ham đi chơi, mà phải siêng năng làm ăn để cho cuộc sống nó có đạo đức hơn. Còn mình phóng dật chạy theo, đua đòi theo thế gian rồi tiêu phí tài sản trong nhà lần lượt rồi nghèo đói, cho nên người bà con của mình thấy người ta siêng năng làm thì mình khích lệ người ta làm, thấy người ta đi chơi hoang phí thì mình nên khuyên người ta, giúp đỡ cho người ta để cho người ta trở về con đường chính. Trừ ra mình khuyên mà họ không nghe thì mình đành chịu. Cho nên mình không hộ vệ họ khiến cho họ đừng phóng dật.

- Hộ vệ về sự phóng dật,nghĩa là người này họ đã ham mê cờ bạc, hoặc là họ phóng dật theo khiêu vũ, họ thích đàn ca xướng hát thì do đó khi mà họ đi như vậy thì sợ khi họ say mê sự phóng dật đó thì mình sợ có người khác ganh ghét. Có thể khi đánh bài mà thắng thì người ta có thể giết hại người bà con của mình, cho nên mình thấy vậy mình theo sát một bên để mình phòng hộ cho người này để họ thoát khỏi sự hiểm nghèo đó, gọi là phòng hộ về sự phóng dật. Người đó phóng dật, làm cái chuyện gì đó mà mình khuyên họ chưa được, do đó mình phải phòng hộ, giúp đỡ cho họ vượt qua những cái khó khăn, cái nguy hiểm của họ sắp xảy ra, vì những người phóng dật là những người dễ bị người khác đánh đập, dễ bị người khác uy hiếp, cho nên mình tìm cách để mình hỗ trợ họ, để cho họ thoát ra những điều kiện mà họ đang phóng dật.

Hộ vệ cho họ xong như vậy thì chúng ta mới trở về cái phần 1 là khuyên họ, khuyến khích họ đừng nên phóng dật như vậy, vì phóng dật nó xảy ra khổ sợ như vậy.

Đó là người bà con biết mình là người tốt mà hay giúp đỡ họ mà mình có say mê bài bạc thì người bà con đó thường cảnh giác, đề phòng để giúp đỡ người tốt là người bà con tốt, cũng như mình giúp đỡ người bà con rồi người bà con biết mình là người giúp đỡ tốt: Anh này làm ăn rất tốt, lương thiện nhưng vì có tiền có bạc mình mở ra công xưởng này hay cái nhà máy kia rồi mình sanh tâm phóng dật. Do đó người bà con đó được mình giúp đỡ, bây giờ họ sợ người giúp đỡ mình phóng dật vậy thì sẽ bị du đáng nó đánh hoặc nó cướp hoặc nó giết cho nên mình luôn luôn hộ vệ và khuyên giúp cái người này để cho người này đừng phóng dật nữa gọi là hộ vệ về sự phóng dật.

- Ba: Khuyên răn nhau lúc ở chỗ không người, nghĩa là chỗ vắng người.Nghĩa là khi người bà con của mình từng giúp mình mà bây giờ anh này đang làm việc ở chỗ nào vắng hoặc đi ngang qua cái truông nào vắng thì mình khuyên rằng đừng nên đi ở chỗ đó, anh đi ở chỗ đó là nguy hiểm vì nếu đi thì phải có em hoặc có ai nữa hoặc là anh em mình, phải hai-ba người kìa thì anh đi qua chỗ đó anh mới yên tâm chứ còn anh đi một mình không được. Đó là những lời khuyên những chỗ không người sẽ xảy ra cho người bà con của mình. Đó là người được mình giúp đỡ họ thì người đó phải có những hành động là giúp đỡ lại người đã giúp đỡ mình, cho nên tình em trong dòng họ nó rất thắm thiết. Qua những lời mà Phật dạy này thầy thấy nếu mình đối xử được như vậy thì là thiên đàng chứ không phải địa ngục nữa.

- Bốn: Thường khen ngợi nhau.Mình thường đem cái lời khen ngợi không có nghĩa là mình khen ngợi bằng cách nịnh bợ mà thấy việc làm của người này cũng như người kia mà tốt thì mình khen ngợi và mình thưởng quà tặng để giúp cho cái sự tốt đó càng ngày càng tốt hơn, chứ không phải mình khen để mình nịnh bợ. Khi người ta làm sai, khi người ta bài bạc cũng khen không ngăn cản, cái đó là cái nịnh bợ và mình chỉ những điều phóng dật cho người mà bạn mình từng giúp mình để chạy theo phóng dật thì đó là mình không có hộ vệ phóng dật cho người bạn mình, không có ngăn cản sự phóng dật đó. Thường thường mình khen nhau là khen bằng cách mình thấy thật sự tốt, đúng thì mình khen với nhau để mình sách tấn và mình khích lệ trên bước đường làm ăn cũng như trên bước đường đạo đức, tu học như vậy. Cũng như quý Thầy bây giờ nghe Thầy nói Minh Tông, Mật Hạnh, Chơn Huệ hoặc là Thiện Thuận mà quý Thầy thấy: ờ những người này tu thấy có đúng, Thầy nói những điều này mình nhận xét những vị này ở khía cạnh này rất là đúng đắn. Vì vậy mình khen các vị đó, những người mà tu tập như vậy thì rất là quý, phải chi mình cố gắng mình được như vậy thì mình cũng được tốt, mình khen chứ không phải là mình chê đâu.

Đó là những cái mà mình phải học hiểu để mình biết lúc nào mình dùng cái lời khen của mình cho đúng lúc và đúng cách.

5. Quan hệ giữa chủ và người làm

Bây giờ về cái phần mà chủ đối với tôi tớ,Phật cũng dạy chúng ta thấy biết rõ 5 điều kiện mà người chủ đối với tôi tớ.

- Một: Tùy khả năng mà sai khiến.Mình biết người tôi tớ trong nhà của mình, làm công cho mình, khả năng họ tới mức độ nào đó để mình sai khiến, đừng có sai khiến quá cái khả năng người ta làm không được, làm sai, hư rồi chừng đó mình đánh đập chửi người ta thì rất tội. Mình phải tùy khả năng của họ mình sai họ làm thì chắc chắn mọi công việc đều là tốt đẹp, cho nên nó không làm cho mình trở thành hung ác. Tức là mình sai người ta quá khả năng người ta làm không tròn nhiệm vụ của người ta, rồi lúc bấy giờ trở thành những khẩu nghiệp của mình trở thành hung ác, mình chửi mắng hoặc là mình sài phí thậm tệ người ta, do cái chỗ đó mà mình không giữ được thập thiện, cho nên mình tùy khả năng người ta mình giao cho họ nhiệm vụ họ làm, với khả năng họ làm được thì họ sẽ làm tốt công việc. Do đó mình không còn mắng chửi họ, không còn trách móc họ, cho nên mình không có lời ác. Như vậy thì quý thầy đã thấy rằng, ứng dụng trong thập thiện qua những điều mà Phật dạy từng chút, từng chút ở trong cuộc sống hàng ngày không chung đụng từ chủ đối với tôi tớ rồi tôi tớ đối với chủ như thế nào để mà chúng ta hiểu biết cho rõ ràng. Từ đó chúng ta mới áp dụng vào thập thiện nó mới đúng đắn, chứ còn nếu không khéo chúng ta khó mà áp dụng được Thập Thiện.

- Hai: Tùy thời cho ăn uống.Nghĩa là chúng ta tùy cái thời mà cho ăn uống, tại sao? Bây giờ người đó làm công việc đó nó nặng nhọc quá, cái thời gian này phải vác cây, khiêng đá này kia thì phải cho họ ăn uống nhiều hơn một chút. Còn bình thường họ làm những công việc nhẹ nhàng như quét sân hay dọn cỏ thì mình cũng tùy cái lúc đó mình cho họ ăn uống đúng với tiêu chuẩn của họ. Như vậy Thầy thấy rằng ở đây Phật dạy chúng ta từ cái chỗ đối xử với tôi tớ, từ cái cho ăn. Có khi mà chúng ta bắt tôi tớ làm quá nhiều mà cho ăn quá ít, cái đó là không đúng. Cho nên ở đây Phật dạy chúng ta tùy thời mà cho ăn uống.

Người ta làm nặng thì phải cho ăn uống nhiều, hoặc là uống thêm sữa hoặc là nước chanh đường hoặc là nước ngọt vì người ta đã tiêu phí nhiều ca-lo trong người của người ta mà do công việc làm nặng nhọc, vì vậy mà mình phải bồi dưỡng thêm cho người ta những cái chất để cho người ta phục hồi lại sức khỏe của người ta. Nhiều người có tôi tớ bắt làm thôi đủ thứ mà cho ăn kể như là, kham khổ rất là kham khổ, nhưng vì nghèo phải đi làm tôi tớ người ta thì đành chịu. Nhưng mà người chủ họ biết đối xử với tôi tớ như vậy thì tôi tớ chắc là kính trọng ông chủ vô cùng.

- Ba: Tùy thời mà thưởng công.Nếu mà ngày đó người ta làm công việc nặng nhọc nhiều, ví dụ như người ta làm cái ngày hôm đó, công lao của người ta làm nặng nhọc mà mình trả cho người ta như ngày làm thường, ví dụ như Thầy ở đây Thầy nhờ một vài người đến đây phụ với Thầy rẫy cỏ, công lao rẫy cỏ hàng ngày ví dụ: 20.000đ/ngày thôi và đồng thời hôm nay Thầy lại nhờ họ phải đánh gốc mấy gốc cây hoặc đào đất đập nền nhà hoặc nền chùa nào đó mà công lao của họ đào miếng đất thì nặng hơn rẫy cỏ. Do vì xét thấy những việc làm nặng nhọc thì chúng ta không không phải trả họ 20.000 mà phải trả họ 25.000 hay 30.000 để xứng với công họ làm, còn họ rẫy cỏ mình chỉ trả họ 20.000 mà thôi vì cái rẫy cỏ nó nhẹ. Và đồng thời khi mà họ làm nặng như vậy đó thì chúng ta có thể bồi dưỡng họ thêm những thuốc bổ, hoặc là cho ăn nhiều hơn bằng cách cho ăn chất ngọt nhiều hơn vì họ phải tiêu phí nhiều ca-lo ở trong người của họ, mồ hôi họ ra rất nhiều vì họ làm nặng.

Cho nên Phật dạy chúng ta tùy thời mà thưởng công, tức là chúng ta đừng có lấy cái giá nhất định nào đó mà bắt người ta làm rồi không nghĩ tới công lao nặng nhọc của họ. Thay vì người ta làm mình có một ngày mà sức người ta phải phí một ngày rưỡi hoặc 2 ngày trong đó. Cho nên mình phải xét thấy mà vì vậy người chủ mà đối với tôi tớ, đối với những người làm công của mình đã như vậy thì chắc khi muốn làm gì nói một tiếng nói mọi người họ sẽ đến làm không mà không bao giờ phải khó khăn đi tìm người. Ở đây Phật dạy thật là tỉ mỉ.

- Bốn:Khi những người tôi tớ của mình, những người làm công của mình lỡ họ bị bệnh đau thì mình hãy thuốc thang cho họ, vì số tiền họ làm hàng ngày thì họ đủ nuôi sống gia đình họ, nhiều khi họ bệnh đau họ không có tiền thang thuốc. Do đó khi mà họ làm việc với mình, họ là tôi tớ trong nhà mình, khi bệnh đau mình lo thang thuốc cũng như là những người thân của mình trong gia đình, như cha mẹ mình vậy, hãy lo lắng thuốc thang cho đầy đủ vì mọi người ai cũng sợ bệnh tật mà trong khi họ nghèo khổ, họ đến làm tôi tớ mình thì chắc chắn mình phải có bổn phận chăm sóc họ như chăm sóc đứa con của mình, mình thương yêu họ cũng như thương yêu đứa con của mình. Cho nên khi thấy họ nhức đầu sổ mũi, nóng lạnh thì mình mau mau lo thuốc thang, đau nặng thì chở đi nhà thương chữa bệnh, chứ đừng thấy đau năng rồi thôi cho họ về nghỉ đi, về đó rồi họ vừa là bệnh đau mà vừa đi nằm nhà thương mà tiền thang thuốc không có. Vì vậy cho nên mình hãy cung cấp cho họ tiền bạc hoặc là mọi thứ để khi họ đến nằm nhà thương trị những bệnh nặng. Như vậy là khi bệnh thì lo thang thuốc cho họ, ở đây đức Phật dạy như vậy, thì đó là một lòng thương của chúng ta đối với những người tôi tớ trong nhà của mình, cũng như những người làm công của mình.

- Năm: Để cho tôi tớ có thì giờ ngủ nghỉ.Nhiều khi chúng ta có tôi tớ chúng ta sai nó thôi làm đủ thứ còn vợ con của mình thì ngủ lu bù, không có nghĩ ngợi gì hết, không có lo gì hết mà tôi tớ thì bắt làm cho thật nhiều thì như vậy là không tốt. Ở đây Phật nói: ờ có giờ nào cho tôi tớ mình nghỉ ngơi cho hẳn hỏi, chứ không được bắt nó làm quá sức của nó, không cho nó nghỉ thì rất tội.

Đó là 5 điều mà chủ đối với tôi tớ, là phải thấy được 5 cái điều đối xử này với những người mà thấp hơn mình, nghèo hơn mình, khổ hơn mình mà mình đối xử với họ như vậy thì chắc chắn là như mình đối xử với con mình trong gia đình rồi, không còn là tôi tớ nữa. Qua 5 cái điều này Thầy thấy rất rõ Phật dạy chúng ta đối xử với tôi tớ cũng như đối xử với người con của mình chứ không phải đối với người xa lạ nữa.

Về phần tôi tớ thì lấy 5 điều đối xử với chủ, nghĩa là phần tôi tớ phải đối xử với chủ như thế nào? Chủ đã đối như vậy rồi thì nhiều khi tôi tớ thấy chủ mình đã lo như vậy rồi thì sanh ra lười biếng không chịu làm đâu. Ăn rồi ngủ, ngủ rồi đi chơi chứ không bao giờ làm đâu thì điều đó không đúng, cho nên ở đây tôi tớ phải lấy 5 cái điều mà đối xử với chủ mình.

- Người tôi tớ thì phải dậy sớm,chứ không phải thấy chủ mình đối xử tốt với mình như vậy, tới trưa trờ trưa trật mới dậy thì không được, phải dậy sớm lo những công việc mà hàng ngày chủ giao cho mình, mình phải lo dậy sớm để làm cho hết những công việc.

- Hai: Làm việc phải cẩn thận.Nghĩa là đâu phải ra đó, việc gì nó phải làm cho cẩn thận việc nấy, không khéo lụp chụp rồi nó bể đồ hoặc là hư hao cái này kia của chủ, cho nên làm việc phải cẩn thận.

- Ba là của không cho thì không lấy.Nghĩa là mình ở trong nhà của chủ không được ăn cắp đồ của chủ, hoặc tiền hoặc vật dụng khi mình muốn cái gì đó mình lén lấy, thì cái điều đó không được. Chừng nào chủ mình cho thì mình lấy mà không cho thì không lấy. Người tôi tớ phải đối xử với chủ như vậy, coi tiền bạc của chủ như là của mình, phải bảo vệ giữ gìn, không được trộm lấy của chủ.

- Bốn làm việc có thứ tự.Nghĩa là làm cái việc nào trước, việc nào sau, sắp xếp đâu ra đó, ngăn nắp hẳn hoi đàng hoàng. Trong nhà chỗ nào cái gì, cái gì thì đặt ngay thứ tự của nó, không được làm nó rối trật tự. Chẳng hạn như bây giờ người ta đặt cái bộ sa lông như vậy, cái mình quét dọn mình đưa bên đây, đưa bên kia, mình không sắp xếp lại thứ tự, khi có khách đến thì bàn ghế nó ngổn ngang trong phòng thì như vậy là thiếu thứ tự, thiếu ngăn nắp. Cho nên làm việc gì người tôi tớ phải có ngăn nắp, sắp xếp lại nó đâu ra đó, thẳng, chứ không được mà bừa bãi, không được lộn xộn, đồ đạc không được thiếu trật tự ở trong nhà.

- Năm: Thường phải khen ngợi danh đức của chủ. Chủ mà đối xử với mình như vậy thì mình phải ca ngợi cái đức của người chủ. Người chủ tốt quá, đối với người tôi tớ trong nhà mà xem như con, như người thân của mình ở trong nhà. Qua 5 cái điều mà người chủ đối với tôi tớ thì chúng ta thấy rằng quá tốt, không thể nào mà tưởng tượng được. Vì vậy cho nên chúng ta là người tôi tớ lấy những danh đức, cái đức tốt của ông chủ mình thường khen ngợi với người này, khen ngợi với người khác, chủ tôi là người rất là nhân đức, đối xử với tôi như con ở trong nhà, luôn lúc nào cũng xem là một đứa con mà không bao giờ mà bạc đãi chúng tôi một cái gì hết. Đó là mình khen ngợi danh đức ông chủ.

6. Quan hệ giữa người Phật tử và bậc tu hành, hiền đức

Người Phật tử đối với những bậc tu hành, hiền đức có 5 điều.

Nghĩa là người Phật tử mà đối với những bậc tu hành, nghĩa là mình không phải là đệ tử của vị Thầy đó, nhưng mà mình đối xử với những bậc tu hành, hiền đức, ví dụ như bây giờ HT Tâm Tịnh ở ngoài Hà Nội, HT có những đức tính hiền lành, những đức nhẫn nhục, những đức tu hành, những đức giới luật, do đó mọi người Phật tử không phải là đệ tử của HT nhưng vẫn là phải có sự đối xử với HT cho đúng cách. Cho nên Phật dạy: Người Phật tử phải đối với những bậc hiền lành, những bậc đức giới, những bậc thiền đức thì phải đối họ như thế nào?

- Một: Thân luôn luôn, cái hành động của thân luôn luôn đến các vị đó thì luôn luôn phải từ thiện.Nghĩa là thân chúng ta không được làm động các vị đó, làm ồn náo ở nơi các vị đó ở, mà chúng ta phải làm cho nó nhẹ nhàng, êm ái, luôn lúc nào cũng có lòng biết thương, biết kính trọng các vị đó.

- Hai: Phật dạy miệng nói từ thiện đối với những vị hiền đức, thiền đức.Như vậy thì chúng ta phải ăn nói với những vị đó lời lẽ nhẹ nhàng và không được làm động trong chỗ các ngài ở, nên gọi là lời nói từ thiện.

- Ba:Ý nghĩ thiện. Ví dụ như HT có giới đức rất là nghiêm túc, HT có những cái thiền đức rất là sâu thì chúng ta nhìn thấy HT có những cái bệnh đau, khó khăn hoặc là nan y đi thì chúng ta không lấy những cái đó mà chúng ta nghĩ rằng HT như thế này, thế khác mà chúng ta hãy nghĩ HT là một người kiếp trước đang có những hành vi nào mà bất thiện cho nên kiếp này HT tu hành, HT phải trả nghiệp đó chứ không phải HT làm ác một điều gì để trả nghiệp bệnh đau này.

Cho nên ý nghĩ chúng ta là nghĩ thiện, HT là một người đáng kính nhưng HT mang thân bệnh là do tiền kiếp của HT phải chịu trả cái nhân quả, không biết chừng vì HT do trên bước đường độ chúng sanh mà HT trải qua những điều ác để mà độ người, để cho người thoát khỏi thì HT hôm nay cũng phải lãnh lấy những cái điều đó. Ví dụ như trên một chiếc đò qua sông thì trong tiền kiếp của HT có gặp một bọn cướp ở trên sông, nó sẽ bắt mọi người, giết hoặc cướp hết tài sản thì lúc bấy giờ HT vì muốn phải bảo vệ một số người trên cái đò này thì HT phải ra tay để giết tên này và khi giết tên này, mà khi giết tên này là vì mọi người cho nên HT cũng phải thọ lấy cái thân của mình một hậu kiếp sau, để rồi nằm trên giường bệnh trả những cái đau đớn khi mà mình đã đánh và giết tên cướp này. Thì luật nhân quả khi mà giết người thì không thể nào thoát khỏi sự đau khổ này. Mặc dù mình làm thiện, tức là mình sẽ hưởng được những phước thiện của nó. Ví dụ như những người ở trên thuyền này đã bảo vệ được tài sản, của cải không mất và sinh mạng họ không mất thì kiếp sau họ sẽ trở thành những người đệ tử thân tín, luôn luôn cung cấp cho HT tất cả cuộc sống đầy đủ, thì đó là những nhân thiện thì HT phải thọ hưởng, mà cái nhân ác thì HT cũng phải chịu đau đớn. Do đó chúng ta đừng thấy HT bị bệnh đau mà cho rằng HT làm điều ác, điều này kia, trước mặt chúng ta thấy HT giữ gìn giới rất nghiêm túc, thiền định rất sâu, mà HT vẫn yên vui trong cơn bệnh của mình, không thấy có cái gì thay đổi, chúng ta đừng lấy cái bệnh của HT mà nêu lên những điều xấu của HT thì như vậy chúng ta không có những ý nghĩ xấu không tốt, không thiện.

Do những điều mà Phật dạy như vậy để chúng ta đừng xét qua một hành động nhỏ hoặc một sự kiện xảy ra của một vị nào đó, một vị giới đức nào đó mà chúng ta đánh giá họ một cách lầm lạc làm cho lòng cung kính của chúng ta không giữ trọn được, nó thiếu sự cung kính đó, nó làm cho chúng ta mất niềm tin đối với những bậc thiền đức đó là chính chúng ta có ý nghĩ đến điều ác của người mà làm chúng ta không được nương theo những cái đức hạnh trong hiện tại của người, mà chính cái hiện tại của người có những đức hạnh đó để giúp chúng ta tu tập trên con đường của đạo, làm chúng ta được giải thoát. Mà trái lại chúng ta nghĩ quấy một điều là những hành động đức hạnh của vị đó sẽ tiêu tan trong đầu óc của chúng ta. Cho nên đức Phật dạy cái phần thứ 3 này là ý nghĩ phải thiện, nghĩa là luôn luôn chúngta lúc nào cũng nghĩ thiện đến những bậc thiền đức này, chứ không được nghĩ ác đến những bậc thiền đức này.

- Bốn: Đúng thời cúng dường.Ở đây đức Phật dạy những bậc thiền đức đó không phải lúc nào chúng ta đem cúng dường là được hết đâu, phải đúng thời. Bây giờ Thầy đang mặc cái bộ y áo này, chưa có rách mà quý Phật tử đem đến cúng dường Thầy thì cái đó là cái sai, làm cho Thầy không giữ được giới hạnh của mình, phải khi nào thấy cái y áo của Thầy rách bưa hết rồi, không thể nào còn xài được nữa, cho nên mình về may cái y áo mới, mình đến, mình dâng cúng dường cho bậc hiền đức đó. Đó là cúng dường đúng thời. Còn cúng dường không đúng thời thì cái vị đó sẽ trao cái y áo này cho một người khác, cúng dường cho một người khác, chứ vị đó có nhận cũng nhận tâm mà thôi chứ không xài cái y áo đó được là vì một người tu sĩ phải tiết kiệm tối đa, chừng nào mà rách mặc không được nữa rồi thì mới bỏ, mới nhận cái mới, còn quý Thầy thấy những bậc thiền đức luôn luôn lúc nào cũng may y, may áo cúng dường cho quý vị quá nhiều, chất cả rương, ngập cả tủ thì cái đó là cái cúng dường không đúng thời.

Cũng như Thầy ăn cơm ngọ ngày một bữa, sau cái bữa ăn cơm ngọ rồi thì có người đem đến cho Thầy 1 ly sữa để cúng dường Thầy thì cái ly sữa này là ly sữa phi thời, cho nên cúng dường không đúng thời. Cũng như bây giờ buổi chiều, có một người đến dâng Thầy một dĩa bánh, xin Thầy thọ cái sự cúng dường này của con thì đây là không bao giờ Thầy thọ dụng những cái này vì cúng dường không đúng thời. Đó quý Thầy thấy như buổi sáng này chưa phải lúc ăn mà người khác làm cho Thầy 1 tô mì hoặc là một cái bánh hoặc là ly sữa để cho Thầy ăn thì cái đó là cái cúng dường không đúng thời. Quý thầy hiểu, cúng dường đúng thời là lúc bấy giờ Thầy đang thọ trai buổi trưa, đúng ngọ, lúc bấy giờ con xin cúng dường Thầy cái bánh, Thầy thọ trai và Thầy ăn luôn thì đó là đúng thời. Thì Thầy nói như vậy để quý Thầy thấy cái sự cúng dường của người cư sĩ, tức là người Phật tử hay cúng dường phi thời làm cho vị thầy mình phi thời phạm vào giới, cho nên cúng dường đó là cúng dường không đúng, cúng dường cho đúng thì tức là nó không phi thời. Cũng như vừa rồi ở đây Thầy thuyết giảng thì mấy cô cũng nghĩ là Thầy nói cũng khan tiếng cho nên làm một ly nước chanh đường để đây để cho Thầy thấm giọng từ từ để mà Thầy thuyết giảng, nhưng khi Thầy tưởng một ly nước suông thôi, không ngờ là Thầy ngậm vô miệng một miếng Thầy nghe cái chất ngọt và cái chất chua của chanh, lỡ ngậm làm sao Thầy nhổ ra được, thôi Thầy đành nuốt nhưng mà Thầy nghĩ rằng người phật tử cúng dường Thầy trong lúc này không đúng thời cho nên Thầy không uống mà Thầy xin cho Thầy 1 ly nước khác mà lúc bấy giờ các con có nghe trong băng Thầy có nói đó, bảo lấy cho Thầy cái ly đó, lúc đó Thầy đã ngậm vào một miếng nước chanh có pha đường trong đó. Thầy thấy cái giờ đó không phải là giờ uống nước này mà mình uống nước này tức là phi thời, giữ không đúng ăn uống của một người tu cho nên cúng dường như vậy là cúng dường phi thời. Và vì vậy Thầy không nhận ly nước này tức là Thầy dạy cho họ 1 bài học là cúng dường đúng thời.

Ở đây Phật dạy cho chúng ta thấy rằng cúng dường đúng thời là phải đúng lúc, về ăn uống thì phải đúng ngọ, về áo thì phải rách, về nhà cửa thì phải lũng nát không còn dột, không còn cái chỗ mà ẩn thì chúng ta cúng dường cho vị Thầy đó lá hoặc là cây để sửa lại. Còn bây giờ nhà của vị thầy đó không có mưa ướt, mà không có nắng, không có gì hết mà đem tiền xin cúng dường để cất chùa, cất này kia, điều đó là cúng dường phi thời không đúng cách cho những bậc thiền đức này vì những bậc giới đức và thiền đức này thì họ không bao giờ mà nhận cái sự cúng dường phi thời đó. Cũng như các con thấy tiền bạc mà cúng dường cho một bậc thiền đức hay là giới đức thì làm sao họ nhận tiền bạc đó. Mà rất là phi thời, nhận tiền bạc đó rất là phi thời. Phật dạy chúng ta chỉ nhận thực phẩm mà thôi, nhưng vì muốn cúng dường điều đó thì Thầy có một người cư sĩ hoặc là cái chỗ nào đặt đó thì cứ đem đến đó mà cúng dường thì không phải là cúng dường tiền bạc cho Thầy mà cúng dường cho chư Tăng để cho người ở đó người ta sử dụng cái tiền bạc đó(BBT:CĐ,07B,E00:44:01) người ta mua thực phẩm, người ta làm ra cái thực phẩm để (BBT:CĐ,08A,B00:00:00)người ta dâng lên, người ta cúng dường cho chư Tăng thì trong đó có Thầy, vậy nó mới là đúng thời, còn nếu mà cúng dường không đúng thời tức là không có đúng cách.

Cho nên tại sao chúng ta là những người tu sĩ, Phật giáo từ lâu người ta không dạy chúng ta cúng dường đúng thời mà luôn luôn dạy Phật tử cúng dường phi thời, thật sự cúng dường phi thời. Nghĩa là trong chùa Thầy đặt cô Út là người nhận lãnh tiền bạc hoặc tất cả những vật thực cúng dường để mà lo lắng cho chư Tăng và chư Ni mà tu tập ở đây thì Phật tử cứ đến đó mà xin cúng dường Chư Tăng ở đây, chứ cần gì mà đến gặp Thầy. Nhưng mà luôn luôn Thầy thấy hầu hết người ta đến gặp Thầy, cúng dường cho Thầy, rồi cúng dường thực phẩm, thậm chí như phải kéo cả xe để trước mặt Thầy đó là cái cúng dường phi thời. Thầy đâu có ăn hết được, vì vậy mà Thầy nói từ chối thì họ buồn bã họ khổ sở, mà nhận thì họ vui mừng, nhưng mà nhận như vậy thì Thầy trở thành phi thời rồi. Thầy chỉ ngày có một bát mà bây giờ để 10 cái thùng mì, rồi hai ba bao gạo, rồi đồ ăn rồi dầu, năm mười lít dầu thì buồn này kia, thì tất cả những vật dụng để sống hàng ngày quá nhiều, nhưng giới luật đâu có chấp cho Thầy nhận cái đó để dành đâu? Chỉ có người cư sĩ, người ta có trách nhiệm là người ta nấu nướng cho chư Tăng thì người ta dám nhận, còn Thầy là người như vậy làm sao Thầy dám nhận. Nhưng mà họ làm sai hết mà không ai dạy cho họ biết cách cúng dường, đó là tất cả những cái không đúng.

Cho nên ở đây các Thầy được học, các Thầy thấy rằng sự cúng dường phải đúng thời. Chúng ta không phải là người còn ham mê những tiền bạc, những sự ăn uống đó nữa vì hàng ngày chúng ta đã quá biết rõ về thực phẩm thì bất tịnh, thân chúng ta cũng bất tịnh, có gì đâu mà chúng ta lại ham; còn tiền bạc thì chúng ta đã quán đã thấy nó là rắn độc, nó sẽ giết chúng ta chết, nó sẽ sai bảo chúng ta mọi thứ tham đắm và ham dục cho nên chúng ta phải lìa xa tất cả những thứ này. Tại sao họ cứ đặt một bao thơ 5.000, 10.000 rồi cả trăm ngàn, rồi cả triệu bạc, thậm chí bảy tám triệu bạc 1 lần. Họ đặt cái thư như vậy mà họ rất là hãnh diện là cúng dường cho một bậc thiền đức, một bậc giới đức. Như vậy làm sao cho đúng được cái giới đức và thiền đức được? Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu rất rõ những cái điều đó là những điều sai. Mà bây giờ chúng ta thấy đâu đâu nó cũng đều quen như vậy hết rồi. Là vì quý Thầy nhận tiền mà không thấy xấu hổ, nhận thực phẩm mà không thấy xấu hổ bởi vì cái đó là phi thời rồi. Thế mà chúng ta cứ thản nhiên mà nhận, chứ không nghĩ gì hết, đó là những cái mà chúng ta thấy rằng, ở đây Phật dạy người phật tử phải đối xử, cúng dường phải đúng thời và cúng dường đúng lúc không phải là cúng dường sai như vậy.

- Năm:Đến nhà không ngăn đón. Cái người mà thiền đức, giới đức mà người ta đến nhà mình thì có điều kiện gì người ta mới đến nhà mình, mình sợ thế này thế khác mình không cho họ đến. Cũng như bây giờ Thầy đến Hà Nội, Thầy đến thăm bác Thức thì bác Thức nói với Chánh Đức không được đâu, nhà tui còn chưa cất xong hoặc là thế này thế khác, không thể rước Thầy về được, Chánh Đức hãy tìm cách ngăn Thầy đừng đến nhà tui. Thì như vậy là không nên, những bậc thiền đức người ta không phải nhìn ở cái bề bộn hay sửa sang nhà cửa xấu tốt đâu mà người ta đến đây có nghĩa là người ta đến với tâm tốt của người ta, người ta đến người ta đem lại những cái gì mà đức hạnh, những cái gì mà phước báu cho mình thì mình không nên ngăn như vậy mà nên vui vẻ đón tiếp người vì mình đã xét những người đó là bậc thiền đức. Thí dụ như HT Tâm Tịnh là người thiền đức, mà HT muốn đến thăm nhà mình thì mình ngăn, mình nói: Ờ nhà con đang xây cất nó bề bộn quá, HT chờ con xây cất rồi con sẽ rước HT thì cái đó là cái sai, không đúng. Lúc bấy giờ HT muốn đến nhà mình là HT muốn chỉ cho mình cách thức xây cất như thế nào cho đúng cách đó, nhưng mình không có tâm tốt mình nghĩ rằng còn bề bộn, không xứng đáng chỗ rước HT vì vậy cho nên mình ngăn lại đi nhưng không ngờ HT lại biết được cái điều kiện khi mình xây cất cái nhà đó thì nó cần phải thế nào, thế nào thì HT đến có những góp ý cho mình để mình tạo được thêm cái phước đức cho con đường khi mình xây dựng một ngôi nhà.

Thì như vậy chúng ta phải hiểu biết được 5 cái điều Phật dạy người Phật tử là như vậy mới đúng, còn không như vậy là không đúng.

Rồi những bậc thiền đức, giới đức này đối xử với người phật tử như thế nào? Thì các vị này phải lấy 6 điều kiện mà đối xử với những người Phật tử. Chứ không phải người phật tử đối với Thầy như vậy rồi mà các vị này thản nhiên không có cách thức đối xử. Cho nên Phật ở đây cũng đã dạy cho chúng ta biết rằng các vị thiền đức đó phải đối xử với những người phật tử phải tốt như thế nào đây?

- Một: Phòng hộ không cho làm ác. Vậyluôn luôn lúc nào các bậc thiền đức đó răn nhắc đừng có làm cái điều ác, đừng có phạm những cái giới. Cũng như ở đây Thầy thường nhắc quý thầy đừng phạm những cái lỗi, đừng phạm những điều này kia và nhắc quý thầy phải thường tu tập cái Định vô lậu làm cho các pháp ác nó không còn vào trong tâm của quý vị được, cho nên đó gọi là phòng hộ, không cho làm các pháp ác. Đó là những bậc thiền đức dạy cho mình tránh xa các pháp ác, ly xa các pháp ác, từ giã các pháp ác, đoạn dứt các pháp ác. Cho nên đó là những bậc thiền đức thứ nhất đã chỉ dạy cho người cư sĩ.

- Hai chỉ dạy điều lành.Nghĩa là luôn luôn lúc nào cũng dạy chúng ta phải làm cái này, làm cái kia hoàn toàn ở trong việc lành.

- Ba là dạy chúng ta giữ tâm lành, nghĩa là luôn luôn giữ cái tâm chúng ta không có được khởi nghĩ những điều ác hoặc suy tư những điều ác mà phải suy tư những việc lành. Như chúng ta đã học biết trong thập thiện thì có 10 điều lành và ngược lại đó là có 10 điều ác. Vì vậy mà chúng ta nắm rất rõ, biết ác như thế nào mà thiện như thế nào, chứ đâu phải chúng ta không biết. Khi mà học thập thiện rồi chúng ta mới thấy 10 ác và 10 thiện rất rõ. Do vậy mà chúng ta luôn luôn giữ được tâm mình trong cái lành, không nên để cho một niệm ác nào ở trong tâm của mình.

- Bốn: Làm cho họ nghe điều chưa nghe.Ví dụ như từ lâu bây giờ các thầy chưa nghe cái người nào, con người mà sinh ra đây do ai mà sinh ra, rồi chết đi về đâu thì các thầy chưa có nghe điều đó mà Thầy đã giảng nghiệp để cho các thầy thấy chúng ta từ nghiệp mà sanh ra, chúng ta thừa tự nghiệp, chúng ta nối dòng họ nghiệp, rồi từ cái sanh ra đó chúng ta sống lên thì chúng ta lại sanh ra nghiệp, rồi từ nghiệp nó lại trở lại sinh chúng ta, như vậy là chúng ta biết rằng từ nghiệp mà sanh con người, rồi từ con người mà sanh ra nghiệp. Tức là như thế này: Từ ở chỗ nghiệp mà chúng ta sanh ra người rồi khi chết chúng ta trở về cái nghiệp, chứ chúng ta không trụ xứ ở chỗ nào được hết.

Đó là những điều mà các con chưa nghe, chưa từng nghe mà hôm nay đến nghe. Cũng như các con suy nghĩ cái người mà tu thiền định từ lâu chưa có nghe rằng người ta ngưng các hành ở trong thân, chưa từng nghe người ta tịnh chỉ hơi thở nhưng hôm nay được giảng dạy, được nghe cái tịnh chỉ này như vậy mới gọi là nhập định thì quý thầy chưa bao giờ từng nghe mà cái bậc thiền đức người ta đã hiểu biết cái điều đó cho nên chưa có nghe người ta nói cho mình nghe để mình biết được những con đường tu nó đúng như vậy, nó làm chủ được sanh tử như vậy. Chứ từ lâu mình nghĩ rằng mình tu như thế nào, thế khác làm chủ sanh tử chứ không ngờ rằng bây giờ phải tịnh chỉ các hành, phải làm cho hơi thở ngưng, tập luyện cho nó ngưng, nó ngưng hoàn toàn không thở nữa thì đó mới là làm chủ được sanh tử. Cho nên cái mà chưa được nghe thì các bậc thiền đức này phải làm cho quý vị được nghe những cái mà chưa được nghe.

- Năm: Điều đã được nghe làm cho họ hiểu rõ ra.Điều mà bây giờ họ được nghe như từ lâu Thầy nói phải tịnh chỉ hơi thở, tịnh chỉ các hành thì các thầy nghe mà chưa rõ, bây giờ Thầy lại nói ở đây Minh Tông hoặc Thiện Thuận đã tịnh chỉ được hơi thở, đã ngưng được các hành bằng cách là xả được nửa thân, rồi nửa thân còn hoàn toàn chưa xả được. Trong khi đó không đã rõ được những cái điều kiện mà không đã nghe mà không chưa rõ, như từ hôm đó đến nay Thầy không tuyên bố thì các thầy đã nghe phải biết rằng ngưng hơi thở phải ngưng các hành nhưng các thầy chưa rõ được, hôm nay dạy thêm để các thầy thấy rõ được như vậy là chúng ta biết được con đường đi của không khí mà ngưng rồi khi mà trở lại để phục hồi sự sống trở lại bằng cách nào cho đúng cách, như vậy là quý thầy bây giờ lại rõ thêm phần nữa.

Cho nên ở đây các bậc thiền đức khi mà đã dạy cho người ta nghe với những điều mà chưa nghe, rồi bây giờ đã nghe rồi thì lần lượt vị thầy đó họ lại làm cho quý vị hiểu rõ ra, rất là rõ ra và cái hiểu rõ này phải có những người làm được thì mới hiểu rõ ra được mới tin tưởng được, còn bây giờ Thầy làm cho các con hiểu rõ, các con chưa tu tới đây chưa tin được, chưa tin được thì làm sao mà lại nói cái thân của mình mà lại nói nó ngưng khúc còn khúc nó không ngưng thì điều đó các con chưa tin được đâu. Nhưng bây giờ nó đã rõ, có người đã thực hiện được thì các con thấy rõ rồi, đâu còn gì sai nữa, cho nên có những người chứng minh được điều đó chứ còn riêng Thầy nói không chứng minh tức là các con sẽ nghĩ quấy thầy và nghĩ Thầy nói vọng ngữ mà thôi, nhưng mà bây giờ có người chứng nghiệm được thì chắc chắn là lời nói không vọng ngữ rồi, cho nên từng bậc mà Thầy mới giảng lần cho các con chứ không khéo mà Thầy nói trước cái điều mà con chưa có kinh nghiệm chưa sống ở trong đó được thì các con chỉ nói Thầy nói vọng ngữ, nói láo mà thôi.

- Sáu: Mở bày con đường thiện.Luôn luôn lúc nào cũng vạch ra nhắc nhở, vạch ra một lối đi cho những người Phật tử đi trên con đường thiện. Đi trên con đường thiện tức là sống ở trên cuộc sống thiện, đó là Phật dạy. Người mà thiền đức, giới đức này luôn luôn rất thương yêu người Phật tử, luôn phải tập cho họ phải sống như thế nào, đúng là con đường thiện. Cho nên mở bày con đường thiện cho họ sống, tức là đời sống của họ phải là đời sống thiện chứ không phải là đời sống ác nữa. Vì vậy mà giúp cho người cư sĩ được giải thoát hoàn toàn đúng pháp môn để cho họ sống được hạnh phúc an vui trong gia đình của họ.

Như vậy là quý thầy đã thấy rõ tất cả những điều Phật dạy từ người cư sĩ mà cúng dường cho Phật, phải cúng dường như thế nào đúng và cúng dường như thế nào sai, cúng dường như thế nào là không phi thời, cúng dường như thế nào là phi thời, quý thầy đã rõ. Và đến khi các vị thiền đức đó dạy quý vị, nếu như đem những cái điều mà quý vị đã nghe nhàm tai rồi mà nhắc đi nhắc lại thì như vậy những vị mà chưa nghe chưa hiểu thì quý vị biết đâu mà nghe hiểu được nữa. Cho nên các vị này còn những bước đường rất xa, cũng như bây giờ có những cái mà Thầy hiểu nhưng Thầy chưa nói ra tại vì chưa có người đến đó, mà chưa có người đến đó mà nói ra thì các con sẽ nghĩ rằng Thầy chỉ nói dối mà thôi. Cho nên ngày xưa đức Phật nói như thế này: Nếu mà Ta dạy các đệ tử Ta mà dùng thần túc thông, nghĩa là muốn hóa mưa hóa gió, muốn một thân hóa nhiều thân thì nói ra lúc bây giờ có người cư sĩ nói: Có cái thằng chú đó nó cũng làm được như vậy đó, thì cái đó là phỉ báng lại cái lời nói của Phật rồi. Cho nên đức Phật nói ta dạy đệ tử của ta không phải dạy thần túc thông mà dạy phải ở nơi thanh vắng, độc cư, giữ đặt niệm trước mặt của mình, nỗ lực thực hiện quét sách những lậu hoặc, làm cho tâm được giải thoát, chuyên môn sống thầm lặng, trong sự thầm lặng, đó là Ta dạy những người đệ tử. Và bây giờ mà có những người mà thấy đệ tử ta sống độc cư, không nói chuyện, sống trong thầm lặng, chuyên môn đặt niệm trước mặt, ngồi thiền rồi đi kinh hành thì người nào cũng có thể nói Ta dạy cái đó là sai được. Người nào mà ngoài những người này do ta dạy, có những người khác không do ta dạy mà họ đã sống đúng như vậy thì người đó vẫn được xem là người làm đúng. Còn những người mà ta nói mà biến hóa ra lửa thế này thế khác, thì có người nói: Có thằng chú cũng biến hóa ra lửa ra khác thì có cần gì mà phải học cái này, nhưng cái mà ta dạy thì người nào làm được thì sẽ thấy sự giải thoát, chứng nghiệm cho người đó.

Đó là lời Phật dạy như vậy thì chúng ta thấy rất là cụ thể và thực tế. Đức Phật không bao giờ dạy chúng ta có thần thông mà đức Phật còn dạy chúng ta khi mà chúng ta có những đức nào mà chúng ta đã đạt được trong bước đường tu tập thì chúng ta hãy dấu, tức là hãy che đậy lại, đừng phô bày ra những điều đó là những điều không tốt, nghĩa là trên bước đường tu tập chúng ta có cái gì chúng ta âm thầm chúng ta không nói ra cho một người nào biết hết, hoàn toàn không khoe khoang và vì vậy mà mới thực hiện được cái đạo còn lâu dài, còn nếu chúng ta mở miệng chúng ta nói thì cái đạo nó không lâu dài được.

Tại sao ở đây Thầy tuyên bố cho 4 vị ở đây, lẽ ra là Thầy không tuyên bố nhưng vì Thầy thấy quý thầy có những cái phạm phải sai lệch nho nhỏ chưa phải là lớn, cho nên Thầy muốn nhắc ra để cho quý Thầy thấy được để mà lấy cái gương của huynh đệ mình mà tu vì những người đó đang làm được những cái điều này. Cho nên lấy những cái đó để mà thực hiện chứ không phải để đem ra để ca ngợi những người đó để làm gì, vấn đề là chúng ta còn đi nữa chứ không phải lấy cái đó mà làm cái chuẩn của chúng ta đạt được. Thí dụ như quý thầy được Thầy nói đến những cái điều mình làm, không phải lấy đó mà mình thấy rằng mình hơn mọi người, không phải, con đường mình đi đến giải thoát chứ không phải tới đó là dứt. Quý Thầy nhớ những điều này.

Người cư sĩ cần phải lưu ý có 4 hạng người sẽ mất phẩm hạnh khi chạy.

Bây giờ chúng ta là người cư sĩ, à là người tu sĩ, vì vậy mà chúng ta phải thấy rằng khi mà chúng ta chạy nhảy, coi chừng, tuổi trẻ quý thầy, tuổi trẻ hay chạy nhảy lắm cho nên vội vã một cái gì nó cũng sẽ làm mất phẩm hạnh của một người tu. Phật đem một cái ví dụ cho chúng ta thấy rằng có 4 hạng người mà không được chạy, nhảy một cách tự do như vậy được.

- Một:Là một nhà vua mão áo chỉnh tề, cân đai sáng chói mà chạy nhảy ắt sẽ mất phẩm cách của nhà vua. Một ông vua thì phải bệ vệ, ông vua như vậy chắc chắn không ai lại chạy nhảy như vậy, chắc ai cũng không tin là ông đó là vua của mình hết.

- Hai:Một thớt voi nai nịt đầy đủ, oai vệ mà chạy nhảy sẽ mất phẩm cách của thớt voi đó. Tức là đức Phật muốn nói ở đây là một thớt voi mà ra trận đó, nai nịt hẳn hoi mà con voi này chạy nhảy như những con voi rừng trong đó thì con voi đó không còn là phẩm cách của một con voi chiến trận nữa.

- Ba:Một nhà sư mà chạy nhảy sẽ mất vẻ khả kính của một tu sĩ.

Đức Phật cho chúng ta là, hiện bây giờ là các con là cư sĩ nhưng sự thật các con đã được học ở đây đương nhiên các con là những người tu sĩ chứ không còn là người cư sĩ nữa đâu, vì các con tìm con đường giải thoát, đi vào mục đích giải thoát thì các con không có lý do nào mà nói tôi còn là người cư sĩ nữa, nghĩa là các con lần lượt phải dứt bỏ các gia đình của mình, những người thân thuộc của mình để đi vào một lộ trình giải thoát để chấm dứt sự đau khổ sinh tử của mình, để hoàn toàn thực hiện được cái sự chấm dứt đó. Cho nên các con lần lượt là những người trở thành tu sĩ rất tốt của đức Phật sau này.

- Bốn:Một phụ nữ chạy nhảy sẽ mất phẩm cách, không còn đoan trang phong nhã nữa. Một người phụ nữa mà chạy nhảy như mấy chú con nít, hoặc như những người thanh niên thì không thể được. Vì một người phụ nữa phải đi đứng nhẹ nhàng, khoan thai thì người ta mới đánh giá trị của người phụ nữ đó, không khéo chạy nhảy như con trai thì chắc chắn người ta xem người phụ nữ đó không đoan trang, phong nhã.

Đức Phật lại dạy người phụ nữ khi về nhà chồng có 10 điều cần hiểu và giữ gìn.

Đây là đức Phật dạy, tất cả những cái gì mà ở trong gia đình của mỗi Phật tử thì đức Phật dạy sạch hết, không có cái nào mà không dạy. Vì vậy mà Thầy thấy dạy qua Thập thiện rồi, Thầy thấy cần thiết phải nhắc nhở những điều này, Thầy biết là nó lòng vòng. Các Thầy có ý nghĩ như thế này: Mình thì muốn đi ngay vào cái gì mà mình cần thiết như bây giờ phải nhập định, phải tịnh chỉ hơi thở cái này cái kia nó quan trọng, còn vấn đề này nó đâu quan trọng đâu. Nhưng nhiều người, người ta còn ở trong gia đình người ta, người ta chưa hiểu biết những cái gì mà đối xử với nhau hết, rồi mình nói Thập thiện suông không thì người ta cũng chẳng biết áp dụng như thế nào. Bởi vì cái hành động của người ta thường sống, đối xử nhau ở trong nhà người ta đâu biết làm sao mà thực hiện Thập thiện như vậy được, cho nên nói ra tất cả những hành động sống này để chúng ta còn biết áp dụng vào Thập thiện mà từ đó chúng ta mới có sự giải thoát được, từ đó hạnh phúc gia đình chúng ta mới có được. Rồi cũng từ nền tảng vững chắc này chúng ta mới trở thành một tu sĩ, mới có cách thức tu thiền định mới được.

Chứ bây giờ chúng ta nói cái này không cần thiết mà Thầy cứ giảng cái này nó luộm thuộm quá, nó nhiều quá thì cái đó mình hiểu rất cạn. Mà mình phải nhấn ngay vào cái chỗ từ cái đức hạnh, từ cái hạnh phúc của mọi người cư sĩ cho đến cái tu tập thiền định mà làm chủ lậu hoặc của mình cho đến rốt ráo thì tức là nó phải đi qua một quá trình, nó từng lớp một chứ không thể nào mà nhảy ngang xương. Vì nhảy ngang xương thì sau khi chúng ta tịnh chỉ được hơi thở, làm chủ được các hành, nghĩa là các hành ngưng, nhưng chúng ta sẽ bị lạc vào tà thiền chứ không thể nào mà Chánh đạo được vì cái tâm của chúng ta nó còn dính mắc, cái tâm chúng ta chưa được tịnh mà chúng ta cố ức chế nó để rồi làm những cái điều này thì chúng ta sẽ rơi vào tà thiền, chắc chắn chúng ta không phải là chánh thiền được, không phải là Chánh định được, mà nó là tà định.

Mặc dù là các Thầy có thể tịnh chỉ hơi thở, có thể ngưng đập, các hành ngưng nhưng mà tâm của quý vị chưa thanh tịnh tức là chưa xả bỏ các ác pháp và cái lòng ham muốn của quý vị thì chắc chắn là quý vị sẽ có những tà định rồi. Và từ đó bản ngã của quý vị sẽ to lớn theo cái sức thiền định của mình và các vị sẽ chạy vào danh lợi và sắc dục. Hầu hết có một số người tu mà không có nền tảng vững chắc này thì đã đưa họ đi đến cái chỗ sa ngã như chúng ta nghe vị giáo chủ này, vị giáo chủ kia họ tu tập một thời gian ở trong định có những sự vi diệu rồi từ đó họ đem ra họ phổ biến nhưng cái tâm dục, cái tâm ham muốn họ chưa sạch. Cho nên từ đó cái ham muốn đó bắt đầu họ khoe khoang, họ thực hiện những cái này mọi người thấy quá kính phục, từ đó họ bám theo vị Thầy này, từ chỗ đó vị Thầy này sẽ bị sa ngã. Thứ nhất là lợi, tiền bạc. Thứ 2 là dâm dục, chắc chắn là sẽ vợ hai, vợ ba, vợ 5, vợ 4 chứ không phải là một bà đâu.

Cho nên hầu hết cái sai lệch của các bậc giáo chủ mà không có tu cái tâm thanh tịnh, cho nên khi có thiền định, khi có chút ít thần thông thì bắt đầu từ đó bị rơi ngã hết, không còn giữ được phẩm hạnh của một người tu. Còn bây giờ chúng ta xây dựng một con người tu tập theo đạo Phật tức là chúng ta phải lấy cái phẩm hạnh của con người để diệt trừ cái tâm ham muốn, để xa lìa các lậu hoặc của nó, từ đó chúng ta đi vào thiền định vững chắc là chánh định không còn tà định nữa, bản ngã chúng ta không còn. Do đó chúng ta không còn say mê danh lợi và sắc dục. Thì như vậy chúng ta mới thoát ra khỏi cái vòng mà đau khổ, luẩn quẩn của sinh tử.

Ở đây đức Phật dạy người phụ nữ khi về nhà chồng.

- Thứ nhất,đức Phật dạy: Nếu con nhận thấy cha mẹ chồng hay chồng có chi lầm lỗi. Nghĩa là mình ở trong nhà mình thấy cha mẹ mình hoặc là chồng mình có những lầm lỗi thì không nên đem chuyện xấu trong nhà thuật lại cho láng giềng đầu này hay đầu kia. Đức Phật dặn cái người phụ nữa khi về nhà chồng thấy chồng mình hoặc là cha mẹ chồng có những lầm lỗi, bởi vì con người thì ai cũng phải có những lầm lỗi, mà mình thấy cái lỗi đó mình đem ra mình nói cho người này người kia biết ở trong xóm làng hoặc là cha mẹ ruột của mình thì làm những điều đó người ta khinh dễ cha mẹ chồng và chồng mình thì mình có xấu hổ không? Tức là mình xấu hổ, cho nên Phật dạy người phụ nữ khi về nhà chồng không nên đem chuyện lỗi lầm của cha mẹ chồng hoặc chồng mình nói cho người này biết, nói cho người kia biết. Bởi vì Phật nói không có lửa nào tệ hại như lửa này. Nghĩa là lửa trong nhà mình mà đốt ra ngoài đó thì không có cái lửa nào mà tệ hại như lửa đó, đức Phật đem cái ví dụ lấy cái lửa mà Thầy thấy quá tuyệt vời. Không có lửa nào tệ hại như lửa ấy.

- Thứ 2:Nếu có người láng giềng đàn ông, đàn bà nói xấu cha mẹ chồng hay chồng, không nên đem những lời phỉ báng ấy về lặp lại và nói rằng người nọ người kia nói điều xấu này hay điều xấu kia, xấu khác về gia đình mình. Nếu mà ở ngoài mình nghe được chỉ trích chồng mình hay là cha mẹ chồng thế này thế khác thì mình không nên đem về học lại cha mẹ chồng với chồng mình. Bởi vì đức Phật nói, không có lửa nào tệ hại như lửa ấy. Từ ở nhà người ta mình đem vô trong nhà mình để cho gia đình mình nghe người ta nói xấu tức vậy, đó thì cha mẹ mình, chồng mình tức giận với người ta lại gây hấn đánh lộn người ta, tạo nên những cảnh bất an cho xã hội, tạo nên cảnh rối loạn trong chòm xóm với nhau. Cho nên mình nghe, mình tìm cách thật sự cha mẹ chồng mình hay chồng mình có những lỗi đó thì mình tìm cách khuyên răn chứ mình không nói người hàng xóm đó họ chê cha mẹ mình như thế này thế khác. Do như vậy mà tạo cho gia đình của mình bất an liền tức khắc. Vậy mình phải dấu những điều này nhưng mình phải xét coi nó có đúng hay không, nếu không đúng tức là họ đã nói xấu cha mẹ chồng mình với chồng mình thì mình không chơi với những người đó nữa, tức là mình không đến với những người đó nữa.

Cho nên Phật dạy: Không có lửa nào tệ hại như lửa ấy, lửa ngoài đem vô đốt trong nhà mình để làm cho gia đình mình xào xáo, điều đó là cái điều rất xấu, rất tệ đó.

- Ba: Chỉ cho mượn những người nào mượn mà trả lại.Nghĩa là mình giúp đỡ người khác, mình cho người ta mượn nhưng những người đó phải trả lại, còn những người mượn mà lấy luôn thì không nên cho. Bởi vì đức Phật dạy bảo chúng ta như thế này Thầy thấy nếu mà cho cái người đó mượn mà họ lấy luôn thì cái sự kiện đó xảy ra thì cha chồng mình hoặc là mẹ chồng hoặc là chồng mình sẽ đánh mình, nói sao mình ngu quá vậy? Cái người đó là cái người mượn không trả mà cứ cho họ mượn họ lấy luôn làm sao, của mình làm bằng mồ hôi nước mắt. Cho nên đức Phật dạy: Người phụ nữ về làm dâu phải cẩn thận chỗ này, biết người đó mượn trả thì mình cho mượn, mượn mà không trả thì nhất định không cho mượn, vì mượn rồi đây mình sẽ bị sự bất an trong gia đình của mình, cái sự khổ sở, đó là cái thứ 3 đức Phật dạy.

- Thứ 4:Không nên cho mượn những người mượn rồi giữ luôn không trả lại. Đó là cái thứ 4. Như hồi này Thầy đã giảng rồi người mà cho mượn trả thì chúng ta cho mượn, mà người mượn không trả thì chúng ta không cho mượn, đó là phần thứ 4.

- Thứ 5:Những người thân bằng quyến thuộc, nghèo khó cần con giúp đỡ, con hãy giúp đỡ họ dù họ có ở trong vị thế có thể trả lại được hay là không được. Nghĩa là trong dòng họ mình, có những người mà họ quá nghèo khổ thì mình cần giúp đỡ họ, mình giúp đỡ họ không phải là đợi cho họ trả mình mà mình mới giúp đỡ vì đó là người thân trong dòng họ của mình, trong dòng họ chồng mình. Do vậy mình giúp đỡ họ thì những hành động giúp đỡ này mình cũng phải báo lại: ờ thì anh Năm, anh Ba, anh Tư hoặc chú Bảy, chú Tám gì đó đã nghèo khổ quá mà bây giờ mình có ăn dư thì mình giúp đỡ họ, họ có thì họ trả lại mình mà không có thì cho luôn họ, mình cũng báo cho gia đình mình biết như vậy. Con đã báo cho ba má như vậy bây giờ con mới giúp đỡ họ, vậy thì ba má hay chồng có bằng lòng không? Nếu bằng lòng thì mình mới làm, nếu không bằng lòng thì mình không nên làm là vì mình làm mà người ta không trả lại mình thì mình chịu trách nhiệm đó rồi cha mẹ chồng hoặc chồng mình sẽ đay nghiến mình.

Đó là những lời mà Đức Phật dạy người làm dâu về phải biết những cái điều đối xử này, nếu mà không biết đối xử này thì dòng họ bà con họ thấy bà dâu này về bà không bao giờ mà giúp đỡ cho dòng họ chút nào hết, bà về bà quản lý bà nắm hết tiền bạc mà không cho ai, hồi trước thì không có ai mình còn qua mình mượn mình này kia được, bây giờ có bà về hỏi bà bà không cho mình, như vậy càng ngày cái tiếng mình càng xấu và người ta không hiểu được, còn mình làm cái gì đâu nó chơn chánh như vậy. Thì những điều mà Phật dạy Thầy thấy quá là hay, cho nên Thầy mới ghi ra đây, tất cả để cho chúng ta hiểu biết được, mặc dù bây giờ không là những người tu hành rồi nhưng không cũng phải hiểu biết qua góc độ của người cư sĩ còn ở trong cuộc sống như mọi người khác mà phải biết cách đối xử như vậy mới đúng.

- Thứ 6: Ngồi một cách an vui.Nghĩa là mình ngồi trên một cái ghế hoặc nơi đâu đó mà tâm mình được an vui, thì như vậy ngồi an vui là như thế nào? Có nghĩa là khi thấy cha mẹ chồng hay chồng đến gần thì con phải đứng dậy để tỏ ra mình tôn trọng, chứ không nên ngồi yên đó. Thì đó mình ngồi mình yên ổn được, mình ngồi một cách an vui được thì tức là mình có lễ độ của mình sau khi người đó đi qua rồi thì mình nghe cái tâm nó an ổn, còn khi mình ngồi lì đó không đứng dậy chào những người đó, khi những người đó qua rồi thì ta thấy con dâu này sao nó không lễ phép gì hết: Cha mẹ đi ngang qua mà nó ngồi ì đó ra, nó không đứng dậy chút nào hết thì đó là cái lễ độ của một người phụ nữ khi về nhà chồng, đối với chồng cũng như là đối với cha mẹ chồng, có vẻ cung kính chồng, có vẻ cung kính cha mẹ chồng như vậy thì người ta thấy người ta rất thương mến. Còn mình ngồi ỳ không coi không ra gì hết họ đi đâu đi kệ họ thì người ta sẽ đánh giá trị mình là người thiếu cung kính. Đó là phần thứ 6.

- Thứ 7:Ăn một cách an vui. Ở đây ăn một cách an vui như thế nào? Có nghĩa là con không nên ăn trước cha mẹ chồng hay chồng mà phải coi dọn đầy đủ cho cha mẹ chồng và chồng rồi mới ăn. Nghĩa là mình dọn cái mâm cơm đó rồi nhưng mà cơm thì chưa xới, cái mình vô mình xới mình ngồi mình ăn, cha mẹ chồng cái chén không để đó. Thì như vậy là đức Phật nói mình ăn mà được ngon an vui thì tức là mình phải ăn sau và mình phải xới cơm cho cha mẹ chồng, rồi cho chồng, rồi mình bắt đầu mình mời mọi người, mọi người người ta cầm đũa người ta ăn rồi mình mới ăn. Tức là Phật muốn nói là mình ăn như vậy thì mình ăn một cách rất an vui. Còn mình vô mình xới mình mình ăn còn bao nhiêu người khác thì mình không xới thì như vậy mình ăn không an vui đâu. Đúng vậy, đức Phật dạy cái này Thầy thấy rất là hay vì trong gia đình chúng ta có những trật tự tôn ti như vậy nó làm cho bữa ăn rất là ngon ngọt, mà không có chuyện ăn uống mà không yên.

- Thứ 8: Ngủ một cách an vui.Đức Phật nói người làm dâu về mà ngủ an vui thì phải làm như thế nào mà mới được an vui? Có nghĩa là con không nên đi ngủ trước cha mẹ chồng và chồng. Con phải lo làm bổn phận của người vợ rồi mới nằm xuống ngủ. Tại sao vậy? Khi mình ngủ trước, cha mẹ vô ngủ sau thì ai xả mùng cho ông bà? Cho nên vì vậy mình ngủ có ngon không? Không có ngon đâu. Đó là phải ngủ sau, cha mẹ chồng ngủ rồi mình xả mùng này kia xong rồi thì tới chồng lên ngủ rồi, mình xả mùng rồi mình mới lên ngủ sau và như vậy là đâu đâu nó cũng ra đó. Còn mình ngủ trước chưa có xả mùng thì người chồng ngủ sau thì phải xả mùng thì như vậy là mình thiếu bổn phận làm vợ.

Do cái chỗ này mà đức Phật dạy không phải đây là tôi tớ, mà đây là nhiệm vụ và bổn phận của một người phụ nữ mà về nhà chồng phải làm những bổn phận đó, chứ không phải là người tay sai trong gia đình mà làm như vậy mình có vẻ cung kính người thân của mình, những người mình phải làm cho họ vui lòng để cho họ được an ổn, vì vậy mà những hành động này rất là thực tế cho cuộc sống để được đầy đủ hạnh phúc trong gia đình. Thời nay Thầy nói điều này Thầy thấy chắc chắn cũng khó lắm bởi vì hầu như mấy cô bây giờ họ không giữ được những điều này mà đem ra dạy những điều này mà các cô làm đúng, chắc chắn các cô sẽ được hạnh phúc. Vì mẹ chồng cha chồng ngủ mặc kệ chẳng bỏ mùng bỏ màn gì, ông bà ngủ thì ông bà có bỏ thì bỏ không bỏ thì thôi chứ mình chẳng cần, rồi đi chơi hoặc này kia với chồng, ở nhà không lo gì hết. Do đó những nàng dâu như vậy tức là những nàng dâu không xứng đáng theo những đạo đức và phong cách mà chính đây là đạo đức phong cách mà đức Phật đã dạy ra cho biết rằng người phụ nữ phải làm những cái gì mới đúng phong cách của người làm dâu, của người con ở trong gia đình. Mà làm như vậy tức là người con hiếu thảo đối với cha mẹ chồng thì cha mẹ chồng nào lại không thương người con đó, còn thương hơn con ruột của mình nữa chưa chắc con gái ruột của mình đã làm được những điều này.

- Thứ 9:Trông nom giữ gìn lửa. Nghĩa là mình trong nom giữ gìn lửa trong nhà của mình như thế nào? Phật dùng những danh từ khi mà nói mình không hiểu như thế nào hết. Bây giờ Phật giải thích cho chúng ta nghe: Có nghĩa con phải xem cha mẹ chồng và chồng như lửa, nghĩa là phải xem như lửa nếu mình gần lửa thì nóng, mà mình xa lửa thì không đúng. Cho nên mỗi khi có việc với cha mẹ chồng và chồng phải hết sức thận trọng. Nghĩa là có việc gì tiếp xúc này kia là mình phải hết sức thận trọng, thận trọng như thế nào? Như khi làm việc với lửa vậy, cho nên khi mà tiếp xúc với chồng hoặc là cha mẹ chồng của mình phải hết sức thận trọng, cái đó là cái sự giữ gìn lửa ở trong nhà mình. Không khéo thì một lời nói của mình vô tình đã làm buồn phiền cha mẹ chồng, chồng, cho nên rất là cẩn thận làm việc gì gần gũi cha mẹ chồng và chồng mình được xem như mình gần lửa. Nếu không khéo mình bị phỏng tay, mà sát quá thì bị nóng cho nên như thế nào nó mới bảo đảm được hạnh phúc của mình.

- Thứ 10:Tôn trọng các vị trời. Trong nhà đức Phật dạy người phụ nữ mà làm dâu phải tôn trọng các vị trời ở trong nhà, vậy các vị trời này là ai đây? Có nghĩa là con phải coi cha mẹ chồng và chồng như trời, nghĩa là coi như một bậc trời thì mới là hạnh phúc, chứ mình mà coi ông bà, chồng mình như là cỏ rác thì coi chừng mình không sống ở đó lâu đâu. Những lời mà đức Phật dạy như vậy, chúng ta khi ở trong gia đình, người con gái sắp sửa về nhà chồng thì chúng ta phải lấy 3 cái đức:

Đức nhẫn nhục, đức tùy thuận, đức bằng lòngthì chúng ta sẽ xem như là cha mẹ và chồng như trời. Còn nếu mà chúng ta không nhẫn nhục, không tùy thuận, không bằng lòng thì tức là chúng ta sẽ không có ở yên trong cái gia đình đó đâu. Cho nên thường là mẹ chồng hay nàng dâu hay là cãi cọ thế này thế khác đều là do chúng ta không giữ được nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng.

Ở đây Phật đem một cái ví dụ, cũng từ một đống hoa, người ta nhặt ra từng cánh hoa để làm thành một tràng hoa, cũng thế ấy chúng ta được làm người phải thu nhặt nhiều lần những hành động tốt mới thành người đức hạnh. Các con nghe câu tóm lược lại cái ý này trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta tu 10 cái điều lành này thì đức Phật ví như là từ ở trong một đống hoa rồi chúng ta nhặt từng cánh hoa rồi chúng ta mới kết thành một tràng hoa đẹp đẽ. Cũng thế chúng ta được làm người nhưng chúng ta chưa hẳn hoàn tốt tốt hẳn được vì vậy mà chúng ta hàng ngày phải thu nhặt nhiều lần những hành động thiện của chúng ta, hành động tốt của chúng ta thì mới thành một người đức hạnh, chứ không phải là đức hạnh ngay liền mà chúng ta làm được người đức hạnh liền đâu. Muốn làm được người đức hạnh, chúng ta phải nhặt từng hành động thiện, từ hành động thiện đó góp nhặt lại chúng ta trở thành người đức hạnh.

Đến đây quý vị đã hiểu biết được những điều mà người cư sĩ phải sống ở trong gia đình như thế nào để đúng cách.

Còn có một phần nữa là sẽ hết. Phần này là phần đoàn kết nhau ở trong gia đình cũng như ở trong những tập thể, thì cái phần này Thầy xin dạy tiếp. (BBT:CĐ,08A,00:35:00)

 

THẦY DẠY VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT

“Này các Thầy, các Thầy là những người từ 4 phương, kẻ ở tỉnh này, người ở tỉnh khác khắp cùng trong đất nước về đây tu học theo Thầy, cùng một giáo pháp của đức Phật. Cớ sao các Thầy lại tị hiềm, ganh ghét nhau, tranh tụng mạ lị nhau không kể gì đến anh lớn, em nhỏ? Lại luôn luôn tìm những khuyết điểm của nhau thay vì chỉ dạy cho nhau lại đem ra biêu xấu với người này, người khác thì còn gì đạo nghĩa con người? Thì còn gì là anh em một Thầy? Đánh nhau bằng kiếm lưỡi, miệng gươm, chẳng biết thương xót nhau chút nào. “Thố tự hồ bi”, con thỏ chết con chồn còn đau đớn khóc thương huống chi chúng ta là những con người, học đạo cùng Thầy, cùng đạo từ bi của đức Phật thế sao chúng ta không từ bi chút nào cả.

Bầu ơi thương lấy bí cùng,

Tuy cùng khác giống nhưng chung một giàn.

Này quý Thầy, quý Thầy không cùng một cha mẹ, một cha một mẹ sinh ra mà quý Thầy sống chung dưới mái Chùa, học chung cùng một đạo đức, cớ sao quý Thầy lại không thương mà nỡ tâm đem chuyện xấu biêu nhau cho người khác cười chê, xấu lá xấu nem, xấu anh, xấu em, vô tình mà quý Thầy đã hại lẫn nhau làm tai tiếng khắp vùng. Rồi người ta tự hỏi tại sao những người tu sĩ Phật giáo lại đấu tranh nhau, lại biêu xấu nhau, họ phân ra nhiều giáo phái, họ phân ra nhiều tư tưởng, họ phân ra nhiều pháp môn để rồi họ bài xích nhau, họ chống đối nhau chẳng tiếc lời, họ luôn luôn chà đạp lên nhau, giày xéo lấy nhau, họ bất đồng ý kiến, họ cho rằng chỉ có ta biết được điều này còn ngươi thì không biết, điều ta nói là đúng, điều người nói là sai, pháp môn ta tu hành là đúng, pháp môn ngươi tu hành là sai, điều ta hiểu là chơn chánh, điều ngươi hiểu là không chơn chánh…(BBT:BN,07,E01:32:07)(BBT:CĐ,08A,E00:37:35)

BĂNG SỐ 08

(BBT:BN,08,B00:00:00)Điều ta hiểu là chơn chánh, điều ngươi hiểu là không chơn chánh.(BBT:CĐ,08A,B00:37:36) Pháp môn này tu trước ngươi lại tu sau, pháp môn này tu sau ngươi lại tu trước, sai lầm rối loạn đảo lộn tất cả, không có pháp, không có phép tắc. Điều ta làm không tốt, điều ngươi làm không tốt đẹp. Điều ta làm tốt đẹp, điều ngươi làm không tốt đẹp. Những điều tự suy luận trên đây là kiến chấp.

Đó là những cái lý luận ở trên mà Thầy đã nêu ra, đó là những kiến chấp của mình, chấp cái kiến của mình, chấp cái sự hiểu biết của mình. Mà có kiến chấp tức là có ngã chấp, nghĩa là có sự chấp ý kiến của mình như vậy, cái hiểu biết mà như vậy tức là mình bị ngã chấp, mà đã có ngã chấp thì phải có hơn thua, tị hiềm. Chúng ta thấy từ cái chỗ ngã của chúng ta mà chúng ta biết được cái gốc nó thì chúng ta hãy cố gắng mà tu Định vô lậu để diệt ngã, xả tâm của chúng ta để chúng ta được giải thoát mà không còn hơn thua nhau nữa. Có hơn thua, ganh tị thì phải có nói qua nói lại, nói tốt nói xấu, đó cũng chỉ vì danh khen - chê của mọi người mà anh em cùng một nhà xâu xé nhau, từ đó tăng đoàn bị phân hóa thiếu đoàn kết. Anh em cùng một thầy một tôn giáo mà chia rẽ nhau.

Bằng chứng như chúng ta thấy tôn giáo của chúng ta thiệt là tan nát, không còn một chút nào hết. Cùng trong một Phật giáo mà kẻ đứng pháp môn này, người đứng pháp môn kia, rồi chỉ trích bài xích nhau. Thầy thấy mọi pháp môn của Phật dạy không có pháp môn nào mà xấu hết, người tu Đại Thừa cũng tốt, mà người tu Tiểu Thừa cũng tốt, người tu thiền Đông Độ cũng quý, người tu Tịnh Độ cũng quý, người tụng niệm, cúng cầu an cầu siêu cũng tốt. Tại sao vậy? Tại vì mọi cái đều là an ủi cho những người đau khổ, cho đời và chính cho mình nữa. Cho nên tất cả những cái này đâu có mà bài bác làm gì, vì mỗi góc độ, mỗi phước duyên của con người đều đứng trong góc độ đó mà thực hiện những điều tốt cho Phật giáo. Cho nên chúng ta thấy, chúng ta có đủ duyên tu tập đúng Giới luật, có đủ Thiền định làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi thì đó là phước duyên của chúng ta ở góc độ sâu hơn, cao hơn một chút. Chứ chúng ta có hơn gì họ, vì chúng ta cũng là một con người.

Họ chưa đủ duyên, chưa gặp được những bậc Minh sư, Thiền đức, cho nên họ tu còn ở ngoài. Nên vì vậy mà họ vẫn làm được những điều lợi ích cho xã hội. Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng vì cái tâm danh lợi của họ còn, cho nên họ vẫn còn ham thích, xe xua, sắm xe này, nhà kia, chùa lớn, tháp to. Nhưng họ cũng giảm bớt biết bao nhiêu cái sự ham muốn của họ. Và họ cũng giảm bớt biết bao nhiêu sự ác của họ, họ cũng nghĩ làm cái chùa lớn là để cho mọi người đến chiêm ngưỡng, vẫn thấy được tôn giáo còn mãi mãi, dạy cho họ bằng những bài kinh này bài kinh khác, viết ra những cuốn sách này, bài này là do Phật dạy như thế này như thế khác là để họ hiểu họ làm lành, họ lánh những điều dữ. Thì tất cả những điều mà một quý thầy đang làm đều có lợi ích cho xã hội, đều có lợi ích cho mọi người, giảm được góc độ này thì lợi ích được góc độ này thì họ đủ duyên ngày mai họ đi sâu hơn trên con đường của Đạo Phật để chấm dứt sanh tử luân hồi.

Cho nên chúng ta không nói xấu một người nào, không chê một pháp môn nào mà chúng ta hãy thấy rằng những pháp môn của mọi người đều là tốt cả, đều là của Phật giáo cả. Vì vậy mà chúng ta đoàn kết được trong huynh đệ của chúng ta, từ một ông thầy tụng niệm cúng bái cho đến một ông thầy học thức đỗ tiến sĩ, cho đến một người tu thiền định trong rừng núi, cho đến một người tu Tịnh Độ niệm Phật suốt ngày, đều là anh em của chúng ta cả, không có gì mà chúng ta chia rẽ họ.

Chúng ta hãy thương họ, chúng ta hãy giúp đỡ họ khi chúng ta có đủ khả năng giúp đỡ họ, cho họ thực hiện những gì họ mong muốn. Đừng bài bác họ, cũng như chúng ta thấy họ tu như vậy mà giữ gìn giới đức chưa được, thì đó là cái phước của họ, không nên lấy chỗ sai giới đức đó mà chỉ trích họ, làm cho họ buồn khổ hoặc là làm cho họ căm tức để rồi sanh ra chia rẽ, chẳng ích lợi gì cho Phật pháp mà càng đen tối thêm.

Ngoài mặt họ tùy thuận theo mình, nếu mình nói thế này thế khác thì ngoài mặt họ tùy thuận theo mình nhưng trong tâm họ chẳng mến phục mình, họ còn thầm khinh bỉ anh em trong nhà mình nữa, nghĩa là mình nói ra thế này thế khác hoặc chê cười pháp môn này pháp môn khác, tuy ngoài mặt họ tùy theo mình, họ ừ ừ hữ hữ vậy cho qua mình, hoặc họ luận theo cái chiều hướng của mình mà trong kinh điển của Phật dạy, những người mà không ngăn chặn những điều xấu của mình mà họ cứ tùy theo mình, ừ hữ theo mình để cho mình bộc lộ những điều xấu của mình càng lại xấu hơn thì những người bạn đó là những người xấu. Như Thầy đã giảng rồi thì các thầy thấy những người ngăn chặn mình là những người tốt, mà những người để cho mình nói xấu điều này thế kia họ cứ làm thinh hoặc là họ ừ hữ họ theo mình đó, đó là những người xấu. Vì vậy mà mình lầm lạc cái này đến cái khác, để rồi mình chỉ trích pháp môn này, trỉ trích pháp môn khác, rồi luận thế này luận thế khác. Mình thường sống mình để ý qua những lời Phật dạy: những người mà chê pháp môn này, pháp môn khác đó là những người xấu chứ không phải người tốt, họ xấu là vì họ muốn ca ngợi cái danh của họ, họ muốn làm cho họ tu pháp môn của họ hay cho nên họ dìm các pháp môn của người khác xuống để cho họ trở thành những giáo chủ có đường lối pháp môn tuyệt vời để mình tin mình theo. Nhưng khi mà người ta mở miệng ca ngợi pháp môn của người ta thì lúc bấy giờ chúng ta biết rằng những người đó là những người không tốt và là những người xấu. Như vậy thì chúng ta rất sáng suốt qua bài học này, chúng ta đã nhận được những cái đúng cái sai cho nên chúng ta chỉ biết âm thầm làm thinh không phê phán ai cả.

Xưa đức Phật cũng một lần vào rừng ẩn bóng, cũng chỉ vì chúng ta chia rẽ thiếu đoàn kết. Nghĩa là trong thời đức Phật có một lần trong mùa hạ đó đức Phật phải vào rừng ẩn bóng vì chúng tỳ kheo lúc bấy giờ họ đấu tranh nhau bằng miệng, bằng lưỡi của họ, họ không có đoàn kết nữa, cho nên đức Phật bỏ đi vào rừng mà nhập Hạ, An cư mùa hạ năm đó. Sau đó thì nhờ quý thầy lớn giải quyết được làm cho đoàn kết trở lại, rồi họ đến họ xin đức Phật trở về vì chúng tăng đã đoàn kết.

Cho nên Thầy nghĩ rằng, cái duyên mà Thầy ẩn bóng cũng là có một cái điều đau khổ nhất là đệ tử của Thầy, cho nên Thầy không muốn ở đây để người ta lại tạo thêm những cái tội. Khi nghe một người khác nói về Thầy bằng cách này, bằng cách khác, thì người ta phỉ nhổ lên Thầy. Thì lúc bấy giờ Thầy là người tu hành có giới đức thanh tịnh mà họ phỉ nhổ lên thì họ phải chịu lấy cái hậu quả đó cho nên rất là đau khổ. Vì vậy mà Thầy ẩn bóng thì họ lấy đâu mà phỉ nhổ thầy, cho nên họ thoát ra tội lỗi, và người đệ tử mà theo Thầy mà nói điều này thế kia thì họ cũng thấy Thầy ẩn bóng rồi thì có nói Thầy thế nào Thầy cũng không còn ở đó đón danh, đón lợi gì hết.

Bởi vì khi ẩn bóng thì mình đâu có chường mặt ra gặp ai đâu, mình có còn tiếp với tiền, với bạc, với danh với lợi nữa đâu. Cho nên dù vi tế hay là không vi tế đều là bỏ sạch xuống. Đương nhiên coi Thầy ẩn bóng là đã bỏ hết như người đã chết. Vì vậy mà danh lợi đối với Thầy thì nó không còn nữa. Khi đã ẩn bóng thì tức là không còn giáp mặt với danh, với lợi, với một cái gì rất nhỏ mọn. Cũng như bây giờ khi mà đức Phật đã thị tịch cách đây hai ngàn năm trăm bốn chục năm, bây giờ người ta có ca ngợi đức Phật cách gì thì đức Phật cũng đâu còn đón nhận những điều đó nữa. Hoàn toàn đức Phật đã trả lại cho tất cả mọi người. Vì thế mà hôm nay những ý nghĩ mà Thầy ẩn bóng là do các đệ tử của Thầy. Thầy đã thấy nó không hợp thời, không đúng lúc, đã làm biết bao nhiêu người tội lỗi khi họ không hiểu, họ phỉ báng, họ chê bai, hoặc họ ca ngợi Thầy một cách không đúng cách.(BBT:CĐ,08A,E00:46:39)

Thầy sẽ đọc lại bài kệ mà đức Phật đã dạy chúng tỳ kheo trong thời đó:

Các thầy phải kính thuận

Kiến lập về Phật pháp

Nghĩa là Thầy đã dạy những điều đức hạnh về Phật pháp thì quý thầy phải kiến lập nó thành một đường lối, đường lối lớn để cho mình bước đi ở trên đó.

Phải diệt chúng ma này

Chúng ma tức là chúng ma mà tranh chấp nhau đó, (BBT:CĐ,08B,B00:00:00)chúng ma mà bêu xấu nhau đó. Đó là Phật gọi là chúng ma đó.

Phải diệt chúng ma này

Như voi phá rừng lau

Sức con voi mà cái rừng lau thì các con biết cái rừng lau nó có nhằm nhò gì, phải chi cái cây lớn thì nó nhọc nhằn, còn đối với voi nó đi ngang qua thì cái rừng lau nó quét sạch hết. Thì các con biết đức Phật ví chúng ta phải quét sạch những cái bất hòa, những cái chấp kiến, những cái chấp ngã để rồi chúng ta hoàn toàn đi lệch lạc, đi sai lạc làm chúng ta đau khổ, làm chúng ta chia rẽ. Chúng ta phải dùng chính sức của mình mà phá nó như voi phá rừng lau.

Chuyên niệm chớ buông lung

Nghĩa là lúc bấy giờ chúng ta đặt niệm luôn luôn ở trong thân và tâm của mình, để giữ tâm không cho buông lung ra, không cho theo cái chiều mà ham muốn danh lợi khen chê đó nữa. Không có theo tình đời nữa mà phải là tình đạo.

Đầy đủ về tịnh giới

Tức là lấy giới luật của mình làm cho thân tâm mình thanh tịnh.

Tâm tịnh tự suy niệm

Tâm mà định được thì mình cố gắng suy niệm để quét sạch những điều sai đó.

Khéo giữ ý chí mình

Luôn luôn lúc nào mình cũng phải lập trường, ý chí mình rất vững vàng, không có để cho tâm buông lung, không có để cho mất đoàn kết, phải thương yêu nhau, phải giúp đỡ nhau. Đó là bài kệ thứ nhất.

Bài kệ thứ hai:

Nếu ở trong Chánh pháp

Những ai không buông lung

Thoát khỏi thân già chết

Dứt hẳn các gốc khổ

Nghe rồi phải siêng năng

Đó, bốn câu kệ trước thì đức Phật nói nếu mà mình thường sống ở trong Chánh pháp, tâm mình không buông lung thì mình sẽ thoát khỏi thân già chết của mình. Rồi dứt hẳn các gốc khổ. Đó là bốn câu kệ để chỉ định chúng ta phải sống đúng như vậy hoặc sống hòa hợp như vậy, an vui như vậy thì gốc khổ bị diệt mất và già chết chúng ta cũng thoát khỏi. Nghe rồi phải siêng năng, đức Phật căn dặn chúng ta đây.

Anh em phải hòa thuận

Như con cùng cha mẹ

Tránh xa lòng tỵ hiềm

Tránh xa nói xấu nhau

***

Để rồi thiên hạ cười

Anh em cùng một nhà

Tiếng tăm xấu vang xa

Anh xấu em cũng xấu

***

Chính mình tự giết mình

Chính mình làm suy đồi

Phật pháp không cửu trụ

Mất đi nguồn đạo đức

Thế gian sanh rối loạn

Nghĩa là mình làm như vậy là Đạo Phật sẽ bị mất đi, nó sẽ không còn mãi mãi, ba ngôi Tam Bảo sẽ mất đi thì thế gian này lấy đâu mà nương tựa để thực hiện đạo đức Nhân Quả, đạo đức không làm khổ mình khổ người. Cho nên chúng ta vô tình mà chúng ta đã làm Chánh pháp mất đi.

Vì vậy, vì sự như vậy mà người ta nhìn vào Tăng đoàn chúng ta chia rẽ nhau. Người học trò nói xấu thầy, người thầy nói xấu học trò thì đó là cái điều không phải. Cho nên ở đây thì tất cả chúng ta phải cảnh giác và thấy cho đúng. Để chúng ta sống cho đúng cái đạo thì chúng ta mới thấy được cái tu hành của chúng ta. Còn nếu mà không sáng suốt một chút, vì cái lòng nhỏ mọn của chúng ta, vì những sự xúc chạm về cái ngã, cái tự ái của chúng ta mà chúng ta đã làm suy đồi Phật pháp.

Đến đây các thầy cần phải suy ngẫm những lời dạy này để thực hiện đời đạo đức cho đúng cách. Dù là người Cư sĩ hay là Tu sĩ cũng phải siêng năng khắc kỷ mình, sống đúng Phạm hạnh của đạo Phật. Đó mới làm vẻ vang cho đạo.

Bây giờ Thầy dạy quý thầy trau dồi Tứ vô lượng tâm.

Lần sau Thầy sẽ tiếp tục dạy quý thầy trau dồi Tứ vô lượng tâm. Còn bây giờ thì hết giờ rồi chúng ta nghỉ.

Cái bài giảng vừa rồi Thầy nhắc lại để chúng ta nhớ. Đây các thầy cần phải suy ngẫm những lời dạy này để thực hiện đời - đạo cho đúng cách:

Là đệ tử của đức Phật dù Cư sĩ hay Tu Sĩ cũng phải khắc kỷ mình sống đúng Phạm hạnh của đạo Phật. Đó mới làm vẻ vang cho đạo.

Bây giờ Thầy giảng cho quý thầy trau dồi Tứ vô lượng tâm. Nhưng trước khi học trau dồi Tứ vô lượng tâm thì Thầy sẽ giảng: người cư sĩ cần phải cảnh giác. Vì ở đây là cái phần giai đoạn 1, là của người cư sĩ tu tập, cho nên chúng ta phải có sự cảnh giác. Rồi sau đó thì Thầy sẽ giảng về Tẩu nhập ma, là vì ở đây mình có trường hợp xảy ra, cái này rất cụ thể để chúng ta học những trường hợp để chúng ta cảnh giác, do đó nó không sợ bị lạc nữa.

Bây giờ Thầy sẽ tiếp tục lời cảnh giác, người cư sĩ cần phải cảnh giác như thế nào? Tuy chúng ta có hiểu biết, nhưng hiểu biết của chúng ta nó chưa có thâm sâu lắm, cho nên đôi khi chúng ta thấy cái thân của chúng ta, coi như chúng ta quý trọng chứ không phải không, nhưng mà rất xem thường thời gian qua của nó. Nó đưa cái thân của chúng ta lần lượt đi vào cảnh chết mà chúng ta không hay biết. Vì nó là cái vô thường diễn biến hằng ngày, nó thay đổi liên tục, cho nên chúng ta phải cảnh giác nó. Rất là cảnh giác chứ không khéo thì chúng ta sẽ bỏ mạng mà sau này không biết chúng ta có sanh lại làm người được hay không. Đó là cái rất là quý tiếc. Vì có thân người này mới có thể tu tập được. Còn nếu không có thân người này mà thân chúng sanh thì khó mà tu tập lắm, cho nên hôm nay chúng ta được cái quý báu là cha mẹ là người đại bố thí đã cho chúng ta được cái thân người và có trí tuệ hiểu biết, nhờ cái trí tuệ hiểu biết đó mà chúng ta biết được cái đúng, cái sai, cái ác, cái thiện mà chúng ta đã đoạn trừ hoặc là trau dồi để cho chúng ta được giải thoát hoàn toàn, chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Cho nên đây là một cái thân rất quý giá mà rất là khó, Phật đã ví chúng ta được thân người là khó như một con rùa mù ở giữa biển Đông rộng mênh mông như vậy mà tìm cái bọng cây thì quý thầy hiểu được cái thân chúng ta rất khó chứ không phải dễ, đừng xem thường nó rồi mất đi rồi không bao giờ tìm lại được, biết chừng nào mà chúng ta tìm nó. Hôm nay chúng ta đủ duyên phước được thành làm người, có thân người, có trí tuệ và có được chánh pháp của Phật thì đó là chúng ta đã đủ duyên và quý thầy cũng còn đủ duyên là gặp được một bậc có kinh nghiệm tu hành, một bậc chân tu hướng dẫn thì đó là cái phước báu vô lượng vô biên của quý thầy từ nhiều kiếp chứ không phải trong một kiếp hai kiếp đâu.

 

 

BA VỊ THIÊN SỨ

Bây giờ Thầy xin nhắc lại thường thường trong cuộc đời sống của chúng ta, chúng ta thường thấy những vị sứ giả báo tin cho chúng ta biết nhưng chúng ta không lưu ý điều đó cho nên chúng ta vẫn ham vui dục lạc, mà chúng ta quên 3 vị sứ giả đó.

- Một: Cái vị sứ giả thứ nhất là già. Người già tóc bạc, răng rụng.

- Hai: Là người bệnh đau đớn nhức nhối.

- Ba: Là người chết, sình trương hôi thối.

Ở trần thế quý thầy có thấy người nào già nua, đầu bạc, răng rụng, mắt mờ, da thịt nhăn nheo, lưng còng, chống gậy đi đứng lụm khụm, thân thể run rẩy, sức khỏe hao mòn. Ở đời thì quý thầy có thấy những hình dáng đó không? Chắc chắn là điều đó quý thầy đã thấy nhiều lắm rồi. Từ khi chúng ta sanh ra cho đến bây giờ, chúng ta đã thấy biết bao nhiêu là người già cả, biết bao nhiêu là người run rẩy, biết bao nhiêu là cái sự khổ đau của người già, đó là điều mà không thể chối cãi được.

Mà ở đây đó là một Thiên sứ để báo cho chúng ta biết cái sự đau khổ như vậy đó, để mà chúng ta cảnh giác chính bản thân mình. Vì hồi nãy Thầy có nói là được thân người rất khó, mà chúng ta không khéo để nó già như vậy, thì chúng ta khó mà tu. Cho nên Phật nói già là khó tu, bệnh đau là khó tu thế mà chúng ta không suy tư điều sâu sắc đó để mà chúng ta mượn cái thân người này, cái trí tuệ của con người này mà chúng ta vượt thoát ra biển trần gian, biển trần lao đau khổ.

Đó là Thiên sứ thứ nhất. Quý thầy phải tự biết đừng có tâm buông lung chạy theo thế tục, dính mắc ngũ dục lạc, phải chuyên tu Thập thiện, tu tập và rèn luyện về thân- khẩu- ý của mình, từ bỏ việc ác, thực hành các điều lành thì mới thoát khỏi cảnh khổ đau của kiếp người.

Do tâm buông lung tạo ác mà quý thầy phải chịu, không phải là lỗi của cha mẹ, không phải là lỗi của anh em, cũng không phải là lỗi của Thiên đế, cũng không phải là lỗi của Tổ tiên, cũng không phải là lỗi của hàng trí thức, cũng không phải là lỗi của đầy tớ, cũng không phải là lỗi của những bậc tu hành, mà chính quý thầy làm 10 điều ác nên chính quý thầy phải chịu tội lỗi đó. Đó là cái vị Thiên sứ thứ nhất báo cho chúng ta biết, đó là người già, lụm cụm, khổ sở như vậy và đồng thời cái đó không phải chính mình, không phải là chính ai mà làm cho mình khổ đó, mà chính mình buông lung, cái tâm của mình chạy theo ngũ dục lạc ham thích cho đến khi già yếu thì mới thấy được cái khổ đó.

Vị Thiên sứ thứ 2, quý thầy có thấy chăng đó là những kẻ bệnh tật, khốn khổ, nằm lăn lóc trên giường bệnh, thân thể lăn lộn trên phân, giải hôi thối, không thể đứng dậy được, ỉa đái một chỗ, cần phải có người đút cơm cho. Đau nhức từng lóng xương, nước mắt chảy dầm dề, không nói năng được. Quý thầy có thấy những người như vậy chăng, trong cuộc đời này? Chắc chắn điều này chính bản thân chúng ta cũng nhận ra được. Bản thân chúng ta có nhiều khi đau đớn nhức nhối, có nhiều khi chúng ta đứng dậy không nổi, có nhiều khi những người đau thần kinh tọa Thầy thấy cũng rất là khó khăn khi ngồi cũng như khi đứng. Đó là những cái mà chúng ta thấy rất khó. Rồi hiện giờ thì nhiều thứ bệnh chứ không phải một loại bệnh, cho nên bệnh rất là khổ. Chúng ta hôm nay mạnh ngày mai đau chúng ta đâu biết chừng. Cho nên hôm nay chúng ta làm chủ được cái thọ thì chúng ta không còn sợ bệnh đau nữa, tâm chúng ta sẽ bất động. Vì vậy mà chúng ta phải cố gắng mà tu tập. Tu tập làm sao làm chủ được cái già, làm chủ được cái bệnh, làm chủ được cái chết. Thì đó là một cái vấn đề quan trọng của kiếp con người, vì ba điều này nó vây quanh chúng ta, nó làm chúng ta quá khổ. Nhưng chúng ta quên đi, quên đi vì ngũ dục lạc cám dỗ chúng ta quá nhiều, cho nên chúng ta quên đi. Vì vậy mà chúng ta để mất thời gian rất lớn.

Vì buông lung quý thầy không tự biết nên không chịu tu tập về thân- khẩu- ý, từ bỏ 10 điều ác, thực hiện 10 điều lành nên phải chịu lấy những sự khổ đau này. Những sự khổ đau này không phải do ông bà, tổ tiên hay những người khác mà chính quý thầy tạo ra nó. Cái gì cũng do mình, nếu mình dừng tâm buông lung phóng túng, phóng dật mà chạy theo sự cám dỗ của ngũ dục lạc, thì chắc chắn là mình sẽ đình chỉ ở trong 10 điều ác, thì mình thực hiện được 10 điều lành, thì đem đến hạnh phúc và bệnh đau này chắc chắn không đến với mình.

Vị Thiên sứ thứ 3 quý thầy có thấy chăng?

Đó là một người chết mạng chung thân hư hoại, các giác quan đều diệt hẳn thân thể ngay đơ cũng như cây khô vứt bỏ ngoài gò mả cho cầm thú ăn thịt hoặc để trong quan tài dùng lửa thiêu đốt.

Đó là do tâm buông lung cho nên không tu tập về thân- khẩu- ý của mình, cải đổi 10 điều ác, tu tập sống theo 10 điều lành. Do vì thế quý thầy phải chịu khổ đau. Do tâm buông lung này chính quý thầy làm nên tội cho mình, chẳng phải cha mẹ anh em cùng tất cả những người thân quyến thuộc. Chính vì hành động ác của mình mà phải gánh chịu hậu quả khổ đau đó.

Đó là Phật nêu ra 3 vị Sứ giả để cho chúng ta thấy rằng luôn luôn lúc nào nó cũng nhắc nhở thì Thầy tin rằng trong cuộc đời chúng ta nếu không bước ra đường, chứ bước ra đường thì chúng ta sẽ thấy người già rồi người bệnh rồi người chết, chắc chắn là nhan nhản trước mắt của chúng ta, liên tục chứ không phải không.

Hằng ngày nếu mà chúng ta có dịp đi về thành phố thì không ngày nào không thấy xe chở quan tài có người chết. Và nếu mà chúng ta đến bệnh viện, nhà thương, thì chắc chắn chúng ta sẽ thấy biết bao là người bệnh đau khổ sở. Mổ xẻ, thấy mà ghê gớm, sợ hãi. Thế mà chúng ta không cảnh giác được mình, cứ nghĩ rằng cái thân này còn dài lắm, nhưng thời gian còn ngắn quá không có đủ cho chúng ta tu tập nữa.

Vì đó là những vị Thiên sứ nhắc nhở cho chúng ta, cho nên chúng ta hãy suy tư, ngẫm nghĩ, có thân người là quý, mất thân người biết bao đời tìm lại được. Vì suy nghĩ kỹ lưỡng, vì đắn đo kỹ lưỡng chúng ta thấy đời chẳng có gì hết, chỉ là nhân quả theo nhau mà vay trả chứ không có gì khác. Do đó chúng ta vứt bỏ xuống, để rồi chúng ta thực hiện được những gì để giải thoát chính mình, bứt những sợi dây xiềng xích, thoát ra khỏi cảnh đời đầy ô trược và đầy cám dỗ.

Hằng ngày, quý thầy thường thấy 3 vị Thiên sứ luôn nhắc nhở cho chúng ta thế mà có ai ngờ đâu đến chừng thọ khổ thì ôi thôi cuộc đời sắp tàn rồi, còn làm sao kịp nữa. Thầy xin nhắc lại bài kệ mà Thầy đã có lần đọc cho quý thầy nghe:

Tấc bóng thời gian một tấc vàng.

Tấc vàng dù mất còn tìm được

Tấc bóng thời gian khó hỏi han.

Đó quý thầy thấy bài kệ mà Phật đã nhắc nhở chúng ta từng chút thời gian, không nên phí nó. Nhưng chúng ta đừng vội vàng mà nông nổi, tu điên tu khùng làm cho rối loạn cơ thể thì điều đó là điều sai. Tu phải vừa với sức của mình, phải tùy theo khả năng của mình mà tu tập, chớ không phải nghe như vậy rồi vội vàng nông nổi tu liên tục không nghỉ ngơi, chúng ta có sức đâu mà chịu nổi vì vậy mà đưa đến những bệnh tật, tai nạn, có những cái khó khăn mà chúng ta không thể giải quyết được. Nếu vừa rồi không có Thầy ở đây thì Thầy Thiện Thuận gặp khó khăn có thể trở thành những cơn bệnh khó trị.

Tóm lại những bài giảng trên, Thầy đọc lại bài kệ của Phật:

Người ngu si mê muội.

Tuy đã thấy Thiên sứ

Tâm vẫn còn buông lung

Thấy đó nhưng tâm của quý vị còn buông lung chứ chưa hết đâu, biết đó là khổ đó, cho nên vì vậy mà tâm của quý vị còn mê muội lắm.

Tâm vẫn còn buông lung

Sanh vào chốn ti tiện

Thì ôm lòng sợ hãi

Hễ mình sanh nơi nào mà nghèo khổ, đói khát thì lo lắng, sợ hãi.

Thì ôm lòng sợ hãi

Thầy đọc lại 5 câu kệ trên:

Người ngu si mê muội

Tuy đã thấy Thiên sứ

Tâm vẫn còn buông lung

Sanh vào chốn ti tiện

Thì ôm lòng sợ hãi

Thầy đọc 6 câu kệ dưới:

Nếu người có trí tuệ

Khi thấy Thiên sứ đến

Liền gần pháp Thánh hiền.

Tâm không còn buông lung

Thấy thọ sanh thì sợ

Vì đó già, bệnh, chết.

Đây Thầy giảng, nếu người mà có trí tuệ khi mà thấy Thiên sứ đến thì họ rất sợ, họ liền đi tìm Phật pháp, họ đi tìm những Thánh hiền để mà họ gần gũi, để mà họ tìm cách vượt ra 3 cái vị Thiên sứ này, 3 cái sự nhắc nhở này, họ vượt ra 3 cái khổ này. Cho nên lúc bây giờ tâm họ không còn chạy theo dục lạc nữa, họ không còn buông lung, phóng dật nữa. Họ nghĩ họ thấy sự mà sinh ra làm một niệm sinh ra ở đây, thấy thọ sanh thì sợ, tức là thấy cái tâm niệm mình khởi ra ham muốn cái gì họ quá hoảng sợ, chính đó họ biết được, chứ không phải thấy thọ sanh là sinh đẻ đâu hoặc thấy người khác sinh ra mà mình sợ đâu, không phải, mà mình thấy mỗi tâm niệm của mình sanh ra một niệm gì đó mà nó chạy theo dục lạc nó phóng tâm ra, họ quá sợ hãi.

Vì đó già, bệnh, chết.

Vì cái tâm phóng ra mà chạy theo dục lạc đó nó đưa chúng ta đi đến già, bệnh, chết chứ không có gì khác hơn hết, phải hiểu cái câu này thì quý thầy thấy rõ từng cái tâm niệm của chúng ta mà phóng ra rồi chạy theo cái dục lạc, ngũ dục lạc, dính mắc ở trong đó, nó tạo chúng ta già, bệnh, chết chứ không phải sung sướng hạnh phúc gì hết. Đó là cái ý của Phật muốn dạy để chúng ta thấy rõ được. Cho nên người trí thấy thọ sanh, thấy những cái sanh ra để mà thọ hưởng, thọ là thọ hưởng mà nó sanh ra để thọ hưởng cái dục lạc đó thì họ sợ lắm. Cũng như bây giờ mình ăn miếng ăn này rồi, mình còn sanh ra cái tâm muốn ăn lần nữa thì đó là thọ sanh ra đó, muốn thọ dụng trở lại nữa đó, thì đó là cái nhân mà già, bệnh, chết, nó làm chúng ta đau khổ.

Không thọ sanh giải thoát.

Câu kệ dưới thì Phật dạy: Không thọ sanh giải thoát. Nghĩa là mình không có sanh ra những cái niệm để chạy theo cái thọ dục đó thì mình được giải thoát.

Hết sanh, già, bệnh, chết

Thì từ đó sanh, già, bệnh, chết không còn nữa. Người đó được an ổn.

Thầy đọc lại:

Không thọ sanh giải thoát

Hết sanh, già, bệnh, chết

Người đó được an ổn

Hiện tại sống vô vi.

Chữ vô vi ở đây của Phật không có nghĩa là ngồi đó mà lặng lẽ, mà ở đây ngồi đó mà hoàn toàn chúng ta sống không phóng cái tâm mà thọ sanh theo những cái dục lạc, cho nên gọi là vô vi. Tâm thanh thản không có ham muốn, không có sợ hãi, không có buồn phiền, đó là cái tâm vô vi chứ không phải vô vi ở trong cái trạng thái vô vi như người ta hiểu thì nó không đúng cái nghĩa của Đạo phật, cái đạo Phật mà không dính mắc một cái gì của ngũ dục lạc thì đó là cái tâm vô vi.

Đã vượt qua lo sợ

Chắc chắn đạt Niết Bàn.

Thầy đọc lại 6 câu kệ này:

Không thọ sanh giải thoát

Hết sanh, già, bệnh, chết

Người đó được an ổn

Hiện tại sống vô vi

Đã vượt qua lo sợ

Chắc chắn đạt Niết Bàn.

Đó là cái phần mà cảnh giác để chúng ta nhắc nhở hàng ngày tâm niệm, không phải hiện giờ mà chúng ta giải quyết cuộc sống của người cư sĩ, không phải hiện giờ mà quý vị giải quyết ngay được liền mà quý vị có được hiểu biết như vậy để quý vị chuẩn bị cho con đường hướng tới của mình để cho mình sắp xếp mọi bổn phận của mình làm xong.

Bởi vì cuộc đời mình trước kia mình chưa có đủ duyên gặp Phật pháp sớm, chứ nếu gặp Phật pháp sớm mà khi nghe được cái giáo án này thì Thầy tin rằng chúng ta không lập gia đình, chúng ta không bước thêm một bước nào nữa để cái sức của chúng ta còn thanh niên trai trẻ, chúng ta dồn hết sức tu tập thì may ra chúng ta được làm chủ cái sống- chết của chúng ta, làm chủ được sự tái sanh luân hồi. Còn bây giờ có quý vị thì nhiều quý vị đã lớn tuổi rồi nhưng gia thế bề bộn, vợ con còn nhiều bổn phận phải lo toan, không thể nào dứt bỏ được cho nên không phải vội vàng mà hãy làm hết bổn phận của mình, chứ không phải nghe bài này rồi về vứt bỏ đó, mặc nó làm sao làm, đói khát, thì như vậy chúng ta chưa trả trọn nhân quả thì dù chúng ta muốn ngồi trong một nơi thanh vắng, độc cư tu hành, chắc chắn điều đó không thể thanh tựu được mà phải giải quyết cho tâm chúng ta hoàn toàn an ổn.

Vì bỏ đi mà thấy cả một vấn đề đời sống của bao nhiêu người vì mình mà họ phải khổ, nếu không có mình thì làm sao họ có con cái, có nhà cửa, có tư riêng như thế này, để bây giờ bỏ ra mà đi thì không đúng cách bổn phận của người cư sĩ. Vì Phật đã dạy: Không làm khổ mình cũng không nên làm khổ người, nghĩa là mình muốn tu giải thoát nhưng mình phải làm sao mọi người xung quanh mình, những người mà gọi là thân thương của mình đừng khổ đau. Chứ không phải mình muốn giải thoát mà mình làm bao nhiêu người thương nhớ, bao nhiêu người khổ đau và bao nhiêu người nhờ mình mà trong cuộc sống mới an ổn, rồi mình bỏ ra đi để cho những người đó đói khát, nghèo khổ thì trách nhiệm của mình chưa xong, nhân quả của mình chưa trả được. Vì vậy mình hãy sắp xếp và lo toan mọi mặt để làm sao cho an ổn. Nếu quả nhiên cái nhân mình chưa tu được mà mình sắp xếp được như vậy thì kiếp sau mình vẫn tiếp tục tu được mà tu tốt, tu đúng vì Phật dạy đừng làm khổ mình, đừng làm khổ người. Do cái nhân không làm khổ người nó không còn nghiệp oan trái, còn có cái nhân làm khổ người còn cái nghiệp oan trái mà phải trả kiếp này đến kiếp khác. Do vì giải quyết nó ổn thỏa, thấy được con đường sáng của Đạo, cho nên chúng ta không làm khổ ai. Do một trường hợp Thầy đã thấy có những người cư sĩ ở Hà Nội, họ quá thích tu tập để tìm lấy sự giải thoát của Đạo Phật, họ bỏ cả chồng con, họ đến đây, cả gia đình họ rất là đau khổ vì con thì thương mẹ, chồng thì nhớ vợ.

Nếu một người mà đã quyết tâm theo Đạo Phật, theo đúng cái giáo án mà Phật đã chỉ dạy thì không bao giờ làm khổ gia đình, làm khổ người khác.Vì ngày xưa Đức Phật vì không có đường lối tu tập cho nên Ngài thấy người tu hành là giải thoát, do đó Ngài mới bỏ cha mẹ, bỏ vợ con mà đi tìm con đường giải thoát để thoát ra khỏi 4 điều kiện khổ đó là sanh, lão, bệnh, tử. Do vì vậy mà sau này Ngài đã vạch ra một lối đi, cái đường đi để chúng ta không làm khổ mình, khổ người. Cho nên trong kinh điển của Phật, Ngài nhắc rất nhiều cái vấn đề này. Là một người tu không được làm khổ ai hết, chứ không phải mình muốn tu rồi mình làm khổ cả gia đình của mình thì như vậy không đúng đường lối của đạo Phật. Vì bây giờ đã có đạo Phật, còn trước kia chưa có đạo Phật mặc dù cái lời khiêm nhượng của Đức Phật Thích Ca nói trước Đức Phật có 7 vị Phật ở quá khứ, nhưng sự thật nếu có Đạo Phật ở quá khứ thì phải có một lối đi, phải có vị giáo chủ hẳn hoi thì Đức Phật đâu có lầm lạc mà đã làm cho gia đình mình khổ sở như vậy. Cha mẹ thì thương con, còn vợ thì thương chồng, con mới sinh ra còn chim chích, cái bổn phận đó là cái nghiệp báo. Tại sao chúng ta đã đào tạo nó ra mà chúng ta bỏ nó bơ vơ như vậy? Nếu là con của vua, cháu của chúa thì nó an ổn ở trong cái sự giàu sang, còn nếu một người mà nghèo đói thì thử hỏi một người vợ làm sao nuôi đàn con được? Có phải khổ sở để cho ai đây? Ai đã tạo ra cái nghiệp này để cho người ta gánh chịu. Đạo Phật không chấp nhận cái sự tu hành như vậy. Cho nên Đức Phật sau khi tu hành thấy không phải cái điều đó là đúng, điều mà bỏ đi là đúng, mà cái điều phải làm sao từ cái bước chân như thế nào để thực hiện đúng cái đạo giải thoát, giải thoát cho mình và giải thoát cho người, đem lại hạnh phúc cho mình, đem lại hạnh phúc cho người. Cho nên Thầy từng dạy quý thầy là làm sao sau khi chúng ta tu hành để được giải thoát hoàn toàn thì phải giải quyết cả mọi mặt trong cuộc sống của chúng ta. Vì thế chúng ta mới được cái tâm an ổn, chúng ta mới rèn luyện trau dồi, tu tập, dứt bỏ. Còn nếu không được an ổn mà ở trong một cái cảnh rối ren dứt bỏ đi, tâm hồn chúng ta có ở chỗ yên lặng đó mà tu tập được không? Chắc chắn là không được.

Hiện giờ chúng ta có những vị làm trụ trì. Nhưng vì nhiệm vụ làm trụ trì hiện giờ nó không phải là nhiệm vụ tu, cho nên chúng ta lăng xăng với vấn đề cúng bái, tụng niệm hoặc sửa sang chùa tháp luôn luôn, làm sao chúng ta tu hành được? Cho nên chúng ta muốn giải thoát thì chúng ta phải dứt bỏ, trở thành một du tăng khất sỹ không còn danh, không còn lợi, không còn một vật chất gì đeo đẳng bên chúng ta thì như vậy chúng ta mới tu được.

Nhưng chúng ta phải biết tình cảm chúng ta có. Mọi người đối với chúng ta có tình cảm. Chúng ta phải làm sao dứt cái tình cảm đó mới được. Nếu mà khi người ta có tình cảm với mình, mình dứt bỏ thì người ta đã đau khổ, mà đạo Phật không chấp nhận làm cho người khác đau khổ.

Đó là hôm nay Thầy nhắc lại vì cái sự hiểu lầm lạc mà người ta đã theo đạo Phật mà vẫn làm khổ.

Cái lầm lạc thứ hai nữa.Đó là người ta thất tình, thất vọng. Người ta đau khổ ở trên cái chuyện lận đận danh lợi. Người ta làm không kiếm ăn được. Hoặc là người ta bị vợ, bị tình nhân xua đuổi hoặc là bạc đãi, bạc tình. Người ta quá đau khổ rồi đi vào chùa tu tập để tìm lấy con đường giải thoát. Thử hỏi những người đó làm sao giải thoát được. Chẳng qua chỉ là mượn câu kinh tiếng kệ, mượn nơi thanh vắng để vơi bớt nỗi phiền muộn của mình, vơi bớt nỗi tham vọng mà mình đạt không được mà thôi. Đó là cái sai, bởi vì cái đúng của đạo Phật là nhìn thấy cuộc đời thật khổ. Sanh ra muôn người ai cũng nằm trong bốn cái khổ. Cái khổ đó là gì? Là ai có thân cũng phải bệnh, mà bệnh là khổ. Ai có thân cũng phải chết, thì chết là khổ. Ai có thân cũng phải già, mà già là khổ. Cho nên trong bốn cái khổ đó chúng ta mới khắc khoải làm sao thoát ra bốn cái khổ đó.

Thì nguyên nhân thoát ra bốn chỗ khổ đó nó không phải ở chỗ thiền định mà ức chế tâm của chúng ta. Mà chính nguyên nhân đó đức Phật đã chỉ cho chúng ta là lòng ham muốn của chúng ta nó mới tập khởi tất cả những điều khổ, nó mới sanh giŕ bệnh chết. Cho nên mục đích của chúng ta là làm sao diệt tâm ham muốn, làm sao mà diệt ác pháp, từ đó chúng ta mới thấy được cái chỗ mà giải thoát. Cho nên đức Phật mới nhắc nhở chúng ta như thế này:

Có người hỏi: Khi đức Phật tịch thì đức Phật còn hay mất?

Đức Phật nói đó là cái pháp ta nói không dứt khoát. Tại sao vậy?

Hay nói một người mà khi chết đi rồi cái linh hồn đi về đâu đó. Thì đó là pháp đức Phật nói không dứt khoát. Còn cái pháp đức Phật nói dứt khoát như thế nào để chúng ta biết?

Đức Phật hỏi như thế này: Nếu có một cảnh giới Thiên đàng, một cảnh giới Niết bàn thì chắc chắn phải có người đến đó. Vậy thì người ta nói cảnh giới đó an lạc như vậy thì đã có ai đến đó hay chưa? Chưa.

Chưa có người nào mà trả lời dứt khoát đó là cảnh giới Cực lạc, là cảnh giới Thiên đàng. Chưa có một ông giáo chủ nào mà trả lời được rằng tôi đã đi đến đó, bây giờ tôi về hoặc là tôi chứng nghiệm ở đó. Chưa có ông nào hết.

Nhưng đức Phật dạy chúng ta thấy cảnh giới Niết bàn đức Phật chứng thật và dứt khoát là tâm chúng ta hết dục, hết ác pháp thì ngay đó là Niết bàn.

Cho nên vì vậy mà đức Phật nói chúng ta có Ngũ triền cái, năm cái triền cái tức là: tham, sân, si, mạn, nghi. Năm cái này mà quét sạch ra thì ngay đó là Niết bàn. Cái chỗ này là cái chỗ dứt khoát mà chúng ta tới đây là chúng ta đạt được liền.

Mà đức Phật còn ví dụ một điều ác mà chúng ta giảm xuống thì điều thiện được tăng lên. Từ điều thiện tăng lên nó làm cho chúng ta có một sự an ổn ở trong đó.

Cũng như bây giờ có người chửi mình mà mình không chửi lại họ thì ngay đó có sự an ổn cho tâm hồn của mình. Nếu mà mình chửi họ, họ chửi mình, mình đánh họ, họ đánh mình thì thử hỏi cái cảnh giới đó có phải đem đến sự đau khổ triền miên không?

Đức Phật nói một điều mà mình nhẫn nhục họ thì tức là đem lại cho mình một sự thanh bình trong tâm hồn của mình. Thì cái này thực chất rõ ràng là cảnh Niết bàn của chúng ta từng chút một, chứ không phải cảnh Niết bàn là một cảnh giới ở đâu sẵn sàng để chúng ta về đó.

Cho nên cái mục đích ở đây chúng ta tu thiền định là tâm thanh tịnh chớ không phải tâm ức chế. Vì tâm ức chế nó sẽ đưa chúng ta đi vào những sự…

Cho nên ở đây Thầy xin nhắc lại quý thầy là Thầy đã dạy quý thầy hai cái định. Đầu tiên để cho quý thầy thấy được cái sự tu tập thiền định của Phật đó là cái định CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC định và cái định VÔ LẬU ĐỊNH, là 2 cái định để quét sạch tâm tham sân si mạn nghi, để chúng ta quét sạch Ngũ triền cái của chúng ta. Thì 2 cái định này nó làm cho tâm quý vị thanh tịnh. Từ cái chỗ thanh tịnh đó quý vị bước thêm một cái loại thiền định nữa để quý vị làm chủ cái sự sống chết của quý vị. Đó là cái định hiện tại an lạc trú. Nó chỉ cần dùng cái tâm thanh tịnh đó mà dùng pháp hướng, Phật dạy là Như lý tác ý, mình muốn trong khi tâm mình tịnh rồi, mình muốn cái gì thì mình tác ý nó ra thì cái đó nó sẽ đạt được, thì trong kinh điển của Phật dạy, muốn đạt được những điều đó, thì chúng ta theo cái lý mà tác ra. Bây giờ Phật dạy như muốn nhập 4 thiền, thì mỗi thiền đều phải nương vào hơi thở, chứ không phải cái hơi thở là thiền định mà cái hơi thở là lộ trình để chúng ta nhập được 4 thiền này và mục đích của Đạo Phật là ngưng các hành ở trong thân của chúng ta mà trong thân chúng ta nó có 3 cái hành: Khẩu hành, thân hành và ý hành, cho nên phải ngưng 3 cái hành này thì chúng ta mới nhập được định. Do tâm thanh tịnh mới điều khiển, dùng Pháp hướng mà điểu khiển Như lý tác ý.

Bây giờ cái hơi thở đang thở bình thường như thế này, chúng ta muốn chậm nhẹ để cho đến khi nó ngưng nghỉ, Phật nói thân hành là hơi thở mà hơi thở ngưng nghỉ thì mới nhập định được Tứ thiền. Do đó chúng ta hiểu biết được cái lời nói này, vì vậy chúng ta dùng cái tâm thanh tịnh, không tham – sân – si này mà chúng ta điều khiển, chứ không phải chúng ta ngồi ức chế, chứ không phải chúng ta ngồi lặng trong trạng thái hỷ lạc, mà chúng ta nhẹ nhàng điều khiển nó ở trong hơi thở của chúng ta, vì đó là lộ trình để mà chúng ta nhập 4 thiền, chứ không phải hơi thở là thiền định.

Còn các Thầy ngồi thiền định mà các thầy cứ nương hơi thở mà thiền định thì chẳng có đi tới chỗ nào hết.Do vì vậy mà nó càng ngày nó càng mất thời gian tu tập và kết quả đạt đến là cái hậu quả, tai họa rất lớn, mà sắp tới đây Thầy sẽ giảng về cái loại tẩu nhập ma, người ta không hiểu, người ta tưởng đó là ở bên ngoài nhập vào, nhưng vì chúng ta quá ức chế, làm cho thân tâm chúng ta rối loạn, rồi bắt đầu những cảm giác xảy ra, làm chúng ta không còn sức tự chủ, bị cơ thể rối loạn nhất là về hệ thần kinh, lúc bây giờ chúng ta trở thành như người điên khùng, chứ không phải vì gì khác hơn hết. Cho nên con đường Đạo Phật mà người nào biết mà tu đúng thì không bao giờ có sự kiện đó xảy ra. Tại vì từ tâm thanh tịnh, không tham – sân – si, ăn uống nữa. Do đó người ta mới vận dụng Pháp hướng Như lý tác ý ra, bắt buộc các hành tuần tự chậm và nhẹ cho đến khi ngưng nghỉ hoàn toàn ở trong ý thức chứ không phải ở trong tưởng thức. Vì vậy mà người ta làm chủ bằng cái ý thức chúng ta đang có. Rồi đây quý thầy sẽ thấy được, cái chỗ nào là cái chỗ mà trong thân của chúng ta để thể hiện cái hoại ma này, để rồi Thầy sẽ giảng tới, quý thầy sẽ thấy.

Bây giờ Thầy xin nhắc lại vì trường hợp ở trong Tu viện của chúng ta, có những sự việc nó xảy ra là Thầy Thiện Thuận trong khi tu hành Thầy cũng hết sức năng nổ tu hành, Thầy không phải là người mà tu chơi, Thầy cũng quyết đem hết cái sức của mình để làm chủ sanh tử, để chấm dứt cái đời sống thế gian đau khổ này. Cho nên khi về đây được Thầy chỉ dạy Pháp hướng, thầy rất mừng là thầy đã thấy có hiệu quả, thầy điều khiển hướng tâm tới đâu thì có kết quả tới đó, thầy bảo nó ngưng là nó ngưng, thầy bảo như thế nào nó nghe như thế nấy. Cho nên qua những lần trình bày với Thầy thì Thầy thấy thầy là một người nhiệt tâm tu hành, tuy rằng không được ở gần Thầy nhưng dù xa Thầy, chỉ có 1 lần học hạ ở đây biết Thầy rồi từ đó về mà nỗ lực tu tập, tự tu tập lấy. Cho nên cái nhiệt tâm tu hành như vậy mà được gặp cái Pháp hướng thì chắc chắn phải có sự hiệu quả của nó rồi.

Nhưng vì thời gian rất là bề bộn, công việc rất là nhiều cho nên Thầy không kiểm tra thầy được chặt chẽ. Cho nên một đêm đó thì thầy có một sự kiện xảy ra, bây giờ xin thầy Thiện Thuận trình bày cái sự việc đó để cho quý thầy rút kinh nghiệm trên bước đường tu tập của mình, để tránh khỏi những hậu quả không hay cho bước đường tu. Vì thân tâm chúng ta là bộ máy rất quý, nếu lỡ cái bộ máy đó hư hoại thì khó mà sửa một máy móc nào, trong cái hiện tại này cũng có thể sửa chữa được. Nhưng về phần máy con người, nếu mà về hệ thần kinh thì chắc chắn rất là khó, nếu mà nặng thì kể như chúng ta bị suốt đời tàn tật, trở thành người điên khùng, không thể nào cứu chữa được. Mà hầu hết trong đất nước của chúng ta hiện giờ có nhiều người tu sai, bị nhưng âm thầm chịu đựng trong đau khổ của mọi gia đình, của người thân của họ. Biết con mình tu sai nhưng bây giờ nó điên thì họ cũng chẳng biết đổ thừa ai được hết, nhưng trách nhiệm đó là của ai? Thầy xin báo rằng trách nhiệm đó là của những người tu hành chưa tới, chỉ lấy Phật pháp hoặc lấy những cái điều sai lệch mà tự nghĩ ra để dạy người, để đưa người ta đi đến chỗ chết đau khổ như vậy. Cái lỗi đó là lỗi của các bậc tà sư ngoại đạo, không am hiểu được Phật pháp, không am hiểu được pháp của mình, chỉ tưởng tượng ra qua kiến giải mà tạo nên những con người dở chết, dở sống. Những người đó đã tạo ra con đường đi để cho bao nhiêu người mất cả thời gian, bỏ vợ, bỏ con rồi đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, điên chẳng ra điên, khùng chẳng ra khùng, ở ương ương gàn gàn, đụng đâu cũng bài bác, đụng đâu cũng kích bác người ta thì đó là cái tai họa rất lớn cho đạo Phật hiện giờ. Chúng ta chẳng biết làm sao chỉ còn biết âm thầm...(BBT:CĐ,08B,E00:37:45)

***

 

 

Nhường lời lại cho Thầy Thiện Thuận:(BBT:CĐ,08B,B00:37:46)

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch Thầy Bổn Sư, Viện Chủ Tu Viện Chơn Như!

Kính thưa quý Thầy và toàn thể đại chúng!

Con là Tỳ kheo Thích Thiện Thuận, trụ trì chùa Hiệp Thành, ở xã Tân Hiệp, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.

Trong mùa an cư năm nay, con đã đủ duyên lành về đây để tu học thiền định với Thầy. Vì mùa hạ năm nay là mùa hạ cuối cùng để Thầy đi ẩn bóng. Cho nên chúng con hết sức cố gắng tu tập năng nổ để đền đáp lại công ơn trời biển của Thầy. Hôm nay nhân ngày thuyết giảng đạo, được sự chấp thuận của Thầy Viện chủ đồng ý cho phép con được trình bày lên đại chúng về kết quả tu tập trong một tháng qua và cũng kể lại phương pháp trị liệu về vấn đề tẩu hỏa nhập ma mà vừa qua con đã bị. Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm, cũng có nói về Ngũ ấm ma.

Đồng thời cũng nói lên những nguyên nhân bị xảy ra hiện tượng này để chúng ta rút kinh nghiệm tu tập và giúp người tu sau này tránh được tình trạng nguy hiểm ấy.

Bây giờ chúng tôi xin nói về kết quả trước trong thời gian 33 ngày qua. Hiện giờ đây, trong người của chúng tôi, coi như đã làm chủ được hơi thở, nghĩa là tịnh chỉ được hơi thở, muốn hơi thở chậm thì chậm, muốn nhẹ thì nhẹ, mà muốn ngưng là ngưng. Cái thứ 2 là tịnh chỉ được các hành, nghĩa là muốn cho hành hoạt động là cho, mà muốn ngưng vận động là ngưng. Cái thứ 3 là làm chủ được giấc ngủ. Nghĩa là hiện giờ muốn ngủ thì chỉ cần ám thị biểu ngủ là nó ngủ thôi và đồng thời không có chiêm bao. Tại sao lý do nào mà không có chiêm bao? Nguyên nhân là cho cái thằng ý thức canh giữ hơi thở rồi cứ ám thị cho thân ngủ thôi, từ chỗ đó ý thức của chúng ta nó thức hoài, muốn thức giờ nào thì thức thôi.

Xin lỗi vì tịnh khẩu cả tháng nay cho nên nói chuyện nó không được trong. Và hiện giờ đây, thì cũng nói luôn cái trạng thái hiện giờ để cho chúng ta có kinh nghiệm trước. Hiện giờ đây sau khi trải qua cái cơn mà dừng các hành thì có những cảm giác là lạnh toàn thân, sau cơn lạnh đó nó ấm trở lại, nhiều cái đợt mà ngồi thiền riêng túc thì nó có một trận gọi là đau nhức thân trở lại, nghĩa là phá cái thọ lần thứ 2. Bởi vì trước kia, sau khi mình bước vào cái đoạn mà Nhị thiền lên Tam thiền là mình phá cái thọ trước, mình chấp nhận cái đau, trận đau dữ tợn trước, cái đó là cái đau. Còn qua một trận thứ 2 nữa đó là hiện giờ sau khi mình đã qua được những cơn lạnh, nóng xong thì đến một cơn đau nhức thứ 2 nữa. Nghĩa là tê nhức, nó cũng dữ dội như lúc ban đầu. Sau nhiều lần ngồi thiền nữa, thì một trận cuối cùng để hết đau nhức thì hơi thở nó mới tống lên để cái huyệt đau ở sau lưng là nó sẽ thông suốt, nó thông cái rất là nhẹ. Rồi hơi thở coi như không còn thấy thở nữa, rồi tiếp tục nó đưa lên huyệt ở trên đầu, thông luôn ở trên đầu, rồi sau đó thì chúng tôi mới xả ra, xả ra để đi kinh hành, đi kinh hành nửa chừng thì tự nhiên có một cái hơi ở dưới bụng, nó nặng nặng, quặn quặn ở dưới bụng thì nó quận lên trên cái miệng thì cứ ngậm răng lại, thì chúng tôi mới đứng lại. Đứng lại để ngồi thiền định tâm lại thì tự nhiên ở dưới bụng nó quận lên một hồi, nó đưa lên rồi coi như là nó đi thông lên huyệt ở trên vai, ở sau lưng, chỗ mà mình với không tới đó, huyệt linh đài hay gì đó (cũng không biết), rồi nó đưa thẳng luôn lên tới đỉnh đầu, mà không biết chuyện gì, tui cũng chưa nắm, do đó cho nên cả 3 huyệt đạo từ ở dưới rốn, dưới bụng rồi nó thông lên, thở ra thở vô nó rất là thông, hiện tại giờ nó như thế, mà tình trạng này chưa báo lại với Thầy viện chủ. Đó kết quả trong 33 ngày qua là như thế.

Tiếp theo, được sự tận tình chỉ bảo của Thầy Viện chủ, chúng tôi đã nhập định được, đi vào cửa Tam thiền và thấy rất là nhiều sự vi diệu trong thân chúng ta như thế. Nghĩa là ta làm chủ cái thân ta hoàn toàn, coi như là đối với sự sống chết đã làm chủ rồi, cả thân và tâm. Đó chỉ là mới cửa thứ ba thôi. Nghĩa là hiện nay nó đã làm chủ được thân tâm. Tuy nhiên trong cái quá trình tu tập được kết quả đó chúng ta cũng gặp nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn.

Thì trước tiên chúng tôi cũng xin nói điều thuận lợi trước.Thì bắt đầu từ lúc vào hạ. Vào rằm tháng tư bắt đầu hạ thủ công phu thì nhập thất cho đến bảy ngày thì chúng tôi đã nhập được Sơ thiền. Rồi đến ngày thứ mười tám thì nhập được Nhị thiền. Rồi đến ngày hai mươi chín là nhập được Tam thiền. Sở dĩ mà đạt kết quả mau như thế thì theo chúng tôi nghĩ thì nó rất đúng với lời Thầy Viện chủ đã giảng hôm trước. Sau khi rút kinh nghiệm thì chúng tôi thấy rất đúng. Bởi vì Thầy đã dạy muốn nhập Tứ thiền thì phải chuẩn bị trước một số hành trang như sau:

Trước tiên hành giả chúng ta trước tiên là phải tu Mười điều lành. nghĩa là hành Thập thiện đó. Phải tập nhuần nhuyễn và giữ gìn giới luật. Nghĩa là phải trường chay và tiệt dục. Đối với hành giả đó là điều thứ nhất.

Điều kiện thứ hai là phải tu Tỉnh giác chánh định. Nghĩa là chúng ta lúc nào cũng luôn tỉnh thức trong mọi hành động: tôi đi biết đi, làm việc biết làm việc, tôi ăn biết tôi ăn. nghĩa là tỉnh thức hoàn toàn.

Thứ ba là phải tu Định vô lậu.

Thứ tư, phải xả bỏ hết tài sản của thế gian - tài sản nhỏ tài sản lớn cũng như chùa chiền, hay là tất cả các vật chất, phải bỏ xả hết.(BBT:CĐ,08B,E00:45:01)

(BBT:CĐ,09A,00:00:12)Thứ năm là chúng ta sau khi nhập thất vào là phải tu cái Hiện tại an lạc trú chánh định, nghĩa là tu bám chặt trên hơi thở.

Điều thứ sáu là phải Sống độc cư, coi như mình tịnh khẩu hoàn toàn.

Nếu mà hội đủ sáu điều kiện này thì chúng ta sẽ hoàn toàn nhập vào Sơ thiền rất mau. Bằng chứng cụ thể là chúng tôi vừa qua. Chúng tôi vừa qua trong sáu điều kiện này thì ở chùa trong mấy năm qua đã thực hành có. Bởi vì trước kia là một Tỳ kheo thì đã giữ giới rồi, tu mười điều lành và trường chay tiệt dục rồi. Thứ hai là tỉnh giác. Ở chùa thì chúng tôi lúc nào cũng tỉnh giác, tu trong các hành động. Cái thứ ba ở chùa Định vô lậu thì lúc nào cũng- thường thường tu cái thiền biết vọng. Khi vọng nổi lên là nhìn thấy nó. khi nhìn tận cùng của nó, mình phát hiện ra nguyên nhân ở chỗ nào rồi mình gạt ra. Đồng thời mình đọc kinh sách, truy tìm thêm giáo lý, đó là tịnh. Để mình dẹp mọi cái tham- sân- si- mạn- nghi, đó là Định vô lậu.

Cái thứ ba là xả tài sản. người tu tập hiện nay, trước khi vào Tu viện này chúng tôi đã tìm người để giao lại chùa với một quyết tâm nỗ lực là không bao giờ trở về để làm trụ trì nữa. Nghĩa là xả bỏ hết ngôi chùa, đồng thời giảm bớt lần đi mọi quan hệ, mọi tình cảm. Cho nên khi mà làm những cái động tác đó xong thì bắt đầu Thầy Viện chủ mới dạy cái phương pháp quán niệm hơi thở để bám chặt hơi thở. Rồi sống độc cư như vậy trong bảy ngày là vô Sơ thiền liền. Thì đó là cái kết quả mà một hành giả muốn đạt được thì chúng ta phải trang bị trước. Còn nếu chưa trang bị được sáu điều kiện này thì coi như chúng ta tu cũng mất thời gian thôi. Đó là về cái mặt thuận lợi.

Còn về khó khăn thì theo kinh nghiệm của bản thân chúng tôi thì vừa qua đã bị tẩu hỏa nhập ma. Tức là đã bị ma tưởng ấm nhập vào. Chúng tôi nghĩ là do có ba nguyên nhân.

Một,nguyên nhân thứ nhất là ngồi thiền ráng chịu đau quá. Chúng ta cố sức ngồi thiền. Khi ngồi thiền bị đau quá rồi, ráng hết sức ngồi cho lâu để tập cho cái giò cho nó quen. Thì như vậy chúng ta đã lầm, ngồi như thế đã lầm rồi. Chúng ta phải biết rằng, khi nào ðúng lúc chịu ðau. Khi nào chúng ta ở cái khoảng từ Nhị thiền tiến lên Tam thiền ðể phá cái thọ thì đúng lúc đó chúng ta mới chịu đau, chấp nhận chịu. Còn trong cái lúc này chưa nhập Sơ thiền hay chưa gì đó mà chấp nhận chịu đau thì mình tu sai. Hoặc giả mình tiến lên Nhị thiền rồi, mình chấp nhận ngồi chịu đau thì mình sẽ bị ma tưởng ấm nhập vào thôi. Bởi vì chính bản thân tôi trong cái lúc mà đi vào Nhị thiền, thì trong cái đêm ngày thứ mười tám. Thì sau khi thấy cái hơi thở mình quá nhẹ đi, rồi thấy cái thân người mình bay bổng lên khỏi giường. Thấy rất là thích thú, có hỷ lạc cho nên chịu ngồi như thế. Sau thời gian khoảng chừng hai mươi phút thì tới cơn đau của cái giò. Nó đau lên dữ tợn buộc kiềm. Kiềm khoảng chừng 20 phút thì tự nhiên nó bung ra. Nó bung ra thì trong lúc đó ma tưởng ấm nhập vào liền. Đó là đêm thứ mười tám. Lý do sao nhập- là lý do là chúng ta vừa bung giò ra thì tất nhiên là có một cái tư tưởng là phải nghĩ tưởng như thế nào cho nó bớt đau. Từ cái chỗ đó là cái ý thức của chúng ta nó rời ra, nó đâu có định trong hơi thở. Nó không định tâm chỗ đó cho nên tưởng thức nó nhảy vô liền. Mà mình tưởng, tưởng để cho hết đau thì tưởng thức nó vô. Nó vô thì bắt đầu nó mới bắt gân, bắt gân rồi nó vần, vò đủ thứ. Rồi có những cái nó bắt mình xá, lạy, rồi bắt ấn Chuẩn Đề, rồi làm đủ mọi động tác đặng cho nó hết đau. Là như thế nó kéo dài từ ba giờ khuya cho tới tám giờ sáng là mới xả ra, là lúc đó trời sáng rồi. Do đó sau cái lần này, sau khi xả ra thì chúng tôi chạy tới thưa Thầy viện chủ để thông báo liền. Thầy viện chủ cho biết là cái tưởng ấm ma nó nhập vào.

Từ đó chúng tôi cũng chưa có được kinh nghiệm nữa. Kinh nghiệm là lúc mình xả ra rồi nó thừa cơ, tưởng ấm nó nhập vào là lúc đó. Mà cũng chưa được kinh nghiệm. Do đó cho nên giờ chỉ có cái là bình tĩnh trở lại thôi, đặng rồi tiếp tục. Thì đó là điều thứ nhất mà chúng ta phải nhớ đừng có ngồi thiền mà kiềm đau quá. Khi mình ngồi mà thấy nó đau thì xả bỏ đi. Còn trong cái lúc mà chúng ta xả thiền thì phải luôn luôn với một cái chánh niệm, một cái tỉnh thức. Nghĩa là tôi chỉ biết xả thiền thôi, đừng có một cái mống lượng gì khác nữa hết. À, lúc đó mà chúng ta quên đi cái tỉnh giác chánh định này đó thì tất nhiên tưởng ấm nó sẽ nhập vào ngay. Thì trong lúc đó chúng ta nói là, trong lúc thân thể mệt mỏi ể oải rồi, chân nó đau nhức nữa đó, ý thức nó đã rời ra rồi, hay nó lơi lỏng rồi, thì có một móng niệm lên là tưởng ấm nó nhập vô liền, rất là nhanh trong vòng một niệm thôi.

Vấn đề thứ hai là chỉ cần có một ý niệm thần thông. đấy, vấn đề này cũng là rất quan trọng đây. Nghĩa là chúng ta chỉ có một ý niệm về thần thông thôi, một thần thông bay hay một thần thông như thế nào đó. Một suy nghĩ, một niệm thôi nó nhập vào liền. Cũng như sau khi xả thiền xong thì cái đêm, hình như là cái đêm hai mươi sáu hai mươi bảy gì đó. Là sau khi tiến lên cái đoạn cửa Tam thiền. Nghĩa là làm chủ được các hành. Sau khi tịnh chỉ được hơi thở rồi đó, mới tiến vào để tịnh chỉ các hành. Thì chúng tôi ngưng hoàn toàn, các hành ngưng hoạt động để cho nó lạnh từ dưới giò lên. Sau khi nó lạnh tới xương sống. Lạnh tới xương sống thì Thầy Viện chủ cứ cho tiếp tục lạnh lên hết toàn thân.

Sau đêm đó, lúc đó là ba giờ sáng chúng tôi ngồi thiền để cho lạnh lên toàn thân hết rồi mới xả ra. Sau khi xả ra toàn bộ hết rồi thì tính đi kinh hành rồi, nhưng mà tự nhiên có một cái luồng, một cái luồng ma lực nào đó cũng không biết tự nhiên nó thâm nhập vào hai cái chân mày. Nó xoáy xoáy xoáy coi như là phải nhắm mắt lại luôn đó. Nó xoáy lại mà cũng không biết đó là chuyện gì. Do đó mà chúng tôi mới lầm tưởng suy nghĩ là chắc có lẽ mình ngồi thiền hai con mắt mình nó làm cho thông qua lại, nó làm cho thông lỗ mũi và thông luôn miệng, nghĩ vậy thôi. Tự nhiên bắt đầu nó xoáy xuống mũi, xoáy xuống miệng rồi nó làm cho la lên đặng cho thông. Đó, rồi cứ như thế nó la hoài, la càng lớn càng tốt làm như mê nên mình phải la. Do đó cho nên là không còn tự chủ được nữa. Mà cũng may lúc đó có thầy Mật Hạnh và Thầy Viện chủ phát giác kịp. Thầy Viện chủ vô rồi bỏ tay lên vai chúng tôi rồi thì chúng tôi mới hoàn toàn tỉnh lại. Tỉnh lại là bảo ngưng không cho la nữa thì lúc đó mới hết. Thì sau khi hết xong thì chúng tôi mới ngủ trở lại, xả thiền xong ngủ trở lại. Thì đó xin tạm dừng lại để nói cái ý thứ ba.

Nguyên nhân thứ ba mà để bị nữa - nguyên nhân thứ ba là không biết trước được những trạng thái của cơ thể sẽ đổi khác khi chúng ta tịnh chỉ được các hành. Nghĩa là sau khi chúng ta tịnh chỉ được các hành, nghĩa là cho lạnh toàn thân rồi đó thì một người thiền sinh chúng ta phải biết trước những cái cảm giác thay đổi. Bởi vì lúc bấy giờ khi mà lạnh toàn thân hết thì máu cơ thể ta, hồng huyết cầu chúng ta đã thay đổi hết rồi. Coi như là nó đổi trượt hết rồi, thành một con người mới. Do đó cho nên các thiền sư hồi xưa chúng tôi nhớ lại là họ có nói: “ Rắn thành rồng không đổi vảy”. Hay là cái câu “ Bước qua đầu cầu trăm trượng mà có dám bước hay không” đó. Do đó cho nên là chúng ta phải biết trước những cái trạng thái này, trong cái trạng thái mà sau khi chúng ta tịnh chỉ các hành thì phải biết. Nghĩa là đã làm chủ được các hành rồi, làm chủ được hơi thở rồi thì nó sẽ có những trạng thái khác. Bởi vì chúng ta làm chủ nó thì ra lệnh nó. Mà nó giống như một cái người tướng mà cầm quân vậy đó. Nếu mà chúng ta làm tướng mà không điều khiển được quân lính thì nó náo loạn hết. Tất nhiên tan rã hàng ngũ.

Thì con người chúng ta cũng vậy. Khi chúng ta làm chủ được thân, làm chủ được hơi thở, làm chủ được các hành. Thì lúc bấy giờ nếu chúng ta không hiểu biết trước được rồi chúng ta khủng hoảng lên. Chúng tôi sẽ nhắc lại cái đêm đó, sau khi bị tưởng ấm ma xong rồi tiếp tục nằm ngủ thì khuya lại đến khoảng mười một giờ thì chúng tôi giật mình thức dậy, thì chúng tôi thấy sao mà toàn thân nó đều cứng. Nó cứng không phải theo cái kiểu mà lạnh tê cứng mà nó cứng theo cái kiểu mà mình thấy có thể nhúc nhích được. Nhưng mà do không có hiểu trạng thái này cho nên khủng hoảng lên. Tưởng đâu là các hành ngưng hoạt động cho nên mới ra lệnh cho các hành hoạt động trở lại, thì bắt đầu nó vận động trở lại. Thấy máu nó vận chuyển. Thấy như rằng nó nổ lụp bụp từ lỗ chân lông rất là nhiều.

Lúc này khủng hoảng sợ quá. Sợ quá thì bắt đầu bảo các hành ngưng hoạt động thì bắt đầu nó ngưng. Rồi thì bắt đầu nó giảm xuống nữa. Thành thử ra cứ làm như thế liên tục từ lạnh cho tới vận hành cơ thể liên tục, rồi cho tới lạnh. Đến hơi thở, hơi thở nó mất bình thường. Nghĩa là biểu ngưng, biểu thở nhẹ, thở chậm; đặng rồi ra lệnh đủ thứ hết. Cho nên tất cả trong thân đều náo loạn. À, lý do là không biết những trạng thái này cho nên mình điều chỉnh được tất cả những cái mà... Điều chỉnh được hơi thở, điều chỉnh được các hành nhưng mà mình điều chỉnh không đúng. Thành thử nó náo loạn tất cả các nội tạng hết. Lúc bấy giờ chúng tôi mới sợ quá đi, không còn tự chủ nữa nên mới chạy ra ngoài kêu Thầy viện chủ, mới báo lại. Lúc bấy giờ Thầy viện chủ mới bảo là cứ cho các hành hoạt động bình thường, và hơi thở thở bình thường. Thì chúng tôi cảm thấy yên ổn trở lại và ngồi gần với Thầy thì như nó có một cái từ lực gì đó. Có một cái từ lực gì đó mà làm cảm thấy yên ổn. Và ngồi nói chuyện với Thầy để bàn qua sự việc một hồi thì Thầy mới khuyên nên tu một biện pháp là tu Định vô lậu.

Lúc bấy giờ nên tu Định vô lậu nghĩa là giữ lại cái hơi thở bình thường, nhưng mà lúc bấy giờ chúng tôi đâu có còn bình tĩnh nữa đâu để mà tìm lại cái hơi thở bình thường. Lúc đó là bị khủng hoảng quá đi, cho nên nó quên mất hơi thở đó. Hơi thở mà bình thường là lúc ban đầu chúng ta học thiền đó. Thì Thầy viện chủ mới cho chúng tôi, bảo chúng tôi nên đi kinh hành. Thì đi kinh hành chúng tôi mới tập trung lại, tập trung tư tưởng lại đi kinh hành, vừa đi vừa quán tưởng rồi vô thường, vô ngã, rồi quán tưởng về thân bất tịnh, quán tưởng về tài sản thế gian giả tạm, quán tưởng đủ thứ để chúng ta quên đi cái chuyện khủng hoảng mà nó trở lại cái sự bình tỉnh thì tất nhiên là hơi thở nó điều hòa trở lại.

Thì từ chỗ đó con người mới cảm thấy nó nhẹ dần, nhẹ dần xuống. Rồi như vậy một hồi đi về, đi về nghỉ rồi ngồi một chỗ, không đi kinh hành mà ngồi một chỗ một mình thì bắt đầu nó làm trở lại. Bởi vì lúc đó các hành nó vận chuyển trở lại thì cái hơi thở của mình nó cũng hồi hộp trong đó, cho nên nó bất bình thường, thành thử toàn thể châu thân nó cảm thấy lúc nóng lúc lạnh đủ thứ mà khủng hoảng lên nữa, cho nên chúng tôi ra đây gặp Thầy viện chủ một lần nữa, rồi báo lại vì Thầy viện chủ cũng dạy cách y như thế đó, chúng tôi mới phải đi kinh hành suốt một đêm đi suốt luôn tới sáng thì nó cảm thấy yên ổn.

Nhưng mà đến sáng lại thì Thầy viện chủ mới bảo đưa cho một quyển kinh để mà đọc, thì khi lấy quyển kinh về ngồi đọc thì tâm chú ý vào đọc kinh, đọc, đọc một cách cho nó kỹ lưỡng thì nhờ cái tâm chú ý vào đó cho nên là mình không có nhớ cái chuyện mà hơi thở và các hành nữa, do đó cho nên là nó bình tĩnh trở lại, rồi từ đó hơi thở nó điều hòa, nó trở lại hơi thở ban đầu lại, cứ thở ban đầu, thở nhẹ như thế một hồi rồi tự nhiên ở dưới bụng, lúc này nó nặng bụng dữ lắm, nó nặng bụng, lý do sao bây giờ chúng tôi mới biết được lý do sao nặng bụng và nặng trên đầu. Đó là những cảm giác, những trạng thái mà đến khi cái cửa Tam thiền này, không biết ai có không chứ bản thân chúng tôi thì có, bởi vì nó nặng bụng quá là lý do nó chứa, chứa tất cả những lòng tham sân si mạn nghi ác kiến, nó chứa tất cả lòng tham sống sợ chết, nó chứa những cái tham ái, tham dục, ham của tài sản thế gian, nó chứa trong bụng.

Do đó cho nên khi mà thở lại hơi thở ban đầu rồi tự nhiên nó trào lên, nó tràn lên nhưng mà nó theo cái hơi thở rất là nhẹ, chứ không phải mạnh nữa, nó ra từ từ từ từ, trong lúc nó trào ra thì mình cứ quán, quán về tài sản thế gian, quán tất cả những cái tham sân si lòng ái dục quán nó tràn ra, nó tràn ra chừng năm sáu lần, cũng như cuối cùng mình ợ lên được nó nhẹ luôn, nó nhẹ cái bụng, nhẹ bụng còn nó nặng cái đầu thì cũng chưa biết, không biết nó nặng sao, thành thử ra mới đi kinh hành trở lại rồi về xem kinh, từ đó nó nhẹ bụng thôi. Nhưng mà sau này, qua bữa sau mới biết cái đầu nó nặng là cũng nên chữa đó, bởi vì chúng ta cái lòng tham thì chứa trong bụng, lòng tham ái tham dục thì chứa trong bụng còn trong tàng thức của chúng ta thì cũng chứa cái tham ái, tham dục trong cái thức A-lại-da là thức thứ 8 đó, nó chứa trong tàng thức đó, thì cho nên chúng tôi mới thở ra cái hơi thở bình thường nhưng khi mà thở ra chúng ta nhớ tập trung cái tư tưởng ở trên đầu, xả ra, xả ra tất cả những cái lòng tham dục, tham ái đó, những cái tham sân si đó ở trong đầu nó tràn ra hết, cho nó ra hết, ra, ra, coi như mình xả ra hết thì xả ra nguyên một ngày coi như cái đầu nhẹ luôn.

Thấy cái đó cũng rất là hay. Do đó cho nên là một cái bụng thì chứa những lòng tham, mà trên đầu thì chứa những chủng tử, do đó chúng ta ráng nguyện xả ra, xả ra thân, bụng cũng phải rỗng ra, đầu phải rỗng xuống, tàng thức không chứa chủng tử gì hết, bụng cũng rỗng ra và đồng thời lập một đài nguyện sống y như cuộc đời tu hành chân tu của Thầy Viện chủ. Nghĩa là phải sống phạm hạnh, lập một đại nguyện lớn là phải sống 3 y, một bát. Chỉ có con đường đó thôi, chúng ta mới đi vào cái thiền định của Phật được. Chứ còn nếu mà về ở nhà, tiếp tục trụ trì rồi là cứ lo xây dựng chùa chiền này nọ, thì tất nhiên là coi như đường tu tập vấn đề mà giải quyết vấn đề luân hồi sanh tử, làm chủ được chắc rất khó. Do đó cho nên chúng tôi mới lập cái nguyện lớn là phải sống theo hạnh của Thầy Viện Chủ Bổn Sư là chỉ 3 y, một bát, vậy thôi.

Do đó cho nên là chừng 3 ngày sau thì tất nhiên là thân hình nó nhẹ nhàng trở lại, rồi chúng tôi, lúc bấy giờ thì bình tĩnh trở lại mới bắt đầu ngồi thiền thì Thầy Viện Chủ có nhắc là đừng để cho nó tác ý chúng tôi ngồi thiền, mà lúc này khi ngồi thiền vô thì nó rất là nhẹ nhàng chứ không phải như hồi nãy, lúc mới ban đầu phải tập trung hơi thở. Bây giờ chúng ta chỉ ngồi hít nhẹ một hơi là nó vô, vô luôn tới tam thiền liền. Mà nó đi rất nhẹ mà xả ra cũng rất là nhẹ nữa.

Thì đến đây chúng tôi cũng xin nhắc thêm một cái chỗ nữa, trên cái đoạn đi từ Nhị thiền đến Tam thiền hơi thở của chúng ta, hơi thở chúng ta đi sâu vô nó nhẹ đến mức độ mà đến Tam thiền nó quá nhẹ đi, do đó cho nên cái huyệt sau lưng, chỗ mà vói không tới, tự nhiên nó bị lói hơi nhỏ rồi nó đau, rồi mình hơi thở không thông, trong những lúc tu thiền thấy nó thở vô nhỏ, hơi thở nó nhỏ tới đó là nó không thông, là nó đau, thì chúng tôi xả thiền ra tưởng là bị gió nhập, nhưng mà khi chúng tôi nhờ chú y sĩ, chú lại chú sửa, chú bóp, chú xoa dầu, nhưng không hết đâu, đó là do cái huyệt chúng ta chưa thông thôi, thành thử ra ngồi thiền liên tục 2 lần sau nữa thì tự nhiên hơi thở nó nhỏ dần, nhỏ dần rồi có một sức mạnh gì đó nó tống thông ra rất là nhẹ nhàng. Sau khi cái huyệt đó thông rồi đó, chúng ta nhập thiền vô Tam thiền rất là nhẹ mà rất là nhanh trong vòng chỉ 5 phút thôi là vô liền, chứ khỏi cần phải ngồi mà kiểm tra hơi thở rồi mình phải đủ thứ chuyện lúc mình mới ban đầu. Đó những cảm giác mà chúng tôi thấy được đó thì do 3 nguyên nhân đó, thì đến đây qua những kinh nghiệm của chúng tôi thực tập và bị vấp phải như vậy, nay xin trình lên Thầy Viện chủ và đại chúng biết rõ để chúng ta rút kinh nghiệm và giúp người đi sau khỏi phải sợ hãi và lúng túng khi gặp trường hợp bị tưởng ấm ma nhập vào.

Kính thưa đại chúng! Tưởng ấm ma nhập vào chúng ta đó, là nó nhập khi mà chúng ta xả thiền ra, nó thừa cơ chúng ta lơ đãng, chúng ta không tu tỉnh giác chánh định mà kỹ đó, lơ xơ 1 niệm là nó vô liền ngay trong lúc xả. Do đó cho nên khi xả thiền phải nhớ, ngồi phải tỉnh giác, tôi chỉ biết xả thiền thôi, đừng mống niệm gì hết, đừng mống niệm thần thông nữa. Do đó cho nên phải lưu ý chỗ đó.

Rồi cái cách mà trị liệu đó, để mình khỏi sợ bị tưởng ấm ma nó nhập vào đó, là chỉ có 3 cách, thì theo tôi nghĩ có 3 cách.

Một là khi xả thiền ra phải tỉnh giác, xả thiền chỉ biết xả thiền, ngồi chỉ biết xả thiền thôi đừng nghĩ gì khác hết, là tất nhiên tưởng ấm ma không bao giờ nó nhập vào được, cái đó coi như mình làm chủ cảm giác rồi.

Cái thứ 2 là khi đến cửa Tam thiền thì cơ thể nó thay đổi khác hết trơn rồi, nghĩa là rắn đã hóa thành rồng rồi, mình nhẹ nhàng mình thay trược hết rồi, nó rất là nhẹ nhàng, mà máu nó cũng đổi lại, hơi thở mình cũng đã khác rồi, mình làm chủ hoàn toàn thì chúng ta phải biết được những trạng thái đó. Tất nhiên là người đã tu tập xong hoặc là quý thầy hướng dẫn kỹ lại những trạng thái đó phía trước tất nhiên là hoàn toàn bình tĩnh, mà bình tĩnh thì mới chủ động được, chứ nếu không khéo thì trong lúc đó mà không chủ động thì coi như là sẽ đi đến cái chỗ là tưởng ấm ma nặng là coi như sẽ điên khùng thôi, điên khùng hoặc giả là hư hoại luôn coi như không còn tu hành được nữa đâu, bởi vì lúc đó mình đảo lộn hết trơn rồi, các hành mà bảo nó ngưng rồi, giống như một người mà đi cày đó cho 2 con trâu, người nào không biết cày mà biểu 2 con trâu, người bảo ví người bảo thá con trâu biết đi đường nào. Mắc mớ biểu ví cái biểu thá. Từ chỗ đó nó không biết đường đi. Cũng như các hành và hơi thở của chúng ta cũng vậy. Mình làm chủ được nó là phải điều khiển một cách thuần thục, phải tinh xảo. Do đó mình biết cách như vậy, mình làm như thế thì tất nhiên rất là yên ổn.

Thứ ba, chúng ta đi kinh hành, quán vô thường vô ngã, bất tịnh… để xem kinh để lấy lại hơi thở bình thường ban đầu. Nghĩa là khi gặp những trường hợp đó cứ đi kinh hành. Đi kinh hành để quán vô thường, vô ngã, hay bất tịnh. Rồi ngồi lại lấy cuốn kinh để tập trung xem, lấy lại hơi thở lúc ban đầu. Thì tất nhiên là chúng ta sẽ quét sạch được những cái lậu hoặc mà nó nằm trong bụng, trong đầu của chúng ta. Từ chỗ đó mà lòng tham dục, tham- sân- si- mạn- nghi- ác kiến và tất cả những cái ham muốn và tài sản thế gian phải quán bỏ hết. Chúng ta phải quán xả bỏ hết đi thì từ đầu cho đến bụng mình nó rỗng ra, giống như cây trúc vậy đó. Rỗng ra không có chứa một cái gì hết thì chúng ta đi vào định rất là hay. Do đó cho nên là quan trọng nhất nữa là phải lập một cái nguyện lớn là sống cái đời sống chân tu ba y một bát. Đó là cái quan trọng.

Chúng tôi cũng xin nhắc lại một lần nữa nếu mà chúng ta muốn có một cái thuận lợi để đi vào cái định thì phải tụ hợp, hợp đủ sáu điều kiện. Một là trước phải tu Mười điều lành là thập thiện, giữ giới luật trường chay, tiệt dục. Thứ hai là tu Tỉnh giác định chánh niệm. Thứ ba là phải tu Niệm vô lậu chánh định. Thứ tư xả bỏ tất cả tài sản của thế gian. Thứ năm là tu Hiện tại an lạc trú chánh định. Thứ sáu là sống độc cư, tịnh khẩu. Nếu ai thành tựu được cái này thì tất nhiên nhập thất chừng một tuần lễ là vào Sơ thiền rất nhanh. Đến đây thì qua kinh nghiệm thực tu thực thấy của chúng tôi thì cũng xin trình bày cho đại chúng biết. Cũng như có huynh Minh Tâm cũng trải qua quá trình Tam thiền với những trạng thái này thì sẵn hôm nay mình trao đổi với nhau luôn. Vì phải tịnh khẩu mà không dám hỏi. Do đó cho nên sẵn đây mình trao đổi luôn. Rồi đồng thời cũng xin qua ý của Thầy bổn sư Viện chủ nghe qua và bổ sung thêm một số ý kiến để chúng con tu tập thêm tốt.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (BBT:CĐ,09A,00:22:45)

Thầy xin nhắc cái này chút xíu. Trong cái sự kiện xảy ra, đây là cái hoàn cảnh rất tốt cho chúng ta hôm nay để chúng ta rút tỉa được kinh nghiệm của thầy Thiện Thuận. Và đồng thời phải thấy rằng nó có những điều kiện thực tế trong sự tu tập. Còn Minh Tâm thì được thầy dạy tu tập theo Thầy gần ba năm nay. Cho nên mỗi bước đi của nó Thầy theo dõi, tập luyện rất kỹ lưỡng. Cho nên không đến nỗi mà lạc lầm như vậy. Vì thầy Thiện Thuận xa thầy, chỉ có cái hạ này mới về đây gặp Thầy mà thôi. Do cái sự mà nhiệt tâm tu hành, nhiệt tâm xả tâm. Rồi trong công việc mặc dù là có duyên sự chùa nhưng mà thầy cũng không quên cái pháp tu. Do vì vậy mà đến đây nó quá nhanh chóng mà thầy không chuẩn bị được cái tư thế để làm chủ mọi mặt.

Còn Minh Tâm thì Thầy đã chuẩn bị cho nó mọi mặt. Từ bước đầu vào đây nó ngồi một giờ rưỡi hai giờ, Thầy dẹp xuống còn có mười lăm phút mà thôi. Nghĩa là Thầy chia làm bốn đoạn mười lăm phút như vậy cho nó tu tập. Từ cái ngồi kiết già cho đến cái ngồi ghế thường, cho đến cái đi kinh hành, rồi cho đến khi đứng. Tu trong bốn oai nghi. Do từng cái hướng dẫn cặn kẽ, kỹ lưỡng cho nên nó không xảy ra. Từ đó cho đến giờ thì theo Thầy thấy nó tịnh chỉ được các hành rất tốt và rất yên ổn mà không bị lạc lầm. Vì luôn luôn Thầy đã dạy cái Pháp hướng rất kỹ cho nó. Do như vậy mà Thầy biết rằng Minh Tâm sẽ đi vào con đường thiền này từng cái bước của nó rất là rõ ràng.

Sơ thiền như thế nào chắc chắn nó cũng nhận biết rõ, mà Nhị thiền như thế nào nó cũng biết rất rõ. Cơ thể nó thay đổi không phải như thầy Thiện Thuận. Bùng một cái dùng Pháp hướng cái cơ thể rối loạn liền tức khắc. Còn cơ thể nó từng ngày từng giờ nhẹ nhàng thay đổi. với sự thay đổi nó thường trình bày cho Thầy nghe: dường như thân con thay đổi bằng cách này, bằng cách khác, bằng cách nọ, nó trình bày cho Thầy nghe. Nhưng mà nó nhẹ nhàng, êm ái, không bị rối loạn. Còn thay đổi một cách đột ngột như thầy Thiện Thuận đó là cái rối loạn lớn và ma sẽ nhập đó. Cho nên chúng ta tu hành phải có bậc minh sư thì không bao giờ có bị ngũ ấm ma. Tại sao vậy? Tại vì bậc minh sư họ biết được cái chỗ nào, tu như thế nào, làm như thế nào. Vì vậy mà cái người đệ tử của họ rất vững vàng, không có lạc. Cũng như bây giờ nói là một điều, nhưng quý thầy thử nghĩ khi quý thầy mà xa Thầy thì quý thầy sẽ gặp những cái khó khăn. Cũng như thầy Thiện Thuận nếu mà không có Thầy trong một đêm đó. Cũng như không có sự hướng dẫn của Thầy chắc chắn thì làm sao mà thầy tu tập cho được như ngày hôm nay, phải không?

Vì vậy nó còn những cái khó khăn mà không phải mọi người đều giống nhau hết. Bởi vì đức Phật nói chúng ta có ba cái tướng: Hành tướng, Nhân tướng và Đặc tướng. Mà trong cái Hành tướng của mỗi người, mỗi hơi thở người thì thở dài, người thì thở ngắn ở mực bình thường của nó. Mà chưa phải là những hơi thở khác. Do đó trong Nhân tướng thì có mặt ai giống ai đâu. Người lùn, kẻ cao, người thấp. Đó là cái đặc tướng của nó. Cho nên tùy theo mỗi đặc tướng mà tu tập. Do cái người thiện hữu tri thức người ta mới nắm được cái đặc tướng của mỗi người, mà người ta giúp đỡ cho cái người tu vững vàng. Nó không có bị lệch lạc làm cho con đường tu càng ngày càng tiến, mỗi ngày mỗi thấy sự tiến bộ.

Cho nên hôm nay chúng ta là những người đủ duyên nhất, đã học được thực tế trên con đường tu tập thiền định. Không có còn cái chỗ nào mà hơn cái chỗ này hết. Nghĩa là làm chủ được cái sống chết, làm chủ được cái cơ quan vi tế nhất của loài người- là cái thân của chúng ta chứ còn gì nữa. Không có máy móc nào trên thế gian này mà bằng cái cơ quan, cơ thể của chúng ta. Mà hôm nay chúng ta làm chủ được nó, làm chủ cả trí óc của chúng ta nữa. Để rồi tới đây quý thầy sẽ nhập Tứ thiền và quý thầy sẽ biết cái sự vi diệu của nó vô cùng. Thầy không phải là quảng cáo cái thần thông đó đâu mà tại vì cái bộ máy cơ thể của con người rất là vi diệu. Khi mà chúng ta nắm làm chủ được nó, chúng ta điều khiển được. Cho nên càng đi tới chúng ta càng thấy con đường của đạo Phật thật tuyệt vời, nó thật là tối thượng. Tại sao? Tại vì trong tâm chúng ta không tham muốn một cái gì hết. Xả ly tất cả chỉ còn ba y một bát. Mà chúng ta sử dụng toàn bộ vì vậy mà chúng ta không hề dính mắc. Trái lại nếu mà tâm chúng ta còn chứa tham, ham muốn ở trong đó mà nó điều khiển được cái con người của chúng ta vậy thì thế gian này, trên hành tinh này chắc là con người bị hoại diệt. Nghĩa là cái tâm tham vọng của con người chúng ta điều khiển được con người, cái tâm tham vọng của chúng ta còn mà chúng ta điều khiển được con người như vậy thì Thầy nói thế gian này sẽ bị hoại diệt. Người ta sẽ dùng nó mà người ta làm việc gì vĩ đại. Như các nhà khoa học đã tưởng tượng những con người vĩ đại, thôn tín toàn cầu. Cái tâm tham vọng của chúng ta lớn lắm. Nhưng vì đạo Phật thấy được cái điều này nên dạy chúng ta xả ly cái tâm này để rồi thực hiện cái vi diệu này. Cho nên nó chỉ vi diệu ở cái chỗ làm chủ được cái sự đau khổ của con người, chớ không phải thôn tính toàn cầu để làm bá chủ. Chúng ta có thể, nếu mà người mà điều khiển được thân của chúng ta, có thể chúng ta thôn tính cả vũ trụ chứ chưa nói là toàn cầu.

Thầy nói tới đây thì tới chừng đó các thầy sẽ chứng nghiệm, sẽ thấy điều đó. Cho nên đức Phật Thích Ca nói: “Những gì Ta chứng như rừng lá cây, nhưng Ta dạy mọi người chỉ như nắm lá cây trong bàn tay”. Thật đúng như vậy. Khi thực hiện tới đây Thầy thấy lời nói đó không dối người.

Bây giờ thì qua cái sự trình bày Thầy biết rằng Thầy dạy Minh Tông rất cẩn thận và kỹ lưỡng, cho nên hàng ngày có những chuyện gì thì ngay đó nó đến thất Thầy, thầy trò bàn bạc nhau rút tỉa từng kinh nghiệm cho nên trên bước đường nó không sai. Nhưng có lúc nó cũng nông nổi là: Thầy dạy đừng có ngồi nhiều nhưng nó lại muốn ngồi nhiều để xem coi, do đó có lúc nó ngồi 5, 6 tiếng đồng hồ làm cho chân nó bị đau, bị khổ sở. Nhưng Thầy thấy đây cũng là sự thử thách mà thôi để rồi trên bước đường đi chúng ta mới có những kinh nghiệm. Chớ hầu như là mọi người đều đang nghĩ rằng mình phải ngồi từ 3 tiếng, 4 tiếng, 5 tiếng, 7 tiếng, 1 ngày, 2 ngày. Nhưng Thầy đã từng dạy các thầy chỉ cần trong một phút mà nhập định được thì nó được chứ ngồi nhiều nó chẳng ra gì.

Nhưng điều kiện tiên quyết đầu tiên mà Thầy muốn dạy quý thầy về Định niệm hơi thở hoặc Bốn thiền này thì Thầy đã nhắc nhở quý thầy rất nhiều là phải ổn định hơi thở bình thường, để chừng đó mà chúng ta tịnh chỉ các hành, hơi thở ngưng thì phải trở về mực bình thường của nó. Đó thì qua kinh nghiệm của thầy Thiện Thuận mà nhắc trở lại thì quý thầy thấy cái chỗ Thầy dạy căn bản, rất căn bản. Nhưng hầu hết Thầy nói các thầy không nghe mà cứ nghĩ rằng phải chậm nhẹ hoặc là hơi thở thế này thế khác để cho nó vào định cho nó hết vọng tưởng. Thầy đâu cần quý thầy loại hết vọng tưởng, mà Thầy chỉ cần tu tập đúng, ổn định đúng hơi thở để rồi có chỗ quý thầy trở về. Chứ nếu quý thầy mà tập không đúng cái hơi thở bình thường thì quý thầy trở về không được.

Cho nên lúc bấy giờ thầy Thiện Thuận nói, Thầy biết là thầy Thiện Thuận quên mất hơi thở của mình, bị rối loạn rồi làm sao nắm được nó nữa. Cho nên còn có cách giải quyết là để tự nó nó phải trở về bình thường thì phải dùng ĐỊNH VÔ LẬU mà thôi. Bởi vì lúc bấy giờ hễ chúng ta cần đặt tâm chỗ nào là ngay đó nó đã thu nhiếp lại rồi, thì nó khác bình thường rồi, không thể nào mà… Bởi vì thu nhiếp thì hơi thở nó phải chậm, nó phải nhẹ ra rồi, không thể nào mà bình thường được. Mà bây giờ chỉ còn giữ cái ý của mình để mà làm việc, để cho cơ thể nó tự quân bình lại bình thường, nó mới lấy lại cái hơi thở bình thường.

Còn nếu chúng ta tập nhuần nhã trong đó thì chúng ta biết hơi thở bình thường của chúng ta ở mức nào rồi. Do vì vậy mà khi đó, gặp trường hợp đó chúng ta cần sử dụng hơi thở bình thường và Pháp hướng chúng ta nhắc vài ba lần thì chúng ta trở lại bình thường, và trở về bình thường thì nó thư giãn toàn bộ thân của chúng ta không còn rối loạn nữa. Bởi vì chính bây giờ chúng ta sống hơi thở bình thường thì cơ thể chúng ta đâu có rối loạn. Cho nên khi mà chúng ta nắm được hơi thở bình thường là mạng sống chúng ta đã nắm được, còn không nắm được hơi thở bình thường là mạng sống chúng ta như chỉ mành treo chuông trong bước đi tu tập thiền định. Cho nên Thầy dạy các thầy tu tập kỹ điều này nhưng mà các thầy thì quá vội vàng mà quên cái mạng sống chúng ta là ở nơi hơi thở bình thường chứ không phải ở trong định đâu.

Đó thì hôm nay Thầy nhắc vậy còn bây giờ thì Minh Tông có ý gì để góp với quý thầy, để quý thầy thấy sự tu tập của mình thêm những cái kinh nghiệm tốt. (BBT:CĐ,09A,00:31:53)

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch Thầy.

Kính bạch toàn thể đại chúng.

Tại vì con cũng không được chuẩn bị để có ý kiến cho nên được sự cho phép của Thầy và có sự yêu cầu của thầy Thiện Thuận, con cũng xin góp một vài ý kiến.

Cái điều thứ nhất, bây giờ con nhớ cái gì con nói cái đó, cái điều thứ nhất là nói về vấn đề xả bỏ. Trước khi để mà nhập thất tu hành thì chúng tôi cũng đã suốt gần sáu bảy năm theo Thầy để mà tu tập tại nhà, trong thời gian tu tập tại nhà chúng tôi cũng đã tu tập cái Định chánh niệm tỉnh giác rất là lâu và nhất là hồi trước chúng tôi cũng biết cái pháp tu Chánh niệm tỉnh giác của thầy Nhất Hạnh, cho nên chúng tôi cũng đã tu cái Định chánh niệm tỉnh giác rất là lâu.

Cái thứ 2, trước khi mà quyết định lìa bỏ gia đình mà đi vào tu tập, chúng tôi không phải là người mặc kệ cho gia đình sống chết thế nào thì mặc kệ đâu, chúng tôi phải tới ba bốn năm chuẩn bị. Chuẩn bị bằng cách nào? Bằng cách là chúng tôi tại nhà có cái sự sản xuất về cái ngành mình thích, chúng tôi bây giờ là ngồi yên không có hoạt động, giao cái sự hoạt động đó lại cho người bạn đời của tôi và đứa con trai. Chúng tôi chỉ theo dõi cứ như vậy trong vòng gần 3 năm để xem coi thử là cái sự hoạt động đó nó ra làm sao, khi mà chúng tôi thấy là những người mà có thể thay thế thì lúc đó chúng tôi mới quyết định từ bỏ. Đó là cái sự chuẩn bị và đồng thời cũng chuẩn bị cái tư tưởng cho những người nhà, cho con tôi, con tôi thì tới 5 đứa đang đi học và cái người bạn đời của chúng tôi nữa, chúng tôi cũng chuẩn bị cái tư tưởng, coi thử họ có đồng ý không thì chúng tôi cũng đem ra bàn bạc trong gia đình, thì mọi người đều đồng ý cho tôi được nhập thất.

Họ cũng cứ nghĩ rằng chúng tôi nhập thất trong 3 năm thôi, sau 3 năm là chúng tôi trở về lại, nhưng khi bây giờ chúng tôi đã vào theo Thầy mà tu tập thì chúng tôi thấy rằng là chuyện phá bỏ thì không thể nào mà trở lại đời sống mà của người cư sĩ nữa, vì khi mà đã tu tập và trải qua được cái đời sống độc cư, rồi đời sống của một kẻ xuất gia. Ví dụ như bây giờ tôi trở lại trong gia đình thì chúng tôi không thể nào mà ăn trở lại ngày 3 bữa được, bây giờ ăn một bữa thôi mà nếu ăn nhiều đã cảm thấy trong thân nó mệt mỏi rồi. Bây giờ ngủ chẳng hạn, bây giờ nếu tôi nằm ngủ quá 2 tiếng nếu không thức dậy thì nó rơi vào mộng, muốn cho nó không rơi vào mộng thì chúng ta ngủ đủ cái mức độ tới thức của nó thôi thì tỉnh dậy, tỉnh dậy rồi thì nó đâu có mộng được. Nhân cái chỗ này để nói đến cái chỗ mà làm chủ cái ngủ, nếu mà chúng ta làm chủ được cái ngủ thì đương nhiên là chúng ta đã vượt qua được cái tưởng, vì chúng ta tỉnh rồi thì ngủ đủ thức của nó mà chúng ta tỉnh dậy thì mộng nó không thể xâm nhập vô được. Cũng như khi chúng ta ngồi thiền mà nếu như ý thức chúng ta luôn luôn tỉnh thì không thể nào mà có cái tưởng nó xen vô được. Đó là chúng tôi xin nói đến cái chuyện xả bỏ.

Bây giờ nói đến cái chỗ mà nhập các định. chúng tôi thì không tu tập nhanh như thầy Thiện Thuận mà chúng tôi đi từ từ, bây giờ nếu mà nói qua cái kinh nghiệm tu tập thì nó mất thì giờ nhiều của quý Thầy lắm, cho nên chúng tôi chỉ nói đơn sơ thôi. Ví dụ như bây giờ vô Sơ thiền, chúng tôi thường nghe theo lời Thầy giảng dạy cũng như theo trong kinh điển Phật thì Sơ thiền thì chúng tôi sử dụng cái hơi thở mà không có Tầm nhưng mà còn Tứ. Thở bình thường không có vọng tưởng nhưng mà còn tác ý.

Rồi tới Nhị thiền, tức là chúng tôi chỉ thở nhẹ lại một chút, điều khiển cái hơi thở cho nó nhẹ lại một chút mà không có tác ý nữa, tức là không Tầm mà không Tứ thì nó là vô Nhị thiền. Đơn sơ vậy thôi. Sơ thiền là mình cứ thở bình thường, mà không có vọng tưởng nhưng mà còn tác ý. Lâu lâu mình nhắc nó cái, tức là mình tác ý, mình tác ý cho nó đi tiếp tục, chứ nếu mình không tác ý thì là nếu mà cái người mới tu thì vọng tưởng nó xen vô. Cho nên mình tác ý thì là nó vọng tưởng nó hết xen vô thì tức là mình ở trong Sơ thiền, thanh thản mà đi, thì đó là Sơ thiền. Còn bước vô Nhị thiền thì chúng ta ngưng cái tác ý, thở nhẹ, không Tầm, tức là không có vọng tưởng, mà không Tứ tức là không tác ý mà nhẹ lại thì là nó vô Nhị thiền.

Vô Tam thiền thì chúng tôi khác với thầy Thiện Thuận là tu tập rất là lâu. Tại bước vô Tam thiền, trước khi mà chúng tôi bước vô Tam thiền thì tôi là người không nghe lời Thầy cho nên là ngồi nhiều quá. Tôi ngồi cho đến khi tôi tăng lên đến 4 giờ, thì bắt đầu cái chân nó bị nứt ra thành vết thương. Mà bây giờ các Thầy cứ tưởng tưởng cái vết thương của chúng tôi chỉ là một ghẻ nhỏ ở bàn chân thôi, ở cái chỗ mà chéo cái chân lên đó, thì cái chỗ đó là cái chỗ mà điểm căng thẳng nhất chéo chân lên thì nó trở thành cái vết thương, chúng tôi ngồi trên cái vết thương đó có cái máu nó chảy ra thì suốt như vậy cho đến bây giờ vẫn chưa có lành, sắp lành rồi, như vậy là gần 1 năm.(BBT:CĐ,09A,E00:39:32)(BBT:BN,08,E01:31:39)

BĂNG SỐ 09

(BBT:BN,09,B00:00:00)(BBT:CĐ,09A,B00:40:11)Qua buổi giảng của Thầy, Thầy chỉ nói câu rất ý nghĩa. Thầy bảo là cái quan trọng không phải ở chỗ ngồi, quan trọng ở chỗ tịnh chỉ được các hành, cho nên tôi suy nghĩ, cho nên là tôi ngưng, cho nên tôi không có ngồi chéo nữa, không có ngồi kiết già nữa mà chỉ có ngồi dựa lưng vào ghế. Nhưng mà bây giờ nói đến cái chỗ kinh nghiệm, cái chỗ dựa lưng vô ghế này, các thầy đừng nghe nói là ngồi dựa lưng vô ghế cũng nhập định được. Ở chỗ này là phải biết lúc nào là ngồi dựa lưng vô ghế mà nhập định được. Quan trọng là ở chỗ pháp hành, ngồi dựa lưng vô ghế là nó buồn ngủ dữ lắm. Mà ai chưa phá được thì đừng ngủ, chưa đủ thức tỉnh thì ngồi cỡ 10 phút, 15 phút, 20 phút là nó buồn ngủ. Nó không rơi vô ngủ nó rơi vô thùy miên, nó không rơi vô thùy miên thì nó rơi vô vô ký. Thành ra là Thầy cho tôi ngưng đúng vào lúc mà tôi ngồi ghế không còn bị sâu vào giấc ngủ nữa, cho nên tới bây giờ thì tôi ngồi đến gần 5 tiếng liên tục dựa lưng vào thành ghế không nhúc nhích mà nó cũng không rơi vào ngủ. Đó là nói chút kinh nghiệm về vấn đề là ngồi ghế.

Mà bây giờ sau khi Thầy cho tôi ngưng không có ngồi chéo nữa cho đến bây giờ là gần 2 tháng rồi (..) mà cái vết thương ở chân nó chưa có lành, còn một chút xíu nữa. Vì vậy cho nên quý thầy cũng thấy bữa ăn nào Thầy cũng cho tôi bưng cơm về thất ăn. Là tại sao? Tại Thầy, Thầy nói rằng bảo vệ cho thật kỹ để cho vết thương nó lành. Nó lành rồi thì mình muốn ngồi bao giờ mình ngồi. Nhưng mà qua cái chỗ này tôi rút kinh nghiệm là cái ngồi chéo đó là lúc chúng ta bắt đầu tu. Thầy nói câu chúng tôi rất là thấm thía: Ngồi chéo là để mà kiết cái thân lại để cho vọng tưởng nó đừng xen vô lúc mới thôi, còn bây giờ chúng ta đã làm chủ được hơi thở, chúng ta đã có sức định thì ngồi chéo hay ngồi ghế hay là đi đứng hay nằm thì nó cũng như nhau. Không có quan trọng gì chỗ ngồi chéo đó. Thì ở chỗ này quý thầy thấy rằng là ngồi chéo tức là chúng ta dùng tư thế đó để buộc tâm lại, cho nó đừng có cái sự bung ra hay là nó vọng tưởng ra. Còn khi chúng ta đã điều khiển được nó rồi, tâm ta mà ta đã điều khiển được nó rồi thì ngồi ghế cũng có cái lợi là chúng ta tập tỉnh mà nó không có bị gục.

Qua một điểm nữa chúng tôi cũng xin góp thêm một chút xíu nữa: Vấn đề ngưng các hành và tác ý.

Thì từ hồi nào đến giờ chúng tôi vẫn là ám thị nhắc nhở nhưng mà nó không có kết quả. Sau này khi Thầy nhắc chúng tôi là tác ý cho mạnh, ám thị cho mạnh, ám thị cho cương quyết. Thì chúng tôi bắt đầu luyện tập cách ám thị cương quyết này, tức là ra lệnh cho mạnh thì mới ngưng được các hành. Thì các thầy cứ tưởng tượng rằng là khi phổi ta nó đang thở, các cơ trong cơ thể chúng ta đang hoạt động thì tức là cơ thể ta đang hoạt động mà chúng ta ra lệnh: Ngưng. Làm sao mình ngưng được. Thành ra phải có sự tập trung năng lực tinh thần rất là mạnh. Thầy bảo là: Đừng có nói là hơi thở ngưng, các hành ngưng. Đừng có ra lệnh vậy. Phải ra lệnh mạnh: Các hành ngưng. Hơi thở ngưng(BBT:CĐ,09A,E00:44:27) (chỗ này nghe băng mới thấy được nhấn mạnh giọng)(BBT:CĐ,09B,B00:00:06) thì sau lệnh đó là tự động nó tập trung vô tụ điểm liền. Nếu mà các thầy chưa có tập trung được cái tâm của mình vô tụ điểm thì sự ám thị đó nó cũng không có kết quả.

Cho nên sau khi ám thị rồi chúng ta bám hơi thở chậm liền, phải đưa hơi thở đi vào chỗ chậm liền, chậm liền. Thì bây giờ muốn vô Tam Thiền thì nhẹ chậm ở mức độ nào? Muốn vô tới Tứ Thiền, mặc dù là chúng tôi chưa đạt tới Tứ thiền nhưng mà chúng tôi cũng thấy bóng dáng của Tứ thiền.

Cho nên chúng ta đừng nghĩ rằng là vô một mạch từ sơ thiền tới tứ thiền liền đâu. Không. Khi vô sơ thiền thì chúng ta nương hơi thở nào để vô sơ thiền. Vô sơ thiền được rồi muốn vô nhị thiền thì chúng ta phải ra hơi thở trở lại, ra hơi thở lại chúng ta mới vô được Nhị thiền. Là thở nhẹ mà không có tầm, không có tứ. Đang không tầm, không có tứ, muốn vô Tam thiền thì chúng ta phải ra hơi thở lại. Cho nên đức Phật mới bảo là vô tới Diệt Thọ Định Tưởng thì cũng phải nương hơi thở là ở chỗ đó. Vô Tam thiền rồi muốn vô Tứ thiền thì chúng ta phải ra hơi thở lại, tác ý ra ra hơi thở lại đi ngay từ đầu. Giờ mà đi vô lại luôn cái hơi thở đó, giả sử vô Tam thiền hơi thở nó chậm ở mức độ nào mà vô Tứ thiền thì hơi thở nó chậm ở mức độ nào.

Hoặc tác ý mà ám thị cũng vậy, nếu chúng ta ám thị mạnh là nó bị động, khi vô Tứ thiền thì ám thị đó nó phải nhẹ lại, nhưng nhẹ lại và nó chậm lại ở mức độ như thế nào để cho ý thức nó ngưng.

Nói đến đây chúng tôi cũng xin nói một chút kinh nghiệm về vấn đề mà khi chúng tôi ngưng được cái ý thức, thì tưởng nó xen vô đấy, ý thức không hoạt động thì tưởng nó hoạt động. Thì chúng tôi cũng đã gặp trường hợp ý thức nó ngưng tưởng nó xen vô, thấy thân mình bay lên, nó bay lên rồi hạ xuống nó ngồi lại 3 lần như vậy nhưng mà chúng tôi bình tĩnh, chúng tôi nói rằng đây là tưởng cho nên là ta không theo nó, ta chỉ theo hơi thở thôi, cho nên nó phải ngưng. Rồi khi mà ý thức chúng tôi ngưng như vậy vô trình cho Thầy liền, thì Thầy nói là: đến lúc ý thức ngưng thì tưởng thức hoạt động mạnh cho nên con phải xả tưởng. Xả tưởng là ở trong Tam thiền, tức là phá hỷ. Các thầy nghe nói phá hỷ chứ chưa biết phá hỷ là phá cái gì, phá hỷ tức là xả các trạng thái tưởng. Các trạng thái tưởng thì nó gồm có 6 cái tưởng: sắc tưởng, thinh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng. Thì con phải phá 6 cái tưởng này, con đừng có theo nó và đừng có một mầm mống gì để cho về thần thông.

Chúng tôi nghĩ rằng lúc mà ý thức của chúng tôi nó ngưng mà chúng tôi mống một cái gì là nó có cái đó, chúng tôi mống một cái là cái thân nó bay lên, là nó bay. Mà chúng tôi mống một cái, nhớ tới cái gì là nó nhớ tới cái đó. Nhưng mà đó là tưởng cho nên Thầy bảo rằng không có được đi vào con đường đó. Đi vào con đường đó tức là đi vào con đường Định Tưởng.

Thì chúng tôi thấy được là khi ngưng được ý thức, chúng ta nhập vào 4 cái định tưởng được, tôi hỏi thầy Thầy nói dễ dàng chứ không khó khăn gì. Nhưng mà nếu bây giờ con nhập vô định tưởng thì nó mất thời giờ, cái thứ 2 là nhiều lúc con đã vô đó rồi con mê thì con không có ra được. Do đó chúng tôi không có dám vào. Nhiều lúc chúng tôi cũng có khởi niệm trong đầu là vô thử coi cái định tưởng này nó ra làm sao? 4 cái định tưởng tức là Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là trong kinh nói và theo lời Thầy dạy. Chúng tôi nghe vậy chúng tôi biết vậy và chúng tôi không có dám vào. Tại vì vào là chúng tôi sợ bị mắc dính vào đó và nó mất thì giờ. Và các thầy, quý thầy rút cái kinh nghiệm của tôi thì để đi cho được nhanh. Chúng tôi đi chậm vì lý do thứ nhất là cứ bị lạc vào cái tưởng, đi mà chậm nữa là chúng ta bị lạc vào chỗ hôn trầm thùy miên, vô ký. Nếu mà bây giờ mà cứ nằm mãi ở trong cái tưởng thì chúng ta cứ ở trong đó thôi, chứ nó đâu có tiến sâu thêm được nữa. Muốn tiến sâu thêm được nữa thì chúng ta phải ra hơi thở để mà dẹp cái tưởng đi. Dẹp cái tưởng đi và chúng tôi ngưng hơi thở thì chúng tôi mới tịnh chỉ tiếp các hành cho nó ngưng hẳn hoàn toàn.

Tại nói như vậy chứ các hành nó ngưng rồi nó cũng phóng lại, ý thức cũng vậy. Cái ý thức của chúng ta nó ngưng, nhưng nó ngưng tới mức độ nào mà chúng ta đang tập luyện thì như tôi hiện giờ nó ngưng được 2 tiếng, 2 tiếng rưỡi mà 3 tiếng là nó bắt đầu sống lại à. Nó sống lại rồi mà bây giờ tôi muốn đi tiếp thì phải tác ý cho nó ngưng tiếp tục. Tại vì tôi không chuẩn bị cho nên là không ghi lại được nhiều. Thì xin góp một vài ý kiến đó để làm vui lòng thầy Thiện Thuận và theo sự cho phép của Thầy.

Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.(BBT:CĐ,09B,00:07:02)

Bây giờ Thầy tiếp tục. Sau cái trình bày trước là của thầy Thiện Thuận rút tỉa những kinh nghiệm, sau trình bày của Minh Tông. Các con thấy Minh Tông được Thầy chỉ dạy tận tình, có thời gian để chuẩn bị cho nên Minh Tông trình bày rất là kỹ, rất là quan trọng. Còn thầy Thiện Thuận bởi vì trình bày cấp tốc quá cho nên thầy Thiện Thuận trình bày, quý thầy mà theo cái kiểu thầy Thiện Thuận, Thầy thấy là phải ở gần sát bên thầy chứ lơ mơ là tiêu, không có dễ đâu.

Còn Minh Tông, các thầy nên nghe theo cái lời của Minh Tông đó mà tuần tự tu tập như Thầy đã dạy Minh Tông. Cho nên sau này thì Thầy mà ẩn bóng thì Minh Tông mà tu tập xong, có đủ duyên nó là người thừa kế cho Thầy. Vì cái trình độ văn hóa của nó thì trên Đại học. Và sự tu tập của nó, Thầy thấy từ ngày đến đây kỷ luật rất là nghiêm chỉnh và nó cắt ly gia đình hoàn toàn. Thầy thấy ít có người cư sĩ nào làm được như nó. Cho nên Thầy hy vọng nó là người thừa kế của Thầy sau khi Thầy ẩn bóng. Nhưng Thầy chờ cho nó tu xong, vì vậy mà lúc này Thầy thấy rằng trong Tu viện chúng ta có nhiều người có thể tin tưởng, rất là tin tưởng phật pháp rồi. Đó là qua hình ảnh tu hành thứ nhất là Mật Hạnh, thứ hai là Minh Tông, thứ ba đến đây là thầy Thiện Thuận. Như trình bày cho các thầy thấy sự nỗ lực đó không phải là do Thầy để mà chuẩn bị cho họ nỗ lực đâu. Chính cái tư tưởng, chính cái tâm họ tha thiết nhiệt tình với sự giải thoát mà họ đã chuẩn bị cho họ, Thầy chỉ là một người bạn để mà biết đường dẫn họ đi cho đúng thôi. Chứ còn cái tư tưởng đó họ phải chuẩn bị. Cũng như quý thầy hiện giờ quý thầy nếu mà chuẩn bị tư tưởng như vậy thì Thầy dẫn đường thì quý vị đi dễ. Còn quý thầy chưa có chuẩn bị như vậy, Thầy có dẫn đi đâu thì quý thầy cũng loành quành đó mà thôi chứ không đi đâu được. Quan trọng là ở chỗ tư tưởng. Cho nên nếu Minh Tông mà không chuẩn bị cho tư tưởng của mình mà dứt khoát tu hành thì phỏng chừng bây giờ dù là 10 năm chưa chắc đã đạt được. Tại vì tư tưởng chưa dứt khoát, có ngồi đây cũng chỉ là vô ích, còn làm hao tốn của đàn na thí chủ.

Mà nếu thầy Thiện Thuận không chuẩn bị cho mình trong khóa hạ năm nay, thì chắc chắn muôn đời thầy không có dịp gặp Thầy, mà không có dịp gặp Thầy thì con đường tu của thầy lỡ dở. Đây cũng là cái duyên mà thầy có tâm tha thiết nhiệt tình, cách đây 6-7 năm thầy đã có cái tâm muốn theo Thầy từ đó rồi. Nhưng cái duyên nó không đủ, thầy phải chuẩn bị 6-7 năm trời, cho đến hạ này là hạ cuối cùng thầy mới thấy là mình sắp xếp. Nhưng vẫn còn vướng bận chứ chưa phải. Cuối cùng mà thầy ở đây thầy phải xả nó bằng cách, rõ ràng là nó chướng ở trong bụng thầy, nó chướng lên đầu thầy. Đó là thầy phải còn dùng cái Định Vô Lậu để xả nó ra một lần cuối cùng. Thì như vậy đủ biết rằng cuối cùng thầy phát nguyện 3 y một bát như Phật, hành trang của một vị du tăng khất sĩ, không còn là một vị trụ thế tăng nữa.

Ở đâu cũng là nhà của họ, ở đâu cũng là nơi họ ở, chờ khi hết duyên là họ ra đi với một cách không danh không lợi. Đó là mục đích Thầy đã nhận thấy những người tu sĩ đệ tử của đức Phật ngày xưa thực hiện phạm hạnh của họ đầy đủ như vậy. Đến đây Thầy xin chấm dứt.

Những lời hôm nay, những kinh nghiệm hôm nay rất quý giá. Mặc dù từ lâu Thầy chưa cho Minh Tông nói ra những cái lời này, bởi vì Thầy biết ai mà tin mà nói, nói làm sao người ta tin được. Vì cái nhân duyên có thầy Thiện Thuận về đây, sẵn đó Thầy mới gợi ý với thầy Thiện Thuận có sự yêu cầu để mà huynh đệ rút tỉa nhau mà tu tập. Cho nên Thầy vui lòng nhận. Chớ sự thật Thầy muốn chờ cho Minh Tông thực hiện xong mới mở miệng…

Thầy sẽ dạy về Tẩu Hỏa Nhập Ma

Để cho quý thầy thấy lý do nào mà có ma nhập, và để rõ được con đường của đạo Phật giải thích ma nhập như thế nào. Chớ hầu hết là chúng ta cũng chỉ nghe Thầy nói tưởng thôi, chớ chúng ta chưa biết cái tưởng nào là ma mà cái tưởng nào là không ma.

Tại sao có tưởng ma nhập?

Đạo Phật xây dựng giáo lý của mình trên nền tảng Đạo Đức Nhân Quả, nên cái thế giới siêu hình không có ma. Nhưng bài Thập Nhị Nhân Duyên của Phật đã xác định rất rõ ràng là thế giới siêu hình không có. Vậy sao ở đây lại có tưởng ma nhập?

Mà thường thì ma nhập vào những người sống trong tưởng nhiều: đồng bóng, cốt và những người tu thiền tưởng sai.

Ở đây quý vị cần phải rõ trong thân ngũ uẩn của quý vị có 5 cái thức:

1. Sắc thức uẩn

2. Thọ thức uẩn

3. Tưởng thức uẩn

4. Hành thức uẩn

5. Thức thức uẩn

Bởi đạo Phật dạy rất rõ để chúng ta thấy được thân Ngũ uẩn, là 5 uẩn hợp lại làm thân của chúng ta. Rồi thế giới siêu hình nó ở chỗ nào, mà khi thân ngũ uẩn này tan hoại thì thế giới siêu hình đi về đâu? Nó có hay là không?

Đó chính là điểm đặc biệt của đạo Phật để thấy được thế giới siêu hình nằm trong chỗ nào ở trong các uẩn này.

Do vì vậy đức Phật xác định bài Thập Nhị Nhân Duyên như Thầy đã nói rồi, là qua bài Thập Nhị Nhân Duyên chứng tỏ rằng thế giới siêu hình không có. Nếu mà nó có thực thì nó phải có một cõi giới của nó. Mà đã có một cõi giới của nó thì phải có con người chúng ta đến đó rồi về đây. Đằng này hầu hết nói thế giới siêu hình thì chúng ta chỉ tưởng tượng mà thôi. Không thấy ai đi đến cõi đó rồi về nói rằng chứng minh được tôi thấy cõi đó như vậy như vậy.

Trong kinh Phật cũng đã xác định nhiều bài kinh nói về hướng này để chúng ta thấy rằng thế giới siêu hình không có. Mà bây giờ chúng ta đang sống bị bao vây bởi thế giới siêu hình làm cho người ta trở nên mê tín, người ta không biết có hay không, nhưng mà người ta vẫn thấy nó có. Cho nên đó là một điều rất nan giải cho con người ở thế gian này.

Khoa học bây giờ chứng minh cũng không được. Không làm sao chứng minh được thế giới này. Thế mà chỉ có Phật giáo giải quyết được, mà ít có ai giải nổi cái này ra. Họ cũng loành quành loành quành rồi nghe trong kinh điển của Phật cũng nói thế giới Chư Thiên, 33 cõi trời như thế này như thế khác. Họ cũng cho đó là thế giới siêu hình. Họ đâu có biết đó là cái gì mà Phật đã muốn nói.

5 cái uẩn này gọi là 5 thức:

1. Sắc thức

2. Thọ thức

3. Tưởng thức

4. Hành thức

5. Thức thức

Ở đây chúng ta phân biệt cho rõ ràng. Sắc thức thì dùng lục nhập. Lục nhập tức là mắt tai mũi miệng thân ý của mình. Cái thân của chúng ta hiện bây giờ hoạt động để mà chúng ta nhận thức biết được mọi vật, thấy hình sắc cũng như nghe âm thanh biết được mùi vị hương thơm thì hoàn toàn là phải do 6 thức này, tức là phải do 6 căn này (mắt tai mũi miệng thân ý).

Do vì vậy mà chúng ta mới nhận ra được các đối tượng xung quanh chúng ta, các pháp xung quanh chúng ta. Còn nếu cái sắc này mà không có 6 cái căn này thì họ sẽ không nhận ra được. Và cái nhận ra được mà ở trong cái nhận ra được đó mà biết, mà nghe, mà thấy, mà cảm giác được thì ở trong đó phải có cái thức. Cho nên gọi nó là lục nhập. Vì ở ngoài mà tiếp xúc vào nó thì nó phải xuyên qua cái căn đó để rồi cái thức nó mới phát hiện ra đó là một âm thanh, đó là một hình sắc, đó là một hương vị.

Vì vậy mà về cái phần sắc như quý thầy đã biết rằng mỗi con người chúng ta hiện đang sống trước mặt, đang ngồi đây nghe là chúng ta hoàn toàn đang dùng lục nhập của chúng ta để tiếp nhận những bài pháp mà Thầy đang giảng. Và cái sắc thức tức là cái biết của chúng ta hiện giờ luôn luôn hoạt động để chúng ta tiếp nhận những đối tượng bên ngoài tác động vào thân và tâm của chúng ta. Do đó cái biết đó gọi là sắc thức. Nói riêng thì nó là mắt tai mũi miệng thân ý thức. Mà nói chung thì gọi là sắc thức.

Còn về phần thọ thức, chính là cảm giác làm cho chúng ta khi bị xúc chạm làm chúng ta thấy biết được cái nóng, cái lạnh, cái đau cái nhức cái đớn thì đó là thọ thức. Nhưng ở đây thọ thức không quan trọng. Nó không quan trọng là vì đối với chúng ta giải về ngũ ấm ma thì nó không quan trọng. Nhưng đến tưởng thức thì rất là quan trọng.

Về phần thứ ba thì tưởng thức rất là quan trọng. Khi mà sáu căn của chúng ta mắt tai mũi miệng thân ý ngưng hoạt động, tức là nó ngủ đi, nó không hoạt động nữa, thì cái tưởng thức này nó trỗi dậy, nó sử dụng cái thân của chúng ta, cái sắc thân chúng ta. Thì một người mộng du, nó điều khiển thân người đó đi như thường. Đây là Thầy nói cái mộng đặc biệt gọi là mộng du, còn cái mộng thường của chúng ta là nằm mộng, cái thân nằm đó mà thấy mình đi đây đi đó thì cái đó nó không có đặc biệt lắm. Nhưng cái tưởng ấm ma nó thuộc về mộng du, cho nên Tẩu Hỏa Nhập Ma nó thuộc về mộng du, cho nên nó nhập vô chúng ta thì nó điều khiển được cái thân của chúng ta. Nhưng lúc bấy giờ cái người đó họ không biết. Thầy nghe nói những người mộng du thì họ đi ở trên tường thẳng được, họ đi trên mái nhà hiu hiu không bao giờ họ té, họ không sợ gì hết. Họ đi vòng vòng vậy rồi một lúc họ trở về họ nằm ngủ lại, chừng thức dậy họ cũng không hay biết gì hết. Đó là cái tưởng thức hoạt động. Cũng như một người lên đồng nhập xác, thì những người này trong lúc đó họ chẳng biết gì hết. Hoàn toàn ý thức họ, 6 cái thức của họ mà do sắc thức ngưng hoàn toàn. Nó để cho tưởng thức làm việc, dùng cái sắc thân của họ mà làm việc, dùng cái tứ đại của họ mà làm việc. Đó là cái tưởng thức. Vì vậy chúng ta nhận xét qua chỗ này mới biết những hiện tượng xảy ra mà người ta thường thấy có những sự siêu hình đều là do tưởng này mà ra.

Ở đời người ta thường nói người nặng bóng vía và người nhẹ bóng vía. Nặng bóng vía tức là không thấy ma, mà nhẹ bóng vía tức là người hay thấy ma. Mà người nhẹ bóng vía tức là người này sống trong tưởng nhiều, mà người nặng bóng vía tức là người sống trong ý thức nhiều. Cho nên người nhẹ bóng vía này nghe thấy ma thì thấy hình bóng ma. Đó là những trạng thái của tưởng lưu xuất từ tưởng nhiều tưởng ít mà thôi. Chớ không phải có thế giới có linh hồn người khác mà xuất hiện ra để nhập vào mình hoặc nhập vào thân của người khác. Đó là chúng ta xác định cho được để thấy cái tưởng thức nó đặc biệt và vi diệu mà hiện tượng xã hội chúng ta nhiều người đã từng nghe thấy biết trực tiếp mà người ta không giải thích ra nổi được.

Hành thức thì chúng ta biết rất rõ, mỗi cái hành động, mỗi cái điều kiện có cái gì thì trong cái hành của chúng ta đều có sự hoạt động thì phải kèm theo bên cái thức của sự hoạt động đó. Cho nên nó có sự điều động. Nhưng mà hành thức thì không quan trọng. Cũng như thọ thức nó không quan trọng. Nó quan trọng là khi mà cái thọ thức này hoặc hành thức này nó làm việc với cái sắc thức, thì lúc bấy giờ thân rung động cảm giác này kia nọ thì cái thọ đó nó cảm giác theo sắc thức, cũng như theo hành thức của nó mà nó xúc chạm. Do đó nó có cảm giác hoặc cái này cái khác thì do đó mà chúng ta nhận ra được cái cảm giác và cái hành động của chúng ta trong khi nó sử dụng cái sắc uẩn của nó.

Còn cái tưởng thức này thì nó đặc biệt riêng, nó sử dụng riêng. Nhưng trong cái sử dụng của tưởng thức thì nó cũng có thọ thức và hành thức chớ không phải không có. Cho nên trong giấc mộng chúng ta thấy ăn chúng ta cũng biết ngon, mà chúng ta có cảm giác. Thí dụ như thấy lửa cháy, lúc bấy giờ chúng ta chạy vào trong cái nhà để chữa lửa, chúng ta thấy nóng, thấy rát nhưng mà sự thực ra thì nó không có phỏng lửa và không có nóng rát khi chúng ta thức dậy.

Cho nên cái thọ ở trong tưởng thức nó vẫn có, trong cái hành của tưởng thức nó vẫn có vì nó có đi đây đi đó ở trong đó, cho nên nó phải có cái hành ở trong đó. Vì vậy cái thọ thức và cái hành thức chỉ là những sự phụ thuộc vào sự điều khiển của tưởng thức và sắc thức mà thôi. Như vậy thì quý thầy đã hiểu rõ trên cái hành thức và cái thọ thức thì nó không quan trọng, nó không tạo thành thế giới siêu hình mà nó chỉ phụ thuộc vào những cái sắc thức và thức thức mà thôi.

Bây giờ đến Thầy giải thích về cái thức thứ 5 tức là Thức thức.

Thức thức nó dùng gì? Nó dùng thức. Ở đây Thầy xin giải thích thêm để chúng ta thấy này.

Sắc thức thì dùng lục nhập: mắt tai mũi miệng thân ý.

Mà thọ thức thì dùng xúc. Cái thọ của chúng ta mà nó không có xúc thì nó không cảm thọ gì được hết. Nó phải dùng cái xúc nó mới có thọ được.

Mà tưởng thức thì nó dùng tưởng. Chớ nó không thể dùng mắt tai mũi miệng thân ý chúng ta được. Phải rõ cái chỗ này.

Hành thức thì nó dùng hành, chớ nó không dùng tưởng được mà nó cũng không dùng xúc được, mà nó phải dùng cái hành. Cho nên hành thức thì nó phải dùng cái hành.

Mà cái thức thức thì nó dùng thức. Nó không có dùng cái lục nhập này. Tức là khi chúng ta nhập Tứ Thiền, cái thức thức nó hoạt động thì nó lại không có dùng mắt tai mũi miệng thân ý chúng ta. Vì mắt tai mũi miệng thân ý chúng ta, Phật nói mắt là nhục nhãn, con mắt nhục không thể nào thấy xa ngàn dặm được. Cho nên nó phải sử dụng thức thức của nó. Thức thức nó phải sử dụng cái thức, tự nó sử dụng cái tâm của nó cho nên nó ngồi đây mà nó thấy muôn ngàn vạn dặm. Hoặc nó thấy trong quá khứ nhiều đời nhiều kiếp. Đó tức là cái thức đó đó.

Như vậy là chúng ta thấy biết được 5 cái thức này: sắc thức, thọ thức, tưởng thức, hành thức và thức thức. Nó sử dụng cái gì thì ở đây Thầy giải thích quý thầy rất rõ.

Mặc dù ở trong kinh không có nói bài này, nghĩa là trong các kinh Phật không có giảng bài này như vậy nhưng mà qua cái sự hiểu biết của Thầy trong sự tu tập, Thầy biết rằng trong thời đức Phật chưa có người thưa hỏi ngay điều này cho nên không có bài giảng này. Trái lại vì trong thời chúng ta nó có những ma chướng như vậy, cho nên Thầy mới giải thích cái này để chúng ta thấy rằng cái thọ nó dùng cái gì, mà cái sắc thức nó dùng cái gì, mà cái tưởng thức nó dùng cái gì, mà cái hành thức nó dùng cái gì và cái thức thức nó dùng cái gì.

Cho nên chúng ta nghĩ cái thức thức nó dùng cái sắc uẩn của chúng ta thì không được, nó sẽ dùng mắt tai mũi miệng thân ý của chúng ta cũng không được. Mà nó dùng tưởng cũng không được. Nó dùng xúc cũng không được. Mà nó dùng hành cũng không được. Mà thức thức nó chỉ dùng cái thức của nó mà thôi. Tức là tâm dụng tâm đó. Người ta nói tâm dụng tâm đó. Hay một danh từ của Thiền tông thì nói thể dụng thể đó. Nó không có dụng cái chuyện khác được mà nó dụng ở nơi nó. Cho nên nó dẫn tâm về Tam minh là cái chỗ này. Vì vậy sau khi nhập Tứ Thiền quý thầy sẽ thấy rõ cái này.

Sắc thức dùng lục nhập là mắt tai mũi miệng thân ý căn. Mà ý căn là bộ óc của chúng ta, chủ thể điều khiển toàn thân qua các căn của nó. Nghĩa là cái ý căn, đương nhiên chúng ta thấy cái bộ óc của chúng ta là ý căn. Có nhiều người cho ý căn là trái tim của chúng ta. Nhưng mà sự thật không đúng. Trong kinh thường có chỗ cũng giảng nói ý căn là trái tim của chúng ta, như bây giờ nói nhãn căn là con mắt của chúng ta, mà nhĩ căn là lỗ tai chúng ta, mà tỷ căn là lỗ mũi chúng ta thì cái đó chỉ rất đúng. Nhưng mà đến ý căn thì hầu như người ta không hiểu đức Phật muốn nói cái gì. Nhưng mà chúng ta xét trong thời đại chúng ta, chúng ta biết rất rõ là vì khoa học có hẳn hòi. Bởi vì ý căn là bộ óc của chúng ta. Nó điều khiển toàn thân của chúng ta. Cho nên hiện bây giờ chúng ta sử dụng ý căn là một điều kiện rất tốt cho nên do sự hiểu biết này mà Thầy tận dụng ý căn của Thầy tu tập ở trong 4 thiền. Nương vào hơi thở để điều khiển cho nó từ chậm nhẹ cho đến khi nó ngưng hoàn toàn là do ý căn. Nếu mà chúng ta dùng tưởng thức mà điều khiển là chúng ta sẽ lạc.

Cho nên hầu hết một số người chưa biết cho nên người ta tưởng ý căn là trái tim của chúng ta. Thì người ta dùng cái tưởng mà người ta tu thì người ta sẽ bị lạc. Đồng thời người ta cứ bắt buộc cái ý căn phải ngưng hoạt động, không cho nó hoạt động, thì điều đó là người ta sẽ đi lạc mất, bởi vì ý căn mà ngưng thì chủ thể điều khiển cái thân cũng như ông vua điều khiển cái nước, mà ông vua bây giờ không điều khiển được thì người ta sẽ cướp nước ông. Do đó mà chúng ta biết cái ý căn nó rất quan trọng chứ không phải nhãn căn hay nhĩ căn quan trọng đâu, mà cái ý căn rất quan trọng, nó là cái bộ óc của chúng ta. Nhưng mà để người khác mà vào bộ óc chúng ta nó điều khiển trong đó thì guồng máy của đất nước đó sẽ bị mất.

Thì hôm nay chúng ta thấy ý căn là vấn đề rất quan trọng, bởi vì cái sắc này thì nó phải có cái ý căn, mà cái ý căn là cái vấn đề điều khiển toàn thân của nó, cho nên chúng ta muốn điều khiển sống chết do ý của chúng ta, ý căn đó. Vì vậy mà chúng ta mới làm chủ được cái sống chết của chúng ta. Do ý căn đó mà chúng ta mới chấm dứt được sự luân hồi, mới phát triển được trí tuệ. Nếu không có ý căn chúng ta chẳng phát triển.

Cho nên có một số người dạy tu thiền là tu vô phân biệt, tu rồi không phân biệt gì hết. Thì như vậy là ý căn có làm việc gì đâu? Tỉnh táo đó, biết đó, ai đụng tới hỏi bảo gì thì nói mà không bảo gì thì không phân biệt gì thì có phải giống như người điên không?

Đó là những cái họ hiểu lầm, họ tưởng rằng khi vô phân biệt thì tức là nó sẽ được giải thoát hoàn toàn thành Phật. Cho nên có một vị thiền sư sai một người đệ tử: Con hãy vào trong lấy cho thầy một cái thùng để ra xách nước. Vị đệ tử này mới vô xách cái rổ đem ra. Cái rổ thì quý thầy biết nó có lỗ lỗ. Thế mà vị thiền sư cả cười, người đệ tử của mình chứng đạo rồi. Thì các thầy nghĩ như thế nào?

Đó là những cái mà người ta tập trung để ca ngợi phương pháp vô phân biệt, để đưa con người đi đến chỗ ngơ ngẩn, lầm lạc. Họ đâu có phải chết, họ đâu có phải là người chết, bởi vì họ đang ở trong trạng thái vô phân biệt, họ không phân biệt gì hết, cho nên họ vẫn thản nhiên xách cái rổ mà họ tưởng là cái thùng, họ đâu có phân biệt. Bảo họ xách cái cuốc, họ vô họ xách cái dao. Bảo họ làm cái này họ lấy cái khác thì cái đó là cái làm cho ý căn của chúng ta nó ngưng hoạt động, nó không còn phân biệt được nữa, nó không còn biết được nữa. Thì như vậy là hệ thần kinh chúng ta bị lạc rồi chứ gì? Đó, đó là một điều sai mà trong nhiều thế kỷ gần đây người ta tu theo thiền người ta bị lạc rất nhiều cái điều đó.

Thọ thức dùng xúc cảm giác mọi trạng thái hỷ lạc, khinh an, đau nhức, tê nóng, rát hoặc là nặng nhẹ, nhói, chạy rần trên thân người. Đó là những cái cảm giác mà chúng ta cảm giác khi mà cái thọ thức của chúng ta làm cho chúng ta biết những cảm giác như vậy.

Tưởng thức thì dùng tưởng nên luôn luôn tưởng về quá khứ và vị lai. Nghĩa là chúng ta xét thấy cái tưởng nó không bao giờ tưởng ở trong hiện tại được. Tưởng ở trong hiện tại thì nó không bao giờ tưởng được mà nó tưởng thì nó phải tưởng ở quá khứ và tưởng ở vị lai. Nó ngồi nó ước vọng về vị lai, nó là tưởng đó. Mà nó nghĩ ngợi, nó nhớ một cái gì ở quá khứ, đó là tưởng. Nó thuộc về loại ma đó, nó không phải là thuộc về loại tốt đâu. Cho nên từ cái nghĩ về quá khứ làm tâm ta đau khổ, làm tâm ta dày vò, ray rứt về quá khứ, những sự kiện gì xảy ra trong đời chúng ta. Mà khi tưởng nó sử dụng cái tưởng về quá khứ để làm chúng ta nhớ lại thì tâm chúng ta nó đã bị khổ. Vì vậy khi mà tâm bị khổ thì Phật bảo rằng đó là bị ma.

Về tương lai thì nó quyến rũ ta, cho nên đức Phật gọi nó khi mà cái tưởng nó khởi về tương lai, nó nghĩ như thế này: Ngày mai này mình sẽ tu tập, mình sẽ làm chủ được sanh tử, rồi mình ra đây mình mở một cái tu viện to lớn đồ sộ, mình hướng dẫn cả trăm cả ngàn người để cho họ theo tu. Mình làm sáng tỏ Phật Pháp lại. Nghĩ về vị lai như vậy đó là nó thuộc về bị ma tưởng cám dỗ chúng ta, lôi cuốn chúng ta, chúng ta bị ma rồi đó. Thì đó rõ ràng nó nhập vô đó. Nếu ý thức của chúng ta luôn luôn ở trong hiện tại thì ma tưởng không bao giờ nhập. Đây là những cái mà chúng ta thấy nó chưa đến đỗi làm rần rần người chúng ta rồi chúng ta mất cái biết đâu, chúng ta còn ý thức một bên, vậy mà ma nó vô đó. Nó cám dỗ chúng ta trong quá khứ và trong vị lai. Nó lôi cuốn chúng ta, nó làm chúng ta đau khổ mọi từng phút giây ở trong đó.

Cho nên có một bài kệ Thầy nhắc quý thầy:

Quá khứ không truy tìm

Vị lai không ước vọng

Đó là ma tưởng của chúng ta ở trong quá khứ và vị lai đó, cho nên chúng ta phải biết mặt nó để mà diệt trừ nó. Không có để nó xen vô ở trong quá khứ của chúng ta. Mà không để nó xen vô ở trong vị lai của chúng ta. Thì lúc bấy giờ chúng ta đang ở trong hiện tại. Thì đó là một nguồn giải thoát chơn thật nơi quý vị.

Nó không có môi trường hoạt động trong hiện tại. Đó là Thầy xác định cho rất rõ. Vì môi trường hoạt động của nó trong hiện tại không có. Bởi vì trong hiện tại phải có những đối tượng. Mà có đối tượng thì ý thức hoạt động. Cho nên vì vậy Thầy mới xác định được cái chỗ mà chúng ta tu thiền. Hơi thở chúng ta mất là bị tưởng, mà hơi thở còn là không bị tưởng. Vậy thì chúng ta khi mà vào định mà hơi thở mất thì chúng ta biết chúng ta ở trong trạng thái của đối tượng nào của ý thức, của định. Còn nếu mà cái trạng thái đó nó là tưởng thì nó làm cho chúng ta thích thú, tức là tưởng nó phải là dục rồi, nó đâu còn thanh tịnh nữa. Cho nên nó làm chúng ta thích, nghe mà ngồi nó hỷ lạc khinh an nghe khoái quá. Đó là chúng ta bị trạng thái tưởng chứ đâu phải là trạng thái của thiền định.

Phật nói định sinh hỉ lạc hay là ly dục sanh hỉ lạc đâu phải cái trạng thái khiêu khích chúng ta thích thú. Mà là một trạng thái rất là thanh thản. Làm cho thân tâm chúng ta thanh tịnh, càng thanh tịnh càng sâu mầu trong thanh tịnh. Nó mới lắng sâu được chứ. Còn đằng này cứ nghe yên yên, khinh an nhẹ nhàng là cho nó là định, là thiền. Hỏi ai mà tu có khinh an là thấy là được rồi, như vậy là tốt rồi. Điều đó là đưa người ta đi đến chỗ chết. Chưa biết trạng thái khinh an như thế nào mà dám xác định điều đó là dẫn người ta vào những định tưởng.

Nó không có một môi trường hoạt động trong hiện tại, chỉ có bố cục những hình ảnh, tâm lý, tình cảm con người qua những điều diễn biến trong cuộc sống hiện tại của người đó. Rồi diễn lại một màn ảnh, đó là trong giấc mộng của chúng ta. Khi tưởng thức dùng tưởng để hoạt động thì ý thức phải nghỉ ngơi. Nghĩa là lúc bao giờ mà tưởng thức hoạt động thì ý thức phải nghỉ, còn ý thức mà còn hoạt động thì tưởng thức nghỉ. Nghĩa là bây giờ chúng ta ngồi đây mà khởi vọng tưởng, đó là tưởng hoạt động. Cho nên cái biết của chúng ta hiện giờ mà nghĩ về quá khứ thì cái đó là tưởng chứ không phải ý thức của chúng ta đâu. Chúng ta phải thấy rõ, ý thức của chúng ta là cái thân sắc uẩn của chúng ta, là cái đối tượng của các vật tiếp xúc qua cái thọ chúng ta, thì nó phải có cái đối tượng tiếp xúc đó. Mà cái ý thức thì luôn luôn nó phải tiếp xúc ở trong cái đối tượng đó nên nó luôn luôn sống trong hiện tại. Mà khi chợt nó qua quá khứ thì cái đó là cái tưởng thức, hoặc là chợt nó đến tương lai thì nó là cái tưởng thức. Cho nên ở đây chúng ta rất dễ nhận được cái tưởng thức của chúng ta. Khi mà chúng ta nhận được tưởng thức hay hoặc là cái ý thức của chúng ta không khó khăn, cho nên thường thường người ta nói vọng tưởng (vọng tưởng là những niệm mà khởi lên ở trong đầu chúng ta), bây giờ chúng ta ngồi mà ức chế những cái vọng tưởng đó gọi là ức chế cái tưởng, chớ không phải ức chế cái ý thức của chúng ta đâu.

Còn ý thức của chúng ta đang biết hơi thở ra vô, đó là cái đối tượng của nó là ý thức, vì vậy mà cái ý thức của chúng ta dễ mất. Cái tưởng nó xen vô là ý thức của chúng ta mất liền. Cho nên chúng ta biết được cái phần nào hoạt động của cái người nào và cái trách nhiệm đó trong lúc đó nó là ai, chúng ta biết đó là ma hay hoặc là chính mình. Mà cái tưởng thức chúng ta đã nói là nó là ma thì tức nó phải ma thôi. Vì nó làm chúng ta đau khổ.

Bây giờ thì quý thầy đã nhận ra được cái nào là ý thức và cái nào là tưởng thức rồi. Thì bây giờ Thầy nhắc đến cái phần thứ 4 là cái hành thức. Hành thức thì nó dùng hành, nên ở đâu có hành là ở đó có sự hoạt động của nó. Bởi vì nó dùng cái hành mà. Nếu cái sắc nó hành động thì ngay đó là có nó. Quý thầy cứ suy ngẫm Thầy nói rất đúng không có sai. Bởi vì nó dùng cái hành. Nếu mà cái hành ở đâu có cái sắc hay cái tưởng ở đâu có thì ở đó nó sẽ sử dụng. Cho nên đến khi cái thức thức mà nó sử dụng cái hành thì ở chỗ cái thức thức nó sử dụng. Tức là cái thức thức nó hoạt động thì ngay đó thì nó mới có cái hành. Nghĩa là cái thức nó hoạt động thì ngay đó nó có hành thức liền tức khắc tại đó. Cho nên trong thức thức nó sử dụng thì tức là nó có cái hành. Cái hành đó thì ngay đó nó hướng tâm đến Tam minh thì nó thấy được nhiều đời nhiều kiếp nó đó.

Ở đây Thầy dạy quý thầy hiểu rõ được cái này để nắm được cái thân ngũ uẩn của chúng ta. Để biết để mà tránh ngũ ấm ma và Tẩu Hỏa Nhập Ma. Nó không có khó khăn gì hết, biết rõ rồi thì chúng ta sẽ không bị lầm lạc. Còn không biết rõ, bây giờ hầu hết số người tu thiền họ không biết rõ cái này, họ ngồi ở trong ma, họ ngồi trong thiền ma mà họ tưởng ngồi trong thiền chánh của họ. Bởi vì cái ma tưởng của chúng ta, ngồi đây hỷ lạc khinh an đó là ngồi trong ma. Cho nên cái sai là tại người không có hiểu mà dạy thiền mới đưa người ta đi đến chỗ chết, hoặc giả nó không tới, không tới là tại vì cái người đó chưa có nhiệt tâm tu pháp môn đó. Chớ còn người nào nhiệt tâm tu pháp môn nào đó mà người đó chưa rành các hoạt động của thân ngũ uẩn chúng ta thì người đó sẽ đưa những người khác đi vào chỗ chết. Hầu hết những người nhiệt tâm tu hành như thiền ông Tám hoặc thiền người này kia đó thì hầu như bị lạc vào, họ bị điên khùng đó, đó là trường hợp mà họ dùng tưởng quá nhiều và họ có sự nhiệt tâm tu hành. Còn cái người mà tu chơi chơi, tu sơ sơ thì họ không bị gì hết. Bởi vì họ tu cầm chừng thì không bị. Nhưng mà cái người quyết tâm tu thì bị. Cũng như người ta dùng như thế này, trên thân chúng ta thì do cái sự mà các nhà võ sỹ đạo, hoặc là nhà khinh công hoặc là nhà châm cứu người ta tìm những huyệt đạo trên thân để người ta giải trừ cái gì đó. Không biết mấy ông này cũng nghiên cứu ba cái đó, rồi nghiên cứu qua thiền rồi chuyển trên những cái huyệt đó để cho nó thông suốt cái này kia, không ngờ là mình tưởng ra những huyệt đó để thông suốt. Từ đó nó gây chúng ta có những cái trạng thái của tưởng, làm lệch lạc con đường tu chân chánh của đạo. Vì vậy mà khó có thể làm chủ sinh tử được.

Ở đây Thầy không thấy Phật dạy chúng ta phải khai triển huyệt này, khai triển huyệt kia mà cuối cùng thì Người làm chủ sanh tử hẳn hòi. Còn hầu hết là các nhà võ sĩ, khinh công hoặc là những nhà châm cứu y học thì họ tìm những cái đó để trị bệnh, điều đó là một cái điều Thầy thấy nó không đúng con đường thiền định của đạo Phật. Mà nó làm cho con người ta cứ nghiên cứu bên đây rồi lấy râu ông này cắm cằm bà kia, nó thành một cái pháp môn để rồi từ đó tu tập dẫn nhau đến điên khùng cùng nhau hết cả đám. Chớ chưa có một người nào lấy râu ông này cắm cằm bà kia mà thực hiện được đạo giải thoát làm chủ như đức Phật bao giờ? Trong cuộc đời chúng ta đã chứng kiến quá nhiều. Suốt gần sáu mươi mấy năm tuổi đời của Thầy, Thầy đã chứng kiến biết bao nhiêu người tu thiền định mà cũng chỉ vì những pháp môn không có người thực hiện được, chỉ tưởng ra rồi dẫn nhau mà đi trên con đường đó. Cho đến bây giờ chúng ta mới thấy được, tìm được một lối đi của đạo Phật chơn thật, thực hiện bằng ý thức, không phải bằng tưởng thức.

Bây giờ Thầy tiếp: như sắc hoạt động tại 6 căn thì hành thức hoạt động tại đó nên gọi là sắc hành. Nghĩa là bây giờ cái thân chúng ta hoạt động tại 6 căn chúng ta là mắt tai mũi miệng thân ý thì tại nơi đó chúng ta gọi là sắc hành.

Thọ hoạt động tại xúc thì hành thức hoạt động tại đó. Nghĩa là cái thọ mà nó tiếp xúc với đối tượng gì của nó thì cái hành thức nó sẽ hoạt động tại nơi đó. Nên gọi là thọ hành.

Tưởng hoạt động dùng tưởng, thì hành thức hoạt động tại nơi đó nên gọi là tưởng hành (Ở đây Thầy phân biệt từng cái, từng cặp một Thầy ghép lại để cho thấy sự hoạt động của thân chúng ta nó hoạt động từng cặp, hoặc hoạt động 3 cái hay 5 cái ở trong đó một lượt), gọi là tưởng hành.

Hành hoạt động tại hành, dùng hành nên gọi là hành hành.

Thức hoạt động tại thức, dùng hành nên gọi là thức hành.

Khi chúng ta hoạt động chung một việc trên thân ngũ uẩn, nghĩa là chúng ta làm chung một việc gì đó thì nó kết hợp câu hữu lại, với thọ thì gọi là sắc thọ. Nghĩa là cái cảm giác của chúng ta mà nó hoạt động kết hợp lại thì trong đó có hành có này kia đủ thì gọi là sắc thọ. Sắc kết hợp với tưởng thì gọi là sắc tưởng. Nghĩa là bây giờ cái sắc của chúng ta kết thọ, cái thân của chúng ta kết với cái cảm giác thì chúng ta thấy cái chân đau, thì đó gọi là sắc thọ. Còn nó kết với tưởng, cái sắc thì bây giờ chúng ta thấy hình ông Phật hiện ra trước mắt của chúng ta, mà không có ông Phật thì đó gọi là sắc tưởng.

Nếu mà nó kết hợp với hành thì gọi là sắc hành. Bây giờ thấy ông Phật ông đi, ông rờ tay trên đầu mình, ông xoa rồi ông ấn chứng cho mình một kiếp nữa sẽ thành Phật thì đó là sắc hành. Hoặc là cái sắc của chúng ta hành, nếu mà kết hợp với hành thì gọi là sắc hành. Như bây giờ chúng ta nó kết hợp với hành, thì cái tay chúng ta rờ đầu người nào đó, đó là nó kết hợp với hành thì gọi là sắc hành.

Nếu nó kết hợp với thức thì gọi là sắc thức, nếu nó kết hợp với cái thức của chúng ta, mà bây giờ chúng ta biết cái gì đó, thì cái đó ngay cái thân của chúng ta biết, thì cái đó gọi là sắc thức.

Thọ tưởng hành thức kết hợp từng cặp nhau cũng đều gọi như vậy.

Tóm lại,ở đây chúng ta chỉ nêu lên 3 cái thức, một là sắc thức, hai là tưởng thức và ba là thức thức. Đó là những điều quan trọng, nêu lên để chúng ta thấy còn những cái phần kia là cái phần câu hữu, kết hợp lại, nó bằng cách này bằng cách khác nó rất là vi tế ở trong đó. Chúng ta không phải là nhà duy thức học nên chúng ta không phân tích nhiều rườm rà và đồng thời nó cũng làm cho rối loạn. Cho nên Thầy chỉ nhắc sơ như vậy để chúng ta hiểu mà thôi chớ còn cái vấn đề đó chúng ta không cần quan trọng. Cần quan trọng là ở chỗ chúng ta tu tập làm sao mà để làm chủ sanh tử mà thôi.

Nhưng vì trường hợp xảy ra để chúng ta biết được thế giới siêu hình và cái ma mà nhập vào trong người chúng ta là do cái thức nào để chúng ta biết nó để mà chúng ta tránh trong thời gian tu tập thiền định, chúng ta biết được cái nào là tưởng thức, cái nào là sắc thức, cái nào là thức thức để chúng ta thực hiện cho đúng con đường thiền định mà thôi. Đó là cái ý ở trong cái bài này chớ không phải là giảng duy thức nói về 6 thức hoặc nói về tất cả những câu hữu, kết hợp của thân ngũ uẩn này bằng cách này bằng cách khác. Chia chẻ nó ra nhiều làm rối loạn thêm chứ không ích gì.

“Có 4 nguyên nhân đưa đến tu tập thất bại trong giáo pháp của Ta”.

Đây là lời đức Phật nói, như vậy là sau khi mà nói về vấn đề Tẩu Hỏa Nhập Ma, Thầy phân cho biết mấy cái thức, rồi đây là bài của Phật nói để chúng ta biết phải được như thế nào mà chúng ta tránh. Đây ông Phật cũng dạy chúng ta để chúng ta biết mà tránh chứ không phải riêng Thầy mà Thầy nói cái vấn đề này không.

- Một:Một vị thầy và học trò chưa thấu đạt sự thành tựu pháp môn và giáo giới của người cư sĩ mà vội vàng cùng nhau tu tập những điều chưa biết hay biết một cách lờ mờ, không rõ thì cũng giống như người chưa thấu đạt pháp ăn trái cây rụng để sống, và chưa thấu đạt pháp ăn củ rễ cây để sống mà vội vàng vào rừng thì những người này có sống được chăng?

Ông Phật ví dụ. Nghĩa là chúng ta chưa rõ cái giáo giới của Phật, pháp môn của Phật mà hiểu một cách lờ mờ chưa có chính xác rồi cùng nhau mà tu tập thì thử hỏi giống như là cái người mà ăn trái cây rụng, vô trong rừng lượm trái cây rụng để ăn, sống ở trong rừng, cũng như đi đào rễ cây củ trong rừng để ăn để sống, không cần ăn cơm nữa đó. Thì thử hỏi những người đó chưa có tập ăn như vậy, chưa bao giờ tập ăn lá cây, chưa bao giờ tập ăn trái cây rụng để sống, chưa bao giờ ăn củ để sống, ăn rễ cây để sống mà vội vào trong rừng mà ở thì những người này có chết không?

Nghĩa là trước khi chúng ta muốn sống ở trong rừng ăn trái cây rụng, củ rễ cây mà sống thì chúng ta phải tập và biết cái cây, cái củ nào, trái cây nào ăn được, trái cây nào ăn không được. Vô trong rừng đụng trái cây nào cũng ăn thì có điên không? Cho nên khi đó mình không biết mà đi vào rừng ở để không ăn cơm gạo thì người đó không bao giờ sống được. Cũng như một người chưa biết giáo pháp(BBT:CĐ,09B,E00:45:37), pháp môn, giáo giới của Phật như thế nào mà vội vàng tu tập thì cũng như những người đó. Đó là phần thứ nhất.

(BBT:CĐ,10A,B00:00:13)- Phần thứ 2:một vị thầy và học trò chưa thấu đạt sự thành tựu pháp môn giáo giới của Tỳ kheo mà vội vàng cùng nhau tu tập những điều chưa biết rõ hay biết một cách lờ mờ hoặc đầy ắp những kiến chấp 62 lập luận tà kiến trên mây xanh thì cũng giống như người chưa thấu đạt pháp ăn trái cây rụng để sống, chưa thấu đạt pháp ăn củ rễ cây để sống mà vội vào rừng thì có sống được hay chăng?

Đó, đức Phật ví dụ, bây giờ đến giai đoạn thứ 2, người mới hiểu sơ sơ thôi, chưa biết rõ giáo pháp của Phật thế nào, nghe đạo Phật cái nhảy vô lo tu thôi. Người ta bảo niệm Phật thì mình cứ tu thôi không biết gì cứ niệm hoài, đó là một cách lờ mờ, không hiểu. Còn bây giờ những người này thì họ lại khác hơn, nhưng mà họ có những kiến chấp đầy ắp 62 lập luận, ở đây Phật nói 62 lập luận chớ nó còn nhiều nữa kìa. 62 lập luận tà kiến trên mây xanh, họ bị kiến chấp vào những lập luận đó thì phỏng chừng họ có giữ gìn giáo pháp và giới luật của Tỳ kheo được không?

Như người ta nói: thõng tay vào chợ, tự tại vô ngại, đói ăn khát uống mệt ngủ. Thì như vậy cái giới luật của Phật họ nghe chấp vào tà kiến như vậy thì họ còn giữ được giới luật của Phật không? Đói thì mình ăn, khát thì mình uống là giải thoát rồi, còn gì nữa? Cho nên do cái chỗ chấp tà kiến như vậy để đưa người căn cơ còn thấp kém đi lên chỗ giải thoát được, thì họ bị tà kiến đó thì làm sao họ thực hiện được. Cho nên họ phải như người ăn trái cây rụng mà chưa quen mà vào rừng sống thì đâu có sống được. Đó là phần thứ hai.

- Phần thứ 3:một vị thầy và học trò chưa thấu đạt sự thành tựu pháp môn và giới luật của Ta mà vội vàng cùng nhau nhen nhúm lửa tại cuối làng hay cuối xóm để mọi người đến chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường thì cũng giống như người chưa thấu đạt pháp ăn trái cây rụng, củ rễ cây để sống mà vội vàng vào rừng sống thì có sống được chăng?

Đó đức Phật ví dụ. Bây giờ mình chưa có tu học gì được hết, mà mình nghe hiểu hiểu được một số giáo lý nào đó. Bắt đầu đi ra cất chùa, nhen nhúm tại ngă 3 ngă 4 nào đó, cái chùa cái miễu đó để cho mọi người đến chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường thì như vậy là giống như người ăn trái cây rụng mà chưa biết cách ăn trái cây rụng ở trong rừng như thế nào, để rồi sống ở trong rừng thử nghĩ người đó có chết hay không?

Tội lỗi tày trời, đọa địa ngục chứ đâu còn nữa.Đó là phần trong kinh điển Phật cảnh giác cho chúng ta rất là lớn, rất là vĩ đại. Chưa gì hết mà lo dạy đạo đó, đó là cái phần này đó.

- Phần thứ 4:một vị thầy và học trò chưa thấu đạt sự thành tựu pháp môn và giới luật của Ta mà vội vàng cùng nhau xây dựng một ngôi nhà tại ngã tư đường với lời nguyện: từ bốn phương nếu có tu sĩ hay cư sĩ nào lại thì ta sẽ cúng dường pháp tùy theo khả năng, tùy theo sức của họ thì cũng giống như người chưa thấu đạt pháp ăn trái cây rụng, rễ cây, củ để sống mà vội vàng vào rừng.

Đó thì đức Phật đã xác định cho chúng ta. Khi chúng ta tu chưa có tới đâu, chưa có thành tựu mà vội cất chùa lớn để nhận người. Rồi đem cái pháp mà chúng ta chưa thành tựu đó mà dạy người thì cũng giống như người ăn trái cây rụng mà chưa có tập ăn trái cây rụng để sống trong rừng, mà vào rừng lượm trái cây rụng mà ăn thì người này chỉ có ăn trái cây mà chết mà thôi. Chưa biết trái cây nào mà ăn sống, chưa biết trái cây nào mà ăn điên cho nên vô đó thấy trái cây rụng cứ lượm ăn thì kể như là chết. Vì vậy mà không phải chết một người mà chết bao nhiêu người.

Ở đây trong kinh Phật: từ 4 phương nếu có tu sĩ hay cư sĩ nào lại thì ta sẽ cúng dường, nghĩa là giúp cơm giúp gạo cho họ ăn đó. Nghĩa là như quý thầy về đây mà Thầy không rành thì đó là hình ảnh của Thầy đó. Dạy quý thầy bằng cách tùy pháp theo khả năng của mọi người, dạy ai nghe cũng hay hết, cũng thấu hết nhưng mà rồi tới chừng nó điên rồi, Thầy thí dụ như thầy Thiện Thuận ở đây mà đêm đó thầy điên luôn thì thử hỏi có phải Thầy là người không thông không hiểu pháp không? Nghĩa là không thông hiểu thì thầy Thiện Thuận phải tiêu rồi. Đâu làm sao mà giải trừ được. Đó thì quý thầy đặt thành vấn đề như ở trong đây một quý thầy nào mở cái chùa đi, rồi nhận chúng đi, theo kinh sách dạy đi, gặp trường hợp thầy Thiện Thuận thì chỉ còn có nước đem nhà thương điên chứ có làm gì hơn.

Quý thầy hiểu điều đó, điều rất quan trọng. Sinh mạng của người ta mà mình coi như là lông hồng à?

Mình lấy cái đó để mình kinh doanh, để cho mình làm giàu cá nhân mình, cho nổi tiếng nổi danh lên. Nhưng sự thật mình giết người mình đâu biết. Các thầy phải thấy được điều quan trọng, sinh mạng của người ta lớn lắm chứ đâu phải nhỏ. Đời sống của người ta phải lợi ích cho xã hội, lợi ích cho họ. Thế mà họ phải khép chặt, họ bỏ hết công ăn việc làm, bỏ cả vợ con, họ vào đây. Cuối cùng cuộc đời họ làm được cái gì? Ương ương gàn gàn chớ có làm được cái gì? Cho nên kinh điển của Phật dạy rất đầy đủ, tại sao người ta không đọc cái này mà người ta giảng cho mọi người biết. Tại vì người ta sợ quá.

Đó là 4 phần mà đức Phật đã xác định trong một bài kinh. Thầy thấy quá tuyệt vời. Để nhắc chúng ta khi làm thầy là chúng ta phải đạt được, cho nên khi Thầy ra thất Thầy thấy sự làm chủ của Thầy rất rõ. Thầy muốn đi hồi nào Thầy đi được, Thầy điều khiển được thân Thầy mà. Cho nên Thầy mới về Thầy bàn với Hòa thượng để Hòa thượng trắc nghiệm. Trên cái sự trắc nghiệm như thế nào? Nghĩa là trắc nghiệm qua sự nhập định của Thầy để xem Thầy có làm chủ được không? Nhưng mà Hòa thượng lờ qua chuyện đó, Hòa thượng lại hỏi qua những công án. Những công án đó làm sao mà Thầy không biết, Thầy biết cả tâm niệm của Hòa thượng nữa chứ đâu phải là biết công án đó không. Cho nên đối với vấn đề đó là vấn đề quá rõ ràng không thể nào mà không biết được. Nhưng ở đây mình phải thấy được trách nhiệm dẫn người đi có được hay là không, hay là phí cuộc đời người ta.

Vì vậy mà hôm nay tại sao Thầy tuyên bố ẩn bóng? Tại vì Thầy thấy quý thầy đến tu với Thầy mà không bỏ cuộc đời, không đoạn dứt cho nên Thầy bỏ Thầy đi. Chớ nếu quý thầy mà hoàn toàn người nào đến đây với Thầy mà đứt đoạn hết cuộc đời, trắng như vỏ ốc thì Thầy hoàn toàn Thầy ở đây dạy. Sau thời gian Thầy đã chứng nghiệm hai khóa rồi Thầy thấy hoàn toàn là ương ương gàn gàn, đời không chịu bỏ mà đạo thì muốn tu. Làm sao mà Thầy dẫn đi được, cho nên Thầy phải ẩn bóng mà thôi. Là Thầy còn thương đời đó, chớ còn không Thầy nhập diệt.

Đến đây quý thầy đã biết con đường của Đạo Phật thực tế và cụ thể giải thoát cho con người. Không còn mơ hồ, huyền bí mà chỉ có tu sai không đúng pháp của Phật thì mỗi ngày tâm dục, tâm sân càng to lớn và thiền định thì dễ lọt vào tà thiền khiến con người rối loạn, cơ thể mất trí trở thành điên khùng hoặc ông lên bà xuống, ợ ngáp, xưng ông này bà kia. Thật sự là do dùng tưởng ức chế tâm quá mạnh, làm cho cơ thể rối loạn thần kinh.

Cho nên muốn tu hành giải thoát theo đạo Phật thì quý thầy phải chọn một bậc minh sư, giới đức thanh tịnh, thiền định sâu mầu, trí tuệ bao la, sống ẩn bóng nơi rừng xa, lánh danh lợi và sự cung kính tôn trọng của thế nhân. Lời Người dạy là thước vàng khuôn ngọc, tức là lời đức Phật đã nói: một người tu sĩ mà khi có danh có lợi thì nên tránh sự danh lợi, cung kính đó đi. Cho nên lời đức Phật dạy Thầy thấy là khuôn vàng thước ngọc cho một bậc chân tu. Lời Phật dạy là thước ngọc khuôn vàng phải tuân theo, tu tập và sống cho đúng đời sống phạm hạnh của người tu sĩ thì con đường tu tập của đạo Phật không còn khó khăn vì nó có nhiều phương cách tu tập, trau dồi, dứt bỏ mọi tâm niệm uế trược, bất thiện, tham sân si mạn nghi để được tâm trong sạch thanh tịnh, không chướng ngại trước các pháp nào. Nhờ tâm được thanh tịnh như vậy nó mới chỉ được các hành trong thân, làm chủ sống chết. Từ nơi đó nó mới phát xuất trí tuệ vô lậu, chặt đứt mầm tái sanh luân hồi. Như thế sanh đã tận, phạm hạnh mới xong, những việc làm đã làm xong, không trở lui trạng thái này nữa. Tức là không trở về với sự sống chết của con người nữa. Nghĩa là chấm dứt một đời này mà thôi.

Bây giờ quý thầy đã hiểu Tẩu Hỏa Nhập Ma là thế nào rồi và biết cách để giữ thân tâm của mình lúc tịnh chỉ các hành mà không bị rối loạn cơ thể, tức là không bị ma nhập, tu theo pháp môn của đạo Phật không bao giờ bị ma nhập mà khởi ý muốn làm gì được nấy như trong Tứ Như Ý Túc Phật đã dạy. Để đến chừng Thầy dạy thiền, Thầy sẽ dạy quý thầy tu tập Tứ Như Ý Túc, còn bây giờ Thầy dạy quý thầy trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm.

Để tóm lược lại bài Hỏa Tẩu Nhập Ma,Thầy thấy điều mà quan trọng của quý thầy, cái thứ nhất là quý thầy sẽ nhận được cái ma tưởng của quý thầy ở thời gian nào. Như Thầy đã nói hồi nãy, nó ở thời gian quá khứ, cái ma tưởng nó nhập vô, là ở trong thời gian quá khứ và thời gian vị lai. Còn thời gian hiện tại là hoàn toàn là ý thức, không có tưởng vô đó được. Nghĩa là tưởng không hoạt động trong hiện tại được. Đó là điều kiện thứ nhất.

Điều kiện thứ hai là vì mình tu hơi thở, mà hơi thở là đối tượng của ý thức.Nhưng hơi thở có nhiều cấp độ chậm nhẹ, hoặc là có sự nối đuôi, hoặc là có sự lặn mất đi hoặc là có cảm giác hơi thở nghe nó khinh an. Đó là những cái theo hơi thở mà chúng ta biết được. Hơi thở hoàn toàn thanh thản, thanh tịnh, thì đó là hơi thở đúng của ý thức. Mà hơi thở có những trạng thái nào làm cho chúng ta thích thích ở trong đó, là cái tưởng đó. Bởi vì cái tưởng, chẳng hạn bây giờ Thầy ví dụ cho thấy rõ: mình chưa có ăn món đồ ăn đó mà mình nghe người ta nói ngon thì tức là mình tưởng ngon rồi. Đó là cái tưởng của mình đó, tưởng về đồ ăn. Ở đây thì mình thấy có sự thích ở trong hơi thở của mình, cái trạng thái khinh an thích thích, nó làm cho chúng ta thấy nó do đó chúng ta khởi ra cái đó là thiền định hoặc là này kia. Lúc bấy giờ không có vọng tưởng đâu vì có vọng tưởng thì nó không có cái trạng thái đó nhiều đâu. Nhưng mà cái người hết vọng tưởng rồi, hết tầm rồi thì cái đó nó xảy ra nhiều lắm. Vì khi mà hết tầm, tức là hết cái vọng cái tưởng tạp nạp, kêu là hết cái tưởng tạp nạp, thì cái tưởng kia nó mới xuất hiện ra được. Còn nó tạp nạp nó cứ khởi nghĩ này kia thì chắc chắn cái tưởng đó nó không có, cái tưởng kia nó không xen vô được. Mà chính chúng ta thấy được như vậy là chúng ta biết. Bây giờ ngồi đây vọng tưởng khởi nghĩ thì chúng ta biết tưởng. Nó tưởng về cái gì? Quá khứ và vị lai. Thì đó là chúng ta biết ma. Kế đó là chúng ta nghe hơi thở hoặc là cái ǵ trong thân chúng ta, hoạt động trong thân chúng ta hay thân chúng ta nhúc nhích nhúc nhích mà chúng ta nghe nó an lạc th́ đó là tưởng rồi. Cái đó gọi là hành tưởng đó. Nó bắt cái thân chúng ta nhúc nhích nhúc nhích. Hoặc là chúng ta chưa nhúc nhích mà cảm giác cái nhúc nhích của nó mà nghe có sự an lạc ở trong đó thì cái đó là hành tưởng rồi. Vì vậy cũng là ma tưởng nhập rồi đó.

Tất cả những hành động nào trong thân chúng ta mà có sự thích thú thì điều đó là sai đạo.Mà sai đạo tức là ma. Hôm nay Thầy tóm lại để quý thầy ngồi tu mà nhận ra được cái này thì mau mau chúng ta trở về hơi thở mà ổn định bình thường để lấy lại sự bình thường rồi bắt đầu tiếp tục đi nữa thì tưởng mất. Có vậy thôi. Không có trở về cái hơi thở nào được hết mà phải trở về hơi thở bình thường vì đó là trạng thái sống của ý thức chúng ta hằng ngày. Còn bây giờ chúng ta trở về hơi thở chậm nhẹ coi chừng tưởng nó thêm nữa. Quý thầy phải hiểu điều đó, chỉ có trở về hơi thở bình thường là bây giờ hơi thở 3 giây hay 4 giây thì quý thầy cứ trở về hơi thở đó. Cho nên cái cơ bản mà Thầy dạy cho các thầy là phải nắm cho được cái hơi thở bình thường. Dù một năm, hai năm cũng phải tập cho được. Để khi mà gặp trường hợp đó chúng ta trở về hơi thở bình thường thì cơ thể chúng ta hoạt động trở lại bình thường rồi thì không có ma nhập nữa. Cũng như bây giờ mình đang ngồi thở bình thường thì có con ma nào nhập được mình không? Phải không? Các con hiểu điều đó. Cho nên phải hiểu được chỗ này thì chúng ta mới không sợ ngũ ấm ma, không có sợ Hỏa Tẩu Nhập Ma nữa.

Đến đây Thầy xin dứt để chúng ta chuyển qua một bài khác để khỏi mất nhiều thời giờ, còn có 2 tháng nữa mà giáo án thì còn dài.

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

Bây giờ thì Thầy sẽ tiếp tục Thầy dạy quý thầy trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm. Tại sao phải trau dồi nó đây? Đây là một vấn đề mà có Chánh Đức hỏi Thầy, "Thầy cho con cái địa danh mà chưa cho con cái địa chỉ, địa danh thì chúng con biết rồi, nhưng mà địa chỉ chưa có thì làm sao chúng con tới nhà được". Cho nên ở đây bắt đầu chúng ta làm người cư sĩ, ở trong giai đoạn 1 mà, khi mà chúng ta thông hiểu được Phật pháp rồi, thông hiểu được những cái giáo pháp mà Phật dạy cho người cư sĩ phải tu cái gì. Thì bây giờ các con hiểu cái gì rồi? Các thầy hiểu cái gì? Thập Thiện, phải không? Thầy đã giảng Thập Thiện rồi thì đó là mình hiểu rồi. Nhưng mà các con chưa có trau dồi, chưa có tu tập gì được đâu. Nghe nói Thập Thiện vậy, nghĩa là thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, v.v.. nhưng mà các con chưa có làm được đâu. Nghe thì hiểu chứ chưa có làm được đâu. Bây giờ trau dồi nè, để mà làm cho được nè, đây là vấn đề quan trọng nè, mà đây là cái địa chỉ để cho các con đi tới cái nhà đó. Bởi vậy, Thầy dạy đâu nó có cái cách thức chứ không thể nào mà không mà nhào vô được một cái rột để mà chứng thành đạo quả Bồ đề được đâu liền, mà phải đi từng chút. Cái tâm của chúng ta bây giờ là cái tâm tham - sân - si, mà không trau dồi nó làm sao nó hết tham - sân - si. Mà phải trau dồi cái gì? Đâu phải hằng ngày mình nhắc nó hết tham, sân, si, rồi nó hết sao? Chưa đâu. Mình phải trau dồi cái gì để đối trị nó chứ. Cho nên Phật nói tâm từ đối trị sân mà, mà mình muốn hết sân thì mình phải trau dồi cái từ trước chứ. Còn giờ tâm chưa có từ mà lúc nào cũng nói để mà không sân thì chắc chắn người đó chưa bao giờ có được. Nhưng mà muốn trau dồi cái lòng từ của chúng ta thì phải trau dồi như thế nào? Chứ đâu phải bảo nó "tâm từ", "tâm từ", "tâm từ" được sao? Không có được đâu. Cho nên vì vậy mà ở đây chúng ta phải hiểu trước nó.

Trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm

Tâm có một giá trị hay không là do ở chỗ rộng hẹp của nó. Muốn tâm có giá trị thì phải trau dồi, tập sống được như tâm Phật, tâm thương chúng sanh rộng lớn vô bờ, vô biên.

Đó, mình phải tập sao cái tâm của mình rộng lớn được như vậy, trau dồi cho nó rộng lớn được như vậy thì mình mới thấy cái chỗ dứt ác, mà thể hiện thiện thì mới có thể được, mà tâm mà không thương yêu chúng sanh thì khó mà có thể dứt ác được. Bởi vì lúc người ta chửi mình ấy, thì đâu phải như một con vật bình thường kia hoặc là người bình thường kia cho nên chúng ta thấy thương dễ. Lúc mà người ta chửi mình chưa chắc đã là thương được. Nhưng tại sao mà người ta tu tập cái lòng từ đó, mà khi người khác chửi mình, mình thương họ được. Thì cái đó mới là đối trị được cái tâm sân. Cho nên chúng ta sẽ lần lượt, chúng ta sẽ trau dồi được thân tâm chúng ta bằng cách nào cho đúng pháp. Chứ không biết ấy, hầu hết là quý thầy cũng học Tứ Vô Lượng Tâm nhưng không biết cách thức trau dồi, cho nên tới bây giờ tâm từ của quý thầy có nói có thương không? Chắc chắn là tui đã biết nó như vậy, nhưng bây giờ chưa chắc tui đã thương khi mà người ta chửi tui. Đó, Thầy nói như vậy để quý thầy suy ngẫm lại cái con đường mà Thầy dẫn dắt quý thầy phải tập luyện từng chút. Tu là phải chịu khó tập luyện chứ đâu phải tu mà Thầy nói ran cổ họng Thầy nhưng mà quý thầy nghe rồi về để chơi thì chắc chắn là Thầy mệt mỏi quá. Nói để cho quý thầy về mà rèn luyện, trui luyện từng chút cái tâm của mình, để cho nó được từ, được bi, được hỷ, được xả. Thì như vậy nó mới lợi ích cho quý thầy, nó mới giải thoát. Còn nếu mà Thầy nói để quý thầy mà nghe chơi thì thiệt là mệt mỏi cho Thầy. Cho nên Thầy thấy quá khó. Chớ không phải biết ai là người nghe Thầy, ai là người không nghe, mà nghe để chơi cho nên cái đó là cái mệt mỏi.

Như Phật đã dạy, khi vào với đạo Phật, điều tiên quyết quý thầy phải thông hiểu. Đó thì như Thầy đã đem một số điều thông hiểu cho quý thầy rồi đó, những cái bài giảng trước là đem cho sự thông hiểu đó, chứ chưa phải là sự tu tập. Cho nên Chánh Đức nói câu nói rất rõ ràng: "Thầy cho con cái địa danh, chứ chưa cho con cái địa chỉ". Đúng vậy! Mình phải thông hiểu tức là mình phải thông hiểu cái tỉnh đó, nơi đó ra sao, cái địa danh đó như thế nào, thế nào... Mình phải thông hiểu tổng quát nó hết đi, rồi bây giờ bắt đầu cho địa chỉ để đến cái nhà đó. Đó, thì như vậy là một cái điều mà Thầy đã mở ra một cái vòng để cho thông hiểu đó, rồi tới đây chúng ta sẽ trau dồi, thì tức là cái địa chỉ để chúng ta đến nhà. Đây là cái bắt đầu để nhìn vào cái địa chỉ chúng ta đi, sau đó phải trau dồi, rồi tu tập và đoạn dứt. Đó, lần lượt, khi đó rồi trau dồi, rồi tiếp tục tu tập, rồi mới đoạn dứt nó.

Bây giờ quý thầy phải thông hiểu Tứ Vô Lượng Tâm như thế nào? Bây giờ mình nghe nói Tứ Vô Lượng Tâm, mình không biết tên họ nó là gì hết, không biết nó là sao hết, mình không hiểu nó là cái gì nữa thì như vậy là chỉ cái danh từ suông thôi. Cho nên mình cần phải hiểu thêm nó.

Tứ là bốn, Vô Lượng Tâm là bốn tâm rộng lớn mênh mông, phủ trùm tất cả chúng sanh, không thể lường, tính được. Đó là tứ vô lượng tâm, là cái nghĩa của nó, là cái tâm rộng lớn phủ trùm tất cả chúng sanh, không thể tính lường được chỗ nào hết, nghĩa là vô bờ bến. Vô Lượng Tâm là tâm vô cùng rộng lớn, thoátra khỏi mọi sự ràng buộc các dây mơ rễ má của mọi tâm lý tình cảm, thương ghét, giận hờn, tị hiềm, kiêu căng, nghi ngờ, ngã mạn của phàm phu, phá vỡ tà kiến, thân kiến, chấp kiến trước mọi trí tuệ mê mờ, lầm lạc.Đó là cái tâm nó như vậy đó. Nó làm cho chúng ta, cái thứ nhất là chúng ta hiểu nó rộng lớn mênh mông; cái thứ hai, nó rộng lớn mà thoát ra ngoài những sự ràng buộc của những sự trói buộc tình cảm của chúng ta, rồi nó thoát ra ngoài những thương ghét giận hờn, tỵ hiềm, kiêu căng, ngã mạn, mà nó còn thoát ra ngoài những tà kiến, thân kiến, chấp kiến trước mọi trí tuệ mê mờ, lầm lạc. Đó, chúng ta trau dồi nó, để mà chúng ta thấy được, chúng ta thoát ra được, cho nên nó rộng lớn như vậy, nó phải phủ trùm hết, nó phải hiểu biết, nó rộng lớn cho nên không có một tà kiến, không có một tình cảm nào mà có thể xen vào Tứ Vô Lượng Tâm này được. Chứ không phải là chúng ta tu Tứ Vô Lượng Tâm mà chúng ta hiểu một cách cạn cợt thì chúng ta làm sao mà rộng lớn được như vậy. Cho nên chúng ta càng trau dồi nó, càng ngày càng trau dồi nó thì nó càng rộng lớn và càng rộng lớn thì sự hiểu biết của chúng ta càng rộng lớn. Cho nên từ đó mà chúng ta mới thực hiện được cái tâm vô ngã, chứ đâu phải là dễ. Nếu không có bốn cái tâm này Từ - Bi - Hỉ - Xả, khó mà chúng ta thực hiện được tâm vô ngã.

Vô Lượng Tâm còn có nghĩa là đẳng tâm, là tâm b́nh đẳng. Tâm này tự nhiên, không so đo, cao thấp, hơn kém, phổ biến, ban rải mọi nơi, mọi chỗ, không giới hạn.Nghĩa là cái tâm bình đẳng, không có thấy người đó hơn mình, không có thấy mình hơn người đó, người nào cũng bình đẳng hết, từ con vật nhỏ tí ti cũng bình đẳng với mình, nghĩa là xem nó như mình chớ không thấy nó là con vật nhỏ. Còn chúng ta hở ra chút thì thấy có lớn, có nhỏ, đối xử với nhau nghe có khác lạ. Thấy con kiến thì mình đối xử như một con vật, chớ còn cái người mà tâm vô lượng này thì họ đối xử con vật như chính đối xử với một con người khác. Đó là những cái định nghĩa để chúng ta thấy được cái tâm vô lượng nó rộng lớn như vậy, nó vượt thoát mọi tà kiến, chớ không phải hẹp hòi ở trong chữ ban rải đối với chúng ta thương yêu một cách cạn cợt. Khi mà hiểu biết được như vậy ấy, thì chúng ta hãy cố gắng mà trau dồi nó, làm cho nó được rộng lớn như vậy.

Do trau dồi tâm bình đẳng này làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh thoát khổ, nên tâm này có công năng mang đến cho con người vô lượng phước báu. Nghĩa là trau dồi cái tâm bình đẳng này thì không bao giờ làm phiền lòng người nào hết, bởi vì mình biết ai cũng như mình hết, mình biết ai cũng thọ khổ, ai cũng như mình hết cho nên trước cái khổ của họ thì mình dùng tâm bi liền tức khắc. Người ta đang tức giận mình, thì ngay đó là tâm bi mình phải thực hiện liền. Như Thầy đã dạy, tâm từ là khi người ta bình thường, người ta không giận, không hờn gì hết thì tâm từ của mình đối xử mọi người rất là kính trọng họ, rất là cung kính họ, luôn luôn không bao giờ nói một lời nặng với họ, đó là tâm từ. Còn tâm bi, khi thấy người ta giận thì ngay đó là biết người ta khổ, do đó mình thực hiện tâm bi là trước cái khổ của người khác, một người đang bị bệnh, một người đang bị tai nạn thì mình mới dùng tâm bi. Tới cái chỗ đó Thầy sẽ dạy rất kĩ cho quý thầy thấy để mà chúng ta trau dồi tâm bi như thế nào, mà tâm từ như thế nào.

Mà nếu cái tâm Tứ Vô Lượng Tâm này, cái tâm bình đẳng này mà chúng ta đã trau dồi được nó thì cái thế giới này, cái con người này là hưởng hạnh phúc, an vui, thanh bình, không bao giờ mà có chiến tranh, có giặc giã nữa hết. Bởi vì, chúng ta từ con vật mà chúng ta còn biết thương y như mình thì thử hỏi con người làm sao chúng ta không thương hơn? Con người đã thông cảm nhau những nỗi khổ của nhau trong cuộc sống, có đâu mà lại tranh giành giết nhau. Cho nên cái tâm từ nó biến chúng ta trở thành một con người chung của mỗi con người.

Bốn tâm vô lượng này không những làm lợi ích cho chúng sanh an lành, hạnh phúc mà còn ban rải cho mọi nhà, mọi nước và cả thế giới trật tự, an ninh, thanh bình, không chiến tranh. Vô lượng ở đây quý thầy phải hiểu nghĩa của nó bao hàm nhiều nghĩa. Nghĩa chữ vô lượng ở đây nó bao hàm nhiều cái nghĩa của nó chứ không phải như hồi nãy Thầy nói tổng quát, chung chung để cho quý thầy thấy cái vô lượng của nó. Nhưng ở đây chúng ta phải phân ra, chúng ta thấy được nó có mấy cái nghĩa của nó ở trong cái bao hàm đó.

1. Vô lượng nhân lành: nóđem lại cái nhân lành cho mọi người, nó không làm cho mọi người đem cái nhân ác. Chẳng hạn một người chửi Thầy, Thầy nhịn, Thầy nhẫn, Thầy không bao giờ chửi lại họ, mà Thầy còn xuống nước Thầy năn nỉ họ, làm cho họ mát lòng, mát dạ, tức là gieo cái nhân lành cho họ, họ không còn chửi Thầy nữa. Đó là vô lượng nhân lành, còn chúng ta thấy người ta chửi mình thì mình chửi lại đó, đó là cái nhân ác, nó tiếp tục cái nhân ác nữa.

2. Vô lượng quả đẹp: Nghĩa làluôn luôn nó đem đến cho cuộc sống của chúng ta luôn luôn đẹp đẽ, không bao giờ có sự phiền toái trong đó, cho nên gọi là vô lượng quả đẹp, đến đâu thì nó đem cái đẹp đẽ đến đó, cái an vui đến đó.

3. Vô lượng chúng sanh: đối với chúng sanh nào cũng được an lành, cũng được đẹp đẽ hết chứ không phải có con người không, mà có cả con loài vật. Thầy ví dụ, như chúng ta mà có những cáiy áo mà bị một bầy kiến vào, thì lúc bấy giờ chúng ta thực hiện tâm từ thì không bao giờ mà chúng ta hề hấn đến cái sinh mạng của con vật. Chúng ta nghĩ tiếc bộ quần áo, y áo của mình, đem mà đập, giũ biết bao nhiêu là con vật chết? Như vậy là quý thầy có trau dồi tâm từ ở đâu? Loài vật nó đâu biết, trời mưa, trời gió nó mới vô đó để mà nó nằm, nó ẩn núp, ẩn mưa, ẩn gió, ẩn lạnh. Chúng ta không có thương, không nghĩ đến cảnh khổ, bây giờ giả dụ như mình ở ngoài trời kia, mà trời mưa trời gió chúng ta có chịu nổi không? Thì con kiến nó nhỏ nhít hơn, nó lạnh lẽo mà nó trốn, nó sợ nước trôi nó chết đi, nó quá sợ nó bu vô nhà chúng ta. Thì chúng ta có sợ nó thì chúng ta tìm cách ngăn ngừa nó trước đi, nó không vô nó đi chỗ khác nó lánh thân nó, đằng này để cho nó bò ngập nhà mình lên rồi bắt đầu mà quét, mà đùa, mà hốt, mà đốt, mà giải thì thử hỏi tâm từ của chúng ta chỗ nào, như vậy có đau khổ chúng sanh không? Như vậy là không có vô lượng chúng sanh được.

4. Vô lượng thế giới:nghĩa là tất cả thế giới, không phải trong cái thế giới của chúng ta không mà cả thế giới trùng trùng điệp điệp trên không gian này, thế giới nào chúng ta cũng phủ trùm hết.

5. Vô lượng đời kiếp: nghĩa là từ kiếp này đến kiếp khác, tức là vô lượng thế giới - nói về không gian, mà vô lượng đời kiếp nói về thời gian. Nghĩa là kiếp nào, đời nào nó cũng đẹp đẽ, cũng tốt đẹp, đem đến cho mọi người, mọi sinh vật ở trên thế giới này đều được an lành, đều được tốt.

Đó là năm cái điều kiện mà nó bao hàm cái nghĩa của nó, rộng đẹp như vậy.

2. Thành phần và hành tướng của Tứ vô lượng tâm

Bây giờ Thầy nói về thành phần của bốn cái tâm vô lượng này. Thành phần và hành tướng của bốn tâm vô lượng là:

1. Từ vô lượng

2. Bi vô lượng

3. Hỷ vô lượng

4. Xả vô lượng

2.1. Trau dồi tâm Từ vô lượng

Tứ vô lượng tâm là gì? Tứ vô lượng tâm là lòng mến thương của chúng ta vô cùng vô tận đối với tất cả chúng sanh, từ cây cỏ thảo mộc cho đến loài động vật, dù con vật hung dữ chúng ta cũng ban rải lòng từ, tránh vô tình gây đau khổ cho chúng sanh; thương mến, đem lại cho chúng sanh cái vui chân thật, cái vui mà do chính lòng từ mang đến, làm cho vạn vật vui mừng, cỏ cây tươi tốt, trong đó có mình.

Thì ở đây Thầy giới thiệu về Tứ Vô Lượng Tâm là nó gần gũi, hồi nãy thì nó bao la mênh mông, lần lần nó đi gần tới cái chỗ hạn hẹp, gần chúng ta thì chúng ta phải thấy cái lòng thương của chúng ta như thế nào. Đây là cái phần mà nó hạn hẹp đối với cỏ cây, cho nên đức Phật đi không có đạp lên cỏ nữa, đó là cái hành của Phật ngày xưa, thân hành của Phật đi không có giẫm đạp lên cỏ, tránh cỏ sợ nó bị giẫm đạp nó dập, nó héo úa mà thương xót nó đến như vậy. Đó là cái loài thảo mộc, còn chúng ta thì không như vậy. Cho nên ông Phật ông chấp nhận là theo đạo ổng thì lấy cái nghề đi xin ăn, không có làm hại một con vật, một cái cây cỏ nào hết. Còn chúng ta thì đụng đâu bứt bỏ hết, nghĩa là bứt đầu nó hết, nhổ luôn cả rễ nữa chứ đừng nói. Còn ông Phật thì không dám đạp lên, còn chúng ta thì đạp bừa lên hết, chỉ miễn là mình sạch sẽ thôi. Thật sự ra thì mình nghĩ rằng mình tu tập chứ chưa giống ông Phật chút nào hết, mình còn xa ông Phật lắm. Ông Phật tổ chức giáo đoàn của ông ta cũng vậy, khuyên lơn đừng có thế, thậm chí món ăn thừa thì ông cũng không có cho bỏ ở trên cỏ nữa, sợ cỏ nó vì cái chất mặn sẽ héo úa nó đi, bỏ ngoài đất trống thì đủ biết lòng từ của đức Phật như thế nào rồi. Do theo đạo Phật, thì chúng ta hãy cố gắng mà thực hiện cái Tứ Vô Lượng Tâm này.

Trong đời sống chúng ta có hai cái vui. Nói về lòng từ thì chúng ta phải phân biệt được cái vui này. Trong đời sống chúng ta có hai cái vui:

1. Cái vui bền bỉ chân thật.

2. Cái vui ngắn ngủi, giả tạm.

Như Phật đã dạy, là làm sao cho người vui mà mình vui và tất cả sanh linh, cỏ cây đều vui tươi. Đó là cái vui lâu dài, chân thật. Đó là cái tâm lòng từ, bi, hỷ, xả của chúng ta ban rải khắp muôn loài vạn vật. Cái vui đó bền bỉ, không bao giờ biến hoại, dù trước bất cứ cảnh nào nó cũng ban lòng từ rải khắp nơi. Vì thế mà sự vui kia mới được lâu dài. Đó thì hôm nay quý thầy nhận ra được cái vui mà cái vui lâu dài và cái vui không lâu dài. Rồi đây cái vui không lâu dài thì các thầy chắc tưởng tượng ra cũng được rồi. Thầy chưa giải thích nhưng chúng ta cũng sẽ hiểu được rồi chớ không khó gì. Nhưng đến đây Thầy xin ngừng lại.

Bây giờ Thầy tiếp tục cái bài học vừa rồi là Tứ Vô Lượng Tâm. Trong đời sống của chúng ta có hai cái vui. Cái vui thứ nhất là cái vui bền bỉ chân thật. Và cái vui thứ hai là cái vui ngắn ngủi giả tạm. Như Phật đã dạy là làm sao cho người vui mình vui và tất cả chúng sanh cỏ cây đều vui tươi. Đó là cái vui lâu dài chân thật. Đó là cái tâm từ bi hỷ xả của chính chúng ta ban rải khắp muôn loài vạn vật. Cái vui đó là cái vui bền bỉ lâu dài không bao giờ biến hoại, dù trước bất cứ cảnh nào nó cũng ban lòng từ rải khắp nơi. Vì thế mà sự vui kia mới lâu dài.

Còn cái vui ngắn ngủi, giả tạm, là cái vui ấy còn bị phiền não chi phối, khi tham sân si mạn nghi đòi hỏi được thì thỏa mãn, thì vui, còn ngược lại là buồn khổ. Cái vui này là vui theo dục lạc, được thì vui, mất thì buồn. Như chúng ta đã biết, dục lạc không bao giờ có thể thỏa mãn được hoàn toàn. Phật dạy:Kẻ ngu si, vô minh mới chạy theo vui dục lạc, nó là thứ dục lạc ảo giác, đâu có thật, chỉ có người trí mới biết mà thôi. Bởi vậy, cả hai lộ trình của Đạo Phật mà Thầy đã dẫn dắt chỉ cho các thầy biết để tu tập trên hai lộ trình này và tìm cái vui chân thật, nơi đó bền lâu, thoát ra ngoài vòng phiền não tham, sân, si, mạn, nghi và không bị dục lạc chi phối. Nó không ồn náo sôi nổi, ầm ĩ. Nó nhẹ nhàng, thầm lặng như một bóng, một hình trong cái vui của cảnh giới siêu phàm giải thoát nhưng lại hòa mình trong vạn hữu của vũ trụ. Cái vui bất tuyệt của vạn pháp, cô đơn mà lại không cô đơn.

Thì ở đây, quý thầy thấy mình phải đi chọn lấy cái vui nào là thật, mà cái vui nào là giả, vì cái Tứ Vô Lượng Tâm, vì cái tâm từ bi hỷ xả của chúng ta nó đem đến cho chúng ta một cái nguồn vui. Mà cái nguồn vui ở đây có hai nguồn vui: cái nguồn vui chân thật và cái nguồn vui không chân thật. Cho nên chúng ta phải biết cái nguồn vui nào không chân thật mà cái nguồn vui nào chân thật. Vì vậy mà phải so sánh hai nguồn vui này để chúng ta tránh cái nguồn vui không chân thật mà hãy tìm lấy cái nguồn vui chân thật để chúng ta thực hiện cái Tứ Vô Lượng Tâm này, để đạt được nguồn vui chân thật đó. Nếu không có 4 tâm vô lượng này thì không bao giờ chúng ta tìm ra được nguồn vui chân thật đó. Do vì vậy mà hằng ngày khi mà học cái bài này, hằng ngày muốn tìm được nguồn vui chân thật thì quý thầy phải trau dồi thân và tâm của mình trong ba hành động của nó. Nghĩa là thân hành, khẩu hành và ý hành. Hằng ngày trau dồi 3 hành động của thân của chúng ta như vậy thì chúng ta sẽ có được một nguồn vui chân thật và tâm thương yêu của chúng ta càng lúc càng rộng lớn.

Muốn được vậy thì chúng ta phải hiểu cái vui của đạo lâu dài thì người cư sĩ cũng như người tu sĩ phải hằng trau dồi thân tâm mình bằng pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm như Thầy đã nói ở trên. Vậy trau dồi như thế nào?

Trong thân ta có ba hành: một là thân hành, hai là khẩu hành, ba là ý hành.

1. Thân hành có hai: một là chân hành, hai là tay hành.

2. Khẩu hành có hai: một là ăn, hai là nói.

3. Ý hành có ba : một là ý thiện, hai là ý ác, ba là ý bất thiện bất ác.

 

2.1.1 Trau dồi Từ tâm nơi thân hành

Ở đây quý thầy khi muốn trau dồi nó thì chúng ta biết trau dồi chỗ nào? Cho nên Thầy ở đây Thầy vạch ra để cho quý thầy thấy chúng ta phải trau dồi trong những hành động đó để nó thực hiện được tâm từ bi hỷ xả ở nơi ba cái hành động đó. Mà mỗi hành động thì nó phải có những hành động riêng tư của nó như chân mình đi, tay mình thì cầm nắm bắt. Đó thì nó phải theo cái hành động đó mà mình trau dồi tâm từ bi hỉ xả của mình ở tại hành động đó.

Còn về khẩu, về miệng của mình thì cũng có hai cái hành. Một cái hành là ăn, một cái hành là nói. Như vậy thì chúng ta phải trau dồi cái ăn, cái nói của mình. Chứ nếu không, nói ra thì làm buồn khổ người, mà ăn không đúng cách thì nó làm hại thân mình.Cho nên tất cả những cái này nó đều làm cho chúng ta buồn khổ mà không có vui được.

Về ý hành thì nó lại có 3, nó nhiều hơn hai cái hành kia. Cho nên nó có cái thiện, cái ác và cái bất thiện bất ác. Cho nên chúng ta phải trau dồi, và lấy Tứ Vô Lượng Tâm trau dồi ba cái hành động của thân này để cho chúng ta thực hiện được cái tâm vui mừng, cái tâm rộng lớn, cái tâm biết thương yêu, cái tâm biết thương xót tất cả mọi loài.

Bây giờ quý vị bắt đầu trau dồi Từ tâm nơi thân hành của mình, nghĩa là bắt đầu mình vô mình trau dồi liền. Trước kia Thầy giới thiệu cho biết Tứ Vô Lượng Tâm như thế nào, rồi bây giờ chia nó làm hai cái vui của nó: cái vui lâu dài và cái vui ngắn ngủi giả tạm. Thì bắt đầu bây giờ chúng ta ngay vào chúng ta trau dồi. Còn bây giờ lý thuyết mà lòng vòng mà không có đi thẳng vào sự trau dồi thì chắc chắn là chúng ta cũng chẳng đi tới đâu được hết. Nghe nói mà không biết cách thực hành, không biết cách làm thì Tứ Vô Lượng Tâm này cũng chẳng qua nói suông suông mà thôi chứ không thể nào thực hiện được cái tâm từ bi hỷ xả chúng ta. Một lời nói mà chúng ta không nhẫn với nhau, không nhường nhau, một ý kiến mà chúng ta không thuận nhau thì chúng ta có sự tranh chấp thì làm gì mà có sự vui trong đó được, làm gì có lòng từ, lòng biết thương nhau được? Cho nên tất cả những cái này là những cái điều mà những người cư sĩ thường tiếp giao với nhau, với mọi người thì phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm càng nhiều càng tốt để đem lại sự an vui cho mình, cho mọi người xung quanh mình.

Bây giờ chúng ta trau dồi về cái chân của chúng ta. Khi chúng ta đi thì chúng ta phải dùng theo cái hành động đi của chúng ta với cái pháp hướng mà đức Phật dạy trong kinh rằng Như Lý Tác Ý. Tác ý theo cái hành động đó bằng cái pháp hướng tâm của chúng ta, tức là chúng ta dùng một cái câu như thế nào để gợi lên cái lòng thương yêu của chúng ta đối với chúng sanh khi chúng ta bước đi. Ở đây Thầy xin nhắc quý thầy ở đây không phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định bằng hành động mà mượn cái hành động chân đi để thực hiện cái tâm từ của chúng ta dưới bàn chân, dưới bước đi của chúng ta. Cho nên chúng ta dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý cái bước chân chúng ta đi. Pháp hướng như thế nào? Thầy đọc để rồi quý thầy tùy theo đó mà tự mình soạn ra pháp hướng cho phù hợp với cái đặc tướng của mình thì áp dụng sẽ có hiệu quả. Còn đây chỉ là một cái ví dụ để cho quý thầy mượn đó mà bắt chước mà thôi. Nhiều khi quý thầy lấy cái ví dụ này mà áp dụng vào mình thì chưa hẳn đã là đúng đặc tướng của mình. Đạo Phật khó là ở cái chỗ phải biết áp dụng đúng cái pháp hướng thì nó mới có hiệu quả, mà không áp dụng đúng cái pháp hướng thì nó không có hiệu quả. Đây Thầy đem một cái ví dụ, trước khi mà chúng ta áp dụng cái pháp hướng để trau dồi cái tâm từ bi của mình mà nếu mình không biết thì mình khó mà có thể áp dụng cho đúng cách thì nó cũng không có kết quả tốt cho sự tu tập này.

Ví dụ như người ta nói tâm và ý. Vậy thì lúc nào gọi cái tâm, lúc nào gọi là cái ý? Cái ý là nó có cái ý căn, là cái bộ óc của chúng ta. Còn cái tâm thì nó không có cái ý căn. Bởi vì nếu mà nói cái tâm thì nó phải có cái tâm căn chớ? Nhưng mà ở đây Phật dạy chúng ta là ý căn chứ không có bao giờ nói tâm căn. Cho nên khi chúng ta gọi cái ý là nó phải đúng là cái chỗ căn của nó, tức là cái chỗ nó làm việc. Cho nên thì cái ý căn phải ngưng hoạt động thì cái ý nó phải bám chặt ở chỗ nào? Còn nếu mà chúng ta gọi cái tâm phải bám chặt mà cái ý căn phải ngưng hoạt động thì nó chẳng biết đâu. Kêu cái thằng A mà làm việc của thằng B thì nó chẳng có biết được. Cho nên cái thằng nào nó phải làm việc ra cái thằng nấy. Vì vậy mà pháp hướng tâm Như Lý Tác Ý phải như cái lý đúng của nó thì chúng ta tác ý nó mới có hiệu quả. Ở đây Thầy nhắc như vậy thì quý thầy phải nhận thấy được cái chỗ mà dùng cái pháp hướng Như Lý Tác Ý phải đúng lúc, đúng thời hợp với đặc tướng của mình thì có hiệu quả rất nhanh, còn nếu không thì không hiệu quả. Cho nên cũng có nhiều người hướng tâm tu tập, nhắc tâm mình rất nhiều nhưng sao thấy nó trơ trơ mà không kết quả là do mình đặt không đúng tên, đúng họ, đúng trường hợp nó làm cho nên nó không có hoạt động được.

Đây là cái ví dụ để cho quý thầy khi mà chúng ta bước đi thì chúng ta hướng tâm. Khi từng bước đi của chúng ta bước đi thì chúng ta nhắc như thế này:

Dưới bước chân ta đi có nhiều loài sinh vật nhỏ nhít, có nhiều loài thảo mộc cỏ cây yếu mềm. Ta hãy bước nhẹ nhàng để tránh tất cả sự đau khổ và chết chóc của muôn loài.

Đó là một cái câu mà để chúng ta nhắc khi chúng ta bước đi. Do đó khi mà nhắc như vậy thì tâm chúng ta tỉnh thức ngay tại ở nơi bước đi và chúng ta tránh tất cả những con vật dưới bàn chân chúng ta. Rồi đi một lúc, chúng ta sợ nó quên đi rồi chúng ta lại nhắc, lại nhắc nữa. Do cái sự nhắc nhở, do cái sự sợ làm đau khổ, sợ làm chết chóc muôn loài nó gây cho chúng ta có một cái tâm thương yêu, thấm thía trong đó. Mà hàng ngày chúng ta trau dồi từng bước đi của chúng ta như vậy thì lòng từ của chúng ta nó ban rải khắp chúng sanh. Một cọng cỏ chúng ta không nỡ đạp lên nó sợ nó mềm yếu rồi nó héo úa đi, tức là thể hiện qua tâm từ của chúng ta ban rải khắp chúng sanh đó. Vừa đi nhẹ nhàng vừa hướng tâm nhắc như vậy lâu ngày tâm ta có lòng từ thương xót tất cả chúng sanh.(BBT:CĐ,10A,E00:44:52)(BBT:BN,09,E01:32:06)

BĂNG SỐ 10

(BBT:BN,10,B00:00:00)Vì hướng tâm nhắc như vậy lâu ngày huân tập trong tâm ta thành một thói quen thương xót chúng sanh.(BBT:CĐ,10A,B00:44:52) Đó thì ở đây thì quý thầy đã thấy rằng cái câu mà Thầy tạm để mà làm cái câu mà hướng tâm của mình để trau dồi cái Tứ Vô Lượng Tâm. Mà khi trau dồi được cái Tứ Vô Lượng Tâm, cái tâm thương yêu như vậy thì người ta chửi mình có giận nữa không? Khi mà thể hiện được hoặc là người ta nói một câu nói nó trái bụng mình, mình có giận không? Không bao giờ còn giận nữa. Cho nên Phật nói từ tâm đối trị tâm sân. Nhưng mà mình có trau dồi nó đâu? Cho nên mình nói là nói như vậy nhưng mà mình nói ờ quán, quán từ bi để đối trị tâm sân nhưng mà cuối cùng thì mình không trau dồi nó thì cái tâm sân của mình nó có hết không? Trước khi người ta mắng chửi mình thì ngay đó mình nói: ừ tôi cũng biết Tứ Vô Lượng Tâm, từ là đối trị tâm sân, tôi thường quán phải thương người bằng cách này bằng cách khác(BBT:CĐ,10A,E00:45:40), hằng đêm tôi ngồi tôi quán luôn luôn lúc nào tôi cũng thương. Nhưng mà tới sao người ta chửi mình lại là mình giận, giận dữ lên? Thì cái đó là mình chưa có trau dồi trong hành động. Nó trau dồi trong hành động nó thể hiện qua cái hành động của chúng ta. Cái tâm chúng ta thường nhắc trong cái hành động, nó làm cho chúng ta thấm nhuần được cái lòng thương yêu đó.

Còn bây giờ chúng ta ngồi ở trên ghế chúng ta nói bây giờ (BBT:CĐ,10B,B00:00:06)chúng ta cũng quán, đó là quán, còn cái này là hướng, nó khác. Hướng theo hành động mà trau dồi, nó ở trong cái động. Còn cái kia quán là mình ngồi im lìm, rồi tư tưởng mình khởi nghĩ ra mình quán mình phải thương yêu chúng sanh bằng cách này bằng cách khác như thế này thế khác, nó không biến ra cái hành động cho nên nó trau dồi cái thân cái tâm từ bi của mình không có được, cho nên nó chỉ là tránh né trong một cái lúc nào đó để cho nó bớt cái giận hờn phiền não trong lòng nó mà thôi, rồi mình suy tư cái này cái kia để cho mình xả bớt cái tâm buồn khổ của mình, chớ đối tượng của mình, mình đã chửi người ta hồi chiều rồi thì bắt đầu làm sao mà gỡ ra cái đó được? Còn cái này tu ở trong trau dồi ở trong những cái hành động để chúng ta biến dần cái tâm từ bi, cái tâm thương yêu chúng ta chân thật.

Đó là cách thức mà Thầy diễn ra đây để cho quý thầy thấy được cái chỗ mà chúng ta sẽ tập luyện. Bởi vì đây là cái vai trò của người cư sĩ mới bước chân vào đạo Phật người ta đã luyện tập cái này rồi chớ không phải là vai trò của người tu sĩ. Người ta đợi tới làm Bồ Tát rồi người ta mới trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm thì quá trễ rồi. Nó không thể nào mà còn có thời gian mà chúng ta tu tập thiền định nữa. Khi mà đi sang qua giai đoạn của tu sĩ là cái giai đoạn tu tập thiền định, giữ gìn giới luật, tu tập thiền định. Còn cái giai đoạn của người cư sĩ là phải thực hiện tâm từ, tâm bi, tâm hỉ, tâm xả của mình để đối xử với nhau với một lòng thương yêu, làm cho xã hội càng tốt, đất nước thanh bình. Nó không có sự tranh chấp, nó không có sự tranh đua hơn thiệt với nhau. Do có tâm từ nó mới không có những cái tai nạn đó.

Đó là một cái hành động mà chúng ta đi. Bây giờ tới cái hành động nữa. Khi ta đứng lại ta cũng nhắc vậy. Khi mình đi thì thường mình nhắc cái câu đó, mà khi mình đứng, bởi vì đứng nó đâu còn đi nữa? Cho nên mình phải nhắc một cái câu khác để mình hướng tâm như cái lý trong khi mình đứng, thì mình phải nhắc một cái câu khác để khi mình đứng, dù khi mình đi thì mình hướng tâm như vậy, nhưng mình đứng lại là nó không đúng như vậy. Cho nên khi cái hành động đứng thì chúng ta cũng phải nhắc tâm, hướng tâm mình:

Chúng sanh quanh ta rất nhiều từ loài côn trùng nhỏ nhít cho đến các loài thảo mộc yếu mềm, ta đừng đứng trên chúng vì đứng trên chúng chúng sẽ đau khổ và chết chóc, héo úa.

Đó là một cái câu để chúng ta hướng tâm chúng ta trau dồi cái lòng thương yêu của chúng ta đến với tất cả muôn loài.

Đó thì hôm nay như quý thầy đã học được những câu như vậy thì quý thầy nhớ khắc ghi trong lòng. Hằng ngày ít ra mỗi ngày chúng ta cũng tập nó được ba, bốn lần, chứ đừng có học rồi thì xếp lại đó, để đó thì cái công của Thầy mà giảng dạy quý thầy như thế này, Thầy thấy mệt mỏi vô cùng. Vì học được, phải tu tập cho được để đền đáp lại ơn Thầy. Thầy đem hết sức mình ra giảng dạy cho quý thầy từng cái câu nhắc nhở nhỏ bé như vậy để tạo cho quý thầy có lòng thương yêu chơn thật nơi tâm hồn của quý thầy để quý thầy thoát ra khỏi cảnh đau khổ chính bản thân của quý thầy đứng trước các đối tượng. Thế mà quý thầy học rồi quý thầy xếp bỏ vào một cái góc nào đó thì thiệt là mỏi mệt cho Thầy vô cùng.

Có tu tập như vậy thì lòng ta từ từ thấm nhuần lòng từ bao la thương yêu tất cả muôn loài vạn vật muôn phương. Nếu mà khi đứng chúng ta cũng tập như vậy để nhắc nhở chúng ta đứng chúng ta tránh được những sự đau khổ của chúng sanh thì nó giúp cho chúng ta có một cái lòng thương, từ đó nó sẽ thấm nhuần muôn vật, muôn phương.

Bây giờ đến cái hành động nằm. Bởi vì trong thân của chúng ta đi đứng nằm ngồi. Cho nên bây giờ tới cái hành động nằm. Khi nằm ta cũng nhắc như vậy. Nghĩa là mỗi hành động chúng ta phải nhắc, và một ngày chúng ta có bao nhiêu lần đi, đứng, nằm, ngồi, mà mỗi lần đi đứng nằm ngồi là mỗi nhắc như vậy thì trong một ngày chúng ta đã thấm nhuần được bao nhiêu cái lòng thương yêu của chúng ta. Tức là chúng ta trau dồi được bao nhiêu lần. Một người thợ vót tên, mà ông ta ngồi ông ta vót kỹ lưỡng hẳn hòi mà vót hoài thì cái tên nó phải suôn, phải láng, phải tốt. Còn mình vót 2,3 cái rồi mình bỏ thì cây tên nó có suôn không? Chắc chắn là không suôn bằng cái người thợ mà chăm chỉ ngồi vót hoài. Vì vậy mà tâm ta chúng ta cũng phải trau dồi, trau chuốt nó mãi để cho nó được tốt đẹp, để cho nó được có lòng thương yêu thật, để cho nó được đứng trước các đối tượng mà tâm nó như như vui vẻ, không có buồn khổ.

Khi nằm ta cũng nhắc như vậy:

Tất cả chúng sanh đang ở dưới lưng ta. Ta hãy nhẹ nhàng chú ý xem xét coi có chúng sanh hay không rồi mới nằm.

Đó thì quý thầy nhiều khi lên giường ván mà nằm thì nằm đại, nhiều kiến, cũng mệt mỏi quá, rồi kiến cũng nằm đại, không ngờ dưới lưng chúng ta có những con vật, chừng mà nhìn lại thì có một con nhền nhện bị mình nằm chết cứng ở trong đó rồi, hay hoặc là một con gián hay hoặc là một con vật nào đó. Thậm chí như con bò cạp chúng ta nằm lăn qua lăn lại, nó nằm ở dưới lưng chúng ta, đến khi mà quét dọn hay hoặc là xếp mùng màn thì thấy một con vật chết ở dưới lưng ta. Thì như vậy là chúng ta đã vô tình không trau dồi được mình trong khi nằm để làm hại chúng sanh.

Khi mà chúng ta nằm cái thân của chúng ta to lớn, do đó cái sức nặng của chúng ta nhiều quá, còn cái thân của chúng bé nhỏ, giãy giụa dưới lưng ta, ta đâu biết được, trong khi chúng rên la đau đớn, chúng ta đâu nghe được. Vì vậy mà vô tình chúng ta nằm trên sự đau đớn của chúng sanh mà không hay biết.

Muốn trau dồi lòng từ thì chúng ta phải năng nổ, tu tập siêng năng hằng ngày nhắc đi nhắc lại tâm mình nó mới thấm nhuần được. Khi nằm lăn qua trở lại ta cũng phải lưu ý và nhắc:

Tất cả chúng sanh đang ở bên ta, hãy ý tứ đừng nên vô tình mà làm đau khổ và chết chóc chúng.

Đó là những cái câu để chúng ta hướng nhắc mình để cho thực hiện được cái tâm từ bi hỉ xả của mình. Mỗi hành động của thân ta đều nhắc như vậy, tâm ta lần lần thấm nhuần tình thương yêu chúng sanh rộng lớn bao la.

Bây giờ đến ngồi. Bởi vì trong cái thân của chúng ta đi đứng nằm ngồi, tất cả những cái hành động này mà nếu mà chúng ta thiếu sót một cái điều không tu thì đó là chúng ta đã thiếu khuyết. Khi ngồi ta cũng nhắc như vậy:

Nơi ngồi của ta có những chúng sanh nhỏ nhít, phải lưu ý khi ngồi, đừng vô tình ngồi trên chúng sanh làm đau khổ và chết chóc. Khi ngồi đừng lắc qua lắc lại vì lắc qua lắc lại va chạm làm đau khổ chúng sanh và chết chóc.

Quý thầy thấy trong những hành động mà oai nghi của một người ngồi mà lắc qua lắc lại với cái người ngồi mà không lắc qua lắc lại, người nào tốt? Đó thì quý thầy thấy từ cái tập của tâm từ bi mà nó biến thành một cái oai nghi tế hạnh của một con người rất là nghiêm chỉnh. Đi thì nhẹ nhàng, luôn luôn lúc nào cũng ngó xuống để tránh tất cả chúng sanh mà lại là phòng hộ được 6 căn của mình nữa. Các thầy thấy đó là một điều lợi ích rất lớn cho bước đường tu tập theo đạo Phật. Nó làm toát ra những đức hạnh mà con người ở thế gian này khó có thể theo được những cái hạnh này. Bởi vì con người ở ngoài thế gian chạy theo dục lạc, cho nên mắt thì nghinh ngó bên đây để tìm cái nào mà cám dỗ thu hút mình thích thú, còn người tu sĩ thì đâu còn cái chạy theo cái dục lạc cho nên mắt luôn luôn phòng hộ, nhìn xuống đất mà nhìn tất cả loài vật để thực hiện trau dồi tâm từ thương yêu của mình tránh sự đau khổ và chết chóc của chúng sanh.

Đó là những lúc đi, đứng, nằm, ngồi ta từng nhắc như vậy và nhắc từng mỗi bước đi để ta không quên và cố tránh được sự đau khổ và chết chóc của chúng sanh. Đây là sự trau dồi trong cái hành động của thân chúng ta, thì đi, đứng, nằm, ngồi, như vậy là đối với cái thân chúng ta tạm thời ở đây đủ để quý vị hằng ngày trau dồi, bởi vì lúc nào quý vị cũng có ngồi, lúc nào quý vị cũng có đi, lúc nào quý vị cũng có đứng, lúc nào quý vị cũng có nằm, không thể trong một ngày mà chúng ta thiếu 4 oai nghi này. Cũng như vào đây thì quý vị bước vào đây, trước khi mà bước vào thì quý vị phải đi, cho đến khi quý vị ngồi thì quý vị phải lưu ý chỗ ngồi, rồi đứng quý vị cũng lưu ý chỗ đứng. Cho nên mỗi cái làm chúng ta đều có sức tỉnh thức ở trong đó hết. Như vậy chúng ta có tu chánh niệm tỉnh thức đâu nhưng mà sức tỉnh thức chúng ta đã sẵn do trau dồi lòng từ mà nó đã có sức tỉnh thức. Kế đó lòng từ chúng ta càng lúc càng rộng lớn bao la do cái pháp hướng mà nhắc tâm làm cho tâm chúng ta thương yêu chúng sanh vô bờ bến.

Trau dồi lòng từ trong hành động của thân còn gợi lên lòng thương xót của chúng ta đối với chúng sanh bằng sự hành động cẩn thận của mình để tránh sự đau khổ và chết chóc của chúng sanh. Khiến cho tâm chúng ta càng lúc càng thương yêu chúng sanh nhiều hơn. Nghĩa là cái hành động đó hằng ngày mà chúng ta trau dồi thì lần lần Thầy tin rằng quý thầy mà thường xuyên trau dồi thì sức tỉnh thức rất lớn và đồng thời lại là lòng thương yêu càng nhiều, và càng nhiều thì nó sẽ cứu quý thầy thoát ra khỏi tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Nó không bao giờ mà còn có một cái tâm niệm xấu như vậy. Vì vậy mà cái ngũ triền cái quý thầy sẽ xả bỏ, đoạn trừ, dứt hẳn, từ giã nó không bao giờ còn ở trong của tâm quý vị nữa.

Khi mà Tứ Vô Lượng Tâm này đã ngự trị trong tâm hồn của quý vị thì năm triền cái này nó phải rớt đi, nó phải xa quý thầy đi, không còn có. Còn nếu không có như vậy, không trau dồi được Tứ Vô Lượng Tâm này thì ngũ triền cái vẫn đeo đẳng theo quý vị, cho đến khi mà quý vị phải thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm nó mới dứt được. Nó không đơn giản nhưng chúng ta phải có cái sức tu tập bền chí siêng năng thì nó mới đạt được. Bây giờ lòng mình nói thương mà sự thật mình có thương được chưa? Chưa. Mình thương mình chứ chưa chắc đã thương ai. Thầy nhắc lại câu chuyện để cho chứng minh rằng mình thương mình chứ chưa có thương ai hết. Nhưng mà mình nói rằng mình thương người này người kia, sự thật ra mình chưa có thương. Tại sao vậy? Có câu chuyện như thế này:

Bà hoàng hậu Vi Đề Hy hỏi đức vua Bình Sa Vương (Bimbisara):

"Bệ hạ có thương thần thiếp không?"

Nhà vua làm sao lại không thương hoàng hậu, cho nên nhà vua nói nhà vua rất thương hoàng hậu, tại sao hoàng hậu lại hỏi vậy? Thì bà Vi Đề Hy nói:

“Bệ hạ nói chứ bệ hạ chắc không thương thần thiếp đâu. Nếu giả chăng thần thiếp lấy một ông quan nào thì bệ hạ có thương thần thiếp không? Điều đó chứng minh rõ ràng là bệ hạ thương bệ hạ chứ bệ hạ đâu có thương thần thiếp. Khi mà nghe được tin “trời sét” này, thần thiếp đã lấy một vị quan nào ở trong triều này thì lúc bấy giờ bệ hạ còn có nước là thứ nhất là chặt đầu thiếp, thứ hai là giam thiếp ở trong lãnh cung chớ đâu có bao giờ mà để cho thiếp được tự do như thế này. Nếu là thương thiếp thì bệ hạ đâu có làm cái điều đó. Bởi vì thương người mà người đó người ta muốn như vậy thì mình cứ để cho người ta làm. Thì như vậy gọi là thương. Tại sao bây giờ bệ hạ nói bệ hạ thương thần thiếp mà khi nghe cái tin như vậy thì bệ hạ có thương không? Tức là bệ hạ thương bệ hạ.”

Đó qua câu chuyện như vậy chúng ta thấy rõ ràng chúng ta thương mình chứ không thương ai hết. Nghe một người vợ mà lấy người khác là tức ầm ầm lên rồi. Thì như vậy là mình có thương người không? Có thương vợ mình không? Hay là thương mình? Mình thương mình, mình muốn bảo vệ cái gì cũng của mình hết. Đó là thương mình, chớ đâu phải là thương người khác. Còn thương người khác là phải giúp cho người khác.

Đó, ở chỗ trau dồi tâm từ bi để chúng ta thấy được cái thương của chúng ta đối với muôn vật như thế nào. Quý thầy khi mà chưa trau dồi cái tâm từ bi, một con bò cạp cắn quý thầy đau, quý thầy giết con bò cạp. Như vậy là quý thầy nói tôi từ bi lắm, tôi thương lắm. Tôi thương lắm mà con bò cạp cắn đau quá thì quý thầy giết liền tức khắc. Như vậy đâu phải thương con bò cạp.

Những cái này là những bài học thực tế để chúng ta biết tình thương của chúng ta nó đang ở vị trí nào để chúng ta trau dồi nó. Một con vật cắn dù chúng ta có chết chúng ta cũng không nỡ giết nó nữa. Còn chúng ta chưa chết mới đau thôi mà đã vội đã giết chết con vật khác, rồi thấy con vật nào chúng ta cũng sợ hãi mà chúng ta giết hết. Sợ nó cắn mình cho nên giết sạch hết. Vì lòng thương yêu nhỏ mọn đó, ích kỷ đó đối với sự thương yêu mình cho nên trong xã hội nó mới có sự bất an, có sự tranh chấp nhau. Chớ nếu lòng thương yêu của chúng ta rộng lớn đối với mọi người chắc chắn không có sự bất an đó.

Vì vậy bài học đầu tiên trong Phật pháp là Tứ Vô Lượng Tâm. Để làm gì? Để xây dựng con người có đạo đức chân thật, biết thương yêu người. Để xây dựng xã hội tốt đẹp để cho trong xã hội có trật tự an ninh hẳn hòi. Vì lòng thương yêu đó mà có trật tự chứ không phải chúng ta có kỷ luật thế này thế khác, buộc mọi người thế này thế khác mà lòng thương yêu đó chẳng có thì xã hội chẳng có trật tự. Hình thức bên ngoài thì có trật tự nhưng bên trong có sự bắt buộc nào đó, chớ sự thật thiếu trật tự. Đời sống càng ngày càng khổ là do chúng ta không tìm được nguyên nhân để giải khổ, cho nên cuộc sống con người rất là khổ. Ở đây đức Phật dạy ta biết pháp nào để mà trau dồi nó, để xây dựng mình tốt, xã hội tốt, nó mới có được cuộc sống hạnh phúc an vui cho nhau.

Lúc bấy giờ chúng ta bước chân đi, chúng ta đi rất rõ ràng với lòng từ thương yêu chúng sanh vô bờ bến, tràn ngập. Nếu mà trong khi bước đi ta không còn nhắc tâm nữa mà chúng ta thấy bước chân tự nhiên có sự tràn ngập lòng thương yêu chúng sanh, đó là chúng ta đã viên mãn từ vô lượng tâm. Còn bây giờ chúng ta đang đi mà chúng ta phải thường nhắc, rồi cái tâm lần lần huân lên sự thương yêu đó thì tức là đang trau dồi. Còn khi đi mà chúng ta thấy tự nhiên bước đi của mình, tự nhiên thân tâm của mình nó lách qua lách lại tránh sự đau khổ của cỏ cây thảo mộc cho đến các loài chúng sanh nhỏ nhít dưới bàn chân. Chúng ta không nhắc mà cái tâm nó thương xót, nó luôn luôn làm cho chúng ta theo dõi từng bước đi để không va chạm, để không làm đau khổ thì đó là chúng ta đã viên mãn lòng từ trong Tứ vô lượng tâm.

Ở đây thì Thầy nói ra cái kết quả cho chúng ta biết, mà khi lòng từ như vậy thì chúng ta thấy tâm bây giờ nó phủ trùm lên tất cả các loài vật, thảo mộc cây cỏ đều là thương yêu. Một nhánh cây kia các thầy cũng không bao giờ nỡ mà bẻ, hoặc là ngắt một cái lá, bứt một cái bông nữa.Tình thương yêu đến mức độ không ngờ, mà đến lúc ta trau dồi chúng ta thấy tất cả mọi người, mọi cây cỏ đều có sự sống y như nhau. Đó là cái viên mãn lòng từ của chúng ta tu tập. Còn nếu mà chúng ta không thực hiện được thì vô tình thấy cái bông đẹp là ngắt liền. Điều đó chứng minh rằng chúng ta chưa có lòng từ thương yêu. Ở đây Thầy muốn nói như vậy để khi nào mà chúng ta thực hiện tới đó thì chúng ta mới thấy cái tâm của chúng ta phủ trùm lòng thương yêu trên vạn vật, cho nên Phật nói tâm từ biến mãn khắp mười phương chúng sanh là như vậy. Và từ đó các thầy sẽ thấy nội cái Tứ vô lượng tâm này quý thầy đã giải thoát tâm hồn của mình, không còn có một pháp môn nào hết hoàn toàn vì đã thương thì không còn tham, đã thương thì không còn giận, mà nếu còn tham, còn giận thì làm sao gọi là thương. Đó, như vậy nội trong cái pháp Tứ vô lượng tâm cũng đem quý thầy đi đến cái nơi giải thoát, tới Niết bàn vĩnh cửu. Vì có thương yêu mọi người chân thật thì cái ngã nó không còn. Vì thương yêu cá nhân của mình cái ngã mới lớn. Đó là pháp môn vi diệu nhất mà chúng ta từng trau dồi th́ chúng ta có sự giải thoát hoàn toàn. Niết bàn trước mặt chúng ta, đâu phải đợi chúng ta nhập Tứ thiền, mới nhờ Tam minh mà diệt lậu hoặc mới là Niết bàn. Mà chính ngay lòng thương yêu chúng ta cũng đã là Niết bàn.

Mỗi pháp môn của Phật đều có những vi diệu tuyệt vời của nó, nhưng vì chúng ta chưa biết, chưa trau dồi. Phỏng chừng một năm mà quý thầy mỗi bước đi đứng nằm ngồi của quý thầy mà quý thầy trau luyện thì chắc chắn trong một năm đó quý thầy thực hiện lòng từ bi hy xả của quý thầy thì ngay cuộc sống của quý thầy đã giải thoát hoàn toàn. Vì thế mà quý thầy thấy trong giới luật của Phật cấm không cho chúng ta trồng cây cỏ này kia hoặc làm cái nọ cái kia, tất các nghề nghiệp đều đình chỉ hết. Người tu sĩ chỉ còn biết đi khất thực ăn mà thôi, đi xin người khác thôi, không làm cái gì hết, bởi vì làm là động đến chúng sanh, làm là làm đau khổ chúng sanh. Không phải chúng ta ích kỷ nhưng mà chúng ta thực hiện đúng lòng thương yêu của chúng ta chơn thật để cho nó phủ trùm trên cái tình thương đó đối với muôn loài.

Vì thế bước vào đạo Phật chúng ta thấy đức Phật cấm tất cả các nghề, không được làm một cái nghề gì hết. Vì còn làm một cái nghề nào thì cái nghề đó sẽ đem đến cho chúng sanh có sự đau khổ đó. Muốn được vậy thì chúng ta phải từng ngày này chúng ta phải trau dồi trong 4 oai nghi đi đứng nằm ngồi của thân chúng ta.

Bây giờ ta về cái phần tay, cái tay của chúng ta. Nó cũng phải cầm, nắm, bắt chứ. Cái tay của chúng ta cũng có cái hành động của nó chứ. Nếu mà nó không có hành động, nó cứ cứng đờ thì chúng ta không nói tới nó, bởi vì tu trong hành động, trau dồi lòng từ của chúng ta trong hành động.

Đến cái phần tay: cầm, nắm, bắt lấy tất cả mọi vật dụng cần thiết cho đời sống tu hành cũng như cơm ăn, áo mặc hằng ngày, ta thường trau dồi tâm bằng pháp hướng như lý tác ý, nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nghĩa là luôn luôn lúc nào khi mà chúng ta cầm một vật gì của người khác cho mình, khi ta cầm một cái gậy hay cần vật dụng cần thiết cho đời sống của mình thì mình phải nhắc, mình phải hướng tâm mình nhắc nó như cái lý giải thoát của đạo để tâm từ thương yêu của mình từ đó mà phát triển và nó thấm nhuần cũng từ nơi đó.

Đây Thầy đem một cái ví dụ cái câu hướng tâm, như cái lý chân thật đó để mà chúng ta nhắc cái tâm mình khi mà tay nắm một vật gì của người khác cho hoặc là cầm một vật gì thì chúng ta phải nhắc:

Tất cả những vật dụng cần thiết như cơm ăn, áo mặc, thuốc thang là của làm bằng mồ hôi, nước mắt của mọi người cực nhọc mới có cho ta. Ta phải biết ơn và thương yêu họ và thương yêu tất cả mọi người, dù người đó có hay không có cúng dường cho ta với lòng chơn thật không bao giờ đánh trả lại, mắng chửi họ, không bao giờ nặng lời to tiếng với họ. Vì đánh mắng chửi rủa nặng lời với họ là ta đã không biết thương yêu họ, là ta đã làm cho họ khổ sở. Ta phải nói lời nhẹ nhàng an ủi để làm cho mọi người vui mà không buồn khổ nữa.

Đó là cái câu để chúng ta dùng cái hướng tâm của chúng ta thường nhắc đi nhắc lại như vậy cho nên nó thấm nhuần. Vì vậy mà mỗi lần chúng ta nhận vật gì cúng dường, như bây giờ quý thầy nhận một cuốn tập của người khác cúng dường bằng mồ hôi nước mắt của họ. Cho nên chúng ta nhận thì chúng ta tâm niệm, lặng một chút xíu để chúng ta hướng tâm, từ đó là chúng ta đã trau dồi tâm từ của chúng ta đó, lòng thương yêu của chúng ta đó. Do đó khi mà có người khác mắng chửi thì ở đó chúng ta lặng tâm trên câu hướng này làm cho chúng ta không còn giận hờn người khác nữa, không còn đau khổ nữa.Tâm chúng ta xả hoàn toàn.

Đó, trên bước đường tu tập nếu mà chúng ta biết áp dụng đúng cách thì ngay tức khắc chúng ta có những pháp hướng kèm theo khi chúng ta chưa thuần thục. Còn chúng ta thuần thục rồi thì chắc chắn là quý thầy sẽ thênh thang ở trên tâm hồn vô ngại, không còn một chướng ngại nào làm cho tâm của quý vị chướng ngại nữa.

Khi cầm, nắm, bắt lấy ta cũng nhẹ nhàng từ tốn, lỡ trên thân đồ vật có những chúng sinh nhỏ bé, mạnh tay sẽ làm cho chúng đau khổ và mạng vong. Đó, thì chúng ta cũng lưu ý về cái phần khi mà cầm cái vật, à bây giờ người ta đưa mình cuốn tập, mình hai tay mình cầm, mình cũng quan sát, mình quan sát coi ở trên cuốn tập này có con kiến hoặc con vật gì không, để không mình vô tình mình nắm nó dẹp lép, nó chết đi. Đó là những cái điều chúng ta tập luyện. Mà tập luyện như vậy là tập luyện tỉnh thức, rồi lại tập luyện được lòng từ, thì cái này là cái rất quý, vừa tập được cái này mà nó đạt được cái kia. Nhưng ở đây chúng ta không được gọi nó là Chánh niệm tỉnh thức định. Ở đây không được gọi nó như vậy, đây chỉ là tập tỉnh thức trong hành động để trau dồi tâm từ bi hỉ xả của mình, Tứ vô lượng tâm mà thôi.

Khi muốn trau dồi tâm từ các hành động của thân nơi tay thì quý vị phải siêng năng, cần mẫn nhắc đi nhắc lại nhiều lần để tâm tỉnh giác nơi mọi hành động của tay mình, tránh sự vô ý làm đau khổ chúng sanh. Có tinh tấn, siêng năng tu tập lòng từ bằng hành động của thân tỉnh giác, nhắc nhở lòng chúng ta thương yêu chúng sanh vô bờ bến, từ đó ta mới thấy thương yêu chúng sanh như thật.

Ở đây Thầy xin giải thích thêm cái phần này để quý thầy thấy lòng từ đối với chúng sanh có nghĩa sai biệt chỗ này, chỗ kia. Bởi vì nếu không hiểu thêm phần này thì chúng ta không biết lòng thương yêu của chúng ta nó đối với chúng sanh như thế nào. Một chúng sanh mà đang đang bị tai nạn, và một chúng sanh đang mạnh giỏi bình thường thì lòng từ vô lượng này nó sẽ đối với chúng sanh nào? Thì ở đây Thầy giải thích thêm để cho quý thầy thấy cái lòng từ là thương yêu chúng sanh chưa có tai nạn, chưa có bệnh tật, chưa có khổ đau. Cái lòng từ thì nó thương yêu chúng sanh đang mạnh khỏe, cho nên cái lòng từ nó rộng lớn lắm, nó không có cái đối tượng giãy dụa đau đớn, vì vậy mà cái lòng từ thương người trong khi mạnh giỏi, thương chúng sanh trong khi đang mạnh. Còn bây giờ khi thấy một cây cỏ úa hay một cái bông nó héo mà chúng ta khởi thương yêu nó, thì cái thương yêu đó gọi là lòng bi, chớ không phải lòng từ. Phân biệt được như vậy chúng ta thấy, chúng ta tu lòng từ là chúng ta thương chúng sanh đang ở trong mạnh khỏe, chứ không phải là trong sự đau ốm, hoặc tai nạn hay chết chóc rồi chúng ta mới thương yêu chúng. Cho nên từ nó khác mà bi nó khác. Phân biệt được như vậy thì chúng ta biết bây giờ chúng ta đi đứng thì những con vật dưới chân ta là con vật mạnh giỏi, chứ không phải con vật đau đớn. Cho nên cái hành động của chúng ta hằng ngày mà đi đứng đều là tránh nó đó, đó là chúng ta không làm chúng đau khổ, để cho chúng được mạnh khỏe, an vui, thảnh thơi, vui sướng ở trong đời sống của chúng, hòa mình ở trong cuộc sống, trong không gian và thời gian này.

Đó là cái lòng từ của chúng ta thực hiện đối với con người, con vật đang vui tươi, đang mạnh khỏe. Tức là học tới cái lòng hỷ thì chúng ta mới thấy được cái hỷ hòa mình ở trong sự an vui đó để cho tâm hồn của chúng ta phủ trùm trên sự sống của muôn vật với lòng thương yêu khắp cùng với nhau.

Còn lòng bi thì nó khác, khi mà gặp tai nạn nào đó của chúng sanh hoặc con người, người ta bị xe đụng, người ta bị bệnh khổ, người ta lâm tai nạn... thì ngay cái đối tượng đau khổ đó chúng ta thương yêu, thì sự thương yêu đó bắt buộc chúng ta phải thực hành bằng hành động. Người mà bị tai nạn thì mình tới giúp đỡ họ liền, người mà bị bệnh khổ thì mình tìm thang thuốc cho họ uống, người sợ hãi không dám qua đường thì mình dắt họ qua đường... thì đó là cái lòng bi. Mình đi trên xe buýt thấy một bà già bước lên mà không có chỗ ngồi, mình đứng dậy mình nhường cho bà già đó ngồi, đó là lòng bi. Vì bà già đang yếu đuối, bà không thể nào gượng khi xe dừng hoặc là xe chạy. Cho nên chúng ta nhường chỗ ngồi như vậy là lòng bi chứ không phải lòng từ.

Phân biệt được những cái mà đối xử với nhau như vậy chúng ta biết từ, bi như thế nào, ở mức độ nào để mà thực hiện cho đúng cách của nó.

Từ thuộc về nhân, nghĩa là cái nhân mình chuẩn bị cho chúng sanh đừng có đau khổ, mà bi là cái quả; bởi vì chúng sanh gặp những tai họa nhức nhối, thì bi, lòng bi của chúng ta đối với chúng sanh là đối trong cái quả. Mà lòng từ đối với nhân là chưa có gì hết, chúng ta chuẩn bị cho đừng có xảy ra tai nạn, cho nên lòng từ là cái nhân. Cho nên lòng từ biến mãn khắp mười phương chúng sanh, ḥa ḿnh trong cuộc sống vạn vật từ cỏ cây đến cầm thú đều được an lành. Không có con vật này giết con vật kia, không có giẫm đạp lên nhau, chà xéo lên nhau trong cuộc sống; không có tham dục, không có ích kỷ nhỏ mọn, không có cá nhân, chấp chặt ...mà chỉ có một quyền sống bình đẳng như nhau. Người này thương yêu người nọ, người nọ thương yêu người kia, sống vì người, vì tất cả chúng sanh nên gọi là lòng từ. Lòng từ phải được trau dồi, thấm nhuần, lưu xuất từ tận đáy lòng thương yêu chân thật. Nếu không được trau dồi thì lòng từ kia chỉ là một hình thức suông. Vì thế cuộc sống của muôn loài đang bị đe dọa trên những danh từ hoa mỹ “từ bi, bác ái”.

Bằng chứng là hiện giờ chúng ta thấy cái danh từ mà gọi là từ bi, bác ái thật sự ra đó là cái danh từ. Chớ còn từ bi, bác ái chưa có thực hiện đúng con người với con người, con người đối với con vật, nó chưa có cái từ bi, bác ái đó. Người ta dùng cái đó để người ta bịp đời chớ chưa hẳn là người ta đã thương đời thật. Cho nên ở đây chúng ta phải lật trái cái điều này để mà chúng ta thực hiện cái tâm mình cho nó chân thật chứ không khéo mình cũng bị những danh từ che đậy này mà tưởng rằng mình từ bi, bác ái. Sự thật ra mình chưa có trau dồi nó thì mình chưa hẳn đã từ bi, bác ái được. Vì cái bản ngã của chúng ta lầm chấp cái tâm này, cái thân này là cái ngã thì cái từ bi kia không bao giờ có được. Mà muốn có được thì chúng ta phải từng trau dồi nó thì ta mới có được. Và khi trau dồi nó thì ngã chúng ta lần lần tiêu mòn, chỉ còn biết người mà không thấy có mình nhưng trong đó có mình. Có mình mà như không có mình.

Đây là cái phần vừa là lý thuyết mà cũng vừa là thực hành. Mà cái thực hành là quý thầy phải nhớ kỹ những cái câu pháp hướng là những điều quan trọng nhất. Còn lý thuyết nói mênh mông để nghe cho nó thấu rõ được cái lý chứ sự thật ra cái lý thuyết nó chẳng ăn nhằm nhò gì hết. Nghe nó làm rối tai, làm rối đầu. Mà chính những cái pháp hướng, những câu ngắn ngủi mà Thầy vừa nhắc là cái mấu chốt để quý thầy trau dồi bằng cái sự tỉnh thức của mình trong mỗi hành động thân của chúng ta. Đó là những điều quan trọng nhất của cuộc đời tu hành của người tu sĩ. Còn cái mà Thầy nói lòng vòng như thế này, chỉ nói để cho nghe hiểu, cho vui chơi. Nó cũng như cái bài ca để mà ca hát cho quý vị nghe cho vui vậy chứ không có nghĩa lý gì hết. Cho nên khi mà nghe xong rồi thì những danh từ mà Thầy đã ca ở đây thì quý vị dẹp hết đi. Chỉ còn có một câu pháp hướng, mà đó là ngọn đuốc thắp đường để cho quý vị trau dồi sáng suốt thân tâm của mình.

Cho nên tu thì không có nhiều mà nói thì rất nhiều. Vì nhiều khi quý thầy không hiểu, phải nói ra cho hết, cho rõ, cho hiểu. Hiểu rồi thì áp dụng không có bao nhiêu.

Khi cầm một vật gì ta phải nhẹ nhàng nhắc nhở, Thầy nhắc nhở lại như hồi nãy:

Trên mọi vật đều có chúng sanh đang ở trên đó. Ta hãy cầm nhẹ nhàng để tránh sự chết chóc và đau khổ của chúng sanh.

Nắm bắt lấy cũng vậy, đều phải tập ý tứ nhẹ nhàng khiến cho người tu sĩ càng ngày càng có oai nghi tế hạnh hơn, không còn có những hành động thô tháo.

Đó, cái sự mà chúng ta tu tập, trau dồi tâm từ chúng ta nó có lợi ích cho chúng ta là tập luyện cái oai nghi tế hạnh của mình. Từ những hành động nhẹ nhàng làm cho chúng ta trở thành những vị tu sĩ xứng đáng là đệ tử của Phật. Nương vào mỗi hành động tay hoặc chân của ta đều hướng tâm nhắc tâm ta thương yêu tất cả muôn loài, từ đó tâm ta mới có sự thấm nhuần sâu vào tận xương tủy của chúng ta, từ đó biến mãn ra hành động nơi thân mình đầy lòng thương yêu chân thật.

Ở đây quý thầy phải hiểu, đây Thầy xin nhắc lại. Ở đây quý thầy phải hiểu: đừng lầm tưởng rằng chúng ta tu như vậy là tu Chánh niệm tỉnh giác định, mà là tu trau dồi Tứ vô lượng tâm bằng hành động thân của mình qua pháp hướng Như lý tác ý của Phật. Nhờ có Như lý tác ý tâm ta thấm nhuần lòng từ chân thật. Chính lòng từ chân thật này xuất hiện với tâm ta, ta mới tu hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng mới đạt kết quả tốt.

Thì quý thầy thấy từ chúng ta trau dồi cái lòng từ chúng ta đạt được thì cái tâm từ chúng ta xuất hiện được thì bây giờ cái nhẫn nhục là một cái điều chúng ta mới có làm được. Còn không chúng ta chỉ dùng danh từ nhẫn nhục để mà chơi, hoặc để nén tâm mà thôi, chịu đó chứ tâm chúng ta bực tức ở trong đó. Đó là chúng ta chưa có tu cái hạnh nhẫn nhục, nhưng danh từ nhẫn nhục ai ai cũng biết, danh từ tùy thuận thì ai ai cũng rõ. Nhưng khi mà chúng ta chưa trau dồi lòng từ của chúng ta thì nhẫn nhục tùy thuận chỉ là danh từ suông đối với quý vị mà thôi.

Một con vật chúng ta còn thương thay huống chi là một con người đang chửi mắng ta và làm khổ ta. Từ tâm rất quan trọng vì đứng trước mọi vật đang mạnh khỏe, đang hung hăng dữ tợn và có thể giết ta, hại ta nhưng lòng từ vẫn bang rãi đến chúng, thương yêu chúng. Người có lòng từ không bao giờ biết sợ hãi trước mọi hiểm nguy.

Ở đây Thầy nhắc lại cái phần này để cho rõ: Một khi mà chúng ta có lòng từ rồi thì cái tâm của chúng ta không còn sợ hãi con vật nào hết. Và mọi vật quanh ta nó cũng là những con vật, nó cũng ham sống và sợ chết. Nó thấy ta nó cũng sợ. Một con beo, một con cọp, một con gấu, một con voi, con vật nào nó thấy con người chúng ta nó cũng sợ, chứ không phải là nó không sợ. Do cái sợ hãi đó nó vẫn nhìn chúng ta chăm chăm. Chúng ta sợ nó mà chúng ta nhìn chăm chăm. Cái đôi mắt mà chúng ta nhìn chăm chăm thì tức là có sự hung dữ trong đó. Còn cái người lòng từ họ không sợ hãi cho nên họ không sợ con vật đó giết họ. Cho nên họ ngồi, đôi mắt họ hiền từ họ nhìnxuống, họ không bao giờ sợ hãi. Và con vật mà thấy cái đôi mắt mà nhìn xuống thì nó biết đó là con vật lành, không bao giờ mà tấn công giết hại chúng ta đâu.

Cho nên những người tu sĩ thường ẩn bóng trong rừng núi, họ ở trong những chỗ hiểm nguy, có thú dữ mà họ chẳng hề sợ hãi. Do họ đã tu tập được lòng từ chớ không phải thiền định. Bởi vì lòng từ của họ giúp cho họ chẳng hề sợ hãi trước sự nguy hiểm của thân họ. Vì họ nghĩ lòng từ thì không thể nào giết hại một con vật nào dù cho con vật đó có hại họ. Họ thà là chịu chết, họ không bao giờ làm đau khổ và giết hại con vật khác. Do vì lòng từ đó mà họ chẳng sợ nguy hiểm, chẳng ngại những gian lao khó khăn mà thực hiện con đường ẩn bóng. Hoặc là những con đường tu tập để đạt được cái nguyện vọng giải thoát cao hơn. Do đó, họ chẳng sợ hiểm nguy rừng sâu nước độc, họ thường ở trong những nơi thanh vắng để tập luyện những thiền định.

Thì quý thầy thấy rằng hiện giờ chúng ta chưa có lòng từ, bước ra một bước là chúng ta sợ hãi nơm nớp, do cái lòng từ của chúng ta chưa có. Lòng từ chúng ta có, ta ngồi trên xe ta cũng thản nhiên không lo trộm cắp móc túi. Tại sao vậy? Nếu quả chăng có những người trộm cắp móc túi thì đó là chúng ta ban rải cho chúng những cái điều mà chúng đã không có. Cho nên chúng ta vẫn an nhiên tự tại. Nhưng đối với một người tu sĩ thì làm gì có vật gì đâu mà sợ. Cho nên chúng ta vẫn an nhiên ngồi trên xe mà không sợ móc túi. Tiền không có, vật không có, chỉ có cái bộ y áo trong mình với cái bát sành thì ăn trộm ăn cắp nó lấy làm gì, cho nên chúng ta vẫn an nhiên vui vẻ. Do vì vậy mà tu tập lòng từ phải sống một đời sống giống như phạm hạnh của người tu sĩ của đạo Phật thì lòng từ mới thể hiện dễ dàng. Còn nếu có vật gì mà làm chúng ta nơm nớp lo sợ để giữ gìn nó, thì tức là lòng từ chúng ta khó thực hiện được.

Ở đây đến cái cuối cùng này quý thầy sẽ thấy trước tiên ta áp dụng phương pháp tu trau dồi lòng từ thì nghe nó dễ dàng. Nhưng mà đến cái mức cuối cùng, để kết luận để thấy rằng trau dồi lòng từ không đơn giản. Vì phải sống cái đời sống đúng cái hạnh của người tu sĩ thì cái lòng từ mới thực hiện trọn vẹn. Còn nếu không thì chỉ mới đạt được phân nửa mà thôi. Như vậy chúng ta đạt được phân nửa của lòng từ thì chúng ta cũng thấy được cái cõi đời của chúng ta an vui hạnh phúc vô cùng. Còn đạt được viên mãn lòng từ thì cả một vấn đề tu tập, cả một cuộc sống của chúng ta phải xa lìa những vật chất thế gian, những gì còn trói buộc chúng ta phải vứt bỏ hết. Thì lòng từ kia nó mới thực hiện được, vì lòng từ kia thực hiện được tức là tâm không sợ hãi.

Người chưa có lòng từ thường hay sợ hãi. Thấy một con bọ cạp, một con rắn dữ, một con beo, một con gấu, một con hùm, v.v.. nếu con vật lớn thì họ sợ hãi, cao bay xa chạy; còn con vật nhỏ bé thì họ đập giết không tiếc thương. Trái lại lòng từ không cho phép ta có những hành động độc ác này. Lòng từ không cho phép chúng ta cao bay xa chạy trước những con vật hung dữ lớn hơn chúng ta. Lòng từ không cho phép chúng ta có tâm tàn nhẫn giết hại những con vật nhỏ bé. Người có tâm từ không hề sợ hãi thú dữ và còn thương yêu chúng nữa. Cho nên chúng ta nghe các vị tu ở trong rừng núi, nhiều khi cọp nó ngồi gần bên mà nó hầu hạ các vị. Tại sao vậy? Tại vì lòng từ của các vị ban rải, cho nên từ cái tình thương của con vật nó thông cảm, nó giao cảm được với cái tình thương của con người. Còn chúng ta vô rừng mà gặp cọp beo thì chắc chắn là lớ quớ là chúng ta bị nó xé xác. Tại vì cái tâm của chúng ta, cái từ trường của chúng ta nó không có từ. Cho nên do đó nó đã đánh hơi được cái sự hung dữ của chúng ta. Tâm chúng ta dữ tợn, vì vậy nó phải giết những con vật dữ để bảo vệ sự sống của nó. Cũng như bây giờ chúng ta thấy một con bọ cạp nhưng chúng ta chưa giao cảm cái từ trường của nó. Nó chỉ là một cái con vật, nó có một cái chất độc bảo vệ sự sống của nó, chớ nó đâu phải dùng chất độc đó để đi giết chúng ta. Nhưng lòng từ chúng ta không có cho nên chúng ta lại đập giết nó. Chớ nó không có đem chất độc để đến mà giết chúng ta.

Nhiều khi một con vật nó rớt ở trên mái nhà nó rớt xuống mình chúng ta, nó đâu có cắn chúng ta. Nhưng khi chúng ta vô tình lấy cái tay để nhẹ lên trên nó, vì vô tình chúng ta không biết có nó. Nhưng vì nó đau quá, bắt buộc nó phải cắn chúng ta. Do đó chúng ta bị cắn là vì bảo vệ cái sự sống của nó chứ không phải nó đi tìm chúng ta mà cắn. Thường thường Thầy ngủ bò cạp hay rớt ở trên mình. Do đó mà người tu hành kỹ lưỡng mà trau dồi cái tâm từ thì khi mà chúng ta cựa mình thì chúng ta phải ý tứ hẳn hòi, nhẹ nhàng thì làm sao bò cạp cắn. Còn quý thầy cựa mình thì lăn cái ù cho nên tay chân thì quơ, vì vậy mà đụng nó đau, nó cắn quý thầy, rồi đâm ra giết nó thì rất là tội.

Thì hôm nay Thầy nói như vậy để biết rằng cái sự trau dồi lòng từ là cái hành động nhẹ nhàng của chúng ta thì chúng ta cũng tránh sự đau khổ của chúng sanh vì bảo vệ mạng sống của chúng.

2.1.2 Trau dồi Từ tâm nơi khẩu hành

Bây giờ chúng ta học tiếp tới lòng từ nơi miệng của chúng ta.

Có hai hành động: Một là trau dồi miệng lưỡi.

Khi ăn uống nhai nuốt phải ý tứ cẩn thận, tránh nhai lầm chúng sanh, nhai chúng sanh, nuốt chúng sanh vào miệng. Nghĩa là chúng ta khi ăn món ăn nào đó chúng ta phải coi chừng. Nhiều khi chúng ta thấy còn một hai con kiến, thôi kệ nuốt đại nó đi, nhai đại cái bánh này chẳng ăn thua gì, bỏ miệng nhai. Đó là lòng từ chúng ta chưa thực hiện được. Khi mà trên một miếng bánh, hoặc là một thực phẩm chúng ta ăn có một vài con kiến, chúng ta hãy dùng một que cây nhẹ nhàng, chúng ta từ từ để cho nó bò lên rồi chúng ta đưa, bữa ăn cơm của chúng ta nó còn có thời gian dài có mất đâu mà lật đật, có gì đâu mà vội vàng. Vì vậy mà từ từ chúng ta đưa chúng ra khỏi món ăn của chúng ta và đồng thời chúng ta mới ăn.

Đó là cách thức tập tu tập của những người đệ tử của Phật. Người cư sĩ cũng như người tu sĩ. Chớ không phải nói người tu sĩ thì phải ăn uống như vậy, còn người cư sĩ thì phải vội vàng để lo làm cho có tiền có bạc rồi nhai nuốt tất cả chúng sanh trong bụng của mình. Thì cái điều đó là cái điều không đúng cái hạnh của một người đệ tử của Phật. Đệ tử của Phật thì có người tu sĩ và người cư sĩ. Thì người tu sĩ và người cư sĩ phải tu tập những cái hạnh này để chúng ta thực hiện cái lòng thương yêu. Mỗi lần ăn uống nhai nuốt đều Như lý tác ý. Khi nào mà chúng ta nhai trong miệng, ăn trong miệng một cái vật gì thì chúng ta phải thầm để mà như cái lý mà tác ý ra. Đây là cái câu mà chúng ta dùng pháp hướng mà chúng ta tu tập cái lòng từ trong khi chúng ta ăn:

Ta nhai nuốt ăn uống tâm ta phải thương xót chúng sanh. Lỡ nhai nuốt ăn vào bụng làm cho chúng sanh đau khổ và thiệt mạng là một điều tội lỗi lớn.

Đó, mình nhắc mình như vậy để cho nó cẩn thận từ cái chỗ ăn uống của mình. Và hằng ngày, chắc chắn ai cũng có ăn hết. Người cư sĩ thì ăn ba bữa, thì mỗi ngày ba bữa thì đã nhắc được ba lần. Còn chúng ta ăn ngày một bữa thì chúng ta nhắc có một lần. Và ngày nào cũng như vậy chúng ta nhắc một cái lời này để chúng ta thấm nhuần, để chúng ta ý tứ trong cái khi chúng ta nhai nuốt. Đó là một cái điều làm chúng ta rất tỉnh thức trong cái sự ăn uống của chúng ta.

Đó là cái sự trau dồi cái miệng là về ăn thì chúng ta có câu hướng tâm như vậy để nhắc cho chúng ta.

Về phần thứ 2 của miệng: trau dồi miệng lưỡi khi nói.

Ta muốn nói một điều gì ta cần phải cân nhắc kỹ, suy tư cho chín chắn rồi mới nói ra.

Lấy câu này làm pháp hướng nhắc tâm mình để lời nói không làm khổ mình, khổ người. Bởi vì lời nói rất độc, chúng ta vô tình nói ra cái chạm tự ái người ta làm người ta đau khổ. Mình nói chơi thôi cũng làm cho người ta rất khổ. Mình mỉa mai người ta một câu nói cũng rất đau khổ. Cho nên cái lời nói rất là khó, không phải dễ đâu. Trau dồi cái lời nói thì quý vị phải biết rằng trau dồi cái lòng từ nơi lời nói, rất là khó. Nói làm sao cho người ta an vui, đừng có để cho người ta đau khổ. Thì hầu hết mọi người thầy thấy chưa có ai trau dồi cái lời nói, chỉ mình muốn nói sao đó mình nói. Ý mình muốn khởi sao là mình khởi ra mình nói chứ còn mình không có trau dồi cái lời nói của mình cẩn thận kỹ lưỡng.

Khi muốn nói ra một điều gì ta tránh nói oan nói ức cho người khác. Hoặc nói chuyện cho người khác: chuyện có nói không, chuyện không nói có để làm cho khổ người. Mình không muốn người khác nói oan ức cho mình thì sao mình nói oan ức cho người khác. Do đó ta phải thường hướng tâm nhắc nhở Như lý tác ý câu này. Cái câu này để chúng ta nhắc nhở, chúng ta thực hiện hằng ngày trau dồi cái lời nói của chúng ta. Vì có trau dồi thấm nhuần thì mỗi lần chúng ta mở miệng nói thì chúng ta có cái tác ý, tự nó tác ý ra làm chúng ta nói rất cẩn thận. Thì đó gọi là trau dồi tâm từ của chúng ta đến với chúng sanh đó. Nghĩa là cái câu này là câu nói:

(BBT:CĐ,10B,E00:46:33)(BBT:CĐ,11A,B00:00:00)Ta nói phải giữ gìn lời cho đúng đắn, không được nói dối, nói oan ức làm cho khổ người.

Đó là nhắc nhở liên tục, nghĩa là lúc nào mà chúng ta rảnh rang. Ở đây nó không phải như cái ăn, mà cái nói nó thình lình lắm, nó không có giờ giấc đâu. Cho nên thường chúng ta phải nhắc mình, biết cái miệng mình là cái khẩu nghiệp. Cho nên mình phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho nó thấm nhuần để mở miệng ra là không làm cho người khác đau khổ. Thì lấy câu này để là pháp hướng, để như cái lý chân thật để trau dồi lời nói của mình cho nó có từ vô lượng tâm.

Ta là người hay nhiều chuyện lắm mồm, đụng chuyện gì cũng nói, cũng xen vô, đụng đâu cũng đía.

Biết tật mình xấu như vậy thì hằng ngày nên trau dồi miệng. Cái câu này là nhắc cái người hay nhiều chuyện, đụng chuyện gì cũng nói, cũng này kia, đem chuyện xấu người này nói chuyện kia hoặc đặt điều nói xấu người này nói xấu người khác, hoặc là không hiểu nói người ta xấu thế này thế khác. Đó là chúng ta biết mình nó còn có cái tật xấu như vậy thì hằng ngày mình phải trau dồi cái miệng của mình. Đây là cái câu này tượng trưng để quý thầy hiểu để sau này quý thầy tìm những cái câu nào phù hợp với đặc tướng của mình đặng cho mình thực hiện cho nó có hiệu quả. Còn ở đây thầy chỉ dạy chung chung mà thôi.

 Ta là người nhiều chuyện- tức là mình biết mình là người nhiều chuyện cho nên mình phải chỉ ngay nó chứ không phải mình tránh né được:

Ta là người hay nhiều chuyện, lắm mồm từ nay phải bỏ không được xen vào chuyện của người khác.

Đó, phải nhắc như vậy cho nó quen đi, nghe người ta nói chuyện gì cái mình xen vô liền. Đó là cái người lắm chuyện, nhiều mồm.

Như vậy là chúng ta có những cái câu để trau dồi cái miệng của chúng ta ở trong cái lòng từ không làm khổ người. “Ách giữa đàng mang vào cổ”- chuyện người người biết, chuyện mình mình hay, không nên xen vào chuyện của người khác để thân rắc rối và khổ đau. Đây là một cái câu kế mình phải hướng tâm tác ý “Ách giữa đàng mang vào cổ”- chuyện người ta xen vô một lát nữa mình bị người ta kéo ra làm chứng, làm cớ rồi rầy rà chuyện này đến chuyện kia. Gọi là “Ách đàng mang vào cổ”. Lấy câu này để mà chúng ta làm cái pháp hướng để chúng ta tránh đi những cái điều có thể tai họa xảy đến cho mình do miệng lưỡi:

Chuyện người người biết, chuyện mình mình hay. Không được xen vào chuyện của người khác để thêm rắc rối và đau khổ cho mình cho người.

Đó là một cái câu để chúng ta nhắc mình. Luôn luôn lúc nào cái ý của mình cũng nhanh chóng để mà chặn đứng những cái thói quen mà mình đã là người lắm chuyện, lắm mồm. Nếu hướng tâm như lý tác ý. Ở đây thì quý thầy nếu mà chúng ta thường xuyên mà hướng tâm, những cái ám thị cái câu như trên thì cái tâm của chúng ta nó luôn luôn rất là tỉnh táo và khi nói chúng ta rất cẩn thận. Cho nên bây giờ cái lời nói của chúng ta nhanh lắm, nó nhanh hơn cái ý. Khi nghe thì nó phóng ra nó nói liền. Mà chúng ta thường nhắc nhở nó như vậy thì nó không có nhanh nữa. Nói nó không có nhanh nữa mà nó suy tư rồi nó mới nói. Như vậy nó làm cho giảm cái tốc độ nhanh của lời nói, nó giảm xuống, nó làm chúng ta có cái cẩn thận, từ tốn ở trong cái lời nói của chúng ta. Suy nghĩ hẳn hòi rồi mới nói. Còn hiện giờ quý thầy cũng biết rằng mình muốn suy nghĩ rồi mình nói, ai lại cũng muốn vậy. Nhưng mà tại sao nó trở thành cái thói quen quá nhanh chóng. Vừa rồi công chuyện gì xảy ra là nó phóng lia lịa nó nói thôi mà mình không kìm lại được nữa chớ. Nhưng mà biết rồi thì nó quá trễ rồi, lấy lại cái lời nói khó lắm, lỡ lời đâu có dễ gì mà lấy lại.

Cho nên trong cái sự tu tập hằng phải trau dồi thì cái lời nói của chúng ta mới chững chạc, mới đúng đắn được chứ không khéo nó phóng theo cái tư tưởng của nó, cái tư tưởng ngã chấp của nó, nó làm những cái đó nó lệch đi và nó đưa chúng ta đi đến chỗ khổ và người khác khổ. Và chúng ta cũng nên nhắc chúng ta, cái tâm chúng ta như cái lý như thế này:

Từ đây ta phải im lặng, sống trong trầm lặng không được nhiều chuyện lắm mồm nữa.

Là câu mà nhắc chúng ta phải sống im lặng, trầm lặng. Coi như là độc cư hoàn toàn đó, để nhắc cho đến khi mà chúng ta độc cư hoàn toàn mà chúng ta thấy thảnh thơi, vui sướng, tâm hồn chúng ta quay trở lại với chính mình không còn quay ra ngoài nữa thì những câu pháp hướng này có giá trị, sau khi mà chúng ta thực hiện thiền định chúng ta không còn cô đơn. Đó là những cái câu mà quý thầy cần phải ghi nhớ để mà hành, nhắc mình, hành như lý tác ý nó ra để giúp cho mình được trầm lặng, được im lặng ở trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng.

Do miệng lưỡi nói ra mà người sân kẻ hận, tự tử quyên sinh, phiền não đau khổ. Do miệng lưỡi mà gia đình ly tán, anh em xa lìa, bầu bạn chẳng gần. Do miệng lưỡi nói ra mà vạn vật sinh linh tiêu điều, phải chết. Do miệng lưỡi nói ra mà tạo nên cảnh địa ngục ở trần gian. Do miệng lưỡi nói ra mà biết bao nhiêu người tù đày biệt xứ. Do miệng lưỡi nói ra mà mà gia đình xào xáo bất an, anh em chia lìa. Do miệng lưỡi nói ra mà tăng đoàn chia rẽ. Đó thì quý thầy thấy từ cái miệng lưỡi. Chúng ta sống chung nhau ở một cái tăng đoàn mà tu tập như thế này mà nếu mà không có cái hạnh độc cư thì quý thầy từ ngày vào đây thì chỉ hơn một tháng thôi. Thì nếu mà người này đến thất người kia nói chuyện mà không giữ độc cư thì những cái sự kiện nó xảy ra không lường được. Nó có những cái mà làm chúng ta bất an trong bước đường tu tập.

Cho nên vào đây thì đã khép chặt, các thầy phải hoàn toàn sống độc cư. Để làm gì? Sống độc cư để giữ cho mình, mọi người được yên tĩnh tu tập nó mới có kết quả. Còn nếu mà sống mà vui ồn náo như cái chợ thì tức là không thể nào mà có thể tu tập được. Cho nên ở đây chúng ta phải trau dồi cái miệng, cái lời nói của chúng ta, giữ gìn nó rất cẩn mật, im lặng là tốt, mà nói là không tốt.

Nói chung tất cả mọi sự đau khổ trên thế gian này sinh ra phần nhiều là do miệng lưỡi. Quý thầy thấy sự đau khổ của con người trên thế gian này thì phần nhiều là do miệng lưỡi chớ không phải mà ở đâu mà có hết. Do miệng lưỡi mà ra rồi nó mới xảy ra chuyện này chuyện kia đủ thứ hết. Còn nếu mà chúng ta sống trầm lặng thì chắc chắn là khó mà có thể xảy ra những sự kiện đau khổ.

Vậy quý thầy hằng ngày cần phải trau dồi miệng lưỡi. Khi nói phải nói cho người vui không được nói cho người buồn. Quý thầy phải dùng Như lý tác ý câu này:

 Ta không nói thì thôi mà hễ nói ra thì phải nói làm vui lòng mọi người.

Đó là một cái câu mà để nhắc nhở mình không có nói ra mà làm ai buồn, mà nói ra là giúp cho người ta vui, giúp người ta tinh tấn tu hành, giúp người ta hân hoan trong cái sự tu hành giải thoát thì mình nên nói cái lời nói đó ra. Thì cái câu mà hướng tâm như vậy, Thầy chỉ đại khái sau này quý thầy tự soạn ra lấy những cái câu mà nó phù hợp với đặc tướng của mình mà mình thực hiện nó hợp, có kết quả tốt.

Chính vì nói ra mà làm vui lòng người là ta đã biết thương người như chính thương thân ta.

Đó thì cái lời nói chúng ta làm cho người khác đừng có buồn, đừng có khổ là chính mình đã thương người đó chớ không phải là gì khác. Còn mình nói ra làm cho người ta buồn khổ, người ta giận hờn, người ta đau đớn đó là không có thương mình. Lời nói chúng ta nó trực tiếp lắm, nói ra là làm người ta vui mừng, nói ra làm người ta buồn khổ, người ta khóc than. Thì cái lời nói rất là phải cẩn thận, đối với người tu sĩ đạo Phật thì càng cẩn thận hơn nhiều. Người cư sĩ ở ngoài đời còn đang chung đụng với mọi người thì cái lời nói phải cẩn thận không thua gì người tu sĩ.

Kế đó ta phải như lý tác ý câu này nữa:

Làm người ta phải thương người, làm người ta phải thương người đau khổ cũng như ta đau khổ.

Nghĩa là mình nhắc như vậy để cho mình nhớ rằng mọi sự buồn giận đau khổ của người cũng chính là sự đau khổ của mình. Mình không nhắc nó quên mất đi, nó không biết, nó chỉ biết mình đau khổ chứ nó không biết ai đau khổ hết. Cho nên vì cái sự vô tình mà không biết người đau khổ đó, vì vậy mình chỉ nghĩ đến mình bị đau khổ mà thôi, cho nên mở miệng ra là mình làm cho người ta đau khổ vô cùng. Vì con người đang ở trong cái dục, lòng ham muốn. Người ta muốn cái gì đó không được mà mình nói cái lời nói ngăn cản là họ đã đau khổ rồi.

Bây giờ là cái phần, đã trau dồi về cái miệng chúng ta có hai phần mà chúng ta đã tu tập, đã biết cách để trau dồi cái miệng của chúng ta rồi. Thì bây giờ đến cái phần mà trau dồi của cái ý.

2.1.3 Trau dồi Từ tâm nơi ý hành

Bây giờ đến cái phần trau dồi cái ý. Thì chúng ta thấy hồi nãy Thầy có giới thiệu cái ý của chúng ta nó có ba phần để trau dồi.

Muốn trau dồi ý có lòng từ ta phải tư duy:

Thân tất cả chúng sanh cũng như thân ta thường đau khổ thường đói khát. Ta hãy thương yêu và chăm sóc chúng như chính chăm sóc thân ta, chăm sóc như con ta.

Đó là một cái câu hướng để mà chúng ta bắt đầu vào trau dồi cái ý, thì chúng ta phải nhắc cái ý chúng ta thường phải tư duy những cái điều đau khổ của chúng sanh cũng chính như là đau khổ của chính mình, cũng như chăm sóc con ta vậy. Đó là chúng ta phải nhắc nhở cái câu này để hằng ngày, hằng lúc nó thấm nhuần trong cái ý của chúng ta. Do vì vậy mà từ cái miệng của chúng ta nói ra, từ cái thân hành của chúng ta làm ra hành động này, hành động kia đều toát ra cái lòng thương yêu chân thật nơi tận đáy lòng của mình. Bởi vì cái ý là cái chính, do cái ý thì cái miệng mới nói, do ý cái thân chúng ta mới hành. Mà cái chính mà không trau dồi cho thấm nhuần thì những cái phụ kia làm sao mà được thấm nhuần. Cho nên ở đây trau dồi cái ý phải rất là cẩn thận. Vì cái ý là tư duy, mà tư duy như vậy Phật dạy trong Bát chánh đạo Phật dạy có cái nẻo là Chánh tư duy. Tư duy đem lòng từ chúng ta thương xót chúng sanh tức là Chánh tư duy. Sự suy nghĩ chơn chánh đem lại cho người không khổ, mình không khổ thì đó là Chánh tư duy. Sự tư duy này để giúp cho ý chúng ta càng ngày càng dồi dào lên lòng thương yêu của chúng sanh. Sự tư duy này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần khi chúng ta nhìn thấy những loài vật xung quanh ta, hoạt động xung quanh ta, biến nó trở thành những pháp hướng.

Nghĩa là chúng ta nhìn tất cả mọi vật, như chúng ta nhìn một đoàn kiến đi ngang qua. Chúng ta nhìn sự hoạt động của chúng trong cái đoàn kiến thì chúng ta thấy nó có những cái sự buồn, vui, đau khổ ở trong đó lẫn lộn. Rồi có những cái sự tấn công của những con vật khác vào trong cái đoàn kiến này, chúng bảo vệ bằng cách nào. Chúng ta thấy rất rõ ràng, từ đó ta thấy có sự suy tư rất là chơn xác thì đó ta nhìn lại cái đời con người của chúng ta thì thấy giống như những con vật này. Từ đó chúng ta mới toát ra những tư tưởng, cái sự tư duy thương yêu chơn thật của muôn loài.

Nếu chúng ta ta không có dùng ý để quan sát, để theo dõi thì từng cái sống của loài vật thì chúng ta chưa thấy được cái sự chà đạp xâu xé lên nhau vì miếng cơm manh áo, vì vật chất thực phẩm. Nếu chúng ta quan sát kỹ lưỡng thì chúng ta sẽ có những bài học có giá trị xứng đáng cho chúng ta tập tu Tứ vô lượng tâm.

Khi thấy chúng hoạt động trong cuộc sống ta khởi lòng từ. Khi có con vật gặp tai nạn ta phải cứu giúp ngày. Nghĩa là nó đang đi như vậy rủi nó rớt trong cái vũng nước nào đó. Thì chắc chắn cái vũng nước đối với ta thì nhỏ nhưng nó là cái biển đó. Nó sẽ chết đuối trong đó. Cho nên chúng ta vội vàng mà lấy một cái vật, hay là đưa ngón tay làm cái cầu cho chúng trèo lên để thoát ra khỏi chết đuối. Thấy một con kiến rơi trong vũng nước ta vội ngay vớt liền để chúng khỏi chết đuối. Đó là chúng ta thực hiện cái hành động đó gọi là hành động từ tâm của chúng ta đối với chúng sanh.

Và khi chúng ta có quan sát, có khởi ý, tu tập trau dồi cái ý mình bằng cách cẩn thận quan sát tư duy như vậy thì tất cả mọi loài vật xung quanh chúng ta đều có sự cứu khổ của chúng ta. Như chúng ta nghe một con vật khác lớn hơn bắt một con vật khác. Cái tiếng kêu la cầu cứu, chúng ta đừng nhẫn tâm mà ngồi đó mà hãy mau mau đến cứu con vật nhỏ bé. Vì con vật nhỏ bé cũng muốn sống nhưng con vật lớn hơn thì tìm con vật nhỏ bé để mà ăn thịt, để làm mồi, để nuôi sự sống của mình mà giết hại con vật khác. Lòng từ của chúng ta luôn luôn lúc nào cũng can thiệp vào sự đau khổ của chúng sanh, không thể để chúng sanh đau khổ trước cảnh chết chóc như vậy. Không nghe tiếng kêu mà thôi, nghe tiếng kêu thì vội vàng chúng ta mau mau chạy đến nơi đó để cứu khổ những con người, những con vật đang khổ đau. Và cái hành động mà chúng ta mau mau đó tức là chúng ta đã trau dồi cái lòng từ của chúng ta. Còn chúng ta thấy thản nhiên tức là lòng từ chúng ta không bao giờ có được.

Hôm nay quý thầy về đây được nghe những lời để trau dồi lòng thương chân thật bằng những hành động rõ ràng không thể nào mà thiếu khuyết được trong bước đường tu theo đạo Phật. Như hôm qua Thầy đang ngồi viết, dòng tư tưởng đang tuôn chảy thì bỗng nghe tiếng một con chim nhỏ kêu thì Thầy vội vàng chạy ra để tiếp cứu, làm cho con chim lớn không còn cắn con chim nhỏ. Do cái sự kêu la của loài vật như vậy mà lòng từ chúng ta thực hiện, nghe tiếng la là vội vàng không thể nào làm ngơ được, mặc dù đang ngồi viết say mê. Thầy không thể làm ngơ trước được, mặc dù dòng tư tưởng sẽ bị cắt đứt đi nhưng vẫn thản nhiên chạy ra để cứu lấy một con vật. Đó là cái hành động trau dồi lòng từ của mình.

Thì các thầy phải hiểu biết, là đây Thầy muốn nhắc để quý thầy đừng vô tình. À, mặc chết nó mặc, làm gì nó làm, mình phải lo làm công việc mình cho rồi. Công việc của mình là công việc biết chừng nào mà cho rồi? Đời người còn sống là còn việc làm, mà trước cái đau đớn của chúng sanh chúng ta không thể nào mà làm ngơ được. Do từ cái hành động không làm ngơ được tức là chúng ta đã trau dồi cái lòng từ của chúng ta đó. Để lấy những cái kinh nghiệm bản thân của Thầy mà nhắc nhở quý thầy từ đây chúng ta sẽ tu tập, trau dồi thật sự, siêng năng tu tập vì chính lòng từ cứu khổ chúng ta. Vì thế hằng ngày chúng ta tư duy:

Tất cả chúng sanh như con ta, ta phải thương yêu và không bao giờ làm đau khổ chúng sanh.

Bây giờ chúng ta đã trau dồi cái ý của chúng ta ở trong cái lòng từ. Như vậy thì chúng ta cũng đã hiểu rằng sự tu tập của chúng ta mà trau dồi cái ý từ như vậy là luôn luôn những cái hành động nào, nhìn cái sự hoạt động nào của chúng sanh chúng ta cũng phải để tâm quan sát, để chúng ta theo dõi và tư duy. Từ cái tư duy cái ý từ nó mới thể hiện ra được. Còn nếu mà chúng ta cứ lo công chuyện của mình. Ờ bây giờ cứ lo ngồi tu hoặc này kia thì quý thầy không phải là người trau dồi. Nhiều khi chúng ta ngồi nghỉ, thay vì chúng ta mệt nhọc lại là chúng ta lại lo tu cái kia cho mau nhưng mà không trau dồi cái tâm từ của chúng ta thì chúng ta đang sợ thiếu phước. Nhiều khi chúng ta ngồi nghỉ mà chúng ta nhìn một cái đoàn kiến hoặc đôi ba con kiến đang bò trên sân tức là chúng ta đã thư giản tâm hồn chúng ta trong cái hành động đó rồi. Nó làm chúng ta trở lại cái thời gian mà tu tập, nó lại làm chúng ta tu tập có chất lượng hơn. Còn bây giờ chúng ta sợ mất thời gian, chúng ta cứ ngồi tu hơi thơ hoài hoặc là quán vô lậu hoài, riết nó nhàm chán, nó ngao ngán, nó buồn khổ. Thay vì chúng ta dành ra những cái giờ mà chúng ta ngồi thấy những cái đoàn kiến, thấy những con vật nó đang làm việc hoặc là nó đang tai nạn, nó đang gặp khổ thì lúc bấy giờ thì chúng ta thực hiện những cái tâm trau dồi lòng từ. Thì lúc bây giờ chúng ta đã thư giãn các pháp mà chúng ta mà chúng ta đang tập luyện. Do đó khi mà chúng ta đã trau dồi lòng từ thì lúc bấy giờ nó có những điều kiện mà chúng ta đã giúp được những con vật thoát ra khỏi khổ đau, làm chúng ta có những cái tâm rất là vui mừng. Vì vậy mà khi ngồi lại thì nó rất tỉnh táo, cho nên chúng ta thấy sung sướng do đó chúng ta tu tập thì chất lượng, tu tập thiền định cũng như các định khác thì nó lại làm cho chúng ta có kết quả tốt hơn. Còn chúng ta cứ miệt mài. À, bây giờ cứ biết đi kinh hành rồi tu Chánh niệm tỉnh thức, rồi ngồi lại tu Vô lậu, giữ tâm thanh thản, rồi giữ hơi thở tu cái này cái kia mãi thì cái lòng từ chúng ta không có cho nên chúng ta hoàn toàn là bị động, hoặc là chúng ta làm việc quá 24/24 giờ, thì như vậy cái chất lượng tu nó không có kết quả.

Còn trái lại chúng ta có lúc thì trau dồi, những cái quan sát của chúng ta, quan sát của chúng ta làm cho cái tri kiến của chúng ta càng ngày càng phát triển rất lớn và rất rộng. Chúng ta thấy cái sự sinh hoạt của chúng sanh, thấy được cái sự sinh hoạt của con người và suy ngẫm, tư duy thì chúng ta thấu suốt được cuộc sống nó giả tạo thật, nó không có cái gì là hạnh phúc của con người cả, của con vật cả. Từ cái chỗ mà quan sát nó đem chúng ta có những cái thông suốt, cái trí tuệ chúng ta càng phát triển ra nữa. Nên chúng ta tu tập biết mà sử dụng đúng cách thì đem lại lợi ích chúng ta rất lớn, tâm hồn chúng ta rất an lạc. Còn nếu mà chúng ta cứ mải mê ngồi thiền nhập định làm chủ sanh tử nhưng cái tâm từ trau dồi những cái tư duy thiện này, trau dồi những cái ý tốt này mà không thực hiện thì như chúng ta đã quên đi điều rất quan trọng trong cuộc sống tu hành của mình.

Thì hôm nay Thầy nhắc nhở qua cái điều kiện mà trau dồi cái ý ở trong cái Tứ vô lượng tâm này thì quý vị hãy thường xuyên bỏ cái thời gian trong một ngày một đêm thì ít ra phải có 5, hoặc 10 phút, hoặc nửa tiếng đồng hồ, hoặc là một tiếng đồng hồ thì quý thầy sẽ trau dồi cái tâm từ của mình bằng trau dồi cái ý từ của mình trong cái sự quan sát tất cả chúng sanh. Để rồi có những con vật nào, có những tai nạn nào, những cái hành động, rồi quan sát tất cả xung quanh chúng ta: âm thanh, tiếng kêu la, hoặc là tiếng cầu cứu của loài vật thì chúng ta mau mau hành động để biến ra hành động thân - khẩu - ý của mình, để nó tạo cho nó có sự an vui hạnh phúc. Đó là chúng ta trau dồi những cái điều kiện đó làm chúng ta thư giãn được khi chúng ta tu hành thiền định, giúp cho chúng ta nhiều sự tu tập có kết quả là do chúng ta biết tu tập.

Vì từ xưa đến giờ chưa có người vạch ra lối tu đúng theo cách thức của đức Phật, cho nên chúng ta tu cái trước cái sau không phù hợp. Lẽ ra theo như giáo án này thì quý thầy thấy, bước đầu vào người cư sỹ đến với đạo Phật thì đây là pháp đầu tiên mà Thầy đã dạy cho các cư sĩ và cũng như các thầy là phải tu Tứ vô lượng tâm và trau dồi nó. Mà trau dồi nó thì bắt đầu nó có cái hiệu quả của cái sự tu hành sau này của quý thầy. Quý thầy thấy rất rõ, còn bây giờ quý thầy thấy từ lâu tới giờ nói Tứ vô lượng tâm thì quý thầy nghe như vậy chứ quý thầy biết làm sao mà trau dồi nó. Cho nên không biết trau dồi nó, vì vậy mà quý thầy lấy cái sau mà tu cái trước, lấy cái trước mà tu cái sau. Ờ quý thầy nói không tham, không sân, không si bằng cách là vô lậu thế này thế khác, tu Định vô lậu nhưng đâu bằng tu lòng từ. Vì có thương yêu thì tham sân si làm sao có. Các thầy thấy đó là cái mấu chốt ban đầu để chúng ta đi vào trong cái tâm không còn tham sân si phiền não nữa.

Vì vậy, chúng ta phải tu tập nó có từng bước của nó, nó thực hiện. Mà nếu mà trau dồi lòng từ, trau dồi những hành động thân khẩu của mình mà lòng từ nó có phải là tập trung tâm của chúng ta, đè nén tâm của chúng ta đâu. Bằng chứng là chúng ta tu tập đúng cách là chúng ta xả tâm chứ không phải là nén tâm. Còn bây giờ quý thầy không hiểu, cứ ngồi dùng hơi thở hoặc tập một cái pháp môn nào đó nén tâm mình mãi thì lòng từ làm sao có được. Và cứ nghĩ rằng mình sẽ tu tập như vậy để làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi, mà cái luân hồi là cái tham sân si của chúng ta. Tâm tham sân si mà không có lòng từ thì sao dứt bỏ được.

Thì hôm nay mới thấy rõ được cái lối đi đúng đắn. Người cư sĩ mà thực hiện được lòng từ, trau dồi được lòng từ thì đời sống của họ hạnh phúc biết bao nhiêu. Họ chưa đòi hỏi ở sự giải thoát nào cao hơn ở đạo Phật, chỉ ở Tứ vô lượng tâm cũng đủ cho họ đem lại hạnh phúc của đời sống của họ rồi. Và xã hội có một trật tự rất là an ổn, không có cái rối trật tự nữa. Cho nên nếu mà theo đúng đạo Phật như Thầy đã giảng cho quý thầy thấy, cái giai đoạn của người cư sĩ từ cái hành động, tất cả hành động đối xử nhau đức Phật dạy rất rõ. Do cái sự giúp đỡ này mà chúng ta biết rằng ông Phật đã dạy chúng ta để sống một cuộc sống đem lại hạnh phúc an lành cho nhau. Người cư sĩ phải thực hiện được những điều đó, hiểu được những điều đó, sống được những điều đó. Và tiếp tục trau dồi Tứ vô lượng tâm thì đời sống còn gì là địa ngục, toàn cả là Thiên đàng.

Cho nên từ đây bắt đầu tu 1 năm cho đến 2 năm mà trau dồi cái Tứ vô lượng tâm này qua hành động thân khẩu ý của quý vị. Chắc chắn là quý vị sẽ có hạnh phúc rất lớn, sự giải thoát chân thật ở tâm hồn của quý vị và cả gia đình của quý vị. Từ lâu tới giờ chúng ta đã theo đạo Phật bao nhiêu năm? 5 năm, 10 năm, 20 năm rồi mà nhìn lại sự giải thoát, sự an lạc cho gia đình của mình có được hay không. Hay còn đang ở trong địa ngục. Điều này chứng minh cho chúng ta biết rằng đạo Phật đến thì có sự giải thoát thật sự mà đến mà không có sự giải thoát thật sự thì chính nó không phải của đạo Phật.

Vì vậy hôm nay về trau dồi ý thì quý thầy phải siêng năng, phải quan sát mọi vật. Khi đứng trước một cái cây chúng ta nhìn sự sống của nó thế nào. Những làn gió thổi, những hạt sương rơi trên cây chúng ta nhìn thấy sự thấm nhuần của sự sống nó như thế nào để chúng ta tỏa lòng từ thương yêu chúng từng chút. Nếu chúng ta không chịu khó quan sát, không chịu khó ý tứ như vậy thì khó mà chúng ta thông cảm được lòng thương yêu chúng ta đối với chúng. Muốn thực hiện được điều này thì phải cần có thời gian để quan sát, để thấm nhuần từng sự sống của muôn loài.

Có bao giờ quý thầy ngồi nhìn một cây cỏ, từ một chiếc lá non trong lòng ngọn cỏ. Rồi tuần tự trong những đêm trăng, tuần tự chúng ta thấy lần lần chiếc lá bung lên, dài ra lần lần. Chúng ta thấy sự sống dường như là sự sống của chúng ta. Quý thầy có suy nghiệm được điều đó không. Trong những năm ở trên Hòn Sơn, một thân một mình độc cư Thầy lấy cỏ cây mà làm bạn. Vì vậy mà Thầy ngồi thầy quan sát, từ đó Thầy mới hiểu trau dồi lòng từ, ý từ của mình phải trau dồi nơi đây. Vì vậy mà hôm nay Thầy mới ghi lại những điều kinh nghiệm qua bản thân của mình để cho quý thầy lấy đó mà thực hiện. Trong kinh sách không ghi điều này nhưng vì kinh nghiệm đã dạy Thầy có lòng từ, thương từ cây cỏ.

Loài cây cỏ còn thương thì làm sao mà loài vật không thương. Mà loài vật còn thương thì làm sao mà loài người không thương? Tất cả các thầy kẻ thì vầy, người thì khác, kẻ ý này người ý khác, nhưng mọi ý đều là sự thương yêu của Thầy. Thầy không bỏ người nào hết, Thầy không ghét dơ người nào hết, người nào làm gì Thầy thì cũng thương, Thầy không bỏ người nào. Dù người đó có nói Thầy cách gì Thầy cũng thương yêu bởi vì Thầy hiểu họ chưa hiểu mà thôi. Cho nên lòng từ nó đem lại cho tâm hồn Thầy một tâm hồn thanh thản, giải thoát, không có người thù hận mình. Mà chỉ có biết những người chưa hiểu và những người con lầm lạc mà thôi, chứ không biết người đó là người thù của mình.

Bây giờ Thầy sẽ dạy đến cái lòng bi, lòng từ đã hết rồi. Thì quý thầy nhớ kỹ những gì mà Thầy đã nói nãy giờ để trau dồi cái ý, cái ý trau dồi rất quan trọng. Nếu mà cái ý trau dồi được thì cái hành động thân, khẩu của quý vị không khó nữa, không có khó khăn. Thì quý vị nhớ ngồi quan sát mọi vật đó là trao dồi ý của chúng ta. Từ đó chúng ta mới tỏa ra cái sự thương yêu chân thật trong cái sự tư duy của nó. Như vậy quý Thầy đã biết trau dồi cái ý qua cái lòng từ.

Bây giờ thì Thầy sẽ dạy tới lòng bi. Nội có một cái hành động từ mà nãy giờ đã chiếm chúng ta nhiều thời gian quá nhiều, mà bốn cái Từ - Bi - Hỷ - Xả này thì Thầy thấy chắc còn một phần nữa, chớ không thể nào mà ngày hôm nay mà chúng ta có thể chấm dứt được, trau dồi bốn cái vô lượng tâm này được. Mà chỉ đi từng phần để nhắc nhở kỹ, vì đây là lời nói sau cùng của Thầy, Thầy không còn thuyết giảng nữa. Do đó, Thầy nhắc đi nhắc lại nhiều để cho quý thầy nhớ mà thực tập. Đừng quên vì đó là con đường giải thoát chân thật của đức Phật đã dạy: Tứ vô lượng tâm.

2.2 Trau Tâm bi vô lượng

Bi vô lượng là lòng thương rộng lớn vô bờ bến trước những nỗi đau khổ của chúng sanh.Người có lòng bi thương rộng lớn không thể làm ngơ trước nỗi đau khổ của chúng sanh và luôn luôn quyết tâm để làm gì dứt trừ những nỗi khổ đau ấy.Nghĩa là cái lòng bi như hồi nãy Thầy đã giải thích cho quý thầy thấy, lòng từ thì đối với những con vật mạnh giỏi không có tai nạn, mà lòng bi là nó có những sự đau khổ, có những sự tai hại cho nên chúng ta phải làm sao để dứt trừ những cái sự đau khổ đó. Thấy người bệnh tức là lòng bi chúng ta đó chứ không phải lòng từ. Đó thì quý thầy đã hiểu, như vậy chúng ta mới biết cái chỗ từ bi của chúng ta như thế nào. Mà hiểu được thì lúc bấy giờ chúng ta phải làm sao, không thể làm ngơ. Cũng như Thầy bấy giờ nghe một con chim lớn nó bắt con chim nhỏ, mà con chim nhỏ kêu hét lên để cầu cứu thì trước cái đau khổ, trước cái sự sống chết của con chim trong chớp mắt mà làm ngơ, mà không chạy thì không phải là người trau dồi lòng bi. Cho nên người trau dồi lòng bi thì mau mau mà hãy thực hiện cái tâm bi của mình trước cái sự đau khổ đó, trước cái sự chết đó của con vật.

Người có lòng bi thương rộng lớn không thể làm ngơ, đó lấy cái sự làm ngơ đó. Còn bây giờ cái lòng từ của chúng ta đối với chúng sanh mà nó không không bệnh đau thì mình có làm ngơ gì đâu. Nhưng mà nó có đau đớn đâu, cho nên chúng ta phải thực hiện cho đúng cái lòng bi của chúng ta là không được làm ngơ, không được chậm trễ. Vì có sự chậm trễ trong đó thì chúng sanh có sự đau khổ trong đó thì chúng sanh có sự đau khổ dài hơn. Người có lòng bi thương rộng lớn không thể làm ngơ trước nỗi đau khổ của chúng sanh và luôn luôn có tâm biết để làm những gì dứt trừ những sự đau khổ đó. Nghĩa là ngay liền mình làm mọi cách làm sao cho cái con vật mà đang bị đau khổ đó đừng đau khổ nữa. Thì đó gọi là trau dồi lòng bi.

Tuy rằng biết nỗi đau khổ của thế nhân và tất cả chúng sanh đều do nhân quả ác - thiện mà sanh khởi. Thì chúng ta biết rõ ràng mà. Tất cả những cái điều mà đau khổ của chúng sanh mà giết lẫn nhau đều do cái nhân quả cả chứ đâu phải gì khác hơn. Nhưng trước cảnh rên la thảm khốc đầy đen tối của kiếp người, của kiếp chúng sanh người có lòng bi không thể làm ngơ được. Biết là nhân quả nhưng chúng ta nghe tiếng kêu là là chúng ta không thể làm ngơ được khi chúng ta là người quyết tâm tu tập trau dồi lòng bi.

Luôn phải dùng lời an ủi khuyên bảo, dùng tay xoa dịu những vết thương đau, nhẹ nhàng để làm những vết thương đó giảm bớt cơn đau của chúng sanh, của người khác. Nghĩa là trước cái cảnh mà, bây giờ có một con vật nó bắt một con vật nó cắn đi, rồi đuổi đi thì bây giờ đứng dậy không nổi vì vết thương con vật khác đã làm cho con vật đó sắp sửa chết đi: bị gãy chân, bị què tay, hoặc bị thương tật trên mình. Lúc bây giờ, chúng ta mới nâng con vật rất nhẹ nhàng, để con vật ngay ngắn lại rồi chúng ta vuốt ve nhẹ nhàng, chúng ta tìm cách xoa dịu những vết thương đau của chúng như chính chúng ta bị đau rồi chúng ta xoa cái tay nhẹ trên vết thương của chúng ta vậy. Đó là chúng ta thực hiện lòng bi của chúng ta.

Chúng ta phải đừng có lấy cái thì giờ mà chúng ta sợ mất đi trong cuộc sống của chúng ta, mà hãy lấy lòng thương yêu của chúng ta, bỏ tất cả xuống hết, chỉ có lòng thương yêu của chúng ta là duy nhất. Ở trong cuộc đời này vật chất quý thầy có cố gắng làm, tiêu phí nó cũng chẳng ra gì. Vật chất của cải vàng bạc châu báu nó cũng chẳng bằng khi mà chúng ta bỏ thời gian để xoa dịu vết thương đau của loài vật thì cái điều đó nó quý biết bao nhiêu. Nó quý hơn là vàng bạc, nó quý hơn là châu báu, nó quý hơn là ngai vàng của nhà vua. Lòng thương yêu đó, sự xoa dịu đó nó làm cho tâm hồn của quý quý vị hân hoan vui sướng khi chúng ta làm được những điều này. Vàng bạc của báu không thể đem đến sự hân hoan này được, mà vàng bạc của báu lại còn làm cho quý vị đau khổ hơn nhiều. Còn sự xoa dịu vết thương đau trong lòng từ bi của mình với chúng sanh thì đem lại cho chúng ta nguồn vui lâu dài.

Phải luôn luôn khiến cho chúng sanh nhận nẻo thiện. Nghĩa là mọi người, mọi vật mình làm sao cho chúng đi vào cái nẻo thiện. Bởi vì cái nhân, mình biết rõ cái nhân ác thì phải thọ lấy cái quả khổ, mà nhân thiện thì sẽ được hạnh phúc. Do muốn được hạnh phúc đó cho nên chúng ta phải tìm mọi cách làm sao cho chúng sanh hiểu được cái nẻo thiện để xa lìa cái nẻo ác, để tránh xa cái ác để cho tự họ cứu lấy họ và họ không còn đau khổ nữa. Chứ nếu cứ để họ làm điều ác thì họ gặp khổ thì chúng ta lại thương yêu họ giúp đỡ họ thì mãi mãi chừng nào mới chấm dứt cái nhân quả thiện ác này. Cho nên thương yêu thì thương yêu chúng ta khi họ chưa hiểu nhân quả thì chúng ta giúp đỡ, mà khi họ hiểu nhân quả thì họ đã cứu họ rồi. Vì vậy chúng ta muốn cho họ được yên vui, được hạnh phúc, không còn thêm những tai nạn đau khổ nữa thì chúng ta phải hướng dẫn họ bằng con đường thiện, bằng nẻo thiện. Do những hành động thiện sẽ đưa đến họ những hạnh phúc an vui, không tai nạn, không khổ đau.

Vì vậy điều cần thiết là chúng ta từ trong cái nhân tốt để cho họ được thoát ra cái quả khổ, hành động ác, lời nói ác hoặc làm việc ác và luôn luôn giúp mọi người làm việc lành. Nghĩa là điều lành nào thì chúng ta cũng giúp cho họ, mà điều ác thì chúng ta ngăn cản họ, không cho họ làm. Thì đó là chúng ta bi với chúng sanh. Tức là lòng bi của chúng ta phủ trùm với chúng sanh. Thấy hai con vật đang tranh nhau, đang đánh nhau thì chúng ta can ra. Và đồng thời chúng ta làm cho chúng dịu bớt cơn giận từ đó chúng không còn cắn nhau nữa. Các thầy cứ tự nghĩ, có những lúc Thầy ngồi nhìn hai con kiến cắn lộn, rồi Thầy lấy một cái cây Thầy can hai con kiến ra, rồi nó cũng sáp lại nó cắn nữa.

Thầy tiếp tục bài giảng Tứ vô lượng tâm.

Khi mà Thầy nhìn thấy hai con kiến cắn nhau rồi Thầy can nó ra nhưng rồi nó lại sáp lại cắn nhau nữa. Do đó Thầy phải dùng cái cây Thầy khều hai con kiến dang rất xa ra. Rồi lần lượt từ từ nó không còn giận nữa, không sân nữa, rồi nó bỏ đi không cắn nhau nữa. Vì vậy mà Thầy biết tâm sân của loài vật cũng rất dữ tợn chứ không phải ít. Nếu mà cái lòng sân của nó đối với con người chắc chắn là cũng không thua. Cho nên qua cái nhìn hành động của chúng Thầy biết là có thể chúng giết nhau bằng cái lòng sân của chúng. Vì vậy mà chúng ta là những người trau dồi cái tâm bi để thương chúng sanh thì làm sao giảm bớt cái sân hận ở trong lòng của chúng sanh thì đem lại cái hạnh phúc cho chúng sanh. Tức là mà muốn thực hiện cái tâm từ thì phải ngăn ngừa những cái điều có thể làm cho chúng sanh đau khổ. Còn tâm bi chúng ta thực hiện cái sự đau khổ mà an ủi, xoa dịu cái vết thương của chúng sanh.

Muốn trau dồi được như vậy thì lúc nào chúng ta cũng thường nhắc nhở tâm ta:

- Hãy thương người đang sân.

Nghĩa là hằng ngày mình muốn cho tâm đừng có sân giận người thì mình thường dùng cái pháp hướng như cái lý mình tác cái ý ra: Hãy thương người đang sân. Đó là cái câu thường nhắc ở trong tâm của chúng ta, khi lúc nào rảnh rỗi thì chúng ta thường nhắc cái câu đó. Chớ không phải nhắc cái tâm mình “Tâm đừng sân, đừng có hận” thì nó chưa đủ. Mà ở đây mình trau dồi cái tâm mình thương người, cho nên mình hãy nhắc: Hãy thương người đang sân. Họ đang sân với mình đó chứ không phải đang sân với người khác đâu. Nhưng mà mình hãy thương người đang sân, do cái câu hướng tâm như vậy, trạch cái pháp hướng tâm như vậy thì chúng ta có một cái câu để nhắc nhở tâm mình thường xuyên, vì vậy mà nó thấm nhuần. Từ đó nhìn cái người mà đang sân với chúng ta chúng ta vẫn thương họ được.

- Hãy thương người đang bệnh khổ.

Nghĩa là chúng ta bây giờ tuy rằng thấy người ta khổ chúng ta thương, nhưng mà chưa thương bằng cái sự đau khổ của chình mình đâu. Cho nên chúng ta thường hay nhắc nhở: Hãy thương người đang bệnh khổ. Đó là một cái trạch pháp để chúng ta thường nhắc nhở tâm mình. Kế đó chúng ta lại dùng cái trạch pháp khác thì chúng ta lại nhắc nhở tâm mình: Hãy thương người đang buồn khổ. Để làm gì, để chúng ta tìm mọi cách mà an ủi những người đó, để chúng ta gợi lên những cái lòng thương yêu của chúng ta đối với người đang buồn khổ đó.

Kế đó thì chúng ta lại dùng một cái trạch pháp khác để chúng ta nhắc cái tâm của mình nữa:

- Hãy thương người có tai nạn.

Nghĩa là gặp ai có tai nạn thì chúng ta hãy thương, tức là chúng ta trau dồi tâm bi của chúng ta đó. Đó là cái câu để chúng ta hướng tâm, như cái lý mà tác ý ra để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta, cái tâm bi của chúng ta đối với chúng sanh, đối với con người.

- Hãy thương người tham lam trộm cắp.

Thường thường người ta thấy người tham lam trộm cắp là người ta ghét rồi. Bây giờ chúng ta phải thấy thương cái người tham lam trộm cắp. Vì chúng ta biết được cái nhân của người tham lam trộm cắp là họ sẽ nghèo khổ, họ sẽ đói rách. Cho nên chúng ta phải thương người tham lam trộm cắp. Và chúng ta tìm mọi cách để chỉ cho họ thấy rằng cái sự tham lam trộm cắp đó là cái nhân đưa đến cái quả nghèo khổ đói rách, đừng tham lam trộm cắp nữa. Vì mình thương người cho nên mình thấy cái người tham lam trộm cắp đó họ đến họ ăn cắp của mình, mình không có giận hờn, mình không có ghét họ. Vì vậy mà mình tìm mọi cách để cho mình giúp họ. Do đó mình mới trau cái lòng bi của mình, lòng từ của mình mới được. Còn nếu mình không nhắc nhở mình như vậy thì mình thấy người ta ăn cắp của mình là mình tức tối, đem mà bắt đem cho cảnh sát mà bỏ tù nó cho rồi. Thì đó là cái lòng ác chứ không phải lòng bi, không phải là lòng từ. Vì vậy mà chúng ta thường nhắc nhở để trau dồi cái tâm chúng ta, trước những cái con người trộm cắp tham lam mà chúng ta biết thương. Vì vậy mà chúng ta sẵn sàng không đánh đập khi chúng đang lấy đồ chúng ta được.

- Hãy thương người đang si mê.

Nghĩa là cái người đang si mê, họ đang nghiện thuốc phiện, uống rượu, hút thuốc, họ say mê bài bạc, rồi say mê tất cả những sự phóng dật đó thì chúng ta cũng phải nhắc. Chứ thấy cái thằng cha uống rượu thấy ghét, nó vô cứ chửi mình hoài. Thì cái điều đó các con nghĩ mình không có tu tập, không có trau dồi cái tâm từ của mình. Thường thường có những người uống rượu họ đi ngang chùa mình, họ vô, hộ vô họ la lối họ nói này kia, họ nói họ tu, họ tụng niệm, rồi họ chọc ghẹo, họ nói thầy chùa này thầy chùa khác. Trong lúc đó mình biết là cái người đó đang si mê. Cho nên chúng ta thường nhắc tâm: Hãy thương người đang si mê. Đó, thì như vậy là chúng ta thấy cái người uống rượu mà đang say sưa, họ mê muội như vậy thì mình đâu có trách họ, mình đâu có giận hờn họ, mình đâu có tức giận họ. Thì như vậy là cái tâm chúng ta biết thương người và từ chỗ biết thương người chúng ta giải thoát, chúng ta không có thấy khổ đau, chúng ta không có phiền muộn ở trong đó. Sự tu tập như vậy, trau dồi tâm chúng ta như vậy nó đem lại lợi ích cho chúng ta và cũng không làm khổ người khác. Mà đem lại cho chúng ta một cái sự, mang đến cho người khác có niềm an ủi họ, xoa dịu những cái sự đau khổ của họ.

Câu kế nữa:

- Hãy thương người đang tị hiềm.

Trong chúng mình có thấy có người nào mà tị hiềm với nhau, thấy người này tu hơn mình thua rồi sanh ra cái lòng tị hiềm ganh ghét. Đó, thì khi chúng ta biết người đó như vậy thì ta thương cái người đó, chứ chúng ta không nên ghét. Có nhiều khi thấy người ta tị hiềm, kiếm chuyện nói này nói kia, nói nặng nói xấu mình thì mình đâm ra mình ghét người đó. Thì do đó mình chưa phải là lòng từ, lòng bi, mình chưa phải là biết thương yêu người khác. Cho nên chúng ta: Hãy thương người đang tị hiềm. Họ đang ghét mình đó, họ đang tị hiềm người này người kia, họ thấy người khác hơn hoặc họ thấy người này giàu hơn thì họ sanh tâm ganh ghét. Do đó mà chúng ta cũng thường nhắc tâm để mà chúng ta biết thương cái người mà đang có cái lòng tị hiềm đó.

Câu kế, để chúng ta trạch pháp câu kế nữa. Để chúng ta hướng tâm như cái lý tác ý diệt cái mạn của chúng ta, tức là cái ngã mạn:

- Hãy thương người đang ngã mạn cống cao.

Nghĩa là cái người mà hiu hiu tự đắc, cho mình là hiểu biết, cho mình là chứng đạo, cho mình thế này thế khác thì cái người đó chúng ta cũng phải thương họ. Không nên thấy họ nói những cái điều đó mà mình đâm ra mình ghét hoặc mình nói như thế này thế khác đối với người đó, mà mình phải thương yêu người đó. Vì người đó họ đang si mê, họ đang có cầu cái ngã của họ, cái danh của họ cho nên họ mới ngã mạn cống cao như vậy. Chúng ta nên thương họ, chứ không nên ghét họ. Mà khi mà thương họ như vậy thì chúng ta có tranh luận với họ không. Chắc chắn là chúng ta không tranh luận, và không tranh luận thì nó sẽ đem đến như thế nào? Nó sẽ đem đến cho chúng ta có sự an ổn và cũng chính người ngã mạn cống cao ngã mạn đó cũng được an ổn.

- Hãy thương người tàn tật.

Nghĩa là mình thấy cái người tật nguyền, đui mù, hoặc là cụt tay cụt chân thì mình hãy thương xót cái người đó. Mình thấy họ có điều kiện gì, mình có thể giúp đỡ an ủi họ. Trong khi mình đủ lành lặn tay chân, mắt, tai, mũi, miệng - sáu căn đầy đủ, còn họ lại thiếu khuyết cho nên họ bất hạnh hơn mình nhiều. Vì vậy mà thấy người tàn tật thì mình nên thương yêu. Mặc dù mình nghèo nhưng mình đến mình giúp họ một cái bánh, một cái đồng bạc hoặc là cái vật dụng gì cần thiết cho đời sống họ: một cục xà bông, một cái bàn chải đánh răng, một cây kem cũng nói lên cái sự an ủi cái sự tật nguyền của họ, cái sự mất mát của họ trong thân của họ. Đó là chúng ta thường nhắc tâm để chúng ta biến ra cái hành động của chúng ta để nói lên cái lòng thương, lòng từ, lòng bi của chúng ta.

Sự trau dồi thường nhắc tâm chúng ta mới có thể thực hiện được. Nếu mà chúng ta không nhắc tâm thì tâm sẽ quên đi. Nó quên đi là tại vì nó chạy theo những công việc khác. Nó quên đi là tại vì nó đang lo lắng cho cá nhân của nó, cho nên nó không nghĩ những người xung quanh nó đang bao nhiêu là bất hạnh, bao nhiêu là sự đau khổ.

- Hãy thương người già yếu vì chính chúng ta ngày nào đó cũng già yếu lọm khọm rồi đi đứng run rẩy.

Chonên chúng ta thấy những người già yếu là chúng ta phải kính nhường, kính cho họ lối đi, kính cho họ chỗ ngồi. Tất cả mọi cái đó để chứng tỏ lòng chúng ta, cái lòng bi của chúng ta, cái lòng từ của chúng ta đối với những người đang khổ sở trong cái tuổi già còm, trong cái sức yếu mòn. Nên đó là những điều chúng ta phải thực hiện, chúng ta thường nhắc nhở.

Và cuối cùng, chúng ta hãy đặt một cái câu cuối cùng là:

- Hãy thương tất cả chúng sanh vì chúng sanh hoàn toàn là đau khổ.

Nói chung là tất cả chúng sanh, mọi vật chứ không riêng một người nào(BBT:CĐ,11A,E00:43:19).(BBT:CĐ,11B,B00:00:00) Nghĩa là hiện giờ họ đang mạnh khỏe an vui nhưng lúc nữa họ sẽ đau khổ. Vì vậy mà chúng ta hãy đặt một cái tình thương rộng lớn như là từ vô lượng, rồi bi vô lượng. Do cái sự vô lượng này là thương hết tất cả các loài chúng sanh cùng cây cỏ thảo mộc. Từ đó tâm chúng ta luôn luôn lúc nào cũng thấy an vui trong vạn hữu. Vì tất cả những đó tràn đầy cả tình thương cho nên nó mới có chan hòa nhau, không có một cái sự phân biệt như thế này như thế khác. Do đó mà chúng ta sống thảnh thơi, an lạc trước vạn hữu. Đó là chúng ta thực hiện tâm bi vô lượng của chúng ta. Đó là những câu pháp hướng để mà chúng ta hằng trao dồi tâm bi của chúng ta đối với vạn hữu, đối với tất cả chúng sanh.

2. 3. Trau dồi tâm hỷ vô lượng

Bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục học tới tâm Hỷ vô lượng.

Bởi vì cái sự việc nó vô lượng cho nên nó không có thể nào mà tính toán được. Nó không thể nào mà so lường được. Lúc nào nó cũng tràn đầy, phủ trùm khắp cả không gian và thời gian. Cho nên từ từ vô lượng, rồi bi vô lượng rồi bây giờ tới hỷ vô lượng. Vì có từ, bi thì nó mới có hỷ; biết thương người thì nó mới có vui, còn không biết thương người thì cái vui của chúng ta là cái vui ích kỷ. Cho nên cái vui đó thầy đã dạy là cái vui ngắn ngủi. Còn cái tâm hỷ của chúng ta đối với người thù, kẻ oán, đối với tất cả mọi cái đều là vui vẻ với mọi thì cái tâm đó gọi là cái tâm tùy hỷ.(BBT:BN,10,E01:31:59)(BBT:CĐ,11B,E00:01:45)

BĂNG SỐ 11

(BBT:CĐ,11B,B00:01:46)Là tùy hỷ, nghĩa là vui theo. Vui theo có nhiều cách:

- Vui theo với ngũ dục lạc.

Nghĩa là mình cũng có vui theo, mà có vui theo cái đúng mà cũng có vui theo cái sai. Vui theo ngũ dục lạc là vui theo cái vui ngắn ngủi, cái vui mê muội. Người phàm phu ngu si mê muội phóng tâm vui theo những vật chất thế gian, trần cảnh gồm có: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nó đang có một sức cám dỗ, lôi cuốn con người đi đến chỗ đau khổ bất tận. Đó thì đối diện với cái sự mà vui theo với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì nó sẽ lôi cuốn chúng ta đi vào cái chỗ đau khổ bất tận, chứ không có vui. Vì cái vui đó là cái vui ảo giác, cái vui không thật, cái vui thấy thì vui nhưng nó không thật vui. Cho nên người ta ví như cái vui đó như là ở xa chúng ta nhìn nó là như hạt kim cương, nhưng đến gần đó là cái hạt nước mắt của chúng ta. Như vậy thì chúng ta biết đời chúng ta tại vui theo với những cái điều đó mà nước mắt chúng ta như nước biển đó. Đó gọi là hỷ vô lượng dục lạc. Nghĩa là nó cũng vô lượng đó. Bởi vì người ta nói cái tâm người là cái túi không đáy. Mà cái túi không đáy tức là chạy theo dục lạc của thế gian. Cho nên sự ham muốn dục lạc đó, để hưởng thụ những dục lạc đó cho nên không bao giờ mà hết sự ham muốn đó.

Ví dụ như chúng ta chạy theo dục lạc thế gian, vừa cất được cái nhà ngói thấy người ta xây cái nhà tường thì mình theo cái nhà tường, từ đó thấy người ta có nhà lầu, cái vi la thì mình theo cất nữa. Cũng như bây giờ mình có xe đạp thì thấy người ta có xe gắn máy, từ cái xe gắn máy đó mình thấy người ta có xe dream, từ xe dream đó thấy người ta có xe hơi. Mình cứ theo hoài, theo hoài cho đến khi không biết chừng nào mà cho cùng tận cái chạy theo cái dục lạc đó. Thì cho nên càng chạy theo thì càng khổ. Do vì vậy mà người ta nói: Ở xa là giọt kim cương, đến gần thì là giọt nước mắt. Vì vậy đó là hỷ vô lượng dục lạc thế gian.

Cho nên chúng ta nghe nói Tứ vô lượng tâm, bốn cái tâm vô lượng đó nó sẽ giải thoát. Nhưng ở đây nó cũng có bốn tâm vô lượng mà đem đến chúng ta cũng vô lượng khổ đau, chớ không phải giải thoát. Đó là hỷ tâm vô lượng dục lạc thế gian của những con người vô minh theo thói quen phàm tục, hỷ này vui đó, khổ đó, như con thiêu thân thấy ánh sáng đèn tưởng là vui thật, nào ngờ là ảo giác. Do thế mà sanh già bệnh chết nối tiếp nhau mãi mãi, không bao giờ dứt khổ. Hỷ vô lượng tâm này là những vô lượng tâm vô minh, hỷ này gọi là hỷ ảo giác. Nó còn có cái tên là hỷ ảo giác. Nghĩa là chúng ta chạy theo cái ăn ngon, thì bỏ vô miệng nhai nuốt rồi thì cái ngon nó mất rồi, cho nên gọi là hỷ ảo giác.

- Vui theo với ác nghiệp.

Đó là cái hỷ, cái hỷ vô lượng với những ác nghiệp, bởi vì ác nghiệp nó cũng rất là nhiều, cho nên vui theo với ác nghiệp. Hồi nãy vui theo với dục lạc, bây giờ vui theo với ác nghiệp. Vui theo với ác nghiệp là thấy người sát sanh, uống rượu, trộm cắp, tà dâm, bài bạc, vọng ngữ, hút sách,v.v.. đã không khuyên can lại còn xúi bảo vui theo, và bằng lòng theo con đường ác đó. Đây là hỷ vô lượng tâm theo ác pháp. Nó còn có cái tên là hỷ vô lượng tâm theo ác pháp, bởi vì ác pháp cũng vô lượng chứ không phải có một pháp, hai pháp không. Cho nên mỗi ác pháp đều đem đến cho chúng ta khổ. Mà con người vì vô minh chạy theo, vui theo những ác pháp đó. Cho nên gọi là hỷ vô lượng tâm ác pháp.

Từ lâu tới giờ thì quý thầy chỉ nghe nói từ - bi – hỷ - xả vô lượng tâm là đem lại cái nguồn tốt. Bây giờ nghe Thầy lật ngược trở lại thì thấy hỷ vô lượng tâm theo ác pháp là khổ đau, theo dục là khổ đau. Như vậy là chúng ta thấy cái tâm của chúng ta nó có hai nẻo rất rõ: một nẻo tốt và một nẻo xấu. Một nẻo xấu làm cho tâm vô lượng của chúng ta trở thành xấu. Một nẻo tốt làm cho tâm vô lượng chúng ta trở thành tốt.

Vậy nẻo tốt là nẻo nào? Nẻo tốt là nẻo của Đạo Phật, nẻo tốt là nẻo của thiện pháp, nẻo tốt là cái nẻo để được sự giải thoát, an lạc, vĩnh viễn hạnh phúc. Còn nẻo xấu là luôn luôn lúc nào cũng địa ngục, đau khổ, phiền toái, giận hờn, tham sân si, mê muội, đó là nẻo xấu.

Tóm lại,hai cái loại trên là hỷ dục, hỷ ác tạo cảnh địa ngục trần gian trong hiện tại, chẳng đợi mai sau. Nghĩa là hai cái hỷ này nó tạo cho ta địa ngục ngay tại trần thế này, chớ không phải đợi chúng ta chết rồi chúng ta đi xuống địa ngục, hay là đọa địa ngục. Mà chính là những cái loại hỷ này nó đã đem đến cho chúng ta những cái địa ngục.

Vậy thì hôm nay quý thầy đã học được bài này, quý thầy biết địa ngục là do hỷ dục và hỷ ác của chúng ta mà chúng ta đã tạo thành địa ngục trần gian. Từ đây về sau chúng ta đã hiểu nó, chúng ta đừng chạy theo nó nữa, đừng có vui theo nó nữa, mà hãy xa lánh nó đi, mà viễn ly nó đi, từ bỏ nó đi thì chắc chắn là chúng ta sẽ không tạo địa ngục trần gian.

Đó là những loại hỷ đau khổ của con người trong biển đời trầm luân này. Người vô minh mê muội không thể thoát ra khỏi vòng tay các loại hỷ này, nghĩa là cái người mà không sáng suốt. Cho nên đạo Phật là đạo trí, vì có trí cho nên mới thoát ra khỏi, mà không trí thì thoát ra không khỏi những loại hỷ này. Nhìn chung quanh chúng ta hiện giờ ai là người đã thoát ra khỏi, ai là người không vô minh? Thật sự ra chúng ta đang tu tập theo giáo pháp của đức Phật, Giới - Định - Tuệ, nhưng thoát ra khỏi phải là một trí tuệ siêu việt, nếu không thì chúng ta vẫn nằm trong vòng tay các loại hỷ này.

Quý thầy xét thấy mình có phải ra khỏi chưa? Bứt khỏi cái vòng tay này chưa? Chắc chắn chúng ta cũng còn một ít. Nếu chúng ta đã quyết tâm nhưng vẫn bị vòng tay còn đang bao vây, chưa phải bứt ra hết được. Để rồi đời đời kiếp kiếp thọ lấy tai ương. Nghĩa là chúng ta nằm trong vòng tay của các loại hỷ này thì đời đời kiếp kiếp chúng ta luôn luôn lúc nào cũng bị tai ương, chứ không bao giờ chúng ta thoát khỏi tai ương này.

Muốn trau dồi tâm hỷ vô lượng ta hãy nhắc tâm ta bằng pháp như lý tác ý. Thì bây giờ tới lúc mà trau dồi đây, hồi nãy là nói để chúng ta hiểu những loại đó để rồi chúng ta trau dồi tâm của chúng ta đi vào những cái hỷ vô lượng, làm cho chúng ta hạnh phúc đây. Thì những cái trạch pháp, những câu mình lựa chọn ra để cho mình hướng tâm, mình nhắc đi nhắc lại cho thấm nhuần, tức là trau dồi tâm của chúng ta. Đây, cái câu để mà chúng ta trạch pháp ra đây:

Hỷ của dục lạc là tai nạn, là bệnh tật, là khổ đau, ta hãy tránh xa cái hỷ này.

Đó là cái câu để mà chúng ta nhắc nhở, để chúng ta biết dục lạc thế gian: danh lợi sắc đẹp, ăn uống ngủ nghỉ đó là những thứ dục lạc. Hoặc là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đó là những cái dục lạc, cái đối tượng để nó tạo thành những cái dục lạc, cái hỷ dục lạc. Cho nên chúng ta phải tránh xa, phải lìa xa, phải bỏ ra, đừng có gần nó nữa. Cho nên ở đây câu hướng tâm để mà trau dồi tâm chúng ta, để hằng chút chúng ta luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác mà xa lìa nó, vì nó cám dỗ chúng ta rất mạnh, ví nó thu hút chúng ta như đá nam châm, khó mà chúng ta bứt rời được. Cho nên hằng phải nhớ:

Hỷ của dục lạc là tai nạn, là bệnh tật, là khổ đau ta hãy tránh xa hỷ này.

Thì hãy nhắc tâm mình như vậy để cho nó nhớ, nó đừng quên. Thỉnh thoảng ta lại tác ý như lý này, nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho tâm ta xa lìa, yểm ly ngũ dục lạc.

Ta nhắc một câu nữa để cho ta tránh xa nó:

Hỷ của dục là ảo giác, không có thật, nó là thuốc độc, là rắn độc giết hại con người. Ta hãy lánh xa các loại hỷ này.

Đó là một câu nữa xem nó như thuốc độc, xem nó như rắn độc, nó rất hiểm nguy, nó có thể giết chúng ta lúc nào cũng có thể được hết. Do nhắc tâm chúng ta thường xuyên như vậy cho nên trước cái ăn ngon, mặc đẹp, trước cái sự âu yếm tha thướt, thương yêu nồng nàn của thế gian chúng ta luôn luôn sợ hãi. Nó là hỷ đó, hỷ dục lạc đó, nó làm cho chúng ta khả ái, khả lạc, ham thích. Đó là những điều mà đưa đến chúng ta đau khổ đó. Thấy đó mà bước vào đụng nó thì như đụng gai, đụng chông, chớ không phải sung sướng gì đâu, không phải là hạnh phúc gì đâu. Biết như vậy, thấu suốt như vậy là không vô minh. Không biết như vậy, không thấu suốt như vậy tức là vô minh.

Câu này ta cũng phải thường xuyên nhắc đi nhắc lại để đoạn dứt lòng ưa thích dục lạc thế gian. Nhớ câu Thầy đã trạch pháp ra để cho quý thầy nhắc đi nhắc lại rồi tùy theo đặc tánh của quý vị mà quý vị sửa đi, sửa lại phù hợp với tâm tánh của mình.

Hỷ vui theo các ác pháp là hỷ tâm vô lượng ác, là làm đau khổ chúng sanh, giết hại chúng sanh, không có lòng từ bi thương xót chúng sanh. Ta hãy tránh xa hỷ này, yểm ly hỷ này, từ bỏ hỷ này, xa lìa hỷ này vì hỷ này làm đau khổ chúng sanh, làm sanh ra địa ngục của chúng ta. Hãy dứt trừ sự vui theo các ác pháp.

Đó là những câu trạch pháp để chúng ta ghi nhớ, để chúng ta thường trau dồi tâm mình, để nhắc nhở những hành động ác. Như có 10 điều ác mà chúng ta đã thấy ở trong thập thiện đã có dạy, đối ngược lại với thập thiện tức là thập ác. Do chúng ta đã học rồi vì vậy mà chúng ta lấy đó mà thấy tâm mà theo những hành động đó tức là hành động thập ác. Do vì sự hướng tâm nhắc nhở làm cho tâm thấm nhuần vì vậy mà luôn luôn lúc nào nó cũng ở trong thập thiện, mà không có nằm trong thập ác.

Là người tu sĩ Phật giáo, thấy ai làm ác ta phải lánh xa, còn đâu lại có sự vui theo. Thấy các pháp ác, thấy sự đau khổ chết chóc của chúng sanh nếu không giải nguy cứu nạn được ta cũng phải tránh xa để khỏi phải thấy cảnh tang thương, máu đổ, thịt rơi, đau lòng, nát dạ. Làm sao còn đồng lõa với ai mà vui theo được. Đó thì quý vị thấy một người tu sĩ Phật giáo không thể nào đứng trước một thớt thịt của người đồ tể bán thịt được. Cũng không thể nào đứng trước một tô phở mà người ta bỏ những lát thịt ở trên đó được. Người tu sĩ Phật giáo người ta nhìn thấy những sự đau khổ chết chóc của chúng sanh thì người ta không thể nào mà không thương tâm. Vì hằng trau dồi tâm từ bi thì không thể thấy sự đau khổ đó mà chúng ta đứng lại đó mà nhìn. Nếu không cứu khổ phò nguyđược thì chúng ta mau mau tránh chỗ đó, mà không đứng đó để nhìn sự đau khổ. Cũng như thấy mình không can ngăn được hai người đánh nhau thì chúng ta hãy mau mau tránh xa, vì chúng ta không đủ khả năng giải quyết được điều này thì mau mau tránh đi. Không thể nào mà đứng đó để nhìn thấy họ đánh nhau với sự vui theo, với sự hò hét, với sự cổ võ như vậy là người tu sĩ Phật giáo không đúng cách. Thấy người ta đánh nhau lỗ đầu, chảy máu, đau đớn mà chúng ta lại nhìn với một cách vui theo, với một cách sung sướng, với một cách cổ võ ở trong đó thì không nên làm điều đó.

Vì thế mà chúng ta là những người tu sĩ Phật giáo nên cẩn thận, dè dặt trước mọi đám đông. Có những sự đau khổ, tan nát ruột gan của con người, của chúng sanh thì chúng ta mau mau tránh. Thấy một con vật bị con vật khác giết hại nằm lăn lóc, một cái thân bẩn thỉu bằng cát đất, bằng máu me, bằng những vết thương tan nát thì lòng chúng ta cũng không bao giờ đứng đó mà nhìn, trước cảnh đau đớn đó chúng ta hãy mau mau tránh xa để lòng chúng ta được an ổn.

Nãy giờ chúng ta đã học từ cái hỷ tâm vô lượng theo dục lạc và hỷ tâm vô lượng theo ác pháp. Bây giờ chúng ta học Hỷ tâm vô lượng giải thoát.Bây giờ tới tâm hỷ giải thoát rồi này. Hồi nãy là tâm đau khổ đó, giờ là tâm vô lượng giải thoát.

Hỷ tâm vô lượng giải thoát là vui theo với việc lành, việc từ thiện của người khác. Đó là vui theo những việc làm nhân từ, phước thiện. Thấy người đem của cải ra bố thí, lập nhà thương ta liền tán thán, vui theo, tận tâm giúp đỡ họ trong mọi công việc với lòng hân hoan, sung sướng. Sự vui theo này là một bước tiến trên con đường thiện nghiệp. Nếu ta có tiền của ta sẽ đóng góp vào làm việc công ích cho mọi người. Nếu ta không tiền của ta hãy lấy công giúp đỡ người này để hoàn thành sự an ủi những nỗi bất hạnh của con người trong xã hội. Vì tâm bi vô lượng, ta nhận thấy trong xã hội có nhiều người bất hạnh nên lúc nào lòng ta cũng muốn làm từ thiện ban vui, cứu khổ cho mọi người, làm sao cho mọi người được an vui no ấm, làm sao cho mọi người thoát khỏi bệnh tật, khổ đau. Những hình ảnh đau khổ của con người và chúng sanh khiến cho người có tâm bi vô lượng không thể ngồi yên bằng cách tư duy suông. Làm sao giảm bớt và xoa dịu vết thương đau của chúng sanh, làm sao đoạn dứt những nỗi đau thương của chúng sanh. Bệnh viện, thuốc thang chỉ xoa dịu sắc thân của họ. An ủi, xóa đói giảm nghèo là xoa dịu vết thương đau của tinh thần.

Hành bi tâm như vậy cũng chưa đủ. Ta phải làm cái gì hơn để diệt tận gốc khổ đau của muôn loài? Chỉ có Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện ra đời để mọi người đến đó được nghỉ ngơi và học tập đạo đức nhân quả, thì ngõ hầu mới ban vui cứu khổ phò nguy tận gốc. Những việc làm này khiến cho ta hoan hỷ vui theo vì lợi ích thiết thực cho loài người, chấm dứt nhân ác, tăng trưởng nhân lành. Vì thế hạnh phúc mọi người tràn ngập cả thế gian này. Còn gì sung sướng cho bằng khi mọi người biết rõ đường đi lối về của nhân quả, đường đi lối về của nó! Thì ai còn làm điều ác. Loài người không làm điều ác thì thế gian này là Thiên Đàng, là cõi Niết bàn, làm sao còn có người bất hạnh trong xã hội.

Đó thì hôm nay các con đã thấy rằng cái ý của Thầy từ lâu, Thầy muốn xin phép để mà xây dựng một cái Trung tâm an dưỡng. Để làm gì? Để mọi người người ta được về đó người ta được nghỉ ngơi 1 tuần, 1 tháng, 1 năm, 2 năm, 3 năm và được sự hướng dẫn đường đi nước bước của nhân quả và được dạy họ đạo đức nhân quả. Để làm gì? Để diệt tận gốc khổ của con người, từ cái hành động họ hiểu biết, từ đó họ không làm điều ác thì họ đem lại chính họ, họ đem lại nguồn vui hạnh phúc chơn thật của họ. Tâm nguyện của Thầy như vậy, nhưng nhân duyên chúng sanh không đủ khó mà thực hiện được cái mộng này.

Ước ao của Thầy mong sao có ngày nào đó chúng sanh có đủ phước để hưởng được phước báu lợi nhất của Phật giáo là học được Nhân Quả Đạo Đức để đem lại hạnh phúc chân thật chính bàn tay khối óc của họ đã làm ra cho họ. Không ai đem đến hạnh phúc an vui chính bằng họ, vì thế đứng trên góc độ của đạo Phật điều này rất là rõ ràng. Nếu Trung tâm an dưỡng ra đời được thì biết bao nhiêu người trong xã hội này đem lại hạnh phúc cho nhau.

Thầy còn nhiều cái sự ước ao trong lòng mình khi đã thấy được đạo Phật. Ước ao chi tất cả các trường học trong đất nước này được học thêm những môn học giáo dục nhân quả, đạo đức cho học sinh thì hạnh phúc thay cho đất nước đó, dân tộc đó. Được nhìn thấy những mầm non của Tổ quốc được trau dồi đạo đức nhân quả thì còn lòng nào vui sướng cho bằng. Nghĩa là khi mà nhìn thấy các em học sinh được học đạo đức nhân quả, từ đó hành động ác không còn nữa thì chắc chắn là một con người có ý thức thì chắc chắn là không có nỗi lòng nào sung sướng bằng hơn nữa. Không phải đem vàng bạc của báu, tất cả những vật báu trong thế gian này mà cho mà chúng ta vui bằng những cái vui thấy con người làm thiện. Thầy phỏng chừng đức Phật đã nhập Niết bàn lâu xa xưa mà thấy tất cả chúng sanh đều thực hiện đạo đức nhân quả Ngài cũng vui mừng, lòng từ bi của Ngài, lòng hỷ của Ngài rất là hân hoan thấy tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ. Huống hồ là Thầy còn là người bằng xương bằng thịt làm sao Thầy không sung sướng. Nhìn đất nước chúng ta mà tất cả mầm non của chúng ta đều thực hiện đạo đức nhân quả thì làm sao không sung sướng, vì đó là cái nhân tốt cho của Tổ quốc này. Từ đất nước này đến đất nước kia được trau dồi đạo đức nhân quả thì con người trên hành tinh này được hạnh phúc an vui. Đó là niềm vui tuyệt đỉnh, vì đã mang đến niềm vui chân thật của bản thân của mọi người. Chính họ họ đã mang đên niềm vui chân thật khi họ hiểu ra. Một người tu sĩ đạo Phật không thể làm ngơ trước những điều này, trước những con người đang lăn lộn trong những nỗi bất hạnh. Nỗi bất hạnh đó là những nhân ác của họ chớ phải đâu ai đem nỗi bất hạnh cho họ. Vì chúng ta thấu hiểu được như vậy mà chúng ta không ban rải được đạo đức Nhân Quả ban rải cho họ thì lòng chúng ta se thắt từng giây, từng phút. Chúng ta có lòng bi vô lượng, lòng từ vô lượng mà đứng trước cảnh khổ của mọi người, mọi vật mà chúng ta nỡ đang tâm nhìn sao được. Phải đem hết sức mình, phải làm hết tận lực của mình để cứu khổ muôn loài, để làm cho con người sống hạnh phúc bên nhau, biết yêu thương nhau. Đó là lòng bi, đó là nỗi mừng của những người biết thương người, biết từ bi ban rải khắp cùng.

Muốn trau dồi tâm hỷ này ta phải dùng pháp hướng, thường như lý tác ý. Bây giờ tới đây chúng ta sẽ trau dồi cái tâm hỷ này. Bây giờ chúng ta đã hiểu nó làm một cái gì đó để cho tất cả mọi người được an vui hạnh phúc thì không có gì hơn là đem giáo lý Nhân Quả, đạo đức Nhân Quả mà dạy cho từng người, mà giúp cho từng người hiểu, thì cái này là niềm vui vô lượng không thể kể xiết được. Vậy thì muốn trau dồi tâm hỷ của chúng ta để chúng ta vui luôn luôn như thế nào? Thì chúng ta phải thường Như lý tác ý mà nhắc như thế này:

Ta hãy vui mừng theo những ý kiến của người khác để mình và người đều vui.

Thì mọi ý kiến, có những ý kiến nó nghịch mình, chứ đâu phải mọi ý kiến nó giống mình được. Vì vậy phải hướng tâm nhắc, vì muốn được vui theo người, mà người ta có ý kiến khác, mình có ý kiến khác thì làm sao vui với nhau được. Cũng như bây giờ người ta chấp kiến người ta, là người học tu như vậy là đúng, còn mình chấp kiến của mình học tu như vậy là đúng, thì hai cái kiến này nó không giống nhau. Mà một người trau dồi tâm hỷ vô lượng thì mọi ý kiến đều là ý kiến của mình. Cho nên chúng ta thường phải nhắc nhở như vậy để chúng ta lấy ý kiến của người làm ý kiến của mình.

Cho nên khi xưa có ông A Na Luật, ông Kim Tôn Giả và ông A Na Đà tôn giả, ba người này sống chung nhau. Đức Phật hỏi vậy thì các ông sống chung nhau có được an vui tu tập không? Thì ông A Na Luật trình bày con sống theo ý của bạn con, ý của người khác, ý của các Tôn giả, con không sống theo ý con. Thì đức Phật hỏi các người kia cũng vậy. Người nào cũng nói sống theo ý của các người khác không có sống theo ý của mình. Thì đức Phật nói đó là tốt, đó là độc cư đó. Thì các con thấy cái sự độc cư đó mới chính là độc cư chứ không phải ngậm miệng làm thinh, mà sống y theo ý của người khác.

Thì những câu chuyện nho nhỏ trong thời những đệ tử của đức Phật đã gây cho chúng ta cái sự thâm sâu hiểu biết là sống qua ý kiến của người khác thì mình đó là vui theo, vui cái hỷ vô lượng tâm đó. Còn nếu không sống theo ý người khác thì cái hỷ vô lượng tâm không bao giờ có. Cho nên Thầy nhắc lại câu này: Ta hãy vui mừng theo những ý kiến của người khác. Vui theo ý của người ta, người ta nói gì mình cũng vui theo. Ví dụ bây giờ đưa ra mình cất cái nhà thì có người bảo dựng cây cột chỗ này, người bảo dựng cây cột chỗ khác thì ý kiến đó có đúng không? Bây giờ có người bảo dựng cây cột đây thì mình cứ để đây, mình vui theo việc làm đó thì tức là chúng ta sẽ hòa hợp với nhau, không có gì mà chống trái. Thì câu này: Ta hãy vui mừng theo những ý kiến của người khác để mình vui, người vui.

Đây gọi là hỷ tâm vô lượng theo ý người. Bởi vì cái ý của người thì người ý vầy, người ý khác, nó vô lượng cái ý, cho nên mình vui theo vô lượng ý, tức là hỷ vô lượng tâm. Đó thì thấy như vậy nó rất rõ rồi. Bởi vì đâu có cái ý này giống ý kia đâu, muôn vàn cái ý. Mà mình hỷ vô lượng tâm thì vui theo muôn vàn ý của người khác, thì đó là vô lượng ý. Đây gọi là hỷ tâm theo ý người khác.

Thường hướng tâm nhắc đi nhắc lại nhiều lần để tâm ta không chống trái ý kiến của người khác, vì thế mới có sự vui chân thật trong lòng chúng ta và mọi người. Thì các con thấy, các thầy thấy ở đây chúng ta tu tập như vậy, trau dồi như vậy thì chúng ta mới có được cái hỷ tùy thuận, mới có được cái hỷ theo ý của người khác. Còn nếu không trau dồi chưa chắc đã là chúng ta thực hiện được. Hằng ngày nhắc như vậy mà suốt cả năm chúng ta mới sống được cái hỷ theo ý của người khác. Cái tâm vui theo ý của người khác chớ không phải trong một ngày, hai ngày, ba ngày mà chúng ta đạt thành được cái điều này. Nếu không trau dồi như vậy ta khó mà vui theo ý của người khác được.

Bản chất con người thường hay khoe khoang cái hay cái giỏi của mình. Nghĩa là biết cái gì sơ sơ thôi cũng tỏ ra là mình hay hết. Đó là cái bản ngã. Mà hễ có bản ngã thì không bao giờ có hỷ tâm vô lượng. Nghĩa là khi chúng ta có ngã là không có hỷ tâm vô lượng được. Bởi vì cái gì cũng là mình đúng, còn người khác là sai hết. Cái người khác là lỗi, cái người khác là trật, còn riêng mình là đúng, cái đó là bản ngã. Mà khi người có bản ngã thì cái hỷ tâm vô lượng không bao giờ có được. Không thể nào mà 2 cái tâm này đứng gần nhau được. Hễ có cái này thì cái kia nó mất, hễ có cái kia thì cái này nó mất. Cho nên khi chúng ta trau dồi hỷ tâm vô lượng tức là chúng ta đã diệt ngã. Quý thầy hiểu như vậy thì quý thầy mới thấy khi trau dồi hỷ tâm vô lượng tức là chúng ta diệt cái ngã, mà diệt cái ngã tức là Niết bàn. Cho nên nói vô ngã là Niết bàn, còn cái ngã tức là không bao giờ có Niết bàn. Mà hầu như chúng ta những người sống trong thế gian này thường là nuôi lớn cái ngã chứ không bao giờ diệt ngã. Do sự tu tập hỷ tâm mà diệt được ngã thì hạnh phúc cho chúng ta biết là bao nhiêu. Là Niết Bàn cảnh giới của chư Phật. Vì thế chúng ta thường nhắc tâm Như lý tác ý:

Tánh hay khoe khoang cái hay cái giỏi của mình là chướng tâm ngại đạo, phải từ bỏ xa lìa thói xấu này.

Đó bây giờ chúng ta dùng câu hướng tâm nhắc nó để cho nó biết đó là cái không hay gì hết đâu, cái đó là cái thói xấu, cái đó là cái bản ngã làm cho chúng ta đau khổ. Thầy xin nhắc lại câu đó: Tánh hay khoe khoang cái hay cái giỏi của mình là chướng tâm ngại đạo, phải từ bỏ, lìa xa cái thói xấu này. Đó mình cho nó là cái thói xấu cho nên mình dẹp nó qua một bên, mà cái thói xấu đó là cái bản ngã của chúng ta.

Đây là hỷ tâm từ bỏ bản ngã hay là từ bỏ tánh khoe khoang. Hỷ tâm vô lượng từ bỏ tánh khoe khoang. Bởi vì sự khoe khoang của chúng ta cũng vô lượng, làm được cái gì là khoe khoang, làm được cái gì nổi lên là cho mình hay hết, học được một chút cũng khoe khoang cho mình là giỏi. Nhưng mà sự thật mình có giỏi đâu. Đó là vô lượng cái sự khoe khoang chớ không phải một cái sự khoe khoang. Vì vậy mà chúng ta dùng cái hỷ tâm, trau dồi cái tâm của mình để mà từ bỏ vô lượng những tánh khoe khoang này đi, thì tức là vô lượng bản ngã của chúng ta để chúng ta diệt cái bản ngã vô lượng này. Đó là cách thức mà chúng ta từ tu tâm hỷ mà chúng ta diệt trừ cái bản ngã của chúng ta, bản ngã vô lượng.

Lại nữa ta phải nhắc nhở tâm ta phải biết vui hòa trong mọi công việc của mọi người: Lấy việc người làm việc mình. Đó thì câu này cũng nhắc nhở chúng ta thường xuyên phải biết vui hòa trong mọi công việc của mọi người, lấy việc người làm việc mình. Đó thì mình nhắc nhở mình như vậy để luôn luôn hòa mình trong mọi công việc, để cho lòng vui mừng vô lượng của mình trong mọi sự việc mà không có lúc nào là không vui mừng. Đó là hỷ tâm vô lượng trong việc làm của người khác. Đó, khi mình dùng câu trạch pháp hướng tâm của mình thì mình phải biết hỷ tâm vô lượng là vui theo công việc của mọi người. Thì công việc của mọi người thì nó cũng vô lượng, lát họ làm cái này, lát họ làm cái kia, bữa nay làm cái này, bữa khác làm cái kia đủ thứ công việc chứ không phải có một thứ công việc. Cho nên chúng ta vui theo vô lượng công việc của mọi người khác vì vậy mà vui theo như vậy gọi đó là hỷ tâm trong việc làm của người khác.

Nó có những cái tên, mà những cái tên đó để chứng tỏ rằng câu hướng tâm của chúng ta cho nó chính xác để dẫn tâm của chúng ta trau dồi chúng ta cho nó thấm nhuần. Còn nếu không chính xác thì nó không thấm nhuần được. Bởi vậy phải tu tập sao cho nó chính xác đúng tên đúng họ. Nếu mà dùng cái pháp hướng mà không đúng tên đúng họ thì nó vô ích công chúng ta tu tập, nó không có hiệu quả. Mà phải tu tập như thế nào dùng pháp hướng cho nó đúng thì nó sẽ có hiệu quả rất lớn cho con đường tu tập mà không mất thời gian.

Và ta cũng phải siêng năng thường nhắc hướng tâm như lý tác ý:

Trong vạn vật đều có sự vui chan hòa, ta hãy theo đó mà hòa mình trong niềm vui. Nếu ta làm một việc không vui thì đã làm buồn khổ muôn loài vạn vật, cỏ cây.

Đó thì trong khi mọi vật nó đang im lìm như vậy, bỗng dưng chúng ta sân lên tức là tự tâm chúng ta đã làm cho vạn vật đó đều xáo động lên hết, khổ đau. Cho nên có câu tục ngữ nói: Người vui thì cảnh vui theo, mà người buồn thì cảnh nó cũng buồn theo, đó là tình trạng mà không vui theo đó. Vì vậy mà một lỡ chút xíu mà chúng ta đã làm cho người khác, con vật khác không vui ở trong cảnh đang vui đó thì tức là chúng ta đã làm buồn khổ vạn vật chứ không phải riêng một vật nào.

Thầy nhắc lại cái câu này: Trong vạn vật đều có sự vui chan hòa, các con thấy trong vạn vật đều có niềm vui chan hòa, cây cỏ rồi chim chóc nó hòa lẫn với nhau, con người lao động làm tất cả công việc nó có sự an vui, chan hòa với nhau trong đó. Bỗng dưng có cuộc đánh lộn hoặc là giết chóc nhau ở trong đó, làm cho tất cả cây cỏ có sự tang thương ở trong đó, cho nên nó làm sao có sự vui. Vì vậy mà một sự đau khổ lŕm muôn vật ở trong đó có sự đau khổ. Tại vì đôi mắt của quý thầy không thấy được điều đau khổ đó, chứ riêng Thầy Thầy có một cảm nghĩ vạn vật đang đau khổ trong cái đau khổ của một sự việc nào xảy ra trong đó. Vì thế mới chan hòa cái niềm vui ở trong đó. Bây giờ Thầy đọc lại câu trạch pháp này:

Trong vạn vật đều có sự vui chan hòa ta hãy theo đó hòa mình trong sự vui. Nếu ta làm một điều không vui thì tức là ta đã làm buồn khổ muôn loài vạn vật cỏ cây.

Ta thường xuyên trau dồi câu này thì tâm hỷ vô lượng sẽ vui mừng cùng với muôn loài. Nghĩa là câu này chúng ta thường xuyên nhắc nhở câu này để chúng ta tránh những điều nhỏ. Thí dụ như bây giờ mình đang đi trên bước đường đi vào trong thất của mình, mình lỡ mình đạp, trong khi đó tâm hồn của mình đang ban rải yên vui theo cái sự vui của vạn vật thế mà mình vô tình mình đạp một con kiến gẫy chân đi, nó lăn lộn, nó rên la, thì trong cái không gian đó và cái thời gian đó vạn vật xung quanh đó đều bị cô đọng lại cái sự đau khổ đó. Cho nên vì vậy mà chúng ta phải nhắc cái tâm của mình. Bởi vì người tu sĩ đạo Phật phải phủ trùm cái tình thương của nó, cho nên Phật nói Tứ vô lượng tâm biến mãn khắp mười phương chúng sanh. Đó là biến mãn đó, cho nên một cái đau khổ nhỏ của vật này thì nó sẽ đau khổ toàn bộ cả vạn hữu chứ không phải có riêng một con vật đó đau khổ đâu. Khi mà cái tâm từ, tâm bi của họ đã thể hiện thì trước cái đau khổ của con vật đang lăn lộn thì ngay đó tâm chúng ta nhói lên sự đau khổ, thì vạn vật nó đang hòa mình trong sự an vui đó mà bỗng có một con vật đau khổ thì tức là cây cỏ đều đau khổ, chứ không phải là chỉ có con vật đó đau khổ không. Tuy chúng ta thấy như là nó vô tình nhưng sự thật không vô tình. Nó là có một sự giao cảm, cảm thông nhau, nó rất là rõ ràng.

Tại sao vậy? Khi mà có một người đó họ cất một cái nhà rồi họ trồng những cái cây xung quanh đó, họ ở, rồi sau đó họ rời họ đi. Những cái cây đó họ làm sao họ bứng được, nhưng ra đi rồi thì những cây đó lần lượt buồn rồi héo khô. Chúng ta thấy cây cũng cảm động, cũng xót xa, cũng thương tiếc, cũng nhớ thương những người mà chăm sóc gần bên nó. Cho nên khi chúng ta mà có những cái cây ở gần bên chúng ta thì nó sum xuê, nó vui sướng còn những cây ở ngoài rừng ngoài bụi xa thì nó cằn cỗi, khô héo vì không được vui mừng, vì nó không được sự nghe qua tiếng nói hoặc là hơi ấm của chúng ta chan hòa với nhau. Đó là những cái mà chúng ta thấy hầu như là vạn hữu đều chan hòa trong sự sống với nhau.

2.4. Trau dồi tâm xả vô lượng

Bây giờ chúng ta học đến xả vô lượng. Xả vô lượng là gì? Xả là gì?

Xả là bỏ ra không dùng nữa, không chấp, không kể đến nữa, dẹp nó qua một bên, gọi là xả. Đó thì xả tất cả mọi pháp tức là bỏ qua hết không còn lấy cái gì hết. Cho nên Phật dạy chúng ta còn ba y một bát, tức là xả bỏ hết. Xả nhiều lắm, không thể nào mà xả ít được. Xả vô lượng là bỏ tất cả không còn một vật gì, một đối tượng, một hoàn cảnh hay một chướng ngại nào còn sót trong tâm nên gọi là xả vô lượng tâm. Nghĩa là tâm xả sạch, quét sạch, không còn một chút nào ở trong đó hết thì mới gọi là xả vô lượng tâm.

Xả vô lượng tâm có nghĩa là từ bỏ, từ giã, xa lìa, viễn ly tất cả các pháp thế gian. Nghĩa là xa lìa hết tất cả các pháp thế gian, không còn để pháp nào trói buộc, dính mắc mình hết. Vậy các pháp thế gian là gì?

Bây giờ mình phải hiểu nó. Nghe nói các pháp thì không biết pháp thế gian là sao.Vậy thì các pháp thế gian là gì? Các pháp thế gian là những pháp trói buộc như mạng lưới chằng chịt, khó thoát ra. Đó là chúng ta chỉ ra, bây giờ hỏi các pháp thế gian là gì thì chúng ta nói sự ràng buộc, ràng rịt của nó rồi chúng ta mới nó cái tên tuổi của nó ra. Cái sự trói buộc của nó chặt như vậy đó, nó làm cho chúng ta khó mà vượt ra được, thì đó là các pháp thế gian. Cái đặc tánh của nó là trói buộc, xiết chặt, làm cho chúng ta khó thoát ra. Rồi chúng ta mới kể tên họ các pháp này ra để chúng ta biết.

Các pháp thế gian như là:sắc dục, tiền bạc, của cải, tài sản, vật chất lớn, vật chất nhỏ, nhà cửa, ruộng vườn, danh thơm, tiếng tốt, tiếng khen, tiếng chê, tiếng mắng, tiếng chửi, thức ăn ngon, thức ăn dở, ngủ nghỉ, anh em bầu bạn, cha mẹ vợ con, tình thân quyến thuộc, bà con xóm làng, bạn bè gần xa, chùa to tháp lớn, miếu đình, tế tự cúng bái, tụng kệ ca ngâm, hát xướng, ngâm vịnh, tủ giường bàn ghế, chén bát, máy móc xe cộ, ti vi, radio, tủ lạnh.v.v...; kinh sách, kiến thức học tập các pháp thế gian, thiên văn, địa lý, y học, kiến thức hội họa, toán học, khoa học, kỹ nghệ học, kinh tế chính trị học, quân sự .v.v…; dịch số, bói toán và các nghề nghiệp, buôn bán, làm ruộng, thợ mộc, thợ may, thợ dệt, đi săn, bắt cá, trồng trọt mọi thứ, làm thầy thuốc, thầy thông, thầy ký, thầy ngải thầy bùa, kế toán, thợ máy, thợ điện v.v… Nói chung tất cả các nghề nghiệp sanh sống hiện giờ của con người là pháp thế gian. Quý thầy thấy kể làm sao cho hết được các pháp thế gian, nó tùm lum đủ thứ, mà ai hễ dính vào là nó bị dính à. Dính cái nào nó cũng dính hết, bứt ra khó bứt ra. Cho nên một người đổi nghề cũng không phải dễ. Và một cái ly, một cái chén, bát ở trong nhà nó cũng dính mình. Đó là các pháp thế gian đó.

Cho nên ở đây gọi là xả vô lượng, xả vô lượng pháp. Đó là phải hiểu vì vô lượng thì các pháp thế gian nó cũng vô lượng chớ không phải kể một số như vậy là hết pháp thế gian đâu. Từ cái học thuật của chúng ta, từ kiến thức kim cổ, từ hiểu biết thế này thế kia đều là pháp thế gian hết. Nó làm cho chúng ta dính kẹt ở trong đó. Cho nên nó gọi là kiến chấp. Đó là những hiểu biết, học thuật của chúng ta, chấp cái này cái kia, chấp cái nọ làm chúng ta không giải thoát. Cho nên đó gọi là pháp thế gian, vì vậy xả là nó phải xả hết. Cho nên xả hết nó mới có giải thoát, mà xả không hết thì nó chấp kiến, chấp cái này đúng, cái này sai thì có tranh luận, có cãi cọ, có hơn thua thì bản ngã nó bộc lộ ra liền. Còn xả hết thì nó không có bản ngã. Đó cho nên không phải là mình xả những vật chất bàn ghế, tủ, đồ đạc, của mình sống không đâu, mà còn xả những tri kiến ở trong đầu chúng ta nó huân học từ hồi nào đến giờ cũng xả hết. Thậm chí như kinh sách của Phật cũng xả luôn. Chỉ biết thực hiện trau dồi cho tâm chúng ta xả sạch thì như vậy là giải thoát. Còn bây giờ chúng ta đã tu tập mà trong đầu chúng ta còn nhớ ông Phật nói vầy, ông Phật nói khác thì đó là chưa xả, chưa xả pháp thế gian. Bởi vì cái này chỉ là mượn mà thôi cho nên Phật nói Phật pháp còn xả huống hồ là pháp thế gian. Cho nên ngay cả những lời Phật dạy chúng ta còn bỏ xuống huống hồ là những pháp thế gian mà chúng ta cứ dính mắc hoài. Đó là cái xả vô lượng tâm. Bởi vì cái tâm của chúng ta đến với pháp nào thì nó dính, vì vậy mà chúng ta phải xả cái tâm vô lượng này để mà xả sạch thì cái tâm không còn dính vô chỗ nào nữa thì đó là giải thoát.

Cho nên tới cái chỗ này chúng ta mới thấy Tứ vô lượng tâm thật là rốt ráo. Mà muốn cho được cái rốt ráo này, muốn xả cho được cái này thì chúng ta thấy trong Thất giác chi tức là thất Bồ đề đó là xả sạch đó. Còn ở đây chúng ta là những người mới trau dồi tâm xả chứ chưa phải là xả sạch. Để chúng ta đoạn dứt từng chút, từng chút, cái nào trước và cái nào sau. Để chúng ta bớt đi phần nào tốt phần nấy. Lần lượt để chúng ta bước vào giai đoạn, lộ trình thứ 2 là xuất gia tu hành là chúng ta đã xả sạch rồi. Cho nên nếu mà không có tu tập xả vô lượng tâm này mà bước vào con đường, lộ trình thứ 2 của đạo giải thoát thì chắc chắn là chúng ta chẳng đi tới đâu hết. Cho nên Thầy đem Tứ vô lượng tâm giảng chỗ xả này rất là kỹ, nếu mà xả kỹ thì vô đó một tuần lễ, một tháng, hai ba tháng (BBT:CĐ,11B,E00:42:49) (BBT:CĐ,12A,B00:00:00)là chúng ta đã chứng đạo quả Bồ Đề.Bởi vì xả sạch rồi còn gì nữa mà không chứng quả Bồ Đề. Quý thầy thấy rất rõ (BBT:CĐ,12A,00:00:19)ở đây mục đích của đạo Phật là đạo buông xả, mà xả vô lượng chứ không phải xả một thứ. Xả sạch hết. Thì như vậy mới biết đạo Phật là cái đạo rất siêu xuất, chứ không phải cái đạo bình thường. Bởi vì còn một chút là còn khổ đau, không thể nào giải thoát được.

Cho đến đây từ chỗ tập luyện trau dồi từ vô lượng tâm, bi vô lượng tâm rồi hỷ vô lượng tâm thì chúng ta chỉ mới thấy được an vui hòa mình trong vạn hữu mà thôi. Thì người ta tưởng đâu đó là phản bổn hoàn nguyên, trở về với vạn hữu, sống một cách an lạc, đó là cái cuối cùng. Nhưng cái cuối cùng là cái xả hết, không còn để một vật gì hết thì như vậy mới là giải thoát. Và đây là sự trang bị cho những người cư sĩ còn gia duyên trói buộc để chuẩn bị tinh thần của họ, để chuẩn bị sự sắp xếp của họ, để họ xả cho sạch, để họ bước vào con đường xuất gia tu hành trắng bạch như vỏ ốc mà Phật đã thường nhắc.

Khi bước chân vào xuất gia trở thành một vị tỳ kheo thì tâm hồn của họ trắng bạch như vỏ ốc, thì lúc bấy giờ họ thực hiện không còn bao lâu nữa mà thành tựu chứng quả Bồ Đề.Còn trái lại người cư sĩ mà không chuẩn bị cho mình xả sạch ở trong giai đoạn Tứ vô lượng tâm này thì bước vào lộ trình xuất gia mà tu tập theo các vị tỳ kheo thì khó mà có thể tu tập được. Không bao giờ có thể xả được. Vì ở đó chúng ta tiếp tục tu những cái hạnh và những cái việc làm nó khác hơn là người cư sĩ. Nó không còn ngồi đó mà nghĩ bây giờ phải xả cái bàn, bỏ cái ly, bỏ cái tách, bỏ vợ hay bỏ con nữa. Mà đi vào đây có sự tập luyện ví dụ như Tứ niệm xứ, Bốn thiền, Bát chánh đạo, Tứ diệu đế… tất cả những cái này chúng ta vào cái vai trò của người tu sĩ tỳ kheo thì chúng ta phải thực tập những pháp này. Còn vai trò của người cư sĩ thì phải thực tập pháp Tứ vô lượng tâm, thì cái xả là cái quan trọng nhất của người cư sĩ. Mà người cư sĩ không thấy nó quan trọng cho nên nó cứ trói buộc hoài. Mà trói buộc hoài thì làm sao bước qua lộ trình thứ 2 được. Bị trói buộc làm sao bước qua lộ trình thứ 2 được. Cho nên ở đây nhìn chung quanh quý thầy thấy rõ, mình tu sĩ thật, mình xuất gia thọ tỳ kheo 5 năm 10 năm, hai chục năm mà mình có xả được không? Vậy thì xả vô lượng chỗ nào? Tâm mình còn dính dù lớn dù nhỏ, dù ít dù nhiều, cho nên nó không có xả. Vì vậy mà Thầy phải làm cái gương hạnh là ẩn bóng để xả cho sạch, để làm cái gương cho người khác thấy rằng Thầy xả cả chùa, tu viện, tất cả đệ tử đều xả sạch hết. Như vậy mới gọi là xả vô lượng tâm. Còn bây giờ mình ở đây thì mình có xả được đâu. Chùa cũng của mình, rồi ăn uống cũng không xả. Rồi đệ tử cũng không xả. Như vậy thì có xả gì đâu. Mình làm lợi ích cho chúng sanh thì ở đâu lại làm lợi ích không được. Cần gì phải ngồi ở đây để làm trụ trì mà mới là độ chúng sanh, chỗ nào có người tu thì mình đến đó độ họ, tu xong rồi thì mình đi chỗ khác có gì mà không xả. Cho nên đời sống du tăng khất sĩ là đời sống tuyệt vời, xả sạch.

Đến đây quý thầy sẽ thấy được cái tâm xả vô lượng này, nó tuyệt vời của đạo Phật. Mà nếu một người tu sĩ mà không thực hiện được tâm xả này người ta nhìn thấy người ta biết được không phải là tu sĩ của đạo Phật. Bởi vì xả tâm vô lượng, vô lượng cái xả chứ đâu phải là một. Nhìn thấy như vậy chúng ta mới biết được con đường của đạo Phật, người tu chơn hay là người tu giả. Người tu chơn thì phải xả hết, người tu giả thì xả nửa chừng hoặc xả ít ít, để cho có chừng đó mà thôi. Cũng xả, mà chỉ xả cái phần thế gian, còn phần chùa miếu thì không dám xả, sợ nó mất đi, thì cái đó cũng chưa phải là xả. Mà phải xả sạch hết.

Đó thì hôm nay Thầy nhắc lại cho chúng ta thấy được cái chỗ tâm xả vô lượng để chúng ta tiếp tục tu tập mà xả cho hết. Nãy giờ Thầy nhắc lại những pháp thế gian để cho quý vị thấy đó là các pháp thế gian mà người cư sĩ cần phải xả. Tất cả những nghề nghiệp cuộc sống gì, tất cả hết, chúng ta phải trang trải, tính toán sắp xếp, vì đời người có thân là khó, mà được pháp chân chánh như vầy là khó lắm. Muốn chấm dứt sanh tử luân hồi đâu phải là chuyện dễ. Còn nếu không thì mãi mãi muôn kiếp trôi lăn trong lục đạo không thể nào thoát ra khỏi. Kiếp này cũng khổ, kiếp khác cũng khổ.

Nói chung quý vị trước tiên cần phải xả bỏ 5 thứ dục lạc. Nghĩa là bây giờ chúng ta phải xả cái gì trước đây. Đó, thì nói chung chung nó nhiều như vậy nhưng lần lượt chúng ta xả cái gì, chứ không phải bây giờ xả một lần, cả thế gian này chúng ta xả xuống được liền. Cho nên chúng ta phải tuần tự mà chúng ta xả. Vậy thì tuần tự chúng ta xả cái gì đây? Chúng ta phải xả 5 thứ dục lạc. Đó những cái đó là những cái gần gũi nhất của chúng ta. Quý thầy nhớ chưa? Ở trên tuy rằng nói chung chung là các pháp như vậy, nhưng ở đây trước tiên là chúng ta phải tu tập xả tâm 5 thứ dục lạc gần gũi nhất của chúng ta:

1. Sắc dục

2. Tiền bạc

3. Danh tiếng

4. Ăn

5. Ngủ

Đó, chúng ta phải xả 5 cái thứ này đi. Vậy thì phải xả như thế nào?

Chúng ta phải tránh xa sắc dục, đừng có lại gần người nữ. Đó là cái thứ nhất.

Cái thứ 2, tiền bạc châu báu đừng có cất giữ, cho nên chúng ta xả nó đi, đừng có cất giữ cái thứ đó. Thứ đó là rắn độc đó, nó sai khiến chúng ta, chúng ta trở thành nô lệ nó đó. Hễ cái tâm chúng ta khởi muốn, có tiền là chúng ta mua sắm liền. Cho nên chúng ta xa lánh. Vì vậy trong giới luật của Phật dạy người tu sĩ không cất giữ tiền bạc. Cho nên mình muốn mà mình không có tiền bạc cũng chịu thôi, cho nên vì vậy mà nó không sai mình được. Cho nên đó là cái dục lạc đó.

Danh chúng ta phải xả, ờ nghe người ta khen mình tụng kinh hay, tiếng tốt hoặc là thuyết pháp giỏi, thôi thôi mình tránh xa đi. Nghe người ta khen mình tụng kinh hay thì thôi thôi mình đừng có tụng nữa. Tức là mình tránh nó đi, tức là mình xả nó đó. Còn nghe người ta khen mình tụng kinh hay bắt đầu mình mở máy thu băng vô để tụng cho mọi người nghe đó là cầu danh. Đó là mình chạy theo danh. Còn khi nghe người ta khen mình thuyết pháp hay thì thôi chổng khu chổng gọng mà thuyết ngày này qua ngày khác để người ta khen mình nữa, đó là danh. Cho nên Thầy mới nói Thầy thuyết pháp cho các con kỳ này thôi, Thầy không thuyết nữa. Tại sao vậy? Tại vì đó là danh. Nói hoài lảm nhảm cũng như hát cho mấy con nghe chứ có làm gì. Đó là chạy theo những cái danh. Bởi đó là dục lạc. Rồi bắt đầu chúng ta xả cái gì?

Ăn.Ăn ngày một bữa, ăn để sống chứ đừng thích ăn ngon. Đó là xả đó, ly nó ra. Ăn coi như là thứ thuốc để trị bệnh ghẻ đói của chúng ta, chớ không phải ăn mà ngon ngào gì. Đó toàn là thứ bất tịnh. Do đó chúng ta mới ly những cái này ra. Xả cái này ra đi. Cái này là những cái gần gũi nhất ở trong thân chúng ta đây. Nó làm đau khổ chúng ta nhiều nhất. Còn tất cả những cái kia chưa đâu. Xả được cái này mới xả được những cái kia. Mà năm thứ dục lạc này mà xả không được thì coi như tiền bạc, của cải, tài sản, vợ con không bao giờ xả được đâu. Nghĩa là chúng ta không xả được năm thứ dục lạc này thì không bao giờ chúng ta xả được cái gì nữa hết.

Rồi ngủchúng ta cũng phải xả đi, chớ không phải buồn ngủ là leo lên ngủ thì không có được. Xả nó xuống đi, bỏ nó xuống đi. Chừng nào suốt đêm mà chúng ta nằm tỉnh thức mà chúng ta không ngủ, tỉnh thức đó là chúng ta đã xả rồi. Còn chúng ta còn ngủ là chưa xả được đâu. Phải nhớ như vậy để chúng ta xa lìa, chúng ta xả sạch. Xả vô lượng năm thứ dục lạc này đi. Bởi vì 5 thứ dục lạc này nó biến ra vô lượng cái điều kiện mà chúng ta dính mắc đó. Đó là hôm nay chúng ta đã biết được 5 điều kiện mà chúng ta cần xả trước.

Kế đó quý vị phải tiếp tục. Nghĩa là xả được 5 thứ dục lạc này rồi. Bây giờ sắc dục mình tránh xa rồi, tâm mình thấy nó không còn ham sắc dục nữa. Tiền bạc của mình thấy mình tự tại không cần dùng tiền bạc nữa. Danh tiếng thì mình cũng không ham nữa rồi. Ăn thì mình ngày một bữa để sống rồi. Ngủ thì mình thấy tỉnh thức rồi. Thì bắt đầu mình mới tu tới. Chớ còn chưa được cái này mà mình tu tới nữa thì cái này chưa xả mà cái kia mình tu tới nữa thì nó trói luôn chứ nó không có xả được ra đâu. Thì các thầy phải nhớ kỹ con đường đạo Phật phải tu cái nào cho được rồi mới tu cái kế. Còn tu cái này chưa được, ăn thì còn ba bốn bữa, ngủ thì lúc nào cũng muốn ngủ, tiền bạc thì còn cất cả túi, nghe người ta khen thì nở mũi mừng, thấy con gái thì nhìn, thì như vậy thì tới tu tập xả 6 cái pháp dục lạc nữa của thế gian thì chúng ta xả không nổi. Bởi vì 6 pháp dục lạc của thế gian nó hơn cái này nữa. Cho nên khi xả được 5 cái này rồi thì chúng ta mới tiếp tục xả vô lượng 6 pháp dục lạc thế gian nữa.

Vậy thì 6 pháp dục lạc thế gian này là gì? Là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Đó, bây giờ chúng ta mới thấy 6 pháp này là đối tượng, là hình sắc, tiếng, hương vị của các pháp thế gian. Nó cám dỗ chúng ta vô cùng lắm. Còn cái kia là cuộc sống của chúng ta đó, 5 thứ dục lạc đó là cuộc sống của chúng ta. Còn cái này là cái đối tượng của tâm chúng ta. Nó luôn luôn cám dỗ, thu hút chúng ta để trở về phục vụ cho 5 thứ dục lạc ở trên. Chúng ta phải thấy được rõ đường đi của nó. Nó tiếp xúc với sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp. Sắc ở đây không phải là sắc dục như ngũ dục lạc ở trên. Đó là sắc dục, tình ái. Còn ở đây là hình ảnh, sắc tướng. Thấy một cái máy cát xét, thấy một cái ca, thấy một cái bàn đó là cái sắc. Mà cái sắc đó nó làm chúng ta ham thích, nó gợi cho chúng ta thích thú nó thì đó là chúng ta bị sắc cám dỗ. Còn cái kia là sắc dục nó khác, hai cái này nó khác nhau. Thinh là âm thanh. Hương là hương thơm. Vị là mùi vị mặn ngọt cay đắng. Xúc là va chạm. Pháp ở đây là những kiến chấp ở trong đầu chúng ta, những sự hiểu biết ở trong đầu chúng ta gọi là pháp. Chớ không phải bàn ghế tủ là pháp đâu. Chữ pháp ở đây phải hiểu là những hiểu biết ở trong đầu chúng ta, hiểu biết cái này nọ kia đó là pháp. Đó cho nên chúng ta phải xả cái đó ra, xả ly cái đó ra. Bởi vì đời sống chúng ta kể từ khi được hiểu biết thì chúng ta huân biết bao sự hiểu biết. Phong tục tập quán này kia nó dính mắc. Cũng như bây giờ mình ở trong chùa, đến ngày kỵ giỗ gì đó của hòa thượng này hòa thượng kia mà không cúng thì bà con rầy rà vô cùng đó. Hoặc ngày tư ngày tết mà không cúng bái thì người ta đến chùa mình người ta kiếm chuyện này chuyện kia đủ thứ hết. Đó là những pháp bắt buộc chúng ta, trói buộc chúng ta làm nô lệ cho phong tục tập quán đó. Cho nên chúng ta phải bứt nó ra, vì vậy chúng ta phải xả bỏ nó đi. Mặc mấy ông muốn nói gì thì nói. Tôi làm thầy tôi phải giữ đúng cái hạnh của tôi, tôi đâu có làm mấy chuyện mê tín như vậy. Đó như vậy là chúng ta đã phá những cái pháp đó. Phải hiểu những cái gì, chứ không chúng ta hiểu một cách cạn cợt thì chúng ta thấy chữ pháp này như pháp thế gian, pháp xuất thế gian, là các pháp… thì cái này không đúng. Phải biết chỗ dùng chữ pháp nó ở vị trí nào để gọi nó là dục lạc.

Đó thì ở đây Thầy giải thích như vậy để chúng ta biết được để chúng ta xả bỏ nó. Còn nếu không biết được thì chúng ta lấy gì mà xả bỏ nó được. Vậy sắc là gì?

Bây giờ đã chỉ cho nó được 6 pháp dục lạc rồi. Người ta thường nói nó có 5 thứ dục lạc này: sắc thanh hương vị xúc, người ta bỏ pháp. Người ta quên mất đi đối tượng của pháp là ý của chúng ta. Đối tượng của xúc là thân của chúng ta. Đối tượng của vị là lưỡi của chúng ta. Đối tượng của hương là mũi của chúng ta. Đối tượng của âm là lỗ tai của chúng ta. Đối tượng của sắc là mắt của chúng ta. Rõ ràng là 6 chứ tại sao họ lại bỏ. Họ cứ nói là có ngũ dục lạc thì ngũ dục lạc là 5 cái ở trên chứ 6 dục lạc ở dưới này là đối tượng để cho tiếp xúc 6 căn của chúng ta mà sanh ra tâm ham muốn. Thì như vậy chúng ta mới thấy nó sinh ra cái thọ. Rồi thọ nó mới có ái chứ. Đó là trong thập nhị nhân duyên Phật đã chỉ cho chúng ta thấy từ cái duyên này nó mới sinh ra duyên kia. Do đó chúng ta mới hiểu là 6 pháp dục lạc chứ không phải 5 pháp. Bởi vì hầu hết là quý thầy dựa vào sự hiểu biết không có thực hành cho nên ngắt bỏ cái pháp đi, để cho gọi những cái đó gọi là dục. Chứ cái pháp không dục sao? Không dục sao còn chấp? Không thích nó sao lại chấp để tranh luận với nhau? Mình cho pháp mình đúng, tức là kiến chấp pháp đó. Thì người ta nói mình sai thì mình phùng mang trợn mắt lên mình cãi, thì không phải là mình thích nó sao. Đó là những cái mà chúng ta bị nó lôi cuốn ở trong chỗ thích thú, làm cho chúng ta bị dính mắc ở trong đó.

Đến đây Thầy giải thích từng phần.

Sắc là gì? Sắclà mọi hình ảnh của các pháp. Nghĩa là cái vật gì ở trong thế gian này thì nó có hình ảnh đó, thì đó gọi là sắc. Có nhiều người hiểu cái này là sắc dục đó, thì đó là hiểu sai. Mà hễ các hình ảnh đó thì nó phải có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta. Làm cho tâm ta thích thú, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ. Nó làm cho chúng ta thích nó nên nó khả ái, khả lạc, khả hỷ. Đó thì những cái hình sắc của mọi vật nó đều có sự như vậy.

Thinhlà âm thanh của các pháp có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ, khiến ta thích thú, say mê. Một người mà nghe nhạc rồi đó họ thích lắm, họ gật gù gật gù theo điệu nhạc. Rồi họ thích thú họ nhảy Rum ba rồi nhảy tùm lum tà la, họ nhảy đầm rồi đó. Đó là họ thích lắm, cho nên nó gây cho họ những cảm giác khả ái, khả lạc ở trong đó. Đó là những âm thanh làm cho họ bỏ những thời gian rất là phí cuộc đời của họ.

Hươnglà mùi thơm của các pháp có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ, khiến ta thích thú say mê. Những điều này quý thầy không thể chối cãi được. Nghĩa là chúng ta có nghe cái mùi thơm: chà cái bông này hôm nay thơm quá. Thì đó là đã khả hỉ, khả ái rồi, đã thích thú rồi. Mình chỉ khen nó như vậy là đủ biết cái tâm của mình nó đã bị gợi lên những cái khả ái, khả lạc của nó rồi.

Vịlà mùi vị ngon ngọt, cay đắng, chua mặn của các pháp có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ, khiến cho ta thích thú, say mê, khó quên. Nghĩa ăn rồi mà còn nhớ cái bánh đó, nay là một tháng rồi mà: trời, ăn cái bánh đó ngon quá. Bây giờ mà còn nhớ cái bánh đó, cái ngon ngọt của nó, thì đó là khó quên chứ sao. Cho nên nó làm cho chúng ta thích thú, say mê cái miếng ăn của chúng ta. Mà ăn rồi, nuốt vô khỏi cổ rồi thì còn ngọt ngon gì nữa đâu mà cái quên nó không quên. Nó nhớ hoài. Mai mốt ba có đi chợ, đi thành phố mua cho con cái bánh đó con ăn thấy ngon quá. Mà nay ăn cả tháng rồi mà còn nhắc ông già đi mua cho mình ăn nữa. Thì đó là khó quên đó.

Xúclà sự va chạm vào các pháp sinh ra cảm thọ êm ấm, nóng, mát, lạnh đau nhức, nhẹ nhàng, khinh an, hỷ lạc, lâng lâng, say say, cảm giác khoái lạc, cảm giác sung sướng, cảm giác mừng vui, cảm giác buồn khổ, v.v.. Đó là xúc đó. Thì chúng ta thấy những cảm giác mà người tu thiền chúng ta đều gặp những cảm giác này. Toàn là thứ không có đúng đắn, thứ sai lạc, thứ làm cho chúng ta thích thú, say mê. Cho nên nó gợi lên cho chúng ta những điều kiện không hay cho con đường tu tập. Cho nên ngồi tu mà có cái trạng thái nào đó thì biết đó là xúc tưởng hỷ lạc sanh ra chứ không cái gì khác hơn hết. Vì vậy mà chẳng để tâm theo nó để mà làm gì. Nói tóm lại thì các cảm giác của chúng ta gồm có 3:

1. Thọ lạc

2. Thọ khổ

3. Thọ bất lạc bất khổ

Chớ không có gì khác hơn hết. Vì có sự xúc chạm đó mà nó mới sinh ra những cái thọ. Mà sinh ra những cái thọ thì đó là thọ lạc, thọ khổ và thọ bất lạc bất khổ.

Ở đây quý thầy đã thấy Thầy giải thích như vậy thì chúng ta đã thấy 5 cái dục lạc này quý thầy đã rõ ràng và không có còn chạy theo nó nữa.Vì chạy theo nó nó khởi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ khiến cho ta thích thú. Cho nên khi ngồi thiền quý thầy thầy nó có trạng thái khinh an hỷ lạc, say say, lâng lâng, nó làm cho mình thích thú, cảm giác khoái lạc ở trong đó do đó mình cứ ngồi hoài, ngồi hoài nhưng đó là cái hang quỷ của quý thầy đó. Không bao giờ mà quý thầy thoát ra khỏi cái hang này đâu nếu mà quý thầy cứ thích thú nó. Nó gợi cho quý thầy thích thú nó để chạy theo cái thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ. Thọ lạc thì nó lâng lâng mà thọ khổ thì nó đau, nó nhức, nó lạnh, nó nóng, nó nặng. Đó là thọ khổ. Mà thọ bất lạc bất khổ thì quý thầy ngồi thiền nghe không lạc không khổ gì hết tưởng là nó đúng nhưng mà quý thầy thiếu vận dụng, thiếu chủ động thì quý thầy đang ở trong cái chỗ bất lạc, bất khổ. Tưởng là mình ngon lành, thiền định rồi nhưng mà cái đó là rơi vào cảm giác thọ bất lạc, bất khổ.

Ở đây Thầy giải thích để quý thầy hiểu rõ chỗ tu thiền của quý thầy sai tưởng là chỗ thọ bất lạc bất khổ ở đây đó là đúng, nhưng mà sự thật đó là sai. Bởi vì ở trên lạc và khổ thì quý thầy hiểu rồi, bây giờ thọ bất lạc bất khổ cho nó là đúng. Sai. Chúng ta ở trong đó là chúng ta có sự vận dụng, có sự điều khiển chớ không phải ngồi đó mà hưởng thọ bất lạc bất khổ. Cho nên người tu thiền mà không biết, tưởng cái chỗ này là tu đúng. Cái chỗ này là định. Đó là hiểu sai. Người tu thiền là đưa chúng ta đi đến làm chủ sinh tử, làm chủ cái sống chết. Cho nên từng phút giây vận dụng để đi như thế nào để bắt đầu cái thân không thở, các hành ngưng mà không chết. Từ đó chúng ta phục hồi nó sống bằng cách thở lại, hoạt động trở lại rồi trở về hơi thở bình thường thì đó là chúng ta đã làm chủ được sự sống chết chứ không phải ngồi đó mà thọ hưởng cái thọ bất lạc bất khổ. Bởi vậy có bao giờ người tu thiền mà người ta vô trong đó để tìm cái lạc ở trong đó đâu. Cơ thể người ta mệt nhọc quá sức, vì cơ thể người ta ngày càng suy yếu người ta buộc lòng phải hồi phục nó, cho nên người ta mới ngồi lại người ta vận dụng để cho cơ thể nó được nghỉ ngơi, nó được thư giãn, mà nó quân bình, không rối trật tự ở trong đó. Để rồi lấy lại cái sức qua ngày hôm sau làm việc. Còn quý thầy được hỷ lạc thì vô ngồi để đi tìm cái dục lạc, đó thì tâm còn bị cái khả hỷ, khả ái, khả lạc, gợi lên những sự mê thích say mê trong thiền định. Tu hành như vậy là tu hành không đúng.

Phápở đây chỉ cho tất cả những sự hiểu biết. Ở đây Thầy xác định chữ pháp đây. Pháp ở đây chỉ cho tất cả những sự hiểu biết cổ kim đến triết học, văn học, sử học, địa lý học, thiên văn học, toán học. Toàn bộ kinh sách của các tôn giáo trên thế gian này đều gọi là pháp. Bởi chữ pháp ở đây là chỉ cho các môn học, các cái pháp. Thậm chí cả kinh sách Phật nữa, lời dạy của Phật cũng đều là pháp hết. Đây là pháp thật chứ không phải là cái tượng trưng cho các vạn hữu xung quanh chúng ta là pháp, cái này chữ pháp kia nó dùng khác. Hồi nãy Thầy nói vạn hữu là pháp đó là cái chỗ dùng. Bởi vì cái danh từ để chỉ, nhiều người rất lầm lạc. Tất cả các pháp đó Phật dạy đó là kiến chấp của thế gian. Nó có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta ưa thích, xem đó là chánh pháp, là đúng pháp, ôm chặt khư khư, không muốn rời bỏ, cho đó là khuôn vàng thước ngọc, làm mẫu mực cho đời sống thường nhân hoặc tu hành. Các pháp này có sức lôi cuốn tâm ta, khiến ta ưa thích, gợi lên những sự hiểu biết này khả ái, khả lạc, khả hỷ, khiến ta dính mắc không buông xả được. Vì thế cho mới có tranh luận hơn thua. Đó thì quý thầy thấy cái giải thích của Thầy ở đây, quý thầy thấy rất rõ. Do cái chỗ mà không thấy rõ các pháp như thế nào để rồi dính mắc ở trong đó, rồi mới có sự tranh luận hơn thua, mới chia ra pháp này, pháp kia, pháp nọ, toàn là những kiến chấp mà thôi không có gì giải thoát hết.

Bây giờ quý thầy đã hiểu rõ toàn bộ các pháp ở thế gian là pháp cám dỗ. Nghĩa là các pháp thế gian là các pháp cám dỗ hết. Thu hút lôi cuốn tâm con người đi đến chỗ làm ác, tạo bao cảnh khổ đau cho nhau. Thì chúng ta chấp pháp thôi, chúng ta tranh nhau, chúng ta không nể nang cái gì hết. Chúng ta xạc nhau bằng lưỡi gươm, miệng kiếm, chúng ta không có từ nan những cái gì hết khi mà chúng ta chấp cái pháp đó. Bằng chứng là quý thầy cũng thấy người ta tranh luận với nhau bằng các pháp rồi người ta nói xấu nhau thầy này thầy khác. Đó là những điều không hay cho những người không thấy các pháp thế gian lôi cuốn họ, làm cho họ khởi lên khả ái, khả hỷ, khả lạc đó.

Muốn trau dồi tâm ta xả vô lượng các pháp thì phải trau dồi như thế nào?

Bây giờ muốn trau dồi tâm mình để xả vô lượng pháp thì mình phải trau dồi như thế nào nó mới xả. Chứ nãy giờ nghe Thầy nói mà không biết cách mà xả thì chắc chắn là cũng không xả được. Nói là một lẽ, lý thuyết là một lẽ, nhưng để mà xả làm sao xả được đây? Đó là cái mấu chốt của sự tu tập chúng ta hôm nay. Muốn trau dồi tâm ta xả vô lượng các pháp thế gian. Đây quý thầy nhớ kỹ chỗ Thầy nó đây. Cái này rất là quan trọng đây.Ta nên lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như rừng, gốc cây, hang đá, khe núi, bãi tha ma, lùm cây, bóng mát dưới tán cây, ngoài trời hoặc trong chòi lá. Nhớ kỹ những nơi đó là nơi để chúng ta xả các pháp đó. Tìm những nơi đó mới xả được các pháp. Còn nếu mà không có những nơi đó thì khó mà xả được các pháp này lắm. Ở giữa chợ mà ngồi, giữa xe cộ chạy rần rần mà xả các pháp này thì xả không vô rồi. Vậy thì xả như thế nào đây mà phải tìm những nơi yên tịnh, thanh vắng như vậy để mà xả. Đây Thầy tiếp.

Sau khi ăn uống xong, đợi cơm và thực phẩm tiêu hóa khoảng 2 giờ, nghĩa là cơm trong bụng mình ăn xong rồi á, phải ăn no chứ không phải được đói mà vô đó ngồi thiền. Thì đợi cơm tiêu hóa rồi, thì lúc bấy giờ nó tiêu hóa khoảng 2 giờ đồng hồ thì cơ thể chúng ta rất là thảnh thơi. Nó không có đói nữa. Chớ người đói thì ngồi chắc chắn là xả không được đâu. Bởi vì xả cái đói mà không được thì làm sao mà xả các pháp được. Cho nên phải ăn cơm xong rồi bắt đầu nghỉ một chút, khoảng 2 giờ thì bắt đầu nghỉ một chút chúng ta mới bắt đầu.

Khi mà ăn cơm xong khoảng 2 giờ thì chúng ta hãy: ngồi kiết già, lưng thẳng. Muốn xả các pháp đâu phải là chuyện dễ, nó dính cũng như là cái dây chằng, là lưới, nó bệnh ở trong thân tâm ta cũng trói chặt như là dây lòi tói rồi. Bây giờ muốn xả nó là phải ngồi cho vững vàng rồi mới bứt ra từng sợi chứ đâu có phải xả lơ mơ được. Đó thì thầy dạy cho các con thấy được cách thức xả.  

Ta hãy ngồi kiết già lưng thẳng tại chỗ nói trên, tức là tại chỗ mà mình tìm nơi vắng vẻ đó và an trú, đặt niệm trước mặt. Đó bây giờ mới đặt niệm trước mặt. Vậy thì cái niệm gì trước mặt đây để mà xả được nó. Bởi vì các pháp nó quá nhiều.Và chúng ta phải tu tập như thế nào để mà xả cái niệm gì trước, cái niệm gì sau. Cho nên khi đặt cái lưng ngồi thẳng thật thẳng, đặt cái niệm trước mắt, giữ yên lặng, rồi cái niệm đó là cái niệm gì. Bây giờ chúng ta đặt trước mặt chúng ta là cái niệm sắc dục. Bởi vì từ sắc dục mà chúng ta sinh ra. Cho nên cái này nó là cái quan trọng. Và sắc dục là con đường sanh tử, luân hồi, cho nên ta phải lấy nó làm đầu. Sắc, rồi danh, rồi lợi, rồi mới ăn, mới ngủ. Đó là 5 thứ dục lạc mà đầu tiên hồi nãy đầu tiên Thầy nhắc. Con phải xa lìa, xả 5 thứ dục lạc này thì bây giờ sắc dục là phải xả trước chớ. Mà chúng ta biết sắc dục là con đường sanh tử, là con đường luân hồi. Là con đường đưa đến người này khổ cho đến người khác khổ. Chớ đâu phải sung sướng, đâu phải hạnh phúc gì đâu. Nó là con đường khổ đó. Một mình mình khổ chưa đã đâu, mình đẻ cho nó một bầy cho nó khổ nữa. Có thằng con nào mình đẻ ra nó sung sướng đâu. Nó cũng trần ai khoai củ nó mới có cuộc sống chứ đâu có dễ. Nó lăn lộn trong trần ai này đủ thứ nó mới sống. Bằng chứng như mình nè. Cha mẹ sinh mình ra thử hỏi có phải mình trần ai không, mình mới ngoi được lên cuộc sống này, còn biết bao người người ta lặn ngụp ở trong cuộc sống, chưa có cơm ăn, áo mặc nữa. Thì không phải sanh ra để mà khổ sao. Thế mà cứ mãi chạy theo sắc dục để mà sinh ra. Quá là vô minh, quá là ngu si. Con đường khổ mà không thấy khổ, cứ đắm đuối say mê. Bởi vì sức cám dỗ của nó, sức khả hỷ, khả ái của nó làm chúng ta không dừng bước được, làm chúng ta không xả được tâm.

2.4.1 Xả tâm sắc dục

Rồi ta theo pháp hướng như lý tác ý. Đó bây giờ chúng ta theo pháp hướng mà chúng ta đặt cái niệm, rồi bắt đầu chúng ta theo pháp hướng như lý tác ý ra. Thân phải ngồi thẳng đàng hoàng. Rồi bắt đầu chúng ta đặt cái niệm sắc dục, rồi bây giờ mới hướng như lý của nó mà tác ra. Như vậy lâu ngày chúng ta mới phá vỡ nó, mới xả được nó sạch, chớ đâu phải xả chuyện dễ, nó dính ở trong tâm ta, thân của chúng ta là thân dục. Mà xả nó ra đâu phải chuyện dễ, hở một chút là nó đã dục rồi. Sắc dục là con đường sanh tử. Đây là câu chúng ta trạch pháp ra để dùng nó mà hướng tâm, mà như lý mà tác cái ý:

Sắc dục là con đường sanh tử của muôn loài, con đường đầy đau khổ triền miên bất tận kiếp này đến kiếp khác. Ta xả bỏ, từ khước, thoát ly, ra khỏi, từ giã, không nên để tâm ta dính mắc nó nữa.

Đó là câu mà để chúng ta đặt niệm trước mặt của chúng ta rồi chúng ta ngồi yên lặng, một chút chúng ta lại tác ý ra xả nữa. Rồi một lát chúng ta lại tác ý ra xả nữa, xả hoài, xả chừng nào mà thân tâm chúng ta không còn dục nữa lúc bấy giờ chúng ta mới viên mãn. Đó là một câu chúng ta thực tập để xả tâm sắc dục của chúng ta, cái tâm dục của chúng ta. Chừng nào mà chúng ta thấy cái tâm này nó hoàn toàn sạch hết thì như vậy là chúng ta đã viên mãn được sự tu tập này.

Chắc các thầy thấy rằng Phật bảo đặt niệm trước mặt, nhưng đức Phật nói tới đó thôi, không nói nữa. Nhưng Thầy đã hiểu được cái lý này là do sự kinh nghiệm bản thân của Thầy. Hôm nay Thầy vạch ra để cho quý thầy biết cách áp dụng để diệt tâm sắc dục của quý thầy, từ đó quý thầy mới thấy con đường giải thoát thênh thang. Nếu không đặt niệm trước mặt, không dùng pháp hướng như lý tác ý thì chắc chắn khó mà xả được tâm này. Nó núp đó chứ chưa hẳn là nó đã chết đâu. Chúng ta nhắc cái tâm hằng ngày cho nó thấm nhuần, thấm tận xương tủy của nó thì nó mới chạy trốn nó mới đi mất, chứ không khéo thì nó núp ở trong thân chúng ta để chờ cơ hội, rồi nó bắt đầu bùng dậy như một ngọn lửa. Nó không phải dễ dàng lắm đâu. Đây là câu trạch pháp để quý thầy dùng nó mà hướng xả tâm, hướng tâm xả bỏ.

Hàng ngày quý thầy phải siêng năng tu tập trau dồi câu này để đoạn dứt tận tâm ái dục. Thì luôn luôn phải dùng câu này để đoạn dứt tâm ái dục. Thì mới mong quý thầy thoát khỏi nanh vuốt của con đường đi sanh tử luân hồi này, chứ không khéo quý thầy sẽ luôn luôn tu tập chứ tâm đó khó quá, chứ không phải dễ dứt đâu. Vì chúng ta từ cha mẹ sinh ra cũng nơi từ con đường này, do đó mà muốn thoát ra khỏi con đường này cũng phải có sự trau dồi hết sức tâm mình buông xả thì mới dứt ra được, chứ không thể hiểu sơ sơ mà có thể được.

Nếu quý thầy dùng câu trạch pháp này mà chưa xả được thì quý thầy tiếp tục thì hướng tâm như lý tác ý. Nghĩa là cái câu này nó chưa đạt được kết quả thấy tâm mình nó còn dục, chưa hết thì quý thầy phải tiếp tục thêm một câu như lý khác để mà xả nó nữa. Đây cái câu thầy gợi cho quý thầy rồi quý thầy từ đó tự soạn lấy để cho phù hợp với đặc tánh của mình:

Sắc dục là bất tịnh, là uế trược, nhớt nhao, hôi thúi, tanh hôi khó chịu bẩn thỉu vô cùng, tạo muôn ngàn thứ tật bệnh, tai ương, và truyền nối nhau nhân quả luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác, không bao giờ thôi dứt, một người để lại muôn người khổ, khổ mãi nối tiếp nhau vô cùng vô tận. Ta phải xả bỏ, xa lìa, viễn ly vĩnh viễn, chẳng dám bén mảng, xem nó như rắn độc, ung nhọt, cho nó là nguy hiểm nguy nhất, cho nó là tai họa, cho nó là chỗ ác độc, cho nó là bệnh truyền nhiễm, nan y, không thuốc chữa.

 Đó là một câu để chúng ta trị bệnh sắc dục của chúng ta đó. Câu trên nó chưa nhằm nhò thì phải áp dụng thêm câu dưới cho mạnh hơn, và như truyền lệnh thì may ra quý thầy sẽ chấm dứt được cái nỗi khổ của tâm sắc dục của mình.

Cuộc đời tu hành là cả một sự rèn luyện, trau dồi chứ không thể nói suông được. Thầy nói hết giọng mà quý thầy không về thực tập thì Thầy quá mỏi mệt, uổng lời của Thầy nói. Thầy đem hết tâm can của mình truyền hết lại những kinh nghiệm để quý thầy thoát khỏi cảnh địa ngục, cảnh lầm than đau khổ của kiếp người. Mà quý thầy nghe rồi mà quý thầy bỏ qua thì rất uổng cho Thầy, rất uổng cái điều mà Thầy đã đem hết tâm huyết dạy lại cho quý thầy, để quý thầy thoát ra khỏi kiếp trầm luân khổ não.

Đến đây Thầy xin chấm dứt bữa này, và ngày kế tiếp Thầy sẽ giảng để chúng ta xả nhiều thứ. Bây giờ mới chỉ xả có sắc dục mà thôi, còn nhiều thứ phải xả nữa. Nếu mà giảng để mà xả cho đầy đủ thì Thầy nói không biết bao giờ mà tận cùng. Bởi vì vô lượng mà, vô lượng pháp phải nói vô lượng lời, phải nói vô lượng pháp để mà đối trị, để mà xả nó. Thì sau này Thầy cũng tóm lược một phần trong 5 thứ ngũ dục lạc mà xả nó, để rồi quý thầy biết cách mà từ đó trí tuệ quý thầy mới thông suốt, rồi từ đó quý thầy mới đặt những niệm rồi mới trạch những pháp để cho phù hợp để rồi quý thầy do đó mà xả cho sạch, trắng bạch như vỏ ốc. Bây giờ mới đi vào con đường xuất gia tu hành, trở thành một vị tỳ kheo, một vị sa môn đúng là những thánh tăng trong thời đức Phật.

Đến đây thì quý thầy đã hiểu rồi thì hãy cố gắng mà thực hiện những lời Thầy dạy. Rồi Thầy sẽ vui mà Thầy tiếp tục giảng. Nếu không thực hiện thì Thầy nghĩ rằng mình nói nhiều quá mà quý thầy không thực hiện thì Thầy mệt mỏi rồi Thầy nghĩ Thầy không giảng nữa.

Bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục bài học Tứ vô lượng tâm. Nhưng trước khi học thì Thầy sẽ đọc lại 2 bức thơ của thầy Thiện Thiền gửi cho Thầy.

Bức thứ thứ nhất, cũng trong những bài học có gợi ý rồi thầy cũng có suy nghĩ rồi thầy viết bức thơ. Rồi sau đó thì có gợi ý đến trung tâm an dưỡng thì thầy cũng có viết bức thư gởi cho Thầy. Cho nên hôm nay thì Thầy xin đọc lại bức thơ đầu tiên để cho quý thầy nghe, đồng thời Thầy giảng trạch tại sao, lý do nào mà Thầy không thực hiện theo lời thỉnh cầu của thầy Thiện Thiền.

Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch Phương Trượng.

Hôm nay con có chút duyên sự về nhân duyên ẩn bóng của Phương Trượng. Kính mong Phương Trượng đại từ đại bi xem xét những lời ngốc nghếch táo bạo của con kính trình lên Phương Trượng về việc tồn vong của Phật pháp và lợi ích cho tất cả nhân sinh hiện nay và mãi mãi về sau. Là ngọn đuốc từ bi soi đường cho nhân loại. Con tạm ví Phương Trượng như hòn ngọc thái hòa. Thủa xưa, khi nhà họ Thái nhặt được nó có 5 điều kỳ đặc mà các loại ngọc báu khác không có được. Biết nó là hòn ngọc quý nên đem dâng lên cho nhà vua, vua kêu các nhà chuyên xem ngọc coi là thiệt hay là giả. Các nhà xem ngọc nói là loại đá quý giống ngọc chớ không phải là ngọc thật, cho nên nhà vua nói họ Hòa dối vua, khép vào tội khi quân, chặt tay chân người họ Hòa. Vì uất ức nhà vua không biết dùng ngọc quý lại tin bọn xem ngọc ngu si không biết gì, cho nên nhà họ Hòa mới đem dâng lên cho nhà vua ở vương quốc khác. Khi đó nhà vua nước mình mới hối hận, tìm cách đòi lại. Thì hôm nay Phương Trượng tiện Phật hóa thế gian, ý của con là muốn nói Phương Trượng liên hệ với Phật tử ở nước ngoài bảo lãnh Phương Trượng đi du lịch, khi sang bển Phương Trượng trình bày pháp tu và sở chứng. Người phương Tây phương chuộng khoa học và họ sẽ đem những dụng cụ y khoa ra chứng nghiệm xong và họ sẽ công bố lên cả thế giới, chừng đó pháp môn tu thiền của Phương Trượng ví như mặt trời chiếu ánh sáng chói chang cả vũ trụ này, chừng đó VN mới thật là hối tiếc.

Đó là lời của thầy Thiện Thiền trong bức thư thứ nhất.

Bây giờ Thầy xin trả lời bức thư này. Nếu mà điều kiện này cách đây 17 năm mà Thầy đã muốn mình làm một anh hùng hoặc một người vĩ nhân thì Thầy đã làm lâu rồi. Vì Thầy nghĩ rằng anh hùng cá nhân không bằng anh hùng tập thể, nó truyền thừa mãi mãi. Hầu hết là mọi người đều có anh hùng cá nhân, vì người ta nghĩ là người ta làm được cái gì đó thì người ta huân theo cái đó để mọi người biết đều lấy mình, mà không để cho người khác biết. Và cũng muốn dìm người khác xuống nữa, để anh hùng cá nhân của mình nó nổi bật lên, nó làm cho sáng tỏ ra. Điều này Thầy rất suy nghĩ, một vị anh hùng mà làm nên danh biết bao nhiêu những anh hùng vô danh nằm xuống lòng đất này. Cho nên thí dụ người ta nhắc đến Napoleon hoặc là người ta nhắc đến Hitle, những nhà độc tài. Thì những nhà đó đều là anh hùng cá nhân. Cũng như trong đất nước ta thấy có Trần Hưng Đạo, Lê Lợi. Mà những người này đã thành tựu được những chiến công hiển hách thì biết bao nhiêu người chết. Nhưng người ta chỉ tập trung đến những người đó, cái danh rất lớn. Biết bao nhiêu người khổ công tu tập chứ đâu phải chỉ riêng mình Thầy, mà huân lại ở Thầy chỉ là cái anh hùng, thì Thầy thấy là cái cá nhân, quá cá nhân. Cho nên từ đó Thầy âm thầm để đào tạo người, lấy kinh nghiệm của mình để dạy cho người cho đạt được như mình, và những gì họ sẽ làm được hơn mình. Mình âm thầm có thể giúp họ hơn là để cá nhân mình nổi lên. Đó là Thầy không muốn anh hùng cá nhân, mà chỉ muốn tất cả dân tộc VN và những con người ở trên thế gian này đều là anh hùng hết. Những người làm nên lịch sử, làm nên sự vĩ đại của tôn giáo, chứ không phải một anh hùng cá nhân nào.

Tuy nói như vậy nhưng cái việc làm của mình nó phải đi từng cái bước một, người này thừa kế người kia để có một con đường đi, dìu dắt nhau đi để làm nên một sự nghiệp lớn. Còn một người mà làm nên sự nghiệp lớn, sự nghiệp đó sẽ bị tan hoại. Như chúng ta thấy thiền Trúc Lâm chỉ có 3 thầy trò mà nương nhau để làm sự việc lớn, từ đó 3 thầy trò tịch rồi thì thiền Trúc Lâm im bóng. Bây giờ chúng ta nhìn thấy ở trong nước của chúng ta, trải qua thời gian chúng ta cũng thấy có nhiều vị xuất chúng anh hùng chứ không phải không, nhưng rồi chỉ có một mà thôi chứ không có người thừa kế thứ 2 nữa. Rồi đây chúng ta cũng nhận thấy những điều đó hiển nhiên, trước mắt. Ở đây như quý thầy thấy cô Út là một người chẳng ra cái gì hết, người ta xem thường lắm. Nhưng kể từ khi mà Thầy thấy rằng một con người nào cũng có khả năng của họ, mình chỉ cần khai triển họ thôi. Từ đó Thầy chỉ cần khai triển nhẹ nhàng, tự cô Út phải phát triển cái sức của mình, bởi vì con người nào cũng có khả năng trí tuệ và cái sức của mình cho nên tự cô cô phải rèn luyện cô để có trí thông minh sáng suốt. Không thể nào mà cô đứng dậm chân đứng một chỗ. Nếu cô cứ nương vào người khác hơn mình, nhờ người khác để đẫn dắt mình thì chắc chắn cô không thể phát triển nổi. Từ đó cô không điều khiển được chúng nữa. Hôm nay cô điều khiển được chúng nữ chính do bản thân cô, sự điều khiển của cô và sự hướng dẫn của cô, do sự phát triển mà nhiều khi chính cô không cần phải học ở Thầy chút nào hết, Thầy thấy rất là tuyệt diệu. Tuyệt diệu là ở chỗ biết khai triển con người cho họ biết làm nên sự nghiệp, làm nên cái tốt của họ. Đó là những điều thực hiện ở đây, Thầy thấy cô Út làm sao mà cô có thể điều khiển được chúng nữ. Thế mà bây giờ cô điều khiển được chúng nữ. Và cô dạy đâu chúng nghe ( bên chúng nữ). Trước kia thì không bao giờ họ nghe, họ chỉ biết nghe Thầy mà không bao giờ biết nghe cô Út. Tự cô phát triển những gì mà cô dạy người ta thực tế, kết quả từ đó người ta mới chịu nghe. Còn bây giờ quý thầy cứ học ở Thầy, nghe Thầy nói rồi quý thầy cũng nói ra như vậy, làm như vậy thì người ta nghe Thầy hơn là nghe quý thầy. Bởi vì quý thầy ít ra cũng phát triển những kinh nghiệm. Tại sao Thầy không đem những kinh nghiệm của Thầy mà dạy trực tiếp mà Thầy chỉ nhắc nhở phải làm như vậy như vậy rồi quý thầy phải rút tỉa từng kinh nghiệm của mình ra, rồi từ đó thực tế của quý thầy rồi quý thầy tự phát triển trí tuệ và kinh nghiệm của mình. Cái đó thực tế để làm cho quý thầy trở thành những con người có đủ cái sức khai triển được trí tuệ, có sức khai triển trên con đường Phật pháp, sau này quý thầy còn hơn Thầy gấp mấy.

Giai đoạn của Thầy khác mà giai đoạn của các thầy sẽ tiếp tục con đường Phật pháp nó còn khác xa hơn. Con người càng ngày càng đi lên chứ đâu phải đứng lại sao. Cho nên thí dụ bây giờ Minh Tông được Thầy dạy bảo hoặc quý thầy được Thầy dạy bảo nhưng mà sau này cái chương trình, cái phương án của Thầy đề ra để đem lại hạnh phúc cho nhân loại như vậy quý thầy vẫn phải theo đường đó mà hướng tới độ chúng sanh toàn cả thế giới. Thì như vậy là sự phát triển của quý thầy đến tuyệt đỉnh thì phương án Trung tâm từ thiện an dưỡng ra đời là để nhằm phục vụ, đem lại hạnh phúc cho mọi con người khắp thế gian. Thì ước vọng của đạo Phật là đem mọi con người khắp thế gian thoát ra khỏi vòng đau khổ. Thì đó là một cái hướng, mà cái hướng đó thì không phải có một anh hùng làm. Còn nếu mà Thầy làm không thì các đệ tử của Thầy chỉ ngồi đó mà nhìn thôi. Thì người ta sẽ ca tụng Thầy chứ các đệ tử của Thầy ca gì. Từ đó Thầy mất rồi thì cái chương trình này nó sẽ bị lụn bại, cho nên Thầy phát triển từ cái chỗ tu tập của các thầy. Các thầy được theo Thầy, Thầy không thể đem các kinh nghiệm của Thầy được vì Thầy biết rằng Phật dạy con người có 3 đặc tướng: Nhân tướng, hành tướng và đặc tướng. Nhất là cái đặc tướng, rất khó, không thể dễ. Cho nên các thầy hỏi cái hơi thở nào mà nhập sơ thiền, cái hơi thở nào mà nhập nhị thiền, cái hơi thở nào mà nhập tam thiền, cái hơi thở nào mà nhập tứ thiền. Nó không có một cái mực nhất định được. Là vì mỗi đặc tướng của hơi thở con người nó có sự khác nhau. Có người bây giờ thở hơi thở 3 giây là hơi thở sơ thiền, nhưng có người thở 4 giây, có người thở 5 giây. Làm sao bảo rằng 5 giây là nhập sơ thiền hoặc 2 giây nhập sơ thiền được. Các thầy phải hiểu điều đó, cho nên đó là đặc tướng của mỗi người mà vì vậy người hướng dẫn phải tùy theo đặc tướng đó mà hướng dẫn cho người ta để người ta nhập vào (BBT:CĐ,12A,E00:44:05).(BBT:CĐ,12B,B00:00:00) Cũng như bây giờ đặt ra là 5 giây là nhập nhị thiền, người nào cũng tới 5 giây là nhập nhị thiền. Có người tới 5 giây người ta không nhập được mà người ta 7, 8 giây hay 10 giây. Nhưng mà có người tới 20 giây hay là 30 giây người ta mới nhập tam thiền mà có người mới 6 giây người ta đã nhập tam thiền. Làm sao mà căn cứ mực chỗ nào được mà dạy, đó là cái đặc tướng mà, cho nên Phật dạy nó có 3 cái tướng của nó rõ ràng, riêng biệt: Nhân tướng, hành tướng và đặc tướng. Mỗi cái nó có cái riêng biệt của nó ở trong đó. Cho nên ở đây phải tự người đó phải phát triển theo đặc tướng của mình và ông thầy phải khéo léo và linh động để hướng dẫn theo đặc tướng của người ta thì người ta mới nhập được định. Đó thì ở đây nó khó là khó chỗ đó chứ không thể nào có một cái khuôn sẵn rồi chúng ta vô máy mà chúng ta ép thành hàng loạt hàng trăm cái máy được. Nó không phải như vậy được mà nó phải có một sự uyển chuyển khéo léo.

Vì vậy cho nên nếu mà Thầy nói cần thiết một cá nhân anh hùng thì chắc là thiên hạ này đã biết Thầy từ lâu rồi, Thầy mà háo danh, kêu là đại háo danh thì chắc chắn là khi mà thầy Thanh Từ mà nhận Thầy ở lại thì lúc bấy giờ Thầy chỉ tìm mọi cách mà phô trương cái tu tập của mình. Thầy chỉ cần nói là người ta đem điện tâm đồ người ta đo Thầy trong lúc Thầy nhập tứ thiền, người ta sẽ thấy Thầy hoàn toàn là không thở là người ta đã hoảng kinh rồi chớ chưa nói gì Thầy câu hữu một vài cái sự điều khiển được tâm linh của Thầy rồi thì người ta còn kính phục đến bậc nào nữa. Nếu mà cầu một đại danh thì Thầy sẽ là một anh hùng, một danh nhân trên thế giới chứ không còn ai hơn. Thầy nói thật, đối với việc làm Thầy biết rất rõ. Nhưng mà từ 17 năm trời mà đến bây giờ thì có sự kiện xảy ra thì quý thầy mới nhận biết Thầy được chút ít chứ chả biết gì hết. Người ta đồn Thầy như thế này, người ta đồn Thầy như thế kia, người ta nói Thầy cho bùa để đi bán mua may bán đắt, người ta đồn là Thầy biết quá khứ vị lai, là người kiếp này kiếp kia người ta thêu dệt đủ loại. Người ta nói Thầy đủ thứ hết nhưng Thầy vẫn âm thầm làm, họ nói gì thì nói. Tại vì họ chưa biết mình, họ khen là họ khen cái kiểu của họ, mà họ chê là họ chê cái kiểu của họ, tại họ không biết họ chê, chứ làm sao mà biết mình được. Cho nên đối với Thầy thản nhiên, không có lo lắng gì cái việc khen chê. Chỉ tìm con người tin tưởng mình, dạy họ đâu họ làm đó. Và cũng vì cái sự khen chê đó mà làm cho người ta mất niềm tin ở Thầy rất nhiều, cho nên khi Thầy dạy họ chỉ dựa vào Kinh và những cái lý luận suông người ta nỗ lực tu, người ta không thấy kinh nghiệm bản thân của Thầy. Nhưng Thầy thấy đó cũng là một cái duyên, nếu Thầy lộ ra một cái gì thì chẳng qua Thầy lòe bịp thiên hạ để gạt người ta để thành một cái danh hão, cái danh không thật, cái danh không giải thoát đâu, mà giải thoát thì phải giải thoát cho thật. Đó thì hôm nay Thầy trả lời thầy Thiện Thiền. Biết rằng cái điều thầy Thiện Thiền nghĩ tốt, làm như vậy để cho người ta biết rằng có một người tu như vậy thì Phật giáo nó mới theo đường lối đó mới chấn hưng lại được. Làm cho Phật pháp sáng tỏ lên, cái nghĩ của thầy Thiện Thiền là cái nghĩ tốt chứ không phải là cái nghĩ xấu, nghĩ cầu danh. Cái góc độ của thầy không nghĩ cầu danh(BBT:CĐ,12B,E00:03:36).

BĂNG SỐ 12

(BBT:CĐ,12B,B00:03:36)....của mình, mình phải xét. Cho nên Thầy làm cái gì Thầy rất suy nghĩ. Về cái vấn đề bức thơ thứ 2 thì thầy Thiện Thiền sau khi nghe Trung Tâm An Dưỡng thì thầy cũng có tâm, có tâm nghĩ đến xã hội, nghĩ đến con người, thầy có tâm tốt cho nên thầy mới viết bức thơ này. Thầy xin đọc bức thơ này:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Phương Trượng,

Như lời thuyết giảng sáng hôm qua xong, Phương Trượng có nói lên những tâm tư nguyện vọng của Phương Trượng sau này. Như chiều hôm qua Phương Trượng có nói cho con nghe về Trung tâm an dưỡng ở Phước Hải mà phương án Trung tâm đã dự định từ lâu. Hôm trước con có nghe Phương Trượng nói là khu đất đó, Phương Trượng tính giao cho đạo hữu Tâm Như bán lấy số tiền đó đem làm phước bố thí. Như con thiết nghĩ Phương Trượng làm như vậy cũng là cao quý nhưng chỉ tạm xoa dịu cơn đau trong phút giây ngắn ngủi chớ không trị dứt được cơn đau như ý nghĩ thiển cận của con. Phương Trượng nên hiến dâng cúng dường khu đất đó cho Thành hội rồi giao lại cho Ban hoằng pháp, rồi thượng tọa Trí Quảng sẽ thiết lập Trung tâm an dưỡng như Phương Trượng đã dự định. Thì bên ngoài là hình thức Trung tâm an dưỡng, còn bên trong thành lập 2 dòng tu thể nhập và thể hiện.

Ban hoằng pháp Trung ương sẽ đào tạo, rèn luyện nhóm tân tăng tức là dòng thể hiện. Có vốn liếng kiến thức về Phật pháp cho thông suốt, đầy đủ, đức độ rồi đưa tài năng đức độ đó phục vụ cho giáo hội Phật giáo Việt Nam rồi đem đạo từ bi len lỏi vào nhân gian hay đem đạo Phật vào cuộc đời xoa dịu những tâm hồn đau khổ bơ vơ không nơi nương tựa đúng với tinh thần của lục hòa. Lục tổ nói: Phật pháp bất ly thế gian pháp, thế gian giác hay Phật pháp bất định pháp. Tất cả pháp đều là Phật pháp cho tất cả chúng sanh hiểu và thâm nhập được giáo lý Nhân quả, luân hồi và nghiệp báo của đạo Phật sẽ biến thế gian thành Thiên đàng và Niết bàn hiện tại ngay đây chứ không phải Thiên đàng ở cõi giới đâu đâu hay Niết bàn ở nơi nào xa xôi diệu vợi. Nếu mỗi cá nhân, mỗi con người biết hướng thiện thì ngay đây bây giờ chớ không phải chờ chết. Nếu những Phật tử nào họ có trình độ kiến thức cao, có ngành nghề và nghiệp vụ chuyên môn trong xã hội, khi họ phục vụ cho Phật giáo thì Giáo hội sẽ trả lương cho họ, nếu họ phát tâm phục vụ cho giáo hội thì càng tốt, đồng thời họ sẽ chăm lo đời sống cho dòng thể nhập chuyên tu và họ thay cho những vị này hoằng pháp lợi sanh và mọi sinh hoạt ích lợi chúng sanh xã hội là những người con trung kiên của Giáo hội mà châm ngôn của Phật giáo nói là tốt đạo đẹp đời.

Mà thật vậy, nếu nhóm tân tăng này được ra đời thì những văn hóa đồi trụy và những tệ nạn xã hội sẽ được giảm đi nhiều, đồng thời những nơi dưỡng lão, cô nhi viện, khám đường, nhà giam, khu cải tạo và bao nhiêu sự đau khổ của cõi trần gian đa sự này bớt đi nhiều, bớt đi nhiều khi họ hiểu biết được đạo lý nhân quả của nhà Phật áp dụng dạy trong các trường phổ thông mà Phương Trượng ước mong canh cánh nỗi lòng bấy lâu. Đồng thời Phương Trượng làm cố vấn tối cao, giải quyết những vấn đề khó khăn và đóng góp những ý kiến tốt đẹp cao quý, còn ngoài ra mọi vấn đề sinh hoạt như ngoại giao, kinh tế, tài chánh, tổ chức,... giao hết cho Giáo hội họ đảm đương. Phương Trượng được nghỉ ngơi trong khi sức khỏe của Phương Trượng thì nhà nước cũng không có lý do kêu Phương Trượng ra làm chánh trị được mà Phương Trượng chỉ làm mặt trong mà mặt ngoài lại thành công tốt đẹp. Con ví Phương Trượng như nhà vua giao ngôi cho thái tử, lên làm đức thượng hoàng, chỉ làm cố vấn cho thái tử, còn việc nước việc dân thì thái tử tự lo lấy, nhà vua không còn phải bận tâm nữa. Dù sao tiếng nói của Giáo hội cũng là tiếng nói của cả nước, mặc dù Phương Trượng có đầy đủ đức độ tài năng uy đức như thế nào đi nữa thì cũng không bì được với tiếng nói của cả nước. Cũng như hôm trước Phương Trượng dạy kinh Thập Thiện, ví dụ ông vua chỉ biết lo cho mình thì ngày trước ngày sau, không bao lâu cũng bị phế xuống ngai vàng, còn nếu nhà vua chỉ chăm lo cho dân cho nước, lấy lòng dân làm lòng mình thì ngai vàng mới tồn tại, mình mới ở mãi với ngai vàng. Cho nên kinh nói “đức chúng như hải”, theo con thiết nghĩ cái nhân của Phương Trượng đứng ra lo cho việc này dù cho có thành công cũng ở trong thất bại, có kết quả cũng là sự phá sản về sau, không sao tránh khỏi. Đó là những lời chân thành của con kính trình lên Phương Trượng. Có điều chi sơ sót con cúi xin Phương Trượng từ bi hoan hỷ cho con.

Bây giờ xin trả lời bức thơ này để quý thầy thấy rõ những cái tâm niệm tốt mà quý thầy khi mà nghe Thầy nói đến những sự ích lợi của dân, của nước thì ai cũng canh cánh bên lòng, cũng quyết muốn làm được những điều tốt đó chứ không ai không muốn. Thì một trong những người đó có những ý kiến, đó là thầy Thiện Thiền. Nhưng cách đây 3 năm, sau cái khóa mà dạy tu 3 năm trước thì Thầy ra thất, ra thất thì cái phương án của Thầy thì cách đây 6 năm Thầy đã dự thảo phương án này rồi nhưng vì mắc vào trong thất để tiếp tục hướng dẫn chúng tăng tu tập, cho nên 3 năm giam mình không đi đâu. Sau 3 năm ra thất thì Thầy lại tiếp tục trên con đường đi tìm người có một chí hướng với mình, để lo lắng, để cộng sự cùng nhau lo lắng cái trung tâm này. Nhưng Thầy đi từ chỗ này đến chỗ khác, lúc bấy giờ thì Hòa thượng là một ánh sáng của hào quang không những trong đất nước mà cả thế giới. Thầy tin tưởng Hòa thượng chỉ chấp nhận một chút là đã thành công rồi. Nhưng đến đó Thầy cũng mất hy vọng vì Hòa thượng có nói với Thầy, Hòa thượng chỉ lo cho người chuyên tu, không có lo cho xã hội. Hòa thượng nói như vậy, Thầy đã hiểu biết Hòa thượng ở chỗ nào rồi, Thầy không thể nào mà còn cầu xin gì được nữa. Nhưng Hoàng Tâm thì quỳ xuống xin Hòa thượng hãy vì thương chúng con mà Hòa thượng hãy nhận làm cố vấn ở trong cái Trung tâm này để cho nó có cái uy tín của Hòa thượng mà cái đức độ của Hòa thượng và cái uy tín của Hòa thượng thì có thể mới thành công được. Thì Hòa thượng nhận lời làm cố vấn ở trong Trung tâm đó, chớ còn Hòa thượng thì hoàn toàn là Hòa thượng không có đem cái khả năng của mình cũng như là đem những sự việc này mà đóng góp vào, chỉ làm cố vấn, cái gì mà không đúng hoặc có những ý kiến gì thì đến hỏi Hòa thượng, Hòa thượng chỉ bảo thôi. Đó là cái ý của Hòa thượng như vậy, coi như hòa thượng không có trách nhiệm trong đó mà chỉ có góp ý. Đó là cái ý. Thì đến Thầy và những người khác đến gặp các bậc hòa thượng lớn ở trong giáo hội và đồng thời cũng gặp các vị có uy tín ở trong giáo hội, nhưng đến đâu thì họ cũng có cái khéo léo của họ hết chớ không phải không khéo léo, vì họ nghĩ rằng cái gì mà họ đề ra là họ phải quyết định họ làm cho được thì Thầy đã hiểu nó rõ ràng. Còn cái gì mà Thầy đã đề ra mà họ có làm cho được thì chẳng qua là dồn lại cái danh đó cho Thầy, cho nên họ không muốn chớ không phải gì hết. Vì Thầy biết rằng mỗi con người hiện giờ họ đang ở trong cái anh hùng cá nhân, họ đang muốn làm cho mình nổi bật hơn mọi người, mà bây giờ có một sự hợp tác như vậy là anh hùng cá nhân của họ bị mất mát đi, ít ra nó cũng mất một phần nhỏ nào trong đó, họ thì họ không muốn vậy. Nhưng họ không nghĩ rằng cái chuyện làm việc lớn là phải không có người anh hùng ở trong đó mà chỉ người biết làm, làm vì lợi ích cho mọi người thì mới làm được. Cho nên đi khắp cùng, suốt cái thời gian mà ra thất đó Thầy đem hết cái sức của mình chiều chuộng tất cả mọi người, nghĩa là dâng lên cho họ, miễn là họ làm thôi, cộng tác với mình, những người mà có thế có quyền, họ đứng ra xin phép này kia, hay hoặc là Thầy đứng ra xin phép rồi giao lại tất cả những phương án này, Thầy chỉ kêu gọi Phật tử đóng góp vào một số tiền hoặc là bỏ ra một số tiền nào đó để cho quý thầy thực hiện, để cho giáo hội thực hiện cho được cái lợi ích chung cho Phật giáo và cho dân tộc, và cho con người ở trên thế gian này. Nhưng ai cũng khéo léo một cách từ chối và đồng thời Thầy cũng thui thủi trở về hai bàn tay trắng của mình. Thầy nghĩ rằng cái phương án này chỉ có những người đệ tử của Thầy sau này có thể lần lượt và từ đó họ sẽ khai triển trí tuệ và khả năng của họ vì cái nguyện vọng quá lớn với con người trên thế gian này. Chắc chắn những người đệ tử của Thầy đã tiêm nhiễm được tư tưởng của Thầy, họ mới làm nổi, c̣n những người khác họ chỉ là nghĩ đến cái anh hùng cá nhân của họ thì chắc chắn họ không làm được. Thầy nghĩ rằng bây giờ ở đây chúng ta có những thầy mà các thầy phải hiểu rằng không phải quý thầy ra mà một mình quý thầy sẽ làm hết được cái chương trình này đâu. Quý thầy chỉ làm một phần nào đó thôi rồi quý thầy lại giao cho một người kế tiếp thì người kế tiếp đó lại tiếp tục làm con đường này nữa, cho đến mãi, đến khi mà thành tựu thì chúng ta không biết là bao nhiêu người làm. Và bao nhiêu người làm, tức là bao nhiêu anh hùng của con người, chớ không phải là có một mình Thầy. Cho nên Thầy không giành một mình Thầy được, bây giờ phỏng chừng Thầy làm, Thầy giành cho một mình Thầy như thầy Thiện Thiền nói, cái kết quả đó nó cũng chẳng có gì. Đây Thầy đọc lại chỗ này: “cái thành công ở trong thất bại”, nghĩa là Thầy có thành công đi nữa cũng ở trong thất bại, vì biết bao nhiêu người đang phá, đâu có để cho Thầy tạo thành một cái danh. Các con hiểu điều đó. Nhưng chúng ta lần lượt bước đi từng người này thừa kế đến người kia thừa kế thì không bao giờ ai phá được chúng ta. Cho nên Thầy đã suy nghĩ rất nhiều, cho nên lúc này tuy rằng Thầy cũng còn sức khỏe kéo dài thêm 5-10 năm nữa vẫn có thể được, nhưng phải ẩn bóng để rèn luyện đệ tử của mình trong một cái tinh thần phát triển của nó chớ không thể để nó tựa nương vào Thầy nữa mà nó phải tự phát triển. Phát triển để làm những gì? Làm lợi ích cho chúng sanh. Làm lợi ích gì? Làm lợi ích cho Phật pháp. Còn nếu để nó nương tựa theo Thầy hoài thì tới chừng mà Thầy thị tịch thật sự thì còn ai mà ở sau lưng nó để mà nhắc nhở giúp đỡ nó. Thì do đó rồi nó sẽ tự theo ý của nó thì nó chưa có đủ cái khai triển những cái sáng suốt cho nên nó có thể lầm lạc. Hoặc là nó chỉ thấy Thầy là tuyệt vời rồi cho nên nó giậm tại đó mà nó không chịu khai triển nó ra nữa, thì như vậy con đường mà tiến tới thì nó bị dừng lại rồi, nó thấy Thầy hơn toàn bộ, không còn ai hơn Thầy được, cũng như bây giờ nhìn Hòa thượng mà chúng ta thấy Hòa thượng hơn tuyệt hết rồi thì các đệ tử của Hòa thượng không còn phát triển được nữa.

Cho nên Thầy đã biết lúc nào tấn mà lúc nào thối, lúc nào hiện mà lúc nào ẩn. Mà sự ẩn của Thầy thì các thầy cứ nghĩ rằng Thầy sẽ ẩn bóng mãi chớ không phải Thầy còn lộ diện như các nhà võ công, sau một thời gian ẩn bóng để tu luyện lại những võ công của mình rồi mới tái xuất hiện giang hồ, Thầy thì không tái xuất hiện giang hồ, cho đến khi nào Thầy thị tịch mà thôi, chỉ còn lại những người đệ tử của Thầy hiện nay đã và đang tu tập, thành tựu được Phật pháp thì những người đó phải tự sáng tạo, phải tự khai triển. Những gì mà Thầy chưa khai triển họ sẽ khai triển, họ lấy cả đầu óc họ làm ra thì họ cũng trở thành những anh hùng của những con người khác, chớ không thể Thầy để cho họ dẫm lại cái hiểu biết của Thầy, nhai đi nhai lại cái bã mía này như nhai đờm dãi. Thầy không muốn như vậy. Nghĩa là Thầy hôm nay dạy như vậy, ngày mai các thầy phải triển khai qua kinh nghiệm của mình làm cho người ta tu dễ dàng hơn nữa thì cái đó là cái mong muốn của Thầy chớ không được nhai lại, Thầy nói làm sao nhai lại như vậy điều đó là cái điều sai hết và không đào tạo những con người có những cái thông minh sau này.

Bởi vậy người ta chỉ nhai đi nhai lại những kiến giải của kẻ khác, tưởng đó là hay nhưng mà sự thực ra đó là cái học lóm chớ không có gì mà hay hết. Cho nên các Tổ sư nói đó là đờm dãi của người xưa. Nghĩa là cái người xưa người ta đã đặt ra cái đó rồi, bắt đầu bây giờ mình nhai đi nhai lại cũng bây nhiêu đó thôi, lặp đi lặp lại cũng bây nhiêu đó thôi, không có cái gì khác hơn hết thì tức là mình chẳng có gì. Cho nên những người sau đều lụn bại và Phật pháp suy đồi và Thiền tông suy đồi cũng là điều lặp lại không có phát triển, mà phát triển lại là phát triển không đúng cách, không đúng lối. Phát triển con người phải trở thành những con người đạo đức chơn thật, phát triển đến con người thiếu đạo đức, con người lung tung, hành động thô tháo không còn có chỗ nào mà khen được. Cho nên ở đây cái phát triển phải là phát triển trong khuôn khổ của một con người chơn tu chớ không phải là phát triển trong những con người thiếu tu.

Đến đây Thầy xin chấm dứt. Và chúng ta bây giờ Thầy tiếp tục cái bài học, mình đã học xả tâm vô lượng. Mà thầy đã giải thích xả là gì rồi. Bây giờ nó đã tới cái chỗ mà mình đã xả, kế tiếp đó quý vị phải tiếp tục xả bỏ sáu cái pháp dục lạc của thế gian. Đó là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

Vậy sắc là gì?Sắc là mọi hình ảnh của các pháp có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta làm cho ta ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ. Đó là cái sắc. Bởi vì khi mà xả cái tâm vô lượng này, ở chỗ sắc thì chúng ta phải thấy cái đối tượng của nó với cái tâm của chúng ta là gì. Bởi vì cái tâm vô lượng thì phải xả cái hình ảnh sắc trước. Mà xả cái hình ảnh sắc trước, thì đó là cái đối tâm của chúng ta để gợi lên cái sự thích thú, cái sự khả ái khả lạc khả hỷ. Chúng ta thích nó mà chúng ta mới chạy theo nó. Cho nên muốn xả cái tâm vô lượng này thì phải xả như thế nào để chúng ta thấy cái ái đó, cái lạc đó, cái hỷ nó đó đúng hay là không đúng. Đó là cách thức chúng ta phải biết so sánh để mà chúng ta biết nó để mà chúng ta xả. Còn nếu không biết thì chúng ta lấy gì mà chúng ta xả?

Thinh-bởi vì ở đây nó có sáu cái đối tượng để mà chúng ta, sáu cái đối tượng tức là sáu cái pháp lạc của thế gian nó làm cho chúng ta bị say mê ham thích. Cho nên chúng ta phải biết cho rõ sáu cái mặt của pháp này là cái gì. Như hồi nãy thầy nói sắc là những hình ảnh, sắc tướng của các pháp nó có sức cám dỗ và lôi cuốn chúng ta. Bây giờ tới thinh - thinh là gì? Thinh là âm thanh của các pháp có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ khiến ta thích thú say mê. Đó, thì đó là cái âm thanh.

Hương - hương là gì?Hương là mùi thơm của các pháp có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên những khả ái, khả lạc, khả hỷ khiến ta thích thú, say mê.

Vị - vị là gì?Vị là mùi vị ngon ngọt cay đắng, chua mặn của các pháp có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên những khả ái, khả lạc, khả hỷ khiến ta thích thú, say mê, khó quên.

Xúc - xúc là gì?Xúc là sự va chạm vào các pháp sanh ra cảm thọ êm ấm, nóng, mát, lạnh, đau nhức, nhẹ nhàng, khinh an, hỷ lạc, lâng lâng, say say, cảm giác khoái lạc, cảm giác sung sướng, cảm giác mừng vui, cảm giác buồn khổ… Ở đây vì cái xúc, chúng ta nói đến xúc thì gồm, nó có ba cái cảm giác rất là rõ ràng và cụ thể. Ba cái cảm giác đó thì:

- Thứ nhất Phật gọi là thọ lạc,

- Thứ hai Phật gọi là thọ khổ,

- Thứ ba Phật gọi thọ bất lạc bất khổ.

Đó là, những cái cảm giác đó thì Phật chia làm ba cái phần để chúng ta nhận xét ba cái thọ đó, để chúng ta biết rằng dù chúng ta rơi vào cái thọ lạc thì chúng ta cũng đừng có thích thú. Mà rơi vào cái thọ khổ thì chúng ta cũng đừng có sợ hãi. Mà rơi vào cái thọ bất lạc bất khổ thì cũng đừng cho đó là thanh tịnh hoặc là thiền định. Thì điều đó là cái điều sai hết. Vì còn cảm thọ mà biết nó thọ bất lạc, bất khổ thì đó cũng là một cái trạng thái sai trong cái sự tu hành của chúng ta. Đừng cho đó là Niết bàn, cũng đừng cho đó là một cái gì cả hết, vì đó là thọ bất lạc bất khổ. Hầu hết là số người tu hành mà thiền định mà rơi vào trạng thái này tưởng là mình đã nhập định. Cho nên đó là cái sai phải nhận xét. Vì nói đến xúc - nói đến xúc là sự va chạm mới sinh ra thọ. Mà sanh ra thọ thì chúng ta phải xét qua ba cái trạng thái thọ để mà chúng ta biết cái đúng cái sai. Trên con đường đi, con đường tu tập chúng ta gặp rất nhiều những cái cảm thọ này. Nghĩa là ba cái cảm thọ này chúng ta luôn luôn gặp rất nhiều. Vì vậy mà ở đây phải giảng chỗ này để chúng ta thấy rõ mà chúng ta tránh nó. Vì con đường nhập định của Phật nó không lọt vào ba cái cảm thọ này. Mà còn có ba cảm thọ này thì con đường đó gọi là tà thiền, tà định chứ không phải là chánh định, chánh thánh định của Phật.

Phápở đây chỉ cho tất cả những sự hiểu biết từ kim cổ đến triết học, văn học, sử học, địa lý học, thiên văn học, toán học, các bộ kinh sách của các tôn giáo trên thế gian đều gọi là pháp. Tất cả các pháp đó Phật dạy đó là kiến chấp của thế gian. Nó có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta làm cho ta ưa thích xem đó là chánh pháp, đúng pháp, ôm chặt khư khư không muốn rời bỏ. Cho đó là khuôn ngọc thước vàng, là mẫu mực cho đời sống thường nhân. Hoặc tu hành các pháp này có sức lôi cuốn tâm ta khiến ta ưa thích, gợi lên sự hiểu biết này, hiểu biết khác, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khiến cho ta dính mắc không buông xả được. Vì thế mới có tranh luận hơn thua. Đó, nó trở thành, vì cái chỗ mà nó gợi cho chúng ta những cái hay cái dở trong đầu chúng ta, cho nó là đúng, cho nó là này kia thì đó là trở thành kiến chấp của chúng ta. Cho nên khó mà có thể bứt rời ra được.

Vì vậy mà một người học nhiều, biết nhiều, hiểu nhiều về kinh sách nhiều thì những người đó là những người bị Sở tri chướng. Và những người đó là những người bị kiến chấp. Một khi bị một kiến chấp rồi mà buông ra là một điều rất khó, chớ không phải dễ. Cho nên khi họ bị kiến chấp rồi mà họ sống lại cái đời sống của phạm hạnh, giới luật thì họ sống không được. Họ cho đó là bị mất tự tại, không còn vô ngại nữa, bị giới luật trói buộc người đó là chấp giới. Chớ họ không thấy rằng cái giới luật của Phật là một ông thầy để dẫn đường cho người đó rèn luyện thân tâm của họ đến cái chỗ giải thoát y như giới luật. Mới đầu người mới tu thì xem như bị ràng buộc, bị trói buộc cho nên họ thấy rằng không có vô ngại được, không có tự tại. Là như vậy là không có giải thoát. Vì cái kiến chấp, vì cái nông cạn mà họ không thấy xa của giới luật nó sẽ giải thoát như thế nào. Vì họ chưa từng sống trong giới luật cho nên họ chưa biết sự giải thoát của giới luật. Vì vậy mà cái kiến chấp đó làm cho họ mê mờ, họ tưởng rằng sống trong giới luật là khổ sở, không có tự tại, không có giải thoát, còn sống rời khỏi giới luật là có tự tại, có giải thoát rõ ràng cụ thể nhưng cuối cùng họ chết chìm ở trong ngũ dục lạc mà họ không hay biết.

Bây giờ quý thầy đã hiểu rõ toàn bộ các pháp ở thế gian là pháp cám dỗ, thu hút lôi cuốn tâm con người đi đến chỗ làm ác, tạo bao cảnh khổ đau cho nhau. Thì các thầy thấy rất rõ là sáu cái pháp ở trên thế gian này. Nó có sức thu hút và lôi cuốn mọi con người, dù con người đó là con người phàm phu vẫn bị lôi cuốn, cho đến những bậc tu hành có hàng giáo phẩm cao siêu nhưng họ vẫn bị lôi cuốn. Mà họ không hay biết, họ tưởng rằng mình tự tại vô ngại. Nhưng cuối cùng họ vẫn bị lôi cuốn ở trong đó mà họ không hay biết. Đó là họ làm cho họ vô minh mê mờ mà họ không thấy. Cái sức lôi cuốn nó làm cho họ nghĩ luận ra là mình không bị lôi cuốn nhưng chính họ đã bị lôi cuốn. Vì cái đời sống của họ, chúng ta đã nhìn thấy rõ ràng là họ đang sống ở trên đó. Nhưng họ nói họ không bị, tức là họ đã bị. Còn đời sống chúng ta trắng bạch như vỏ ốc thì làm sao mà chúng ta bị được? Trái lại đời sống của họ không trắng bạch như vỏ ốc mà họ nói tâm họ trắng bạch như vỏ ốc thì không thể làm sao mà người ta tin được vì lời nói không đi đôi với cách sống của họ. Cho nên chúng ta xét người thì biết được người đó có thực hiện giải thoát hay không. Chớ không phải nghe mà chạy theo họ để rồi tin ở miệng họ. Bởi vậy đạo Phật xét người qua cái đức độ, qua cái giới hạnh. Chứ không thể xét người qua những cái bên ngoài của họ được.

Muốn trau dồi tâm ta, tâm xả vô lượng các pháp thế gian. Ta nên lựa một chỗ thanh vắng tịch mịch như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, bóng mát, dưới tàng cây, ngoài trời hoặc trong chòi lá, sau khi ăn uống xong đợi cơm, thực phẩm tiêu hóa khoảng hai giờ. Ta hãy ngồi kiết già lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú đặt niệm trước mặt. Bây giờ ta đặt niệm gì đây? Đầu tiên chúng ta đối với hình ảnh của các pháp, cho nên chúng ta đặt niệm sắc dục. Nghĩa là đầu thì chúng ta thấy sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu cái đối tượng mà nó cám dỗ chúng ta, thì cái sắc là cái đầu tiên. Vậy thì cái sắc là cái đầu tiên để mà chúng ta tu tập thì chúng ta phải đặt nó ở trước mặt của chúng ta. Khi mà chúng ta đã ngồi thẳng lưng kiết già nơi yên tịnh, chúng ta đặt cái niệm đó trước mặt. Là một niệm trong năm niệm dục lạc của thế gian. Bây giờ thầy dạy quý thầy xả tâm vô lượng sắc dục thế gian phải đặt niệm như thế nào để xả ly cho được. Đó là cách thức mà hành pháp. Hồi nãy ở trên thì Thầy nói về sắc. Đó là lý pháp chớ không phải hành pháp. Còn đến đây khi mà tạo được cái điều kiện như là chúng ta tìm cái chỗ thanh vắng, yên tịch, tịch mịch; bắt đầu ăn cơm xong rồi mới ngồi thẳng lưng. Chớ không phải là muốn ngồi lúc nào thì ngồi, hay hoặc là đặt niệm lúc nào cũng được. Mà phải tìm một cái nơi thanh vắng, yên tịnh, bởi vì người tu mà chứ đâu có phải là người lăng xăng ở thế tục đâu. Cho nên chúng ta phải coi như là cái niệm sắc dục ở trước mặt chúng ta rất là quan trọng. Để chúng ta đập vỡ và phá nó chứ còn chúng ta coi thường nó, thì nó lôi cuốn chúng ta hổng hay đâu. Cho nên chúng ta phải xem cái hành động tu tập của chúng ta rất là quan trọng. Mỗi một ý niệm của chúng ta trong bây giờ là một nhát búa mà đập vào sắc dục. Chứ không phải cái ý niệm chúng ta, cái niệm của chúng ta bây giờ coi nó là thường thì quý thầy sẽ không đập nổi sắc dục đâu. Nó rất khó. Cho nên ở đây mỗi mỗi chúng ta phải có sự rèn luyện và trau dồi mình cho đầy đủ. Chớ còn nếu không luyện tập trau dồi thì rất là khó. Mà Phật đã dạy chúng ta có một cái phương pháp rất là tuyệt diệu. Đó là pháp hướng Như lý tác ý. Vậy thì chúng ta đặt cái niệm đó rồi, niệm sắc dục rồi chúng ta phải theo cái pháp hướng mà như cái lý của nó mà tác ra, tác ý ra.

Vậy thì tác ý như thế nào?

Sắc dục là con đường sanh tử của muôn loài, con đường đầy đau khổ triền miên bất tận kiếp này sang kiếp khác. Ta phải xả bỏ, từ khước thoát ly ra khỏi, từ giã không nên để tâm ta dính mắc nó nữa.

Đó là một cái câu mà đây là trạch pháp cái câu này ra để trở thành một cái pháp hướng như cái lý đó mà tác ý ra. Hàng ngày chúng ta ngồi lại những nơi thanh vắng đó: dưới lùm cây, trong khe suối, nơi yên tịnh trong một cái chòi lá, rồi chúng ta đặt niệm đó. Rồi chúng ta lấy cái niệm đó mà chúng ta nhắc, rồi nhắc đi nhắc lại. Rồi ngồi yên tịnh một hơi, rồi chúng ta lại tiếp tục nhắc nữa. Và cứ như thế chúng ta nhắc mãi cho đến khi mà chúng ta xả thiền đi kinh hành mà thôi. Nghĩa là chúng ta thấy mình ngồi có hơi đau chân hay tê chân là ngay đó quý thầy hãy đứng dậy đi kinh hành. Còn chưa đau chân tê chân thì quý thầy ngồi tiếp tục mà hướng tâm nhắc nữa. Nhắc cho nó thấu cái lý, nhắc cho nó thấm như cái lý chân thật của sắc dục thì chúng ta mới đoạn trừ nó được. Chớ không phải nhắc sơ sơ một hai lần rồi lười biếng rồi bỏ qua. Thì quý thầy tu như vậy Thầy mệt mỏi quá. Không có một việc làm nào mà ngay liền tức khắc mà thành tựu được, mà phải có sự bền chí rèn luyện lâu dài. Không có một công trình nào mà có một ngày mà thành công được mà phải có một thời gian dài mới thành công được. Pháp thì hay mà người có bền chí tu tập hay không? Điều đó là do ở chỗ quý thầy tự thắp đuốc lên mà đi. Tự quý thầy phải nỗ lực, phải siêng năng, phải tu tập. Còn quý thầy không nỗ lực, không siêng năng thì Thầy cũng không thể nào thắp đuốc lên cho quý thầy đi mà được. Chữ thắp đuốc lên ở đây có nghĩa là phải siêng năng, phải nỗ lực. Đuốc này tắt thì phải nối đuốc khác mà đi cho hết quãng đường đen tối trong rừng âm u. Đây là câu trạch pháp để quý thầy dùng nó mà hướng tâm xả bỏ. Hằng ngày quý thầy phải siêng năng tu tập, trau dồi. Câu này để đoạn dứt tâm ái dục.

Đó thì quý thầy phải nghe lời Thầy mà cố gắng. Chỉ có quý thầy mới cứu quý thầy mà thôi. Chỉ có hành động tu quý thầy mới cứu quý thầy thôi. Pháp hành thì quá rõ ràng mà quý thầy không có hành thì làm sao đi tới được? Hoặc là quý thầy hành chơi để cho qua, ngồi đó lấy lệ. Nhắc một câu hai câu rồi không nghiêm chỉnh. Để tâm thả hồn phiêu diêu nơi cực lạc hoặc là để tâm theo hơi thở để mà thọ hưởng hỷ lạc. Thì điều này chắc chắn là không bao giờ tới nơi tới chốn. Khi tu một cái pháp định nào thì phải là cái pháp đó phải thật sự chuyên cần, trau dồi bằng một cái ý thức cụ thể, rõ ràng, tỉnh táo. Chớ không phải đi tìm hỷ lạc, khinh an của pháp này chuyển qua pháp khác. Ngồi một hơi nghe hơi thở nhịp an ổn, thả hồn theo sự an ổn đó mà quên đi những câu hướng tâm này. Thì ngàn đời sắc dục không bao giờ lìa được.

Đó là những lời Thầy nhắc nhở, quý thầy hãy cố gắng mà ghi trong lòng, đừng quên khi không có mặt Thầy ở gần. Có Thầy, Thầy nhắc đi nhắc lại, mà không Thầy thì tự tâm mình nhắc mình. Tự tâm mình phải rèn luyện cho mình thì mình mới cứu lấy mình. Khi có Thầy còn có như ông cha săn sóc, không có Thầy thì quý thầy thấy như mình bơ vơ. Phải tự cứu lấy mình, phải gan dạ, phải lầm lì, phải nỗ lực, phải siêng năng đừng lười biếng. Nếu quý thầy dùng câu trạch pháp này chưa xả được thì quý thầy tiếp tục hướng tâm Như lý tác ý một câu khác nữa. Đây thầy cho thêm một cái câu khác nữa để quý thầy thấy cái câu này nó không phù hợp với đặc tướng của mình, mình nhắc hoài mà sao chưa thấy nó có hiệu quả. Do đó Thầy cũng sợ quý thầy không đủ cái sức của mình để triển khai trạch pháp những cái pháp để trở thành những câu hướng tâm, như một cái lý tác ý cho đúng. Cho nên kế đó để đối trị với cái sắc dục thì quý thầy phải nhắc cái câu này:

Sắc dục là bất tịnh, là uế trược, nhớt nhao, hôi thúi, tanh hôi khó chịu, bẩn thỉu vô cùng, tạo muôn ngàn thứ bệnh tật tai ương và truyền nối nhau nhân quả luân hồi kiếp này đến kiếp khác không bao giờ thôi dứt. Một người để lại muôn người khổ. Khổ khổ nối mãi truyền nhau vô cùng vô tận. Ta phải quyết tâm xả bỏ, xa lìa, viễn ly vĩnh viễn, chẳng dám bén mảng. Xem nó như rắn độc, ung nhọt, nguy hiểm, tai nạn, tai họa to lớn, chỗ ác độc, chỗ bệnh truyền nhiễm nan y không thuốc chữa được.

Đó là một cái câu để mà chúng ta nhớ thuộc làu. Khi mà chúng ta ngồi đặt lưng là chúng ta nhắc toàn bộ câu này ra, rồi chúng ta ngồi đó để lặng tâm. Khi nhắc xong rồi chúng ta ngồi đó lặng tâm giữ tâm thanh thản. Cho đến một lúc nữa chúng ta lại nhắc nữa và cứ như vậy những nhát búa đó mà chúng ta đập vào tâm sắc dục chúng ta. Lần lượt chúng ta sẽ thấm thuần, trau dồi được cái tâm xả, cái sắc dục của chúng ta. Chúng ta xả sạch, xả bỏ không còn có một dính mắc nào. Thấy cái sắc dục là chúng ta đã hoảng sợ không còn có ham thích nữa. Có như vậy thì quý thầy mới chấm dứt được cái tâm sắc dục. Còn không có mà tu tập như vậy thì nó chỉ ẩn núp ở trong tâm quý vị. Rồi quý vị vẫn len lét mà lén mà nhìn, mà ngó chứ chưa phải là quý vị thôi đâu. Còn ở đây khi quý vị tu tập xong rồi thì quý vị không còn có cái ham thích nữa. Từ đó quý vị đã từ giã hẳn hòi cho nên quý vị nhìn cái giới mà khác giới của quý vị, quý vị thấy hoàn toàn là bẩn thỉu và dơ bẩn và độc ác và khổ đau. Chớ không còn có cái hạnh phúc, có cái cảm giác thích thú nữa.

Đó, tóm lại là phải siêng năng, phải tập luyện. Thầy đã trao tất cả những kinh nghiệm để mà quý thầy biết để mà tu hành. Dùng thực nó chớ không phải là sai được. Những cái pháp như vậy mà nó có cái chuyện của Phật, trong kinh điển của Phật dạy Tứ niệm xứ, Ngài cũng bảo trên thân quán thân nhưng những cái pháp dạy trong đó chung chung. Cho nên người mà đọc lại những cái bài kinh này làm cho người ta không biết đâu mà quán. Người ta chỉ quán chung chung bằng cách này bằng cách khác mà thôi. Phật dạy trên thân quán thân, rồi bất tịnh, rồi quán thân để khắc phục tham ưu của mình. Không biết lúc nào mà khắc phục tham ưu, lúc nào mà quán thân bất tịnh. Bởi vì ở đây chúng ta xả cái tâm, cái tâm sắc dục, cái tâm ái. Cho nên chúng ta phải xả nó. Mà phải xả bằng cách nào? Vì vậy mà chúng ta đặt niệm trước mặt. Tức là trên thân của chúng ta quán cái thân. Quán thân mình, quán pháp cho nên do đó mà chúng ta xả. Thì như vậy là chúng ta đi đúng vào cái pháp môn để mà chúng ta thực hiện trong cái hành pháp cho nó đúng.

Còn nói chung chung như trên Tứ niệm xứ - trên thân quán thân như thế này thế khác là nói chung chung chứ chưa phải là đúng nó. Sau khi dạy Tứ niệm xứ Thầy sẽ phân tích tu cái nào ở trên hành tướng nào. Trên thân quán thân mà tu cái hành tướng nào, tu cái nhân tướng nào, tu cái đặc tướng nào. Mà xả ly được cái gì, làm cái việc gì đólà tất cả những cái mà cái câu mà trạch pháp ra nó trở thành một cái niệm. Cái niệm đó để nó phá vỡ đi những cái tâm trạng nào của chúng ta. Phá vỡ đi những cái pháp nào mà chúng ta bị dính mắc.

Đó như vậy, nó phải rõ ràng và cụ thể. Còn nếu mà chung chung như trong kinh sách Phật hiện giờ thì con người đọc kinh sách Phật không biết hành pháp là ở chỗ nào. Rồi lúc tu vầy lúc tu khác, kết quả không đem đến cụ thể cho quý vị, làm cho quý vị càng tu lại càng chán nản cho nên mới đi lạc lầm vào tất cả các pháp khác của ngoại đạo, cứ ngỡ tưởng đó là Phật pháp mà thôi.

Tóm lại muốn xả tâm vô lượng sắc dục thế gian ta hãy siêng năng tu tập trau dồi tâm xả của ta. Hằng ngày không được biếng trễ thì mới xả ly được. Tinh tấn chớ có phóng dật theo nó. Nghĩa là luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải tinh tấn. Nghĩa là chúng ta phải ngăn chận, đừng có thấy nữ sắc mà chúng ta phóng theo, cái tâm chúng ta nhìn theo nó. Lúc bấy giờ mà đang tu thì quý vị phải cắt ly không được nhìn thấy nữ sắc. Đó là một cái điều tiên quyết quan trọng. Lúc bấy giờ cái người mà đang tu những cái pháp mà xả về cái ái dục này thì tức là đừng có nhìn cái sắc dục của người nữ, đừng có nhìn cái tướng tá của người nữ, đừng có nhìn cái làn da, cái môi của người nữ. Cho nên Phật dạy: Ta không thấy một pháp nào mà có thể lôi cuốn người nam bằng cái nụ cười, bằng cái sắc của người nữ, bằng cái miệng của người nữ, bằng cái mắt của người nữ, bằng cái da của người nữ, bằng cái hương thơm của người nữ.

 Đó thì các thầy thấy ông Phật ổng xác định như vậy cho nên khi mà chúng ta quyết tâm xả cái tâm này thì chớ có phóng dật theo nó. Nghĩa là đừng có phóng tâm theo nó, đừng có chạy theo nó nữa mà hãy quay trở vào trong mà cố gắng tập luyện trong thời gian một tháng hai tháng thì quý thầy sẽ thấy cái sự tu tập của quý thầy sẽ xa lìa từ bỏ nó rất là tuyệt diệu. Còn nếu quý thầy vừa tu bữa nay, ngồi tu đây quán như vậy, đem cái câu hướng tâm vậy mà ra kia thì tiếp duyên nói chuyện với mấy bà thì thôi thôi một ngàn đời Thầy nói quý thầy cũng không làm được gì hết. Tu như vầy uổng công lắm, thôi đi về cưới vợ đi mà sống. Ngồi tu thì có hình thức, mà ra thì tiếp chuyện với mấy bà nói thôi huyên thuyên không biết bao nhiêu mà kể. Thì cái chuyện đó là cái chuyện không thể tu được, phải tránh xa cái thứ rắn độc đó đi, cái thứ đó là cái thứ đem lại cuộc đời chúng ta đau khổ mà người tu sĩ của đạo Phật phải sợ. Sợ còn hơn là sợ cái gì nữa. Nó đem lại cho chúng ta biết bao nhiêu cái khổ đau mà chúng ta đâu có thấy. Tưởng là cái dục lạc đó nó có một chút xíu thôi mà nó đem muôn ngàn cái sự khổ.

2.4.2 Xả tâm tiền bạc, của báu

Bây giờ đến chúng ta xả cái kế nữa. Bởi vì xả ái dục rồi, xả sắc rồi thì bắt đầu bây giờ chúng ta xả đến tiền bạc của báu. Lợi mà, làm sao mà phải xả chứ còn không xả thì làm sao chúng ta đi tới cái chỗ giải thoát được, nó cám dỗ chúng ta cũng rất mạnh đây. Bây giờ Thầy dạy quý thầy xả tâm vô lượng của báu vàng bạc vật chất thế gian.

Tới cái giai đoạn này thì chúng ta phải biết rằng cái vật chất thế gian, tiền bạc coi vậy chứ khó xả lắm. Một cái bọc cao su nhỏ vầy thôi mà mình cũng chưa dám bỏ trong thùng rác nữa. Thấy nó còn lành lành nhét đó ít bữa để lấy đựng lại, thì thử hỏi cái gì mà dám xả. Muốn vô, đem vật chất vô thêm chớ còn chưa muốn xả đâu. Đó, những cái mà chúng ta phải hiểu biết ở đây là chúng ta xả tâm vô lượng thì phải xả các pháp vô lượng. Mà xả cái đối tượng tiền bạc của chúng ta là một cái điều dục lạc. Năm cái dục lạc rất là khó xả. Vì vậy mà cái xả tâm này phải thấy được, bỏ nó đi, cho nó thực. Và đồng thời phải nhắc đi, nhắc lại nhiều lần mới có thể xả được. Chứ không phải nói ừ tui xả tui bỏ đâu. Nghe cái chuyện mà ông Bàng Uẩn đem của cải, vàng bạc đổ xuống sông, chúng ta nghe thì dễ lắm. Nhưng thử chúng ta đem đổ coi chúng ta có tiếc không? Chắc chắn là chưa dám đâu. Chưa có ai dám làm được điều đó đâu. Đem bố thí để cầu danh chứ còn làm chuyện đó thì đem đổ uổng quá đâu có ai biết mình. Đó là những cái tâm mà chưa xả đó. Rồi chúng ta còn lý luận ông này ngu quá, có tiền bạc đem đổ không cho ai hết. Để cho người ta phải đỡ không. Chết là cái chỗ mà để cho người khác đỡ đã là cái ngu rồi. Đã mình vì tiền bạc của cải mình khổ suốt cái đời của mình rồi. Mình đem cho người ta làm cho người ta đắm mê nữa, là mình đem gieo thêm cái họa cho người ta chớ đâu phải sung sướng gì? Bởi vì ông Bàng Uẩn ổng đã thấy được cái nhân quả. Cho nên nếu đem cái rắn độc này đến nhà người ta thì người ta lại đam mê, người ta bị lôi cuốn ở trong cái đó nữa thì ngýời ta lại khổ. Nhân quả của họ nghèo họ phải trả nhân quả họ, mà họ trả cho trong sạch thì họ mới vượt thoát ra cái nhân quả.

Muốn trau dồi tâm xả tiền bạc, của báu vật chất thế gian ta phải đặt niệm trước mặt. Dùng pháp hướng Như lý tác ý - đây là cái câu đây:

Tiền bạc của cải châu báu là những vật chất cám dỗ lôi cuốn rất mạnh làm cho tâm ta ham mê, say thích mà chạy theo tạo ra biết bao nhiêu điều tội ác.

 Đó, mình nhắc nó như vậy đó. Nếu mà muốn có tiền bạc mình phải có làm những điều này điều kia chứ. Một ông nhà nông mà muốn có lúa gạo, có tiền bạc thì ổng phải giết bao nhiêu con vật ở dưới ruộng lúa không, ổng phải cày xới biết bao nhiêu côn trùng chết không. Đó thì chúng ta thấy, đó là cái nghề lương thiện chứ chưa phải là cái nghề cướp giựt ai đó. Nhưng mà còn phải biết bao nhiêu chúng sanh phải chết. Còn tất cả những cái nghề khác nó còn giày xéo lên nhau, lên con người nhau để mà xâu xé từng đồng bạc. Giết nhau từng đồng bạc thì chúng ta thấy nó có tệ hại không? Nên lấy câu này trạch pháp mà nhắc đi nhắc lại trau dồi tâm ta cho thấm nhuần.

Bây giờ Thầy cho thêm một câu nữa để chúng ta có những cái câu, bởi vì chúng ta đã học xả thì chúng ta phải có những cái trạch pháp, những cái câu để chúng ta nhắc cho nhiều, nhắc cho thấm nhuần, nhắc cho tận xương tủy của chúng ta. Từ đó chúng ta mới xa lìa nó được. Đây là một cái câu nữa:

(BBT:CĐ,12B,E00:45:08).Vì tiền bạc châu báu vật chất thế gian mà con người xâu xé lẫn nhau. Nhà nhà không yên ấm, nước nước mất thái bình. Ta phải từ bỏ tiền bạc của báu vật chất thế gian (BBT:CĐ,13A,B00:00:00)như bỏ đôi giày rách.

Như cái đôi giày mà mình hết mang được rồi mình quăng ra đống rác. Xem nó là của báu, vật chất ở trong, vàng bạc của báu của mình quăng nó như là quăng đôi giày rách của mình ở đống rác vậy đó. Thì đó là một câu để hướng tâm, để ám thị, để Như lý tác ý câu này ra để làm cho chúng ta thấy vàng bạc của báu là đôi giày rách, là con rắn độc. Thì như vậy chúng ta mới ném nó được, chứ không khéo chúng ta khó mà ném được. Phải lặp đi lặp lại, hướng tâm để ta xả cho được vô lượng tâm này.

Tiền bạc của cải, châu báu vật chất thế gian là tên chủ độc tài, sai bảo ta làm bất cứ một điều gì ta đều mờ ám vâng theo, làm những điều tội lỗi tày trời. Vậy ta phải từ giã, xa lìa ông chủ này để được tự do, thoát kiếp nô lệ.

Đó là một câu nữa đó. Nghĩa là chúng ta phải nhìn thấy tiền bạc của báu là một người chủ độc tài, luôn luôn lúc nào nó sai chúng ta. Hễ muốn cái gì là nó sai chúng ta làm theo cái nấy. Nghĩa là chúng ta bị nô lệ nó. Nó muốn uống rượu là nó sai chúng ta uống rượu, nó muốn hút thuốc là sai chúng ta hút thuốc à, nó muốn cái gì nó làm cái nấy hết à. Nó muốn làm những cái tội ác gì nó cũng sai chúng ta làm được. Nó muốn giết người, tiền bạc nó có rồi, nó muốn sai chúng ta giết người đó thì bắt đầu chúng ta cũng đem tiền bạc tung ra để giết người nữa. Nó làm những điều tội lỗi, rất là tội lỗi. Cho nên nó là một ông chủ độc tài, sai bảo ta cái gì, ta là tôi tớ rất trung thành của nó. Cho nên muốn thoát kiếp nô lệ thì chúng ta phải xa lìa ông chủ này. Chớ ở gần ổng, ổng cứ sai mình hoài. Cho nên ở đây phải cố gắng mà xa lìa nó đi, xa lìa như những bậc tu hành giải thoát, như những bậc Thánh hiền, Thánh tăng của thời đức Phật. Họ đã xa lìa nó đó cho nên họ không bị sai. Vì giới luật của Phật dạy người tu sĩ không cất giữ tiền bạc, cho nên họ xa lìa, làm sao sai họ được. Bây giờ tâm họ muốn cái gì cũng không được hết, bởi vì họ đâu có tiền, cho nên ông chủ tiền không sai họ được. Đó là họ đã xa lìa ông chủ. Vì vậy mà chúng ta thấy những gương mà xả danh, xả lợi, xả tiền tài thì những người đó là những bậc chơn tu.

Còn người cất giữ tiền bạc thế này thế khác, họ nói là họ chơn tu thì chắc chắn là không phải chơn tu đâu. Chúng ta nhìn chúng ta phải xét được cái đúng, cái sai. Chúng ta biết được người đó đang nô lệ tiền bạc hay là không nô lệ tiền bạc. Bởi vì họ nô lệ tiền bạc cho nên tâm họ muốn cái chùa to thì cái tiền đó nó sẽ sai họ phải cất cái chùa, cho nên họ bị nô lệ tiền chứ họ không phải làm chủ tiền. Họ nghĩ là họ làm chủ tiền, họ lấy tiền ra họ bỏ để người ta cất cho họ cái chùa tốt nhưng không ngờ tiền sai họ. Bởi vì họ có tiền. Còn như một vị chơn tu không có tiền bạc thì lấy cái gì mà sai họ được? Cho nên họ xa lìa ông chủ họ. Vì vậy mà cái câu này các thầy phải nhớ kỹ để áp dụng vào cái pháp Như lý tác ý hàng ngày nhắc đi nhắc lại. Vì chúng ta là những người tu, sau này chúng ta có những cái danh, cái lợi nó lớn như vậy thì chúng ta nhớ rằng chúng ta không phải là một người tu sĩ nô lệ cho tiền bạc. Có như vậy quý vị mới thoát ra cái cảnh nô lệ của tiền bạc, của ông chủ độc tài này.

Bây giờ quý thầy đã hiểu, phải biết được mà sửa mình từ bây giờ, răn nhắc mình để cho mình xa lìa tiền bạc của báu, từ đó cái giới luật của quý thầy rất là nghiêm chỉnh. Hầu như quý thầy hiện giờ tu hành người nào cũng còn cất giữ tiền bạc, cho nên bây giờ muốn cái gì thì chúng ta dù ít dù nhiều thì chúng ta cũng thực hiện qua sự sai bảo của ông chủ này. Còn trái lại như một người không có gì hết lấy gì sai bảo được. Cho nên chúng ta là những người xa lìa ông chủ tiền bạc. Tiền bạc vật chất thế gian càng có nhiều tâm ta càng lo sợ. Quý thầy thấy không, có người nào mà giàu có mà họ không lo sợ trộm cướp đâu, họ lo sợ cả vua chúa, cả nhà nước, chính phủ nữa. Thấy mình đây tiền bạc nhiều quá đây, không biết mình làm cái gì đây, có gian có dối gì sao mà ông này không có thấy làm gì mà có tiền đây? Người ta đi tìm đi này kia. Do đó mình ăn không yên mà ngủ không yên, rất sợ hãi. Thì các con thấy, các thầy thấy cái đó là cái nguy hiểm nhất, cái đau khổ nhất.

Cho nên ngày xưa đức Phật nói với ông A-Nan nó là rắn độc đó, dạy cho ông A-Nan thấy đó là rắn độc. Nó sẽ cắn chúng ta chết ngày nào đó. Đó thì chúng ta thấy người mà có tiền bạc vật chất thế gian càng nhiều, nhà cửa đồ sộ vậy, cửa sắt cửa nẻo vậy chớ ngủ ở trong nhà rất nơm nớp. Nghe ở ngoài nghe cái cộp là ở trong quá hoảng sợ rồi. Mạng sống như chỉ mành treo chuông. Mình tiền bạc nhiều ăn cướp nó vô nó giết mình để lấy của chứ làm sao tha mình được. Tha mình đi tố cáo nó sao. Cho nên cái mạng sống của mình, tiền bạc nhiều mạng sống của mình như sợi chỉ mà treo chuông vậy. Không biết kẻ trộm cướp, người tham lam giết chúng ta trong giờ phút nào. Vì vậy ta phải từ giã chúng, xả ly chúng, chẳng còn một chút nào ở trong tâm ta thì ta mới có ngủ yên giấc.

Đó thì những cái lý đó, những câu đó các thầy phải nhớ để mà khắc ghi, để trở thành một cái pháp hướng, trở thành một câu ám thị để nhắc tâm mình, để mình từ giã, xa lìa những thứ mà có thể giết người, giết mình trong chớp mắt. Lấy câu này dùng làm pháp hướng Như lý tác ý để ta vĩnh viễn xả ly tiền bạc vật chất thế gian, trau dồi tâm xả vô lượng. Nghĩa là chúng ta xả được như vậy đó là những của cải tài sản lớn đó, chớ không phải là. Cái mà xả của cải tài sản lớn này còn dễ đó, chứ cái mà xả của cải tài sản nhỏ còn khó, nó không phải dễ đâu. Ở đây lần lượt rồi Thầy dạy để quý thầy trau dồi cái tâm xả vô lượng này, để chúng ta xả từ cái lớn rồi cho đến cái nhỏ. Nãy giờ Thầy nói chuyện lớn không đó, xả cái lớn, rồi tới đây Thầy sẽ chỉ dạy cho xả cái nhỏ. Chúng ta còn phải thêm những câu pháp hướng thêm để chúng ta trau dồi tâm xả chúng ta cho nó thấm nhuần. Nó nhiều cái câu, để mà chúng ta thấy cái câu nào mà chúng ta tu tập nó có hiệu quả nhứt thì chúng ta chọn lấy câu đó làm câu nhắc tâm chúng ta hằng ngày, còn câu nào chưa có hiệu quả, chưa hợp với tâm lý của mình thì những câu đó nó không hợp với đặc tướng của mình thì mình hãy bỏ những câu đó đi. Để chọn lấy một hai câu trong những gợi ý của Thầy. Chớ Thầy biết được đặc tính của quý thầy là hợp với câu nào mà Thầy dạy? Chẳng hạn bây giờ mỗi người đến xin Thầy một câu thì Thầy xem qua đặc tướng của người này thế nào Thầy cho. Còn đây là bài giảng Thầy phải giảng chung chung cho quý thầy tự chọn lấy câu nào mà phù hợp với mình, mà mình thực tu có kết quả thì mình lấy câu đó làm cái câu nhắc tâm của mình.

Đây là một câu nữa:

Vàng bạc châu báu, của cải tài sản thế gian là rắn độc, là ung nhọt truyền nhiễm, bệnh tật nan y, không trị được. Nếu ta gần gũi có ngày sẽ bị rắn độc cắn, sẽ bị vi trùng truyền nhiễm bệnh độc. Ta hãy xa lánh nó đừng cất giữ, đừng tích trữ mà hăy cao bay xa chạy, tránh nó như bệnh cùi.

Đó là một cái câu để chúng ta hướng, mà nó hợp với mình thì mình hãy lấy nó làm sự nhắc nhở tâm mình, sự trau dồi tâm mình hằng ngày.

Tóm lại, quý thầy siêng năng tu tập trau dồi tâm xả vô lượng này đến khi thấm nhuần thì quý thấy mới viễn ly được tiền bạc, châu báu, của cải vật chất thế gian. Tuy Thầy dạy như vậy nhưng rất khó, không phải buông xả dễ đâu, phải bền chí kiên nhẫn mà trau dồi tâm xả này. Ai là người tinh tấn siêng năng thì chẳng bao lâu sẽ xả sạch, xả tâm vô lượng. Đó thì ở đây quý thầy thấy rằng người mà siêng năng tinh tấn, tin tưởng ở pháp này thì bắt đầu chúng ta xả được. Và xả được thì chúng ta hoàn toàn khi mà tu cái câu này thì bắt đầu chúng ta phải tìm một cái nơi nào mà có thể chúng ta đi xin ăn được, xin ăn của mọi người được, do đó chúng ta sẽ bỏ hết, không cất giữ tiền bạc, không gì hết, ai cho gì mình ăn nấy. Hoàn toàn sống nhờ vào sự bố thí của người khác chớ không còn nghĩ rằng mình phải mua cái này sắm cái kia. Đau thì chỉ biết xin thuốc mà có thuốc tốt thì uống mà thuốc xấu thì thôi, chết là do nhân quả chứ không phải ai muốn chết mà được. Cho nên chúng ta chẳng nề sợ. Vì chúng ta còn sợ mình không có tiền rồi đau bệnh, ai cho tiền, cho thuốc mình uống đây? Cho nên do cái sự lừng chừng đó mà chúng ta xả chưa hết. Mà xả chưa hết một cái chuyện nhỏ thì làm sao chuyện lớn nó không còn dính? Nếu mà xả chưa hết chuyện nhỏ này, đến khi có danh có lợi nó lại dính mắc lớn chứ không dính mắc nhỏ nữa. Nhưng chúng ta có cái lý luận để che đậy sự dính mắc đó bằng cách này, bằng cách khác chứ đâu phải là thiếu lý luận.

Đó thì chúng ta phải hiểu như vậy, vì vậy mà khi hiểu được Phật pháp rồi thì chúng ta phải giữ gìn cái giới cất giữ tiền bạc. Từ ngày Thầy hiểu Phật pháp cho đến giờ tiền bạc ai cúng dường Thầy giao cho cô Út toàn bộ hoặc là giao những người cư sĩ họ làm gì thì làm Thầy chả biết. Đói Thầy xin cơm ăn. Quý thầy không có cơm ăn Thầy chỉ viết thơ Thầy xin, Thầy gọi Thầy xin chớ còn Thầy chẳng biết gì đến tiền bạc. Cô Út sắm mua cái này kia để giúp cho quý thầy áo y hoặc cái này kia, hoặc là dầu thuốc, điều đó là cô Út chi, làm gì thì làm Thầy chả biết. Có báo thì Thầy cũng ừ hử mà không báo thì Thầy cũng ừ hử, Thầy cũng chả có biết quan trọng nó còn mất một đồng, một xu, một cắc nào hết. Thầy chả biết. Có thì cứ xài mà không có thì đến cho Thầy hay Thầy xin, có vậy thôi. Đó là con đường mà từ khi Thầy nhập thất đến khi Thầy ra thất, đi đâu thì cô Út cho tiền Thầy, Thầy đi về còn dư bao nhiêu Thầy trả lại. Có nhiều khi Mật Hạnh đến xin tiền Thầy đi bệnh viện, Thầy nói để Thầy xin cô Út, Thầy đâu có. Cứ như vậy thôi. Nhiều khi quý thầy không hiểu nói rằng Thầy cất giữ tiền mà xin Thầy, Thầy cho ít quá. Thầy làm sao cho ít, Thầy xin người khác, người khác cho Thầy được bao nhiêu Thầy cho lại bấy nhiêu thôi. Nhưng mà quý thầy có vẻ không bằng lòng, coi như là Thầy quá bỏn xẻn. Bởi vì Thầy có cất giữ tiền bạc đâu, nhiều ít Thầy đâu có biết. Cho nên bây giờ thầy đó đau bệnh, Thầy xin cô hãy mua thuốc hay hoặc là cho tiền thầy đó đi bệnh viện thì cô Út cho bao nhiêu thì Thầy đưa bấy nhiêu. Thầy không đòi hỏi thêm bớt. Bởi vì người ta cho mà, cái quyền của người ta, người ta cất người ta cho chứ Thầy đâu có quyền gì trong tiền bạc. Cho nên nhiều khi ý quý thầy muốn xin 500 mà cô Út đưa 300 thì quý thầy buồn quý thầy nói Thầy cho ít. Thầy thực sự Thầy đâu có cho ít, Thầy chỉ xin được bao nhiêu Thầy cho bấy nhiêu. Đó là những cái thực trạng ở trong cuộc sống Thầy đã bị dằn vặt trên vấn đề tiền bạc này rất nhiều vì Thầy là người không có tiền bạc. Thầy nói hết để cho quý thầy hiểu rõ được cuộc sống của Thầy. Từ khi mà Thầy giữ gìn giới luật đúng theo con đường của đạo Phật Thầy không bị tiền bạc sai Thầy chút nào hết là vì Thầy không cất giữ nó. Đó là cái chỗ mà Thầy đã thực thi trong đời sống của Thầy.

Còn quý thầy, thực sự ra quý thầy có tiền bạc, quý thầy còn cất giữ cho nên quý thầy bị tiền bạc sai, sai cái này sai cái kia sai cái nọ. Bởi vì cái tâm thích của chúng ta còn có cái thích cho nên chúng ta chưa có diệt sạch nó đâu. Cho nên cái thích của chúng ta thì có tiền là nó sẽ sai chúng ta liền. Nó không có để chúng ta mà chịu đựng với nó đâu. Đó là những cái tu hành mà chúng ta còn bị nô lệ, còn bị sự sai khiến.

2.4.3 Xả tâm danh

Bây giờ đến vai trò để mà chúng ta biết xả vô lượng tâm danh chớ không phải có một cái danh, cái danh nó rất nhiều. Hồi nãy là mình xả cái tiền của bây giờ tới cái danh. Sắc rồi tiền của rồi danh, đó là 5 cái thứ dục lạc, bây giờ mình tới được phần thứ 3 là mình xả cái danh.

Danh là gì?Là tiếng khen, tiếng ca ngợi, tiếng tán thán, tiếng tốt đẹp, vinh quang, hiển hách, chứng ngộ, chứng đạo, được trao truyền quan chức, trao truyền tâm ấn, cấp bằng này, cấp bằng nọ, đại đức, thượng tọa, hòa thượng, sư bà, sư trưởng, giám đốc, phó giám đốc, viện trưởng, viện chủ, trưởng ban, phó ban, giáo chủ, pháp chủ, thiền đức, cao tăng, giới đức, thánh hiền, thần, thánh, tiên, Phật... đều là những danh từ chỉ cho danh.

Đó thì các thầy thấy rõ cái danh, nó làm cho chúng ta mê thích lắm. Ai mà không muốn làm trụ trì? Ai không muốn làm viện trưởng? Ai không muốn làm viện chủ? Người nào mà gán cho mình giáo chủ, viện chủ, rồi thiền chủ, pháp chủ rồi cao tăng, rồi giới đức… thích lắm. Coi như là bậc vĩ đại rồi, hơn thiên hạ rồi, ngồi trên thiên hạ rồi. Đó là cái danh mà. Cho nên thần, thánh, tiên người ta cũng ca ngợi vì vậy mà những cái danh đó làm cho con người thích lắm. Mà khi được cái danh như vậy thì người ta khoái vô cùng tận. Người ta thấy mình trên hết rồi. Do cái danh như vậy nên chúng sanh mê muội, bị cám dỗ, bị lôi cuốn, bị thu hút như đá nam châm. Khiến cho con người chạy theo danh quá nỗi mệt mỏi, cuồng loạn trong tâm của mình. Vì vậy có người thất vọng, tự tử, quyên sinh. Chạy theo cái danh mà không đạt được, cho nên có nhiều người thi cử rớt cái thì thôi thôi đi tìm cách tự tử cho rồi. Có phải ngu si không? Đi cầu cái danh giả hão như vậy mà để quyên sinh cái thân mạng này. Có người thì mệt mỏi thất bại danh lợi rồi vô chùa để mà tu, thiệt là điên khùng. Chạy theo danh giả đó là những sự cám dỗ của nó làm cho chúng ta quá u mờ không có thấy được cái đó.

Danh nhỏ là thầy thợ, nghĩa là mình làm người tôi tớ thì thấy nó xấu xa quá cho nên thấy là ông thầy nghe mình học, ráng học để làm ông thầy, thôi mình dở dở thôi làm ông thợ cũng ngon hơn là làm cái thằng đầy tớ. Cho nên đó là những cái danh nhỏ đó, nó cũng là cái danh. Danh lớn là ông này bà kia, danh nhỏ là thầy thợ, thầy ký, thầy thông, thầy này thầy kia nghe cũng thơm. Thầy giáo cô giáo thì nghe cũng khoái còn hơn người ta nói là con đầy tớ hay là thằng ở thì nghe nó nhục nhã quá. Phải không? Cho nên ở đây chúng ta đều là bị nhầm ở trong cái danh lôi cuốn chúng ta. Rồi từ đó cái danh nhỏ nó lần lần nó đi tới cái danh lớn. Để thành ông này bà kia rồi người cai quản cái này, người cai quản cái kia để coi như mình có chủ động điều khiển được một số người dưới bàn tay của mình. Như thí dụ như về quân đội thì có ông phó đội trưởng, rồi đội trưởng, rồi ông trung đội trưởng, ông phó đội trưởng rồi đại đội trưởng, rồi trung đội trưởng… đó thì các con thấy tất cả những cái đó là cái danh để cho thấy cái quyền hạn của người ta ở trong cái danh đó nó làm được những cái gì đó, cho nên người ta ham lắm. Từ cái ông tiểu đội phó mà lên cho được ông đại tá, mà được ông đại tá thì mặt họ nghênh nghênh ở trên trời, họ coi như ở dưới đất này không còn ai hết. Đó là cái danh, cái danh nó làm cho cái ngã họ lớn lên, điên khùng. Chớ họ cũng chỉ là một con người bằng xương bằng thịt, cũng đau cũng khổ, cũng buồn cũng khổ cũng nhức nhối như mình có khác gì đâu. Thế mà gán cho cái danh thì họ thấy họ là hơn hết. Cho nên khi mà gán cho cái danh rồi thì có nhiều người thấy họ khúm núm, khúm núm. Họ là cái gì mà phải khúm núm? Họ cũng như mình, có gì đâu mà phải sợ. Chỉ có cái danh không mà chúng ta đã quá sợ rồi.

Đó thì ở đây Thầy xác định để cho chúng ta thấy cái danh nó cám dỗ chúng ta rất mạnh như vậy, làm cho chúng ta phải sợ hãi như vậy. Từ những cái danh này mà người ta điên khùng, vào luồn ra cúi, nịnh bợ, ton hót để cầu cho được cái danh. Có nhiều người đi thi phải đem tiền bạc, lo lót tiền bạc để cho đậu. Đó không phải đem tiền để mua danh sao? Đó là những cái sai, cái không đúng mà người ta lầm chấp, vì cái danh nó cuốn họ quá. Họ muốn cho họ có cái tên tuổi như thế này thế khác. Cũng như bây giờ Thầy nói như thế này: có nhiều người không ai biết đến hết, bây giờ đùng ra cái tập trung một số người đi làm từ thiện kêu gọi đóng góp nhau. Để làm gì? Đó chẳng qua cũng là cầu danh từ thiện chứ chưa chắc là họ đã thương yêu người khác thật. Những việc làm đó người ta bỏ ra bố thí, người ta phải nhận giấy tờ này giấy tờ kia đầy ắp lên để làm gì? Để mai mốt khoe ra tôi bố thí chỗ này chỗ kia. Đó không phải là danh sao? Danh từ thiện, danh tôi biết thương người. Nhưng mà thật sự ra hở ra một chút thì mắng người không nhịn. Các thầy có xét thấy không, có nhiều người làm từ thiện họ có nhịn ai không? Họ chửi người ta tát nước hết. Vậy mà họ thương người à? Hơi hơi chạm đến họ một cái là coi như họ muốn giết mình à? Mà là họ từ thiện.

Bởi vì cái đời nó giả dối, nó đủ thứ giả dối ở trong đó hết. Đi đâu cũng có tiền hô hậu ủng, đầy đường chật xá để chứng tỏ có nhiều người hầu hạ theo mình. Một ông thầy tu mà đi rần rần rộ rộ, năm mười  chục chiếc xe để làm gì? Để tỏ cái danh của mình chứ gì, để có người hầu kẻ hạ chứ gì. Đi đâu cũng tổ chức Phật tử rần rần rộ rộ. Một bậc chơn tu mà đi như vậy à? Làm ra cái vẻ như là vua chúa, chứ đâu phải là người tu. Thầy nói ra thì đụng chạm hết cả đám nhưng phải nói, tu phải ra tu mà không tu thì không tu. Chứ đừng làm cái trò trống bệ vệ trong cái danh của mình, để khoe khoang cái giàu sang, cái tài ba của mình. Với cái sự tài ba của con người có nhằm nhò gì mà khoe khoang. Khoe tài sản của cải là khoe danh giàu sang.

Tóm lại, danh là một thứ dục lạc cám dỗ và nuôi lớn bản ngã con người.Tóm lại thì các thầy thấy bản ngã con người nó lớn theo cái danh của nó chớ không phải nó nhỏ đâu. Cho nên từ cái mặt mới làm một người đầy tớ hôm qua mà bữa nay lên làm quan rồi cái mặt cái thằng đầy tớ nó ngước lên. Cho nên Thầy nghe nói câu chuyện như thế này: Có một thằng đánh xe ngựa cho Yến Anh, Yến Anh làm thừa tướng cho vua Tề, ông ta chỉ là thằng đánh ngựa thôi mà ổng đi ra đường ổng đánh ngựa mà ổng hét la người ta tùm lum hết, ổng coi như ổng là Yến Anh vậy. Các thầy nghĩ như thế nào? Mượn cái oai danh của Yến Anh mà làm oai với thiên hạ, coi như mình là thằng ngon rồi. Đó là mượn, mà chưa phải là cái danh thật của mình mà còn làm như vậy. Bà vợ về nẹt ổng, sau đó ổng mới rút đầu ổng lại, thiệt ra thì cũng có bà vợ có trí chớ nếu mà không vợ chồng vênh váo nhau đó tưởng là thằng đánh xe là quan thừa tướng Yến Anh.

Đó thì hôm nay Thầy nhắc lại những câu chuyện người xưa, nó có điều đó là vì cái danh đó chứ đâu phải cái gì khác. Cho nên người tu hành mà biết xả tâm vô lượng danh này thì phải dùng pháp hướng Như lý tác ý. Đó thì các con phải nhắc nó để cho nó biết cái danh nó là thứ gì, để không khéo một chút là cái ngã của chúng ta bừng lên theo cái danh đó. Chúng ta phải đánh sập nó xuống, đánh nhẹp nó xuống, không có để cho nó ngóc đầu lên. Nó ham danh lắm, mỗi mỗi chút chút là nó ham danh. Bởi vậy cái ham danh đó mới có những anh hùng cá nhân, cho nên người ta không có làm việc lớn cho xã hội được. Từ lâu đến giờ vì anh hùng cá nhân đó mà tới bây giờ bao nhiêu thế kỷ con người vẫn chém giết nhau. Trên thế giới này, nước này yên thì nước kia chém giết, nước kia chiến tranh. Không bao giờ mà có một cái yên nào. Bởi vì anh hùng cá nhân này, nếu mà anh hùng tập thể thì không bao giờ có sự giết chóc này.

Đạo Phật thì không có anh hùng, cho nên ông Phật ổng đâu có nói rằng ổng là cái người ngon đâu. Trước ông có 7 đức Phật, sau ông còn có đức Phật Di Lặc. Cho nên một đạo Phật mà có nhiều giáo chủ như vậy tức là sự khiêm nhượng của con người, như vậy mới chính là đạo Phật.

Muốn xả tâm vô lượng danh ta phải dùng pháp hướng Như lý tác ý mà nhắc tâm:

Danh là một dục lạc ảo giác, nuôi lớn ngã mạn, khiến tâm ta thường đau khổ, hay tranh cãi, lý luận, giận hờn phiền não. Ta hãy xả bỏ, từ bỏ, viễn ly, chẳng mong cầu danh gì cả, chỉ biết tu hành thanh tịnh tâm để ra khỏi sanh tử mà thôi.

Đó chúng ta chỉ biết giải thoát mà thôi, không cầu ai gọi mình là Phật, là viện chủ, viện trưởng gì hết. Không có cần biết ai gọi mình là chơn tu hay không chơn tu nữa. Chỉ biết mình làm sao mình làm chủ được sanh tử, chấm dứt được luân hồi mình mà thôi. Đó là cái câu ám thị mình như vậy đó. Cái câu hướng tâm tác ý như lý như vậy để chúng ta xả cho sạch cái danh. Chớ cái danh nó ngầm lắm, nó ngầm ở trong tâm chúng ta, nó nuôi cái ngã chúng ta dữ lắm. Chúng ta chưa bộc lộ ra chứ khi chúng ta ngồi trên được một cái ghế danh rồi thì đủ biết nó như thế nào. Cho nên hiện giờ Thầy chưa ngồi trên cái ghế danh, cho nên Thầy đã sớm xa lìa nó để không nó lôi Thầy xuống á, nó nhận Thầy xuống cống. Rồi những lời Thầy đang nói ở đây thì ngược lại Thầy sẽ chửi Thầy chứ không ai xa lạ hết. Bởi vì Thầy không thực hiện đúng những lời Thầy nói ra cho quý thầy nghe thì ngày nào đó Thầy cũng là Viện trưởng thì người ta sẽ nhận Thầy xuống ở trong cái lỗ cống liền.

Câu hướng tâm thứ hai:

Danh là tên giặc hão huyền không có thật. Nó thường lôi cuốn tâm ta tỏ ra những hạnh xấu, hiu hiu, tự đắc, tự cao, tự đại, cao ngạo. Ta hãy xả xuống hết không còn một cái danh gì trong ta. Ta chỉ là một con người như bao con người khác.

Đó thì như vậy quý thầy lấy những câu ám thị của Thầy tự nhắc nhở mình, mình như mọi người khác, bình đẳng như mọi người khác, như những người nhỏ nhất, hạ tiện nhất, giai cấp nhỏ nhất ở trong thế gian này, mình cũng chỉ là những con người đó. Nhắc như vậy mà không biết chúng ta có thấm nhuần hay không, hàng ngày phải đặt niệm trước mặt mà hướng tâm, không khéo hở ra một chút thì bản ngã chúng ta đồ sộ lên, nó chạy theo cái danh đó.

Đó thì những câu hướng tâm như vậy nó thực tế và cụ thể giúp quý thầy diệt xả cái tâm danh của quý thầy mà nó đương đeo đẳng ở trong lòng của quý thầy. Người tu sĩ của đạo Phật chúng ta đã biết mặt 5 thứ dục lạc này, cái danh nó không phải là dễ, nó rất mạnh, hơn tất cả những cái khác. Ai không muốn danh của mình hơn mọi người? Ai không muốn mình hơn người? Những cái điều đó là cái danh chứ không phải cái gì khác hơn hết. Cho nên biết rõ như vậy thì hàng ngày phải siêng năng, đập cho mạnh những đối tượng danh này cho nó nhẹp, cho nó tiêu, cho nó đoạn tận, cho nó diệt trừ, nó không còn ngóc đầu lên được nữa, nó chết luôn. Thì như vậy chúng ta mới có cơ duyên, mới thành được một con người giải thoát hoàn toàn. Không còn bị cái danh nó sai chúng ta làm những điều nô lệ. Đó là cái danh.

2.4.4 Xả tâm tham ăn

Bây giờ đến phần Thầy dạy các con xả tâm vô lượng ăn. Cái ăn nó cũng vô lượng lắm bởi vì ăn món ăn này, ăn món ăn kia, ăn món ăn nọ đủ thứ hết. Nếu mà thèm một chút là chúng ta bị nó lôi cuốn đó. Bởi vì cái ăn mà, lúc ăn đường, lúc ăn bánh. Cho nên người ta làm đủ loại, lúc thì làm bánh mùi này, lúc làm bánh mùi kia, lúc thì làm nó ngọt, lúc thì làm lạt. Rồi thực phẩm ăn hàng ngày cũng vậy, cơm thì cơm chiên, cơm xào, cơm hầm, cơm nấu đủ loại. Nào là cơm nấu bằng nước dừa, cơm nấu bằng nước này nước kia để cho thay đổi những cái đó. Do đó chúng ta phải xả vô lượng cái thực phẩm ăn này. Cho nên nói là xả vô lượng tâm mà, mà xả vô lượng tâm này là xả vô lượng tâm ăn, cái tâm háo ăn này, cái tâm thích ăn ngon này, cái tâm thích đủ mọi loại này. Đó, đó là xả nó đi, nhưng mà xả không có nghĩa là để chúng ta ăn muối. Chúng ta xả nghĩa là để cho nó không lôi cuốn chúng ta, không để chúng ta đắm đuối nó. Thì như vậy chúng ta mới có điều kiện mà xả nó mới được.

Ăn là một dục lạc lớn trong ta. Nghĩa là thân ta có cái ăn nó mới sống đó. Nhưng nó lại là một cái dục lạc lớn. Ăn mà còn cầu ngon, cầu dở thì đó là dục lạc ăn đã lôi cuốn ta, nghĩa là mình thấy ngon thấy dở đó là mình đã bị dục lạc rồi. Ăn mà còn thấy bổ, thấy béo, thấy mập thì đó là bị dục lạc ăn cám dỗ chúng ta rồi. Chúng ta ăn vốn là để sống, để nuôi cái ghẻ đói chớ không phải để cho mập cho béo. Nghĩ là mình mập béo khỏe mạnh là mình không chết sao? Có người nào mập béo khỏe mạnh mà không chết? Cho nên ăn nghĩ cho nó bổ, cho nó mập, cho nó béo để mà cho nó sống trường thọ điều đó là điều hiểu lầm lạc, hiểu sai.

Phật nói cái thân này là vô thường, nó không thể nào kéo dài cái mạng sống nó quá số thời gian được. Mặc dù chúng ta ăn có đủ chất bổ nhưng nó cũng duy trì thêm một thời gian nào mà thôi.

Ăn mà thấy ớn, thấy ngán, nuốt không vô đó cũng là dục lạc ăn cám dỗ. Chớ không phải nói chúng ta thấy ngon là nó cám dỗ đâu, mà thấy ớn, ăn không vô cũng là bị cám dỗ rồi đó. Ăn mà thấy ưa thích là bị dục lạc ăn cám dỗ. Ăn mà không thích ngon, không thích dở, không ngán, không ớn, không chê là dục lạc ăn không cám dỗ. Chúng ta phải phân biệt. Chúng ta có đồ ăn ngon mà chúng ta không thích, chúng ta ăn dở mà chúng ta không ngán, chúng ta không ớn thì đó là dục lạc ăn không cám dỗ. Ăn để sống. Đó thì chúng ta phân biệt được câu này để chúng ta hiểu rằng khi chúng ta ngồi ăn mà ngon thì chúng ta thấy cũng như khi ăn món ăn dở, mà chúng ta thấy cũng không ngán, không ớn gì hết thì đó là cái ăn của chúng ta không bị dục lạc ăn cám dỗ.

Tóm lại, ăn là thứ dục lạc ghê gớm, thực phẩm tiếp xúc với vị giác của chúng ta gây sự cám dỗ lôi cuốn rất mạnh. Người thế gian phàm phu chưa học Thánh pháp và Tùy pháp nên đều bị ngã gục trong mặt trận cám dỗ ăn uống này. Nghĩa là người ở trong thế gian, mọi người nói chung là bị sự cám dỗ lôi cuốn, ngã gục trên mặt trận cám dỗ này chứ không còn người nào mà thoát ra khỏi hết. Chỉ có những bậc tu hành đúng giới luật của Phật mới thoát ra khỏi sự ăn uống. Chứ còn lơ mơ là người nào cũng bị dính hết. Cho nên các thầy thấy rất rõ lâu ngày không ăn đường không có gì hết thấy bắt đầu nó thèm rồi, thì lúc bấy giờ là lúc mình chiến thắng lại chất ngọt đó, không, thấy người ta mời một ly sữa hoặc một ly nước ngọt là thấy nó nghe run người rồi, thèm quá chảy nước miếng rồi, đó là cái ăn cám dỗ. Có nhiều người họ thích me chua, khi mà người ta nói đến me thì nước miếng họ chảy ra ròng ròng rồi. Đó là cái gì? Cái đó là cái cám dỗ của cái chất chua đó. Nó làm cho chúng ta chảy nước miếng ra, đó là nó làm cho chúng ta thích, nó cám dỗ chúng ta. Thì chúng ta biết cái ăn nó có sự lôi cuốn rất mạnh. Ngay khi nghe cái tiếng thôi chứ chưa thấy người ta nhai nữa. Chứ thấy người đó nhai miếng me mà chấp chấp đó chắc là nước miếng mình nó chảy lau hoài nó không hết nữa. Đó là nó kích thích, nó làm cho chúng ta thèm. Không đây Thầy nói sự thật mà, quý thầy đừng cười chớ. Nó là một sự thật, cho nên nó có sự cám dỗ rất mạnh, nó làm cho chúng ta khao khát, thèm muốn nó dữ lắm. Mà ngay trong cái thân của chúng ta nó là cái chất đó như vậy. Cho nên người tu sĩ đạo Phật chúng ta chiến thắng lại nó. Không thèm. Mà không thèm thì chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải hướng tâm Như lý tác ý, ám thị nó. Cho nên người ta nhai me mà nước miếng mình không chảy là mình đã thành tựu rồi đó. Còn người ta nhai me mà mình ngồi đây mình nghe người ta nhai đó mình chảy nước miếng thì chưa đâu. Pháp của mình chưa viên mãn đâu, phải tập nữa, phải tu nữa. Một ly nước ngọt, một ly sữa, một cái bánh, một cái kẹo, một trái cây rất tầm thường mà quý vị không khéo giữ gìn là quý vị phạm lỗi phi thời. Bị cám dỗ mà không biết còn lý luận che đậy tội lỗi. Thậm chí một viên thuốc vitamin C chua chua ngọt ngọt và các loại thuốc khác có hình thức như kẹo để chống ho, chống viêm cổ mà đặt nó vào miệng để ngậm còn phạm tội phi thời thay huống là theo dục lạc đã bị cám dỗ bởi vị giác của quý vị.

Đó thì Thầy nói từ viên thuốc thôi, nó ngọt ngọt chua chua, nó làm kẹo the này kia nọ mà bỏ vào miệng mà phi thời thì ngay đó quý thầy đã bị phạm phải lỗi ăn phi thời. Thầy kết luận như vậy để cho quý thầy thấy rằng cái sự tu hành chúng ta phải chiến thắng tận cùng, không có để chúng ta chạy theo cái vị giác cám dỗ chúng ta khi tiếp xúc với thực phẩm. Và thực phẩm tức là ăn. Người tu sĩ phải cảnh giác đến mức độ đó như vậy mới thấy được sự giải thoát thân tâm mình. Nó lý luận là bây giờ chúng ta khô cổ này, chúng ta phải ngậm cho nó. Cũng như Thầy nói như thế này, quý thầy làm ly nước chanh đường để cho Thầy thông cổ, đó là cái lý luận để mà lấy lý này, chứ Thầy nói suốt ngày Thầy có uống ly nước chanh nào, nhưng mà Thầy có khô cổ đâu. Lý luận đó cứ lát nhấp chút, lát nhấp chút để nuôi dưỡng vị ngọt, vị chua cho khoái khẩu chớ đâu phải là cái gì khác hơn. Tức là nuôi lớn cái dục chứ không phải gì hết. Cho nên gọi là xả tâm vô lượng thì phải thấy được những cái vi tế của nó, thấy được sự che đậy vi tế của nó chạy theo dục thế gian mà không lường trước được những tai họa sau này thì tất cả những cái dục lớn đều là nó thể hiện ra hết. Từ một viên thuốc nhỏ mà không chận đứng, không chấm dứt thì chúng ta sẽ bị tất cả những vật cám dỗ khác nó sẽ lôi cuốn chúng ta hết.

Người tu sĩ cảnh giác như vậy, đề phòng như vậy, phòng hộ 6 căn của mình như vậy mà còn tu còn khó khăn thay, huống hồ những kẻ không phòng hộ thì thử hỏi như một người tu hành mà ra chợ nhiếp thiền định thì thiền định làm sao được. Người ta sinh ra, ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Thế mà kẻ không hiểu pháp thánh hiền, không tùy pháp nên trở thành sống để ăn. Chúng ta là những người hiểu được pháp Thánh hiền thì chúng ta biết ăn là để nuôi cái bệnh đói chứ không phải ăn mà để ngon để ngọt nữa. Cho nên người phàm phu không biết pháp cho nên sống để ăn. Bây giờ chúng ta sống ăn cho đã đi, ăn cho đầy đi, ăn cho ngon đi, chạy theo dục lạc ăn cho đã đi. Nghĩa là chúng ta không còn biết cái gì hết, miễn món ăn nào ngon trên thế gian này là phải mua ăn cho được, thì những người đó là những người chạy theo dục lạc. Người tu sĩ Phật giáo phải làm chủ cái ăn, không được ăn phi thời. Ăn uống phi thời là phi phạm hạnh, là chạy theo dục lạc, chạy theo dục lạc ăn là ngạ quỷ, là coi như mình là loại ngạ quỷ, là quỷ sa tăng.

Phần đông tu sĩ Phật giáo hiện giờ từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc, từ trên xuống dưới đều bị quỷ dục lạc ăn cám dỗ và lôi cuốn xuống địa ngục tất cả. Không khắc phục được ma dục lạc ăn thì làm gì tu tập chánh thiền, chánh định được? Tu tập sai một ly hào là cách xa đạo giải thoát một ngàn dặm. Đi tìm đạo giải thoát mà trói mình trong ăn uống thì giải thoát ở chỗ nào? Người ở thế gian bị dục lạc ăn trói buộc đã đành, người tu sĩ Phật giáo đạo giải thoát mà bị trói buộc thì có phải xấu hổ vô cùng, vô tận không đối với những người khác? Ăn mà không giải thoát thì giải thoát cái gì đây? Giải thoát được cái ăn là giải thoát được sự sống chết. Nghĩa là Thầy nói ở đây là sự thật. Một người mà nhập thiền định là người ta giải thoát được cái ăn, người ta không ăn mà người ta không chết. Đó là giải thoát được cái ăn chớ cái gì. Rồi người ta lại phục hồi cơ thể người ta sống lại người ta ăn. Thì như vậy là người ta đã làm chủ được sống chết. Còn mình không giải thoát được cái ăn thì làm sao gọi là mình làm chủ sống chết? Cho nên cụ thể rõ ràng, không thể nào mà chối cãi được chỗ cái lời này. Cho nên Thầy nhắc lại: giải thoát được cái ăn là giải thoát được sự sống chết. Cụ thể thứ nhất cho chúng ta thấy. Một người tu thiền định mà ngồi 7 ngày mà không ăn uống là giải thoát được 7 ngày sống chết. Người ngồi thiền định mà nhập được một tháng không ăn uống là người đó đã làm chủ sống chết được một tháng. Mà người nhập thiền định mà không ăn uống một năm là người đó làm chủ sống chết trong một năm. Cái đó nó quá rõ ràng à, còn nữa thì cứ lên nữa. Mà tới đó thì thôi không lên nữa được, thì tức là còn quay lại sống ăn uống thì tức là làm chủ thêm nữa chưa được, phải tu tập nữa. Tu tập chừng nào mà làm chủ ngồi đây một ngàn năm một triệu năm mà không ăn không chết đó là làm chủ được sống chết. Có như vậy cụ thể, nghĩa là bây giờ chúng ta làm chủ được sống chết trong một ngày là chúng ta không ăn một ngày mà chúng ta không chết thì đó là làm chủ được sống chết, mà 2 ngày, rồi 3 ngày, 7 ngày, 1 tháng, 2 tháng, điều đó chứng minh cụ thể không thể nào mà ai chối cãi được. Còn bây giờ tôi nói thiền định gì mà ngày nào cũng ba bữa thì chắc chắn là ông ta không làm chủ sống chết được đâu.

Đó thì quý thầy hiểu rõ được con đường thiền định của đạo Phật thực tế và cụ thể chứng minh qua chỗ ăn của quý vị. Và ăn là một thứ dục lạc rất nặng ở trong thân con người. Vì có thân phải có ăn. Cho nên ăn như thế nào để đúng cách là người tu sĩ, ăn như thế nào không đúng cách là người tu sĩ. Người ta tu nhưng cái ăn người ta chưa đúng cách của người tu sĩ thì tức là chưa phải con người tu giải thoát. Tại vì người tu sĩ nhập định không ăn uống mà sống đó là giải thoát cái chết, rồi phục hồi ăn uống trở lại đó là làm chủ cái sống. Đó thì người tu sĩ mà nhập thiền định thì người ta làm chủ được cái này rõ ràng, ở đây quý thầy cũng sẽ lần lượt chứng minh điều đó. Còn làm chủ bệnh, già ưu bi sầu khổ là chỗ nào? Là chỗ lìa 3 sự dục lạc cám dỗ ở trên kia: danh, sắc và lợi. Đó thì ở đây chỉ có lìa cái ăn là chúng ta làm chủ được sự sống chết, mà lìa được cái chỗ ưu bi sầu khổ, phiền não đau khổ giận hờn thì quý vị phải lìa 3 sự dục lạc ở trên, tức là danh, sắc và lợi. Nói cho rõ ra từ chỗ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn. Từ bỏ danh thế gian nhỏ, quyền tước lớn, quyền tước nhỏ, vật chất lớn, vật chất nhỏ thế gian, chỉ sống tri túc thiểu dục một bát ba y mà thôi, đó là chỗ đức Phật dạy: “Sanh đã tận thì mới giải thoát được sanh già bệnh chết, ưu bi, là chấm dứt luân hồi tái sanh”.

Đó thì đức Phật cũng dạy chúng ta sanh đã tận, tức là chúng ta phải xả bỏ 3 thứ dục lạc kia đi, tức là danh sắc lợi đó. Chúng ta xả bỏ ba thứ đó đi, mà ba thứ đó là những sợi dây triền phược trói buộc chúng ta, cho nên chúng ta xả bỏ. Xả bỏ tức là sanh đã tận thì con đường giải thoát của chúng ta không còn luân hồi nữa. Chấm dứt rồi. Chúng ta thấy rất rõ ràng và cụ thể. Đứng ở trong góc độ của 5 thứ dục lạc này thì chúng ta đã phân được ra cái chỗ nào mà làm chủ tâm không còn tái sinh luân hồi. Mà chỗ nào làm chủ được thân sống chết, cụ thể rõ ràng. Tại sao vậy? Tại vì người tu sĩ nhập định không ăn uống mà sống đó là giải thoát cái chết rồi phục hồi ăn uống trở lại đó là làm chủ cái sống. Còn làm chủ bệnh già ưu bi sầu khổ là chỗ nào? Là phải lìa 3 sự dục lạc cám dỗ ở trên gọi là danh sắc lợi. Nói cho rõ ra, từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn, từ bỏ danh thế nhỏ, quyền tước lớn. Từ bỏ tất cả vật chất thế gian, chỉ sống tri túc thiểu dục, một bát ba y mà thôi. Đó là chỗ đức Phật dạy. Sanh đã tận thì mới giải thoát được sanh già bệnh chết ưu bi sầu khổ, là chấm dứt luân hồi sanh tử.

Tóm lại, người tu sĩ đạo Phật bằng mọi cách, bằng mọi phương pháp để đạt được sự xa lìa 5 thứ dục lạc này là quý vị đã làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi khổ đau của kiếp con người. Đó thì hôm nay quý thầy thấy rất rõ ràng và cụ thể đạo Phật nhắm vào chỗ nào mà chúng ta đạt được mục đích làm chủ kiếp sống khổ đau của con người. Thì nhắm vào ở chỗ 5 cái dục lạc này mà chúng ta biết được, chúng ta dứt được, chúng ta bỏ được, chúng ta xả được. Vì vậy mà đến cái tâm xả vô lượng này Thầy đã giảng cho quý thầy cách thức tu tập, hành pháp rất rõ ràng cụ thể để chúng ta xả toàn diện nó. Thì như vậy là quý thầy đã được cái giải thoát rõ ràng chứ đâu cần gì phải nhiều. Nhưng tất cả những pháp sau để bổ túc cho cái pháp này, để chúng ta thực thi cho bằng được là xả những cái dục lạc này, chớ có gì khác hơn.

Nếu quý vị xả vô lượng tâm dục lạc này không hết thì dù ngàn đời quý vị có tu thiền định nào cũng là ma thiền, tà thiền. Nghĩa là cái tâm dục lạc của quý vị mà sống nhan nhản như vầy quý vị có tu thiền định gì mà cao siêu đi nữa thì đó là ma thiền, tà thiền. Bởi vì quý vị thấy rất rõ ở trên thế gian này chúng ta nghe báo chí đăng vị đạo sĩ này vị đạo sĩ kia trong những năm khổ công ở trên núi sống khổ hạnh không có cơm ăn, ăn toàn lá cây hoặc là luyện tập như thế nào đó để cho đến cái mức mà người ta chôn mình trong đất mà không chết, để đến mức mà người ta dìm mình trong nước mà không chết, để cho đến lúc mình đi trên lửa mà không nóng. Để cho đến lúc mà mình mặc một chiếc áo mỏng mà đi dưới trời rét dưới 37 độ mà không lạnh. Thế mà không khỏi sự cám dỗ của cái danh, cho nên đi biểu diễn từ nước này sang nước khác, đó là cái danh chứ gì? Hình ảnh và báo chí đã đăng những vị tu sĩ này họ tu tập khổ hạnh để giải thoát chứ đâu phải mục đích để đi ra cầu cái danh. Nhưng rồi cái danh đó để cho thiên hạ biết, nghĩ rằng còn có ai mà làm được đâu. Chỉ là người đó chịu khổ hạnh làm vậy chứ bao nhiêu người đã chịu khổ hạnh?

Còn Đạo Phật thực tế đem đời sống chúng ta giải thoát hoàn toàn, chúng ta biết sống biết chết, biết cái tâm chúng ta dính mắc chỗ nào khổ đau chỗ nào chúng ta gỡ ra được hết. Do vì vậy mới thấy nó là thực tế, cụ thể. Cho nên nó không cầu danh, nó không cầu lợi nó chỉ mong làm sao cho mọi người được giải thoát chính như bản thân của nó mà thôi. Đó là cái hay của đạo Phật, cái tốt của đạo Phật, cái thương yêu của đạo Phật đối với muôn loài không vì cá nhân mình.

Nếu quý vị xả vô lượng tâm dù quý vị có lý luận như thế nào mà chúng ta thấy quý vị dính mắc 5 thứ dục lạc này thì quý vị đã đi ngược lại Phật giáo, tức là không giải thoát. Không giải thoát mọi người ai cũng thấy dễ dàng, nhận ra rõ ràng. Nghĩa là khi mà mình đi ngược lại cái giáo lý, cái giới luật của Phật thì mình sống ở trong 5 thứ dục lạc này thì mình có lý luận như thế nào, mình có giảng giải pháp như thế nào thì người ta thấy cuộc sống của mình còn dính mắc trong 5 thứ dục lạc này thì người ta biết rằng mình chưa phải là giải thoát. Dù mình có thần thông biến hóa, ngồi trên hư không, ngồi xếp bằng trên hư không, bay như chim, lặn xuống nước, độn thổ hoặc là phóng lửa, hóa mây người ta cũng vẫn thấy mình còn sống trong 5 thứ dục lạc này thì người ta vẫn thấy mình là người chưa giải thoát. Dù mình có bùa chú thần linh, dù có kêu mưa hú gió thì người ta vẫn thấy mình còn dính mắc trong 5 thứ dục lạc này thì người ta vẫn cho mình là người chưa giải thoát.

Đời sống 3 y một bát là đời sống của đức Phật, là đời sống giải thoát. Đời sống chùa to tháp lớn, ăn uống phi thời, ngủ nghỉ phi thời, vật dụng đầy đủ, không thiếu món nào là đời sống thế gian pháp. Phàm phu tục tử đời sống bị 5 thứ dục lạc trói buộc rất chặt, đời sống phi giải thoát. Đó thì chúng ta thấy đời sống của người thế gian là đời sống phi giải thoát. Mà đời sống người tu sĩ mà ăn uống phi thời, vật dụng đầy đủ là đời sống đó không phải là đời sống xuất thế gian mà là đời sống thế gian pháp. Đời sống như vậy chứng tỏ người tu sĩ chưa giải thoát, rất cụ thể và rõ ràng, ai cũng có thể nhận ra được cái đời sống này. Đời sống đó là đời sống trong danh lợi, không phải đời sống của những bậc phạm hạnh Phật giáo. Đời sống đó là đời sống phi Phật giáo, đời sống đó khiến cho Phật giáo suy đồi, ngọn đèn Phật giáo tắt mất.

Nhìn đời sống tu sĩ Phật giáo quý vị sẽ biết đạo Phật hưng thịnh hay suy tàn. Đời sống tu sĩ 3 y một bát, không chùa to tháp lớn kiên cố là Phật giáo hưng thịnh. Đời sống tu sĩ Phật giáo mà còn sống(BBT:CĐ,13A,E00:46:57) (BBT:CĐ,13B,B00:00:00)trong ngũ dục lạc thế gian là đời sống Phật giáo suy đồi. Đó là những lời xác định và quyết định chắc chắn như vậy không còn ai chối cãi được nữa. Người tu sĩ Phật giáo mà không lấy 3 Thánh pháp này: Giới - Định - Tuệ của đức Phật làm thầy của mình, làm chỗ nương tựa vững chắc mà không giữ gìn tu hành nghiêm chặt, vi phạm lỗi lầm không biết xấu hổ và sợ hãi khi phạm phải một lỗi nhỏ là chánh pháp của đạo Phật đã suy đồi. Ngược lại người tu sĩ Phật giáo sống 3 y một bát, thiểu dục tri túc, lấy 3 thánh pháp Giới Định Tuệ làm khuôn vàng thước ngọc mẫu mực cho sự hành trì nghiêm túc của mình thì đó là lúc Phật giáo hưng thịnh. Nhìn qua đời sống ngũ dục lạc của tu sĩ là ta đã biết những người tu đó là tu trong chánh pháp hay tà pháp. Nhìn qua đời sống ngũ dục lạc của các vị tu sĩ đó là ta đã biết họ lấy đạo làm đời, lấy đạo kinh doanh đời, sống theo danh lợi bằng hình thức tôn giáo.

Đến đây quý vị đã hiểu ngũ dục lạc có sức cám dỗ và lôi cuốn rất mạnh, không có một sức nào cưỡng lại được nếu không phải là pháp môn của đức Phật - Giới Định Tuệ - thì toàn cả tu sĩ trên thế gian này đều bị ma ăn, ma danh, ma sắc dục, ma lợi, ma ngủ lôi xuống địa ngục tất cả.

Có những tu sĩ khổ hạnh trong ăn uống thế mà bị ma dục lạc danh. Nghĩa là sống khổ hạnh trong ăn uống, họ không để cho ăn uống cám dỗ họ nhưng mà ma danh cám dỗ họ nên thường diễn những trò kì đặc từ hình ảnh này đến hình ảnh kia cho quần chúng xem để ca ngợi khen tặng, đó là họ sống theo danh. Họ thắng được cái dục lạc này thì họ bị cái dục lạc khác lôi cuốn. Thật là buồn cười, tu dở chết dở sống thế mà mua một cái danh hão của thiên hạ. Nếu ai đã từng theo Thầy tu hành thì biết tu không phải dễ thế mà tu được lại đem ra mua danh như vậy thì quý vị nghĩ sao? Vị tu sĩ có thoát khỏi ngũ dục lạc không, mà không thoát khỏi ngũ dục lạc thì có giải thoát không? Nhập định toàn cả cơ thể không còn hoạt động gần giống như cái thây ma người chết, mời các nhà khoa học đến đem máy đo điện tâm đồ họ sẽ kinh ngạc đến bậc nào. Từ đó báo chí đăng khắp thế giới như vậy không phải là người đại ngũ dục lạc thế gian sao, như vậy có phải là giải thoát hay không? Người tu hành giải thoát là phải xa lìa năm thứ dục lạc, sống đời sống thiểu dục tri túc, không nhà không cửa, sống vô gia đình, không có của cải tài sản nhỏ, tài sản lớn. Nhìn đời sống như vậy chúng ta đã biết đó là những bậc chơn tu, giới đức, thiền đức, những bậc đã giải thoát ra khỏi vòng thế tục. Còn biểu diễn những trò kỳ đặc là mua danh, mua lợi có gì là giải thoát đâu. Làm trò giải trí cho thiên hạ chơi, thiên hạ xem.

Đến phần thực hành này ta phải “tâm chuyên nhất cảnh”. Đây cái phần xả cái ăn này nó còn quan trọng lắm chớ không phải là không quan trọng đâu. Cho nên ở đây Thầy nói đến cái phần thực hành này ta phải “tâm chuyên nhất cảnh”, nghĩa là chuyên nhất ở trong một cái pháp, tâm phải chuyên nhất ở trong đó, nếu quý vị sao nhãng một chút là quý vị chưa ly được nó đâu. Đó thì “tâm chuyên nhất cảnh” như thế nào? Lựa một chỗ an trú thanh vắng, ở đây Thầy nhắc lại, một khu rừng, một gốc cây, một ngọn núi, một hang hốc, một bãi tha ma, một sơn lâm giữa trời không mông quạnh, một đống rơm, một chòi lá giữa sông, sau khi ăn cơm xong nghỉ ngơi độ 2 giờ, ta ngồi kiết già lưng thẳng dùng pháp hướng Như lý tác ý. Đó bây giờ chúng ta mới dùng nó cái danh, cái lợi hay là cái ăn uống chúng ta đặt theo cái chỗ này mà Thầy cho pháp hướng. Đây là Thầy đặt cho cái tên nó là danh đi:

Danh là một thứ dục lạc vô hình thu hút và cám dỗ con người rất mạnh, nuôi lớn ngã mạn, cống cao, do đó sinh ra ngũ triền cái tham – sân – si - mạn - nghi. Triền cái này trói buộc chúng ta muôn đời muôn kiếp sống đau khổ. Vậy ta hãy lánh xa từ bỏ, từ khước, viễn ly tất cả các loại danh.(BBT:CĐ,13B,E00:05:38)

BĂNG SỐ 13

Danh là một thứ dục lạc vô hình thu hút và cám dỗ con người rất mạnh, do đó sinh ra ngũ triền cái tham - sân - si - mạn - nghi. Triền cái này trói buộc chúng ta muôn đời muôn kiếp sống đau khổ. Vậy ta hãy lánh xa từ bỏ, từ khước, viễn ly tất cả các loại danh.

(BBT:CĐ,13B,B00:05:39)Đó là câu hướng tâm, câu trạch pháp này để chúng ta như cái lý này mà tác ý ra mãi mãi làm cho chúng ta xa lìa những cái danh, những cái lợi, những cái ăn.

Câu thứ 2:

Danh dục lạc có một ma lực vô hình lôi cuốn và cám dỗ con người vào chỗ sanh tử luân hồi, ta phải từ giã, từ khước, từ bỏ, lánh xa, viễn ly danh dù bất cứ mọi trường hợp nào.

Nghĩa là bất cứ trường hợp nào nhỏ, lớn chúng ta đều phải nhận diện ra nó để chúng ta xa lánh nó. Chớ nó nhiều khi nó qua trường hợp khác, nó làm cho chúng ta không thấy đó là cái danh nhưng mà chúng ta bị nó gạt, hở ra một chút là chúng ta bị gạt. Cho nên đức Phật dạy chúng ta khi có danh, có lợi, có sự cung kính hãy lánh mặt. Lời ông Phật dạy Thầy khắc ghi trong lòng Thầy, nhớ mãi muôn đời không bao giờ Thầy quên, Thầy biết đó là cái ma danh, nó rất mạnh.

Câu thứ 3:

Người tu sĩ lãnh đạo tăng đoàn mà đón danh lợi vào chùa là đón rắn độc. Rắn sẽ cắn chúng tăng chết hết. Vậy người lãnh đạo tăng đoàn phải xa lánh, từ bỏ, từ khước danh lợi để cứu lấy chúng tăng, để cứu lấy Phật giáo.

Đó là cái câu mà nhắc nhở cho những người lãnh đạo, những người tu như Thầy bây giờ. Đó là cái câu mà Thầy ám thị, ám thị cho Thầy đó. Cho nên câu này đã nhắc đi nhắc lại Thầy rất nhiều. Không khéo thì dẫn danh dẫn lợi vô đây cắn quý thầy chết hết, không có người nào sống đâu. Đó là những cái điều mà Thầy đã thấy xa chứ không phải thấy gần đâu. Không phải đợi mà nó cắn chết hết cả đám nhau rồi đó, ngồi đây mà bật ngửa ra đó. Thấy xa như vậy cho nên quý thầy không bị rắn cắn đâu.

Đây là xả tâm vô lượng danh, dục lạc thế gian. Quý thầy phải hằng ngày phải một lần hai lần, ba lần, bốn lần tu tập như lý tác ý trau dồi tâm mình. Phải xả cho sạch danh lớn, danh nhỏ. Vì danh là vô hình, vi tế rất khó xả. Nên quý thầy phải đề cao cảnh giác, siêng năng tu tập thì mới xả vô lượng tâm này được. Nó không phải dễ đâu, cho nên quý thầy phải cảnh giác, siêng năng, phải thường hằng. Nó móng một xíu quý thầy hổng thấy nó đâu. Chừng đó nó lộ tướng lộ hình thấy được thì ôi thôi nó đã cắn mình rồi.

Khi xả tâm vô lượng danh dục lạc này được thì thân tâm quý vị thênh thang, nhẹ nhàng, an lạc với đời sống ba y một bát giải thoát, hoàn toàn Niết bàn tại thế. Nghĩa là xả cái tâm danh rồi quý thầy mới thấy được nó. Còn tâm danh lợi này, quý vị dù ở núi cao khổ hạnh tối đa thì tâm hồn của quý vị nặng như treo đá. Bây giờ có trốn đi đâu, quý vị có ở đâu. Thôi Thầy nói đây như thầy Chơn Trí đây thì về ở trong núi cao trắc trở đó mà cái tâm của thầy không xả được nó thì thầy ở trong đó nó cũng như treo đá chứ không có gì đâu.

Quý thầy nên lưu ý năm thứ dục lạc lớn dễ xả. Năm thứ dục lạc nhỏ tuy rằng vật chất tầm thường, một cuốn kinh sách, một bài thơ, một bài kệ, một bài văn, một kiến thức Phật pháp, một kiến chấp, một chai dầu nhỏ, một cục xà bông, một cây kem, một bàn chải, một cây kim, một sợi chỉ đều là ngũ dục lạc nhỏ, khó xả lắm quý vị. Hãy đề cao cảnh giác, hết sức thận trọng. Xem thì rất thường mà xả thì rất khó. Đó, những cái lối mà hồi nãy ở trên thì thấy nó rõ ràng. Nhưng coi chừng những vật dụng xung quanh quý vị, coi chừng nó nhỏ nó không ra gì chứ nó trói buộc quý vị lắm đó. Đó, Thầy giảng như vậy thì quý thầy phải để ý từng chút từng chút nếu là một người tu sĩ phải xả cho thật sạch. Một vật nhỏ còn thì một vật lớn nó sẽ dính. Nó không tha quý vị đâu. Bởi vì nó là một cái sức cám dỗ của ngũ dục lạc. Năm cái thứ dục lạc rất mạnh, một vật nhỏ mà còn dính quý thầy là quý thầy bị tiêu nó đó. Chứ đừng nghĩ rằng tôi giải thoát đâu. Thấy mình chùa không to, tháp không lớn, ở chòi tranh vách lá, ở rừng ở núi ở hang nhưng mà còn hai cây kim là quý vị đã bị dính, còn một cuộn chỉ to là quý vị đã bị tiêu, còn hai cái y là quý vị đã bị tiêu. Chứ không phải tưởng là cái chuyện nhỏ đó nó tầm thường. Nhưng nó còn nuôi cái mầm của nó là chạy theo cái dục lạc đó.

Vì thế hôm nay Thầy ẩn bóng để xả vô lượng tâm này cho thật sạch như một người đã chết bỏ xuống hết. Bây giờ sanh đã tận, phạm hạnh mới xong, những việc làm Thầy đã làm hết, không còn trở lui đời sống này nữa. Đó thì bây giờ quý thầy mới hiểu được cái chỗ ẩn bóng của Thầy chứ gì. Đó là mục đích của Thầy xả sạch, đó là xả tâm vô lượng sạch đó. Xả vô lượng cho sạch mà, mà bây giờ mình còn như thế này là mình chưa xả, phải không? Các thầy thấy rõ Thầy bây giờ là chưa xả: chưa xả đồ chúng, chưa xả cái chùa mình nè, chưa có ba y một bát mà, thì như vậy chưa xả sạch. Nó còn vi tế, coi chừng cái vi tế này nó sẽ trở thành cái lớn của nó đó. Cho nên ở đây thấy rất rõ. Qua những cái bức thơ của thầy Thiện Thiền, thầy chưa nhận ra được cái ý chỉ của Thầy cho nên thầy nghĩ rằng phải lợi ích chúng sanh, phải làm Bồ Tát hạnh. Nhưng Bồ tát hạnh coi chừng xả vô lượng tâm chưa sạch.

Để kết luận buổi giảng hôm nay, thì chúng ta đã học tới đây thì nó cũng gần tới giờ ăn cơm, chúng ta phải xả nghỉ.

2.4.5 Xả tâm ngủ

Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học, bây giờ chúng ta xả cái ngủ. Hồi nãy là mình xả năm cái thứ kia rồi, bây giờ mình xả tới cái ngủ là cái cuối cùng. Năm thứ dục lạc thì cái ngủ là cái cuối cùng. Bây giờ tới phần xả dục lạc ngủ.

Ngủ là một thứ dục lạc trong năm thứ dục lạc khiến cho con người thích thú ham mê ngủ. Ngủ là một trạng thái ngu si mê muội, ngủ là một trạng thái bần thần dã dợt, lười biếng. Cho nên những người lười biếng là những người ham ngủ.

Ngủ có nhiều cấp độ. Ở đây quý thầy thấy trong cái trang thái ngủ nó làm cho con người si mê lắm. Do đó mà đức Phật gọi là thùy miên hay vô ký. Đó là cái danh từ để chỉ cho cái người mà lười biếng, hay ngủ, cái người mà ngu si, cái người không có thông minh. Cho nên gọi là hôn trầm thùy miên. Thì cái ngủ chúng ta cũng phải biết nó cũng có nhiều cấp độ, không phải nó có một cái hôn trầm thùy miên không thì nó chưa đủ. Vì vậy ở đây Thầy muốn chỉ cho chúng ta thấy năm cái trạng thái mà nó đi vào ở trong cái gọi là ngu si.

Thì đó là:

- Thứ nhất: là nó hôn trầm,

- Thứ hai là thùy miên,

- Thứ ba là hôn tịch,

- Thứ tư là vô ký,

- Thứ năm là ngoan không.

Năm cái trạng thái này mà cái người mà tu thiền thì thường gặp lấy những trạng thái này. Cho nên cái người mà ngồi lâu luôn luôn lúc nào cũng bị rơi vào trong năm cái trạng thái này.

Và cái hôn trầm thì như thế nào?Hôn trầm là một cái người ngồi một lúc thì lại vô ký đi, quên mất đi rồi gục xuống một cái rồi mới ngước cái đầu lên. Thì cái trạng thái mà gục xuống như vậy đó gọi là hôn trầm.

Còn thùy miên là như thế nào?Thùy miên là cái người đó ngồi cúi cái đầu xuống hoặc quẹo cái cổ qua một bên, rồi bị quên mất đi, ngủ say ở trong giấc ngủ đi. Thì cái đó là thùy miên. Nghĩa là thùy là ngủ, miên là nó tiếp tục miên man, miên mật ở trong đó, ở trong cái giấc quên nó đi, ở trong cái không biết đó thì gọi là thùy miên.

Thứ ba là hôn tịch.Hôn tịch là một lúc thì mê, một lúc thì tỉnh tỉnh, mơ mơ màng màng đó. Những cái người mà ngủ mà không say mà cũng không gục đó, mà lúc thì tỉnh lúc thì mê. Cũng như quý thầy tu về hơi thở. Lúc thì biết hơi thở, lúc thì không biết hơi thở. Đó gọi là cái trạng thái hôn tịch. Nó cũng thuộc cái loại ngủ đó. Nhưng mà ngủ, vừa ngủ vừa mê vừa tỉnh thì cái đó gọi là hôn tịch.

Còn thứ tư thì thuộc loại vô ký.Vô ký là nó chợt nó quên đi. Thứ nhất là nó quên cái tâm cho nên lúc bây giờ vừa chợt quên thì nó mất cái tỉnh. Nó mất cái tỉnh thì cái niệm vọng tưởng nó xen vô liền. Cái đó gọi là vô ký. Nó quên rồi nó mới có cái niệm khác xen vô. Hoặc là nó quên, nếu mà cái thân nó quên đi thì nó có tiếng động hoặc cái gì đó nó giựt mình, hoặc là nó vừa quên vừa giựt mình. Thì đó, cái thân nó cũng vô ký đó. Đó là những cái nó vô ký, nó kéo dài thì cái vô ký nó trở thành một cái trạng thái gọi là ngoan không. Nó mới chợt mà vừa quên vừa quên đó thì đó là nó vô ký. Mà nó kéo dài một cái thời gian dài ra từ nửa tiếng hai ba tiếng mà không ngơ, nó không giống như ngủ, không giống như thùy miên mà nó không ngơ ở trong đó thì đó gọi là ngoan không.

Cho nên năm cái loại mà ngủ này thì nó gọi là cái ngu si. Cái người mà rơi vào trong cái trạng thái đó không còn có thông minh nữa, mà càng ngày nó đi tới cái ngu si. Nghĩa là cái người ngồi thiền nhập định vào cái ngoan không này thì lâu ngày họ phát ra cái trí tuệ của tưởng. Họ tưởng giải. Họ tưởng là đúng nhưng sự thật ra họ nêu những cái kiến giải, tưởng giải đó ra làm cho lầm lạc tất cả những lối đi, làm cho phá những cái giới luật, làm cho những khuôn phép của Phật mất đi để cho họ được tự tại ở trong cuộc sống, chạy theo cái ngũ dục lạc. Cho nên cái người rơi vào ngoan không này thường hay phát triển cái pháp tưởng. Vì thế mà người sau này dễ bị lầm lạc. Tưởng là cái pháp đó là đúng cho nên từ đó mà làm lệch đi con đường tu theo đạo Phật. Làm tất cả những người sau này mất lối không còn biết đường đi nữa. Đó là những cái mà người tu thiền sai rơi vào những cái ngoan không tạo thành những cái pháp tưởng. Vì vậy mà đời mất lối đi, mất cái đường tu giải thoát. Cho nên từ cái chỗ ngu si này nó đưa đi đến cái chỗ ngu si khác mà tưởng rằng mình đã có trí tuệ. Đó là cái sai rất lớn trong sự tu tập theo đạo giải thoát. Tất cả những loại ngủ này gọi chung là si thiền hay mê định.

Đó thì nói chung những cái loại này nó bắt đầu mà người mới vô tu mà không biết. Cho nên đức Phật dạy chúng ta vào bắt đầu tu thì tu cái Chánh niệm tỉnh thức làm cho cái sức tỉnh của chúng ta. Cho nên đi kinh hành nhiều để hành động trên cái hành động, trên thân quán nội thân trên cái hành tướng của nó để mà tu tập, để làm cho cái sức tỉnh. Vì vậy mà nó không rơi vào hôn trầm thùy miên, hôn tịch, vô ký, ngoan không. Còn nếu chúng ta không tu tập cái này mà vội vào khép chân ngồi kiết già, rồi đặt một cái hơi thở, hoặc một cái đề mục nào đó rồi chúng ta ngồi, mà ngồi quá lâu thì cái cơ thể nó bị mệt mỏi do đó nó thiếp dần đi ở trong những cái trạng thái ngủ, cái trạng thái si mê này nó tạo ra những cái cảnh giới, nó tạo ra những cái trí tuệ không đúng cách, làm cho lệch lạc cái sự tư duy, mất cái trí tuệ. Bởi vì nó ngu si, đó là si định nên nó làm cho chúng ta ngu si mà cứ ngỡ tưởng mình là trí tuệ. Từ đó mình dẫn mình đi trên con đường tu hành lạc nẻo mà không hay biết. Cho nên tất cả ngủ này đều gọi chung là si thiền, mê định. Kẻ tu tà thiền, định tưởng thường rơi vào trạng thái này. Nghĩa là cái người tu thiền thuộc tà thiền, định tưởng thì họ thường rơi vào trạng thái 5 cái loại ngủ này không có thể nào mà sai. Nghĩa là luôn luôn quý thầy cứ nghiệm qua cái sự tu tập của quý thầy từ lâu đến giờ mà quý thầy không được hướng dẫn tu ở trong Chánh niệm tỉnh thức rất kỹ lưỡng. bây giờ quý thầy ngồi lâu thì cũng rơi vào trong năm cái loại ngủ ngu si này, trong năm cái thứ mê muội này, chứ không có thoát khỏi cái nanh vuốt của năm loại ngu si này.

Có dịp nói về thiền Thầy sẽ giảng tất cả những cái loại si thiền này để cho quý thầy rõ hơn. Bây giờ Thầy dạy cách xả tâm vô lượng ngủ. Bởi vậy cho nên năm cái loại ngủ này nó biến ra vô lượng cái ngu si tức là vô lượng cái ngủ của chúng ta, si mê của chúng ta. Bây giờ Thầy sẽ dạy quý thầy áp dụng cách nào để mà hành pháp, để cho nó đạt được xả cái vô lượng tâm ngủ này chúng ta được tỉnh táo, được sáng suốt, được thông minh để lấy cái trí tuệ chúng ta dẫn lối cho chúng ta đi đến con đường giải thoát chân chánh.

Khi một người tu hành đã bị năm thứ si thiền này thì phải vận dụng hết sức để phá nó. Gặp nó rồi thì phải hết sức tận dụng phá nó chứ không có được theo nó. Mà hễ nghe mỏi mệt là lo đi ngủ thì không được. Hoặc là ngồi thiền mà nghe an lạc rồi thiếp dần ở trong đó, rơi vô cái trạng thái ngoan không cũng không phải là tốt lắm đâu. Phải phá nó đi cho được, phải tìm mọi cách không có được cho nó nhập vào tâm, vào thân của chúng ta.

Vì thế người cư sĩ mới trau dồi tâm mình thì ngay đây cũng phải trau dồi tâm xả vô lượng ngủ. Vì cái ngủ cũng có vô lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau. Bây giờ Thầy kể ra một số trạng thái ngủ để cho quý thầy biết. Chứ nếu mà quý thầy cứ nói năm cái loại này rồi không biết nó xảy ra như thế nào để mà chúng ta thấy được năm cái trạng thái ngủ. Bởi vì ở đây Thầy nói nó có vô lượng cái ngủ chứ không có phải có một cái ngủ. Vì cái ngủ cũng có vô lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau.

- Như đi xe tàu bị sóng như say say ngủ.Đó, quý thầy có đi tàu đi xe rồi quý thầy biết, nó gật gà gật gù, nó làm chúng ta mệt nhọc cơ thể chúng ta hoặc là bị say sóng say gió. Do đó nó làm chúng ta ngây ngây như ngủ mà không ngủ. Đó là cái những cái trạng thái nó làm cho chúng ta mê mà không tỉnh đó.

- Bị cảm gió, thân lừ đừ nóng lạnh.Đó, khi mà chúng ta bị cảm gió hoặc bị mưa thì thân của chúng ta nóng lạnh nó cũng làm chúng ta buồn ngủ. Tất cả những bệnh khác đều có trạng thái không tỉnh táo. Nghĩa là mọi cái bệnh tật nhiều khi nó làm cho cơ thể chúng ta uể oải khó chịu, do đó chúng ta lừ đừ. Đó là những cái trạng thái ngủ, cơ thể lờ đờ.

- Tu sai cũng buồn ngủ.Nghĩa là chúng ta tu sai nó cũng buồn ngủ nữa, nghĩa là không đúng nó cũng buồn ngủ nữa. Cũng như trong cái pháp sổ tức mà nó sổ tức đến một mức nào đó mà quý vị sổ tức quá mức của nó thì nó cũng sanh ra buồn ngủ cho quý vị nữa. Chứ không phải quý vị sổ tức là nó tỉnh đâu. Nó quá cái sức. Ví dụ bây giờ cái sức của chúng ta sổ tức đến một ngàn hơi thở đi mà chúng ta tăng lên chừng một ngàn rưỡi, hai ngàn hơi thở thì lúc bây giờ chúng ta sẽ bị buồn ngủ. Rồi chúng ta không biết tìm ở đâu mà cái buồn ngủ này ra, nhưng mà do vì chúng ta đếm quá sức nên cái sực tập trung ở trong cái số đếm mà từ một ngàn hai ngàn hơi thở như vậy thì nó làm cho quý vị bị buồn ngủ. Rồi từ cái buồn ngủ đó quý vị không còn nhớ đến nữa.

- Trụ tâm không đúng chỗ là buồn ngủ.Nếu mà trụ tâm không đúng chỗ nó sẽ sanh ra buồn ngủ. Nó phải đúng cái chỗ nó thì nó mới tỉnh, còn không đúng chỗ nó thì nó sẽ sanh ra buồn ngủ.

- Làm quá sức cũng buồn ngủ.

- Sống cô đơn một mình cũng buồn ngủ.

- Lười biếng cũng buồn ngủ.

- Rượu chè, bài bạc, trác táng cũng buồn ngủ.

- Trai gái dục lạc quá độ cũng làm buồn ngủ, v.v..

Đó là những cái có thể đưa đến chúng ta vô lượng cái buồn ngủ, cái ngủ.

Vậy muốn xả tâm vô lượng ngủ này phải làm sao? Thì bây giờ chúng ta phải hiểu được những cái trạng thái đó để mà chúng ta biết nó là cái trạng thái ngủ nó ở trạng thái nào để mà chúng ta đối trị nó cho nó hết. Cũng như bây giờ mình bị bệnh mà ngủ thì mình phải tìm thuốc thang mình uống cho hết bệnh. Đằng này mình lại bắt nó đi kinh hành, mà đi hết nổi nữa. Đi riết một hơi chắc là vô nằm đó ngủ luôn chớ không bao giờ tỉnh lại được nữa. Đó là cái sai, trị nó phải trị cho đúng cách, không có thể trị cái ngủ bằng cái phương pháp nào cả. Mà phải tùy theo cái trường hợp ngủ đó mà trị thì nó mới hết. Phải tùy theo những trạng thái cơ thể bệnh tật hoặc thuốc thang, hoặc nghỉ ngơi dài hạn, hoặc dứt bỏ những trò chơi trác táng, hoặc dứt bỏ không được làm quá sức lực cơ thể cũng như tinh thần.

Thì quý thầy thấy ở đây Thầy dạy rất là rõ ràng cụ thể. Phải xét buồn ngủ cái mệt nhọc nó ở trong cơ thể chúng ta ở chỗ nào để rồi từng đó tùy cái đó mà chúng ta trị bệnh buồn ngủ này. Thì nó sẽ tỉnh táo và thông minh sáng suốt. Chứ còn nếu mà cứ làm quá sức hoài vừa tinh thần vừa cơ thể của mình thì cái người đó lừ đừ buồn ngủ thì nói sao mà họ không thông minh. Họ thông minh nhưng họ làm quá sức thì làm sao mà họ còn thông minh nữa. Đầu óc tối ngày cứ suy tư hoài làm sao mà thông minh, ít ra họ cũng phải nghỉ ngơi. Như vậy, muốn cho chúng ta có thông minh thì đừng có làm quá sức. Đó là những cái để đối trị lại, để làm cho chúng ta càng ngày càng có trí tuệ, có ý thức rất là thông minh, chính xác trong công việc làm.

Ở đây người muốn xả tâm vô lượng ngủ này phải hết sức thận trọng trong việc trau dồi tâm này. Nghĩa là phải hết sức thận trọng, phải rõ ràng từng cái buồn ngủ để mà trau dồi cái tâm của chúng ta, chứ không phải là muốn trau dồi nó, đặt nó ở chỗ nào, sai nó thì không thể được.

1. Phải biết buồn ngủ trong thân mình là loại nào. Đó thứ nhất mình phải xét nó ở trong thân mình nó thuộc loại nào.

2. Tùy theo bệnh trạng buồn ngủ mà dùng thuốc thang trị bệnh.

3. Cương quyết, mạnh mẽ dứt bỏ những trò chơi không lành mạnh. Nghĩa là như uống rượu, chè hoặc là bài bạc thức thâu đêm, ca hát thâu đêm. Cái đó là phải kiên quyết dứt bỏ, để không khéo một đêm mà chơi vui vậy sáng ra ngủ gà ngủ gật suốt ngày mà không có thấy tỉnh thì tức là người đó rất là mê si.

4. Phải rèn luyện nghị lực, chiến thắng những trạng thái lười biếng. Nghĩa là luôn luôn lúc nào mình cũng phải tìm cách mà rèn luyện cái nghị lực của mình chiến thắng lại những trạng thái lười biếng vì trong trạng thái lười biếng nó cũng sanh ra buồn ngủ.

5. Lấy nước súc miệng, rửa mặt, hoặc tắm cho lạnh. Khi mà mình biết trạng thái lười biếng của mình thì làm cho nó lạnh, làm cho nó sợ thì nó mới hết. Cái thứ lười biếng thì lấy roi mà quất cho đau thì nó mới hết, cái thứ lười biếng lấy cây mà đập cho nó khổ thì nó mới hết, lấy muối mà xát ở trong những vết thương, lấy dao mà rạch, rồi lấy muối xát vô thì do đó nó hết buồn ngủ à. Đó là những trạng thái lười biếng mà làm như vậy thì nó sẽ hết.

6. Ngồi chỗ nguy hiểm cho tâm sợ hãi. Nghĩa là mình ngồi trên ngã ba nhánh cây hoặc ngồi trên tảng đá cheo leo làm cho nó tỉnh táo, nó không dám, nó sợ chết nên luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác. Đó là những điều kiện như mình ở trên núi mà thấy buồn ngủ thì trèo lên cục đá nào cheo leo mình ngồi trên đó. Nếu mày ngủ thì cho mày rớt gãy cổ cho chết cho rồi. Vì vậy nó sẽ tỉnh táo nó không dám ngủ. Bởi vì phải tìm mọi cách để phá nó chớ nếu không thì chúng ta sẽ tìm cách chui trong thất hoặc là chui trong giường mà ngủ à.

7. Đọc kinh sách. Nếu mà mình thấy buồn ngủ thì mình lấy kinh sách mình đọc rồi mình suy tìm nghĩa lý trong đó thì một hơi nó tỉnh táo.

8. Ngồi quán xét, tìm xem cái ngủ ở đâu. Đây là Thầy nêu ra tất cả để cho quý thầy thấy biết được cách mà phá ngủ. Quán xét xem cái ngủ từ đâu mà nó đến, từ đâu mà nó làm cho tay chân bần thần lười biếng như thế này. Đó là các thầy dùng cái sức quán xét, đặt cái niệm trước mặt rồi ngồi đó mà quán xét cái ngủ, một lúc thì cái ngủ nó mất.

9. Xem sao trên trời, tìm lý do diễn biến của vũ trụ. Đó cái người mà thích thiên văn, cái tâm mà thích thiên văn thì lúc bấy giờ buồn ngủ thì mới đi ra nhìn trời, nhìn sao, tìm hiểu sự diễn biến thấy sao này xẹt qua, sao kia lặn mất điều đó làm cho người này thích thú nó quên ngủ.

10. Đem một số truyện hình ra xem. Cái người thích xem hình ảnh đánh nhau hoặc thế này thế khác thì chúng ta đem một số truyện hình ra chúng ta xem một hơi thì chúng ta hết buồn ngủ.

11. Đi kinh hành tu tập tỉnh thức. Cái thứ 11 này là cái điều kiện của người tu sĩ chúng ta đó. Chúng ta phải tập tỉnh thức, phải đi kinh hành, phải đi cho nhiều, đừng có lười biếng thì nó sẽ tỉnh thức được. Mà biết cách áp dụng pháp hướng để nhắc tâm chúng ta thì chúng ta sẽ tỉnh thức mà phá đi cái buồn ngủ.

12. Tu vô lậu, quán xét thân tâm, tìm vô thường, khổ, vô ngã và bệnh tật ở trong thân của chúng ta. Đó chúng ta dùng Định Vô Lậu, dùng Định Chánh niệm tỉnh thức chúng ta cũng có thể phá được cái buồn ngủ.

13. Đi kinh hành trau dồi lòng từ tâm của mình dưới bước chân đi, tránh giẫm đạp chúng sanh. Khi mà ban ngày cũng như khi ban đêm thì chúng ta lại hướng tâm chúng ta để nhắc tâm chúng ta tránh dẫm đạp chúng sanh. Còn một câu ám thị mà Thầy chưa nhắc là khi đi ban đêm con mắt chúng ta không nhìn thấy chúng sanh ở dưới chân, thì chúng ta không thể thế nào làm sao mà tránh được. Vì vậy mà chúng ta phải nhắc, bởi vì Phật đã nói đạo cảm ứng giao nan tư nghì. Tâm chúng ta có lòng thương thì cảm ứng được với chúng sanh cho nên chúng ta phải dùng câu hướng như thế này:

"Ban đêm tôi đi kinh hành, không thấy chúng sanh. Xin tất cả chúng sanh dưới chân tôi hãy tránh cho tôi đi".

Thì mình phải hướng câu nói đó để giao cảm với nhau mà khi bước chân mình vừa đến là tất cả chúng sanh đã rời khỏi. Đó là vừa phá buồn ngủ mà cũng vừa trau dồi tâm từ của chúng ta dưới bàn chân trong lúc đêm khuya thanh vắng, trong lúc tối mờ mà không thấy đường.

14. Dùng pháp hướng như lý tác ý:

"Cái ngủ này vốn không có trong thân tứ đại này, chỉ do ngu si, mê muội, lười biếng, thiếu tinh tấn nên mới thọ sanh. Thọ vốn vô thường, lúc có lúc không. Vậy thọ uẩn phải dừng trạng thái ngủ nghỉ mê muội này, không được tái diễn, phải chấm dứt ngay".

Đó là câu pháp hướng cuối cùng để chúng ta phá cái thọ mê ngủ này, phá cái thọ ngu si này. Thường xuyên khi mà chúng ta đặt niệm nó như vậy phải là ngồi kiết già lưng thẳng hẳn hòi, phải dùng câu này để hướng tâm ám thị một cách chắc chắn, đánh đuổi cái thọ ngu si này ra. Chỗ chữ phải chấm dứt nói như truyền lệnh, phải càng mạnh càng tốt, làm cho tất cả sức tinh thần của chúng ta dồn tại đó mà đuổi những cơn lừ đừ say say của cơ thể. Nói như truyền lệnh là dùng tâm lực của tinh thần mạnh bạo làm cho cơn ngủ mau lui bước.

Đó thì quý thầy thấy Thầy chỉ dạy cho quý thầy những pháp rất cụ thể. Nếu quý thầy gằn nhừng nhiều lần ở cái chỗ phải chấm dứt cho nó mạnh bạo, từ cái cơn ở trong thân của quý vị dùng lực mà đẩy ra thì chừng hai ba câu như vậy là quý thầy đã tỉnh táo không còn buồn ngủ nữa.

Đó là hôm nay Thầy dạy cho quý thầy xả tâm vô lượng ngủ để cho biết cách mà xả cho tận gốc nó. Khi đối với bệnh buồn ngủ phải thông minh sáng suốt. Quý thầy phải sáng suốt thông minh chớ không thể nào thiếu sự thông minh mà đối trị nó được, nếu không thông minh sáng suốt thì buồn ngủ lại buồn ngủ nhiều hơn. Nghĩa là mình trị nó mà mình lại buồn ngủ hơn. Còn nếu thông minh sáng suốt thì mình trị đúng bệnh của nó thì nó mau hết. Nếu mà không thông minh sáng suốt thì vất vả hơn.

Cho nên quý thầy tu theo đạo Phật thì thứ nhất là siêng năng, bền chí, đi kinh hành nhiều. Đó là cách thức mà quý thầy theo đạo Phật như ông Phật ngày xưa luôn luôn đi kinh hành ở trong khu rừng của ông ta. Và chúng ta nên bắt chước gương hạnh của Phật mà luôn luôn nên đi kinh hành như vậy để phá đi những cái mê muội này làm cho tỉnh thức luôn luôn.

Luôn luôn phải trau dồi tâm phá ngủ dưới chân mình bằng pháp hướng tâm như lý tác ý: "Buồn ngủ, phải lui đi! Lười biếng, phải lui đi!".

Đó là những câu ám thị ngắn mà chúng ta vừa đi vừa nhắc nó khi biết tâm mình đang buồn ngủ, đang lừ đừ, đang không tỉnh táo, rồi tiếp tục chúng ta lại hướng tới nữa:"Cơn mơ mơ, say say, hãy lui đi! Thân tâm phải tỉnh táo". Chúng ta nhắc nhiều lần như vậy trong khi đi, như ra lệnh một lúc thì hết hôn trầm, thùy miên.

Đó thì quý thầy thấy mình có pháp để phá nhưng từ lâu tới giờ chưa có ai triển khai ra được cho nên mình không biết mà phá. Vì vậy mà cứ buồn ngủ phải chịu buồn ngủ thôi, không bao giờ hết được. Hôm nay giáo án này Thầy sẽ dạy hết tất cả những kinh nghiệm để cho quý thầy về tự mình về mà lấy pháp mà làm chỗ nương tựa vững chắc mà trau dồi thân tâm của mình để làm chủ sanh tử.

Để kết thúc Tứ vô lượng tâm, Thầy tóm lại để quý thầy nhận định cho rõ ràng cách hành trì pháp môn tu tập. Phải chính xác thì mới có hiệu quả. Nếu tu tập không kết quả ngay liền hiện tại là do quý thầy tu tập sai hoặc là dùng pháp hướng sai không đúng cách, không đúng chỗ nên không hiệu quả. Nghĩa là trên bước đường tu tập chúng ta có pháp hành, nhưng mà pháp hành dùng không đúng chỗ, không đúng bệnh thì cái pháp hành đó sẽ không có hiệu quả. Nếu quý vị biết hành đúng mọi trường hợp của nó thì pháp hành sẽ có hiệu quả ngay tức khắc làm cho tất cả những cơn hôn trầm buồn ngủ, thùy miên sẽ lui bước và tâm quý vị được thanh thản, được tỉnh táo, rất là tỉnh táo.

1. Các thầy nên lưu ý: Nếu pháp hướng của ý thức dùng thì pháp hướng phải cụ thể, có đối tượng. Đó quý vị muốn dùng cái ý thức của quý vị dùng thì pháp hướng đó phải có đối tượng trước mặt quý vị thì quý vị dùng nó mới đúng cách. Nếu pháp hướng là tưởng thức thì pháp hướng không cụ thể, phải trừu tượng.

Đây bây giờ Thầy nói như thế này: Người ta ngồi người ta quán cái thây ma, hay quán bộ xương trắng thì cái bộ xương trắng không thể nào là đối tượng trước mặt chúng ta được mà phải là tâm chúng ta tưởng ra. Do đó, đề mục đó nó thành ra một cái trừu tượng, nhưng chúng ta dùng pháp hướng mà nhắc cái tưởng đó thì nó mới đúng cách là chúng ta biết dùng pháp hướng đúng với tưởng. Còn bây giờ trước mặt chúng ta có hơi thở ra vô thì chúng ta hướng hơi thở đó, thì như vậy là ý thức chứ không phải tưởng thức. Quý thầy phải lưu ý cái phần này nếu không quý thầy dùng tưởng mà quý thầy tưởng là ý thức. Quý thầy dùng ý thức rồi quý thầy dùng đề mục tưởng trừu tượng thì 2 cái này sẽ không có hiệu quả và nó có hiệu quả thì nó sẽ chéo cẳng ngỗng, nó sẽ đưa quý thầy vào chỗ không có đúng cách, nó sẽ đi vào con đường thiền sai, không đúng.

2. Các thầy tu tập nội tâm phải an trú trong chánh niệm. Nghĩa là trong khi tu tập quý thầy phải giữ tâm mình ở trong chánh niệm. Khi bây giờ mình đặt một cái niệm để cho mình tu, trau dồi cái tâm từ của mình thì luôn luôn mình phải ở trong lòng thương yêu mà mình đặt cái niệm, chớ đừng có ở trong cái tâm mà dao động, nhớ cái này, nghĩ cái kia, ham cái nọ thì cái chánh niệm đó nó không phải là chánh niệm. Ở đây Thầy nhắc lại cho quý thầy nhớ khi làm một cái gì thì phải cho chính xác cái đó, cái tâm của mình phải biết cái niệm đó nó ở chỗ nào. Như trau dồi tâm từ thì phải ở cái lòng thương yêu như thế nào, tâm bi thì nó phải ở cái lòng thương yêu như thế nào để đặt cái đó gọi là cái chánh niệm. Cái chánh niệm là cái niệm chơn chánh ngay trong sự trau dồi đó chứ không phải là chánh niệm bằng cái niệm đúng. Mọi cái niệm đều có niệm đúng nhưng mà mình đặt không đúng chỗ mình trau dồi thì cái đó trật, không có đúng. Cũng như bây giờ mình đang ở cái chánh niệm của thân bất tịnh, thân vô thường mà mình trau dồi tâm từ thì đó là sai. Đó thì cái chánh niệm kia là chánh niệm ở trong cái chỗ khác chớ không phải là chánh niệm ở chỗ trau dồi tâm từ.

Muốn tu tập cho đúng cách thì quý thầy phải hiểu được cái này thì quý thầy mới thấy được cái chỗ vi diệu của Phật pháp. Tức là pháp hướng tâm Như lý tác ý không được xao nhãng. Nghĩa là lúc bấy giờ cái pháp hướng đó nhắc chỗ đó là tâm phải ở chánh niệm đó cho nên nó không xao nhãng được cái chỗ đó. Phải tỉnh thức cao độ. Phải cái sức tỉnh thức ở đó không được mờ mờ, mà phải tỉnh thức ngay cái niệm chỗ đó, cho nên không bao giờ thất niệm. Vì vậy Phật gọi người tu sĩ mà thất niệm là bị ma dẫn. Tức là bây giờ chúng ta có cái chánh niệm nào đi nữa mà không đúng ngay đối tượng đang trau dồi pháp đó thì cái đó chúng ta vẫn bị ma dẫn.

Nếu tỉnh thức cao độ chưa có thì quý vị phải tu Chánh niệm tỉnh giác định. Thấy sức tỉnh mình chưa có, cứ một lát nó lại nhớ cái niệm gì, cái niệm này cái niệm khác xen vô nó làm thất niệm thì phải tu Chánh niệm tỉnh giác định hoặc tu tập Vô lậu định. Nghĩa là quý vị biết rằng khi mà cái tỉnh thức của mình không có có cao độ là mình tu tập cái Chánh niệm tỉnh giác định ít hoặc là tu tập Định vô lậu ít,bây giờ phải tu tập hai cái định này nhiều thì quý vị mới có đủ sức tỉnh. Bởi vì mình biết được cái thân và tâm của mình, cái sức tỉnh thức của mình cao hay thấp mình vẫn biết mình hơn ai hết, và biết thì mình phải lo tu cái định gì để cho sức tỉnh thức đó cao hơn để rồi chúng ta sẽ trau dồi được cái thân tâm của chúng ta trong mọi pháp của Phật dạy.

3. Và khéo léo giữ tâm vững trú trong các thiện pháp. Nghĩa là luôn luôn lúc nào mà thực hiện pháp của Phật rồi thì giờ nào, phút nào chúng ta cũng phải giữ tâm mình vững trú ở trong các thiện pháp, các thiện pháp như chúng ta học thập thiện đó. Luôn lúc nào chúng ta cũng giữ nó trong các thiện pháp đó. Không cho ác pháp xâm chiếm tâm, và không cho các ác pháp đặt chân nơi tâm. Nghĩa là chúng ta luôn luôn cảnh giác đến cái mức độ nó xâm chiếm vô mà không cho nó đặt chân đứng vô trên tâm ta nữa. Đó là cái phần ba.

4. Từ tâm giải thoát phải được tu tập trau dồi thường xuyên, làm cho sung mãn, làm cho thành cỗ xe, làm cho thành cứ điểm, làm cho được kiên trì, làm cho được tích lũy, tích tập, khéo tinh cần siêng năng thực hành theo lời chỉ dạy pháp hành trì của Phật, của Thầy thì kết quả giải thoát an lạc đến cho quý thầy thì rõ ràng. Thì cái phần bốn quý thầy phải cố gắng kiên trì tập luyện đến cái pháp Tứ vô lượng tâm này. Như Thầy đã nhắc hồi nãy: từ tâm vô lượng giải thoát phải trau dồi thường xuyên, làm cho sung mãn. Nghĩa làm cho chúng ta được cái lòng thương thực sự, không phải là sơ sơ đâu. Nghĩa là hằng ngày phải trau dồi nó liên tục chứ không có học rồi mà tu sơ sơ thì nó chẳng có làm gì được hết. Nên phải làm cho nó sung mãn, làm cho nó thành cỗ xe. Nó thành một cái cỗ xe mà chở cái lòng thương của chúng ta trên đó mà rải cho tất cả chúng sanh đó. Làm thành cái cứ điểm chắc chắn, cái lòng thương chắc chắn là một cái cứ điểm không có ai mà xâm chiếm cái cứ điểm của chúng ta. Làm cho được kiên trì, làm cho cái lòng thương yêu đó nó vững bền nó không có bị thay đổi được, làm cho được tích tập, làm cho nó được nhiều lên càng tốt càng hay.

Ở đây thì tới cuối cùng thì chúng ta phải khéo tinh cần, tức là siêng năng tinh cần phải khéo léo thực hành theo lời chỉ dạy pháp hành trì này của Phật, của Thầy thì kết quả sẽ được giải thoát. Nội tu bao nhiêu đó thì quý thầy cũng thấy rằng quý thầy đã được giải thoát rồi chớ chưa nói gì tu nhiều nữa. Nhưng đây mới là khởi sự mà thôi. Để bổ túc cho tâm vô lượng giải thoát này quý thầy phải tu nhiều cái nó mới tích tập thành được thành cứ điểm, nó mới thành cỗ xe, nó mới làm cho sung mãn chớ không phải bây giờ mà chúng ta tập như vậy mà nó ngay liền được. Chúng ta còn phải học tập, tu tập nhiều cái khác nữa. Cho nên từ đó cái sức tỉnh táo, cái sức mà an lạc, cái sức mà giải thoát, cái sức xả bỏ chúng ta mới đoạn dứt tất cả những cái khác thì nó mới thành tựu cái tứ tâm vô lượng này.

5. Bi tâm vô lượng giải thoát cũng tu tập như vậy. Nghĩa là hồi nãy mình từ tâm mình cũng tu cho nó thành cỗ xe thì bi tâm cũng tu cũng thành cỗ xe cho nó sung mãn. Nó cũng thành cái cứ điểm. Rồi hỷ tâm vô lượng chúng ta cũng tu như vậy, cũng làm cho nó thành cỗ xe, thành cứ điểm cho nó kiên trì, cho nó sung mãn. Tất cả những cái đó ta phải tập, phải làm.

6. Xả tâm vô lượng giải thoát cũng tu theo đúng như lời Thầy dạy, cũng làm cho nó thành cỗ xe, thành cứ điểm, cho nó sung mãn, nó tích tập cho nó sâu. Vì vậy mà nó mới xả được tất cả các pháp trên thế gian này.

Cứ y chỉ theo lời dạy của Thầy, đặt trọn hết niềm tin ở Giới, Định, Tuệ. Tức là cứ y chỉ theo lời dạy của Thầy thì quý thầy đặt trọn niềm tin ở ba pháp Giới, Định, Tuệ của đức Phật và tất cả các pháp môn của Phật mà hôm nay Thầy đã triển khai thành một con đường có lý pháp, có hành pháp rất rõ ràng và cụ thể. Vén sạch những màn mây kiến thức tưởng giải của thế nhân đang phủ trùm trên ba Thánh pháp của đạo Phật (Giới - Định - Tuệ) khiến cho ba pháp này không còn ai thực hiện được, gần như chỉ còn là một danh từ suông. Còn toàn bộ tu sĩ Phật giáo thì sống ngược lại và không thực hành đúng pháp này. Đó thì hầu như là quý thầy cũng nhận thấy rất rõ là người ta đi ngược lại với cái pháp Giới - Định - Tuệ của Phật. Còn bây giờ Thầy vén ra để chúng ta thực hiện được từ Giới - Định - Tuệ. Để cho nó rõ ràng cái sự giải thoát mà đức Phật vì lòng từ bi mà Ngài đã đem dạy lại cho chúng ta. Cho đến bây giờ chúng ta bị bỏ quên những cái pháp rất là cao quý này.

7. Nếu ai sống đúng và hành đúng lời dạy của Thầy thì kết quả lòng thương yêu rộng lớn của quý vị phải trùm cả không gian và thời gian. Chừng đó thế gian này là thiên đàng, quý thầy là những du tăng khất sĩ, rày đây mai đó, đời sống ba y một bát không có chùa to, tháp lớn. Quý thầy đã phủi sạch những sợi dây ràng buộc vật chất thế gian. Đời sống của quý thầy rộng bước thênh thang, tâm hồn của quý thầy thương yêu chúng sanh như không gian phủ trùm vạn hữu. Bây giờ quý thầy không phải Phật, không phải Tổ, không phải Alahán, không phải Bồ tát mà là một con người như bao nhiêu con người khác, nhưng tâm hồn của quý thầy đã hòa cuộc sống của quý thầy với các cuộc sống của nhân thế bên nhau mãi mãi, không xa lìa chúng sanh một bước. Quý thầy là con người đã giải thoát với lòng thương vô tận.

Đó là kết thúc bài học về Tứ vô lượng tâm. Để cho quý thầy thấy rằng cái pháp Tứ vô lượng tâm tuyệt vời như vậy. Làm cho tâm hồn chúng ta rộng lớn bao la với muôn loài muôn vật. Ở đây Thầy xin đọc lại một cái chuyện của một vị cao tăng ở trong thời đức Phật mà đã thực hiện Tứ vô lượng tâm mà đức Phật đã ca ngợi rằng, đã ca ngợi Ngài(BBT:CĐ,13B,E00:46:04) là một người đệ nhất hạnh về từ bi vô lượng. Đây, cái người đó như thế nào, là ai, tên gì (BBT:CĐ,14A,B00:00:00)thì Thầy sẽ thuật lại cho quý thầy nghe để kết thúc cái bài pháp này.

Để kết thúc bài pháp Tứ vô lượng tâm Thầy thuật lại cho quý thầy nghe câu chuyện Thánh tăng thời đức Phật tu tập thiền quán hướng niệm trau dồi Bốn tâm vô lượng để trở thành vị tỳ kheo đệ nhất về hạnh từ bi vô lượng. Ngài Siriti, Ngài là em trai của ông Cấp Cô Độc. Trong ngày ông Cấp Cô Độc cúng dường Kỳ Viên tịnh xá cho đức Phật, ông có chứng kiến và nghe pháp. Sau đó ông xin Phật xuất gia và thọ đại giới. Ngài thông hiểu hai loại giới luật, được đức Phật cho một để tài thiền quán hướng tâm tu tập, trau dồi thân tâm bằng pháp môn Tứ vô lượng tâm. Từ đó ngài trở thành một người đệ tử của Phật có từ tâm đệ nhất. Quý thầy nghe bài kệ của Ngài. Thầy đọc bài kệ khi ngài chứng đạt được Tứ vô lượng tâm:

Từ tâm ta trau dồi

Phủ trùm khắp muôn phương

Bi tâm ta trau dồi

Thương khắp hết quần sanh

Hỷ tâm ta trau dồi

Vui hòa cùng vạn pháp

Xả tâm ta trau dồi

Vạn vật đều chung vui

Tâm ta khéo định tĩnh

Tinh cần sống giải thoát

Nghĩa là ông chỉ có tu nhiêu đó đã giải thoát, đã chứng được Tam minh ngay tức khắc. Cái tâm mà thương yêu chúng sanh nó thanh tịnh tới mức độ đó. Ông truyền lệnh một cái, bởi vì trong khi tu tập trau dồi này ông thường dùng pháp hướng. Phật nói Như lý tác ý mà, cho nên lúc đó ông chỉ cần truyền lệnh bảo các hành trong thân ngưng, hơi thở ngưng thì tức nó ngưng liền là ông nhập Tứ thiền. Từ ở Tứ thiền ông hướng tâm nhắc tâm phải hướng về quá khứ thì Lậu tận minh, Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, nó phải hiện ra tức khắc không phải mà ngồi nhiếp tâm, ức chế tâm như chúng ta dùng hơi thở đâu.

Người ta tu có bây nhiêu đó người ta cũng đủ rồi. Vậy nên khi ông nghiên cứu về hai loại giới luật của Phật đã thấy tâm từ của ông tới mức độ nào. Bởi vì đức Phật dạy thiện pháp, mà thiện pháp tức là có tâm từ rồi, từ bi hỷ xả trong này rồi, cho nên do ông áp dụng vào bài pháp này mà ông thành tựu được đạo giải thoát nên ông là đệ nhứt từ bi vô lượng. Ông được đức Phật xem như hàng đệ tử có tâm từ bi rộng lớn nhất trong hàng đệ tử, đệ nhất đệ tử của đức Phật.

Thì hôm nay Thầy đem mẩu chuyện, để lấy mẩu chuyện này làm cái gương để chúng ta noi theo. Trong khi Thầy tham cứu về phần lịch sử của các bậc Thánh tăng, Thầy đã thấy được những điều kiện thật là tuyệt. Bởi vì muốn mà mình nương theo các bậc Thánh tăng trong thời đức Phật, thì thời mình đâu có Thánh tăng mà Phật bảo mình phải quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Mình phải theo những vị tăng, những vị tăng trong thời đức Phật mới gọi là Thánh tăng. Do những hàng mà tu như vậy chúng ta hãy nghiên cứu qua cái hành trình, qua hành trạng của các Ngài. Qua đó mà chúng ta mới tu tập cho chính mình. Chứ bây giờ mình nương quý thầy của mình thì phạm giới, phá giới hết rồi, mình nương sao cho được. Và hành động của quý thầy thì sống trong vật chất thì mình nương sao được mà giải thoát. Còn các vị Thánh tăng ngày xưa người ta sống trong rừng, ba y một bát, đi xin ăn vất vả. Rồi đây quí thầy sẽ thấy có nhiều vị người ta già cả mà người ta còn đi xin ăn, rồi người ta mệt nhọc, người ta nương gậy trèo lên núi hoặc thế này thế khác. Đọc tới những cái nỗi già yếu của những vị mà theo đức Phật tu hành phải đi xin ăn chứ không phải ngồi ở nhà mà người ta đem cơm tới cho ăn được. Mà phải đi xin ăn hằng ngày. Và đồng thời những cái xin ăn hằng ngày mới ngộ được và tu tập rèn luyện mình để cho được giải thoát.

Thì đó là những công trình rất lớn trong những Thánh tăng trong thời đức Phật mà chúng ta không được học, không được nêu lên để làm gương hạnh tốt cho chúng ta noi theo mà chúng ta thực hiện trong đời sống của chúng ta.

Hôm nay, đây là lần đầu tiên Thầy dạy cho quý thầy về hành trạng của bậc Thánh tăng. Rồi lần lượt trong bài giảng của giáo án này Thầy sẽ cho nhiều gương hạnh Thánh tăng để cho các thầy lấy đó làm gương soi cho mình, để trên bước đường tu tập đến khi giải thoát.

Hồi nãy kết thúc bài Tứ vô lượng tâm thì Thầy thuật lại một mẩu chuyện của một vị cao tăng trong thời đức Phật và Ngài có để lại cho chúng ta một bài kệ, nhưng đó là bài kệ của Ngài. Còn kết thúc bài giảng Tứ vô lượng tâm thì Thầy cũng có một bài kệ để nhắc nhở quý thầy tu tập. Bài kệ của Thầy như thế này:

Trau dồi từ tâm tốt

Lòng thương hòa vạn hữu

Trau dồi bi tâm tốt

Vạn hữu hết điêu linh

Trau dồi tâm hỷ tốt

Lòng vui khắp muôn loài

Trau dồi tâm xả tốt

Vạn vật sống an lành

Đó là những câu kệ của Thầy, Thầy nói lên tâm trạng của Thầy như vậy. Thầy mong rằng quý thầy áp dụng câu kệ này mà nhắc tâm cho mình để cho hằng ngày mình trau dồi bốn tâm vô lượng này để sống được với vạn hữu, với sanh linh bằng cái cuộc sống chan hòa và an lạc. Đó là cái điều ước ao, ước mơ của Thầy để mong mọi người sống được với bốn cái tâm vô lượng này. Đó là kết thúc bài Tứ vô lượng tâm mà Thầy đã dạy, giảng giải cho quý thầy hiểu cái lý và cái hành pháp của nó. Thì quý thầy đã biết cái hành và biết rõ được cái lý của nó như thế nào là xong cái bài Tứ vô lượng tâm.(BBT:CĐ,14A,E00:06:23)

BĂNG SỐ 14

(BBT:CĐ,14A,B00:06:24)

(Missing)

(BBT:CĐ,14A,E00:31:23)

(BBT:CĐ,14A,B00:31:24)Bây giờ chúng ta tiếp tục học Tứ chánh cần. Tứ chánh cần là bốn pháp dùng để trau dồi dứt trừ các ác pháp. Vậy Tứ chánh cần là gì? Tứ chánh cần là bốn pháp siêng năng, cần mẫn, tinh tấn, hợp với đạo lý nhân quả để giúp cho con người thoát ra khỏi cảnh khổ, bất hạnh của cuộc đời; để giúp cho con người thoát kiếp trầm luân khổ ải; để giúp cho con người mọi hành động không làm khổ mình khổ người và để giúp cho mọi người trau dồi rèn luyện thân tâm đạo đức nhân quả.

Như vậy Tứ chánh cần chúng ta phải hiểu bốn cái pháp chuyên cần này để giúp cho chúng ta thoát cuộc đời bất hạnh, để giúp cho chúng ta không làm khổ mình khổ, người và để giúp cho mọi người trau dồi thân tâm đạo đức của chúng ta trong nhân quả. Thì chúng ta phải biết cái pháp này nó trau dồi đạo đức nhân quả như thế nào? Bởi vì dạy về nhân quả mà không dạy về Tứ chánh cần thì chắc chắn là người ta chưa biết pháp hành, cho nên người ta nói nhân quả suông mà không có hành nhân quả. Còn ở đây chúng ta chưa có dạy về nhân quả nhưng trước đây Thầy có giới thiệu chúng ta biết nghiệp. Nghiệp là cái nhân quả của nó đem đến cho chúng ta, từ cái nhân đến cái quả, chuyển kiếp rồi nó thành những cái nghiệp lôi cuốn chúng ta trong vòng sanh tử luân hồi. Thì cái nhân quả là như vậy. Nhưng dạy về nhân quả, đạo đức nhân quả thì nó phải có một cái giáo án riêng của nó. Cái đạo đức này, vì nó là cái đạo đức rồi thì nó phải có tuần tự từ thấp đến cao, cách thức tu học như thế nào của nhân quả. Vì vậy có dịp Thầy sẽ soạn giáo án đạo đức nhân quả giúp cho mọi người có đường lối trau dồi, học tập đạo đức nhân quả để đem lại sự an lành, thanh bình cho con người trên thế gian này. Nhưng bây giờ thì chúng ta không có thời gian để mà viết thành cái giáo án của đạo đức nhân quả.

Tứ chánh cần chia làm bốn vai trò để trau dồi các hành trong thân. Nghĩa là nó có bốn phận sự để mà trau dồi các hành, nó trau dồi các hành động, không phải là trau dồi cái trừu tượng như chúng ta trau dồi Tứ vô lượng tâm đâu, mà nó trau dồi các hành động trong thân của nó. Cái hành động trong thân của nó như thế nào thì chúng ta sẽ lần lượt, Thầy sẽ giải bày để chúng ta thấy được các hành động trong thân của chúng ta.

Một: siêng năng cần mẫn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh.Ở đây là cái lý thôi, nói cái lý là ngăn ngừa; rồi cần mẫn ngăn ngừa như thế nào thì chắc chắn đó là danh từ rỗng, không đúng nhưng phải nói cho quý thầy biết, để cho quý thầy có những cái lý; mà phải nói cho hiểu để biết ngăn ngừa. Sau đó chúng ta hành thì chúng ta mới biết biến ra các hành động ngăn ngừa như thế nào và phòng ngừa nó như thế nào.

Hai: phải siêng năng cần mẫn dứt trừ những điều ác đã phát sanh.Dứt trừ đây chỉ nói danh từ suông, đó là cái lý nói dứt trừ, chứ dứt trừ phải bằng cái hành động, phải bằng cách tập luyện như thế nào để dứt trừ các pháp ác. Đó là cách thức đoạn dứt nó chứ không thể nói dứt trừ suông mà nó dứt các pháp ác được. Cho nên hầu hết chúng ta phải giải cái lý của pháp rồi mới giải cái hành của pháp, rồi mới thấy cái chỗ hiểu nó, rồi mới cái chỗ hành nó như thế nào cho đúng.

Ba: là siêng năng cần mẫn trau dồi những điều lành chưa phát sanh.Bây giờ nói đến mình phải trau dồi những điều lành chứ còn khi không nó làm sao có trong tâm mình điều lành được. Cho nên phải trau dồi những điều lành đó. Cho nên những điều lành đó, chưa phát sanh thì phải trau dồi nó. Trau dồi nó một thời gian thì tất cả những pháp lành nó phát sanh ra.

Khi mà trau dồi một thời gian nó phát sanh ra thì đến giai đoạn thứ tư thì phải siêng năng cần mẫn tiếp tục trau dồi những điều lành đã phát sanh. Bây giờ trau dồi nó đã lớn rồi, nó đã khởi ra rồi thì bắt đầu mình phải trau dồi cho nó lớn mạnh lên để giúp cho người, để giúp cho mình, làm cho mình vui, làm cho người khác vui.

Trên bước đường tu học nó phải đi từng bước, từ cái hiểu cái lý cho đến cái hành của cái lý. Từ hiểu cái lý pháp cho đến cái hành của pháp. Thầy dạy đâu thì nó có những bước căn bản như vậy. Chứ không phải dạy chung chung được, lý với hành nó phải song song như vậy chúng ta hiểu mới rõ.

Bây giờ Thầy xin ôn lại những điều lành Thầy đã dạy quý thầy ở lộ trình thứ nhất.

Bây giờ ôn lại để chúng ta thấy mình đã học những cái pháp lành nào, những điều lành nào để cho mình biết.

Thứ nhất,như mình biết như là mười điều lành, mười điều lành tức là thập thiện đó, quý thầy đã học rồi phải không. Rồi bốn tâm vô lượng, quý thầy đã học rồi. Rồi mười điều lành bây giờ chúng ta mới đem áp dụng vô cái Tứ chánh cần này đó. Còn bốn Tâm vô lượng mình đã trau dồi bằng cái pháp hướng để làm cho tâm từ bi hỷ xả của mình nó rộng lớn hơn. Thì cái hành của Tứ vô lượng tâm rồi.

Bây giờ mới nhắc lại mười cái điều lành này. Hồi trước Thầy chỉ giảng cái lý của Mười điều lành này chứ chưa có dạy quý thầy hành mười cái điều lành này. Bây giờ nói tới đây thì quý thầy mới hành mười cái điều lành này, nó mới hiểu biết rằng khi dạy thập thiện tức là để chúng ta biết mười điều lành và mười điều ác. Và khi biết rồi, bây giờ tới Tứ chánh cần mới đem nó áp dụng vào Tứ chánh cần để chúng ta thực hiện mười điều lành mười điều ác. Bởi vì trong Tứ chánh cần Phật dạy các pháp ác chưa sanh thì không cho nó sanh, đã sanh thì đoạn dứt. Còn các pháp thiện chưa sanh thì phải cho khởi sanh, mà đã sanh thì tăng trưởng. Cho nên chúng ta biết được cái đó vì vậy mà chúng ta dạy các pháp ác như thế nào, các pháp thiện như thế nào để chúng ta hiểu để mà chúng ta áp dụng vào Tứ chánh cần cho đúng đắn.

Qua mười điều lành và bốn tâm vô lượng quý thầy đã quan niệm rõ nét về điều dữ và điều lành trong đạo Phật rất cụ thể. Mỗi khi ai đã học xong những điều Thầy đã dạy ở trên mà không hiểu được điều lành, điều dữ thì người đó quá là si mê. Nghĩa là Thầy dạy rồi mà không hiểu được thì thật là si mê. Nếu Thầy dạy điều lành, điều dữ mà người nào không hiểu thật rõ thì thật đáng thương cho người đó, người đó là kẻ si mê tận cùng. Nghĩa là Thầy dạy như vậy chắc chắn là Thầy tin một người mà bây giờ ngu si như thế nào mà dạy xong rồi chắc chắn là quý thầy cũng phải thấy rõ những điều mà Thầy dạy chứ không phải là không thấy rõ.Bởi vậy, trước khi làm một điều lành, tránh một điều dữ chúng ta phải hiểu rõ thế nào là lành, thế nào là dữ.

Những điều dữ là những điều có thể làm tổn hại cho mình, cho người trong hiện tại cũng như mai sau. Đó thì quý thầy thấy những điều lành điều dữ như thế nào. Điều lành là làm cho mình vui, làm cho lợi người; điều dữ thì làm cho mình khổ, làm cho người khác khổ. Thì đó là những đặc tánh của điều dữ và điều lành. So sánh ta thấy rất rõ và nhận định chính xác không lầm. Nếu ta so sánh giữa mười điều dữ và mười điều lành, đối chiếu nhau thì ai ai cũng rõ. Bây giờ mình để cái điều dữ trước và điều lành sau thì chúng ta thấy.

Một là sát sanh.Sát sanh thì người đó phải cầm dao, cầm gậy đánh cho chết người hoặc làm hại con vật này; không sát sanh là không giết hại, không làm đau khổ, không làm chết chóc chúng sanh. Đó là lành đúng không? Bởi vì lành là không làm khổ ai hết thì đó gọi là lành.

Điều dữ đây, thứ hai là trộm cắp. Trộm cắp là lấy của người ta không cho, làm cho người ta mất của người ta buồn rầu, người ta khổ sở; thì cái đó có khổ không - đó là ác. Cho nên mình thấy rõ pháp ác mà, đâu có gì là không ác. Còn mình không trộm cắp, tức là không lấy của người thì người ta đâu có mất của mà người ta khổ. Do đó mình thấy không có khổ, vì vậy đối chiếu lại thì ta thấy trộm cắp là pháp ác, mà không trộm cắp là lành.

Bây giờ đến ba là tà dâm.Cái người mà tà dâm, có vợ con rồi mà lại nhà người ta dê vợ người ta, hoặc làm thế này thế khác làm cho gia đình người ta tan nát. Gia đình tan nát như vậy có khổ không. Đó là pháp ác, là pháp làm cho đau khổ mình, đau khổ người. Còn không tà dâm thì gia đình hạnh phúc yên vui, nhà người ta có tan nát cửa không. Đó là mình vui thì người khác cũng vui. Do đó không tà dâm là pháp thiện, mà tà dâm là pháp ác.

Bốn là nói dối, nói không thật.Mà nói không thật là tức gạt người ta chứ gì. Ví dụ con người ta không có té giếng chết, mình chạy về mình nói: con bà đi ra coi trâu ngoài ruộng nó té giếng chết, nó lọt giếng chết rồi, làm cho bà ta sợ hãi, khóc lóc chạy ra coi con mình có chết không, ai dè thấy nó ngồi trên bờ ruộng. Do đó nói láo như vậy làm cho người ta khổ. Như vậy có ác không? Cho nên cái nói láo như vây làm cho người ta khổ, là pháp ác. Còn mình không có nói dối, gạt ai hết thì có ác không. Không có gạt làm cho ai khổ sở hết thì cái đó là cái pháp lành. Cho nên chúng ta phải nhớ so sánh để chúng ta biết để chúng ta giữ cái nào mà dứt cái nào.

Năm là nói thêu dệt. Nói thêu dệt là nói là nói cái này cái kia làm cho người ta thù hằn nhau, người ta giận với nhau, người ta ghét nhau thì cái đó là pháp ác hay pháp thiện? Vì người ta có giận hờn ghét nhau, do đó là pháp ác, làm cho người ta đau khổ, người ta tức giận - đó là pháp ác. Còn mình không nói thêu dệt thì đâu có làm ai khổ. Mình không có nói xấu người khác thì không có làm ai khổ. Cho nên do vì vậy đó mà đó là pháp thiện.

Sáu là nói lời phù phiếm, nói lời phù phiếm là mình nói cái này cái kia nó không đúng cách. Nó làm cho người ta nghe chuyện này rồi dính mắc vào chuyện kia, đi làm chứng làm trái này kia, làm cho người ta phải mất thì giờ, làm cho người ta tổn phí những cái công sức để mà ngồi nghe những cái chuyện tào lao không có đúng. Đó là cái pháp ác. Còn mình không nói lời phù phiếm thì có phải người ta không mất thì giờ không, người ta không có ngồi nghe cái chuyện tào lao, cho nên người ta không có hao tổn tinh thần, cũng như hao tổn thời gian của người ta. Như vậy là thiện pháp.

Bảy: nói lời hung dữ.Nói lời hung dữ là mình chửi mắng, mình rủa người ta, mình nạt nộ thì làm cho người ta giận tức, làm cho người ta đau khổ thì đó là pháp ác phải không. Do vì vậy đó là pháp ác. Còn chúng ta không nói lời hung dữ thì đâu có làm ai khổ sở, cho nên đó là pháp thiện.

Tám là tham lam. Tham lam là ham muốn cái này cái kia, sanh ra những cái đạt được thì mình mừng vui một chút, còn không đạt được thì nó khổ sở nó lo toan đủ thứ hết trong đầu của mình. Do đó tham muốn cái này cái kia làm cho chúng ta phải lo lắng. Như vậy sự lo lắng ở trong tâm của mình, đó là pháp ác. Còn người không tham lam, không ham muốn thì họ có an ổn không. Họ thanh thản, họ an vui cho nên cái pháp đó là cái pháp thiện.

Chín là sân.Quý thầy thấy người sân có giận dữ không? Giận dữ thì tức tối, mặt đỏ, tay chân múa may. Do như vậy mà người sân là người quá khổ. Sân là khổ như vậy đó là pháp ác. Còn cái người không sân thì có khổ không? Không có khổ, không có giận dữ, không có múa me, không có chửi mắng, không có la lớn thì cái người đó là người không khổ. Còn cái người kia, người sân là người trong pháp ác cho nên khổ.

Si là ngu si, không thấy.Thấy ai uống rượu thì mình vô cùng uống rượu, người ta giết gà thì mình cũng a tùng vô giết gà ăn thịt hoặc làm những cái việc trộm cướp theo những cái điều mà người ta không có thấy tội lỗi cho nên do những si mê đó mà nó đưa con người ta đến những khổ đau liên tục(BBT:CĐ,14A,E00:45:53).(BBT:CĐ,14B,B00:00:00) Chúng ta phải biết đó là các pháp ác. Người không si là người thấy điều đúng, điều sai để chúng ta tránh mà không tạo cho chúng ta khổ và khổ cho người khác khổ, người đó là người không si. Không si là pháp thiện.

(BBT:CĐ,14B,00:00:18)Do bảng so sánh mười pháp này để cho quý thầy thấy rõ mà nhận định điều ác mà mình cần phải dứt bỏ, điều lành mình cần tăng trưởng và nuôi lớn. Như vậy chúng ta sẽ nuôi lớn mười điều thiện mà không không này. Không làm mười điều lành- không làm cái này thì trong khi lần lượt chúng ta phải tu tập, trau dồi như thế nào để chúng ta thực hiện được, tăng trưởng được mười pháp lành, mà đoạn dứt được mười pháp ác này, đó là điều quan trọng. Chứ không thể nói rồi chúng ta dứt được liền đâu, rất là khó chứ không phải dễ. Tuy là nói như vậy, so sánh như vậy để chúng ta hiểu nhưng đến khi thực hành tu tập là một điều mà chúng ta phải rèn luyện, dứt bỏ, trau dồi, phải quyết tâm chúng ta mới dứt được, chứ không phải muốn dứt là chúng ta dứt ngay liền được đâu, nó thật là khó chứ không phải dễ. Vì vậy giáo án này Thầy phải ghi lại cho nó được đầy đủ các pháp hành để chúng ta thực hành để dứt các pháp ác, để tăng trưởng các pháp lành để làm cho chúng ta càng ngày càng tiến bước trên con đường giải thoát.

Như vậy ở đây những điều lành khởi sự bắt đầu để cho người mới tu mà thực hành dứt bỏ mười điều ác, tăng trưởng nuôi lớn mười điều lành. Nhưng nói đến mười điều lành của đạo Phật mà không dạy con người trau dồi mốn tâm vô lượng: Từ, Bi, Hỷ, Xả cao quý tuyệt đỉnh lành trong các pháp. Nếu mà nói về pháp ác, pháp lành mà không dạy người ta trau dồi tâm từ bi hỷ xả. Như Thầy, tại sao Thầy không dạy các thầy tu Tứ chánh cần trước; dạy Thập thiện rồi lẽ ra phải dạy Tứ chánh cần trước, tại sao lại không dạy Tứ chánh cần mà lại dạy Tứ vô lượng tâm? Tại vì muốn dứt trừ các pháp ác phải có tâm Từ - Bi - Hỷ - Xả thì nó mới dứt trừ được. Mà dứt trừ được thì phải nuôi lớn những tâm nào, trau dồi những tâm nào để mới tăng trưởng các pháp lành. Nếu mà không tăng trưởng các pháp lành thì làm sao các pháp lành khởi sự ra được. Đó là những điều quan trọng, phải biết sắp xếp pháp nào tu trước pháp nào tu sau mà Thầy từng nhắc đi nhắc lại trên con đường xây dựng giáo án này.

Bởi vậy, Tứ vô lượng tâm là pháp lành cao nhất của đạo Phật mà cũng là bài học vỡ lòng tuyệt thiện pháp cho tất cả loài người. Mình phải hiểu muốn dứt trừ các pháp ác thì phải học Tứ vô lượng tâm, phải tu tập Tứ vô lượng tâm. Là bài học vỡ lòng đầu tiên mà cũng là tuyệt đỉnh của thiện pháp cho tất cả con người ở trên thế gian này nếu muốn đi vào con đường của đạo Phật. Nếu ai chưa học pháp vỡ lòng này thì khó có thể vứt bỏ mười điều ác. Nghĩa là chúng ta nói như vậy nhưng chúng ta chưa trau dồi được tâm từ bi hỷ xả thì chắc chắn mười điều ác này chúng ta khó vứt bỏ.

Nhờ có trau dồi Tứ vô lượng tâm ta mới có thể mà thương yêu tất cả chúng sanh, nhờ đó ta mới dứt trừ tận gốc của ác pháp. Nếu ta xây dựng giáo án tu tập theo đạo Phật mà đặt sai vị trí pháp tu thì cũng như người viết giáo trình học tập văn hóa thay vì lớp một đem đặt thành lớp hai. Vậy thì học sinh mới vào phải học lớp hai làm sao chúng học được. Chưa biết A, B, C mà đã đọc chữ thì học như vậy có được hay không, và tu như vậy có được hay không? Cho nên người viết giáo trình phải là người am hiểu, có nhiều kinh nghiệm trong ngành giáo dục. Cũng vậy, nếu người soạn giáo án của đạo Phật mà không có thực hành, không có kinh nghiệm thì giáo án ấy không thể áp dụng vào đời sống tu hành của tu sĩ được, vì không đem lại kết quả thiết thực cụ thể.

Vì thế đạo Phật bây giờ không có một giáo án tu tập, nên đời sống tu sĩ ương ương gàn gàn, đời chẳng ra đời đạo chẳng ra đạo. Bởi vậy, sắp xếp lại những pháp môn tu hành của đạo Phật từ thấp đến cao, từ dễ đến khó là một công trình phải được xem là khó khăn nhất. Nếu sai đi, chỉ cần một chút cũng làm mất thời gian của người tu rất lớn và cũng phí bỏ cuộc đời tu hành của họ, chẳng có ích gì cho chính bản thân họ mà còn lại làm cho người khác đau khổ, tốn công tốn của, tiêu phí bao nhiêu mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ mà chẳng ra ma nào cả. Cho nên quý thầy thấy trên bước đường tu tập từ ngày thầy biết đạo tới giờ vì không có giáo án thiết thực cụ thể từ bước thấp đến bước cao nên nhìn chung các thầy, huynh đệ cùng nhau chẳng ai ra nào cả, đời chẳng ra đời đạo chẳng ra đạo. Dở chết dở sống trên chiếc áo tu sĩ, cười thì cũng cười chẳng được mà khóc thì khóc cũng chẳng xong, cho nên cuộc đời tu hành lỡ dở.

Ở đây quý thầy phải hiểu những điều lành là những điều có thể lợi ích cho mình, cho người trong hiện tại cũng như trong tương lai. Chúng bao giờ cũng hợp với tâm từ bi, bình đẳng, bác ái và luôn luôn đầy đủ trí tuệ và lúc nào cũng phải đúng với chơn lý của đạo Phật. Nghĩa là nói về pháp thiện chúng ta phải hiểu là nó luôn luôn phải hợp với tâm từ bi, bình đẳng, bác ái; nó phải có thêm trí tuệ mà phải đúng với chơn lý của đạo Phật.

Cho nên khi Thầy dạy Tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả thì Thầy thấy hầu hết có một số sai lạc rất lớn, họ sai lạc rất lớn, cỏ họ cũng không dám nhổ, đi cũng không dám đạp. Đó là cái sai lạc rất lớn thứ nhất, cái sai lạc thứ hai là họ đem cơm đem thực phẩm họ họ đem cho kiến cho này kia ăn. Họ sai lạc, nhiều cái sai lạc lắm, họ không có biết một cái gì bởi vì trí tuệ của con người sao mà nó mờ mịt, nó ngu tới mức độ Thầy không có tưởng được. Mà cái người không được nghe, được học mà lại hiểu được Thầy. Đó là cô Út. Cái môi trường của mình đâu phải du tăng khất sĩ thế mà họ làm như họ là du tăng khất sĩ. Họ tưởng tượng ra họ như Phật rồi nên từ đó họ không dám đạp cỏ, không dám nhổ cỏ. Mai mốt cái thất của họ như là cái đống rác.

Bởi vậy cho nên khi chúng ta chưa phải là du tăng khất sĩ thì chúng ta từ từ tập, thân chúng ta đâu phải một ngày nó từ liền, hay nó bi liền được. Mà nó cả một quá trình tu tập, cả một thời gian dài. Chừng nào chúng ta biết chúng ta có buông xả được không? Bây giờ nhìn trong thất chúng ta còn bao nhiều đồ chúng ta có dám quăng ném ra không. Thế mà chúng ta muốn làm ông Phật liền à. Đó là chúng ta muốn làm ông Phật ngay liền, thiệt là cái tâm tưởng tượng. Thế thì chúng ta phải hiểu được hiện tại chúng ta sống trong chiếc áo này phải làm cái gì, tu tập từ bi hỷ xả như thế nào cho nó phù hợp, cho nó đúng. Chứ bây giờ chúng ta ngay liền muốn không có đạp cỏ, không có giết cỏ, không có làm gì hết mà còn lấy cơm thiên hạ cho kiến đồ ăn nữa thì thử nghĩ quý thầy như thế nào. Ông Phật nói ổng nói ăn còn dư ổng bỏ ra đất trắng. Thực ra, chắc chắn là ông Phật nghĩ của đàn na thí chủ, mà mồ hôi nước mắt chưa chắc ổng xin thừa để bỏ đâu. Còn một chút còn ráng ăn hết chứ chưa chắc bỏ đâu. Còn chúng ta nghe nói vậy, ăn thấy hơi no no bụng mà cái đó bộ không ngon thôi đem bỏ đi, phí của đàn na thí chủ. Chứ không phải quý vị tưởng cái đó là quý vị bố thí cho chúng sanh đâu. Bởi vì chúng sanh nó có cái nghiệp riêng của nó, nó phải chịu khổ chịu sở là do cái nghiệp của nó. Chứ đâu cần phải chúng ta bố thí. Cho nên khi bố thí là làm cho chúng sanh mang thêm nghiệp nữa. Cho nên ông Ca Diếp nói: “Nếu bà cúng dường cho tôi thì bà sanh vào cái sự đầy đủ hơn mà tôi bố thí cho bà thì bà càng khổ sở hơn”. Cho nên chúng ta nhận của bố thí là chúng ta lại nghèo khổ hơn. Mà người đời tưởng là bố thí được cái an lạc có một chút thôi mà tiếp tục đó là sự nghèo khổ, tiếp tục khổ hơn nữa. Vì mình thọ của người ta, cho nên do vì vậy mà không thấy được. Mình đem mình cho con kiến ăn, con kiến nó còn khổ hơn nữa; nó lại sanh những con khác vật nhỏ hơn nữa, đói khổ hơn nữa. Chớ đâu phải mình làm như vậy là mình làm nó no đâu. Nó no có một chút đó mà nó nợ của người ta biết bao nhiêu. Quý thầy tưởng làm điều đó là quý thầy từ bi nhưng không ngờ quý thầy lại giết nó thêm một kiếp khác nữa.

Hôm nay Thầy nói như vậy để cho quý thầy biết rằng tu Tứ vô lượng tâm như thế nào đúng như thế nào sai. Tưởng là giảng như vậy quý thầy đã hiểu cái vai trò, cái hiện tại, cái thân phận của mình là như thế nào. Mình có thành Phật được chưa. Bởi vậy, lời nói là một lẽ mà hiểu đạo lại là một lý. Không thể nào mà hiểu sai như vậy được. Nếu không có Thầy nhắc đi nhắc lại thì chắc quý thầy đã lầm lạc trong cái sự hiểu biết này.

Thầy xin nhắc lại, ở đây quý thầy phải hiểu, những điều lành là những điều có thể lợi ích cho mình, cho người trong hiện tại cũng như trong tương lai. Chúng bao giờ cũng hợp với tâm từ, bi, bình đẳng, bác ái và luôn luôn đầy đủ trí tuệ. Quý thầy nhớ đầy đủ trí tuệ, từ bi bác ái phải đầy đủ trí tuệ. Và lúc nào cũng phải đúng với chơn lý của đạo Phật. Phải áp dụng đúng chân lý của Đạo Phật, nghĩa là đúng không gian, thời gian, đúng thời điểm phải ứng dụng là ứng dụng cái gì cái gì, chứ quý vị ứng dụng cách đó là quý vị ứng dụng sai, không có đúng cách. Cho nên làm sao mà đạt được cái đạo giải thoát này. Nó khéo léo, nó thiện xảo mà áp dụng pháp đó, và đời sống của mình đúng lúc đó đúng thời điểm đó thì mới có kết quả. Nếu không đúng chân lý của Đạo Phật thì xem như đó là điều ác đó. Đó, giống như quý thầy đem cơm đem này kia bỏ cho kiến, không dám đạp lên cây cỏ, không dám quét, đi lúm túm lúm túm làm như người cúm vậy. Thì như vậy đó đã là cái sai của quý thầy rồi. Cái tu đó là cái tu sai rồi, chứ đâu phải là cái tu đúng. Cho nên đó là thiếu trí tuệ, đó không đúng chân lý của Đạo Phật, đó là cái sai. Thì được xem đó là những hành động ác, làm cho người ta thêm khổ nữa, làm cho người ta chuyển kiếp thêm cái nợ nần của người ta nữa.

Vì đạo Phật là đạo từ bi, thiếu từ bi là ác pháp. Mà từ bi đúng cách nó mới đúng, còn từ bi không đúng cách là ác pháp. Quý thầy hiểu chỗ đó, nếu mà quý thầy thực hiện từ bi mà từ bi không đúng cách là ác pháp. Quý thầy cứ đem cơm đem gạo cho người khác tức là quý thầy làm cho người ta đói khổ hơn chứ chưa hẳn đã hết. Vì đó là cái nợ mà.

Như chúng ta đã được biết, có ba nơi hành động xuất phát thiện hay ác, tức là xuất phát pháp thiện. Như Thầy đã nói có ba nơi hành động trong thân chúng ta mà nó xuất phát pháp thiện hay pháp ác ở đó, để chúng ta biết nó để chúng ta trau dồi những hành động đó chứ. Còn nếu mà không biết thì chúng ta sao trau dồi nó được, cũng như tu tập trong hành động đó. Nó không phải thường. Như ở đây Thầy đã nói nó có ba nơi, ba nơi đó ở đâu, ba nơi đó ở chỗ nào?

-        Một là ý hành,ý hành là cái ý mình suy nghĩ ở trong đầu của mình.

-        Hai là khẩu hành, hai là cái miệng mình hay nói lép nhép, đó là khẩu hành.

-        Ba là thân hành, thân hành là đi đứng nắm, bắt, nằm, ngồi. Đó là ba chỗ để lưu xuất thiện pháp, ác pháp ở chỗ đó.

Như vậy chúng ta phải biết ba cái chỗ mà nó xuất phát đó.

Nhưng chúng ta phải hiểu rằng, ý hành là nơi trung tâm xuất phát điều lành, điều dữ. Đó là trung tâm nó xuất phát, sai khiến cái miệng, sai khiến cái thân của chúng ta làm nhưng ý hành là trung tâm xuất phát, nó điều khiển, nó chỉ huy. Nói cho đúng ý hành là bộ chỉ huy các pháp ác cũng như các pháp thiện. Khi còn vô minh thì nó chỉ huy làm các điều ác. Khi mình vô minh, mê mờ thì nó chỉ huy thì mình cứ cho là tốt, là đẹp, là hỷ lạc, khả ái, khả hỷ, khả lạc là thích, là thú cho nên làm những điều ác mà không thấy, cho nên cái điều đó gọi là vô minh. Khi vô minh thì ý hành nó chỉ huy các thầy làm các điều ác mà các thầy không hay biết gì hết. Khi nó đã minh tức là nó đã hiểu rõ rồi thì nó chỉ huy làm các điều lành. Cũng như bây giờ chúng ta hiểu Tứ vô lượng tâm, chúng ta hiểu mười điều ác, mười điều lành, đó là chúng ta minh rồi đó. Phải hiểu chữ minh và vô minh. Minh là mình đã hiểu rõ cái nào ác, cái nào lành, cái nào đúng, cái nào sai mình phải hiểu rõ - đó là minh.

Bây giờ ý hành của chúng ta bắt đầu điều khiển để làm các điều lành mà vì mình đã minh rồi thì mình làm các điều lành là đúng lành, nó không có sai. Còn khi mình chưa có minh nên mình làm các điều ác mà mình cứ tưởng đó là lành. Cũng như mình ăn trộm ăn cắp về có tiền có của nuôi con mình tưởng là lành, vợ con mình được êm ấm. Không ngờ người ta mất của thì người ta khổ. Mình cứ ngỡ tưởng là lành không ngờ đó là điều ác, thì đó là vô minh. Còn cái minh là mình không làm khổ mình khổ người. Đó là pháp thiện.

Vì thế chúng ta bắt buộc bộ chỉ huy phải tập huấn mười điều dữ, mười điều lành. Nghĩa là bắt buộc nó phải học tập. Bắt ý thức của chúng ta phải học tập cho nó biết cái nào là lành, cái nào là dữ. Vậy đó, phải bắt buộc, phải tập huấn nó, cho nó học tập cho nó biết rõ. Còn nếu không bắt ý hành chúng ta cho nó học tập thì nó chỉ huy tầm bậy, chỉ huy sai, nó đưa đến chúng ta nhiều điều đau khổ. Và còn phải huấn luyện quân đội, trau dồi Tứ vô lượng tâm để áp dụng chiến đấu với mặt trận lành và dữ. Bây giờ mình phải trau dồi được cái tâm của mình nữa, ý thức của mình bây giờ đã minh rồi, đã hiểu rồi nhưng bây giờ phải huấn luyện bốn cái tâm vô lượng của chúng ta. Chứ nếu không huấn luyện trau dồi bốn cái tâm vô lượng của chúng ta thì chúng ta lấy đâu mà chiến đấu với mặt trận lành dữ này được? Chúng ta thấy cả một mặt trận mà để chúng ta mở màn cho một cuộc chiến trận đánh cái mặt trận lành dữ ở trong cuộc đời của chúng ta, để chúng ta trở thành những con người chiến thắng.

Bây giờ chúng ta cũng cần phải biết nội dung của Tứ chánh cần. Nghĩa là hồi nãy tới giờ mình đã học biết nó như vậy rồi nhưng cũng phải xem xét nội dung Tứ chánh cần nó như thế nào, để giải rõ ra. Nãy thì đại khái cho chúng ta biết là có bốn phần, nhưng chưa giải rõ ra. Còn bây giờ chúng ta phải giải rõ ra nội dung Tứ chánh cần cho nó rõ. Hồi nãy thì khái lược bốn nội dung đó.

Một: siêng năng cần mẫn ngăn ngừa điều ác chưa phát sanh, đại khái nó như vậy. Bây giờ mình giải thích ra cho rõ cái đại khái đó như thế nào. Nơi ý hành lúc khởi ác, lúc không khởi ác. Nơi ý hành của chúng ta lúc thì nghĩ ác, lúc thì không nghĩ ác - ta biết làm sao ngăn cho được? Mà trong kinh dạy ngăn ngừa các điều ác. Hầu hết các kinh sách giảng đến đây không thấy pháp hành - chỉ nói ngăn ngừa, ráng giữ gìn. Ngăn ngừa và ráng giữ gìn thì tâm không hình sắc lại không có dây dàm làm sao mà nắm giữ nó được. Cho nên lời nói ngăn ngừa và ráng giữ gìn là lời nói suông. Muốn ngăn ngừa và giữ gìn không có ý hành ác pháp thì phải áp dụng tu tập trau dồi tâm bằng pháp, tu bằng tâm pháp. Bằng hai pháp, nghĩa là khi chúng ta muốn trau dồi bằng phần ngăn ngừa và giữ gìn này thì chúng ta phải, bởi vì ngăn ngừa và giữ gìn thì chúng ta phải trau dồi bằng hai cái pháp: một là tùy pháp, hai là hướng pháp.

Mình phải vạch ra cho nó rõ để mình biết các pháp hành như thế nào thì mình mới hành, chứ bây giờ nói hướng pháp không thì quý thầy cũng không biết. Mà nói tùy pháp không thì mấy thầy cũng không biết. Mà tùy pháp không thì không đủ, mà hướng pháp không cũng không đủ. Cho nên ở đây chúng ta phải câu hữu lại hai cái pháp này để mà chúng ta tu tập, để trau dồi, để mà đoạn dứt cái pháp ác mà tăng trưởng cái pháp lành.

Tùy pháp là như thế nào, mà hướng pháp như thế nào? Tùy pháp là pháp tu tập như thế nào, mà hướng pháp tu tập như thế nào, để nói rõ cho chúng ta hiểu pháp tùy, pháp hướng thế nào.

Tùy pháp là phải nương theo cái pháp mà đức Phật đã chỉ dạy.Bây giờ có cái pháp sẵn mình phải tùy theo, bây giờ chưa pháp thì làm sao mà tùy. Các thầy phải hiểu chỗ đó. Thì như vậy chúng ta đã được Phật dạy những pháp nào thì chúng ta phải tùy theo cái pháp đó, tức là theo cái pháp đó, mà nương theo cái pháp đó mà chúng ta tu tập hằng ngày trau dồi mình theo cái pháp đó thì đó là có cái pháp để chúng ta trau. Để hằng ngày theo cái lý đó mà trau dồi các hành thân, khẩu, ý của mình để ngăn chặn các pháp ác không cho sanh. Ví dụ Phật dạy pháp Tứ vô lượng tâm mà Thầy vừa dạy đã học và đã trau dồi tâm mình để tâm của quý vị phát sanh lòng từ bi hỷ xả. Khi tâm này đã phát sanh thì tâm của quý vị không còn khởi ác pháp. Nghĩa là khi mà quý vị đã tu tập bốn Tứ vô lượng tâm này thì các ác pháp không còn khởi sanh ở trong đó nữa. Cái hành động hằng ngày mà quý vị trau dồi tâm từ bi hỷ xả là hành động ngăn ngừa giữ gìn các pháp ác. Cái hành động mà mình trau dồi tâm thương yêu của mình đó, cái tâm buông xả của mình đó, tâm vui theo đó thì đó là hành động ngăn ác. Bởi vì mình có thương yêu mình mới làm cho người ta không đau khổ, cho nên đó là hành động ngăn ác, mình biết đó là ngăn ngừa. Mà ở đây nói ngăn ngừa mà nói danh từ suông thì chúng ta biết cái gì mà ngăn ngừa. Mà chúng ta không trau dồi tâm từ bi hỷ xả thì làm sao chúng ta ngăn ngừa được. Quý thầy thấy rõ không, bởi vì thấy rõ như vậy mới biết đó là cái pháp ngăn ngừa. Tức là quý vị vứt bỏ ác pháp hay nói một cách khác là đoạn dứt các pháp ác nơi tâm của quý vị. Nghĩa là tâm từ bi hỷ xả của quý vị có rồi tức là mình đoạn dứt các pháp ác. Đó là đoạn dứt nó đó.

Bởi vậy Phật dạy các pháp ác cần phải vứt bỏ, đoạn trừ. Ở đây lộ trình của người cư sĩ, người tu sĩ cần phải trau dồi tâm mình trong pháp môn Tứ vô lượng tâm thì đó là pháp dứt ác tăng trưởng pháp lành. Chớ không phải Tứ chánh cần. Nghĩa là bắt đầu chúng ta trau dồi Tứ vô lượng tâm của mình đó là mình đã ngăn ngừa cái tâm ác của mình đó. Tức là không có cho nó phát sanh ra thì đó là Tứ vô lượng tâm. Còn Tứ chánh cần là chúng ta dùng nó để mà đoạn dứt. Nhưng trong Tứ chánh cần nó còn có pháp ngăn ngừa chứ không phải chỉ riêng có Tứ vô lượng tâm mới có pháp ngăn ngừa mà thôi.

Đến đây Thầy sẽ giảng thêm điều mà quý thầy cần phải rõ về Tứ chánh cần và Tứ vô lượng tâm. Chứ nếu mà không giảng chỗ này thì quý thầy tưởng cái góc độ tu Tứ vô lượng tâm nó không ăn nhập gì với Tứ chánh cần. Nó không phải đâu. Tứ vô lượng tâm là pháp ngăn ngừa các pháp ác. Chúng ta phải hiểu như vậy mới đúng. Và Tứ chánh cần nó có cái pháp ngăn ngừa riêng của nó nữa. Chứ không phải Tứ chánh cần nó không có pháp ngăn ngừa đâu. Có pháp ngăn ngừa và nó có pháp đoạn dứt của nó nữa. Thì ở đây chúng ta thấy đức Phật nhắm cho chúng ta đi trên con đường thiện cho nên hoàn toàn chúng ta dứt ác để tâm chúng ta tịnh. Do vậy mà chúng ta chỉ mà chúng ta làm chủ luân hồi chứ không phải là chúng ta ức chế tâm. Chúng ta phải hiểu đường lối của đạo Phật. Ngồi đó mà tu ức chế tâm là tu điên, tu sai, tu không đúng. Nếu ngồi nhiều mà không chịu đi kinh hành là tu điên tu khùng.

Đến đây quý thầy thấy rõ Tứ vô lượng tâm và Tứ chánh cần là như hai anh em song thai, là như hai cánh tay mặt và tay trái. Nếu thiếu một tay thì không làm nên việc được. Có pháp Tứ vô lượng tâm mà không có pháp Tứ chánh cần thì tuyệt nhiên ta tu hành còn thiếu lớn, còn khiếm khuyết rất lớn. Cho nên Thầy xếp hai cái pháp môn này nó đứng gần bên nhau để chúng ta thực hiện được cái pháp thiện. Còn nếu chúng ta xếp nó vào các pháp khác thì nó không thể đúng được.

Tứ chánh cần là bốn pháp bắt buộc chúng ta phải tu hành, phải siêng năng cần mẫn; luôn luôn tu tập không được bỏ qua cho nên gọi nó là chánh cần - tức là siêng năng trong chánh pháp thiện, diệt trừ tà pháp ác. Nghĩa là luôn luôn lúc nào chúng ta - khi mà tu Tứ chánh cần nó còn siêng năng hơn Tứ vô lượng tâm nữa. Nghĩa là nó cần - tức là Chánh tinh tấn đó. Bởi vậy khi mà đức Phật nói tấn lực, tức là nói Tứ chánh cần - đó là tấn lực. Cho nên nói về pháp mà siêng năng nhất trong các pháp của Phật thì phải nói là Tứ chánh cần là siêng năng nhất. Mà siêng năng nó mới trừ được cái ác, dứt được cái ác, nó mới tăng trưởng được cái thiện. Còn nếu không siêng năng thì nó không dứt trừ được ác, không tăng trưởng được thiện. Vì vậy cuộc đời ta tu chỉ hoài công mà thôi. Cho nên pháp này là cái pháp Chánh tinh tấn, ở trong cái nẻo mà Bát chánh đạo thì Chánh tinh tấn nó nằm trong Tứ chánh cần này. Nếu mà người siêng năng hằng ngày mà tu luyện mình để dứt ác mà tăng trưởng thiện thì người này gọi là Chánh tinh tấn. Chứ không phải người này chánh tinh tấn là ngồi thiền nhiều, nhiếp tâm nhiều hoặc ngồi nhập định nhiều là chánh tinh tấn đâu. Chánh tinh tấn là dứt ác mà tăng trưởng thiện, đó là chánh tinh tấn.

Cho nên ở đây Thầy giảng pháp này nó có leo qua những pháp khác để chúng ta hiểu được Phật pháp. Cái đúng cái sai của nó chứ không khéo chúng ta không biết ở chỗ nào.

Tứ chánh cần có pháp tu riêng không phải trau dồi tâm mình như Tứ vô lượng tâm. Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy rằng Tứ chánh cần có cái pháp tu riêng của nó, chứ không phải là chỉ có ở trong cái pháp Tứ vô lượng tâm đâu, nó có sự riêng của nó.

Đến đây bây giờ nó gần hết giờ rồi, chúng ta nghỉ.

Trước khi mà nghe Thầy giảng tiếp tục giáo án, cái phần Thầy nhắc nhở quý thầy hôm nay để cho quý thầy áp dụng cho đúng giới luật. Nhiều khi mới đầu chúng ta nghe giới luật chúng ta thích lắm, nhưng khi chúng ta áp dụng có một vài ba ngày, hoặc trong một tuần hay một tháng thì lần lượt cái tâm phàm phu chúng ta nó sống theo thói quen nó vui. Do đó trình tự đó nó tìm mọi cách, nó có cơ hội. Vì trong sống chung nhau nên có những cơ hội để chúng ta phạm phải những lỗi lầm ở trong giới luật. Tuy rằng những lỗi lầm đó nó nhỏ nhặt nhưng nó sẽ dẫn đi đến những lỗi lầm lớn. Cho nên ở đây qua hạnh độc cư mà xét qua quý thầy thì từ cái duyên nó nhỏ nhỏ như mình dọn cơm, như vậy nó sẽ có cái duyên để mà tập hợp, rồi từ cái duyên đó chúng ta sanh ra nói chuyện. Rồi từ nói chuyện nhỏ ít (mới đầu chỉ vài ba tiếng nói thôi) nhưng sau đó nó lại quen đi, nó bắt đầu tiếp tục làm cho cái nơi mà chúng ta tu hành nó bất an, nó động.

Cho nên đức Phật ngày xưa Ngài thích trầm lặng, Ngài sống trong trầm lặng, Ngài đi kinh hành ở trong trầm lặng, Ngài ca ngợi sự trầm lặng. Còn chúng ta thì không như vậy, thói quen của chúng ta ngoài đời là thích vui. Cho nên khi hở ra một chút là quên đi, tức là thiếu cái sức tỉnh thức. Do tu mà cái Chánh niệm tỉnh thức nó không có cho nên sức tỉnh nó không có. Cho nên cái tâm chúng ta nó dễ buông lung theo cái thói quen. Từng đó có cái duyên nhỏ nhỏ rồi chúng ta bắt đầu đến cái duyên lớn rồi đến cái hạnh độc cư nó bị tan nát, hư hoại. Từ đó chúng ta không sống trầm lặng được nữa. Vì vậy mà chúng ta thường cảnh giác như Thầy đã nhắc như thầy Minh Tông ở đây, thầy thấy ai gần rề rề là thầy lo đi tránh chỗ khác. Thầy biết cái duyên đó nó sẽ tạo ra cái phạm lỗi. Cho nên Phật dạy chúng ta phải sợ hãi trước các lỗi nhỏ mà nó không bước đến các lỗi lớn. Còn chúng ta không sợ hãi nó thì từ đó cái lỗi nhỏ chúng ta xem thường thì chúng ta sẽ phạm phải những giới luật khó hơn. Và đồng thời con đường tu chúng ta nó sẽ mất đi phạm hạnh, nó không đúng cái người tu sĩ.

Vì vậy cho nên Thầy nhắc nhở, cái duyên như buổi trưa mà đi ăn cơm. Ai có nhiệm vụ mà dọn cơm thì hai ba thầy, hay năm ba thầy đến dọn cơm xong. Nếu mà dọn cơm sớm quá thì chúng ta để ở dưới đất, mùa này mưa thì đất không có bụi, nhưng lỡ mùa nắng thì bụi, gió thoáng qua thì làm thực phẩm dơ bẩn đi, đó là cái mình phải thấy. Khi mà dọn xong rồi khoảng độ năm phút là mình đánh kiểng, thì cái thời gian nó ngắn. Vả lại dọn quá lâu thì chó, hoặc mèo, hoặc con vật rủi chạy ngang nó làm bẩn thực phẩm của chúng ta. Đó là những cái mà chúng ta phải cảnh giác, chúng ta phải thấy.Và đồng thời khi mà dọn lâu thì mình phải ngồi chờ, trong khi ngồi chờ mà cô đơn thì không chịu được thì thành ra những chuyện mà nói chuyện với nhau. Đó mình phải đề phòng và ngừa.

Còn quý thầy không có nhiệm vụ thì mình cứ ở thất mình tu, khi nghe kiểng đổ thì mình lần lượt mình đến thì nó cũng không sao. Khi đến trước Thầy thì mình chào Thầy, mà đến sau mà chưa có chào Thầy đồng một lượt thì khi Thầy vào đứng thì mình cũng xá Thầy, có gì đâu mà phải vội vàng. Cho nên chúng ta phải thấy được cái điều nghiêm chỉnh một chút để chúng ta tránh những lỗi nhỏ. Mà Thầy đã nói rằng bí quyết của thiền định tức là độc cư. Muốn được cái tâm vô lậu, muốn đạt được sức thiền định làm chủ sự sống chết này, mà nếu không sống thầm lặng, không sống độc cư thì khó mà đi đến cái chỗ thành tựu được. Vì vậy mà quý thầy cần phải nhớ kỹ những lời Thầy dạy, bởi vì còn Thầy Thầy nhắc nhở, không còn Thầy thì từ cái thói quen của chúng ta lần lượt nó sẽ quen đi rồi nó buông lung theo, nó làm cho chúng ta phạm những giới nhỏ, rồi từ đó những giới lớn chúng ta cũng không có giữ gìn được.

Cho nên ở đây trước khi giảng tiếp cái bài này, Thầy cũng nhắc nhở quý thầy cố gắng thực hành để mà tập trong có mấy tháng chứ không lâu. Còn sống bên thầy thì cố gắng giữ gìn độc cư cho trọn vẹn. Bởi vì kỷ luật của Tu viện, cái giới độc cư nó là cái giới nòng cốt của Tu viện. Ăn ngủ độc cư đó là cái giới nòng cốt. Cho nên cố gắng giữ gìn, lấy kinh nghiệm đó mà về sau này chúng ta nỗ lực thực hiện cho được tốt. Vì vậy mà quý thầy phải ráng cố gắng hơn thực hiện lời Thầy dạy khi còn Thầy hiện tiền trước mặt. Còn sau khi thầy đã ẩn bóng rồi thì chắc chắn không có ai, lấy ai mà nhắc nhở. Chỉ khi các thầy đã có quyết tâm, sống độc cư đúng cách, tu hành khi gặp khó khăn, có tâm tha thiết thành khẩn cầu Thầy hộ trì thì lúc bấy giờ Thầy cảm thông được điều đó. Còn nếu quý thầy phạm giới mà kêu thầy hộ trì thì chắc chắn là Thầy không hộ trì được. Vì giới thanh tịnh làm cho tâm thanh tịnh nó mới cảm ứng được Thầy. Còn nếu mà thân huệ mạng của quý thầy mà không thanh tịnh thì không làm sao cảm ứng với chư Phật được, làm sao cảm ứng với Thầy được, làm sao mà Thầy đến hộ trì các thầy được. Bởi vì nó còn có uế trược, nó còn có ham vui theo dục lạc thế gian thì làm sao Thầy cảm thông được. Thầy cảm thông với những người tâm thanh tịnh, giới luật thanh tịnh không phạm phải thì mới cảm thông được. Và sự cảm thông đó mới giúp đỡ quý thầy trên con đường tu tập còn nhiều gian nan và khó khăn.

Cho nên quý thầy càng giữ giới luật thanh tịnh bao nhiêu thì quý thầy càng xa thầy bao nhiêu Thầy lại gần quý thầy bấy nhiêu. Vì giới hạnh thanh tịnh là bậc thầy của quý thầy và Thầy cũng ở trong cái thanh tịnh đó cho nên dễ cảm thông. Còn nếu quý thầy phạm phải những giới luật nhỏ nhặt, mà phạm phải là tâm chúng ta đi theo con đường của dục giới, của cái tâm ham muốn rồi, của cái vui theo dục lạc thế gian rồi. Vì vậy tâm không thanh tịnh thì làm sao những chư Phật, vị Bồ tát, bậc Alahán và các bậc giới luật nghiêm túc làm sao họ cảm thông với quý thầy được. Cho nên ở đây quý thầy, giờ quý thầy phải giữ hạnh thanh tịnh trong hạnh độc cư. Để làm gì, để cho lỗi nhỏ lỗi lớn chúng ta không còn tiếp duyên ra ngoài. Vì tiếp duyên ra ngoài thì sẽ còn các lỗi nhỏ, lỗi lớn mà khó có thể giúp cho quý thầy đạt được con đường của đạo Phật.

Đó là những lời Thầy nhắc nhở, quý thầy cảnh giác từng phút từng giây trong khi còn Thầy nhắc nhở. Nếu mà Thầy không nhắc nhở thì còn ai nhắc nhở cho quý thầy nữa. Mọi người người ta đang sống vui theo cái dục lạc thế gian thì người ta thích nói chuyện, người ta thích bàn bạc cái này, thích làm cái kia. Còn mình, ở đây tu hành thanh tịnh thì không thích làm gì hết, chỉ biết tu mà thôi, chỉ thích tu mà thôi. Suốt ngày tập tỉnh thức để cho chúng ta có tỉnh thức để chúng ta thấy những cái lỗi nhỏ mà chúng ta sợ hãi.

Do cái chỗ này mà Thầy xét qua cái sự tu tập của quý thầy là cái Chánh niệm tỉnh thức của quý thầy quá kém. Quý thầy cứ nghĩ rằng mình đi một vòng hai vòng xung quanh cái Tu viện mình trên cái lộ hành thiền mà không thấy có niệm vọng tưởng nào, luôn luôn liên tục biết bước chân mình đi kinh hành, hoặc hành động làm hằng ngày quý thầy tưởng nó là tỉnh thức rồi. Chưa đâu, khi nào quý thầy tỉnh thức đến độ quý thầy không nhắc nó mà quý thầy ngồi với một tâm thanh thản, nó không có một niệm gì ở trong đó hết mà suốt ngày này qua ngày khác thì sức tỉnh thức của quý thầy... lúc bây giờ quý thầy mới ở trong Sơ thiền. Nếu quý thầy chưa được như vậy thì quý thầy phải dùng độc cư để mà cách ly, để tạo cho mình có những cái sức tỉnh thức trong cái định, Chánh niệm tỉnh giác định. Chứ quý thầy nói chuyện, quý thầy lại làm mất cái sức tỉnh thức của mình rồi. Quý thầy đã tập trung nhau mà nói chuyện thì quá là tai hại cho quý thầy. Tại sao vậy? Tại vì quý thầy nghĩ rằng ở Tu viện chúng ta phải tạo cho quý thầy có những cái nơi để mà sinh hoạt riêng như phòng vệ sinh hoặc là tắm rửa, hoặc là rửa bát rửa chén riêng. Tại sao vậy? Tại vì muốn cho quý thầy sống độc cư, sống trọn vẹn trong sự tu tập của quý thầy để quý thầy cách ly những thói quen của mình còn đang mang nặng trong tâm tư của mình. Do vì vậy mà quý thầy phải cảnh giác rất nhiều. Khi ăn cơm xong thì ai mang bát về sân, về thất của mình rửa. Tự tại, ung dung, cô độc một cuộc đời tu hành, sống biết một mình mình mà thôi, thầm lặng trong cuộc sống một mình, an vui trong cuộc sống một mình. Chừng nào cái tâm của quý vị mà quay được vào trong mà sống thầm lặng thì lúc bây giờ quý vị mới hưởng được cái Chánh niệm tỉnh thức, sức tỉnh thức của quý vị rất cao rồi. Còn bây giờ quý vị còn thấy vui ra ngoài, còn thấy thích cái điều này, còn suy luận cái điều kia để mà thưa hỏi Thầy điều này thế kia thì chắc chắn là quý thầy chưa tỉnh thức đâu. Người tỉnh thức người ta gặp khó khăn người ta mới thưa hỏi, không bao giờ người ta đem cái chuyện tào lao mà người ta thưa hỏi. Còn hầu như quý thầy có nhiều chuyện quý thầy thưa hỏi tào lao. Còn ngoài ra như Chánh Đức là vì trách nhiệm của nó phải thu những lời của Thầy nên phải trực tiếp đến hỏi cái này cái kia. Đó là cái vấn đề công cụ, cái việc làm. Vả lại thì nó cũng chưa đủ cái duyên, vì gia duyên còn rất nhiều nên chỉ làm công việc Phật sự để giúp cho cái giáo án thành tựu mà thôi. Còn quý thầy đừng thấy nó như vậy mà mượn cớ đó. Quý thầy đến đây là quý thầy chuyên tu, không có nhiệm vụ gì hết, còn nó có nhiệm vụ khác, nó phải làm cho trọn. Ví dụ như quý thầy nhờ sang băng thì nó giúp cho quý thầy có những lời dạy của Thầy, cho nên nó phải bận rộn, nó không tu như quý thầy được. Còn quý thầy tới hỏi rồi thôi, đó là biết tu. Quý thầy phải cảnh giác từng chút từng chút như vậy, mình mới cách ly được những tạp khí, cái thói quen của mình. Từng đã sống ở trong cuộc đời nhiều năm chứ không phải một hai năm đâu. Không phải nhiều năm mà còn nhiều kiếp.

Đến đây Thầy nhắc nhở quý thầy như vậy và chúng ta cũng không có thời giờ nhiều để chúng ta tiếp tục bài giảng để thu ngắn thời gian. Thầy sẽ tranh thủ rút ngắn thời gian để cho nó còn một tháng mấy nữa cho hết cái giáo án này, còn dài lắm.

Để tiếp tục buổi học hôm nay, thầy xin nhắc lại mục đích tu hành của đạo Phật từ lâu Thầy đã giảng dạy.

Này quý thầy, mục đích tu hành của đạo Phật không phải làm Phật, Tổ, Bồ tát, Alahán, không phải làm Viện trưởng, Viện chủ, Tăng thống, Phó tăng thống hoặc bất cứ một hàng giáo phẩm nào. Cũng không phải vì lợi ích cho ai, cũng không phải vì lợi dưỡng, không phải vì lợi ích thành tựu Giới đức, mà cũng không phải lợi ích thành tựu Thiền định, mà cũng không phải thành tựu tri kiến tri kiến giải thoát, mà cũng không phải thành tựu lợi ích Tam minh, mà cũng không phải vì sanh tử luân hồi thoát kiếp đau khổ này. Này quý thầy, mà chính tâm giải thoát bất động trước các ác pháp chính là mục đích phạm hạnh của đạo Phật, là mục đích cuối cùng của phạm hạnh.

Thì hôm nay Thầy xác định tất cả những điều mà chúng ta tu tập để chúng ta đạt được tâm bất động giải thoát của chúng ta trước các pháp, trước thọ. Đó là phạm hạnh của đạo Phật. Chứ không phải phạm hạnh là cái đạo Phật giữ gìn giới luật, đạt được cái giới luật, đắc được cái giới luật là phạm hạnh, không phải. Phạm hạnh của đạo Phật tức là cái mục đích của nó để đạt được cái tâm giải thoát bất động trước các pháp, trước các thọ của quý vị, đó là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh. Quý vị nhớ điều này để chúng ta xác định được cái mục đích của chúng ta đến.

Nhiều thầy cứ nghĩ rằng chúng ta phải tu thiền định, nhập Bốn thiền, thực hiện Tam minh đó là cái mãn nguyện của mình rồi, không phải đâu. Cái mục tiêu cuối cùng chúng ta phải thấy tâm bất động của chúng ta. Hiểu được như vậy chúng ta biết rằng con đường từ Tứ thiền để làm chủ sống chết cho đến chấm dứt luân hồi sanh tử này thì nó chỉ là quãng đường chúng ta đi để thực hiện cái tâm giải thoát bất động, chứ không phải nó là mục đích để chúng ta đạt nó. Do đó chúng ta không phải lấy cái thiền định làm mục đích, cũng không phải lấy tri kiến giải thoát mà làm mục đích, mà chỉ lấy cái tâm giải thoát bất động của chúng ta. Mà chỉ lấy tâm giải thoát bất động của chúng ta đó là cái mục đích chính của phạm hạnh của đạo Phật, là mục tiêu cuối cùng của đạo Phật. Chứ không phải chúng ta tu để thấy một cảnh giới nào đó, hoặc có Phật tánh, có cái gì đó để mà chúng ta thường lạc ngã tịnh ở trong đó mãi mãi. Không có, mục đích đó không có. Mục đích có tức là còn, còn có kiến chấp, còn bị cái thân kiến - đó là cái sai.

Bài học vừa rồi Thầy nhắc lại đó thì trong chánh pháp thiện nó diệt trừ tà pháp ác.

Tứ chánh cần có pháp tu riêng, cái này chắc có lẽ đã học rồi nhưng Thầy nhắc lại. Tứ chánh cần có pháp tu riêng không phải trau dồi tâm mình như Tứ vô lượng. Nghĩa là pháp Tứ chánh cần nó có sự tu riêng của nó. Cách thức nó trau dồi cái tâm nó, trau dồi các thiện pháp riêng. Mà trau dứt đoạn các pháp ác riêng. Chứ nó không phải như Tứ vô lượng tâm.

Tứ chánh cần lấy mười điều ác và mười điều thiện mà tu tập theo tùy pháp thập thiện và tùy pháp thập ác. Rồi dùng pháp hướng như truyền lệnh để cho tâm mình không sanh ác pháp và dứt bỏ ác pháp, sanh khởi pháp lành, tăng trưởng pháp lành. Người tu sĩ phải nhận rõ theo pháp mà trạch ra thành câu hướng tâm Như lý tác ý để đoạn dứt tâm sanh khởi ác pháp.

Thì quý thầy nhớ trong vấn đề tu tập về cái pháp này thì chúng ta phải theo cái pháp tùy và pháp hướng mà áp dụng vào cái Tứ chánh cần này thì chúng ta có cái pháp đoạn dứt và cái pháp trau dồi để cho các thiện pháp sanh khởi. Trước khi đến phần thực hành thì bây giờ Thầy sẽ đọc bài kệ của Phật để nhớ mà tu tập. Đây là bài kệ, quý thầy nhớ kĩ bài kệ này:

Mười pháp cần dứt bỏ

Mười pháp cần tăng trưởng

Siêng tu tập như thế

Sống yên vui hạnh phúc

Được gọi bậc hiền nhân

Nghĩa là chúng ta biết mà dứt bỏ mười cái pháp ác và tăng trưởng mười các pháp lành bằng cách theo cái pháp hướng và cái pháp tùy mà chúng ta tu tập thì chúng ta sẽ được gọi là bậc hiền nhân. Như vậy chỉ cần tu Tứ chánh cần là chúng ta đã được giải thoát, đã được là bậc hiền chứ không xa lạ nữa. Không cần tu nhiều, chỉ cần tu bao nhiêu đó cũng là thấy an vui hạnh phúc của đời sống này rồi. Vậy thì qua pháp hành như thế nào, bây giờ quý vị phải trạch pháp câu này.

Câu này câu thứ nhất, đây cái câu mà Pháp ra đây, tức là cái câu ta chọn làm pháp hướng:

Giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh là pháp ác, chúng ta phải đoạn dứt, đoạn trừ. Phải đoạn trừ tận gốc cái tâm khả hỷ khả ái này.

Tức là cái tâm thích thú mà giết hại chúng sanh, cái tâm thích thú mà ăn thịt chúng sanh đó. Thì câu này có nghĩa là chúng ta phải đoạn trừ, đoạn dứt nó, không được thích thú ăn thịt chúng sanh, giết hại chúng sanh. Hằng ngày chúng ta đều nương vào câu này mà tu tập nhắc cái tâm để chúng ta dứt bỏ không còn thích ăn thịt chúng sanh, mà không còn thích giết hại chúng sanh. Có thích giết hại chúng sanh chúng ta mới giết được chứ không phải là miễn cưỡng mà giết đâu. Cho nên người ta cầm con gà, cắt cổ con gà. Một cách an nhiên mà người ta lấy con dao người ta cắt một cách rất tự nhiên. Một con vật mà la hét, con cá giẫy dụa mà họ vẫn thản nhiên đập thêm mấy cái nữa. Họ đập trong sự sung sướng chứ không phải là trong sự không sung sướng nên đó Phật gọi là khả ái, khả hỷ đó. Hành động rất là đau đớn thế mà họ rất sung sướng, cho nên chúng ta dùng pháp hướng để nhắc cái tâm của mình để đoạn dứt. Đó là cái câu pháp hướng của mình để đoạn dứt cái tâm ác.

Câu thứ hai: “Chúng sanh có mạng sống như ta nên cũng sợ đau sợ chết như ta. Ta phải thương yêu như chính bản thân ta, như con ta và không được…”. Ở đây đến chỗ “như con ta” thì đó là cái câu để mà trau dồi cái thiện pháp. Quý thầy nhớ một cái câu thì vứt bỏ, một cái câu thì trau dồi nó tăng trưởng thiện pháp. Hai cái câu song song, chúng ta trạch pháp hai cái câu song song trong một cái điều ác để cho thực hiện được điều lành.

Bởi vì không giết hại chúng sanh đó là điều thiện, mà thương yêu chúng sanh chúng ta mới làm điều thiện được; mà không yêu chúng sanh thì chúng ta không làm điều thiện được. Do đó chúng ta trau dồi cái tâm chúng ta thương yêu tức là trau dồi tăng trưởng thiện pháp. Chứ không phải thiện pháp chưa sanh rồi chúng ta cho nó sanh hoặc chúng ta cho nó tăng trưởng. Nói như vậy là cái danh từ suông, nên ở đây chúng ta phải nhắc cái tâm của mình như thầy nói câu thứ hai:

Chúng sanh có mạng sống như ta nên cũng sợ đau, sợ chết như ta. Ta phải thương yêu như chính bản thân ta, như con ta vậy.

 Đó là câu đó để chúng ta nhắc nhở trau dồi cái tình thương yêu của chúng ta. Cái sự chết và cái sự đau khổ thân ta ta cũng biết sợ và chúng sanh cũng như vậy, để chúng ta giao cảm được nỗi khổ đau đó chung nhau. Như vậy để chúng ta không nỡ giết chúng sanh, ta cũng không nỡ ăn thịt chúng sanh. Đó là cái câu thứ hai.

Câu trước là câu dứt bỏ,câu trước là dùng mệnh lệnh. Câu sau là trau dồi thân của mình, không có dùng mệnh lệnh.Các thầy thấy chỗ nào mà chúng ta cần nhấn mạnh thì cái chỗ đó là dứt, bắt buộc phải dứt. Còn chỗ nào chúng ta chưa dùng cái hướng lệnh thì chúng ta xoa dịu, nhắc nhở êm ái để làm cho tâm chúng ta. Cũng như chúng ta muốn dụ dỗ một con vật để mình rèn luyện nó, như con ngựa, con bò, con trâu mình muốn nó kéo cày mình phải dụ dỗ nó chứ mình la hét đánh đập nó thì chắc chắn mình gắt óc mình cày không được đâu. Cho nên bằng cách là mình cho cỏ cho này kia nó ăn. Các thầy thấy nhà mà họ xiếc cọp, voi hay một con vật gì họ cũng cho nó ăn rồi lần lượt dụ dỗ nó rồi họ dạy nó múa, nó làm gì cũng được hết.

Thì tâm của chúng ta cũng vậy, vốn nó tích lũy những cái ác. Cho nên bây giờ chúng ta dụ dỗ để cho nó nhẹ nhàng, nó nghe được rồi từ đó nó sửa lần sửa lần nó thấm nhuần được lòng thương yêu chứ không được nạt nộ nó. Cho nên câu thứ nhất là nạt nộ, bắt buộc, ra lệnh. Câu thứ hai thì xoa dịu, êm ái, nhẹ nhàng làm cho tâm chúng ta được nhẹ lại để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta, cái lòng từ bi của chúng ta.

Đó thì những câu như vậy quý thầy phải hiểu được lúc nào thì dùng nó. Khi mà ra lệnh rồi thì bây giờ phải xoa dịu nó, chứ không quý thầy cứ ra lệnh không thì chừng đó nó sẽ như thế nào. Nó cứng đầu, nó chống lại, nó không có chịu phục tùng đâu. Cho nên cũng là vừa vứt bỏ, và cũng vừa xoa dịu an ủi nó để cho nó thấu đạt được lòng thương yêu của nó. Câu thứ nhất là dùng để đoạn trừ dứt bỏ pháp ác, câu thứ hai dùng để trau dồi tâm ngăn ngừa pháp ác, tức là phóng khởi pháp thiện. Khi tâm chưa phóng khởi tưởng điều ác thì ta phải hằng ngày trau dồi tâm ta bằng pháp hướng đến sự thương xót (BBT:CĐ,14B,E00:45:20). Nghĩa là cái tâm của mình nó chưa phát ra những cái điều ác, nó đang sống yên lành thì chúng ta phải tu tập. Nhưng mà khi mà nó có những điều ác, nó có những hành động ác rồi thì chúng ta phải truyền lệnh ngăn dứt nó liền. Đó là chúng ta dùng pháp dứt để dứt để ngăn dứt mà có sự kiện xảy ra. Cho nên phải biết áp dụng,(BBT:CĐ,15A,B00:00:00) Thầy nói phải biết áp dụng pháp hướng.

Như khi bây giờ mình có một sự việc gì đó, thấy con rắn mình đập, mình đã giết một con rắn rồi đó. Thì lúc bấy giờ cái sự giết đó mình phải dùng pháp hướng ra lệnh: từ nay về sau phải chấm dứt. Đó là dùng pháp hướng đúng, đúng chỗ, đúng thời điểm. Còn bây giờ mình chưa có giết gì hết mình bảo nó: “đừng giết, đừng giết, dứt đi” thì cái đó là cái sai, truyền lệnh sai. Bây giờ mình chưa có làm gì đau khổ chúng sanh hết thì mình dùng pháp thương yêu chúng sanh mình nhắc nhở, mình trau dồi lòng thương của mình để cho mai mốt nó gặp con vật dữ nó không có giết. Đó là chúng ta phải áp dụng đúng. Chứ không lúc nào cũng ra lệnh, lúc nào chúng ta cũng hét hò trong tâm của chúng ta. Thì cái đó là chúng ta làm cho nó rối loạn, không biết cái nào mà làm hết. Nó có làm ác đâu mà răn nó giữ vậy. Các thầy phải hiểu. Cho nên sự tu tập khó là ở chỗ chúng ta biết áp dụng. Mà nếu không khéo áp dụng thì nó không hiệu quả, không kết quả cho quý thầy. Thì nói sao mà pháp không có vi diệu. Nó không có vi diệu là do chính chỗ áp dụng sai.

Cho nên gần Thầy, các thầy mà sai thì có Thầy sửa, Thầy biết. Còn không gần Thầy là một điều rất là khó, vì áp dụng pháp hướng và pháp tùy này mà không đúng cách thì nó trở thành sai mất đi, nó không đơn giản được.

Khi tâm chưa phóng khởi tưởng điều ác thì ta phải hằng trau dồi tâm ta bằng pháp hướng đến sự thương xót chúng sanh để triển khai lòng từ bi của ta thì mới mong nó không sanh khởi ác pháp. Pháp hướng để trau dồi lòng thương xót ví như sợi dây mũi buộc con trâu, nhờ nó mà nó mà tâm không khởi ác pháp. Nghĩa là cái pháp hướng là như chúng ta cột cái sợi dây nó đó, chúng ta muốn lôi ở đâu thì nó cũng theo hết, còn pháp dứt thì nó khác. Pháp dứt khi mà nó đã thuần thục rồi thì chúng ta dứt. Còn bây giờ nó chưa thuần thục, nhưng khi nó làm điều ác là chúng ta phải dứt, phải la hét nó. Như bây giờ con chó mình nuôi nó chưa thuần thục mà nó hay đi bắt gà người ta, thì bắt đầu mình la hét nó, mình chặn nó trước đi, sau đó mình tìm cách mình dụ dỗ nó để cho nó thuần hóa trong thiện pháp, nó không có bắt gà người ta nữa, thì như vậy đó là mình biết nuôi chó, mình biết dạy chó.

Nó là một phương pháp ngừa bệnh. Cái pháp mà chúng ta trau dồi cái tâm mình như vậy, đó là trau dồi cái tâm từ bi thương yêu chúng sanh như vậy, đó là cái pháp ngừa bệnh. Còn cái pháp dứt bỏ là cái pháp hướng để đoạn dứt tận gốc bằng sức lực tinh thần, làm cho nó không còn ác pháp trong tâm ta nữa.

Đó thì phải song hành 2 cái, bởi vì trong Tứ chánh cần thì quý thấy đã thấy đức Phật dạy: các pháp ác chưa sanh - không cho sanh, đã sanh thì phải đoạn dứt, mà các pháp thiện chưa sanh - phải khởi sanh, mà đã sanh thì tăng trưởng. Rõ ràng bốn chánh cần này liên tục chúng ta phải có sự song hành, chứ không thể nào mà không có sự song hành được. Chớ không phải làm cho dứt các pháp ác rồi mới tăng trưởng pháp lành, thì đó là quý thầy nghĩ sai. Vừa là dứt pháp ác, thì phải vừa là phải thể hiện sanh các pháp thiện liền tức khắc. Bởi vì không giết hại chúng sanh thì tức là thiện rồi, thì ngay đó đã khởi thiện rồi, cho nên từ đó chúng ta càng trau dồi thiện, tức là làm cho nó tăng trưởng lên, tức là không làm ác nữa.

2. Trộm cắp, cướp giật, lấy của không cho là một điều cực ác, ta phải dứt trừ, từ bỏ viễn ly, xa lánh vĩnh viễn. Cái câu này là cũng là cái câu để dứt trừ đó, nghĩa là khi nào nghe nói dứt trừ, đoạn bỏ, viễn ly, xa lánh vĩnh viễn thì đó là câu hướng để mà tu tập dứt trừ, đoạn dứt cái tâm ác của chúng ta. Câu này chưa được đầy đủ, quý thầy nên thêm câu dưới đây:

Trộm cắp, cướp giật lấy của không cho dưới mọi hình thức nào cũng đều là một tội lỗi cực ác, phải dứt trừ, từ giã, xa lìa, từ bỏ, viễn ly, đoạn tận.

Bởi vì chúng ta nói câu trên nó chưa được đầy đủ nhưng nó ngắn gọn hơn để chúng ta ra lệnh nhanh chóng khi chúng ta đã thông suốt. Câu dưới mặc dù là trộm cắp lấy của không cho nó nhiều hình thức lắm: ăn lo hối lộ hoặc thế này thế khác, biển thủ. Đó là những tội trộm cắp chứ không phải là không trộm cắp. Nó có nhiều hình thức lắm, lường gạt người ta lấy cũng là nằm trong tội trộm cắp cướp giật. Cho nên ở câu thứ hai nó trọn vẹn đầy đủ để nhắc nhở chúng ta không có làm những điều như vậy. Điều đó là điều ác, điều không có tốt cho nên phải viễn ly đoạn tận nó đi, từ giã, từ bỏ đi, dứt trừ đi. Đó là những câu đoạn dứt nó. Thế cho nên nghe nói mình dứt ác, các pháp ác đã sanh thì dứt liền. Thật sự ra trong khi đó mình không trau dồi mình thì khi cơn sân thì quý thầy có dứt được nó không. Đâu có dễ gì dứt được, nó làm cho chúng ta điên khùng trong tâm rồi còn đâu mà biết, đâu còn sáng suốt nữa mà dứt. Cho nên bây giờ chúng ta chuẩn bị cho mình những tư tưởng, những sự dứt bỏ bằng chúng ta thấu được những cái lý của pháp ác. Vì vậy mà chúng ta thấu được những cái lý của pháp ác đó. Nhờ pháp hướng nó nhắc đi nhắc lại, nó làm cho chúng ta thấu được cái lý của pháp ác và đồng thời chúng ta còn tu tập pháp quán để suy xét những tâm niệm giận của chúng sanh như thế nào nó bừng bốc như lửa, như thế nào nó làm cho con người giận, sân đó nó phải như thế nào. Vì vậy tất cả những cái tu học chúng ta phải có quán nè, rồi có hướng nè, rồi có tùy nè nó mới đúng. Cho nên cái định Vô lậu nó kèm theo cái định Chánh niệm tỉnh thức. Vì vậy luôn luôn lúc nào nó cũng dùng pháp hướng, pháp tùy, nó không có xa lìa các hành động tu tập này.

Cho nên khi mà chúng ta chưa rõ cái pháp ác như thế nào thì chúng ta đặt cái niệm pháp ác đó. Như bây giờ chúng ta đặt cái niệm ăn trộm, ăn cắp đó trước mặt rồi chúng ta dùng tri kiến phóng ra rồi chúng ta quan sát, chúng ta theo dõi chúng ta xem xét. Trong khi xem xét chúng ta mới thật hiểu đó là cái pháp ác làm cho người ta đau khổ, làm cho người ta mất của, làm cho người ta tự tử, làm cho người ta chết dở sống dở ở trong cuộc đời khi người ta bị mất của. Khi mà quán sát được như vậy thì chúng ta thấy nó là cực ác. Mà cực ác thì chúng ta phải đoạn dứt. Vì vậy mà chúng ta mạnh mẽ mà đoạn dứt nó, không làm cái điều đó nữa.

Bởi vì cái Định vô lậu là để chúng ta nhìn thấu suốt các pháp mà quán. Định vô lậu là định dùng quán chớ không phải là dùng hướng. Thì như vậy chúng ta cần phải biết lúc nào dùng pháp hướng, khi nào dùng pháp tùy, khi nào dùng pháp quán thì như vậy mới có hiệu quả trên bước đường tu tập. Chớ không phải muốn tu như thế nào là cái tâm tham sân si của chúng ta nó hết được liền đâu, không phải dễ đâu. Hoặc là các pháp ác mà chúng ta dứt được liền đâu, không phải nói đơn giản được mà cả một công trình tu tập.

Đây là những câu pháp hướng tâm, nhắc tâm Như lý tác ý dẫn tâm vào đạo Giải thoát ác pháp, quý vị phải biết trước khi dùng pháp này tu hành dứt bỏ các ác pháp thì phải tâm chuyên nhất cảnh.

Nghĩa là như thế nào?

Thầy xin nhắc lại để quý thầy nhớ chớ không được đụng đâu ngồi đó. Nghĩa là mình muốn tâm chuyên mà nhất cảnh đó thì không được đụng đâu ngồi đó mà mình dùng Pháp Tùy, Pháp Hướng, pháp này kia lộn xộn. Muốn tu một cái pháp nào đó phải nghiêm chỉnh, phải tìm một cái nơi ngồi cho nghiêm chỉnh. Bởi vì Pháp không phải là đồ chơi, không phải là đụng đâu mình cũng có mà thể làm đó được mà đây là những pháp để cứu mình ra khỏi những pháp ác, cứu mình khỏi những đau khổ cuộc đời cho nên phải xem nó là những vật quý báu. Phải nghiêm chỉnh trước khi dùng một câu nào hướng, sự quán xét nào cũng phải nghiêm chỉnh mà quán xét thì nó mới có kết quả. Còn nếu mà chúng ta đụng đâu ngồi đó thì ngồi chơi chút chúng ta cũng ngồi đó mà quán xét cái này, quán xét cái kia, làm như là sanh vọng tưởng nghĩ ngợi chuyện làm ăn vậy. Thì cái chuyện đó không phải là cái người tu. Người tu là trước khi chúng ta khởi muốn một cái gì đó chúng ta chủ động điều khiển, ngồi xếp bằng lưng ngay thẳng đàng hoàng nơi cảnh yên tịnh chớ không được mà ngồi chỗ giữa chợ, ngồi chỗ đó suy nghĩ như tìm công ăn hoặc là tìm cách mưu mô kế này kế kia để lường gạt người để lấy của. thì điều đó không được.

Ở đây là chỗ giải quyết cái tâm giải thoát, làm cho chúng ta xa lìa các pháp ác thì phải tìm nơi yên tĩnh tịch mịch, rồi ngồi kiết già lưng thẳng, hít thở 10 hơi bình thường. Nghĩa là mình hít thở hơi bình thường, không được thở chậm mà cũng không được thở nhanh. Mà thở bình thường cho tâm gom lại, cho tâm gom lại theo hơi thở bình thường và tâm chuyên nhất trong hơi thở.

Bây giờ tâm nó đã bám chặt trong hơi thở chuyên nhất rồi, bởi vì tâm chuyên. Thì quý vị đặt niệm hướng tâm này ngay trước mặt mà dẫn tâm dứt trừ các ác pháp. Trong khi tu tập quý vị không nên để mất niệm (thất niệm). Cái niệm đặt đó thì quý vị không được quên, một lát quý vị nhớ hơi thở, một lát quý vị nhớ chuyện khác, một lát quý vị không nhớ thì tức là quý vị bị thất niệm. Cho nên Phật dạy thất niệm là không đạt được kết quả gì hết. Vì mất niệm tức là thất niệm mà thất niệm thì tâm mê, dao động thì sự tu không có kết quả.

Cho nên khi đặt cái niệm là phải tập trung trên cái niệm đó. Hồi nãy là mình tập trung trong hơi thở để mình gom cái tâm của mình lại. Khi mình đặt được cái niệm trước mặt rồi, thì cái niệm đó mình nhìn chăm chăm để mà quán xét cái niệm đó, suy tư cái niệm đó, tìm ra cái niệm đó để rồi chúng ta mới thấu suốt cái niệm đó. Có tu như vậy kết quả mới đến với quý vị vĩ đại, lậu hoặc của quý vị mới quét sạch. Còn quý vị tu mà không nghiêm chỉnh thì ngàn đời quý vị cũng chẳng đạt được cái đạo này đâu.

Câu này quý thầy dùng nó làm niệm, khi niệm hướng vừa dứt thì quý thầy tiếp một niệm nữa nhưng phải có một khoảng cách. Nghĩa là cái niệm đặt rồi quý vị quán xét rồi, nhất là vô lậu khi niệm được quán xét thông suốt rồi thì quý vị xả nghỉ không được tiếp tục cái niệm nữa. Nhưng về cái pháp hướng thì cái niệm này quý vị đặt cái niệm đó để quý vị trạch câu đó ra, quý vị hướng tâm, nhắc cái tâm mình rồi, câu này xong rồi thì cần có một khoảng thời gian xả nghỉ rồi quý vị mới đặt câu khác thay vào đó để quý vị trau dồi cái tâm của mình, lòng thương yêu của mình hay là dứt bỏ mạnh hơn nữa. Thì nó cũng phải có một khoảng cách chớ không phải câu này rồi đọc câu khác, đọc câu khác nữa. Quý vị liên tục như vậy thì một người huấn luyện voi, bò trâu mà làm vậy thì con voi, bò trâu nó cũng điên đầu, nó cũng không biết đâu mà làm nữa. Phải tập thuần thục cái này rồi để một chút cho cái tâm nó yên tịnh trở lại rồi mới đặt câu khác.

Đó, hôm nay Thầy dạy như vậy các thầy mới biết cách làm, biết cách tu chứ không khéo các thầy tu điên, tu khùng nữa. Bởi vậy không có kinh nghiệm tu thì làm sao hướng dẫn người ta tu hành được. Mà không hướng dẫn người ta tu được thì Phật pháp mai một, không còn ở trong thế gian này nữa.

 Thì quý thầy tiếp một niệm nữa nhưng phải có khoảng cách, một khoảng cách giữ tâm yên lặng theo hơi thở ra, hơi thở vào.

Quý vị nhớ ông Phật dạy rất kỹ chỗ này. Bởi vì người ta không nghiên cứu được cái giáo pháp của đức Phật. Khi muốn tu Định vô lậu, cũng như định Chánh niệm tỉnh thức, cũng như tất cả mọi thứ định để cho tâm gom lại, Phật nói định niệm hơi thở ra hơi thở vô khéo tác ý là như thế nào?

Bây giờ quý vị đi kinh hành mà để tâm gom vô tập trung thì hơi thở là đối tượng trước mặt quý vị tập trung rất dễ. Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra. Nhắc như vậy, hướng tâm như vậy làm tâm của quý vị gom vô hơi thở. Bây giờ quý vị nói: Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành. Rồi quý vị bước đi, tâm quý vị tập trung vô bước đi đó liền, nó rời hơi thở nó tập trung vô đó. Đi một lát nữa rồi quý vị tác ý: hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra. Tức là quý vị gom lại thân quý vị.Vì hơi thở đó nằm trong thân quý vị, do quý vị gom vào thân nó.

Rồi quý vị nhắc: đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành. Thì ngay đó nó tập trung vô hành động thân của quý vị. Như vậy sức tỉnh thức của quý vị càng ngày càng rõ ra.

Bởi vì Thầy dạy quý vị có cái tụ điểm, các vị phải hiểu, mà có cái tụ điểm lúc nào tâm nó cũng gom nằm đó để nó quan sát tất cả các hành động chớ không phải nó nằm dưới chân của quý vị. Mà nó nằm dưới chân của quý vị thì nó bị thất niệm, cho nên tỉnh giác của quý vị chỉ tỉnh giác mơ hồ chớ chưa phải là tỉnh giác. Vì vậy nhìn qua trong một tháng nay, cái sự sống của quý vị thiếu tỉnh giác cho nên phá Độc cư. Đó quý vị thấy rõ. Cho nên cái sự tu của quý vị có kết quả hay không, là một người thiện hữu tri thức người ta có kinh nghiệm, người ta biết được quý vị tu đúng, tu sai.

Đó lời đức Phật dạy vậy cho nên khi chúng ta nhập Diệt Thọ Tưởng Định chúng ta phải dùng hơi thở mà đi tới, không bao giờ lìa xa hơi thở, vì hơi thở là tụ điểm của chúng ta.

Đó là những cái Thầy đã hiểu biết được Phật và hiểu biết được qua kinh nghiệm tu hành của mình đã làm được những gì, đã thành tựu được những gì.

Khoảng cách giữa tâm im lặng giữa hơi thở ra, hơi thở vào quý vị nhớ phải nhắc tâm không để cho tạp niệm xen vào. Nhờ có nương bám chặt hơi thở thì lúc bấy giờ tạp niệm mới không xen. Do đó hơi thở ra tôi biết hơi thở ra, hơi thở vào tôi biết hơi thở vào.

Khoảng độ 10 hơi thở thì quý vị lại nhắc câu này để trau dồi lòng thương yêu của quý vị, để ngăn ngừa lòng tham lam của quý vị. Quý vị trạch câu này ra để dùng pháp hướng nhắc tâm, như lý tác ý:

Của cải tài sản của ta ta mất ta còn buồn khổ, có thể ta đi đến chết quyên sinh tự tử, lẽ nào ta lấy của người bằng mọi hình thức cho được.

Đó là cái câu này để cho chúng ta tu tập, trau dồi cái tâm chúng ta biết thương cái người mất của, làm cho chúng ta không còn bao giờ nỡ tâm lấy của người nữa. Đó là trau dồi cái tâm của mình, biết nỗi khổ của người khác, là cái người mất của cũng như mình mất của.

Đó là như vậy, mà sự thực hành thì phải như lời Thầy dạy vừa nãy thì quý vị mới có kết quả. Cái câu trước là dứt đoạn, câu này là trau dồi tâm biết thương người, vì thương người không lấy của người. Do vì vậy mà chúng ta phải có khoảng cách câu trên với câu dưới 10 hơi thở. Và 10 hơi thở đó gom tâm làm sức tỉnh thức, làm tụ điểm để chúng ta hướng câu kế trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta đối với muôn người. Vì vậy mà chúng ta không lấy của không cho. Các thầy thấy Thầy dạy có cách thức, có hẳn hòi, có pháp hành rõ ràng, nhưng quý thầy tu sai là quý thầy chịu trách nhiệm chứ thầy không chịu trách nhiệm ở sự tu sai đó. Thầy dạy quý thầy làm đúng thì quý thầy có kết quả mà không đúng thì quý thầy phải chịu lấy.

Câu 3: Tà dâm là một thứ sắc dục không chơn chánh, làm tan cửa nát nhà người và cả mình. Làm đau khổ gia đình mình và gia đình người. Ta phải chấm dứt thói sắc dục bất chánh này, ta ly khai từ bỏ xa lánh, viễn ly vĩnh viễn.

Đó là câu đoạn dứt tâm ưa sắc dục, ưa đi ve vợ người khác, ưa đi làm những chuyện đồi bại phá gia cang người khác. Thì đó là hành động tội ác cực lớn chứ không phải là nhỏ đâu. Làm tan nhà nát cửa người cho nên chúng ta lấy câu này mà nhắc tâm hằng ngày để trau dồi cái tâm mình dứt đoạn không có được cho nó phạm vào tội ác này.

Đây là một câu trạch pháp để dùng hướng tâm đoạn dứt pháp ác, trừ tà dâm thói xấu. Quý vị nào có căn bệnh này thì phải ngày đêm chuyên cần tu tập pháp hướng. Bởi vì có nhiều người mang tật này dữ lắm, còn có nhiều người người ta không có, còn có nhiều người mang tật này rất nặng. Thấy vợ con người ta là thích tới. Đó là những hạng người chuyên môn tà dâm. Cái tâm rất là tệ bạc.

Tà dâm là một tánh rất xấu làm cho con người mất thể diện, thọ tiếng xấu bạc tình bạc nghĩa, muôn đời ta phải dứt bỏ như dứt bỏ một vật thối tha bẩn thỉu nhất.

Đó là câu dứt nữa đó, câu pháp hướng này là câu dứt nữa chớ không phải là câu trau dồi. Cho nên ở đây chúng ta phải nhận ra những câu pháp hướng, trạch pháp ra câu nào cho đúng nghĩa của nó. Và đồng thời trong một thời gian mà tu 2 câu này thì chúng ta cũng phải có một thời gian cách nó ra để tập trung gom tâm lại rồi dùng lực tinh thần của chúng ta mà ra lệnh để cho nó dứt bỏ thì sau này tâm chúng ta nó mạnh dạn, nó xa lìa các pháp ác, nó không còn làm cái đó nữa. Bởi vì thói quen chúng ta mà tà dâm như vậy thì nó có thói quen thích thú của nó, nó có khả hỷ khả lạc nó làm cho chúng ta thích cho nên nó sai khiến chúng ta vì vậy mà chúng ta không dằn được nó, mà không dằn được nó thì chúng ta phạm phải tội ác rất lớn là phá gia cang gia đình của kẻ khác. Cho nên hàng ngày chúng ta tập luyện như vậy, 2 câu, câu trước và câu sau này chúng ta thường phải nhắc nhở khi chúng ta có tật xấu đó.

Tiếp tục quý thầy dùng câu thứ 2 này làm pháp hướng để răn nhắc tâm ḿnh thường xuyên xa lìa tánh xấu ác đó:

Đời người thường ao ước được hạnh phúc cuộc sống lứa đôi, bên nhau trung thành mãi mãi. Chẳng bạc tình bạc nghĩa vậy ta hãy biết thương người, mong cầu đem lại hạnh phúc cho người. Thì tánh tà dâm là một tánh xấu đem lại ta khổ người khổ, gia đình tan nát. Biết thương mình thương người ta hãy dứt trừ tánh xấu này.

Đây là câu pháp hướng gợi lòng thương yêu của người, của mình mà không làm hại gia đình mình, không làm hại gia đình người. Đó là câu pháp hướng trau dồi tâm chúng ta thương yêu mình, thương người đó để không làm cho gia đình tan nát. Đây là câu trạch pháp để hướng tâm nuôi lớn lòng thương yêu với sự an vui hạnh phúc của mọi người, nghĩa là của mình của người ở trong đó nữa, cho nên nhắc cái tâm của mình thường xuyên, dùng câu này nhắc. Khi mà dùng 2 câu trạch pháp trên để đoạn dứt tâm tà dâm thì chúng ta phải dùng câu dưới này để cho an ủi, chúng ta thấu suốt được lòng thương yêu chúng ta đối với sự làm tan nát đôi bên cả gia đình. Đó thì sự tu tập phải trau dồi, phải rèn luyện như vậy gọi là dứt ác mà tăng trưởng thiện.

Câu 4: Người có chánh hạnh (bây giờ về phần 4, tức là về phần ngôn ngữ rồi đó) ngôn ngữ không bao giờ nói chuyện không thật, luôn luôn nói những điều chơn thật không nói láo. Về cái ngôn ngữ, mà cái chánh hạnh ngôn ngữ thì không bao giờ người ta đặt láo nói chuyện không thật, nói lúc nào cũng luôn luôn chân thật.

Nói láo là một lời nói dối gạt người, làm cho người tin theo phải khổ sở, nó là một pháp ác.

Mà nói láo là một pháp ác bởi vì con người ta không chết mà nói chết, con người ta không té sông mà nói té sông. Đó là một điều kiện làm cho người ta khổ sở. Những điều mà nói như vậy điều đó là không đúng. Cho nên trong thời đức Phật ngài La Hầu La mới đến tu thì ông cũng có tật hay nói láo. Do đó có những người đến thăm Phật hỏi đức Phật có trong tịnh xá không? Thì đức Phật có trong đó ông nói không có, họ bỏ đi về. Còn khi nào mà đức Phật không có, ông nói có ở trong đó đó, có ở trong tịnh xá, họ vô tìm không thấy ông Phật đâu hết. Cho nên người ta mới nói với Phật là có chú sa di đó chú hay vọng ngữ quá, chú nói láo dữ lắm. Do đó mà Phật mới dạy cho La Hầu La bằng những đức hạnh như thế nào. Thì có dịp Thầy sẽ thuật lại những cái chuyện đức Phật giáo dục cho đứa con của mình, đứa con một của mình qua những pháp ác mà chú này đã phạm phải trong tuổi còn thơ ấu.

Bây giờ chúng ta trạch pháp ra về cái phần mà nói láo đây:

Nói láo là một tánh xấu ác, ta phải dứt trừ, từ bỏ viễn ly.

Đó là tác ý ngắn đó, ngay đó chúng ta nhấn liền: đó là một tánh xấu ác, ta phải dứt trừ từ bỏ viễn ly.

Câu 2: Nói láo là một tánh xấu ác, ác pháp, làm ta mất uy tín với mọi người. Vậy nay ta hãy từ bỏ, xa lánh pháp này.

Đó, khi mà người ta biết mình nói láo rồi thì sau này mình nói không ai tin mình hết. Cho nên câu thứ 2 nó lại dài hơn để chúng ta thấy rõ sự nói láo là nguy hại cho chính mình.

Câu 3: Ta là người tu tập tứ vô lượng tâm, tâm thương yêu rộng lớn đối với muôn loài, ta nỡ nào dối gạt chúng sanh. Ta phải từ bỏ, xa lánh nói láo để thực hiện lòng thương yêu rộng lớn.

Mình lấy cái lòng từ bi vô lượng của mình đó mà mình áp dụng để xoa dịu cái tâm của mình đừng có nói láo vì nói láo như vậy không đúng cách làm cho người khác khổ. Do đó mà chúng ta trau dồi lòng thương yêu của chúng ta.

Nói láo là không thương chúng sanh và không thương mình, ta phải chấm dứt, đoạn dứt tánh xấu ác này.

Đó là một câu để chúng ta dùng pháp hướng.

Câu 5: Thương người không được nói láo, vì nói láo là không thương người.

Đó là cái câu thứ 5.

Câu thứ 6: Nói láo là một tánh xấu cực ác, ta phải chấm dứt ngay.

Đó cái câu đó cũng là câu ngắn gọn để chúng ta ra lệnh chấm dứt nó đó. Quý thầy là đệ tử của Phật phải tu tập chánh hạnh ngôn ngữ, phải rèn luyện chánh hạnh ngôn ngữ dù bất cứ trong trường hợp nào. Dù chết nát thây các thầy cũng không được nói lời thiếu chân thật. Đó thì cái phần này khi mà chúng ta đã nhận mình là đệ tử của Phật, do đó chúng ta không được nói thiếu lời chân thật. Dù lúc bấy giờ người ta bắt buộc mình phải nói lời dối, mà họ giết mình thì mình thà chết không được nói dối, không được nói láo. Đó là người tu sĩ đạo Phật như vậy.

Cho nên xưa đức Phật có một thời tu tập ở trong núi, có một nhà vua đi săn nai, đuổi con nai, con nai chạy ngang qua chỗ đức Phật rồi chui dưới chỗ tảng đá chỗ đức Phật, mà nằm, mà trốn đó.

Nhà vua chạy đến hỏi ông có thấy con nai của tôi ở đây không thì ông Phật làm thinh.

Nếu mà nói con nai chạy luôn thì là nói vọng ngữ, mà nói con nai chui xuống cục đá của mình, là nói thật thì không vọng ngữ thì ông vua sẽ bắt con vật mà giết đi, thì mình mang cái tội chỉ cho người ta giết chúng sanh, cho nên mang cái tội sát sanh. Cho nên ông Phật ông ngồi tu ông không dám nói gì hết, ông làm thinh. Bởi vì 2 giới này, 2 pháp ác này nó kèm theo một trường hợp, cho nên ông Phật chỉ làm thinh mà chịu. Nhà vua xẻo tai, cắt 2 lỗ tai ông cũng chẳng nói, móc 2 con mắt cũng chẳng nói, chặt tay cũng chẳng nói. Cho nên cuối cùng thì ông thành tựu chỗ giữ gìn giới luật nghiêm túc. Thì các con thấy trong giới luật mà người tu hành người ta giữ có cái nói láo và sát sanh không mà người ta chịu chết đó. Đó thì sự tu tập của chúng ta là đệ tử của Phật hoàn toàn là chúng ta phải giống như Phật. Sau khi dạy Tứ bất hoại tịnh thì thân của Phật như thế nào, ý của Phật như thế nào thì chúng ta phải sống như vậy mới chính là Tứ bất hoại tịnh pháp. Bây giờ chưa tới Thầy chưa giảng dạy, chứ giảng dạy thì những câu chuyện này được nhắc đi nhắc lại cho quý thầy để rèn luyện mình sống đúng như Phật, tức là niệm Phật đó.

Hằng ngày phải rèn luyện, phải siêng năng theo pháp Tứ chánh cần mà tu tập. Nghĩa là phải siêng năng vì cái pháp này là pháp siêng năng, mà siêng năng thì mới dứt ác, mới tăng thiện được. Còn nếu không siêng năng chưa chắc gì chúng ta đã dứt ác được. Vì vốn cái tâm của chúng ta là cái tâm tích lũy, tâm tích trữ những pháp ác nhiều đời nhiều kiếp nên mới có thọ thân này, nếu mà nó đã tích thiện thì nó đâu có thọ thân này, nó phải thọ cái hóa thân. Nghĩa là nó sẽ biến hóa ra cái thân, chứ không phải nó còn cái thân mà sanh chỗ bẩn thỉu, thân mà sanh chỗ dục. Cho nên chúng ta ở đây là do chỗ thai sanh, vì cái tâm của chúng ta nó có những ác pháp cho nên nó mới sanh ở trong thai sanh. Còn những người mà thiện pháp, như Phật ví dụ, những người mà cõi trời thì họ là hóa sanh, họ không có thai sanh. Cho nên có người hỏi Thầy có hóa sanh hay không? Thật sự có hóa sanh. Bởi vì các thầy cứ nghĩ cái người mà tu tập như chúng ta mà khi thân định trên tâm, tâm định trên thân rồi, nhập được Tứ thiền rồi thì người ta ra lệnh thì cái thân này nó sẽ biến muôn ngàn cái thân, thì không phải là hóa thân sao. Ngồi đầy cái rừng này, ngồi đầy cái khu đất này, hàng trăm hàng vạn ông thầy như Thầy giống y mặt nào cũng giống y hết, mà bây giờ Thầy muốn cái thân này...tức là Dục như ý túc mà, muốn cái thân này lớn bằng cả nửa bầu trời này, nó tự nhiên sẽ lớn như vậy đó. Thì các thầy nghĩ có phải hóa không? Nếu không hóa làm sao làm được cái chuyện đó. Cái thân bây lớn đây mà hóa đứng nửa cái bầu trời này thì quý thầy nghĩ như thế nào? Cái chân nó thò xuống là kể như trái đất này nhẹp đi. Thì đó không phải là hóa sao? Vậy cho nên nó có thế giới hóa thân chứ đâu phải không có thế giới hóa thân. Cho nên Phật nói là cõi trời. Khi chúng ta hướng tâm về thiện thì chúng ta sẽ sanh vào hóa thân, mà chúng ta về dục thì chúng ta phải sanh về thai sanh. Đó thì các thầy phải thấy được 4 cái sanh của con người. Cho nên các thầy nghĩ rằng khi chúng ta hoàn toàn dứt dục, không còn tình dục thì chắc chắn con người trên thế gian này không có. Đâu không có, chúng ta hóa sanh mà, như bây giờ Thầy muốn có 100 người ngồi trong khu đất này, Thầy chỉ cần nhập cái định đúng nó thầy câu hữu thì ngay đó nó ngồi 100 người chứ đâu phải một người. Quý thầy ngạc nhiên, quý thầy chưa đến chỗ này quý thầy chưa thấy. Khi nào ở đây có chúng tới đó rồi thì quý thầy trực tiếp thấy, còn bây giờ đem ra biểu diễn coi như làm xiếc cho quý thầy coi thì cái chuyện đó là chuyện mê hoặc, chuyện làm cho người ta không đi vào cái chánh của Phật pháp.

Các thầy nên nhớ chỉ có tùy pháp Tứ chánh cần mà quý thầy dứt ác.

Nghĩa là tùy theo, nương theo Tứ chánh cần đó. Nghĩa là cái pháp tùy, tùy là như thế nào? Bởi vì nương theo pháp đó mà dứt được các ác pháp, tăng trưởng các thiện pháp. Các thầy nên nhớ chỉ có tùy pháp tứ chánh cần mà quý thầy dứt ác, làm thiện. Đó là con đường đạo đức nhơn quả chơn chánh của đạo Phật. Đó thì con đường đạo đức chơn chánh của đạo Phật thì nó chỉ có Tứ chánh cần là nó giúp cho quý thầy thực hiện được nhơn quả chân chánh của nó, nghĩa là đem lại những quả thiện, nhân thiện. Mà chính đức Phật đã xây dựng đạo pháp của mình, giáo lý của mình trên con đường của nhân quả, trên cái nền tảng của đạo đức nhân quả.

Quý thầy phải lấy những câu trên mà thầy đã trạch ra pháp để quý thầy dùng nó hướng tâm NHƯ LÝ TÁC Ý. Hằng ngày phải siêng năng tinh tấn đặt niệm trước mặt, đừng để thất niệm, chuyên cần tu tập, như vậy tâm quý vị thanh tịnh. Quý vị sẽ chỉ được các hành trong thân, nhập chánh định, dẫn tâm đến Tam minh, quý vị thành tựu đạo giải thoát.

Nghĩa là chỉ cần tu Tứ chánh cần, thực hiện được trí tuệ, thực hiện được các pháp thiện thì tâm quý vị nó sẽ thanh tịnh. Mà khi thanh tịnh đó thì quý vị mới chỉ được các hành ở trong thân của quý vị. Mà chỉ được các hành trong thân thì quý vị thân tâm mới nhập định được, mà nhập định được thì quý vị mới hướng tâm đến Tam minh, quý vị mới thành tựu được đạo giải thoát vô lậu.

Nó không đơn giản, mà chỉ bắt đầu vô từng pháp đã có những hiệu quả của nó, cho nên chúng ta càng đi sâu thì chúng ta thấy pháp này nó bổ túc cho pháp kia. Nhưng mục đích của nó là nhắm vào dứt ác mà tùng thiện, tăng trưởng thiện để thực hiện được cái tâm thanh tịnh không còn một chút ác pháp trong đó. Do vì vậy đó mà nó mới tịnh, mới chỉ được các hành, làm chủ được sự sống chết ở trong thân của chúng ta.

5. Quý thầy là những người tu sĩ đạo Phật, quý thầy phải giữ gìn chánh hạnh trong ngôn ngữ, quý thầy không được nói xấu ác, không được đặt điều ra nói xấu hoặc vu khống cho người.

Đó thì cái phần nói về ác xấu đó, nói về chánh hạnh của ngôn ngữ thì nó có 4 cái phần, những cái phần trước thì quý thầy đã học rồi, bây giờ tới cái phần mà mình nói xấu người khác. Mà cái người trau luyện giữ gìn chánh hạnh ngôn ngữ thì không được nói xấu ai, người ta làm xấu thì người ta xấu, không được đặt điều ra nói xấu người khác hoặc là vu khống người khác, người ta không làm việc đó mình nói người ta làm. Ví dụ người ta không ăn trộm mình nói người ta ăn trộm, người ta không lấy của mình mình nói người ta lấy của mình, thì điều đó là đặt ra mình vu khống, vu oan người ta. Thì cái đó người mà trau dồi chánh hạnh ngôn ngữ thì không được nói những điều đó. Đây là pháp ác thứ 5 quý thầy cần phải tu tập trau dồi tâm mình để đoạn dứt, từ bỏ, để được xa lánh tánh ác này. Có nhiều người họ lấy sự mà nói xấu người hoặc đặt điều ra nói xấu người họ thích lắm, họ làm cái đó họ thấy thích thú lắm, cho nên họ thường hay đem chuyện người này nói chuyện người kia, nói xấu người ta, thì cái tánh đó là cái xấu ác, ngôn ngữ đó không phải là chánh hạnh trong ngôn ngữ, mà đó là những ngôn ngữ tệ bại, những ngôn ngữ không có ra gì.

Đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết là một điều ác, làm cho người khác đau khổ, ta phải dứt trừ, từ bỏ viễn ly tật xấu ác này.

Đây là câu hướng đây, đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết là một điều ác làm cho người khác đau khổ ta phải dứt trừ, từ bỏ viễn ly tật xấu ác pháp này.

Câu 2: Đặt điều ra nói xấu người là một pháp ác, là một tánh xấu tệ của ta, ta phải dứt trừ, ta phải từ bỏ như bệnh cùi.

Đó là câu thứ 2 của pháp hướng

Câu thứ 3: Nói lời vu khống oan ức khiến người ta tức tối sanh ra tự tử, quyên sinh hoặc oan ức tù tội tử hình đó là một pháp ác, một pháp cực ác, ta phải từ bỏ, dứt bỏ vĩnh viễn.

Đó là câu 3.

Câu 4: Ta là tu sĩ đạo từ bi, thương khắp chúng sinh nỡ nào đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết để cho người khổ sở như vậy, là ta làm mất từ bi nên ta phải dứt bỏ tật xấu ác này vĩnh viễn.

Đó là những điều kiện mà ta cần phải dùng pháp hướng này để trau dồi và để dứt bỏ tâm chúng ta trong những ngôn ngữ thiếu chánh hạnh.

Câu 6: Ta là người trau dồi lòng thương khắp chúng sanh nỡ nào ta đặt điều nói xấu người, nói xấu người là một điều cực ác như vậy, ta không còn là con người biết thương chúng sanh. Vậy từ đây ta phải bỏ tật xấu này.

Đó là một câu để chúng ta ngăn ngừa cái ngôn ngữ không được chánh hạnh.

Vu khống, nói oan ức cho người là một hành động tà ngôn hạnh, giết người bằng gươm miệng rất là ác độc.

Đó mình vu khống người ta, là mình giết người ta bằng cái lưỡi gươm miệng của mình, cho nên mình phải dứt bỏ.

Người tu sĩ đạo từ bi thương khắp chúng sanh ta phải dứt trừ vĩnh viễn tà hạnh ngôn ngữ này để thực hiện lòng thương yêu phủ trùm vạn hữu.

Đó thì câu này là câu trau dồi tâm thương yêu của chúng ta. Ở đây quý thầy nhớ kỹ lấy những câu trạch pháp này làm pháp hướng như lý tác ý để thường xuyên dứt bỏ và trau dồi lòng thương yêu chúng sanh rộng lớn, phải nghiêm chỉnh tu tập đừng để thất niệm, có như vậy quý thầy mới chứng được đạo quả bồ đề.

Thì đến phần này chúng ta dứt được 4 cái khẩu nghiệp mà nó không chánh hạnh, cho nên phải cố gắng mà trau dồi. Người ta tai họa mà xảy ra đều do cái miệng lưỡi của chúng ta mà ra. Cho nên hầu như quý thầy không thấy hạnh độc cư, vì hạnh độc cư nó giúp cho quý thầy ngăn chặn được 4 điều xấu ác của cái miệng chúng ta. Người làm thinh thì không bao giờ xảy ra 4 cái ác khẩu này, mà người hay nói chuyện thì luôn luôn xảy ra 4 ác khẩu này. Nghĩa là nói nặng nói nhẹ người, từ người này, từ người kia, thì đó là những ác khẩu chứ không phải những thiện khẩu. Vì thiện khẩu thì thương yêu nhau làm sao có từ giã nhau, làm sao có từ khước nhau, đó là những điều ác khẩu. Cho nên ở đây những người dùng ác khẩu thì chúng ta biết là những người nhiều chuyện, hay nói chuyện, mà người không dùng ác khẩu thì là người không nói chuyện, mà không nói chuyện tức là độc cư. Dù các thầy có nói lời lành đi nữa, nhưng lời lành đó chưa hẳn đã là lành vì trong đó có hàm ý những gì cá nhân của mình trong đó, mà có những lời nói có cá nhân trong đó chắc là không phải lành.

Quán xét cho cùng chúng ta thấy lời nói là một tai hại rất lớn cho loài người, nếu mọi người không nói thì chắc chắn là cảnh giới ở thế gian này có thể gọi là thiên đàng. Lời nói là để biểu diễn ý nghĩ của chúng ta, nhưng ý nghĩ sao lại là thương, là tốt mà lời nói để mọi người hiểu ý ta mà lại làm cho đau khổ thì đó là cảnh giới thế gian này trở thành địa ngục.

7. Lời nói hung ác là lời nói dữ tợn làm cho người ta khiếp sợ, chửi rủa, mạ nhục, lời nói nạt nộ làm cho người ta khiếp đảm, hăm dọa, đe dọa nói chung là lời nói hung dữ. Làm cho chúng sanh sợ hãi đó là lời nói tội rất ác lớn khiến cho ta sợ hãi bất an, vì thế chúng ta là những người tu sĩ đạo Phật luôn luôn phải giúp chúng sanh đừng sợ hãi. Phải cho họ những lời nói, những hành động yêu quý khiến cho họ không sợ và được an ổn vui mừng. Muốn được ban vui cứu khổ phò nguy cho chúng sinh thì ta phải luôn luôn tu tập dứt bỏ lời nói hung dữ.

Lời nói hung dữ là lời nói cực ác làm cho chúng sinh sợ hãi, ta hãy mạnh dạn quyết tâm từ bỏ xa lìa đoạn dứt lời nói hung dữ.

Đó là câu hướng tâm thứ nhất.

Câu hướng tâm thứ 2:

Từ đây về sau ta không được to tiếng, lớn tiếng bất kỳ với ai vì to tiếng lớn tiếng là lời nói hung dữ. Ta phải dứt bỏ và từ giã nó để chúng sinh không còn sợ hãi nữa.

Đó là câu 2.

Câu 3: Ta là người tu sĩ đạo Phật phải biết thương người, cớ sao ta lại dùng lời nói hung dữ để làm cho mọi người sợ hãi, từ đây thương người ta không được nói lời hung dữ nữa.

Đó là câu 3.

Câu 4: Tâm ta luôn luôn thương khắp chúng sinh, ban rải lòng từ khắp cùng, không làm cho chúng sinh sợ hãi. Vậy ta phải luôn luôn có những lời nói ôn tồn, nhã nhặn, từ hòa, sáng suốt, đúng thời.

Đó là câu 4.

Này quý thầy, quý thầy phải siêng năng dùng những câu pháp hướng này, đã trạch pháp tốt đẹp, cứ tùy theo pháp, tùy theo tâm, tùy theo sức mà nỗ lực tu tập trau dồi cho đúng cách. Đến đây thì Thầy nói cho quý thầy thấy, bây giờ mình đặt ra rất nhiều nhưng mình phải lựa câu nào cho hợp với mình, rồi tùy cái sức khỏe của mình, chứ không phải điên khùng mình thấy câu nào cũng ngồi liên tục mà trau dồi, mà hướng tâm mà nhắc thế này thế khác đâu. Ngồi riết cơ thể của quý thầy mỏi mệt, rồi quý thầy đâm ra ác pháp ở trong đó chứ không phải là thiện pháp nữa. Cho nên chúng ta lượng cái sức của mình, mỗi ngày chúng ta dùng một câu hoặc 2 câu cũng đủ lắm rồi, đâu cần phải tu cho nhiều. Tu mà vừa sức với nó chúng ta mới thấy có sự an lạc, tu quá điên đầu, muốn tu cho mau thành Phật thì cái chuyện đó là chuyện sai. Chúng ta trau dồi đâu có nghĩa là trong một bữa. Muốn huấn luyện một con vật chúng ta cũng phải từ từ, 5 tháng, 3 tháng nó sẽ trở thành thuần thục, chớ chúng ta vội vàng nghe như vậy rồi ngồi li bì rồi quán li bì, rồi ngồi li bì mà hướng lu bù, tu không biết cơ thể mình ra sao, không biết sức khỏe mình ra sao. Tu riết chán nản, hết muốn tu nữa. Đó là cái sai, cái không đúng, cho nên Thầy thường nhắc nhở là mình phải tùy theo sức, nghĩa là mỗi ngày mình chia ra mình tu 1 lần, 2 lần là đủ lắm rồi. Để cho mình được xả nghỉ, tâm hồn mình được thanh thản, tâm mình nó có sức gom lại. Còn mình tu vừa gom đó bây giờ gom nữa, gom riết, cái đầu óc nó đen tối, cái đầu óc nó rối loạn không còn bình tĩnh sáng suốt, nó mệt nhọc, nằm đâu thì nó muốn ngủ đó rồi. Thì bây giờ nó từ cái sai này nó dẫn đi đến cái sai khác, cuối cùng thì quý thầy chẳng thấy đạo, mà thấy mình gần như muốn điên. Nói thì nhiều nhưng mà chọn ra những câu đúng để chúng ta tùy theo căn cơ của mình mà lấy những câu pháp hướng đó mà tu tập cho chín chắn và nó phải hợp thời, hợp lý, hợp sức khỏe. Những điều này Thầy chú ý quý thầy rất nhiều. Quý thầy có nhớ kỹ như vậy thì quý thầy trau dồi, tu tập thì nó mới có kết quả lớn.

Đây thầy nhắc lại: Này quý thầy, quý thầy phải siêng năng dùng những câu pháp hướng này, đã trạch pháp tốt đẹp, cứ tùy theo pháp, tùy theo tâm, tùy theo sức mà nỗ lực tu tập trau dồi cho đúng cách thì kết quả đến với quý vị rõ ràng. Vì quý thầy thường dùng pháp hướng nên pháp này có hiệu quả rất lớn, nghĩa là hàng ngày mình cứ dùng pháp hướng mình tu tập đó, hiệu quả của nó rất lớn. Pháp hướng là pháp dùng tinh thần để mà điều khiển, quý thầy lưu ý cái phần đó. Còn bây giờ quý thầy mà vận dụng tập trung là quý thầy dùng cái sức tập trung, mặc dù nó có tinh thần tập trung thật nhưng mà nó ức chế. Mà quý thầy còn phải dùng cơ để mà thở cách này cách khác đó là sự ức chế, nó không phải đâu. Còn vô pháp hướng chúng ta dùng tinh thần chúng ta hét lên một tiếng rồi chúng ta thản nhiên như thường, cho nên nó không có kéo dài cái sự tập trung, cho nên nó không ức chế ai hết. Mà cái sức tinh thần ra lệnh nó mạnh hơn cái sức ức chế của chúng ta nhiều. Cái sức tập trung của chúng ta càng ngày nó làm cho cơ thể chúng ta mất đi sức khỏe và nó không đạt đến cái độ cao cũng như cái sức tinh thần của chúng ta. Cho nên khi mà pháp hướng quý vị mà tu tập như vậy sau này nó, pháp hướng nó rất là hiệu quả, mà nó rất hiệu quả thì tới chừng quý thầy muốn nhập định thì chỉ cần ra lệnh là nó nhập định, bảo nó các hành phải ngưng, hơi thở phải ngưng là nó ngưng liền, thì quý thầy sẽ nhập được tứ thiền liền. Vì quý thầy thường dùng pháp hướng nên pháp này có hiệu quả rất lớn, về sau quý thầy chỉ cần hướng tâm là quý thầy đã nhập định Tứ thiền tức khắc, không phải chờ đợi lâu dài. Cho nên quý thầy nghe ở trong kinh điển Phật dạy, có nhiều người họ tu quét sạch cái vô lậu mà họ dùng pháp hướng, pháp tùy thôi, chỉ có pháp ví dụ như trên thân quán thân họ thôi, rồi họ dùng pháp hướng như vậy, cuối cùng họ nương theo pháp tùy của TỨ NIỆM XỨ hoặc là TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, họ dùng như vậy cho nên cái pháp hướng nó hiệu quả, đến khi vô Tứ thiền họ chỉ ra lệnh là nhập Tứ thiền. Cho nên trong vòng tuần lễ hoặc là nửa tháng là họ đã nhập Tứ thiền. Mình thấy trời ơi sao mình tu lâu quá, mà Tứ thiền vất vả vô cùng, mà sao quý tỳ kheo trong thời đức Phật sao họ tu dễ vậy. Đó là tại vì mình tu không đúng cách, chớ không phải là nó khó. Tại vì pháp hướng là pháp truyền lệnh của tinh thần rất mạnh, còn pháp mình đang tu đây là mình ức chế tâm của mình để vào 4 thiền cho nên nó rất khó khăn, đâu phải dễ.

Để làm sáng tỏ sự trau dồi tu tập các hành động thân tâm của quý vị đi về hướng thiện pháp thì quý vị cần phải lưu ý bài kệ này để quý vị thực hiện Từ vô lượng tâm và Tứ chánh cần cho được viên mãn. Đây bây giờ Thầy sẽ đọc bài kệ này để quý thầy biết được cái Tứ chánh cần với cái Từ vô lượng tâm, hai cái nó kết hợp để nó thành ra một bài kệ mà chúng ta theo đó mà chúng ta tu tập các thiện pháp:

Từ tình thương ta được sinh ra

Do tình thương ta được nuôi lớn

Có tình thương ta sống chan hòa

Nhờ tình thương chúng ta giải thoát

Từ tình thương ta được sinh ra.Đó quý thầy thấy không, nếu cha mẹ mà không thương nhau làm sao mình có mình đây. Cho nên từ cái tình thương cha mẹ mới sinh mình ra.

Do tình thương ta được nuôi lớn.Nếu mà cha mẹ sinh con ra mà không thương thì quăng nó ngoài đồng chứ làm gì mà nuôi, ôm ẵm nó còn bé bỏng như vậy quá là cực khổ chứ phải đâu mà. Bây giờ cứ thử hỏi quý thầy ẵm con người ta mà nuôi đi, nếu mà không thương quý thầy ôm ẵm nổi không? Rất là vất vả cực khổ cho nên do tình thương mà ta được nuôi lớn.

Có tình thương ta sống chan hòa.Quý thầy thấy rõ, nếu mà chúng ta không có tình thương thì chúng ta chưa sống với vạn hữu đâu, cho nên từ bi hỉ xả đó là cái tình thương của chúng ta để sống chan hòa với vạn hữu. Cho nên chúng ta phải tập luyện nó chứ không thể nào nó có được tình thương đó được.

Nhờ tình thương chúng ta giải thoát.Vì chúng ta thực tập như vậy đó, do đó tình thương chúng ta đối với các pháp chúng ta được giải thoát không còn bị chướng tâm, không có bị chướng ngại nữa.

Đó thì trong một cái tình thương, trong tình thương đó mà chúng ta ở đây có một bài kệ: Từ - Do - Có - Nhờ. Bốn cái chữ Từ - Do - Có - Nhờ mà chúng ta được giải thoát. Nếu chúng ta thiếu thì chúng ta không giải thoát. Không có từ tình thương cha mẹ sinh ra thì ta có con người đâu mà tu tập, phải không?(BBT:CĐ,15A,E00:44:34) Cho nên Phật gọi người sinh mình ra gọi là đại bố thí. Bây giờ do tình thương ta mới được nuôi lớn. Nếu mà không có tình thương của (BBT:CĐ,15B,B00:00:00)cha mẹ thì làm sao mà nuôi lớn. Do đó:

Công cha như núi thái sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Có ơn nào bằng ơn sinh thành dưỡng dục đâu. Cho nên đó là cái lớn, cái đại bố thí của chúng ta.

Rồi bây giờ chúng ta muốn được cái sự an ổn, cái sự hạnh phúc, sự an vui sự giải thoát nơi tâm hồn của mình thì mình phải tu tập rèn luyện tình thương đó thì mình mới sống hòa tan được trong vạn hữu, trong mọi người. Còn bây giờ quý thầy đâu có thương, quý thầy thương quý thầy á nên động ai quý thầy cũng xạc hết à, cũng mắng, cũng chửi người ta được hết, thì như vậy là có hòa chan sự sống với ai được không? Cho nên chúng ta phải tu tập Tứ vô lượng tâm. Mà tu tập Tứ vô lượng tâm mà không có dứt bỏ các pháp ác thì không thể có được Tứ vô lượng tâm, cho nên phải có Tứ chánh cần. Các thầy thấy 2 câu dưới chúng ta thấy con đường tu chúng ta rất rõ. Rồi nhờ tình thương chúng ta mới giải thoát. Do đó chúng ta mới thấy con đường giải thoát chúng ta cho đến khi đó tâm bất động trước mọi cảnh mà. Mục đích của đạo Phật là như vậy, bất động trước mọi cảnh chứ đâu phải do thiền định, do cái gì.

Đó là chỗ chúng ta thấy được 4 câu kệ này để chúng ta theo đó mà chúng ta tu tập Tứ vô lượng tâm và Tứ chánh cần, cho nên một cặp pháp này phải song song với nhau, theo nhau mà tu tập. Bài kệ này quý thầy phải hiểu:

- Từ tình thương cha mẹ thương nhau mới sinh chúng ta, chúng ta mới có ra đời, ơn rất nặng, nên Phật gọi cha mẹ là đại bố thí.

- Do tình thương chúng ta được nuôi lớn: khi sinh chúng ta ra, cha mẹ thấy mặt ta tự nhiên sinh lòng thương con hơn thương một vật gì khác trên đời này, nên tận tụy hy sinh mình nên cha chịu vất vả dầm sương giãi nắng chịu cực khổ nuôi dưỡng con. Mẹ ăn đắng nằm cay chịu ướt chịu hôi, chịu thối để con được lớn khôn nên người, biết bao kể xiết công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, chỉ vì lòng thương mà chẳng bao giờ than thân trách phận, chỉ thấy con mạnh khỏe an vui là sung sướng nhất cho mình. Vì lòng thương cha mẹ phải vượt qua những nỗi nhọc nhằn, những nỗi khổ đau.

Có tình thương ta sống chan hòa.Vì tình thương có 2 loại. Ở đây đến chỗ này chúng ta mới phân biệt, 2 câu dưới này chúng ta mới phân biệt để chúng ta thấy có 2 loại tình thương: một loại thương hạn hẹp, thương cá nhân mình, do tình thương này mà tạo ra muôn ngàn thứ đau khổ cho mình, cho người, tình thương này gọi là tình thương ích kỷ, tình thương nhỏ mọn, tình thương hạn hẹp chỉ biết thương mình, chẳng biết thương ai, đó là tình thương rất là nhỏ. Chỉ có lo cho mình thôi, như nhà vua mà nói thương bà hoàng hậu, mà bà đi với ai thì nhà vua giết bà. Đó, thì đó là thương ích kỷ, thương nhỏ đó chớ không phải thương lớn đâu. Hai: tình thương rộng lớn, từ bi vô lượng, Tứ vô lượng tâm đó, là tình thương rộng lớn vô lượng vô cùng, tình thương này giải thoát cá nhân thoát khỏi bản ngã con người, tình thương bao la vô bờ bến. Nó làm chúng ta thoát ra khỏi cái cá nhân của mình, cái ích kỷ của mình.

Hai câu trên là tình thương hạn hẹp, nghĩa là thương cha mẹ, thương con, thương này kia đó là thương hạn hẹp đó, nhưng nó cũng xuất phát từ lòng thương, lòng thương yêu này là lòng thương yêu vô minh, phải xét lòng thương yêu hạn hẹp đó là lòng thương yêu vô minh, không thấy xa nên thương mà khổ, gói ghém trong ích kỷ. Nhưng cũng nhờ có tình thương mà ta mới có mặt trên hành tinh này, nghĩa là dù nó hạn hẹp nhưng nó có tình thương chúng ta mới có sự hiện hữu ở trên cái hành tinh này. Từ tình thương cá nhân nhỏ hẹp này ta chuyển biến trau dồi, lần lần tình thương này bằng một cái trí tuệ minh mẫn, thoát ra ích kỷ nhỏ mọn, hẹp hòi, từ đó biến tình thương này trở thành tâm từ bi vô lượng. Từ cái tình thương đó, bây giờ chúng ta thấy 2 tình thương có khác nhau không? Nhưng mà chúng ta biến dần, biến dần làm cho chúng ta sáng suốt ra không còn vô minh nữa, cho đến chúng ta dẹp được những nhỏ mọn ích kỷ của chúng ta thì đến đó cái tâm từ bi vô lượng của ta nó sẽ thực hiện rộng lớn ra. Khi đã thấm nhuần lòng đại từ bi vô lượng này thì tâm hồn ta bất động trước vạn pháp.

Các thầy thấy chỉ có tu Tứ vô lượng tâm không, tu Tứ chánh cần không mà bất động trước vạn pháp, thì đó là mục đích của đạo Phật rồi còn phải tu cái gì nữa. Như vậy lúc bấy giờ chúng ta có định không? Có. Tại sao? Tại vì chúng ta có cần tu nó đâu, chúng ta chỉ cần dùng pháp hướng mà ra lệnh các hành ngưng là chúng ta đã làm chủ cái sống chết, thì nhập Tứ thiền rồi, đồng thời lúc đó chúng ta. Bởi vì cái pháp hướng nó có hiệu quả, nó là cái sức lực của tinh thần của chúng ta đã từng tập trau dồi những cái này mà nó thành tựu những pháp này thì lúc bấy giờ chúng ta chỉ cần ra lệnh là chúng ta, có cần tập tu Tứ thiền đâu. Cho nên khi nghe các thầy tỳ kheo chỉ cần hít thở trong mấy cái là các thầy đã nhập Tứ thiền trong một ngày, hai ngày hoặc là một đêm mà người ta đã nhập Tứ thiền, mà nhập Tứ thiền xong, thì ông Anan ông khỏi cần mở cửa hang ông cũng chui vô được, qua được. Thì các thầy thấy đó không phải là câu hữu Tứ như ý túc sao. Cái chuyện ở đây quá thật chứ không phải cái chuyện mà nói dối đâu. Đó là cái chuyện trên thân khi mà cái pháp hướng mà đã hiệu quả. Bởi vì mục đích của chúng ta là tu tập cái pháp hướng chứ không phải là tu tập cái ức chế, mà tu tập cái ức chế nó sẽ trở thành thiền tà, thiền bậy không đúng. Ngồi đây mà giữ tâm không vọng tưởng đó là ức chế, ngồi đây để nhiếp tâm trong hơi thở để đè nén tâm không vọng tưởng đó là ức chế, cái đó sai. Bởi vì ly dục ly ác pháp là tâm chúng ta thanh thản, là định chứ đâu có gì khác hơn. Mà khi tâm thanh tịnh định là chúng ta điều khiển cái pháp hướng thì làm gì không ngừng, một thân biến ra muôn thân thì cái đó là dùng pháp hướng chứ gì. Vì chúng ta Dục như ý túc, cái muốn của chúng ta muốn như thế nào, bây giờ chúng ta muốn cái thân này ngưng thở thì nó phải ngưng thở. Thì các thầy cần gì phải rèn luyện hằng ngày, phải nhắc nó ngưng đâu, còn bây giờ chúng ta ở trên hơi thở mà bảo nó cứ ngưng, ngưng hoài mà nó có ngưng được đâu. Đó là cái tu sai chứ không phải tu đúng pháp.

Bây giờ Thầy nhắc trở lại để cho quý thầy thấy con đường của đạo Phật là nhắm ở chỗ nào? Chỗ tâm thanh tịnh. Mà tâm thanh tịnh thì ác pháp phải lìa, ác pháp còn, tâm ham muốn còn thì không bao giờ là tâm thanh tịnh.

Sống chan hòa cùng muôn loài vạn vật cỏ cây bên nhau, thương yêu thắm thía. Có tình thương ta sống chan hòa. Lúc bấy giờ tình thương đó luôn luôn ngự trị trong tâm ta khiến tâm ta thanh tịnh và an lạc, không còn ô nhiễm các pháp thế gian, do thế ta chỉ các hành trong thân, nhập định ngay tức khắc, làm chủ được sống chết. Và cũng từ nơi tâm thanh tịnh, an lạc đó ta hướng tâm đến Tam minh, thế là phạm hạnh đã xong không còn trở lui cuộc đời này nữa.

- Nhờ tình thương chúng ta giải thoát, hai câu cuối cùng chỉ cho tình thương rộng lớn. Câu trên chỉ cho sự trau dồi tâm từ bi hỷ xả vô lượng câu dưới chỉ cho tâm từ bi hỷ xả viên mãn được đạo giải thoát.

Bây giờ quý thầy tiếp tục tu tập dứt trừ các pháp ác và trau dồi các pháp thiện. Như hồi nãy chúng ta đã học tập và trau dồi pháp ác và trau dồi pháp thiện thứ 7. Kế đến chúng ta trau dồi pháp thiện thứ 8 và dứt bỏ pháp ác thứ 8. Đó vừa nãy chúng ta mới trau dồi được cái thứ 7 rồi chúng ta đọc bài kệ để chúng ta biết từ tình thương ích kỷ rồi chúng ta biến dần biến dần nó thành tu tập cái tình thương rộng lớn, tâm từ bi hỷ xả rộng lớn vô lượng, rồi từ đó chúng ta mới thấy mục đích của thiền định là không có tập thiền định chút nào hết, chỉ có dùng pháp hướng mà chúng ta đã nhập thiền định và từ đó chúng ta câu hữu tất cả những gì chúng ta muốn là nó theo ý muốn của chúng ta, tức là Dục như ý túc. Bây giờ chúng ta học về cái phần ý, ý nó có 3 cái pháp ác. Do ý nó có 3 pháp ác thì chúng ta phải xem pháp ác nào trước của nó.

8.Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó thường khiến ta ham muốn nhiều. Đó thì bây giờ cái tham lam này là cái dục đó, quý thầy sẽ thấy tới đây là cái bài phân tích ra từng khía cạnh của cái tâm tham của chúng ta. Thầy sẽ phân tích ra để quý thầy thấy. Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó khiến ta ham muốn nhiều, thấy cái gì cũng muốn, do sự ham muốn này đầu tiên là ta đã tự tạo cho mình khổ, kế đến là tạo cho người khác khổ. Vì mình ham muốn cái này cái kia là nó đã tạo cho mình khổ rồi. Chạy theo nó, phải làm ra có tiền có bạc để sắm ra nó. Muốn cái này, muốn cái kia, thì cái nào nó cũng tạo ra cho chúng ta khổ. Rồi do đó nếu không có tiền có bạc thì sanh ra trộm cướp, mới lấy của người, mới biển thủ cái này cái kia, để cho gian lận ở trong đó mới có ra mà sắm những ham muốn đó.

Đó là những tội ác do cái tâm tham này mà nó sinh ra muôn vàn tội ác không? Tất cả những cái tội gì ác là nó làm sạch hết. Phật gọi tâm ham muốn này là dục, là nguồn gốc khổ của loài người. Đó thì cái tâm ham muốn là nguồn gốc khổ, nó tập hợp tất cả những pháp ác lại để nó thực hiện được cái ham muốn của nó, cho nên nó là nguồn gốc khổ.

Vậy chúng ta hãy truy ra coi từ đâu mà có dục, mình phải truy ra từ đâu mà nó sinh ra cái dục này? Coi từ đâu mà có tham lam? Phải truy ra, nếu mà không truy ra thì chúng ta nghe nói dục mà chúng ta chẳng hiểu ở đâu hết, nó ở trong bụng của mình thì nó ham muốn là nó muốn chứ mình không biết cái gốc của nó thì làm sao mình đốn được cái gốc. Mình phải biết được cái gốc, rồi cái gốc đó nó đi ra như thế nào, chừng đó chúng ta phải chặt tỉa như thế nào để tới gốc, mới là đốn sạch nó mới được.


Như Phật đã dạy: do duyên thủ mà gồm có, thủ là mình giữ lại đó. Bây giờ giữ lại cái ghế, cái bàn kia, do duyên đó mà nó mới có ra dục thủ, là muốn giữ đó. Mình muốn có cái này kia tức là nó có cái dục thủ ở trong đó. Hai là kiến thủ, những cái hiểu biết của mình cái gì đó là mình giữ lại, thì khi mình giữ lại. Thì thứ 3 là nó có giới cấm thủ, giới cấm thủ thì nghĩa là cái đó có giới hạn rồi đó, nghĩa là ai mà chạm đến thì không được đó. Đó thì lần lượt mình sẽ triển khai ra tất cả những cái này để mình thấy được cái chỗ mà mình có cái tham, cái dục như thế đó. Bốn: Ngã chấp thủ. Bây giờ từ chỗ đó nó có xây xung quanh rồi, xây xung quanh của mình đồ đạc này kia rồi, bắt đầu từ đó của mình thì bắt đầu có cái ngã chấp rồi. Do cái chấp thủ này gồm có 3 loại hữu, đức Phật chia nó ra làm có 3 loại hữu. Bởi vì thủ rồi nó mới có hữu. Cho nên do cái chấp thủ đó nó mới sanh ra 3 cái hữu.

- Một là dục hữu.

- Hai là sắc hữu.

- Ba là vô sắc hữu.

Nó chia ra làm như vậy.

Dục hữulà cái lòng muốn có của mình. Rồi sắc hữu là cái vật đó nó sinh ra mình có. Vô sắc hữu là những vật không có mà mình tưởng tượng ra để rồi mình chạy theo nó.

Do hữu mới có cái ái, ái thì gồm có 6 cái. Nó đi tuần tự tuần tự rồi tới chỗ các thầy sẽ thấy nó tới cái chỗ nào đây, nó đi từng phần, từng phần để mà chúng ta sẽ thấy. Ái thì gồm có 6 cái:

Một là sắc ái, bây giờ mình thấy cái bàn cái ghế này mình thích đó là sắc ái.

Hai là thanh ái, mình nghe âm thanh mình thích.

Ba là hương ái,mình nghe cái mùi hương thơm mình thích.

Bốn là vị ái, mình ăn miếng gì ngon ngọt mình thích.

Năm là xúc ái, mình chạm mình nghe êm ái thích thú, thì đó là xúc ái.

Sáu là pháp ái,mình nghe cái gì mà vừa tai, nghe cái gì mà nó thích thú ở trong lòng của mình, ví dụ như người ta nói: có một vật gì thường hằng hoặc có 1 thế giới Cực lạc Tây phương nào đó. Mình nghe mình nghĩ mình chết cũng sanh về đó đó, thì đó là cái pháp ái.

Cho nên nghe cái đó rồi mình chấp cái đó đi, mình chết về đó sung sướng như vậy, thích thú như vậy, ở đó là nhà cửa lầu đài hoặc là ăn uống gì đầy đủ như cõi Cực Lạc vậy, thì do đó là mình bị pháp ái.

Do ái mà sinh ra thọ. Có ái thì nó mới sinh ra cái thọ. Thọ gồm có 6 thọ. Lần lượt mình truy ra chỗ nào đó đặng mình biết được cái gốc của nó mình đoạn dứt:

Một là nhãn xúc sở sanh thọ. Cái mắt của mình nó chạm vào một cái vật gì đó, như bây giờ Thầy thấy cái đồng hồ đây, tức con mắt Thầy chạm vào đó thì nó sinh ra thọ, nó sinh ra cái thọ tức là nó muốn cái vật đó.

Nhĩ xúc sở sanh ra thọ.Cái lỗ tai mình tiếp xúc với âm thanh nó sanh ra thọ thích cái âm thanh đó.

Tỷ xúc nó sinh ra thọ.Tỷ là cái lỗ mũi mình, thì nó xúc với cái hương thơm nó mới sinh ra cái thọ hương thơm.

Thiệt xúc thì nó sở sinh ra thọ.Thì thiệt, cái lưỡi của mình mà nó chạm xúc với đồ ăn nó thấy ngon thì nó sinh ra cái thọ ngon.

Thân xúc nó sở sinh ra thọ. Cái thân xúc của mình nó chạm vào chỗ êm ấm hoặc là nóng mát, nó sinh ra cái thọ biết nóng mát, biết êm ấm, đó là nó sinh ra cái thọ.

Ý xúc sở sinh ra thọ.Ý của mình nó tiếp xúc với các pháp thì nó sở sinh ra cái đó là pháp đúng, pháp sai, cái đó là pháp thiện pháp ác. Thì đó nó sinh ra cái thọ đó.

Thì như vậy chúng ta đã thấy lần lượt nó đã sở sanh ra những cái thọ như vậy. Do có thọ mà sanh ra ái. Có 11 duyên kế tiếp để tạo thành ác pháp, bất thiện pháp trong thế gian này.

Bây giờ chúng ta thấy từ cái ái này nó sẽ tiếp tục sinh ra các pháp, mà nó 11 duyên kế tiếp để sinh ra các ác pháp, mà bây giờ chúng ta đang tu tập để trừ các ác pháp trong thế gian đó. Tu tập TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, tu tập TỨ CHÁNH CẦN nè để diệt trừ các ác pháp này. Vậy thì chúng ta biết ở đâu mà nó sinh ra các ác pháp này. Do cái ái mà chúng ta sanh ra các pháp ác. Bởi vì tất cả những cái ái này nó mới sinh ra, do đó nó mới sinh ra thọ, đến đây thì chúng ta biết do có thọ mà sinh ra các pháp ác. Như vậy thì chúng ta sẽ tiếp tục để cho thấy do có duyên nào mà nó sinh ra cái gì đây.

Ái thì nó có 11 cái ái.Do duyên thọ mà có ái sanh. Bắt đầu mình thấy duyên thọ mới có ái sanh. 11 điều kiện nó sanh ra để chúng ta biết được, nó sảy sanh ra như thế nào cho đến khi thành các ác pháp đây, các bất thiện pháp đây.

Hai là do duyên ái mà có tìm cầu, có cái ái là có cái ưa thích của mình rồi, thì ưa thích, bây giờ thầy ưa cái đồng hồ thì phải tìm cái đồng hồ, thầy ưa thích cái máy này thì thầy phải tìm cầu có cái máy này, thầy ưa thích phụ nữ thì thầy đi tìm cầu cái người vợ. Thì đó là phải đi tìm cầu. Đó thì chúng ta thấy cái ái nó sanh ra đi tìm cầu, đi chỗ này chỗ kia.

Do tìm cầu mà lợi sanh. Do mình tìm cầu mà có cái lợi sanh ra. Lợi hồi đó mình không có gì hết, bây giờ tìm cầu mình tích lũy có vợ, có con có này kia đủ thứ hết, tiền bạc của cải tài sản. Thì đó là những cái lợi nó sanh ra rất nhiều.

Do lợi sanh ra thì phải tiêu dùng. Bây giờ mình có tiền bạc thì mình phải dùng, có cái bàn này thì mình phải sử dụng cái gì, có cái nhà này phải làm như thế nào, phải xài nó như thế nào, phải sử dụng nó làm sao cho hợp, trang hoàng như thế nào cho nó hợp với đời sống của mình. Cho nên phải có sự tiêu dùng.

Do sự tiêu dùng mà sanh ra dục sanh, do sự tiêu dùng này mình thấy nó thích thú. Ham muốn của mình mới sinh ra. Do sự ham muốn này nó mới có sự sanh ra, cái kia thì ở trên nó mới có ái thôi, mà tới đây thì chúng ta mới thấy được cái dục. Hồi nãy thì tham lam là dục đó (là lòng ham muốn của chúng ta) bây giờ do sự tiêu dùng này mới sinh ra cái ham muốn này, cái tham muốn này, tham lam này.

Do tham dục sanh thì đắm trước sanh. Hễ có sự ham muốn thì sự dính mắc đắm trước nó mới sanh. Thấy do lòng ham muốn của mình mới thấy cái đồng hồ mới thích, nó mới sanh ra đắm trước, nó mới dính đó. Dính mới mua về.

Do đắm trước sanh thì chấp thủ sanh.Thì mới mua về mới giữ, tức là có giữ lại, tức là có chấp thủ sanh.

Chấp thủ sanh thì hà tiện sanh.Bắt đầu mình thấy: từ cái chỗ mình hồi nào đến giờ thì mình chưa có hà tiện đâu, nhưng mà khi nó bị dính mắc rồi thì bắt đầu người ta xin đồng hồ không cho đâu. Tức là hà tiện tới rồi đó. Rồi bắt đầu mình hà tiện nữa, thấy người ta đến người ta xin tiền, mình chấp thủ, mình dính rồi cho nên mình đâu dám bỏ ra cho họ, cho nên hà tiện mới sanh.

9. Hà tiện sanh thì thủ hộ sanh.Tức là khi hà tiện có rồi, có sự giữ gìn bảo vệ nó, không có cho mất mát, nghĩa là làm chín đồng muốn kiếm thêm bỏ đồng nữa chứ chưa dám lòi ra ăn nữa. Đó là thủ hộ nó sanh.

10. Do thủ hộ sanh một số ác pháp, bất thiện pháp sanh.Bắt đầu muốn giữ gìn nó mà muốn bảo vệ nó bằng cách này bằng cách khác thì ác pháp nó sanh đó.

11. Do ác, bất thiện pháp sanh thì trượng kiếm đao búa gậy gộc, tranh đấu tranh luận, đấu khẩu, ác khẩu, vọng ngữ sanh.Đó tất cả những cái đó nó bắt đầu có thập ác đó, nó mới sinh ra.

Thì như vậy là quý thầy đã thấy được con đường đi của đức Phật, vạch từ duyên này đến cái duyên khác để các pháp ác sinh ra. Vậy thì bắt đầu bây giờ chúng ta dứt trừ những ác pháp này, tức là lần lượt chúng ta sẽ dứt trừ các ái, các thọ của chúng ta đó. Cho nên tới đó thì chúng ta sẽ, tất cả các ái các thọ của chúng ta dứt thì duyên sanh tử ưu bi sầu khổ chúng ta dứt chứ có gì. Mà đi từ cái chỗ nào, đi từ các ác pháp này. Mà chính ác pháp này là từ cái chỗ đó nó sanh ra ác pháp. Bây giờ chúng ta phải đốn sạch những ác pháp này cho nên TỨ VÔ LƯỢNG TÂM và TỨ CHÁNH CẦN là pháp cần thiết cho chúng ta để dứt các ác pháp. Chúng ta biết rõ được cái gốc của nó thì đi từ cái gốc đó mà chúng ta đốn dần thì cái cây khổ này nó phải tuyệt, nó phải đoạn dứt, nó không còn khổ nữa. Nếu mà không hiểu được như vậy thì chúng ta cứ tu lòng vòng, lòng vòng ở đâu mà tưởng là dứt khổ nhưng sự thật là không dứt khổ. Vì chúng ta chưa biết nó là ác pháp, mà ác pháp là gốc khổ, chớ không phải lòng ham muốn của chúng ta là gốc khổ đâu. Tại vì lòng ham muốn nên nó mới sanh ra ác pháp đây.

Vậy thì chúng ta đi từ cái chỗ tu TỨ CHÁNH CẦN và TỨ VÔ LƯỢNG TÂM thì ác pháp nó sẽ dứt. Ác pháp dứt thì giải thoát dứt, sanh tử dứt. Ở đây quý thầy cần phải hiểu: Do tiêu dùng mà tham dục sanh, nếu tiêu dùng không có bất cứ loại nào thì tiêu dùng diệt, mà tiêu dùng diệt thì tham dục diệt, tham dục diệt thì sân diệt, sân diệt thì si diệt. Biết rõ như vậy nên Phật dạy SANH đã đoạn thì PHẠM HẠNH mới xong, con người mới giải thoát.Tại sao vậy? Bởi vì đời sống như quý thầy đã thấy lộ trình thứ 2 thầy đã vạch ra đó: Đời sống tu sĩ trắng bạch như vỏ ốc, tức là chúng ta đã tiêu dùng đó, đã diệt sạch rồi. Vì chúng ta đâu có tiền bạc mà tiêu dùng, muốn gì cũng đâu có được. Cho nên ngay đó là chúng ta đã sanh đã tận rồi, ngay đó chúng ta đã thấy cái chỗ mà cái bước mà chúng ta đoạn dứt được cái pháp ác là ngay đời sống của chúng ta phải là đời sống phạm hạnh. Mà đời sống phạm hạnh là đời sống không còn tiền bạc tiêu dùng, không còn muốn gì được nữa hết. Nghĩa là đi xin ăn rồi, bây giờ người ta cho ăn ngon thì ngon, ăn dở thì dở chứ không nói: cho tôi ăn như vậy là không được, thiếu dưỡng chất chết tôi đi thì tôi tu không được, mấy ông không có phước đâu. Cho tôi ăn cho ngon, tôi tu được đặng mấy ông có phước thì cái đó là cái sai rồi. Cho nên ở đây chúng ta phải đoạn diệt để cho được cái tham dục của mình. Mà đoạn diệt cái tiêu dùng trước. Người tu sĩ thì không còn tiêu dùng nữa rồi. Ba y một bát, thiểu dục tri túc rồi còn cái gì nữa mà tiêu dùng. Không có thì chúng ta đến xin Phật tử. Chúng ta đến xin họ có cho là cho mà không cho thì chúng ta cũng chịu thôi. Về thí dụ cái y này rách rồi, đã mục rồi mà đến xin người ta nói bây giờ tôi chưa có để rồi hôm nào tôi có tôi sẽ cúng dường cho thầy, bây giờ thì tôi chưa có.Thì mình cũng thôi về chắp vá lại mà mặc đi, để cho kín thân chứ đừng để lõa lồ thôi chứ cũng chưa dám đòi hỏi ai hết. Đó là mình đâu có tiêu dùng được, mình đâu có muốn được. Còn bây giờ các vị có tiền đâu đó, thôi cái này rách bỏ đi, đi ra chợ mua may sắm cái khác, chớ để gì mà rách rưới như vậy. Còn mình không có nữa thì đâu có tiêu dùng được, cho nên phải chắp vá lại mà sống.

Đó là đời sống của tu sĩ như vậy. Cho nên trong thời đức Phật các thầy thấy bảy, tám mươi tuổi, các vị tỳ kheo trong thời đó bảy, tám mươi tuổi đi lụm khụm mà vẫn phải đi xin ăn chớ không được tỳ kheo khác mà xin về cho cái vị đó ăn. Cho nên nghe qua các bài kệ của trưởng lão, ni kệ hoặc tăng kệ chúng ta thấy sao mà đời tu sĩ lúc bấy giờ, lẽ ra thì họ nhập diệt cho rồi chứ để chi lê thê mà đi xin quá khổ như vậy, mà đi đường non núi nữa, quá vất vả. Phải nương cây gậy lụm cụm mà đi xin ăn. Bởi vì người ta đã thấy nhơn quả của người ta, người ta vui vẻ để người ta trả chứ không phải người ta không thấy. Biết rõ như vậy nên Phật dạy:Sanh đã đoạn thì phạm hạnh mới xong, con người mới giải thoát.

Chúng ta truy tìm biết như vậy bây giờ chúng ta mới biết đâu là sống đúng đời sống của người tu sĩ đạo Phật. Trắng bạch như vỏ ốc, không còn triền phược và những sợi dây vật chất, thương ghét trói buộc, chỉ còn một lòng từ bi vô bờ bến. Tuy là biết rõ như vậy, trước là để lập hạnh sống xuất gia 3 y 1 bát, sống vô gia đình không nhà cửa, không chùa to tháp lớn, một thân một mình tiêu diêu an lạc, có duyên thì giúp người không duyên thì ẩn bóng. Nhưng lúc ta còn đang tu thì phải siêng năng dứt bỏ pháp ác và trau dồi pháp thiện. Như hồi nãy thầy đã kể ra: tham là do dục mới có tham. Vậy chúng ta phải trạch pháp câu này để dứt bỏ:

Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó làm cho ta đau khổ và người khác đau khổ. Từ đây đứng trước mọi vật dù miếng ăn, manh áo tốt xấu ngon dở ta cũng phải từ khước viễn ly xa lìa, xem nó là rắn độc, là quỷ dữ, là ác thú trong tâm ta.

Đó là cái câu pháp hướng để quý thầy nhắc nhở để cho cái tâm mình đừng có tham ăn, tham mặc, tham y tham áo, tham của cải tài sản, tham tiền, tham bạc. Để chúng ta dứt bỏ tất cả những cái đó, để chúng ta không còn bị tâm tham nữa. Bởi vì tâm tham nó làm cho ta khổ và người khác khổ.

Nhớ nhắc đi nhắc lại câu này nhiều lần cho đến khi trước cái ăn và tất cả những vật dụng gì mà ta không còn ham muốn gì hết thì mới xong. Nghĩa là đứng trước cái ăn, tức là cái vật thực hàng ngày của mình, tất cả những cái vật dụng hàng ngày mà cần thiết cho đời sống tu hành của mình chứ đừng nói chi như người ngoài đời bằng cách này bằng cách khác thì tâm ta chẳng còn ham muốn một vật gì hết. Thì lúc bấy giờ chúng ta mới thiểu dục tri túc, mới biết đủ đó, thì đó là lúc chúng ta mới xong.

Vậy phải nghiêm chỉnh tu hành đừng xem thường nó, nó được đức Phật gọi nó là một loại độc trong 3 thứ độc. Đó thì cái tham đức Phật gọi nó là một loại độc chứ không phải là nó thứ thường. Cho nên trong tam độc là tham sân si, nó là cái độc đầu tiên của 3 thứ độc đó. Vậy thì quý thầy đã hiểu được nó là thứ độc chứ không phải là cái thứ thường. Đến phần này gọi là trau dồi ý hành, nó rất vi tế và khó khăn vô cùng. Vậy quý thầy cần phải siêng năng đừng để thất niệm nhưng cũng phải vừa với sức của mình. Đó một lần nữa Thầy nhắc quý thầy đó, tu vừa sức của mình mà nhớ đừng để thất niệm, khi đang tu thì đừng để thất niệm, để vọng tưởng xen vô thì quý thầy hoài công rồi đó. Lúc bấy giờ chúng ta đặt cái niệm cho vững chắc không được để thất niệm. Cho nên trong kinh điển của Phật dạy khi đặt niệm rồi thì không được thất niệm, phải luôn luôn ở trong cái niệm cho nó rõ ràng, cho nó tỉnh táo chớ không được để cho nó lờ mờ nữa. Của mình thành tựu hay không thành tựu là do ở chỗ quyết tâm, có muốn ra khỏi cuộc đời dục lạc đầy cạm bẫy này hay không. Nếu quý thầy không muốn xa lìa cuộc đời dục lạc thế gian thì xin quý thầy đừng tu hành theo đạo Phật. Vì chẳng có ích lợi gì cho những người còn say mê dục lạc thế gian. Vì mình còn ham mê dục lạc thế gian, còn thích ăn thích ngủ, còn thích nói chuyện thì quý thầy đừng có theo đạo Phật. Tu uổng công lắm, mất cái thì giờ mà chẳng lợi ích cho mình, mà còn nợ đàn na thí chủ nữa. Cho nên khi quý thầy thấy nó còn thích thôi quý thầy đừng đi. Bởi vì cuộc đời thế gian quý thầy phải đoạn dứt nó. Chứ quý thầy mà còn ham thích nó một chút xíu thôi thì không có thể được. Sau này thầy sẽ đọc một câu kệ có một chú Sadi chú đi tu mà chú nhớ mẹ chú, do chỗ này mà chú không thành tựu được đạo giải thoát. Thì các thầy biết một chú Sadi 7,8 tuổi mà đi tu làm sao không nhớ mẹ mình, vậy mà về nhà bà mẹ khuyên một lời nói, chú về chú nỗ lực chú rời bỏ tình thương đó để rồi chú nỗ lực chú trở thành một bậc Alahán. Đó là những mẩu truyện của Trưởng lão tăng kệ trong thời đức Phật như vậy đó.

Thứ hai, sân là lòng giận dữ, lòng giận dữ rất khó dằn, nó là pháp ác. Khi tâm ý khi nó tức giận người ta có thể giết người không gớm tay, không sợ tù tội và cũng không sợ chết. Do thế mới biết lòng sân rất dữ. Khi mà người ta giận người ta không còn sợ chết, sợ tù sợ tội gì hết, người ta giết người người ta không có gớm tay đâu, cho nên cái lòng sân dữ lắm, không phải hiền lành đâu.

Cho nên chúng ta thấy bây giờ người ta chửi mình, người ta mắng mình, mình sân đó, mình ráng mình nén xuống chớ trong lòng tức lắm. Còn người đời chưa biết người ta không nhẫn, người ta không nén, người ta ăn thua đủ, người ta không nhịn ai hết, cái sân này tới cái sân khác, nó đưa đi đến chỗ có thể giết nhau, đi nằm nhà thương hay đi ở tù. Muốn biết người tu hành, nghĩa là mình muốn biết người tu hành được giải thoát ở mức độ nào thì chúng ta chỉ cần nhận ở cái lòng sân của họ là dễ biết. Thấy họ sân là biết họ tu ở mức độ nào rồi. Cho nên có nhiều vị tu hành rất lâu năm, ở rừng ở núi mà khi đụng việc chúng ta thấy tâm sân họ bùng khởi lên thì chúng ta biết là họ chẳng có được gì hết, chỉ qua cái hình thức ép của họ, qua cái sự tu tập của họ có cái vẻ khổ hạnh bằng cách này cách khác nhưng tâm sân của họ chưa xả được thì tham sân si đều là còn đủ chứ chưa hết.

Lòng sân còn thì lòng tham còn. Lòng sân còn thì ngu si còn.Bởi vì chính mình ngu si nên mình chưa có Minh được. Do đó vậy mà cái si còn thì tham còn, sân còn. Người ta nói xấu nhau cũng vì lòng sân thù hận, người ta giết nhau cũng vì lòng sân thù hận, người ta cướp đoạt của nhau cũng vì lòng sân thù hận. Bởi vậy sân là một pháp ác, một pháp cực ác lớn. Trong 10 điều ác lòng sân là ác nhất. Muốn tu tập dứt bỏ lòng sân ta hãy tu tập và trau dồi TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, khi nào lòng Từ bi hỉ xả có được thì lòng sân mới hết được. Nhưng TỨ CHÁNH CẦN cũng có pháp tu. Vậy ta phải trạch pháp ra câu này để dùng nó mà hướng tâm tu tập:

Ý sân là một hành động cực ác, đầy tội lỗi, làm cho ta khổ, người khác khóc, ta phải từ bỏ dứt trừ, phải mạnh dạn và quyết tâm xa lìa nó, từ bỏ nó, xem nó như thú dữ ác độc, như quỷ dữ la sát.

Đó là những câu hướng tâm để chúng ta thấy lòng sân của chúng ta dữ tợn lắm, như quỷ dữ vậy, như la sát vậy. Dùng câu này hướng tâm Như Lý Tác Ý phải ngồi kiết già lưng ngay thẳng, bởi vì chúng ta biết những pháp ác, cực ác thì chúng ta càng ngồi yên tĩnh, càng ngồi kiết già để thân tâm gom lại một điểm mà chúng ta xua đuổi, chúng ta đánh đuổi nó mới được. Chứ còn chúng ta ngồi như cái ghế này mà ngồi mà dùng để xoa cái tâm tham, tâm sân, tâm si của chúng ta không được. Như bình thường chúng ta ngồi cái ghế thường như thế này mà chúng ta tập trung cái niệm ở trước mặt để chúng ta xoa cái tâm đừng giết hại chúng sinh thì còn có thể được. Nhưng đến khi cái ý mà dừng tham sân si, 3 cái ác độc này nó không đơn giản đâu. Cho nên phải ngồi khoanh chân gom nó lại, tập trung cái niệm lại, do đó mới đủ cái sức dùng pháp hướng mới có thể đánh mạnh nó ra được.

Cho nên chúng ta phải biết tu, biết cách thức chứ nếu mà không biết cách thì chúng ta cũng không có kết quả đâu. Phải ngồi kiết già lưng ngay thẳng, đặt pháp hướng trước mặt, dùng hết sức tinh thần xua đuổi như xua đuổi một con chó điên. Nghĩa là mình biết nó, biết cái tham sân si của mình là con chó điên đó, nếu mình không xua đuổi mạnh thì nó cắn mình chết, nó cắn mình điên đó. Cho nên mình phải đem hết sức của mình ra xua đuổi như xua đuổi một con chó điên. Như vậy chúng ta phải biết cách thức chúng ta ngồi kiết già là chúng ta gom hết toàn lực đánh đuổi một con chó điên để không nó đem lại cho chúng ta tai họa là điên khùng.

2.Ý sân từ đây phải chấm dứt, phải từ bỏ không được phóng khởi. Nghĩa là mình nhắc nó từ đây bất kỳ hoàn cảnh nào không được phóng khởi ra. Đó là câu mình hướng tâm để đoạn dứt nó.

3.Ý sân phải chấm dứt ngay. Đó mình chỉ nói câu ngắn như vậy: chấm dứt, ngay. Ra lệnh như vậy là lâu ngày chúng ta dùng cái sức tinh thần của chúng ta, cái pháp hướng nó sẽ hiệu quả đến cùng. Cho nên đến cuối cùng thì ngay cái chỗ người ta vừa chửi mình thì ngay đó nó chấm dứt ngay liền, ở trong đầu của mình nó phóng ra chấm dứt ngay. Ngay đó tâm mình thản nhiên không sân nữa. Thì quý vị thấy cái pháp hướng nó hiệu quả đến mức độ đó. Nó ngắn chừng nào thì cái lực của nó lại mạnh chừng nấy. Mà cái câu hướng mà dài thì cái lực nó yếu chừng nấy. Cho nên pháp hướng khi mà dứt, từ bỏ, thì pháp hướng càng ngắn thì lực càng mạnh, cái tinh thần càng mạnh. Còn pháp hướng mà dài đó là pháp hướng trau dồi chứ không phải pháp hướng.

Đó là Thầy nhắc như vậy để sau này quý thầy trí tuệ thông minh sáng suốt tùy theo đó mà quý thầy trạch ra những pháp hướng cho nó đúng với môi trường, đúng với tâm của mình để cho mình tu tập.

Trau dồi lòng thương yêu để phát triển tâm lành ngăn ngừa tâm ác, quý thầy phải trạch pháp dùng pháp hướng dẫn tâm thương yêu chúng sanh. Bây giờ mình trau dồi cái tâm thương yêu của mình:

Ý sân giận dữ chửi mắng nạt nộ người khiến cho người ta sợ hãi, đau khổ. Ta phải thương yêu họ, không được làm cho họ sợ hãi. Vậy từ đây ta không nên chửi mắng, la hét mà phải thương yêu an ủi, giúp đỡ họ đừng sợ hãi.

Đó là cái câu trau dồi cái tâm thương yêu của mình đó. Cho nên câu này không dùng cái nạt nộ hay ra lệnh mà chỉ xoa dịu nhẹ nhàng, an ủi nó, để cho nó lần lượt lớn lên lòng thương yêu mà không có la hét làm cho người ta sợ. Mỗi khi mà chúng ta tức giận la hét gì đó thì chúng ta nhớ phải thương người cho nên nó dịu xuống liền tức khắc mà nó không có la hét.

5. Đời là khổ ta không nên sân để làm cho người, vật khác đều khổ thêm. Thấy ai sân ta nên thương họ, ta phải tập thương họ cho chân thật.

Đó là những cái điều mà chúng ta xoa dịu, làm cho tâm của chúng ta thấy người sân là chúng ta thương. Nhắc nhở chúng ta thấy cái người giận dữ là chúng ta thương. Và chúng ta cũng biết trạch pháp ra: đời đã là khổ rồi cho nên sân lại làm cho người khác, vật khác đều khổ theo vì vậy mà cái tâm không được làm vậy nữa, phải thương yêu. Đó là cái câu ám thị để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta, để nó phá đi cái tâm ác của chúng ta là sân.

Đến đây thì chúng ta lại còn phải dùng ĐỊNH VÔ LẬU mà tu TỨ CHÁNH CẦN nữa. Thì các thầy phải thấy công trình tu tập của chúng ta phải sử dụng liên tục những cái định, trừ ra có cái định Hiện tại an lạc trú là 4 thiền là chúng ta không sử dụng ở trong này thôi. Dùng ĐỊNH VÔ LẬU tu TỨ CHÁNH CẦN là ta phải ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm sân trước mặt rồi tác ý đi tìm cái sân từ đâu có, từ đâu sanh, từ đâu diệt, cứ như thế chúng ta phát sinh trí tri kiến giải thoát, làm cho ta hiểu rõ cái ý sân, bẻ vụn cái ý sân, làm cho tan vỡ cái ý sân không còn đất đứng nơi tâm ta nữa.

Nghĩa là trong khi chúng ta quán xét tự nó phóng ra, nó làm cho chúng ta thấu suốt được cái sân từ đâu đến, từ đâu có, từ đâu không, cho nên chúng ta biết rất rõ. Do biết rất rõ đó thì nó bẻ vụn cái ý sân của chúng ta, nó làm cho tan nát cái ý sân ra, nó làm cho ý sân không còn đất đứng nơi tâm ta. Đó là chúng ta dùng định vô lậu mà phá tâm sân. Thì chúng ta biết áp dụng ở trong TỨ CHÁNH CẦN bằng ĐỊNH VÔ LẬU, bởi vì ĐỊNH VÔ LẬU nó không phải dùng pháp hướng mà nó dùng cái tri kiến nó quét sạch, nó suy tư nó đi tìm nguồn gốc của tâm sân rồi nó suy tư từ cái sân đó nó khổ như thế nào, làm sao… nó quét sạch ra. Nó làm cho tâm của chúng ta không còn sân đứng được ở đó. Phải đặt niệm này trước mặt, đừng cho thất niệm, luôn luôn lúc nào mà tới chúng ta thấu suốt được rồi thì chúng ta mới xả nghỉ, còn chưa có thấu suốt được thì chúng ta đừng có xả nghỉ ngang, mà chúng ta phải được liên tục, đừng có để thất niệm trong thời gian truy tìm cái sân thì nó mới được.

Phải đặt niệm này trước mặt đừng cho thất niệm, có như vậy tu TỨ CHÁNH CẦN câu hữu Vô lậu định. Đó bắt đầu chúng ta tu TỨ CHÁNH CẦN mà chúng ta câu hữu qua ĐỊNH VÔ LẬU đó thì các thầy thấy mình phải khéo léo, mình phải áp dụng cho đúng cách, chứ nếu mà mình cứ tu TỨ CHÁNH CẦN không thì mình không thông suốt được cái tham sân si của mình. Do đó mà mình nhắc ở ngoài da của nó không thì nó không có thấm đâu. Cho nên chúng ta dùng cái ĐỊNH VÔ LẬU, do nhìn cái lậu hoặc của tham sân si này như thế nào vì vậy mà chúng ta đốn sạch ở trong gốc nó, đập tan nó từ trong gốc sân của nó, dứt được ý sân của nó. Thì quý thầy thấy tuyệt diệu không. Cho nên mình biết câu hữu được pháp này với pháp kia, cho nên mình câu hữu với ĐỊNH VÔ LẬU mà mình đạt được như ý nguyện của mình là tâm sân dứt. Thì như vậy là Thầy dạy quý thầy có cách thức để tu tập, có cách thức để câu hữu, chứ đâu phải là thiếu cái sự câu hữu đó: mình cứ ĐỊNH VÔ LẬU là mình cứ tu ĐỊNH VÔ LẬU còn tu TỨ CHÁNH CẦN là cứ phải tu TỨ CHÁNH CẦN. Không phải đâu. Chính vừa nãy mà chúng ta tu tập TỨ CHÁNH CẦN mà chúng ta tu tập lòng thương yêu của mình tức là câu hữu với TỨ VÔ LƯỢNG TÂM đó. Những cái mà chúng ta câu hữu thầy nhắc quý thầy mới biết, mà Thầy không nhắc thì quý thầy không biết đâu. Đó là những cái chúng ta câu hữu với nhau, pháp này câu hữu với pháp kia để chúng ta thực hiện cho đạt được cái mục đích của chúng ta là giải trừ tâm ác của chúng ta, 10 điều ác ra khỏi tâm của chúng ta, không còn đất đứng ở đó.

Si.Bây giờ đến cái phần ngu si của ý chúng ta đây. Si là vô minh, là trạng thái ham ngủ, ham ăn. Tức là cái si của chúng ta nó hiện ra trạng thái ham ăn ham ngủ. Đó là cái si đó. Vì vậy mà chúng ta biết cái trạng thái ham ăn ham ngủ của chúng ta là si. Cái người nào mà còn thích ăn, thích ngủ là người đó đang si, chứ chưa phải là thông minh. Mặc dù bây giờ họ là thông minh, là nhà bác học đi nữa, là những con người mà học tiến sĩ đi nữa mà còn ham ăn, ham ngủ thì đó là những người si chứ không phải là những người không si đâu. Muốn đoạn dứt pháp ác này quý thầy phải tu Chánh niệm tỉnh thức định.

Đó, thì bây giờ muốn đạt được cái chỗ si này chỉ có CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC định thôi, nó mới có sức tỉnh thức, chứ còn nếu không nó ham ăn ham ngủ à. Mà nó tỉnh thức thì nó diệt trừ cái ăn, do đó nó mới có tỉnh thức, nó mới tu ĐỊNH VÔ LẬU nó mới quét sạch được cái ăn, nó mới thấy cái ăn là bất tịnh. Thì từ cái chỗ này nó câu hữu với cái kia nó kết hợp, nó làm cho chúng ta có một cái lộ trình tu tập rất là dè dặt, rất là kỹ lưỡng, rất là dày mịch không để cho các pháp ác xen vô được. Bởi vì chúng ta có những cái pháp nó làm như mạng lưới mà không cho pháp ác rơi trên đó được, nó đánh bại, nó đánh bạt ra hết. Nó không còn chỗ nào để pháp ác lọt vào tâm chúng ta được. Nhờ các pháp này mà chúng ta câu hữu liên tục, mà chúng ta đánh các pháp ác ra khỏi tâm chúng ta. Vì vậy đưa chúng ta ra con đường giải thoát rất là rõ ràng và cụ thể. Cho nên CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC là chúng ta phải đi kinh hành nhiều, theo hành động đi mà chúng ta tỉnh thức thì không còn lười biếng, không còn buồn ngủ nữa. Đó nó phá cái si rất rõ, cái trạng thái si của chúng ta.

Muốn phá và dứt ác pháp si mê này thì quý thầy phải phá vô minh. Đó, hồi nãy là đi kinh hành là để tỉnh thức thôi. Còn bây giờ chúng ta si tức là vô minh chứ gì. Muốn phá vô minh thì phải làm sao? Chớ đâu phải là tỉnh thức không? Tỉnh thức không mà nó không hiểu gì hết thì cái tỉnh thức đó để ngồi suốt ngày chơi cho nó thanh thản thôi chứ có làm gì. Bây giờ chúng ta phải dùng sức tỉnh thức này để mà chúng ta tu tập Định CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC. Làm cho chúng ta có sức tỉnh thức, từ sức tỉnh thức đó chúng ta mới phá Vô Minh. Mà phá Vô Minh thì nó phải có Minh. Muốn phá Vô Minh quý thầy phải học hiểu những lời Phật dạy, Thầy dạy. Muốn phá được cái vô minh đó thì mình phải là người học, chớ mình không học thì mình không biết, mà mình không biết thì biết đâu měnh lŕm. Chẳng hạn bây giờ nói rằng đời khổ, quý thầy cho rằng đời đâu có khổ. Đó là cái vô minh của quý thầy. Nhưng khi nghe nói khổ, vạch cho ra từng ly từng tý mới thấy thật đây là khổ. Quý thầy mới thấy được cái khổ, mà thấy được cái khổ là vén được cái vô minh. Vậy quý thầy đã Minh. Minh là nhờ sự học hỏi những cái gì của người ta đi qua rồi người ta dạy lại cho mình, để mình thấy được, mà mình thấy được đó là cái minh của mình. Cái nào chưa hiểu cần phải hiểu cho rõ, nghĩa là cái lời dạy đó cái nào chưa hiểu thì mình phải hiểu cho rõ, hiểu cho rõ là phải hiểu cho đúng vì hiểu sai tức là vô minh. Theo những điều mà từ lâu quý thầy chưa biết, bây giờ được học hiểu quý thầy đã biết và biết rất rõ đó là phá si, dứt trừ si, tức là phá vô minh. Phá vô minh tức là minh, minh là hiểu rõ cái nào ác, cái nào thiện. Như hồi nào tới giờ thầy chưa có dạy Thập thiện, cho nên quý thầy đâu nghe nói là các pháp ác rồi các pháp thiện. Bây giờ dạy các pháp ác, các pháp thiện thì quý thầy biết có 10 pháp ác, có 10 pháp thiện; sao là ác, sao là thiện; thì như vậy là quý thầy đã Minh rồi đó. Đã biết được 10 rồi, còn hồi đó thầy chưa nói 10 các thầy biết pháp ác chứ chưa biết nó 10 hay 20 hay gì đó, chưa có biết đâu. Còn bây giờ đã được học các thầy biết đó là pháp ác, đó là pháp thiện. Mười cái pháp ác này, 10 cái pháp thiện này, hoặc là tất cả các pháp khác như thế nào như thế nào, thì bắt đầu quý thầy minh rồi đó. Vì vậy Minh tức là mình không theo ác pháp mà vô minh thì mình theo ác pháp thì mình sai lệch. Minh là hiểu rõ cái nào ác, cái nào thiện, cái nào đúng chân lý, cái nào sai chân lý, cái nào đúng nhân, cái nào đúng quả, cái nào cần trau dồi, cái nào không cần trau dồi, cái nào cần dứt bỏ, cái nào không cần dứt bỏ, cái nào tùy, cái nào chỉ, cái nào ức, cái nào quán, cái nào diệt, cái nào xả, cái nào hướng, cái nào ly, cái nào khởi, cái nào diệt, cái nào khổ, cái nào không khổ, cái nào còn khổ, cái nào hết khổ, cái nào sân, cái nào không sân, cái nào tham, cái nào không tham và biết rất rõ, đó là minh. Tất cả những cái mình biết rõ như Thầy kể ở trên thì đó gọi là Minh. Mình biết cái này khổ, cái này không khổ, cái này tham, cái này không tham, cái này ác, cái này không ác, đó là những cái đó gọi là Minh. Nhờ có Minh mà si hết. Nghĩa là mình rõ rồi thì cái si kia nó hết rồi, mình không có lầm nữa cho nên gọi là hết.

Khi có minh thì chúng ta hãy tinh tấn chuyên cần tu tập, không phí bỏ thời gian vô ích, một lòng quyết tâm, quyết dứt bỏ các pháp ác. Bây giờ mình đã minh rồi mà mình lười biếng thì các pháp ác nó còn không? Còn. Cho nên khi mình đã biết rõ rồi thì mình mới chuyên cần siêng năng tu tập để trau dồi thân tâm của mình để dứt bỏ thì nó mới hết chớ, chớ không phải biết rồi để khơi khơi nó hết đâu. Nói tôi minh rồi tôi biết, bởi vì cái minh này là cái minh của mình huân tập sự hiểu biết của người khác mình mới hiểu thôi, cho nên cái này Phật dạy đó là cái tri kiến chứ chưa phải là tri kiến giải thoát. Còn tri kiến giải thoát của mình mà Thầy nói ngồi để mà phá cái vô lậu, tự nó phóng ra, rồi tự nó tìm hiểu ra, rồi nó quán xét nó thấu suốt được cái lý đau khổ hoặc cái lý nào đó, rồi nó xả đi cái lý đó đi, nó làm cho không còn lậu hoặc thì cái đó gọi là tri kiến giải thoát. Còn bây giờ cái minh này mới là cái tri kiến của chúng ta thôi. Tức là chúng ta nhai lại những hiểu biết của người khác để cho mình hiểu cái đó đúng sai thôi, đó là cái tri kiến đúng, còn nếu mình nhai lại cái tri kiến sai thì nó thành kiến chấp, tà chấp hay thân chấp, do đó nó đưa chúng ta đi lầm lạc tới chỗ càng gây thêm pháp ác nữa, cho nên càng đem đến sự khổ đau.

Quý thầy ngồi kiết già lưng ngay thẳng trước mặt tưởng ánh sáng ngày như đêm rồi dùng pháp hướng NHƯ LÝ TÁC Ý:

Tâm u tối si mê như đêm đen, ta hiện giờ thấy nó sáng suốt như ban ngày không còn đen tối nữa.

Đây là tu cái Định sáng suốt đây, để cho chúng ta, từ đó nó mới có cái sự sáng suốt. Nó mới như cái lý nó tác ý ra, những tri kiến giải thoát của chúng ta mới phát ra được. Vậy thì khi tu cái Định sáng suốt này thì thứ nhất chúng ta được tỉnh thức. Chúng ta ngồi giữ tâm thanh thản thì nó sáng suốt ngày như đêm, đêm như ngày. Còn nếu mà chúng ta chưa có đủ tỉnh thức thì chúng ta phải tu tập dùng cái tưởng để thấy cái tâm chúng ta si mê như đêm đen, bây giờ nó sáng suốt ngày như đêm, đêm như ngày, nó sáng suốt như ngày, nó không còn u tối nữa.

Do cái tưởng sáng suốt này nó làm cho tâm của chúng ta luôn ở trong chỗ sáng suốt đó và nó phát triển tâm thanh thản tức là tâm tỉnh thức. Đó thì chúng ta phải thấy được mấu chốt tu cái chỗ này gọi là tu cái tâm sáng suốt hoặc tu cái ĐỊNH SÁNG SUỐT. Cái chỗ này là chỗ thêm phần để chúng ta biết chứ còn trước kia Thầy dạy quý thầy giữ cái tâm thanh thản tức là giữ cái tâm sáng suốt của mình. Còn bây giờ là chúng ta chưa đủ cái tỉnh thức, cái Chánh niệm tỉnh giác cho nên cái sức tỉnh chưa có thì giữ tâm thanh thản nó không có được lâu, do đó chúng ta mới ngồi, mới tưởng là cái tâm của chúng ta si mê như đen tối (BBT:CĐ,15B,E00:45:53) mà bây giờ nó phải sáng suốt như ban ngày, nó không còn đen tối nữa. Đó là chúng ta dùng nhắc nó để chúng ta ngồi đây chúng ta dùng cái tưởng để thấy (BBT:CĐ,16A,B00:00:00)luôn luôn lúc nào cũng sáng suốt ở trước mắt của chúng ta. Do ánh sáng tưởng tượng đó mà nó giúp cho chúng ta sáng suốt.

Những bài này đã được Phật dạy các tỳ kheo trong thời đức Phật, rất lâu và rất nhiều chứ không phải mới mà Thầy đặt ra đâu. Có dịp quý thầy nghiên cứu về kinh tạng Pali hoặc là kinh tạng A Hàm thì quý thầy sẽ thấy được những điều mà Phật dạy này. Để chấm dứt bài Tứ Chánh Cần thầy xin đọc lại một bài kệ của đức Phật. Đến đây bây giờ tham sân si 10 cái pháp ác rồi thì mình đã tới cái si là mình đã chấm dứt rồi, cho nên phải đọc lại một bài kệ của đức Phật để chúng ta thấy được tóm lại cái ý của nó như thế nào. Đây bài kệ của đức Phật đây:

Ai phản lại chánh pháp

Tham sân si nuôi lớn

Thanh danh bị sứt mẻ

Như trăng khuyết đêm đen

***

Ai không phản chánh pháp

Tham sân si đoạn dứt

Thanh danh được tròn đủ

Như trăng tròn mười sáu

Bây giờ mình hiểu được cái chánh cái tà rồi, cái ác cái thiện rồi mà nếu mình còn phản lại thì là một cái tội rất lớn. Nghĩa là biết rồi mình còn phạm phải thì coi như cái con người của mình nó bị sứt mẻ, không còn...Trăng khuyết mà còn đêm đen nữa thì các con biết rằng, các thầy biết rằng trăng nó khuyết nó nhỏ xíu, thì ánh sáng nó đâu có mà đêm đen nữa thì nó mờ tối vô cùng. Người phản lại chánh pháp này, phản lại các pháp thiện, thì tham sân nuôi lớn, thì thanh danh bị sứt mẻ như trăng khuyết đêm đen.

Đó thì quý thầy thấy bài kệ của đức Phật, nếu chúng ta đi vào chánh pháp thì tham sân si, 3 cái pháp này đoạn dứt thì 7 cái pháp ác kia nó cũng sẽ mất đi. Do đó chúng ta sống như trăng tròn 16, tròn đầy không có thiếu khuyết một chỗ nào nữa hết. Trăng rằm nó còn khuyết một chút chứ trăng 16 thì nó tròn thiệt tròn, không có thiếu chỗ nào, tức là giải thoát hoàn toàn. Chánh pháp giúp cho quý thầy thấu rõ chơn lý của đời người, đó gọi là Minh. Các thầy không rõ chánh pháp nên không thấy chân lý, đời là ác pháp, là khổ đau nên phóng tâm chạy theo vật chất, ham muốn thế gian pháp, cái không hiểu này gọi là Vô Minh.

Đó mình chạy theo cái ham muốn như vậy, cái đó gọi là Vô Minh. Còn cái mình hiểu đúng chánh pháp thì gọi là cái Minh. Do không hiểu nên lầm chấp ác pháp là thiện pháp. Do không hiểu tưởng đời sống con người là hạnh phúc, nào ngờ là khổ đau, là không hạnh phúc. Người đời vì lầm nên xây dựng an vui hạnh phúc trên một mảnh đất vô thường, không vững chắc, thay đổi liên tục không dừng nghỉ. Vì thế công trình kiến tạo và xây dựng hạnh phúc, an lạc cho nhân loại là một công trình Dã Tràng.

Đó thì quý thầy thấy người ta phát minh cái này cái kia để người ta đem hạnh phúc cho con người chứ gì, nhưng mà càng phát minh càng đem lại sự đau khổ cho con người càng nhiều, đó là chúng ta xây dựng trên mảnh đất vô thường, mọi vật đều vô thường mà người ta nghĩ đó là thường, người ta lầm chấp cho nên người ta càng cố gắng xây dựng lên thì càng đem lại nỗi khổ cho nhân loại.

Càng xây dựng văn minh thì con người lại càng khổ bấy nhiêu, chỉ vì do họ xây dựng ngọn mà không xây dựng gốc. Do vô minh này mà loài người trên hành tinh này không lúc nào được hòa bình, chỗ này không chiến tranh thì chỗ khác chiến tranh. Càng khoa học, càng máy móc, càng tinh vi thì chúng ta thấy trên thế giới lúc nào cũng có nước chiến tranh chứ không bao giờ hết. Tưởng là đem lại phục vụ cho nhân loại, cho con người được thanh bình, được an vui, được thương nhau nhưng cuối cùng họ vẫn giết chóc nhau. Họ vẫn tìm mọi cách: về quân sự thì họ cũng tìm mọi cách bằng súng đạn, mà về kinh tế thì họ cũng tìm mọi cách để hại các cơ xưởng, các công trình của kẻ khác, làm cho suy sụp kinh tế của kẻ khác xuống. Đó là những hậu quả của sự văn minh, sự tiến bộ mà xây dựng trên cái ngọn mà không xây dựng ở trên cái gốc.

Vì xây dựng trên cái ngọn là xây dựng trên mảnh đất vô thường, trên các vật vô thường thì làm sao mà có sự hạnh phúc an vui vĩnh cửu được. Vì hỷ lạc của cuộc đời nên người ta mê mệt, đắm đuối theo nó, do đó đức Phật có phân tích cho chúng ta biết có 4 loại đam mê, hỷ lạc thấp kém hạ liệt, thuộc về những phàm phu, không xứng thánh hạnh, không có lợi ích, không có hướng đến yểm ly, vô tham, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết Bàn. Nghĩa là vì có những sự hỷ lac của cuộc đời, tức là cái sự làm cho chúng ta thích thú đó, làm chúng ta khả ái, khả hỉ đó cho nên con người mê si mới đắm đuối nó, chạy theo nó.

Do sự mê si đắm đuối chạy theo nó, thì đức Phật là một người giác ngộ cho nên Ngài thấy được, Ngài phân tích cho chúng ta có 4 loại đam mê hỷ lạc thấp kém này. Nó hạ liệt, nó làm cho chúng ta không có viễn ly, không có hướng đến sự yểm ly, vô tham, tịch diệt được, an tịnh được cho nên càng lúc càng khổ. Đó thì trong khi mọi con người đang xây dựng hạnh phúc cho con người lại là đưa con người vào cái chỗ mà chạy theo những cái hỷ lạc của cuộc đời, mê mệt nó, đắm đuối nó.

Đây quý thầy sẽ nghe lời của Phật dạy và quý thầy sẽ thấy rằng những sự mà ngu si của chúng ta để xây dựng những cái đau khổ đó.

Này quý thầy, quý thầy có thấy chăng, có hạng người ngu si, sau khi giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh, tự mình sung sướng hoan hỷ thích thú, đó là hỷ lạc thứ nhất.

Các thầy thấy rõ không, ngay bây giờ, có nhiều người bắt gà bắt vịt, họ làm thịt, họ giết đi, phải không? Họ thích thú ngay sự giết rồi họ ăn thịt chúng sanh họ lại ngon nữa: chà bữa nay ăn rất ngon, vợ chồng mình bữa nay làm bữa ăn thích quá, mai mốt có dịp làm nữa, ăn nữa. Có phải thích không? Nếu không thích thì làm sao. Đó là đức Phật phân tích cho chúng ta giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh đó là cái hỷ lạc thứ nhất. Đức Phật phân tích cho chúng ta thấy rõ mà, đó là cái hỷ lạc của dục đó, thứ nhất đó.

Này các thầy, các thầy có thấy chăng, có người sau khi lấy của không cho hoặc trộm cướp của người tự mình sung sướng, hoan hỷ thích thú.

Đó là hỷ lạc thứ hai. Có không? Thằng trộm nào mà lấy xe đạp hay xe Honda của người ta về bán lấy tiền mua quần mua áo, mua đồ đạc ăn uống cho vợ con nó thích thú lắm chứ. Nó đâu có nghĩ người ta mất của người ta khổ đâu. Nó sung sướng lắm. Trời ơi bữa nay mình làm vố này là cả tháng khỏi đi. Có phải thích không?

Đó là đức Phật cho chúng ta thấy sự thích thú thứ 2, hỷ lạc thứ 2 của con người chúng ta.

Này quý thầy, quý thầy có thấy chăng, có người sau khi tự mình nói láo gạt người, sung sướng, hoan hỷ.

Đó là hỷ lạc thứ 3. Có không? Nói láo người ta, gạt người ta được, về cười hỷ hả sung sướng lắm, đó không phải là thích thú sao? Đó là cái hỷ lạc thứ 3. Hoặc là mình nói xấu người, hoặc là mình nạt nộ người làm cho người ta sợ hãi, mình về mình thích thú. Hồi nãy tao nạt tiếng, trời nó run lẩy bẩy trông thấy khoái. Phải không? Các con thấy cái điều đó là một bằng chứng cụ thể mà ông Phật ông nói, Thầy thấy không có gì mà sai hết. Còn ghét người nào đó mình đặt điều nói xấu người đó. Mình thấy người đó ngồi khóc lu bù. Bởi họ không có xấu mà nghe người ta nói mình vậy, tức quá khóc luôn.Thì lúc bấy giờ mình thích lắm, thấy người đó rầu rỉ khóc lóc vậy, khoái lắm. Đó không phải là cái hỷ lạc sao? Đó là cái hỷ lạc thứ 3 của mình đó.

Này quý thầy, quý thầy có thấy chăng, người say đắm, đam mê vây quanh 5 thứ dục lạc: sắc, danh, lợi, thực, thùy.

Nghĩa là bây giờ chúng ta nhìn chung, chúng ta sẽ thấy này: sắc là nữ sắc, là sắc dục đó, danh là ông này bà kia, ông lớn bà nọ đó, lợi là tiền của, ăn ngon, ngủ muốn ngủ hồi nào thì ngủ đó. Đó là người ta vây quanh 5 thứ dục lạc này. Do đó nó có những hỷ lạc. Mà những hỷ lạc này đức Phật gọi là hỷ lạc thứ tư. Ở trên kia nó là những hỷ lạc nằm trong ác pháp thật, nhưng mà nó có thật sự đó. Rồi đến 5 thứ dục lạc này mà họ vây quanh thì chúng ta có thấy họ hỷ lạc không? Họ khoái lắm chớ, làm sao mà không khoái điều này, ăn miếng ngon là mình thấy thích rồi thì tức là nó đã có hỷ lạc thứ 4 rồi. Rồi mình ngủ, mình ngủ mình lười biếng li bì nằm vật tới vật lui đó thì là cũng hỷ lạc của cái thứ ngủ rồi. Có tiền nhiều thì mình cũng thấy vui, có danh làm ông lớn thì mình cũng thấy thích đó, thì đó là dục lạc rồi. Có sắc đẹp, nữ sắc thì lại thích thú. Thì do đó tất cả những cái này đều là hỷ lạc thứ 4. Ông Phật ông nói Thầy thấy không sai ở chỗ nào hết. Do chỗ hỷ lạc đó mà người ta không bỏ cuộc đời, không dứt ra cuộc đời được. Mà mình là người hiểu biết thì các thầy có dứt ra được không? Phải dứt đi chớ, mình đã hiểu lời Phật dạy quá rõ rồi. Thầy đã dạy đây thì chắc chắn không còn thiếu chỗ nào hết, mà không còn thiếu thì mình thấy đó là khổ hay vui? Cái đó là vui giả, vui không thật đâu, mà chúng ta hãy tìm cái vui chân thật. Còn về cái phần tu hành chúng ta có cái hỷ lạc không? Có chớ, sao lại không. Phật cũng có dạy chúng ta biết chớ, bởi vì nói đến bài học này nó dài dòng tại vì phải nói cho đủ, nói cho quý thầy hiểu được giáo án cua nó, hướng nào cho nó rõ hướng nấy. Cho nên tuy là nói cái giai đoạn thứ nhất nhưng sự thật quý thầy thấy nó thông suốt gần như là chúng ta đã hiểu con đường đi của đạo Phật.

Đây là 4 thứ hỷ lạc phàm phu đầy đau khổ và tội ác. Chắc đến đây quý thầy rõ lộ trình thế gian pháp, là say mê chìm đắm trong 4 thứ hỷ lạc đê tiện, thấp hèn, hạ liệt thuộc về hạng phàm phu, không xứng với thánh hạnh. Đó là những thứ hỷ lạc ở trên đó, mà thầy đã kể ra rồi đó, thì đó là những hỷ lạc của tội lỗi mà quý thầy đã nhận ra rồi.

Này quý thầy, có 4 loại hỷ lạc nhất định đưa đến yểm ly, vô tham, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết bàn.

Đây bây giờ nói 4 thứ hỷ lạc mà cái lộ trình thứ 2 mà chúng ta sẽ bước vào đây. Ờ bây giờ bên kia nó hỷ lạc nó đem đến đau khổ mà nó không được cái an tịnh cho cuộc đời chúng ta. Nó như cái bóng chớ không phải là miếng mồi thật, còn đây 4 cái hỷ lạc này là cái thật đưa chúng ta đến giác ngộ và niết bàn, tâm hồn an tịnh. Vậy 4 loại hỷ lạc này là gì?

1. Đây chúng ta phải xét xem cái hỷ lạc này nằm ở chỗ nào đây, để mà chúng ta tìm lấy hỷ lạc của pháp giải thoát chớ, chứ nếu không chúng ta cứ chạy theo hỷ lạc của dục không thì...Bây giờ chúng ta tu mà chúng ta không có hỷ lạc thì chúng ta tu cái gì đây. Ít ra nó cũng phải đem cho chúng ta có một cái gì thích để mà chúng ta tiến tới con đường giải thoát chứ. Nếu mà tu quá khổ, luôn luôn bị hành hạ không thì chúng ta làm sao ham tu. Cho nên đức Phật cũng phân tích cho chúng ta thấy có 4 loại hỷ làm chúng ta thích, làm chúng ta tiến bước trên con đường. Dù là con đường rất khổ nhưng nó có những cái an ủi cho chúng ta, làm chúng ta tiến tới mà chúng ta không có lùi bước. Bốn loại hỷ này là gì?

Các thầy ly dục, ly ác pháp, chứng và trú sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ, đó là hỷ lạc thứ nhất.

Đó, quý thầy thấy chưa, dục chạy theo ác pháp thì nó sinh ra các hỷ lạc đó, 4 cái loại hỷ lạc trên. Còn bây giờ mình đi ngược lại, mình đi ngược lại thì nó cũng có sanh hỷ lạc cho mình. Đó thì nó cũng có những hỷ lạc khác hỷ lạc kia rất nhiều. Và nó tuyệt diệu hơn rất nhiều vì nó đưa lại tâm hồn an tịnh và thắng trí giác ngộ niết bàn tịch diệt, nó làm cho tâm vô tham, vô sân, vô si, nó làm cho mình không có khổ nữa. Cái hỷ lạc này nó làm cho mình không khổ nữa, cho nên, do đó mình phải ly dục ly ác pháp để chứng và trú Sơ thiền- một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh. Đó là hỷ lạc thứ nhất của con đường tu tập chúng ta, tức là lộ trình thứ 2 đó.Vậy thì bây giờ nói về hỷ lạc thì đức Phật nói có một cái định gọi là Hiện tại an lạc trú đó. An lạc cho nên nó có cái lạc ở trong đó đó, mà cái lạc đó là nó chứng qua trong 4 cái lạc này, đó là cái hỷ lạc thứ nhất.

2. Quý thầy tịnh chỉ tầm tứ.Tịnh chỉ tức là ngưng lại, không cho tầm tứ nó còn nữa đó.Chứng và trú thiền thứ 2 một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ nội tĩnh nhất tâm. Đó là hỷ lạc thứ 2, nó rõ ràng. Quý thầy thấy định sanh hỷ lạc. Nó không giống cái hỷ lạc của ly dục sanh hồi nãy. Mà đây là cái định sanh, trạng thái hỷ lạc này nó có khác hơn nhưng nó cũng không phải khác xa cái chỗ ly dục đó đâu. Bởi vì ly dục là tâm thanh tịnh, mà cái nhất tâm này nó không tầm không tứ cũng là thanh tịnh, cho nên nó không khác xa, nhưng mà nó sâu hơn, nó nhiều hơn.

3. Quý thầy lìa xa các trạng thái tưởng. Bây giờ mình tới cái hỷ lạc thứ 3 thì quý thầy xa tất cả các trạng thái tưởng. Xa cho đến khi mà xa giấc mộng chiêm bao của quý thầy luôn nữa. Quý thầy lìa xa các trạng thái tưởng, trú ở hơi thở, ly sạch 6 loại tưởng, chứng và an trú thiền thứ 3. Đó là hỷ lạc thứ 3. Ở trong kinh thì Phật nói ly hỷ trú xả, chứng thiền thứ 3, còn Thầy ở đây thì thầy nói một cách rõ ràng hơn để cho chúng ta nhận ra được. Là do chúng ta lìa xa các trạng thái tưởng, bởi vì lúc này ý thức của chúng ta là diệt tầm tứ rồi, cho nên ý thức nó ngưng rồi, nên cái tưởng thức nó hoạt động. Do tưởng thức hoạt động mới sinh ra những trạng thái làm chúng ta thích, vui cho nên gọi là hỷ đó, có cái này xảy ra, có cái kia xảy ra chúng ta vui. Ví dụ thấy hào quang, thấy bay bổng lên trời, thấy mình có thiên nhãn, thần nhãn. Do đó mình thấy nó làm cho mình thích thú, mình thích thú tức là vui. Cho nên Phật mới nói ly hỷ, Thầy nói tận gốc còn Phật nói là cái trạng thái vui. Nhưng mà cái gì làm chúng ta vui? Nó phải có cái vui. Còn ở đây Thầy nói trạng thái làm cho chúng ta vui mà không nói hỷ, nhưng mà nói trạng thái đó, cho nên chúng ta phải lìa tất cả các trạng thái xảy ra mà làm cho chúng ta vui đó, thì do đó chúng ta gọi là ly hỷ. Vậy thì chúng ta phải xả sạch, ly sạch 6 cái tưởng này thì chúng ta mới chứng và an trú thiền thứ 3, do đó hỷ lạc thứ 3 sanh. Chúng ta mới có cái hỷ lạc thứ 3 sanh

4.Đến đây quý thầy sẽ tiếp tục để thấy nó có 4 cái loại hỷ lạc.

Quý thầy tịnh chỉ hơi thở, nhập tứ thiền.Phật nói xả hỷ xả lạc xả niệm thanh tịnh là nhập Tứ thiền. Ở đây Thầy không nói vậy, Thầy nói rất rõ ràng cụ thể, làm sao cho hơi thở ngưng là nhập Tứ thiền chứ không cần phải không cần xả. Mà ngưng tức là xả hỷ xả lạc rồi, có phải dễ không. Các thầy thấy chỗ Thầy dùng thì nó dễ hiểu và dễ rõ, còn nói xả hỷ xả lạc không biết xả làm sao cho hết hỷ, xả làm sao cho hết lạc, xả làm sao cho hết niệm thanh tịnh, thì nó hơi khó. Nhưng ở đây thầy chỉ cần nói tịnh chỉ hơi thở là nhập Tứ thiền. Mà nhập tứ thiền là hỷ lạc thứ 4 sinh ra. Có gì đâu, cái hỷ lạc đó ai tới đó thì biết cái hỷ lạc đó. Chớ bây giờ nói hỷ lạc như là dục lạc như ăn miếng ngon thì sai rồi, ăn miếng ngon mà thấy ngon thì đó là trật rồi. Bởi cái hỷ lạc đó đâu có ăn ngon. Cho nên có nhiều người nói tôi nhập định tôi thấy sung sướng lắm, sảng khoái lắm, điều đó là dục lạc chứ không phải hỷ lạc của thiền định. Phải hiểu cho đúng cách thì chúng ta mới thấy con đường tu của chúng ta đúng, còn nếu không thì chúng ta sẽ không thấy.

Bốn loại hỷ này nhất định đưa tới yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, giác ngộ, thắng trí, niết bàn, hỷ lạc này xứng thánh hạnh. Cái hỷ lạc này là cái hỷ lạc của bậc Thánh người ta thọ hưởng hỷ lạc này, chứ phàm phu thì không bao giờ rớ tới nó được. Bây giờ nghe nói ly dục ly bất thiện pháp để sanh hỷ lạc thì quý thầy có biết cái hỷ lạc nó ở đâu đâu. Bởi vì mình chưa có ly dục mà, tâm mình còn ham muốn cái này cái kia mà, làm sao mình biết, chừng nào mình ly sạch rồi mình mới biết. Thì đó là những cái mình chưa làm được cho nên mình chưa thấy hỷ lạc đó. Cũng như bây giờ người ta nói ăn miếng bánh này ngon quá, mà mình chưa có ăn mình biết ngon làm sao. Chỉ nghe theo, nghe nói vậy thôi, chừng nào mình bỏ vô miệng mình nhai mình nuốt, đó là hỷ lạc của dục. Mình ăn mình mới biết nó ngon, nó ngọt, nó đắng cay trong đó. Còn bây giờ chưa ăn nghe người ta nói cái bánh này ngon lắm, cái bánh này làm đâu bên Hoa Kỳ đó, mới đem về đây, thợ làm bánh này rất khéo, rất ngon, ăn cái mùi vị đặc biệt không có cái bánh nào ngon bằng. Người ta nói vậy chứ mình chưa nếm lưỡi mình chưa biết. Thì bây giờ 4 cái hỷ lạc của pháp này thì các thầy chưa có biết, chưa có nếm được. Mà nếm được rồi quý vị mới biết mùi vị của nó, nó không phải ngon như cái bánh mà chúng ta ăn mà nó có vị ngọt ở trong miệng đâu. Ngọt ở trong miệng đó là dục lạc chứ không phải gì. Bởi vậy khi có tu tới rồi người ta nói thì biết, nói thì biết. Mà chưa tới thì nói gì chúng ta tưởng tượng ra cũng không nổi, mà tưởng tượng ra nó thành ra dục lạc. Cho nên vì vậy quý thầy do sức tưởng ra mới ngồi nghe khinh an, mới nghe nhẹ nhàng, thoải mái, sung sướng. Cha, cái này là hỷ dục chứ hỷ lạc gì. Đó là cái sai, không có đúng. Ở đây chúng ta có 8 loại hỷ lạc, 4 loại thuộc về phàm phu thường sanh ác pháp, 4 loại thuộc về bậc thánh thường sanh các thiện pháp. Bây giờ quý thầy đã rõ hỷ lạc nào đúng và hỷ lạc nào sai, thì hãy chọn cái đúng mà đi, cái sai mà bỏ đi, để kiếp kiếp đời đời thoát khỏi khổ đau. Cái sai thì nó luôn luôn gắn liền với khổ đau mà cái đúng thì nó mới thoát ra khỏi khổ đau. Thầy vạch quá rõ còn đi hay không đi là quyền của quý thầy, còn muốn hay không muốn là do quý thầy chứ thầy không có còn cõng quý thầy đi được nữa. Quý thầy nhớ Phật ngày xưa cũng nói: các con tự thắp đuốc lên mà đi, ta không thắp đuốc cho các con đâu. Thì các con hiểu điều đó, bây giờ các con rõ rồi đó. Thầy vạch ra 2 lộ trình rất rõ, đầu tiên thì giảng nói cái này kia, nhưng bây giờ tới giai đoạn này thì các con biết thầy đã chỉ cho thấy rõ ràng 2 cái lộ trình. Phải bước 1 lộ trình chứ không thể nào bước 2 lộ trình được.(BBT:CĐ,16A,E00:18:45)

BĂNG SỐ 15

BĂNG SỐ 15+16: ĐỊNH CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC + ĐỊNH VÔ LẬU + KẾT LỘ TRÌNH THỨ NHẤT

(Cho người cư sĩ, người tu sĩ mới tu, người đang ở lộ trình thứ nhất)

(BBT:CĐ,16A,B00:18:46)Sau khi tu tập TỨ CHÁNH CẦN xong các thầy nên tiếp tục tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC định. Ở lộ trình này các cư sĩ đang tu phải tu tập theo từng hành động việc làm của mình, hằng ngày làm bất cứ việc gì quý vị chú ý việc ấy, không được sao nhãng hoặc nghĩ đến chuyện khác, phải luôn luôn chú ý hành động làm, tu trong tất cả việc làm. Đó là luôn luôn người cư sĩ hiện bây giờ đang thực tập để cho mình bước qua một giai đoạn mới, cái lộ trình mới, lộ trình của người tu sĩ thì mình luôn luôn tu tập ở trong các việc làm của mình để tập cho có sức tỉnh thức ở trong đó, cho có một cái CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC ở trong đó. Điều này rất khó nhưng Thầy dạy quý vị tu hành cũng không khó đâu. Nghĩa là bây giờ bảo mình cứ tu tập theo hành động của mình, chú ý theo hành động của mình, tu sao mà chút có vọng tưởng, chút có vọng tưởng à. Trời đất ơi làm sao mà tỉnh thức được. Cho nên không có cách thức tu, cho nên từ lâu tới giờ có nhiều người dạy tu trong mọi công việc, nhưng kết quả cho người ta tu mà được kéo dài từ ngày này tới ngày khác không bị vọng tưởng, không có vô ký trong đó thì ít có ai mà làm được hết. Còn đến đây Thầy dạy cho quý thầy sẽ làm được cái điều đó, mà có thể giúp cho quý thầy tỉnh thức suốt ngày này sang đến ngày khác, trong mọi công việc mà không cần phải có sự tập trung quá cao độ, quá tập trung trong các hành động.

Quý vị nên lưu ý tu trong hành động có 2 điều cần tránh. Ờ bây giờ mình phải biết tu trong hành động, việc làm của mình có 2 điều cần phải tránh:

Một là tránh suy tư chuyện khác, nghĩa là trong hành động đó mình tránh suy tư vọng tưởng ở trong đó. Đừng để vọng tưởng xen vào trong công việc đang làm. Nghĩa là vừa làm việc mà vừa nghĩ chuyện khác, tức là thiếu sự tỉnh thức trong hành động.

Hai là tránh vô ký.Đó hành động mình vừa làm mà vừa nghĩ chuyện này chuyện kia đó là thiếu tỉnh thức rồi, thì phải lưu ý cái phần nhứt. Cái phần 2 là tránh vô ký, tức là đang làm mà không nhớ cử chỉ đang làm. Lúc bấy giờ đang rơi vào trạng thái không nghĩ tưởng, đó là thiếu tỉnh thức, thiếu tỉnh giác trong việc làm.

Tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC phải biết dùng 2 pháp. Nghĩa là trước Thầy nêu lên 2 cái lỗi ở trong sự tu tập đó: cái thứ nhất là vọng tưởng ở trong hành động, cái thứ 2 là vô ký ở trong hành động. Thì 2 cái đó phải tiệt trừ, phải tiêu diệt nó, không được để trong sự tu tập thì như vậy là không đúng. Chứ không phải bây giờ tôi tu tôi giữ tỉnh thức được năm, ba phút rồi kế đến nó có vọng tưởng, rồi tôi tu năm, ba phút nữa kế đến có vọng tưởng. Hàng ngày tôi tu trong công việc mà nó cũng có vọng tưởng xen ra, thì người đó dậm chân tại chỗ, tu ngàn đời không được. Tức là chúng ta phải biết tu như thế nào để làm chủ tuần tự cái thời gian chúng ta tăng dần, tăng dần lên, chứ không phải ngày nào cũng tu trong hành động, lúc nào cũng làm trong hành động, rồi tu có vọng tưởng ra vô ra vô hoài. Cũng tu vậy mà tu Chánh niệm tỉnh thức kiểu đó là tu dậm chân.

Còn bắt đầu bây giờ chúng ta cho một thời gian nhất định là chúng ta tu 30 phút ở trong hành động làm, hoặc là quét sân, hoặc là gì đó, đúng giờ chúng ta nghỉ, rồi bắt đầu chúng ta xả, chúng ta làm theo suy nghĩ gì của nó kệ nó, nhưng mà đúng giờ chúng ta tu. Chúng ta tu chừng năm phút hay mười phút mà chúng ta đạt kết quả chất lượng của tỉnh thức ở trong 5 phút hoặc 3 phút thôi rồi hoàn toàn chúng ta xả nghỉ. Chứ sức của chúng ta không thể suốt ngày mà công việc mà chúng ta giữ nó được. Cho nên phải hiểu được sức của mình. Nhiều khi nói tu trong hành động, điên khùng mà tu suốt ngày, lúc nào cũng có vọng tưởng hết mà nói là tỉnh thức là tỉnh thức gì. Chúng ta tỉnh thức được 5 phút, 3 phút là may lắm rồi, từng đó mà chúng ta tập dần mà tăng dần lên rồi chúng ta có chất lượng cao và chừng đó chúng ta sẽ siết tất cả thời gian tỉnh thức trong mọi hành động.

Bởi vì tu phải biết chứ, còn tu mà không biết, cứ tu điên tu khùng, thì tu ngàn đời. Cũng là nói tu trong công việc làm, ai nói cũng hay hết, cuối cùng thì chẳng có tỉnh thức gì hết. Bởi vì luôn luôn có xen kẽ vọng tưởng ra vô làm sao tỉnh thức được.

 Đó thì hôm nay Thầy dạy để quý thầy biết cách mà tu tập pháp tỉnh thức. Cũng như nghe thầy nói tu pháp Chánh niệm tỉnh thức, thôi đi kinh hành lung tung lung tung, suốt ngày thấy đi chăm chăm, thôi thì cái kiểu này là tu ngu. Tu ngu! Tu như vậy là không bao giờ có tỉnh thức. Cho nên cuối cùng Thầy nhìn thấy quý thầy càng ngày là càng sai, càng sai là nó không có tập trung được cái độc cư, mà nó lại xuyên qua những cái khác, cho nên Thầy nhận ra rất rõ cái điều mà quý thầy…

Bây giờ tiếp tục bài học vừa rồi là tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC. Vậy thì phải tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC như thế nào? Như Thầy đã dạy ở trong cái vừa rồi đó… ở cái sức của mình, sức của mình nó ở cái mức thời gian nào thì mình nên tập luyện thời gian đó, chớ không phải luôn lúc nào ở trong mọi hành động, mọi công việc mà mình tập tỉnh thức được liền. Mà ngay trong thời gian đầu tiên mới tu thì mình chọn thời gian ngắn nhất với sức của mình, mình tập sao cho có chất lượng cao, trong lúc đó mình giữ gìn mọi hành động của mình, mà sức tập trung của mình ở trong mọi hành động đó thì sức tỉnh thức nó mới có.

Muốn như vậy thì chúng ta phải nương vào 2 pháp: là pháp tùy và pháp hướng. Tùy pháp là nương theo cái hành động, bởi vì cái hành động của chúng ta gọi là pháp. Hàng ngày cái đối tượng hành động của chúng ta là pháp hành, cho nên chúng ta lấy cái hành động đi đứng hàng ngày hoặc công việc. Thì đó là pháp tùy theo hành động đó. Cho nên cái tâm chú ý vào hành động đó gọi là tùy pháp.

Còn hướng pháp là chúng ta nhắc nó, cho nên chúng ta tu tập thế nào mà nó tự nhiên, chớ không phải là tu tập theo cái kiểu mà thiếu tự nhiên. Ví dụ là tùy pháp: cái thân của chúng ta làm công việc đó nó nhanh nhẹn thì chúng ta tùy theo sự nhanh nhẹn đó mà tập luyện, hoặc là chúng ta làm chậm chạp thì chúng ta cũng tùy theo sự chậm chạp mà tập luyện cho nó tự nhiên. Chứ còn bây giờ chúng ta phải chú ý hành động thân của mình thì bắt đầu mình phải làm chậm cho thật chậm mới chú ý được hoặc làm cho nhanh mới chú ý được thì cái đó là mình mất tự nhiên, mình làm sai pháp hành của mình đi. Cái thân hành có người thì làm nhanh, có người thì làm chậm. Như bây giờ có người thì đi nhanh, có người thì đi chậm. Nhưng mà cái người đi chậm thì tùy theo pháp hành đi chậm của mình, mà mình tập tỉnh thức ở đó. Mà cái người đi nhanh thì cũng tùy theo cái đi nhanh mà mình tu CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC ở chỗ nhanh. Chớ không phải là bắt buộc mình, mình đi nhanh mà tu tập mình phải đi cho chậm trở lại, mà đi chậm như vậy thì nó không thể là đúng cách tự nhiên của nó. Cho nên chúng ta tu, nhiều khi chúng ta không biết chúng ta tu, có người thì nhanh nhẹn thanh thoát mà tu riết rồi thì đi chậm như con rùa, thấy coi cũng không được. Đó là những cái sai.

Rồi có nhiều người lại thấy mình đi chậm quá như vậy là sức tập trung của mình tu tập như vậy thấy nó quá lâu, cho nên lại là chạy nhảy nhanh nhẹn để là nương theo cái chỗ nhanh nhẹn như vượn đó để mà tu tập, thì nó cũng trật. Tùy theo cái pháp hành của thân chúng ta, nhanh thì chúng ta tu nhanh, chậm thì chúng ta tu chậm, chớ không phải bắt buộc nó vào khuôn khổ nào chậm nhanh theo cái ý của mình được. Bởi vì đây là cái pháp tự nó nó có cái pháp của nó cho nên mình chỉ hướng theo mà thôi, nương theo, tùy theo cái pháp mà tu tập.

Đó là tùy pháp theo hành động công việc làm sống hằng ngày mà tu tập sức tỉnh thức. Muốn đạt sức tỉnh thức này người tu sĩ phải dùng pháp hướng tâm NHƯ LÝ TÁC Ý. Bây giờ mình kèm theo pháp hướng tâm, mình nhắc để cái tâm của mình luôn luôn nhớ được cái hành động việc làm của mình, như mình nhắc: tôi đang làm việc gì thì tôi nhắc tôi đang làm việc đó. Nghĩa là mình làm việc gì thì mình nhắc theo nó. Ví dụ như bây giờ mình đang quét nhà, thì tôi chú ý hành động đang quét nhà và hướng tâm nhắc tôi đang quét nhà. Bây giờ mình dùng câu pháp hướng của mình: tôi đang quét nhà. Bây giờ mình đang quét nhà nên nhắc tôi đang quét nhà. Như vậy mình sẽ nhắc cái tâm nhớ hành động mình đang quét. Như đang nấu cơm thì mình lại nhắc tôi đang nấu cơm.

Đó là những cái mình hướng theo để giúp cho ý thức của mình tỉnh thức trong hành động của nó, mà nó không bị thất niệm, nó ở trong chánh niệm của nó. Cho nên chánh niệm của nó là cái hành động. Vì chúng ta đặt lấy cái hành động để làm cho sức tỉnh giác của chúng ta có, cho nên lúc bấy giờ cái chánh niệm không phải là cái niệm nào mà nó thông suốt cái nọ cái kia gọi là chánh niệm mà chính hành động đó là chánh niệm của chúng ta, đã đặt ở trước mắt của chúng ta, trước ý của chúng ta. Cho nên cái đó gọi là chánh niệm. Mà nó chánh niệm luôn luôn lúc nào nó cũng biết hành động đó thì nó là tỉnh giác hay là tỉnh thức.

Hiểu như vậy thì chúng ta biết cái niệm của chúng ta là cái niệm gì, cái niệm hành động, cái niệm đang làm cái gì đó, đang làm công việc gì đó. Đó là cái niệm. Mà cái niệm đang hiện tiền trước mặt mình đó gọi là chánh niệm, chớ không phải là mình đặt cái niệm khác vào chỗ đó được, hay là mình đặt hơi thở vào chỗ đó được. Chánh niệm ở trên hành động thì phải là cái hành động chớ không phải cái hơi thở.

Còn nếu mà chúng ta vừa đặt cái đi kinh hành vừa biết chân đi mà vừa biết hơi thở thì như vậy là chúng ta đã đặt 2 cái niệm 1 lượt, thì như vậy là chúng ta sai. Đó không phải là chánh niệm, mà nó là niệm đôi ở trong đó thì nó trật. Cho nên chúng ta chỉ có biết mình đi kinh hành mà thôi, thì như vậy là mình đặt chánh niệm, thì lúc bấy giờ nó tỉnh giác ở trong chánh niệm đó, cho nên cái định gọi là Chánh niệm tỉnh giác. Hiểu như vậy thì chúng ta không có đi hàng hai và không có đặt sai cái niệm. Nếu mà trong khi đi kinh hành có niệm gì nghĩ ở trong đầu thì cái đó là sai, tại vì là cái niệm khác chứ không phải niệm hành động của chúng ta, cho nên nó đâu có chánh niệm, bởi vì cái niệm đó không phải là niệm mình đặt, nên nó là tà niệm.

Đi trên hè phố thì nhắc: tôi biết tôi đang đi trên hè phố. Đó thì mình đang đi trên hè phố thì mình nhắc: tôi biết tôi đang đi trên hè phố. Đó là pháp hướng của mình để cho cái chánh niệm của mình đang đi trên hè phố.

Đó là những cái mà chúng ta cần phải hướng theo để cho cái tâm, cái ý chúng ta lúc nào nó cũng tỉnh thức trên hành động mà chúng ta đang đi. Mà hành động đó là cái chánh niệm. Chứ nghe chánh niệm mà chúng ta nói: ờ thì bây giờ nói về cái niệm chơn chánh của chúng ta thì nói: đời là khổ là cái niệm chơn chánh, thì vậy là nó sai đi, nó thuộc về cái loại khác, nó thuộc về cái loại định khác chứ không phải là cái định chánh niệm tỉnh thức ở đây. Mình nghe chánh niệm rồi mình đem cái chánh niệm nào đó vô chỗ này thì nó là sai. Mình phải hiểu được cái chánh niệm trong khi đi kinh hành cái niệm nó như thế nào, mà thất niệm, tức là mất cái niệm đó đi, đức Phật gọi là thất niệm. Thí dụ mình đang đi kinh hành mà mình quên mình đang đi kinh hành là bị thất niệm.

Thầy giải thích như vậy để quý thầy thấy rõ chỗ thất niệm, để chúng ta biết chỗ tu chúng ta đúng hay là sai. Cũng như một người đang tu định vô lậu mà đang quán cái thân bất tịnh, bỗng dưng nhớ chuyện gì khác đi, không có quán thân bất tịnh mà lại quán câu kinh: ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm, suy nghĩ về câu đó, thì như vậy là thất niệm. Đang có cái niệm đó nó nói về tâm của mình như thế này như thế khác ở trong kinh điển mà trong khi đó mình đang quán bất tịnh của cái thân này. Mà cái thân này đang quán bất tịnh là cái chánh niệm, mà quán một câu kinh nào đó thì nó là thất niệm. Nó là cái tà niệm chứ không phải chánh niệm của người đang tu pháp môn vô lậu. Phải hiểu mặc dù niệm đó không phải là niệm thế gian, nhưng nó vẫn là niệm không đúng vị trí nó đứng. Mà mình đặt niệm đó ngay chỗ mình đang tu pháp, nó không đúng cái pháp, do đó niệm đó thuộc về tà niệm chớ không phải là chánh niệm. Mà cái niệm như vậy xen vào thì đương nhiên xem người tu hành đó bị thất niệm.

Đang xúc miệng thì nhắc: tôi biết tôi đang xúc miệng. Nghĩa là mình đang xúc miệng rửa mặt đó thì mình nhắc: tôi xúc miệng tôi biết tôi xúc miệng. Đang ăn cơm thì nhắc: tôi biết tôi đang ăn cơm. Đang nhai thực phẩm: tôi biết tôi đang nhai thực phẩm. Như vậy là lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức ở trong cái chánh niệm của cái hành động đang nhai. Đang mặc áo thì tôi cũng nhắc: tôi biết tôi đang mặc áo. Mình nhắc như vậy tức là pháp hướng của mình kèm theo để cho mình biết hành động của mình đang xỏ tay vô cái tay áo, rồi đang gài nút. Thì cái đó là những cái nhắc chúng ta biết đang, trong hiện tại đó, chúng ta đang làm cái việc đó. Cho nên ý chúng ta luôn luôn bị cái pháp hướng mà nó không chạy ra khỏi cái chánh niệm của nó. Cho nên luôn luôn lúc nào nó cũng ở trong cái chánh niệm của nó.

Như vậy hôm nay quý thầy đã biết chánh niệm của nó là cái niệm gì, khi chúng ta đã đặt nó trước mặt của chúng ta. Cho nên Phật bảo, ví dụ như mình đang ngồi tu cái định nào thì mình cứ đặt cái niệm trước mặt. Thì bây giờ mình đặt cái niệm chánh niệm tỉnh thức, cái niệm hành động, thì tức là trong hành động thì mình phải đặt nó trước mặt của mình. Luôn luôn phải biết giữ nó, đừng cho thất niệm. Thì như vậy là chúng ta mới có sức tỉnh thức, tỉnh giác cao. Còn nếu bị thất niệm thì nó không có sức tỉnh giác cao đâu.

Đó là người tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC định luôn luôn dùng pháp tùy và pháp hướng để giúp cho tâm có thời gian kéo dài sức tỉnh giác ra. Mình cứ nhắc vậy thì nó kéo dài thời gian tỉnh thức. Nhưng như vừa rồi Thầy cũng nhắc quý thầy là chúng ta phải khéo, phải khéo như thế nào? Vì cái sức của chúng ta nó không thể giờ này đến giờ khác mà nó tỉnh thức nổi đâu. Cho nên chúng ta tập chừng 5 phút chúng ta nghỉ, nghỉ xả 30 phút hoặc là 15 phút. Bắt đầu chúng ta tu lại 5 phút.

Chúng ta tu lại cái sức tỉnh rất cao, cái chánh niệm của chúng ta nó hoàn toàn an trú trong hành động, chánh niệm nó không có thất niệm, nó không có mất. Còn chúng ta tu nhiều quá nó lờ mờ, mặc dù chúng ta có cái chánh niệm, tức là niệm hành động của chúng ta nó không mất, nhưng nó không rõ, do đó cái sức tỉnh nó không cao. Vì vậy mà chúng ta tu mất thì giờ rất lớn. Lưu ý phần này thì các thầy tu ít nhưng mà đạt cái chất lượng cao. Rồi từ cái sức tỉnh của chúng ta ngày càng cao thì chúng ta lại tăng dần lên, thì chúng ta sẽ thấy rất là tỉnh. Thà là mình tu ít mà lúc bấy giờ mình tập trung vào cái gì đó, lúc đó cái sức tỉnh mình rất cao, và cái sức tỉnh rất cao thì nó mới có cái tri kiến giải thoát nó mới phóng ra, nó mới tu định vô lậu, nó mới quét sạch những cái lậu hoặc. Còn cái sức tỉnh mình nó thấp quá, mình ngồi lại mình dùng cái niệm vô lậu để mình quán xét thì mình ngồi hoài mà nó không phóng ra được, đó là cái sức tỉnh mình không có nên cái tri kiến giải thoát không phóng ra được. Khi mình chưa có đủ sức tỉnh thì mình dùng cái tri kiến, tri kiến tức là cái sự hiểu biết vay mượn của người khác để rồi mình suy xét, quán xét từ đầu đến chân của mình bằng cách này bằng cách khác. Còn khi mà chúng ta đã có sức tỉnh thức rồi thì chúng ta không cần vay mượn của ai hết mà chúng ta chỉ cần đặt cái niệm trước mặt: chẳng hạn niệm thân bất tịnh hay niệm thân vô thường vô ngã. Chúng ta đặt cái niệm trước mặt, chúng ta ngồi im lặng một chút xíu, tự ở trong tâm chúng ta phóng ra tri kiến giải thoát, từ đó nó quán xét, thấy rất rõ tất cả những cái bất tịnh như thế nào, tự nó nó quán sát không vay mượn của ai hết, mà nó thông suốt như vậy đó gọi là tri kiến giải thoát.

Nhưng vì sức tỉnh thức của chúng ta không có, cho nên chúng ta ngồi lại nó ỳ đó mà nó không phóng ra được, bởi vì tỉnh thức không cao. Vì vậy mà khi chúng ta tu tập chừng 5 phút hay 10 phút mà cái sức cao rồi thì tự chúng ta ngồi im lặng là nó phóng ra liền. Bởi vì người ta nói Định thì có Tuệ. Mà mình chưa có đủ cái Định, tức là cái tỉnh thức, cái sức tỉnh thức tức là cái sức định chứ đâu phải là cái gì, nó là cái sức nhiếp tâm của chúng ta, cho nên chúng ta chưa có nó thì cho nên cái Tuệ nó không phóng ra được, mà nó không phóng ra được thì tri kiến giải thoát không có, mà tri kiến giải thoát không có thì tâm chúng ta còn biết bao nhiêu cái ràng buộc dính mắc. Cho nên chúng ta muốn giải quyết sự ràng buộc dính mắc của lậu hoặc này thì chúng ta phải dùng cái tri kiến, tức là cái vay mượn, cái hiểu biết của kinh điển, của quý thầy dạy bảo để chúng ta hiểu được cái bất tịnh như thế nào, cái vô thường như thế nào để chúng ta quán xét theo sự hiểu biết của vay mượn, chứ không thể có tri kiến giải thoát được.

Đó thì sự tu tập nó phải rõ như vậy, chứ nếu mà không biết thì chúng ta ngồi ỳ đó hoài mà tri kiến giải thoát nó không phóng ra, rồi cứ nương theo hơi thở, tưởng đó là mình thiền định, chứ thực ra mình bị thất niệm. Mình thất niệm là vì cái định này nó không thể nào ở trong hơi thở được. Rồi mình tưởng là ở trong hơi thở nó không có vọng tưởng, đó là mình không có thất niệm; nhưng thật sự là mình tu lầm lạc, rồi mình tu sang qua một pháp khác, mà mình không có chủ động điều khiển được, tức là thiếu sự làm chủ.

Nhưng quý vị chú ý, ở đây hướng tâm chứ không phải niệm câu pháp hướng. Cái phần này chúng ta cũng phải rõ là chúng ta hướng tâm, chứ không phải là niệm, để không rồi chúng ta cứ liên miên mà niệm thì nó cũng lại trật. Ở đây hướng tâm chứ không phải niệm câu pháp hướng. Vì hướng tâm phải có cách khoảng thời gian, ít ra câu hướng này với câu hướng kia, nghĩa là chúng ta phải có khoảng thời gian.

Ví dụ bây giờ chúng ta hướng này: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân.

Thì không thể nào chúng ta lặp lại một lần thứ 2 kế tiếp nữa: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân. Rồi nói: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân… Mình lặp lia lịa vậy gọi là niệm. Còn mình nhắc một câu: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân, rồi chúng ta cứ tự nhiên mà chúng ta quét, để cho cái sức ý thức của chúng ta tập trung nơi hành động chánh niệm của nó đang quét. Thì một khoảng cách độ chừng 3 phút, 5 phút chúng ta lại nhắc một lần nữa. Thì cứ có khoảng cách để tâm nó lặng theo hành động tập trung mà không cần tác ý ra nữa, do đó gọi là pháp hướng. Còn nếu mà cứ liên tục niệm thì đó là niệm pháp hướng chứ không phải là hướng tâm.

Cho nên chúng ta ở đây cũng phải hiểu được cái điều này. Người mới tu họ không biết thì cứ tu liên tục lúc nào cũng nhắc. Thí dụ đi kinh hành thì họ cứ nhắc: tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành, rồi lúc nữa họ cũng nhắc liên tục nữa, thì cái đó là cái sai, cho nên khi mình nhắc rồi thì họ phải tuần tự để cho có thời gian lắng tâm xuống trong cái Chánh niệm, trong cái hành động đi của chúng ta. Thì khi mà lắng tâm trong cái khoảng thời gian đó, cái sức tỉnh nó tăng lên, đồng thời thời gian mà lắng tâm đó nó sẽ bị vơi đi, tức là sức tập trung của chúng ta, dần dần ý thức nó chưa quen cho nên nó không có tập trung chặt vào đó được, cho nên nó lơi lỏng. Nó lơi lỏng thì chúng ta lại dùng 1 cái pháp, câu hướng nữa, lại nhắc nó một lần nữa: tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành. Thì từ đó nó lại tập trung vào hành động đi nữa, thì nó lại tỉnh thức cao hơn nữa, do đó chúng ta cứ tiếp tục như vậy thì cái sức tỉnh nó lại càng cao.

Nhưng mà rồi nó có trường hợp, là tại vì quý thầy đã tu tập cái hơi thở nhiều quá thay vì chúng ta chưa nên tập hơi thở trong cái lúc này, mà phải tu các định khác. Bây giờ nó lại quen hơi thở, vừa đi mà lại vừa biết hơi thở. Cho nên Phật dạy tất cả các pháp chúng ta đều có thể nương hơi thở mà tập được, do đó chúng ta nhắc câu ám thị, nó vừa là có hơi thở mà vừa có chánh niệm tỉnh thức của hành động chúng ta đi nữa. Thì: hơi thở vô tôi biết tôi thở vô, hơi thở ra tôi biết hơi thở ra. Hơi thở vô tôi biết tôi đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đi kinh hành.

Đó là những câu nhắc để lấy dùng hơi thở làm cho tập trung xuống với hành động đi, chớ không phải tập trung hơi thở. Nhưng tại vì cái tâm của mình nó đã quen với hơi thở nên vừa đi mà vừa biết hơi thở, cho nên mình nhắc: hơi thở vô tôi biết tôi đang đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đang đi kinh hành. Mình dùng cái hơi thở mình tập trung xuống hành động liền, nó làm cho mình tỉnh thức ngay liền và đồng thời bỏ hơi thở được. Đó là những cách có thể nương hơi thở mà tu vào cái Chánh niệm tỉnh thức để cho chúng ta càng tỉnh thức hơn.

Đó, đó là những cách thức tu tập để chúng ta tu chánh niệm tỉnh thức cho nó đạt được cái mức tỉnh thức cao. Vì hướng tâm phải có cách khoảng thời gian, ít ra câu hướng này với câu hướng kia, người mới tu 30 phút mới hướng một lần, còn người tu lâu có sức tỉnh thức nhiều, một phút hoặc 2 phút hướng một lần. Nghĩa là người mới tu mà tu 30 phút thì họ phải tu trong 1 phút họ phải hướng 1 lần hoặc 2 phút họ hướng 1 lần. Còn người tu lâu thì có thể khoảng 5 phút hay 10 phút họ mới hướng 1 lần. Nếu mà thấy sức tỉnh thức của mình mà nó luôn luôn tập trung ở hành động đi của mình thì lúc bấy giờ lâu lâu mình mới hướng, mà thấy nó lờ mờ, nó bị hàng hai, nó nương hơi thở hoặc nó bị âm thanh tác động, nó đi hàng hai trong đó thì ngay đó mình phải hướng liền cho nó gom lại, chớ không khéo nó lờ mờ. Nó đi hàng hai là nó lờ mờ rồi đó, nó không tập trung được rồi, nó không tỉnh thức đâu.

Cho nên khi đó người tu thì người ta thiện xảo lắm, người ta phải khéo léo ở trong sự tu tập. Người ta biết cái tâm của mình lúc ấy nó lờ mờ rồi, người ta biết lúc bấy giờ nó rất tỉnh rồi. Mà lúc lờ mờ người ta biết, cho nên người ta rất khéo léo dùng pháp hướng là cái chỗ lờ mờ, chỗ tỉnh thì người ta không dùng pháp hướng nữa để cho nó tập trung ở trong sức tỉnh. Mà nó lờ mờ thì ngay đó chúng ta phải dùng pháp hướng để phá liền để cho ý thức của chúng ta nó gom lại cho nó mạnh. Biết rõ như vậy thì chúng ta tu rất là có kết quả.

Ở đây không được nhắc liền miệng, vì nhắc liền miệng là niệm câu trạch pháp hướng, như vậy sẽ tu sai, sau này sẽ rơi vào định tưởng, lạc đường tu giải thoát của đạo Phật. Nghĩa là rơi vào những định tưởng, niệm riết rồi nó sẽ rơi vào những định tưởng, nó làm cho chúng ta có sự an lạc trong khi niệm mà nó không có đúng cái pháp hướng.

Bây giờ quý vị tu ĐỊNH VÔ LẬU, ban đêm tối đến quý vị chọn giờ nào yên tịnh nhất, ngồi kiết già lưng thẳng, rồi đặt niệm trước mặt quán xét cha mẹ, anh em, bà con ruột thịt, vợ chồng con cái, xét qua nhân quả khổ vui, giận hờn, thương ghét, đầy rẫy một cuộc sống đau khổ và bằng nước mắt do nghiệp nhân quả tạo nên.

Đó khi bây giờ mình còn là người cư sĩ trong gia đình thì mình đặt cái niệm gì, cái niệm của một cuộc sống chung nhau trong gia đình cha mẹ anh em ruột thịt, con cái của mình, của cải tài sản mình đặt ra trước mặt mình quán xét nhân quả. Mình mới suy tư lại từ ngày mình mới lập gia đình cho đến khi mà mình sống có con có cái như thế này, sự vui sự khổ như thế nào, mình phơi bày ra tất cả các cái cuộc sống của mình, để mình thấy đó là bằng mồ hôi nước mắt của mình, sự đau khổ. Mà do nhân quả nghiệp báo nó đưa đẩy chúng ta quá nhiều sự khổ đau đó, vui thì ít mà khổ thì nhiều.

Do cái sự tu tập như vậy mà chúng ta đặt cái niệm như vậy, tức là càng ngày chúng ta càng hướng về cái hướng cái lối đi giải thoát, càng ngày cái tâm của chúng ta càng thấy rõ nét ở trên hướng giải thoát. Còn nếu mà không chịu đặt như vậy thì chúng ta bị sự vô minh che mờ, nó làm cho chúng ta tưởng cái cuộc sống của chúng ta là cái hạnh phúc, nhưng nó là cái hạnh phúc giả, rồi tiếp tục trên con đường nghiệp báo nhân quả, rồi chúng ta cũng trôi lăn ở trong 6 nẻo, rồi những người thân của chúng ta cũng chẳng còn là người thân, mà chỉ còn là những người nhân quả, những người vay nợ với nhau, chớ không có nghĩa lý gì ở trong cuộc đời của chúng ta nữa.

Như vậy là người cư sĩ mà chúng ta muốn bước qua một giai đoạn của người tu sĩ thì chúng ta nên đặt niệm đó để chúng ta quán xét cuộc sống sinh hoạt của gia đình, của tất cả những người thân để xem coi có phải là thân thật hay là thân giả, có phải là nợ vay hay là không nợ vay, có phải là nghiệp báo gặp nhau để mà trả nghiệp báo hay không? Cho nên quán xét cuối cùng thì chúng ta thấy tâm chúng ta dửng dưng mà không còn bị trói buộc những cái dây thương, dây ghét nữa, cho nên chúng ta được xa lìa để tìm con đường giải thoát của Phật. Đó là người ở trong lộ trình thứ nhất này (BBT:CĐ,16A,E00:44:26), người cư sĩ chuẩn bị cho mình bước qua một giai đoạn tu tập của lộ trình thứ 2 của tu sĩ thì chúng ta nên đặt cái niệm đó ở trước để tu tập Định vô lậu.

(BBT:CĐ,16B,B00:00:12) Ở đây đầu tiên Thầy dạy cái định chánh niệm tỉnh giác định, kế đó thì cái định vô lậu, 2 cái này là người cư sĩ ở giai đoạn đầu tiên phải tu tập.

Khuya thức dậy cũng ngồi kiết già, đặt niệm trước mặt, quán xét lại như buổi tối, sáng chiều cũng thế, cứ mỗi lần quán xét là nó lại rõ thêm nhân quả. Nghĩa là mỗi lần mình ngồi mình tu, thì càng ngày mình thấy đường đi nhân quả rất rõ ràng. Tại sao mà Thầy biết như vậy?

Tại vì trước kia Thầy cũng có tu cái này rất nhiều, cho nên tại sao mà Thầy biết được đường đi lối về của nhân quả, tại vì mình có đặt được cái nhân quả đó mà mình quán xét về cuộc đời mình, quán xét của mọi người cho nên càng ngày nó làm cho thấu rõ được cái đường đi của nhân quả. Vì vậy mà bây giờ mà viết ra một cái giáo án của NHÂN QUẢ tức là đạo đức NHÂN QUẢ thì Thầy viết ra rất dễ dàng, bởi vì Thầy đã thấu suốt đường đi của nó rồi, mỗi một cái hành động mà chúng ta làm thì nó sẽ có cái quả nào Thầy đã biết rồi, còn như quý thầy không chịu quán xét, cho nên hành động của mình làm đây nhưng mình chưa biết cái quả nó ra sao hết. Còn cái người mà đã thông suốt NHÂN QUẢ, thì người ta ngồi lại người ta biết hành động làm cái điều đó là sẽ có cái quả gì nó đến đó, nó không có sai chỗ nào hết, nó không có trật bởi vì NHÂN QUẢ mà. Cho nên từng xét như vậy thì cái tri kiến giải thoát của chúng ta nó thấu suốt được cái lý của NHÂN QUẢ, cho nên nó thông suốt được đường đi của NHÂN QUẢ, nó không có sai. Còn nếu không chịu tu cái ĐỊNH VÔ LẬU mà dùng cái pháp quán thì chúng ta khó lòng mà thấy được đường đi nước bước của NHÂN QUẢ.

Đến đây Thầy cho thêm vài đề mục thiền vô lậu. Nghĩa là Thầy cho thêm một vài đề mục, tức là cái niệm để tu ĐỊNH VÔ LẬU.

Đặt niệm của cải tài sản, nghĩa là đem của cải tài sản của mình đặt trước nó, để mà quán của cải tài sản của mình nó vô lậu như thế nào.Quán xét xem cho thấu lý của của cải tài sản làm cho ta bất an, phải lo lắng bảo vệ và còn phải liên tục chạy theo để mà tạo nó ra nữa. Đó thì ở đây Thầy cho cái đại khái để chúng ta hiểu rằng khi mà chúng ta đặt niệm của cải tài sản trước mặt, thì chúng ta quán xét của cải tài sản kia mà chúng ta làm ra có nó, rồi khi mà nó có rồi chúng ta phải bảo vệ giữ gìn nó như thế nào, mọi mặt đủ cách làm cho chúng ta đau khổ ở trong cuộc đời chúng ta như thế nào đối với của cải tài sản.

Quán xét đến khi chết có mang theo được không? Nghĩa là khi mình chết rồi mình có mang theo được vật gì không? Tức là quán xét bây giờ phỏng chừng mình chết rồi, bây giờ cái gì quý nhất, vàng bạc hay cái gì quý nhất, có thể mang theo được mình không. Đó mình quán xét cái vật chất, tiền của, châu báu mà mình đã làm ra được, thì khi mình mất đi rồi, mình có mang vật gì theo được không? Để cho mình thấy nó, nó không phải là những người thân thương của mình luôn luôn ở bên mình được, cho nên mình phải thấy được điều này là do mình đã đặt cái niệm đó mình quán xét mình mới xả ly nó ra được, mình mới có vô lậu được với những đối tượng này.

Đặt niệm thân bất tịnh để quán xét. Vì mình thường chấp cái thân của mình, cho nên mình phải đặt cái niệm thân bất tịnh để cho thấy nó thật sự là bất tịnh. Vì vậy mà mình ngao ngán, mình không còn dính vào cái thân này, chấp cái thân này nữa.

Đặt niệm thân vô ngã. Nghĩa là mình đặt niệm thân trước mặt của mình vô ngã để mình quán xét coi cái ngã của mình ở đâu mình tìm. Khi mình thấu được lý vô ngã của nó, thấu suốt được lý vô ngã nên trong thân của mình không có cái gì gọi là có ngã ở trong đó.

Đặt niệm thân vô thường quán xét. Nghĩa là mình đặt niệm thân vô thường của mình rồi mình quán xét.

Đặt niệm thân khổ quán xét. Mình đặt cái thân khổ của mình mình quán xét.

Đặt niệm thực phẩm quán xét bất tịnh. Những thực phẩm ăn hằng ngày của mình mình cũng đặt cái chánh niệm đó trước mặt rồi mình quán xét nó, dùng pháp quán mà quán xét để thấy thực phẩm mình ăn có bất tịnh đúng hay là sai. Từ đó mình thấu suốt được cho nên mình không có ham ăn ham uống nữa.

Đặt niệm vợ con quán xét có phải là NHÂN QUẢ vay nợ không? Đó mình đặt cái niệm vợ con, bởi vì vợ con là những người gần gũi với mình nhất và dễ làm cho mình dính chặt ở trong cuộc đời của mình. Cho nên mình đặt cái niệm đó để quán xét xem có phải là cái NHÂN QUẢ vay nợ hay đó là một tình cảm thiêng liêng nào để mà có thành vợ thành chồng với nhau. Đó là mình phải đặt cái niệm mình quán xét. Vì vậy mình phá được cái lậu hoặc đó.

Đặt niệm danh quán xét cái danh, ai cũng lại ham danh này kia, do đó mình đặt niệm danh, danh đó có thật hay giả. Do đó mình phải đặt niệm danh để mình quán xét nó.

Đặt niệm sắc dục mình quán xét. Thí dụ như sắc dục nó gợi cho mình ham thích tình dục. Do đó mình đặt cái niệm đó để mình xem coi có cái niệm đó có thật sự là hạnh phúc không hay đó là một cái giả để tạo cho chúng ta nhân tái sanh luân hồi. Những hành động bất tịnh, những hành động không có sạch sẽ.

Đó là những cái như vậy chúng ta phải đặt niệm quán xét, và quán xét thì chúng ta sẽ thấu triệt được tất cả những cái này, và do đó chúng ta phá được những lậu hoặc ở trong tâm của mình.

Đặt niệm ngủ, mình cũng đặt niệm ngủ để quán xét cái ngủ từ đâu đến, cái ngủ đưa đến những cái gì, tai hại sao sao. Tức là mình thấu suốt được cái ngủ thì mình không còn ham ngủ nữa.

Đặt niệm ăn, đặt niệm về ăn tức là mình quán xét về cái ăn của mình coi nó ngon chỗ nào, rồi nó hết ngon chỗ nào, rồi nó bất tịnh chỗ nào, nó dở chỗ nào, nó như thế nào cho nên mình thấu suốt được cái ăn của mình.

Đặt niệm thân của người phụ nữ để mình quán xét. Vì hầu hết là mình thấy thân của người phụ nữ là đẹp, là tốt, là cám dỗ, là mềm mại, là thích thú cho nên mình đặt cái niệm đó, mình xem thử coi nó như thế nào. Do mình thấu suốt được, mình thấy thân người phụ nữ mình thấy sợ và mình ghê gớm và mình xem như là thân của một con rắn độc, mình quá sợ hãi.

Đây là một số chánh niệm để chúng ta đặt để tu cái ĐỊNH VÔ LẬU. Đó thì hôm nay quý thầy thấy rằng trên bước đường tu tập thì chúng ta phải biết cách để đặt cái niệm cho đúng cách để mà quán cái vô lậu, để diệt trừ cái tâm lậu hoặc của chúng ta.

Đến đây quý vị chỉ có siêng năng thì quý vị đã vượt qua lộ trình thứ nhất. Mà quý vị phải tu tập hết sức thì mới thoát ra khỏi lộ trình này. Vì lộ trình này biết bao nhiêu dây mơ, rễ má chằng chịt buộc chặt quý vị. Khó mà quý vị thoát ra được.

Nếu không có lộ trình giáo án này thì quý vị khó lòng mà thoát khỏi nhà lửa đang hừng hực cháy. Nghĩa là quý vị không có được cái giáo án này, quý vị chấp tưởng mình đang sống trong lộ trình thứ nhất này là hạnh phúc, là chân thật. Nhiều khi chúng ta đi tu rồi, chúng ta xuất gia rồi, chúng ta vẫn còn ở trong lộ trình thứ nhất này. Nào là của cải tài sản, nào là chùa to tháp lớn, nào là những vật chất xung quanh vây quanh chúng ta, rồi trong đó anh em dòng họ, Phật tử đủ loại đủ cách ở trong đó nó vây quanh còn hơn là một người ở ngoài đời đang sống có một vợ hai ba con nữa. Mình còn đông hơn nữa, Phật tử thì thôi không biết là bao nhiêu, đệ tử cũng không biết là bao nhiêu. Nó trói chặt mình còn hơn cái gì nữa.

Do chỗ tu hành mà chúng ta không thấy được lộ trình thứ nhất này, càng ngày nó càng bị xiết chặt hơn. Người ta có một hai con à, còn mình là ông thầy mình có cả trăm cả ngàn đứa con, chết được rồi. Bây giờ có đứa nói thế này, đứa nói thế khác, hỏi pháp này, hỏi pháp kia. Dạy hoài tu không giải thoát mà đem cái thứ này, đem cái thứ kia. Hầu hết là nó trói chặt mình thêm. Chẳng hạn là bây giờ có một số đệ tử cư sĩ, thì ông thầy mà, đệ tử cư sĩ họ đem tiền cúng, ông thầy này có tiền nhiều thì ông sài cái kia nọ, tạo ra đủ thứ tội lỗi. Rồi nó đem máy móc này kia cúng dường, thương thầy nó cúng dường, thì cũng như đứa con mà, do đó nó đem của cải tài sản riết, ông thầy quá nhiều. Rồi nó thấy cái nhà ông thầy, cái thất ông thầy xấu. Bỏ tiền ra nó cất thất ông thầy cho tốt. Rồi nó thấy ông thầy sao mà mệt nhọc quá, không có khỏe, cho nên nó đặt máy điều hòa không khí, rồi quạt máy, rồi tủ lạnh, đủ thứ gì cho ông thầy hết. Cuối cùng thì nó đem bao nhiêu sự trói buộc ông thầy chặt càng chặt thêm. Còn ở ngoài đời người ta có 1 vợ, 2,3 con, nó không có tiền nhiều như vậy đâu, bởi vì nó ít cho nên ông cha nó bị trói buộc ít. Còn cái ông thầy coi vậy bị trói buộc nhiều. Do vì vậy mà càng ngày chúng ta càng bị trói buộc mà giải thoát thì không có. Từ đó chúng ta càng ngày càng sa lầy xuống cuộc đời mà không thấy được giải thoát.

Cho nên ở đây lộ trình thứ nhất chúng ta phải thấy cho được rõ ràng để mà chúng ta dứt khoát, chúng ta bước qua lộ trình thứ 2 là không có còn một cái gì mà trói buộc chúng ta được hết, trắng bạch như vỏ ốc, ba y một bát cho nên nó còn gì đâu mà trói buộc mình, đó là giải thoát hoàn toàn. Không có chùa, cũng không có đệ tử. Người ta đến hỏi đạo thì dạy người ta tu thôi, chứ đừng có bày mà cúng cái này, cúng cái kia, đủ thứ y áo cả đống mà còn cúng nữa, thì cái đó là cái trật. Thầy thấy các Phật tử họ thương Thầy lắm, họ mua cái này cái kia, từ cái cây kem, từ cái bàn chải họ mua cũng đồ tốt, từ cái khăn tốt mà cũng cho ông thầy nữa. Họ sắm cho ông thầy đủ thứ hết, họ coi từ cái đôi dép nữa. Sắm đủ thứ, cho đến khi mà cái mền, cái mùng của ông thầy họ cũng sắm đồ cho tốt nữa chứ không sắm đồ xấu. Và cũng từ đó ông thầy bị nhiễm. Nhiễm cứng ngắc à, không có ra được.

Để kết thúc cái bài này, cái lộ trình thứ nhất này của người cư sĩ, thì Thầy sẽ tóm tắt lại toàn bộ bài Thập thiện để kết luận cái buổi giảng hôm nay. Chúng ta từ cái tu TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, TỨ CHÁNH CẦN rồi đến cái CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC định, cho đến ĐỊNH VÔ LẬU thì đây là một sự đơn sơ, thô sơ nhưng nó cũng có được cái phương pháp tu tập. Còn về cái phần sau này, lộ trình của người tu sĩ thì thầy sẽ dạy kỹ hơn về các cái pháp này. Vì ở đây là chúng ta sơ lược để cho người cư sĩ họ biết cách hành của họ một cách đơn giản mà đạt được cái chất lượng tu tập của họ để cho họ tìm mọi cách mà họ dứt ra được cái lộ trình thứ nhất để họ bước sang qua lộ trình thứ 2. Hoàn toàn là phải trắng bạch như cái vỏ ốc mà không còn bị cái sợi dây mà trói buộc họ nữa. Để rồi đi vào một con đường giải thoát chơn thật của đạo Phật. Khép mình ở trong những khuôn khổ giới luật của Phật sau này, để thực hiện được sự giải thoát hoàn toàn. Đây cái phần để kết luận của cái lộ trình này thì Thầy tiếp tục.

Để kết luận cái lộ trình thứ nhất thì Phật đã dạy chúng ta, muốn thông hiểu những gì cần phải thông hiểu. Bây giờ chúng ta đã thông hiểu cái lộ trình thứ nhất rồi thì đó là chúng ta đã muốn thông hiểu những gì cần phải thông hiểu, đó là cái giai đoạn của những người cư sĩ cũng như những người tỳ kheo hữu học, họ phải học, phải hiểu biết, họ thường xuyên quán xét vạn pháp, tâm họ phải rõ nguồn gốc vô minh, phá trừ những tư tưởng dính mắc chấp trước, hàng ngày tinh tấn tiến bước trên đường về nội tâm của mình để đập tan những màn vô minh đen tối. Cho nên để kết luận cái lộ trình thứ nhất này thì chúng ta như Phật đã dạy, cái điều kiện thứ nhất ở trong 4 cái điều kiện thì sự thông hiểu là phải thông hiểu thứ nhất. Thì bây giờ chúng ta đã thông hiểu thì phải, thông hiểu tức là những bậc hữu học mới thông hiểu, còn nếu mà chúng ta không có chịu học hành, không có chịu nghe, không có chịu hiểu thì làm sao mà chúng ta hiểu. Cho nên ở đây qua giai đoạn mà quý thầy đã được nghe thầy giảng thì đó là cái chỗ mà thông hiểu để cho quý thầy rõ sự thông hiểu tất cả những điều kiện mà chúng ta cần thông hiểu trên con đường tu tập, lộ trình mà chúng ta phải tu tập. Cho nên khi mà thông hiểu như vậy đó là chúng ta đã tập tan màn vô minh đen tối mà từ lâu nó đang phủ dày ở trong tâm tư của chúng ta. Quý thầy hãy lấy thập thiện làm vũ khí. Bây giờ thầy mới kết luận về cái...Bởi vì lộ trình của người cư sĩ là phải lấy thập thiện mà làm cái điều kiện chiến đấu chống lại những sự si mê của mình. Cho nên ở đây quý thầy phải lấy thập thiện làm vũ khí phá trừ si mê, sẽ thành tựu 10 công đức mà kinh thập thiện đã dạy. Tức là kinh 10 điều lành đã dạy.

Một là không si mê, được ý vui chân thiện.Nghĩa là mình phải lấy thập thiện mình tu tập đó thì mình không có si mê, cái ý vui mà thiếu cái sự thiện ở trong đó. Nghĩa là bây giờ mình làm điều ác mà mình vui theo đó là nó không đúng. Cho nên mình phải lấy một sự vui chân thiện, mà không được có si mê ở trong cái điều ác, mà phải vui theo cái sự thiện chứ không phải là vui theo cái sự ác. Bởi vì Thầy có phân tích cho quý thầy thông rõ đõ, nó có 4 cái hỷ lạc của ác pháp, mà nó có 4 cái hỷ lạc của pháp xuất thế. Tức là nó có những cái vui, mà những cái vui đó là những cái vui ác. Còn cái vui mà vui của đạo, cái vui vượt ra, nó là thiện, cho nên ở đây nó ly ra. Tất cả các pháp ác thì nó có cái vui của các pháp ác, nó vui đó, làm cho chúng ta lầm chấp. Vậy chúng ta lấy thập thiện để chúng ta kê vào, để thấy biết cái vui nào chân thật mà cái vui nào không chân thật.

Cho nên ở đây cái thứ nhất là chúng ta không được si mê theo những cái vui của ác pháp mà hãy vui theo cái chơn pháp, cái thiện pháp. Đó là cái thứ nhất.  

Cái thứ hai là người cư sĩ phải tin sâu nhân quả.Mình phải tin ở cái nhân quả. Bởi vì nhân quả nó sẽ là trở thành một cái nghiệp, mà nghiệp thì nó trở thành một cái nơi mà nó sản sinh ra mình. Rồi cũng từ cái nhân quả đó mình mới tạo ra những cái nghiệp, rồi từ cái nghiệp đó đó khi mà sản sinh ra mình rồi mình tạo ra cái nghiệp thì tức là mình bỏ cái thân này mình cũng trở về nghiệp. Rồi từ cái nghiệp đó nó lại sản sinh ra mình nữa. Đó là mình đi trong cái lòng vòng của nhân quả mà mình không biết. Đó là mình tin sâu nhân quả để cho mình nó sẽ là trở thành một cái nghiệp, mà nghiệp thì nó trở thành một cái nơi mà nó sản sinh ra mình. Rồi cũng từ cái nhân quả đó mình mới tạo ra những cái nghiệp rồi từ cái nghiệp đó đó khi sản sinh ra mình rồi mình tạo ra cái nghiệp thì tức là mình bỏ cái thân này mình cũng trở về nghiệp. Rồi từ cái nghiệp đó nó lại sản sinh ra mình nữa. Đó là mình đi trong lòng vòng của nhân quả mà mình không biết. Đó là mình tin sâu nhân quả để cho mình thực hành cho đúng cái nhân thiện mà không làm cái nhân ác.

Ba, tin sâu ba ngôi Tam Bảo.Bởi vì Phật Pháp Tăng là cái nơi mà chúng ta phải nương tựa để chúng ta thoát ra khỏi cái nhân quả. Nếu chúng ta không có nương tựa tin sâu ba ngôi Tam bảo này thì chúng ta khó mà thoát ra nhân quả. Vì ba ngôi Tam bảo này đều đặt ở trên nền tảng của nhân quả cho nên cái hành động của Phật, Pháp và các vị Tăng là cái hành động không có ác pháp, cái nhân lành không có cái nhân ác ở trong đó. Vì vậy mà chúng ta tin sâu ba ngôi nhân quả tức là chúng ta đã thực hiện được cái nhân quả tốt không phải là cái nhân quả xấu. Đó thì ở đây thứ nhất là chúng ta tin nhân quả rồi, thứ hai chúng ta tin ba ngôi nhân quả tức là những cái người mà, những cái pháp mà dạy chúng ta thoát ra nhân quả, những cái người đã sống vượt thoát ra nhân quả, đó là Phật, là Tăng và những cái Pháp mà dạy chúng ta để vượt thoát ra nhân quả, đó là Pháp.

Bốn, tâm được Chánh kiến.Nghĩa là khi mà chúng ta dùng cái Thập Thiện mà chúng ta dùng nó làm vũ khí thì chúng ta sẽ có 10 cái điều mà chúng ta cần phải lưu ý là vui theo cái sự thiện, tin sâu nhân quả, tin sâu ba ngôi Tam Bảo. Tâm thì nếu mà chúng ta tin sâu ba ngôi Tam Bảo thì luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thấy cái đúng chứ không còn thấy cái sai nữa. Bởi vì tin nhân quả, rồi tin ba ngôi Tam Bảo thì những cái gì mà ở trong ba ngôi Tam Bảo này dạy thì đó là những chính kiến của chúng ta.

Năm, không đọa ba đường ác.Nghĩa là cái người mà có Chánh kiến rồi thì lúc bấy giờ ba cái đường ác họ không có rơi vào trong đó. Còn nếu chưa có Chánh kiến thì lúc thì sân, lúc thì phiền não, lúc thì làm điều này lúc làm điều kia thì đều là tạo cho chúng ta có những đau khổ liên tục ở trong hiện tại chứ không phải là ba đường ác là chờ chúng ta để chết đi rồi mới đọa xuống địa ngục mới gọi là ba đường ác đâu. Trong cuộc sống hiện tại của chúng ta nó đã có ba đường ác ở trong đó rõ ràng. Cho nên vì vậy khi tâm được Chánh kiến rồi thì chúng ta đoạn dứt được ba cái đường ác này. Và khi mà ba cái đường ác này nó không có thì cái phước huệ của chúng ta không lường được, nghĩa là cuộc sống của chúng ta hạnh phúc vô cùng, nó rất là an vui.

Bảy, thấu rõ đường tà, tiến vào đường chánh.Lúc bấy giờ chúng ta thấy rõ đường nào là tà đường nào đường chánh chúng ta thấy rõ, vì vậy mà trên con đường chúng ta tiến tới nó thuộc về nhân lành chứ không bao giờ có nhân ác ở trong đó.

Tám, xả ngã diệt tâm, chuyển hết nghiệp ác.Nghĩa là lúc bấy giờ cái tâm của chúng ta lần lượt nó xả được cái ngã, nó diệt được cái tâm ham muốn của chúng ta, nó chuyển được hết các nghiệp ác nghĩa là tất cả những cái nghiệp ác từ lâu mà chúng ta đã tích trữ mà khi chúng ta chưa có biết được Phật Pháp đó, chưa có biết nhân quả đó, chúng ta đã có những cái nhân ác nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta ở trong cái nhân ác đó mà nó tạo thành cái quả của chúng ta mà hiện giờ chúng ta đang ôm ấp những cái quả đó đó, thì khi mà tới khi mà rõ được thấu suốt cái này thì chúng ta chuyển được cái, xả được cái ngã diệt được cái tâm thì chuyển được tất cả những cái nghiệp ác, cái quả ác ở trong cái cuộc đời chúng ta đang nhận, đang thọ lãnh đó. Nó chuyển sạch ra hết, làm cho chúng ta không còn khổ đau nữa. Mặc dù đứng trước mọi cảnh nào, mọi cái tình huống nào chúng ta cũng không còn khổ nữa.

Chín, luôn luôn trụ Chánh kiến.Lúc nào chúng ta cũng ở trong cái sự hiểu biết, luôn luôn lúc nào cái hiểu biết của chúng ta cũng chơn chính chứ không phải bị chấp cái này, chấp cái kia chấp cái nọ.

Và cái cuộc sống của cái người này, thứ mười, là cuộc sống người này không còn bị tai nạn nữa.Nghĩa là thay vì người ta bị nhân quả thì người ta sẽ gặp tai nạn này tai nạn khác hay là hoặc chuyện này hoặc chuyện khác thậm chí như bệnh tật thì đó là những cái có thể nói đến là làm cho con người đau khổ đó, thì cái người mà người ta thực hiện được, người ta lấy mười điều lành này mà người ta làm vũ khí để người ta chiến thắng thì người ta có được mười điều lợi như vậy đó thì cuộc đời của người ta kể từ đây người ta chuyển hóa được cái nhân quả, chuyển hóa được cái nghiệp ác của người ta thì do đó trước những cái hoàn cảnh nào, trước những cái đối tượng nào thì những cái tai họa, tai nạn mà xảy đến, họ hoàn toàn họ vượt ra được hết, không bao giờ còn có một cái gì mà bủa vây làm cho họ khổ sở trong tâm hồn của họ được. Thậm chí như cái bệnh họ đau nhức đến mà có thể nói rằng cái sức tận cùng chịu đựng của thân họ, họ cũng vẫn thản nhiên, bởi vì họ đã thực hiện được đúng Thập Thiện cho nên họ thấy hoàn toàn tâm họ bất động trước những cái đau khổ nhất của cái thân của họ, họ vẫn thản nhiên. Cho nên họ thoát khỏi tai nạn là như vậy, họ chuyển hóa được cái nghiệp, cái nghiệp ác của họ, cái quả ác của họ cho nên họ không còn thấy đau khổ nữa.

Người tu Thập Thiện thường chế ngự lòng buông lung, phóng dật, bỏ các nghiệp dữ, thành tựu các nghiệp lành, chuyển đời khổ đau, bất an, bất toại nguyện thành đời sống an vui hạnh phúc, mọi việc đều được toại nguyện như ý, đời sống luôn thuận theo chánh đạo. Tu Thập Thiện chỉ có người trí mới có ý thức hiểu được sự lợi ích của nó đối với cuộc sống.Tâm thường quyết thực hành, sống cho bằng được. Nhờ có quyết tâm sống đúng mười điều lành chúng ta mới chuyển được kiếp sống địa ngục lầm than đầy khổ đau phiền muộn biến thành cảnh thiên đàng, an lạc, hạnh phúc, an vui.

Đó thì, nội cái Thập Thiện không thì quý thầy đã thấy rằng Thập Thiện nó thuộc về nhân quả cho nên nói nhân quả thiện tức là cái nhân quả ác nó sẽ bị diệt đi, mà nó diệt đi thì nó đem lại cái đời sống an lạc hạnh phúc cho con người. Do thế cái điều kiện mà quan trọng cho cái con người ở trên cái hành tinh này là cái điều kiện là phải họ phải thực hiện những điều lành từ cái bàn tay, cái khối óc, cái hành động của họ, cái miệng của họ mà thực hiện điều lành thì họ mang lại cái sự an lạc, hạnh phúc cho đời sống của họ. Mà nếu họ từ cái hành động thân khẩu ý của họ mà họ thực hiện điều ác thì tự họ họ cũng đem lại cái sự đau khổ, cái sự bất an, cái sự bất toại nguyện cho họ và chính cái chỗ này cho nên đó là cái vấn đề trọng đại của Đạo Phật chứ không phải cái sự trọng đại của Đạo Phật là chúng ta ngồi thiền, nhập định, làm chủ sự sống chết, chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Cái đó là cái thiểu số, cái đó là cái số ít, cái số ít người, còn cái chỗ mà Thập Thiện này là cái chỗ đông người, mọi người làm được, đem lại một cái hạnh phúc cho mọi người an vui thanh bình, đem lại cho một cái xã hội có trật tự, cho con người biết thương nhau, cho con người không xa lìa với nhau, đem lại cho con người sống chan hòa một tình thương phủ trùm bên nhau. Đó là Thập Thiện đó.

Vì vậy mà cho nên cái lộ trình thứ nhất này á mà quý thầy đã thấy là cái người mà theo đạo Phật người ta phải thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm: Từ Bi Hỉ Xả. Để làm gì? Để thực hiện cái tình thương chan hòa với nhau, để xây dựng một cái đời sống biết thương nhau, biết giúp đỡ nhau, biết an ủi nhau. Vì con người sinh ra là do nhân quả cho nên nhân quả là phải có sự khổ đau, mà đã thực hiện được tâm Từ Bi Hỉ Xả thì do đó nó mới hết khổ đau, con người mới chấm dứt sự khổ đau. Cái mục đích đó là cái mục đích chính của Đạo Phật, để đem lại sự thoát khổ cho con người chứ không phải cái mục đích mà nhắm vào chỗ mà tu tập cao siêu đến cái mức độ mà có dùng Tứ Như Ý Túc là biến hóa thần thông phép tắc, không phải là mục đích đó đâu. Mà cái chính của đạo Phật là cái chỗ Thập Thiện này, là cái chỗ nhân quả lành này chớ không phải là nhân quả ác.

Muốn hưởng được phước báu trời người thì hãy dứt trừ, từ bỏ, xa lìa, viễn ly mười nghiệp ác, mười điều dữ đó. Hàng ngày trau dồi tu tập mười điều lành, cứ mỗi lần bỏ xuống một nghiệp ác thì ngay đó nghiệp lành hiện ra. Thiện nghiệp càng nhiều, thân tâm càng được thanh thản an vui, sống không biết khổ, không biết khổ đau, không biết chán chường. Biết được sự lợi ích và quả giải thoát lớn cho kiếp sống con người và xã hội, người cư sĩ phải quyết tâm nỗ lực thực hiện bằng mọi cách để sống đúng mười điều lành mà đức Phật đã đem hết tâm huyết mình truyền lại cho đời sau để người đời, để con người trong cuộc sống được an vui, hạnh phúc bên nhau.

Kinh Thập Thiện dạy cứ tiếp tục mãi xây dựng, trên đường xây dựng tư tưởng và cuộc sống toàn Thập Thiện không còn một chút Thập Ác thì sẽ được 4 ưu điểm trong cuộc sống:

Một, thân tâm thanh thản, nhẹ nhàng, an lạc, thường hiển lộ một niềm vui bất tận.Đó là cái thứ nhất lợi ích thứ nhất của Thập Thiện đó, nó làm cho thân tâm của mình nhẹ nhàng, thanh thản, tâm hồn lúc nào cũng an vui với cái sự an vui của 10 điều lành. Hành động thân khẩu ý biểu lộ đầy đủ đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người. Lòng hiếu sát, hung hăng xưa kia biến mất, lòng từ bi bác ái hiện rõ. Đối với người khác và loài vật đều thương, thường lấy câu “lấy ân trả oán” thì oán sẽ trở thành ân nghĩa và thương yêu nhau.

Hai, tâm không còn giận hờn thì dù oán, dù bất cứ sự việc gì cũng tiêu tan, con người đối với con người không còn sự đấu tranh, giết hại lẫn nhau chỉ còn một lòng tương thân tương ái, xã hội con người không còn biết ghét nhau giận nhau, chỉ có một lòng thương yêu duy nhất.

Chúng ta hôm nay có đủ duyên lành mới được nghe lời thuyết giảng dạy của đức Phật để thông hiểu, và trau dồi, và dứt bỏ, để tu tập Thập Thiện. Pháp môn Thập Thiện rất cụ thể, thực tế, có thứ lớp trong khi thực hành rất khoa học để cho mọi người dễ dàng thực tập sống đúng Thập Thiện đạt được cuộc sống hạnh phúc an lạc đầy đủ. Đã quyết tâm tiến bước lên đường về đất Phật nếu không khởi hành bằng đường Thập Thiện thì đừng mong đến xứ Phật được. Ba đời chư Phật và các bậc Thánh hiền thoát vòng sanh tử chứng quả vô thượng bồ đề, sống và tu tập đúng Thập Thiện. Các Ngài lấy Thập Thiện làm nền tảng vững chắc để xây dựng ngôi nhà thiền định của mình.

Thập Thiện có công năng giúp ta ngăn ngừa các hành vi độc ác thân khẩu ý của mình, nhờ thế tất cả hoàn cảnh đều được yên vui, an lành và hạnh phúc. Thập Thiện giúp cho 3 nghiệp thân khẩu ý của chúng ta lần lần tiêu tội và được thanh tịnh. Nhờ thân khẩu ý thanh tịnh, thân tâm chúng ta mới thanh tịnh. Nhờ thân tâm thanh tịnh, chúng ta mới tịnh chỉ các hành trong thân. Nhờ tịnh chỉ các hành trong thân, chúng ta mới nhập định. Nhờ nhập định, chúng ta mới khai triển trí tuệ Tam minh. Nhờ Tam minh, chúng ta mới diệt sạch lậu hoặc. Nhờ diệt sạch lậu hoặc, chúng ta mới làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.

Người biết tu Thập Thiện và sống đúng Thập Thiện là người đầy đủ hạnh phúc nhất trần gian. Nhờ tu Thập Thiện, vạn pháp không còn là chướng ngại của tâm thì sự đau khổ phiền não đoạn dứt, thân tâm thường được an ổn, thanh thản, đời sống hạnh phúc và phước báu rõ ràng. Thập Thiện là cái nhân đoạn dứt ba đường ác khổ trong thân tâm, tuy ta còn ở cõi Ta bà nhưng cuộc sống của chúng ta như ở cõi trời, cõi thiên đàng.

Thông hiểu rõ sự lợi ích lớn của pháp môn này, chúng tôi thành tâm khuyến khích mọi người cư sĩ cũng như tu sĩ đừng thấy pháp môn Thập Thiện chê nó là pháp môn thấp bé, cho nó là những người ngu mới tu hành pháp này. Hiểu như vậy rất là lầm lạc. Thập Thiện là pháp môn tu tập rèn luyện đạo đức nhân quả cho mỗi con người trở thành tốt đẹp và xây dựng xã hội thanh bình an lạc. Vì vậy trước tiên quý vị phải tu tập Thập Thiện, đừng ngồi thiền như cây, như đá chẳng ích gì cho mình, cho người, cho xã hội. Ngồi thiền riết không thành Phật mà thành cóc, hễ ai đụng tới thì tham sân si mạn nghi nổi lên ầm ầm như sóng bủa, hở ra một chút thì chướng tâm ngại ý, luôn luôn tâm hồn bất toại nguyện, sống trong cảnh nào cũng bất an.

Đó thì quý thầy thấy có nhiều người tu thiền rồi cứ dính mắc cảnh này cảnh kia. Bây giờ ở trong cảnh này xe cộ rần rần, nhà máy chạy xình xịch như vậy đó thì cảnh này tu hổng được đâu, tui đi tìm rừng rú không tiếng động tui mới tu được. Đó là mình bất an, bất toại nguyện ở trong trước cái cảnh của mình rồi, tu thiền thì đâu có động tâm như vậy? Cho nên cái người mà thực hiện Thập Thiện người ta không có động tâm cái điều đó đâu, cho nên lúc bấy giờ người ta thực hiện thiền định ở cảnh nào người ta tu cũng tốt hết. Còn mình thì cứ lo tìm cái cảnh yên tịnh để mà tu thiền định nhưng mà cuối cùng thì đụng cảnh nào cũng bị động hết, không có cảnh nào mà gọi là toại nguyện cho mình. Tu như vậy không giải thoát mà địa ngục mở cửa đón chờ, quỷ sứ hầu hạ.

Thập Thiện là đường lối, là pháp môn rèn luyện con người sống đạo đức không làm khổ mình khổ người, không làm rối loạn xã hội, đem lại sự an vui cho người, cho mình, cho xã hội. Vậy quý thầy cần phải siêng năng tu tập và rèn luyện thân tâm mình trong pháp môn Thập Thiện này, nó là pháp môn rất quý báu ở thời đại trong thế gian hiện đại của chúng ta.

Để kết thúc cái giai đoạn tu Thập Thiện bằng một bài kệ, phàm con người ở đời, đây là cái bài kệ đây:

Phàm con người ở đời

Búa rìu từ trong miệng

Sở dĩ giết chết mình

Là do lời nói độc

Người đáng chê thì khen

Người đáng khen thì chê

Đây thuộc nghiệp ác khẩu

Mà thân chịu hành khổ.

Đó là bài kệ trong kinh Thập Thiện, khi mà đến kết luận của bài Thập Thiện thì Thầy rút ra một bài kệ trong tất cả các kệ ngôn của Phật nói về những điều mà làm ác của mình thì Phật lại lấy lời nói của chúng ta mà cho đó là bởi vì ở trong Thập Thiện thì về cái hành động của khẩu nó có 4 cái hành động ác khẩu chứ không phải 1, mà về thân thì nó có 3, về ý có 3 mà về khẩu rất nhiều cho nên Phật mới nhắm vào cái chỗ khẩu nghiệp, mà tạo cho con người ta đau khổ nhiều nhất là cái khẩu nghiệp, nói ra thì có chuyện này nói ra có chuyện kia đó.

Cho nên ở đây bài kệ đó đức Phật lấy từ chỗ khẩu nghiệp mà nói ra để chúng ta biết rằng chúng ta khổ sở là do cái nghiệp khẩu của chúng ta rất nhiều.

Phàm con người ở đời

Búa rìu từ trong miệng.

Đức Phật nói lời nói của mình như búa rìu đó, sở dĩ giết chết mình, nó giết mình chết mà nó giết người khác nữa chứ không phải là nó giết mình đâu.

Là do lời nói độc

Người đáng chê thì khen

Người đáng khen thì chê

Đây thuộc nghiệp ác khẩu

Mà thân chịu hành khổ.

Chỉ lấy Thập Thiện mà lấy về cái khẩu nghiệp, về 4 điều thiện, 4 điều ác của cái miệng mà tạo con người quá khổ, mất hạnh phúc ở trong cuộc đời này. Cho nên kế tiếp thì Phật có đem ví dụ:

Dùng chú thuật đạt lợi

Tội ấy cũng còn nhẹ

Nghĩa là mình dùng bùa chú mình làm để mình lấy của người ta đó thì đức Phật xem như là cái tội đó còn nhẹ hơn là cái tội mà mình dùng ác khẩu của mình đó. Đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai thì đức Phật cũng đem so sánh nữa:

Nếu lấy kinh điển Phật

Hiểu không thấu nghĩa lý

Thành hủy báng Thánh hiền

Tội ấy rất là nặng.

Nếu mà đem kinh điển của Phật mình dạy cứ thiền định không đó thì tức là người ta không có hiểu được cái nghĩa lý của những cái điều mà tạo ra những cái đau khổ cho con người như thế này thì đó là mình phỉ báng Phật Pháp rồi. Cho nên hầu như người ta cứ lấy kinh điển Phật mà người ta cứ lo tu thiền mà người ta không có tu thiện cho nên từ đó mà con người khổ vẫn hoàn khổ, cho nên đó là chỗ cái bài kệ này đức Phật đem chúng ta thấy để chúng ta nhận cho rõ.

Nếu lấy kinh điển Phật

Không hiểu thấu nghĩa lý

Tức là mình không hiểu cho nên mình lấy đó để mà mình tu thiền mà mình không thấy được cái Thập Thiện vì vậy thành ra hủy báng Phật Pháp đó. Bởi vì bài kệ này nó liên tục để đức Phật thấy cái chỗ mà chúng ta hiểu sai, mà không hiểu Thập Thiện mà lại hiểu về thiền định, hiểu về 4 thiền, 8 định hay hoặc là Tam minh mà không hiểu được cái chỗ căn bản nhất của đạo Phật, mà lợi ích nhất của đạo Phật đối với con người. Bởi vì đạo Phật nhằm ra đời là để giải quyết nỗi khổ của con người chứ đâu phải giải quyết Tam minh, đâu phải giải quyết cái sự vi diệu thần thông phép tắc đâu, đâu có giúp con người làm cái chuyện đó mà giúp cho con người thoát cảnh khổ, biết thương nhau, biết đùm bọc nhau để biết xoa dịu sự khổ của nhân quả nghiệp báo mà mỗi con người đều đã có mang theo nó ở trong thân tâm của mình rồi. Cho nên ở đây mà hiểu kinh điển của Phật theo cái kiểu mà cứ biết thiền, biết định không thì cái đó là cái hiểu sai, cái đó thành hủy báng Phật Pháp, cái tội đó rất nặng. Cho nên chúng ta phải trở về với Thập Thiện thì chúng ta mới hiểu đúng Phật Pháp, mà không trở về với Thập Thiện thì chúng ta hiểu sai Phật Pháp.

Đây bài kế nữa, đức Phật cũng nhấn mạnh chỗ này để chúng ta thấy:

Nếu lấy kinh điển Phật

Không thấu hiểu nghĩa lý

Không thực hành viên mãn

Lại đem dạy người khác

Thành hủy báng Thánh hiền

Tội ấy còn nặng hơn.

Bây giờ mình thực hiện Thập thiện chưa được, mình còn làm chạy theo ham muốn, mình còn làm những điều ác bằng những cách này bằng những cách khác, thế mà mình thực hiện chưa xong rồi mình đem mình dạy người khác, người khác người ta cũng thực hiện chưa xong, đó là mình phỉ báng Phật pháp. Thay vì kinh điển của Phật đem ra dạy người để cho người ta được cái hạnh phúc an vui, được cái sự thương yêu nhau thì cái đó là cái đúng, mà bây giờ người ta không thương nhau mà người ta theo đạo Phật mà người ta giày xéo lên nhau bằng cách này bằng cách khác thì thử nghĩ đạo Phật bây giờ là đạo cứu khổ mà bây giờ cứu ai đâu bây giờ? Càng ngày họ càng học Phật pháp họ lại càng huênh hoang nữa thì cái điều đó là điều càng lúc càng sai và cái người mà không hiểu Phật pháp đem kinh điển của Phật pháp dạy như vậy đó thì cái người đó phải thọ lấy những cái tội còn nặng hơn.

Đó là kết thúc bài kinh mà cái lộ trình thứ nhất tu tập về Thập thiện - mười điều lành để dứt trừ mười điều ác là lộ trình thứ nhất để chúng ta biết được cái đúng của đạo Phật. Mà chính cái chỗ này là mục đích của đạo Phật muốn đem cái giáo pháp này để giúp cho đời thoát khổ chứ không phải để giúp cho chúng ta có những thiền định cao siêu làm chủ sống chết, để làm cho người ta thấy ờ cái ông đó nhập định không có thở nữa, hay hoặc là biến ra nhiều thân hay hoặc là hóa lửa, hóa hào quang. Điều đó không phải là chỗ mục đích của đạo Phật đâu cũng như không phải là ngồi đó mà thực hiện Tam minh nhớ lại nhiều đời nhiều kiếp của mình gọi là cái đó hay đâu. Cái chính của đạo Phật là cái chỗ làm sao cho con người ở trên thế gian này, trên hành tinh này là không còn khổ nữa.

Cuộc sống không có cần thánh thiện gì hết mà chỉ biết thương nhau, chỉ đừng làm khổ nữa, mà chính những bàn tay khối óc của họ họ hành đúng ba hành động thân khẩu ý của họ toàn là thiện thì họ sẽ gặt được cái quả tốt của đời sống của họ. Từ đó họ chấm dứt được sự đau khổ, chính bàn tay của họ cho nên Phật gọi là “tự thắp đuốc lên mà đi”. Đi ở trong con đường thiện để cứu lấy mình chứ đâu phải đi trên con đường thiền định để mà cứu có một mình mình. Bây giờ Thầy nhập định được, thử hỏi bây giờ quý thầy bây giờ quý thầy muốn chết như Thầy được không, mà Thầy có làm gì cho quý thầy chết được không? Có đâu được. Thầy bảo hơi thở Thầy ngưng, còn quý thầy, Thầy bảo dùm cho các thầy, Thầy bảo hơi thở của các thầy ngưng, có ngưng được không? Thầy chỉ ngưng có mình Thầy hà. Còn bao nhiêu người đó muốn chết không có được. Bây giờ nó gần dở chết dở sống, đau khổ gần chết mà bảo ngưng hoài nó ngưng không được. Thầy đâu có bảo được, Thầy chỉ có bảo một mình Thầy, cái đó là cái ích kỷ của Thầy chứ không phải là cái thực hiện tốt đâu, còn cái Thập Thiện là cái chúng ta đem lại nguồn hạnh phúc chung cho mọi người, mà cái đó cái dễ, đâu có phải là cái khó. Bởi vì chúng ta biết cái ác thì chúng ta đừng làm, chúng ta biết cái thiện thì chúng ta làm, thì cái điều đó là cái điều đem đến hạnh phúc cho mọi người, và cái tầm vóc của con người nào cũng có thực hiện được hết, không có người nào mà làm không được. Một trẻ con bây giờ 5-6 tuổi, 7-8 tuổi bảo nó đừng có giết mấy con kiến đi, những con vật đó nó biết đau lắm, con đừng có giết nó. Những đứa trẻ nó nghe vậy nó thấy vậy nó không bao giờ nó giết đâu. Cái chuyện đó con nít làm được mà, nó vẫn tu được mà, đâu có gì mà khó đâu. Đó là những cái điều kiện mà chúng ta dạy nó, từ đó nó không giết hại chúng sanh, nó không làm đau khổ chúng sanh, thì cái hành động đó nó sẽ đem lại cho nó sau này nó không có được cái quả, nó không có cái quả khổ đối với cái hành động của nó làm tốt, thì tự nó nó đã làm chứ mình đâu có làm cho nó được đâu. Nó không giết hại thì nó không khổ, mà nó giết hại thì nó phải chịu lấy cái thọ khổ đó.

Đó là những điều mà hôm nay nó thực tế và cụ thể như vậy thì con nít bây giờ 5 tuổi 10 tuổi nó vẫn tu tập được theo đạo Phật, mà nó đem lại cái hạnh phúc cho nó sau này, đâu có gì mà khó đâu. Thập thiện Thầy nói không khó đâu, chứ không phải ngồi thiền hít thở như chúng ta bằng cách này hay cách khác thì con nít làm không được, hay hoặc là bảo ngưng hơi thở thế này thế khác thì nó làm không được chứ bảo nó đừng giết chúng sanh, đi coi chừng đừng đạp kiến đồ đó thì có thể nó làm được. Mà nó làm được, tâm nó chừng đó nó biết thương tất cả chúng sanh thì nó phải thương tất cả mọi người khác. Từ đó chúng ta tập luyện nó, mà những hành động hằng ngày làm như vậy thì nó huân lại những điều đó thì cái đời nó không có còn khổ nữa, chính cái đó là cái tốt.(BBT:CĐ,16B,E00:39:16)

BĂNG SỐ 16

BĂNG SỐ 17

(BBT:BN,16,B00:27:55)

(BBT:CĐ,16B,B00:39:20)Trước khi bước vào đạo lộ thứ hai và tiếp tục bài học giới luật đã qua, Thầy đã giới thiệu với quý thầy một sơ đồ của đạo lộ thứ hai này để chuẩn bị hành trang cho người tu sĩ khi bước chân vào lộ trình này không còn ngỡ ngàng từ giới luật đến thiền định và trí tuệ vô lậu, lý pháp và hành pháp thường ứng dụng liên tục, có thấp có cao, có dễ, có khó, chỉ còn tùy ở người tu sĩ, tức là hành giả, có nhiệt tâm, có tinh cần siêng năng tu tập đúng thì kết quả rất là nhanh chóng.

Phần thứ nhất của người tu sĩ phải sẵn sàng trang bị buông xả cho thật sạch, nghĩa là cái phần mà thứ nhất này khi bước vào cái đạo lộ thứ nhất này thì cái người mà tu sĩ mà bước vào đạo lộ của người tu sĩ thì tức là phải sẵn sàng buông sạch, thật sạch chứ không còn có để một dính mắc này nọ thì chúng ta mới tu có kết quả rất lớn. Còn nếu mà không có sẵn sàng buông sạch, nó còn dính một chút xíu gì ở thế gian, dù là một cái vật chất rất nhỏ đi, nó cũng khó cho chúng ta tiến bước ở trên con đường mà cái lộ trình thứ hai này được.

Một, đây là những lời của Đức Phật đã cân nhắc cho cái sự bước vào cái lộ trình thứ hai để chúng ta chuẩn bị cho tinh thần mình vững chắc, để thấy cuộc đời của người tu sĩ như thế nào, cho nên đức Phật có nêu lên nhiều cái điều kiện để chúng ta bước vào cái lộ trình thứ hai: “Một, trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ mong cầu, cất chứa nhiều y phục và đồ ăn uống”.Đó là cái thứ nhất mà ông Phật đã nhắc nhở cái người tu sĩ bước chân vào, là trở thành một vị tỳ kheo đó, thì không có được cất chứa nhiều y phục và đồ ăn uống. Đó là cái thứ nhất ở trong cái giáo pháp của đức Phật.

Cái thứ hai, “Trong giáo pháp ta không có người tu sĩ kinh doanh buôn bán hoặc gieo trồng các loại cây”.Đó là cái vấn đề mà phải xác định đạo Phật, đây là những bài kinh mà đức Phật xác định con đường mà người tu sĩ phải làm. Đây là đạo lộ thứ hai rồi chứ không phải là đạo lộ thứ nhất của người cư sĩ nữa đâu. Cho nên hoàn toàn là không có được kinh doanh buôn bán hoặc gieo trồng các loại cây, nghĩa là không có cấy lúa, không có trồng cây trồng này kia, tất cả những loại cây nào cũng không có trồng hết. Nghĩa là cái người tu sĩ chỉ còn có cái chấp nhận là đi xin ăn thôi, người ta cho thì ăn mà không cho thì đói chứ còn không có trồng tỉa gì hết, hoàn toàn là không có làm tất cả những công việc gì hết. Đây là cái giáo pháp của Phật đã dạy cho cái người tu sĩ chứ không phải là Thầy bịa ra đâu, mà đây là hẳn hòi là ở trong kinh điển chỉ dạy rất rõ ràng, đây là lời Phật dạy đó.

Ba, “Trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ dùng nhiều phương tiện cầu lợi, cầu lợi dưỡng cho mình, dùng ngà voi và những loại báu khác để làm giường cao rộng lớn, gối êm nệm ấm, chăn ấm thêu màu rực rỡ”.Nghĩa là cái điều kiện thứ ba đức Phật cấm, chấm dứt là không có cho dùng những cái phương tiện để mà làm cho mình có những cái vật báu như ngà voi hay là châu báu đó, không có được, và cũng không có chấp nhận là cái người mà tu sĩ mà theo đạo Phật nằm giường cao rộng lớn mà gối êm nệm ấm, nào nệm mút đồ đó thì không có được, hoàn toàn là chấm dứt, không có được chăn mền mà thêu bông hoa rực rỡ bằng cách này bằng cách khác như người thế gian được, nghĩa là chấm dứt cái điều đó. Đó là chuẩn bị cho cái tư tưởng tinh thần của người tu sĩ, chứ nếu không thì chúng ta lầm lạc lắm, chúng ta không hiểu, mà những bài pháp này là nằm ở trong kinh A hàm và kinh Nguyên thủy rất là rõ ràng, luôn luôn lúc nào nó cũng nhan nhản ở trước mắt của chúng ta, không thể nào mà chúng ta chối bỏ được.

Bốn, “trong giáo pháp ta không có người tu sĩ hay trang sức thân mình, tô thoa ướp bằng dầu thơm, tắm gội bằng nước thơm, hương bột rắc khắp mình, chải đầu với dầu thơm, mang tràng hoa đẹp, soi gương, thoa phấn, đi giày thêu, mặc quần áo thuần một màu trắng, dao gậy luôn luôn đeo bên mình, đi có lọng che, tay cầm quạt, sửa soạn xe cộ lộng lẫy.”Đó là tất cả những cái mà đức Phật đã chuẩn bị cho người tu sĩ mà theo đạo Phật thì đi đừng có cầm gậy ba toong hoặc này kia chống, không có xách cái kiểu mà gậy gộc như vậy hay hoặc là dù, hoặc này kia. Hoàn toàn là không có trang sức cho mình một cái gì, không có được giày dép hay hoặc là những cái loại mà làm cho mình đẹp, trang hoàng cho mình đẹp đẽ qua quần áo hoặc là gậy gộc, hoặc là đeo theo mình bằng cái này cái kia. Ở đây lọng che cũng không có nè, tay cầm quạt cũng không có nè. Vì vậy ở đây những bài kinh này như vậy đó mà Thầy thấy các nhà sư có quạt che đầu, rồi có dù(BBT:CĐ,16B,E00:44:43), có những cái này kia mà sao trong những bài kinh này lại cấm không có cho sửa soạn như vậy đó. Mưa là mưa chứ không có xách dù xách lọng,(BBT:CĐ,17A,B00:00:00) đó mà Thầy thấy có nhiều nhà sư có dù có lọng rồi có cái quạt cầm tay đủ loại, sửa soạn xe cộ lộng lẫy. Xe cộ mà đi mà ngồi xe cộ lộng lẫy thì chắc chắn là ông thần, ông Phật không có rồi, cho nên ở đây đức Phật đã quyết định là trong giáo pháp của đức Phật là không có những hạng người mà sửa soạn như vậy.

Năm, “trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ ham thích vui chơi bằng những trò chơi giải trí vui đùa khác”.Nghĩa là trong giáo pháp của Phật không có người tu sĩ ham thích đá banh, chạy đua hay hoặc là bơi lội hay hoặc là đánh cờ hay hoặc là tất cả những cái trò chơi giải trí, hay hoặc là đánh tennis hay hoặc là làm những chuyện giải trí khác thì không có được chơi những trò chơi đó. Đó là phần thứ năm.

Phần thứ sáu, “Trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ thường nói những lời vô ích chướng ngăn Thánh đạo”.Nghĩa là người mà vào ở trong cái giáo pháp thì phải chuẩn bị giáo pháp của Phật, thì phải chuẩn bị không được nói lời phiếm, nói chuyện tào lao, nói chuyện tầm bậy tầm bạ, nói chuyện lời vô ích, không có nhắc chuyện đời xưa, mà cũng không nhắc chuyện trước kia mình làm cái nghề này nghề kia nghề nọ, mình là người ăn chơi hút xách hoặc là làm cái này kia. Mình làm gì làm giờ vô rồi không còn nhắc lại chuyện đó nữa. Nghĩa là hồi đó mình trác táng bài bạc như thế nào mặc. Bây giờ vô rồi thì không có nói cái chuyện đó ra. Tức là nói những chuyện đó là chuyện vô ích, chuyện đã qua, chuyện không đúng, cho nên trong giáo pháp của Phật thì không có người tu sĩ mà đem những chuyện đó thuật lại. Hồi đó thì mình trai gái mèo mỡ thế nào bây giờ đem vô cũng thuật lại cho ông thầy này nghe ông thầy kia nghe. Hồi đó ngồi rình góc nhà người này, ngồi rình góc nhà người kia bằng cách là ve vợ ve con người ta bây giờ cũng đem vô đây nói. Đó là những cái chuyện vô ích, cái chuyện không có đúng cách của người tu sĩ. Cho nên trong giáo pháp của Phật thì không có những cái người tu sĩ đem nói những cái lời không có đúng cách như vậy. Đó là cái điều kiện mà Phật đã nêu lên để chúng ta chuẩn bị, chúng ta bước vào cái lộ trình của người tu sĩ thì phải chúng ta phải chuẩn bị hẳn hòi những cái điều kiện đó. Cái gì mà xảy ra rồi trong cuộc đời chúng ta trước khi mà chúng ta chưa biết Phật pháp thì bây giờ chúng ta phải dẹp bỏ hết, không có được nói lại, không được nhắc lại.

Bảy, “trong giáo pháp của ta không có những người tu sĩ trau chuốt văn chương, lời hay ý đẹp hoặc làm ra vẻ nghiêm trang chê bai người khác lấy lợi, cầu lợi”.Nghĩa là ở trong cái giáo pháp đức Phật thì không có trau chuốt văn chương, làm thơ làm văn làm cái này kia đẹp đẽ để mà cầu lợi cầu danh ở trong đó. Cho nên ở đây đức Phật cấm không có cho những người tu sĩ của mình ở trong giáo pháp của mình không có những loại đệ tử như vậy. Chứ không phải là vô trong đó rồi bắt đầu làm thơ làm văn, rồi ông thầy nào cũng có tập thơ hết, thơ thiền thơ đạo đủ thứ hết. Đó là cái sai không có đúng, bởi vì đây là những cái lời của Phật răn dạy, chúng ta chỉ tu giải thoát chứ không phải làm thơ làm văn để khoe cái hay cái đẹp của mình qua cái thương vay khóc mướn của thơ văn. Cho nên tất cả những cái này đều là dẹp xuống hết.

Tám, “trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ cùng nhau tranh tụng hoặc ở bất cứ nơi đâu cũng tranh nhau, cãi nhau các chuyện thị phi: Ta là người biết rõ kinh luật còn ngươi thì không biết rõ gì cả. Ta hướng về chánh đạo còn ngươi hướng về tà đạo, lấy trước nói sau, lấy sau nói trước. Ta đủ sức nhẫn nhục, còn ngươi thì không đủ sức nhẫn nhục”. Đó là những cái mà chê bai nhau, cái tranh tụng nhau, cái không có làm đúng cách thức trong giáo pháp của Phật, cho nên đức Phật nói rằng khi mà cái người mà bước vào mà cái lộ trình thứ hai mà trong giáo pháp của Phật thì hoàn toàn là phải chấm dứt những cái điều tranh cãi, không có tranh tụng hơn thua nhau, không có lý luận cái điều này lý luận điều kia, không có coi người ta không hiểu, không có coi mình hơn người ta, mà luôn luôn lúc nào mình cũng lo tu tập, đặt niệm trước mặt mà tu tập. Đó là những cái điều kiện mà cần thiết cho một cái người tu sĩ theo đạo Phật trong cái lộ trình thứ hai.

Chín, “trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ làm sứ giả thông tin đây kia, tự mình làm hoặc bảo người khác làm môi giới”.Nghĩa là Đức Phật cấm là không có cho mình đi làm thông tin, hoặc là làm gián điệp, hoặc là làm mai dong, móc người này móc người khác. Tất cả những cái này trong giáo pháp ta không có người tu sĩ như vậy.

Mười, “trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ tập luyện đao kiếm, cung tên, hoặc đá gà, đua ngựa, hoặc phe nam phe nữ đấu nhau, hoặc trỗi lên không ngớt những tiếng nhạc, tiếng cười đùa, vui hát”.Đó thì trong giáo pháp của đức Phật thì không có những loại như vậy, tức là không có tập luyện võ, không có tập kiếm cung, không có đi những trò chơi như đá gà, đá ngựa hay hoặc là tập hợp phe nam phe nữ mà đấu với nhau, hoặc là trỗi lên những khúc nhạc ca hát, vui đùa, cười cợt. Đó là trong giáo pháp của đức Phật không có những loại tu sĩ như vậy. Những vị tu sĩ mà tập luyện võ này kia như vậy thì nó không đúng cách của đạo Phật. Mà không có trỗi lên giọng ca, giọng kèn, tiếng hát, cười đùa một cách vô trật tự thì đức Phật không chấp nhận trong giáo pháp của Ngài.

Mười một, “trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ làm những việc tà mạng, ngăn ngại đạo pháp để tự sinh sống như xem tướng lành, tướng dữ, tướng tốt, tướng xấu của con trai, con gái để mong cầu lợi dưỡng”.Nghĩa là mấy người mà xem tướng đó, xem mụt ruồi, xem tướng này kia, xem chỉ tay,... thì ở trong giáo pháp của đức Phật không có những cái loại đó. Những người mà làm như vậy là trong giáo pháp đức Phật không chấp nhận. Tức là bước qua cái lộ trình thứ hai này mà những người mà còn làm những cái chuyện đó thì tức là đức Phật không chấp nhận cho đó là người tu sĩ trong đạo pháp của ta.

Mười hai, “trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ làm những việc nuôi tà mạng, ngăn ngại đạo là để tự sinh sống như kêu gọi quỷ thần, thực hiện các loại bùa chú trù yểm, dùng chú thuật thực hành khổ hạnh để cầu mong danh lợi”. Đó là trong giáo pháp thì đức Phật cấm người đệ tử không có được dùng khổ hạnh mà để làm cho người ta quá cung kính mình để mà cầu danh lợi, cũng như không có được dùng bùa chú hoặc là kêu quỷ thần làm những cái chuyện không đúng cách. Những cái điều đó là những cái điều tà nghiệp, tà mạng đó thì đức Phật cấm là không có cho cái người tu sĩ ở trong giáo pháp của đức Phật làm.

Mười ba, “trong giáo pháp của ta không có những người tu sĩ làm những điều tà nghiệp ngăn ngại đạo để tự sinh sống như đọc thần chú để chữa bệnh hoặc đọc chú làm thuốc thang, châm chích trị liệu, điểm huyệt các bệnh hoặc tụng kinh, đọc chú, cầu cúng, cầu siêu, cầu an”.Tất cả những cái điều kiện này trong giáo pháp của đức Phật là cái người mà tu sĩ thì không được làm những cái nghề đó, không được làm những nghề thuốc thang, bùa chú hoặc là tụng chú, tụng kinh, tụng kệ để làm những cái việc mê tín, thậm chí như là châm cứu, hoặc là chích, hoặc là điểm huyệt này kia để trị bệnh người ta thì ở đây ở trong cái giáo pháp của đức Phật cũng cấm không cho chúng ta làm. Cho nên trong giáo pháp của đức Phật thì không có những cái loại tu sĩ như vậy.

Mười bốn, “trong giáo pháp của ta không có những người tu sĩ làm những điều tà mạng ngăn ngại đạo để tự sinh sống như tụng chú cầu nước, cầu mưa, cầu quỷ thần nhập”,như mấy người mà lên đồng để nhập vào, cầu quỷ thần nhập vô đó để mà nói chuyện bệnh đau của họ, “dùng bùa chú để yểm trấn nhà cửa mồ mả, đoán mây, xem tay tính quẻ, chiêm tinh hoặc là sách âm nhạc, đoán mộng”, hoặc là sách âm nhạc thì trong giáo pháp của đức Phật thì không có những loại tu sĩ mà làm những cái hành những cái tà nghiệp như vậy.

Mười lăm, “trong giáo pháp của ta không có những tu sĩ làm những điều tà nghiệp, ngăn ngại đạo pháp để tự sinh sống như đoán xem thời tiết có mưa hay không mưa, được mùa hay mất mùa, điều lành điều dữ, coi ngày tốt xấu cưới vợ gả con, cất nhà cất cửa, xem mồ xem mả, coi sao coi hạn”.Đó thì trong giáo pháp của đức Phật thì không có người tu sĩ của đạo Phật không được làm những cái nghề nghiệp đó. Những nghề nghiệp đó là không đúng cái đường lối thứ hai, cái lộ trình thứ hai của người tu sĩ của đạo Phật.

Mười sáu, “trong giáo pháp của ta không có những người tu sĩ làm những việc tà nghiệp, ngăn ngại đạo để tự sinh sống như vậy, trái lại những người tu sĩ ấy phải chuyên tu theo đúng Thánh giới, không có tâm nhiễm trước, bên trong giữ tâm hỷ lạc, mắt thấy sắc không chấp tướng và không bị sắc ràng buộc, kiên cố vắng lặng độc cư, không có tham đắm”.Nghĩa là trước mọi đối tượng của cái hình sắc của mọi vật thì cái người tu sĩ mà đạo Phật thấy sắc thì không có chấp cái tướng riêng tướng chung của nó, không có bị sắc buộc ràng cái tâm của mình, luôn luôn giữ tâm kiên cố, vắng lặng, độc cư, thầm lặng, không có tham đắm cái hình ảnh các sắc của mọi vật, cũng không có sợ hãi trước những cái sắc tướng đó, nghĩa là sắc đó có dữ tợn như thế nào ví dụ thấy như cọp, beo, rắn dữ thì mặc nó cũng chẳng sợ, mà thấy những cái gì mà làm cho dễ mến dễ ưa thì cũng chẳng ham chẳng thích, thì đó là cái sự ngăn chặn, mà sự ngăn chặn đó luôn luôn cái người mà ở trong giáo pháp của Phật thì luôn luôn ngăn chặn những cái sắc tướng đó, gọi là các ác pháp. Kiên trì giữ gìn giới luật, lúc nào chúng ta cũng phải giữ gìn giới luật cho nghiêm chặt để bảo vệ thân và tâm của mình.

“Khéo bảo vệ nhãn căn, nhĩ căn, thiệt căn và ý căn, cũng như thế, khéo chế ngự sáu xúc, hộ trì và điều phục chúng khiến tâm được an ổn. Ăn là vừa biết đủ, cũng không tham những món ăn ngon, chỉ cần nuôi thân để khỏi bệnh tật, không bao giờ cống cao ngã mạn, luôn điều hòa thân tâm mình khiến cho khổ cũ tiêu diệt, khổ mới không phát sanh, có sức vô sự làm cho thân được an lạc”. Đó là những cái lời mà đức Phật dạy là mười lăm cái điều ở trên là trong giáo pháp của đức Phật không có làm những cái tà mạng đó và cái phần mười sáu là đức Phật nhắn chúng ta phải thực hiện trong cái con người mà đi vào cái lộ trình thứ hai này phải thực hiện những cái điều mà Thầy vừa đọc ở trên, để cho quý thầy biết rằng những cái điều đó là những cái điều mà căn bản và cần thiết khi bước chân vào cái lộ trình thứ hai này.

“Trong đạo pháp của ta, những người tu sĩ ăn đủ nuôi thân để mà hành đạo. Những tỳ kheo thành tựu những Thánh giới như thế đắc được Thánh căn, chỉ ăn vừa đủ, đầu đêm cuối đêm siêng năng giác tỉnh và trọn ngày nếu đi hoặc ngồi thường tỉnh giác nhất tâm để trừ các ấm cái. Nửa đêm nằm nghiêng phía bên tay mặt và nhớ thức dậy đúng giờ, giữ gìn tư tưởng luôn luôn trong sáng, tâm không rối loạn. Đến cuối đêm liền thức dậy tư duy, hoặc đi, hoặc ngồi thường đặt niệm nhất tâm để trừ các ấm cái. Tỳ kheo có đầy đủ Thánh giới như vậy nên được Thánh căn chỉ ăn vừa đủ, đầu đêm cuối đêm tinh tấn giác tỉnh thường niệm nhất tâm không có tán loạn. Thế nào là tỳ kheo niệm không tán loạn? Tỳ kheo quán thân trong thân tinh cần không giải đãi, ghi nhớ không quên để trừ bỏ tham ưu ở đời; quán ngoại thân, quán trong thân, quán hoài và hoài, tinh cần không giải đãi, ghi nhớ không quên để trừ bỏ các tham ưu ở đời. Quán thọ, quán tâm và quán pháp cũng như vậy. Đây là trụ tâm nhơn tướng, trụ tâm trên nhơn tướng, tu như vậy tỳ kheo niệm không tán loạn”.

Đó thì cái phần này là cái phần sau này chúng ta sẽ học kỹ.Ở đây thì cái phần mà Phật tóm lược lại để chúng ta biết được những cái sơ đồ để chúng ta bước qua cái giai đoạn này phải tu tập như thế nào, ở đây Thầy cũng lược sơ mà nói thôi chứ đến khi mà tu tập thì Thầy sẽ dạy rất kỹ. Cho nên như bây giờ nói tỳ kheo quán thân trong thân hay hoặc là quán thân ngoại thân thì sẽ dạy đó là tu Tứ Niệm Xứ rồi, mà ở đây thì Phật chỉ dạy cho chúng ta biết rằng những cái hành động mà cái người mà tu sĩ trong đạo Phật, trong pháp môn của Phật là phải đi vào cái lộ trình thứ hai là họ phải làm cái gì trước cái gì sau. Thì đây là vạch ra cho chúng ta thấy từ cái chỗ mà chúng ta giữ gìn, ngăn ngại những nghề nghiệp mà chúng ta không cho nó xen vào trong cái chuyện làm của người tu sĩ của chúng ta, rồi chúng ta bắt đầu chúng ta phải giữ Thánh giới như thế nào để cho Thánh căn của chúng ta nó được tốt, được thanh tịnh cho đến khi mà mắt thấy sắc rồi chúng ta hộ trì như thế nào, rồi cho đến khi mà chúng ta phải giữ cho những nghiệp khổ đau mà ở trong thân của chúng ta, nghiệp khổ cũ nó tiêu diệt mà nó không phát sanh những nghiệp mới. Rồi đến khi cái ăn uống thì chúng ta, Phật nhắc đi nhắc lại về cái ăn uống rồi tới cái ngủ nghỉ, rồi tới cái tỉnh thức rồi cái đặt niệm nhất tâm rồi cho đến khi quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, quán pháp trên pháp, quán tâm trên tâm.(BBT:CĐ,17A,E00:14:33)

 Băng số 17

(BBT:CĐ,17B,B00:40:01)Vì vậy mà, cái hành động của ý và hành động của thân, hành động của khẩu, khẩu mình, cái miệng của mình lần lần nó thanh tịnh, nó thanh tịnh tức là nó trở thành cái giới hạnh. Giới hạnh của thân, giới hạnh của khẩu, giới hạnh của ý, ba cái hành động thân khẩu ý này bắt đầu, bởi vì cái hành là cái hạnh cho nên từ đó mà chúng ta giữ gìn không có cho những lỗi nhỏ nhặt mà nó xảy ra, vì vậy mà cái thân khẩu và ý của chúng ta, tất cả những hành động của thân khẩu ý chúng ta nó thanh tịnh, nó thanh tịnh tức là giới hạnh chúng ta đã tròn đầy, oai nghi tế hạnh chúng ta rất tốt. Bởi vì mỗi lần cái thân chúng ta động dụng, thì ngay đó là động dụng của cái hành động của giới luật. Miệng chúng ta nói ra một cái điều gì thì miệng chúng ta nói ra trong giới luật, trong cái hành động của giới luật, nó không có những cái điều mà nghịch lại, lỗi lại giới luật. Rồi cái ý chúng ta khởi nghĩ một điều gì thì nó cũng hành động mà khởi nghĩ đó nó đều nằm ở trong cái hạnh của giới luật cho nên thân khẩu ý nghiệp của chúng ta lần lần thanh tịnh.

Sinh hoạt trong sạch giới hạnh cụ túc, lúc bấy giờ cái sự sinh hoạt hằng ngày do thân khẩu ý chúng ta nó bắt đầu nó đầy đủ, nó trọn vẹn những cái giới hạnh.

Thủ hộ các căn, chánh niệm tỉnh giác và thiểu dục tri túc.Đây là phần giới thiệu chuẩn bị cho đời sống xuất gia của người mới bắt đầu vào lộ trình thứ hai của đạo Phật, nhưng nó cũng là giới hạnh của vị tu sĩ, phần thứ nhất trong đạo Phật. Nghĩa là cái giới hạnh đầu tiên mà chúng ta bắt đầu là chúng ta phải thấy nó thực hiện qua những cái điều kiện này, đó là cái phần thứ nhất của giới hạnh của đạo Phật.

Kế tiếp khi đã xuất gia xong thì vị tỳ kheo giới hạnh phải được học đầy đủ. Nghĩa là bây giờ chúng ta đã xuất gia xong rồi thì lúc bây giờ chúng ta phải siêng năng, tuy ở trên giới thiệu những cái điều kiện như vậy để chúng ta rõ nhưng chúng ta cái giới luật nó đâu phải có một giới hai giới đâu, nó nhiều, 250 giới, 348 giới, do đó chúng ta phải học, học cho thuộc, biết từng cái lỗi nhỏ lỗi lớn chứ không thể nào mà thiếu học được. Do cái sự học hỏi cho đầy đủ đó thì chúng ta mới thấy được cái giới của nó, vì vậy mà chúng ta mới luôn luôn cái hành động của chúng ta sống toàn bộ nằm ở trong cái giới.

Vậy giới hạnh đầy đủ như thế nào?Bởi vì giới hạnh cụ túc ở đây chúng ta giới thiệu nhưng mà nó cũng là cái phần mà hành động của chúng ta bắt đầu chúng ta sử dụng trong cái cuộc đời tu hành của chúng ta. Cái hành động sử dụng đó thì nó là giới hạnh. Nhưng mà giới hạnh mới đầu nó chưa có được đầy đủ đâu, cho nên vì vậy mà tiến tới được giới hạnh được đầy đủ mà gọi là giới hạnh cụ túc, cụ túc tức là đầy đủ, mà giới hạnh cụ túc thì phải làm gì, phải như thế nào? Vậy giới hạnh đầy đủ là gì? Tức là giới hạnh cụ túc là gì? Bây giờ chúng ta phải học cho biết cái giới hạnh đầy đủ cụ túc như thế nào chứ giới bổn thì nó không nói đâu, nó chỉ kê ra những lỗi này lỗi kia chứ nó không nói cái giới hạnh đâu. Nhưng mà ở đây chúng ta phải học cái giới hạnh, mà cái giới hạnh cho nó được đầy đủ thì phải học như thế nào gọi là đầy đủ, mà nếu mà không học đầy đủ thì chúng ta biết đâu mà hành động cho nó đúng là cái giới hạnh. Còn nếu mà chúng ta hành động toàn bộ ở trong giới bổn hết thì trong giới bổn nó có ở trong đó nó có giới đức ở trong đó, nó có giới tuệ trong đó, nó có cả cái giới hạnh trong đó chứ nó đâu có riêng một cái phần nào đâu. Còn giới hạnh khác, giới đức khác, mà giới tuệ khác, nó đâu có giống nhau. Cho nên ở đây chúng ta phân loại ra cái giới hạnh nó phải nằm ở trong những vị trí nào, rồi cái giới đức nó nằm ở trong vị trí nào, giới tuệ nó nằm ở trong vị trí nào để chúng ta thực hiện con đường tu tập chứ nếu mà không chúng ta đâu có biết được. Do đó chúng ta sống ở trong giới luật của Phật, Thầy là thầy của mình mà mình không rõ ông thầy của mình thì mình tu cái gì đây?

Vậy giới hạnh đầy đủ là gì? Tức là giới hạnh cụ túc là gì đó. Vị tỳ kheo phải từ bỏ sát sanh.Đây bắt đầu cái hạnh mà thứ nhất mà người bắt đầu vào tu, hồi nãy đó chỉ mới giới thiệu chúng ta biết phần giới hạnh chứ chưa phải là cụ túc còn bây giờ bắt đầu ở đây chúng ta mới thấy được cái giới hạnh cụ túc đầy đủ thứ nhất là như thế nào. Cái thứ nhất của giới hạnh chúng ta phải làm gì?(BBT:CĐ,17B,E00:44:28)

“Vị tỳ kheo phải từ bỏ sát sanh, tránh xa sự sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, bỏ gươm đao, cung tên, súng đạn, dao rựa, mác, (BBT:CĐ,18A,B00:00:00) luôn luôn phải tu tập, biết xấu hổ và sợ hãi trước những lỗi nhỏ nhặt sát sanh. Phải có lòng từ bi, sống phải thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh và loài hữu tình, như vậy là giới hạnh của vị tỳ kheo ấy, thứ nhất trong giới luật của đức Phật”. Đó là cái giới hạnh thứ nhất của vị ấy chúng ta nhớ, đây là cái giới hạnh là không giết hại chúng sanh đó, bỏ trượng, bỏ gậy, bỏ làm cái sự đau khổ, luôn luôn khi mà lỡ chúng ta đạp chết một con kiến là chúng ta phải xấu hổ, chúng ta phải sợ hãi, chứ đừng có nghĩ rằng đó là cái hành động sai lạc của chúng ta, vô tình của chúng ta chứ không phải là một cái chuyện chúng ta coi thường đâu. Bởi vì một vị tu sĩ gọi là giới hạnh thì không được làm đau khổ chúng sanh một con vật nào hết thì mới gọi là giới hạnh, chứ không phải là ăn thịt chúng ở trong miệng mà gọi là giới hạnh được đâu, đó là một cái điều sai, rất sai. Cho nên một người tu sĩ mà theo đạo Phật thì giới hạnh phải rõ ràng, phải biết được cái giới hạnh của nó là cái hành động của cuộc sống của chúng ta hằng ngày gọi là giới hạnh. Mà hằng ngày chúng ta đi chúng ta đạp chết côn trùng thì thử hỏi cái đó là giới hạnh của chúng ta sao, hoặc là hằng ngày chúng ta ăn thịt chúng sanh mà cái đó là giới hạnh của chúng ta sao, cho nên tất cả những cái điều này chúng ta phải thấy được cái chỗ đó, và chúng ta còn phải trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm của chúng ta trong những cái giới hạnh này để chúng ta thực hiện tâm từ bi chúng ta luôn luôn lúc nào nó cũng thực hiện với sự thương yêu của chúng ta đối với chúng sanh. Từ đó chúng ta mới không có làm đau khổ chúng sanh, không giết hại chúng sanh, đó là sự tu tập cái giới hạnh của chúng ta.

Đây là chưa phải tới những cái pháp mà dạy tu nhưng đây là những cái pháp để mà chúng ta biết, để mà chúng ta ngăn ngừa để mà chúng ta thực hiện trên cái sự tu tập như chúng ta học hồi nãy, cái lộ trình thứ nhất Tứ Vô Lượng Tâm, Từ Bi Hỷ Xả, Tứ Chánh Cần, các việc ác chưa sanh không cho sanh mà đã sanh thì đoạn diệt, các việc thiện chưa sanh thì cho sanh và đã sanh thì tăng trưởng, đó là Tứ Chánh Cần. Do những cái pháp mà tu tập như vậy và đồng thời Thầy còn dạy nè, Chánh Niệm Tỉnh Thức Định nè hoặc là tu Định Vô Lậu nè, tất cả những cái này đã dạy cách thức, pháp hướng cái này kia, tùy - hướng - quán chúng ta đã có nắm được một số tu tập rồi thì bắt đầu bây giờ qua cái giới hạnh là chúng ta đã biết cách rồi, không cần nhắc đi nhắc lại cái chỗ tu tập này nữa. Sau khi dạy các pháp như là 37 Phẩm Trợ Đạo, như tu Tứ Niệm Xứ hoặc là Ngũ Căn, Ngũ Lực hay hoặc là Thất Bồ Đề thì từ đó mới dạy ra cách thức mà thêm cho nó sâu hơn trong những pháp hành. Còn bây giờ chúng ta chỉ nói về giới hạnh cho nên chúng ta chỉ lướt qua mà không nói về pháp hành, nhưng chúng ta phải biết pháp hành. Nói về phải thương xót chúng sanh thì tức là chúng ta phải biết Từ Bi Hỷ Xả rồi, do đó chúng ta phải muốn cái giới hạnh chúng ta mà tròn đủ, cụ túc là đầy đủ đó thì chúng ta phải thực hiện Từ Bi Hỷ Xả của chúng ta, phải thực hiện Tứ Chánh Cần, rồi thì thực hiện Tứ Chánh Cần thì Thầy đã có giảng cho các thầy biết cách để trạch pháp ra những câu pháp hướng, pháp tùy như thế nào, pháp quán như thế nào thì quý thầy đã rõ rồi, do đó quý thầy vẫn hiểu biết được cái giới hạnh, mà vẫn biết được cái giới hạnh thì quý thầy thực hiện ở những cái pháp đã học thì tức là quý thầy đã đạt được một cái giới hạnh thứ nhất mà trong giới luật của đức Phật đã dạy. Đó là cái giới hạnh thứ nhất, tức là dạy cái hành động của chúng ta phải nó thực hiện cái tâm từ bi như thế nào để mà chúng ta giữ trọn được cái giới hạnh đó, không có còn giết hại chúng sanh, không có còn cầm một cái vật mà làm đau khổ chúng sanh nữa.

Đây, một cái giới hạnh thứ hai, “Vị tỳ kheo phải từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ được mong những vật đã được cho, tự sống thanh tịnh ở hạnh tu này luôn luôn giữ gìn không để mang tiếng trộm cắp, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai trong giới luật của đức Phật”.

Đó chúng ta phân ra từng chút để thấy những cái hạnh của nó. Bây giờ mình lấy cái vật của người ta không cho, lén lấy cục kẹo hay một cái bánh ăn lén thì đó là trộm cắp rồi, hay hoặc là thấy ở ngoài vườn của mình có trái cây nào đó thì thay vì hái nó đem vào giao cho chúng tất cả, chúng ta không ăn phi thời, không có ăn trộm, do đó chúng ta hái trả lại không bao giờ mà chúng ta ăn như vậy, như vậy là hành động không có trộm cắp. Còn bây giờ thấy một cái trái cây, ổi hoặc là trái nhãn hay trái gì chín, lấy cái lột bỏ vô miệng nhai thì đó rõ ràng là trộm cắp rồi. Mà trộm cắp như vậy là cái hạnh nó có tốt không, cái hành động đó có tốt không? Cái hành động đó không tốt tức là không phải là giới luật. Vì vậy không phải là giới hạnh. Cho nên khi mà giới hạnh là cái hành động làm cho chúng ta thanh tịnh không còn trộm cắp, không còn ăn vụng ăn vặt, không còn ăn uống phi thời thì đó là cái giới hạnh. Cho nên ở đây cái cuộc sống của chúng ta từng cái giới hạnh như vậy để mà nêu lên, để biết nó là cái giới hạnh nào, thứ nhất thứ nhì thứ ba thứ tư trong cuộc đời tu hành chúng ta phải giữ gìn nó. Như vậy giới hạnh của vị ấy thứ hai trong giới luật của đạo Phật, nghĩa là mình không có trộm cắp, không lấy của không cho thì như vậy là cái giới hạnh thứ hai của đạo Phật.

“Vị tỳ kheo phải từ bỏ dâm dục, phải xa lánh sự dâm dục, luôn luôn tự sống tịnh hạnh trong sạch, trong ý không được mống khởi dâm dục, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ ba trong giới luật của đức Phật”.Đó thì các thầy thấy những cái giới hạnh này thì chúng ta thấy nằm như là gần ở trong giới bổn của Ngũ Giới, rõ ràng, nhưng không phải đâu, nó là giới hạnh để biến ra cái hành động của chúng ta, còn cái kia là giới bổn nhắc nhở chúng ta đừng có làm chuyện đó chớ không phải là giới hạnh, còn giới hạnh đây là cái cuộc sống của tu sĩ, cái hành động sống của tu sĩ phải nghiêm chỉnh trong cái hành động đó gọi là oai nghi tế hạnh của vị đó, cho nên gọi là giới hạnh.

“Vị tỳ kheo từ bỏ nói láo, tránh xa sự nói láo, phải luôn luôn nói lời chân thật, y chỉ trên sự thật mà nói, nói rất chắc chắn đáng tin cậy. Không lường gạt, không phản lại lời nói, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ tư trong giới luật của đức Phật”.

Đó, nếu mà cái người mà không nói láo đó là giới hạnh thứ tư trong giới luật của đức Phật. Trong giới bổn của đức Phật thì cái giới đó cũng là giới thứ tư, mà giới hạnh ở trong đây là hành động mà không nói láo, thì cái hành động oai nghi của chúng ta hằng ngày thì cái oai nghi đó gọi là giới hạnh của chúng ta.

“Vị tỳ kheo từ bỏ nói lưỡi hai chiều, tránh xa nói hai chiều, nghe điều gì chỗ này không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với những người này để sanh chia rẽ với những người kia. Như vậy tỳ kheo ấy đang sống hòa hợp với những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, vui mừng trong sự hòa hợp, thoải mái trong sự hòa hợp, hân hoan trong sự hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ năm trong giới luật của đức Phật”.

Đó thì chúng ta thấy rằng từ cái giới thứ tư đến giới thứ năm, thì ở cái giới này chúng ta thấy nó nằm ở trong Thập Thiện chứ không phải là nằm ở trong cái Ngũ Giới nữa, mà nó đi qua cái Thập Thiện. Mà qua cái Thập Thiện thì chúng ta thấy đây là cái hành động của miệng của chúng ta, mà miệng của chúng ta mà không nói những cái lời hai chiều như vậy, đó là cái giới hạnh của một người tu sĩ, nó có khác hơn ở trong giới bổn đó là ở chỗ này. Chúng ta thấy cái chỗ ở giới bổn thì khi mà nói Ngũ Giới thì nó chỉ có nói vọng ngữ thôi, mà nói về Thập Thiện thì nó mới có nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác,... Đó thì ở đây chúng ta thấy qua cái giới hạnh thì nó lại có sự sai khác hơn một chút xíu như vậy thôi mà nó nói lên được cái hành động của nó, cái hành động của cái vị tu sĩ, cái oai nghi tế hạnh của nó ở chỗ cái hành động của cái miệng của nó. Đó là giới thứ năm, giới hạnh thứ năm trong giới luật của đức Phật.

“Vị tỳ kheo từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác, vị ấy nói những lời không có lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, dễ cảm thông đến tâm của mọi người, luôn luôn có những lời tao nhã làm đẹp lòng người khác. Như vậy giới hạnh của vị ấy thứ sáu trong giới luật của đức Phật.”

Đó thì cái giới hạnh thứ sáu này thì chúng ta thấy không có nói lời to tiếng, không có chửi mắng, không có nạt nộ, không có làm cho người ta khổ sở, không có làm cho người ta sợ hãi mà luôn luôn nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn thì đó là cái hạnh, cái oai nghi tế hạnh của cái hành động của miệng. Cho nên nó là giới hạnh thứ sáu ở trong giới luật của đức Phật.

Kế nữa, “vị tỳ kheo từ bỏ nói lời phù phiếm, tránh xa nói lời phù phiếm, phải nói đúng thời đúng lúc, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa cao đẹp, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về giới hạnh, giới đức, nói những lời đáng được ca ngợi, nói những lời hợp thời, hợp lý, hợp căn, hợp cơ, thuận lý, có mạch lạc, có hệ thống, có ích lợi cho người cho mình. Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ bảy trong giới luật của đức Phật.”

Đó thì ở đây cũng trong cái hành động nói mà nói như thế nào mà được những cái hạnh, được cái giới hạnh đó thì như vậy thì cái giới hạnh này là giới hạnh thứ bảy trong giới luật của đức Phật.

“Vị tỳ kheo từ bỏ làm hại các hạt giống và các loại cây cỏ thảo mộc, dùng ngày một bữa không ăn đêm, không ăn phi thời; từ bỏ, xa lánh ăn phi thời; từ bỏ đi xem múa hát, ca nhạc kịch; từ bỏ trang sức bằng vòng hoa hương liệu, dầu thơm, xà bông thơm và các thời trang khác; từ bỏ không dùng giường cao rộng lớn; từ bỏ tủ bàn ghế sang đẹp; từ bỏ nhận vàng bạc, tiền bạc, của báu; từ bỏ không nhận các hạt giống sống; từ bỏ không nhận thịt sống, thịt chín; từ bỏ không nhận đàn bà, con gái; từ bỏ không nhận nô tì trai gái; từ bỏ không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa, ngựa cái; từ bỏ không nhận ruộng nương, đất đai; từ bỏ không nhận người môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ buôn bán các nghề thương mại; từ bỏ gian lận bằng cân, bằng thướ,c bằng tiền bạc, hoặc bằng các dụng cụ đo lường khác; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, ăn lo, gian trá, lừa đảo; từ bỏ làm tổn thương hoặc làm đau khổ chúng sanh, câu thúc, bức bách, bức đạp. Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ tám trong giới luật của đức Phật”.

Đó là từ bỏ những cái việc làm như vậy, từ bỏ tất cả những điều kiện ở trên mà Thầy đã kể thì nó mới là cái giới hạnh thứ tám của trong đạo Phật, của giới luật của đạo Phật. Nó một loạt như vậy chứ nó không kể ra từng chút từng chút. Nghĩa là ở đây Thầy xin giải thích thêm chỗ này “từ bỏ không nhận đàn bà con gái” là dưới hình thức mà người tu sĩ mà chúng ta nhận đó là chúng ta nhận hoặc là cái người mới vào mà tập sự tu hành làm công quả, đó là hình thức mà tôi tớ ở trong nhà chùa đó. Người ta công quả rồi sai người ta làm cái này làm cái kia cái nọ, sai họ làm đủ thứ chuyện nhà chùa, đó là hình thức là công quả nhưng mà sự thật đó là mình nhận là đàn bà hay hoặc là đàn ông hay hoặc là con trai để làm nô tì cho mình ở trong chùa, đó là hình thức công quả.

Cho nên ở đây chúng ta phải xét rằng ông Phật hồi xưa không có làm cái điều này, không có nhận cái kiểu mà công quả đâu, còn bây giờ thì chúng ta ngồi không đó mà nhận người vô để gọi là tập sự đó, gọi là tịnh nhân đó, để cho họ công quả hay hoặc là những người cư sĩ ở ngoài họ muốn tạo thêm phước để họ vô chùa họ làm công quả đó. Cái điều đó thật sự ra nhiều khi mình hiểu lầm một chút xíu mình tưởng đó là những người công quả để cho họ tạo phước họ nhưng mà cuối cùng thì mình lại nhận họ trở thành những người nô tì của mình ở trong chùa để cho sai vặt họ làm cái này cái kia cho mình, cho mình khỏi làm, từ cái quét dọn nhà cửa chùa chiền đều là sai những cái người công quả. Tu sĩ thì ngồi không chơi chứ còn để cho tất cả những cái vị cư sĩ, bởi vì có những người công quả nhiều thì toàn bộ tu sĩ đều là ngồi chơi. Thầy thấy cái điều này rất rõ, cho nên ví dụ như bây giờ trong cái phần mà nhiệm vụ mà của các cô mà ở trong bếp nước á, mà ni á, thì khi mà có những người cư sĩ vô công quả, họ giao phó hết cho mấy bà công quả đó làm chứ họ ngồi đó họ chỉ móng tay, họ làm chủ họ sai, tức là biến những người công quả đó trở thành nô tì cho cái người tu sĩ, cho nên cái giai cấp của người tu sĩ trở thành giai cấp là chủ, chủ nhân còn cái giai cấp của cư sĩ mà công quả là giai cấp nô tì.

Chúng ta phải hiểu thêm những hình thức mà nó qua cái danh từ thì coi như là công quả, nhưng mà qua cái hành động thì như là nô tì, sai rồi bảo rồi này kia đủ thứ hết, làm đủ thứ mọi mặt hết. Mà cái người mà làm nô tì như vậy người ta chỉ nghĩ minh làm cái điều đó được phước cho nên cứ ráng mà làm thôi, phước đâu thì có hay không có thì không biết nhưng mà chỉ nghe quý thầy nói ờ thì làm công quả thì được phước thì cứ chổng khu mà làm thôi, người ta sai cái gì mình làm cái nấy thôi, bảo quét dọn cái gì, hốt rác hay hoặc là chỗ dơ bẩn nào cũng xông pha vô. Chẳng hạn nào như quý thầy ở đông rồi những cái hầm tiêu nó đầy ngập lên, thay vì quý thầy phải nhảy xuống dưới hốt, không, nhờ mấy ông cư sĩ mà vô mà công quả mấy ông giúp dùm cái này phước báo lớn lắm á, do đó mấy ổng nhảy xuống mà hốt. Đó là những cái mà chúng ta lợi dụng cái lòng tin Phật, cái sự mà cầu để được phước báo cho nên cái sự tha cầu được phước báo đó mà chúng ta biến họ trở thành những nô tì làm những cái chuyện dơ bẩn thay cho chúng ta trong khi chúng ta là những người tu sĩ chưa đến đâu mà cũng chỉ muốn ngồi trên để làm chủ mà sai họ. Bởi vì khi mà lật ra những cái giới hạnh này của đạo Phật, Thầy thấy đức Phật dạy chúng ta quá kỹ, không còn có cái chỗ nào mà thiếu sót những cái hành động đúng sai của chúng ta hết. Nghĩa là lật ra tất cả những cái sự thật của cuộc sống tu hành của chúng ta thì những cái giới hạnh Thầy thấy đức Phật dạy không còn cái chỗ nào mà đức Phật không dạy cho chúng ta biết. Do biết như vậy mà chúng ta dạy cho rõ ràng, cho kỹ lưỡng chứ không khéo thì người ta cũng sẽ lầm lạc mất đi.

Tiếp tục, vị tỳ kheo không được trồng trọt tất cả các loại hạt giống,nghĩa là cái hạt giống nào chúng ta cũng không được trồng hết. Những loại giống từ rễ cây sanh ra, nghĩa là có loại giống cái cây mình chặt cái rễ đi, rồi cái rễ đó nó lên cái tược, rồi mình lấy cái tược đó mình đem trồng thì đức Phật cũng cấm không có được lấy đó. Những cái chiết cành, tháp cây, làm cho nó ra những cây con, cây nhánh đó rồi đem trồng thì đức Phật cũng không có cho chúng ta trồng. Những cái hạt giống mà ươm nó lên cây, rồi những cái rễ cây mà lên cây, cũng như thí dụ như cái cây chuối vậy đó, nó từ cái củ của nó ra cây vậy đó thì đức Phật cũng không có cho chúng ta trồng cái gì hết, tới cái cây chiết cây tháp gì cũng không cho trồng hết. Đó là tất cả những cái loại đó đức Phật cấm không cho chúng ta làm. Và cũng không được làm hại những loại giống đó,không được làm cho những loại giống chết, nghĩa là chúng ta không được trồng nhưng chúng ta cũng không được làm hại cho nó chết. Đó là những cái đặc biệt của đạo Phật đó. Vì vị tỳ kheo chỉ dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà thôi,nghĩa là chúng ta chỉ đi xin ăn thôi chứ chúng ta không có làm những cái điều đó được, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ chín trong giới luật của đức Phật.

Nghĩa là các thầy thấy giới bổn nó có khác không? Mà đến đây giới hạnh nó đi qua một cái góc độ khác rồi, nó đi qua một góc độ mà chúng ta không ngờ được cái hành động hằng ngày chúng ta phải sống, do đó chúng ta không học giới bổn thì chúng ta thấy hoàn toàn là ở chỗ mà trồng tỉa thì nó không có phạm tội gì hết, nhưng mà qua cái giới hạnh chúng ta thấy cái hành động mà của vị tu sĩ đó chỉ có hành động đi xin mà thôi chứ còn hoàn toàn là không có làm được cái gì khác hết. Mà thật sự đi xin mới giải thoát còn làm làm sao giải thoát được, cho nên đức Phật cấm từ không có nhận các hạt giống. Đó là cái giới hạnh thứ chín của một người tu sĩ của đạo Phật.

“Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn cất chứa và thọ hưởng các đồ vật như cất chứa các món ăn, cất chứa đồ ăn uống, cất chứa vải, cất chứa xe cộ, cất chứa đồ nằm, cất chứa hương liệu, cất chứa các mỹ vị, như vậy không đúng giới hạnh. Vị ấy phải từ bỏ cất chứa các vật trên, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười trong giới luật của đức Phật.”

Đó, cấm chúng ta không cất chứa được cái gì hết, nghĩa là dù là thuốc thang cái gì cũng không cất chứa, cho nên Thầy nói trong cuộc đời tu hành của Thầy mà đọc đến cái chỗ giới hạnh Thầy thấy Thầy chưa có trọn vẹn được chút nào hết, chỉ có bây giờ Thầy ẩn bóng sống một cái đời sống du tăng khất sĩ rày đây mai đó, lúc thì ở rừng, lúc thì ở núi, lúc thì giữa chợ, ai cho cái gì ăn cái nấy, hoàn toàn là ba y một bát không thêm không bớt, đau thì xin thuốc mà không đau thì không có xin, không để dành đó. Còn chúng ta thì luôn luôn lúc nào cũng phòng ngừa, phòng ngừa để dành, mang ôm ấp, cứ sợ hãi bệnh đau rồi chết thôi. Người tu sĩ mà khi nỗ lực thực hiện được như vậy rồi thì chúng ta chẳng còn sợ hãi gì nữa hết. Như Thầy bây giờ còn sợ hãi cái gì, cho nên thực hiện đúng cái hạnh của đức Phật chứ còn để làm gì nữa đây. Nếu mà Thầy không thực hiện chắc cuộc đời này chẳng có ai thực hiện được những cái giới hạnh này hết.

“Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống theo các trò du hí không chơn chánh như múa, hát, ca nhạc kịch, ngâm vịnh, nhịp tay, nhịp chân, kệ tụng, ca ngâm í a í à, hoặc tụng kinh, tụng thần chú, tay bắt ấn, đánh trống lớn trống nhỏ, phèng la, chập chả, đẩu, mõ, diễn tuồng thần tiên, mãi võ, đấu voi, đấu ngựa, đấu bò, đấu trâu, đấu dê, đấu cừu, đá gà, đá dế, đá chim cun cút, đấu gậy, đấu côn, đấu quyền, đô vật, bắn súng, đấu gươm, thi bắn, tập dợt bắn, tập đánh giặc giã, tập thao dượt diễn binh. Vị tỳ kheo phải từ bỏ các loại du hí đối với người tu nó không chơn chính”.

Tức là tất cả những cái điều kiện trên nó không có chơn chính đâu, đối với người tu thì nó không chơn chính, đối với người ngoài đời thì người ta chơn chánh hay sao kệ người ta, còn riêng mình đi theo đạo Phật thì nó không chơn chánh. Như vậy là giới hạnh của vị tu sĩ thứ mười một trong giới luật của đức Phật.Nó được ghép vào thứ mười một ở trong giới hạnh của giới luật của đức Phật. Đó thì những cái điều mà hôm nay Thầy kể ra hết để cho quý thầy chuẩn bị cho một con đường mà học giới, để rồi nó sáng tỏ như là ban ngày, nó không còn cái chỗ nào mờ ảo hết.

Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống theo các trò chơi giải trí trong thế gian như cờ tướng, cờ gánh, cờ quân, cờ vua, cờ tám hình vuông, cờ mười hình vuông, cờ chơi trên đất, cờ chơi cò nhảy ô, chơi bỏ khăn, chơi làm mù bịt mắt, chơi u, bắt mọi, chơi đánh gồng, đánh trỏng, chơi u ấp, chơi nhảy dây cò cò, chơi bông vụ, chơi xúc xắc, chơi đá cầu, chơi bóng rổ, chơi đánh tennis, chơi đánh bóng, đá bóng, lội đua, chạy đua, đạp xe đạp đua, chơi thổi kèn bằng lá cây, chơi lộn nhào như xiếc, chơi đánh đu, chơi búp bế, chơi xe điện tử, chơi chong chóng, bông vụ, chơi giấu, chơi ú tim, chơi những xe tàu đồ chơi trẻ con, chơi cung tên súng giả, chơi đoán chữ viết trên lưng trên không, chơi bắt chước bộ điệu, chơi làm hề, vân vân...

Đó là tất cả những cái trò chơi như vậy hầu hết là cái giới hạnh của người tu sĩ không được làm cái trò chơi đó. Bởi vì có nhiều chú 7 tuổi vô tu hành, các con biết không, nhảy cò cò, có không? Rồi ngồi chơi cái này, 3 - 4 chú ngồi chơi bỏ khăn, rồi bịt mắt, rồi làm mù đủ cách theo cái kiểu mà trẻ con ở ngoài thế gian, cho nên đức Phật kiết những cái giới hạnh của người tu hoàn toàn từ trẻ con mà vào tu mới 7 tuổi, 8 tuổi cho đến người lớn, hoàn toàn là tất cả những cái trò chơi đó đức Phật nêu ra đó là những cái giới hạnh mà người tu không có được làm, không được chơi những cái trò chơi đó. Cho nên trẻ con làm sao 7 - 8 tuổi làm sao mà thấy súng giả không ham, thấy cung tên không thích cho nên nó khoái lắm chớ gì; còn bên nữ mà nhỏ nhỏ vô tu thấy búp bê sao không ôm, mà ôm ẵm như vậy thì các con thấy nó thực hiện qua một cái tình ái của nó đó, cái tình thương con, cho nên vì vậy mà đức Phật cấm không có cho chơi những trò chơi như vậy để mà từ đó tuyệt, cho nó phá đi những cái tâm mà dục của nó. Đó là những cái điều kiện giới hạnh nó nghiêm chỉnh như vậy để bắt đầu chúng ta sống như một cái người lớn, một cái người thật sự là một người có cái oai nghi tế hạnh chững chạc của một vị tu sĩ. Vị tỳ kheo phải từ bỏ các loại giải trí như trên, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười hai trong giới luật của đức Phật.Xem được như các trò chơi này được xem như cái giới hạnh thứ mười hai trong giới luật của đức Phật.

Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống dùng các giường cao rộng lớn, ghế bành, ghế trường kỷ, nệm trải giường bằng len, trải giường bằng nệm cao su, nệm thông hơi, vải trải giường nhiều tấm nhiều màu, chăn len trắng, chăn len thêu bông, nệm bông, nệm thêu hình các con thú, nệm bằng lông thú cả hai mặt, mền có đính ngọc, mền bằng lụa, khảm, mền có voi, mền ngựa, mền xe, mền bằng da sơn dương khâu lại, tấm thảm có lều che phía trên, ghế dài có gối đầu, gối chân, gối ôm, có những màn, những màu sắc rực rỡ, nói chung là tất cả những đồ dùng trong nhà như xe cộ, ti vi, tủ lạnh, tủ giặt, máy móc vi tính, cát sét thu băng, điện thoại, ra đi ô, vân vân... Tấtcả những đồ dùng đó hoàn toàn là người tu sĩ mà gọi là giới hạnh thì không có được dùng.

Vị tỳ kheo phải từ bỏ không dùng những vật vừa kể trên như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười ba trong giới luật của đức Phật.Mặc dù là tất cả những vật dụng này đức Phật không có nói ở trong kinh nhưng mà đức Phật nói tất cả những cái gì mà có thể trong cái thời của đức Phật có là đức Phật đã vạch ra nói ra, cho nên Thầy dựa theo cái sự hiều biết đó mà Thầy thêm những cái điều kiện như là ti vi, tủ lạnh, máy móc, vi tính, cát sét, thu băng gì tất cả, ra đi ô, điện thoại trong thời đại này thì người tu sĩ không có được rớ tới nó, những vật dụng đó. Đó là nó mới hợp với ý Phật, trong cái thời đại của Phật thì không có những vật dụng đó nhưng đức Phật nói như là toàn bộ những vật dụng mà sang đẹp, những vật dụng của vua chúa, những vật dụng của người giàu có mà xài trong cái thời đó thì tất cả những cái vật dụng mà chúng ta hiện đại mà có thì nó cũng nằm ở trong cái sự đó. Cho nên Thầy kê ra hết để chúng ta biết đó là cái giới hạnh của chúng ta không được xài những cái thứ đó, vì những cái thứ đó là làm chúng ta mất cái giới hạnh của người tu. Và cái giới hạnh của người tu mà không có xài tất cả những vật dụng đó đó thì được gọi là thứ mười ba trong giới luật của đức Phật.

Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà cũng vẫn còn dùng các đồ trang sức mỹ phẩm làm đẹp người như thoa dầu đấm bóp, tắm giặt làm cho thơm tho đẹp đẽ, hoặc đập tay, đập chân, tập luyện làm cho mềm tay, mềm chân, mềm mại. Ởđây là trong thời đức Phật có dạy cấm những cái khi mà thoa dầu để mà làm cho tay chân mình mềm dẻo, để cho mình làm như những cái người mà làm xiếc đó, uốn mình qua lại đồ đó thì đức Phật ở trong cái đoạn giới hạnh này đức Phật cũng có dạy là chúng ta không có nên luyện tập cái điều đó, chứ không phải thoa dầu thơm, xức dầu thơm như ở đoạn trước đâu, mà đây là thoa dầu để làm cho nó mềm dẻo gân cốt của mình để mà luyện tập cho nó mềm dẻo đó, cách thức mà ngày xưa người ta luyện tập để cho thân người người ta mềm dẻo, cái xương sống họ uốn cong như thế này đó là phải thoa dầu để mà tập luyện chớ không phải là đơn sơ mà tập luyện đâu. Theo cái bài kinh của Phật nói thì Thầy đã hiểu biết là người mà tập luyện cho dẻo dai để mà làm xiếc được trò này trò kia được, như uốn cong người như chân kéo lên tới trên đầu bên đây bên kia được hết á là phải thoa dầu rồi mới tập luyện chớ không phải là không thoa dầu mà tập luyện được. Có khi tập luyện được nhưng mà nó rất khó khăn, nó không bằng những người mà người ta thoa dầu rồi người ta tập luyện.

Làm cho mềm mại, dẻo dai, uốn éo hoặc dùng gương soi, kem đánh mặt, vòng hoa, chuỗi hạt, phấn son, phấn mặt, sáp mặt, vòng tay, tóc giả trên đầu, gậy cầm tay, xà quéo, gươm, lọng, dù, dép, thêu khăn đầu, mũ, nón, phất trần vải trắng có viền tua dài và còn nhiều thứ khác nữa. Vị tỳ kheo không được dùng các thứ như vậy gọi là giới hạnh của vị ấy thứ mười bốn trong giới luật của đức Phật.

Những điều kiện kể trên để mà cái người tu sĩ giữ gìn giới hạnh mà không có vi phạm thì đó là cái giới hạnh thứ mười bốn trong giới luật của đức Phật. Thì Thầy kể ra hết những cái gì mà Phật đã kể ra để chúng ta biết những cái giới hạnh như thế nào để chúng ta đừng có phạm phải cái hành động của chúng ta trong những cái sai đó mà làm mất cái oai nghi tế hạnh của người tu sĩ của đạo Phật, làm cho người ta thấy những cái điều đó mà người ta chê bai mình tu hành không đúng, hành động không có đúng cái hạnh của người tu.

Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà không sống thầm lặng, độc cư cứ thường hay nói những câu chuyện vô ích, tầm thường. Đó thì ở đây Phật cũng nhắc nhở chúng ta phải sống thầm lặng, phải độc cư, đừng có hay nói chuyện, nói chuyện vô ích tầm thường. Như câu chuyện nói về vua chúa; câu chuyện nói về ăn trộm; câu chuyện nói về đại thần; câu chuyện nói về binh lính; câu chuyện nói về sự hãi hùng; câu chuyện nói về chiến tranh; câu chuyện nói về đồ ăn uống; câu chuyện nói về vải mặc; câu chuyện nói về máy móc; câu chuyện nói về khoa học; câu chuyện nói về tôn giáo; câu chuyện nói về thầy này thầy kia;câu chuyện nói về giáo hội; câu chuyện nói về giường nằm; câu chuyện nói về vòng hoa; câu chuyện nói về hương liệu; câu chuyện nói về bà con; câu chuyện nói về xe cộ; câu chuyện nói về tai nạn lưu thông; câu chuyện nói về làng xóm; câu chuyện nói về thị tứ; câu chuyện nói về thành phố; câu chuyện nói về thế giới; câu chuyện nói về đàn bà đàn ông; câu chuyện nói về anh hùng, vị anh hùng này vị anh hùng khác; câu chuyện nói bên lề đường; câu chuyện tại chỗ giếng nước; câu chuyện về người chết thế này thế khác; câu chuyện tạp thoại, huyền thoại; câu chuyện biến trạng của trái đất; câu chuyện biến trạng của đại dương; câu chuyện về hiện hữu và không hiện hữu; vân vân...

Tất cả những chuyện này thì cái người tu sĩ không có được mà bàn bạc, không được nói mà phải sống thầm lặng độc cư. Hầu hết là những điều mà đức Phật kê ra như vậy để mà chúng ta biết rằng chúng ta không có nên mà nói cái chuyện nhảm nhí như vậy, mà sống để mà thực hành những cái pháp mà chúng ta đang thực hành, tu hành thì may ra thì giữ được cái giới hạnh này, thì chúng ta mới có thể tu đạt được những cái sự giải thoát, còn nếu mà không giữ được cái giới hạnh này cứ mãi nói chuyện này chuyện kia thì không biết bao giờ mà chúng ta nói hết chuyện của cuộc đời chúng ta, mà của cái thế gian này được. Nó lắm chuyện lắm, nó không bao giờ hết được. Thử quý thầy cứ nói, cứ nhìn người đời có bao giờ họ hết chuyện đâu, không chuyện này thì tới chuyện khác họ nói hoài không có hết, bởi vì cái miệng chúng ta nó nhiều lắm, nó nhiều chuyện lắm, nó nói không bao giờ dứt, cho nên đức Phật dạy chúng ta sống thầm lặng, sống độc cư là chính cái chỗ đó để mà chúng ta dẹp đi, cái giới hạnh chúng ta tròn đầy ở trong cái chỗ mà dẹp những cái điều mà không nói chuyện phiếm đó.

Vị tỳ kheo ấy phải từ bỏ xa lìa không nói những chuyện vô ích tầm thường vừa kể ở trên như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười lăm trong giới luật của đức Phật.Đó là, đây là giới hạnh thứ mười lăm trong giới luật của đức Phật. Cho nên khi mà nói đến cái giới hạnh thứ mười lăm là chúng ta biết là cái gì rồi, mà nói thứ ba, thứ tư là chúng ta biết cái gì rồi. Cái người mà học giới luật về giới hạnh mà nói đến bây giờ giới hạnh thứ năm là cái gì thì vị đó biết liền, mà nói thứ sáu là cái gì vị đó biết liền, còn bây giờ chúng ta không có học nói thứ mười lăm là cái gì chúng ta chẳng biết, mà nói thứ mười bốn chúng ta cũng chẳng biết. Mà chúng ta học chúng ta biết những cái hành động đó nó nằm ở trong cái giới hạnh nào, trong cái thứ mấy của cái giới luật của Phật. Ðó là chúng ta đã thông suốt được cái giới hạnh, còn chưa thông suốt thì chúng ta cần phải học cho thông suốt.

Vị tỳ kheo mặc dù sống đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống bàn luận tranh chấp, kiến chấp tà kiến, tranh luận về thiền, tranh luận về kinh Đại Thừa Tiểu Thừa, tranh luận về kiến giải tưởng giải, tranh luận về giới luật học, tranh luận về luận Trung quán A tì đàm, Thanh tịnh đạo luận, tranh luận về trí Bát Nhã, tranh luận về Phật tánh, vân vân...Tất cả những tranh luận này, điều đó hầu hết là đức Phật ở trong kinh thì đức Phật nói phân ra cái chánh kiến, cái tà kiến rồi kiến chấp này, kiến chấp kia mà 62 cái luận. Nhưng bây giờ thì chúng ta thấy cái luận của chúng ta thì nó nằm đâu? Nó nằm ở trong kinh điển của Đại Thừa, Tiểu Thừa, rồi tranh hơn tranh thua, rồi tranh thiền, tranh đạo, rồi tranh Phật tánh, rồi tranh nói Bát Nhã, rồi nói về Trung quán luận A tì đàm, hoặc là Thanh tịnh đạo luận. Tất cả những cái này đều là chúng ta xoay quanh chứ không phải như trong thời đức Phật là 62 lập luận của thời đức Phật. Ở trong cái chỗ này đức Phật nhắc chúng ta đừng có nên tranh luận trong 62 lập luận đó, thì bây giờ Thầy lại nhắc các thầy đừng có tranh luận ở trong những cái tranh luận của trong cái thời đại chúng ta, bây giờ là chúng ta tranh luận thiền, tranh luận đạo, tranh luận Tiểu Thừa - Đại Thừa, tranh luận Nam Tông - Bắc Tông. Đó là chúng ta có những tranh luận đó, lớp thì hòa giải, lớp thì tranh luận, lớp thì móc bên đây, nghéo bên kia làm nhiều cái có thể làm cho tan nát cái nhà Phật giáo của chúng ta ra. Cái đó là cái mà đức Phật đã cấm và vì vậy mà người tu sĩ mà có cái giới hạnh thì không có nên làm cái điều này, không có nên tranh luận cái điều này, ai nói gì thì làm thinh không có tranh luận hơn thua.Đó là những cái mà đức Phật đã dạy chúng ta từ xưa, bây giờ chúng ta phải hiểu là lúc bây giờ cái giai đoạn chúng ta họ đang tranh luận cái gì thì chúng ta phải đem cái đó ra mà nêu lên để cho cái người hiện nay người ta biết là người ta đang tranh luận cái đó là cái sai của người tu theo giới hạnh của đức Phật.

Vị tỳ kheo ấy phải từ bỏ, xa lánh những cuộc tranh luận, tranh chấp kể trên, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười sáu trong giới luật của đức Phật.Đó, cái sự tranh chấp này nó nằm ở trong cái hạnh của thứ mười sáu, cái giới hạnh thứ mười sáu của đức Phật.

Vị tỳ kheo mặc dù đã sống dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống đưa các tin tức người này người kia, hoặc tự đứng ra làm môi giới, thuyết khách cho vua chúa, cho các vị đại thần, bàn mưu tính kế quốc sự quốc dân, làm mai dong môi giới bán nhà bán ruộng bán đất, môi giới buôn bán, môi giới trai gái, môi giới làm ăn chạy áp phe áp pháo để kiếm danh kiếm lợi thêm.Mặc dù là mình ăn của đàn na cúng dường mình rồi đó, của đàn na thí chủ cúng dường mình rồi mà mình còn đi làm những cái nghề nghiệp như vậy, đi làm những cái môi giới như vậy hoặc làm quốc sư rồi đó thì cái điều đó là không phải, bởi vì mình người tu rồi, mình chỉ người ta đến hỏi, nhà vua tin mình đến hỏi thì mình gợi ý họ thôi chứ mình không làm quốc sư, điều đó phải bày mưu tính kế này nọ kia, phải đánh giặc như thế này thế kia, thì cái điều đó là cái người tu sĩ của đạo Phật không có được làm cái điều đó, cho nên làm cái điều đó đức Phật gọi là làm môi giới. Mình quốc sư của nhà vua thì tức là mình dạy đạo cho nhà vua thôi, chứ không phải là mình cố vấn quân sự cho nhà vua để đi chinh phạt nước người ta hoặc là phải làm cái thế này để trị dân trị nước. Trị dân trị nước bây giờ nhà vua không hiểu, nhà vua hỏi mình thì mình chỉ góp ý cho cái phần của nhà vua về cái phần đạo đức của mình đang tu tập để mà dạy thôi, còn cái phần khác thì nhà vua muốn làm sao đó thì làm chớ không góp ý là phải xây dựng cái pháp luật này, cái pháp luật kia phải sửa đổi cái này, sửa đổi cái kia như vậy là trị nước như thế này thế khác, mình không có góp ý về cái phần đó. Nhưng mình nói về cái thiện pháp thì nhà vua xét qua cái thiện pháp mà đặt ra giới luật như thế nào để đúng để mà cai trị dân, cai trị nước để đem lại sự trật tự an ninh cho dân giàu nước mạnh. Thì cái đó là mình chỉ góp về cái đạo đức nhân quả, cái đạo đức chơn chánh của đạo Phật để cho nhà vua hiểu được cái đạo đức mà nhà vua tự làm lấy cái pháp luật mà áp dụng trong dân gian để đem lại trật tự mà thôi, chứ chúng ta không có góp ý gì về cái phần đặt ra pháp luật này, đặt ra pháp luật kia cho nhà vua. Vị tỳ kheo ấy phải từ bỏ, xa lìa đưa tin làm môi giới như trên, vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười bảy trong giới luật của đức Phật.Đó là cái giới hạnh thứ mười bảy của cái người tu theo đạo Phật.

Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường vẫn còn sống lừa đảo, nói lời xiểm nịnh, gợi ý dèm pha cầu lợi, vị ấy phải từ bỏ, viễn ly lời nói lừa đảo, xiểm nịnh như trên, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười tám trong giới luật của đức Phật.Có nhiều người họ nịnh bợ vua lắm, để làm gì, để cho vua phong chức mình cái này cái kia, đó là những vị tu sĩ như vậy không nên làm cái điều nịnh bợ đó. Hoặc là thấy người ta giàu có cúng dường tiền mình thì nịnh bợ cho nên họ đến xin xuất gia thì mau mau xuất gia liền, cho họ thọ cụ túc liền, đó là mình nịnh bợ họ. Mặc họ, chừng nào họ giới luật được rồi mới là cho họ thọ giới đàng hoàng, còn họ chưa được thì không, nhất định là không cho, dù họ là vua cũng vậy nữa chứ đừng có nói là nhà giàu. Cho nên chúng ta là một người tu sĩ phải thẳng thắn, phải cương nghị để giữ gìn mạng mạch của Phật pháp chứ không thấy người ta giàu có cúng tiền cho mình cất chùa nhiều rồi, bây giờ chùa mình sang đẹp rồi là nhờ cái ông cư sĩ đó giàu có hoặc là nhờ ông vua đó, bây giờ ổng muốn xuất gia cái vô đó cái là cạo đầu cho ổng thọ giới cụ túc liền, ổng ngồi ổng bạch ngực ổng quạt như là ông địa mà quạt như vậy đó thì thử hỏi quý thầy nghĩ sao là cái vị tu sĩ giới hạnh ở chỗ nào. Thế mà chúng ta hỉ hả rằng đó là một vị Di Lặc rồi, thì chúng ta thấy cái đó là một cái sai của đạo. Chúng ta phải mạnh dạn không có nịnh bợ vua chúa, không có nịnh nhà giàu. Chúng ta đi xin từng người ăn chớ không phải là chúng ta xin một người nào mà chúng ta sợ.

Vị tỳ kheo mặc dù dùng các món ăn do tín thí cúng dường vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà hạnh, tà nghiệp như xem tướng, coi tay, chiêm tinh, tuổi tác, tướng mạo, triệu tướng, mộng tướng, thân tướng, dấu chuột cắn, cúng bái, tế lửa, tế núi, tế sông, tế vỏ lúa, tế tấm, gạo, muối, tế thực tô, tế thực phẩm, tế máu. Tất cả những cái mà cúng tế kiểu này các con thấy có nhiều chùa người ta chiều chiều lấy gạo với muối để cúng cô hồn đó, tức là tế cô hồn đó. Đó là ở đây Phật dạy là tế gạo muối đó, tế thực tô có người lấy thực tô rồi tế thực phẩm cúng bái đồ ăn đồ uống cúng lên đó, có người lại cắt tay mình lấy máu hoặc này kia đó thề nguyền này kia đồ, đó tức là tế máu đó. Đó là những cái sai, những cái mà không đúng, những cái hạnh đó là những cái hạnh không phải là cái hạnh người tu, cho nên làm những cái đó như tế lửa tức là cúng thần lửa, tế núi tức là cúng núi, cúng thần núi, tế sông tức là cúng thần sông tức là cúng hà bá, thủy long ở dưới nước, đó là cúng những cái thần ở dưới đó. Cúng vỏ lúa, hồi đó Thầy nghe nói cái vỏ lúa lớn lắm và lúa khi mà nó chín rồi thì nó lăn về người ta khỏi có cắt gặt cho nên bây giờ người ta nhớ như vậy đó mà người ta đem cái vỏ lúa, không biết là cái vỏ cây người ta tiện ra cái vỏ lúa, y như cái vỏ lúa người ta để đó người ta thờ rồi người ta cúng bái người ta nói hồi đó cái vỏ lúa hồi xưa như vậy. Nhưng sự thật ra Thầy nghĩ chắc không có điều đó đâu, người ta tưởng tượng ra như vậy, rồi cúng tấm tế gạo muối, đó là những cái mà hiện bây giờ chúng ta cũng còn những cái ảnh hưởng đó, mà trong đạo Phật dạy chúng ta những cái hạnh của người tu là không được làm những cái điều đó. Thế mà bây giờ ở trong chùa chúng ta thấy cũng có đem gạo muối tế cúng cô hồn các đảng. Quyến rũ ba con ma nó đến rồi nó khua chén khua bát ở trong chùa nói là quỷ chùa nó dậy, sự thật ra mình rủ nó đến nó chẳng khua chén khua bát của mình thì làm sao mà không dậy, tại vì mình đem cho nó mình kêu nó về nó ở nó chẳng phá mình, còn như ở chỗ Thầy, Thầy không kêu nó làm sao có rung chuông nó, lúc nồi nó có lúc lắc chén bát ở đâu, cho nên ở đây chẳng có quỷ chùa chút nào hết, mà chẳng có cô hồn các đảng nào hết. Bởi vì Thầy là một người tu Thầy không gần những cái thứ đó, Thầy không cầu nó, Thầy không cúng nó, cho nên nó đâu có dám lại đây, còn cái chỗ nào mà mê nó thì cứ mời thỉnh nó thì nó phải tới, nó tới rồi không cho nó ăn thì nó khua chén khua bát nó làm cho sợ, sợ đặng cho đem cơm đem muối cho nó ăn, đem gạo.

Khoa xem tay, xem nốt ruồi,có người thì xem nốt ruồi, cha, nốt ruồi này làm quan, nốt ruồi này làm tướng, nốt ruồi này làm tôi tớ, nốt ruồi này nghèo khổ nè... làm cho mấy bà hoảng hồn đi, mới đem cắt đốt, mới làm cho đau khổ người ta. Nói tầm bậy tầm bạ. Trong da thịt của mình là vô thường có gì đâu mà phải nói là tướng này tướng kia tướng nọ trong đó.

Khoa xem địa lý, khoa xem mộng, khoa cầu thần ban phước, khoa cầu quỷ ma, yếm đối trùng tang, yếm đối ma quỷ thần trùng, có thần trùng nữa, đủ thứ hết.Yếm đối nhà cửa mả mồ, dùng khoa trị rắn thuốc rắn, dùng khoa thuốc độc khoa trị bò cạp đoán số mạng cầu khẩn ngăn ngừa tai nạn, khoa biết chim nói chuyện. Đó tất cả những cái khoa như vậy, vân vân,... thì đức Phật đã cấm người mà tu cái giới hạnh của Phật thì không được làm những cái điều mà đã kể ở trên.

Vị tỳ kheo ấy phải tránh xa từ bỏ tà hạnh nghiệp đã kể trên như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười chín trong giới luật của đức Phật.Đó là giới hạnh thứ mười chín trong giới luật của đức Phật là không được làm những cái nghề nghiệp, những điều mà cái hành động làm như vậy tức là sai, không có đúng, đó là nuôi cái tà mạng của chúng ta. Cái tà nghiệp đó nuôi cái tà mạng. Vị tỳ kheo ấy phải tránh xa.

Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường vẫn còn nuôi sống bằng những tà nghiệp như làm nghề xem ngọc báu, đó mấy cái người mà bán ngọc này kia, mình đem ngọc tốt đến họ xem coi ngọc này thứ thiệt hay thứ giả đó, đó là cái nghề xem ngọc báu đó, xem tướng que gậy, xem tướng áo quần, xem tướng gươm kiếm, xem tướng mũi tên, xem tướng cây cung, xem tướng võ khí, xem tướng đàn bà, xem tướng đàn ông, xem tướng thiếu niên, thiếu nữ, tướng đầy tớ nam, tướng đầy tớ nữ, tướng voi, tướng ngựa, tướng bò đực, tướng bò cái, tướng dê, tướng cừu, tướng gia cầm, tướng chim cun cút, tướng con tắc kè, tướng vật tai dài. Tất cả những cái tướng này hầu như người ta xem, các thầy thấy có người họ coi bò, trâu hoặc là ngựa, họ coi xoáy coi bướm đó, coi con ngựa này có cái xoáy này con ngựa hay, con ngựa dở, con bò này nó có cái xoáy này con bò này ăn thịt chứ còn nó cày ruộng không được, đó là tất cả những điều kiện đó có nhiều người họ rành về bướm xoáy dữ lắm cho nên họ coi tướng bò, tướng trâu, tướng ngựa là coi như vậy đó. Còn ở đây thì tất cả những cái này đức Phật đều là cấm không cho người tu sĩ, giao qua cái giới hạnh của người tu sĩ không có được hành động, không có được làm những cái nghề nghiệp đó như vậy. Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai mươi trong giới luật của đức Phật.Thì chúng ta thấy cái giới hạnh mà không có coi tướng coi này kia của người này, người kia hoặc là coi tướng bò, tướng trâu, tướng thú vật như ở trên đã kể thì đó là cái giới hạnh thứ hai mươi trong giới luật của đức Phật.

Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn nuôi sống bằng những tà nghiệp như đoán trước vua sẽ tiến quân, vua sẽ lui quân, vua bản xứ sẽ tấn công, vua ngoại bang sẽ triệt thoái, vua bản xứ thắng trận, vua ngoại bang thất trận, vua bản xứ bại trận, vua ngoại bang thắng trận, như vậy sẽ có sự thắng bại, sẽ có sự thắng trận cho phe bên này, sẽ có sự bại trận cho phe bên kia. Vị tỳ kheo này phải từ bỏ, từ giã những tà nghiệp như kể trên.Đó là cái phần mà khi mà có chiến tranh rồi đó, thì mấy ông thầy chùm nhum lại mà bàn tính với nhau, ông vua này thắng á ông vua kia thắng á. Cũng như trong thời chiến tranh các con thấy không, Mỹ nó nay đem quân nó qua đánh mình á, chắc nó thắng á vũ khí nó quá trời nó bỏ bom ở Hà Nội tiêu hết rồi. Đó là mấy ông thầy ngồi bàn chuyện với nhau như vậy đó thì các thầy thấy rằng trong cái vấn đề đó là không phải vấn đề để chúng ta bàn, chúng ta là người tu sĩ phải giữ gìn cái hạnh, trường hợp nó xảy ra mặc nó, ai làm gì làm chúng ta chẳng biết hết. Còn mình bàn như vậy nó có lợi ích gì cho mình không, mình có đem lại cái gì lợi ích cho mình không?(BBT:CĐ,18A,E00:43:02) Nếu mình muốn bảo vệ Tổ quốc của mình thì mình phải khoác cái áo chiến trận ra, cởi chiếc áo tu sĩ chúng ta ra rồi chúng ta sẽ làm công chuyện bổn phận của người dân để bảo vệ đất nước, thì hơn là mình ngồi đó rồi là Mỹ thắng,(BBT:CĐ,18B,B00:00:00) là Tây thắng, là Việt Cộng thắng, là Việt Minh thắng. Điều đó là điều đâu có đúng, cho nên vì vậy mình ngồi bàn, mấy ông thầy chùa ngồi với nhau bàn thắng trận, bàn này kia đủ cách đủ loại cho nên vì vậy đó là những cái sai.

Chúng ta muốn làm cái gì thì chúng ta phải làm cho ra nấy, là một tu sĩ chúng ta không có được nói đến vấn đề đó. Mà chúng ta muốn làm bổn phận người công dân thì chúng ta phải dẹp cái áo cà sa xuống đi, mặc chiếc áo chiến bào lên để mà chúng ta ra trận chiến đấu để dẹp giặc thì như vậy đâu nó ra đó, còn bây giờ mặc chiếc áo này là cái hạnh chúng ta phải đàng hoàng chứ không được ở đó mà nói rằng cái này cái nọ cái kia. Làm cái gì nó ra cái nấy, cho đúng. Chớ còn mặc chiếc áo này mà xiên xẹo nói bên đây bên kia rồi hùa bên đây bên kia cuối cùng mai mốt đi ở tù, ở tù không có giá trị gì hết hà, thà là mình đi chiến đấu mình ở tù nó có giá trị, mình dẹp giặc mình bảo vệ đất nước của mình nó có giá trị. Còn giờ mình nói cái chuyện tào lao như vậy chúng còng đầu mình nó bỏ tù, nói mấy ông thầy chùa này làm chính trị mà có làm chính trị đâu, nói miệng không hà mà bị ở tù, oan ức không? Đó là cái giới luật, cái giới hạnh của Phật cấm chúng ta là đúng chớ không phải là sai, nhưng tại chúng ta không có học cái giới hạnh cho nên từ đó cái miệng của chúng ta nó đi đến cái sai lệch của nó, nó làm chúng ta lạc đường, lạc cái hạnh của người tu.

Như vậy là giới hạnh của vị tỳ kheo thứ hai mươi mốt trong giới luật của đức Phật.Bởi vậy ở đây Thầy dạy cái nào nó ra cái nấy rất rõ ràng, chúng ta là người như thế nào chúng ta phải làm đúng như thế nấy, người tu sĩ phải làm đúng người tu sĩ, mà chúng ta muốn làm một bổn phận người công dân thì chúng ta phải khoác áo người công dân chúng ta làm bổn phận của người công dân đất nước đó, chứ không phải là mang chiếc áo của tu sĩ mà làm bổn phận người công dân thì không đúng. Mặc dù chúng ta biết chúng ta là người công dân nhưng mà chúng ta đã khoác chiếc áo này lên thì cái oai nghi tế hạnh của một người tu sĩ chúng ta phải hẳn hòi của nó, chứ không thể nào mà lầm lạc được, bởi vì Phật dạy nó quá rõ ràng nó không thể nào lầm cái này qua cái kia được.

Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà nghiệp như đoán trước sẽ có nguyệt thực, sẽ có nhật thực, sẽ có tinh thực, mặt trăng mặt trời sẽ đi đúng chánh đạo, mặt trăng mặt trời sẽ đi ngoài chánh đạo, sẽ có sao băng, các tinh tú sẽ đi đúng chánh đạo, các tinh tú sẽ đi ngoài chánh đạo, sẽ có sao băng, sẽ có lửa cháy, phương hướng sẽ có động đất, sẽ có sấm sét, mặt trăng, mặt trời, các vì sao sẽ mọc, sẽ lặn, sẽ mờ, sẽ sáng, nguyệt thực sẽ có kết quả như thế này, nhật thực sẽ có kết quả như thế kia. Những điều trên đây vị tỳ kheo cần phải tránh xa, cần phải từ bỏ, không được lấy những nghề nghiệp này nuôi sống tà mạng. Như vậy là giới hạnh của vị tỳ kheo thứ hai mươi hai trong giới luật của đạo Phật.

Đó chúng ta biết là mặc sức chúng ta là người tu sĩ, đây là Thầy nói đơn sơ thôi chúng ta không làm cái nghề đó nhưng mà nghe nói nhật thực nguyệt thực là chúng ta cũng chạy ra mà xem mặt trời mặt trăng ăn, mặc tình nó ăn gì nó ăn kệ nó ăn thua gì giới hạnh của chúng ta. Chúng ta là những người tu không có để ý đến cái hiện trạng xảy ra của trên trái đất này, nó làm gì thì kệ trong cái vũ trụ này mặc tình nó làm gì làm. Còn cái này nghe người ta nói nhật thực cái mình cũng chạy ùa theo, cũng đi xem nhật thực, rồi nghe nguyệt thực cũng chạy ùa theo, nghe nói sao băng nó sẽ rớt ở trên quả địa cầu ôm nhau mà khóc mà ráng mà tu để cho nó thoát chết. Thử hỏi người tu sĩ mà như vậy cái hạnh là như thế nào, cái giới hạnh là như thế nào, cho nên tâm luôn luôn lúc nào cũng dao động thì làm sao mà gọi là giới hạnh? Bị dao động trước mọi hiện tượng xảy ra của vũ trụ, bị dao động trước những hiện tượng của con người ở trên thế gian này thì làm sao mà tâm chúng ta an ổn được? Cho nên tất cả những cái này chúng ta đã không hành nghề này mà chúng ta còn phải dẹp cái tâm dao động bằng cái giới hạnh của chúng ta, như vậy là chúng ta mới là những người tu sĩ của đạo Phật. Đó thì hôm nay được nghe giảng được nói cho rõ từng chút từng chút để quý thầy thấy cái tâm của chúng ta không dao động trước cái hiện tượng của thiên nhiên chớ không phải là chúng ta bị dao động nó đâu.

Đây Thầy xin nhắc lại một câu chuyện để cho quý thầy thấy, trong một giáo đoàn của đức Phật 1500 vị tỳ kheo, sau khi đi đến một cái bờ sông đó thì trong khi trời tối cho nên không thể qua sông được, cho nên tất cả các đoàn tu sĩ đều là nằm ở trên cái bờ sông, nằm dựa theo bờ sông, nằm láng ở trên bờ sông và thậm chí như trong khu rừng nữa. Nửa đêm bắt đầu nước dâng lên ngập, nó ngập rồi chúng hoảng hồn hoảng vía nhao nhao hết, đức Phật mới ra lệnh cho một vị tỳ kheo, ông phải ngăn nước lại không có được cho nước tràn vô để chúng tỳ kheo ngủ sáng ra đi. Thì cái vị tỳ kheo đó mới thực hiện chận đứng nước lại, nước dâng lên cao mà không tràn vô, chúng tỳ kheo ngủ im rơ, sáng ra thì vị đó đưa chúng tỳ kheo đi hết rồi mới xả cho nước đi. Thì các thầy thấy trong cái thời đức Phật, đức Phật ra lệnh cái vị nào làm cái phận sự nấy khi mà không có để chúng tỳ kheo nhôn nhao trong cái trước mà thiên tai, trong cái trước nạn nước lụt nước trôi cho nên đi ở trong cái giáo đoàn của đức Phật sự thật ra thì đức Phật đã bảo vệ chúng tỳ kheo rất là nghiêm chỉnh không có để mà dao động trước cái hiện tượng của vũ trụ, của thời tiết.

Đọc qua câu chuyện đó Thầy thấy thật ra thì cái vị đó nói lên cái chỗ mà đức Phật sai thì vị đó mới làm, nhưng mà sau khi vị đó làm rồi thì chúng tỳ kheo biết là vị đó đã có thần thông đến mức độ như vậy thì lúc bấy giờ vị đó đã rời khỏi khu vực đó liền tức khắc, không có đi ở trong đoàn chúng đó nữa. Nhưng mà đó là cái việc bất đắc dĩ để tạo cho chúng tỳ kheo được yên ổn nằm ở trên bờ sông mà không sợ nước cuốn trôi. Nửa đêm nước dâng lên, tràn lên làm cho chúng hoảng hồn hết, do đó đức Phật ra lệnh ông hãy ra ông ngăn nước lại không có được cho nước tràn thì vị tỳ kheo đó dùng thần thông ngăn nước lại không cho tràn, tất cả các chúng tỳ kheo đều nằm yên khô ráo không có một giọt nước. Thì các thầy thấy trong lúc thời bây giờ trong thời đức Phật là như thế nào, không phải là cái thần lực của đức Phật đến mức độ mà đức Phật không dùng thần lực của mình, sai người đệ tử của mình thôi. Để tới những cái vấn đề đó Thầy sẽ nhắc lại cái vị cao tăng đó tên gì họ gì để cho quý thầy biết.

Vị tỳ kheo cần phải tránh xa, từ bỏ các tà nghiệp như kể trên như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai mươi ba trong giới luật của đức Phật.Hồi nãy hai mươi mấy rồi con, hai mươi hai phải không? Như vậy là Thầy chưa có đọc cái đoạn này, cái giới hạnh hai mươi ba.

Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà nghiệp như đoán trước sẽ có mưa nhiều, sẽ có đại hạn, sẽ có được mùa, sẽ mất mùa, sẽ được an ổn, sẽ bị bệnh, bị hiểm họa, sẽ có những bệnh ôn dịch, sẽ có bệnh này bệnh khác, hay làm nghề như đếm trên ngón tay, tính số, đoán quẻ âm dương, kế toán, làm sổ sách, làm thư ký, làm theo các nghề của thường tình thế gian.Nghĩa là từ cái chỗ mà đoán cái nghề nghiệp, đoán mưa nhiều mưa ít, rồi xem bệnh ôn dịch, bệnh nào là bệnh đậu mùa, hoặc là như làm nghề mà đếm ngón tay, tính sổ sách, rồi toán quẻ âm dương, hoặc là làm sổ sách như làm thư ký, hoặc là làm các nghề của thế gian khác thì tất cả những nghề nghiệp này đức Phật cấm luôn không cho làm. Như vậy đó là cái giới hạnh thứ hai mươi ba trong giới luật của đức Phật. Vị tỳ kheo cần phải tránh xa, từ bỏ tà nghiệp như kể trên như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai mươi ba trong giới luật của đức Phật.

Đó thì những giới hạnh mà Thầy kể ra các thầy có thấy ở trong giới luật của đức Phật không? Không có. Trong giới bổn của Phật không có nói, nhưng mà ở đây kể rất kỹ những giới hạnh, bởi vì đây là những cái mà chúng ta lầm lạc cho nên có nhiều người làm thầy thuốc, có nhiều người làm châm cứu, có nhiều người làm cái chuyện mà họ tưởng đó là chuyện đúng, nhưng mà sự thật đó là cái chuyện sai, cái chuyện không đúng. Có nhiều người làm thầy cúng, thầy bái, có nhiều người làm đủ loại hết người ta vẫn cho đó là trong đạo Phật. Mà nhan nhản là hình ảnh đó trong đạo Phật chúng ta rất nhiều, mà cái giới hạnh thì không ai dạy hết cho nên người ta không biết đâu mà người ta cho nên hễ nói đến họ thì họ nói giới luật không có nói những điều đó, bởi vì giới bổn thì đâu có nói cái điều đó nhưng mà cuối cùng thì giới hạnh rất là đầy đủ, rất là rõ ràng.

Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn tự mình nuôi sống bằng những tà nghiệp như chọn ngày lành để rước dâu hay rể về nhà, chọn ngày lành để đưa dâu hay rể, lựa ngày giờ tốt xấu để hòa giải, để đi thưa kiện, lựa ngày giờ tốt xấu để chia rẽ, lựa ngày giờ tốt xấu để đòi nợ, lựa ngày giờ tốt xấu để cho mượn, cho vay tiền tiêu tiền, lựa ngày giờ tốt xấu để mà xuất hành, nhập gia, ăn tân gia, lựa ngày giờ tốt xấu đi buôn, đi kiện thưa tụng gởi, lựa ngày giờ tốt xấu an táng trừ linh trừ thần...Có không? Ở đời chúng ta thấy cái đó là nó quá nhiều mà ở trong kinh giới của Phật thì nó không có, mà giới hạnh của Phật thì Phật đã dạy chúng ta rất là đầy đủ. Cho nên tất cả những cái điều mà chúng ta làm như vậy đó là cái hạnh của chúng ta sai, của người tu sĩ sai. Cho nên chúng ta không có nên làm những điều đó.

Đó thì chúng ta đã học tới đây là chúng ta không có chọn ngày giờ tốt xấu bằng cách này bằng cách khác mà hầu như là hiện giờ mà tu sĩ của chúng ta trong chùa thì hầu hết là luôn luôn lúc nào, mà chính bản thân của Thầy đây nghĩa là người ta đến đây người ta nhờ Thầy phải coi ngày tốt xấu, coi ngày ăn tân gia, coi này kia, thiệt là một cái điều kiện mà Thầy thấy không có làm mà họ năn nỉ thế này thế khác, họ nói Thầy thế này thế khác đủ thứ hết, cho nên Thầy thấy đó là một cái điều kiện không phải là người tu sĩ. Mà không làm những điều này cho thỏa mãn họ thì họ nói mình tu sĩ không có giúp đỡ họ cái gì hết, không có làm gì cho Phật tử hết. Người Phật tử nào mà gọi là ruột nhất là đòi hỏi nhất cái này nè, họ nói Thầy coi 1000 lần trúng 1000 lần, cái gì nó hay vô cùng á, nói đâu có đó, coi ngày tốt là tốt mà coi ngày xấu là xấu, họ tin như vậy lận, cho nên Thầy thấy điều đó là một cái điều thiệt là điều nó không đúng người tu sĩ của đạo Phật lúc nào hết.

Dùng bùa chú để giúp đỡ người buôn bán, làm ăn may mắn, dùng bùa chú để khiến người gặp tai nạn rủi ro, dùng bùa chú yếm nhà cửa, phá thai, dùng bùa chú khiến cho người ta cóng lưỡi, khiến cho quai hàm cử động, khiến cho tay chân múa men nhảy nhót như điên khùng, dùng bùa chú khiến người đưa tay lên xuống, dùng bùa chú khiến người bị điếc, dùng bùa chú hỏi gương, dùng bùa chú hỏi đồng cốt thiếu nữ, hỏi tà ma, hỏi quỉ thần về tật bệnh, về tai nạn của con người, dùng bùa chú đi hỏi thần thiên thần để biết họa phước, thờ thần mặt trời, thần đất, thần núi, thần lửa, thần tài và cầu si ri thần tài để mang đến tài lợi cho gia chủ.Nghĩa là ông thầy đó ổng dùng bùa chú, dùng thần chú để đọc để thần núi thần sông thần lửa để đến hoặc là thần tài si ri cũng đến để mà đem lại cái lợi cho gia chủ mà người đó rước ông thầy đến để mà rước thần rước này kia. Đó là những điều kiện như vậy là đức Phật cũng cấm không có cho chúng ta thực hiện những hành động, làm nghề nghiệp như vậy. Vị tỳ kheo cần phải tránh xa từ bỏ những nghề nghiệp không chơn chánh ở trên như vậy làgiới hạnh của vị ấy thứ hai mươi bốn trong giới luật của đức Phật.Đó là đừng có dùng bùa chú, đừng có dùng thần chú mà rước thần, kêu thần, kêu thánh đến để mà gia hộ phù hộ cho gia chủ của mình được giàu sang, được hạnh phúc thì cái điều đó là cái điều mà đức Phật cấm các vị đệ tử của ngài không có được làm, đó là những tà hạnh chứ không phải là cái giới hạnh của người tu sĩ đạo Phật, đó là thứ hai mươi bốn.

Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn tự nuôi sống bằng tà nghiệp như dùng chú thuật để gạt người, để tìm đất tốt làm nhà, để cầu phước cho nhà mới, làm lễ cúng bái, làm lễ tắm, lễ hy sinh, làm thuốc nôn mửa, làm thuốc bài tiết xổ, tẩy tịnh trong đầu, thoa dầu trong lỗ tai lỗ mũi, nhỏ mắt lỗ tai lỗ mũi, chữa mắt chữa tai chữa mũi, làm thầy thuốc, thầy mổ xẻ, thầy chữa bệnh con nít, làm thầy thuốc nam cho uống bằng rễ cây lá cây,...Tất cả những cái này Phật cũng cấm chúng ta là những người tu sĩ không được làm tất cả những cái nghề mà thầy thuốc như vậy. Dù là mắt tai mũi miệng thân ý của người ta đau bệnh gì thì đi đến ông thầy nào chuyên môn người ta chữa chứ mình làm ông thầy tu rồi hoàn toàn là không làm cái điều đó, mà chỉ lo làm sao mà giữ cho đúng những giới hạnh để mà tu cho được giải thoát là điều quan trọng nhất. Chớ làm chuyện đó rồi người ta thấy ông thầy tu thành ra ông thầy thuốc rồi, người ta thấy ông thầy tu thành ra ông thầy bùa rồi, người ta thấy ông thầy tu thành ra ông thầy trị mắt rồi, người ta thấy ông thầy tu thành ra ông thầy thuốc nam rồi. Ờ ông thầy chùa nay thành ông thầy thuốc nam rồi, trời ơi ổng đi chặt rễ cây rễ rừng ổng vác cả đống đống về đây, bà con mình xuống đến đó mà có đau bệnh ổng cho mình chớ gì, tức là trở thành ông thầy thuốc nam, rồi trở thành ông thầy chữa mắt, rồi trở thành ông thầy mổ xẻ bằng cách này bằng cách khác. Cuối cùng ông thầy tu, ông thầy giải thoát mà không giải thoát, mà vây quanh bao nhiêu cái nhân quả nghiệp báo của chúng,chúng ta làm sao mà giải quyết được cái nghiệp báo đó, chỉ có hành động tu đúng giới luật của chúng ta là mục đích là giải thoát được cái nhân quả nghiệp báo để cho người ta nương theo đó mà hết.Còn bây giờ mình chặt lá cây lá cối cho người ta uống bớt đó, mai mốt cái nghiệp người ta còn nữa chứ đâu phải hết, cho nên càng uống thấy bệnh càng nhiều. Nếu mà hết thì bây giờ nhà thương đâu có bệnh nhân, mà thế mà uống thuốc càng nhiều, thầy thuốc càng nhiều tại sao bệnh nhân lại đống đống như vậy, à, quý thầy thấy không, chúng ta trị cái bệnh mà không trị ở cái gốc mà cứ trị ở cái ngọn làm sao cho nó hết? Do cái gốc nhân quả mà chúng ta không trị được cái bệnh gốc nhân quả mà đi trị cái ngọn thì làm sao cho hết bệnh nhân của thế gian này? Biết bao nhiêu người tốt nghiệp ở trong các trường y khoa mà rồi thế gian này bệnh vẫn bệnh, mà có nhiều cái bệnh bây giờ gọi là những cái bệnh mà không có thuốc trị nữa, chết biết bao nhiêu người. Bệnh gì? Bệnh Sida bệnh gì đó, Thầy chả biết nhưng mà Thầy nghe nói cái bệnh đó bây giờ không có thuốc trị. Thầy thuốc đông quá mà bây giờ trị bệnh không nổi rồi, chịu thua nó rồi, cuối cùng thì càng ngày Thầy thấy các bệnh trạng nó càng có những cái bệnh khó hơn nữa. Do đó chúng ta phải từ ngay cái gốc, mà từ ngay cái gốc đó là những giới hạnh của người tu sĩ đó là trị ngay cái bệnh gốc, thế mà chúng ta không trị ngay cái bệnh gốc của mình mà cứ đi dùng thuốc thang trị ở ngoài ngọn lá làm sao cho hết? Cho nên đối với người tu sĩ có bệnh có sợ không? Bệnh cùi mà người ta rớt từng ngón tay kia mà người ta còn không sợ, người ta đặt cái thọ khổ trước mặt, người ta tu cái Định Vô Lậu người ta quét sạch, người ta giải thoát, các thầy không thấy điều đó, còn bệnh quý thầy có ăn nhằm nhò gì mà mỗi chút là mỗi rên, mỗi chút là mỗi sợ. Đối với người tu sĩ của đạo Phật giới hạnh chúng ta nghiêm chỉnh thì chúng ta chẳng sợ trước cái thọ nào hết.Cho nên trong một đêm bị cảm lạnh mà Thầy chỉ cần ngồi trên bồ đoàn nhiếp tâm trong hơi thở, hoàn toàn thắng được cái cơn cảm lạnh. Thì có gì đâu các thầy thấy rất rõ, chúng ta đừng có sợ hãi cái thọ mà chúng ta chiến đấu nó bằng cái sức lực tinh thần của chúng ta thì chúng ta sẽ qua tất cả mọi cái. Thọ làm sao giết chúng ta được, nhân quả làm sao hại chúng ta được khi mà chúng ta chuyển nó? Đó là cái chỗ mà chúng ta phải đi về tận cái gốc mà trị, còn bây giờ chúng ta cứ làm cái nghề này là trị cái ngọn của thiên hạ chứ làm sao chúng ta trị cái gốc? Cho nên đức Phật cấm không có cho những hành động của tu sĩ chúng ta làm những cái nghề đó. Vị tỳ kheo cần phải tránh xa, từ bỏ những tà nghiệp không chơn chánh đối với người tu sĩ đạo Phật, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai mươi lăm trong giới luật của đức Phật.

Đó thì bắt đầu chúng ta thấy trong cái sự tu tập của chúng ta mà đến cái chỗ này chúng ta thấy cái giới hạnh hai mươi lăm của chúng ta là đức Phật đã cấm chúng ta không cho làm nghề thầy thuốc đó, dù thuốc nam thuốc bắc thuốc tây thuốc gì cũng không cho hết, cấm bặt chúng ta phải thực hiện cái ông thầy thuốc trị cái bệnh gốc chứ không phải trị cái bệnh ngọn, còn quý thầy mà làm thầy thuốc thì đó là quý thầy đã trị cái bệnh ngọn chứ không phải trị cái bệnh gốc, bởi vậy đức Phật gọi là “y vương”. Y vương là ông vua thuốc mà trị thì trị cái bệnh gốc của chúng sanh chứ không phải trị cái bệnh ngọn của chúng sanh.

Vị tỳ kheo nhờ giữ giới hạnh không làm những tà nghiệp không đúng hạnh nghiệp của người tu sĩ, nhờ đầy đủ giới hạnh luật nghi nên vị tỳ kheo ấy không thấy sợ hãi từ một phương diện nào của sự giữ gìn hộ trì giới luật.Đây quý thầy thấy cái câu chỗ này, 25 cái hạnh, cái giới hạnh của người tu sĩ thì chúng ta đức Phật đã kết luận 25 giới hạnh như thế nào? Nếu mà chúng ta giữ tròn những giới hạnh đó thì dù trước cái sợ hãi nào chúng ta cũng chẳng sợ hãi hết. Đây Thầy đọc lại cho quý thầy thấy câu kết luận của Phật trong kinh rất rõ: Vị tỳ kheo nhờ giữ giới hạnh không làm những tà nghiệp không đúng hạnh nghiệp của người tu sĩ, nhờ đầy đủ giới hạnh luật nghi nên vị tỳ kheo ấy không thấy sợ hãi từ một phương diện nào. Không có sợ từ một phương diện nào đến, thì vị đó không bao giờ sợ hãi nghĩa là giới hạnh nó hộ trì vậy đó, không bao giờ sợ trước cái sống chết của vị đó mà giới hạnh nó cũng sẽ làm cho vị đó không sợ hãi. Sự giữ gìn hộ trì giới luật này nghĩa là với sự giữ gìn hộ trì mà đúng cách của giới hạnh này thì quý vị không bao giờ có sợ hãi, trong khi quý vị sắp sửa chết quý vị cũng chẳng sợ hãi nữa, mà nếu quý vị mà không thực hiện được giới hạnh này thì quý vị luôn luôn là lúc nào quý vị cũng sợ hãi hết.

Vị ấy nhờ giới hạnh luật nghi cao quý này nên hưởng thọ lạc, nội tâm thanh tịnh không còn si ám, đó là tỳ kheo đầy đủ giới hạnh luật nghi.Đây là giới hạnh luật nghi, là 25 cái điều giới hạnh này, mà chúng ta giữ trọn đầy đủ thì chúng ta không còn si ám, nội tâm chúng ta thanh tịnh và cái hạnh luật nghi này nó làm chúng ta có một cái thọ hường lạc rất là đầy đủ, nó làm chúng ta an ổn rất là đầy đủ, cho nên trước những đối tượng trước những cái gì chúng ta cũng chẳng sợ hãi, cho nên gọi là nên hưởng thọ lạc. Bây giờ Thầy đọc lại câu này của Phật ở trong kinh, Phật nói rất rõ: Vị này, vị ấy nhờ giới hạnh luật nghi cao quý này nên hưởng thọ lạc, nghĩa là giữ gìn cho nó trọn vẹn, thì vị ấy rất là thọ lạc,nội tâm thanh tịnh không còn si ám, đó là tỳ kheo đầy đủ giới hạnh luật nghi,tức là giới hạnh cụ túc đó, giới hạnh đầy đủ, như hồi nãy Thầy nói giới hạnh đầy đủ như thế nào đó, giới hạnh đầy đủ như thế nào, thì đây là kết luận để chúng ta thấy giới hạnh đầy đủ luật nghi là do cái chỗ chúng ta giữ gìn sống đúng những cái hành động của chúng ta, 25 cái giới hạnh đó.

Đó thì như vậy chúng ta đã học được 25 giới hạnh của một người tu sĩ tức là học 25 cái oai nghi tế hạnh của một cái người tu sĩ khi bước chân vào đạo là chúng ta phải hiểu cái giới hạnh đó. Đây là phần sơ thiện, nghĩa là cái phần mà giới hạnh này đức Phật được xem nó là cái phần sơ thiện mà Đức Phật đã từng nhắc nhở các vị tỳ kheo, các vị đệ tử của mình. Đây là phần sơ thiện mà đức Phật thường nhắc đi nhắc lại cho các đệ tử của mình để tránh xa những tà nghiệp mà luật nghi răn cấm, không cho vi phạm. Vì vi phạm những luật nghi này thì người tu sĩ khó mà đạt được mục đích giải thoát chân chánh của đạo.

Đó thì quý thầy phải nhớ kỹ trong cái vấn đề luật nghi về cái giới hạnh này được xem như là sơ thiện của đạo Phật chứ chưa phải là trung thiện, chưa phải là hậu thiện đâu. Còn trung thiện và hậu thiện nó còn cao siêu hơn nữa, bởi vì cái trung thiện nó là giới đứchậu thiện nó là giới tuệ, nó phân ra từng chút từng chút rất rõ, còn sơ thiện đó là cái phần giới hạnh của chúng ta. Bởi vì đạo Phật là đạo thiện, đạo thiện pháp cho nên nó đứng ở trong giới luật chúng ta phân ra chỗ nào là thiện chỗ nào là không thiện, chúng ta thấy rất rõ. Nếu mà chúng ta đi ngược lại 25 giới này là không thiện, tức là không phải sơ thiện của chúng ta đâu.

Đây chính là phần giới hạnh của người tu sĩ đạo Phật, các thầy phải cố tránh và giữ gìn cho nghiêm túc để viên mãn thành ly dục ly ác pháp trong giới hạnh của Phật.Nghĩa là trong cái sơ thiện này mà quý vị đã giữ gìn được nó thì quý vị đã ly dục ly ác pháp trong cái giới hạnh đó, chứ không phải là ly dục ly ác pháp ở trong thiền định mà nhập sơ thiền đâu, mà đây là ly dục ly ác pháp ở trong giới hạnh, quý vị phải hiểu ở chỗ ly dục ly ác pháp ở trong giới hạnh, nó không phải là ly dục ly ác pháp để nhập sơ thiền, hai cái này nó khác. Phải hiểu ở chỗ dùng để mà hiểu nó bởi vì trong khi mà chúng ta thực hiện các hạnh như vậy tức là chúng ta phải có sự ly dục, có sự hàng phục, có sự khắc phục trong cái tâm ham muốn của chúng ta. Do cái chỗ đó thì chúng ta mới ly tất cả ác pháp mới ra. Cho nên ly dục ly ác pháp ở trong giới hạnh của đức Phật là ở trong sơ thiện của nó. Nếu quý vị không gìn giữ đúng giới hạnh này thì con đường tu tập theo đạo Phật của quý vị chỉ hoài công mà biến quý vị thành trùng trong lông sư tử, trở lại giết sư tử chết, cũng như bao thế kỷ nay trùng trong lông sư tử đã giết sư tử chết mà ai ai cũng không ngờ. Nghĩa là người ta không có ngờ rằng con sư tử đã chết mất rồi, mà người ta cứ tưởng rằng con trùng đó là sư tử nhưng mà không ngờ toàn là thứ trùng ở trong lông sư tử.

Đến đây là giai đoạn phần giới đức của người tu sĩ. Đây là phần mà Thầy dạy tiếp kỳ sau đó, dạy tiếp cho quý thầy là phần giới đức của người cư sĩ của đạo Phật, cần phải trau dồi tu tập, từng phút, hàng phút, hàng giây không được biếng trễ. Tới giai đoạn mà giới đức thì quý vị tu tập trau dồi nhiều hơn còn cái phần kia là quí vị phải dứt bỏ và sống cho đúng những cái hành động của mình ở trong cái sơ thiện, ở trong cái giới hạnh của nó, là cái phần này nó ít có sự tu tập trau dồi mà phải sống, sống cho đúng, phải tập sống cho đúng, phải dứt bỏ những cái ác để cho chúng ta sống đúng thôi. Còn cái phần giới đức thì trau dồi tu tập hết sức à, cái phần này là cái phần quan trọng chứ không phải là cái phần đó, cho nên đến cái phần giai đoạn giữa này, giới đức thì chúng ta là cái phần rất là quan trọng.

Phần giới hạnh là phần dứt bỏ, nay Thầy giải thích thêm để chúng ta biết, phần giới hạnh là phần dứt bỏ, phải từ giã không làm không làm nữa, phần này là phần giữ gìn cảnh giác nghiêm nhặt không được mọi hành động vi phạm, dù một sự việc rất nhỏ cũng không được lầm lạc. Đó thì cái phần giới hạnh là phần dứt bỏ còn cái phần giới đức là cái phần tu tập trau dồi, hai cái phần này nó có hẳn hòi là nó phải có những pháp hành của nó như thế nào để mà chúng ta thấy biết rõ ràng. Cho nên phần nào mà dứt bỏ thì cái phần giới hạnh là cái phần dứt bỏ cho nên ở trong đầu chúng ta cứ nghe cái phần mà chúng ta nhắc đi nhắc lại đó là phải dứt bỏ, phải từ giã, phải xa lìa đó, đó là cái phần dứt bỏ đó, cho nên mỗi cái hành động đó, bởi vì bây giờ mình muốn làm cái nghề thầy thuốc thì cần mình phải dứt bỏ chứ mình cứ mình làm thầy thuốc mà mình không dứt bỏ thì làm sao dứt bỏ? Bây giờ tu tập làm sao mà hết làm thầy thuốc đây, phải không? Cứ vác rựa vô rừng chặt rễ cây, chặt cây về cứ vạt, rồi hốt cho người ta, thì giờ mình chỉ cần dừng lại đừng có, thì đó là dứt bỏ, mà cứ chặt vạt hoài hốt hoài thì làm sao mà dứt bỏ. Cho nên cái phần giới hạnh là cái phần dứt bỏ chớ không phải là cái phần tu tập, cho nên cái sơ thiện của đạo Phật dạy là cái phần mà dứt bỏ chứ không phải phần tu tập phần trau dồi đâu. Đó như vậy thì chúng ta thấy được cái phần nào dứt bỏ cái phần nào tu tập cái phần nào trau dồi, còn cái phần giới đức là cái phần tu tập và phần trau dồi, nó phải khác, nó ở đây nó có những cái khác chứ nó không phải giống như vậy.

Đó thì quý thầy đã hiểu rồi đã rõ rồi thì như vậy quý thầy biết được cái dứt bỏ là phần nào rồi, cho nên ở trên Phật nói thông hiểu, rồi dứt bỏ, rồi trau dồi, rồi tu tập. Cái phần dứt bỏ bây giờ dạy tới cái giới hạnh thì quý thầy thấy cái phần dứt bỏ, dứt bỏ rất rõ ràng.

Còn phần giới đức, như Thầy đã dạy ở trên, phải siêng năng trau dồi tu tập và còn phải cái phần mà giới đức nó còn phải có phần dứt đoạn nữa, phải dứt bỏ nữa. Nó vừa trau dồi vừa tu tập mà cần phải dứt bỏ những cái gì, thí dụ như bây giờ mình ghiền thuốc phiện hay ghiền thuốc mà bây giờ mình cứ trau dồi cái này cái kia mà mình không chịu, cứ hút thuốc hoài thì thử hỏi làm sao mà trau dồi cái giới đức mình được? Cho nên phải dứt bỏ không hút thuốc, dứt bỏ không ăn phi thời, dứt bỏ, cái đó là phải dứt bỏ, ở trước kia là giới hạnh chúng ta dứt chưa hết, bây giờ tới đây nó còn dính dấp một chút gì đó thì phải tiếp tục dứt bỏ nữa, và đồng thời thì tu tập và trau dồi nó mới có kết quả.

Những chưa dứt bỏ hết cái phần thứ nhất và cái phần này chuyên tu trau dồi nhiều hơn. Về cái phần tu tập trau dồi về cái phần thứ hai này cái phần giới đức nhiều hơn và cái phần dứt bỏ nó chỉ còn chút ít những cái thói quen mà không bỏ được thì bây giờ chúng ta tiếp tục chúng ta dứt bỏ để cho thành tựu được cái giới hạnh và đồng thời thì chúng ta tiếp tục tu tập và trau dồi những cái giới đức.

Đến đây thì Thầy xin ngưng lại vì chúng ta sẽ hết giờ rồi.

***

Bây giờ chúng ta tiếp tục chương trình học. Nhưng trước khi học cái phần mà giới đức thì chúng ta sẽ, Thầy sẽ thuật lại cho quý thầy nghe những cái mẩu chuyện của những bậc Thánh Tăng để chúng ta nương theo đó mà lấy kinh nghiệm mà nương vào các bậc Thánh Tăng trong thời Đức Phật để mà lấy kinh nghiệm đó mà chúng ta rút tỉa tu hành cho chính mình và cũng là những gương mà sách tấn để chúng ta lấy đó mà làm gương tu trên bước đường theo đạo Phật. Để tiếp tục học chương trình giáo án này Thầy sẽ nêu lên một vài gương của những bậc Thánh tăng, Hiền đức để chúng ta lấy đó mà sách tấn trên bước đường tu hành.

Nghe cái ông tu xong rồi đó ổng xin đức Phật đi hóa độ chúng sanh ở cái vùng biên cương. Đức Phật hỏi ông thì ông trả lời những cái điều mà đức Phật đã trắc nghiệm xem ông có thể thực hiện được cái con đường giáo hóa chúng sanh hay không. Sau khi trả lời thì đức Phật chứng nhận rằng ông là cái người mà có thể được đi giáo hóa ở cái vùng biên cương, cái vùng mà người dân chưa biết đạo đức chưa biết gì hết, cho nên ông ra đi mà ông độ chúng. Thì đây là trên bước đường tu hành của ông, Thầy muốn nhắc lại đây là một vị đại đệ tử của đức Phật ngày xưa có những cái pháp tu hành nào mà ông đạt được đến mức mà ông đối với chúng sanh mà đến đỗi giết ông ông còn thấy ông vui mừng mà để ông độ chúng, thì chúng ta thấy những người tu hành như vậy lậu hoặc thật là quét sạch. Vậy ông tu pháp nào? Qua câu chuyện của ông thì chúng ta sẽ thấy được sự tu tập của ông ta, chứ không phải toàn bộ cái giáo lý của nhà Phật là người nào cũng tu sạch hết pháp môn nào cũng tu sạch hết, không phải đâu, người ta chỉ dùng cái đề mục thiền nào đó rồi người ta quán xét rồi người ta xả sạch cái tâm của người ta, cho nên lậu hoặc nó hết là người ta đã thành tựu và từ đó người ta nhập sơ thiền hay nhị thiền, tam thiền, tứ thiền một cách rất dễ dàng không phải khó khăn.Vì vậy mà chúng ta lấy kinh nghiệm này để mà chúng ta rút tỉa cho con đường tu tập của chúng ta cho nó dễ dàng hơn là chúng ta đi ngay vào một cái thiền định Hiện Tại An Lạc Trú Định nó rất là khó khăn từ hơi thở cho đến khi mà dừng hơi thở mà chúng ta tâm nó chưa hết lậu hoặc thì tu rất khó.

Khi đến tuổi trưởng thành ông đi với một đoàn lữ hành thương gia đến nước Xá Vệ quốc, bấy giờ ông được nghe Thế Tôn, đức Phật á, thuyết pháp. Ông khởi lòng tin và xin xuất gia. Đức Phật cho một đề tài thiền quán hộ trì các căn. Đó, chúng ta nghe ông chỉ có hộ trì các căn không hà, chớ ông đâu có tu cái gì đâu, thế mà ông lại thành tựu được, chứng đạo được Tam minh, thì đây là một điều kiện mà chúng ta phải thấy rằng những cái giáo pháp của Phật đều là có những vi diệu của nó mà chúng ta chỉ chọn lấy một đề tài nào đó mà chúng ta thực hiện thì chúng ta sẽ đạt được con đường giải thoát chứng đến Tam minh chứ đâu phải cần mà nương vào cái hơi thở, để mà dừng hơi thở để mà nhập Tứ Thiền rồi chứng Tam minh đâu.Nhiều khi chúng ta tu cái điều đó mà tâm chúng ta không hết lậu hoặc thì chúng ta cũng chưa đạt được Tam minh, cho nên đức Phật cho ông đề tài thiền quán là hộ trì các căn môn, tức là Phật nói Thánh hộ trì các căn đó, cái pháp môn Thánh hộ trì các căn nó làm cho ông không có dính mắc các pháp, các đối tượng, các pháp cho nên từ đó ông xả ly, ông diệt được cái lậu hoặc mà thành tựu được Tam minh. Nhờ tu tập pháp này ông đã chứng được Tam minh.

Tại sao mà Thầy đọc lại Thầy lại biết các vị này tu những cái điều đó? Thật sự ra đức Phật đã trao cho các vị đó những đề mục thiền quán như vậy mà các vị đó đã thực hiện rốt ráo trong cái thời gian ở trong cái nơi độc cư yên tịnh xa vắng ở trong rừng, ngài nỗ lực thực hiện cho nên ngài đạt được rất nhanh chóng. Vì cái sự quyết tâm tu tập và sự hiểu rõ được cái đường đi của đức Phật cho nên chỉ nhắm vào cái lậu hoặc mà quét sạch thì sẽ đạt được những cái vi diệu của Phật Pháp chớ không phải tu luyện một cái gì khác hết.

Sau đó thì ngài được xin đức Phật và đi giáo hóa người ta, do đó hơn 500 nam và nữ cư sĩ theo ngài tu hành ở vùng biên cương đó chớ không phải là một cái số ít. Khi sắp lâm chung, ngài có làm bài kệ kinh nghiệm tu hành của mình. Ngài để lại một bài kệ nói qua kinh nghiệm tu hành của mình để cho đời sau, thì những bài kinh mà gọi là Pháp cú hay là kệ đó người ta rút ra người ta không thấy được cái kinh nghiệm của các bậc này nhưng mà riêng Thầy, Thầy đọc lại thì Thầy thấy những cái bài kệ của các vị quá là có kinh nghiệm tu hành. Đây Thầy xin đọc lại bài kệ đó cho quý thầy để quý thầy lấy đó mà làm kinh nghiệm. “Ở đây chỉ có giới”, nghĩa là ông đến với đức Phật là ông thấy chỉ có giới mà các thầy biết rằng cái hộ trì các căn môn đó là cái giới hạnh mà chúng ta tu tập đó, đó là cái giới hạnh chứ không phải là cái gì khác hết, cho nên ở đây thì ông nói:

“Ở đây chỉ có giới,

Là pháp thật tối thượng”

Ông ca ngợi giới luật của Phật là pháp tối thượng.

“Vị nào có trí tuệ

Cũng chỉ là vô thượng”

Nghĩa là mình có trí tuệ, trí tuệ tức là giới luật mà giới luật là trí tuệ như Thầy đã xác định ở trong bài kinh của đức Phật đã dạy, cho nên dù là có trí tuệ thông minh đi nữa thì nó chỉ là vô thượng chứ không thể tối thượng được.

“Vị nào đủ giới tuệ

Làm thầy cõi nhân thiên”

Đó ông nói người nào mà có đủ giới tuệ, chúng ta phân biệt rõ mà, giới đức giới hạnh giới đức giới tuệ, mà bây giờ đủ giới tuệ tức là chúng ta phải có giới hạnh, giới đức rồi mới tới giới tuệ cho nên làm thầy cõi nhân thiên, làm thầy cõi trời người. Do cái giới tuệ này mà chúng ta nói chuyện với tam thiên được, chúng ta nghe chư thiên nói chuyện được còn nếu mà chúng ta chưa có giới tuệ thì chắc chắn là chúng ta không thể nào mà nói chuyện với chư thiên được, cho nên chúng ta đâu có thể nào mà dạy chư thiên được. Cho nên lúc bây giờ đức Phật dạy người, dạy chư thiên tu hành, nó thì chúng ta thấy cái bài kệ của ông rất là…qua cái đề tài một thì hộ trì các căn môn, tức là cái pháp để chúng ta giữ gìn giới hạnh nghiêm túc đó, tức là cái pháp giữ gìn hộ căn môn của chúng ta đó, thì Thánh hộ trì các căn, tức là cái pháp thánh để mà hộ trì các căn của mình. Vì vậy mà Thầy đọc lại bài kệ này để chúng ta thấm thía được những bài học giới luật của chúng ta:

“Ở đây chỉ có giới,

Là pháp thật tối thượng

“Vị nào có trí tuệ

Cũng chỉ là vô thượng”

Dù có trí tuệ đi nữa cũng chỉ là vô thượng.

“Vị nào đủ giới tuệ

Làm thầy cõi nhân thiên”

Đó là bài kệ để mà nhắc nhở chúng ta, lấy kinh nghiệm của ngài, ngài đã kinh nghiệm tu cái này mà ngài đạt được cái ba cái giới này mà ngài thực hiện được làm thầy của cõi nhân thiên đó. Đó là ngài Phú Lâu Na.

Bây giờ Thầy đọc thêm một vị Thánh Tăng trong thời đức Phật nữa, ngài Vassapala. Buổi gặp gỡ vua Bình Sa Vương và đức Phật, thấy đức Phật hàng phục được ngài Ca Diếp, do thế ngài khởi lòng tin và xuất gia. Chỉ trong một tuần lễ ngài triển khai thiền quán giới đức, giới hạnh, giới tuệ. Đó ngài triển khai giới đức, giới hạnh, giới tuệ mà Thầy đã giảng đó thì ngài chứng được 6 thắng trí và chứng quả A la hán chỉ trong có một tuần lễ, tức là 7 ngày chứ không có lâu mà ngài thực hiện cái giới đức, giới hạnh, giới tuệ mà ngài đã đạt được cái quả A la hán như vậy, mà có được 6 thắng trí nữa. Ngài có làm bài kệ nói lên kinh nghiệm của mình, kinh nghiệm tu hành của mình đó. Bài kệ như thế này:

“Nếu thấy được sự thật

Thật vi diệu vi tế

Với trí tuệ thiện xảo

Với tâm tư khiêm tốn

Sống rập theo giới luật

Do chính đức Phật dạy

Với người ấy Niết bàn

Chứng đạt không khó khăn”

Đó thì “sống rập theo giới luật” nghĩa là cái giới luật của Phật đặt ra mình sống y như vậy đó thì mà với trí tuệ thiện xảo, với tâm tư khiêm tốn thì sống rập theo giới luật mới được. Thì ông nói bây giờ ông tu cái gì, ông nói khi mà hiểu được sự thật của Pháp của Phật rồi á, nó thật là vi diệu và vi tế. Vi tế là rất là nhỏ nhặt, nhỏ nhiệm, mà vi diệu rất là diệu huyền cho nên với trí tuệ thiện xảo, với sự hiểu biết của mình rất thiện xảo, với tâm tư khiêm tốn của mình thì mình sống rập theo giới luật của Phật thì không có khó khăn đâu, và cái Niết bàn thì mình chứng không có khó.

Đó thì ông đã qua kinh nghiệm tu tập của ông thì đây dạy giới cho nên Thầy chọn lựa những bậc Thánh Tăng trong thời đức Phật đã tu về cái giới. Nhưng mà nếu dạy đến mà giới mà dạy đến mà giới đức thì Thầy sẽ chọn những bậc mà tu về giới đức tức là tu về thiền định, tu về Tứ niệm xứ hay hoặc là bốn định, hay hoặc là Tứ diệu đế đó, hay hoặc là Tứ như ý túc thì Thầy sẽ có những bậc Thánh Tăng trong thời đó họ tu những pháp đó thì Thầy cũng sẽ đem ra những cái gương hạnh đó để cho chúng ta bắt chước mà noi gương. Thì ở đây Thầy muốn đem ra nó đủ các vị Thánh Tăng để chúng ta thấy chúng ta hợp với vị Thánh Tăng nào đó thì chúng ta nương theo cái kinh nghiệm tu hành của vị đó mà chúng ta thực hiện. Còn bởi vì chúng ta chọn tăng để nương theo để quy y theo các vị tăng đó thì chúng ta phải chọn những bậc Thánh Tăng như vậy, vì vậy mà những gương hạnh này không thể thiếu ở trong cái giáo án này được, không thể bỏ qua trong giáo án này được. Cho nên Thầy phải nhắc nhở quý thầy lấy những gương hạnh phù hợp với mình để rút tỉa những kinh nghiệm của các ngài mà tu tập cho chính mình.

Bây giờ đây là một vị thứ ba trong buổi giảng hôm nay, ngài Nitta. Ngài xin Phật xuất gia để được sống thoải mái đời sống của tu sĩ. Nghĩa là ngài xin Phật để xuất gia là ngài thấy đời sống tu sĩ ăn ngày một bữa thoải mái đi xin ăn khỏi có làm khỏi gì hết cho nên ngài muốn xuất gia là cái mục đích đó thôi. Cho nên ngài đến ngài xin Phật ngài xuất gia để ngài cũng ôm bát ngài đi xin bữa ăn, ăn no ngủ, rồi chơi chứ còn không có tu hành gì hết nhưng mà thấy đời sống của tu sĩ sướng quá không có làm mà sống thoải mái dễ chịu, ngủ suốt ngày cũng được, chỉ sáng đi xin ăn rồi trưa chiều tối cứ chuyên ngủ thôi, cho nên ngài xét qua đời sống của các vị tu sĩ ngài thấy sướng hơn ngoài đời nhiều, đời làm lụng cực khổ quá mà có nhiều khi còn đói khát cho nên ngài xin xuất gia. Đây là cũng một vị lười biếng nhất ở trong những cái bậc Thánh Tăng ở trong cái thời của đức Phật đây.

Ngài đến xuất gia làm tu sĩ rồi thì ngài không có chuyên chú đến cái sự tu tập đâu, chỉ tu lấy lệ, chuyên ăn no nói chuyện nhảm nhí và ban đêm thì ngủ dài. Bậc đạo sư thấy vậy, bậc đạo sư tức là đức Phật, thấy vậy nên nói lên bài kệ để giáo giới cho ngài:

“Trọn đêm ngươi nằm ngủ

Ban ngày thích tụ hội

Kẻ ngu sống như vậy

Sẽ đoạn khổ được sao?”

Đó bốn câu kệ của đức Phật giáo dục ngài, thấy ngài chuyên ăn, rồi chuyên nói chuyện nhảm rồi ban đêm thì chuyên ngủ cho nên đức Phật khuyên ngài làm sao mà đoạn được cái sự khổ, chuyên như vậy làm sao mà đoạn được sự khổ? Do cái lời dạy này ngài bị dao động.

Bị dao động bởi lời dạy của bậc đạo sư, ngài triển khai thiền quán, đặt niệm ăn uống ngủ nghỉ, nói chuyện nhảm nhí tu Định Vô Lậu. Nghĩa là bây giờ ngài có cái tật đó đó, ngài đặt cái niệm ăn, cái niệm ngủ và cái niệm chuyên nói chuyện nhảm nhí của ngài đặt ra cái niệm đó ở trước mặt ngài, ngài quán xét về cái Định Vô Lậu, ngài quét cho sạch cái ham ăn, cái ham ngủ, cái ham nói chuyện của ngài. Chẳng bao lâu ngài chứng quả A la hán. Ngài lấy bài kệ của đạo sư làm bài kệ chứng đạo của mình và cũng là bài pháp hướng tâm tu hành của mình.

Đó thì các thầy thấy không, khi người ta có bị cái tật gì đó, người ta bị quở rồi người ta thấy xấu hổ lắm rồi người ta lấy cái đó mà người ta làm đề tài thiền quán, người ta quét sạch cái đó thì cái tâm vô lậu người ta sạch liền. Bởi vì cái tật của mình là cái tật đó cho nên mình có cái tật nào mà nó xấu xa như vậy mình đặt nó mình quán, quán cho trôi, quét cho sạch cái tật đó ra thì chúng ta sẽ thành tựu đạo Phật chứ không có gì mà khó khăn hết. Bởi vì cái đó là cái cốt cán của nó mà làm cho chúng ta hoàn toàn cuộc sống của chúng ta trở thành khổ. Đó thì hôm nay những gương hạnh như vậy thì quý thầy phải nương theo những gương hạnh đó mà coi thử coi mình coi nó có bị vướng vấp vào cái chỗ nào đúng như các gương hạnh đó mà chúng ta tu tập.

Bây giờ về cái phần này thì Thầy cũng nhắc luôn là bên nữ, để cho giáo án nó có nam và có nữ còn cái phần mà rầy dạy bảo riêng ở bên phái nữ thì Thầy không có thu băng vào, bởi vì đó là thu riêng ra để cho bên giới nữ mà thôi. Còn ở bên đây thì quý thầy Thầy cũng dạy riêng ở trong cái bữa ăn khi mà có phạm phải những điều gì đó Thầy nhắc nhở trong bữa ăn thôi chứ không có thu vào giáo án, mà lấy những gương hạnh của bên nữ và bên nam để chúng ta noi theo để mà chúng ta tu học.

Bây giờ thì quý thầy nghe tiếp thêm những bậc Thánh ni, bà Đăng-ti-ca, bà là một đứa con gái của vị giáo sĩ nhà vua, khi đến tuổi trưởng thành bà trở thành một tín nữ của Kỳ Viên tịnh xá. Nghĩa là lúc bà lớn lên thì bà trở thành một người hộ trì ở trong tịnh xá Kỳ Viên, lúc đức Phật còn đang ở đó đó. Về sau bà xuất gia, được hướng dẫn của bà Mahapajapati. Một hôm bà leo lên núi Linh Thứu chơi sau bữa ăn cơm ngọ, bà ngồi nghỉ và thấy một người nài điều khiển con voi. Nhờ thấy vậy bà tin nơi lời Phật dạy, nghĩa của Phật dạy điều khiển tâm mình như người nài voi điều khiển con voi.

Đó, bà lên trên núi bà chơi ngồi ở trên cao lên núi Linh Thứu là chỗ đức Phật ở đó, bà lên đó, bà ăn cơm ngọ xong rồi bà lên đó, bà nghỉ, bà chơi rồi bà nhìn xuống núi dưới dòng sông đó, bà thấy có một người nài voi họ điều khiển con voi như thế này thế khác, họ tập huấn luyện con voi. Do đó bà mới nghĩ rằng đức Phật dạy mình cũng như một người nài voi mà điều khiển cái tâm của mình. Vậy thì mình tin theo lời đức Phật dạy đó mình về mình điều khiển cái tâm của mình như thế nào, như cái người nài voi mà điều khiển con voi vậy. Do sự tùy pháp, hướng pháp bà điều khiển tâm mình và bà đã bà làm chủ được nó và chứng quả A la hán. Đó thì cái sự điều khiển đó mà chúng ta đã làm chủ và chứng quả được A la hán, vậy thì điều khiển như thế nào? Bà có bài kệ nói lên kinh nghiệm tu tập của mình.

Ở đây Thầy thì xin nhắc thêm bà điều khiển như thế nào, cũng như bây giờ chúng ta ăn một bữa mà một lát nữa nó thèm ăn cái gì đó thì chúng ta điều khiển nó đừng có ăn, thì tức là chúng ta hướng tâm, nó hay thèm ăn vặt như vậy thì chúng ta hướng tâm nhắc nó, tùy theo cái pháp mà chúng ta hướng tâm nhắc á, đừng ăn, ăn uống như vậy phi thời, người tu sĩ như thế này thế khác không có được như vậy. Đã biết Phật Pháp rồi thì bây giờ mình là người cư sĩ cũng không được ăn lặt vặt, không ăn uống phi thời, do đó mình điều khiển cái tâm của mình một ngày hai ngày sau đó nó không thèm ăn nữa, không thèm ăn nữa thì tức là mình điều khiển được con voi chứ gì, mà coi như cái tâm của mình là con voi chứ gì, cho nên bây giờ nó khởi muốn cái gì cái gì nó thấy đó nó ham muốn thì điều khiển nó đừng ham muốn. Mình biết cái muốn đó là cái nguy hại, cái nguy hiểm cho nên do đó bà điều khiển cái tâm bà như là một người nài voi mà huấn luyện con voi vậy.

Đó, thì các Thầy thấy bà có ngồi quán có gì không, bà đâu có ngồi quán như các vị đó mà vô lậu đâu nhưng mà điều khiển cái tâm của mình theo sự điều khiển của mình, do cái tâm đó mà nó trở thành một con voi thuần thục cho nên bảo sao nó nghe vậy. Cho nên thí dụ như bà điều khiển cho đến mức bà điều khiển cái hơi thở này ngưng, các hành ngưng thì nó cũng ngưng theo, nó ngưng theo thì tức là bà điều khiển được cái tâm của bà rồi chứ gì, cho nên bà chứng đạt được đạo quả A la hán.

Các thầy thấy cái điều kiện đó có phải là bà ngồi đó bà quán cái gì đâu, bà cứ theo dõi cái tâm của bà tức là phòng hộ sáu căn đó quý thầy. Như hồi nãy có vị tỳ kheo, vị thánh tăng mà phòng hộ sáu căn đức Phật đưa ra đó, mà nói phòng hộ thì quý thầy không thấy, nhưng bây giờ nêu ra cái bà này thì rõ ràng là bà điều khiển cái tâm của bà qua sự phòng hộ. Bây giờ mình đi ra đường mình thấy con mắt mình nó nhìn đó nó thấy nó thích, mà nó thích tức là mình sẽ làm sao, phải không quý thầy? Mình sẽ ngăn chặn nó đi, không có được thích, mày không có được thích, thích cái này là nguy hiểm, là hại, là khổ, cho nên nó lần lượt nó thấm nhuần nó bỏ đi mà cái lậu hoặc của mình càng ngày nó càng quét sạch mà mình có ngồi đó mình tu lậu hoặc không, phải không? Mình tu phòng hộ sáu căn của mình. Tai nghe âm thanh gì đó mà nó cứ dính nó nhớ hoài đó thì lúc bấy giờ mình cũng điều khiển nó đừng có bị dính mắc nữa, do đó là mình đã thuần hóa được con voi tâm của mình để cho nó theo sự điều khiển của mình mà nó không muốn gì hết, mà nó không muốn gì hết thì lậu hoặc nó sạch, mà lậu hoặc nó sạch thì tâm nó thanh tịnh, tâm nó thanh tịnh thì cái sự điều khiển mà do pháp hướng này đó, mình do pháp hướng này đó thành ra cái hiệu quả cho nên mình bảo hơi thở ngưng, các hành ngưng, nó ngưng theo hết, vậy mà mình làm chủ được cái sự sống chết của mình. Đó, như vậy là chúng ta đã thấy qua những kinh nghiệm của các bà nói lên sự tu tập...(BBT:CĐ,18B,E00:43:57)

BĂNG SỐ 18

(BBT:CĐ,18B,B00:43:58)Thầy thấy nó dễ dàng quá, nó đâu có khó khăn gì đâu? Hồi nãy là có một vị Thánh tăng, là người nam, họ cũng tu cái pháp phòng hộ 6 căn. Bà đây thì không nói pháp phòng hộ 6 căn mà chúng ta thấy rõ ràng là phòng hộ 6 căn, có phải không? Nếu mà cái người không hiểu, đọc cái này không biết là tu cái pháp gì hết. Mà Thầy là người có kinh nghiệm cho nên Thầy đọc qua đây Thầy biết bà này là tu phòng hộ 6 căn, cũng giống như ông kia phòng hộ 6 căn, tức là điều khiển con voi tâm của mình chứ không gì hết, huấn luyện con voi tâm mình chứ không gì hết, cuối cùng thì người ta vẫn thành chứng quả A La Hán. Bà có làm bài kệ nói lên kinh nghiệm tu tập của mình. Đây cái bài kệ của bà cũng hơi dài đây:

Ra khỏi ngôi tịnh xá

Để nghỉ trưa ban ngày

Trên đỉnh núi Linh Thứu

Ta thấy một con voi

Dầm nước xong đi lên

Trên bờ một con sông

Một người cầm cái móc (BBT:CĐ,18B,E00:44:50)

Yêu cầu nó đưa chân

Con voi duỗi chân ra

Và người nài lên voi

Thấy kẻ chưa nhiếp phục (BBT:CĐ,19A,B00:00:00)

Đi đến được nhiếp phục

Ta thấy nó vâng chịu

Theo quyền lực của người

Như vậy ta định tâm

Đi vào trong rừng ấy.

Nghĩa là bây giờ bà đi vào trong rừng yên tịnh, thanh vắng để mà điều khiển làm chủ cái tâm của mình đây.

Ta làm chủ được tâm

Sai bảo nó vâng theo

Sống chết ta tự tại

Chấm dứt được luân hồi.

Đó thấy không? Người ta giải thoát, mà bà nói rất rõ, không có nói là chứng Tam minh gì hết. Hồi nãy ông kia thì chứng Tam minh, thì nó cũng là làm chủ được sanh tử luân hồi chứ gì? Còn bà đây nói rất rõ “sống chết ta tự tại” nghĩa là bà đây muốn sống muốn chết lúc nào cũng được rồi, và chấm dứt được luân hồi, tức là Tam minh, tức là Lậu tận minh rồi chứ gì? Cho nên chấm dứt được luân hồi.

Đó, thấy cái bài kệ của ngài. Bà chỉ thấy có con voi và thằng nài thôi mà ngài thức tỉnh được, ngài về ngài tu cái phòng hộ 6 căn chứ không có gì hết, đó, vậy mà người ta chứng đạo. Còn quý thầy tu sao đây? Mình phải lấy những kinh nghiệm đó, cho nên từ bài kia nói rõ ra cái pháp ra là Phật trao cho ông ta cái pháp để mà ông ta tu là phòng hộ 6 căn, nhưng bà này thì ông Phật không có trao. Bà trèo lên núi bà chơi thôi, bà thấy người ta điều khiển con voi thì bà về bà điều khiển tâm bà. Nhưng không ngờ bà lại tu tập cái pháp hộ trì các căn, cũng y như vậy thôi chứ không khác gì hết.

Bà Ubirì:

Thuở tuổi thanh xuân bà rất đẹp và được đưa vào hậu cung của vua Kosala. Sau vài năm bà sanh một đứa con gái rất đẹp đặt tên là Jivà, nhưng rồi đứa con gái bà bị chết. Ngày nào bà cũng ra nghĩa địa than khóc. Bậc đạo sư thấy vậy liền đến và hỏi bà:

- Tại sao ngươi khóc?

Bà đáp:

- Bạch Thế Tôn, con khóc đứa con gái của con.

Thế Tôn nói:

- Tại nghĩa địa này có 84.000 đứa con gái chết, bị thiêu, vậy ngươi có khóc than cho ai?

Rồi đức Thế Tôn chỉ cho bà những chỗ đất mà những người chết bị thiêu. Thế Tôn nói xong đọc một bài kệ:

Hỡi nàng Ubirì,

Nàng khóc trong rừng sâu,

Khóc than ôi Jivà,

Con gái thân của tôi,

Hãy tự mình hồi tỉnh,

Hỡi này Ubirì!

Trong bãi đốt tử thi

Tất cả tám vạn tư,

Người đồng tên Jivà

Nàng khóc Jivà nào?

Nghĩa là đức Phật khuyên ở trong nghĩa địa này nó có 84.000 cái người con gái chết mà cũng đồng tên Jivà như vậy, vậy bây giờ bà đến đây bà khóc cho cái người con gái Jivà nào, hay hoặc khóc cho 84.000 cái người con gái này? Đó, ông Phật chỉ nhắc nhở như vậy thôi, nghĩa là bao nhiêu người chết chứ đâu phải có Jivà chết sao mà bà lại khóc, ý ông Phật nói vậy đó. Bao nhiêu người cũng phải đi vào cái cõi sanh tử đó chứ đâu làm sao mà tránh khỏi, vậy mình khóc là khóc gì đây? Cho nên được nhắc nhở như vậy.

Sau khi được bậc đạo sư chỉ dạy, bà suy tư, xin bậc đạo sư xuất gia tu hành. Chẳng bao lâu với đề tài thiền quán người chết, bà đã chứng quả A La Hán.

Tức là bà lấy ngay cái chỗ đau khổ nhất là cái người thân của bà chết, đứa con gái bà chết đó thì chẳng bao lâu thì bà chứng quả A la hán. Có phải là cái vấn đề mà ngoài cái vấn đề của Phật pháp không? Không phải đâu. Bởi vì trong Phật pháp chúng ta thấy sanh lão bệnh tử khổ mà, mà đây là một cái đề tài về cái chết khổ. Cho nên từ đó bà quán xét cái chết, thấu đạt được cái chết, chứng được cái lý sanh tử của nó, cho nên bà giải thoát chứng quả A la hán. Chúng ta thấy đó là một cái đề mục thiền rất là thực tế và cụ thể cho nội tâm của người mẹ đang thương một người con quá nức nở, quá xót xa. Lấy cái đó mà làm đề mục tu thì tức là nó giải quyết được bao nhiêu cái sự ham muốn, cái sự khổ đau của đời người. Cho nên lậu hoặc bà quét sạch.

Đây bà nói lên bài kệ qua kinh nghiệm tu hành của mình:

Mũi tên khó nhìn thấy,

Ðâm dính nơi tâm ta,

Chắc chắn đã được Ngài,

Nhổ lên khỏi tâm ta,

Sầu muộn vì con gái,

Làm cho ta sầu khổ

Sầu muộn ấy không còn

Ðã được chấm dứt hẳn.

Nay mũi tên được nhổ,

Mọi ham muốn lắng dịu,

Ta đi đến quy y

Bậc ẩn sĩ Mâu-ni,

Quy y Ba ngôi báu

Phật, Pháp và chúng Tăng."

Đó thì chỉ có một cái nỗi đau khổ với đứa con thôi thế mà được bài kệ của đức Phật, bà đã giải thoát được cái sự đau khổ và khi mà đến tu hành, bà lấy cái đề tài đó bà làm cái pháp hướng bà tu tập, cho đến cuối cùng bà chứng được quả A La Hán. Như vậy bà tu pháp môn nào đây? Bà lấy cái chết bà quán để rồi bà phá đi những cái lậu hoặc của bà tức là bà tu Định Vô Lậu đó. Trong khi mà mình thấy cái đề mục đó thì mình biết bà tu cái gì rồi, cái định nào rồi. Đó, còn cái kia người ta tu phòng hộ 6 căn, người ta không có nằm ở trong cái Định Vô Lậu mà người ta điều khiển cái tâm của mình đừng cho nó dính mắc, đừng cho dính mắc, riết rồi nó không dính mắc nữa rồi nó cũng vô lậu mất. Thành ra nó không có thiền quán vô lậu mà nó bằng cái trực tiếp ý thức của chúng ta mà xả tâm. Còn ở đây lấy đề mục người chết tức là nó phải có một sự quá trình thấu suốt được cái lý cho nên nó phải vô lậu, nó phải là đặt niệm đó trước mặt của mình rồi quán xét người chết này đến người chết khác, mỗi cái chết nó đều cũng như nhau, cho nên cuối cùng thì bà không còn đau khổ nữa và những cái tâm phiền muộn của bà, những cái tâm ham muốn của bà nó cũng đều tan biến mất đi. Từ đó lậu hoặc nó sạch, cho nên bây giờ chính là bà mới quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

Bậc ẩn sĩ Mâu Ni, tức là đức Phật, là một người ẩn sĩ, rõ ràng đức Phật là người ẩn sĩ, nhưng mà độ chúng sanh đó. Cho nên bà gọi cái chỗ này thì rất là phù hợp. Người ẩn sĩ thì không cần cầu danh cầu lợi mà chỉ ai khổ là Ngài đến Ngài độ đó, nghĩa là thấy bà này mất con bà khổ thì Ngài đi khất thực Ngài đã biết được cái nỗi khổ đó và đức Phật đến nghĩa địa, chứ đi khất thực mà đi vô nghĩa địa làm gì? Nhưng mà biết trong đó có người quá thống khổ và người này có thể độ được, cho nên do đó lấy đề mục thiền đó mà hướng dẫn cho bà qua bài kệ. Đó là những bậc ẩn sĩ thì người ta đi tìm những bậc mà có cái duyên sắp sửa thành tựu được cái chỗ tu hành cho nên người ta chỉ dùng một bài kệ. Còn nếu mà cái người bình thường mà chưa có đủ duyên mà chưa có những sự thống khổ mà đến mức độ vậy dù đức Phật có dùng 100 bài kệ chắc độ người ta cũng không nổi đâu.Người ta còn ham làm giàu, người ta còn ham vợ đẹp con xinh, người ta còn ham nhà lầu thì chắc chắn là bây giờ có nói gì nói họ cũng trơ trơ, họ không tu nổi đâu.Đó thì cái phần mà những gương hạnh để chúng ta lấy đó mà làm cái gương tu hành cho chúng ta.

Trước khi tiếp tục bài học giáo án tu tập, Thầy xin nhắc quý thầy cần lưu ý những bài pháp bổ túc thêm cho giáo án. Những bài pháp mà Thầy bổ túc thêm cho giáo án là nó làm sáng tỏ cho chúng ta thêm một cái phần để chúng ta tu tập cho nó đầy đủ, được đầy đủ lý pháp và hành pháp để quý thầy biết cách tu tập rő ràng sau này khi không có Thầy. Nghĩa là những cái bài mà bổ túc thêm là nhắc nhở khéo léo cho quý thầy, khi mà quý thầy gặp khó khăn thì quý thầy nhớ những bài bổ túc thêm thì quý thầy sẽ sáng tỏ ra. Còn nếu mà quý thầy cứ ở trong giáo án mà Thầy giảng suông suông như là giới hạnh, giới đức, rồi giới tuệ đó thì nó suông suông mà nó không có những cái bổ túc thêm thì quý thầy không có nắm vững cái cách thức mà tu tập được. Cho nên khi mà nghe nó suông suông như vậy thì chúng ta lại thấy có những cái bài bổ túc thêm cho phần giáo án. Những bài bổ túc đó nó làm cho chúng ta thông hiểu rõ cái chỗ mà chúng ta tu tập.

Như vào đầu giáo án đức Phật, tức là chúng ta mới vào đầu mà cái bài học giáo án này thì đức Phật đã dạy chúng ta có bốn điều kiện cần phải thực hành cho đúng và cho nghiêm túc. Đó là bốn điều kiện nào? Thầy nhắc lại nè: “Thông hiểu, trau dồi, dứt bỏ, tu tập”. Thì bắt đầu một - thông hiểu, hai - trau dồi, ba - dứt bỏ, bốn - tu tập. Bốn điều kiện này nó nhắc đi nhắc lại từ bắt đầu mà bây giờ Thầy cũng còn phải nhắcđi nhắc lại. Cái nào mà phải thông hiểu? Tức là mình phải thông hiểu giới hạnh, phải thông hiểu giới đức, phải thông hiểu giới tuệ. Mình thông hiểu rồi thì bắt đầu bây giờ mình mới tới giai đoạn mình thông hiểu rồi thì mình trau dồi. Còn mình chưa thông hiểu, thuở giờ có nghe ai nói giới đức, giới hạnh, giới tuệ bao giờ, mà bây giờ được nghe như vậy, được giảng thông hiểu được rồi thì bắt đầu bây giờ chúng ta mới trau dồi giới hạnh như thế nào, giới đức như thế nào, giới tuệ như thế nào. Thì trong khi mà trau dồi đó thì nó có những cái mà chúng ta cần phải dứt bỏ. Cho nên cái gì mà dứt bỏ, cái gì mà để lại? Đó thì những bài bổ túc này để chúng ta biết cái nào để dứt bỏ mà cái nào để lại mà chúng ta trau dồi. Rồi còn cái phần mà tu tập nữa. Phải chuyên cần tu tập nữa. Hằng ngày giờ nào chúng ta cũng phải chuyên cần tu tập nữa, chứ không phải trau dồi dứt bỏ rồi thôi, còn phải chuyên cần tu tập những cái cần thiết cho nó căn bản, cho nó thấm nhuần, đó là sự tu tập.

Ở đây quý thầy cần phải biết những pháp nào thông hiểu, những pháp nào trau dồi, những pháp nào dứt bỏ, những pháp nào tu tập. Đó tức là cách thức nào tu tập, cách thức nào dứt bỏ, cách thức nào và cái pháp nào dứt bỏ, cái pháp nào mà tu tập, cái pháp nào mà phải thông hiểu. Đây là một bài kệ mà đức Phật đã dạy chúng tỳ kheo theo đó mà thực hành. Ở đây là có một bài kệ, trước khi mà dạy cái bài này thì đức Phật đã có nhắc cho chúng ta một bài kệ tóm tắt lại để chúng ta thuộc, để chúng ta nhớ mà nhắc mình phải như thế nào. Đây là bài kệ 4 câu:

Ta nói thập thượng pháp

Pháp đưa đến Niết bàn

Diệt trừ mọi khổ đau

Giải thoát mọi triền phược.

Nghĩa là đức Phật nói: Ta nói mười cái thượng pháp, đây là mười cái pháp cao thượng đó, để cho các vị phải lấy đó mà tu tập, mà trau dồi, mà dứt bỏ để cho đến được Niết bàn, dứt trừ mọi khổ đau, giải thoát mọi triền phược, tức là mọi sợi dây trói buộc đó. Qua cái bài kệ này nó có mười pháp tối thượng, nghĩa là mười pháp tối thượng để mà chúng ta tu tập. Vậy thì mười pháp đó là gì mà quý thầy cần phải hiểu rõ để thực hành cho bằng được? Nghĩa là mình phải làm đúng theo mười cái pháp này.

Một, là một pháp có nhiều tác dụng.Nghĩa là một pháp tu tập đó chứ nó có nhiều tác dụng cho cuộc sống của chúng ta hằng ngày. Nó tác dụng rất nhiều mặt chứ không phải là một. Vậy thì cái pháp mà nó nhiều tác dụng đó là cái pháp nào? Chúng ta phải biết, chứ nếu mà không biết làm sao chúng ta tu tập được? Giới luật thì chúng ta, giới đức giới hạnh giới tuệ chúng ta thông rồi đó, mà không biết nó cái pháp nào để mà nó tác dụng cho được, đạt được cái giới luật thì làm sao mà chúng ta tu? Cho nên ở đây Thầy giảng để cho quý thầy thấy rằng từ cái chỗ mà lý pháp cho đến cái chỗ hành pháp thì tức là chúng ta phải biết một pháp, rồi đây rồi hai pháp, ba pháp cho đến mười pháp, rồi đến nhiều pháp nữa chứ đâu phải là một pháp. Nhưng bắt đầu chúng ta chỉ học một pháp. Một pháp đó nó có nhiều tác dụng để chúng ta đạt được ba cái giới này, ba cái giới này.

Hai, là một pháp cần phải tu tập.Nghĩa là có một pháp mà luôn luôn lúc nào chúng ta cũng cần phải tu tập thì chúng ta mới giữ trọn được giới đức, giới hạnh và cái giới tuệ.

Ba, một pháp cần phải biến tri.Chữ biến tri, biến tri tức là biết thay đổi, biết thay đổi ngay ở trong chỗ tu tập của mình, khéo léo thiện xảo đó. Đó là biến tri đó.

Một pháp cần phải đoạn trừ.Nghĩa là chúng ta học một pháp này mà chúng ta đoạn trừ rất nhiều cái đối tượng của chúng ta, chúng ta phải học cái pháp đó. Cái pháp đó nó có cái tên của nó, và cái tên nó như thế nào để mà chúng ta biết đoạn trừ.

Một cái pháp chịu phần tai hại.Chúng ta phải thấy được cái pháp nào mà nó chịu tai hại đối với cái cuộc tu hành của chúng ta, cho nên chúng ta phải biết một pháp đó mà chúng ta hoàn toàn là phải chấm dứt phần tai hại nó. Nghĩa là không cho chúng phải sống ở trong tâm của chúng ta, dứt bỏ cái pháp mà nó làm tai hại chúng ta.

Một pháp đưa đến thù thắng.Chúng ta biết một cái pháp tu nào mà nó đưa đến sự thù thắng, cái sự thành tựu của sự tu tập của chúng ta.

Một pháp rất khó thể nhập.Nghĩa là một pháp đó rất khó nhập vào một pháp rất khó, vậy mà chúng ta biết cái pháp đó khó vậy mà chúng ta phải tu tập như thế nào để mà thể nhập được.

Một pháp cần được sanh khởi.Nghĩa là chúng ta phải hiểu một pháp làm cho tâm mình sanh khởi, sanh khởi cái gì? Sanh khởi ác pháp hay là sanh khởi thiện pháp? Nếu sanh khởi thiện pháp thì chúng ta chấp nhận mà sanh khởi ác pháp thì chúng ta không chấp nhận, mà một cái pháp đó nó sẽ sanh khởi ác pháp và thiện pháp.

Một pháp cần được thắng tri.Nghĩa là một pháp cần được hiểu cho thật rõ, thấu suốt chớ không hiểu lơ mơ được, cho nên gọi là một pháp cần mà chúng ta phải thắng tri.

Một pháp cần được tác chứng.Nghĩa là tác chứng là phải chứng cho được cái lý thâm sâu, bởi vì người ta ngộ, ngộ lý mà còn chứng lý. Còn ở đây tác chứng là chứng cái lý cho thật chứng, nghĩa là một pháp đó chúng ta phải tu tập như thế nào để chứng cho được cái lý.

Đó thì trong mười cái pháp này chúng ta đã được liệt kê ra để được nghe nói vậy. Bây giờ Thầy sẽ giảng ra từng pháp để chúng ta biết được qua những câu hỏi để chúng ta hiểu nó như thế nào là cái pháp mà chúng ta cần phải tu tập đây.

Hỏi: Thế nào là một pháp có nhiều tác dụng?

Một cái pháp mà nó có nhiều tác dụng, tác dụng bên đây tác dụng bên đây, tác dụng bên đây, nó tác dụng đủ thứ hết, nó làm cho chúng ta sanh khởi đau khổ rồi nó làm cho chúng ta không còn đau khổ đó thì một pháp có nhiều tác dụng vậy đó thì Phật đáp: “bất phóng dật, mà nói ngắn gọn thì vậy, đối với các pháp ác, các pháp bất thiện, bất thiện pháp, nghĩa là mình không có phóng dật theo các pháp ác và bất thiện pháp thì đó là cái pháp mà có nhiều tác dụng, nghĩa là mình chạy theo nó, mình phóng dật chạy theo nó thì muôn ngàn thứ khổ, mà mình không phóng dật theo các pháp ác và bất thiện pháp thì muôn ngàn thứ khổ sẽ chấm dứt. Đó thì chúng ta thấy rất rõ ràng, mà cái pháp đó nó có tác dụng rất lớn, cho nên tâm không phóng dật thì chúng ta giải thoát chứ gì? Tâm có phóng dật thì chúng ta không giải thoát, cho nên chúng ta biết được cái tên của nó “bất phóng dật” là không phóng dật, phải không? Quý thầy không phóng dật thì quý thầy sẽ thấy giải thoát liền tức khắc, mà quý thầy phóng dật là quý thầy bị các ác pháp và bất thiện pháp sẽ trì quý thầy xuống địa ngục đó. Đó thì mới vô đầu chúng ta học được cái pháp có nhiều cái tác dụng lắm, nghĩa là không phóng dật là nó không còn cái tác dụng nào mà ác pháp được với chúng ta hết cho nên tâm chúng ta thảnh thơi giải thoát, cho nên Phật dạy thường tâm đừng phóng dật đó. Đó mà đây là một cái pháp mà bất phóng dật là đã giải thoát chớ không còn đòi gì nữa hết.

Hỏi: Thế nào là một pháp được tu tập?

Một pháp được tu tập, đó thì các thầy thấy, có một pháp thôi chớ không có nhiều đó, nếu nói hai pháp thì nó còn lộn xộn đó, chứ nó một pháp thì chắc chắn là quý thầy thấy nó dễ rồi chứ gì? Đầu tiên thì chúng ta nói bất phóng dật, một pháp không phóng dật thì nó có nhiều tác dụng lắm, nó có nhiều cái tốt ở trong tâm hồn chúng ta lắm, mà người nào mà cứ phóng dật ra người đó sẽ ảnh hưởng sẽ đau khổ sẽ nhiều mà người nào không phóng dật người đó sẽ giải thoát đó, cho nên nó tác dụng rất nhiều mặt.

Còn bây giờ một pháp cần được tu tập?

Đáp: niệm thân câu hữu với khả ý.

Cho nên ở đây cái niệm thân câu hữu với khả ý thì các thầy thấy đây là Tứ Niệm Xứ nè, không phải là một cái pháp Tứ niệm xứ sao? Một cái pháp Tứ Niệm Xứ mà trên cái thân này câu hữu với khả ý, nghĩa là mình lấy cái thân của mình mình niệm, bởi vì Phật nói thân hành niệm mà, có một pháp thân hành niệm mà quý thầy sẽ được giải thoát cho nên chỉ có một pháp là niệm thân thôi.

Mà niệm thân câu hữu với khả ý, lúc bấy giờ chúng ta niệm ở trên thân chúng ta niệm mà nó có cái yên ổn, cái không đau đớn, cái này kia thì đó là đúng. Mà nó có cái trạng thái này, trạng thái kia đó là sai, niệm thân như vậy là sai.

Cho nên Phật nói niệm thân câu hữu với khả ý. Nghĩa là lúc nào mình tu á, thì trên thân mình cũng nghiệm xét thấy nó có sự an lạc, có sự yên ổn, có sự thảnh thơi, có sự thanh thản á thì mình tu đúng. Mà nghe nhức nghe nhối, nghe chỗ này nghe tức, nghe lói hay hoặc là nghe nó trạo cử rồi, nghe buồn ngủ rồi thì quý vị đã tu sai rồi. Trên niệm thân của quý vị đã sai rồi. Cho nên nó có chỉ một pháp niệm thân thôi mà kèm theo với khả ý của nó, câu hữu với nó tức là hợp với cái sự an ổn của cái thân của mình thì nó là đúng. Nó đơn giản, rất là đơn giản, nó không có gì hết.

Bởi vì cho nên, tu theo đạo Phật thì nó phải có sự giải thoát chứ. Mà mình tu theo đạo Phật mà mình không có giải thoát gì hết là như thế nào? Cho nên, ngồi mà nghe có gì sai khác, quý thầy khi mà ngồi mà lặn mất tiêu, ngủ gục hay hoặc là thùy miên luôn thì kể như là quý thầy cũng là không có câu hữu với khả ý. Khả ý là cái ý của mình đang biết được cái yên ổn của nó. Biết được cái sự thanh thản của nó, biết được cái sự mức độ của nó ở trong đó, thân tâm của quý vị rất là an ổn thì đó là khả ý.

 Hỏi: Thế nào là một pháp cần được biến tri?

Cần được biến tri tức là phải có cái sự linh động của cái sự hiểu biết đó. Thì đức Phật đáp như thế nào? Xúc hữu lậu hữu thủ. Xúc hữu lậu, hữu thủ. Cái sự va chạm, xúc là va chạm chứ gì, vào những cái hữu lậu, vào những cái đối tượng là hữu lậu chứ gì? Hữu lậu là cái lậu hoặc mà có cái đối tượng của nó mà xúc va chạm với cái vật đó. Ví dụ bây giờ Thầy đụng cái bàn, Thầy đụng cái ghế, Thầy đụng tập vở, Thầy đụng cái máy, Thầy đụng tất cả mọi cái tức là Thầy xúc chạm nó.

Mà mọi cái đều là có cái giữ của nó lại, tức là cái đó là mình phải biến tri để cho đừng có bị dính mắc nó lại. Thì như vậy cái sự hiểu biết của mình phải theo cái nhịp đó mà mình chủ động điều khiển. Thì nãy như các vị thấy rằng phòng hộ sáu căn đó, là cái chỗ xúc hữu lậu hữu thủ này đó là phòng hộ sáu căn đó. Đức Phật muốn nói đó là một pháp phòng hộ sáu căn, đó là xúc hữu lậu hữu thủ. Nghe cái danh từ, thì nếu mà cái người mà không có tu chứng thì họ không có hiểu được cái danh từ này mà giải thích ra như vậy.

Bởi vì cái hữu lậu là nó có 3 cái lậu hoặc: cái hữu lậu, cái dục lậu, cái vô minh lậu. Mà ở đây đức Phật nói xúc hữu lậu hữu thủ nghĩa là mình đụng cái gì mình dính vô mình giữ lại giữ lại đó, thì tức là chúng ta phải phòng hộ 6 căn thì chúng ta mới quét sạch ra. Thì như vậy, nói xúc hữu lậu hữu thủ thì chúng ta biết rằng phòng hộ 6 căn hay Thánh phòng hộ 6 căn. Đó thì 1 pháp Thánh phòng hộ 6 căn mà chúng ta cũng đã được giải thoát, cũng đã được chứng Niết bàn.

Hỏi: Thế nào là một pháp cần được đoạn trừ?

Ờ, bây giờ cái pháp nào cần phải đoạn trừ đây? Cái đầu tiên vô, đầu tiên Phật dạy chúng ta phải đoạn trừ cái gì, dứt bỏ cái gì?

Đáp, ngã mạn.Các thầy thấy ngã mạn, đức Phật nói đoạn trừ. Mỗi một cái tâm niệm mình móng lên, mình hơn người là ngã mạn rồi. Mình hơi hái huých người ta là ngã mạn rồi, mình hơi có cái vẻ, làm cái vẻ mà đặc biệt hơn người, đó là ngã mạn của mình thể hiện ra. Mình tự nhiên theo cái phong độ của mình tự nhiên thì nó không có ngã mạn. Chứ còn mình làm có vẻ gì khác hơn 1 chút, nghe bài học rồi cái mình tỏ vẻ ra khác 1 chút. Đi hổng dám đi á, thì đó là ngã mạn của quý vị theo pháp nó lớn lên rồi đó. Cho nên, ở đây chúng ta phải sáng suốt từng chút để mà đoạn trừ cái ngã mạn của chúng ta.

Bởi vì cái ngã mạn nó thực hiện cái ngã của chúng ta ở trong này này nè. Mà cái pháp đó chỉ có 1 pháp đoạn trừ ngã mạn mà quý thầy cũng đã được giải thoát chứ chưa nói gì. Bởi vì ta nói vô ngã là Niết bàn, mà bây giờ cái ngã mạn của mình làm sao mà Niết bàn được. Đó thì như vậy là chúng ta thấy rằng đức Phật dạy chúng ta một pháp một thôi mà chúng ta làm cái đề mục của nó, chúng ta tu hành thì chúng ta cũng phải đạt được cái sự giải thoát chứ không phải là tu nhiều.

Hỏi: Thế nào là một pháp chịu phần tai hại.

Đó, một pháp mà nó làm cho chúng ta tai hại cái này cái khác đó?

Thì đức Phật đáp: bất chánh tác ý. Nghĩa là cái pháp mà nó làm cho chúng ta phải chịu phần tai hại đó. Thì cái ý mà không có chơn chánh của mình, bất chánh nó tác ý ra. Bây giờ nó khởi ham cái này, khởi ham cái kia là bất chánh chứ gì? Ghét người này, giận người kia là bất chánh chứ gì? Nghi người này nghi người kia là bất chánh chứ gì, sân người này sân người kia là bất chánh chứ gì. Đó là bất chánh tác ý, tác ý ra cái sự bất chánh, không có chơn chánh. Cho nên đó là cái pháp tai hại. Nó làm cho mình hại mình liền. Trước tiên là mình hại mình. Cũng như thấy người ta, mình nghi người ta như vậy, đó là bất chánh tác ý rồi. Cho nên, quý thầy phải ghi những cái này, phải nhớ kỹ những cái này, phải học thuộc lòng những cái này. Để biết từng tâm niệm của mình, để cho mình điều khiển con voi của mình đây. Biết ở trong đầu mình nó tác ý ra những pháp bất chánh rồi, thì đó là con voi của mình nó muốn đi theo cái kiểu rừng rú của nó rồi đó. Nó chưa có phải là con voi thuần để mà mình gác yên gác bành lên để cho mình điều khiển ra trước chiến trận đâu.

Đó thì bắt đầu quý thầy thấy cái pháp tai hại chưa? Bất chánh tác ý là pháp tai hại.

Hỏi: Thế nào là một pháp đưa đến thù thắng?Đó, cái pháp nào mà đưa đến thù thắng? Nghe cái bất chánh tác ý rồi, thì tức là có cái pháp thù thắng. Vậy cái pháp thù thắng là pháp như thế nào?

Đáp: chơn chánh tác ý.Nghĩa là tác ý ra, bây giờ mình không có nghi người đó, không có thấy người đó ăn trộm ăn cắp gì, mình không có nghi người đó tức là mình tác ý cái chơn chánh đó ra. Thì đó là cái pháp thù thắng làm cho tâm hồn mình giải thoát. Mình không tham, không sân, không si thì tức là mình tác ý ra những cái tâm không tham, không sân, không si của mình ra.

Hoặc là mình không ham muốn thì mình tác ý ra. Bây giờ thấy cái đồng hồ, mình tác ý đừng ham muốn thì tức là chơn chánh pháp tác ý đó. Mình thấy cái vật gì đó ham muốn hay hoặc là mình thấy người phụ nữ đi ngang qua: “ồ, đẹp quá”, rồi mình tác ý không chơn chánh là ham muốn liền. Còn mình tác ý, đừng ham muốn tức là tác ý chơn chánh. Cho nên tác ý, cái pháp tác ý tức là như lý tác ý đó, thì các thầy thấy đức Phật đã dạy như lý tác ý tức là pháp ám thị, tức là pháp hướng của chúng ta mà.

Thấy ngang đó, nó khởi tâm lên thì đó là mình biết là bất chánh tác ý rồi. Nó khởi cái tâm lên, thấy cô ta đẹp thì biết là bất chánh rồi. Cho nên mình dẹp, phải tác ý ra liền. Tức là một cái pháp đưa đến thù thắng, là mình chơn chánh tác ý: “Sắc đẹp của người nữ là khổ, là đau”. Tác ý như vậy là chơn chánh tác ý. Đó thì các thầy thấy những cái điều mà đức Phật dạy Thầy thấy rất là tuyệt vời, biết từng tâm niệm của chúng ta để chúng ta từng điều khiển nó, để mà chúng ta thoát ra tất cả những cảnh khổ của cuộc đời chúng ta.

Hỏi : Thế nào là một pháp rất khó thể nhập.

Nghĩa là cái pháp nào mà trong Phật Pháp đó mà khó thể nhập vào?

Thì đức Phật đáp: vô gián tâm định, vô gián tâm định. Bằng chứng là quý vịbây giờ quý thầy nhập vô Nhị thiền hay là Sơ thiền hay hoặc là Tam thiền, nói chung là bóng dáng Tứ thiền. Mà vô gián ở đây có nghĩa là nó liên tục, chữ vô gián nghĩa là liên tục, nghĩa là cái pháp mà nhập vào để mà liên tục ở trong đó, kéo dài từ ngày này đến ngày khác. Thậm chí như 7 ngày, cho đến 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 5 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm mà luôn liên tục như vậy á, đó là cái pháp rất khó thể nhập.

Các thầy hiểu, bây giờ mình nhập nó trong vòng 1 phút thì có thể được, mà 2 phút, 3 phút có thể được. Mà 5 phút là thấy có thể là khó nhập vô rồi đó. Cho nên, ở đây Phật nói, cái pháp mà rất khó thể nhập đó là vô gián tâm định. Nghĩa là nhập nó liên tục, hoài hoài hoài hoài. Như Thầy nhập 2 tháng liên tục ở trong đó. Nó là cái khó, khó thể nhập. Mà cái người nhập được 2 tháng như vậy, không phải là chuyện làm trong 1 ngày, 2 ngày đâu. Mà các thầy phải hiểu, Phật cho đó là cái pháp khó thể nhập. Mà cái người nào nhập được như vậy ngồi suốt 7 ngày không phải là chuyện dễ cho 1 người tầm thường.

Cho nên, các thầy muốn nhập cho được, nghe nói Tứ thiền, muốn nhập cho được thì phải nhập từng phút, rồi ra rồi vô, nhập cho nó quen dần. Chứ quý thầy vô ngồi mà quý thầy nhập mà vô gián tâm định như thế này mà nhập được liền thì cái thân của quý thầy nó tiêu luôn, nó thành thây ma luôn, chớ nó không sống nổi đâu. Cho nên phải nhập vô nhập ra, kéo dài cái thời gian luyện tập nó từng chút, từng chút. Tăng lên thời gian từng chút thì quý thầy không có bị khổ đau, không có bị hoại diệt cơ thể.

Cho nên, cái sức mà thiền định của Tứ thiền, quý thầy đã biết. Có 49 ngày nó còn giữ thân thôi, mà qua 49 ngày, 50 ngày là cái thân của quí vị  hoại diệt liền tức khắc, nó không còn hồi phục lại được. Cho nên, nhập Tứ thiền là tới 49 ngày là tự nó xuất ra, quý thầy muốn kiềm nó cũng không được. Nó còn hồi phục được nó trở ra. Còn quý thầy mà ráng kiềm, mà kiềm cho được, Thầy nói rằng, không ai kiềm được hết. Nghĩa là bây giờ tới chừng đó nó ra rồi, bởi vì nó phải phục hồi cái sự sống của nó, nó phải bung ra. Cũng như bây giờ cái sức của quý thầy có 1 phút à, quý thầy ráng 2 phút nó bung ra. Rồi quý thầy nhắc nó, quý thầy gom lại nữa, quý thầy nhập vô nữa. Thì nó nằm chút xíu nữa nó bung ra, nó chưa được phút nữa đâu. Nó đâu có phải chuyện dễ đâu. Cho nên muốn mà, ở trong này, Phật dạy mà: “Thế nào là một pháp rất khó thể nhập? Là Phât dạy là Vô gián tâm định”. Cái câu nói “vô gián”, mình nghe nói thuở giờ, mình nghe nói cái vô gián địa ngục chứ gì? Có cái vô gián địa ngục là luôn luôn mình luôn luôn liên tục ở trong cái sự đau khổ, nó không có phút giây nào mà hở ra sự đau khổ gọi là vô gián địa ngục.

Các con hiểu không? Bây giờ ở trong cái vạc dầu, mà người ta bỏ mình trong vạc dầu người ta đốt mình á, nó nóng liên tục, nó không có phút nào là nó không nóng. Nên gọi là vô gián địa ngục. Còn có phút mát, phút nóng, phút mát á thì nó không phải là vô gián địa ngục. Cũng như người ta đánh mình, hơi đã rồi người ta cho mình nằm nghỉ. Thì phút mà nằm nghỉ thì nó không đau. Thì không thể gọi đó là vô gián địa ngục.

Mà lọt vào vô gián địa ngục là liên tục từ ngày này đến ngày khác á. Nó liên tục đau khổ, không có phút nào mà nó được không đau khổ, không phút nào là không đau khổ. Đó quý thầy hiểu, cho nên chữ vô gián mà tâm định á, là liên tục ở trong định. Không có phút nào mà kẻ hở ở trong đó mà bung ra, bung vô được. Gọi là vô gián.

Vậy thì hôm nay, Thầy giảng cho quý thầy biết được cái Định vô gián nó như thế nào. Mà bây giờ quý thầy cứ từng phút, từng phút một chứ đâu có lâu được, phải không? Đó, hiểu như vậy thì quý thầy thấy được con đường của đạo Phật vạch quá rõ, không có chỗ nào mà Phật không nói cho chúng ta biết cái khó, cái dễ. Cho nên, bây giờ chúng ta tu được 1 phút, 2 phút chưa chắc đã là chúng ta đã kéo dài 1, 2 ngày nổi. Cho nên, sự tu tập của chúng ta cần phải tu tập nhiều.

Hỏi: Thế nào là pháp cần được sanh khởi?Pháp nào mà cần được sanh khởi?

Phật đáp: “Bất động trí”. Mình muốn mà không có cái tâm mà sanh khởi á, thì phải giữ cái trí của mình bất động không có khởi cái niệm này niệm kia, tức là bất động. Nói như vậy chứ đâu phải dễ đâu. Đó, như vậy muốn đạt được cái pháp này, bất động trí thì chúng ta còn phải tu tập những cái pháp khác.

Kế đây Thầy sẽ cho 2 pháp, 3 pháp rồi 4 pháp. Mỗi cái bài pháp về giới luật về cái giáo án Thầy sẽ cho thêm những cái bài phụ hết. Để chúng ta thấy xen kẽ, xen kẽ để mà chúng ta biết tu tập.

Giờ nói bất động trí, cha, cái chuyện này khó quá. Ngồi đây mà tâm mà không có nghĩ ngợi như là một người nhập sơ thiền, hoàn toàn là thanh thản không có một cái gì hết. Đó là bất động trí. Mà bất động trí, ví dụ như nhập nhị thiền, thì bây giờ suốt thời gian 1 giờ, 2 giờ cho đến 1 ngày, 2 ngày, 3 ngày, 7 ngày mà cái tâm luôn luôn nó không khởi niệm này niệm kia, im phăng phắc thì đó là bất động trí.

Đó thì như vậy là chúng ta phải có một công trình tu tập dữ lắm mới có đạt được. Cho nên thế nào là pháp cần được sanh khởi. Nó liên tục sanh khởi. Lúc thì sanh cái này, lúc thì sanh cái kia. Cho nên vì vậy mà đức Phật mới dạy, thế nào là pháp cần được sanh khởi? Cần được sanh khởi tức là mình đi ngược lại cái pháp mà tâm mình đang sanh khởi thì đó là bất động trí, phải không? Mình nghe nói, thế nào là pháp cần được sanh khởi? Cái tâm của mình bây giờ nó đang sanh khởi rồi mình sanh khởi nữa sao? Cho nên, cái pháp mà cần cho được nó sanh khởi để cho cái sanh khởi của tâm mình nó đừng sanh khởi. Các con hiểu chỗ đó không?

Cho nên, nghe cái câu này thì chúng ta nghe nó dường như là Phật nói mâu thuẫn. Nhưng mà sự thật là đúng. Bởi vì, mình đang ở trong cái tâm sanh khởi. Mà bây giờ cái pháp cần được sanh khởi, nó không còn được sanh khởi nữa đó. Thì như vậy là bất động trí. Chúng ta phải hiểu như vậy, mới hiểu được, bởi vì trong kinh thường thường cái người dịch và cái người mà hiểu á thì nó có 2 cái hiểu. Thay vì, cái câu này phải đặt như thế này này, thế nào là pháp cần được không sanh khởithì như vậy nó mới đúng. Nhưng mà vì ở trong kinh người ta dịch như vậy thì Thầy cũng viết ra như vậy để mà chúng ta phải hiểu nó. Bằng cách nhưng mà phải hiểu cho đúng, bởi vì hiểu như thế nào? Các pháp mà cần sanh khởi á là các pháp ở trong tâm của chúng ta. Mà muốn cho tâm nó được sanh khởi thì bất động trí nó mới không sanh khởi. Chớ cái trí mà sanh khởi hoài thì nó làm sao mà đối lại với cái pháp đó được. Đó là cái câu hỏi và cái câu trả lời như vậy.

Hỏi: Thế nào là một pháp cần được thắng tri?Thắng tri tức là phải hiểu cho sâu, hiểu cho thấu triệt cái pháp cần cho hiểu, hiểu cho thấu triệt thì mình mới làm chủ được cái pháp đó.

Thì đáp: Tất cả loài hữu tình do ăn uống mà được an trú. Nghĩa là, mình hiểu cho được cái ăn uống này để cho mình làm chủ được cái ăn uống chứ không phải gì hết. Đức Phật muốn nói tất cả loài hữu tình tức là tất cả con vật, con gì, tất cả những loài mà biết, tất cả loài hữu tình, cái thứ nào cũng phải do ăn uống mà an trú. Nếu không ăn uống thì an trú không được. Chúng ta bây giờ không ăn thì chúng ta có an trú nổi không. Có ăn no như thế này chúng ta mới an trú được.

Cho nên, cái pháp, một pháp mà cần được thắng tri á, thì cái pháp đó là cái pháp phải thấu suốt được cái trí hiểu biết của mình. Thấu suốt được lý do ăn uống và an trú của chúng ta. Cho nên, chúng ta ăn một ngày 1 bữa là chúng ta đã thấu suốt được cái lý ăn uống. Cho nên, Phật dạy chúng ta ăn ngày 1 bữa đó, không ăn uống phi thời đó. Mà ăn ngày 1 bữa là chúng ta đã an trú được yên ổn nhất, ăn nhiều chưa chắc đã an trú được. Bởi vì ăn nhiều chúng ta phải giành giật, cũng như loài vật chúng sanh á, ăn nhiều nó phải đánh nhau, giành giật đồ ăn. Cũng như mình, con người cũng vậy. Ăn nhiều rồi sanh ra đấu tranh, nó mới có chuyện này chuyện kia, nó mới có làm những cái điều ác.

Cho nên chúng ta ăn ngày một bữa và 1 bữa đó chúng ta thấy nó an ổn, chuyên trú. Thân và tâm chúng ta rất là an ổn. Đó là cái pháp cần phải được thắng tri.

Hỏi: Thế nào là một pháp cần được tác chứng.Bây giờ chứng cái lý á thì pháp đó cần phải được tác chứng.

Thì đáp, bất động tâm giải thoát. Bất động tâm giải thoát thì quý thầy thấy hiểu chưa, mà Thầy nói cái mục đích của đạo Phật á. Một cái pháp này thôi để giữ cái tâm mình làm sao cho bất động tâm giải thoát thì đó là cái mục đích của đạo Phật, thì đó là cái sự thành tựu của đạo Phật. Muốn được vậy thì chúng ta phải nỗ lực hết sức mình trên bước đường tu tập mới có đạt được mục đích bất động tâm giải thoát.

Bây giờ chúng ta tiếp tục học giáo án trong phần giới đức cho xong để còn phải học giới tuệ và giới bổn nữa. Nó còn rất nhiều cái phần mà chúng ta phải học. Mà Thầy thấy về học cái giới thì nó quá là tuyệt. Cho nên chúng ta phải học cho nó kỹ hơn một chút để chúng ta biết cái đường lối tu tập.

Bây giờ Thầy xin nhắc lại để cho nó nối tiếp với bài pháp vừa rồi về cái giới hạnh, giờ nó tới phần giới đức.

« Ở đây vị tỳ kheo phải hộ trì các căn », nghĩa là vị tỳ kheo phải giữ gìn mắt tai mũi miệng thân ý của mình. Bước qua cái giới đức, thì quý thầy thấy rằng cái pháp hộ trì các căn là pháp là đầu tiên. Mà chính đó là giới đức của chúng ta. Quý vị có mắt, đi ra đường mà nhìn xuống á, mình hộ trì con mắt mình không có nhìn thấy vật gì hết, thì cái tâm nó không ham muốn. Thì tức là giới đức của chúng ta chứ gì. Cái đức ở trong tâm của chúng ta, còn cái kia là hành động mà, các con hiểu điều đó không? Cho nên người ta nhìn cái đức của cái người tu sĩ, đi mà không ngó qua ngó lại thì người ta thấy ông này giữ gìn đức nghiêm chỉnh, tâm không bị dao động. Bởi vì mình đâu có ngó qua ngó lại, mình đâu có thấy vật gì. Cho nên tâm mình đâu có dao động. Mà phải là phòng hộ giữ gìn mắt tai mũi miệng thân ý của mình, đó là cái giới đức đầu tiên mà cái vị tỳ kheo cần phải học.

Thế nào là vị tỳ kheo hộ trì các căn?Bây giờ chúng ta nêu lên hộ trì các căn, hồi nãy trước khi mà học cái bài này, Thầy đã nêu lên có những vị mà Thánh tăng đã hộ trì các căn đó. Đó là người ta tu ở trong giới đức đó. Quý thầy thấy nêu lên 1 cái bài pháp là phải có sự thực hiện ngay cái bài pháp đó liền tức khắc để chúng ta lấy gương hạnh đó mà chúng ta tu tập.

«Thế nào là tỳ kheo hộ trì các căn? Vị tỳ kheo, khi mắt thấy sắc không nắm giữ tướng chung tướng riêng, những nguyên nhân gì khiến cho nhãn căn không được chế ngự, khiến cho tham ái ưu bi, các bất thiện pháp khởi lên, tỳ kheo phải chế ngự nguyên nhân ấy. Hộ trì nhãn căn và nỗ lực thực hành sự hộ trì nhãn căn ấy ».

Đó thì quý thầy thấy, có những cái nguyên nhân nào mà khi con mắt thấy các vật mà không được chế ngự nó thì nó sanh ra ham muốn chứ sao. Cho nên mình phải chế ngự nó, mà khi con mắt thấy một cái vật mà nó sanh ra tham ái, ưa thích thì nó ưa thích thì nó sanh ra, mình về mình nhớ mình nghĩ mình thương, mình thấy như cái này ra. Ví dụ Thầy đặt vấn đề thí dụ, mình đi ra đường, mình thấy một cô gái đó, họ nhìn mình, mình nhìn họ, họ cười mím chi, mình cười mím chi. Về cái bắt đầu cái tâm tham ái của mình bắt đầu nó nổi lên, mình không có chế ngự con mắt của mình được. Mình thấy những hành động đó, những cử chỉ đó, về đó mình nằm bắt đầu mình buồn rầu phải chi gặp cô ta nữa, thôi để ngày mai mình đi ra ngoài đường mình đón cô ta, cô có đi chợ không để mình gặp nữa. Làm cho mình đêm đó ngày đó mình sầu tư ưu bi, người ta gọi là tương tư đó. Tương tư bóng dáng thôi chỉ sơ sơ đó, người ta chỉ cười tình với mình, liếc háy với mình chút xíu thôi mình về thôi sầu não gần chết, có phải là khổ không?

Cho nên vì vậy đó cái người biết rằng những cái nguyên nhân gì khiến cho nhãn căn không được chế ngự, mình thấy được cái sắc pháp đó nó làm cho nhãn căn mình không được chế ngự. Khiến cho tâm tham ái ưu bi chúng ta khởi lên. Đó là nó làm cho tâm chúng ta tương tư đó. Thì đó là chúng ta phải biết đó là các ác bất thiện pháp khởi lên, vị tỳ kheo phải biết rõ cái nguyên nhân đó. Cho nên chúng ta trừ diệt, hộ trì cái nhãn căn, thực hiện sự hộ trì nhãn căn không có cho nó dính cái hình ảnh đó nữa. Quét sạch cái nụ cười đó ra, quét sạch cái đôi mắt mà liếc tình đó ra. Cho nên vì vậy mà chúng ta thấy thanh thản trở lại, không có ưu bi không có tương tư nữa.

Đó thì, ở đây đức Phật dạy cho chúng ta hộ trì các căn làm cho chúng ta thoát khỏi cái dòng mà lôi cuốn, cái dòng mà nó trói buộc chúng ta bằng những sợi dây vô hình mà rất là vĩ đại đó, chứ không phải thường đâu. Người ta thất tình, tương tư cũng vì bacái này mà tiêu hết đó. Mà người tu sĩ đạo Phật mà chúng ta không có rõ được cái nguyên nhân đó, mà cứ để nằm lên, thở dài thở xuống thì cái kiểu đó tiêu ma luôn chứ đừng có nói chuyện tu.

« Khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi hương, thân cảm xúc, ý nhận biết các pháp. Vị tỳ kheo ấy không nhận biết tướng riêng, tướng chung nhờ hộ trì cao quí các căn ấy. Do sự hộ trì các này, mà tâm không đắm trước, đắm nhiễm các pháp thế gian nên nội tâm thanh thản. Nên nội tâm thanh tịnh, thanh thản, không cấu uế, tham dục. Do vậy thân tâm hưởng lạc trọn vẹn của giới đức này ».

Nghĩa là khi mà chúng ta hộ trì các căn thì ngay cái giới đức đó chúng ta thực hiện được thì chúng ta hưởng trọn vẹn của cái sự học giới này. Đó thì quý thầy thấy cái sự phòng hộ sáu căn của chúng ta rất là quan trọng cho cái vấn đề của một người mà trau dồi cái giới đức của họ. « Vị tỳ kheo trau dồi, tu tập phòng hộ giữ gìn 6 căn không cho dính mắc 6 trần như vậy, được tâm thanh tịnh, trong sạch, không cấu uế trần cảnh. Như vậy là giới đức của vị ấy thứ nhứt trong giới luật của đức Phật ».

Nghĩa là chúng ta hộ trì các căn của chúng ta mà được thanh tịnh như vậy á. Đó là thứ nhứt ở trong giới luật của đức Phật, tức là giới đức của vị ấy thứ nhứt ở trong giới luật của đức Phật. Đó chúng ta thấy cái đó là cái thứ nhứt á, cái phần thứ nhứt mà chúng ta tu tập cái giới đức của đức Phật, của giới luật của đức Phật.

« Ở đây vị tỳ kheo phải chánh niệm tỉnh giác », đó bây giờ tới thứ hai nữa.

« Ở đây vị tỳ kheo phải chánh niệm tỉnh giác, thế nào là vị tỳ kheo chánh niệm tỉnh giác? ». Chánh niệm tỉnh giác là một giới đức của vị tỳ kheo mà cần phải trau dồi, tu tập hằng ngày, không được biếng trễ. Nghĩa là chúng ta thấy đức Phật có nói phòng hộ 6 căn, rồi Phật còn gọi cái tên phòng hộ 6 căn , Phật còn gọi là Thánh phòng hộ 6 căn. Cho đến cái định mà gọi là Chánh niệm tỉnh giác định đó thì Phật còn gọi là Thánh chánh niệm tỉnh giác, dùng cái tên nghe mà mình thấy các bậc Thánh tu hành chứ không phải người tầm thường.

Vậy thì, thế nào là chánh niệm tỉnh giác, Thánh chánh niệm tỉnh giác là 1 giới đức của vị tỳ kheo mà cần phải trau dồi tu tập hàng ngày không được biếng trễ. Đây là Phật dạy ra cái hành động mà chúng ta tu tập cái Thánh chánh niệm tỉnh giác này. « Tỳ kheo khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác ».Nghĩa là mình tỉnh giác ở trên cái hành động đi tới đi lui của mình đó. « Khi nhìn thẳng khi nhìn quanh đều tỉnh giác».  Nghĩa là mình nhìn qua thì mình tỉnh giác trong cái sự nhìn qua của mình. Nhìn tới, nhìn lui, nhìn qua, nhìn lại, những cái nhìn của mình đều phải tỉnh giác ở trong đó. Tỉnh giác để làm gì? Các thầy nghĩ tỉnh giác để làm gì đây? Tỉnh giác để phòng hộ 6 căn của mình chứ làm gì, để cho nó đừng dính mắc chứ gì. Nếu mà không tỉnh giác thì nó sẽ dính à. Cho nên, mình lúc nào mình cũng tỉnh giác nó, giữ gìn trong cái hành động của mình, liếc nhìn, ngó quanh ngó quất đều là tỉnh giác.

« Khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác. Khi mang y kép, bình bát, y thượng đều tỉnh giác. Khi ăn uống, nhai nuốt đều tỉnh giác. Khi đi đại tiểu tiện đều tỉnh giác. Khi đi đứng nằm ngồi, thức nói yên lặng, thầm lặng đều tỉnh giác .Nói chung là tất cả các hành động trong thân khẩu ý đều coi sự tỉnh giác, đều lúc nào cũng coi sự tỉnh giác, đều lúc nào cũng có sự tỉnh giác. Luôn luôn niệm hành động không mất », tức là không thất niệm, nghĩa là luôn luôn mình giữ cái niệm hành động của mình đừng có mất, thì tức là mình không thất niệm, còn nếu mà nó mất thì tức là mình bị thất niệm. Thí dụ mình đương ngó qua cái mình quên đi tức là mình thiếu tỉnh giác thì đó là mình thất niệm rồi đó. Cho nên, đức Phật thường nhắc chúng ta là thất niệm đó, khi tu một cái phần nào, luyện tập trau dồi cái phần nào thì tức là mình phải luôn luôn phải đừng để cho thất niệm. Mà thất niệm thì đó là không tốt rồi. « Như vậy là giới đức của vị tỳ kheo thứ 2 trong giới luật của đức Phật ».

Đó chúng ta thấy từng cái giới, mà giới đức thứ nhứt rồi giới đức thứ 2, nó có tuần tự. Nếu quý vị tu Chánh niệm tỉnh giác trước mà không  phòng hộ 6 căn trước thì cái đó là quý vị tu ngược. Lớp 1 mà không tu lại tu lớp 2 đó. Cho nên bây giờ vô Thầy dạy quý thầy “đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, đó là tu lớp 2 chứ không phải tu lớp 1. Còn dạy mà chúng ta phòng hộ 6 căn thì đó là bước đầu chúng ta tu lớp 1 rồi đến tu lớp 2. Cho nên khi mà tỉnh giác để chúng ta làm gì? Để chúng ta giữ gìn phòng hộ 6 căn của chúng ta đó.

Khi nó thấy, khi nó nghe, khi này kia đó. Mắt nhìn ngó, hoặc là cái gì động dụng gì của ý đều là mình quan sát, mình tỉnh thức. Cho nên mình tỉnh thức thì mình ngăn cái lòng ham muốn của mình ngay liền tức khắc. Mình không tỉnh thức, cái lòng ham muốn của mình xâm chiếm mình ngay liền. Ác pháp vô đó mà xâm nhập tâm hồn của chúng ta. À, chúng ta thấy từ cái lớp 1 chứ, đó là cái lớp 1 chúng ta phải tu Thánh phòng hộ 6 căn. Lớp 2 của giới đức thì chúng ta lại tu Chánh niệm tỉnh thức.

Cho nên, chúng ta tu cái này rồi. Nó thấy được cái phòng hộ rồi, từ phòng hộ ăn uống, tới phòng hộ mặc y áo, phòng hộ tất cả mọi vật nó không còn dính mắc rồi, thì bây giờ tu Chánh niệm tỉnh thức nó rất là tỉnh thức. Các thầy thấy rất rõ, trên con đường của đạo Phật vạch cho chúng ta đi, cứ từng bước một, bước một của chúng ta đi mà nó làm cho chúng ta tỉnh thức, rất là tỉnh thức.

« Nhờ giới đức tỉnh thức này, nên ngũ triền và ngũ kiết sử không xâm chiếm được tâm của vị ấy ».Nghĩa là tỉnh thức rồi thì ngũ triền cái với ngũ kiết sử, ngũ kiết sử hay là thất kiết sử, sau này tới phần giới tuệ Thầy sẽ dạy cho quý thầy cái phần ngũ triền cái, ngũ kiết sử và thất kiết sử để cho quý thầy biết những cái đó là những cái gì mà chúng ta cần phải quét sạch nó ra. Còn bây giờ thì chúng ta lướt qua để chúng ta biết rằng, nhờ giới đức tỉnh thức này nên ngũ triền cái và ngũ kiết sử không xâm chiếm được tâm của vị ấy. Vị ấy hoàn toàn sống thanh thản, an lạc. Tâm vị ấy lần lần thanh tịnh, trong sạch.

« Ở đây, vị tỳ kheo ít muốn ít biết, đây tới giới đức thứ ba đây. Chánh niệm tỉnh giác là giới đức thứ hai. Giới đức thứ ba ».

« Ở đây, vị tỳ kheo ít muốn ít biết đủ ».Ít muốn là thiểu dục tri túc đó. Đó là một cái giới đức của một vị tu sĩ, họ phải cần tập luyện đây. « Thế nào là ít muốn biết đủ? Ít muốn biết đủ tức là thiểu dục tri túc. Thiểu dục tri túc là 1 giới đức của vị tỳ kheo nên cần phải trau dồi tu tập hàng ngày. Nếu không trau dồi tu tập hàng ngày thì khó mà sống được với cái đức này ». Nghĩa là phải luôn luôn trau dồi nó. Vậy thì trau dồi nó như thế nào đây?

«Ở đây vị tỳ kheo phải chấp nhận, phải bằng lòng với 3 y, 3 tấm y để che thân. Với đồ ăn đi xin để nuôi bụng. Đi đến chỗ nào, cũng chỉ mang theo 3 y, 1 bát không được thêm cũng không được bớt. Cũng như con chim bay đến chỗ nào nó cũng mang theo 2 cái cánh và 1 chiếc mỏ để sống, bữa đói bữa no mà vẫn không quan tâm. Chỉ quan tâm đến cuộc sống thiểu dục tri túc của giới đức, giới đức của người tu sĩ ». Nghĩa là mình quan tâm tới giới đức của mình, cho nên luôn luôn mình sống thiểu dục tri túc, không có đòi hỏi. Bữa đói bữa no cũng không quan trọng nữa, mà chỉ cần mình giữ cái giới đức của mình.

Đó là mình đi đâu cũng chỉ mang 3 y, 1 bát của mình đến đó. Và cái bát của mình đó là cái mỏ của mình để mình đi xin ăn mà sống. Bữa thì người ta cho ăn thì no, bữa mà người ta không cho ăn thì đói mà vẫn biết giữ đói thì cũng vẫn là ít muốn biết đủ. Chứ không phải đói là bắt đầu mình muốn cho ăn nhiều á. Thì cái đó không phải là tri túc thiểu dục. Ở đây cái tri túc thiểu dục là nói bây giờ đồ ăn mình dư dả quá nhiều rồi, mình ăn ít thôi. Nhưng mà sự thật khi đói rồi mới biết được chỗ chúng ta có thiểu dục tri túc hay không? Đó là cái khó đó.

Ở đây nói tới cái giới đức thứ 3 của Phật dạy. Cho nên nó khó chớ hổng dễ đâu. Nói thiểu dục tri túc, khi mà chúng ta đói rồi chúng ta mới biết thiểu dục tri túc chúng ta ở chỗ nào. Khi mà quần áo chúng ta, y áo chúng ta rách nát hết rồi, không còn có mặc nữa hay hoặc là ướt át hết rồi chúng ta mới thấy là cái chỗ thiểu dục tri túc của chúng ta nó mới có biết được chỗ đó. Chớ hổng phải nghe nói thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ như vậy là đơn giản cái danh từ vậy đâu. Khi mà trường hợp và hoàn cảnh chúng ta có đói, có khát chúng ta mới biết chỗ tri túc thiểu dục chúng ta ở chỗ đó, ở chỗ đói khát đó. Ở chỗ, mà người đời mà người ta gọi là không thể làm được cái tri túc thiểu dục đó. Chớ còn bây giờ, ví dụ như mình nghèo đó, họ nói tui cũng biết đủ rồi, tui đâu có gì đâu, tui đâu có ham giàu nữa. Sức ông ta ổng làm giàu không được nữa nên ông đâu làm sao ông ham được nữa. Cho nên ông nói ông biết đủ rồi.

Đó thì cái đó là cái mà không thể nói rằng tri túc thiểu dục giới đức của cái người tu sĩ được. Mà giới đức của người tu sĩ căn cứ vào cái chỗ mà đói, mà khát, mà rách, mà rưới, mà khi đau bệnh mà không thuốc thang đó mà vẫn tri túc thiểu dục được trong lúc đó, đó mới gọi là tri túc thiểu dục.

Nếu mà Thầy không giảng như vậy, thì quý thầy chỉ hiểu sơ sơ chỗ tri túc thiểu dục đó thì không thấu suốt được đạo Phật đâu.

 « Như vậy là giới đức của vị tỳ kheo thứ 3 trong giới luật của đức Phật ».

Đó, cái chỗ mà thiểu dục tri túc này mà sống như vầy đó thì đức Phật coi nó là giới đức của một vị tỳ kheo trong giới luật của mình(BBT:CĐ,19A,E00:45:11).(BBT:CĐ,19B,B00:00:00) Người tu sĩ nào sống ngược lại những giới đức này là vị tỳ kheo phạm giới đức, phạm phải giới đức của đạo Phật. Vị ấy là trùng trong lông sư tử. Nghĩa là mình không giữ được tâm của mình khi mà trong cảnh khó, mà mình không giữ tâm của mình thiểu dục tri túc. Cho nên, hầu như người ta không giữ được cái thiểu dục tri túc đó, mà người ta phải để dành thuốc, để dành thang, để dành 2 cái y, để dành 2 cái cục xà bông, để dành 2 cây kim, để rủi cây này có gãy còn cây kia nó còn mà vá. Mà bây giờ mình gãy sạch hết rồi, mà quần áo thì rách hết rồi, lấy gì vá đây? Thì không phải lúc bấy giờ mới là lúc thiểu dục tri túc sao? Chớ đâu phải lúc còn cây kim đó là lúc thiểu dục tri túc đâu. Quý thầy phải hiểu cái chỗ khó khăn là cái chỗ đó đó. Mà cái chỗ đó mới nói lên cái đức của cái người tu, thiểu dục tri túc đến mức đó đó.

Vị tỳ kheo khi đã thành tựu giới hạnh và 3 giới đức cao quý trên đây, đó phải được xem là 3 giới đức cao quí của họ chứ không phải là tầm thường. Nếu mà giữ gìn được 3 cái giới đức này, thật là một vị tỳ kheo đáng để cho người ta cúi đầu mà người ta đảnh lễ. Người ta cúng dâng tất cả những cái thực phẩm để coi như đương nhiên là một vị Phật sống ở tại thế gian này rồi.

Thứ nhất là chúng ta phải hiểu là các giới hạnh chúng ta tu tập ở trên, nghĩa là các giới hạnh chúng ta đã học ở trên cộng với 3 cái giới đức mà chúng ta vừa học á thì 2 là giới đức hộ trì các căn, 3 là giới đức chánh niệm tỉnh giác, 4 là giới đức thiểu dục tri túc. Có 3 cái giới đức này, nó quan trọng trong bước đầu của cái người mà tu tập về cái giới đức của đạo Phật.

Khi đã thấy giới đức, giới hạnh, khi đã tu tập giới đức, giới hạnh này viên mãn thì nên lựa 1 cái chỗ thanh vắng, khi mà chúng ta giới đức, giới hạnh tức là những giới hạnh 25 cái giới hạnh ở trên và 3 cái giới đức dưới này mà chúng ta tu tập, chúng ta sống được như vậy rồi, thì bắt đầu chúng ta mới đi đến 1 cái chỗ thanh vắng, tĩnh mịch như rừng cây, ngoài trời, đống rơm, chòi lá, hay khe suối, hang đá, hang động. Bắt đầu chúng ta mới đi đến đó chúng ta thực hiện những giới đức kế tiếp để chúng ta tu tập.

« Sau khi khất thực ăn cơm xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú chánh niệm trước trước mặt ».Đó, bây giờ mới đi vào giới đức kế tiếp. Còn nếu mà 3 cái giới đức và những giới hạnh ở trên mà chưa thực hiện được, thì cái chuyện mà đi làm cái chuyện này á, thì không thể nào mà làm tới giới đức kế tiếp được. Bởi vì từ cái lớp thấp, phải học cho nó xong thì mới đến cái lớp cao. Và đến cái lớp cao này thì chúng ta phải đầy đủ giới hạnh và đạt được 3 cái giới đức như Thầy đã giảng ở trên.

Thì bắt đầu, bây giờ chúng ta mới vào rừng, để rồi chúng ta tu tập giới đức gì tiếp theo đây. Chúng ta thấy coi thử coi cách thức tu như thế nào đây? « Vị tỳ kheo sau khi ngồi kiết già, lưng thẳng đứng, vị ấy đặt niệm tham ái trước mặt ».Đó, mặc dù là phòng hộ giữ gìn, chánh niệm tỉnh thức như vậy rồi nhưng chưa hẳn đã là quét sạch tham ái trong lòng của mình. Cho nên, vị đó phải đi vào cái nơi thanh vắng yên tĩnh ở trong rừng, trong núi á rồi mới đặt cái lưng thẳng, ngồi kiết già, rồi mới đặt cái niệm tham ái trước mặt mình, quán xét tận tường tham ái, vị ấy từ bỏ tham ái.

Quán xét cho nó thấu suốt của nó rồi, tức là tu Định vô lậu đây. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta mới từ bỏ cái lòng tham ái của chúng ta được. Đó thì quý thầy thấy cái chỗ tu của đạo Phật có từng bước, từng bước rất rõ ràng. Chớ không phải là nói mà cái chuyện tu mù mờ như bây giờ cứ ngồi thiền hít thở không á. Đó là tu mù, tu mờ chứ tu không đúng cách thức mà tu tập.

« Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gọt rửa tâm hết tham ái, từ bỏ ».Đó bắt đầu các thầy thấy không, khi mà đặt cái niệm như vậy đó thì bắt đầu vị ấy mới quán xét tức là dùng cái pháp quán mà quán xét các tham ái của mình. Nó như thế nào, nó khổ như thế nào, nó sao sao, để cho mình quét sạch nó ra những cái tâm mà từ lâu tới giờ mình có những cái tham ái, nó làm cho mình giành giật(  đau khổ trong lòng của mình.

Mặc dù là qua cái giới hạnh và cái giới đức ở trên á, nó làm cho mình được tỉnh thức được cao, được xả ly rất nhiều rồi đó. Bây giờ nó còn quét sạch những cái tham ái mà vi tế ở trong lòng chúng ta. Còn cái thô thì chúng ta hết rồi. Những cái giới đức, giới hạnh ở trên đã quét sạch hết cái thô rồi. Còn bây giờ cái thô của mình chưa có tu tập cái này á, mà nó còn thô mà ngồi đây quét sạch tham ái thì chắc chắn chỉ là quét cái sơ, cũng như là mình xoa cái da của nó, chứ nhằm nhò gì tới cái tâm của nó đâu, nó làm sao mà nó hết được.

Cho nên, bắt đầu bây giờ đó mới là quán xét nó, từ đó cái trí tuệ chúng ta nó phóng ra những cái tri kiến giải thoát, nó làm cho chúng ta thấm, thấu suốt được cái tâm tham ái, cho nên chúng ta ly nó ra, gọt sạch hết cái tham ái này ra. Bắt đầu cái tham ái mà chúng ta gọt sạch nó hết tham ái này ra rồi thì bắt đầu chúng ta từ bỏ sân hận. « Vị ấy sống với tâm không sân hận ». Tức là chúng ta đặt cái niệm sân trước mặt chúng ta nữa. Nghĩa là tâm tham ái đã quán xét nó rồi, thấu suốt nó rồi, xả ly nó rồi, từ bỏ nó rồi. Thì bắt đầu bây giờ chúng ta mới đặt cái niệm sân ở trước mặt nữa.

Chúng ta tiếp tục, không có nghĩa là trong thời gian mà ngồi ở tại khu đó đó, mà thời gian này quán xét tham ái rồi, tiếp tục cái sân nữa được đâu, không phải đâu! Nghĩa là tham ái chúng ta quét sạch rồi bắt đầu chúng ta xả nghỉ. Chơi cho nó khỏe, rồi một lúc nữa chúng ta đặt chúng ta tu cái tham ái nữa, quét cho thật sạch, chúng ta thấu suốt được cái lý mà ly cho hết cái tham ái trong 1 ngày, 2 ngày, 1 tuần lễ, 2 tuần lễ. Chúng ta thấy cái tâm tham ái của chúng ta nó quét sạch được rồi. Bắt đầu, chúng ta mới đặt cái niệm sân, đặt cái niệm sân rồi chúng ta cũng quán xét cái niệm sân như vậy. Để chúng ta quét sạch cái sân ra.

Khi mà chúng ta quét sạch, từ giã cái tâm sân của chúng ta thì lòng từ mẫn, thương xót tất cả chúng sanh hữu tình. Đó thì lúc bấy giờ chúng ta quét sạch cái tâm sân của chúng ta thì cái tâm từ mẫn của chúng ta nó thương xót chúng sanh nó hiện ra. « Đây là giới đức của vị ấy thứ 4 trong giới luật của đức Phật ». Nghĩa là khi mà quét sạch cái tâm tham ái, cái lòng sân hận cái tâm từ bi của vị ấy phát triển ra được thì đó là cái giới đức thứ 4 ở trong cái giới luật của đức Phật.

À không ở đây cái tâm sân, ở đây Thầy lộn ở chỗ này. Các thầy nhớ kỹ, chỉ quét sạch cái tâm tham ái đó là cái giới đức của chúng ta thứ 4 ở trong cái giới luật của đức Phật. Còn cái tâm sân nó lại nằm riêng ở cái phần khác rồi đó, nó không ở trong cái phần của tâm tham ái. Bởi vì tham ái nó là một cái giới đức, quét sạch cái tham ái nó là một cái giới đức ở trong cái giới luật của Phật.

Ở đây Thầy tiếp tục vì hồi nãy Thầy bị ghi lộn chứ không phải gì hết.

Khi đã gọt rửa tâm tham ái, gọt rửa tâm tham ái xong rồi thì vị ấy mới đặt lưng ngồi thẳng, ngồi kiết già đó thì mới đặt cái niệm sân trước mặt quán xét. Bây giờ tới cái tâm sân á. « Quán xét cái tâm sân, vị ấy từ bỏ tâm sân ở đời, sống với tâm thoát ly sân hận, gọt rửa hết tâm sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh. Không chỗ nào mà tâm từ bi không biến mãn đến ». Đó thì bắt đầu bây giờ quét sạch hết tâm sân á, thì cái lòng thương xót chúng sanh thì bắt nó mới phủ trùm ra, nó mới thương xót tất cả chúng sanh.

Còn cái tâm sân thì không bao giờ mà thương xót tất cả chúng sanh đâu. Người ta còn giận một chút xíu á thì chưa chắc đã là thương xót. Cái thương của chúng ta là cái thương đối đãi, cái thương mà của thường tình chớ không phải là cái thương của từ bi đâu. Cho nên, khi mà chúng ta quét sạch được tâm sân thì cái tâm từ bi chúng ta mới thực hiện ra được. Vì vậy á, mà muốn cho cái tâm sân của chúng ta mà đối trị nó thì người ta tu Tứ vô lượng tâm đó. Để thực hiện cái tâm từ để rồi từ bi nó mới có, nó mới quét sạch tâm sân.

Nhưng bây giờ ở đây chúng ta lại dùng cái Định vô lậu chúng ta quét cái tâm sân của chúng ta ra, thì từ bi nó sẽ thể hiện ra. Nó đi lại ngược lại. Hồi đó chúng ta còn là chiếc áo cư sĩ á, thì chúng ta không thể tu cái này được bởi vì chúng ta chưa có sống cái đời sống mà thoát ly, xuất gia được. Chúng ta chưa có đời sống mà Chánh niệm tỉnh thức, phòng hộ sáu căn được cho nên chúng ta phải lấy tâm từ mà tu, Tứ vô lượng mà tu, để cho cái tâm của chúng ta phủ trùm lòng thương yêu mà từ đó nó đối trị cái tâm sân của chúng ta, để chúng ta không còn sân hận nữa.

Nhưng chưa phải quét sạch cái tận gốc của sân hận. Cho nên chúng ta phải đi tới cái giai đoạn này, là chúng ta dùng cái Định vô lậu, đặt niệm sân, quán xét sân rồi phá vỡ tâm sân. Từ bi chúng ta bây giờ, tâm từ bi hỷ xả chúng ta bây giờ mới thực hiện chân thật của từ bi hỷ xả.

Đó, hai bên thì chúng ta thấy có khác nhau, nhưng mà nó cũng giúp cho hỗ trợ cho nhau. Nếu mà cái người cư sĩ còn sân mà vào tu chưa chắc đã là giữ được phòng hộ 6 căn, giữ được tất cả mọi cái. Cho nên, chúng ta phải hiểu thấu suốt được, trau dồi cái lòng từ bi hỷ xả của chúng ta trong chiếc áo cư sĩ. Khi đến với đức Phật thì chúng ta quét sạch cái tâm sân hận của chúng ta rất dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và từ đó tâm từ bi của chúng ta lại còn thấm nhuần sâu hơn và cao hơn nữa.

« Đây là giới thứ 5, tâm sân đó,là giới thứ 5 của vị ấy trong giới luật của đức Phật ».« Khi đã gọt rửa tâm sân hận hết sạch, vị ấy đặt niệm hôn trầm thùy miên trước mặt ». Hồi nãy có 1 vị thánh tăng đặt cái niệm buồn ngủ trước mặt để mà tu đó. Thì bây giờ đức Phật cũng dạy chúng ta ở chỗ này này. Tu cái giới đức này phải đặt cái niệm hôn trầm thùy miên ở trước mặt của mình rồi mình quán xét cho thống suốt cái niệm thùy miên từ đâu đến, do đâu mà có mà sanh ra lười biếng mà tham ngủ như vậy? Do đó mình quán xét thấu suốt được, cái lý mà thấu suốt được á thì mình sẽ từ bỏ thùy miên, từ bỏ hôn trầm thùy miên ở đời.

«Sống với tâm thoát ly hôn trầm thùy miên, sống cố gắng gọt rửa cho hết tâm hôn trầm thùy miên, với tâm tưởng về ánh sáng, luôn luôn phải giữ tâm chánh niệm tỉnh thức ».Nghĩa là luôn luôn lúc nào bây giờ mình muốn quét sạch tâm hôn trầm thùy miên á, mình mới dùng cái tưởng của mình, mình tưởng cái tâm của mình sáng suốt, đêm thì như ngày chứ không có đen tối như đêm nữa. Nghĩa là luôn luôn mình phải dùng cái tưởng kèm theo để cho cái tâm hôn trầm thùy miên của mình. Bởi vì nó ham ngủ á, nó thấy chỗ nào mờ mờ, tối tối là nó ham lắm. Mà nó sáng chừng nào thì nó ghét lắm, cái tâm mà lười biếng nó thấy sáng nó ghét lắm.

Cho nên vì vậy đó mà mình phải tưởng cái tâm của mình sáng như ánh sáng, sáng như ban ngày làm cho cái hôn trầm thùy miên nó phải mất đi. Cho nên, ở đây luôn luôn phải giữ chánh niệm tỉnh thức. Chánh niệm tỉnh thức ở đây là giữ cái tâm sáng suốt chứ không phải là chánh niệm tỉnh thức ở đây là giữ cái hành động của chúng ta như ở trước nữa. Các thầy phải hiểu cái chỗ chánh niệm tỉnh thức này là cái niệm chơn chính của ánh sáng và thức tỉnh nơi ánh sáng để làm cho cái hôn trầm thùy miên chúng ta không có. Cho nên phải biết áp dụng, phải biết sử dụng nó ở trong cái chánh niệm tỉnh thức nào, mà ở trong cái chỗ pháp tu thì nó mới có kết quả. Còn ví mà sai chúng ta chẳng biết đường mà chúng ta tu tập. Thì mới mong gọt rửa hết tâm hôn trầm thùy miên. «Từ đó muốn hết hôn trầm thùy miên vị ấy phải trau dồi lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh, chỗ nào mà tâm từ bi không biến mãn đến. «Đây là giới đức thứ 6 của vị ấy trong giới luật của đức Phật ». Đó thì quý thầy thấy rằng, trong cái sự tu tập của chúng ta mà xả bỏ được cái hôn trầm thùy miên là cái giới đức thứ 6 của giới luật của đức Phật. Đây là giới đức thứ 6 của vị ấy trong giới luật của đức Phật.

« Khi vị tỳ kheo đã gọt rửa hết hôn trầm thùy miên thì vị ấy đặt niệm trạo cử, hối tiếc trước mặt, quán xét cho thấu đáo, tường tận, sống tâm không còn trạo cử, hối tiếc, từ bỏ trạo cử, hối tiếc, sống với nội tâm trầm lặng, thanh thản, nhẹ nhàng, luôn luôn hân hoan, vì thế lòng từ mẫn thương yêu tất cả loài chúng sanh, chỗ nào cũng có tâm từ bi hỷ xả biến mãn khắp cùng, nhờ thế trạo cử, hối tiếc mới quét sạch, mới gọt rửa hết .Đây là giới đức thứ 7 của vị ấy trong giới luật của đức Phật ».

Đó thì cái trạo cử. Trạo cử là cái gì? Mà hối tiếc là cái gì? Trạo cử là tâm lăng xăng nghĩ cái này đến cái kia, nó liên tục. Phật gọi nó là tùy miên, tùy miên chứ không phải là thùy miên. Thùy miên là ngủ, còn tùy miên là nó liên tục. Trạo cử là có cái dòng liên tục nó nhớ cái này, nhớ đến cái kia, nó nhớ đến cái nọ. Người nào mà có độc cư thì mới thấy được cái trạo cử. Rồi nó hối tiếc hồi nhỏ mình làm cái này, cái kia, cái nọ, rồi làm cho cha mẹ buồn, làm cho anh em giận; làm cái này, cái kia nó nhớ ra hết. Ðó là nó tùy miên theo cái trạo cử, theo cái dòng tư tưởng của nó gọi là trạo cử đó. Vì vậy cho nên khi mà có cái dòng tư tưởng mà trạo cử như vậy, nó hối tiếc như vậy đó thì chúng ta phải đặt cái niệm, quán xét nó từ đâu sinh ra. Nó ở trong những quá khứ, những sự kiện xảy ra ở trong quá khứ, nó thường thường trào dâng lên một cách rất là tràn trề, nó không bao giờ dứt.

Cho nên có lần Minh Tông nói với Thầy là sống độc cư rồi chúng ta mới thấy nó tuôn tràn, nó tuôn tràn riết mãi, nó tuôn tràn sạch hết rồi thì nó mới hết tuôn tràn. Cho nên do vì vậy đó mà chúng ta biết rằng cái độc cư đó làm cho cái tâm trạo cử của chúng ta tuôn tràn sạch. Còn ở đây đức Phật lại phòng ngừa chúng ta đặt cái niệm cho nó, rồi chúng ta quán xét cái trạo cử này, cái hối tiếc này, mà người ta dùng danh từ là trạo hối. Nó vừa khởi lên mà vừa hối hận ở trong đó, nó vừa hối tiếc cái này, hối tiếc cái kia. Như trước kia mình làm sĩ quan, tướng tá, bây giờ ở trong cái chế độ XHCN thì mình chỉ làm cái thằng xích lô vậy thôi thì nghe nó buồn tủi, nó hối tiếc hồi mình lên voi đó, mình ra lệnh, mình sai thằng này, thằng kia, kẻ hầu, người hạ đầy đủ. La một tiếng là ai cũng chạy mù, còn bây giờ đi ra đường nhiều cái bà mà chửi xiên, chửi xỏ mình đủ cách hết, mà cũng không dám nói họ nữa. Cho nên những cái nỗi mà nuối tiếc lại thời mà vàng son của mình nó làm cho mình đau lòng, nó làm cho mình khổ sở. Cái tư tưởng đó nó tuôn tràn ra, cái tư tưởng đó gọi là trạo cử hay hoặc là trạo hối hay là trạo cử hối tiếc.

Vì vậy mà chúng ta tu tập để cho nó không còn cái trạo cử hối tiếc đó nữa thì chúng ta phải quán xét tường tận những cái trạo cử hối tiếc đó từ đâu sinh ra, nó có thật hay là không? Hay hoặc là một cái nhân quả nào đó mà chúng ta phải trả với một cái giá rất đắt? Hay hoặc là chúng ta phải hưởng một cái thời vàng son nào đó là hết phước rồi thì chúng ta phải trở về vị trí quá là khổ sở như thế này.

Trước kia mình giàu sang, bây giờ qua giải phóng rồi, mình không còn hai bàn tay trắng không, mà mình luôn luôn mình cứ hối tiếc lại những chuyện vàng son của mình giàu có hồi trước. Bây giờ mình đâm ra mình đau khổ thì tức là mình quá ngu si. Cho nên mình quán xét như vậy, cho nên mình thấy đó là cái luật nhân quả. Người ta nói : « không ai giàu ba họ mà cũng không ai khó ba đời »thì đó là nhân quả. Cho nên câu tục ngữ nói vậy là đúng chứ không có sai được. Cho nên đâu có ai mà giàu hoài được mà cũng đâu có ai mà nghèo hoài, thì có lúc lên voi, có lúc xuống chó chứ. Do cái chỗ đó chúng ta chỉ an ủi chúng ta nhưng tâm trạng của con người khó mà hết cái trạo cử hối tiếc này. Vì vậy đó mà đạo Phật dạy chúng ta phải quán xét, quét sạch cái trạo cử hối tiếc ra khỏi cái tâm tư của chúng ta. Nhờ cái sự mà trau dồi như vậy đó thì chúng ta mới gọt rửa sạch hết cái trạo cử hối tiếc. Nó là cái giới đức thứ 7 của sự tu tập của chúng ta. Nó không phải thường đâu, nó không phải dễ đâu, cho nên phải nỗ lực tu tập ở trong cái Định vô lậu chúng ta mới quét sạch được cái trạo cử hối tiếc này.

« Khi vị tỳ kheo đã gọt sạch hết trạo cử hối tiếc xong, vị ấy đặt niệm trước mặt, quán xét cho thấu đáo tường tận mạn ».Mạn là ngã mạn đó. « Vị ấy từ bỏ ngã mạn ở đời, sống với tâm thoát ly ngã mạn, gọt rửa cho sạch hết tâm ngã mạn, nhờ thế lòng từ mẫn thương yêu tất cả chúng sanh, loài hữu tình. Với tâm từ, bi, hỷ, xả vô bờ bến biến mãn khắp tất cả muôn phương nhờ thế vị ấy mới gọt rửa sạch tâm cống cao ngã mạn của mình. Đây là giới đức thứ 8 của vị ấy trong giới luật của đức Phật ».Đó là cái giới đức thứ 8 của tâm ngã mạn, mình quét sạch nó ra.

Ngã mạn coi vậy chứ khó lắm, bởi vì khi mà chúng ta đặt cái niệm trước mắt rồi chúng ta quán xét suy tư lại hằng ngày mình có những hành động ngã mạn ở trong đó? Nó vi tế, rất vi tế do đó chúng ta quán xét chúng ta mới thấy được hành động ngã mạn. Từ đó hành động ngã mạn của mình, mình chỉ sơ xuất thôi, mình thấy nó không có, nhưng rồi người khác người ta nhận xét mà người ta không dám nói ra.Chẳng hạn nào như mình lơ đễnh một chút cái ngã của mình lộ ra người ta thấy, mà mình không thấy cái ngã của mình. Mà hễ người ta nhắc mình thì mình đỏ mặt lên liền, cho nên người ta ít có muốn nhắc là như vậy. Nhưng mình phải là quán xét, mình đặt cái niệm ngã mạn của mình mình quán xét. Ngày hôm đó mình có hành động nào mà ngã mạn, mình quán xét mình suy tư. Mình vô tình chứ không phải mình hữu ý nhưng cái ngã của mình nó vẫn còn cho nên cái hành động của mình nó có cái vẻ ra ta đây đó, thì tức là ngã mạn. Nhất là khi chúng ta tu được một chút ít nào đó, coi chừng mà cái ngã mạn của chúng ta theo đó. Cũng như chúng ta học được một ít gì đó hay hoặc là chúng ta học giỏi hơn mọi người trong lớp rồi, tuần này chúng ta được hạng nhất rồi. Coi bộ vô trong lớp, coi bộ mình đạp thiên hạ dưới chân hết, hiu hiu tự đắc lắm á. Cho nên vì vậy mà tuần sau nó xuống cái hạng 10 cái hoảng hồn rồi, lật đật. Bởi vì mình nghĩ rằng mình hạng nhất thì phải hạng nhất luôn, nhưng mà không ngờ lại người ta lại dở hơn mình thì người ta lại cố gắng học hơn, còn mình lại ngã mạn mình không lo học cho nên mình lại thua. Mình thua bắt đầu cái mặt mình buồn so à. Buồn so tức là cũng ngã mạn của mình đó, chứ không phải nói mình hiu hiu tự đắc đó là ngã mạn mà lại buồn không phải ngã mạn. Chính cái buồn cũng là cái ngã mạn, buồn vì mình thua người ta mình ngã mạn, tức là cái mặt ngã mạn của mình. Cho nên mình phải xét nhiều khía cạnh để cho mình diệt cái ngã mạn của mình.

Từ đó cái oai nghi tế hạnh của một người mà giới đức đó họ không bao giờ để kẽ hở cho người khác thấy ngã mạn của họ. Còn nếu mà thiếu xét như vậy thì cái ngã mạn của chúng ta càng ngày nó càng lừng lẫy, nó càng lộ ra những cái tướng, coi như mặt vác hất ở trên trời á. Mới có dự thi được vào cao đẳng Vạn Hạnh thôi, nghĩa là chưa học Vạn Hạnh ngày nào hết à. Mới có tốt nghiệp qua trường cơ bản Phật học thôi, rồi được thi vô cao đẳng Vạn Hạnh thì Thầy thấy cái mặt đã vác hất ở trên trời rồi. Mà chưa học được ngày nào ở trong Vạn Hạnh, chưa được cấp bằng cử nhân nữa mà đã vác mặt đi coi nghênh nghênh rồi. Coi như mình là sinh viên đại học rồi. Thì thấy cái đó là cái ngã mạn mà là một tu sĩ chứ đừng nói chi cái người ngoài đời. Đó là những cái chúng ta phải biết cái vi tế của cái ngã mạn của chúng ta, nó là một cái tâm rất là làm cho chúng ta đau khổ trong bước đường tu tập của chúng ta.

« Khi vị tỳ kheo đã gọt rửa hết tâm ngã mạn, cống cao xong; vị ấy đặt niệm nghi ngờ trước mặt quán xét thấu đáo, tường tận ».Bây giờ chúng ta hết tâm ngã mạn cống cao rồi thì chúng ta lại đặt cái niệm nghi ngờ. Bởi vì nghi ngờ chúng ta nhiều lắm. Thấy người đó như vầy mình nghi ngờ người đó là như vầy khác, nói xấu mình hoặc thế này thế khác. Thấy người đó vầy mình nghi ngờ họ là không ưa mình, hơi có một cái gì đó mình thấy không ưa. Do cái tâm nghi ngờ đó mà nó sinh ra những cái giận, cái hờn, cái phiền não, rồi cái không ưa với nhau, tất cả mọi cái. Cho nên cái nghi ngờ đó là cái phải đặt cái niệm mình phải quán xét. Nó làm cho tâm mình chướng lắm. Ai mà làm gì mặc, mình chả biết thì cái nghi ngờ mình không có, chứ còn không chút chút mình sẽ dễ nghi ngờ. Thấy thằng đó hơi liếc liếc ngó nhà mình, nghĩ thằng này ăn cắp. Đó, mình nghi ngờ kiểu đó, người ta ngó người ta thấy nhà mình có cây ổi, hoặc là có gì đó lạ lạ, người ta ngó, người ta liếc liếc ngó, mình nói thằng ăn cắp. Người ta chưa từng ăn cắp mà mình cũng nghi người ta nữa. Cái đó là có tội không? Cái nghi ngờ là cái, chẳng hạn như đâu tất cả là những bậc Thánh hết cho nên có những cái tốt, mà có những cái xấu. Do đó mình xét qua cái người đó, mình xét phần nhiều xét qua cái xấu của họ, cho nên mình nói ông này tu hành chẳng ra gì. Nhưng mà mình không xét cái tốt của người ta, ít ra người ta 10 cái, có 10 cái người ta cũng được 5 cái tốt, còn 5 cái xấu. Mình xét 5 cái xấu mình nói rằng, ông này tu chẳng ra gì hết. Đó là cái sai của mình, bởi vì những cái đó là nghi, nghi người ta tu chẳng ra gì hết. Nhưng mà người ta tu thì phải có được cái xấu, cái tốt của người ta chớ, chứ đâu phải là không. Cho nên cái nghi đó là cái làm cho chúng ta ngã mạn chúng ta trở lên, mà nó không triệt tiêu cái ngã mạn. Cho nên ở đây Thầy nói mình tu thì mình tìm cái sự giải thoát, không có khen chê người nào hết. Mà lỡ mình khen chê, mình thấy người đó sai đúng, coi chừng cái sai đúng của mình chưa hẳn đã là cái sai đúng đâu. Cho nên đó là cái nghi của mình đó.

« Vị ấy từ bỏ tâm nghi ngờ ở đời, sống với tâm thoát ly nghi ngờ, gọt rửa hết nghi ngờ đối với các thiện pháp . Đối với giới luật, đối với thiền định của đạo Phật, đối với trí tuệ của Phật phải gọt rửa hết tâm nghi ngờ ».Nghĩa là đối với Phật, Pháp, Tăng, Giới của đức Phật mà đã dạy chúng ta, chúng ta không có nghi ngờ nó, chúng ta nghĩ rằng đó là những cái pháp mà đưa chúng ta đến giải thoát hoàn toàn. Còn nếu chúng ta nghi ngờ Phật pháp thì chẳng làm gì được hết đâu, thôi. Đó là mình đã nghi rồi thì không bao giờ mình tu tập được đâu. Cho nên mình phải nghĩ rằng trước đức Phật đã làm được, sau đức Phật còn nhiều bậc Thánh tăng làm được, kế đó trong thời đại này còn có những người làm được chứ không phải không! Cho nên chúng ta phải quét sạch cái tâm nghi ngờ đó, cho nên chúng ta tin, chúng ta rất tin ở Phật, ở thiền định của Phật, ở giới luật của Phật, ở pháp của Phật và ở trí tuệ của Phật.

Cho nên chúng ta gọt rửa hết cái tâm nghi ngờ Phật, Pháp, Tăng và Giới luật. « Nhờ gọt rửa hết tâm nghi ngờ đối với các pháp, nhờ thế mà lòng từ bi lân mẫn của chúng ta đối với chúng sanh với tâm từ bi hỷ xả vô bờ bến, biến mãn phủ trùm tất cả sinh linh vạn vật mười phương. Đây là giới đức thứ 9 của vị ấy trong giới luật của đức Phật ».Đó thì đây là cái giới đức thứ 9 mà khi xả hết cái tâm nghi ngờ. Đó thì quý thầy sẽ học được những cái giới như vậy thì quý thầy thấy tâm hồn của mình như thế nào? Thanh thản vô cùng, vô lượng. Như vậy là giới đức của vị tỳ kheo thứ tư trong giới luật của đức Phật.(BBT:CĐ,19B,E00:24:27)

(Missing)

(BBT:CĐ,20A,B00:25:42)***Bây giờ Thầy bắt đầu tiếp tục cái bài giảng bữa trước.

Trau dồi cái kia, tu tập cái nọ thì quý vị sẽ vứt bỏ những hỷ lạc ngon ngọt của thế gian thường tình xong thì mới có thể nếm được mùi vị hỷ lạc xuất thế gian. Bây giờ quý vị mới rõ chớ không phải con đường tu hành theo đạo Phật khô cằn, khô cỗi như bãi sa mạc toàn là cát và nắng nóng bức khó chịu.

Vì thế có người hỏi Thầy: Nếu tất cả mọi người đều tu theo đạo Phật thì thế gian này đâu còn có con ngườ?Đó là đứng núi này mà trông núi khác hoặc là muốn hiểu núi khác thì không thể nào hiểu được. Như con cá ở dưới nước làm sao biết được sự sống trên đất bằng. Cho nên con người thường sống hằng tưởng nên thường tưởng sai. Thậm chí ngay trong thân tâm này của họ, họ còn hiểu không nổi hết huống là họ hiểu cảnh giới của các bậc Thánh Hiền.

Đó thì các thầy muốn mà để hưởng được cái hỷ lạc của các bậc Thánh Hiền, của bậc xuất gia thì phải dứt bỏ cái hỷ lạc của thế gian. Bởi vì nếu mà không có dứt bỏ cái hỷ lạc của thế gian thì không thể nào mà hưởng được cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian được. Bởi vì cái hỷ lạc đó là cái hỷ lạc dục cho nên phải ly dục, ly ác pháp của thế gian ra, thì cái dục lạc của thế gian nó không còn có nữa thì cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian nó mới có. Vì vậy bây giờ chúng ta còn ôm ấp cái dục lạc của thế gian, làm sao chúng ta biết được cái mùi vị của xuất thế gian được. Cho nên hầu hết là quý vị ngồi thiền nhập định mà có trạng thái hỷ lạc, khinh an, điều đó đều là sai hết. Bởi vì chính mình chưa có ly được cái dục lạc của thế gian, tâm mình còn dính mắc cái này, cái kia cái nọ, mặc dù là mình là một vị tu sĩ nhưng mà vẫn còn dính cái chùa chứ chưa đâu phải là mình là một vị du tăng khất sĩ, ba y một bát, không còn chùa không còn cái vật gì gọi là của mình hết như vậy mình mới thấy được cái hỷ lạc của bậc xuất thế. Còn mình chưa có được như vậy mà mình tưởng tượng ra nào là khinh an, nào là hỷ lạc, nào là thế này thế kia, thì cái đó toàn là thứ dục lạc chứ không phải hỷ lạc.

Bởi vì tu hành chúng ta phải biết được cái hỷ lạc nào là chơn chánh, cái hỷ lạc nào mà nó không chơn chánh. Cái hỷ lạc mà đem đến chúng ta muôn thứ khổ đó là hỷ lạc của dục, còn hỷ lạc mà đem chúng ta yểm ly, xa lánh tất cả các sự ham muốn, sự lôi cuốn của thế gian, của các pháp thế gian nó làm cho chúng ta xa lìa được những cái khổ đau đó, thì đó là cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian. Nhưng muốn nếu nếm được mùi vị của nó thì chúng ta phải tách lìa, xa lìa cái hỷ lạc của thế gian thì chúng ta mới thọ hưởng được cái đó. Còn nếu mà không xa lìa, không tách lìa thì chắc chắn là chúng ta không có thọ hưởng được. Cũng như con cá mà muốn biết được ở trên đất bằng sống như thế nào thì ít ra nó cũng phải lìa khỏi cái sông, cái hồ nước của nó, mà nó lên đất bằng nó mới biết được. Còn bây giờ nó ở dưới nước mà nó muốn biết được ở trên đất bằng thì làm sao nó biết được. Cho nên đó là những điều mà chúng ta phải ly được thì chúng ta mới thấy được.

Vì vậy khi mà chúng ta phải thấy được 2 cái lộ trình mà đức Phật đã vạch ra thì chúng ta biết điều đó rất là rõ ràng. Nếu mà chúng ta không thấy được 2 lộ trình này thì chắc chắn khó mà chúng ta có thể đạt được kết quả của cái sự tu hành theo đạo Phật. Vì cái lộ trình của đạo Phật là xuất thế gian, ly tất cả các dục, các ác pháp của thế gian, thì chúng ta mới thực hiện được cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian. Đó thì như vậy không có nghĩa là con đường mà đi tu theo đạo Phật nó khô cằn khô cội, mà cho đến khi không còn có người Không có thai sanh thì tức là chúng ta phải có hóa sanh, mà hóa sanh là nó phải lìa cái dục, nó mới hóa sanh được. Còn nếu mà chúng ta chưa lìa dục làm sao chúng ta hóa sanh được. Cũng như bây giờ chúng ta còn ở trong dục mà chúng ta muốn có thần thông thì thần thông đó là thần thông gì? Thần thông huyễn hoặc, thần thông như là một cái trò ảo thuật gạt người ta. Còn cái thần thông thực là chúng ta phải có một cái sự ly tất cả các dục này thì chúng ta mới sống được hóa sanh. Hóa sanh thì tức là chúng ta muốn như thế nào ? Như là Tứ như ý túc, Dục như ý túc là chúng ta muốn như thế nào nó phải thành tựu như thế ấy. Chúng ta muốn sanh là sanh mà chúng ta không muốn sanh là không sanh. Chớ không phải là bây giờ chúng ta muốn sanh nó cũng không được, mà chúng ta muốn chết cũng không được, muốn sống cũng không được. Đó là chúng ta không có quyền. Còn khi mà cái người mà ly được cái dục lạc thế gian này rồi thì người ta có quyền sống chết, người ta muốn sanh như thế nào là theo cái ý của người ta muốn, muốn người lớn là lớn mà nhỏ là nhỏ. Bởi vì khi mà chúng ta lìa khỏi dục lạc thế gian rồi thì chúng ta có cái sự tự tại như vậy đó.

Cho nên đạo Phật nhắm vào cái chỗ mà chúng ta ly thế gian, ly các pháp thế gian ra thì chúng ta mới đạt được cái kết quả của cái sự làm chủ. Mà cái sự làm chủ đó nó không có nghĩa là làm cho hoại diệt, làm cho tiêu diệt con người ở trên thế gian này. Mà thể hiện con người trên thế gian này càng cao đẹp, càng tốt đẹp hơn và tâm hồn mỗi con người đều có những cái lòng thiện biết thương nhau, biết chan hòa với tình thương nhau, chơn thật không biết ganh đua, không biết tỵ hiềm, không biết tham sân si mạn nghi, không có ngũ triền cái, không có ngũ kiết sử, không có thất kiết sử ở trong đó. Cho nên toàn là hạnh phúc của mọi người với nhau. Vì vậy mà chúng ta thấy con đường của đạo Phật là con đường rất rõ ràng, thực hiện nó một cách là chúng ta lìa xa khỏi cuộc đời ham muốn của thế gian là chúng ta đã đạt được đạo Phật chớ đâu có gì khác hơn.

Như trước kia Thầy đã dạy 25 giới hành thuộc về thân hành, còn 13 giới đức thuộc về tâm hành.

Trạng thái tâm hành là gì? Trạng thái tâm hành là thiền định cho nên thân thuộc về giới hành (à, giới hành hay là giới hạnh) còn tâm thuộc về giới định.Vậy 13 giới đức tức là 13 định trong giới luật của đạo Phật, cho nên có chỗ Phật gọi là giới tâm tuệ. Nghĩa là thay vì Phật gọi Tam vô lậu học đó, Phật gọi Giới - Định -Tuệ, thì có chỗ Phật lại gọi là Giới – Tâm - Tuệ. Cho nên tâm tức là giới đức của chúng ta, vì vậy mà chúng ta hiểu rõ được cái con đường đi của chúng ta chia làm ba cái giới rất rõ. Mà ba giới rất rõ này nó chỉ cho chúng ta nằm ở trong cái vị trí của tam vô lậu học Giới - Định -Tuệ.

Vậy thì giới hạnh tức là giới bổn Pātimokkha, mà giới đức tức là định, mà giới tuệ là huệ. Đó là những điều mà hôm nay quý thầy mới thấy rõ được điều kiện của đạo Phật Giới – Định – Tuệ hoàn toàn thuộc về giới, chớ không có gì khác hơn hết. Nhưng mà vì vị trí của giới nào nó ở vị trí nấy, nó có cái phận sự ở đó, nó làm cho tâm, làm cho hành động của chúng ta thanh tịnh, làm cho tâm chúng ta thanh tịnh, làm cho trí tuệ chúng ta thanh tịnh thì gọi là Giới. Cho nên lúc đầu Thầy có giới thiệu đó:

Giới làm cho trí tuệ thanh tịnh mà trí tuệ làm cho giới thanh tịnh.

Các thầy nhớ cái chỗ đó, vì ở đâu có trí tuệ thì ở đó có giới luật, mà ở đâu có giới luật thì ở đó có trí tuệ. Cho nên cái trí tuệ của giới hạnh, nếu mà chúng ta có trí ở trong cái giới hạnh thì cái hành động hằng ngày của chúng ta nó phải thanh tịnh. Mà cái hành động được thanh tịnh như vậy thì ở đó phải có trí tuệ.

Cũng như giới đức: Ở đâu mà có tâm thanh tịnh thì ở đó nó sẽ có trí tuệ, mà có trí tuệ ở đó thì phải có giới đức ở đó.

Cũng vậy, cái giới tuệ nó cũng vậy: Ở đâu có trí tuệ thì ở đó có giới tuệ, mà ở đâu có giới tuệ thì phải có trí tuệ.

Đó thì đến đây thì quý thầy đã thấy rõ được cái con đường đi của Phật toàn là những pháp thiện, cho nên gọi là sơ thiện là giới hạnh, mà trung thiện là giới đức, mà hậu thiện là giới tuệ, rất là rõ ràng. Bởi vì đạo Phật là đạo thiện pháp, cho nên tất cả đều nằm ở trong giới, mà giới tức là thiện pháp chớ không phải là một pháp môn nào xa lạ. Nhưng muốn thực hiện được những điều đó thì chúng ta có những 37 phẩm trợ đạo để mà chúng ta thực hiện con đường tu, để thành tựu được cái con đường thiện pháp này, con đường thiện pháp này tức là Giới – Định – Tuệ.

Vì vậy ở đây quý thầy phải hiểu giới tâm tức là thiền định, mà thiền định là một cảnh giới thực tại có sự an lạc, tuyệt tĩnh trong cảnh giới đó, không phải không có. Quý thầy hiểu, bởi vì cái thiền định nó có những cái hỷ lạc của nó. Cho nên, Phật có so sánh 2 cái hỷ lạc, hỷ lạc của dục thế gian, chúng ta ăn miếng ngon chúng ta biết ngon, đó là dục lạc của hỷ lạc thế gian. Có một sự êm ấm làm chúng ta thích thú, đó là cái dục lạc của thế gian. Còn ở đây chúng ta ly cái đó ra, cho nên chúng ta đạt được cái sức thiền định thì nó có cái hỷ lạc tuyệt đỉnh hơn là cái dục lạc của thế gian. Nó làm cho chúng ta thấy có một cảnh giới rất là tuyệt diệu ở trong đó.

Vì vậy ở đây quý thầy phải hiểu giới tâm tức là thiền định, mà thiền định là một cảnh giới thực tại có hiện chớ không phải là không có hiện. Nơi trong trạng thái tâm hồn chúng ta chứ đâu. Chớ không phải là cảnh giới nào ở xa xôi đâu, nó ở trong cái tâm trạng chúng ta ở đây. Chỉ chúng ta ly dục là chúng ta sẽ có nó liền. Mà chúng ta không ly dục là chúng ta không có nó mà thôi. Thực tại có sự an lạc tuyệt đỉnh trong cảnh giới đó, không phải không có. Đức Phật đã xác định điều này rất là rõ ràng qua bài so sánh bốn hỷ lạc thế gian của phàm phu và bốn hỷ lạc của xuất thế gian của bậc Thánh.

Tiếc rằng, kẻ phàm phu tu hành chưa tới nơi tới chốn, cứ tưởng tượng ra hỷ lạc thế này thế kia làm sai con đường tu hành theo đạo Phật. Làm cho Phật Pháp gần như mất gốc, người tu thời nay hết biết đường tu. Tu tầm bậy, tầm bạ, đời đạo lẫn lộn. Đạo Phật mà bây giờ lại giống như các tôn giáo khác trên thế gian này, thật rất đau lòng! Kinh sách nguyên gốc của đức Phật còn đó, mà người hiểu theo tâm dục lạc thế gian của mình nên thành sai lệch, quá sai.

Đó thì lấy cái tâm dục lạc của mình hiểu qua kinh của Phật thì làm sao hiểu cho nổi. Ít ra mình phải hiểu được cái kinh sách của Phật là cái tâm của mình phải ly dục lạc của thế gian mà thọ hưởng cái dục lạc của pháp xuất thế gian thì chừng đó mình hiểu từng chữ, từng nghĩa rất rõ ràng không sai. Mà bây giờ nhìn lại, ai là người mà đã ly được dục lạc thế gian, mà đã thọ hưởng được dục lạc pháp xuất thế gian? Mà để nhìn lại kinh sách để dẫn chúng ta đi con đường này? Tức là phải là những bậc A la hán, những bậc mà có thể phải là có những cái kinh nghiệm tu hành chính xác ở trong giới luật của Phật và sống đúng phạm hạnh, đức hạnh của Phật, của đạo Phật thì mới có thể giải nghĩa và diễn giải nghĩa pháp của Phật mới có thể đem lại cho chúng ta thấy rõ con đường tu tập.

Còn những bậc phàm phu có kiến thức học hỏi, nhưng làm sao hiểu được nghĩa lý này cho thông suốt? Cho nên làm sao vạch ra cho được, từ đó tưởng ra thế này, tưởng ra thế khác làm cho con đường của Phật Pháp quá xa xôi, quá xa lạ. Làm cho chúng ta chẳng biết đường nào mà đi vào cho đạt được kết quả giải thoát. 13 giới đức trong giới luật của đạo Phật, của đức Phật đã xác chứng thiền định của đạo Phật là giới luật nghiêm chỉnh mà thành thiền định. Nghĩa là thiền định của đạo Phật phải là lấy giới luật nghiêm chỉnh nó mới có thiền định. Bởi vì thiền định của đạo Phật, mà muốn có thiền định của đạo Phật thì không thể một cái người mà tu thiền định đó mà còn sống ở trong dục lạc thế gian được. Như quý vị bây giờ ăn 3, 4 bữa làm sao quý vị có thiền định được, còn chưa có ly cái dục ăn mà. Quý vị còn ham ngủ làm sao quý vị thực hiện được con đường thiền định này? Quý vị thấy rất rõ. Cho nên từ cái kiếp sống của quý vị, quý vị còn ham thích từ cái nhà, từ cái cửa, từ cái vật dụng, từ phật tử, từ cái danh, cái nhỏ nhỏ làm trụ trì, hoặc làm ông này bà kia, thì thử hỏi cái đó là cái dục lạc của thế gian mà, mà chưa có ly được hết thì làm sao mà quý vị thực hiện được con đường thiền định chơn chánh của đạo Phật?

Cho nên, hầu hết là cái sự tu hành của quý vị đều sai hết. Không có còn cái chỗ nào gọi là đúng. Bởi vì từ cái chỗ Sơ thiền của Phật chúng ta thấy rõ ràng ly dục, ly bất thiện pháp, nhập Sơ thiền, từ đó nó mới có cái hỷ lạc của ly dục, chớ đâu phải khi không mà có được, tức là mình phải ly cho sạch. Đó thì thấy, qua một cái Sơ thiền, một cái thiền thứ nhứt của đạo Phật mà chúng ta đã thấy được cái điều kiện mà Phật đã xác định như vậy.

Chớ không phải ngoài giới luật mà đi tìm thiền định có được. Bởi vậy, ly dục ly bất thiện pháp mới nhập được Sơ thiền. Điều này quá rõ ràng, giới luật sanh ra thiền định. Nghĩa là từ ở trong cái giới hạnh của chúng ta mới có được cái giới đức chứ không phải là tự dưng mà không có giới hạnh mà giới đức có được. Nghĩa là quý vị mà không dẹp bỏ tất cả những cái nghề nghiệp của thế gian mà sống, mà còn có 1 bình bát, 3 cái y mà đi xin ăn á thì chắc chắn là quý vị có làm một cái nghề gì đi mà sống trong cuộc đời này, mà quý vị chẳng bao giờ xa lìa được cái dục lạc.

Mà chẳng xa lìa được cái dục lạc thì giới hạnh của quý vị chưa xong thì quý vị không bao giờ mà có thể nếm được cái mùi vị của giới đức được. Do đó làm sao có thiền định được nếu không có giới hạnh thì không bao giờ có giới đức. Mà giới hạnh, quí thầy đã biết, một vị tu sĩ chỉ còn 3 y, 1 bát không còn có một nghề nghiệp gì sinh sống, chỉ đi xin ăn mà thôi. Đời sống không nhà không cửa, không người thân thuộc, ruột thịt. Giữa mọi con người tình thương bao la, rộng mở. Có sống như thế thì định kia mới sanh ra, tức là giới đức mới tròn đủ. Giới hạnh được Phật xem là sơ thiện, còn giới đức được xem là trung thiện. Vậy quý thầy học được đến đây là chúng ta đã học được sơ thiện và trung thiện trong giới luật của đạo Phật. Đến đây Thầy dừng lại.

Bây giờ để tiếp tục chương trình học của giáo án, trước khi mà học đến giới tuệ thì Thầy xin thuật lại một vài mẩu chuyện của các bậc Thánh tăng, để bước qua cái giới tuệ chúng ta biết giới tuệ là như thế nào.

Nếu mà không có những gương hạnh này thì chắc chắn là chúng ta chưa biết được cái giới tuệ của Phật là như thế nào bởi vì hầu hết là các thầy cũng có học giới luật không phải không, nhưng mà các thầy chưa có được nghe những cái lời giảng mà do từ kinh nghiệm bản thân của Thầy, mà Thầy thấy đó là một cái điều cần phải lưu lại qua cái giáo án này. Cho nên qua những cái điều kiện mà nêu lên những cái gương hạnh của những bậc Thánh tăng trong thời đức Phật để quý thầy lấy cái đó mà thấy được khi mà bước sang qua giai đoạn mà giới tuệ là nó như thế nào? Chớ không khéo là quý thầy tưởng như là giới hạnh, hoặc là giới đức nữa, nó là khác rồi, nó không giống rồi.

Để tiếp tục học chương trình giáo án này ta nên noi gương các bậc Thánh tăng thời đức Phật để lấy đó mà làm gương hạnh sách tấn tu hành cho mình. Bây giờ Thầy thuật lại ông Phú Lâu Na, chắc ai cũng nghe cái ông này hếtKhi đến tuổi trưởng thành, hình như là ông Phú Lâu Na Thầy đã thuật lại rồi phải không các con? Ông ngài Niép Ta đã có thuật rồi, ngài Vasapala cũng đã thuật rồi. Bây giờ tới Ngài Gavampati.

Ngài Gavampati, Ngài theo Phật xuất gia và chứng quả A la hán. Một hôm Đức Thế Tôn và một số đông tỳ kheo trên đường du hành vượt sông Sarabhu. Nhưng đến đó trời tối, mọi vị tỳ kheo phải nằm nghỉ trên bãi cát sông Sarabhu. Đến nửa đêm nước sông dâng lên và các thầy tỳ kheo trẻ tuổi la ồn náo.

Thế Tôn nghe vậy bảo Gavampati can thiệp, vị trưởng lão dùng giới tuệ thần túc thông của mình làm theo lời Phật dạy, dừng dòng nước lại từ xa. Khiến cho dòng nước dựng đứng lên như ngọn núi mà không tràn vào bãi cát được. Do vậy, mọi người biết ngài có thần thông siêu việt. Hôm sau, chúng và Thế Tôn được ngài đưa sang sông an lành.

Sau khi Đức Phật và đại chúng đi xong thì người ta không còn thấy ngài nữa, ngài đã ẩn bóng. Do vậy, Bậc Đạo Sư dùng kệ tán thán công đức của ngài:

Với tuệ thần túc thông

Dựng đứng nước Sarabhu,

Chính Gavampati,

Không ỷ lại, không động,

Ẩn bóng giấu tung tích,

Vượt qua mọi trói buộc,

Chư thiền đều đảnh lễ,

Bậc Ðại sĩ Mâu-ni

Ðã vượt qua sanh hữu.

Đó là cái bài kệ của đức Phật tán thán cái vị tu sĩ này. Đó thì khi mà đến giới tuệ thì các thầy thấy sức thần thông của họ đến cái mức độ nào. Nước sông tràn như vậy mà dùng thần thông chặn đứng nước sông cao như núi mà không tràn xuống được. Đó là cái ý muốn của người ta muốn như thế nào được như thế nấy. Đó gọi là tuệ giải thoát đó, chứ không phải tri kiến giải thoát đâu.

Ở đây chúng ta lầm tưởng, lấy cái chỗ mà tuệ của định sinh ra, là cái tuệ nó không phải là cái tuệ tầm thường của phàm phu, không phải là trí tuệ tầm thường. Cho nên chúng ta thấy ở trong kinh sách thường nói, khi mà chúng ta niệm hương á, có cái bài hương mà đầu tiên đó: Giới hương nè, định hương nè, dữ huệ hương. Thì cái huệ hương đó nó thuộc về nằm ở trong giới định tuệ thì nó khác rồi. Nhưng mà tri kiến và tri kiến giải thoát hương thì 2 cái hương mà sau cùng này, cái hương tri kiến và cái hương tri kiến giải thoát nó không phải là tuệ đâu.

Nhưng mà, cái hương tri kiến giải thoát nó nằm trong góc độ của tuệ thứ nhứt, của giới tuệ thứ nhứt, thì một lát nữa quý thầy sẽ học đến giới tuệ thứ nhứt, giới tuệ thứ nhất thì quý vị biết đó là tri kiến giải thoát. Còn cái tri kiến mà chúng ta dùng đây nó không phải là tuệ đâu, nó là cái tri kiến cho nên nó là cái sự kết tập những sự hiểu biết, chứ không phải là như các vị mà đã giảng, thường giảng cho chúng ta biết là văn, tư, tu. Nó có 3 cái tuệ gọi là: văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ.

Những điều đó là những điều kiến giải của bậc học giả, không phải là của những bậc tu hành chứng(BBT:CĐ,20A,E00:45:47).(BBT:CĐ,20B,B00:00:00) Cho nên họ không có biết tri kiến như thế nào và tri kiến giải thoát như thế nào. Cho nên họ gồm cho đó là trí tuệ của họ, sự thật ra chưa phải, họ chưa hiểu. Bởi vì cái trí tuệ của đạo Phật mà khi từ định sinh ra trí tuệ vô cùng siêu việt, không phải là cái trí tuệ tầm thường. Họ ở trong cái Tứ như ý túc mà họ sử dụng cái trí tuệ đó chứ không phải là tầm thường.

Còn khi mà họ ra bình thường mà họ sống như bình thường chúng ta, họ dùng tri kiến giải thoát cho nên gọi là tri kiến giải thoát. (BBT:CĐ,20B,00:00:28)Nhưng tri kiến giải thoát nó chỉ nằm ở trong 13 cái giới tuệ của đức Phật. Mà cái giới tuệ đầu tiên đó là cái tri kiến giải thoát của họ, còn tất cả những cái tuệ sau cùng, tới sau cùng đều là những cái tuệ do từ định mà sanh ra. Cho nên cái tuệ siêu việt chớ không phải là tuệ tầm thường.

Để rồi học tới đó thì quý thầy mới thấy được cái giới tuệ của đức Phật tuyệt diệu chớ không phải cái thứ mà tri kiến mà kết tập, tích hợp lại những cái sự hiểu biết của kinh sách của các vị kim cổ, hiểu biết của các bậc thánh hiền để lấy làm của mình đó thì cái tri kiến đó gọi là cái tri kiến chứ chưa được gọi là trí tuệ, chưa được gọi là cái gì cả hết, mà cũng chưa được gọi là cái tri kiến giải thoát nữa.

Thì đủ biết rằng cái con đường của đạo Phật nó dạy cho chúng ta rất rõ ràng và cụ thể. Cho nên ở đây chúng ta thấy cái vị này họ đạt được cái giới tuệ Thần túc thông. Ở đây người ta dùng cái danh từ giới tuệ thần túc thông. “Dựng đứng nước Sara”, tức là dựng đứng nước sông Sarabhu. “Chính Gavampati”, tức là ngài Gavampati, ngài dựng đứng nước sông, không có cho nước tràn vào bờ, vào bãi cát để cho chúng tỳ kheo yên ổn mà ngủ suốt đêm đó để mà sáng mà lên đường đi.

Khi mà làm được những cái hành động như vậy thì ngài không có ỷ lại, ngài không có ngã mạn cho nên không ỷ lại không động. Tâm ngài không có thấy đó là mình hơn ai hết, nghĩa là bình thường như mọi người. Rồi khi mà đưa chúng tỳ kheo đi xong rồi thì ngài lại ẩn bóng, ngài giấu tung tích của mình. Chẳng bao giờ ai thấy ngài ở trong cái đoàn đó nữa. “Vượt qua mọi trói buộc”, ở đây mọi trói buộc không có nghĩa là, nghĩa là vượt qua cái sự khen tặng của các tỳ kheo, của các vị cư sĩ trong cái thời đó. Cho nên ngài đã ẩn bóng, ngài không để cho lộ tung tích nữa. Đó là ngài đã vượt qua cái sự mà khen của các vị đó. “Chư thiên đều đảnh lễ”. Hồi nãy cái chỗ câu này là “Chư thiên” chứ không phải là “chư thiền”, “Chư thiên đều đánh lễ” nghĩa là các chư thiên đều thấy cái sự ẩn bóng, và thấy cái hành động mà ông ta làm mà tâm không có ngã, không ỷ lại. Thì cho nên chư thiên ở trên các cõi trời đều đến đảnh lễ ngài.

“Bậc đại sĩ Mâu ni”. Những người đó gọi là đại sĩ Mâu ni. “Đã vượt qua sanh hữu” - nghĩa là không còn dính mắc cái sự sanh hữu, tức là khen chê, hoặc cái này cái kia. Họ đã vượt qua hết những cái đó rồi. Đó là qua bài kệ, như vậy chúng ta thấy khi mà cái trí tuệ, mà giới tuệ của họ, thần túc thông như vậy, siêu việt như vậy đó thì họ là những con người siêu việt mà không thể nào mà tưởng tượng được. Khi mà chúng ta tu hành tới mà giới tuệ thì chúng ta cũng như vậy, nghĩa là chúng ta muốn như thế nào là đạt như thế nấy chứ không phải là cái muốn của chúng ta như còn phàm phu muốn ăn, muốn ngủ đâu, hay hoặc là muốn nhà, muốn cửa, muốn chùa to tháp lớn nữa đâu, hay hoặc là muốn làm danh ông này ông kia đâu, không có đâu. Người ta sẽ muốn cái khác, chứ không phải, muốn làm sao cho tất cả thế gian này được hưởng hạnh phúc, muốn làm sao cho tất cả mọi …(BBT:CĐ,20B,E00:03:23)

BĂNG SỐ 19

Nghĩa là chúng ta muốn như thế nào là đạt như thế nấy chứ không phải là cái muốn của chúng ta như còn phàm phu như là muốn ăn, muốn ngủ đâu, hay hoặc là muốn nhà muốn cửa, muốn chùa to, tháp lớn nữa đâu, hay hoặc là muốn làm danh làm ông này, ông kia đâu, không có đâu. Người ta sẽ muốn cái khác chứ không phải như vậy, muốn làm sao cho tất cả thế gian này được hưởng hạnh phúc,(BBT:CĐ,20B,B00:03:23) muốn làm sao cho tất cả mọi người đều thực hiện những cái thiện pháp để đem lại những cái quả lành cho mọi con người để được an lành trong cuộc sống. Đó là cái muốn của những bậc mà người ta có Trí tuệ, có Giới tuệ. Còn những bậc mà chưa có Giới tuệ, họ còn muốn danh, muốn lợi của thế gian, họ còn muốn tiền tài của báu, họ còn muốn chùa to, tháp lớn hoặc còn muốn đồ chúng, họ còn muốn bành trướng chỗ này đến chỗ kia để gây cơ sở bằng cách này, bằng cách khác. Đó là cái muốn của họ đó. Đó là cái muốn của thế gian!

***

CHUYỆN NGÀI UTTARA

Bây giờ Thầy thuật lại cho quý thầy thấy một vị nữa: Ngài Uttara, Ngài sanh ở thành Vương Xá, Ngài thông minh và thông suốt ba bộ kinh Vệ Đà. Ngài có danh tiếng tốt, Ngài có đức hạnh và dung sắc đẹp đẽ. Ngài được một vị Bộ trưởng ở thành Ma Kiệt Đà gả con gái cho Ngài, nhưng Ngài từ chối và xuất gia với ông Xá Lợi Phất nên Ngài thường làm bổn phận của một chú Sa Di hầu thầy. Một hôm Tôn giả Xá Lợi Phất bị bệnh, Ngài phải ôm bình bát ra bờ hồ lấy nước cho ông Xá Lợi Phất. Khi lấy nước xong, Ngài để bình bát ở trên bờ rồi lội xuống hồ để tắm, cùng lúc ấy có một tên trộm bị lính đuổi chạy ra khỏi thành. Khi chạy ngang qua bình bát của Ngài đang để trên bờ sông, gã ăn trộm liền quăng của báu đánh cắp vào bát của Ngài. Các người lính đuổi theo thấy trong bình bát của Ngài có của báu ăn cắp nên bắt Ngài về đưa cho Bộ trưởng đó (Vassakàra đó, là cái người muốn gả con cho ông ta đó, mà ông từ chối ông đi tu đó) để trừng trị. Nghĩa là bây giờ bắt ông đem về trừng trị do cái tội ông ăn cắp.

Ngài bị hành hạ đến chết đi, sống lại. Bậc Đạo sư liền đến khuyên Ngài : “Đây là kết quả của nghiệp đời trước của ngươi, ngươi cần phải chấp nhận và nhờ sức mạnh tư duy khổ thọ, tu tập Định vô lậu thì mới thoát khỏi nghiệp khổ này”. Bậc Đạo sư nói xong, đặt tay nhẹ lên đầu ông. Trong lúc đó ông bị cột trói ở trong một cái trụ cột rất là to và đồng thời thì đức Phật hiện đến và khuyên ông nên lấy cái Định vô lậu đó mà thực hiện cái khổ thọ, lấy cái đề mục khổ thọ mà đặt ra trước mặt để mà thực hiện cái Định vô lậu. Khi nói xong, thì đức Phật xoa đầu ông một cái rồi đức Phật biến mất. Nhờ thế mà tâm tư ông phấn khởi, đặt niệm quán xét thọ khổ, cuối cùng đoạn tận các uế nhiễm và lậu hoặc, chứng sáu thắng trí, chứng quả A La Hán. Lúc bấy giờ ông đang bị cột trói trong một trụ cột rất to. Khi chứng quả xong, ông dùng Giới tuệ Thần túc thông, vươn mình lên khỏi trụ cột, Ngài đứng trên hư không và hiện thần thông. Vì lòng từ mẫn đối với kẻ khác, Ngài không làm hại một người nào hết. Nghĩa là ông bị hành hạ đến cái mức độ mà tàn nhẫn sức không chịu đựng nổi. Bởi vì cái thù hận của cái ông bộ trưởng này đó là vì gả con cho ông mà ông không có nhận, cho nên khi mà bắt ông là ăn trộm rồi thì ông này hành hạ rất là độc. Do đó khi ông đã thực hiện được, nhưng cái lòng từ mẫn của ông, ông không bao giờ hại những cái kẻ mà đã làm hại ông. Trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, các vết thương trên thân Ngài đã bị tra tấn quá tàn ác đều được lành hẳn. Nghĩa là lúc bấy giờ ông dùng thần thông thì các vết thương ở trong thân của ông nó đều lành hết, nó không còn bầm xanh, hoặc là còn đổ máu hoặc còn  rỉ máu hoặc còn mủ máu nữa.

Có người hỏi Ngài, “Trong cảnh đau khổ ấy, làm sao Ngài còn bình tĩnh mà tu tập được?”.Ngài trả lời: “Tôi nhờ bậc Đạo sư nhắc nhở và an ủi, khi tôi thấy rõ sự đau khổ là nhân quả kiếp trước tái sanh của tôi và tánh nhân duyên sanh của sự vật và sự nguy hiểm của sự đau khổ trước kia nhiều hơn hiện tại. Vì thế tôi không còn dao động, tôi phát triển Thiền quán Vô lậu và chứng được kết quả. Sau khi chứng quả, tôi có làm bài kệ”.

Ở đây, cái chỗ này thì quý thầy phải hiểu, ông thấy rõ, khi mà được đức Phật nhắc ông thì ông thấy rõ cái nhân quả cái kiếp trước ông, ông đã tạo cho người ta khổ còn gấp mấy lần trong hiện tại ông đã chịu khổ. Ông ấy đã thấy được cái điều đó, cho nên ông nhận kiếp trước mình đã làm cho người ta khổ biết bao nhiêu, thì bây giờ cái chuyện hiện tại ông, cái khổ mà hiện bây giờ bị hành hạ như vậy nó không có khổ nhiều đâu. Vì thế mà tâm ông không còn dao động nữa, ông đã hiểu được như vậy, tức là đã hiểu được cái nhân quả chứ gì, cho nên tâm ông không sợ hãi, không dao động nữa, từ đó mà ông yên tâm, ông phát triển. Đang bị cột trói như vậy mà ông vẫn an nhiên mà phát triển cái con đường thiền quán của ông, cuối cùng ông thành quả. Cho nên ông viết cái bài kệ để cho chúng ta rút tỉa những kinh nghiệm mà tu tập.

“Không có gì có mặt

Lại thường còn mãi mãi

Không có các hành gì

Lại thường hằng, thường trú

Các uẩn được khởi lên”

Đó là cái pháp hướng, cái đề mục của ông mà ông đã đặt thành một cái niệm tu cái Định vô lậu mà qua cái bài kệ này ông lấy ra.

“Đến đời khác diệt vong

Biết được nguy hiểm này

Tôi chấm dứt sanh hữu

Từ bỏ tất cả dục

Tôi chứng lậu hoặc tận”

Nghĩa là ở đây Thầy giải thích từng câu kệ cho quý thầy thấy rõ. Khi mà quán vô thường mà đặt cái niệm khổ, niệm thọ khổ này, ông thấy lúc có đau, lúc không đau, cho nên ông thấy “không có gì có mặt”. Nghĩa là trong thế gian này không có một cái gì mà có mặt hết. “Lại thường còn mãi mãi”, nghĩa là vật này có thì nó không có kéo dài được trường tồn, cũng như bây giờ chúng ta có, chưa chắc đã là nó mãi mãi được, nó sẽ bị hoại diệt đi. Đó là cái sức quán của ông, thấy nó vô thường như vậy đó. “Không có các hành gì” tức là cái hành động nào, “Lại thường hằng, thường trú”, nghĩa là không có hành động nào mà nó thường hoài được, mà không có cái pháp gì mà trong thế gian này mà thường trú được, nó luôn luôn nó thay đổi và hoại diệt. Đó là ông thấy các pháp vô thường đó!

“Các uẩn được sanh khởi”,tức là năm cái uẩn của chúng ta nó sanh khởi thì nó lên nó thành cái thân, mà nó không có sanh khởi thì nó hoại diệt, thì nó đâu có cái thân. “Đến đời khác diệt vong”, nghĩa bây giờ hiện đời này thì nó hợp nhau nó sanh khởi thì nó có mình, mà đến đời khác thì nó mất đi. Cho nên đến đời khác thì nó diệt vong mất, nó đâu còn nữa. “Biết được nguy hiểm này”, nghĩa là thấy sự sanh khởi, sự vô thường, sự vô ngã của nó, sự thọ khổ của nó như vậy thì biết nó là cái sự nguy hiểm, rất là nguy hiểm. “Tôi chấm dứt sanh hữu”, sanh hữu là cái gì các thầy biết không? Sanh hữu tức là những cái dây mà trói buộc như nhà cửa, của cải, tài sản, anh em, cha mẹ ruột thịt, dòng họ, tất cả những vật nhỏ, vật lớn, đó gọi là sanh hữu. Cho nên, ông nghĩ rồi bắt đầu ông buông hết, không có còn gì trong tôi nữa hết, nghĩa là tôi phải buông sạch, thì buông sạch như vậy là còn ba y, một bát chứ gì? Từ lâu tới giờ ông đi theo, ông thọ theo làm Sa Di, theo hầu với ông Xá Lợi Phất nhưng ông có hết sanh hữu không? Còn sanh hữu chứ, chứ chưa phải hết. Cho nên, tới bây giờ ông mới quán được cái sanh hữu, ông mới diệt sạch nó, dứt sạch nó.

“Từ bỏ tất cả dục”,tất cả lòng ham muốn ông cũng đều bỏ hết xuống, không có ham muốn nữa. Mà dứt bỏ sanh hữu tức là dứt bỏ dục, bởi vì không có vật để mà dục nữa thì sao mà có dục? Cho nên ông không còn vật gì để mà ham muốn nữa. “Tôi chứng lậu hoặc tận”, nghĩa là lậu hoặc ông quét sạch rồi, không còn nữa, cho nên Định Vô lậu ông đã thành tựu, từ đó nó thực hiện được Tam minh, tức là có cái Trí tuệ, cái Giới tuệ của ông hẳn hoi.

Đó thì đó là một vị mà đã có thần thông, đã bị cột trói rồi từ cái chỗ mà chứng đạt thì Ngài thực hiện cái Tuệ, cái Giới tuệ vô lậu của Ngài mà Ngài thực hiện được thì Ngài biến ra một con người đứng ở trên hư không, rồi từ đó người ta hoảng sợ, người ta quá là sợ hãi rồi, không còn ai mà có thể hành hạ ông ta được nữa hết, và cuối cùng thì ông không trả thù người nào hết hoàn toàn, người nào đối xử với ông như thế nào ông cũng không có thù nhưng ông chỉ nghĩ rằng mình được giải thoát mà thôi.

Đó hôm nay chúng ta thấy những cái đó là những cái mà chúng ta bước sang qua một cái điều kiện mà chúng ta học về cái Giới tuệ, thì cái Giới tuệ là cái vấn đề mà chúng ta phải có Thiền định. Bởi vì nếu mà không có Thiền định, làm sao mà chúng ta có cái này được? Nếu không có Thiền định thì làm sao chúng ta có được? Có Thiền định là như thế nào? Chúng ta bảo các hành phải ngưng, thì bây giờ trong thân chúng ta các hành ngưng tức là thân định, mà tâm chúng ta nó diệt tầm tứ thì nó là định rồi. Cho nên lúc bấy giờ tâm nó định ở trên thân, mà thân bây giờ định ở trên tâm, cho nên Phật nói khi mà thân định trên tâm mà tâm định trên thân thì chúng ta câu hữu Tứ như ý túc, là Dục như ý túc, chúng ta muốn như thế nào là nó sẽ theo như thế nấy.Mà bây giờ cái hơi thở, các hành trong thân của chúng ta mà chúng ta bảo nó ngưng, thì nó ngưng được thì cái lực mà của tinh thần của chúng ta trong cái pháp hướng nó vi diệu đến mức độ nào nó mới ngưng chứ? Còn bây giờ chúng ta tập thở rồi chúng ta ngưng thở, thì cái điều đó không phải là chúng ta dùng cái lực của tinh thần mà chúng ta dùng cơ để nín thở. Dùng cơ nín thở thì chắc chắn là không đạt được kết quả mà phải dùng pháp hướng mới kết quả.

Cho nên Thầy thường nhắc quý thầy, người ta chỉ dùng cái pháp hướng mà người ta tu Định Vô lậu để người ta quét sạch được cái lậu hoặc của người ta thì cái pháp hướng đó nó trở thành hiệu quả mà người ta điều khiển được cái thân nó ngưng hoạt động, chứ không phải là chúng ta ngay đây mà chúng ta tập thở chậm hoặc là thở như thế nào chúng ta cũng có vận dụng cái sự thật chậm của nó thật, nhưng không phải quá sức của nó, quá sức của nó sẽ rối loạn cơ thể và làm chúng ta sẽ trở thành bệnh. Cho nên chúng ta phải hiểu được, còn cái lực mà tinh thần của chúng ta điều khiển nó rất là vi tế, nó ra lệnh, tuần tự nó sẽ chậm, nhẹ dần theo nó mà nó sẽ không bị rối loạn, nó thay đổi toàn bộ cơ thể chúng ta, đến khi nó dừng mà chúng ta không chết.

Quý thầy phải hiểu con đường tu tập theo đạo Phật là như vậy nó mới đúng cách. Cho nên ở đây chúng ta cần làm sao ly dục, ly bất thiện pháp mà thôi, mà ly được rồi thì chừng cái điều khiển này nó không phải khó khăn, bởi vì trong cái thời gian mà ly dục, ly bất thiện pháp đó chúng ta phải tu tập Định vô lậu và Chánh niệm tỉnh thức định cho cái sức tỉnh của chúng ta rất cao độ, để chúng ta phóng ra những cái tri kiến, làm cho cái sự quán xét của tất cả lậu hoặc chúng ta đều bắt được nó, cho nên chúng ta phải quét cho ra khỏi tâm. Mà quét ra khỏi tâm thì tâm chúng ta tịnh rồi, tức là cái pháp mà chúng ta đã dùng pháp hướng để quét tất cả lậu hoặc, nó trở thành một cái tinh thần, cái lực của tinh thần, cho nên gọi là lực định, hay hoặc là cái Định lực.

Trong đạo Phật nó có năm cái lực (Ngũ lực đó) thì: Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực và Huệ lực. Năm cái lực này chúng ta thấy rất rõ ràng nếu mà chúng ta tu tập đúng thì chúng ta có năm cái lực đó. Mà năm cái lực đó thì cái Niệm lực là nơi mà chúng ta tu cái Định vô lậu là nó đã có Niệm lực, mà cái Niệm lực đó thì đó là cái lực tinh thần của chúng ta, nó là cái pháp hướng, cho nên chúng ta ra lệnh thì ngay đó các hành trong thân của chúng ta ngưng, tức là cái Định lực. Do cái Định lực nó đã điều động được cái thân định - rồi thì lúc bấy giờ chúng ta mới dùng cái Huệ lực của chúng ta, do vì vậy mà cái Tam minh, cái Lậu tận minh nó mới thể hiện, nó mới thấy đây là khổ thật, đây là nguyên nhân của khổ, đây là con đường diệt khổ, đây là cảnh giới Niết Bàn.

Đó, nó mới thấy thật, mới chứng được cái lý Khổ - Tập - Diệt - Đạo. Còn bây giờ chúng ta hiểu là cái ngộ chứ chưa phải là cái chứng lý. Chờ khi nào mà cái Lậu tận minh nó hiện ra thì cái Trí tuệ của cái Giới tuệ này nó hiện ra thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy nó mới chứng được cái lý Khổ - Tập - Diệt - Đạo, nó mới rõ ràng hơn.

Đó thì trên cái bước đường tu tập, thì quý thầy phải thấy, hiểu được những cái sự tu tập của chúng ta nó như thế nào mà đúng, như thế nào sai. Qua cái bài giảng của Thầy rồi thì quý thầy biết, quý thầy tu. Từ lâu tới giờ quý thầy tu sai hay đúng quý thầy biết liền. Còn ngay bây giờ quý thầy mà đi vào từ cái Chánh niệm Tỉnh thức, rồi bắt đầu từ cái Định Vô lậu mà quý thầy tu tập cho đến khi mà quý thầy thấy ly được dục, ly được ác pháp rồi thì quý thầy lấy những cái pháp hướng mà quý thầy đã từng tập luyện đó nó có cái hiệu quả đó, thì ngay đó bây giờ quý thầy chỉ thay đổi, thay đổi Trạch pháp cái câu ra, cái câu này bây giờ phải sử dụng cho nó như thế nào, sử dụng cho nó muốn nhập Nhị thiền thì mình chỉ ra lệnh rằng : “Tầm tứ phải tịnh chỉ, phải ngưng, không có được hoạt động nữa”. Thì ngay đó chúng ta chỉ dùng cái pháp hướng đó, nhắc một lần, hai lần thì ngay đó là Tầm, Tứ chúng ta diệt liền chứ khỏi cần phải mà ức chế nó đâu. Các thầy thấy rất rõ, bây giờ chúng ta muốn sáu cái loại tưởng hay mười tám cái loại tưởng mà để cho nó ly ra thì chúng ta chỉ cần ra lệnh “Mười tám cái loại tưởng phải ra khỏi”, tức là ly hỷ, trú xả đó, thì ngay đó là mười tám cái loại tưởng nó sẽ ra khỏi tâm chúng ta liền tức khắc, từ đó chúng ta sẽ nhập vào Tam thiền, đâu phải là cái khó? Đâu phải còn ma chướng nữa?

Còn chúng ta chưa có cái hiệu quả của cái pháp hướng tức là lực của tinh thần chúng ta chưa có mà chúng ta thực hiện thì chúng ta không bao giờ mà đạt kết quả được hết. Chúng ta phải có một cái sức lực của tinh thần của chúng ta, mà lực tinh thần tức là Niệm lực chứ cái gì? Cái Niệm lực là cái Pháp hướng, câu pháp hướng đó nó trở thành cái Niệm. Nếu mà không có cái câu đó, làm sao gọi là niệm? Chẳng hạn bây giờ chúng ta bảoTầm - Tứ phải diệt mà không có cái tên Tầm - Tứ thì làm sao gọi là cái niệm? Quý thầy phải hiểu một cái đoạn văn, một cái câu nào đó nó là cái niệm. Mà cái niệm đó để chúng ta ra lệnh, truyền lệnh cho cái hành động của cái đối tượng đó nó phải ngưng, phải dừng, cho nên gọi là cái niệm. Vì vậy mà gọi là Niệm lực. Mà Niệm lực thì quý thầy phải biết nó là Tứ niệm xứ, mà Tứ niệm xứ thì nó ở đâu? Thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta ở trong thân của chúng ta chứ đâu? Đâu phải ngoài thân? Cho nên chúng ta ra lệnh trong thân chúng ta để mà làm chủ. Vì vậy mà học tới Tứ niệm xứ Thầy sẽ giảng cái này rất rõ để cho quý thầy biết để mà sử dụng ở trong Tứ niệm xứ. Nếu mà chúng ta chưa tu Tứ niệm xứ mà vội tu bốn Thiền thì cái chuyện đó hoài công.

Bởi vì Niệm rồi mới tới Định chứ? Chứ đâu lý nào mà Định đi trước Niệm được? Đó thì quý thầy phải biết, chứ không có thể nào mà chưa có Định mà có được cái Trí tuệ Tam minh thì làm sao có, làm sao có Trí tuệ mà thần thông được? Đâu có thể nào có Trí tuệ đó được? Cho nên phải tuần tự mà chúng ta tu tập từng cái bước của mỗi bước đi trên con đường của đạo Phật, xây dựng cho chúng ta từng chút để cho chúng ta không lạc lối.

 

CHUYỆN NGÀI GANGÀTIRIYA

Bây giờ tới một cái Ngài nữa, Ngài Gangàtiriya, Ngài này thường cái tên quá dài là tại vì cái tên này để mà dịch nghĩa ra là, trước kia thì Ngài không có cái tên, nhưng mà thường Ngài ở bên bờ sông Hằng, Ngài cất cái chòi ở trên đó, mà Ngài theo Phật xuất gia và Ngài ở trên cái bờ sông đó Ngài tu cho nên người ta gọi cái tên đó là cái người sống ở trên bờ sông Hằng. Cái tên của Ngài đó là “Người sống ở trên bờ sông Hằng”, chúng ta dịch ra Việt ngữ là như vậy đó! Còn gọi chung cái tên của Ngài là như vậy! Ngài xuất gia theo Phật tu hành, Ngài chọn đời sống khổ hạnh, ở trên bờ sông Hằng nên người ta gọi Ngài là “Người sống trên bờ sông Hằng”. Ngài làm một cái chòi để ở, Ngài nguyện không nói với một ai. Nghĩa là Ngài nguyện suốt cái thời gian tu hành, Ngài ở trên cái bờ sông Hằng đó, không có bao giờ nói với ai một lời nào hết. Suốt một năm, Ngài không thốt ra một lời nói nào. Trong năm thứ hai có một người nữ nhân trong làng thường mang thực phẩm đến cúng dường cho Ngài, muốn biết Ngài có phải là người câm hay không. Bởi vì suốt thời gian cả năm trời, mà không thấy ông này ổng nói một lời nói nào hết, cứ đem sớt bát rồi đi về chứ ông cũng không hỏi gì hết, không có nói chuyện gì hết, mà cũng không xin thêm cái gì hết, cứ cho cái gì thì ăn nấy chứ không hỏi gì hết. Cho nên cái cô này cô ấy không biết ông này ổng câm hay sao mà không nói tiếng nói nào hết, không thấy không nói nào hết, cho nên muốn thử ông ta coi thử coi có nói hay không. Thì đến năm thứ hai, cô mới đem đồ ăn uống đến cúng dường, khi đổ sữa cúng dường, cô làm đổ sữa ra ngoài.

Nghĩa là thay vì cô đổ vào trong bát cho ông ta thì cô lại làm cho nó đổ ra ngoài đi. Thì do đó, Ngài mới nói “Thôi, vừa rồi bà chị”, nghĩa là đổ ra ngoài khiến tràn bát ông, ổng thấy kỳ quá rồi cho nên buộc lòng ông phải nói tiếng nói “Thôi đủ rồi bà chị, đừng đổ nữa!”. Đó, như vậy là bà này biết ông này nói chứ không phải là câm. Các con thấy bà này cũng khéo đấy chứ? Để dò biết mà khiến ông ấy nói “Đổ vừa thôi chứ đổ gì đổ dữ đổ tràn ra mà cứ đổ hoài”. Nhưng đến năm thứ ba thì ông chứng quả A La Hán, nghĩa là khi mà bà ta biết ông nói được rồi thì bà ta cứ đem cơm đến cúng dường cho ông, rồi ông chẳng nói nữa. Suốt năm thứ ba thì ông đã chứng quả A La Hán. Ngài có làm bài kệ tán thán hạnh cũ của mình. Đó, thì các thầy nói là Thầy dạy độc cư mà các thầy mà giữ gìn đúng như vậy để chờ người ta thử như vậy. Bởi thấy nó kỳ lạ quá thì mới thốt ra nói thôi chứ còn cái chuyện mà không kỳ lạ chắc ông này không cạy miệng ổng được đâu! Cho nên ông ấy lập hạnh cũng dữ tợn lắm đó!

“Trên bờ sông Hằng

Dùng ba lá thốt nốt

 Chỉ dùng có ba lá thốt nốt thôi chứ ông ấy cũng không có dùng cái gì hết.

Ta dựng lên cho ta

Một chòi lá nho nhỏ

Bát ta là cái ghè

Dùng cúng sữa người chết

Nghĩa là ông lấy cái bát không phải cái bát như chúng mình đâu, mà là cái ghè người ta để ngoài gò mả để khi mà người ta tảo mộ đó, người ta đổ sữa vô đó để cúng người chết. Ông lấy cái đó ông làm cái bát ông ăn cơm. Các con thấy ghê gớm không? Mình thì chắc không dám đâu!

Bát ta là cái ghè

Dùng cúng sữa người chết

Còn y áo của ta

Lượm chấp từ đống rác

Suốt hai năm sống vậy

Ta chỉ nói một chữ

Nghĩa là chỉ có nói một lời với cô ta đó thôi chứ còn không có nói với ai nữa hết.

Trong khoảng năm thứ ba

Khối si ám tan tành”

Nghĩa là tất cả vô minh đã tiêu sạch hết rồi.

Đó, thì qua cái bài kệ này chúng ta thấy những bậc trong thời đức Phật có những bậc thiệt là vĩ đại thiệt chứ không phải thường đâu! Thậm chí là câm đến nỗi người ta tưởng là ông này câm thiệt, không có nói nên người ta mới thử đó, còn chúng ta chưa có gì hết, chúng ta lia lịa hết, không có còn giữ được cái chuyện gì nữa.

Qua cái hạnh này Thầy mới ghi chép lại cho chúng ta biết rằng những cái sự tu tập của chúng ta nó phải theo những cái gương hạnh. Bởi vì mình quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng mà? Mình phải quy y cho đúng các bậc Thánh Tăng chứ? Chứ không lẽ mình quy y nó không đúng các bậc Thánh Tăng thì mình nương với ai đây? Cho nên mình phải nương các bậc này, vì những bậc này chúng ta thấy tuyệt diệu, quá là tuyệt!

Bây giờ về bên phái nữ thì Thầy cũng khai triển luôn về cái phần nữ để chúng ta có những cái gương hạnh của người nữ, vì chúng ta ở đây, Tu viện chúng ta ở đây cũng có phái nữ, cho nên Thầy cũng khai triển thêm một vài vị tăng, một vài vị ni, Thánh ni.

 

CÂU CHUYỆN BÀ SHIHA

Bà được cha mẹ cho xuất gia tu hành theo Phật. Bà tu tập thiền quán nhưng không thể chặn đứng tâm tư chạy theo ngoại vật khả ý. Nghĩa là bà tuy tu vậy nhưng lòng bà cứ luôn luôn chạy theo sự ham muốn ở bên ngoài chứ không có nhiếp tâm được.

Bảy năm bị dày vò, nghĩa là bà tu tập bảy năm như vậy mà cái tâm ham muốn, cái tâm mà còn dính mắc cái này, cái kia của thế gian, còn thương mẹ, thương cha hoặc cái này kia nó vẫn còn hoài, nó không hết mà suốt bảy năm như vậy, làm sao thoát khỏi nếp sống ức nhiễm này? Bà nói cái ức nhiễm tức nó là cái thương, cái ghét, cái này, cái kia, cái nọ, ham muốn cái này cái kia, làm sao mà thoát ra được? Mà ông Phật, ông dạy mình mà tu hoài cũng không được! Nó không xả ra được, nó cứ dính hoài à! Cho nên bảy năm trời bà rất đau khổ! Ta hãy chết là tốt, bà nghĩ rằng mình đi tu như vầy mà cái tâm nó như vầy mà dẹp nó không được thì thôi chết cho rồi đi, để làm gì?

Bà cột một cái dây thòng lọng ở trên nhánh cây, đút cái cổ vào cái dây thòng lọng để thắt cổ chết cho rồi. Trong những giờ phút cuối cùng bà cố gắng triển khai thiền quán. Tức là bà đút cái cổ bà vô trong cái dây thòng lọng nhưng mà bà chưa có dám đạp cái ghế, sợ đạp nó siết họng chết đi. Cho nên lúc bấy giờ bà lúc đó bà chờ nếu mà quán mà nó không trôi được rồi, nó không xa được rồi thì bà đạp cái ghế một cái cho nó siết cái họng bà cho chết cho rồi chứ đừng có để cho nó dính dính ở trong đó nữa. Đó! các thầy thấy cái gương hạnh của người xưa kinh không? Người ta tu mà người ta thấy cái tâm nó không có dẹp được, người ta chỉ còn tìm cái chết. Mà giờ trước khi giờ chết người ta còn đem cái pháp ra để người ta tu hành coi xem cái giờ phút cuối cùng này nó ra hay không, hay nó còn dính nữa? Dính nữa thì ta đạp cái ghế cho mày đứt luôn! Đó, các con thấy cái sự tu hành của cái người xưa sao mà tuyệt quá! Họ không coi cái thân họ ra gì hết mà chỉ coi cái sự giải thoát là hơn hết!

Bà cố gắng triển khai thiền quán, trí tuệ viên mãn, nội tâm thiền quán tràn đầy, bà chứng được quả A La Hán, mở thòng lọng tức là cái dây cột cổ bà đó, bà trở về Tịnh xá. Nghĩa là bà chứng rồi đó, bà trở về Tịnh xá. Chỉ có đút cái cổ vô đó mà bà đã tu chứng, xa lìa được cái tâm thế gian tức là ly dục, ly bất thiện pháp đó. Những cái gương hạnh thiệt là tuyệt vời! Bà sung sướng, phấn khởi nói lên bài kệ:

“Không như lý tác ý

Bị dục tham ám ảnh

Nghĩa là luôn luôn lúc nào bà cũng tu tập theo lời Phật dạy mà bà không có cái Như lý tác ý ra, tức là Ám thị đó! Các thầy thấy bà sơ xuất ở chỗ Ám thị này! Ở trong này bà nói “Không như lý tác ý”, cho nên “Bị dục tham ám ảnh”, cái lòng ham muốn cái này, cái kia nó ám ảnh bà hoài mà không dứt được là do bà không có Như lý tác ý, tức là bà không dùng Pháp hướng. Còn chúng ta bây giờ hằng ngày tâm chúng ta khởi ham muốn cái gì hoặc là khởi có cái gì thì chúng ta dùng Pháp hướng chúng ta đánh bạt nó đi. Thì như vậy là chúng ta Như lý tác ý chứ gì? Còn cái này không, bà không có dùng theo cái lời Phật dạy cho nên bà nói:

Không như lý tác ý

Bị tham dục ám ảnh

 (nó cứ ám ảnh bà hoài à!)

Ta trước bị dao động

Không chế ngự được tâm

Bị phiền não chi phối

Lạc tưởng ngự trị ta

Tâm ta không thăng bằng

Bị tham tâm chi phối

Bảy năm sống ốm yếu

Da vàng, dung sắc xấu

Đêm ngày không an lạc

Ta sống chịu khổ đau

Do vậy ta lấy dây

Đi vào giữa khu rừng

Tốt hơn ta treo cổ

Còn hơn sống hạ liệt

Nghĩa là bà thấy cái tâm mà nó còn thương, còn ghét, còn ham, còn muốn này kia là cuộc sống hạ liệt, đâu phải là cuộc sống mà cao thượng đâu? Cho nên bà biết như vậy mà sao lại ly không được? Do cái chỗ bà không dùng pháp hướng, cho nên khi mà chứng rồi bà mới thấy, cái chính là do không Như lý tác ý, Như lý tác nó nó mới chính là cái chỗ để dẹp, còn bà không có dùng cái đó, cho nên bây giờ bà mới vô đầu bà nói “Không như lý tác ý” cho nên tâm bà bị tham dục, bà nhắc cho chúng ta thấy cái chỗ đó.

Bởi vì qua cái bài kệ này Thầy thấy qua những cái kinh nghiệm mà người ta nếu một người có tu, người ta nghe cái câu đó người ta biết rằng cái bà này thiếu Như lý tác ý tức là pháp ám thị, cho nên bà mới khổ sở bảy năm trời như vậy, cho nên đến chừng mà đút thòng lọng vô trong cổ đến gần chết rồi bà cứ nhắc đi nhắc lại, bà tác ý lia lịa, đến chừng đó bà xả được cái tâm của bà liền. Bà thấy đúng là pháp Như lý tác ý là cái pháp tuyệt diệu nhất chứ không có gì hơn. Đó thì, hôm nay lấy cái bài kệ này thì các thầy đã biết cái pháp nào mà các thầy tu rồi chứ gì? Cái gì mà tâm của quý vị nó khuấy động thì quý vị phải biết nó động tâm vì cái gì chứ gì, mà nó động tâm gì thì ngay ngay ngồi dậy thẳng lưng liền để mà đặt cái niệm đó trước mặt mà lấy cái pháp Như lý tác ý đó mà tát tai cho nó văng ra đi, đừng có để nó ôm ở trong bụng của quý vị thì quý vị sẽ thoát khỏi chứ gì? Cứ như vậy mà tu tập thì vô lậu nó sẽ đến với quý vị chứ có gì khác hơn?

“Còn hơn sống hạ liệt

Làm chắc dây thòng lọng

Ta cột ở cành cây

Quàng thòng lọng quanh cổ

Tâm ta liền giải thoát”

Mau không? Các thầy thấy xỏ cái đầu vào dây rồi bắt đầu ở đó mà quán, mới dùng Như lý tác ý ra, tất cả đều khổ, bây giờ có đứt cổ thì chết cũng là khổ, có nghẹt họng cũng chết cũng là khổ, cho nên vì vậy mà bà quán riết trôi ra hết tất cả, từ đó giải thoát.

 

Ðó thì, những cái gương hạnh của người tu nó gần gũi với chúng ta quá chừng, mà gần cái pháp mà Thầy dạy cho các thầy quá đỗi. Mà cái người ta không có tu tập mà người ta không có khai triển được cái gương hạnh này ra? Những cái bài kệ bà ta viết rõ ràng, bà ghi lại ở trong kinh rõ ràng như vậy, thế mà không có ai khai triển nổi ra những cái pháp tu hành này! Còn bây giờ, vì cái sự kinh nghiệm tu tập, qua cái pháp hướng mà Thầy biết đó là Ám thị chứ gì? Như lý tác ý chứ gì? Do đó Thầy khai triển ra thì đâu đâu nó cũng giống nhau như là in rập khuôn hết. Cho nên các vị đều là những bậc Thánh tăng, những bậc Thánh ni thời xưa, cũng đều là có những cái tu tập giống như mình không khác, mà người ta đạt được cái kết quả là do cái pháp hướng chứ không phải gì. Bởi vì chúng ta tu tập sai thì nó làm sao mà nó đúng được?

 

CÂU CHUYỆN BÀ PATACARA

Bây giờ Thầy nhắc đến bà Patacara, bà Patacara này là người ta còn dịch cái tên theo cái âm của người Hoa đó thì bà có gọi là cái tên là Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo, mà cái tên này thường thường chúng ta hay nghe bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo. Ở đây, cái câu chuyện của bà thì dài dòng lắm, nó không có ngắn, nhưng mà ở đây thì Thầy tóm lược lại để cho chúng ta biết để mà qua những bài kệ của bà để mà chúng ta lấy kinh nghiệm mà tu tập thôi. Khi bà đến với đức Phật với một tâm trạng đau buồn nhất, hai đứa con đã chết, chồng cũng chết, cha mẹ và đứa em trai cũng chết. Nghĩa là đồng thời trong một cái ngày hôm đó là cả một cái gia đình chết tan nát, chỉ còn một mình bà sống thôi. Đức Thế Tôn dùng kệ khuyên bà:

“Nước bốn biển ít hơn

Nước mắt của loài người”

Đức Phật nói nước bốn biển nó còn ít hơn nước mắt loài người.

“Khóc than vì đau khổ

Vậy sao ngươi hủy hoại”

Nghĩa là bà đang ở trong cảnh đau khổ, hai đứa con chết, chồng chết, rồi cha mẹ, rồi đứa em trai cũng chết, làm sao bà không khổ? Vì vậy mà đức Phật có cái bài kệ để khuyên bà, thì đức Phật ví như nước bốn biển ít hơn nước mắt của bà trong lúc này nữa, nhưng đức Phật có cái ý trách bà sao bà lại quá ngu si vậy, khóc than để mà mình tự giết hại mình, hủy hoại cái sinh mạng của mình sao? Nghe kệ xong, bà nguôi được cơn đau buồn. Bậc Đạo sư lại dạy tiếp :

“Các con, cha, bà con

Không phải chỗ nương tựa

Khi thân hoại, mạng chung

Bà con, huyết thống ngươi

Không thể che chở ngươi

Thấy được sự thật này

Kẻ trí sống giới đức

Và mau chóng thành tựu

Con đường hướng Niết Bàn”

Đó, đức Phật nói là dù mình có thương, có gì đi nữa mà khi thân hoại, mạng chung hoặc mình đau bệnh, mình già chết thì chắc chắn là bà con huyết thống của mình, những người thân, cha mẹ của mình không thay thế mình được cái điều đó đâu! Cho nên cái người trí biết thì phải sống với giới đức, giới hạnh, còn cái người không biết thì không sống với giới đức, giới hạnh thì không có thể nào mà hướng tới con đường mà Niết Bàn được.

“Và mau chóng thành tựu

Con đường hướng Niết Bàn”

Đức Đạo sư lại dạy tiếp:

“Người sống một trăm năm

Không thấy pháp sinh diệt

Tốt hơn sống một ngày

Thấy được pháp sanh diệt”

Nghĩa là Ngài khuyên như vậy để rồi Ngài cho một cái đề mục. Ngài khuyên cho bà này và an ủi được bả rồi, bả hiểu được rồi là lấy giới mà sống, khi mà sống được với Giới đức rồi thì cái người đó phải dùng cái Định vô lậu mà quán xét, quán xét cái sự vô thường, cái sự sanh - diệt của các pháp, cho nên cái bài kệ, bốn câu kệ này :

“Người sống một trăm năm

Không thấy pháp sinh diệt

Tốt hơn sống một ngày

Thấy được pháp sanh diệt”.

Chúng ta tuy là biết cái thân này nó vô thường, nó sanh - diệt liên tục ở trong này, mà chúng ta biết, hiểu như vậy mà chúng ta không sợ hãi, không có lo lắng tu hành mà cứ sống để cho nó sanh - diệt, sanh - diệt mãi.

Cho nên, coi như là sống dù một trăm tuổi mà không biết nó sinh - diệt, như bây giờ chúng ta là những người chưa biết sinh - diệt, cho nên chúng ta chưa dám ly gia đình, chưa dám bỏ của cải, chưa dám bỏ tài sản. Đó là chúng ta chưa biết pháp sinh diệt, bởi vì tất cả các pháp sinh - diệt nó đều thay đổi liên tục. Bữa nay nó là của mình, ngày mai nó là của người ta chứ còn là của mình nữa sao? Thế mà mình cứ chấp là của mình, mình cứ ôm giữ nó hoài. Cũng như bữa nay là vợ mình, ngày mai biết là vợ ai đây? Cho nên vì vậy mà mình cứ ôm nó là vợ mình không à, mà không ngờ rằng ngày mai mình chết, ngày mốt nó đi lấy thằng khác mất rồi! Mình đâu có biết được chuyện đó, vì nó là pháp sinh - diệt mà? Nó đâu có phải là thường còn được? Cho nên có ông Trang Tử ông ấy vỗ bụng ca đó, khi mà vợ ổng chết ổng đánh trống ổng vỗ: “Vợ chết trước là vợ ổng, vợ chết sau là vợ người ta”.

Rõ ràng là cái lời của ông Trang Tử nói rất đúng về pháp sinh - diệt, cho nên nó đâu có thường hằng được? Mình nghĩ là mình chết chắc vợ mình nó ở vậy nó nuôi con thôi chứ, nhưng mà sự thật ra ba bữa sau nó chờ cho mình chôn xuống mồ rồi, ba bữa sau nó đi theo thằng khác rồi. Cái điều đó là mình không ngờ được cái sự sinh - diệt đó, thế mà mình cứ ôm ấp cho mọi cái là của mình hết. Tiền của bữa nay do mồ hôi, nước mắt mình làm ra, chưa chắc gì mình đã thọ hưởng hết được, tối mình làm ra rồi mình đem cất trong tủ, tối thằng trộm nó vô nó lấy hay hoặc ăn cướp nó vô nó cạy họng, nó đánh mình u đầu, đổ máu rồi lấy ra cũng sạch. Đó là pháp sinh - diệt, nó càng đem cái sự khổ đến cho mình, cho nên ở đây đức Phật nói:

“Tốt hơn sống một ngày

Mà thấy pháp sinh diệt”.

Thấy được pháp sinh - diệt thì người ta vứt bỏ hết chứ người ta đâu có thèm nữa? Nó là rắn độc mà, nó là thú dữ mà, tại sao mình cứ huân vô để mình lấy khổ? Nó không giải thoát được! Cho nên ở đây, khi một người mà đã hiểu được Phật pháp rồi người ta rất sợ các pháp sinh diệt! Mà các pháp sinh diệt là gì? Là xung quanh chúng ta toàn là các pháp, nó luôn luôn sinh - diệt! Cho nên chúng ta phải ra khỏi, ra khỏi cho mau chứ không phải là còn một phút giây nào là đau khổ, cũng như là bây giờ Thầy còn cái thân này nè tức là Thầy còn đau khổ chứ? Bữa nay nó không đau nhưng ngày mai nó đau.

Suốt cái thời gian mà Thầy giảng cho quý thầy, quý thầy thấy Thầy cũng mệt nhọc, cũng khổ sở, cũng đủ thứ hết, cũng nhức đầu, cũng mệt cái này, cũng mệt cái kia chứ đâu phải, đó là cái pháp sinh - diệt mà làm sao mà bảo nó đừng làm cái chuyện đó được? Cho nên bỏ nó là chúng ta khỏe, vì vậy mà bỏ nó tức là Thầy được giải thoát hoàn toàn, cho nên đâu có thiết gì cái thân này mà phải trường thọ làm gì?

Khi nghe kệ xong, bà đặt cái pháp trạch pháp đó, bà lấy các pháp vô thường sinh diệt, bà đặt thành một cái pháp hướng, cho nên từ đó bà quán cái pháp hướng đó mà bà tu tập cái Định vô lậu, bà chứng được quả A La Hán liền tức khắc. Các thầy thấy chưa, nội cái ông Phật, ông cho bốn cái câu kệ này là bà ấy đã biết được đó là cái pháp hướng của bà rồi. Còn chúng ta nghe cái câu kệ này chứ chưa biết đâu, phải không? Nhưng mà Thầy giải thích ra thì quý thầy biết đây là một cái pháp hướng trạch ra cái câu này, tức là ông Phật ông ấy biết không có thế nào mà không dạy cho cái bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo này mà hiểu được cái pháp hướng này thì chắc là không hết cái lậu hoặc của bà ta đâu! Cho nên ông Phật tiếp thêm cho bà cái câu trạch pháp ra, cái câu pháp hướng.

“Người sống một trăm tuổi

Không thấy pháp sinh diệt

Tốt hơn sống một ngày

Thấy được pháp sanh diệt”.

Do đó bà đặt cái câu này ra bà làm cái trạch pháp của bà, thì hằng ngày bà dùng cái đó mà quét sạch cái tâm vô lậu của bà, cho nên bà chứng quả A La Hán. Sau khi bà chứng quả A La Hán rồi thì bà cũng có làm một cái bài kệ nói lên cái chỗ tu tập của mình:

”Với cày, cày ruộng đất

Gieo hạt giống trên đất

Loài người được tài sản

Nuôi dưỡng vợ và con

Sao ta giới đầy đủ

Làm theo Đạo sư dạy

Lại không chứng Niết Bàn?

Không sợ, không dao động

Khi ta đang rửa chân

Làm cho dòng nước chảy

Thấy được nước rửa chân

Từ cao chảy xuống thấp

Nhờ vậy tâm ta được định

Như ngựa hiền khéo luyện”.

Đó, thì khi mà đức Phật khuyên bà để cho bà không có buồn khổ, rồi khuyên bà để bà thấy rằng các pháp thế gian không phải là chỗ nương tựa như cha mẹ, anh em, huyết thống gì đó, không phải là chỗ nương tựa, của cải, tài sản cũng không phải là chỗ nương tựa, nhưng mà bà cứ bà tu hoài mà sao bà thấy rằng giới luật của Phật giảng cho bà như vậy, bà giữ giới luật như vậy. Bởi vì trong cái bài kệ trước thì quý Thầy thấy có cái chỗ “Kẻ trí sống giới đức” đó, cho nên bà giữ gìn giới đức của Phật dạy, cái giới nào bà cũng giữ rất là nghiêm chỉnh, nhưng mà bà thấy sao mình lại không chứng Niết Bàn? Làm theo lời Đạo sư dạy lại không chứng được Niết Bàn, mà tâm thì không sợ, không dao động, không có buồn lo nữa mà sao vẫn không chứng?

Một hôm đó bà được đức Phật cho cái bài kệ tiếp bà cũng chưa hiểu nữa. Cho nên bây giờ hôm đó bà đang rửa chân, bà rửa chân, rồi bà thấy cái dòng nước mà nó chảy xuống, rồi thấy được nước rửa chân từ trên cao mà nó chảy xuống thấp, “Nhờ vậy tâm ta định”, nghĩa là trong lúc đó bà mới nhớ lại câu kệ này, tức là cái dòng nước nó chảy hoài, chảy hoài thì bà nghĩ rằng nó chảy hoài tức là vô thường chứ gì?Đó, thì các pháp sinh - diệt đó nó không còn cái chỗ mà một mực nữa, cho nên từ đó mà bà mới ngộ được bốn cái câu ở bài kệ trên, do đó bà mới đặt nó thành một cái câu thiền quán vô lậu của bà để cho bà quét sạch những lậu hoặc. Nhờ cái thực hiện rửa chân rồi bà, bởi vì đức Phật nói mà bà chưa có hiểu, bà chưa có thấu đạt cái lý đó, từ cái chỗ bà rửa chân, bà thấy nước nó chảy xuống, chảy xuống mà nó không có chảy lại được, do đó bà mới thấy à cái dòng nước là cái dòng các pháp sinh - diệt, cho nên bà ngộ được rồi. Bà ngộ được rồi thì cái tâm bà nó được định tỉnh rồi, được định tỉnh rồi thì bà mới như thế nào để cho tiếp tục trên con đường tu hành của bà.

“Rồi ta cầm cây đèn

Bước vào ngôi Tịnh xá

Nằm trên chiếc giường nhỏ

Ta nhìn, quán ngọn đèn

Rồi ta lấy cây kim nhỏ

Dìm tim đèn xuống dần

Thấy cây đèn Niết Bàn

Tâm ta được giải thoát”.

Như vậy là như thế nào? Bây giờ cái ngọn đèn nó như thế này, đang cháy ngọn lửa đó, bà lấy cái kim bà đè cái tim đèn cứ dần dần xuống thì ngọn lửa cứ nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi cái tim nó bị lún sâu quá và ngọn đèn nó tắt đi, thì bà thấy ngay đó là cái dòng sinh - diệt nó đã hết rồi. Các thầy thấy, đó là qua cái kinh nghiệm tu hành của người ta, quán xét từng chút để người ta thấy được cái tâm của người ta thay đổi từng chút từng chút ở trong cái sự quán xét của Định vô lậu nó như vậy. Còn mình ngồi quán quán gì thì mình cũng chẳng biết gì hết, còn người ta rất là vi tế ở trên cái sự tu tập của người ta để người ta quán xét được cái chỗ tu tập đó. Đó là những cái bài kệ qua những cái kinh nghiệm tu tập rất là vi tế khi mà chúng ta tu Định vô lậu. Chúng ta phải xét từng chút, nếu chúng ta cứ đặt một cái câu rồi chúng ta quán thường nó thì không có nhằm nhò gì hết.

Cho nên Thầy nói Thầy ngồi ở trên núi, ở trên cái Hòn Sơn đó, Thầy ngồi mà Thầy dùng những cái sự quan sát những loài chúng sanh, Thầy thấy như thế này, thế khác, nó làm cho tâm của Thầy nó mới có khởi lên cái lòng thương yêu đối với chúng sanh sâu sắc. Còn các thầy không chịu ngồi quan sát thì làm sao các thầy có lòng thương yêu đó được? Cho nên, ở đây chúng ta muốn vô lậu thì chúng ta phải quan sát tất cả những sự kiện thay đổi, mà những sự kiện thay đổi đó nó làm cho chúng ta sâu ở trong cái chỗ pháp, cho nên chúng ta mới chứng được cái lý vô thường. Còn các thầy cứ nghe Thầy nói câu nào viết đó, rồi cứ nhai đi nhai lại cũng như nhai bã mía vậy thì thôi thôi nó có vô thường gì được? Các thầy hiểu điều đó không?

Cho nên Thầy mới thấy bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo này thiệt là hay à! Cái bài kệ này thật là tuyệt diệu, nó ở trong cái hành động để mà phá vỡ cái lậu hoặc. Nếu mà không đem cái bài kệ này giảng cho quý thầy thì chắc chắn là quý thầy cũng nhai lại bã mía của Thầy thôi chứ không có gì khác hơn, nhai hoài mà lậu hoặc nó vẫn còn, cũng vẫn còn nhớ nhà nhớ cửa, cũng còn nhớ này kia mà nó không hết. Đó, đến đây là chúng ta đã qua những cái gương hạnh của Thánh Tăng và những bậc Thánh ni.

***

GIỚI HẠNH VÀ GIỚI ĐỨC

 

Tiếp tục trong cái phần giáo án hôm nay, để bổ túc thêm phần Giới hạnh và Giới đức, quý thầy hãy lắng nghe cho kỹ ở phần này để biết, mà giữ gìn và trau dồi thân, tâm đầy đủ Giới hạnh và Giới đức, để không còn vi phạm một lỗi lầm nhỏ nhặt nữa, để tâm trọn vẹn lìa xa lòng ham muốn và các ác pháp thế gian, để tâm sống trong cảnh giới thanh thản, an lạc mà các bậc Thánh đang thọ hưởng, đang sống thầm lặng trong cảnh giới đó, cảnh giới của Giới hạnh và Giới đức đã viên mãn.

Bây giờ quý thầy hãy lắng nghe những câu hỏi và trả lời, những câu hỏi để truy tìm cái gốc tội lỗi, ngõ hầu để biết rõ dùng Giới hạnh và Giới đức đập tan tành cái gốc khổ của loài người. Nghĩa là chúng ta phải truy tìm ra khi mà học cái Giới đức và Giới hạnh xong thì chúng ta phải truy tìm coi những cái gốc khổ và cái gốc mà làm cho con người đau khổ như thế nào. Mặc dù là trong kinh Phật có nói là do cái lòng ham muốn là đau khổ, nhưng mà chúng ta phải truy tìm cho nó sâu xa hơn nữa, chứ không thể nói đơn giản là do cái lòng ham muốn đó, do cái tâm dục của mình là cái nguyên nhân sanh ra đau khổ, mà nó còn có những cái chi tiết li ti nhỏ mà chúng ta phải thấu đáo. Nếu không có thấu đáo thì chúng ta không có biết đường đâu mà chúng ta dẹp.

Bây giờ, đầu tiên có một câu hỏi và có một sự trả lời để chúng ta theo đó mà chúng ta tìm ra xem cái lối nào mà cái tâm chúng ta nó đi đến cái chỗ tham dục đó?

Tại sao con người lại sanh ra oán thù và đánh đập nhau bằng dao gậy?Đó, vào đầu cái câu hỏi đầu tiên đó, thì chúng ta thấy cái sự đau khổ của con người ở trên thế gian này là cái sự oán thù, cái sự đánh đập nhau bằng dao gậy.

Bắt đầu để trả lời cái câu hỏi đó, sự sanh ra oán thù và đánh đập nhau đều do lòng tham lam và ganh ghét.Do lòng ham muốn, tham lam của mình, tham cái này, tham cái kia và cái sự ganh ghét đó nó mới có cái sự đánh đập nhau, mới có sự thù hằn nhau. Thì chúng ta thấy nếu mà không có lòng tham lam, không có sự ganh ghét thì làm sao đánh đập nhau? Đúng không? Đó là câu trả lời rất đúng! Không thể nào mà chúng ta phủ nhận rằng cái câu trả lời này là sai được.

Lòng tham lam và ganh ghét do đâu mà sinh ra?Người ta lại đặt câu hỏi thêm cho mình thấy, bây giờ mình nói bây giờ có sự đánh đập, cái sự thù hằn nhau là do lòng tham lam và ganh ghét thì ai cũng chấp nhận rồi. Nhưng mà bây giờ người ta hỏi lòng tham lam và ganh ghét này ở đâu mà sanh ra?

Đó, tức là chúng ta phải truy ra thử coi nó ở chỗ nào? Thì đây là câu trả lời Phật đã trả lời trong kinh để chúng ta thấy rất rõ, “Lòng tham lam và ganh ghét là do thương, ghét mà sanh ra”,có thương, có ghét thì mới sanh ra, chứ không phải là ngoài cái thương ghét mà nó có cái lòng tham lam và ganh ghét được.

Thì người ta lại hỏi :  thương, ghét do đâu mà sanh ra?

Trả lời, thương, ghét là do tham dục mà sanh ra.Mình có thương, có ghét là do cái lòng ham muốn của mình mới sinh ra. Bây giờ mình mới thấy cái chỗ dục đó, truy ra từ cái chỗ mà oán thù, đánh đập đến cái chỗ tham dục thì mình mới biết rằng thương, ghét này là nó do cái sự tham dục mà sinh ra. Vậy chúng ta có thương cũng là do tham dục, mà có ghét cũng do tham dục. Mà có thương, có ghét thì nó mới có tham lam và ganh ghét, (BBT:CĐ,20B,E00:43:27)mà có tham lam và ganh ghét thì nó mới có đánh đập và oán thù. Đó, bây giờ mình đi ngược trở lại thì mình thấy rất rõ.

Rồi bây giờ người ta hỏi : tham dục do đâu mà sinh ra?Đó, từ đó rồi bắt đầu mình mới trở về cái gốc của tham dục đó, tức là Phật nói cái gốc muôn khổ đó. Vậy thì người ta hỏi tham dục do đâu mà sinh ra?

Trả lời, do tưởng mà sinh ra!Mình tưởng chứ nó đâu phải có thật? Mình tưởng ra, mình ham muốn cái gì đó rồi mình tưởng ra chứ đâu phải khi không mà mình có ham muốn cái chỗ đó được? Mình tưởng ra, mình tưởng ra nó đẹp, mình tưởng ra nó xấu, mình tưởng ra thế này, kia. Đó là do tưởng mà sanh ra! Đúng không? Tham dục của mình do tưởng mà sinh ra chứ không có tưởng thì chắc chắn không có. Cho nên cái người mà người ta dẹp cái tưởng rồi thì người ta có tham dục nữa không? Người ta hết tưởng là hết tham dục mà còn tưởng là còn tham dục!

Cho nên chúng ta biết cái người mà tu thiền định là phải dẹp tưởng! Mà dẹp tưởng dần thì sẽ hết tham dục!

Tưởng do đâu mà sinh ra?Người ta hỏi tưởng do đâu mà sinh ra?

Bắt đầu ở đây Phật mới trả lời “Tưởng do điệu hý mà sinh ra”,điệu hý là cái gì? Các thầy có hiểu hai chữ này không? Đó, điệu hý có nghĩa là hý là vui, thích vui, mà điệu hý là cái kiểu cách làm thế này thế kia cho vui đó. Cũng như bây giờ mình thấy người ta đá banh cái mình thấy mình thích tức là mình bị điệu hý đó rồi, bị điệu hý đá banh rồi. Thấy người ta đánh cờ mình nhòm vô mình cũng ngứa nghề vô đánh cờ, thấy người ta bài bạc mình cũng ngứa nghề, thấy người ta uống rượu mình cũng ngứa nghề mình vô gọi là điệu hý! Đó, thấy không, cái đó là nó vui, nó đủ cái màn cách của nó gọi là điệu hý của nó đó! Cái danh từ người ta dùng như vậy, mình hiểu như vậy là nó gợi cho mình những cái vui thích, nó gợi cho mình vui thích. Do cái sự vui thích đó nó mới do cái tưởng và cái tưởng này nó mới sanh ra cái tham dục, nó mới có cái tham dục.

Mình tưởng cái đó là vui, đó cái điệu hý đó, tưởng do điệu hý sinh ra, cho nên do điệu hý với mấy cái chuyện người ta làm đó, nó vui vẻ đó, cho nên mình tưởng nó là vui, cho nên cái tưởng nó mới có sinh ra chứ biết đâu chừng đó là cái chuyện đau khổ của người ta? Cho nên mình tưởng nó là ngon rồi mà không ngờ mình vào đó là thấy mệt. Nhìn mấy thằng đá banh tưởng đâu là ngon lắm chứ nó đá, Thầy thấy nó thở muốn chết nó luôn, đâu có sung sướng gì đâu? Nhiều khi nó đá banh nó té ngã gãy chân, (BBT:CĐ,21A,B00:00:00)gãy giò nó nữa, coi nó muốn chết chứ đâu có sung sướng gì? Thế mà ở ngoài thì người ta vỗ tay khen, đó là điệu hý đấy! Thầy giải thích như vậy, dùng cái danh từ đó như vậy thì quý thầy chắc hiểu nó rồi!

Nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, cho nên Phật cấm mình không có cho vui chơi gì hết ấy, các thầy thấy không? Cho nên vui chơi là nó điệu hý đó, nó sẽ không an trú được đâu!

Nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, an trú trong cảnh tịch diệt được chăng?Đó, bây giờ có cái người mà hỏi đức Phật, bây giờ nếu mà nói như vậy thì là do cái này nó tưởng ra nó mới tham dục, bây giờ mình muốn diệt tham dục thì tức là mình phải diệt hết cái điệu hý này đi thì chắc chắn là nó hết chứ gì? Thì hỏi ông Phật và ông Phật nói “Không có trừ bỏ được điệu hý mà có thể an trú cảnh giới tịch diệt”, nghĩa là ở câu này Thầy xin đọc lại để cho nó rõ ràng hơn, nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, an trú trong cảnh tịch diệt được chăng? Hay không trừ bỏ được điệu hý mà có thể an trú được trong cảnh giới tịch diệt được chăng? Nghĩa là hai câu hỏi này nó rất là rõ ràng. Một câu hỏi thứ nhất là nói mình diệt trừ hết điệu hý thì mình có an trú trong cảnh tịch diệt được chăng? Mà hay là không trừ bỏ hết điệu hý này thì mình vẫn có thể an trú được trong cảnh giới tịch diệt chăng?

Bây giờ đức Phật trả lời “Tu sĩ không trừ hết điệu hý mà an trú trong cảnh giới tịch diệt thì sao được?”.Phải không? Nghĩa là mình còn vui thì mình làm sao an trú trong cảnh tịch diệt được? Cho nên ông Phật, ông trả lời một câu mà bằng cách là trả lời luôn cả hai câu. “Vì thế gian có nhiều cõi, chúng sanh đều y cứ theo loại cảnh ấy và giữ gìn chắc chắn không thể rời bỏ, đồng thời họ cho đây là thật, còn ngoài ra là hư dối”.Đó, nghĩa là thế gian thì người ta chấp cứng trong những cái vui đó, cái điệu hý đó, cho nên người ta cho những cái đó là cái vui, cái hạnh phúc của họ. Cho nên ngoài ra thì nó không thật và là hư dối hết, chỉ có những cái đó là cảnh giới của họ, dục lạc của họ, thích thú của họ mà thôi. Cho nên nếu cái người mà muốn mà được ở trong cái cảnh giới mà tịch diệt, an trú ấy thì phải ly trừ hết những cái điệu hý thì nó mới có an trú trong cái cảnh giới đó được! Vì vậy mà đức Phật trả lời “Tu sĩ không trừ hết điệu hý mà an trú cảnh giới tịch diệt sao được?”.Đức Phật nói như vậy thì chúng ta biết rõ.

Vậy có bao nhiêu điệu hý?”,có người hỏi đức Phật thêm, có bao nhiêu cái điệu hý đó?

“Có ba điệu hý. Một là về khẩu, hai là về tưởng, ba là về mong cầu”.Quý thầy thấy ông Phật, ông dạy chúng ta từng cái chi tiết nhỏ để chúng ta hiểu biết được, đó là chúng ta phanh ra để chúng ta diệt cái lòng tham dục của chúng ta. Một người mà còn vui theo, thì tức là mình còn thích nói chuyện với nhau là còn vui theo chứ gì? Mà còn vui theo tức là điệu hý rồi! Nghe người ta thuật lại chuyện đông chuyện tây mình cũng khoái lắm chớ. Nghe người ta thuật lại chuyện cổ tích rồi mình cũng nghe cũng thích chứ! Đó thì tức là mình còn đang ở trong cái chỗ điệu hý. Đó là điệu hý về khẩu. Một là hại mình! Cái sự vui chơi đó nó làm cho mình có hại nè. Rồi hai là hại người. Cái chuyện mà vui chơi đó nó có thể làm hại người đó. Cái điệu hý đó nó có tên là (..?.) 52:10, và ba là hại cả hai, nghĩa là hại mình và hại người. Trong cái điệu hý đó nó có xảy ra về khẩu thì một là mình nói ra mà hại mình, hai là mình nói ra hại người, ba là mình nói ra là hại cả hai (cả mình và cả người).

Đó là đức Phật phân tích cho chúng ta thấy là về cái khẩu thì mình có những cái điều kiện đó. Nếu mà xả bỏ lời nói hại mình, hại người, hại cả hai và nói đúng lời, nói chân thật, không hại mình, không hại người, không hại cả hai thì chuyên niệm không tán loạn thành vô lậu. Đó, đức Phật nói mình nói ra cái lời nói gì, miệng của mình mình nói ra lời nói mà hại mình thì không nên nói, đó là điệu hý thứ nhất. Điệu hý thứ hai là nói ra lời nói mà hại người thì không được nói. Mà cái điệu hý thứ ba là nói ra lời nói mà hại mình, hại người thì không được nói. Cho nên mình phải nói như thế nào, nói như thế nào để cho đúng cách. Nói lời nói đúng như thật, không hại mình, không hại người mà không hại cả hai thì chuyên niệm không tán loạn thành vô lậu. Vậy thì mình nói lời nói mà không hại ai hết thì cái đó nói sao quý thầy thấy chưa? Là không nói! Phải không? Không nói là độc cư thì nó đâu có hại ai? Cho nên bây giờ nó chuyên niệm chứ gì? Cho nên tâm không tán loạn! Còn mình nói là tán loạn. Rõ ràng thấy không? Đó là mình diệt trừ cái điệu hý thứ nhất về khẩu của mình đó! Có đúng không? Nhờ vậy là chúng ta biết rằng diệt điệu hý tức là chúng ta sẽ diệt lòng tham của mình chứ gì? Đi từ cái gốc nhỏ đó mà chúng ta diệt ra chứ gì? Vậy thì chúng ta sống độc cư, không nói thì tức là không hại mình, không hại người mà không hại ai hết. Do đó là tâm không tán loạn, thành ra vô lậu! Ta thấy chỉ nội cái miệng của mình mà nó đã có được cái vô lậu rồi đó!

Về phần tưởng cũng có ba, tưởng mà hại mình, tưởng hại người và tưởng hại cả hai. Nếu xả bỏ tưởng ấy và dùng tưởng như thật, không bị hại mình, hại người, hại cả hai thì chuyên chú, nhớ mãi không quên, sáng suốt, thành vô lậu. Đó, không tưởng! Các thầy nghĩ đức Phật dạy như vậy thế nào? Nghĩa là ngồi đừng có tưởng tầm bậy! Mà không tưởng tầm bậy thì nó có hại ai đâu? Phải không? Mà không hại mình, không hại người, không hại cả hai thì lúc bấy giờ có tưởng nữa không? Mà không tưởng thì nó chuyên chú, nhớ mãi cái việc gì thì các con biết không? Đó thì chỉ còn có cái tâm của mình thanh tịnh, yên lặng, thanh thản đó thôi. Cho nên, sáng suốt thành vô lậu! Đúng không? Ông Phật dạy rất đúng! Như vậy là mình phá cái tâm tham dục của mình rất là dễ dàng đâu có gì khó? Biết cách làm như vậy, vì vậy cho nên bây giờ ngồi đừng có tưởng, ngồi đây mà tưởng đến chuyện nhớ nhà thì cái đó là như thế nào? Điệu hý rồi còn gì đâu? Nhớ cái này, nhớ cái kia là điệu hý rồi. Bởi vậy ông Phật ổng dạy để chúng ta biết rất rõ những cái điều kiện để mà chúng ta ngồi một cái tâm niệm của chúng ta chúng ta biết rằng nó thuộc về cái loại nào rồi!

Cho nên ở đây nếu mà Thầy không giảng cái này ra thì Thầy thấy thiệt là cái lời ông Phật dạy chỉ là phí cho ông, ông mệt mỏi quá rồi! Ông giảng ra cho chúng tỳ kheo trong thời đó mà bây giờ người ta chối bỏ cái này, người ta nói cái gì mênh mông ở trên trời ấy mà không dạy cho chúng ta biết từng chút này để mà chúng ta ly để mà chúng ta được cái tâm vô lậu. Mà thấy cái này rồi chúng ta biết cái tâm tư của mình bây giờ nó ở trong tưởng này, tưởng điệu hý này, phải không? Bây giờ miệng mình đang nói cái gì thì mình biết đây là khẩu nè, là điệu hý nè, biết nói như vậy là hại mình, hại người và hại cả hai nữa. Thôi thì im luôn cho rồi! Như vậy là mình ở trong cái chánh niệm của mình. Đó, tức là nó thành vô lậu! Thì cái tưởng nó cũng như vậy cho nên nó cũng thành vô lậu.

Về mong cầu cũng có ba, sự mong cầu của mình mà, mình ngồi mình mong cầu cũng có ba cái điệu hý của nó, hại mình, hại người và hại cả hai. Nếu xả bỏ sự mong cầu, thấy và mong cầu đúng cho thật, không hại mình, hại người, hại cả hai thì mong cầu đúng như thế sẽ chuyên chú, nhớ mãi không quên thành vô lậu.

Sự mong cầu mà không hại mình, không hại người và không hại cả hai hết thì cái sự mong cầu đó là mong cầu cái gì quý thầy biết hay không? Đó tức là mong cầu sự giải thoát nơi tâm của mình, là không có ai dính mắc vào trong tâm của mình được hết, cho nên nó thành vô lậu. Có gì đâu mà khó khăn khi mà nó mong cầu một cái gì khác hơn thì mình biết liền, mà nó không mong cầu thì tức là nó ở trong thanh thản rồi, nó ở trong cái tâm rất là an ổn rồi thì đó là vô lậu. Tâm niệm của mình chút nào là mình biết nó ở trong cái chỗ nào. Thì như vậy là chúng ta đã thấy được những cái điệu hý của nó rồi. Như vậy là biết được cái nguồn gốc để mà chúng ta tu về cái Định Vô lậu để cho nó quét sạch vô lậu, để cho nó quét sạch cái tâm tham dục của chúng ta.

“Bậc Thánh hiền xả thân có ba”.Bây giờ cái thân của chúng ta có xả ba cái cách của nó. Bây giờ hồi nãy là chúng ta do cái điệu hý, bây giờ chúng ta lại xả vì cái thân của chúng ta. Một là Hỷ thân, hai là Ưu thân, ba là Xả thân. Bây giờ đến cái giai đoạn của những bậc Thánh hiền tu tập, hồi nãy là những bậc phàm phu đó là chúng ta có những điệu hý, còn giờ là bậc Thánh hiền thì có vui nữa không? Có vui điệu hý như chúng ta này nữa không? Không! Hết rồi! Vậy thì bậc Thánh hiền có xả thân có ba là Hỷ thân, Ưu thân và Xả thân. Trong cái thân của chúng ta coi vậy nó còn có cái Hỷ nè, còn cái Ưu nè, rồi còn cái Xả của nó nữa nè. Bây giờ chúng ta là những bậc Thánh rồi, chúng ta đã xa lìa những cái tham dục của thế gian rồi, bây giờ còn cái phần thân của chúng ta để nó như thế nào đây?

Cho nên bậc Thánh mới có ba phần này! Hỷ thân cũng có ba, hại mình, hại người và hại cả hai. Bởi vì khi mà mình đã đứng vào trong những bậc Thánh hiền rồi thì mình coi chừng cái thân của mình nó cũng có thể làm hại mình, hại người và hại cả hai. Nếu xả bỏ hỷ ấy, chỉ dùng hỷ đúng như thật, không hại mình, hại người và hại cả hai, nhờ đó chuyên chú mãi không quên, đây là thọ Cụ túc giới. Bây giờ đó mới là một bậc Thánh hiền, mới gọi là thọ Cụ túc giới đây, chứ không phải như hồi nãy là Vô lậu đâu mà đây là thọ Cụ túc giới, nó mới đầy đủ cái giới, đầy đủ của cái vị tu sĩ đây. Nếu mà chúng ta dùng cái hỷ mà cái hỷ đó nó như là chúng ta tu về cái Hỷ vô lượng tâm đó. Cái Hỷ vô lượng tâm đó nó sẽ giúp chúng ta xả được không hại mình, hại người và hại cả hai. Cho nên chúng ta biết cái hỷ đó là hoan hỷ, vui theo với mọi sự, mọi vật. Do đó chúng ta không làm hại người nào hết, không làm khổ ai hết, không làm khổ mình, khổ người nữa.

Do đó mà chúng ta đã thực hiện Tứ vô lượng tâm thì chúng ta thấy cái hỷ này rất là cần thiết cho cái sự tu tập của chúng ta. Do đó thì chúng ta nhớ mãi không quên do cái lòng hỷ này, đó là chúng ta mới thọ Cụ túc giới.

Về Ưu thân cũng có ba, hại mình, hại người và hại cả hai. Chữ Ưu đây là cái sự buồn khổ đó, buồn khổ trong cái thân của mình. Thân mình nhức chỗ này, thân mình đau chỗ kia, lói chỗ nọ đó là sự buồn khổ của cái thân đó. Nếu xả bỏ Ưu thân này, dùng Ưu thân đúng như thật, không hại mình, không hại người và hại cả hai. Đây gọi là thọ Cụ túc giới. Nghĩa là chúng ta dùng cái Ưu thật, nghĩa là đừng có lấy cái đau khổ của mình mà làm cho mình khổ sở đó là cái sai.Mà lấy cái đau khổ phiền toái của chúng sinh mà làm cái chỗ thương xót, thì đó là chúng ta đã thọ Cụ túc giới đó. Như Thầy dạy Từ, Bi, Hỷ, Xả đó, quý thầy tu tập về cái lòng thương yêu của mình đó. Đó là cái chỗ về Ưu thân có ba đó, là không hại mình, hại người và hại cả hai. Tức là thực hiện tâm từ bi của mình đó. Đó gọi là xả về cái Ưu thân của mình. Đây gọi là thọ Cụ túc giới thứ hai.

Về Xả thân cũng có ba. Mình xả, có cái mình xả mà hại người, có cái mình xả hại mình, có cái mình xả hại cả hai. Cho nên mình phải xét cái nào mình xả, mình bỏ ra mà hại người khác. Cũng như bây giờ mình tính thôi bây giờ mình bỏ đi, mình bỏ mình đi tu đi, mình xả bỏ hết của cải, tài sản đi, bỏ luôn cả vợ con đi. Lúc bấy giờ vợ con không ai nuôi, không ai làm cho nó sống hết, nó khổ sở. Đó, mình xả cái kiểu đó là mình xả hại người ta đó, chết đó! Bây giờ con mình mới sanh ra, nó chưa có ai mà chăm sóc, chưa có ai lo lắng mình muốn xả bỏ con đi đi thì lúc bấy giờ ai nuôi nó? Đó là mình xả như vậy là sai! Vì vậy cho nên chúng ta khi mà xả những cái gì mà ở trong thân của chúng ta cũng như xả một cái gì đó thì chúng ta phải sáng suốt, khéo léo. Cũng như bây giờ, cái thân của chúng ta như thế này thôi bây giờ mình chặt cái đầu nó chết đi, nó là vô thường đi, mình xả bỏ nó đi cho nó không khổ nữa. Cái điều đó là mình xả ngu rồi chứ không phải là xả đúng. Cho nên vì cái sự xả đó mà làm khổ mình, hại mình thì cái đó là Phật nói xả kiểu đó là xả thân mà hại mình thì đừng có làm cái chuyện đó. Cho nên có một thời tỳ kheo mà nghe quán thân bất tịnh rồi họ thấy cái thân này ghê gớm quá, họ mướn người khác đâm cho họ chết đi thì một lúc sau đức Phật hay được cấm không có cho làm cái chuyện đó, không phải là cái chỗ như vậy.

Đó thì chúng ta thấy trong cái bước đường, nói về xả thì chúng ta phải sáng suốt xả mà không hại mình, không hại người mà không hại cả hai. Chứ có nhiều người ham tu, xả, bỏ gia đình, bỏ chồng con, trời ơi! Tức tối gần chết, vợ con gì nói nó không biết nghe, nó bỏ nó đi tu thì chắc là ông thầy chùa nào quyến rũ như vậy, tao đốt chùa. Bởi vậy trong cuốn Diệu Thiện đó, mà cô Diệu Thiện, cổ đi tu đó, cha cổ giận quá ổng đốt chùa. Ổng nói ông thầy quyến rũ con ổng, công chúa đi tu ổng giận đốt chùa, cho ớn, cho ghét! Đây gọi là thọ Cụ túc giới.

Về các căn, đầy đủ trong luật nghi của Hiền Thánh có chừng bao nhiêu tâm? Có người hỏi, về các căn mà được đầy đủ trong luật nghi của Thánh hiền có chừng bao nhiêu căn?

Đó, thì đức Phật cũng giải thích cho chúng ta thấy rằng về luật nghi mà đối với các căn của chúng ta được đầy đủ của Thánh hiền, về mắt thấy sắc, ta nói có hai. Nghĩa là đối với mắt ta thấy cái sắc, thấy các pháp đó thì ta thấy phải có hai, để cho cái luật nghi của giới Thánh hiền nó phải như thế nào đúng ở trong cái chỗ căn đó, cho nên đối với mắt thì nó có hai.

Một là đáng thân cận, hai là không đáng thân cận. Đó thì các thầy thấy khi chúng ta thấy một cái vật đó mà chúng ta đáng thân cận, mà khi chúng ta thấy cái vật đó mà chúng ta không đáng thân cận. Thì chúng ta phải thấy khi con mắt thấy cái vật đó mà chúng ta thân cận, mà thấy cái vật đó mà chúng ta không nên thân cận, thì cái này nó là Luật nghi của Phật đó, cái luật nghi của Phật. Mình thấy một cái gì đó mà gợi cái tâm dục của mình lên là không nên đáng thân cận, mà thấy cái đó mà tâm dục của mình không có gợi lên và không có ham thích đó, thì cái đó là đáng thân cận. Cũng như bây giờ các thầy vô đây ăn ngày bữa cơm mà không cho quý thầy ăn phi thời ấy, thì cái đó là quý thầy đáng thân cận. Thấy thực phẩm ở đây mà bắt đầu cho quý thầy không thấy thèm, thấy khát cái gì hết đó, thì đó là đáng thân cận. Mà các thầy thấy còn thèm ăn, còn này kia thì không nên đáng thân cận, vì cái chỗ đó không phải là cái chỗ tu.

Cho đến tai nghe cũng vậy, mà mũi ngửi mùi cũng vậy, lưỡi nếm vị cũng vậy, thân xúc chạm cũng vậy, ý duyên pháp cũng vậy. Nghĩa là cũng có hai pháp, lúc thì cái mũi ngửi mùi của mình, cái tai nghe tiếng của mình thì cái tiếng nào đáng thân cận, cũng như nghe Thầy thuyết giảng thì các con nghe cái tiếng đó là đáng thân cận. Mà nghe ca, nghe hát, nghe mấy cô đào ở thành phố mà phát đài á, các con mở đài ra nghe ca hát, trời du dương quá! Tám câu vọng cổ, mười câu vọng cổ nghe trữ tình dữ tợn, nghe nó muốn xiều hết á, thì các con nên dẹp những cái thứ đó đi! Cái đó là không có đáng nghe! Cái tiếng đó là không có được nghe!

Còn những cái mùi thơm, mùi này mùi kia, mùi mà làm cho chúng ta gợi lên cái thích ăn, thích mà gần gũi thì những cái mùi đó dẹp đi! Những cái mùi vị của đạo thì nên là gần gũi, còn cái mùi vị mà của thế gian thì không nên gần gũi!

Còn cái lưỡi nếm vị cũng vậy, vị ngon, vị đắng, vị này kia tất cả, xa lìa nó đi, đừng có nếm những cái vị đó nó không có được! Phải nếm cái vị Cam Lồ của cái sự tu hành của chúng ta mà thôi!

Thân xúc chạm cũng vậy, ý duyên pháp cũng vậy, cho nên nó cũng có hai. Đó là quý thầy nhớ kỹ để mà chúng ta nỗ lực tu hành.

Đó là như thế nào? Mắt thấy sắc mà thiện pháp tổn giảm. Nghĩa là đức Phật nói khi con mắt chúng ta thấy một cái hình ảnh đó mà cái thiện pháp nó bị làm giảm xuống đi mà bất thiện pháp nó tăng trưởng thì không nên thân cận cái đó. Bây giờ các thầy hiểu chưa? Mà bây giờ mắt nó thấy cái sắc đó mà cái thiện pháp nó tăng trưởng. Bây giờ thấy thí dụ như có người ăn mày đi sang đường của mình, đi ngang trước ngõ mình, mình thấy cái người đó đói khổ quá, tội nghiệp, mình lấy gạo mình cho người đó, hay lấy cơm cho người đó, hay lấy thực phẩm cho người đó, hay lấy tiền cho người đó thì cái đó là mình thân cận cái đó!

Còn mình thấy một cái người uống rượu mà mình nhào vô mình uống rượu với họ, thì thôi thôi đừng đừng thấy cái này thì thôi, đó là ác pháp nó tăng trưởng rồi đó, mà thiện pháp nó giảm xuống thì mình tránh xa cái bọn uống rượu đi! Như vậy đó là mình mắt thấy sắc mà thiện pháp nó tổn giảm thì ngay đó là mình lui đi, thấy người ta bài bạc thôi đừng rớ vô vì đó là cái ác pháp rồi. Bất thiện pháp nó sẽ tăng trưởng lên mà thiện pháp nó giảm, vì vậy cho nên mình tránh xa đi!

Mắt thấy sắc mà thiện pháp tăng trưởng, bất thiện pháp tổn giảm thì nên đáng thân cận! Đây là các căn đầy đủ luật nghi Thánh hiền. Đó thì quý thầy thấy chưa? Bởi vì mình muốn cho cái luật nghi của Thánh hiền mình, cái oai nghi, cái tế hạnh của luật của mình được đầy đủ thì mình có con mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình đối với pháp nào mà đáng thân cận và pháp nào không đáng thân cận. Thấy thiện pháp tăng trưởng thì thân cận, còn thấy ác pháp tăng trưởng thì mình không được thân cận. Đó, Phật dạy cho mình từng chút để mình giữ oai nghi, cái luật nghi tế hạnh của mình ở trong những cái chỗ mà mình có thể tiếp xúc chứ đâu phải là đức Phật dạy luật nghi mà không có cái hiểu biết như vậy thì quý thầy sẽ bị phạm hết sao?

Cho nên trong cái dạy về giới luật Thầy dạy rất kỹ về cái vấn đề này để cho quý thầy thấy được cái chỗ tu tập của chúng ta trong cái giới hạnh cho nó nghiêm chỉnh, biết được nó cái nào là đúng, cái nào là sai ở trong cái oai nghi, chánh hạnh của bậc Thánh hiền.

“Có bao nhiêu cứu cánh?”,ở đây có người hỏi đức Phật, “Có bao nhiêu cứu cánh?”.

“Bị ái làm khổ thân, tâm mà diệt được thì là cứu cánh”.Đức Phật trả lời đó! Bị ái, tức là bị thương ghét, bị ham muốn làm khổ thân, tâm của mình mà diệt được cái đó là cứu cánh!

“Vậy thì cứu cánh có bao nhiêu?”.

“Có ba cứu cánh!”.Đó, đức Phật phân tích cho chúng ta thấy nó có ba cứu cánh. Bây giờ chúng ta diệt ái mà nó sạch rồi thì thân, tâm của chúng ta không còn khổ được nữa, thì đó gọi là cứu cánh chứ không phải là cứu cánh có một cảnh giới nào khác lạ hơn là cái chỗ mà chúng ta diệt cái lòng ham muốn của chúng ta. Do đó, khi mà cái lòng ham muốn nó hết thì đó gọi là cứu cánh. Nhưng mà nó có mấy loại cứu cánh? Ở đây Phật nói có ba loại cứu cánh.

- Một là cứu cánh phạm hạnh.Cứu cánh phạm hạnh tức là giới hạnh đó, các con thấy giới hạnh đó! Vậy thì cứu cánh phạm hạnh, một người mà còn làm nghề nông nè, còn làm thư ký nè, còn làm thầy thuốc nè thì cái đó có phạm hạnh không? Không có phạm hạnh! Cho nên nó còn bận tâm lo là đi vào rừng đào rễ cây về vạt, rồi hốt, rồi bằm, sắc, sao, rồi đốt hay hoặc là tẩm rồi chế cái này, chế cái kia ra rồi mới hốt cho họ thành thang để họ trị bệnh, thì như vậy họ có cứu cánh không? Hay hoặc là họ đang bận công việc, họ đâu có giải thoát đâu mà gọi là cứu cánh? Cho nên không thể nào mà gọi là cứu cánh phạm hạnh được! Mà cứu cánh phạm hạnh thì gọi là giới hạnh.

- Cái thứ hai là cứu cánh an ổn.Cứu cánh an ổn gọi là giới đức. Một người mà tu mà ngồi thiền định mà nhập từ Sơ thiền đến Tứ thiền, có an ổn không quý thầy? Rất an ổn, hỷ lạc rất tràn đầy, lúc bấy giờ ngồi như ở trên cái cảnh giới mà Thiên đàng chứ đâu phải là ngồi dưới đất này đâu? Cho nên vì vậy gọi là Giới đức.

- Ba là cứu cánh Vô dư,đó là cứu cánh Vô dư, đó là Giới tuệ. Cái cứu cánh Vô dư đó là Giới tuệ. Các thầy thấy, ba cái cứu cánh này nó ứng với ba cái giới mà chúng ta đã học, Giới hạnh, Giới đức, Giới tuệ.

Đó, thì qua những cái bài học như vậy thì chúng ta đã thấy, biết được con đường mà chúng ta tu tập nó phải đi từng bậc nào để đi vào trong những cái giới luật mà chúng ta đã học.

Tiếp tục Thầy giảng thêm cái phần này để chúng ta thấy được con đường mà tu tập giới luật của chúng ta nó thực hiện như thế nào để mà chúng ta biết được cho nó rõ ràng hơn để mà chuẩn bị cho cái sự bước qua một cái giai đoạn mà giới tuệ cho nó thông suốt. Chứ còn nếu không bước qua giới tuệ thì tức là chúng ta thấy như mình ở trên trời xanh chứ chưa phải là ở dưới đất đâu!

NĂM DỤC TRƯỞNG DƯỠNG

Có năm pháp khiến dục lạc tăng trưởng!Hồi nãy chúng ta nói dục đó, tham dục đó, thì bây giờ cái việc mà khiến cho dục lạc nó tăng trưởng, có năm pháp khiến cho dục lạc tăng trưởng. Người tu sĩ Phật giáo phải xem năm pháp này là dây xiềng xích, lòi tói trói chặt người tu sĩ, không có vẫy vùng, khó mà vẫy vùng ra khỏi. Nghĩa là phải thấy năm pháp mà khiến cho cái dục lạc của thế gian nó tăng thịnh ở trong tâm của chúng ta. Vậy năm pháp đó là gì?

Những pháp, những sắc pháp do mắt cảm nhận khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc, ái lạc.Đó, thì cái pháp nào, lẽ ra thì Thầy đã giảng ở trong cái chỗ mà ngũ dục lạc, rồi sáu cái dục lạc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đó, nhưng mà Thầy lướt qua cái chỗ đó đi. Cho nên bây giờ Thầy nghĩ là nếu mà không nhắc lại sơ cái này coi như lược sơ ấy, thì quý thầy, không có giảng cái phần đó thì coi như là hơi thiếu. Thay vì phải giảng cái phần đó thì nó cũng quá nhiều cho nên Thầy không giảng nhưng ở đây Thầy chỉ lược sơ để cho quý thầy thấy được cái chỗ mà sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đó, đó là nó lôi hút, nó cám dỗ chúng ta cũng dữ lắm!

Nhưng ở đây, để xuyên qua trong cái phần mà giới luật của Giới tuệ thì chúng ta nhắc lại cái phần này để chúng ta thấy được cái chỗ mà chúng ta tiến vào con đường của đạo Phật.

“Những sắc pháp do mắt cảm nhận, nó làm cho chúng ta thấy khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc và ái lạc”.Đó, thì những cái pháp đó chúng ta thấy nó là những cái sợi dây mà xiềng xích, lòi tói mà trói chặt chúng ta lắm đó! Coi chừng những cái hình ảnh, những sắc pháp đó nó sẽ cám dỗ chúng ta mạnh lắm đó!

Những tiếng pháp do tai cảm nhận, những cái âm thanh, tiếng pháp đó, coi chừng nó cũng có thể là những sợi dây xiềng xích, lòi tói nó trói chặt chúng ta lắm đó!

Những hương do mũi cảm nhận, những hương thơm do mũi cảm nhận, nó cũng là sợi dây xiềng xích, lòi tói trói chặt chúng ta đó!

Những vị do lưỡi cảm nhận, tức là những ngày mà chúng ta ăn những cái món ăn ngon, dở, coi chừng nó trói chúng ta chặt lắm đó! Nó là sợi dây xiềng xích, lòi tói rất là chặt đó!

Do xúc cảm nhận, do xúc thân cảm nhận,đó thì những cái điều kiện đó nó là những cái sợi dây trói chặt.

Năm pháp này khiến cho con người chấp trước, mê đắm, bị trói buộc, không thấy nguy hiểm của chúng, không nhận thức sự không thoát ly chúng.Nếu mà chúng ta không nhận nó được thì nó sẽ trói buộc chúng ta rất chặt chứ không phải là đơn giản đâu! Thường thường là chúng ta xem thường nó lắm, nhưng mà rồi chúng ta sẽ bị nó trói chặt! Cho nên ở đây, Phật chỉ nêu lên năm cái pháp để mà nó lôi cuốn, nó trói chặt chúng ta, nhưng chúng ta còn quên có một cái pháp nữa, tức là cái pháp thứ sáu đó, do cái ý, ở đây nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Thân thì có xúc, mà ý thì nó có cái khởi ra các pháp. Cho nên cái pháp đó nó làm cho chúng ta trở thành những cái kiến chấp, nó cũng ghê gớm vô cùng, nó trói chặt chúng ta. Biết cái pháp của mình là sai chứ chưa dám bỏ đâu!

Khi mà mình nghĩ rằng con đường thiền của tôi tu đây là đúng của Phật rồi, mà sự thật thì nó trật lất à, nó không đúng, mà họ nói đó là đúng rồi, họ bỏ không có được, cũng như họ tu tập thiền xuất hồn, họ nói đây là xuất hồn, tôi đã xuất hồn được rồi, cho nên từ đó họ không bỏ được. Đó là cái pháp, cái pháp làm cho họ dính mắc, nó cũng cám dỗ dữ lắm! Khi mà đọc được một cái bài nào đó họ thích thú, cũng chẳng hạn như là có người đọc sách của ông Krisnamurti, trời ơi nó hay quá, quá chừng hay, do đó mở miệng ra cứ là Krisnamurti không hà, mà cuối cùng thì ông ta chỉ có miệng không hà, chứ không có giải thoát như Krisnamurti chút nào hết. Cho nên cuối cùng thì cái đó gọi là cái kiến chấp của pháp, mà cái đó nó lôi cuốn cũng mạnh lắm! Hở ra chút nào thì ông ta vươn cổ lên mà khạc ra ba cái thứ đó. Nó không phải là con đường mà giải thoát mà là con đường tà kiến, một con đường sai mà lý luận nó nghe nó siêu việt dữ lắm, cho nên từ đó chúng ta bị cái lầm chấp đó, chúng ta thấy nó hay cho nên chúng ta bị dính nó rồi!

Nó cũng làm cho chúng ta thích thú, cũng say mê, cho nên nó trói buộc chúng ta rất chặt. Cho nên ở đây thì Phật nói năm chứ sự thật nó là sáu: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà! Chứ đâu phải là cái thứ thường đâu!

NĂM TRIỀN CÁI

Bây giờ tiếp tục, chúng ta sẽ học cái phần này, bởi vì chúng ta nghe triền cáirồi nghe nào là kiết sửmà chúng ta không hiểu nó thì chúng ta biết ở đâu mà chúng ta dẹp những cái triền cái này? Bắt đầu chúng ta phải học cái này.

Có năm triền cái được gọi là chướng ngại, được gọi là màn che, triền phược trong giới luật của bậc Thánh.Nghĩa là năm cái này nó làm cho chúng ta, nó làm che mất cái giới luật nghi của các bậc Thánh, nó làm cho chúng ta không giữ trọn được các giới của bậc Thánh là năm cái triền cái này. Cho nên một cái người mà học về giới luật mà không thông được năm cái triền cái này thì chúng ta bị nó che, bởi vì “cái” là cái màn che, nó che ngăn, nó làm cho chúng ta không có thấy được, cho nên chúng ta phạm giới chứ không phải gì hết. Còn chúng ta thấy được thì chúng ta không phạm giới. Cho nên trong cái luật của bậc Thánh hiền mà khi mà chúng ta rõ được năm cái triền cái này thì chúng ta không còn bị nó che mất cái luật của chúng ta đi. Còn nếu mà không rõ thì nó bị che mất đi, nó làm cho chúng ta phạm giới.

- Một là Dục cái, tức là Tham cái đó;

- Hai là Sân cái;

- Ba là Hôn trầm - thùy miên cái;

Bốn là Trạo hối cái;

- Năm là Nghi cái.

Đó là năm cái được gọi là Ngũ triền cái đó! Năm cái triền cái, năm cái sự ngăn che làm cho chúng ta mờ mịt, làm cho chúng ta phạm giới của bậc Thánh hiền, đó thì đó là năm cái này.

Dục cái hay là Tham cái, tức là cái lòng ham muốn của chúng ta nó ngăn che, nó làm cho chúng ta phạm giới. Bởi vì mình ham muốn, ví như mình thấy một cục đường hay hoặc một miếng kẹo, cái bánh mình thèm ăn rồi thì bắt đầu mình lấy mình bỏ vô miệng mình nhai và nuốt đi thì tức là cái lòng tham muốn của mình đó đó mà nó che đi, làm cho mình phạm giới ăn uống phi thời, phải không? Quý thầy thấy rất rõ, cho nên chỉ một chút xíu thôi là mình bị phạm giới, chỉ một chút hà, nó ham muốn cái đó thì nó bị che giới luật đi đó là mình bị phi thời.

Sân cái tức là cái tâm sân hận của chúng ta, giận dữ lên thì nó làm chúng ta phạm vào những cái giới luật, lời ăn, tiếng nói của chúng ta thô lỗ. Tức là nó phạm vào cái giới luật đó rồi. Nó chửi mắng người ta, nó nạt nộ người ta, nó làm dữ tợn, thì đó là phạm phải cái giới luật của về khẩu nghiệp của chúng ta. Cho nên chúng ta có phạm vào cái giới.

Ba là Hôn trầm - thùy miên cái. Hôn trầm là ngủ gục, Thùy miên là ngủ. Những cái người mà ngủ này họ thường thường là họ bị phi thời. Cho nên trong cái vấn đề Hôn trầm - thùy miên này nó mới sanh ra cái nghi, à cái si mà cái si tức Si cái ấy tức là cái ngu si, cái vô minh thì gọi là hôn trầm ,thùy miên cái tức gọi là si cho nên gọi là tham, sân, si á, nó là ba cái độc. Hôn trầm, thùy miên là cái trạng thái của cái người ngu si, mà ngu si thì nó làm cho người ta vô minh, người ta không có thấy cái đúng, cái sai, cái nào là hại, cái nào không hại, cái nào là đúng chân lý, mà cái nào là không đúng chân lý. Vì cái si mà làm sao đúng được? Cho nên do đó nó bị lầm chấp!

Cũng như bây giờ mình chấp một cái pháp nào đó, mình cứ cho nó đúng, tức là do cái si mê của mình, bị cái kiến chấp. Cũng như mình lầm chấp cái thân của mình, có cái ngã ở trong này, có cái thật ở trong này. Đó là cái lầm chấp, mà cái lầm chấp đó gọi là si, si mê. Mà cái si mê đó nó hiện ra cái tướng hôn trầm, thùy miên. Tức là cái người mà ngu si là cái người ham ngủ. Cái người mà ham ngủ, ngủ gà ngủ gật là mấy cái người ngu si đó! Họ không có thông minh. Mặc dù là họ thông minh cái gì kệ họ nhưng mà đối với Phật pháp, đối với sự giải thoát, tu hành họ là người ham ngủ thì họ là cái người ngu si, họ không sáng suốt được, họ không thấy được cái chân lý đúng là cái chỗ giải thoát. Cái người mà ngu si mà hôn trầm, thùy miên đó thì cái người đó họ luôn luôn là những hạng người chạy theo dục chứ không bao giờ họ thoát ra khỏi dục.

Bốn là Trạo hối cái. Trạo hối cái là những cái loạn tưởng, những cái vọng tưởng nó liên tục, nó từ cái này đến cái khác. Nó làm cho họ nhớ, tiếc, thương cái này, nhớ, tiếc, thương cái kia. Ngồi đây mà nhớ chuyện quá khứ không thì cái chuyện đó là Trạo hối của họ. Gọi là Trạo hối cái, nó che làm cho họ không có thấy được cái tâm của họ đang dày vò, đang đau khổ, đang nhớ cái này, đang tiếc cái kia gọi là Trạo hối!

Cũng như mình đến mình học với ông thầy nào đó dạy mình nghi ông thầy ổng chưa có tu chứng như thế này như thế khác, thôi mình học ít bữa mình bỏ đi. Như mình thấy cái vị đó mình tu hành, mình đâu có hiểu được họ như thế nào. Trong một ngày, hai ngày đâu làm sao thông họ được? Ông thầy này ổng ở bẩn quá, không thể được! Rồi mình ở với ông thầy này, ổng lại khổ hạnh quá, mình ở cũng không được! Ông thầy này ổng ăn uống ngày có một bữa như vậy, mình sống sao nổi mà tu? Ông thầy này ổng làm cái kiểu cách của ổng chứ chưa chắc đã là chứng! Do đó mình nghi ổng đi! Mình nghi ổng tức là mình phải bỏ ổng thôi, mình không làm sao mà tu. Cho nên, những cái nghi đó nó che mờ mà mình không thấy được cái (sự thật). Hoặc là ông thầy ổng thể hiện qua sự thử thách người đệ tử, cái người đệ tử tưởng là ông thầy này còn phàm phu quá, thấy kiểu cách của ông ấy không phải là bậc Thánh. Nhưng mà không ngờ là người ta thử thách mình, nhưng mà cuối cùng thì mình bị người ta gạt mình, rồi mình đâm ra mình nghi. Từ đó mình sẽ mất cái chỗ đứng của mình để mình tu tập.

“Bởi năm triền cái này mà người tu sĩ bị che khuất, bị trói buộc, bị triền phược, bị chướng ngại khiến cho người tu sĩ phạm giới”.Đó, thì năm cái triền cái đó nó sẽ làm cho cái người mà tu sĩ phạm giới, đều là do năm cái triền cái đó.

NĂM HẠ PHẦN KIẾT SỬ

Vậy thì chúng ta đã biết được năm cái triền cái rồi thì bây giờ chúng ta học thêm năm cái Hạ phần kiết sử. Bởi vì về Kiết sử thì nó có Năm hạ phần kiết sử và Năm thượng phần kiết sử. Nếu mà chúng ta không học thì chúng ta làm sao biết được? Do đó chúng ta thấy Triền cái nó cũng giống, mà lại là Kiết sử nó cũng giống, nó cũng giống như nhau, nó không khác nhau. Chỗ nào là Kiết sử, mà chỗ nào là Triền cái? Chúng ta phải phân biệt được cái chỗ này!

Năm hạ phần kiết sử : Một là Tham, hai là Sân, ba là Si, bốn là Mạn, năm là Nghi.

Tham tức là hồi nãy là Dục cái đó, chúng ta thấy nó che ngăn,nó làm cho chúng ta không thấy, gọi là Cái. Mà nó làm cho chúng ta bị trói buộc, bị dính mắc đó, thì đó là Kiết sử. Kiết sử có nghĩa là nó trói chúng ta, rồi nó sai chúng ta, nó làm cho chúng ta chạy theo nó, gọi là Kiết sử. Cho nên, khi mà chúng ta bị một cái tâm tham mà nó kiết sử á thì chúng ta bị nó trói chúng ta, rồi nó sai chúng ta, gọi là Kiết sử. Mà khi một cái tâm tham mà của chúng ta nó bị mờ ám, nó làm cho chúng ta phạm giới thì cái đó là Dục cái. Chúng ta không rõ cho nên do cái tâm ham muốn đó mà nó xảy ra, nó làm cho chúng ta phạm giới. Đó là Dục cái!

Chẳng hạn như bây giờ mình bị che mờ, mình thấy một cái cô phụ nữ đi ngang qua, trong tâm mình khởi lên có cái tâm dục thì do đó mình bị cái tâm dục mình nó che đi, tức là cái tâm tham dục nó che đi, do đó cái ý mình khởi lên thấy cô ta đẹp. Chứ mình chưa khởi gì hết, thấy cô ta đẹp thì ngay đó là mình bị che mờ đi do cái ý đó mà mình đã bị phạm giới. Còn bây giờ thì Kiết sử nó lôi chúng ta chạy theo cười cợt, nói chuyện với cô ta rồi đó, thì cái chuyện đó là Kiết sử! Bây giờ nó lại gần hơn đó, hồi đó nó che chúng ta, rồi chúng ta không thấy, chúng ta mới khởi ý thích thôi thì bắt đầu cô này ngó mình một cái, liếc qua, rồi mình cũng ngó theo, mình liếc theo bắt đầu bây giờ đi theo gót cô ta tìm cách gợi chuyện nói. Thì như vậy đó là mình đã bị Kiết sử, nó trói mình đó.

Sân nó cũng vậy, mà Si, ở đây chỗ Si mà gọi là Năm hạ phần kiết sử thì Phật còn gọi một cái tên là Giới cấm thủ. Giới cấm thủ nghĩa là cái Si nó làm cho mình dính mắc, giữ gìn cái đó trở lại, nó làm cho ḿnh không có thấy nên ḿnh không có buông ra được, mình không có ly ra được. Đó, chạy theo hoài mà không có biết mệt mỏi. Đó gọi là Si, cho nên Phật còn gọi là Giới cấm thủ.

Mạn tức là ở đây Phật còn gọi chữ Mạn đó là Thân kiến, nghĩa là mình chấp cái thân của mình. Cái phần mà Năm hạ phần kiết sử này là thay vì Mạn là ngã mạn, là kiêu mạn, thì ở đây cái Mạn của Năm cái hạ phần kiết sử này thì Phật cho là Thân kiến, tức là mình chấp cái thân của mình là có thật, ở trong cái thân này nó có cái thật ở trong này. Ở trong cái thân Tứ đại này nó có cái thật ở trong này, cho nên đó gọi là Thân kiến, kiến chấp, tức là chấp cái thân có thật.

Cho nên chữ Mạn đây là chỉ cái Thân kiến chứ không phải Mạn là ngã mạn, cao ngạo, mà đây là Thân kiến. Cho nên Năm hạ phần kiết sử đây mình chấp cái thân mình là có, vì vậy mà những cái vật chất xung quanh là cái năng sở của nó, nó trói buộc mình, làm cho mình bị cái Mạn này.

Nghi thì chắc chắn là lúc nãy Thầy có giảng ở Nghi cái rồi, bởi vì cái nghi này khi nó nghi rồi bắt đầu nó cứ theo dõi này kia nọ, nó đủ cách nó lôi cuốn mình đó, gọi là Nghi. Mà cái Kiết sử thì nó lôi mình đi theo cái sự Nghi đó mà nó không bao giờ mà rời, gọi là Kiết sử. Cho nên đây gọi là Năm hạ phần kiết sử!

NĂM THƯỢNG PHẦN KIẾT SỬ

Năm thượng phần kiết sử thì như thế nào?Một là Sắc tham, hai là Vô sắc tham, ba là Mạn, bốn là Trạo cử, năm là Vô minh. Vô minh ở đây chúng ta phải hiểu nó là Si đó, là Hôn trầm, thùy miên như hồi nãy đó, là ở trên cái Cái kia, còn chữ Si ở Năm hạ phần kiết sử này là Giới cấm thủ tức là bị dính mắc, nó không rời ra được, nó giữ chặt, bị nó trói buộc ở trong cái vật chất, cái giới đó rồi. Nó làm cho chúng ta chặt ở trong đó. Cho nên cái Si này nó bị mờ mịt, nó không thấy, nó vô minh không thấy mà cứ cho đó là cái chấp của mình, như mình bây giờ Thân kiến, mình chấp cái thân này thật mà mình bị Giới cấm thủ của cái Si cho nên mình coi nó là thật, ai nói gì mình cũng chẳng nghe hết. Tức là mình bị Si, tức là Giới cấm thủ đó!

Còn ở đây, còn ở Năm thượng phần kiết sử này, Sắc tham nghĩa là có một cái hình ảnh, có một cái sắc tướng nào đó làm cho mình chạy theo cái sắc đó, trói buộc mình chạy theo sắc đó tức là Sắc tham. Vô sắc tham tức là mình ngồi, mình tưởng tượng ra cái hình sắc này, hình sắc kia thấy thích thú ở trong đó, đó là kiết sử nó Vô sắc tham. Ba là Mạn, Mạn tức là ở trong chỗ này là cao mạn, kiêu mạn chứ không phải Mạn là Thân kiến nữa đâu! Nghĩa là nó coi mình là trên hết đó! Thì cái Mạn cũng có nghĩa là Thân kiến, mà cũng có nghĩa là cao ngạo, mà cũng có nghĩa là chấp ngã. Trạo cử, Trạo cử như hồi nãy mà ở chỗ Trạo hối đó. Trạo cử là nó lăng xăng, nó nghĩ chuyện này đến chuyện kia, lung tung đó.

Đó là Năm thượng phần kiết sử! Thì cái triền miên của cái tư tưởng nối tiếp nhau nó gây cho chúng ta có cái sự liên tục, trói buộc nhau ở trong cái triền miên suy nghĩ đó thì cái đó gọi là Trạo cử của Kiết sử, Năm thượng phần kiết sử. Vô minh tức là Si thì Si vô minh thì nó cũng giống như những cái Si kia, nhưng mà cái Si này nó thể hiện qua cái chỗ vô minh, mờ không thấy rõ năm cái Thượng phần kiết sử này, là không có thấy rõ cái chân lý giải thoát của đạo Phật. Còn cái Si hồi nãy á, nó là cái Hôn trầm, thùy miên, đó là cái sự ngu si của một cái mất tỉnh thức, nó không sáng suốt.

Còn cái chỗ Vô minh này nó có minh, cái chỗ vô minh của thượng phần kiết sử này là người đó có thể là một nhà bác học, có thể là một nhà tiến sĩ học rất thông minh, thông minh mọi mặt của thế gian nhưng mà họ không có thông minh cái con đường giải thoát của họ, không có trí tuệ hiểu biết chân thật như Bốn cái chân lý của Phật là Khổ, Tập, Diệt, Đạo, cho nên họ không giải thoát được họ, vì vậy cái Vô minh này gọi là Si, họ không thấy được cái chân lý giải thoát và họ thấy toàn là chạy theo cái danh lợi, chạy theo cái danh của thế gian, cái lợi của thế gian, cái sắc của thế gian, cái ăn, cái uống, ngủ của thế gian. Họ làm cái gì họ cũng lo phục vụ cho những cái đó thì họ gọi là Vô minh chứ họ thông minh lắm chứ đâu phải, họ làm ông giám đốc, bà giám đốc không chứ đâu phải làm nhỏ đâu? Họ làm ông lớn không chứ không phải làm nhỏ, nhưng mà họ vẫn vô minh là vì họ không giải thoát.

Cho nên chữ Si của Năm thượng phần kiết sử thì chúng ta phải hiểu chữ Si này nó nằm ở chỗ nó là chạy theo những cái thông minh của dục lạc chứ không phải là Si theo cái kiểu mà buồn ngủ như mấy cái thằng làm biếng đó đâu, như là Triền cái đó đâu! Đó thì phải hiểu như vậy thì chúng ta mới hiểu được những cái danh từ ở trong kinh điển của đạo Phật đã chỉ cho cái tên của nó như thế nào!

BẢY KIẾT SỬ

Và về phần Kiết sử mà gọi chungthì đức Phật có cho nó là bảy cái kiết sử. Nghĩa là hồi đó thì năm cái Hạ phần kiết sử rồi năm cái Thượng phần kiết sử, tức là mười cái Kiết sử, nhưng mà đức Phật tóm lạithì cho chúng ta biết rằng có bảy cái Kiết sử. Đó là, một là Ái kiết sử, hai là Sân kiết sử, ba là Kiến kiết sử, bốn là Nghi kiết sử, năm là Mạn kiết sử, sáu là Hữu tham kiết sử, bảy là Vô minh kiết sử.Đó, thì chúng ta thấy nó rõ ràng là bảy cái Kiết sử này mà gồm chung nó là mười cái Kiết sử kia là Năm hạ phần kiết sử và Năm thượng phần kiết sử. Gồm lại thì nó chỉ có bảy kiết sử, tắt lại thì có bảy kiết sử mà thôi!

Ở đây, thì những kiết sử cũng là Ái kiết sử tức là Dục kiết sử hay là Tham kiết sử thôi chứ không có gì. Sân thì biết rồi, Kiến thì Thân kiến biết rồi, Nghi thì quý vị cũng biết rồi, Mạn thì cũng biết rồi, Hữu tham kiết sử mà Hữu tham kiết sử thì các vị cũng biết rồi, mà Vô minh kiết sử thì cũng biết rồi, Hữu tham tức là có khởi một cái lòng ham muốn. Hữu là có nghĩa là có khởi một cái lòng ham muốn, tức là có kiết sử liền tức khắc.

BẢY TÙY MIÊN

Nói như vậy là chúng ta đã rõ hết là bảy cái Kiết sử. Vậy thì rõ biết bảy Kiết sử thì chúng ta phải rõ thêm bảy Tùy miên.Tùy miên đây không phải Thùy miên là buồn ngủ. Còn Tùy miên, Tùy là theo, Miên là liên tục. Theo liên tục, cho nên cái này gọi là theo liên tục đó! Thì gọi là Bảy tùy miên. Cho nên có nhiều người không hiểu thấy trong kinh sách có chỗ sao để Thùy miên và có chỗ sao lại để Tùy miên? Họ không hiểu! Họ không hiểu cái danh từ chỗ người ta dùng và người ta cũng không hiểu bởi vì chữ Tùy với chữ Thùy nghe nó gần như là cái âm nó gần giống nhau, nhưng mà cái nghĩa nó cách xa lắm! Chữ Thùy là nó ngủ, mà chữ Tùy là nó theo! Đó phải hiểu như vậy để rồi chúng ta mới thấy được bảy cái chỗ Tùy miên này, nó có bảy Tùy miên chứ không phải có thùy miên, hôn trầm, thùy miên không. Cái kia là ngủ nghỉ, ngủ gục thôi. Nó khác!

Cho nên bảy Tùy miên này nó như thế nào?

Một là Dục ái tùy miên,nghĩa là cái lòng tham ái, tham dục của mình nó miên man, nó thích thú ở trong đó, nó kéo dài thích lắm, nó kéo dài cái thời gian liên miên ở trong đó. Cái người mà có cái tâm dục nó miên man ở trong những hình ảnh của các cô gái mà khiêu gợi họ đó, họ không bao giờ quên những hình ảnh đó. Cho nên nó làm cho họ miên man ở trong cái chỗ thích dục đó!

Sân tùy miên cũng vậy.Người ta chửi mình, cái bắt đầu suốt ngày đó nó cứ ở trong lòng nó cứ liên tục phiền não, phiền não hoài gọi là tùy miên Sân đó, đó là mình phải hiểu cái chỗ đó! Ngay sân rồi thì mình dứt đi liền, không, để nó kéo dài từ ngày này đến ngày khác, ba bốn bữa mới cười cười được một chút, chứ cái mặt nó sầu. Đó là nó bị tùy miên Sân đó!

Kiến tùy miên cũng vậy,luôn luôn lúc nào mình cũng chấp những cái ý nghĩ của mình, cái gì của mình đúng luôn luôn mình cứ cho nó đúng, luôn luôn liên tục hoài cái gì cũng cho đúng đó. Coi chừng cái đó nó kéo dài mình mà nó không bao giờ cho mình thoát ra khỏi những cái tà kiến nữa! Nhiều khi những cái tà kiến của mình mà mình cứ cho mình đúng rồi mình cứ miên mật, cứ luôn luôn liên tục ở cái chỗ đó mà mình cho nó là đúng, đúng, đúng, không bao giờ sai hết. Ai nói gì cũng trật, chỉ có mình là đúng thôi! Thì cái đó là cái tùy miên đó, Kiến tùy miên.

Nghi tùy miên cũng vậy.Nghi người nào thì nghi chết thì thôi hà, không có chịu suy nghĩ con người ta có đúng có sai, người ta có ăn trộm hay không mà cứ nghi người ta ăn trộm, cứ để nghi người ta ăn trộm hoài mà người ta có ăn trộm đâu? Đó là Nghi tùy miên!

Mạn tùy miên cũng vậy!Ngã mạn, cống cao, luôn luôn lúc nào hở ra cũng nghênh mặt ở trên trời, đi thì không ngó dưới đất mà ngó lên trời coi thiên hạ không ra cái gì, coi ngýời ta nhý kiến cỏ đó. Ðó là Mạn tùy miên!

Hữu tham tùy miên.Lòng ham muốn của chúng ta, có cái gì cũng ham muốn liên tục ở trong đầu, thấy cái gì cũng ham, thấy cái gì cũng ham, gọi là Hữu tham tùy miên. Thấy vật gì nhỏ, lớn gì cũng tham hết, cũng đem nhét cất hết, đó là Hữu tham tùy miên đó!

Vô minh tùy miênlà luôn luôn lúc nào cũng không thấy hiểu biết gì hết à. Cái gì cũng chấp, cái gì cũng dính, cái gì cũng mắc hết á. Lúc nào nó cũng miên mật ở trong cái đầu của người đó hết, thì đó gọi là Vô minh tùy miên, không có hiểu cái gì hết! Cái gì cũng bị dính mắc hết!

Đó là những cái phần mà chúng ta học về những cái từ để chúng ta biết được những cái trạng thái của tâm của chúng ta nó rơi vào ở trong cái trạng thái nào của Kiết sử, của Cái, của Năm triền cái, của bảy cái Tùy miên. Chúng ta biết được những cái chỗ đó để mà chúng ta biết được cái tâm niệm của mình nó đang ở cái dạng nào mà chúng ta diệt trừ nó chứ không có để. Nói như vậy nó quá nhiều, quý thầy cũng khó nhớ, do đó quý thầy cũng cần phải đọc đi đọc lại nhiều lần để nhớ những cái này.Khi tâm chúng ta khởi ra, chúng ta biết nó nằm ở trong cái Kiết sử nào, cái Dục cái nào như thế nào thì chúng ta mới loại trừ nó ra được, còn nếu không thì chúng ta khó mà loại trừ ra được!

Bây giờ Thầy đọc lại chỗ Tùy miên để cho các con kiểm tra lại bảy có phải không? Một là Dục ái tùy miên, hai là Sân tùy miên, ba là Kiến tùy miên, bốn là Nghi tùy miên, nghi là nghi ngờ đó, năm là Mạn tùy miên, sáu là Hữu tham tùy miên, bảy là Vô minh tùy miên. Đủ rồi phải không?

 

GIỚI TUỆ

Để tiếp tục cái chương trình giáo án này, quý thầy học đến Giới tuệ. Sau thời gian đã qua, đã được học Giới hạnh, Giới đức và bây giờ là học Giới tuệ. Giới tuệ phải được đặt trên nền tảng của Giới đức, nếu không đặt trên nền tảng Giới đức thì khó mà xây dựng ngôi nhà Giới tuệ được. Nghĩa là không tu tập xong Giới đức thì không thể nào tu tập Giới tuệ được. Cũng như các thầy không tu tập Giới hạnh được mà vội tu (BBT:CĐ,21A,E00:44:17)Giới đức thì khó mà tu tập được. Ví như trường học ngoài đời có ba cấp, một là Tiểu học,(BBT:CĐ,21B,B00:00:00) hai là Trung học, ba là Đại học. Nếu học chưa xong Tiểu học thì làm sao lên Trung học học được? Nếu học chưa xong Trung học mà lên Đại học thì làm sao học được? Vì vậy quý thầy muốn tu theo đạo Phật thì quý thầy phải tu tập lớp Sơ thiện tức là Giới hạnh. Khi đã tu tập lớp này xong mới tiến lên lớp Trung thiện - Giới đức. Sau khi đã tu tập xong lớp Trung thiện xong thì quý thầy mới tiến lên lớp tu tập Hậu thiện là Giới tuệ.

Đó thì quý thầy thấy nó phải có từng bước từng bước, cũng như bây giờ thí dụ như cái lớp mà Sơ thiện là cái lớp Giới hạnh, mà cái lớp Giới hạnh thì quý thầy biết rằng đó là cái lộ trình của người tu sĩ. Bây giờ quý thầy còn ở trong chiếc áo của cư sĩ, còn gia duyên còn làm những công việc, còn bao nhiêu nghề nghiệp để sinh sống thì thử hỏi quý thầy không có thực hiện cái lớp đó mà bây giờ cho quý thầy ngồi cái lớp Giới đức để tu thiền định thì có được không?

Như vậy là quý thầy không có học cái lớp Tiểu học mà nhảy lên Trung học học thì ngồi đó chỉ ngó thôi chứ làm cái gì? Người ta cho bài ra thì chỉ còn có nước cắn ngòi bút chứ làm sao mà làm? Đó thì quý thầy thấy điều đó là một cái điều mà quý thầy đã lạc ở trên con đường tu tập. Cho nên cái ba y, một bát mình chưa xong mà mình vội mình ngồi tu thiền thì chẳng qua là mình đi vào cái thiền ma, thiền quỷ thôi chứ làm sao mà thiền gì đúng được?Bởi vì đức hạnh của con người là cái Giới hạnh, là phải dẹp tất cả cái đời sống của thế gian mới đi vào cái con đường này được!

Bởi vậy đến Giới tuệ, quý thầy mới thấy cái lực của Giới tuệ nó tuyệt vời không thể nào tưởng tượng được là vì người ta phải dẹp hẳn cái cuộc sống của thế gian, hoàn toàn là người ta thực hiện cái đời sống của bậc tu sĩ rồi. Do đó mới đến cái Giới tuệ này chúng ta mới thấy nó là cả một cái sự siêu việt của con người chứ đâu phải là tầm thường?

Cho nên muốn đi được vào cái chỗ này mà quý thầy còn sống ở trong thế gian thì thử hỏi làm sao mà quý thầy được? Cho nên cái lớp Sơ thiện mà không được thì làm sao mà học cái lớp Đại học – cái lớp Giới tuệ được, cái lớp mà Hậu thiện được? Đâu có phải chuyện dễ đâu?

Lẽ ra người dạy đạo tu hành không thể dạy mênh mang như thế này được.Nghĩa là đối với Thầy là một người mà dạy đạo thì không bao giờ mà dạy mênh mang. Nhưng vì cái giáo án tu tập của đức Phật đã có sẵn mấy ngàn năm, nghĩa là cái giáo án của Phật đã để lại trong kinh sách của chúng ta mấy ngàn năm chứ không phải là ít, hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm chứ đâu phải ít? Thế mà đến bây giờ chưa có ai sắp xếp lại được những cái thứ lớp này. Cho nên ở đây vì vậy mà Thầy phải dạy mênh mang như vầy chứ còn lẽ ra mà dạy đạo là tùy theo căn cơ của mỗi người. Bây giờ đến đây là phải sống đúng cái hạnh của người tu. Nghĩa là phải bỏ hết của cải, tài sản, dẹp hết những nghề nghiệp, đến đây chỉ ôm bát đi xin mà thôi, thì cái đó là cái Giới hạnh thứ nhất!

Cho nên chấp nhận được thì vô tu, còn không chấp nhận được thì thôi chứ còn tu lơ mơ mà như thế này thì tốn của đàn na thí chủ chứ có ích gì đâu? Nó có đi đến chỗ nào được đâu? Cho nên khi mà chấp nhận cái đời sống mà xuất gia tu hành rồi thì phải ba y một bát rồi. Đó là cái Giới hạnh!

Về cái Giới đức thì bắt đầu bây giờ mình đã ly được rồi thì ngay đó cái Giới đức mình có thể tiếp tục mình tu được rồi, đâu có gì khó đâu? Đó thì quý thầy thấy cái điều kiện tu tập nó phải rõ ràng. Còn bây giờ mà thầy dạy mênh mang như thế này thì thử hỏi cái lớp mình có ai dứt được chưa? Chưa à! Phần nhiều là chúng ta còn đang ở trong lưng chừng chứ chưa phải là rõ nét đâu, khó lắm chứ không phải dễ!

Đó, nhưng vì giáo án tu tập của đức Phật đã có sẵn mấy ngàn năm nhưng chưa ai sắp xếp có lớp lang, có kỹ thuật, thấy sao thấp cao cho rõ ràng để người tu tập được dễ dàng, vì thế Thầy phải sắp xếp có lớp lang, có kỹ thuật nên mới dạy mênh mang như thế này. Vả lại nếu Thầy không làm điều này thì nhìn trước, nhìn sau còn có ai làm được và làm sống lại giáo lý của đức Phật? Nghĩa là bây giờ nhìn trước, nhìn sau thì Thầy thấy chưa có một vị thầy nào, chưa có một người nào mà có thể gánh vác cái trọng trách này được! Cho nên buộc lòng Thầy phải dạy cái cách thức mênh mang như thế này nè. Chuyện mà các thầy chưa tu tới mà phải nói á, gọi là dạy mênh mang đó! Thay vì tu tới đâu Thầy dạy tới đó chứ không phải là dạy như cái kiểu này được! Cho nên ngày xưa đức Phật dạy đệ tử của Ngài cũng vậy. Khi tu tới đâu thì Ngài dạy tới đó, mà người nào chưa tu tới thì Ngài chưa có dạy tới những cái mà chưa có thể mà dạy cho họ được. Còn bây giờ vì có những cái điều kiện cần phải làm cho nên Thầy phải làm mà thôi! Chứ dạy như thế này nhiều khi gieo vào trong tâm tư của quý vị những cái tưởng giải trong đó không hà, những cái tưởng tượng của các vị trong đó không hà, chứ không phải là cái tốt lành gì đâu!

Cho nên Thầy không có mong muốn làm cái điều này. Cho nên từ cái ngày mà Thầy tu hành xong ấy, Thầy ra thất, Thầy không bao giờ Thầy muốn viết một bài kinh nữa. Thầy đã hiểu biết cái lầm lạc đó vì viết bài kinh là giết người ta chứ chưa phải là độ người ta đâu! Vì khi mà người ta hiểu nó hay là người ta bị dính nó rồi. Rồi khi mà người ta chưa tu tới đó, người ta tập chưa có căn bản, đầu chưa có mà người ta tập, người ta thấy cái hay đó, người ta bắt đầu người ta tập cái đó thì cái tưởng của người ta sẽ sinh ra. Mà nó sinh ra thì nó là ma chướng của họ chứ đâu phải là chuyện dễ? Cho nên viết kinh sách là một cái tai hại! Cho nên thời đức Phật Ngài không có viết kinh sách và người nào tu tập tới đâu là dạy tới đó rồi sai thì Ngài nhắc nhở chứ cũng không cho ai lấy lá buông hay hoặc là lấy lá thốt nốt mà ngồi viết chữ lên đó hết để mà ghi nhớ lại như bây giờ đâu!

Còn bây giờ chúng ta ghi nhớ như vậy, nó làm cho đầu óc của chúng ta không có sống độc cư, không có sống trầm lặng được! Thường thường là chúng ta hay quên, mà chúng ta tu tập vốn tu tập chứ không phải vốn để nhớ. Tu tập để giải thoát chứ không phải là nhớ một cái bồ chữ đó đâu, một cái tủ đựng kinh sách đó đâu! Cho nên chúng ta vốn để nhớ, nhớ để nó trở thành cái tâm của chúng ta trở thành một cái tủ đựng kinh sách, từ đó mới giải thoát nó không có. (BBT:CĐ,21B,E00:05:55)

BĂNG SỐ 20

(BBT:CĐ,21B,E00:05:56)... toàn là có tri kiến mà thôi. Đó là cái tai hại khi mà Thầy dạy đạo Thầy biết cái này rất là rõ ràng, không có phải là một cái chuyện đơn giản. Vì vậy mà vì vấn đề mà giáo lý của nhà Phật bây giờ phải sắp xếp mà nhìn trước nhìn sau thì ai mà làm cái này, cho nên Thầy phải buộc lòng mà làm, làm với cái sự bất đắc dĩ của mình chớ không phải làm với cái sự cầu danh cầu lợi ở trong này. Thầy chỉ mong có người tu hành chứng đạo chứ không phải mong cho người ta có kiến thức hiểu biết như thế này đâu. Cho nên cái viết ra là một cái tai hại rất lớn, cái nói ra mà khi người ta chưa tới là một cái điều rất tai hại cho tư tưởng, làm hư hoại tâm hồn của họ, làm hư hoại tư tưởng của họ.Họ hiểu rồi, nó dính mắc ở trong đó, nó khó mà giãy dụa, cho nên họ đâu còn thanh thản được. Họ bị lời nói của Thầy, họ bị những dòng chữ của Thầy làm cho họ bị chi phối tâm hồn của họ. Cho nên họ đâu còn là một tờ giấy trong sạch nữa, họ bị Thầy gạch mực ở trong đó quá nhiều ở trong đó rồi. Cho nên những điều này là điều bất đắc dĩ mà Thầy phải làm thôi.

Bây giờ quý thầy bắt đầu tu, học tập Giới tuệ.

Khi tu tập Giới đức xong thì toàn thân của quý thầy chỗ nào cũng được thấm nhuần, thuần tịnh, trong sạch. Nghĩa là khi mà tu tập Giới Đức rồi thì thân tâm của quý vị nó thuần tịnh, nó thấm nhuần, rất là trong sáng và thanh tịnh, rất là sáng suốt. Nghĩa là lúc bấy giờ khi mà Giới Đức mà  thực hiện xong rồi thì nó thuần tịnh lắm! Tâm hồn của quý vị nó không còn ô nhiễm một chút gì ở thế gian, nó không còn có khởi một sự ham muốn dục lạc của thế gian, mặc dù là có bao nhiêu sức cám dỗ của nó cũng không lôi cuốn được quý vị nữa. Cho nên nó gọi là thuần tịnh, thấm nhuần, thuần tịnh, trong sáng. Đó, thì bắt đầu bây giờ quý vị mới học Giới Tuệ thứ nhất của cái tâm này đây!

“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”.

Như vậy nghĩa là lúc bây giờ cái tâm của quý vị nó đang ở trong cái trạng thái như vậy đó. Những cái danh từ mà Thầy chỉ đọc ra đây để cho quý thầy nghe được cái tâm của mình như vậy đó. Thầy đọc lại một lần nữa để quý thầy xét cái tâm của mình khi đã tu Giới Đức xong thì luôn luôn cái tâm của quý vị bao giờ nó cũng ở trong cái trạng thái này:

Với tâm định tĩnh- rất định tĩnh, không có gì làm cho nó chao động được hết, thuần tịnh- thuần là thanh tịnh, nó không còn bị cái gì mà dơ bẩn ở trong đó, cho nên nó không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến- nhu là mềm, nhuyến là nó mềm dẻo, dễ sử dụng- cái tâm của quý vị bây giờ dễ sử dụng, sai sao nó làm vậy hết, nó không bao giờ có chỗ cứng đầu cứng cổ như bây giờ đâu, vững chắc- luôn luôn nó rất vững chắc, cái sự nhu nhuyến đó nó mềm dẻo vậy chứ nó rất là vững chắc, nó không có bị chao động, nó bình thản, nó thản nhiên, nó thanh thản, nó không cái gì làm mất cái sự bình thản, thản nhiên của nó được. Đó là lúc bây giờ các vị đã học tu tập được cái Giới Đức rồi thì cái tâm của quý vị nó đến ở mức độ này. Mà nó đến ở mức độ này thì quý vị mới tập luyện được cái Giới Tuệ, chứ còn nếu không thì quý vị không bao giờ mà thực hiện được cái Giới Tuệ này đâu.

“Lúc bây giờ vị Tỳ kheo dẫn tâm hướng đến Chánh trí, Chánh kiến”.Bây giờ chúng ta mới dẫn tâm, tâm nó được thanh tịnh như vậy rồi thì quý vị mới dẫn cái tâm của quý vị đến Chánh trí - tức là trí chân chính của quý vị, rồi cái Chánh kiến - cái hiểu biết chân chính của quý vị thì vị ấy biết rõ, biết rất rõ. Nghĩa là người đó mà dẫn cái chánh trí với chánh kiến của mình thì biết rất rõ:

“Thân này của ta là do sắc pháp, do bốn đại mà thành, do cha mẹ sanh mà có, do nhờ cơm cháo nuôi dưỡng mà lớn, nhưng nó lại vô thường, biến hoại, phiền toái, đoạn diệt, hoại diệt. Trong thân này chỉ có thức uẩn là bị trói buộc, là bị quên mất”.

Nghĩa là khi người đó mà có sức định tĩnh của tâm như vậy rồi thì hướng tâm đến Chánh trí thì bây giờ mới nhìn thấy cái thân này nó rõ ràng như vậy và biết được cáithức nó đang bị trói buộc trong cái thân này, nó đang bị trói buộc ở trong đó và nó bị lãng quyên mất đi và bây giờ nó đang hiện ra được. Đó, thì bây giờ mới thấy được cái chỗ mà Thức thức nó đã từ lâu chúng ta nói thân ngũ uẩn của chúng ta mà, Sắc – Thọ - Tưởng – Hành – Thức đó, thì cái Thức này từ lâu nó nằm ngủ yên đó, nó bị trói buộc, cột chặt, không làm việc gì được hết. Tất cả  mọi “thằng khác” thì làm việc, còn riêng nó thì nó nằm im lìm đó, nó như là ngủ quên vậy, như người ta không có nhớ nó được vậy. Thì đó là khi mà chúng ta dùng cái sức định tĩnh của tâm chúng ta mới nhìn thấy được cái Thức của chúng ta nó đang bị ngủ quên, bị trói buộc từ lâu tới giờ vậy đó.

Bây giờ là lúc cần thiết dùng đến nó, nó sẽ làm các phận sự mà ta sai bảo trong khi tu tập Giới Tuệ. Đó, bây giờ nhìn nó mình thấy nó từ lâu bị trói buộc, nó bị bỏ quên lãng đi, vì vậy bây giờ mình mới cần thiết mình mới dùng nó để cho mình sai nó làm những phận sự sau này, cho nên mình sai nó cái gì thì nó cũng nghe theo hết.

Như vậy là khi mà chúng ta dùng được cái Chánh kiến, Chánh trí chúng ta mới quan sát lại nó, khi mà tâm chúng ta đã ở trong cái thanh tịnh, cái thuần tịnh này thì chúng ta mới có sai được cái Thức thức của chúng ta, mới dậy nó làm việc ở trong cái Giới Tuệ của nó mới được.

“Ví như một hòn ngọc lưu ly bảo châu đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Một sợi dây được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hoặc màu nâu chúng ta đều nhìn thấy rõ sợi dây ấy màu gì, rõ ràng, không sai một chút nào”.

Nghĩa là đức Phật ví như cái lúc mà cái tâm của chúng ta thuần tịnh như vậy mà chúng ta hướng đến chánh trí, chánh kiến mà thấy cái Thức của chúng ta bị trói buộc, bị ngủ quên, giống như chúng ta xỏ một sợi dây qua một hàng ngọc bảo châu trong suốt, cho nên sợi dây màu vàng là chúng ta thấy vàng, màu xanh là chúng ta thấy xanh, màu đỏ chúng ta thấy đỏ, nó không có thấy màu khác và không có mờ mịt chút nào hết. Đó là đức Phật đem cái ví dụ như vậy để chúng ta thấy rằng cái tâm mà chúng ta thuần tịnh rồi thì chúng ta mới dùng cái tri kiến và cái chánh kiến, cái chánh trí của chúng ta, chúng ta thấy được cái Thức của chúng ta, thấy được cái thân này vô thường, biến hoại, nó luôn luôn là bị hoại diệt, thay đổi, nó làm cho chúng ta phiền toái, đau khổ và đồng thời cái mà chúng ta đang cần dùng nó thì nó bị bỏ quên đi.Đó là cái Thức thức của chúng ta bị bỏ quên đi, chúng ta không thấy, nó bị trói buộc, nó bị bỏ quên, nó không có làm việc gì được hết. Bây giờ là lúc chúng ta cần thiết phải đánh thức nó dậy, phải dựng nó dậy để sai bảo nó làm công việc trong sự tu tập Giới Tuệ của chúng ta. Nghĩa là chúng ta muốn tu tập Giới Tuệ thì chúng ta phải đánh thức Thức của chúng ta dậy thì chúng ta mới tu tập được Giới Tuệ.Còn Thức thức chúng ta không có dậy thì không có tu tập được Giới Tuệ. Đó, quý thầy hiểu chưa?

Mà khi đó chúng ta phải thực hiện Thiền định rồi thì chúng ta đánh thức nó dậy. Mà Thiền định tức là Giới Đức, mà Giới Đức xong thì mới có được cái này. Còn nếu mà Giới Đức chưa xong thì thử hỏi làm sao có được.

Hôm nay quý thầy đã thấy từng cái chỗ mà chúng ta vô cái đoạn đầu chúng ta đã đánh thức được cái Thức thức của chúng ta bằng cái chánh trí, bằng cái chánh kiến của chúng ta.

“Đó là Giới Tuệ thứ nhất trong Giới luật của đức Phật mà cũng là một kết quả tu tập thiết thực hiện tại của vị ấy”.Nghĩa là cái vị ấy mà tu được tới chỗ này là cái Giới Tuệ của vị ấy đã đánh thức được cái Thức thức dậy rồi. Đó là một cái kết quả thiết thực, hiện tại của vị ấy. Cái kết quả rất là vi diệu. Đó là cái Giới Tuệ thứ nhất. Đánh thức được cái Thức đó là lúc bây giờ mới dùng cái chánh trí và cái chánh kiến mà đánh thức nó dậy, làm cho nó bật dậy bằng cái gì?Bằng cái pháp hướng.

Đó là Giới Tuệ thứ nhất chúng ta phải tiếp tục ở trên con đường tu tập để đánh thức cái Thức thức của chúng ta dậy, để sai cho nó tiếp tục ở trên con đường mà thực hiện những cái Giới Tuệ của nó, tu tập những cái Giới Tuệ của nó.

“2. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ kheo chú tâm hướng đến sự hóa hiện một thân do ý làm ra, vị ấy tạo ra một thân khác từ thân này, cũng là Sắc pháp, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào, cũng ví như người rút một cây lao ra khỏi vỏ lao, cũng ví như người rút thanh gươm thanh kiếm ra từ bao kiếm, cũng ví như người lột xác một con rắn”.

Đó, khi mà chúng ta đến đây chúng ta thực hiện cái Giới Tuệ của chúng ta mà cái Giới Tuệ thứ hai này là chúng ta sai cái Thức thức của chúng ta phải làm việc. Bây giờ từ ở trong một cái thân này phải biến ra một cái thân khác, hiện ra một cái thân khác mà làm cho được đầy đủ cái thân đó cũng là Sắc tướng cũng vậy, rồi các căn nó cũng vậy, lớn nhỏ mắt tai mũi miệng nó cũng y như cái thân của chúng ta mà nó hiện ra nó ngồi ý như hai người ngồi như là một. Như vậy là chúng ta đã thực hiện được cái Giới Tuệ thứ hai của chúng ta. Đó là cái phần thứ hai để nói lên cái sức làm chủ, sai khiến của cái trí tuệ của chúng ta lúc bấy giờ điều khiển thân và tâm của chúng ta nó phải thể hiện qua cái trí tuệ của chúng ta chứ không còn làm sai khác được cái ý của chúng ta.

“Đó là Giới Tuệ thứ hai trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được một kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu và thù thắng”.

Các thầy nghĩ coi bây giờ từ chỗ Thiền định mà nhập Tứ thiền rồi mình ngưng các hành trong thân của mình rồi, mình ngưng hơi thở mình rồi thì bắt đầu cái tâm của mình nó thuần tịnh rồi thì bắt đầu mình dùng tri kiến mình đánh thức cái Thức thức của mình dậy. Mình đánh thức cái Thức thức mình dậy rồi bắt đầu mình sai khiến nó, bắt đầu mình dùng nó. Bây giờ nó sử dụng cái thân này phải biến ra một thân nữa y như nhau, cũng có các căn mắt tai mũi miệng thân ý đàng hoàng, mặc y áo giống nhau, thì nó ra nó ngồi đây một cái thân nữa. Lúc bây giờ quý thầy thấy cái Giới Tuệ nó như thế nào? Có thù diệu không? Có vi diệu không? Mà nó thiết thực, nó cụ thể, nó hiện tại chứ không phải nói cái chuyện mù mờ, vu vơ đâu! Lẽ ra cái này khi nào mà quý thầy tu tới đây Thầy mới giảng, và đồng thời giảng thì phải có một người thực hiện cho được. Còn cái này thật ra thì đây là xếp thành một cái giáo án chứ nó chưa phải là quý thầy tu tới. Chứ trong thời đức Phật nói ra là có chứng minh liền tức khắc chứ không phải nói vu vơ như thế này! Còn bây giờ mà Thầy làm trò xiếc cho mấy thầy coi thì cái điều đó là cái điều quá là ngu si chứ chưa phải là người biết Phật pháp. Cũng như bây giờ thí dụ như nói về Tẩu hỏa nhập ma thì phải có một người bị thì cái đó là chứng minh cho cụ thể, còn như hồi nãy Thầy đã nói lẽ ra thì không được giảng mênh mông như thế này mà chỉ giảng những cái nào người ta tu tập mà thôi. Còn giảng mênh mông như thế này nhiều khi nó làm cho người ta bị lạc hướng mất đi, người ta tưởng tượng quá nhiều.

Nói đến cái Giới Tuệ này thì Thầy thấy nó là siêu việt, người thế gian không thể lường được. Thành ra Thầy nói tới đây dường như người ta nói Thầy nói láo, nhưng mà nó là một sự thật! Nó không phải là nói láo đâu! Bởi vì kinh sách của Phật còn đặt, nhưng mà bây giờ cái người thể hiện ra thì chưa có ai thể hiện cho nên người ta vẫn nói đó là Phật cũng là nói láo chứ không phải là không nói láo. Nhưng mà Thầy đã biết cái điều nói láo hay không nói láo,Thầy biết chứ làm sao ai biết được.

Cho nên hôm nay vì cái giáo án mà buộc lòng Thầy phải giảng hết những cái gì mà Phật đã dạy ở trong Kinh, không thể nào mà thiếu một cái gì và bỏ một cái gì được. Vì đây là một cái đường đi của đạo Phật đã để lại cho chúng ta là một cái gia tài rất quý báu mà không giảng hết thì Thầy thấy có một cái lỗi của mình là nhìn tới nhìn lui không ai làm được cho nên phải nói.

Bây giờ về cái phần Giới Tuệ thứ ba.

“3. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm hướng đến Dục Như Ý Túc, (Bây giờ tới Tứ Như Ý Túc đó, bây giờ là Dục Như Ý Túc đó), vị ấy chứng được Dục Như Ý Túc, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân  hiện ra một thân”.

Trước thì đức Phật chỉ ra Giới Tuệ đầu tiên là một thân hiện ra một thân, các căn mắt tai mũi miệng đều y, quần áo đều mặc y giống nhau không khác. Đó là mới có biến ra một thân mà thôi. Các thầy thấy phải đi tuần tự chứ không thể nào mà nghe nói cái biến ra nhiều thân một lần được đâu! Chúng ta phải tập tuần tự, cho nên khi mà chúng ta hướng ra một thân biến ra một thân được rồi thì bắt đầu bây giờ mới tới giai đoạn chúng ta một thân biến ra nhiều thân. Bây giờ nó mới tới Dục Như Ý Túc đó!Chứ hồi đầu nó chưa phải Dục Như Ý Túc đâu!Chúng ta mới tập luyện cho cái Thức thức của chúng ta sống dậy biết điều khiển mà thôi, chứ chưa phải hoàn toàn là đủ cái Dục Như Ý Túc đâu! Bây giờ bắt đầu chúng ta mới tới nữa thì chúng ta mới thấy được cái Giới Tuệ thứ ba này chúng ta mới thấy một thân nó hiện ra nhiều thân.

“Một thân hiện ta nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân”, nhiều thân nó gộp lại một thân rồi một thân nó hiện ra nhiều thân, “hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách đá, qua tường, qua núi như đi ngang qua hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không chìm như đi trên đất liền, ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm rờ mặt trăng mặt trời, những vật có đại oai lực, có đại thần lực”.

Như vậy nghĩa là đức Phật ví dụ như mặt trăng mặt trời nó cao xa, nó lớn như vậy đó mà bàn tay của chúng ta vói tới chúng ta rờ mặt nó được. (Kiểu này chắc rờ mặt trời chắc cháy tay). Có đại oai thần như vậy có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên.Lúc bấy giờ cái người đó có thể bay đến cõi phạm thiên được.

“Ví như một người thợ gốm khéo tay với đất sét, khéo nhồi nhuyễn, có thể làm các loại đồ gốm tùy theo sở thích”.Đức Phật ví như người tu tới Giới Tuệ thứ ba này họ cũng như một người thợ đồ gốm khéo tay, với cục đất sét mà nhồi rất nhuyễn rồi thì cái người thợ gốm này muốn làm cái chum, cái chén, cái gì họ làm cũng được hết, thậm chí họ nắn cả tượng Phật hoặc bình sứ, bình bông cái gì họ khéo tay cũng làm được hết. Thì ví dụ như chúng ta tu tới đó bây giờ chúng ta muốn làm cái gì cũng được hết, không phải 72 phép biến như là Dương Tiễn, cũng như là Tôn Ngộ Không đâu! Có 72 à! Còn ở đây nó vô lượng chứ đừng có nói! Quý thầy phải hiểu rằng đường lối của đạo Phật không phải tập luyện có 72 phép biến đâu! Mà đây là chúng ta muốn cái gì được cái nấy hết, cho nên ví như một ông người thợ gốm mà với cục đất sét ông nhồi rất nhuyễn rồi bây giờ ông chỉ có nắn, ông muốn nắn con bò, con trâu, con voi, con ngựa gì cũng được hết à. Một người đạt đến chỗ này thì họ muốn nắn cái gì cũng được hết như vậy đó!

“Ví như một người thợ ngà voi khéo tay với ngà voi đẽo dũa có thể làm các loại đồ ngà tùy theo sở thích”.Nghĩa là người thợ đó khéo tay thì lấy cái ngà voi đó họ làm cái gì cũng được, không có gì khó khăn đối với ông hết. “Ví như người thợ vàng (thợ kim hoàn đó) khéo tay với vàng khéo tinh luyện có thể làm tất cả đồ trang sức bằng vàng tùy theo sở thích”.Đó là đức Phật ví dụ như những người làm ra những điều đó thì cũng như là chúng ta đang ở trong một cái tâm định tĩnh như vậy mà chúng ta dùng cái thần lực của chúng ta, cái oai lực của chúng ta, chúng ta có thể làm tất cả những cái gì cũng được hết chứ không có khó khăn gì hết.

Đó là Giới Tuệ thứ ba trong Giới luật của đức Phật.Đây là cái Giới Tuệ thứ ba thôi chứ chưa phải là nó hết những Giới Tuệ của Phật đâu! Mới bắt đầu nghĩa là bước qua đầu cái Giới Tuệ là chúng ta thấy có những sự vi diệu tuyệt vời rồi đó.

“Đó là Giới Tuệ thứ ba trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ lường”.

Bây giờ cái đầu óc của chúng ta nghĩ không có ra được cái này đâu! Thầy nói bây giờ mấy người nghĩ sao mà cái thân này biến ra ngàn thân, mấy người nghĩ đi! Cách thức nào làm cho được đi! Nghĩ sao cho ra không? Thế mà người ta đạt được đến cái mức độ này người ta làm ra được. Nó đâu phải là chuyện khó đâu, nhưng mà bây giờ lấy cái đầu óc phàm phu mà nghĩ thì chắc chắn là không có được rồi. Cho nên khó nghĩ lường, ở đây nó vi diệu, thù thắng mà thiết thực, hiện tại chớ không phải là đợi ngày mai ngày mốt đâu! Bây giờ muốn là bây giờ được, mà ngày mai muốn là ngày mai được. Muốn hồi nào là được hồi nấy. Phật lại nói thêm: “Tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu”.Trong thời gian hiện tại mà thiết thực, cụ thể chứ không phải nói mơ hồ như cái bóng ma, bóng khói, như đám mây mờ mờ ảo ảo đâu! Nó là một sự thật như vậy!

“4. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy Tỳ kheo dẫn tâm đến Thiên nhĩ thông. Tỳ kheo với Thiên nhĩ thông thanh tịnh, siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng nói của chư Thiên và của loài người dù ở xa, ở gần cũng đều nghe rõ không sai. Ví như một người đang đi qua đường nghe tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng loa, tiếng xập xả, tiếng kèn, tiếng kẻng. Người ấy nghe biết rõ ràng. Cũng vậy, vị Tỳ kheo tâm định tỉnh hướng tâm Thiên nhãn thông nghe thấy rõ ràng cũng vậy.

Đó là Giới Tuệ thứ tư trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ lường”.

Quý thầy thấy khi tâm người ta như vậy thì người ta dẫn tâm người ta đến Thiên nhãn thông hoặc là Thiên nhĩ thông, hoặc là Tha tâm thông, tất cả những cái này đều là những điều kiện mà những vị đó đã tu tập ở trong Giới Tuệ và họ đã đạt được.

“5. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỳ kheo dẫn tâm và hướng tâm đến Tha tâm thông”.

Ở đây Thầy nhắc nhở quý thầy hai danh từ: Dẫn tâm và hướng tâm. Dẫn tâm là như thế nào và hướng tâm là như thế nào? Sau này Thầy dạy tới các pháp Thầy sẽ giải thích chỗ này cho. Còn bây giờ thì chúng ta học suông qua thôi. Bây giờ hướng dẫn đến Tha tâm thông đây!

“Tỳ kheo sau khi dẫn tâm đi sâu vào tâm chúng sanh (hướng tâm, dẫn tâm mình đi sâu vào tâm chúng sanh) của loài người, với tâm thuần tịnh, trong sáng, vị ấy biết được như sau: Tâm của chúng sanh có Tham biết là có Tham, tâm không có Tham biết là tâm không có Tham. Tâm của chúng sanh có Sân biết là tâm của chúng sanh có Sân, tâm không có Sân biết là không có Sân. Tâm của chúng sanh có Si biết là tâm có Si, tâm không có Si biết là tâm không có Si. Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú, tâm tán loạn biết là tâm tán loạn. Đại hành tâm biết là đại hành tâm, không phải đại hành tâm biết là không phải đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng biết là tâm chưa vô thượng, tâm vô thượng biết là tâm vô thượng. Tâm Thiền định biết là tâm Thiền định, tâm không Thiền định biết là tâm không Thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm giải thoát, tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát”.

Đó, khi mà được cái Giới Tuệ thứ năm này thì quý vị làm cái gì, tu tập đúng sai thì vị Thầy người ta đều biết hết nhưng mà người ta không nói ra thôi, người ta lần lượt điều khiển, hướng dẫn cho người tu đúng thôi, chứ người ta biết quý vị còn ở trong tâm nào người ta biết hết chứ không phải là người ta không biết. Người ta sử dụng được cái tâm của người ta cho nên người ta phải thông suốt quý vị hết. Chứ nếu người ta không sử dụng được cái tâm của người ta thì làm sao người ta biết quý vị! Nhưng người ta không muốn làm quý vị bất mãn, không muốn làm cho quý vị trái ý, người ta tùy thuận quý vị nhưng người ta lần lượt hướng dẫn nhỏ nhẹ để cho quý vị sửa lần lần để đi vào con đường đúng mà thôi! Bởi vì người tu người ta hiểu biết cái kiến chấp của quý vị nó rất nặng, nó không phải dễ dàng một ngày một bữa mà nó cởi ra được, mà phải tuần tự người ta khéo léo để giúp cho quý vị cởi ra.

“Ví như một người đàn bà soi mặt mình trong một tấm gương trong sáng suốt, nếu mặt có tì vết liền biết mặt có tì vết, nếu mặt không có tì vết thì biết là không có tì vết, da mặt trắng biết là da mặt trắng, da mặt đen biết là da mặt đen, mặt có nốt ruồi biết là mặt có nốt ruồi, mặt không có nốt ruồi biết là mặt không có nốt ruồi, mặt có vết thẹo biết là mặt có vết thẹo, mặt không có viết thẹo biết là không có vết thẹo”.

Đó, đức Phật ví dụ như một người đàn bà cầm cái gương soi vậy, thấy cái mặt mình như thế nào thì biết rõ, thì cái người có được cái Giới Tuệ thứ năm này thì người ta dẫn tâm vào tâm của chúng sanh, vào tâm các thầy, các thầy tu như thế nào người ta biết hết chứ không phải người ta không biết đâu! Đó là như chúng ta soi một cái gương cũng như người phụ nữ mà soi một cái gương trên mặt vậy đó! Họ biết họ rõ như thế nào thì cũng ví như một người mà người ta đã có được Giới Tuệ thứ năm này thì người ta thấy cái tâm chúng sanh nó cũng như vậy đó!

“Đó là Giới Tuệ thứ năm trong Giới luật của đức Phật vị này đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.

Chúng ta thấy tới Giới Tuệ thứ năm chúng ta đã thấy được thông suốt được những cái tâm sai khác của chúng sanh như thế nào, tu được hay không người ta biết hết, tu đúng tu sai người ta biết hết chứ không phải là người ta không biết.

“6. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu uế, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy vị ấy dẫn tâm hướng tâm đến Giới tuệ Túc mạng minh– đó bây giờ mới hướng đến Túc mạng minh đây, vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rõ ràng sanh tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp trong xã hội như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia ta được sanh ra tại chỗ nọ, tại chỗ ấy ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp trong xã hội như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây. Như vậy như vị Tỳ kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và chi tiết rất rõ ràng”.

 Đó, đức Phật ví dụ như chúng ta dùng Túc mạng minh thì chúng ta thấy nhiều đời nhiều kiếp mình như vậy đó chứ không là thấy ít đâu!

“Ví như một người đi từ làng mình đến làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa và từ làng này trở về làng mình, làng của mình, người ấy nghĩ: Ta từ làng của mình đi đến làng kia, nơi đây ta đã đứng như thế này, đã ngồi như thế này, đã nói như thế này, đã yên lặng như thế này. Từ nơi làng nọ ta trở về làng của ta.

Đó là trí tuệ thứ sáu trong Giới luật của đức Phật vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.

Đó thì quý thầy thấy người ta thấy nhiều đời nhiều kiếp người ta như là mình đi từ làng này đến làng khác rồi mình trở về làng mình như vậy. Nghĩa là thấy từ quá khứ rồi trở về hiện tại là cái vị đó cũng như mình ngồi tu đây bắt đầu mình trở về quá khứ nhiều đời nhiều kiếp…

Bây giờ bắt đầu chúng ta tiếp tục bài học vừa rồi là thuộc về Giới Tuệ.

“Đó là Giới Tuệ thứ sáu trong Giới luật của đức Phật. Vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.

“7. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy Tỳ kheo dẫn tâm hướng tâm đến Giới Tuệ về sanh tử của chúng sanh, tức là Thiên nhãn minh. Vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh, vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do Nghiệp của chúng tạo ra. Này các con! Người thường hay làm điều ác hạnh về thân, lời nói và ý nghĩ do vô minh, không rõ theo tà kiến, phỉ báng xuyên tạc giới luật và pháp môn của các bậc Thánh hiền, chạy theo tà kiến, tạo các tà nghiệp, nuôi sống tà mạng… Những người này sau khi hết phước báu hiện tại, khi thọ, khi thân hoại mạng chung để lại cho thế gian chứng nghiệm một sự đau khổ của các vị ấy, cực kỳ đau khổ. Đến khi mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ địa ngục. Hiện giờ họ đang phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ. Còn ngược lại những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời nói và ý nghĩ, không theo tà kiến, luôn luôn theo chánh kiến của Phật dạy nên không phỉ báng, thêm bớt Giới luật và giáo pháp của đức Phật, thường theo Giới luật của Phật không làm khổ mình khổ người, không làm các tà nghiệp, không nuôi dưỡng bằng những thực phẩm bất tịnh có ác pháp, có sự chết chóc đau khổ bằng sinh mạng của chúng sinh. Những người này sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, cõi trời, cõi người, hưởng đầy đủ phước báu, không có thiếu thốn một vật gì cho cuộc sống. Với Thiên nhãn minh thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh rất rõ ràng, ví như một người ở trên tòa lầu đài có thượng đài giữa ngã tư đường, môt người có mắt nhìn xuống thấy rất rõ, sẽ thấy những người đi vào nhà, từ nhà đi ra đi qua đi lại trên đường, ngồi ở giữa ngã tư đường hay trèo lên đài thượng rất rõ ràng không thiếu một chi tiết nào hết.

Đó là Giới Tuệ thứ bảy trong Giới luật của đức Phật vị ấy đã đạt được kết quả Giới Tuệ này thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.

“8. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, thanh thản như vậy, vị Tỳ kheo dẫn tâm hướng tâm đến Lậu tận trí, vị ấy biết như thật đây là Khổ, biết như thật đây là nguyên nhân của Khổ, biết như thật đây là Khổ diệt, biết như thật đây là con đường đưa đến Khổ diệt; biết như thật đây là những Lậu hoặc, biết như thật đây là nguyên nhân của những Lậu hoặc, biết như thật đây là sự diệt trừ các Lậu hoặc, biết như thật đây là con đường đưa đến diệt trừ các Lậu hoặc.Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi Dục lậu, thoát khỏi Hữu lậu, thoát khỏi Vô minh lậu, đối với tự thân đã giải thoát như vậy sự hiểu biết khởi lên một cách rất rõ ràng “Ta đã giải thoát. Sanh đã tận, phạm hạnh đã xong, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại này không còn có đời sống nào khác nữa!”.

Đó là cái Tuệ thứ tám của vị này nó hiện ra thì đó chứng đạt được cái lý Tứ Diệu Đế. Cho nên trong Ngũ lực thì đức Phật có nói là cái Tuệ lực là cái gì? Tuệ lực là Tứ Diệu Đế. Cho nên thấy thật, chứng thật, thấy rõ. Khi mà chúng ta nghe nói Tứ Diệu Đế chúng ta nghe nói Khổ, đời là khổ, rồi nguyên nhân Khổ, rồi cảnh giới thoát Khổ, rồi tám cái nẻo để đưa đến cảnh giới thoát khổ đó thì chúng ta hiểu biết như vậy, đó chúng ta mới ngộ được cái chân lý của đạo Phật mà thôi. Còn ở đây khi mà cái Giới Tuệ của chúng ta thực hiện được là cái Lậu tận minh thì chúng ta sẽ thấy được cái nguyên nhân Khổ, khổ thật chứ không phải là ngộ mà đây là chứng cái lý Khổ. Cho nên Phật mới dạy là khi mà cái trí tuệ đó, cái Giới Tuệ đó mà nó hiện ra thì chúng ta thấy: đây là Khổ, đây là chứng thật cái sự khổ chứ không phải nói đây là Khổ như chúng ta biết nó khổ thường thường đâu! Mà đây là cái sự chứng thật! Biết như thật tức là biết thật sự, thấm cái lý ở trong đó do sau những ngày tu tập cái Định vô lậu mà nó thấm nhuần, nó mới thấy như thật được, thì đây là nguyên nhân của khổ thật, chúng ta biết rõ là lòng ham muốn khổ thật, nhưng bây giờ chúng ta hiểu nó là biết cái nguyên nhân khổ là lòng ham muốn, nhưng mà chúng ta đoạn trừ không được, nhưng mà thời gian chúng ta nghiền ngẫm đặt cái niệm đó trước mặt mà chúng ta nỗ lực thực hiện cái niệm đó bằng cái pháp hướng. Tùy theo cái pháp mà chúng ta nổ lực thực hiện, tâm chúng ta nó thấm được cái lý đó, nó chứng được cái lý đó cho nên bây giờ mới gọi là cái trí tuệ Vô lậu, nó thực hiện ra chúng ta mới thấy được nó như thật, biết nó như thật như vậy! Cho nên mới biết đây là khổ thật, đây là nguyên nhân khổ thật, đây là cái nơi hết khổ, đây là cái chỗ mà chấm dứt khổ và đây là con đường dẫn đến hết khổ.

Và kế đó thì đức Phật lại nhắc lại thêm cho chúng ta thấy bốn cái Khổ đế này rõ ràng nhưng mà đức Phật xác định cho chúng ta thấy bốn cái Khổ đế nó nhằm vào những cái lậu hoặc của chúng ta để chúng ta thật thấy nó.

Biết như thật đây là những lậu hoặc, biết như thật đây là nguyên nhân của những lậu hoặc, biết như thật đây là diệt trừ các lậu hoặc, biết như thật đây là còn đường đưa đến diệt trừ các lậu hoặc”.

Thì chúng ta sống ở trong cuộc sống chúng ta hàng ngày là chúng ta phải thấy cái mấu chốt của lậu hoặc là nó như thế nào. Cái lậu hoặc là cái khổ, mà nguyên nhân của lậu hoặc là lòng ham muốn của chúng ta, mà diệt hết lòng ham muốn thì sẽ hết cái lậu hoặc, mà hết lậu hoặc thì đó là Niết bàn, là cái cảnh hết khổ. Mà muốn được như vậy thì chúng ta phải thấy được con đường đưa đến hết cái khổ đó tức là đoạn diệt cái lòng ham muốn thì con đường đó thì chúng ta thấy muốn cho hết cái lậu hoặc ở trong tâm của chúng ta thì con đường đó là Bát chánh đạo – Tám cái nẻo mà chúng ta cần phải tu tập.

Cho nên ở đây cái Giới Tuệ nó giúp cho chúng ta biết rằng, chỉ bảo cho chúng ta biết rằng con đường nào sẽ đưa chúng ta đi đến tận diệt cái lậu hoặc. Sau khi học xong Giới luật thì bắt đầu chúng ta sẽ học đến tám cái nẻo này, và tám cái nẻo này thì chúng ta phải biết từ cái Chánh kiến cho đến Chánh định, mà từ Chánh kiến đó chúng ta phải tu như thế nào, phải tập luyện như thế nào ở trong những cái Chánh kiến. Bắt đầu chúng ta phải tu những cái Định gì đối với Chánh kiến đầu tiên như bây giờ chúng ta tu cái…Nói ví dụ như bây giờ chúng ta bắt đầu tu thì chúng ta phải tu trong Chánh kiến, phải phòng hộ cái Chánh kiến của chúng ta. Phòng hộ Chánh kiến chúng ta tức là phòng hộ mắt tai mũi miệng thân ý của mình. Tức là Phật gọi là Thánh phòng hộ sáu căn.

Như vậy mới đầu vô mà được Chánh kiến là phải phòng hộ mắt tai mũi miệng của mình, cho nên tâm của chúng ta bây giờ nó không bị nhiễm trước, không bị đắm trước các đối tượng, các pháp cho nên khi phòng hộ nó thì chúng ta đâu thấy vật nào. Sau đó thì chúng ta phải dùng trên cái mắt tai mũi miệng của chúng ta, chúng ta phải tu tập cái sức tỉnh thức để khi chúng ta nhìn mọi vật mà chúng ta thấy không có cho cái tâm của chúng ta làm cái duyên trở thành sự dính mắc của vật đó, thì đó là chúng ta phải tu Chánh niệm tỉnh thức. Cho nên phòng hộ thì trước tiên, mà đây là mới có tu cái nẻo Chánh kiến mà chúng ta phải phòng hộ nó rồi.

Rồi đến khi mà mắt của chúng ta nhìn các vật được, trước đó phòng hộ để cho chúng ta luyện tập cái sức tỉnh thức. Sau khi tập luyện tỉnh thức được thì chúng ta mới cho mắt của chúng ta nhìn các vật, do đó chúng ta thấy nó tỉnh thức trong mọi vật cho nên nó đã làm cho tâm chúng ta không còn khởi ham muốn mọi vật nữa. Vì vậy lúc bấy giờ chúng ta đã tu hai cái Định, và hai cái Định đó để giúp chúng ta trong Chánh kiến, và bây giờ chúng ta mới quét sạch, trong cái nhìn của chúng ta nó sẽ sanh ra lậu hoặc. Do đó chúng ta phải tu cái Đinh vô lậu nữa! Từ đó nó còn có những cái khó khăn của nó vi tế nữa, cho nên chúng ta phải đi đến cái Định Hiện tại an lạc trú để chúng ta quét sạch lậu hoặc, chứng được Tam minh mới quét nó ra được, cho nên con đường đi chúng ta phải ba bốn thứ Định trong một cái Chánh kiến. Từ cái Chánh kiến rồi thì cái Chánh Tư duy thì cũng phải tu như vậy. Rồi Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh niệm, Chánh định chúng ta cũng phải tu trong mấy cái định này chứ đâu phải là tu có một cái không.

Rồi còn phải tu trong cái hành tướng, cái nhân tướng, cái đặc tướng của cái Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh định, Chánh tinh tấn, chớ đâu phải là có một cái không. Cho nên giảng về Tứ diệu đế đâu phải là đơn giản mà nói suông suông được. Cho nên nó còn rất nhiều điều mà Thầy cần phải nói để cho quý thầy biết rằng con đường của đạo Phật rất là kỹ lưỡng, trên bước đường hướng dẫn cho một người tu đạt đến chỗ giải thoát hoàn toàn của tâm họ. Chớ đâu phải là dạy sơ sơ trên cái nhân tướng là nói mình phải thấy đúng hiểu đúng như thế này thế khác bằng thiện pháp như Thầy dạy cách thức đơn giản thì người ta chỉ có được một chút ít nào giải thoát mà thôi, làm cho tâm hồn họ được an ổn mà thôi, chớ không thể nào như một vị tu hành phải hiểu cho rõ cho đúng.

Đến đây là cái Giới Tuệ thứ tám mà chúng ta nhận ra được những cái lậu hoặc chúng ta còn hay là hết.

“Ví như tại dãy núi lớn có một hồ nước thuần tịnh, trong suốt tận đáy hồ, không cấu nhiễm, một người có mắt đứng trên bờ hồ sẽ nhìn thấy con hến, con sò, con ốc, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi lội qua lại hay đứng lại một chỗ rất rõ ràng không có mờ mịt chút nào, không có chỗ nào còn che dấu được mắt họ”.

Đức Phật ví dụ khi mà tâm của chúng ta mà cái Lậu tận minh nó hiện ra rồi thì cái tâm của chúng ta bây giờ nó thuần tịnh, nó trong cũng như là cái nước hồ mà trong suốt mà chúng ta đứng trên hồ rồi nhìn xuống đáy hồ thấy tất cả những vật ở dưới đáy hồ rất rõ ràng. Phật ví dụ tâm chúng ta đến cái chỗ Giới Tuệ thứ tám này thì nó trong suốt như vậy đó. Nó thanh tịnh trong suốt, nó không còn một chút tham dục nào trong đó, nó không còn một chút bất tịnh nào trong đó, cho nên nó trong suốt như vậy! Khi tu đến đây rồi thì cái tâm của chúng ta dễ sử dụng tất cả mọi thứ, điều khiển nó như thế nào thì nó làm được tất cả như thế nấy.

“Đó là Giới Tuệ thứ tám trong Giới luật của đức Phật, vị ấy đã đạt được kết quả Giới Tuệ này thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.

Tóm lại, tám Giới Tuệ trong đạo Phật là tám loại trí tuệ thanh tịnh, siêu việt trong kinh Sa môn quả. Đó là ở trong kinh Sa môn quả nó nếu ra tám cái loại trí tuệ đó như vậy. Nhưng ở đây chúng ta còn phải hiểu thêm cho đúng khi một người thọ trì tu tập đúng pháp của Phật là phải bắt đầu từ Sơ thiện, Trung thiện và Hậu thiện.

Sơ thiện là Giới luật, còn gọi là Giới bổn Patimokka. Trung thiện gọi là Thiền định, còn gọi là Bốn thiền, hay gọi là Tứ thánh định. Nếu gọi Thiền định của đạo Phật như vậy chưa đủ. Ta nên xem lại Giới Đức của đạo Phật có phân làm 10 loại Định. Nghĩa là trong cái Thiền định của đạo Phật chia làm 10 loại Định chứ không phải như chúng ta nói rằng Bốn cái Thiền định đó đâu!

Có 10 loại Định. Vậy thì 10 loại Định nó như thế nào? Thầy xin kể ra cho quý thầy nghe.

Thứ nhất,Định niệm hơi thở. Đó là cái thứ nhất mà cái người tu bắt đầu vào để mà tu tập là phải ổn định hơi thở. Vì khi mà chúng ta ăn uống điều độ mà chúng ta giữ được hơi thở điều hòa thì cơ thể chúng ta không có bệnh tật. Như quý thầy biết rằng vốn đạo Phật ra đời là một y vương để trị bệnh cho chúng sanh. Bệnh chúng sanh có hai loại bệnh: Bệnh thứ nhất là thân bệnh. Bệnh thứ hai là tâm bệnh.Mà đức Phật dạy cho chúng ta để trị thân bệnh thì bằng cách ăn uống điều độ ngày 1 bữa chớ không được ăn nhiều và hơi thở được ổn định,(BBT:CĐ,21B,E00:44:54) điều hòa thì cơ thể không có bệnh đau. Cái thứ hai thì đức Phật dạy cho chúng ta trị tâm bệnh. Vì tâm bệnh thì nó mới làm cho thân chúng ta mới bệnh. Còn tâm người đó không bệnh thì ít khi mà thân chúng ta bị bệnh. Một người mà phiền não (BBT:CĐ,22A,B00:00:00) rầu buồn thì lâu ngày ăn uống không được thì sẽ bệnh; một người giận dữ, tức giận thì cũng ăn uống không ngon, do đó tạo cho cơ thể rối loạn và từ đó dễ sanh bệnh. Cho nên những cái sân hận, phiền não, đau khổ, lo lắng, suy tư là cái tâm bệnh. Cái tâm bệnh thì lấy gì mà trị? Đức Phật nói: Cái Tâm bệnh lấy Trí mà trị, lấy sự hiểu biết mà trị nó.Cho nên ở đây hầu hết để trị cho chúng ta cái Tâm bệnh Vô lậu này thì phần nhiều là lấy Trí tuệ, mà lấy Trí tuệ đó thì như quý thầy đã học rồi, Trí tuệ ở đâu thì Giới luật ở đó. Bởi vì Trí tuệ nó làm cho Giới luật thanh tịnh, mà Giới luật nó làm cho Trí tuệ thanh tịnh. Cho nên người có trí là người có Giới luật, mà người không có trí là người không có Giới luật. Dù là người đó là người có thông minh gì đi nữa mà đời sống họ không đúng Giới hạnh, không đúng cái Giới luật của Phật dạy thì đương nhiên người đó là người không có trí. Cũng như quý thầy thấy mọi vị ăn phi thời tức là người đó không có Giới luật, mà không có Giới luật tức là không có trí tuệ, mà không có trí tuệ thì người ăn phi thời sẽ có nhiều bệnh tật đem đến đau khổ cho họ. Và khi mà chạy theo sự ăn uống đó là họ bị dục lạc của ăn uống cám dỗ làm cho tâm hồn của họ khi mà ăn cực khổ hoặc là khi không có ăn thì họ phải sinh ra đau khổ, phải sinh ra phiền não, phải sinh ra những cái ác pháp.

Đó, thì như vậy là người không có trí mà chỉ sống theo dục lạc cho nên luôn luôn tạo mình khổ, tức là tạo cho mình có bệnh, tâm bệnh hoặc là thân bệnh. Cho nên ở đây là cái Định niệm hơi thở vốn mục đích nó hợp với cái sự ăn uống điều độ của chúng ta thì giúp cho thân chúng ta không bệnh. Cho nên nó là Định thứ nhất của đạo Phật để trị cái thân bệnh của chúng ta. Còn các cái định khác, còn 9 cái thứ định này vốn là để trị cái tâm bệnh của chúng ta. Đó thì cái Định niệm hơi thở nó hợp với cái đời sống ăn uống của chúng ta hàng ngày thì nó trị được cái thân bệnh. Còn 9 cái loại định sau này nó hợp lại để mà nó trị cái Tâm bệnh của chúng ta. Biết như vậy thì Thầy sẽ kể tiếp cho quý thầy nghe.

Thứ haiThánh định phòng hộ sáu căn. Bởi vì phòng hộ sau căn là một cái loại định làm cho mắt tai mũi miệng thân ý chúng ta thanh tịnh, và oai nghi luật nghi, cái luật nghi mà Giới hạnh làm cho chúng ta rất rõ nét mà người nào nhìn vào cũng biết là cái người đó Giới luật hẳn hòi. Một người tu sĩ mà đi ra đường ngó qua ngó lại thì biết rằng người đó không phòng hộ sáu căn. Mà không phòng hộ sáu căn thì tức là người đó đã phạm Giới. Không thể nào trong ý của họ không phạm Giới. Họ đi mà họ ngó qua ngó lại thì cái ý họ bị dính kẹt ở trong những cái đối tượng của các pháp thế gian thì làm gì họ cũng bị phạm Giới hết. Mặc dù là Thân – Khẩu họ không phạm, đời sống họ không phạm nhưng Ý họ vẫn bị phạm Giới. Đó là Thánh định phòng hộ sáu căn.

Thứ baThánh Định Chánh niệm Tỉnh thức, nghĩa là người tu sĩ luôn luôn phải tỉnh giác, phải tỉnh thức, không có được mê mờ, cho nên khi đi luôn luôn họ tập trung dưới bàn chân họ, họ tránh tất cả những loài chúng sanh và đồng thời họ giữ được Chánh niệm là không hại chúng sanh, không làm đau khổ chúng sanh, tức là không giết hại chúng sanh, tức là giữ giới không sát hại chúng sanh. Cho nên Giới luật ngay từ chỗ bước đi của họ chứ không phải họ cầm dao họ giết con vật hoặc cầm dao giết người mới gọi là sát sanh, mà chính vô tình đạp chết chúng sanh vẫn là thọ lấy cái Giới phạm Giới sát sanh chứ không phải không.

Thứ tư,Chánh Định Thiểu dục tri túc. Nghĩa là phải dùng cái sức định tâm hết sức mới giữ được cái Thiểu dục tri túc, chứ không thể nào mà thiếu Thiểu dục tri túc, thiếu cái định tâm mà giữ gìn được Thiểu dục tri túc đâu! Cho nên ở đây thứ tư là Thánh định Thiểu dục tri túc, Phật gọi nó là Thánh định. Cái Thiểu dục tri túc là của bậc Thánh chứ không phải phàm phu mà thiểu dục tri túc được. Quý thầy cứ nghĩ ba y một bát như thế này, sống ngày có người cho ăn mà có ngày không có người cho ăn vẫn thấy mình biết đủ, chưa phải là thấy mình thiếu sót đói khổ. Quý thầy có nghĩ được cái điều đó không? Cuộc sống của một người tu sĩ mà đến cái mức độ đó thì quý thầy thấy nếu mà ngoài đời sống thì không ai mà chịu nổi hết. Người ta nói quá khổ à, không thể nào cái khổ nào hơn cái khổ của những bậc Thánh này. Vì vậy cho nên Thiểu dục tri túc nghe hai danh từ thì dễ lắm, nhưng mà sống không phải dễ. Khi vào trong rừng không có cơm ăn, phải ăn lá cây rừng vẫn thấy thiểu dục tri túc. Khi đau bệnh mà không có thuốc thang vẫn thấy thiểu dục tri túc, trước cơn ngặt nghèo mà chúng ta vẫn thấy thiểu dục tri túc. Không đòi hỏi thì lúc bấy giờ mới thấy thiểu dục tri túc phải là Thánh định, chứ còn không Thánh định thì không thể nào chịu nổi trước cái cảnh thân và tâm quá khắc khổ trong cuộc sống. Đó gọi là Thánh định Thiểu dục tri túc, mà ở đây đã có cái… mình mới đạt được cái Giới Đức đó chứ không phải dễ. Cho nên Định nó thuộc về Giới đức.

Thứ năm,Thánh Định Vô lậu. Làm cho lậu hoặc chúng ta sạch cho nên gọi là Thánh Định Vô lậu.

Thứ sáu, Thánh Định Sơ thiền. Còn gọi là Định chói sáng, hay gọi là Định sáng suốt. Đó, cái Sơ Thiền nó còn có cái tên gọi là Định chói sáng hay là Định sáng suốt mà Thầy thường nhắc quý thầy ngồi lại mà giữ tâm thanh thản, giữ tâm vô sự đó. Đó là cái Định Sơ Thiền đó. Chứ không phải là gì, vì có ly dục ly bất thiệp pháp thì mới nhập được Sơ Thiền, mà có nhập được Sơ Thiền thì ngồi nó mới thanh thản, còn không thì làm sao mà thanh thản được. Cho nên cái Định Sáng suốt (Định chói sáng) là cái định của Sơ Thiền. Vì vậy ở đây Phật gọi là Thánh Định Sơ Thiền. Chứ không phải phàm phu mà nhập được cái Định này đâu!

Kế đó thứ bảythì Phật gọi là Thánh Định Nhị thiền. Nghĩa là diệt Tầm Tứ, không tác ý, không phải chuyện dễ làm của phàm phu cho nên chỉ có bậc Thánh mới có thể làm được điều đó.

Thứ tám, Thánh Định Tam thiền. Chỉ có bậc Thánh mới ly tất cả những trạng thái của ma tức là mười tám cái trạng thái của Tưởng. Mỗi cái trạng thái của Tưởng nó khởi lên là nó làm cho chúng ta có niềm vui mừng, mà cái niềm vui mừng đó nó làm cho chúng ta mà Phật gọi là “Ly hỷ, trú xả”. Mỗi cái trạng thái của Tưởng khởi lên làm cho thân chúng ta đang bị đau khổ dày vò do đó chúng ta phải ly cho được thì như vậy chúng ta mới nhập cho được Tam thiền. Mà ly 18 trạng thái của Tưởng này thì mới nhập được Tam thiền cho nên mới gọi là Thánh định. Thậm chí như chiêm bao, giấc mộng chúng ta cũng phải ly sạch ra, nếu còn mộng thì chưa nhập Tam Thiền. Cho nên cái sức tỉnh của người đó dù trong lúc ngủ họ cũng phải tỉnh, mà không tỉnh thì phải có chiêm bao, mà chiêm bao tức là họ chưa lý được cái trạng thái của Tưởng. Chưa ly được trạng thái của Tưởng thì không bao giờ nhập được Tam thiền. Cho nên khi ngủ, cái người mà tu đến cái chỗ mà vượt qua cái Tưởng này thì người đó không còn mộng mị. Mà không còn mộng mị thì ngủ phải tỉnh thức chứ không thể ngủ mê như cái người tầm thường phàm phu được. Tới cái chỗ Thánh Định Tam Thiền này chúng ta mới biết rằng cái chỗ ngủ và chỗ thức của chúng ta nó không có cái chỗ sai khác chút nào hết.

Thứ chín, Thánh Định Tứ thiền. Đây, quý vị thấy cái Thánh Định Tứ thiền là cái chỗ mà ngưng hoàn toàn hơi thở chúng ta, mà chỗ đó là cái chỗ thanh tịnh nhất mà chúng ta thực hiện được Tam Minh đó. Đó là chỗ Thánh Định Tứ thiền, không phải kẻ phàm phu mà nhập được Tứ Thiền nổi đâu! Không phải chuyện dễ, hơi thở đang thở như thế này mà ngưng lại các hành hoạt động trong hơi thở, đang co bóp, phổi chúng ta đang thở ra thở vô, thế mà nó hoàn toàn ngưng mà chúng ta không chết thì không phải là thiền của bậc Thánh mới làm được sao? Đó là cái chỗ làm chủ được sống chết của thân của chúng ta, cho nên nếu mà chúng ta muốn bỏ thân này thì đều phải nhập vào Tứ thiền thì mới bỏ thân này được.

Thứ mười,Thánh Định Diệt Thọ Tưởng. Nghĩa là cái Định cuối cùng là định thứ mười là Diệt Thọ Tưởng. Cái Định này nó giữ cái thân của quý vị ngàn năm không bị hoại diệt, nó giữ cái thân của quý vị ngàn năm không bị hoại diệt. Nghĩa là Thánh Định Tứ Thiền nó chỉ có 49 ngày, nếu quá 49 ngày thì cái thân của quý vị bị hoại diệt, vì nó còn ở trong cái Thức thức, nó chưa ly khỏi cái thân Ngũ uẩn của nó, Tứ thiền nó chưa ly khỏi cái thân Ngũ uẩn của nó, nó còn ở trong cái Thức thức của nó để nó sử dụng cái biết để mà trở về cái trí tuệ Tam minh của nó, tức là cái Giới Tuệ của nó cuối cùng. Cho nên nó không giữ được cái thân của nó lâu dài, chỉ có 49 ngày thì nó bị hoại diệt. Nhưng chúng ta nhập tới 49 ngày tự cái thân của chúng ta nó phải phục hồi sự sống lại, nó sẽ bung ra chứ nó không ở trong Tứ Thiền. Cho nên chúng ta chẳng ngại vấn đề đó. Nếu chúng ta nhập Tứ Thiền đến đó nó tự bung ra, nó không nằm ở trong đó cho chúng ta chết đâu. Còn Diệt Thọ Tưởng Định thì cái Thánh Định thứ mười này nó giúp cho chúng ta nhập vào cái Định này cả trăm năm, cả ngàn năm thân này bất hoại, không hư, không hôi, không thúi, luôn luôn lúc nào nó cũng giữ gìn cái thân nó vững chắc như đá, không mòn, không hao, không có một vật gì phá hoại cái cơ thể này được. Đó là cái Định giữ gìn cái cơ thể tối đa và tất cả những cái bộ phận ở trong thân đó đều hoàn toàn ngưng hoạt động, thậm chí như cái Ý căn của chúng ta cũng hoàn toàn ngưng hoạt động. Đó là cái bộ óc. Còn Tứ thiền thì cái bộ óc của chúng ta, cái Ý căn của chúng ta vẫn còn hoạt động, nhưng các phần khác của bộ óc đều đình chỉ như cái phần mà hoạt động của bộ óc chúng ta về Ý thức của chúng ta thì ngưng hoạt động, về cái phần Tưởng thức ngưng hoạt động, chỉ còn cái phần của Thức thức là nó đang hoạt động mà thôi.

Phân biệt được như vậy chúng ta mới thấy rằng cái Định của Tứ thiền thì cái Ý căn của chúng ta còn hoạt động trong cái phần của Thức thức, chứ không hoạt động của phần tưởng thức và Ý thức của chúng ta. Còn Thánh Định Diệt Thọ Tưởng thì cái Ý căn của chúng ta ngưng hoạt động hoàn toàn. Cho nên Phật gọi nhập Diệt Thọ Tưởng Định là cái ý hành phải ngưng, phải tịnh chỉ, phải tịnh chỉ ý hành thì mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định, mà tịnh chỉ  ý hành tức là Ý căn ngưng hoạt động. Quý thầy hiểu cái chỗ đó. Thì như vậy quý thầy mới biết mười cái loại Định. Trong khi người dạy ta Thiền Định chỉ có một thứ Thiền Định mà ở đây Phật dạy chúng ta tới mười cái loại Thiền Định. Con đường của đạo Phật nó không đơn giản đâu! Nó không phải có một loại định nào mà chúng ta có thể hoàn tất được cái sự giải thoát cho chúng ta, mà cả mười loại mà chúng ta phải tu chứ không có bỏ một cái loại nào được hết.

Cho nên hiện giờ quý thầy tu hơi thở cũng là tốt, mà tu làm mọi công việc biết hành động làm mọi công việc cũng là tốt chứ đâu có gì sai, mà quý vị phòng hộ sáu căn, giữ gìn sáu căn của mình cũng là tốt, đâu có gì sai. Mỗi Giới luật của quý thầy học được, quý vị giữ được một cái Giới luật nào đó cũng đều nhằm ở trong mười loại Định này chứ không ngoài mười loại Định đâu mà sợ rằng chúng ta tu lạc. Chỉ có chúng ta bị lạc vào những cái trạng thái của Tưởng mà nó khiến cho thân của chúng ta trở nên rối loạn, trở thành điên khùng, trở thành bệnh Thiền chứ không có gì khác hết. Chỉ có chỗ từ Nhị thiền đến Tam thiền cái đoạn đường đó là quý vị sẽ lạc vào những cái Thiền ma mà trở thành thân bệnh, tâm bệnh mà thôi. Nếu mà vượt qua được cái chỗ từ Nhị thiền đến Tam thiền mà vượt qua mười sáu cái loại của Tưởng uẩn thì quý thầy sẽ được an toàn trên bước đường tu tập, không có sợ điên sợ khùng gì nữa hết. Nó chỉ có một đoạn đường đó mà người ta chết điêu chết đứng ở đó mà không đi tới đâu được hết.

Gồm chung mười loại Định này gọi là Giới Đức. Nghĩa là mười cái loại Định này thì nó được cái tên gọi là Giới Đức, còn gọi là Giới Tâm hay gọi là Thiền Định, còn gọi là Trung Thiện. Những cái tên của nó để gọi cho chúng ta biết mười cái loại Định đó nó có những cái tên của nó như vậy để cho nó phù hợp với đạo Phật, đúng với cái nghĩa của đạo Phật. Bởi nó đứng ở vị trí nào thì nó có một cái tên xứng hợp với vị trí nó.

Như vậy là chúng ta phải hiểu khi mà bốn cái loại định này nó đứng ở trong cái vị trí của Định thì nó gọi là Thiền Định, mà nó đứng ở trong Giới luật thì gọi nó là Giới Đức, mà nó đứng ở trong các pháp thiện – nhân quả thì nó gọi là Trung thiện. Bởi vậy nó đứng ở vị trí nào thì nó có một cái tên xứng hợp ở cái vị trí nấy, như nó ở vị trí nhân quả thiện ác thì nó gọi là Trung thiện. Đó, Thầy đem cái ví dụ để quý thầy thấy rất rõ, nếu nó ở trong cái nhân quả thiện ác thì nó gọi là Trung thiện, mà nó ở cái vị trí của Giới luật thì nó gọi là Giới Đức, nếu mà nó ở trong cái vị trí của Giới luật thì nó gọi là Giới Đức, nó ở vị trí tâm định tỉnh, trong sạch thì nó gọi là Thiền định. Nói chung nó là Giới Đức thanh tịnh tâm. Nó có một cái tên chung của nó gọi là Giới Đức thanh tịnh tâm.

Đó quý thầy có những cái tên của nó, nó đặc biệt có những cái tên riêng của nó nhưng nó có những cái vị trí đứng của nó, nó có những cái tên riêng của những cái vị trí đứng của nó.

Như vậy là quý thầy nghe nói Giới Đức thì quý thầy hiểu nó là cái gì rồi. Mà nghe nói Giới Đức thì quý thầy đứng ở trong nhân quả biết nó là cái Trung thiện rồi, biết nó là cái tên gì rồi mà nếu gọi chung nó thì Đức Giới thanh tịnh tâm. Đó thì quý vị có cái biết rằng cái Đức Giới này nó làm cho cái tâm quả quý vị thanh tịnh mà định tỉnh, rất là sáng suốt.

Còn về 25 Giới hạnh như Thầy đã dạy ở trên còn gọi là Giới bổn Patimokka. Hai nhăm cái hạnh mà mình không làm nghề nghiệp này không làm nghề nghiệp kia đó, không sát hại chúng sanh đó. Tất cả những cái ở trên thì nó thuộc về Giới bổn, sau này chúng ta ta sẽ học nó để chúng ta bổ túc thêm cho 25 cái Giới hạnh cho nó rõ ràng là oai nghi tế hạnh của người tu sĩ. Học Giới bổn rồi chúng ta mới thấy được 25 Giới hạnh này nó còn thêm những hành động mà chúng ta chưa có học, có thu nhập, có hiểu biết, chưa toàn diện. Khi mà học hết Giới bổn Patimokka này rồi thì chúng ta có đầy đủ hơn về những cái Giới hạnh. Hạnh Giới Ly trần tâm. Nghĩa là 25 Giới hạnh này còn có một cái tên gọi là Hạnh Giới Ly trần tâm, nghĩa là cái Giới hạnh này nó ly cái tâm thế tục của chúng ta, nó ly cái đời sống thế tục của chúng ta, chúng ta không còn ở trong thế tục nữa, không còn sống như cách sống thế tục nữa. Cho nên nó có cái tên gọi là Hạnh Giới Ly trần tâm, chúng ta không còn cái hành động sống như các người thế gian nữa, cho nên nó ly ra tất cả hết cái tâm trần của chúng ta, nó lìa ra hết. Cho nên nội cái Giới hạnh không là chúng ta đã lìa cái thế gian rồi.

Còn về 8 Giới Tuệ như trong Kinh Sa môn quả đã dạy thì chưa đủ. Nó có 13 Giới Tuệ. Bây giờ cái Giới Tuệ chúng ta phải xác định, hồi nãy Thầy xác định cái Định cho nó đủ để 10 cái Định. Còn bây giờ nói hồi nãy chúng ta có học 8 Giới như trong Kinh sa môn quả đã dạy thì nó chưa có đủ đâu, mà chính nó phải đủ là 13 cái Giới Tuệ chứ không phải là có 8 Giới Tuệ đâu.Nhưng mà theo Kinh Sa môn quả thì chúng ta nêu ra 8 cái Giới Tuệ, cho nên nó có sự tóm tắt lại để cho chúng ta ngắn gọn, để không nó dài dòng cho nên ở đây nếu phải rõ thì nó là 13 Giới Tuệ chứ không phải là có 8 Giới Tuệ. Chúng ta phải kể ra cho rõ, nghĩa là Thầy phải nói ra cho rõ để cho quý thầy biết như thế nào là 13 cái Giới tuệ này mà ở trong Kinh Giới, Kinh Sa môn quả thì dạy có 8 cái Giới Tuệ mà thôi. Vậy thì nó làm sao mà có được 13 Giới Tuệ đây? Chúng ta phải thấy:

1. Bốn Như Ý Túc.

2. Lục thông.

3. Tam minh.

Quý thầy thấy nó rõ ràng là Bốn Như Ý Túc mình muốn như thế nào nó làm theo như thế nấy hết mà bốn cái lận chứ không phải một cái Như Ý Túc đâu. Cho nên nó là bốn, mà Lục thông là sáu cái thông: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông,… cho đến Tha tâm thông sáu cái, mà sáu cái cộng với bốn không phải là 10 sao? Rồi (3) cái Tam minh nữa. Ba cái nữa là phải 13 không? Cho nên phải nói đủ là 13 cái Giới Tuệ. Thì như vậy là chúng ta thấy cộng lại là nó đủ 13 chứ không phải như trong Kinh Sa môn quả nói đâu. Trong Kinh Sa môn quả chỉ nói cái Thiên nhĩ thông. Thầy nhắc lại cái Thiên nhĩ thông ở trong này là khi cái người đạt được cái Thiên nhĩ thông mà siêu nhân rồi thì cũng nghe cái tiếng ở cách xa ngàn dặm đó. Cũng như mình đi ra ngoài đường mình nghe người ta đánh trống, thổi kèn, đánh xập xả y như vậy, rõ ràng như vậy mà cái tiếng người ta nói chuyện ở đâu mình vẫn nghe được như vậy. Đó là đức Phật nói về Lục thông thì đức Phật có nêu lên có một cái mà thôi để nói nó là cái Trí, cái Tuệ, cái Giới Tuệ của nó ở trong cái…cho nó gọn thành lại 8, nhưng mà lôi ra cho đủ là nó phải 6 cái Lục thông này mới đủ chứ không phải một cái được. Cho nên ở đây nó là 13 Giới Tuệ này còn gọi là Trí Tuệ viên mãn. Mười ba Giới Tuệ này cũng còn gọi nó với cái tên là Trí Tuệ viên mãn vì nó viên mãn cái trí tuệ này nó phải đủ 13 cái Giới Tuệ này, chứ một cái mà nói bây giờ chúng tôi có Tam minh thôi thì cái người đó chỉ hiểu quá là cạn, đơn sơ quá đơn sơ.

Cho nên ngoại đạo nó cũng có Lục thông thì ở trong cái chỗ tu hành của chũng ta cũng thực hiện Lục thông chứ đâu phải không có Lục thông. Mà chúng ta còn có Tứ Như Ý Túc, muốn cái gì được như nấy, còn chúng nó chỉ có Lục thông mà thôi. Cho nên nó luyện có Lục thông mà nó không có Tứ Như Ý Túc thì nó đâu có bằng cái phương pháp của Phật, mà nó chưa có Tam minh nữa thì nó đâu có sánh được bằng Phật. Nó chỉ có Lục thông mà thôi. Cho nên cái Lục thông của nó là do luyện tập để tạo cho có cái Lục thông bằng Tưởng pháp chứ không phải bằng cái chánh pháp đâu, bằng cái Tưởng. Vì vậy mà khi mà đến Tưởng thì chúng ta dùng Lục thông này được, cũng như đồng cốt mà, nó chỉ dùng cái Tưởng mà nó biết nhà mình cái gì cái gì nó rõ hết, nó không có nói sai. Thì quý thầy thấy cái vấn đề Lục thông của ngoại đạo là Lục thông nó ở trong trạng thái của Tưởng uẩn mà nó thực hiện ra. Còn Lục thông của chúng ta là ở chỗ tâm thanh tịnh, sáu căn mắt tai mũi miệng thân ý của chúng ta do ly ác pháp và ly dục cho nên nó thanh tịnh mà nó như cái hồ nước trong. Vì vậy mà cái Lục thông này tự thanh tịnh mà thông suốt ra chứ không phải là do chúng ta luyện tập ở chỗ Tưởng.

Biết như vậy thì chúng ta mới thấy được cái chỗ tuyệt vời của đạo Phật đối với cái chỗ 13 cái Giới Tuệ này. Cho nên còn gọi nó là Trí Tuệ viên mãn, viên mãn tức là đầy đủ, trọn vẹn không còn thiếu nữa. Còn gọi là Trí Tuệ siêu việt, nó còn có những cái tên Trí Tuệ viên mãn là trí tuệ đầy đủ không còn thiếu, tự 13 cái Giới Tuệ này là Trí Tuệ đầy đủ không còn có cái nào nữa thêm nữa được hết. Đó gọi là Trí Tuệ viên mãn. Nó còn gọi là Trí Tuệ siêu việt, cái trí tuệ này nó điều khiển tất cả những cái mà người ta không có thể lường được cho nên nó gọi là siêu việt.

Nói Trí Tuệ người ta tưởng lầm là Tri kiến. Bữa giờ mình nói Trí Tuệ thì người ta nghĩ rằng đó là cái Tri kiến của mình. Có người hiểu bởi vì Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy thì người ta nghĩ như vậy, người ta cho Tri kiến là Trí Tuệ, vì tri kiến là Trí Tuệ người ta phân chia làm 3 Trí Tuệ. Cho nên bây giờ Thầy nhắc là người ta lấy cái tri kiến đó mà người ta cho rằng nó là Trí Tuệ cho nên người ta phân chia cái Trí Tuệ đó làm 3 cái Trí Tuệ của chúng ta. Đó là một cái hiểu sai của những người chưa có biết tu. Cho nên vì vậy trong Kinh rõ ràng là ghi như thế này:

1. Văn Tuệ.

2. Tư Tuệ.

3. Tu Tuệ.

Ai mà nghe những người giảng về Trí Tuệ đó thì họ phân chia rồi làm Văn Tuệ, Tư Tuệ, Tu Tuệ. Phải không? Văn - Tư - Tu đó. Cho nên cái này nó chỉ là Tri kiến chứ không phải là cái Tuệ đâu, nó không phải là Trí Tuệ đâu. Nó là cái Tri kiến của chúng ta. Nó chưa đạt được cái Tri kiến giải thoát nữa. Cái chỗ mà Văn Tư Tu này nó chưa đạt được cái tri kiến giải thoát của chúng ta nữa. Nó chỉ mới ở cái chỗ Tri kiến mà thôi, tức là cái nơi mà chúng ta tích trữ, tập hợp lại tất cả những sự hiểu biết của Kinh sách, của những người xưa người nay để thành một cái hiểu biết của chúng ta, gọi là Văn tuệ, tức là chúng ta nghe rồi chúng ta tích lũy lại gọi là Văn tuệ. Từ cái chỗ Văn tuệ đó chúng ta suy tư bằng cách này bằng cách khác để làm cho tâm chúng ta giảm bớt sự buồn khổ, như thế này thế khác hoặc là chúng ta suy tư ra để mà chúng ta tìm hiểu thêm ra, thì đó gọi là Tư tuệ. Tư là suy tư, tư duy, cái suy nghĩ để mà hiểu thêm ra, để mà thấu suốt được cái gì đó thì gọi Tư tuệ. Nhưng đó cũng là cái Tri kiến của chúng ta chứ không phải là cái Trí Tuệ.

Còn đến phần Tu tuệ thì ở trong Kinh sách dạy chúng ta lấy một cái sự hiểu biết như bây giờ Phật dạy làm cho chúng ta hiểu biết đó, đó là cái thân chúng ta này, Ngũ uẩn của thân ngũ uẩn chúng ta này là Vô thường, Khổ, Vô ngã này, thì chúng ta lấy cải chỗ hiểu biết đó mà chúng ta tu tập làm cho thân, cái tâm của chúng ta không có phiền não, đau khổ nữa. Vì thế cái thân vô thường này mình không chấp ngã này, mình không có giận hờn ai nữa này, mình thấy cái thân vô thường này mình không có sợ đau sợ khổ nữa này. Cái mà làm cho mình không có đau khổ đó gọi là lấy cái Trí Tuệ đó mà tu thì gọi là Tu tuệ. Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu 3 cái Trí Tuệ này chỉ là một cái Tri kiến của chúng ta thôi chứ không phải gì khác hơn hết. Nó không phải là Trí Tuệ siêu việt. Nó cũng không phải là Trí Tuệ viên mãn. Nó chỉ là một cái Tri kiến tầm thường của mọi con người trong thế gian này ai cũng có chớ không phải cần tu tập mới có. Nhưng khi mà chúng ta tích lũy thì chúng ta ăn nói nó có lưu loát, nó có hơn cái người không tích lũy. Chúng ta nói ra văn chương bằng cách này bằng cách khác là do vay mượn của kẻ khácnói thì nó hơn là cái người mà không có vay mượn văn chương cho nên họ nói lời nói bình dân mộc mạc, họ nói không có mượn câu này kia. Nói một hơi chúng ta để một câu kinh Phật ra nói, nói một hơi chúng ta đem câu Nho ra nói thì cái đó là vay mượn của kẻ khác mà làm ra cái chỗ ăn nói của mình cho có vẻ lịch lãm mà thôi. Đó là cái vay mượn.

Cũng như bây giờ chúng ta vay mượn khoa học để chứng minh cho Phật pháp thế này thế kia, do đó Phật pháp có khoa học như vầy như vầy. Đó là cái vay mượn của chúng ta qua những cái khoa học bằng máy móc của người ta tìm ra những cái thực của cái cuộc sống ở trong cái vũ trụ này, do đó chúng ta vay mượn cái đó để chứng minh cho Phật pháp nó cũng thực như vậy. Đó là cái vay mượn mà cái vay mượn đó không phải là Trí Tuệ, đó là cái tri kiến góp nhặt mà nói ra để làm cho chúng ta như một người thông về khoa học, thông về cái này thông về cái kia. Đó là chứng tỏ cái bản ngã chúng ta, do cái tri kiến này mà cái bản ngã của chúng ta càng ngày càng to lớn lên chớ không phải giảm xuống và vô ngã được.

Văn Tư Tu Tuệ này chỉ là một Tri kiến góp nhặt chứ không thể được liệt vào Tam Vô Lậu học Giới – Định – Tuệ của đạo Phật. Bởi vì Giới – Định – Tuệ của đạo Phật nó là một cái loại Giới luật, mặc dù nói là Giới – Định - Tuệ có cái tên riêng nhưng mà sự thật toàn bộ Giới – Định – Tuệ là một cái Giới luật như Thầy đã nói. Giới bổn tức là Giới Hạnh, mà Định tức là Giới Đức, Tuệ là Giới Tuệ. Cho nên toàn bộ của đạo Phật là Giới luật chứ không phải gì khác hết. Vì người dạy Giới luật mà không hiểu được điều này mới thấy Giới là nói riêng, Định nói riêng và Tuệ nói riêng, cho nên dạy giới luật rất là khô khan. Làm cho con người ta học đến Giới luật người ta chán, người ta thấy như một cái giáo điều, như một cái pháp luật khắc khổ trói buộc con người, cho nên người ta sống không nổi với nó. Còn trái lại ở đây Thầy dạy giới luật nó ở trong Tam Vô Lậu học cho nên Giới – Định – Tuệ nó là một cái Giới luật để đem lại sự giải thoát cho con người. Từ bước đầu vô cái Giới hạnh chúng ta đã thấy giải thoát, cho đến Giới Đức chúng ta thấy cả một sự định tâm vô cùng tuyệt diệu, cho đến cái Giới Tuệ chúng ta không nghĩ lường được cái quyền lực của Giới Tuệ đến cái mức độ cao siêu vô cùng của đạo Phật như vậy.

Cho nên ở đây dạy về Giới luật mà hiểu biết được Giới kinh, hiểu biết được cái nhân quả của cái pháp môn Giới – Định – Tuệ này thì Thầy nói là người dạy Giới luật rất là linh động, rất là khéo léo, làm cho người nghe càng ngày càng thích và càng ham tu Giới luật hơn. Còn nếu mà cái người mà không hiểu được như vậy dạy Giới luật người ta không bao giờ mà phát triển được Giới luật. Đứng ở trên góc độ dạy Giới luật như Thầy thì tin rằng Giới luật sẽ phục hồi rất nhanh và tiến bước trên con đường Giới luật mọi người người ta khép chặt mình trong Giới luật để người ta thực hiện được cái đời sống giải thoát, người ta không hề sợ khổ mà người ta thấy đó là một cuộc giải thoát thực sự, hoàn toàn là một cuộc cách mạng của con người, làm cho chúng ta làm chủ được cái sinh tử. Từ lâu chúng ta bị sinh tử làm chủ, bây giờ đòi lại quyền sinh tử bằng một cái cuộc cách mạng, bằng cuộc cách mạng tức là thay đổi cuộc sống của chúng ta toàn bộ.

Đó thì quý thầy thấy rất rõ nếu mà chúng ta không làm một cuộc cách mạng hoàn toàn thì chúng ta không đòi lại quyền là chủ sinh tử đâu. Đó là cái mục đích của Tam Vô lậu học là như vậy. Mà Tam Vô Lậu học là một cái Định lực của Giới luật nó làm cho chúng ta thay đổi toàn bộ của cuộc cách mạng đời sống của chúng ta. Cho nên quét sạch ra được thì chúng ta mới đạt được cái này mà không quét sạch không làm cái cuộc cách mạng cho cuộc sống chúng ta thì hoàn toàn chúng ta không đạt được cái sự giải thoát này đâu.

Vì Giới – Định – Tuệ của đạo Phật là ba pháp môn liên hoàn, nghĩa là ba cái pháp môn này coi như nó kết hợp, nó liên hoàn nhau trong một cái Giới luật chứ không phải là hai. Giới sinh Định, Định sinh Tuệ, không thể tách lìa ba pháp môn này ra từng pháp môn được. Người không hiểu pháp môn này họ hay tách lìa nó ra từng pháp môn, từng pháp môn, Định nó khác rồi Giới nó khác. Người mà hiểu được ba pháp môn này đứng ở trên một cái nền tảng của Giới luật thì hoàn toàn nó là ba pháp môn là Giới luật không gì khác. Người chưa có kinh nghiệm tu hành trong đạo Phật thì không thể nào liễu giải pháp và liễu giải nghĩa được. Thường họ giảng theo tri kiến phàm phu nên làm lệch nghĩa của Phật dạy. Tri kiến mà họ hiểu là Trí Tuệ thì rất là sai lạc, lầm lạc.

Người phàm phu ai cũng có tri kiến, nhưng một người tu hành đã giải thoát có còn tri kiến hay không? Nếu mà cái người phàm phu thì luôn luôn họ có tri kiến thì đồng ý rồi, nhưng thử hỏi một người tu hành đã giải thoát rồi thì cái tri kiến họ có còn hay không? Thì ở đây Thầy xin trả lời: Thưa không! Nghĩa là cái tri kiến đó họ hoàn toàn không có. Tại sao vậy? Vì Tri kiến phàm phu đầy dính mắc và uế trược. Nghĩa là cáitri kiến đó đây góp nhặt, đầy kiến chấp, tà kiến, học cái gì mà thấy khá hay thì họ dính vô đó rồi, họ cho đó là cái hay chứ họ chưa biết cái đó là tà kiến, cái đó là đúng cái đó là sai nữa. Họ thấy hay, họ nghe cái câu kinh đó hay thì họ chấp nhận cái câu đó hay. Họ nghe cái lời của một cổ nhân nào nói hay là họ chấp nhận ngay chứ họ chưa biết cái đó là tà kiến hay chánh kiến, họ chưa biết đâu. Cho nên cái người tu hành giải thoát theo đạo Phật xong rồi họ không có tri kiến đó nữa. Thì họ có cái gì mà họ dùng trong những cuộc sống của họ hàng ngày họ đang sống? Đến đây Thầy sẽ trả lời để cho quý thầy thấy.

Vì tri kiến phàm phu đầy dính mắc, cái tri kiến, cái sự hiểu biết đó nó đụng cái gì nó dính cái nấy và uế trược, nó rất uế trược.Vậy một người tu đã thành tựu viên mãn có phải họ sống với Trí Tuệ hay không? Thưa không! Nghĩa là họ cũng không sống với Trí Tuệ. Cái Trí Tuệ mà siêu việt họ cũng không có sống đâu. Họ không có sống với cái Trí Tuệ đó. Khi họ sử dụng thì họ lấy họ dùng, mà không thì họ hoàn toàn không sống với Trí Tuệ đó. Đừng nghĩ rằng khi một người tu chứng họ luôn luôn sống với Trí Tuệ. Không. Họ sống với cái gì đây? Vậy thì như thế nào? Nghĩa là họ phải sống như thế nào đây? Hàng ngày họ đang sống với Tri kiến Giải thoát. Bởi vì quý thầy thấy cái tri kiến nó dính mắc, mà Tri kiến Giải thoát nó đâu có dính mắc. Bởi vì tri kiến họ cũng y như cái đầu của chúng ta suynghĩ sao thì họ cũng suy nghĩ vậy, họ không khác chúng ta nhưng mà mọi vật đến với họ họ không bị dính mắc, họ không bị ô nhiễm từng miếng ăn, không ai gạt họ mà đem đút miệng họ được.

Ví dụ như bây giờ Thầy sống với Tri kiến Giải thoát mà một người làm cho Thầy một cái ly nước chanh để đây cho Thầy thấm cổ để Thầy thuyết giảng, mà khi Thầy tưởng là nước trong Thầy nếm thử, Thầy biết rằng không phải, đây là nước chanh có đường, đây là cái sự cám dỗ cho nên hoàn toàn khô cổ là khô cổ, nhất định là không uống. Đó là không thể cám dỗ cái Tri kiến Giải thoát của Thầy được. Bởi vì cái tri kiến Thầy biết rõ đây là cái nước có đường mà, thì đâu cám dỗ Thầy được. Mà cái người bị tri kiến, đang sống trong tri kiến thì thấy cái ly nước này thấm cổ mà nghe thông nói cho nó suôn thì thích rồi, ngay cái chỗ ngọt đã đã là cám dỗ vị ta rồi. Còn cái tri kiến Giải thoát là không cám dỗ được cho nên Thầy vẫn sống trong tri kiến mà Tri kiến Giải thoát chứ không phải tri kiến. Chúng ta phân biệt như vậy!

Cho nên trong Kinh thường chúng ta thường thấy Giới hương, Định hương, Giữ Huệ hương, Giải thoát, Giải thoát Tri kiến hương, có năm loại hương, thì cái người tu sĩ xong viên mãn rồi thì người ta sống ở trong Tri kiến Giải thoát chứ người ta không phải sống ở trong cái Trí tuệ siêu việt đó đâu. Khi sử dụng thì người ta sử dụng, mà khi không sử dụng thì người ta đâu cần sử dụng nó, người ta chỉ cần sống với Tri kiến Giải thoát.

Đó thì quý thầy hôm nay mới thấy rõ được cái chỗ, cái bài mà hàng ngày quý thầy tụng kinh niệm Phật đó, bắt đầu cầm ba cây hương lên mà niệm hương thì ngay đó đã nói lên cái chỗ nào sống của quý vị. Cho nên cái Tri kiến Giải thoát là cái hương cuối cùng mà quý vị dâng lên. Chúng tôi hãy sống hàng ngày cái chỗ này nè! Để làm cho tâm chúng tôi thanh tịnh không bị uế nhiễm của những đối tượng phàm phu vật chất. Đó là cái chỗ tu hành của một cái vị mà đã viên mãn. Họ không bị ai lường gạt họ được. Cho nên nó có một cái giải thoát kèm bên cái Tri kiến đó. Còn cái tri kiến kia là cái Tri kiến mà thích tụ, kết tập nó không Giải thoát đâu mà nó dính mắc, cho nên ở đây Thầy giảng như vậy quý thầy chắc thấy rõ ràng không còn mờ mịt gì nữa hết. Bởi vậy khi một người tu hành xong luôn luôn họ sống đúng Giới Hạnh, còn gọi là Giới hương, họ sống đúng Giới Đức còn gọi là Định hương, nghĩa là họ sống… Cái hương tức là thơm chứ gì? Các con hiểu không?

Cho nên mình niệm hương, mình thắp cây hương lên mình nói chứ không phải đâu! Nghĩa là mình sống đúng Giới hạnh gọi là Giới hương. Mình sống đúng Giới Đức thì gọi là Định hương. Bởi vì Giới Đức nó thuộc về Định cho nên gọi là Định hương. Mình sống đúng Giới Tuệ thì gọi là Tuệ hương. Phải không? Họ sống đúng với Tri kiến mà mọi người đang sống, đang biết không lầm lẫn, còn gọi Tri kiến hương, nghĩa là sống đúng với chánh pháp của Phật dạy, với sự hiểu biết đúng chánh kiến chánh pháp của Phật thì cái đó mới được gọi là Tri kiến hương. Còn mình sống không đúng với chánh pháp của Phật dạy, không sống đúng với Giới luật của Phật dạy cái Tri kiến đó, nghĩa là mình chưa thành tựu cái gì hết nhưng mình sống không có đúng, mình sống ngoài những cái tri kiến của Phật dạy, những lời của Phật dạy trong Kinh mà mình sống không đúng thì cái đó không được gọi là Tri kiến hương. Còn mình sống đúng tri kiến mà đúng lời Phật dạy, không để tâm mình lầm lạc, không để cho mình lỗi lầm những cái phạm giới thì cái người đó được gọi là Tri kiến hương. Họ sống đúng với Tri kiến Giải thoát nên còn gọi là Tri kiến Giải thoát hương. Đó thì Thầy phân ra cho chúng ta thấy cái mùi thơm của các loại Trí Tuệ của chúng ta, các loại sống của chúng ta ở trong Giới luật, đó là những mùi thơm của Giới luật đó. Cho nên cái Giới luật đầu tiên là Giới Hạnh thì gọi là Giới hương. Cái Giới luật thứ hai là Giới Đức thì gọi là Định hương. Cái Giới luật thứ ba tức là Giới Tuệ thứ ba gọi là Tuệ hương. Cái Tri kiến mà chúng ta từng sống ở trong những lời Phật dạy gọi là tri kiến hương. Còn cái tri kiến hằng ngày mà các bậc viên mãn mà sống đó thì gọi là Tri kiến Giải thoát hương.

Thấy như vậy chúng ta mới rõ được, cái hương là cái mùi thơm mà, cái mùi thơm tức là cái mà làm cho ai quý mến, cũng trọng hết. Còn nếu mà cái mùi thúi thì có ai quý trọng không? Đâu có quý trọng, cho nên hương không có nghĩa là cây nhang, hương không có nghĩa là cái bột nhang mà đốt lên có khói đó đâu. Hương đây là cái mùi thơm của Giới Đức, của Giới Tuệ, của Giới Hạnh, của Tri kiến, của Tri kiến đúng đó, chứ Tri kiến sai thì cũng không được, của Tri kiến Giải thoát. Đó là những hương thơm của những loại Giới luật này.

Đối với Tam Vô Lậu học…

… cái tri kiến của chúng ta không được gọi là tên Tuệ Vô Lậu đâu! Trong 13 Giới Tuệ này, Giới Tuệ thứ nhất dẫn tâm đến Chánh trí và Chánh kiến. Đây, quý vị mới nghe cái chỗ này, nếu mà cái người tu tập Giới Tuệ thứ nhất thì từ đó chúng ta mới có được Chánh Tri kiến. Chánh Tri kiến này tức là Tri kiến hương đó thì chúng ta phải đạt tới cái Trí Tuệ, cái Giới Đức, cái Giới Tuệ. Đầu tiên cái Giới Tuệ thứ nhất lúc bây giờ chúng ta mới dẫn tâm nó để chúng ta đạt được Tri kiến đó chứ không phải cái Tri kiến tầm thường như Tri kiến của thế gian, cái Tri kiến kết tập, cái Tri kiến tích tụ, tích trữ lại những cái hiểu biết của người khác thì tri kiến đó là Tri kiến phàm phu. Còn cái tri kiến ở đây là cái tri kiến mà chúng ta phải có sự tu tập trau dồi nó cho đến khi mà trong cái Tuệ Vô lậu nó đạt được cái Giới Tuệ đầu tiên thì cái tri kiến đó mới được gọi là Tri kiến hương.

Giải thích cho rõ như vậy thì chúng ta mới biết được cái tri kiến của chúng ta ở chỗ nào. Hồi nãy Thầy chỉ nói cái tri kiến đó phải thông hiểu cái lý của Phật pháp mà không được chấp cái kiến nào hết, nhưng ở đây thì Thầy dạy thêm để chúng ta thấy rằng khi chúng ta muốn đạt được cái Tri kiến hương này thì để thông suốt được cái lý của Phật pháp thì cái người đó phải nằm ở trong cái Tuệ Vô lậu thứ nhất của Giới Tuệ của nó. Trong 13 Giới Tuệ này Giới Tuệ thứ nhất “dẫn tâm đến chánh trí và chánh kiến”, tức là Tri kiến mà hàng ngày người tu hành viên mãn.

Ở đây cái chỗ này Thầy hơi giảng lầm chút. Khi mà cái người đó mới tu học thì phải huân. Thầy xin lỗi phần này đính chính lại chỗ này để cho quý thầy hiểu rõ hơn.Khi cái người mới tu học mà theo đạo Phật thì chúng ta phải huân học, phải hiểu biết cái Phật pháp, cái nào đúng, cái nào sai, từ đó chúng ta mới thấy con đường của Phật pháp nhưng cái hiểu biết đó là đúng, là chân lý, là sự thật, nói thân là khổ, là vô thường thì nó là sự thật, nó không còn sai nữa. Nói là khổ là con người sinh ra là khổ thì đó là một chân lý không thể thay đổi được, nói là cái nguyên nhân mà sinh ra đau khổ thì cũng không thể thay đổi được, mà nói một cái cảnh giới Niết bàn thì đó là một trạng thái tâm hồn chúng ta hết khổ. Mà nói đến tám nẻo đưa đi đến cái chỗ giải thoát thì chúng ta thấy đó hoàn toàn là một chân lý không thể nào có ai thay đổi tám nẻo giải thoát này được. Cho nên cái hiểu biết như vậy, tích trữ cái hiểu biết đúng đắn như vậy đó gọi là Tri kiến.Còn đến khi mà chúng ta tu tập đến cái Tuệ Vô lậu thì cái Tuệ Vô lậu thứ nhất thì cái đó được gọi là Tri kiến Giải thoát, chứ không phải là cái tri kiến mà mới có học hiểu biết rõ của cái chánh kiến của đạo Phật mà thôi.Cái kia còn gọi là Tri kiến, mà Tri kiến đó thì nó mới chỉ hiểu biết Phật pháp, nó mới ngộ được cái lý của Phật pháp chứ chưa chứng được cái lý của Phật pháp. Còn người tu đến cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong cái Tuệ Vô lậu thì cái hiểu biết cái tri kiến đó được gọi là Tri kiến Giải thoát. Cái đó là cái tuệ thứ nhất mới được gọi là tri kiến Giải thoát. Cho nên người tu họ không sống ở trong tất cả các Tuệ Vô lậu mà họ chỉ sống ở Giới Tuệ thứ nhấtlà Tri kiến Giải thoát.Cho nên cái Tri kiến Giải thoát ở đây nó được gọi là cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong Tuệ Vô lậu. Thì quý thầy hiểu cho rõ như vậy. Hồi nãy Thầy giảng hơi lầm lạc, Thầy xin lỗi chỗ đó để sửa lại cho nó đúng cái nghĩa của nó để chúng ta hiểu cho nó rõ hơn.

Cho nên hằng ngày người tu hành viên mãn thường sử dụng cái Tri kiến Giải thoát chứ không sử dụng tri kiến như kẻ phàm phu. Cho nên Tri kiến Giải thoát được nằm trong Giới tuệ, được gọi là tuệ Vô lậu, nó cũng được gọi là tuệ Vô lậu nhưng nó là cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong 13 cái Giới Tuệ chứ không phải là cái Tuệ cuối cùng. Thường thường cái người tu hành viên mãn thì họ sống ở trong cái Giới Tuệ thứ nhất, họ sử dụng cái Giới Tuệ thứ nhất cho nên cái Giới Tuệ đó để đưa cho họ có một cuộc sống không bị dính mắc, không bị đau khổ, không bị phiềntoái nữa, ai làm gì thì họ trơ trơ, họ vẫn thanh thản, an nhiên mà không động tâm chút nào, không dao động tâm mình. Tức là cái Tri kiến Giải thoát đó hay là Giới Tuệ thứ nhất của trong 13 Giới Tuệ.

Con đường tu hành theo đạo Phật đến đây đầy đủ Giới – Định – Tuệ, tức là viên mãn trên đường đi.

Còn Niết bàn là gì? Ở đây chúng tôi không trả lời câu hỏi này.

Xin tóm lại buổi học hôm nay chúng ta đã viên mãn Giới luật của Phật, hay nói một cách khác chúng ta đã hoàn thành được Thiện pháp của đạo Phật, và cuối cùng xin quý thầy nên lưu ý chúng ta chỉ biết sau đời hiện tại của chúng ta đang sống ở đây không còn có một đời sống nào khác nữa. Nghĩa là chúng ta đến đây thì người ta hỏi chúng ta còn cái Niết bàn là gì? Nghĩa là chúng ta đến đây chúng ta đã viên mãn được Giới – Định – Tuệ như vậy tức là từ Giới Hạnh, rồi Giới Đức, rồi Giới Tuệ. Chúng ta hoàn thành được những cái Giới luật này rồi thì có người hỏi khi mà hoàn thành được các Giới luật này rồi, Giới – Định – Tuệ này viên mãn rồi thì cái Niết bàn nó là gì? Có người hỏi chúng ta cái Niết bàn là gì? Thì ở đây chúng ta không có trả lời cái câu hỏi mà hỏi như vậy, là cái Niết bàn là gì thì chúng tôi không có trả lời. Nhưng khi mà giảng về Tứ Diệu Đế thì nói về Niết bàn thì chúng tôi sẽ giảng cái Niết bàn. Còn ở đây mà hỏi cái chỗ này thì nó không phải là cái chỗ hỏi Niết bàn của chúng tôi. Vì chúng tôi đã hoàn thành được Giới – Định – Tuệ mà nếu chúng tôi còn nói cái Niết bàn thì đó là chúng tôi còn mộng, còn chấp kiến, còn chấp cái Niết bàn. Cho nên ở đây chúng tôi không nói Niết bàn mà chúng tôi chỉ nó như thế nào cho đúng. Chúng tôi sẽ trả lời: Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây không còn có một đời sống nào khác nữa. Nghĩa là bây giờ chúng tôi đang sống đây là chúng tôi còn cái đời này thôi, chứ khi mà chúng tôi bỏ cái thân này rồi thì chúng tôi không còn cái đời nào nữa, tái sanh ra trong cuộc đời này nữa, chứ chúng tôi không biết Niết bàn nữa.

Mà những người nào tới đây mà còn nói cái Niết bàn như thế này thế này, thì cái người mới học Tứ Diệu Đế, mới ngộ cái lý Tứ Diệu Đế chứ chưa phải là cái người đó đã chứng đạt Tứ Diệu Đế. Quý thầy phải hiểu cái chỗ đạo Phật như vậy đó, cho nên khi một người mà tới rồi mà còn nói rằng bốn đức Thường – Lạc – Ngã – Tịnh trong đó thì người đó chưa tới. Cũng như cái người mà tới rồi họ nói tui chứng quả A-la-hán thì người đó chưa chứng quả A-la-hán đâu. Bởi vì mình còn thấy chứng quả A-la-hán thì tức là mình mới ngộ thôi chứ chưa chứng đâu. Mà mình tới đó rồi thì mình không thấy mình chứng nữa. Thì tức là mình chỉ biết nó như thế nào? Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây không còn có một đời sống nào khác nữa hết. Nghĩa là tôi không có còn sanh thêm sanh chỗ nào nữa hết, hoàn toàn là tui không còn cái chỗ nào mà tui sống nữa hết. Rồi mấy người muốn nghĩ như thế nào đó nghĩ, muốn nghĩ nó Niết bàn hay muốn nghĩ gì tự mấy người chứ tui không biết, tui tới đó là tui hết rồi.

Đó thì quý thầy thấy cái chỗ Phật pháp vi diệu, hễ mở ra một cái hiểu biết gì sai là nó đã lệch con đường của đạo Phật rồi. Nói mình có chứng là không chứng rồi đó, là mình mới ngộ chứ chưa chứng đâu. Mà nói mình như thế này thế khác là cái người đó chưa có đâu. Ở đây rất là vi tế cái chỗ này cho nên Thầy mới khi mà viên mãn cái về ba cái Giới này, vạch ra một con đường đi cho đến cuối cùng tới hôm nay thì quý thầy thấy rất rõ là tới cuối cùng không nói gì khác hơn là còn một câu nói: Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống không còn có đời sống nào khác nữa!

Quý thầy hiểu cái chỗ đó sao đó hiểu. Nếu mà tui nói còn có cái gì đó thì tui chấp ngã tui rồi. Tui chấp cái ngã tui rồi cho nên nó có cảnh giới tui sống, còn nếu mà tui không có cái ngã của tui thì tui không có cái gì mà tui sống nữa hết. Cho nên nó còn hay mất thì quý vị muốn hiểu sao có hiểu được cũng hiểu, tui không cần nói cái điều đó nữa. Nghĩa là tới đó là tui giải thoát là tui giải thoát.

Bây giờ chúng ta tiếp tục học về Giới Bổn Patimokka.

Để thông suốt oai nghi tế hạnh của người tu sĩ, vì trong Giới hạnh chưa nói đủ ta phải tiếp tục học thêm cho được đầy đủ hơn. Nghĩa là trong cái Giới hạnh mà chúng ta vừa học 25 Giới đó, nó chỉ nói đơn giản thôi chứ nó chưa có nói đến những caí hành động hàng ngày của chúng ta. Vì vậy mà cái Giới bổn Patimokka này nó nói tất cả những cái hành động của chúng ta để mà chúng ta không có lầm lạc, để mà thực hiện những cái Giới hạnh đó để cho oai nghi tế hạnh của người tu sĩ phải được đầy đủ, phải được trọn vẹn cái hành động của nó phải như thế nào để mà chinh phục mọi người, người ta thấy được cái đức hạnh của một người tu sĩ nó không phải tầm thường. Vì Giới hạnh nó phải học rất nhiều mới có thể thâm nhập được cái oai nghi tế hạnh của nó. Bởi vậy cho nên chúng ta phải tiếp tục lại 25 Giới hạnh, là chúng ta phải học cái Giới luật Patimokka. Cái Giới luật này nó mới có thể đầy đủ và cái Giới luật này nó cũng rất nhiều chớ không phải ít. Do vì vậy trước khi mà giáo cái Giới luật Patimokka này nó phải có một cái lời nói rất là dài và đồng thời Thầy có bổ túc thêm những cái bài để mà chúng ta chuyển qua cái Giới luật Patimokka này.

Để bổ túc thêm phần giáo án về Giới luật Patimokka cho rõ nét (BBT:CĐ,22A,E00:45:22), ở đây Thầy nhấn mạnh: Giáo pháp của đức Phật dạy người không có tranh luận với một ai ở đời. Vì thế mà ác tưởng sẽ không ám ảnh. Do thế người ấy sống không bị Dục, triền phược, không có nghi ngờ,(BBT:CĐ,22B,B00:00:20) do dự với mọi hối quá, đoạndiệt, không có tham ái đối với Hữu và Phi hữu. Ở đây quý thầy phải hiểu khi mà bước sang qua cái Giới bổn Patimokka này thì chúng ta sẽ thấy tràn trề sự sai lạc của cái người khác rất nhiều. Nghĩa là học xong cái Giới bổn này rồi thì chúng ta nhìn cái giới tu sĩ cũng như nhìn cái giới mà cư sĩ hiện giờ là đệ tử của Phật hầu như là cái danh từ là đệ tử của Phật chứ hầu như là những cái người đó đều là hành ngoại đạo hết. Cho nên vì vậy mà thầy phải phòng ngừa trước khi mà bước đầu qua học cái Giới luật Patimokka thì chúng ta phải chuẩn bị cho tinh thần chúng ta vững vàng để không khéo thì chúng ta toàn là thấy là ma quái không đó, chứ không phải là Phật  đâu. Với một người mà người ta thông suốt được cái Giới luật rồi thì người ta nhìn cái giới tu sĩ và nhìn cái giới cư sĩ hiện giờ người ta thấy toàn là thứ phá đạo, toàn là thứ phá Phật pháp. Cho nên chúng ta không nói ra, không có chống báng ai là vì vậy, cho nên ở đây Phật nói chúng ta khi mà học xong rồi thì không có một cái tâm tham ái. Tham ái tức là thấy những cái sai cái không đúng của họ đó đối với Hữu, đối với cái Có và cái Không chúng ta xem thường hết. Chúng ta đừng thấy cái tâm của chúng ta nó quá như thế này hay như thế khác rồi chúng ta sanh ra nhưng cái bỉ thử ở trong đó rồi vì vậy mà chúng ta có tranh luận, rồi có những cái sự không hay cho cái đời tu hành của chúng ta.

Vì vậy mà rồi từ ở trong cái ác tưởng của chúng ta, cái tưởng của chúng ta nó khởi lên những cái ác kiến đối với những người đó làm cho chúng ta có những sự ám ảnh không tốt đối với Phật pháp cũng như không tốt đối với bản thân của những người đó. Họ sống như thế nào để nhân quả thì họ phải lãnh đủ những cái nhân quả đó. Còn riêng chúng ta thì hãy câm miệng lại, không nói ra một lời nào hết. Biết Pháp luật rất rõ ràng, biết Giới luật rất rõ ràng nhưng không động chạm đến một người nào, không nói người nào sai không nói người nào đúng mà chỉ giữ mình để thực hiện cho đúng những cái lời Phật dạy mà thôi. Mình cứu mình chứ không thể cứu ai được trong cái lúc này hết. Chừng nào mình cứumình được thì chừng đó mình mới cứu người ta được. Mình đã ra khỏi được cái con đường của thế tục thì mình mới có mong mình cứu người còn đang ở trong thế tục. Còn mình đang ở trong thế tục mà mình cứu người thế tục thì không cứu được đâu, và đồng thời đôi khi mình lại chết chung với họ ở trong thế tục. Cho nên những cái hạnh Bồ Tát mà gọi là sống trong thế tục để độ người thế tục thì coi chừng Bồ Tát cũng chết luôn với những người thế tục mà không độ ai được hết.

“Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật”.Đức Phật nói giáo pháp của đức Phật như một cái bánh ngọt, cái bánh mật, chớ không phải là một cái bánh cay đắng đâu! Cho nên đến Giới luật thì người ta thấy cay đắng lắm. Sống mà như thế này các thầy cứ nghĩ “ba y một bát” có cay đắng không? Đi xin ăn người ta không cho, ngày nay không cho ngày mai không có thì quý vị thấy như thế nào? Phải ăn lá cây rừng mà sống rồi. Mà ăn lá cây rừng quý vị chưa từng tập thì quý vị có thấy xót ruột không? Chưa chắc là đã không mệt mỏi khổ sở. Thế mà đức Phật nói “giáo pháp của ta là bánh mật”. Bánh mật là thứ bánh ngon chứ đâu phải bánh dở. Thế mà bước đầu và mà gặp tới cái Giới luật, cái Giới bổn Patimokka này thì nó không phải là bánh mật thật đâu. Mà chính nó là bánh mật nếu mà chúng ta thực hiện đúng. Nếu mà chúng ta thực hiện không đúng thì nó là những bãi chông gai, nó là những cái chỗ nguy hiểm nhất, nó là những cái chỗ mà chúng ta không thể sống nổi.

Khi đến đây Thầy cảnh giác nhữngcái điều này mà trước khi dạy nó thì Thầy phải cánh giác rất lớn đối với quý thầy, để khi quý thầy được học đến nó thì quý thầy mới thấy được cái cái chỗ nào gọi là bánh mật mà cái chỗ nào không gọi là bánh mật. Vì thế mà cái người dạy Giới ở trong cuộc đời bây giờ thì họ… Cho nên đức Phật mới dạy chúng ta và cảnh giác chúng ta ở chỗ này để chúng ta chuẩn bị cho cái Giới bổn này, sau khi chúng ta học thì chúng ta mới biết nó là cái bánh mật như thế nào. Chớ nó không phải là đơn giản.

“Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật đối với cái người đang đói lả và mỏi mệt. Cứ mỗi một miếng vị ấy nếm được vị ngọt thuần nhất. Cứ mỗi một miếng vị ấy thưởng thức càng lúc càng thích thú hơn, càng thấy người khỏe hơn, khinh an hơn”.

Đó, nếu mà chúng ta tu đúng, chúng ta biết được cái Giới bổn này đúng thì mỗi một cái Giới mà chúng ta thực hiện thì giống như một người đang đói, đói lả người, mệt mỏi mà cứ mỗi một miếng ăn vô thì coi như một cái Giới luật mà chúng ta đã thực hiện vô thì mỗi cái miếng đó chúng ta thấy được vị ngọt thuần nhất của nó ở trong đời sống của chúng ta. Đời sống đang lúc chúng ta mệt mỏi đói khát đó mỗi một miếng nữa thì chúng ta thưởng thức mà càng thích thú hơn và càng thấy khỏe hơn, và khinh an hơn. Đức Phật ví dụ cái Giới bổn nó như vậy đó.

Đó là không phải là nói về Thiền định mà khinh an đâu,mà đây là muốn nói rằng cái Giới luật mỗi cái Giới luật mà chúng ta chấp hành nghiêm chỉnh nó đem đến chúng ta cũng như cái bánh ngọt mà chúng ta cầm mỗi miếng chúng ta ăn trong lúc chúng ta là người đang đói đang mệt đó mà chúng ta ăn thì chúng ta thấy nó ngọt mà nó khỏe lắm, nó ngon lắm, nó thích lắm, nó làm cho cơ thể chúng ta càng ngày càng thấy cái sự sống, nguồn sống nó dồi dào lên. Còn nếu mà sai thì các thầy thấy ngán quá, ớn quá, sợ quá. Đây đi xin ăn chắc không có ai cho chắc chết, bây giờ không có làm sao, coi chừng công an nó bắt bỏ tù nữa, nó nói mình gian lận, làm biếng, nó làm thế này thế khác. Từ cái tư tưởng đó, suy nghĩ đó thì ngay đó là mình đã thấy hoảng hồi rồi chứ chưa nói chi mà tới ôm bình bát đi xin nữa. Không biết đi xin mới đây đi ôm bình bát xấu hổ quá! Trời ơi thời giờ mình không có đi xin. Kiểu này không ai ngó tới đi mắc cỡ chết. Cái tư tưởng đó vẫn có mà.

Lúc Thầy mới bắt đầu đi khất thực Thầy cũng vậy. Đi ra đường ôm bình bát đi mà con mắt nhắm chứ không dám mở, mở sợ thấy người ta cười mình. Trời ơi mình vậy mà đi xin. Từ nào tới giờ mình đi dạy học hoặc đi làm ai cũng biết mặt hết. Trời, đi ra đường vậy, nhất là Thầy ở thành phố mà Thầy đi xin ở mấy cái chỗ chợ thành phố mà bên chùa Giác Ngộ nữa thì các thầy nghĩ sao? Bao nhiêu Phật tử quen mình quá rồi. Hồi nào tới giờ họ kêu mình thầy mà giờ ôm cái bình bát đi xin. Mà chính cái chỗ đó họ lại còn kính trọng Thầy hơn nữa chứ! Mà khi mình đi thì mình ngại ngùng vô cùng lận! Từ hồi tới giờ ai có làm này. Kỳ vậy! Đó là những cái bắt đầu của Thầy, mà Thầy đi có một mình chứ phải đi có người nào hướng dẫn thì cũng đỡ đi. Đằng này tự mình à! Rồi mình nghĩ cách thức rồi bắt chước theo mấy ông khất sĩ, thôi mình cũng làm đùa. Trong kinh thì đâu có dạy kỹ cái vấn đề nà,y bởi vì kinh Đại Thừa nó đâu có nói về chuyện khất thực đâu mà đi dạy. Đâu có phải như bên Nguyên Thủy kia nó dạy rất kỹ còn bên đây nó đâu có dạy chuyện này. Cho nên học Đại Thừa rồi đi ra khất thực ngơ ngáo chẳng biết gì hết. Thầy mới hỏi thăm thầy Thiện Huệ là hồi ông còn nhỏ ông đi với thầy của ổng, cũng đi khất thực cũng ở thành phố ở chùa Giác ngộ cũng đi khất thực. Thầy mới hỏi ông về khất thực sao, ông nói thì mình cứ ông bình bát vậy mình cứ nhắm mắt mình ngó xuống đất mình đi đi. Rồi họ cho mình chứ cái gì! Thầy nghe vậy thôi, Thầy cũng ôm bình bát Thầy cũng đi vậy thôi, mà hồi đó Thầy đâu có bình bát. Các con biết không? Thầy phải đi mua cái ô mà người ta để trầu cau đó nó tròn tròn bằng nhôm đó, Thầy mới may cái túi Thầy mới bỏ trong đó Thầy ôm vậy Thầy đi. Trời đất ơi! Người ta biết, hồi đó nó dễ chứ bây giờ mà kiểu này mà bưng cái kiểu đó mà nó thấy không có giống cái bình bát là nó ra nó chốt liền đó. Chứ phải dễ đâu! Còn hồi đó nó dễ lắm! Hồi cái chế độ trước nó dễ lắm! Bởi vậy Thầy ôm bình bát đi Thầy xin như thường mà Thầy cũng chả biết xin nhiều ít như thế nào nữa, chỉ biết đi xin thôi! Nhưng mà không ngờ khi mà Thầy vào đến đầu chợ cái họ biết Thầy ở chùa Giác Ngộ lâu rồi. Họ để cho Thầy đi mà họ không có cho. Trời mắc cỡ gần chết, không có cái gì hết, nhưng mà Thầy đi suốt hết cái đường chợ vậy mà tới cuối hết cái chợ thì họ gồm họ để một đống họ kêu xe xích lô chở về chùa Thầy. Thầy đâu có hay. Bởi vì họ thấy cái bình bát Thầy thì nhỏ, mà Thầy đi như vậy thì bỏ được có bao nhiêu. Cho nên họ nghĩ rằng Thầy đi xin cho cả chùa ăn mà, chớ đâu phải xin cho mình Thầy. Cho nên họ biết Thầy ở chùa đó thì phải xin cho các thầy ăn chung chứ đâu phải có mình Thầy. Cho nên Thầy đi hết cái đường chợ vậy không có cái gì trong bát thầy hết, mà tới cuối chợ Thầy thấy họ chất một đống nào cải nào bánh mỳ, đồ ăn đủ thứ hết, đủ loại đường sữa gì đủ chất một đống. Cái có người Phật tử đứng đó họ nói: Chúng con đã góp nhau hết chúng con để đây xin cúng dường Thầy. Ôi trời ơi! Thầy xin có mình Thầy ăn mà sao cúng dường vậy? Thầy ở chùa Giác Ngộ thì chúng con kêu xe kéo về cho Thầy chứ giờ mọi người cúng dường chứ đâu phải mình con. Thôi kêu xe kéo về chùa. Các con thấy không? Đi xin là như vậy đó! (BBT:CĐ,22B,E00:08:50)Bởi vì Thầy nói khi mới…

BĂNG SỐ 21

1. Điệu hý: khẩu, tưởng, mong cầu.

(BBT:CĐ,21A,B00:00:00)Cái chân gãy cái giò nó nữa, coi nó muốn chết đó chứ đâu có sung sướng gì. Thế mà nó ở ngoài thì người ta vỗ tay khen: ‘Đó là điệu hý á”. Thầy giải thích như vậy, dùng cái danh từ đó, như vậy thì quý thầy chắc hiểu nó rồi.

Nếu người tu theo Đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, cho nên Phật cấm mình không có cho vui chơi gì hết  đó, các thầy có thấy không? Cho nên vui chơi nó là điệu hý đó, nó sẽ không an trú được đâu.

Nếu người tu theo Đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, an trú trong cảnh tịch diệt được chăng? Đó, bây giờ có cái người mà hỏi Đức Phật á, bây giờ nếu mà nói như vậy là do cái này nó tưởng ra nó mới có tham dục, bây giờ mình muốn diệt tham dục thì tức là mình phải diệt hết cái điệu hý này đi thì chắc chắn là nó hết chứ gì. Thì hỏi ông Phật, ông Phật nói: “Không có trừ bỏ được điệu hý mà có thể an trú cảnh giới tịch diệt”. Nghĩa là.. Ở câu này Thầy xin đọc lại để cho nó được rõ ràng hơn: “Nếu người tu theo Đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, an trú trong cảnh tịch diệt được chăng?  Hay không trừ bỏ được điệu hý mà có thể an trú trong cảnh giới tịch diệt được chăng?”. Nghĩa là hai câu hỏi nó rất rõ ràng, một câu hỏi thứ nhất là nói mình diệt trừ hết điệu hý thì mình có an trú trong cảnh tịch diệt được chăng? Mà hay là không trừ bỏ hết điệu hý này thì mình cũng có thể an trú được trong cảnh giới tịch diệt chăng?  

Đây bây giờ Phật trả lời đây, tu sĩ mà không trừ hết điệu hý mà an trú trong cảnh giới tịch diệt thì sao được,phải hông? Nghĩa là mình còn vui làm sao mình an trú trong cảnh tịch diệt được, cho nên ông Phật ông trả lời một câu bằng cách trả lời luôn cả hai câu: “Vì thế gian có nhiều cõi, chúng sanh đều y cứ theo loại cảnh ấy và giữ gìn chắc chắn không thể rời bỏ, đồng thời họ cho đây là thật, ngoài ra là hư dối”. Đó, nghĩa là thế gian thì người ta chấp cứng trong những cái vui đó, điệu hý đó, cho nên người ta cho những cái đó là cái vui, cái hạnh phúc của họ, cho nên ngoài ra thì nó không thật, và nó hư dối hết, chỉ có những cái đó là cảnh giới của họ, dục lạc của họ, thích thú của họ mà thôi. Cho nên, nếu mà cái người mà muốn được ở trong cảnh giới tịch diệt, an trú thì phải ly trừ hết những cái điệu hý thì nó mới có an trú trong cảnh giới đó được. Vậy mà Đức Phật trả lời nè: “Tu sĩ không trừ hết điệu hý mà an trú cảnh giới tịch diệt sao được”, Đức Phật nói như vậy đó thì chúng ta biết rõ.

“Vậy có bao nhiêu điệu hý?”, Có người hỏi Đức Phật thêm đó, có bao nhiêu điệu hý đó. “Có ba điệu hý: một là về khẩu, hai là về tưởng, ba là về mong cầu”.Quý thầy thấy ông Phật ông dạy chúng ta từng cái chi tiết nhỏ để chúng ta hiểu biết được mà chúng ta phân ra để diệt cái lòng tham dục của chúng ta. Một người mà còn vui theo thì tức là mình còn thích nói chuyện với nhau là còn vui theo chứ gì, mà còn vui theo tức là điệu hý rồi. Nghe người ta thuật lại chuyện đông chuyện tây mình khoái lắm chớ, nghe người ta thuật lại chuyện cổ tích rồi mình  nghe cũng thích chứ. Đó thì tức là mình còn đang ở trong cái chỗ điệu hý…. Đó là điệu hý về khẩu.

Về khẩu,về khẩu hành thì có ba điệu hý: một là hại mình, cái sự vui chơi đó nó làm cho mình có hại, rồi hai là hại người, cái chuyện mà vui chơi đó nó có thể làm hại người đó, cái điệu hý đó nó có thể làm hại, và ba là hại cả hai, nghĩa là hại mình mà hại người. Trong cái điệu hý đó nó có xảy ra về khẩu thì một là mình nói ra mà hại mình, hai là mình nói ra hại người, ba là mình nói ra hại cả hai, cả mình và cả người. Đó là Đức Phật phân tích cho chúng ta thấy là về cái khẩu thì mình có những cái điều kiện đó.

“Nếu mà xả bỏ lời nói hại mình, hại người hại cả hai và nói đúng lời nói chân thật, không hại mình, không hại người, không hại cả hai thì chuyên niệm không tán loạn, thành vô lậu”. Đó, Đức Phật nói, nói ra cái lời nói về miệng mình nói ra lời nói mà hại mình thì không nên nói đó là điệu hý thứ nhất. Điệu hý thứ hai là nói ra lời nói mà hại người thì không được nói. Mà cái điệu hý thứ ba, là nói ra lời nói hại mình hại người thì không được nói. Cho nên mình phải nói như thế nào, nói như thế nào để cho đúng cách? Nói lời nói đúng như thật, không hại mình, không hại người, mà không hại cả hai thì chuyên niệm không tán loạn, thành vô lậu. Vậy thì mình nói lời nói mà không hại ai hết thì cái đó nói sao, quý thầy thấy chưa? Là không nói, phải không? Không nói là độc cư, thì nó đâu có hại ai. Cho nên bây giờ nó chuyên niệm chứ gì, cho nên tâm không tán loạn, còn mình nói là tán loạn, rõ ràng không? Đó là mình dứt trừ cái điệu hý thứ nhứt về khẩu của mình đó, có đúng không? Nhờ vậy mà chúng ta biết rằng, diệt điệu hý tức là chúng ta diệt lòng tham của mình chứ gì, đi từ gốc nhỏ đó chúng ta diệt ra chứ gì, vậy thì chúng ta sống độc cư không nói tức là không hại mình, không hại người, không hại ai hết, do đó là tâm không tán loạn, thành ra vô lậu. Thấy chưa, nội cái miệng của mình được cái vô lậu rồi đó.

Về phần tưởngcũng có ba: “Tưởng mà hại mình, tưởng hại người, tưởng hại cả hai. Nếu xả bỏ tưởng ấy và dùng tưởng như thật, không bị hại mình, hại người, hại cả hai thì chuyên chú nhớ mãi không quên, sáng suốt thành vô lậu”. Không tưởng thì các thầy nghĩ thấy Đức Phật dạy như vậy thế nào?  Nghĩa là ngồi đừng có tưởng tầm bậy, mà không tưởng tầm bậy thì nó có hại ai đâu, phải không? Mà không hại người, không hại mình, không hại cả hai thì lúc bấy giờ có tưởng nữa hông? Mà không có tưởng vậy thì nó chuyên chú nhớ mãi cái gì các con biết không?  À nó nhớ mãi có một cái tâm của mình thanh tịnh, yên lặng, thanh thản đó thôi. Cho nên sáng suốt thành vô lậu, đúng không? Ông Phật dạy rất đúng. Như vậy là mình phá tâm tham dục của mình rất dễ dàng đâu có gì khó, ờ biết cách là như vậy. Vì vậy cho nên bây giờ ngồi đừng có tưởng, ngồi đây mà tưởng về nhớ nhà thì cái đó là thế nào? Điệu hý rồi còn gì đâu, nhớ cái này nhớ cái kia là điệu hý rồi. Bởi vậy ông Phật ông dạy để chúng ta biết rất rõ những cái điều kiện, mà chúng ta ngồi một tâm  niệm thì chúng ta biết nó thuộc cái loại nào. Cho nên ở đây nếu mà Thầy không giảng cái này ra thì Thầy thấy thiệt là cái lời ông Phật dạy là phí cho ổng, ổng mệt mỏi quá rồi, ổng giảng ra cho chúng tỳ kheo trong thời đó mà bây giờ người ta cứ bỏ cái này, người ta nói cái gì mênh mông ở trên trời đất á, mà không dạy cho chúng ta biết từng cái chút này để mà chúng ta ly để mà chúng ta được cái tâm vô lậu. Thấy cái này rồi, chúng ta biết cái tâm tư của mình, à bây giờ nó ở trong tưởng nè, tưởng điệu hý này, miệng mình nó nói thì mình biết nó là khẩu điệu hý này, biết nói như vậy là hại mình, hại người, hại cả hai, thôi nhất định là không nói, như vậy là mình ở trong cái Chánh niệm của mình tức là nó thành vô lậu. Thì cái tưởng nó cũng như vậy, cho nên nó cũng thành vô lậu.

Về mong cầu cũng có ba, sự mong cầu của mình mà, mình ngồi mình mong cầu cũng có ba cái điệu hý của nó: “Hại mình, hại người, và hại cả hai. Nếu xả bỏ sự mong cầu ấy và mong cầu đúng cho thật, không hại mình, hại người, hại cả hai thì mong cầu đúng như thế sẽ chuyên chú nhớ mãi không quên, thành vô lậu”.Mà sự mong cầu mà không hại mình không hại người, không hại cả hai hết thì cái sự mong cầu đó mong cầu cái gì quý thầy biết không? Đó tức là sự mong cầu sự giải thoát nơi tâm của mình, thành ra không có ai dính mắc vào trong tâm mình được hết cho nên nó thành vô lậu, có gì đâu mà khó khăn. Khi mà nó mong cầu cái gì khác hơn mình biết liền. Mà nó không mong cầu thì tức là nó ở trong thanh thản rồi, nó ở trong cái tâm rất là an ổn rồi, thì đó là vô lậu, tâm niệm của mình chút nào là mình biết nó ở trong cái chỗ nào rồi. Thì như vậy là chúng ta đã thấy được những cái điệu hý của nó rồi, như vậy là biết được cái nguồn gốc để mà chúng ta tu về cái định vô lậu để cho nó quét sạch vô lậu, quét sạch cái tâm tham dục của chúng ta.

2. Xả thân: hỷ thân, ưu thân, xả thân

Bậc thánh hiền xả thân có ba, bây giờ cái thân của chúng ta xả có xả ba cái cách của nó, hồi nãy là do cái điệu hý, mà bây giờ chúng ta lại xả về cái thân của chúng ta, một là hỷ thân, hai là ưu thân, ba là xả thân.

Bây giờ đến cái giai đoạn của những bậc thánh hiền tu tập, hồi nãy là những bậc phàm phu đó là chúng ta có những điệu hý. Còn bậc thánh hiền có vui nữa không, có vui điệu hý như chúng ta vậy nữa không? Không, hết rồi. Vậy thì bậc thánh hiền xả thân có ba: hỷ thân, ưu thân và xả thân. Trong thân của chúng ta coi vậy chứ nó còn cái hỷ, còn cái ưu, rồi còn cái xả của nó nữa này. Bây giờ chúng ta về bậc Thánh rồi, chúng ta đã xa lìa những cái tham dục của thế gian rồi, bây giờ còn cái phần thân của chúng ta để nó như thế nào đây. Cho nên bậc thánh nó có ba phần này.

 

Hỷ thân cũng có ba: hại mình, hại người, hại cả hai, bởi vì khi mình đã đứng vào trong những bậc Thánh hiền rồi thì mình coi chừng cái thân của mình, nó cũng có thể làm hại mình, hại người và hại cả hai. Nếu xả bỏ hỷ ấy, chỉ dùng hỷ đúng như thật, không hại mình, hại người và hại cả hai nhờ đó chuyên chú mãi không quên, đây là thọ cụ túc giới. Bây giờ đó mới là một vị bậc thánh hiền, mới gọi là thọ cụ túc giới đây, chứ không phải như hồi nãy là vô lậu đâu, đây là thọ cụ túc giới, nó mới đầy đủ cái giới của vị tu sĩ đây. Nếu mà chúng ta dùng cái hỷ, mà cái hỷ đó như là cái hỷ mà chúng ta tu hỷ vô lượng tâm đó, cái hỷ vô lượng tâm đó nó sẽ giúp chúng ta xả được không hại mình, hại người, hại cả hai. Cho nên chúng ta biết cái hỷ đó là hoan hỷ, vui theo với mọi sự mọi vật. Do đó chúng ta không làm hại một người nào hết, không làm khổ ai hết, không làm khổ mình khổ người nữa. Do đó mà chúng ta đã thực hiện Tứ vô lượng tâm thì chúng ta thấy cái hỷ này rất là cần thiết cho cái sự tu tập của chúng ta. Do đó thì chúng ta nhớ mãi không quên do cái lòng hỷ này. Thì đó là chúng ta mới thọ cụ túc giới.

Về ưu thân cũng có ba: hại mình, hại người, hại cả hai. Chữ ưu đây là sự buồn khổ trong cái thân của mình. Thân mình nhức chỗ này, thân mình đau chỗ kia, lói chỗ nọ, là cái sự buồn khổ của cái thân đó. Nếu xả bỏ ưu thân này, dùng ưu thân đúng như thật, không hại mình, không hại người, không hại cả hai đây gọi là thọ cụ túc giới. Nghĩa là chúng ta dùng cái ưu thật, nghĩa là đừng có lấy cái đau khổ của mình mà làm cho mình khổ sở, đó là cái sai. Mà lấy cái đau khổ, phiền toái của chúng sanh làm cái chỗ thương xót thì đó là chúng ta đã thọ cụ túc giới đó. Như thầy dạy từ bi hỷ xả đó, quý thầy tu tập về cái lòng thương yêu của mình đó. đó là cái chỗ về ưu thân có ba đó, không hại mình hại người, hại cả hai tức là thực hiện tâm từ bi của mình. Đó gọi là xả về ưu thân của mình. Đây gọi là thọ cụ túc giới thứ hai.

Về xả thân cũng có ba: có cái mình xả  mà hại người, có cái mình xả mà hại mình, có cái mình xả mà hại cả hai. Cho nên mình phải xét cái nào mình xả, mình bỏ ra, mà hại người khác. Cũng như bây giờ đó, mình tính thôi bây giờ mình bỏ đi, mình bỏ mình đi tu đi, xả bỏ hết của cải tài sản đi, bỏ luôn cả vợ con đi. Lúc bấy giờ vợ con hổng ai nuôi, hổng ai làm cho nó sống hết, nó khổ sở, đó mình xả, mình xả kiểu đó hại người ta đó. Bây giờ con mình nó mới sanh ra, chưa có ai mà chăm sóc, lo lắng, mình cứ xả bỏ con mình đi đi, thì lúc bấy giờ ai nuôi nó. Đó là mình xả như vậy là sai. Vậy cho nên chúng ta khi mà xả những cái gì mà ở trong thân của chúng ta cũng như xả những cái gì đó thì chúng ta phải sáng suốt khéo léo. Cũng như bây giờ, cái thân của chúng ta như thế này, thôi bây giờ mình chặt cái đầu nó chết đi, nó là vô thường đi, xả bỏ nó đi cho nó không khổ nữa. Thì cái điều đó là mình xả ngu rồi, không phải là xả đúng. Cho nên vì cái sự xả đó mà làm khổ mình hại mình đó, thì cái đó là Phật nói xả kiểu đó là xả thân mà hại mình đó thì đừng có làm cái chuyện đó. Cho nên có một thời tỳ kheo nghe quán thân bất tịnh rồi họ thấy cái thân này ghê gớm, họ mướn người khác đâm cho họ chết đi. Một lúc sau Đức Phật hay được, cấm không có cho làm cái chuyện đó, không phải là cái chỗ như vậy. Đó thì chúng ta thấy trong bước đường nói về xả thì chúng ta phải sáng suốt xả mà không có hại mình, hại người, không hại cả hai. Chứ có nhiều người ham tu, xả cái bỏ gia đình, chồng con. Trời ơi, tức tối gần chết vợ con gì nói nó không biết nghe, nó bỏ nó đi tu, thiệt là, cái ông thầy chùa nào quyên rũ nó vậy, tui đốt chùa à. Bởi vậy trong cuốn Diệu Thiện đó, mà cô Diệu Thiện cô đi tu đó, Ông cha ông giận quá, ông đốt chùa, các con hổng biết sao. Ông nói ông thầy quyến rũ con ông, công chúa đi tu, ông giận ông đốt chùa, cho ớn, cho ghét. Đây gọi là thọ cụ túc giới.

3. Các căn đầy đủ trong luật nghi của bậc Thánh hiền

Về các căn đầy đủ trong luật nghi của hiền Thánh  có chừng bao nhiêu tâm? Có người hỏi, về các căn mà được đầy đủ trong luật nghi của Thánh hiền có chừng bao nhiêu căn? Đó, thì Đức Phật cũng giải thích cho chúng ta thấy rằng. Cái về mà luật nghi mà đối với các căn của chúng ta được đầy đủ của thánh hiền, về mắt thấy sắc, ta nói có hai. Nghĩa là đối với mắt thì ta thấy cái sắc, thấy các pháp đó thì ta thấy phải có hai để cho luật nghi của giới Thánh hiền nó phải như thế nào đúng ở trong cái chỗ căn đó.

Cho nên đối với mắt, thì nó có hai. Một là đáng thân cận, hai là không đáng thân cận.Đó thì các thầy thấy khi mà chúng ta thấy cái vật đó mà chúng ta đáng thân cận và khi mà chúng ta thấy vật đó mà chúng ta không đáng thân cận. Thì chúng ta phải thấy, khi con mắt thấy cái vật đó mà chúng ta thân cận, mà thấy cái vật đó mà chúng ta không nên thân cận, thì cái này nó là luật nghi của Phật đó, cái luật nghi của Phật. Mình thấy một cái gì đó mà gợi cái tâm dục của mình là không nên đáng thân cận. Mà thấy cái đó mà tâm dục của mình không có gợi lên không có ham thích, thì cái đó là đáng thân cận. Cũng như bây giờ, các thầy vô đây, ăn ngày một bữa cơm, mà không cho quý thầy ăn phi thời á, thì cái đó là quý thầy đáng thân cận. Cái thấy thực phẩm ở đây mà bắt đầu cho quý thầy không thấy thèm, thấy khát gì hết á, thì đó là đáng thân cận. Mà các thầy thấy còn thấy thèm ăn mà này kia thì không nên đáng thân cận, thì chỗ đó không phải chỗ tu.

Cho đến tai nghe cũng vậy mà mũi ngửi mùi cũng vậy, lưỡi nếm vị cũng vậy, thân xúc chạm cũng vậy, ý duyên pháp cũng vậy. Nghĩa là cũng có hai pháp, lúc thì cái mũi, cái mùi của mình, cái tai nghe tiếng của mình, thì cái tiếng nào đáng thân cận. Cũng như nghe Thầy thuyết giảng thì các con nghe tiếng đó là đáng thân cận. Mà nghe ca, nghe hát, nghe mấy cô đào ở thành phố mà phát đài á, các con mở đài ra nghe ca hát. Trời, du dương quá, tám câu vọng cổ, mười câu vọng cổ nghe trữ tình dữ tợn đó, nghe nó muốn xịu hết đó thì các con nên dẹp mấy thứ đó đi, cái đó là không có đáng nghe, cái tiếng đó hổng có được nghe. Còn những cái mùi thơm, mùi này mùi kia, mùi mà làm cho chúng ta gợi lên cái thích ăn, thích mà gần gũi, thì những cái mùi đó dẹp đi. Những cái mùi vị của đạo thì nên gần gũi, mùi vị của thế gian thì không nên gần gũi. Còn cái lưỡi nếm vị cũng vậy, vị ngon vị đắng, vị này kia tất cả, xa lìa nó đi, đừng có nếm những cái vị đó, nó không có được, phải nếm cái vị Cam Lồ của sự tu hành của chúng ta mà thôi. Thân xúc chạm cũng vậy, ý duyên pháp cũng vậy, cho nên nó cũng có hai. Đó là quý thầy nhớ kĩ để mà chúng ta nỗ lực tu hành.

Như thế nào mà mắt thấy sắc thì thiện pháp tổn giảm? Nghĩa là Đức Phật nói khi con mắt chúng ta thấy một cái hình ảnh đó, mà cái thiện pháp nó bị làm giảm xuống đi mà bất thiện pháp nó tăng trưởng thì không nên thân cận với nó. À các thầy hiểu chưa? Mà bây giờ mắt thấy cái sắc đó mà cái thiện pháp nó tăng trưởng. Bây giờ thấy thí dụ như có một người ăn mày đi sang qua đường của mình, đi ngang trước ngõ mình, mình thấy cái người đó đói khổ quá tội nghiệp, mình lấy gạo mình cho người đó, hay lấy cơm cho người đó, hay lấy thực phẩm cho người đó, hay lấy tiền cho người đó, thì cái đó là mình thân cận cái đó. Còn mình thấy một cái người uống rượu mà mình nhào vô mình uống rượu với họ. Thì thôi thôi đừng đừng, thấy cái này thì thôi, đó là ác pháp nó tăng trưởng rồi đó, mà thiện pháp nó giảm xuống thì mình tránh xa cái bọn uống rượu đi. Như vậy đó là mình mắt thấy sắc mà thiện pháp nó tổn giảm thì ngay đó là mình lui đi. Thấy người ta bài bạc thôi đừng có rớ vô, vì đó là ác pháp rồi. Bất thiện pháp nó sẽ tăng trưởng lên mà thiện pháp nó giảm, vậy cho nên mình tránh xa đi.

Hai, mắt thấy sắc mà thiện pháp tăng trưởng, bất thiện pháp đoạn giảm, tổn giảm thì nên đáng thân cận. Đây là các căn đầy đủ luật nghi Thánh hiền. Đó thì quý thầy thấy chưa, bởi vì mình muốn cho cái luật nghi của Thánh hiền mình, cái oai nghi cái tế hạnh của luật của mình đầy đủ, thì mình có con mắt, mắt tai mũi miệng thân ý của mình đối với cái pháp nào đáng thân cận và pháp nào không đáng thân cận. Thấy thiện pháp tăng trưởng thì thân cận mà ác pháp tăng trưởng thì mình không được thân cận. Đó, Phật dạy cho mình từng chút để mình giữ oai nghi, thấy cái luật nghi tế hạnh của mình ở trong những cái chỗ mà mình có thể tiếp xúc. Chớ đâu phải là Đức Phật dạy luật nghi mà không có cái hiểu biết như vậy thì quý thầy sẽ bị phạm hết sao. Cho nên trong cái dạy về giới luật Thầy dạy rất kĩ về cái vấn đề này để cho quý thầy thấy được cái chỗ tu tập của chúng ta trong cái giới hạnh cho nó nghiêm chỉnh, biết nó được cái nào là đúng, thế nào là sai ở trong cái oai nghi chánh hạnh của bậc Thánh hiền.

4. Cứu cánh phạm hạnh

"Có bao nhiêu cứu cánh", ở đây có người hỏi Đức Phật có bao nhiêu cứu cánh?  “Bị ái làm khổ thân tâm mà diệt được thì gọi là cứu cánh”, Đức Phật trả lời đó. Bị ái tức là bị thương ghét, bị ham muốn làm khổ thân tâm của mình á mà diệt được cái đó là cứu cánh. Vậy thì cứu cánh có bao nhiêu. Có ba cứu cánh. Đó, Đức Phật phân tích cho chúng ta thấy nó có ba cứu cánh. Bây giờ chúng ta diệt ái, mà nó sạch rồi thì thân tâm của chúng ta không còn khổ được nữa thì đó gọi là cứu cánh chứ không phải có một cảnh giới nào khác lạ hơn là chúng ta diệt cái lòng ham muốn của chúng ta. Do đó khi mà cái lòng ham muốn nó hết á thì đó gọi là cứu cánh. Nhưng mà có mấy loại cứu cánh. ở đây Phật nói có ba loại cứu cánh.

Một là cứu cánh phạm hạnh, tức là Giới hạnh. Các con thấy, giới hạnh đó. Vậy thì cứu cánh phạm hạnh, một người còn làm nghề nông, còn làm thư ký, còn làm thầy thuốc thì cái đó có phạm hạnh hông. Không có phạm hạnh cho nên nó còn bận tâm lo là đi vào rừng, rồi đào rễ cây về giã, rồi mới là hốt, rồi bằm, sắc rồi sao, rồi đốt, hoặc là tẩm, rồi chế cái này chế cái kia ra rồi mới hốt cho họ thành thang cho họ trị bệnh. Thì như vậy họ có cứu cánh không?  hay hoặc là họ đang bận công việc, họ đâu có giải thoát đâu mà gọi cứu cánh. Cho nên không thể nào gọi cứu cánh phạm hạnh được. Mà cứu cánh phạm hạnh thì gọi là giới hạnh.

Cái thứ hai là cứu cánh an ổn, cứu cánh an ổn gọi là Giới đức.Một người tu mà ngồi thiền định mà nhập sơ thiền đến tứ thiền có an ổn không quí thầy. Rất an ổn, hỷ lạc rất tràn đầy, lúc bấy giờ ngồi như là ở trên cảnh giới ở trên thiên đàng chứ đâu phải như ngồi dưới đất này đâu. Cho nên vì vậy gọi là giới đức.

Ba là cứu cánh vô dư, đó là Giới tuệ.Cái cứu cánh vô dư đó là Giới tuệ. Các thầy thấy ba cái cứu cánh này nó ứng với ba cái giới mà chúng ta đang học: Giới hạnh, Giới đức, Giới tuệ. Đó thì qua những bài học như vậy thì chúng ta đã thấy biết được con đường mà chúng ta tu tập nó phải đi từng bậc nào để mà đi vào trong những giới luật mà chúng ta đã học.

Tiếp tục thầy giảng thêm cái phần này để chúng ta thấy được con đường mà tu tập giới luật của chúng ta nó  thực hiện như thế nào để mà chúng ta biết được cho nó rõ ràng hơn, để mà chuẩn bị cho cái sự bước qua một cái giai đoạn mà giới tuệ cho nó thông suốt. Chứ còn nếu không mà bước qua giới tuệ thì chúng ta thấy như mình ở trên trời xanh á, chưa phải là ở dưới đất đâu.

5. Năm dục trưởng dưỡng

Có 5 pháp khiến dục lạc tăng trưởng, hồi nãy chúng ta nói dục đó, tham dục, thì bây giờ cái việc mà khiến cho dục lạc nó tăng trưởng, có năm pháp khiến cho dục lạc tăng trưởng.  Người tu sĩ Phật giáo phải xem 5 pháp này là dây xiềng xích, lòi tói, trói chặt người tu sĩ. Không có vẫy vùng, khó mà vẫy vùng ra khỏi. Nghĩa là phải thấy 5 cái pháp khiến cho dục lạc của thế gian nó tăng thịnh ở trong tâm của chúng ta. Vậy đó 5 pháp đó là gì?  Những sắc pháp do mắt cảm nhận, khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc, ái lạc. Đó, thì cái pháp nào? Lẽ ra thì Thầy đã giảng ở trong cái chỗ mà ngũ dục lạc rồi cái sáu dục lạc sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đó. Nhưng mà Thầy lướt qua chỗ đó đi, cho nên bây giờ Thầy nghĩ rằng, nếu mà không nhắc lại sơ cái này, coi như lược sơ á, thì quý thầy, không có giảng cái phần đó thì coi như là hơi thiếu, thay vì phải giảng cái phần đó thì cũng quá nhiều, cho nên Thầy không giảng. Nhưng ở đây Thầy chỉ lược sơ để quý thầy thấy được cái chỗ mà sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đó. Đó là nó lôi hút, nó cám dỗ chúng ta cũng dữ lắm. Nhưng ở đây để chuyên qua trong cái phần giới luật của giới tuệ thì chúng ta nhắc lại cái phần này để chúng ta thấy được cái chỗ mà chúng ta tiến vào con đường của Đạo Phật.

Những sắc pháp do mắt cảm nhận nó làm cho chúng ta thấy khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn câu hữu với dục lạc và ái lạc.Đó thì những cái pháp đó chúng ta thấy nó là sợi dây xiềng xích, lòi tói mà trói chặt chúng ta lắm đó. Coi chừng những cái hình ảnh sắc pháp đó nó sẽ cám dỗ chúng ta mạnh lắm đó.Những tiếng pháp do tai cảm nhận, những âm thanh, tiếng phápđó coi chừng nó cũng có thể là những sợi dây xiềng xích, lòi tói nó trói chặt chúng ta lắm đó. Những hương do mũi cảm nhận, những hương thơm domũi cảm nhận nó cũng là sợi dây xiềng xích, lòi tói trói chặt chúng ta đó. Những vị do lưỡi cảm nhận, tức là những ngày mà chúng ta ăn món ăn ngon, ăn dở, coi chừng nó trói chúng ta chặt lắm đó. Nó là sợi dây xiềng xích, lòi tói rất là chặt đó. Do xúc cảm nhận, do xúc thân cảm nhận. Đó thì những điều kiện đó nó là sợi dây trói rất chặt. Năm pháp này khiến cho con người chấp trước, mê đắm, bị trói buộc không thấy nguy hiểm của chúng, không nhận thức sự không thoát ly chúng. Nếu mà chúng ta không nhận nó được, thì nó sẽ trói buộc chúng ta rất chặt chứ không phải là đơn giản đâu. Thường thường là chúng ta xem thường nó lắm nhưng mà rồi chúng ta sẽ bị nó trói chặt. Cho nên ở đây, Phật chỉ nêu lên năm cái pháp để mà nó lôi cuốn, nó trói chặt chúng ta.

Nhưng chúng ta còn quên, có một cái pháp nữa tức là pháp thứ sáu đó. Do cái ý, ở đây nói nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Thân thì có xúc, mà ý thì nó có khởi ra các pháp cho nên cái pháp nó làm cho chúng ta trở thành những kiến chấp.Nó cũng ghê gớm vô cùng. Nó trói chặt chúng ta. Biết cái pháp của mình là sai chứ chưa dám bỏ đâu. Khi mà mình nghĩ rằng con đường thiền của tui tu đây đúng của Phật rồi mà sự thật nó trật lất à, nó hổng đúng. Mà họ nói nó là đúng rồi, họ bỏ hổng có được. Cũng như họ tu tập thiền xuất hồn, họ nói đây là xuất hồn tôi có xuất hồn được rồi, cho nên từ đó họ không bỏ được. Đó là cái pháp, cái pháp làm cho họ dính mắc. Nó cũng cám dỗ dữ lắm. Khi mà đọc được cái bài nào đó họ thích thú, cũng chẳng hạn như có người đọc sách của ông Krisnamurti, trời ơi! nó hay quá, quá chừng hay. Do đó mở miệng ra thì cứ Krisnamurti không ở trỏng à. Mà cuối cùng thì ông ta chỉ có miệng không à, chứ không có giải thoát như Krisnamurti chút nào hết. Cho nên cuối cùng cái đó gọi là cái kiến chấp của pháp. Mà cái đó nó lôi cuốn cũng mạnh lắm. Hở ra chút nào thì ông ta dương cổ ra mà khạc ba cái thứ đó. Nó không phải là con đường giải thoát, mà là con đường tà, một con đường sai, mà lý luận nghe nó siêu việt dữ lắm. Cho nên từ đó chúng ta bị cái lầm chấp đó, chúng ta thấy nó hay, cho nên chúng ta bị dính nó rồi. Nó cũng làm chúng ta cũng thích thú cũng say mê, cho nên nó trói buộc chúng ta rất chặt. Cho nên ở đây thì Phật nói năm, chứ sự thật ra nó là sáu. Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà, chớ đâu phải là cái thứ thường đâu.

6. Năm triền cái

Ờ bây giờ tiếp tục, chúng ta sẽ học cái phần này. Bởi vì chúng ta nghe triền cái rồi nghe nào là kiết sử mà chúng ta không hiểu nó thì chúng ta biết ở đâu mà chúng ta dẹp những cái triền cái này. À bắt đầu chúng ta phải học cái này.

Có năm triền cái được gọi là chướng ngại, được gọi là màn che, triền phược trong giới luật của bậc Thánh.Nghĩa là năm cái này nó làm cho chúng ta, nó làm che mất cái giới luật nghi của các bậc Thánh. Nó làm cho chúng ta không giữ trọn được các bậc Thánh là năm cái triền cái này. Cho nên một cái người mà học về giới luật, mà không thông được năm cái triền cái này á, thì chúng ta bị nó che. Bởi vì cái cái là cái màn che, nó che ngăn, nó làm cho chúng ta không có thấy được, cho nên chúng ta phạm giới. Còn chúng ta thấy được, chúng ta không có phạm giới. Cho nên trong cái luật của bậc Thánh hiền á, mà khi mà chúng ta rõ được năm triền cái này á, thì chúng ta không còn bị nó che mất cái luật của chúng ta đi. Còn nếu mà không rõ thì nó bị che mất đi, nó làm chúng ta phạm giới.

Một, là dục cái, tức là tham cái đó. Hai là sân cái. Ba là hôn trầm thùy miên cái. Bốn là trạo hối cái. Năm là nghi cái.Đó là năm cái được gọi là ngũ triền cái đó, năm cái sự ngăn che làm chúng ta mờ mịt, làm chúng ta phạm giới của bậc Thánh hiền đó. Thì đó là năm cái này.

Dục cáihay là tham cái, tức là cái lòng ham muốn của chúng ta, nó ngăn che, nó làm chúng ta phạm giới. Bởi vì mình ham muốn, thí dụ mình thấy cục đường á, hoặc miếng kẹo hoặc cái bánh, mình thèm ăn rồi. Thì bắt đầu, mình lấy mình bỏ miệng mình nhai nuốt đi. Thì tức là cái lòng tham muốn của mình đó đó, mà nó che đi, làm cho mình phạm giới phi thời. Phải không, quý thầy thấy rất rõ không. Cho nên chỉ một chút xíu thôi là mình bị phạm giới rồi. Chỉ một chút à, nó ham muốn cái đó thì nó bị che cái giới luật đi. Thì cái đó là mình bị phi thời mất.

Sân cái, tức là cái tâm sân hận của chúng ta, giận dữ lên thì nó làm chúng ta phạm vào những cái giới luật. Lời ăn tiếng nói chúng ta thô lỗ, thì tức là nó phạm vào cái giới luật đó rồi. Nó chửi mắng người ta, nó nạt nộ người ta, nó làm dữ tợn thì đó là phạm phải giới luật về khẩu nghiệp của chúng ta.

 

Ba là hôn trầm thùy miên cái.Hôn trầm là ngủ gục, thùy miên là ngủ. Những cái người mà ngủ này á, họ thường thường là họ bị phi thời. Cho nên trong cái vấn đề hôn trầm thùy miên này, nó mới sanh ra cái nghi, à cái si. Mà cái si, cái si cái, tức là cái ngu si, cái vô minh á thì gọi là hôn trầm thùy miên. Cái tức là si, nên gọi là tham sân si đó, nó là ba cái độc. Thì hôn trầm thùy miên là cái trạng thái của cái người ngu si. Mà ngu si thì nó làm cho người ta vô minh, người ta không có thấy cái đúng, cái sai, cái nào là hại, cái nào không hại, cái nào là đúng chân lý, cái nào không đúng chân lý. Vì cái si mà, làm sao đúng được, cho nên do đó, nó bị lầm chấp. Cũng như bây giờ, mình chấp một cái pháp nào đó, mình cứ cho nó đúng, tức là do cái si mê của mình, bị cái kiến chấp. Cũng như mình lầm chấp cái thân của mình có cái ngã ở trong này, có cái thật ở trong này. Đó là cái lầm chấp, mà cái lầm chấp đó là cái si, si mê. Mà cái si mê đó nó hiện ra cái tướng hôn trầm thùy miên, tức là cái người mà ngu si á, là cái người tham ngủ. Cái người mà ham ngủ, ngủ gà ngủ gật là mấy người ngu si lắm, họ không có thông minh. Mặc dù họ thông minh cái gì kệ họ, nhưng đối với Phật pháp đối với sự giải thoát tu hành, họ là cái người ham ngủ thì họ là cái người ngu si. Họ không sáng suốt được, họ không thấy được cái chân lý đúng là cái chỗ giải thoát. Mà họ cái người ngu si, hôn trầm thùy miên đó, những hạng người đó luôn luôn chạy theo dục, chứ không bao giờ mà họ thoát ra khỏi dục.

Bốn là trạo hối cái, trạo hối cái là những cái loạn tưởng, những cái vọng tưởng nó liên tục, nó từ cái này đến cái khác, nó làm cho họ nhớ tiếc thương cái này, nhớ tiếc thương cái kia. Ngồi đây mà nhớ chuyện quá khứ không đó. Thì cái chuyện đó là trạo hối của họ, gọi là trạo hối cái. Nó che làm cho không có thấy được cái tâm của họ đang dày vò đang đau khổ, đang nhớ cái này, đang tiếc cái kia đó, gọi là trạo hối.

Năm là nghi cái:Khi mình đến mình học ông thầy nào đó, dạy mình, mình nghi ông thầy, ổng chưa có tu chứng, như thế này như thế khác. Thôi mình học mấy bữa, bỏ đi. Như mình thấy cái vị đó tu hành, mình đâu có hiểu được họ như thế nào trong một ngày, hai ngày đâu. Làm sao trông vào được, ông thầy này ông ở bẩn quá à, không thể được. Rồi mình ở với ông thầy này, ông ở khổ hạnh quá à, ở cũng hổng không được, ông này ông ăn uống ngày có bữa, vậy mình sống sao nổi mà tu, ông thầy này ông làm cái kiểu cách của ổng, chứ chưa chắc ổng đã chứng. Do đó mình nghi ổng đi, mình nghi ổng tức là mình phải bỏ ổng rồi, mình không làm sao mình tu. Cho nên, những cái nghi đó là nó che mờ mà mình không thấy được. Hoặc là ông thầy đó ông thể hiện qua thử thách người đệ tử. Cái người đệ tử tưởng là ông thầy này còn phàm phu quá, thấy kiểu cách của ổng không phải của Thánh. Nhưng mà không ngờ là người ta thử thách mình, nhưng mà cuối cùng là mình bị người ta gạt mình rồi mình đâm ra mình nghi. Từ đó mình sẽ mất chỗ đứng của mình tu tập.

Bởi năm triền cái này mà người tu sĩ bị che khuất, bị trói buộc, bị triền phược, bị chướng ngại, khiến cho người tu sĩ phạm giới. Đó thì năm cái triền cái đó sẽ làm cho người tu sĩ phạm giới, đều là do năm cái triền cái đó.

7. Năm hạ phần kiết sử

À thì chúng ta đã biết được năm cái triền cái rồi. Thì bây giờ chúng ta học thêm, năm cái hạ phần kiết sử. Bởi vì về kiết sử thì nó có năm hạ phần kiết sử và năm thượng phần kiết sử. Nếu mà chúng ta không học thì chúng ta làm sao biết được. Do đó chúng ta thấy triền cái nó cũng giống mà lại là kiết sử nó cũng giống như nhau, nó không khác nhau. Mà chỗ nào là kiết sử, chỗ nào là cái. Chúng ta phải phân biệt được cái chỗ này.

Năm hạ phần kiết sử:

- Một là tham.

- Hai là sân.

- Ba là si.

- Bốn là mạn.

- Năm là nghi.

Tham tức là hồi nãy là dục cái đó. Thì chúng ta thấy nó che ngăn nó làm cho chúng ta không thấy gọi là cái. Mà nó làm cho chúng ta bị trói buộc, bị dính mắc đó, thì đó là kiết sử. Kiết sử có nghĩa là nó trói chúng ta rồi nó sai chúng ta, nó làm cho chúng ta chạy theo nó gọi là kiết sử. Cho nên khi mà chúng ta bị một cái tâm tham, mà nó kiết sử á thì chúng ta bị nó trói chúng ta rồi nó sai chúng ta gọi là kiết sử. Mà khi một cái tâm tham mà của chúng ta nó bị mờ ám nó làm cho chúng ta phạm giới đó, thì cái đó là dục cái. Chúng ta không rõ cho nên do cái tâm ham muốn đó mà nó xảy ra nó làm chúng ta phạm giới. Thì đó là dục cái. Chẳng hạn là, như bây giờ đó mình bị che mờ, mình thấy một cái cô phụ nữ đi ngang qua, trong tâm mình khởi lên có cái tâm dục, thì do đó là mình bị cái tâm dục mình nó che đi. Tức là nó tâm tham dục đó, nó che đi. Do đó cái ý mình khởi lên, mình thấy cô ta đẹp, chứ mình chưa khởi gì hết, thấy cô ta đẹp thì ngay đó là mình bị che mờ đi, do cái ý đó mình đã bị phạm giới. Đó, còn bây giờ thì kiết sử thì nó lôi chúng ta chạy theo nè cười cợt, nói chuyện với cô ta rồi đó, thì cái chuyện đó là kiết sử. Bây giờ nó lại gần hơn đó, hồi đó nó che chúng ta, rồi chúng ta hổng thấy, chúng ta khởi mà khởi ý thích thôi. Thì bắt đầu cô này ngó mình cái, liếc cái rồi, mình cũng ngó theo liếc theo, bắt đầu bây giờ mình đi theo gót cô ta, tìm cách gợi chuyện nói. Thì như vậy, đó là mình đã bị kiết sử nó trói mình đó.

Sân nó cũng vậy, mà si. Ở đây chỗ si mà gọi là năm hạ phần kiết sử á thì Phật còn có một cái tên gọi là giới cấm thủ. Nghĩa là cái si nó làm cho mình, dính mắc, giữ gìn cái đó trở lại. Nó làm cho mình không có thấy cho nên mình không có buông ra được, mình không có ly ra được. Chạy theo hoài mà không có biết mệt mỏi. Đó là gọi là si, cho nên Phật còn gọi là giới cấm thủ.

Mạn, tức là, ở đây Phật còn gọi chữ mạn là thân kiến. Nghĩa là mình chấp cái thân của mình. À cái phần mà năm hạ phần kiết sử này á, là thay vì mạn là ngã mạn, là kiêu mạn thì ở đây mạn của cái năm hạ phần kiết sử này thì Phật cho là thân kiến. Tức là mình chấp cái thân của mình là có thật, có thật ở trong thân này, có cái thật ở trong này. Ở trong cái thân tứ đại này, nó có cái thật ở trong này. Cho nên đó gọi là thân kiến là kiến chấp, tức là chấp cái thân có thật. Cho nên chữ mạn đây là chỉ cái thân kiến, chứ không phải mạn là ngã mạn, cao ngạo, mà đây là thân kiến. Cho nên năm hạ phần kiết sử này là chắp cái thân mình, do có vì vậy mà có những vật chất xung quanh là cái năng sở của nó, nó trói buộc mình nó làm cho mình bị cái mạn này.

Nghi thì chắc chắn là nãy Thầy có giảng ở nghi cái rồi, bởi vì cái nghi này nó nghi rồi bắt đầu nó đi theo dõi rồi nó này kia nọ, nó đủ cách nó lôi cuốn mình đó, gọi là nghi. Mà nó cái kiết sử thì nó lôi mình đi theo cái sự nghi đó, mà nó không bao giờ mà rời gọi là kiết sử. Cho nên đây gọi là năm hạ phần kiết sử.

8. Năm thượng phần kiết sử

Năm thượng phần kiết sử thì như thế nào?

- Một thì sắc tham.

- Hai là vô sắc tham.

- Ba là mạn.

- Bốn là trạo cử.

- Năm là vô minh.

Vô minh ở đây chúng ta phải hiểu đó là si đó, là hôn trầm thùy miên như hồi nãy đó là ở trên cái kia. Còn chữ si ở chỗ năm hạ phần kiết sử này á là giới cấm thủ, tức là bị dính mắc, nó không rời ra được, nó giữ chặt, nó trói buộc ở cái vật chất đó rồi, làm cho chúng ta chặt ở trong đó. Cho nên cái si này nó bị mờ mịt, nó vô minh nó không thấy mà chính cho đó là cái chấp của mình. Như bây giờ thân kiến, mình chấp cái thân của mình là thật, vì giới cấm thủ có cái si, cho nên mình coi đó là thật. Ai nói gì mình cũng chẳng nghe hết, tức là mình bị si tức là giới cấm thủ đó.

Còn ở năm thượng phần kiết sử này, sắc tham nghĩa là có một cái hình ảnh, có một sắc tướng nào đó, làm cho mình chạy theo cái sắc đó, trói buộc mình chạy theo sắc đó, tức là sắc tham. Vô sắc tham tức là mình ngồi mình tưởng tượng ra hình sắc này sắc kia thấy thích thú ở trong đó, đó là kiết sử vô sắc tham.

Ba là mạn, tức là ở chỗ mạn này là cao mạn, kiêu mạn chứ không phải mạn là thân kiến nữa đâu. Tức là nó coi mình là trên hết á. Thì cái mạn cũng có nghĩa là thân kiến, cũng có nghĩa là cao ngạo, cũng có nghĩa là chấp ngã.

Trạo cử, như hồi nãy ở trạo hối đó. Trạo cử là nó lăng xăng, nó nghĩ chuyện này đến chuyện kia, lung tung. Đó là năm thượng phần kiết sử. Thì cái triền miên của cái tư tưởng nó nối tiếp nhau, nó gây cho chúng ta có cái sự liên tục trói buộc nhau ở trong sự triền miên suy nghĩ đó, thì cái đó là trạo cử của kiết sử, năm thượng phần kiết sử.

Vô minh tức là si thì si vô minh nó cũng giống như những cái si kia, nhưng mà cái si này nó thể hiện qua cái chỗ, vô mình mờ không thấy rõ năm thượng phần kiết sử này, không có thấy rõ cái chân lý giải thoát của Đạo Phật. Còn cái si hồi nãy đó là hôn trầm thùy miên á, đó là cái sự ngu si của một cái mất tỉnh thức, nó không sáng suốt. Còn cái chỗ vô minh này, nó có minh. Cái chỗ vô minh của thượng phần kiết sử này á là cái người này có thể là một nhà bác học, một nhà tiến sĩ học, rất thông minh, thông minh mọi mặt của thế gian, nhưng họ không có thông minh con đường giải thoát của họ, không có trí tuệ hiểu biết con đường giải thoát của Đạo Phật, khổ, tập, diệt, đạo cho nên họ không có giải thoát được họ. Thì vậy cái vô minh này gọi là si, họ không thấy được cái chân lý giải thoát, mà họ thấy toàn là chạy theo cái danh, lợi, chạy theo cái danh của thế gian, cái lợi của thế gian, cái sắc của thế gian, cái ăn, cái uống, cái ngủ của thế gian. Họ làm cái gì họ cũng lo phục vụ cho những cái đó. Thì họ gọi là vô minh, chứ họ thông minh lắm chứ hổng phải. Họ làm ông giám đốc, bà giám đốc chứ hổng phải nhỏ đâu. Họ là ông lớn không  chứ hổng phải nhỏ đâu, nhưng mà họ vẫn vô minh là vì họ không giải thoát. Cho nên chữ si của năm thượng phần kiết sử thì chúng ta phải hiểu nó nằm ở chỗ, nó chạy theo những thứ thông minh của dục lạc, chứ không phải si theo cái kiểu mà buồn ngủ mà như mấy thằng làm biếng đó đâu, như là triền cái đó đâu. Đó thì phải hiểu như vậy, thì chúng ta mới hiểu được những cái danh từ ở trong kinh điển của Đạo Phật để chỉ cho cái tên của nó như thế nào.

9. Bảy kiết sử

(tóm chung năm hạ phần kiết sử và năm thượng tầng kiết sử)

Và về phần kiết sử mà gọi chung á. Thì Đức Phật có cho nó là bảy cái kiết sử. Nghĩa là hồi đó thì 5 cái hạ phần kiết sử, 5 cái thượng tầng kiết sử, tức là 10 cái kiết sử. Nhưng mà Đức Phật tóm lại thì cho chúng ta biết là có 7 cái kiết sử. Đó là:

- Một: ái kiết sử.

- Hai: sân kiết sử.

- Ba: kiến kiết sử.

- Bốn: nghi kiết sử.

- Năm: mạn kiết sử.

- Sáu: hữu tham kiết sử.

- Bảy: vô minh kiết sử.

Đó, thì chúng ta thấy rõ ràng là bảy cái kiết sử này mà gom chung nó là 10 cái kiết sử kia, năm hạ phần kiết sử và năm thượng phần kiết sử. Gộp lại thì nó chỉ có 7 kiết sử, tắt lại thì có 7 kiết sử mà thôi. Ở đây thì những kiết sử cũng là ái kiết sử tức là dục kiết sử hay là tham kiết sử thôi chứ không có gì. Sân thì biết rồi, kiến thì thân kiến biết rồi, nghi quý vị cũng biết rồi, mạn cũng biết rồi. Hữu tham kiết sử các vị cũng biết rồi. Mà vô minh kiết sử cũng biết rồi. Hữu tham tức là có khởi một cái lòng ham muốn, Hữu là có mà, có khởi một cái lòng ham muốn tức là có kiết sử liền tức khắc. Như vậy là chúng ta đã rõ hết bảy kiết sử.

10. Bảy tùy miên

Vậy thì rõ bảy kiết sử thì chúng ta phải rõ thêm bảy tùy miên. Tùy miên đây không phải là thùy miên. Thùy miên là buồn ngủ. Còn tùy miên, tùy là theo, miên là liên tục. Theo liên tục, cho nên cái này được gọi là theo liên tục đó thì gọi là bảy tùy miên. Cho nên, có nhiều người không hiểu á, thấy ở trong kinh sách có chỗ sao để thùy miên, có chỗ sao để tùy miên, họ không hiểu. Họ không hiểu cái chỗ danh từ người ta dùng. Và người ta ta cũng không hiểu bởi vì cái chữ tùy với chữ thùy, nghe cái âm nó gần như là giống nhau. Nhưng nó cách xa lắm. Chữ thùy là nó ngủ, mà chữ tùy là nó theo. Đó, phải hiểu như vậy thì chúng ta mới thấy cái chỗ bảy tùy miên này. Nó có bảy tùy miên, chứ không phải nó có hôn trầm thùy miên không. Cái kia là ngủ nghỉ, ngủ gục thôi, nó khác.

Cho nên bảy tùy miên này nó như thế nào?

 

Một là dục ái tùy miên.Nghĩa là cái lòng tham ái, tham dục của mình á, nó miên man nó thích thú ở trong đó nó kéo dài chúng ta, nó thích lắm, nó kéo dài thời gian miên miên ở trong đó đó. Cái người mà có cái tâm dục nó miên man ở trong những cái hình ảnh của các cô gái mà khiêu gợi họ đó, họ không bao giờ quên những hình ảnh đó đâu. Cho nên nó làm cho họ miên man ở trong chỗ thích dục đó.

Sân tùy miên cũng vậy.Người ta chửi mình cái bắt đầu suốt ngày đó ở trong lòng nó cứ liên tục nó cứ phiền não, phiền não hoài đó, gọi là tùy miên sân đó. Đó, mình phải hiểu chỗ đó. Ngay sân rồi thì mình dứt đi liền, không, để nó kéo dài từ ngày này sang ngày khác, ba bốn bữa mới cười cười được chút. Chứ cái mặt héo xèo à. Đó là nó bị tùy miên sân đó.

Kiến tùy miên cũng vậy.Luôn luôn lúc nào mình cũng chấp những cái ý nghĩ của mình, cái gì của mình đúng, luôn luôn mình cứ cho đúng, luôn luôn đúng, liên tục hoài, luôn luôn khi nào cũng cho đúng đó. Coi chừng cái đó nó kéo dài hoài, nó không bao giờ cho mình thoát ra khỏi những tà kiến nữa. Nhiều khi những cái tà kiến của mình, mình cứ cho là mình đúng, rồi mình cứ miên mật, liên tục ở trong đó, mình cứ cho nó rằng đúng, đúng, đúng, đúng, không bao giờ sai hết, ai nói gì cũng trật, chỉ có mình là đúng thôi. Thì cái đó là cái tùy miên đó, tùy miên kiến tùy miên.

Nghi tùy miên cũng vậy.Nghi người nào nghi chết thì thôi à, không có chịu suy nghĩ coi người ta có đúng hay sai, người ta có ăn trộm hay không? Mà cứ nghi người ta ăn trộm, cứ để  nghi ăn trộm hoài à, mà người ta có ăn trộm đâu. Đó là nghi tùy miên.

Mạn tùy miên cũng vậy.Ngã mạn cống cao luôn luôn lúc nào hở ra cũng nghênh mặt ở trên trời á, đi thì hổng ngó dưới đất, ngó trên trời coi thiên hạ không ra gì, coi người ta như kiến, cỏ đó. Đó là mạn tùy miên.

Hữu tham tùy miên. Lòng ham muốn của chúng ta, có cái gì cũng ham muốn, liên tục ở trong đầu. Thấy cái gì cũng ham, thấy cái gì cũng ham đó, gọi là hữu tham tùy miên, thấy vật gì nhỏ lớn gì cũng tham hết, cũng đem nhét, cất hết. Đó là tham tùy miên đó.

Vô minh tùy miên. Là luôn luôn lúc nào cũng hổng thấy hiểu biết gì hết à, cái gì cũng chấp, cái gì cũng dính, cái gì cũng mắc hết à, lúc nào nó cũng miên mật ở trong cái đầu của người đó hết. Đó gọi là vô minh tùy miên, không có hiểu cái gì hết, cái gì cũng bị dính mắc hết.

Đó là những cái phần mà chúng ta học về những cái từ để chúng ta biết được những cái trạng thái của tâm chúng ta nó rơi vào ở trong những cái trạng thái nào của kiết sử, của năm triền cái, của bảy cái tùy miên. Chúng ta biết được những cái chỗ đó để mà chúng ta biết được cái tâm niệm của mình nó đang ở cái dạng nào, mà chúng ta diệt trừ nó chớ không có để. Nói như vậy có quá nhiều, quý thầy cũng khó nhớ, do đó quý thầy cũng cần đọc đi đọc lại nhiều lần để nhớ những cái này. Khi tâm chúng ta khởi ra chúng ta biết nó nằm ở trong cái kiết sử nào, cái dục cái nào, như thế nào? thì chúng ta mới loại trừ nó ra được. Còn nếu không á thì chúng ta khó mà loại trừ ra được đâu.

À bây giờ thầy đọc lại chỗ tùy miên con, để cho các con kiểm tra lại bảy. Một là dục ái tùy miên, hai là sân tùy miên, ba là kiến tùy miên, bốn là nghi tùy miên, nghi tùy miên các con, năm là mạn tùy miên, sáu là hữu tham tùy miên, bảy là vô minh tùy miên. Đủ rồi phải không?

11. Giới tuệ

Để tiếp tục chương trình giáo án này, quý thầy học đến giới tuệ. Sau thời gian đã qua, đã được học giới hạnh, giới đức và bây giờ là học giới tuệ.

Giới tuệ phải được đặt trên nền tảng của giới đức, nếu không đặt trên nền tảng giới đức thì khó mà xây dựng ngôi nhà giới tuệ được. Nghĩa là không tu tập xong giới đức thì không thể nào tu tập giới tuệ được, cũng như các thầy không tu tập giới hạnh được mà vội tu giới đức thì không được.(BBT:CĐ,21A,E00:44:20)Ví như trường học ngoài đời có ba cấp, (BBT:CĐ,21B,B00:00:00)một là Tiểu học, hai là Trung học, ba là Đại học. Nếu học chưa xong Tiểu học thì làm sao lên Trung học học được? Nếu học chưa xong Trung học mà lên Đại học thì làm sao học được. Vì vậy quý thầy muốn tu theo Đạo Phật thì quý thầy phải tu tập lớp sơ thiện, tức là giới hạnh. Khi đã tu tập lớp này xong mới tiến lên lớp trung thiện, giới đức. Sau khi đã tu tập xong lớp trung thiện xong quý thầy mới tiến lên lớp tu tập  hậu thiện,  là giới tuệ.

Đó thì quý thầy thấy nó phải có từng bước, từng bước. Cũng như bây giờ thí dụ như cái lớp mà sơ thiện là cái lớp giới hạnh, mà cái lớp giới hạnh thì quý thầy biết rằng đó là cái lộ trình của cái người tu sĩ, mà giờ qúy thầy còn ở trong cái chiếc áo của người cư sĩ, còn gia duyên còn làm những công việc, còn bao nhiêu nghề nghiệp để sinh sống thì thử hỏi quý thầy không có thực hiện được cái lớp đó, mà giờ quý thầy ngồi cái lớp giới đức để tu thiền định có được không? À như vậy là quý thầy không có học cái lớp tiểu học mà nhảy lên trung học học thì ngồi đó chỉ ngó thôi chứ làm gì, người ta cho bài ra chỉ còn có nước cắn ngòi bút chứ làm sao mà làm. Đó, thì quý thầy thấy cái điều đó là một cái điều quý thầy đã lạc ở trên con đường tu tập. Cho nên cái ba y một bát mà mình vẫn chưa xong mà mình vội mình ngồi tu thiền thì chẳng qua mình vào hang quỷ, chứ thiền gì mà thiền đúng được. Bởi vì đức hạnh của con người là cái giới hạnh là phải dẹp tất cả đời sống của thế gian mới đi vào con đường này được.

 

Bởi vậy đến giới tuệ, quý thầy mới thấy cái lực của giới tuệ, nó tuyệt vời không thể nào tưởng tượng được. Bởi vì người ta phải dẹp hẳn cái thế gian, cái đời sống của thế gian,  hoàn toàn là người ta thực hiện cái đời sống của bậc tu sĩ rồi. Do đó mới đến giới tuệ này, chúng ta mới thấy cái sự siêu việt của con người chứ đâu phải là tầm thường. Cho nên muốn đi được vào cái chỗ này mà quý thầy còn sống ở trong cái thế gian thì thử hỏi làm sao mà quý thầy được. Cho nên cái lớp sơ thiện mà không được thì làm sao mà cái lớp mà đại học, cái lớp mà giới tuệ được, cái lớp mà hậu thiện được, đâu có phải chuyện dễ đâu.

Lẽ ra người dạy đạo tu hành không thể dạy mênh mang như thế này được.Nghĩa là đối với Thầy, là một người mà dạy đạo thì không bao giờ mà dạy mênh mang như thế này nhưng vì cái giáo án tu tập của đức Phật đã có sẵn mấy ngàn năm. Nghĩa là cái giáo án của đức Phật đã để lại trong kinh sách của chúng ta mấy ngàn năm rồi, chứ không phải là ít, 2541 năm chứ đâu phải ít, thế mà đến bây giờ chưa có ai sắp xếp lại được những cái thứ lớp này. Cho nên ở đây thì vì vậy mà Thầy phải dạy mênh mang như vậy, chứ còn lẽ ra mà dạy đạo là dạy tùy theo từng căn cơ của mỗi người. Giờ đến đây là phải sống đúng cái hạnh của người tu, nghĩa là phải bỏ hết của cải tài sản, dẹp hết nghề nghiệp, đến đây chỉ ôm bát đi xin thôi. Cái đó là cái giới hạnh thứ nhất, chấp nhận được thì vô tu, không chấp nhận được thì thôi. Chứ còn tu lơ mơ mà như thế này á, thì tốn của đàn na thí chủ, chứ có lợi ích gì đâu, nó có đi đến chỗ nào được đâu. Cho nên khi mà chấp nhận đời sống xuất gia tu hành rồi thì phải ba y, một bát rồi. Đó là cái giới hạnh

Về cái giới đức thì bắt đầu bây giờ mình đã ly được rồi thì ngay đó giới đức mình có thể tiếp tục mình tu được rồi, đâu có gì khó đâu. Thì quý thầy thấy cái điều kiện tu tập phải rõ như vậy, còn bây giờ Thầy dạy mênh mang như thế này thì thử hỏi có ai trong lớp mình có giới đức được chưa? Chưa! Phần nhiều thì chúng ta đang ở trong lưng chừng chứ chưa phải là rõ nét đâu, khó lắm chứ không phải dễ đâu.

Nhưng vì giáo án tu tập của đức Phật đã có sẵn mấy ngàn năm nhưng chưa ai sắp xếp, có lớp lang có kĩ thuật, thấp cao cho rõ ràng để người tu tập được dễ dàng,  vì thế Thầy phải sắp xếp có lớp lang, có kĩ thuật nên mới dạy mênh mang như thế này. Vả lại, nếu Thầy không làm điều này thì nhìn trước nhìn sau còn có ai làm được, và làm sống lại giáo lý của đức Phật. Nghĩa là bây giờ nhìn trước, nhìn sau thì Thầy thấy chưa có một vị thầy nào, chưa có một người nào mà có thể gánh vác cái trọng trách này được. Cho nên buộc lòng Thầy phải dạy cách thức mênh mang như thế này. Chuyện mà các thầy chưa tu tới mà phải nói gọi là dạy mênh mang đó, vì phải tu tới đâu là dạy tới đó chứ không dạy cái kiểu này được.

 

Cho nên, ngày xưa đức Phật dạy đệ tử của ngài cũng vậy, khi tu đến đâu thì Ngài dạy tới đó. Mà người nào chưa tu tới đâu thì Ngài chưa có dạy tới những cái mà chưa có thể mà dạy cho họ được. Còn bây giờ vì những cái điều kiện, nó có những cái điều kiện cần phải làm cho nên Thầy phải làm mà thôi, chứ dạy như thế này nhiều khi gieo vào trong tâm tư của quý vị những cái tưởng giải trong đó không à, rồi những cái tưởng tượng của các vị trong đó không à, chứ không phải là cái tốt lành gì hết. Cho nên Thầy không có mong muốn làm cái điều này.

Cho nên từ cái ngày mà thầy tu hành xong, Thầy ra thất á. Thầy không bao giờ thầy muốn viết một bài kinh nữa, Thầy đã hiểu biết những cái lầm lạc đó, vì viết bài kinh là giết người ta chứ chưa phải là độ người ta đâu. Bởi vì người ta, khi mà người ta hiểu nó hay á, thì người ta bị dính nó rồi. Khi mà người ta chưa tu tới đó, người ta tập chưa có căn bản, đầu chưa có mà người ta tập người ta thấy cái hay đó bắt đầu người ta tập cái đó, thì cái tưởng của người ta nó sanh ra. Nó sanh ra thì nó là ma chướng của họ chớ đâu phải chuyện dễ. Cho nên cái viết kinh sách là một cái tai hại.

Cho nên thời đức Phật, Ngài không có viết kinh sách, và người nào dạy tới đâu là tu tới đó. Rồi sai thì Ngài nhắc nhở, chớ cũng không cho ai mà lấy lá buông hoặc lấy lá thốt nốt mà ngồi mà viết chữ lên đó hết để mà ghi nhớ lại như bây giờ đâu. Còn bây giờ chúng ta ghi nhớ vậy, nó làm cho cho đầu óc của chúng ta không có sống độc cư, không có sống trầm lặng được. Thường thường là chúng ta hay quên, mà chúng ta tu tập, vốn tu tập chứ không phải vốn để nhớ. Tu tập để giải thoát chứ không phải để nhớ một cái bồ chữ đó đâu, một cái tủ đựng kinh sách đó đâu.Cho nên chúng ta vốn để nhớ, nhớ mà cái tâm của chúng ta trở thành một cái tủ đựng kinh sách. Từ đó cái giải thoát nó không có, mà nó chỉ toàn là có cái tri kiến mà thôi. Đó là cái tai hại mà khi mà Thầy dạy đạo thày biết cái này rất là rõ ràng, không phải là một cái chuyện đơn giản.

Vì vậy, mà về cái vấn đề giáo lý của nhà Phật. Bây giờ phải sắp xếp mà nhìn trước, nhìn sau thì ai là cái người mà làm cái này. Cho nên Thầy buộc lòng phải làm mà làm với cái sự bất đắc dĩ của mình, chứ không phải làm với cái sự mà cầu danh, cầu lợi ở trong này đâu. Thầy chỉ mong có người tu hành chứng đạo, chứ không phải mong cho người ta có kiến thức hiểu biết như thế này đâu. Cho nên, cái viết ra là một cái tai hại rất lớn. Cái nói ra khi mà người ta chưa tới là một điều tai hại cho tư tưởng, làm hư hoại tâm hồn của họ, làm hư hoại tư tưởng của họ. Còn hiểu rồi, nó dính mắc ở trong đó, nó khó mà giãy dụa, nên họ đâu còn mà thanh thản được. Họ bị cái lời nói của Thầy, họ bị những dòng chữ của Thầy làm cho chi phối tâm hồn của họ. Cho nên họ đâu còn là một tờ giấy trong sạch nữa, họ bị Thầy gạch mực ở trong đó quá nhiều rồi. Cho nên những cái điều này là cái điều mà bất đắc dĩ Thầy phải làm thôi.

Bây giờ quý thầy bắt đầu tu, học tập Giới tuệ.

Khi tu tập Giới đức xong thì toàn thân của quý thầy chỗ nào cũng được thấm nhuần, thuần tịnh, trong sạch. Nghĩa là khi mà tu tập Giới Đức rồi thì thân tâm của quý vị nó thuần tịnh, nó thấm nhuần, rất là trong sáng và thanh tịnh, rất là sáng suốt. Nghĩa là lúc bấy giờ khi mà Giới Đức mà  thực hiện xong rồi thì nó thuần tịnh lắm! Tâm hồn của quý vị nó không còn ô nhiễm một chút gì ở thế gian, nó không còn có khởi một sự ham muốn dục lạc của thế gian, mặc dù là có bao nhiêu sức cám dỗ của nó cũng không lôi cuốn được quý vị nữa. Cho nên nó gọi là thuần tịnh, thấm nhuần, thuần tịnh, trong sáng. Đó, thì bắt đầu bây giờ quý vị mới học Giới Tuệ thứ nhất của cái tâm này đây!

“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”.

Như vậy nghĩa là lúc bây giờ cái tâm của quý vị nó đang ở trong cái trạng thái như vậy đó. Những cái danh từ mà Thầy chỉ đọc ra đây để cho quý thầy nghe được cái tâm của mình như vậy đó. Thầy đọc lại một lần nữa để quý thầy xét cái tâm của mình khi đã tu Giới Đức xong thì luôn luôn cái tâm của quý vị bao giờ nó cũng ở trong cái trạng thái này:

Với tâm định tĩnh - rất định tĩnh, không có gì làm cho nó chao động được hết, thuần tịnh - thuần là thanh tịnh, nó không còn bị cái gì mà dơ bẩn ở trong đó, cho nên nó không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến - nhu là mềm, nhuyến là nó mềm dẻo, dễ sử dụng - cái tâm của quý vị bây giờ dễ sử dụng, sai sao nó làm vậy hết, nó không bao giờ có chỗ cứng đầu cứng cổ như bây giờ đâu, vững chắc - luôn luôn nó rất vững chắc, cái sự nhu nhuyến đó nó mềm dẻo vậy chứ nó rất là vững chắc, nó không có bị chao động, nó bình thản, nó thản nhiên, nó thanh thản, nó không cái gì làm mất cái sự bình thản, thản nhiên của nó được. Đó là lúc bây giờ các vị đã học tu tập được cái Giới Đức rồi thì cái tâm của quý vị nó đến ở mức độ này. Mà nó đến ở mức độ này thì quý vị mới tập luyện được cái Giới Tuệ, chứ còn nếu không thì quý vị không bao giờ mà thực hiện được cái Giới Tuệ này đâu.

“Lúc bây giờ vị Tỳ kheo dẫn tâm hướng đến Chánh trí, Chánh kiến”. Bây giờ chúng ta mới dẫn tâm, tâm nó được thanh tịnh như vậy rồi thì quý vị mới dẫn cái tâm của quý vị đến Chánh trí - tức là trí chân chính của quý vị, rồi cái Chánh kiến - cái hiểu biết chân chính của quý vị thì vị ấy biết rõ, biết rất rõ. Nghĩa là người đó mà dẫn cái chánh trí với chánh kiến của mình thì biết rất rõ:

“Thân này của ta là do sắc pháp, do bốn đại mà thành, do cha mẹ sanh mà có, do nhờ cơm cháo nuôi dưỡng mà lớn, nhưng nó lại vô thường, biến hoại, phiền toái, đoạn diệt, hoại diệt. Trong thân này chỉ có thức uẩn là bị trói buộc, là bị quên mất”.

Nghĩa là khi người đó mà có sức định tĩnh của tâm như vậy rồi thì hướng tâm đến Chánh trí thì bây giờ mới nhìn thấy cái thân này nó rõ ràng như vậy và biết được cái thức nó đang bị trói buộc trong cái thân này, nó đang bị trói buộc ở trong đó và nó bị lãng quyên mất đi và bây giờ nó đang hiện ra được. Đó, thì bây giờ mới thấy được cái chỗ mà Thức thức nó đã từ lâu chúng ta nói thân ngũ uẩn của chúng ta mà, Sắc – Thọ - Tưởng – Hành – Thức đó, thì cái Thức này từ lâu nó nằm ngủ yên đó, nó bị trói buộc, cột chặt, không làm việc gì được hết. Tất cả  mọi “thằng khác” thì làm việc, còn riêng nó thì nó nằm im lìm đó, nó như là ngủ quên vậy, như người ta không có nhớ nó được vậy. Thì đó là khi mà chúng ta dùng cái sức định tĩnh của tâm chúng ta mới nhìn thấy được cái Thức của chúng ta nó đang bị ngủ quên, bị trói buộc từ lâu tới giờ vậy đó.

Bây giờ là lúc cần thiết dùng đến nó, nó sẽ làm các phận sự mà ta sai bảo trong khi tu tập Giới Tuệ. Đó, bây giờ nhìn nó mình thấy nó từ lâu bị trói buộc, nó bị bỏ quên lãng đi, vì vậy bây giờ mình mới cần thiết mình mới dùng nó để cho mình sai nó làm những phận sự sau này, cho nên mình sai nó cái gì thì nó cũng nghe theo hết.

Như vậy là khi mà chúng ta dùng được cái Chánh kiến, Chánh trí chúng ta mới quan sát lại nó, khi mà tâm chúng ta đã ở trong cái thanh tịnh, cái thuần tịnh này thì chúng ta mới có sai được cái Thức thức của chúng ta, mới dậy nó làm việc ở trong cái Giới Tuệ của nó mới được.

“Ví như một hòn ngọc lưu ly bảo châu đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Một sợi dây được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hoặc màu nâu chúng ta đều nhìn thấy rõ sợi dây ấy màu gì, rõ ràng, không sai một chút nào”.

Nghĩa là đức Phật ví như cái lúc mà cái tâm của chúng ta thuần tịnh như vậy mà chúng ta hướng đến chánh trí, chánh kiến mà thấy cái Thức của chúng ta bị trói buộc, bị ngủ quên, giống như chúng ta xỏ một sợi dây qua một hàng ngọc bảo châu trong suốt, cho nên sợi dây màu vàng là chúng ta thấy vàng, màu xanh là chúng ta thấy xanh, màu đỏ chúng ta thấy đỏ, nó không có thấy màu khác và không có mờ mịt chút nào hết. Đó là đức Phật đem cái ví dụ như vậy để chúng ta thấy rằng cái tâm mà chúng ta thuần tịnh rồi thì chúng ta mới dùng cái tri kiến và cái chánh kiến, cái chánh trí của chúng ta, chúng ta thấy được cái Thức của chúng ta, thấy được cái thân này vô thường, biến hoại, nó luôn luôn là bị hoại diệt, thay đổi, nó làm cho chúng ta phiền toái, đau khổ và đồng thời cái mà chúng ta đang cần dùng nó thì nó bị bỏ quên đi. Đó là cái Thức thức của chúng ta bị bỏ quên đi, chúng ta không thấy, nó bị trói buộc, nó bị bỏ quên, nó không có làm việc gì được hết. Bây giờ là lúc chúng ta cần thiết phải đánh thức nó dậy, phải dựng nó dậy để sai bảo nó làm công việc trong sự tu tập Giới Tuệ của chúng ta. Nghĩa là chúng ta muốn tu tập Giới Tuệ thì chúng ta phải đánh thức Thức của chúng ta dậy thì chúng ta mới tu tập được Giới Tuệ. Còn Thức thức chúng ta không có dậy thì không có tu tập được Giới Tuệ. Đó, quý thầy hiểu chưa?

Mà khi đó chúng ta phải thực hiện Thiền định rồi thì chúng ta đánh thức nó dậy. Mà Thiền định tức là Giới Đức, mà Giới Đức xong thì mới có được cái này. Còn nếu mà Giới Đức chưa xong thì thử hỏi làm sao có được.

Hôm nay quý thầy đã thấy từng cái chỗ mà chúng ta vô cái đoạn đầu chúng ta đã đánh thức được cái Thức thức của chúng ta bằng cái chánh trí, bằng cái chánh kiến của chúng ta.

“Đó là Giới Tuệ thứ nhất trong Giới luật của đức Phật mà cũng là một kết quả tu tập thiết thực hiện tại của vị ấy”. Nghĩa là cái vị ấy mà tu được tới chỗ này là cái Giới Tuệ của vị ấy đã đánh thức được cái Thức thức dậy rồi. Đó là một cái kết quả thiết thực, hiện tại của vị ấy. Cái kết quả rất là vi diệu. Đó là cái Giới Tuệ thứ nhất. Đánh thức được cái Thức đó là lúc bây giờ mới dùng cái chánh trí và cái chánh kiến mà đánh thức nó dậy, làm cho nó bật dậy bằng cái gì? Bằng cái pháp hướng.

Đó là Giới Tuệ thứ nhất chúng ta phải tiếp tục ở trên con đường tu tập để đánh thức cái Thức thức của chúng ta dậy, để sai cho nó tiếp tục ở trên con đường mà thực hiện những cái Giới Tuệ của nó, tu tập những cái Giới Tuệ của nó.

“2. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ kheo chú tâm hướng đến sự hóa hiện một thân do ý làm ra, vị ấy tạo ra một thân khác từ thân này, cũng là Sắc pháp, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào, cũng ví như người rút một cây lao ra khỏi vỏ lao, cũng ví như người rút thanh gươm thanh kiếm ra từ bao kiếm, cũng ví như người lột xác một con rắn”.

Đó, khi mà chúng ta đến đây chúng ta thực hiện cái Giới Tuệ của chúng ta mà cái Giới Tuệ thứ hai này là chúng ta sai cái Thức thức của chúng ta phải làm việc. Bây giờ từ ở trong một cái thân này phải biến ra một cái thân khác, hiện ra một cái thân khác mà làm cho được đầy đủ cái thân đó cũng là Sắc tướng cũng vậy, rồi các căn nó cũng vậy, lớn nhỏ mắt tai mũi miệng nó cũng y như cái thân của chúng ta mà nó hiện ra nó ngồi ý như hai người ngồi như là một. Như vậy là chúng ta đã thực hiện được cái Giới Tuệ thứ hai của chúng ta. Đó là cái phần thứ hai để nói lên cái sức làm chủ, sai khiến của cái trí tuệ của chúng ta lúc bấy giờ điều khiển thân và tâm của chúng ta nó phải thể hiện qua cái trí tuệ của chúng ta chứ không còn làm sai khác được cái ý của chúng ta.

“Đó là Giới Tuệ thứ hai trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được một kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu và thù thắng”.

Các thầy nghĩ coi bây giờ từ chỗ Thiền định mà nhập Tứ thiền rồi mình ngưng các hành trong thân của mình rồi, mình ngưng hơi thở mình rồi thì bắt đầu cái tâm của mình nó thuần tịnh rồi thì bắt đầu mình dùng tri kiến mình đánh thức cái Thức thức của mình dậy. Mình đánh thức cái Thức thức mình dậy rồi bắt đầu mình sai khiến nó, bắt đầu mình dùng nó. Bây giờ nó sử dụng cái thân này phải biến ra một thân nữa y như nhau, cũng có các căn mắt tai mũi miệng thân ý đàng hoàng, mặc y áo giống nhau, thì nó ra nó ngồi đây một cái thân nữa. Lúc bây giờ quý thầy thấy cái Giới Tuệ nó như thế nào? Có thù diệu không? Có vi diệu không? Mà nó thiết thực, nó cụ thể, nó hiện tại chứ không phải nói cái chuyện mù mờ, vu vơ đâu! Lẽ ra cái này khi nào mà quý thầy tu tới đây Thầy mới giảng, và đồng thời giảng thì phải có một người thực hiện cho được. Còn cái này thật ra thì đây là xếp thành một cái giáo án chứ nó chưa phải là quý thầy tu tới. Chứ trong thời đức Phật nói ra là có chứng minh liền tức khắc chứ không phải nói vu vơ như thế này! Còn bây giờ mà Thầy làm trò xiếc cho mấy thầy coi thì cái điều đó là cái điều quá là ngu si chứ chưa phải là người biết Phật pháp. Cũng như bây giờ thí dụ như nói về Tẩu hỏa nhập ma thì phải có một người bị thì cái đó là chứng minh cho cụ thể, còn như hồi nãy Thầy đã nói lẽ ra thì không được giảng mênh mông như thế này mà chỉ giảng những cái nào người ta tu tập mà thôi. Còn giảng mênh mông như thế này nhiều khi nó làm cho người ta bị lạc hướng mất đi, người ta tưởng tượng quá nhiều.

Nói đến cái Giới Tuệ này thì Thầy thấy nó là siêu việt, người thế gian không thể lường được. Thành ra Thầy nói tới đây dường như người ta nói Thầy nói láo, nhưng mà nó là một sự thật! Nó không phải là nói láo đâu! Bởi vì kinh sách của Phật còn đặt, nhưng mà bây giờ cái người thể hiện ra thì chưa có ai thể hiện cho nên người ta vẫn nói đó là Phật cũng là nói láo chứ không phải là không nói láo. Nhưng mà Thầy đã biết cái điều nói láo hay không nói láo,Thầy biết chứ làm sao ai biết được.

Cho nên hôm nay vì cái giáo án mà buộc lòng Thầy phải giảng hết những cái gì mà Phật đã dạy ở trong Kinh, không thể nào mà thiếu một cái gì và bỏ một cái gì được. Vì đây là một cái đường đi của đạo Phật đã để lại cho chúng ta là một cái gia tài rất quý báu mà không giảng hết thì Thầy thấy có một cái lỗi của mình là nhìn tới nhìn lui không ai làm được cho nên phải nói.

Bây giờ về cái phần Giới Tuệ thứ ba.

“3. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm hướng đến Dục Như Ý Túc, (Bây giờ tới Tứ Như Ý Túc đó, bây giờ là Dục Như Ý Túc đó), vị ấy chứng được Dục Như Ý Túc, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân  hiện ra một thân”.

Trước thì đức Phật chỉ ra Giới Tuệ đầu tiên là một thân hiện ra một thân, các căn mắt tai mũi miệng đều y, quần áo đều mặc y giống nhau không khác. Đó là mới có biến ra một thân mà thôi. Các thầy thấy phải đi tuần tự chứ không thể nào mà nghe nói cái biến ra nhiều thân một lần được đâu! Chúng ta phải tập tuần tự, cho nên khi mà chúng ta hướng ra một thân biến ra một thân được rồi thì bắt đầu bây giờ mới tới giai đoạn chúng ta một thân biến ra nhiều thân. Bây giờ nó mới tới Dục Như Ý Túc đó! Chứ hồi đầu nó chưa phải Dục Như Ý Túc đâu! Chúng ta mới tập luyện cho cái Thức thức của chúng ta sống dậy biết điều khiển mà thôi, chứ chưa phải hoàn toàn là đủ cái Dục Như Ý Túc đâu! Bây giờ bắt đầu chúng ta mới tới nữa thì chúng ta mới thấy được cái Giới Tuệ thứ ba này chúng ta mới thấy một thân nó hiện ra nhiều thân.

“Một thân hiện ta nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân”, nhiều thân nó gộp lại một thân rồi một thân nó hiện ra nhiều thân, “hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách đá, qua tường, qua núi như đi ngang qua hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không chìm như đi trên đất liền, ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm rờ mặt trăng mặt trời, những vật có đại oai lực, có đại thần lực”.

Như vậy nghĩa là đức Phật ví dụ như mặt trăng mặt trời nó cao xa, nó lớn như vậy đó mà bàn tay của chúng ta vói tới chúng ta rờ mặt nó được. (Kiểu này chắc rờ mặt trời chắc cháy tay). Có đại oai thần như vậy có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên. Lúc bấy giờ cái người đó có thể bay đến cõi phạm thiên được.

“Ví như một người thợ gốm khéo tay với đất sét, khéo nhồi nhuyễn, có thể làm các loại đồ gốm tùy theo sở thích”. Đức Phật ví như người tu tới Giới Tuệ thứ ba này họ cũng như một người thợ đồ gốm khéo tay, với cục đất sét mà nhồi rất nhuyễn rồi thì cái người thợ gốm này muốn làm cái chum, cái chén, cái gì họ làm cũng được hết, thậm chí họ nắn cả tượng Phật hoặc bình sứ, bình bông cái gì họ khéo tay cũng làm được hết. Thì ví dụ như chúng ta tu tới đó bây giờ chúng ta muốn làm cái gì cũng được hết, không phải 72 phép biến như là Dương Tiễn, cũng như là Tôn Ngộ Không đâu! Có 72 à! Còn ở đây nó vô lượng chứ đừng có nói! Quý thầy phải hiểu rằng đường lối của đạo Phật không phải tập luyện có 72 phép biến đâu! Mà đây là chúng ta muốn cái gì được cái nấy hết, cho nên ví như một ông người thợ gốm mà với cục đất sét ông nhồi rất nhuyễn rồi bây giờ ông chỉ có nắn, ông muốn nắn con bò, con trâu, con voi, con ngựa gì cũng được hết à. Một người đạt đến chỗ này thì họ muốn nắn cái gì cũng được hết như vậy đó!

“Ví như một người thợ ngà voi khéo tay với ngà voi đẽo dũa có thể làm các loại đồ ngà tùy theo sở thích”. Nghĩa là người thợ đó khéo tay thì lấy cái ngà voi đó họ làm cái gì cũng được, không có gì khó khăn đối với ông hết. “Ví như người thợ vàng (thợ kim hoàn đó) khéo tay với vàng khéo tinh luyện có thể làm tất cả đồ trang sức bằng vàng tùy theo sở thích”. Đó là đức Phật ví dụ như những người làm ra những điều đó thì cũng như là chúng ta đang ở trong một cái tâm định tĩnh như vậy mà chúng ta dùng cái thần lực của chúng ta, cái oai lực của chúng ta, chúng ta có thể làm tất cả những cái gì cũng được hết chứ không có khó khăn gì hết.

Đó là Giới Tuệ thứ ba trong Giới luật của đức Phật. Đây là cái Giới Tuệ thứ ba thôi chứ chưa phải là nó hết những Giới Tuệ của Phật đâu! Mới bắt đầu nghĩa là bước qua đầu cái Giới Tuệ là chúng ta thấy có những sự vi diệu tuyệt vời rồi đó.

“Đó là Giới Tuệ thứ ba trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ lường”.

Bây giờ cái đầu óc của chúng ta nghĩ không có ra được cái này đâu! Thầy nói bây giờ mấy người nghĩ sao mà cái thân này biến ra ngàn thân, mấy người nghĩ đi! Cách thức nào làm cho được đi! Nghĩ sao cho ra không? Thế mà người ta đạt được đến cái mức độ này người ta làm ra được. Nó đâu phải là chuyện khó đâu, nhưng mà bây giờ lấy cái đầu óc phàm phu mà nghĩ thì chắc chắn là không có được rồi. Cho nên khó nghĩ lường, ở đây nó vi diệu, thù thắng mà thiết thực, hiện tại chớ không phải là đợi ngày mai ngày mốt đâu! Bây giờ muốn là bây giờ được, mà ngày mai muốn là ngày mai được. Muốn hồi nào là được hồi nấy. Phật lại nói thêm: “Tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu”. Trong thời gian hiện tại mà thiết thực, cụ thể chứ không phải nói mơ hồ như cái bóng ma, bóng khói, như đám mây mờ mờ ảo ảo đâu! Nó là một sự thật như vậy!

“4. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy Tỳ kheo dẫn tâm đến Thiên nhĩ thông. Tỳ kheo với Thiên nhĩ thông thanh tịnh, siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng nói của chư Thiên và của loài người dù ở xa, ở gần cũng đều nghe rõ không sai. Ví như một người đang đi qua đường nghe tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng loa, tiếng xập xả, tiếng kèn, tiếng kẻng. Người ấy nghe biết rõ ràng. Cũng vậy, vị Tỳ kheo tâm định tỉnh hướng tâm Thiên nhãn thông nghe thấy rõ ràng cũng vậy.

Đó là Giới Tuệ thứ tư trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ lường”.

Quý thầy thấy khi tâm người ta như vậy thì người ta dẫn tâm người ta đến Thiên nhãn thông hoặc là Thiên nhĩ thông, hoặc là Tha tâm thông, tất cả những cái này đều là những điều kiện mà những vị đó đã tu tập ở trong Giới Tuệ và họ đã đạt được.

“5. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỳ kheo dẫn tâm và hướng tâm đến Tha tâm thông”.

Ở đây Thầy nhắc nhở quý thầy hai danh từ: Dẫn tâm và hướng tâm. Dẫn tâm là như thế nào và hướng tâm là như thế nào? Sau này Thầy dạy tới các pháp Thầy sẽ giải thích chỗ này cho. Còn bây giờ thì chúng ta học suông qua thôi. Bây giờ hướng dẫn đến Tha tâm thông đây!

“Tỳ kheo sau khi dẫn tâm đi sâu vào tâm chúng sanh (hướng tâm, dẫn tâm mình đi sâu vào tâm chúng sanh) của loài người, với tâm thuần tịnh, trong sáng, vị ấy biết được như sau: Tâm của chúng sanh có Tham biết là có Tham, tâm không có Tham biết là tâm không có Tham. Tâm của chúng sanh có Sân biết là tâm của chúng sanh có Sân, tâm không có Sân biết là không có Sân. Tâm của chúng sanh có Si biết là tâm có Si, tâm không có Si biết là tâm không có Si. Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú, tâm tán loạn biết là tâm tán loạn. Đại hành tâm biết là đại hành tâm, không phải đại hành tâm biết là không phải đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng biết là tâm chưa vô thượng, tâm vô thượng biết là tâm vô thượng. Tâm Thiền định biết là tâm Thiền định, tâm không Thiền định biết là tâm không Thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm giải thoát, tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát”.

Đó, khi mà được cái Giới Tuệ thứ năm này thì quý vị làm cái gì, tu tập đúng sai thì vị Thầy người ta đều biết hết nhưng mà người ta không nói ra thôi, người ta lần lượt điều khiển, hướng dẫn cho người tu đúng thôi, chứ người ta biết quý vị còn ở trong tâm nào người ta biết hết chứ không phải là người ta không biết. Người ta sử dụng được cái tâm của người ta cho nên người ta phải thông suốt quý vị hết. Chứ nếu người ta không sử dụng được cái tâm của người ta thì làm sao người ta biết quý vị! Nhưng người ta không muốn làm quý vị bất mãn, không muốn làm cho quý vị trái ý, người ta tùy thuận quý vị nhưng người ta lần lượt hướng dẫn nhỏ nhẹ để cho quý vị sửa lần lần để đi vào con đường đúng mà thôi! Bởi vì người tu người ta hiểu biết cái kiến chấp của quý vị nó rất nặng, nó không phải dễ dàng một ngày một bữa mà nó cởi ra được, mà phải tuần tự người ta khéo léo để giúp cho quý vị cởi ra.

“Ví như một người đàn bà soi mặt mình trong một tấm gương trong sáng suốt, nếu mặt có tì vết liền biết mặt có tì vết, nếu mặt không có tì vết thì biết là không có tì vết, da mặt trắng biết là da mặt trắng, da mặt đen biết là da mặt đen, mặt có nốt ruồi biết là mặt có nốt ruồi, mặt không có nốt ruồi biết là mặt không có nốt ruồi, mặt có vết thẹo biết là mặt có vết thẹo, mặt không có viết thẹo biết là không có vết thẹo”.

Đó, đức Phật ví dụ như một người đàn bà cầm cái gương soi vậy, thấy cái mặt mình như thế nào thì biết rõ, thì cái người có được cái Giới Tuệ thứ năm này thì người ta dẫn tâm vào tâm của chúng sanh, vào tâm các thầy, các thầy tu như thế nào người ta biết hết chứ không phải người ta không biết đâu! Đó là như chúng ta soi một cái gương cũng như người phụ nữ mà soi một cái gương trên mặt vậy đó! Họ biết họ rõ như thế nào thì cũng ví như một người mà người ta đã có được Giới Tuệ thứ năm này thì người ta thấy cái tâm chúng sanh nó cũng như vậy đó!

“Đó là Giới Tuệ thứ năm trong Giới luật của đức Phật vị này đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.

Chúng ta thấy tới Giới Tuệ thứ năm chúng ta đã thấy được thông suốt được những cái tâm sai khác của chúng sanh như thế nào, tu được hay không người ta biết hết, tu đúng tu sai người ta biết hết chứ không phải là người ta không biết.

“6. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu uế, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy vị ấy dẫn tâm hướng tâm đến Giới tuệ Túc mạng minh – đó bây giờ mới hướng đến Túc mạng minh đây, vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rõ ràng sanh tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp trong xã hội như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia ta được sanh ra tại chỗ nọ, tại chỗ ấy ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp trong xã hội như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây. Như vậy như vị Tỳ kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và chi tiết rất rõ ràng”.

 Đó, đức Phật ví dụ như chúng ta dùng Túc mạng minh thì chúng ta thấy nhiều đời nhiều kiếp mình như vậy đó chứ không là thấy ít đâu!

“Ví như một người đi từ làng mình đến làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa và từ làng này trở về làng mình, làng của mình, người ấy nghĩ: Ta từ làng của mình đi đến làng kia, nơi đây ta đã đứng như thế này, đã ngồi như thế này, đã nói như thế này, đã yên lặng như thế này. Từ nơi làng nọ ta trở về làng của ta.

Đó là trí tuệ thứ sáu trong Giới luật của đức Phật vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.

Đó thì quý thầy thấy người ta thấy nhiều đời nhiều kiếp người ta như là mình đi từ làng này đến làng khác rồi mình trở về làng mình như vậy. Nghĩa là thấy từ quá khứ rồi trở về hiện tại là cái vị đó cũng như mình ngồi tu đây bắt đầu mình trở về quá khứ nhiều đời nhiều kiếp…

Bây giờ bắt đầu chúng ta tiếp tục bài học vừa rồi là thuộc về Giới Tuệ.

“Đó là Giới Tuệ thứ sáu trong Giới luật của đức Phật. Vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.

“7. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy Tỳ kheo dẫn tâm hướng tâm đến Giới Tuệ về sanh tử của chúng sanh, tức là Thiên nhãn minh. Vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh, vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do Nghiệp của chúng tạo ra. Này các con! Người thường hay làm điều ác hạnh về thân, lời nói và ý nghĩ do vô minh, không rõ theo tà kiến, phỉ báng xuyên tạc giới luật và pháp môn của các bậc Thánh hiền, chạy theo tà kiến, tạo các tà nghiệp, nuôi sống tà mạng… Những người này sau khi hết phước báu hiện tại, khi thọ, khi thân hoại mạng chung để lại cho thế gian chứng nghiệm một sự đau khổ của các vị ấy, cực kỳ đau khổ. Đến khi mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ địa ngục. Hiện giờ họ đang phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ. Còn ngược lại những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời nói và ý nghĩ, không theo tà kiến, luôn luôn theo chánh kiến của Phật dạy nên không phỉ báng, thêm bớt Giới luật và giáo pháp của đức Phật, thường theo Giới luật của Phật không làm khổ mình khổ người, không làm các tà nghiệp, không nuôi dưỡng bằng những thực phẩm bất tịnh có ác pháp, có sự chết chóc đau khổ bằng sinh mạng của chúng sinh. Những người này sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, cõi trời, cõi người, hưởng đầy đủ phước báu, không có thiếu thốn một vật gì cho cuộc sống. Với Thiên nhãn minh thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh rất rõ ràng, ví như một người ở trên tòa lầu đài có thượng đài giữa ngã tư đường, môt người có mắt nhìn xuống thấy rất rõ, sẽ thấy những người đi vào nhà, từ nhà đi ra đi qua đi lại trên đường, ngồi ở giữa ngã tư đường hay trèo lên đài thượng rất rõ ràng không thiếu một chi tiết nào hết.

Đó là Giới Tuệ thứ bảy trong Giới luật của đức Phật vị ấy đã đạt được kết quả Giới Tuệ này thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.

“8. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, thanh thản như vậy, vị Tỳ kheo dẫn tâm hướng tâm đến Lậu tận trí, vị ấy biết như thật đây là Khổ, biết như thật đây là nguyên nhân của Khổ, biết như thật đây là Khổ diệt, biết như thật đây là con đường đưa đến Khổ diệt; biết như thật đây là những Lậu hoặc, biết như thật đây là nguyên nhân của những Lậu hoặc, biết như thật đây là sự diệt trừ các Lậu hoặc, biết như thật đây là con đường đưa đến diệt trừ các Lậu hoặc. Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi Dục lậu, thoát khỏi Hữu lậu, thoát khỏi Vô minh lậu, đối với tự thân đã giải thoát như vậy sự hiểu biết khởi lên một cách rất rõ ràng “Ta đã giải thoát. Sanh đã tận, phạm hạnh đã xong, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại này không còn có đời sống nào khác nữa!”.

Đó là cái Tuệ thứ tám của vị này nó hiện ra thì đó chứng đạt được cái lý Tứ Diệu Đế. Cho nên trong Ngũ lực thì đức Phật có nói là cái Tuệ lực là cái gì? Tuệ lực là Tứ Diệu Đế. Cho nên thấy thật, chứng thật, thấy rõ. Khi mà chúng ta nghe nói Tứ Diệu Đế chúng ta nghe nói Khổ, đời là khổ, rồi nguyên nhân Khổ, rồi cảnh giới thoát Khổ, rồi tám cái nẻo để đưa đến cảnh giới thoát khổ đó thì chúng ta hiểu biết như vậy, đó chúng ta mới ngộ được cái chân lý của đạo Phật mà thôi. Còn ở đây khi mà cái Giới Tuệ của chúng ta thực hiện được là cái Lậu tận minh thì chúng ta sẽ thấy được cái nguyên nhân Khổ, khổ thật chứ không phải là ngộ mà đây là chứng cái lý Khổ. Cho nên Phật mới dạy là khi mà cái trí tuệ đó, cái Giới Tuệ đó mà nó hiện ra thì chúng ta thấy: đây là Khổ, đây là chứng thật cái sự khổ chứ không phải nói đây là Khổ như chúng ta biết nó khổ thường thường đâu! Mà đây là cái sự chứng thật! Biết như thật tức là biết thật sự, thấm cái lý ở trong đó do sau những ngày tu tập cái Định vô lậu mà nó thấm nhuần, nó mới thấy như thật được, thì đây là nguyên nhân của khổ thật, chúng ta biết rõ là lòng ham muốn khổ thật, nhưng bây giờ chúng ta hiểu nó là biết cái nguyên nhân khổ là lòng ham muốn, nhưng mà chúng ta đoạn trừ không được, nhưng mà thời gian chúng ta nghiền ngẫm đặt cái niệm đó trước mặt mà chúng ta nỗ lực thực hiện cái niệm đó bằng cái pháp hướng. Tùy theo cái pháp mà chúng ta nổ lực thực hiện, tâm chúng ta nó thấm được cái lý đó, nó chứng được cái lý đó cho nên bây giờ mới gọi là cái trí tuệ Vô lậu, nó thực hiện ra chúng ta mới thấy được nó như thật, biết nó như thật như vậy! Cho nên mới biết đây là khổ thật, đây là nguyên nhân khổ thật, đây là cái nơi hết khổ, đây là cái chỗ mà chấm dứt khổ và đây là con đường dẫn đến hết khổ.

Và kế đó thì đức Phật lại nhắc lại thêm cho chúng ta thấy bốn cái Khổ đế này rõ ràng nhưng mà đức Phật xác định cho chúng ta thấy bốn cái Khổ đế nó nhằm vào những cái lậu hoặc của chúng ta để chúng ta thật thấy nó.

Biết như thật đây là những lậu hoặc, biết như thật đây là nguyên nhân của những lậu hoặc, biết như thật đây là diệt trừ các lậu hoặc, biết như thật đây là còn đường đưa đến diệt trừ các lậu hoặc”.

Thì chúng ta sống ở trong cuộc sống chúng ta hàng ngày là chúng ta phải thấy cái mấu chốt của lậu hoặc là nó như thế nào. Cái lậu hoặc là cái khổ, mà nguyên nhân của lậu hoặc là lòng ham muốn của chúng ta, mà diệt hết lòng ham muốn thì sẽ hết cái lậu hoặc, mà hết lậu hoặc thì đó là Niết bàn, là cái cảnh hết khổ. Mà muốn được như vậy thì chúng ta phải thấy được con đường đưa đến hết cái khổ đó tức là đoạn diệt cái lòng ham muốn thì con đường đó thì chúng ta thấy muốn cho hết cái lậu hoặc ở trong tâm của chúng ta thì con đường đó là Bát chánh đạo – Tám cái nẻo mà chúng ta cần phải tu tập.

Cho nên ở đây cái Giới Tuệ nó giúp cho chúng ta biết rằng, chỉ bảo cho chúng ta biết rằng con đường nào sẽ đưa chúng ta đi đến tận diệt cái lậu hoặc. Sau khi học xong Giới luật thì bắt đầu chúng ta sẽ học đến tám cái nẻo này, và tám cái nẻo này thì chúng ta phải biết từ cái Chánh kiến cho đến Chánh định, mà từ Chánh kiến đó chúng ta phải tu như thế nào, phải tập luyện như thế nào ở trong những cái Chánh kiến. Bắt đầu chúng ta phải tu những cái Định gì đối với Chánh kiến đầu tiên như bây giờ chúng ta tu cái…Nói ví dụ như bây giờ chúng ta bắt đầu tu thì chúng ta phải tu trong Chánh kiến, phải phòng hộ cái Chánh kiến của chúng ta. Phòng hộ Chánh kiến chúng ta tức là phòng hộ mắt tai mũi miệng thân ý của mình. Tức là Phật gọi là Thánh phòng hộ sáu căn.

Như vậy mới đầu vô mà được Chánh kiến là phải phòng hộ mắt tai mũi miệng của mình, cho nên tâm của chúng ta bây giờ nó không bị nhiễm trước, không bị đắm trước các đối tượng, các pháp cho nên khi phòng hộ nó thì chúng ta đâu thấy vật nào. Sau đó thì chúng ta phải dùng trên cái mắt tai mũi miệng của chúng ta, chúng ta phải tu tập cái sức tỉnh thức để khi chúng ta nhìn mọi vật mà chúng ta thấy không có cho cái tâm của chúng ta làm cái duyên trở thành sự dính mắc của vật đó, thì đó là chúng ta phải tu Chánh niệm tỉnh thức. Cho nên phòng hộ thì trước tiên, mà đây là mới có tu cái nẻo Chánh kiến mà chúng ta phải phòng hộ nó rồi.

Rồi đến khi mà mắt của chúng ta nhìn các vật được, trước đó phòng hộ để cho chúng ta luyện tập cái sức tỉnh thức. Sau khi tập luyện tỉnh thức được thì chúng ta mới cho mắt của chúng ta nhìn các vật, do đó chúng ta thấy nó tỉnh thức trong mọi vật cho nên nó đã làm cho tâm chúng ta không còn khởi ham muốn mọi vật nữa. Vì vậy lúc bấy giờ chúng ta đã tu hai cái Định, và hai cái Định đó để giúp chúng ta trong Chánh kiến, và bây giờ chúng ta mới quét sạch, trong cái nhìn của chúng ta nó sẽ sanh ra lậu hoặc. Do đó chúng ta phải tu cái Đinh vô lậu nữa! Từ đó nó còn có những cái khó khăn của nó vi tế nữa, cho nên chúng ta phải đi đến cái Định Hiện tại an lạc trú để chúng ta quét sạch lậu hoặc, chứng được Tam minh mới quét nó ra được, cho nên con đường đi chúng ta phải ba bốn thứ Định trong một cái Chánh kiến. Từ cái Chánh kiến rồi thì cái Chánh Tư duy thì cũng phải tu như vậy. Rồi Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh niệm, Chánh định chúng ta cũng phải tu trong mấy cái định này chứ đâu phải là tu có một cái không.

Rồi còn phải tu trong cái hành tướng, cái nhân tướng, cái đặc tướng của cái Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh định, Chánh tinh tấn, chớ đâu phải là có một cái không. Cho nên giảng về Tứ diệu đế đâu phải là đơn giản mà nói suông suông được. Cho nên nó còn rất nhiều điều mà Thầy cần phải nói để cho quý thầy biết rằng con đường của đạo Phật rất là kỹ lưỡng, trên bước đường hướng dẫn cho một người tu đạt đến chỗ giải thoát hoàn toàn của tâm họ. Chớ đâu phải là dạy sơ sơ trên cái nhân tướng là nói mình phải thấy đúng hiểu đúng như thế này thế khác bằng thiện pháp như Thầy dạy cách thức đơn giản thì người ta chỉ có được một chút ít nào giải thoát mà thôi, làm cho tâm hồn họ được an ổn mà thôi, chớ không thể nào như một vị tu hành phải hiểu cho rõ cho đúng.

Đến đây là cái Giới Tuệ thứ tám mà chúng ta nhận ra được những cái lậu hoặc chúng ta còn hay là hết.

“Ví như tại dãy núi lớn có một hồ nước thuần tịnh, trong suốt tận đáy hồ, không cấu nhiễm, một người có mắt đứng trên bờ hồ sẽ nhìn thấy con hến, con sò, con ốc, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi lội qua lại hay đứng lại một chỗ rất rõ ràng không có mờ mịt chút nào, không có chỗ nào còn che dấu được mắt họ”.

Đức Phật ví dụ khi mà tâm của chúng ta mà cái Lậu tận minh nó hiện ra rồi thì cái tâm của chúng ta bây giờ nó thuần tịnh, nó trong cũng như là cái nước hồ mà trong suốt mà chúng ta đứng trên hồ rồi nhìn xuống đáy hồ thấy tất cả những vật ở dưới đáy hồ rất rõ ràng. Phật ví dụ tâm chúng ta đến cái chỗ Giới Tuệ thứ tám này thì nó trong suốt như vậy đó. Nó thanh tịnh trong suốt, nó không còn một chút tham dục nào trong đó, nó không còn một chút bất tịnh nào trong đó, cho nên nó trong suốt như vậy! Khi tu đến đây rồi thì cái tâm của chúng ta dễ sử dụng tất cả mọi thứ, điều khiển nó như thế nào thì nó làm được tất cả như thế nấy.

“Đó là Giới Tuệ thứ tám trong Giới luật của đức Phật, vị ấy đã đạt được kết quả Giới Tuệ này thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.

Tóm lại, tám Giới Tuệ trong đạo Phật là tám loại trí tuệ thanh tịnh, siêu việt trong kinh Sa môn quả. Đó là ở trong kinh Sa môn quả nó nếu ra tám cái loại trí tuệ đó như vậy. Nhưng ở đây chúng ta còn phải hiểu thêm cho đúng khi một người thọ trì tu tập đúng pháp của Phật là phải bắt đầu từ Sơ thiện, Trung thiện và Hậu thiện.

Sơ thiện là Giới luật, còn gọi là Giới bổn Patimokka. Trung thiện gọi là Thiền định, còn gọi là Bốn thiền, hay gọi là Tứ thánh định. Nếu gọi Thiền định của đạo Phật như vậy chưa đủ. Ta nên xem lại Giới Đức của đạo Phật có phân làm 10 loại Định. Nghĩa là trong cái Thiền định của đạo Phật chia làm 10 loại Định chứ không phải như chúng ta nói rằng Bốn cái Thiền định đó đâu!

Có 10 loại Định. Vậy thì 10 loại Định nó như thế nào? Thầy xin kể ra cho quý thầy nghe.

Thứ nhất, Định niệm hơi thở. Đó là cái thứ nhất mà cái người tu bắt đầu vào để mà tu tập là phải ổn định hơi thở. Vì khi mà chúng ta ăn uống điều độ mà chúng ta giữ được hơi thở điều hòa thì cơ thể chúng ta không có bệnh tật. Như quý thầy biết rằng vốn đạo Phật ra đời là một y vương để trị bệnh cho chúng sanh. Bệnh chúng sanh có hai loại bệnh: Bệnh thứ nhất là thân bệnh. Bệnh thứ hai là tâm bệnh. Mà đức Phật dạy cho chúng ta để trị thân bệnh thì bằng cách ăn uống điều độ ngày 1 bữa chớ không được ăn nhiều và hơi thở được ổn định, điều hòa thì cơ thể không có bệnh đau. Cái thứ hai thì đức Phật dạy cho chúng ta trị tâm bệnh.(BBT:CĐ,21B,E00:44:54)

BĂNG SỐ 22

Thì lâu ngày ăn uống không được thì sẽ bệnh; một người giận dữ, tức giận, thì cũng ăn uống không ngon do đó tạo cho cơ thể rối loạn và từ đó dễ sinh bệnh. Cho nên những cái sân hận, phiền não, đau khổ, lo lắng, suy tư, là cái tâm bệnh. Cái tâm bệnh thì lấy gì mà trị? Đức Phật nói cái tâm bệnh lấy trí mà trị, lấy sự hiểu biết mà trị nó. Cho nên ở đây hầu hết để trị cho chúng ta cái tâm bệnh vô lậu này thì phần nhiều là lấy trí tuệ, mà lấy trí tuệ thì như quý thầy đã học rồi, trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó. Bởi vì trí tuệ nó làm cho giới luật thanh tịnh, mà giới luật nó làm cho trí tuệ thanh tịnh. Cho nên người có trí là người có giới luật mà người không có trí là người không có giới luật, dù là người đó là người có thông minh gì đi nữa mà đời sống họ không đúng giới hạnh, không đúng giới luật của Phật dạy thì đương nhiên người đó là người không có trí. Cũng như quý thầy thấy, mọi vị ăn phi thời tức là người đó không có giới luật, mà không có giới luật tức là không có trí tuệ, mà không có trí tuệ thì người ăn phi thời sẽ có nhiều bệnh tật đem đến đau khổ cho họ.

Và khi mà chạy theo sự ăn uống đó là họ bị dục lạc của ăn uống cám dỗ làm cho tâm hồn của họ khi mà ăn cực khổ hoặc là khi không có ăn thì họ phải sanh ra đau khổ, phải sinh ra phiền não, phải sinh ra những cái ác pháp. Đó thì như vậy là người không có trí mà chỉ sống theo dục lạc cho nên luôn luôn tạo mình khổ, tức là tạo cho mình có bệnh, tâm bệnh hoặc là thân bệnh. Cho nên ở đây cái Định niệm hơi thở vốn mục đích nó hợp với cái sự ăn uống điều độ của chúng ta thì giúp cho thân chúng ta không bệnh, cho nên nó là định thứ nhất của Đạo Phật để trị thân bệnh của chúng ta. Còn các cái định khác, còn 9 cái thứ định này vốn để trị tâm bệnh của chúng ta. Đó thì Định niệm hơi thở nó hợp với đời sống ăn uống của chúng ta hàng ngày thì nó trị được cái thân bệnh. Còn 9 cái loại định sau này nó hợp lại để mà nó trị cái tâm bệnh của chúng ta. Biết như vậy thầy sẽ kể tiếp cho quý thầy nghe.

Thứ hailà Thánh định phòng hộ sáu căn.Bởi vì phòng hộ sau căn là một cái loại định làm cho mắt tai mũi miệng thân ý chúng ta thanh tịnh, và oai nghi luật nghi, cái luật nghi mà Giới hạnh làm cho chúng ta rất rõ nét mà người nào nhìn vào cũng biết là cái người đó Giới luật hẳn hoi. Một người tu sĩ mà đi ra đường ngó qua ngó lại thì biết rằng người đó không phòng hộ sáu căn. Mà không phòng hộ sáu căn thì tức là người đó đã phạm Giới. Không thể nào trong ý của họ không phạm Giới. Họ đi mà họ ngó qua ngó lại thì cái ý họ bị dính kẹt ở trong những cái đối tượng của các pháp thế gian thì làm gì họ cũng bị phạm Giới hết. Mặc dù là Thân – Khẩu họ không phạm, đời sống họ không phạm nhưng Ý họ vẫn bị phạm Giới. Đó là Thánh Định phòng hộ sáu căn.

Thứ balà Thánh Định Chánh niệm Tỉnh thức, nghĩa là người tu sĩ luôn luôn phải tỉnh giác, phải tỉnh thức, không có được mê mờ, cho nên khi đi họ luôn luôn tập trung dưới bàn chân họ, họ tránh tất cả những loài chúng sanh và đồng thời họ giữ được Chánh niệm là không hại chúng sanh, không làm đau khổ chúng sanh, tức là không giết hại chúng sanh, tức là giữ giới không sát hại chúng sanh. Cho nên Giới luật ngay từ chỗ bước đi của họ chứ không phải họ cầm dao họ giết con vật hoặc cầm dao giết người mới gọi là sát sanh, mà chính vô tình đạp chết chúng sanh vẫn là thọ lấy cái Giới phạm Giới sát sanh chứ không phải không.

Thứ tư, Chánh Định Thiểu dục tri túc. Nghĩa là phải dùng cái sức định tâm hết sức mới giữ được cái Thiểu dục tri túc, chứ không thể nào mà thiếu Thiểu dục tri túc, thiếu cái định tâm mà giữ gìn được Thiểu dục tri túc đâu! Cho nên ở đây thứ tư là Thánh định Thiểu dục tri túc, Phật gọi nó là Thánh định. Cái Thiểu dục tri túc là của bậc Thánh chứ không phải phàm phu mà thiểu dục tri túc được. Quý thầy cứ nghĩ ba y một bát như thế này, sống ngày có người cho ăn mà có ngày không có người cho ăn vẫn thấy mình biết đủ, chưa phải là thấy mình thiếu sót đói khổ. Quý thầy có nghĩ được cái điều đó không? Cuộc sống của một người tu sĩ mà đến cái mức độ đó thì quý thầy thấy nếu mà ngoài đời sống thì không ai mà chịu nổi hết. Người ta nói quá khổ, không thể nào cái khổ nào hơn cái khổ của những bậc Thánh này. Vì vậy cho nên Thiểu dục tri túc nghe hai danh từ thì dễ lắm, nhưng mà sống không phải dễ. Khi vào trong rừng không có cơm ăn, phải ăn lá cây rừng vẫn thấy Thiểu dục tri túc. Khi đau bệnh mà không có thuốc thang vẫn thấy Thiểu dục tri túc, trước cơn ngặt nghèo mà chúng ta vẫn thấy Thiểu dục tri túc. Không đòi hỏi thì lúc bấy giờ mới thấy Thiểu dục tri túc phải là Thánh định, chứ còn không Thánh định thì không thể nào chịu nổi trước cái cảnh thân và tâm quá khắc khổ trong cuộc sống. Đó gọi là Thánh định Thiểu dục tri túc, mà ở đây đã có kê ra từng cái giới đức của nó ở trong đó. Mỗi cái giới đức thiểu dục tri túc là chứng tỏ qua một cái sự tu tập rèn luyện mình mới đạt được cái Giới Đức đó chứ không phải dễ. Cho nên Định nó thuộc về Giới đức.

Thứ năm, Thánh Định Vô lậu. Làm cho lậu hoặc chúng ta sạch cho nên gọi là Thánh Định Vô lậu.

Sáu, Thánh Định Sơ thiền. Còn gọi là Định chói sáng, hay gọi là Định sáng suốt. Đó, cái Sơ Thiền nó còn có cái tên gọi là Định chói sáng hay là Định sáng suốt mà Thầy thường nhắc quý thầy ngồi lại mà giữ tâm thanh thản, giữ tâm vô sự đó. Đó là cái Định Sơ Thiền đó. Chứ không phải là gì, vì có ly dục ly bất thiệp pháp thì mới nhập được Sơ Thiền, mà có nhập được Sơ Thiền thì ngồi nó mới thanh thản, còn không thì làm sao mà thanh thản được. Cho nên cái Định Sáng suốt, cái Định chói sáng đó là cái định của Sơ Thiền. Vì vậy ở đây Phật gọi là Thánh Định Sơ Thiền. Chứ không phải phàm phu mà nhập được cái Định này đâu!

Kế đó thứ bảy thì Phật gọi là Thánh Định Nhị Thiền. Nghĩa là diệt Tầm Tứ, không tác ý, không phải chuyện dễ làm của phàm phu cho nên chỉ có bậc Thánh mới có thể làm được điều đó.

Thứ tám, Thánh Định Tam Thiền. Thánh Định Tam Thiền chỉ có bậc Thánh mới ly tất cả những trạng thái của ma tức là mười tám cái trạng thái của Tưởng. Mỗi cái trạng thái của Tưởng nó khởi lên là nó làm cho chúng ta có niềm vui mừng, mà cái niềm vui mừng đó nó làm cho chúng ta mà Phật gọi là “Ly hỷ, trú xả”. Mỗi cái trạng thái của Tưởng khởi lên làm cho thân chúng ta đang bị đau khổ dày vò do đó chúng ta phải ly cho được thì như vậy chúng ta mới nhập cho được Tam Thiền. Mà ly mười tám trạng thái của Tưởng này thì mới nhập được Tam Thiền cho nên mới gọi là Thánh định. Thậm chí như  giấc mộng, chiêm bao chúng ta cũng phải ly sạch ra, nếu còn mộng thì chưa nhập Tam Thiền. Cho nên cái sức tỉnh của người đó dù trong lúc ngủ họ phải tỉnh, mà không tỉnh thì phải có chiêm bao, mà chiêm bao tức là họ chưa ly được cái trạng thái của Tưởng. Chưa ly được trạng thái của Tưởng thì không bao giờ nhập được Tam Thiền. Cho nên khi ngủ, cái người mà tu đến cái chỗ mà vượt qua mười tám cái Tưởng này thì người đó không còn mộng mị. Mà không còn mộng mị thì ngủ phải tỉnh thức chứ không thể ngủ mê như cái người tầm thường phàm phu được. Tới cái chỗ Thánh Định Tam Thiền này chúng ta mới biết rằng cái chỗ ngủ và chỗ thức của chúng ta nó không có cái chỗ sai khác chút nào hết.

Thứ chín,Thánh Định Tứ Thiền. Đây, quý vị thấy cái Thánh Định Tứ Thiền là cái chỗ mà ngưng hoàn toàn hơi thở chúng ta, mà chỗ đó là cái chỗ thanh tịnh nhất mà chúng ta thực hiện được Tam Minh đó. Đó là chỗ Thánh Định Tứ Thiền, không phải kẻ phàm phu mà nhập được Tứ Thiền nổi đâu! Không phải chuyện dễ, hơi thở đang thở như thế này mà ngưng lại các hành hoạt động trong hơi thở, đang co bóp, phổi chúng ta đang thở ra thở vô, thế mà nó hoàn toàn ngưng mà chúng ta không chết thì không phải là những cái thiền của bậc Thánh mới làm được sao? Đó là cái chỗ làm chủ được sống chết của thân của chúng ta, cho nên chúng ta nếu mà muốn bỏ thân này thì đều phải nhập vào Tứ Thiền thì mới bỏ thân này được.

Thứ mười,Thánh Định Diệt Thọ Tưởng. Nghĩa là cái Định cuối cùng là định thứ mười là Diệt Thọ Tưởng. Cái Định này nó giữ cái thân của quý vị ngàn năm không bị hoại diệt, nó giữ cái thân của quý vị ngàn năm không bị hoại diệt. Nghĩa là Thánh Định Tứ Thiền nó chỉ có 49 ngày, nếu quá 49 ngày thì cái thân của quý vị sẽ bị hoại diệt, vì nó còn ở trong cái Thức thức, nó chưa ly khỏi cái thân Ngũ uẩn của nó, Tứ Thiền nó chưa lìa khỏi cái thân Ngũ uẩn của nó, nó còn ở trong cái Thức thức của nó để nó sử dụng cái biết để mà trở về cái trí tuệ Tam Minh của nó, tức là cái Giới Tuệ của nó cuối cùng. Cho nên nó không giữ được cái thân của nó lâu dài, chỉ có 49 ngày thì nó bị hoại diệt. Nhưng chúng ta nhập tới 49 ngày tự cái thân của chúng ta nó phải phục hồi sự sống lại, nó sẽ bung ra chứ nó không ở trong Tứ Thiền. Cho nên chúng ta chẳng ngại vấn đề đó. Nếu chúng ta nhập Tứ Thiền đến đó nó tự bung ra, nó không nằm ở trong đó cho chúng ta chết đâu. Còn Diệt Thọ Tưởng Định thì cái Thánh Định thứ mười này nó giúp cho chúng ta nhập vào cái Định này cả trăm năm, cả ngàn năm thân này bất hoại, không hư, không hôi, không thúi, luôn luôn lúc nào nó cũng giữ gìn cái thân nó vững chắc như đá, không mòn, không hao, không có một vật gì phá hoại cái cơ thể này được. Đó là cái Định giữ gìn cái cơ thể tối đa và tất cả những cái bộ phận ở trong thân đó đều hoàn toàn ngưng hoạt động, thậm chí như cái Ý căn của chúng ta cũng hoàn toàn ngưng hoạt động. Đó là cái bộ óc. Còn Tứ Thiền thì cái bộ óc của chúng ta, cái Ý căn của chúng ta vẫn còn hoạt động, nhưng các phần khác của bộ óc đều đình chỉ như cái phần mà hoạt động của bộ óc chúng ta về Ý thức của chúng ta thì ngưng hoạt động. Về cái phần Tưởng thức ngưng hoạt động, chỉ còn cái phần của Thức thức là nó đang hoạt động mà thôi. Phân biệt được như vậy chúng ta mới thấy rằng cái Định của Tứ Thiền thì cái Ý căn của chúng ta còn hoạt động trong cái phần của Thức thức, chứ không hoạt động của phần Tưởng thức và Ý thức của chúng ta. Còn Thánh Định Diệt Thọ Tưởng thì cái Ý căn của chúng ta ngưng hoạt động hoàn toàn. Cho nên Phật gọi nhập Diệt Thọ Tưởng Định là cái Ý hành phải ngưng, phải tịnh chỉ, phải tịnh chỉ ý hành thì mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định, mà tịnh chỉ Ý hành tức là Ý căn ngưng hoạt động. Quý thầy hiểu cái chỗ đó. Thì như vậy quý thầy mới biết mười cái loại Định. Trong khi người ta dạy Thiền Định chỉ có một thứ Thiền Định mà ở đây Phật dạy chúng ta tới mười cái loại Thiền Định. Con đường của đạo Phật nó không đơn giản đâu! Nó không phải có một loại định nào mà chúng ta có thể hoàn tất được cái sự giải thoát cho chúng ta, mà cả mười loại mà chúng ta phải tu chứ không có bỏ một cái loại nào được hết.

Cho nên hiện giờ quý thầy tu hơi thở cũng là tốt, mà tu làm mọi công việc biết hành động làm mọi công việc cũng là tốt chứ đâu có gì sai, mà quý vị phòng hộ sáu căn, giữ gìn sáu căn của mình cũng là tốt, đâu có gì sai. Mỗi Giới luật của quý thầy học được quý vị giữ được một cái Giới luật nào đó cũng đều nhằm ở trong mười loại Định này chứ không ngoài mười loại Định đâu mà sợ rằng chúng ta tu lạc. Chỉ có chúng ta bị lạc vào những cái trạng thái của Tưởng mà nó khiến cho thân của chúng ta rối loạn, trở thành điên khùng, trở thành bệnh Thiền chứ không có gì khác hết. Chỉ có chỗ từ Nhị Thiền đến Tam Thiền cái đoạn đường đó là quý vị sẽ lạc vào những cái Thiền ma mà trở thành thân bệnh, tâm bệnh mà thôi. Nếu mà vượt qua được cái chỗ từ Nhị Thiền đến Tam Thiền mà vượt qua mười sáu cái loại của Tưởng uẩn thì quý thầy sẽ được an toàn trên bước đường tu tập, không có sợ điên sợ khùng gì nữa hết. Nó chỉ có một đoạn đường đó mà người ta chết điêu chết đứng ở đó mà không đi tới đâu được hết.

Gồm chung mười loại Định này gọi là Giới Đức. Nghĩa là mười cái loại Định này thì nó được cái tên gọi là Giới Đức, còn gọi là Giới Tâm hay gọi là Thiền Định, còn gọi là Trung Thiện. Những cái tên của nó để gọi cho chúng ta biết mười cái loại Định đó nó có những cái tên của nó như vậy để cho nó phù hợp với đạo Phật, đúng với cái nghĩa của đạo Phật. Bởi nó đứng ở vị trí nào thì nó có một cái tên xứng hợp với vị trí nó.

Như vậy là chúng ta phải hiểu khi mà bốn cái loại định này nó đứng ở trong cái vị trí của Định thì nó gọi là Thiền Định, mà nó đứng ở trong Giới luật thì gọi nó là Giới Đức, mà nó đứng ở trong các pháp thiện – nhân quả thì nó gọi là Trung thiện. Bởi vậy nó đứng ở vị trí nào thì nó có một cái tên xứng hợp ở vị trí nấy, như nó ở vị trí nhân quả thiện ác thì nó gọi là Trung thiện. Đó, Thầy đem cái ví dụ để quý thầy thấy rất rõ, nếu nó ở trong cái nhân quả thiện ác thì nó gọi là Trung thiện, mà nó ở cái vị trí của Giới luật thì nó gọi là Giới Đức, nếu mà nó ở trong cái vị trí của Giới luật thì phải gọi nó là Giới Đức, nó ở vị trí tâm định, trong sạch thì nó gọi là Thiền định. Nói chung nó là Giới Đức thanh tịnh tâm. Nó có một cái tên chung của nó gọi là Giới Đức thanh tịnh tâm.

Đó quý thầy thấy có những cái tên của nó, nó đặc biệt có những cái tên riêng của nó nhưng nó có những cái vị trí đứng của nó, nó có những cái tên riêng của những cái vị trí đứng của nó. Như vậy là quý thầy nghe nói Giới Đức thì quý thầy hiểu nó là cái gì rồi. Mà nghe nói Giới Đức thì quý thầy đứng ở trong nhân quả biết nó là cái Trung thiện rồi, biết nó là cái tên gì rồi mà nếu gọi chung nó thì Đức Giới thanh tịnh tâm. Đó thì quý vị có cái biết rằng cái Đức Giới này nó làm cho cái tâm của quý vị thanh tịnh mà định tỉnh, rất là sáng suốt.

Còn về 25 Giới hạnh như Thầy đã dạy ở trên còn gọi là Giới bổn Patimokka. 25 cái hạnh mà mình không làm nghề nghiệp này không làm nghề nghiệp kia đó, không sát hại chúng sanh đó. Tất cả những cái ở trên thì nó thuộc về Giới bổn, sau này chúng ta ta sẽ học nó đây để chúng ta bổ túc thêm cho 25 cái Giới hạnh cho nó rõ ràng là oai nghi tế hạnh của người tu sĩ. Học Giới bổn rồi chúng ta mới thấy được 25 Giới hạnh này nó còn thêm những hành động mà chúng ta chưa có học, có thu, nhập, có hiểu biết, chưa toàn diện. Khi mà học hết Giới bổn Patimokka này rồi thì chúng ta có đầy đủ hơn về những cái Giới hạnh. Hạnh Giới Ly trần tâm. Nghĩa là 25 Giới hạnh này còn có một cái tên gọi là Hạnh Giới Ly trần tâm, nghĩa là cái Giới hạnh này nó ly cái tâm thế tục của chúng ta, nó ly cái đời sống thế tục của chúng ta, chúng ta không còn có ở trong thế tục nữa, không còn sống như cách sống thế tục nữa. Cho nên nó có cái tên gọi là Hạnh Giới Ly trần tâm, nó có cái tên của nó, 25 Giới hạnh này, gọi là Hạnh Giới ly trần tâm. Chúng ta không còn cái hành động sống như các người thế gian nữa, cho nên nó ly ra tất cả hết cái tâm trần của chúng ta, nó lìa ra hết. Cho nên nội cái Giới hạnh không là chúng ta đã lìa cái thế gian rồi.

Còn về 8 Giới Tuệ như trong Kinh Sa môn quả đã dạy thì chưa đủ. Nó có 13 Giới Tuệ. Bây giờ cái Giới Tuệ chúng ta phải xác định, hồi nãy Thầy xác định cái Định cho nó đủ để 10 cái Định. Còn bây giờ nói hồi nãy chúng ta có học 8 Giới như trong Kinh sa môn quả đã dạy thì nó chưa có đủ đâu, mà chính nó phải đủ là 13 cái Giới Tuệ chứ không phải là có 8 Giới Tuệ đâu. Nhưng mà theo Kinh Sa môn quả thì chúng ta nêu ra 8 cái Giới Tuệ, cho nên nó có sự tóm tắt lại để cho chúng ta ngắn gọn, để không nó dài dòng cho nên ở đây nếu phải rõ thì nó là 13 Giới Tuệ chứ không phải là có 8 Giới Tuệ. Chúng ta phải kể ra cho rõ, nghĩa là Thầy phải nói ra cho rõ để cho quý thầy biết như thế nào là 13 cái Giới tuệ này mà ở trong Kinh Giới - Kinh Sa môn quả thì dạy có 8 cái Giới Tuệ mà thôi. Vậy thì nó làm sao mà có được 13 Giới Tuệ đây? Chúng ta phải thấy:

1. Bốn Như Ý Túc.

2. Lục Thông.

3. Tam Minh.

Quý thầy thấy nó rõ ràng là Bốn Như Ý Túc, mình muốn như thế nào nó làm theo như thế nấy hết mà bốn cái lận chứ không phải một cái Như Ý Túc đâu. Cho nên nó là bốn, mà Lục thông là sáu cái thông: Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông,… cho đến Tha Tâm Thông là sáu cái, mà sáu cái cộng với bốn không phải là 10 sao? Rồi ba cái Tam Minh nữa. Ba cái nữa là phải 13 không? Cho nên phải nói đủ là 13 cái Giới Tuệ. Thì như vậy là chúng ta thấy cộng lại là nó đủ 13 chứ không phải như trong Kinh Sa môn quả nói đâu. Trong Kinh Sa môn quả chỉ nói cái Thiên Nhĩ Thông. Thầy nhắc lại cái Thiên Nhĩ Thông ở trong này là khi cái người đạt được cái Thiên Nhĩ Thông mà siêu nhân rồi thì cũng nghe cái tiếng ở cách xa ngàn dặm đó cũng như mình đi ra ngoài đường mình nghe người ta đánh trống, thổi kèn, đánh xập xả y như vậy, rõ ràng như vậy, mà cái tiếng người ta nói chuyện ở đâu mình vẫn nghe được như vậy.

Đó là đức Phật nói về Lục thông thì đức Phật có nêu lên có một cái mà thôi để nói nó là cái Trí, cái Tuệ, cái Giới Tuệ của nó ở trong cái cho nó gọn thành lại 8, nhưng mà lôi ra cho đủ là nó phải 6 cái Lục thông này mới đủ chứ không phải một cái được. Cho nên ở đây nó là 13 Giới Tuệ này còn gọi là Trí Tuệ viên mãn. 13 Giới Tuệ này cũng còn gọi nó với cái tên là Trí Tuệ viên mãn vì nó viên mãn cái trí tuệ này nó phải đủ là 13 cái Giới Tuệ này, chứ một cái mà nói bây giờ chúng tôi có Tam Minh thôi thì cái người đó chỉ hiểu quá là cạn, đơn sơ quá đơn sơ. Cho nên ngoại đạo nó cũng có Lục thông thì ở trong cái chỗ tu hành của chúng ta cũng thực hiện Lục thông chứ đâu phải không có Lục thông. Mà chúng ta còn có Tứ Như Ý Túc, muốn cái gì được như nấy, còn chúng nó chỉ có Lục thông mà thôi. Cho nên nó luyện có Lục thông mà nó không có Tứ Như Ý Túc thì nó đâu có bằng cái phương pháp của Phật, mà nó chưa có Tam Minh nữa thì nó đâu có sánh được bằng Phật. Nó chỉ có Lục thông mà thôi. Cho nên cái Lục thông của nó là do luyện tập để tạo cho có cái Lục thông bằng Tưởng pháp chứ không phải bằng cái chánh pháp đâu, bằng cái Tưởng. Vì vậy mà khi mà đến Tưởng thì chúng ta dùng Lục thông này được, cũng như đồng cốt mà, nó chỉ dùng cái Tưởng mà nó biết nhà mình cái gì gì nó rõ hết, nó không có nói sai. Thì quý thầy thấy cái vấn đề Lục thông của ngoại đạo là Lục thông nó ở trong trạng thái của Tưởng uẩn mà nó thực hiện ra. Còn Lục thông của chúng ta là ở chỗ tâm thanh tịnh, sáu căn mắt tai mũi miệng thân ý của chúng ta do ly ác pháp và ly dục cho nên nó thanh tịnh mà nó như cái hồ nước trong. Vì vậy mà cái Lục thông này tự thanh tịnh mà thông suốt ra chứ không phải là do chúng ta luyện tập ở chỗ Tưởng. Biết như vậy thì chúng ta mới thấy được cái chỗ tuyệt vời của đạo Phật đối với cái chỗ 13 cái Giới Tuệ này. Cho nên còn gọi nó là Trí tuệ viên mãn, viên mãn tức là đầy đủ, trọn vẹn không còn thiếu nữa. Còn gọi là Trí tuệ siêu việt, nó còn có những cái tên Trí tuệ viên mãn là trí tuệ đầy đủ không còn thiếu, tới 13 cái Giới Tuệ này là Trí tuệ đầy đủ không còn có cái nào nữa thêm nữa được hết. Đó gọi là Trí tuệ viên mãn. Nó còn gọi là Trí tuệ siêu việt, cái trí tuệ này nó điều khiển tất cả những cái mà người ta không có thể nghĩ lường được cho nên nó gọi là siêu việt.

Nói Trí tuệ người ta tưởng lầm là Tri kiến. Bây giờ mình nói Trí tuệ thì người ta nghĩ rằng đó là cái Tri kiến của mình. Có người hiểu bởi vì Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy thì người ta nghĩ như vậy, người ta cho Tri kiến là Trí tuệ, vì tri kiến là Trí tuệ nên người ta phân chia làm 3 Trí Tuệ. Cho nên bây giờ Thầy nhắc là người ta lấy cái tri kiến đó mà người ta cho rằng nó là Trí tuệ cho nên người ta phân chia cái Trí Tuệ đó làm 3 cái Trí Tuệ của chúng ta. Đó là một cái hiểu sai của những người chưa có biết tu. Cho nên vì vậy trong Kinh rõ ràng là ghi như thế này:

1. Văn tuệ.

2. Tư tuệ.

3. Tu tuệ.

Ai mà nghe những người giảng về Trí tuệ đó thì họ phân chia rồi làm Văn tuệ, Tư tuệ, Tu tuệ. Phải không? Văn Tư Tu đó. Cho nên cái này nó chỉ là Tri kiến chứ không phải là cái Tuệ đâu, nó không phải là Trí tuệ đâu. Nó là cái Tri kiến của chúng ta. Nó chưa đạt được cái Tri kiến giải thoát nữa. Cái chỗ mà Văn Tư Tu này nó chưa đạt được cái tri kiến giải thoát của chúng ta nữa. Nó chỉ mới ở cái chỗ Tri kiến mà thôi, tức là cái nơi mà chúng ta tích trữ, tập hợp lại tất cả những sự hiểu biết của Kinh sách, của những người xưa người nay để thành một cái hiểu biết của chúng ta, gọi là Văn tuệ, tức là chúng ta nghe rồi chúng ta tích lũy lại gọi là Văn tuệ. Từ cái chỗ Văn tuệ đó chúng ta suy tư bằng cách này bằng cách khác để làm cho tâm chúng ta giảm bớt sự buồn khổ, như thế này thế khác hoặc là chúng ta suy tư ra để mà chúng ta tìm hiểu thêm ra, thì cái đó đó gọi là Tư tuệ. Tư là suy tư, tư duy, cái suy nghĩ để mà hiểu thêm ra, để mà thấu suốt được cái lý gì đó thì gọi Tư tuệ. Nhưng đó cũng là cái Tri kiến của chúng ta chứ không phải là cái Trí Tuệ.

Còn đến phần Tu tuệ thì ở trong Kinh sách dạy chúng ta lấy một cái sự hiểu biết như bây giờ Phật dạy làm cho chúng ta hiểu biết đó, đó là cái thân chúng ta này, Ngũ uẩn của thân ngũ uẩn chúng ta này là Vô thường, Khổ, Vô ngã này, thì chúng ta lấy cải chỗ hiểu biết đó mà để chúng ta tu tập làm cho thân, cái tâm của chúng ta không có phiền não, không có đau khổ nữa. Vì thấy cái thân vô thường này mình không chấp ngã này, mình không có giận hờn ai nữa này, mình thấy cái thân vô thường này mình không có sợ đau sợ khổ nữa này. Cái mà làm cho mình không có đau khổ đó gọi là lấy cái trí tuệ đó mà tu thì gọi là Tu tuệ. Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu 3 cái trí tuệ này chỉ là một cái Tri kiến của chúng ta thôi chứ không phải gì khác hơn hết. Nó không phải là Trí tuệ siêu việt. Nó cũng không phải là Trí tuệ viên mãn. Nó chỉ là một cái Tri kiến tầm thường của mọi con người trong thế gian này ai cũng có chớ không phải cần tu tập mới có. Nhưng khi mà chúng ta tích lũy thì chúng ta ăn nói nó có lưu loát, nó có hơn cái người không tích lũy. Chúng ta nói ra văn chương bằng cách này bằng cách khác là do vay mượn của kẻ khác nói thì nó hơn là cái người mà không có vay mượn văn chương, cho nên họ nói lời nói bình dân mộc mạc, họ nói không có mượn câu này kia. Nói một hơi chúng ta để một câu kinh Phật ra nói, nói một hơi chúng ta đem câu Nho ra nói thì cái đó là vay mượn của kẻ khác mà làm ra cái chỗ ăn nói của mình cho có vẻ lịch lãm mà thôi. Đó là cái vay mượn.

Cũng như bây giờ chúng ta vay mượn khoa học để chứng minh cho Phật pháp thế này thế kia, do đó Phật pháp có khoa học như vầy như vầy. Đó là cái vay mượn của chúng ta qua những cái khoa học bằng máy móc của người ta tìm ra những cái thực của cái cuộc sống ở trong cái vũ trụ này, do đó chúng ta vay mượn cái đó để chứng minh cho Phật pháp nó cũng thực như vậy. Đó là cái vay mượn mà cái vay mượn đó là cái tri kiến góp nhặt mà nói ra để làm cho chúng ta như một người thông về khoa học, thông về cái này thông về cái kia. Đó là chứng tỏ cái bản ngã chúng ta, do cái tri kiến này mà cái bản ngã của chúng ta càng ngày càng to lớn lên chớ không phải giảm xuống và vô ngã được.

Văn Tư Tu Tuệ này chỉ là một Tri kiến góp nhặt chứ không thể được liệt vào Tam Vô Lậu học Giới – Định – Tuệ của đạo Phật. Bởi vì Giới – Định – Tuệ của đạo Phật nó là một cái loại Giới luật, mặc dù nói là Giới – Định - Tuệ có cái tên riêng nhưng mà sự thật toàn bộ Giới – Định – Tuệ là một cái Giới luật như Thầy hồi nãy đã nói. Giới bổn tức là Giới Hạnh, mà Định tức là Giới Đức, Tuệ là Giới Tuệ. Cho nên toàn bộ của đạo Phật là Giới luật chứ không phải gì khác hơn hết. Vì người dạy Giới luật mà không hiểu được điều này mới thấy Giới là nói riêng, Định nói riêng và Tuệ nói riêng, cho nên dạy giới luật rất là khô khan. Làm cho con người ta học đến Giới luật người ta chán, người ta thấy như một cái giáo điều, như một cái pháp luật khắc khổ trói buộc con người, cho nên người ta sống không có nổi với nó. Còn trái lại ở đây Thầy dạy giới luật nó ở trong Tam Vô Lậu học cho nên Giới – Định – Tuệ nó là một cái Giới luật để đem lại sự giải thoát cho con người. Từ bước đầu vô cái Giới hạnh chúng ta đã thấy giải thoát, cho đến Giới Đức chúng ta thấy cả một sự định tâm vô cùng tuyệt diệu, cho đến cái Giới Tuệ chúng ta không nghĩ lường được cái quyền lực của Giới Tuệ đến cái mức độ cao siêu vô cùng của đạo Phật như vậy.

Cho nên ở đây dạy về Giới luật mà hiểu biết được Giới Kinh, hiểu biết được cái nhân quả của cái pháp môn Giới – Định – Tuệ này thì Thầy nói là người dạy Giới luật rất là linh động, rất là khéo léo, làm cho người nghe càng ngày càng thích và càng ham tu Giới luật hơn. Còn nếu mà cái người mà không hiểu được như vậy dạy Giới luật người ta không bao giờ mà phát triển được Giới luật. Đứng ở trên góc độ mà dạy Giới luật như Thầy thì tin rằng Giới luật sẽ phục hồi rất nhanh và tiến bước trên con đường Giới luật, mọi người người ta khép chặt mình trong Giới luật để người ta thực hiện được cái đời sống giải thoát, người ta không hề sợ khổ mà người ta thấy đó là một cuộc giải thoát thực sự, hoàn toàn là một cuộc cách mạng của con người, làm cho chúng ta làm chủ được cái sinh tử. Từ lâu chúng ta bị sinh tử làm chủ, bây giờ chúng ta đòi lại quyền sinh tử bằng một cái cuộc cách mạng, bằng cuộc cách mạng tức là thay đổi cuộc sống của chúng ta toàn bộ.

Đó thì quý thầy thấy rất rõ nếu mà chúng ta không làm một cuộc cách mạng hoàn toàn thì chúng ta không đòi lại quyền là chủ sinh tử đâu. Đó là cái mục đích của Tam Vô lậu học là như vậy. Mà Tam Vô Lậu học là một cái Định lực của Giới luật nó làm cho chúng ta thay đổi toàn bộ của cuộc cách mạng đời sống của chúng ta. Cho nên quét sạch ra được thì chúng ta mới đạt được cái này, mà không quét sạch không làm cái cuộc cách mạng cho cuộc sống chúng ta thì hoàn toàn chúng ta không đạt được cái sự giải thoát này đâu.

Vì Giới – Định – Tuệ của đạo Phật là ba pháp môn liên hoàn, nghĩa là ba cái pháp môn này coi như nó kết hợp, nó liên hoàn nhau trong một cái Giới luật chứ không phải là hai. Giới sinh Định, Định sinh Tuệ. Không thể tách lìa ba pháp môn này ra từng pháp môn được. Người không hiểu pháp môn này họ hay tách lìa nó ra từng pháp môn, từng pháp môn, Định nó khác rồi Giới nó khác. Người mà hiểu được ba pháp môn này đứng ở trên một cái nền tảng của Giới luật thì hoàn toàn nó là ba pháp môn là Giới luật không gì khác.

Người chưa có kinh nghiệm tu hành trong đạo Phật thì không thể nào liễu giải pháp và liễu giải nghĩa được. Thường họ giảng theo tri kiến phàm phu nên làm lệch nghĩa của Phật dạy. Tri kiến mà họ hiểu là Trí tuệ thì rất là sai lạc, lầm lạc. Người phàm phu ai cũng có tri kiến, nhưng một người tu hành đã giải thoát có còn tri kiến hay không? Nếu mà cái người phàm phu thì luôn luôn họ có tri kiến thì đồng ý rồi, nhưng thử hỏi một người tu hành đã giải thoát rồi thì cái tri kiến họ có còn hay không? Thì ở đây Thầy xin trả lời: Thưa không! Nghĩa là cái tri kiến đó họ hoàn toàn không có. Tại sao vậy? Vì Tri kiến phàm phu đầy dính mắc và uế trược. Nghĩa là cái tri kiến đó đây góp nhặt, đầy kiến chấp, tà kiến, học cái gì mà thấy khá hay thì họ dính vô đó rồi, họ cho đó là cái hay chứ họ chưa biết cái đó là tà kiến, cái đó là đúng cái đó là sai nữa. Họ thấy hay, họ nghe cái câu Kinh đó hay thì họ chấp nhận cái câu đó hay. Họ nghe cái lời của một cổ nhân nào nói hay là họ chấp nhận ngay chư họ chưa biết cái đó là tà kiến hay chánh kiến, họ chưa biết đâu. Cho nên cái người tu hành giải thoát theo đạo Phật xong rồi họ không có tri kiến đó nữa. Thì họ có cái gì mà họ dùng trong những cuộc sống của họ hàng ngày họ còn đang sống. Đến đây Thầy sẽ trả lời để cho quý thầy thấy.

Vì tri kiến phàm phu đầy dính mắc, cái tri kiến, cái sự hiểu biết đó nó đụng cái gì nó dính cái nấy và uế trược, nó rất uế trược. Vậy một người tu đã thành tựu viên mãn có phải họ sống với Trí tuệ hay không? Thưa không! Nghĩa là họ cũng không sống với Trí tuệ. Cái Trí tuệ mà siêu việt họ cũng không có sống đâu. Họ không có sống với cái Trí tuệ đó. Khi họ sử dụng thì họ lấy họ dùng, mà không thì họ hoàn toàn không sống với Trí tuệ đó. Đứng nghĩ rằng khi một người tu chứng họ luôn luôn sống với Trí tuệ. Không. Họ sống với cái gì đây? Vậy thì như thế nào? Nghĩa là họ phải sống như thế nào đây? Hàng ngày họ đang sống với Tri kiến Giải thoát. Bởi vì quý thầy thấy cái tri kiến nó dính mắc, mà Tri kiến Giải thoát nó đâu có dính mắc. Bởi vì tri kiến họ cũng y như cái đầu của chúng ta suy nghĩ sao thì họ cũng suy nghĩ vậy, họ không khác chúng ta nhưng mà mọi vật đến với họ họ không bị dính mắc, họ không bị ô nhiễm từng miếng ăn, không ai gạt họ mà đem đút miệng họ được. Ví dụ như bây giờ Thầy sống với Tri kiến Giải thoát nè, mà một người làm cho Thầy một cái ly nước chanh để đây cho Thầy thấm cổ để mà Thầy thuyết giảng, mà khi Thầy tưởng là nước trong Thầy nếm thử, Thầy biết rằng không phải, đây là nước chanh có đường, đây là cái sự cám dỗ cho nên hoàn toàn khô cổ là khô cổ, nhất định là không uống. Đó là không thể cám dỗ cái Tri kiến Giải thoát của Thầy được. Bởi vì cái tri kiến Thầy biết rõ đây là cái nước có đường mà, thì đâu cám dỗ Thầy được. Mà cái người bị tri kiến, đang sống trong tri kiến thì thấy cái ly nước này thấm cổ mà nghe thông nói cho nó suôn thì thấy thích rồi, ngay cái chỗ ngọt đã đã là cám dỗ vị ta rồi. Còn cái tri kiến Giải thoát là không cám dỗ được cho nên Thầy vẫn sống trong tri kiến mà Tri kiến Giải thoát chứ không phải Tri kiến. Chúng ta phân biệt như vậy!

Cho nên trong Kinh thường chúng ta thường thấy Giới hương, Định hương, Giữ Huệ hương, Giải thoát, Giải thoát Tri kiến hương, có năm loại hương, thì cái người tu sĩ xong viên mãn rồi thì người ta sống ở trong Tri kiến Giải thoát chứ người ta không phải sống ở trong cái Trí tuệ siêu việt đó đâu. Khi sử dụng thì người ta sử dụng, mà khi không sử dụng thì người ta đâu cần sử dụng nó, người ta chỉ cần sống với Tri kiến Giải thoát.

Quý thầy hôm nay mới thấy rõ được cái chỗ, cái bài mà hàng ngày quý thầy tụng kinh niệm Phật đó, bắt đầu cầm ba cây hương lên mà niệm hương thì ngay đó đã nói lên cái chỗ nào sống của quý vị. Cho nên cái Tri kiến Giải thoát là cái hương cuối cùng mà quý vị dâng lên. Chúng tôi hãy sống hàng ngày cái chỗ này nè! Để làm cho tâm chúng tôi thanh tịnh không bị uế nhiễm của những đối tượng phàm phu vật chất. Đó là cái chỗ tu hành của một cái vị mà đã viên mãn. Họ không bị ai lường gạt họ được. Cho nên nó có một cái giải thoát kèm bên cái Tri kiến đó. Còn cái tri kiến kia là cái Tri kiến mà tích tụ, kết tập nó không có Giải thoát đâu mà nó dính mắc, cho nên ở đây Thầy dạy như vậy quý thầy chắc thấy rõ ràng không còn mờ mịt gì nữa hết.

Bởi vậy khi một người tu hành xong luôn luôn họ sống đúng Giới Hạnh, còn gọi là Giới hương, họ sống đúng Giới Đức còn gọi là Định hương, nghĩa là họ sống… Cái hương tức là thơm chứ gì? Các con hiểu không? Cho nên mình niệm hương, mình thắp cây hương lên mình nói chứ không phải đâu! Nghĩa là mình sống đúng Giới hạnh gọi là Giới hương. Mình sống đúng Giới Đức thì gọi là Định hương. Bởi vì Giới Đức nó thuộc về Định cho nên gọi là Định hương. Mình sống đúng Giới Tuệ thì gọi là Tuệ hương. Phải không? Họ sống đúng với Tri kiến mà mọi người đang sống, đang biết không lầm lẫn, còn gọi là Tri kiến hương, nghĩa là sống đúng với chánh pháp của Phật dạy, với sự hiểu biết đúng chánh kiến chánh pháp của Phật thì cái đó mới được gọi là Tri kiến hương. Còn mình sống không đúng với chánh pháp của Phật dạy, không sống đúng với Giới luật của Phật dạy cái Tri kiến đó, nghĩa là mình chưa thành tựu cái gì hết nhưng mình sống không có đúng, mình sống hoài những cái tri kiến của Phật dạy, những lời của Phật dạy trong Kinh mà mình sống không đúng thì cái đó không được gọi là Tri kiến hương. Còn mình sống đúng tri kiến mà đúng lời Phật dạy, không để tâm mình lầm lạc, không để cho mình lỗi lầm những cái phạm giới thì cái người đó được gọi là Tri kiến hương. Họ sống đúng với Tri kiến Giải thoát nên còn gọi là Tri kiến Giải thoát hương.

Đó thì Thầy phân ra cho chúng ta thấy cái mùi thơm của các loại Trí Tuệ của chúng ta, các loại sống của chúng ta ở trong Giới luật, đó là những mùi thơm của Giới luật đó. Cho nên cái Giới luật đầu tiên đó là Giới Hạnh thì gọi là Giới hương. Cái Giới luật thứ hai là Giới Đức thì gọi là Định hương. Cái Giới luật thứ ba tức là Giới Tuệ thứ ba gọi là Tuệ hương. Cái Tri kiến mà chúng ta từng sống ở trong những lời Phật dạy gọi là Tri kiến hương. Còn cái tri kiến hằng ngày mà các bậc viên mãn mà sống đó thì gọi là Tri kiến Giải thoát hương. Thấy như vậy chúng ta mới rõ được cái hương là cái mùi thơm mà, cái mùi thơm tức là cái mà làm cho ai cũng quý mến, cũng trọng hết. Còn nếu mà cái mùi thúi thì có ai quý trọng không? Đâu có quý trọng, cho nên hương không có nghĩa là cây nhang, hương không có nghĩa là cái bột nhang mà đốt lên có khói đó đâu. Hương đây là cái mùi thơm của Giới Đức, của Giới Tuệ, của Giới Hạnh, của Tri kiến, của Tri kiến đúng đó, chứ còn Tri kiến sai thì cũng không được, Tri kiến Giải thoát. Đó là những hương thơm của những loại Giới luật này.

Đối với Tam Vô Lậu học thì cái tri kiến của chúng ta không được gọi là tên Tuệ Vô Lậu đâu! Trong 13 Giới Tuệ này, Giới Tuệ thứ nhất dẫn tâm đến chánh trí, chánh kiến. Đây, quý vị mới nghe cái chỗ này, nếu mà cái người tu tập Giới Tuệ thứ nhất thì từ đó chúng ta mới có Chánh Tri kiến. Chánh Tri kiến này tức là cái Tri kiến hương đó. Thì chúng ta phải đạt tới cái Trí Tuệ, cái Giới Đức, cái Giới Tuệ đầu tiên, cái Giới Tuệ thứ nhất lúc bây giờ chúng ta mới dẫn tâm nó để chúng ta đạt được Tri kiến đó chứ không phải cái Tri kiến tầm thường như Tri kiến của thế gian, cái Tri kiến kết tập, cái Tri kiến tích tụ, tích trữ lại những cái hiểu biết của người khác thì tri kiến đó là Tri kiến phàm phu. Còn cái tri kiến ở đây là cái tri kiến mà chúng ta phải có sự tu tập trau dồi nó cho đến khi mà trong cái Tuệ Vô lậu nó đạt được cái Giới Tuệ đầu tiên thì cái tri kiến đó mới được gọi là Tri kiến hương. Giải thích cho rõ như vậy thì chúng ta mới biết được cái tri kiến của chúng ta ở chỗ nào. Hồi nãy Thầy chỉ nói cái tri kiến đó phải thông hiểu cái lý của Phật pháp mà không được chấp cái kiến nào hết, nhưng ở đây thì Thầy dạy thêm để chúng ta thấy rằng khi chúng ta muốn đạt được cái Tri kiến hương này thì để thông suốt được cái lý của Phật pháp thì cái người đó phải nằm ở trong cái Tuệ Vô lậu thứ nhất của Giới Tuệ của nó.

Trong 13 Giới Tuệ này Giới Tuệ thứ nhất “dẫn tâm đến chánh trí và chánh kiến”, tức là Tri kiến mà hàng ngày người tu hành viên mãn. Ở đây cái chỗ này Thầy hơi giảng lầm chút. Khi mà cái người đó mới tu học thì phải huân. Thầy xin lỗi phần này đính chính lại chỗ này để cho quý thầy hiểu rõ hơn. Khi cái người mới tu học mà theo đạo Phật thì chúng ta phải huân học, phải hiểu biết cái Phật pháp, cái nào đúng, cái nào sai, từ đó chúng ta mới thấy con đường của Phật pháp những cái hiểu biết đó là đúng, là chân lý, là sự thật, nó thân là khổ, là vô thường thì nó là sự thật, nó không còn sai nữa. Nói là khổ là con người sinh ra là khổ thì đó là một chân lý không thể thay đổi được, nói là cái nguyên nhân mà sinh ra đau khổ thì cũng không thể thay đổi được, mà nói một cái cảnh giới Niết bàn thì đó là một trạng thái tâm hồn chúng ta hết khổ. Mà nói đến tám nẻo đưa đi đến cái chỗ giải thoát thì chúng ta thấy đó hoàn toàn là một chân lý không thể nào có ai thay đổi tám nẻo giải thoát này được. Cho nên cái hiểu biết như vậy, tích trữ cái hiểu biết đúng đắn như vậy đó gọi là Tri kiến. Còn đến khi mà chúng ta tu tập đến cái Tuệ Vô lậu thì cái Tuệ Vô lậu thứ nhất thì cái đó được gọi là Tri kiến Giải thoát, chứ không phải là cái tri kiến mà mới có học hiểu biết rõ của cái chánh kiến của đạo Phật mà thôi. Cái kia còn gọi là Tri kiến, mà Tri kiến đó thì nó mới chỉ hiểu biết Phật pháp, nó mới ngộ được cái lý của Phật pháp chứ chưa chứng được cái lý của Phật pháp. Còn người tu đến cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong cái Tuệ Vô lậu thì cái hiểu biết cái tri kiến đó được gọi là tri kiến Giải thoát. Cái đó là cái tuệ thứ nhất mới được gọi là tri kiến Giải thoát. Cho nên người tu họ không sống ở trong tất cả các Tuệ Vô lậu mà họ chỉ sống ở Giới Tuệ thứ nhất là Tri kiến Giải thoát. Cho nên cái Tri kiến Giải thoát ở đây nó được gọi là cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong Tuệ Vô lậu. Thì quý thầy hiểu cho rõ như vậy. Hồi nãy Thầy giảng hơi lầm lạc, Thầy xin lỗi chỗ đó để sửa lại cho nó đúng cái nghĩa của nó để chúng ta hiểu cho nó rõ hơn.

Cho nên hằng ngày người tu hành viên mãn thường sử dụng cái Tri kiến Giải thoát chứ không sử dụng tri kiến như kẻ phàm phu. Cho nên Tri kiến Giải thoát được nằm trong Giới tuệ, được gọi là tuệ Vô lậu, nó cũng được gọi là tuệ Vô lậu nhưng nó là cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong 13 cái Giới Tuệ chứ không phải là cái Tuệ cuối cùng. Thường thường cái người tu hành viên mãn thì họ sống ở trong cái Giới Tuệ thứ nhất, họ sử dụng cái Giới Tuệ thứ nhất cho nên cái Giới Tuệ đó để đưa cho họ có một cuộc sống không bị dính mắc, không bị đau khổ, không bị phiền toái nữa, ai làm gì thì họ trơ trơ, họ vẫn thanh thản, an nhiên mà không động tâm chút nào, không dao động tâm mình. Tức là cái Tri kiến Giải thoát đó hay là Giới Tuệ thứ nhất của trong 13 Giới Tuệ.

Con đường tu hành theo đạo Phật đến đây đầy đủ Giới – Định – Tuệ, tức là viên mãn trên đường đi.

Còn Niết bàn là gì? Ở đây chúng tôi không trả lời câu hỏi này.

Xin tóm lại buổi học hôm nay chúng ta đã viên mãn Giới luật của Phật, hay nói một cách khác chúng ta đã hoàn thành được Thiện pháp của đạo Phật, và cuối cùng xin quý thầy nên lưu ý chúng ta chỉ biết sau đời hiện tại của chúng ta đang sống ở đây không còn có một đời sống nào khác nữa. Nghĩa là chúng ta đến đây thì người ta hỏi chúng ta còn cái Niết bàn là gì? Nghĩa là chúng ta đến đây chúng ta đã viên mãn được Giới – Định – Tuệ như vậy tức là từ Giới Hạnh, rồi Giới Đức, rồi Giới Tuệ. Chúng ta hoàn thành được những cái Giới luật này rồi thì có người hỏi khi mà hoàn thành được các Giới luật này rồi, Giới – Định – Tuệ này viên mãn rồi thì cái Niết bàn nó là gì? Có người hỏi chúng ta cái Niết bàn là gì? Thì ở đây chúng ta không có trả lời cái câu hỏi mà hỏi như vậy, là cái Niết bàn là gì thì chúng tôi không có trả lời. Nhưng khi mà giảng về Tứ Diệu Đế thì nói về Niết bàn thì chúng tôi sẽ giảng cái Niết bàn. Còn ở đây mà hỏi cái chỗ này thì nó không phải là cái chỗ hỏi Niết bàn của chúng tôi. Vì chúng tôi đã hoàn thành được Giới – Định – Tuệ mà nếu chúng tôi còn nói cái Niết bàn thì đó là chúng tôi còn mộng, còn chấp kiến, còn chấp cái Niết bàn. Cho nên ở đây chúng tôi không nói Niết bàn mà chúng tôi chỉ nó như thế nào cho đúng? Chúng tôi sẽ trả lời: Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây không còn có một đời sống nào khác nữa. Nghĩa là bây giờ chúng tôi đang sống đây là chúng tôi còn cái đời này thôi, chứ khi mà chúng tôi bỏ cái thân này rồi thì chúng tôi không còn cái đời nào nữa, tái sanh ra trong cuộc đời này nữa, chứ chúng tôi không biết Niết bàn nữa.

Mà những người nào tới đây mà còn nói cái Niết bàn như thế này thế này, thì cái người mới học Tứ Diệu Đế, mới ngộ cái lý Tứ Diệu Đế chứ chưa phải là cái người đó đã chứng đạt Tứ Diệu Đế. Quý thầy phải hiểu cái chỗ đạo Phật như vậy đó, cho nên khi một người mà tới rồi mà còn nói rằng bốn đức Thường – Lạc – Ngã – Tịnh trong đó thì người đó chưa tới. Cũng như cái người mà tới rồi họ nói tui chứng quả A-la-hán thì người đó chưa chứng quả A-la-hán đâu. Bởi vì mình còn thấy chứng quả A-la-hán thì tức là mình mới ngộ thôi chứ chưa chứng đâu. Mà mình tới đó rồi thì mình không thấy mình chứng nữa. Thì tức là mình chỉ biết nó như thế nào? Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây không còn có một đời sống nào khác nữa hết. Nghĩa là tôi không có còn sanh thêm sanh chỗ nào nữa hết, hoàn toàn là tui không còn cái chỗ nào mà tui sống nữa hết. Rồi mấy người muốn nghĩ như thế nào đó nghĩ, muốn nghĩ nó Niết bàn hay muốn nghĩ gì tự mấy người chứ tui không biết, tui tới đó là tui hết rồi. Đó thì quý thầy thấy cái chỗ Phật pháp vi diệu, hễ mở ra một cái hiểu biết gì sai là nó đã lệch con đường của đạo Phật rồi. Nói mình có chứng là không chứng rồi đó, là mình mới ngộ chứ chưa chứng đâu. Mà nói mình như thế này thế khác là cái người đó chưa có đâu. Ở đây rất là vi tế cái chỗ này cho nên Thầy mới… khi mà viên mãn cái về ba cái Giới này, vạch ra một con đường đi cho đến cuối cùng tới hôm nay thì quý thầy thấy rất rõ là tới cuối cùng không nói gì khác hơn là còn một câu nói: Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống không còn có đời sống nào khác nữa!

Quý thầy hiểu cái chỗ đó sao đó hiểu. Nếu mà tui nói còn có cái gì đó thì tui chấp ngã tui rồi. Tui chấp cái ngã tui rồi cho nên nó có cảnh giới tui sống, còn nếu mà tui không có cái ngã của tui thì tui không có cái gì mà tui sống nữa hết. Cho nên nó còn hay mất thì quý vị muốn hiểu sao có hiểu được cũng hiểu, tui không cần nói cái điều đó nữa. Nghĩa là tới đó là tui giải thoát là tui giải thoát.

Bây giờ chúng ta tiếp tục học về Giới Bổn Patimokka.

Để thông suốt oai nghi tế hạnh của người tu sĩ, vì trong Giới hạnh chưa nói đủ ta phải tiếp tục học thêm cho được đầy đủ hơn. Nghĩa là trong cái Giới hạnh mà chúng ta vừa học 25 Giới hạnh đó, nó chỉ nói đơn giản thôi chứ nó chưa có nói đến những cái hành động hàng ngày của chúng ta. Vì vậy mà cái Giới bổn Patimokka này nó nói tất cả những cái hành động của chúng ta để mà chúng ta không có lầm lạc, để mà thực hiện những cái Giới hạnh đó để cho oai nghi tế hạnh của người tu sĩ phải được đầy đủ, phải được trọn vẹn cái hành động của nó phải như thế nào để mà chinh phục mọi người, người ta thấy được cái đức hạnh của một người tu sĩ nó không phải tầm thường. Vì Giới hạnh nó phải học rất nhiều mới có thể mà thâm nhập được cái oai nghi tế hạnh của nó.

Bởi vậy cho nên chúng ta phải tiếp tục lại 25 Giới hạnh là chúng ta phải học cái Giới luật Patimokka. Cái Giới luật này nó mới có thể đầy đủ và cái Giới luật này nó cũng rất nhiều chớ không phải ít. Do vì vậy trước khi mà giáo cái Giới luật Patimokka này nó phải có một cái lời nói rất là dài và đồng thời Thầy có bổ túc thêm những cái bài để mà chúng ta chuyển qua cái Giới luật Patimokka này.

Để bổ túc thêm phần giáo án về Giới luật Patimokka cho rõ nét, ở đây Thầy nhấn mạnh: Giáo pháp của đức Phật dạy người không có tranh luận với một ai ở đời. Vì thế mà ác tưởng sẽ không ám ảnh. Do thế người ấy sống không bị Dục, triền phược, không có nghi ngờ, do dự với mọi hối quá, đoạn diệt, không có tham ái đối với Hữu và Phi hữu. Ở đây quý thầy phải hiểu khi mà bước sang qua cái Giới bổn Patimokka này thì chúng ta sẽ thấy tràn trề sự sai lạc của cái người khác rất nhiều. Nghĩa là học xong cái Giới bổn này rồi thì chúng ta nhìn cái giới tu sĩ cũng như nhìn cái giới mà cư sĩ hiện giờ là đệ tử của Phật hầu như là cái danh từ là đệ tử của Phật chứ hầu như là những cái người đó đều là hành ngoại đạo hết. Cho nên vì vậy mà Thầy phải phòng ngừa trước khi mà bước đầu qua học cái Giới luật Patimokka thì chúng ta phải chuẩn bị cho tinh thần chúng ta vững vàng để không khéo thì chúng ta toàn là thấy là ma quái không đó, chứ không phải là Phật  đâu. Với một người mà người ta thông suốt được cái Giới luật rồi thì người ta nhìn cái giới tu sĩ và nhìn cái giới cư sĩ hiện giờ người ta thấy toàn là thứ phá đạo, toàn là thứ phá Phật pháp. Cho nên chúng ta không nói ra, không có chống báng ai là vì vậy, cho nên ở đây Phật nói chúng ta khi mà học xong rồi thì không có một cái tâm tham ái. Tham ái tức là thấy những cái sai cái không đúng của họ đó đối với Hữu, đối với cái Có và cái Không chúng ta xem thường hết. Chúng ta đừng thấy cái tâm của chúng ta nó quá như thế này hay như thế khác rồi chúng ta sanh ra nhưng cái bỉ thử ở trong đó rồi vì vậy mà chúng ta có tranh luận, rồi có những cái sự không hay cho cái đời tu hành của chúng ta.

Vì vậy mà rồi từ ở trong cái ác tưởng của chúng ta, cái tưởng của chúng ta nó khởi lên những cái ác kiến đối với những người đó, làm cho chúng ta có những sự ám ảnh không tốt đối với Phật pháp, cũng như không tốt đối với bản thân của những người đó. Họ sống như thế nào để nhân quả thì họ phải lãnh đủ những cái nhân quả đó. Còn riêng chúng ta thì hãy câm miệng lại, không nói ra một lời nào hết. Biết Pháp luật rất rõ ràng, biết Giới luật rất rõ ràng nhưng không động chạm đến một người nào, không nói người nào sai, không nói người nào đúng mà chỉ giữ mình để thực hiện cho đúng những cái lời Phật dạy mà thôi. Mình cứu mình chứ không thể nào cứu ai được trong cái lúc này hết.Chừng nào mình cứu mình được thì chừng đó mình mới cứu người ta được. Mình đã ra khỏi được cái con đường của thế tục thì mình mới có mong mình cứu người còn đang ở trong thế tục. Còn mình đang ở trong thế tục mà mình cứu người thế tục thì không cứu được đâu, và đồng thời đôi khi mình lại chết chung với họ ở trong thế tục. Cho nên những cái hạnh Bồ Tát mà gọi là sống trong thế tục để độ người thế tục thì coi chừng Bồ Tát cũng chết luôn với những người thế tục mà không độ ai được hết.

“Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật”.Đức Phật nói giáo pháp của đức Phật như một cái bánh ngọt, cái bánh mật, chớ không phải là một cái bánh cay đắng đâu! Cho nên đến Giới luật thì người ta thấy cay đắng lắm. Sống mà như thế này các thầy cứ nghĩ “ba y một bát” có cay đắng không? Đi xin ăn người ta không cho, ngày nay không cho ngày mai không cho thì quý vị thấy như thế nào? Phải ăn lá cây rừng mà sống rồi. Mà ăn lá cây rừng quý vị chưa từng tập thì quý vị có thấy xót ruột không? Chưa chắc là đã không mệt mỏi, khổ sở. Thế mà đức Phật nói “giáo pháp của ta là bánh mật”. Bánh mật là thứ bánh ngon chứ đâu phải thứ bánh dở. Thế mà bước đầu và mà gặp tới cái Giới luật, cái Giới bổn Patimokka này thì nó không phải là bánh mật thật đâu. Mà chính nó là bánh mật nếu mà chúng ta thực hiện đúng. Nếu mà chúng ta thực hiện không đúng thì nó là những bãi chông gai, nó là những cái chỗ nguy hiểm nhất, nó là những cái chỗ mà chúng ta không thể sống nổi. Khi mà đến đây Thầy cảnh giác những cái điều này mà trước khi dạy nó thì Thầy phải cảnh giác rất lớn đối với quý thầy, để khi quý thầy được học đến nó thì quý thầy mới thấy được cái cái chỗ nào gọi là bánh mật mà cái chỗ nào không gọi là bánh mật. Vì thế mà cái người dạy Giới ở trong cuộc đời bây giờ thì họ (…). Cho nên đức Phật mới dạy chúng ta và cảnh giác chúng ta ở chỗ này để chúng ta chuẩn bị cho cái Giới bổn này, sau khi chúng ta học thì chúng ta mới biết nó là cái bánh mật như thế nào. Chớ nó không phải là đơn giản.

“Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật đối với đối với cái người đang đói lả và mỏi mệt. Cứ mỗi một miếng vị ấy nếm được vị ngọt thuần nhất. Cứ mỗi một miếng vị ấy thưởng thức càng lúc càng thích thú hơn, càng thấy người khỏe hơn, khinh an hơn”.

 Đó, nếu mà chúng ta tu đúng, chúng ta biết được cái Giới bổn này đúng thì mỗi một cái Giới mà chúng ta thực hiện thì giống như một người đang đói, đói lả người, mệt mỏi mà cứ mỗi một miếng ăn vô thì coi như một cái Giới luật mà chúng ta đã thực hiện vô thì mỗi cái miếng đó thì chúng ta thấy được vị ngọt thuần nhất của nó ở trong đời sống của chúng ta. Đời sống đang lúc chúng ta mệt mỏi đói khát đó, mỗi một miếng nữa thì chúng ta thưởng thức mà càng thích thú hơn và càng thấy khỏe hơn, và khinh an hơn. Đức Phật ví dụ cái Giới bổn nó như vậy đó.

Đó là không phải là nói về Thiền định mà khinh an đâu, mà đây là muốn nói rằng cái Giới luật, mỗi cái Giới luật mà chúng ta chấp hành nghiêm chỉnh nó đem đến chúng ta cũng như cái bánh ngọt mà chúng ta cầm mỗi miếng chúng ta ăn trong lúc chúng ta là người đang đói, đang mệt mà chúng ta ăn thì chúng ta thấy nó ngọt mà nó khỏe lắm, nó ngon lắm, nó thích lắm, nó làm cho cơ thể chúng ta càng ngày càng thấy cái sự sống nguồn sống nó dồi dào lên, nó thích thú lắm. Còn nếu mà sai thì các thầy thấy ngán quá, ớn quá, sợ quá. Đây đi xin ăn chắc không có ai cho chắc chết, bây giờ không có làm sao, coi chừng công an nó bắt bỏ tù nữa, nó nói mình gian lận, làm biếng, làm thế này thế khác. Từ cái tư tưởng đó, suy nghĩ đó thì ngay đó là mình đã thấy hoảng hồn rồi chứ chưa nói chi mà tới ôm bình bát đi xin nữa. Không biết đi xin mới đây đi ôm bình bát xấu hổ quá! Trời ơi thời giờ mình không có đi xin. Kiểu này không ai ngó tới đi mắc cỡ chết. Cái tư tưởng đó vẫn có mà.

Lúc Thầy mới bắt đầu Thầy đi khất thực Thầy cũng vậy. Đi ra đường ôm bình bát đi mà con mắt nhắm chứ không dám mở, mở sợ thấy người ta cười mình. Trời ơi mình vậy mà đi xin. Từ nào tới giờ mình đi dạy học hoặc đi làm ai cũng biết mặt hết. Trời, đi ra đường vậy, nhất là Thầy ở thành phố mà Thầy đi xin ở mấy cái chỗ chợ thành phố mà bên chùa Giác Ngộ nữa thì các thầy nghĩ sao? Bao nhiêu Phật tử quen mình quá rồi. Hồi nào tới giờ họ kêu mình thầy mà giờ ôm cái bình bát đi xin. Mà chính cái chỗ đó họ lại còn kính trọng Thầy hơn nữa chứ! Mà khi mình đi thì mình ngại ngùng vô cùng lận! Từ hồi tới giờ ai có làm này. Kỳ vậy! Đó là những cái bắt đầu của Thầy, mà Thầy đi có một mình chứ phải đi có người nào hướng dẫn thì cũng đỡ đi. Đằng này tự mình à! Rồi mình nghĩ cách thức rồi bắt chước theo mấy ông khất sĩ, thôi mình cũng làm đùa. Trong kinh thì đâu có dạy kỹ cái vấn đề này, bởi vì kinh Đại Thừa nó đâu có nói về chuyện khất thực đâu mà đi dạy. Đâu có phải như bên Nguyên Thủy kia nó dạy rất kỹ còn bên đây nó đâu có dạy chuyện này. Cho nên học Đại Thừa rồi đi ra khất thực ngơ ngáo chẳng biết gì hết. Thầy mới hỏi thăm thầy Thiện Huệ là hồi ông còn nhỏ ông đi với thầy của ông, cũng đi khất thực cũng ở thành phố, ở chùa Giác ngộ, cũng đi khất thực. Thầy mới hỏi ông về khất thực sao, ông nói thì mình cứ ôm bình bát vậy mình cứ nhắm mắt mình ngó xuống đất mình đi đi. Rồi họ cho mình chứ cái gì! Thầy nghe vậy thôi, Thầy cũng ôm bình bát Thầy cũng đi vậy thôi, mà hồi đó Thầy đâu có bình bát. Các con biết không? Thầy phải đi mua cái ô mà người ta để trầu cau đó, nó tròn tròn bằng nhôm đó, Thầy mới may cái túi Thầy mới bỏ trong đó Thầy ôm vậy Thầy đi. Trời đất ơi! Người ta biết, hồi đó nó dễ chứ bây giờ mà kiểu này mà bưng cái kiểu đó mà nó thấy không có giống cái bình bát là nó ra nó chốt liền đó. Chứ phải dễ đâu! Còn hồi đó nó dễ lắm! Hồi cái chế độ trước nó dễ lắm! Bởi vậy Thầy ôm bình bát đi Thầy xin như thường mà Thầy cũng chả biết xin nhiều ít như thế nào nữa, chỉ biết đi xin thôi! Nhưng mà không ngờ khi mà Thầy vào đến đầu chợ cái họ biết Thầy ở chùa Giác Ngộ lâu rồi. Họ để cho Thầy đi mà họ không có cho. Trời mắc cỡ gần chết, không có cái gì hết, nhưng mà Thầy đi suốt hết cái đường chợ vậy mà tới cuối hết cái chợ thì họ gom họ để một đống họ kêu xe xích lô chở về chùa Thầy. Thầy đâu có hay. Bởi vì họ thấy cái bình bát Thầy thì nhỏ, mà Thầy đi như vậy thì bỏ được có bao nhiêu. Cho nên họ nghĩ rằng Thầy đi xin cho cả chùa ăn mà, chớ đâu phải xin cho mình Thầy. Cho nên họ biết Thầy ở chùa đó thì phải xin cho các thầy ăn chung chứ đâu phải mình Thầy. Cho nên Thầy đi hết cái đường chợ vậy không có cái gì trong bát Thầy hết, mà tới cuối chợ Thầy thấy họ chất một đống nào cải, nào bánh mỳ, đồ ăn đủ thứ hết, đủ loại đường sữa gì đủ chất một đống. Cái có người Phật tử đứng đó họ nói: Chúng con đã góp nhau hết chúng con để đây xin cúng dường Thầy. Ôi trời ơi! Thầy xin có mình Thầy ăn mà sao cúng dường vậy? Thầy ở chùa Giác Ngộ thì chúng con kêu xe kéo về cho Thầy, chứ giờ mọi người cúng dường chứ đâu phải mình con. Thôi kêu xe kéo về chùa.

Các con thấy không? Đi xin là như vậy đó! Bởi vì Thầy nói khi mới ra đi Thầy nói ngại ngùng lắm, nó mắc cỡ, nó sượng sùng làm sao ấy. Cái tâm tư từ trước giờ chưa có đi xin, giờ đi xin nó kỳ lắm, các con hổng biết đâu, làm thử coi, để biết cái tâm của mình chút, chứ nó không có đơn giản. Thầy nói rồi ai cũng có tâm trạng này hết, từ trước tới giờ không đi xin mà giờ đi xin thấy nó kỳ lắm, nhưng mà đi xin một vài lần rồi, nó quen rồi bắt đầu thấy nó có trớn nó làm tới, nhất là thấy người ta cho nhiều lại còn hăng nữa.

Ở đây Thầy nói, thuật lại cho nghe cái mẩu chuyện vui vui cho nó khuây khỏa chút chứ thật ra là như vậy đó, cái tâm trạng của cái người đi tu là như vậy. Rồi bây giờ mà nghe Thầy nói bây giờ chúng ta bước qua cái giai đoạn mà ba y một bát, sống không nhà không cửa nay ở chỗ này chỗ kia đó thì các thầy nghe lo lắng trong lòng chắc mình tu không nổi đâu. Cái điều kiện đó là điều kiện duy nhất rồi, nghĩa là không thấu nổi, nhưng mà không phải đâu, các thầy nghĩ khi mà chúng ta đã thực hiện giới luật của Phật thì giới luật là một bậc Thánh hộ trì chúng ta trên bước đường tu tập không bao giờ để chúng ta đói đâu. Thầy tin tưởng việc đó, Thầy đã từng khất thực chỗ này, chỗ kia Thầy biết điều đó. Thầy đi xuống Cửu Long, Vĩnh Long đó, Thầy cũng đi khất thực; Rạch Giá, An Giang Thầy cũng đi khất thực. Thầy đến chỗ nào đó thì Thầy xin xe Thầy đi, muốn lại chỗ nào đó thì Thầy xin xe đi, xe này không cho thì xe khác nó rước à, chứ nó cũng không có bỏ mình. Còn đi đường đó mà cái đoạn đường nào đó mà vắng vẻ đó thì mình đứng đó mình chờ, còn xa thì mình đi bộ hoặc đứng chờ hoặc có cái xe Honda người nào đi ngang qua thì mình đón tay, thấy mình tu sĩ thì họ rước chứ còn nếu mà thanh niên mà dân dân rồi thì chắc chắn họ không dám rước đâu, họ sợ bẻ họng lấy xe, còn Thầy họ thấy tu sĩ họ rước hết, không bỏ người nào. Cho nên đón xe quá giang rất dễ không khó gì. Còn xe hơi nó đến thì xin đi, ví dụ như từ Sa Đéc, Rạch Giá hoặc là Châu Đốc mà xin về thành phố, lại mấy chiếc xe đò, xe này không cho xe khác nó mời lên xe, nó cũng cho mình quá giang. Mà nó cũng lựa chỗ ngồi tốt chứ nó không phải nhét mình sau đít đâu. Nó cũng quý trọng các thầy lắm, nó cũng biết. Mà trong cái thời đó các con thấy rằng bên Khất Sĩ họ đang hưng thạnh lắm, bởi vì họ đang đi xin, thì cái giới và chữ tín của họ nó còn đang hộ trì giữ lắm cho nên đi ra dễ xin lắm, dễ xin cơm, dễ này kia, còn bây giờ khó lắm. Bây giờ Khất Sĩ nó không có đi xin nữa đâu, cho nên bây giờ mình a tùng, mình vô mình đi xin thì khó lắm, còn hồi đó chỉ đi xin không hà, cho nên có cái đà đó nó dễ lắm, còn bây giờ khó. Nhất là từ khi giải phóng xong rồi thì hầu hết cái dạng đi xin chỉ có hình thức của bên Khất Sĩ đi cho có chừng thôi chứ không có. Còn cái giới mà mượn cái chiếc áo đi xin là đi xin tiền, xin đô la đó thì cái giới đó nó nhiều, cũng mượn cái y như vầy, cũng mượn cái áo tràng, nó cũng làm cái túi kè kè vậy nó đi xin, mới đầu thì cái số thiện tín người ta không hiểu, người ta cho sau này là người ta bị gạt rồi, Giáo hội cũng lên tiếng và bây giờ họ không cho nữa đâu. Cho nên các con biết bây giờ mà mình làm cái hạnh khất thực mà đi xin là chết đói đó, bởi vì báo công an nó rêu rao dữ lắm đó, chớ không phải chuyện dễ, nó cho đó là cái giới mà lường gạt người ta chứ không phải là tu sĩ đâu.

Đó, thì hôm nay Thầy nói như vậy để cho các con biết rằng trong cái cuộc đời tu hành của chúng ta đừng sợ hãi trước một cái gì hết, đừng có dao động mà phải lấy giới luật mà làm thầy của mình, nương tựa vào nó thì đi đâu cũng có phước báu đầy đủ hết. Không có làm gì ai mà bắt bỏ tù mình được hết. Vì mình bỏ tù cũng như mình tu, có gì đâu mà sợ. Do đó tôi chỉ đi xin ăn, tôi đi xin ăn thôi, tôi giữ đúng hạnh của Phật dạy như vậy à, ai làm gì thì làm, bỏ tù tôi thì tôi ngồi tù tôi cũng tu. Tôi có nhà cửa gì đâu mà sợ, mà vô tù thì còn có cái nhà, còn sướng hơn là ở ngoài, phải không? Các ông thấy không, mình có ai đâu mà mình sợ, đâu có ai đem cơm cho mình. Buộc mình vô tù thì nó cũng phải mang cơm cho mình ăn không lẽ bỏ đói mình chết? Thành ra mình khỏi đi khất thực, không phải sướng? Mà ăn cơm trong tù cũng có muối, có đồ ăn chứ đâu phải không cho ăn, thế nào cũng cho ăn, mà cho ăn còn sướng hơn. Phải hông? Vậy mà mình rảnh, mình tu ở trong tù còn khỏe, mà mình có tội gì mà bắt bỏ tù mình lâu đâu? Phải hông? Phải thả mình ra thôi, mai mốt tôi cũng vác bát đi xin nữa, mấy ông làm gì thì làm, tôi tu là tu, giải thoát là giải thoát chớ, đâu có sợ gì, ngại gì. Cho nên vấn đề đó là mình vẫn làm không ngán nào hết, mình có ăn trộm ăn cắp ai đâu đâu sợ, tôi đi xin mà, tôi xin ăn để tu thôi, tôi đâu có ngán ai, tôi đâu có làm gì phi pháp đâu mà tôi sợ. Có bao giờ mà nhà nước ra cái lệnh là cấm đi xin bao giờ đâu? Nếu mà có cấm vậy thì tôi không đi xin, còn bây giờ không có lệnh cấm, không có cái pháp luật cấm thì tôi vẫn đi xin được. Có vậy thôi.

Thì như vậy chúng ta cũng thấy được cái lộ trình của cái lộ trình thứ hai mà chúng ta thực hiện, là cái người quyết tu giải thoát là thực hiện được, mà cái người nhát gan là thực hiện không được. Chúng ta không phải cái người đói mà đi xin đâu, mà chúng ta đi xin là để xả ly cái thế gian ra, để tách lìa nó ra không còn dính ở trong ta chút nào. Đó, là cái chỗ mà chúng ta thực hiện. Bởi vậy đặt niệm trước mặt, nếu mà chúng ta muốn được như vậy, cái vị ngọt mà nếm được, cái vị ngọt như là cái pháp lực mà giới bổn Patimokkha mà đạt được như là cái bánh mật thì như thế nào? Ở đây Thầy nói phải đặt niệm trước mặt, cái niệm nào trước mặt? Cái niệm ăn uống của chúng ta trước mặt đó, cái niệm mà khổ, khắc khổ của chúng ta trong giới bổn của giới luật này. Chúng ta phải đặt nó trước mặt, chúng ta phải dùng cái pháp hướng chúng ta tu tập nó chứ không phải đơn giản là chúng ta nếm nó như bánh ngọt đâu.Mà cái người mà không biết pháp này rồi á, thì kể như là nếm mật nằm gai chứ chưa phải là ăn bánh ngọt đâu. Bởi vậy đặt niệm trước mặt, đừng cho thất niệm, đừng có cho thất niệm mà thất niệm là đói bụng đó mà cái niệm còn là không đói bụng đó, nó phải hiểu cái chỗ đó. Vị ấy dùng tri kiến giải thoát, cứ mỗi phần suy tư, dùng tri kiến của mình, mình suy tư để mình đánh đuổi cái đói, cái khổ, cái gian khổ của mình trong cái giới luật này chứ không phải là tầm thường đâu. Qúy vị muốn nếm được cái miếng mật này không phải là chuyện dễ đâu. Cho nên phải tu tập hết sức ở trong cái Định vô lậu chứ không phải thường đâu.

Cái lậu hoặc nó kéo lên là mình thấy cái thân của mình nó sắp thoi thóp, nó sắp chết chứ không phải là cái chuyện dễ, nó mệt mà đầu óc nó choáng váng hết khi nó đói bụng chứ không phải là thường đâu. Cho nên phải đặt niệm, mà đừng có cho thất niệm, lúc bấy giờ không cho thất niệm cho nên nó mới mát lạnh cái thân của chúng ta, còn không nó không có mát lạnh đâu, mà nó co giật nó răn rúm, nó kéo chân, kéo tay của chúng ta nó giựt nó méo hết đó.

“Vị ấy dùng tri kiến giải thoát, cứ mỗi phần suy tư đến ý nghĩ của pháp môn càng lúc càng thâm sâu với tri kiến thì lậu hoặc càng lúc càng vơi đi. Cứ mỗi lần quán xét thấm lý vô thường của các pháp, của thực phẩm thì vị ấy thưởng thức sự hoan hỷ, hân hoan nơi tâm hồn của mình. Cứ mỗi lần được quán xét đúng lý vô lậu thì vị ấy được thưởng thức sự thoải mái, tâm trí an lạc vô cùng.”

Đó trong lúc mà chúng ta phải chuẩn bị cho chúng ta một cái pháp như vậy đó, để chúng ta mới giữ được cái giới bổn đó, chứ còn lơ mơ thì không có sống nổi đâu. Cho nên khi mà vô tù thì các vị nói trời ơi khổ quá ở ngoài thì đi tới đi lui, còn trong này đi đái đi ỉa cũng thấy quá khổ, trời đất ơi nó không có để cho mình cái ghè gì hết, hoặc nó để cho mình cái ghè vừa đái vừa ỉa vừa hôi thối mà mình ở chỗ đó. Thì lúc bấy giờ phải đặt cái niệm như thế nào mà an tịnh được tâm của mình chứ không khéo nói thôi thôi mai mốt tôi dẹp cái bộ y này đi tôi về tôi sống với vợ con tôi còn khỏe hơn chứ sống kiểu này chắc là tôi chết. Vô trong tù rồi mới biết cảnh đó.

Các thầy khi mà học được cái gì rồi thì chúng ta cũng chuẩn bị cái đó với cái tư tưởng rất là vững chắc chúng ta mới dám làm, chớ còn nếu mà không có vững chắc chúng ta không dám làm đâu. Trước khi mà Thầy lên Hòn Sơn Thầy cũng chuẩn bị tinh thần Thầy ở một mình trên Hòn Sơn, trên núi á, trên Hòn Sơn là ở giữa biển, trên núi ở giữa biển đó. Thầy phải chuẩn bị tinh thần ở trên đó một mình chứ còn không chuẩn bị lên trên đó nội ba con chim rừng, ba con chim biển nó vô nó đáp ở trên hòn thì cũng là hồn siêu phách tán lên rồi, nó kêu một cái “quéc” là mình thấy lạnh xương sống rồi, chỉ ngày mai là lo xuống núi chứ đừng nói chuyện ở trên đó nổi. Mà gió biển mà nó thổi vô Hòn Sơn mà người ta gọi là Ma Thiên Lãnh ở trên cái đỉnh Hòn Sơn đó, gió nó lạnh, nó lạnh thấu xương chứ không phải lạnh ít đâu. Chui trong hang mà nó lạnh cũng muốn run, người ta gọi là Ma Thiên Lãnh mà. Thì các thầy biết Thầy đã chuẩn bị cái tư thế của Thầy khi trèo lên Hòn Sơn không phải là cái chuyện tầm thường của một cái người mà nhút nhát mà dám lên đâu. Cho nên những cái này mà không có tu tập, không có sự chuẩn bị cho cái này thì cái sự sợ hãi chúng ta không thể nào chúng ta ở một mình ở trong cái sự hoang vắng đâu, nó khó lắm, phải có sự chuẩn bị tinh thần cho vững chắc, nghĩa là cái người đó phải liều chết coi như cái mạng sống này như là chỉ mành treo chuông ấy thì mới thực hiện được. Vì vậy cho nên khi chúng ta bắt đầu qua cái giới bổn này để mà học tập nó thì coi như thân chúng ta chỉ là sợi chỉ mành treo chuông trước giới luật thì chúng ta mới đạt được nó. Vậy mà Thầy còn trang bị cho quý thầy một cái niệm để mà đặt trước mặt thực hiện nó, thì quý thầy biết rằng Thầy đã chuẩn bị cho quý thầy rốt ráo hết mọi mặt mà có được hay không là do quý thầy, chứ còn không phải là Thầy nữa. Đây là lời khuyên của đức Phật.

Kế tiếp thì đức Phật có dạy chúng ta cái bài kinh trong kinh Trung Bộ, bài kinh này tên là bài kinh Khu Rừng, thì ở đây Thầy ghi lại những cái lời mà Phật khuyên chúng ta, khi mà chúng ta thực hiện con đường tu này chọn lấy cái chỗ nào tu cho đúng, cái chỗ nào để mà ở tu, cái chỗ nào mà không nên ở tu, cái chỗ đó là cái chỗ quan trọng,chứ không quý thầy nghe Thầy giảng về đụng chỗ nào cũng thấy ngồi tu hết thì chỗ đó coi chừng, nó không có đúng đâu. Cho nên đây là cái bài kinh mà đức Phật đã khuyên cho người đã học xong con đường tu tập của đạo Phật thì nên chọn. Hay những cái bài kinh này thì sau khi cái giáo án này xong Thầy thuật nhưng vì trường hợp nó có xảy ra cho nên cái tâm của quý thầy có nhiều cái dao động cho nên buộc lòng Thầy phải nói trước để quý thầy chuẩn bị tinh thần.

Đây là lời khuyên của đức Phật :

“Này các thầy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo sống tại một khu rừng nào để tu tập (nếu mình chọn một nơi nào đó mà tu tập) thì các niệm chưa được an trú lại không được an trú; tâm tư chưa được định tỉnh, lại không được định tỉnh; các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ, không được hoàn toàn đoạn trừ vô thượng an ổn khỏi các ách phược; chưa được chứng đạt, không được chứng đạt và những vật dụng này cần thiết cho đời sống người xuất gia cần phải sắm đủ như y phục, đồ ăn khất thực, sàng  tọa, bát, y dược trị bệnh những vật dụng này kiếm được khó khăn, này các thầy Tỳ Kheo”.

Nghĩa là ở chỗ đó tu hành tâm nó không được an ổn, giải thoát nó không được, lậu hoặc nó không có được gì hết. Mà đồ ăn khất thực, y  cụ sàng tọa thì khó khăn lắm, kiếm khó khăn lắm, muốn ăn cũng khó nữa thì đức Phật khuyên: Này các thầy Tỳ Kheo, các thầy cần phải suy nghĩ, ta sống đây, ta sống tại khu rừng này đời sống tu hành khó khăn quá và sự tu hành không có kết quả ta phải từ bỏ khu rừng này không được ở lại, ngay lúc ban ngày cũng như lúc ban đêm, hãy đi liền không để mất thời gian vô ích”. Đức Phật khuyên nếu mình đến đó, mình an trú ở chỗ đó, cái chùa hoặc cái khu rừng hoặc cái thất hoặc cái chỗ nào đó mình cho rằng khi mình chọn tới chỗ đó mình ở, mà mình thấy mình ở đó mình tu một hai ngày tâm sao mà nó không có được an tịnh, lậu hoặc thì nó không dẹp được hết mà đồ ăn ở đây, đồ khất thực, đồ y bát này kia sao mà khó kiếm ăn quá thì ngay đó nên đi liền chớ đừng có ở đó nữa. Trong vài ba ngày mà thử không có được thì thôi rút đi đi chứ đừng ở đó nữa, đức Phật khuyên chúng ta như vậy, đó là cái mà chọn cái địa điểm để mà chúng ta tu tập.

Này các thầy Tỳ Kheo, ở đây đức Phật khuyên cái lần thứ hai này để chúng ta thấy cái chỗ này như thế nào:

“Này các thầy Tỳ Kheo, thầy Tỳ Kheo sống tại một khu rừng nào để tu tập nếu các niệm chưa được an trú, lại không được an trú, tâm tư chưa được định tịnh, không được định tỉnh. Các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ, không được hoàn toàn đoạn trừ. Vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt, không được chứng đạt và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà người xuất gia cần phải sắm đủ như y phục, đồ ăn uống khất thực, sàng tọa, y dược, những vật liệu này kiếm một cách rất dễ dàng”.

 Nghĩa là đi xin những thứ đồ đó kiếm một cách rất dễ dàng, nghĩa là đời sống của mình y phục này kia, ở đó người ta cúng dường ngờm ngợp ăn uống đầy đủ hết không có thiếu cái gì hết, ốm đau bệnh gì cũng có thuốc thang hết, thì cái chỗ đó thì đức Phật khuyên như thế nào, kiếm được một cách không khó khăn tức là dễ dàng đó nhưng không phải, “vị tỳ kheo đó mới suy nghĩ nhưng không phải vì y phục, không phải vì đồ ăn khất thực, không phải vì sàng tọa, không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia từ bỏ gia đình sống không nhà cửa, nhưng trong khi ta ở tại khu rừng này mà các niệm an trú chưa được an trú và các triền phược chưa được chấm dứt vô thượng an ổn chưa đạt được. Này các thầy Tỳ Kheo, các thầy suy tính như vậy thì các thầy phải từ bỏ khu rừng này, từ bỏ nơi này không được ở lại”. Đức Phật bảo mặc dù ở đó người ta cúng dường đầy đủ nhưng mà ở cái chùa nào đó bây giờ người ta cúng dường mình đầy đủ đồ ăn thức uống, mà mình ở đó cứ ít bữa họ vô họ làm động mình, mình không an trú được, tâm mình ngồi tu cũng hông được mà họ cứ bắt mình đi tụng kinh thì thôi thôi từ bỏ cái chùa đó đi. Đừng có ở đó nữa, đừng có ở cái khu rừng đó dù là người ta nơm nớp người ta cúng dường mình thì đức Phật khuyên thôi đừng có ở đó, ở đó tu cũng không có được đâu. Ăn uống đầy đủ không phải là mình bỏ nhà bỏ cửa bỏ gia đình của mình, bỏ cha mẹ mình đi tu mà cái kiểu này đi tìm ăn uống đó, thì như vậy là mấy ông nên bỏ đi, đừng có ở.

Đó là đức Phật khuyên mình cái thứ 2, đừng có tìm những chỗ trụ xứ đầy đủ như y phục, thuốc thang, ăn uống đầy đủ đó. Thì hầu như là hiện bây giờ tu sĩ chúng ta tới chỗ nào mà có ăn uống đầy đủ thì hầu như là chúng ta cũng mê lắm đó chứ. Chùa to tháp lớn, thấy ở cũng khang trang, phòng ốc rồi điện nước, rồi radio, tivi đầy đủ, máy ghi âm, cassette đều đầy đủ thì tập trung nhau mà ở dữ tợn chứ đừng có nói ít. Do đó mà cái nơi đó là Phật khuyên thôi thôi đi đi đừng có ở, tâm nó không có an lạc đâu, tâm nó không có giải thoát đâu, lậu hoặc nó còn triền phược nó trói buộc chặt lắm đó, đó là đức Phật khuyên chúng ta như vậy. Đó đó là cái mà để biết rằng ông Phật ông ấy đã định cho chúng ta biết cái nơi nào mà tu được, nơi nào mà không tu được ông đã viết ra cái bài kinh đó, có giá trị rất lớn mà hiện giờ người ta đâu có đọc cái bài kinh đó làm gì, đọc xong mắc cỡ quá mà làm sao đọc.

“Này các thầy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo sống tại một khu rừng mà các niệm chưa được an trú được an trú, tâm chưa được định tỉnh được định tỉnh, các lậu hoặc chưa được đoạn trừ được đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các triền phược chưa được chứng đạt đã được chứng đạt. Dù cho vật chất cần thiết cho đời sống của một người xuất gia cần phải sắm đủ như ý phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật này kiếm được rất khó khăn”.

Nghĩa là tất cả ở chỗ đó mà mình tu hành được tâm mình nó được an ổn như vậy mà vật thực thì rất khó khăn, y phục rất khó khăn, đau bệnh thì không có thuốc thang, nghĩa là cái chỗ đó rất là khổ, khổ cho cuộc sống của mình, rất khổ đó thì ông Phật khuyên như thế nào: “Này các thầy Tỳ Kheo, các thầy cần phải suy nghĩ như sau những vật dụng này kiếm được một cách khó khăn nhưng không phải vì y phục, không phải vì món ăn, không phải vì sàng tọa, không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình nhưng trong khi ở tại khu rừng này mà các niệm chưa được an trú đã được an trú, này các thầy Tỳ Kheo, các thầy nên ở lại khu rừng này không được bỏ đi”. Các thầy thấy không, đói mà biểu không có được bỏ đi vì lúc bấy giờ chúng ta ở đây tu được không bị ai quấy rầy, nghĩa là Phật tử không đến cúng dường nữa. Yên ổn lắm, yên ổn lắm rồi, ăn lá cây đó mà tu được. Đó quý thầy thấy không? Phật khuyên mình ăn lá cây mà tu được còn mình ăn cơm, y áo đầy đủ, ăn có sữa có bơ đầy đủ, mập béo ra đó thì nên bỏ đi, phải hông? Mà ăn lá cây mà được yên ổn mà tu tập, được cái tâm an ổn, được giải thoát các triền phược thì cái nơi đó là cái nơi mà của những vị tu sĩ lựa chọn. Ông Phật dạy kỹ lắm đó các con, chứ không phải, dạy rất kỹ để chúng ta chọn cái chỗ mà tu cho thật để mà giải thoát đó.

Này các thầy tỳ kheo, các thầy sống tại một khu rừng mà các niệm chưa được an trú được an trú, tâm tư chưa được định tỉnh được định tỉnh, các lậu hoặc chưa được đoạn trừ được đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt, những vật dụng cần thiết cho đời sống tu hành hàng ngày được xin một cách không khó khăn, này các thầy Tỳ Kheo các thầy suy nghĩ nơi đây là chỗ lý tưởng tu hành. Phải ở lại khu rừng này cho đến trọn đời không được rời bỏ”.

Chỗ đó nó phù hợp heng,có đồ ăn đồ uống nó vừa phải nó không có quá khó khăn, xin khó khăn mà lại tu hành được, nó yên ổn nên ở bám cái chỗ này mà tu hành suốt đời chứ không có được đi chỗ khác. Đức Phật dạy như vậy. Còn cái kia, là cái chỗ đó tuy rằng mình tu hành được nhưng mà nó có những cái đời sống nó khó khăn, nhưng mà đừng có bỏ, phải ở đó mà tu hành, đó đức Phật khuyên đừng có bỏ nhưng mà không có bảo mình ở suốt đời vì ở suốt đời đói chịu sao nổi.

Ông Phật cũng hay chớ, ỗng biết, bởi vì mình ở đó mình tu cho xong rồi thì mình đi đi chớ đừng có ở đó, ở đó cứ ăn lá cây không chắc là thành cây hết rồi, thành bò chứ, chớ chứ đâu phải thành Phật được. Bởi vì mình tu theo hạnh con bò thì ăn lá cây rồi ăn cỏ thì nó thành con bò chứ làm sao mà thành Phật. Cho nên ông Phật ông nghĩ mình cũng phải ăn cơm chứ, cho nên từ đó khi mình tu xong rồi thì mình cũng sống hòa mình với chúng sanh như mọi người, mình là con người chứ đâu phải bò trâu mà ăn cỏ hoài. Nhưng mà bây giờ đang tu mà nếu ở đó được an ổn thì ăn cỏ cũng nên ở. Chứ đừng ở cái chỗ mà đức Phật đã khuyên, cho nên đừng có bỏ. Nhưng mà đến cái chỗ mà có cơm có y phục có đủ thứ để cuộc sống của mình và chỗ đó tu hành được thì ở đó suốt đời. Phật nói ở đó suốt đời vì chỗ đó có thể độ người được. Bởi vì có người mới đem cơm cho mình ăn, do đó mình phải trả ơn cho người ta chứ nếu mình bỏ đi không ở suốt đời thì sao trả ơn họ được, phải không? Ông Phật khuyên có lý lắm.

Đó thì hôm nay đức Phật muốn nói cái chỗ này và đồng thời thì cái bài pháp này còn dài và đức Phật có chỉ định chúng ta sẽ chọn một ông thầy, đây là chọn chỗ ở rồi chọn ông thầy, chớ không phải là không chọn đâu, đức Phật nói kỹ lắm chọn ông thầy phải ở như thế nào để mà tu hành cho được. Mà cái chỗ đó, mà ông thầy ở chỗ đó mà ăn lá cây mà tu hành được thì cứ sống với ông thầy, đừng có bỏ ông thầy, ông thầy có đuổi, có xô gì… ở đây Phật dạy mà. Thầy có đuổi xô gì thì đuổi miễn là mình cứ sống gần bên ông ta thì mình sẽ đạt được cái giải thoát. Miễn ở đó ổng ăn lá cây hay ăn gì thì ăn thì mình cũng ráng ăn với ổng thì chắc chăn sớm muộn thì mình cũng giải thoát như ổng. Ông có đuổi xô mình cái gì đi nữa, ổng có đạp đá mình nhất định là mình không rời ổng, còn cái chỗ nào có sung sướng mà tu hành không được thì bấy giờ ông thầy có ngọt dịu mời mình ở mình cũng không ở và bỏ đi nữa. Đó, những cái đó để sau này khi mà kết thúc thì Thầy sẽ đọc lại cái đoạn kinh đó để mà quý thầy chọn một bậc thầy mà tu tập. Còn bây giờ Thầy chỉ gợi nên cái ý để chọn nơi, nơi chốn chúng ta ở. Trong kinh nó đầy đủ lắm các con, Phật nói cái gì cũng có những cái hay của nó hết, nhưng vì chúng ta chưa có thực hiện được cho nên chúng ta cũng chưa thấy cái hay của nó.

Đến đây thầy cũng xin nhắc lại một vài cái mẩu chuyện để góp lại cho cái phần tu tập của chúng ta có những cái gương hạnh, mà trong mỗi bài kinh đều có những cái gương hạnh để chúng ta noi theo đó mà tu tập.

Và bây giờ Thầy thuật lại một vị Thánh tăng, ngài Ra Đa (Ràdha), ngài là một Bà La Môn lớn tuổi, ngài không làm hết bổn phận của mình đối với một Bà La Môn, ngài không được các Bà La Môn khác chấp nhận, ngài đi đến đức Thế Tôn và nói lên những lời ước muốn của ngài. Bậc Đạo Sư nhận xét ngài và thấy ngài có những điều kiện căn bản nên bảo ông Xá Lợi Phất chấp nhận cho ngài xuất gia và được Đạo Sư dạy bảo cho thấy rõ con người không khéo. Dạy cho ông thấy rõ cái sự khôn khéo tự huấn luyện tâm của mình, chế ngự các dục của mình. Đức Phật dạy cho ông cái pháp khéo léo huấn luyện cái tâm và chế ngự các cái lòng ham muốn của mình khi nó sanh khởi. Thầy dạy ông những cái điều đó thôi, hiểu được cái lời dạy này ông dùng cái thiền quán Định Vô lậu và Chánh niệm tỉnh giác, Định Sáng suốt, nhờ thế mà ông khéo huấn luyện tâm, khéo chế ngự các dục, không bao lâu ông chứng quả Alahan. Sau đó ngài làm bài kệ để nói lên kinh nghiệm tu hành của mình. Nghĩa là khi đức Phật dạy ông đó, là dạy ông khéo, khéo léo để huấn luyện cái tâm, rồi khéo léo để chế ngự các dục trong tâm ông. Thì lúc bấy giờ ông được học với đức Phật là cái Định Vô lậu, cái Định Chánh niệm tỉnh giác, cái Định Sáng suốt, nhờ đó mà ông lấy cái pháp đó mà ông dùng để điều khiển ông huấn luyện cái tâm của ông, ông chế ngự các lòng ham muốn của ông và cuối cùng ông chứng quả Alahan. Thì ông chỉ tu có ba cái định đó thôi chứ không có Định Hơi thở nhưng mà ông cũng thành tựu luôn cả cái Định Hơi thở luôn.

Bây giờ qua cái bài kệ của ông, nói kinh nghiệm của ông mà, để chúng ta thấy qua cái bài kệ của ông, ông nói cách thức nào mà ông khéo léo mà huấn luyện cái tâm ông nè, rồi chế ngự cái dục vọng của ông nè. Đây là cái bài kệ, nó có cái giá trị là ở chỗ cái bài kệ:

Như mái nhà vụng lợp

Mưa dễ thấm ướt vào

Cũng vậy tâm vụng tu

Tham ái được xâm nhập

À các thầy thấy ông ví nghe rất rõ như vậy. Hàng ngày chúng ta hằng sống đó, thì làm sao như mái nhà mình khéo lợp chứ còn vụng lợp thì mưa xuống thì nó nhiễm nó dột ở trong nhà mình ướt hết, thì cái tâm của mình nó lậu hoặc cũng vậy nó rỉ dải, rỉ dải tùm lum ở trong đó hết. Ngồi đây mà để cái tâm mà nhớ nhà hoặc để cái tâm nghĩ cái này lăng xăng cái kia thì cái đó là mưa nó dột đó đó. Cái đó là mưa dột đó. Nhà chúng ta lợp kỹ rồi, cho nên huấn luyện cái tâm của mình là như cái người mà lợp cái nhà mà lợp chưa kỹ, lợp cho kỹ thì như thế nào? Ba cái pháp, ba cái định đó ông có kẽ hở không? Các con hiểu cái điều đó chưa? Cho nên ở đây nếu mà ba cái pháp này liên tục hàng ngày tu không có khe hở thì để cho cái tâm mình khởi nghĩ cái gì hông? Mà nó không nghĩ thì các con thấy nó kín không? Nó kín thì nó đâu có dột, phải không? Cho nên ông nói bài kệ sau này:

Như mái nhà khéo lợp

Mưa không thể thấm vào

Cũng vậy tâm khéo tu

Tham ái không thâm nhập

Mà nó không thâm nhập một thời gian, hai năm, ba năm cái nó sạch bóng, nó hông ướt thì cái nhà mình khô reo thì bắt đầu đó là thành tựu đạo Phật chứ gì, có gì đâu. Đó là cái kinh nghiệm của ông qua cái sự tu tập của ông, ông nói lại chúng ta thấy rất rõ. Còn hàng ngày quý (...) vậy là cái nhà của mình dột, thường thường Thầy thấy quý thầy tu chứ nó có kẽ hở, cho nên cái nhà quý thầy lột ra thấy trần, mưa xuống nó dột, có hông? Quý thầy cứ nghĩ coi xem cái nhà của mình có dột không? Ai có dột thì biết chứ gì, ai không dột mình tự biết. Bởi vì mình tu cái nhà của mình kín hay không kín mình biết chứ, đó là cách thức mà khéo huấn luyện cái tâm của mình đó, đó là vậy đó. Mà ở đâu đức Phật đã cho chúng ta ba cái loại định để mà huấn luyện nó mà, thế mà mình cứ để cho nó dột hoài à. Trời đất ơi cất có một cái chòi, cái nhà mà cũng để cho nó dột ướt vậy thì Thầy nói thôi, còn cái gì mà gọi là tu, phải hông? Các thầy nghĩ coi mình có để dột không? Có chớ làm sao không, nếu mà không có thì từ hôm vào hạ tới nay các thầy gần như là thành tiên hết rồi. Có tâm đâu mà phiền não đâu? Chứ không phải nhìn gương mặt của mấy thầy nụ cười nở trên đó hết chứ đâu có còn mà lăng xăng, phải hông? Cái này nó chưa đâu, nó dột tùm lum thành ra cái mặt nó héo. Cái nhà dột thì có ai mà vui được, phải hông? Cái nhà không dột thì mới vui được chớ, đó là cái thực của một cái đạo của Phật đã dạy thực chớ không phải, qua cái bài kệ này thấm thía lắm quý thầy.

Đây là một bên nữ, có một vị tu hành mà Thầy xin đọc để chúng ta thấy cái vị này. À, đây là tới 500 người lận, 500 bà Liên hoa sắc, đây là 500 cô gái mà đến tu tập chứ không phải một người, nhưng mà qua cái bài kệ để chứng tỏ do các vị này tu tập những cái pháp môn nào mà có thể đi đến cái chỗ mà được giải thoát đây? Có 500 cô gái lấy chồng, có con sống lo việc bếp nước trong gia đình, chúng đều chịu sự đau khổ khi con của chúng bị chết, rồi chúng đi tìm bà Hoa -Ni -Sắc Tỳ kheo đảnh lễ bà rồi xin kể nỗi khổ đau của mình. Bà Hoa - Ni - Sắc Tỳ kheo khuyên lơn an ủi làm cho 500 cô Liên Hoa vơi bớt sự đau khổ và nói lên bài kệ như sau, nghĩa là bà Hoa – Ni - Sắc bà nói lên cái bài kệ để an ủi các cô này bằng các bài pháp. Nhưng đây là cũng là một cái pháp hướng, trạch ra một cái pháp hướng của cái này để cho các cô này dùng cái pháp đó để mà tu tập sau này.

Đây là bà nói cái bài kệ:

Người không biết con đường

Nó đến hay nó đi

Từ đâu con trai đến

Người lại khóc: 'Con tôi'.

Đó là bà nói bốn câu kệ thứ nhất, bây giờ Thầy đọc lại các thầy suy ngẫm.

Người không biết con đường, nghĩa là nói như chúng ta chưa có biết con đường đâu, chưa có biết con đường nhân quả đâu.

Nó đến hay nó đi, nghĩa là nói con mình nó đến hay nó đi, từ đâu nó đến, mà từ đâu nó đi đây?

Từ đâu con trai đến, à đứa con của mình là con trai một đó nó đến, từ đâu nó đến đây?

Người lại khóc con tôi.Nghĩa là các cô lại khóc con, cái người đó họ đến chứ, họ là con của cô, mà cái người đó là ai cô có biết không, đâu có biết, đó là cái ý của cái bài kệ nói.

Chứ nó đến nó đi đâu có biết được, mà nó đến thì mình lại khóc con mình, chứ nó biết nó là con mình hay là ai đây? Mà tại sao cái mình sanh nó ra rồi mình nhận nó là con mình rồi mình khóc à. Còn hồi mà nó chưa có thì nó ở đâu, đó là có phải con mình hông? Mà rồi nó vô nó đi, nó đến nó đi mình đâu có biết được nó đến đi hồi nào, mà nó lọt vô bụng mình, mình sanh ra cái rồi mình khóc con mình. Như vậy nó là ai đây? Cho nên mấy cô đâu có biết, vì vậy mà khóc tầm bậy, không đúng. Phải hông? Cho nên bây giờ thấy vợ mình mà tưởng đó là vợ mình à? Nó đến đi do đường nhân quả nó đến đi nó mới là vợ mình bây giờ chứ mai mốt nó vợ ai chứ đâu phải vợ mình, vậy mà ngồi đây mà nhớ nó? Đó là cái lầm lạc, cái hiểu sai cho nên ngồi đây mà thương vợ nhớ con là cái điều trật, không đúng. Đâu có biết được cái đường đi nhân quả của nó đâu, cho nên bà nói rất đúng, bà Hoa -Ni -Sắc Tỳ kheo bà nói rất đúng.

Người đâu biết con đường

Nó đến hay nó đi

Người khóc nó làm gì

Nó đến nó đi nó đâu có phải cái liên hệ gì mình, nó là cái nhân quả mà, nó vay nợ mình nó đến nó đòi mình mà bây giờ mình lại khóc nó là khóc làm sao?

Người khóc nó làm gì

Pháp hữu tình là vậy

Phải hông? Đó là các pháp nó đến nó đi. Vợ mình, con mình, những người thân của mình, cha mẹ mình là các pháp hữu tình chứ đâu phải là cái gì của riêng mình đâu mà mình giành. Mình giành nó là của mình xong mình khóc, vì tại vì mình mê muội cho nên mình giành nó là của mình, cho nên mình thấy nó chết mình khóc, chớ còn nếu mà mình đừng có giành nó thì nó là của ai đâu, thì nó đi đâu nó đi, nó đến nó đi. Cũng như bây giờ mình ngồi đây là chủ nhà này, có một người khách đi ngoài đường họ vô nhà mình, rồi cái họ đi ra, thì mình đâu có nghĩ mình thương tiếc gì. Thì đó là người khách họ đến nhà mình rồi họ đi chứ họ đâu có ở, cho nên nó đến nó đi thì mặc nó có can dự gì đến mình mà ngồi đó mà khóc, mà buồn, phải hông? Thấy như vậy gọi là thấy được cái nẻo của nhân quả luân hồi. Còn mình không thấy được như vậy, cái tâm của mình hễ nó vô nhà mình rồi nó đi cái mình khóc. Cái đó là mình không thấy nẻo luân hồi. Các con thấy sâu sắc của đạo Phật chưa?

Cho nên từ đó mà mấy cô này mới tỉnh ngộ, mới không khóc nữa, mới không đau khổ chứ còn nếu bà này không có làm cái bài kệ này thì mấy cô này chắc chết điêu chết đứng với mấy đứa con mà bị chết. Thì thử nghĩ chúng ta có đứa con chết chúng ta có khổ không? Mà chúng ta đâu có thấy nhân quả phải hông, nó đến nó ở đâu nó đến chứ mình biết nó ở đâu, là ai mà nó vô nhà mình rồi mình nói nó là con, rồi bây giờ nó chết rồi mình khóc, chết tức là nó đi, nó ở đâu nó đến rồi nó đi mà mình khóc mình nói nó là con mình, vợ mình hoặc những người thân mình. Trời ơi, thiệt là ngu si sao mà ngu si, bởi vì học Phật pháp rồi Thầy thấy cái người ta mà khóc người chết Thầy thấy sao mà ngu ngu quá ngu, vô minh quá độ. Tại sao không thấy, ngu quá, ở đâu nó đến, pháp các pháp bởi vì pháp hữu vi và pháp hữu tình là nó như vậy nó đến nó đi chứ đâu phải. Mọi người đều là pháp chứ gì? Mà đến đi mặc nó chứ mắc mớ gì mình lại khóc, vô nhà mình rồi bắt đầu đi cái mình khóc còn hồi đó ở ngoài đường sao mình không khóc? Đó là cái khóc bậy, khóc vô minh.

Không có ai yêu cầu

Từ chỗ kia nó đến

Mình có yêu cầu nó đến mình đâu, mà giờ tự nhiên ở đâu nó đến cái bắt đầu khóc chớ có phải mình yêu cầu ờ thôi bây giờ chú anh đến nhà tôi đi, làm con tôi đi thì thôi nó đến thì thôi mình cũng chấp nhận là con mình, mình khóc cũng phải, đằng này mình có yêu cầu nó đâu. Nó đến cũng thình lình mà nó đi cũng thình lình, cũng như bây giờ mấy chú thanh niên nho nhỏ bây giờ đâu có biết cái cô nào là vợ mình, bỗng dưng thấy cô đó có cảm tình được, đi cưới cô ta về làm vợ chứ đâu có chắc là cô đó, phải hông? Nó đến tự nhiên nó đến trong cái vay nợ nhân quả mình, mình đâu có hay chừng đó gặp nhau, họp mặt nhau thấy được cảm tình với nhau lôi nhau thành vợ chồng đẻ ra một bầy con, phải báo khổ nhau không? Ngu si gì mà ngu si đến cái độ, mà khi rủi nó có chết này kia rồi khóc lóc, trời đất sao mà không thấy nhân quả gì hết. Bởi vậy cuộc đời tu hành của đạo Phật nó vạch ra từng cái khía cạnh nhỏ để chúng ta biết được cái điều đó, thế mà con người ngu quá ngu. Thầy nói thiệt, họ cứ chấp chặt cái gia đình của họ, họ cột chặt, trói trong đó họ không thấy nhân quả, họ không thấy kẻ đó có phải mình muốn hoặc yêu cầu họ đến đâu. Cho nên bà ấy nói:

Không có ai yêu cầu

Từ chỗ kia nó đến

Nó từ đâu nó đến mà đâu có ai yêu cầu nó. Không có ai cho phép, cũng không có ai cho phép nó đến, phải hông, đâu có ai cho phép, nhân quả mà làm sao ai cho nó được. Từ chỗ nọ nó đi, nghĩa là bây giờ mình cũng đâu có bắt buộc mình cho phép nó đi đâu. Rồi nó muốn đi tức là nó chết thì nó chết chứ mình làm sao mà kéo nó được đâu. Bài kệ quá tuyệt, chỉ đường lối nhân quả quá hay mà đâu có dở đâu. Rõ ràng là bà này thiệt là thông suốt nhân quả cho nên bà ấy viết bài kệ này Thầy rất là tâm đắc cái chỗ bài kệ này, là Thầy đã hiểu nhân quả, thì bà này lại cũng hiểu nhân quả cũng như Thầy, không khác chút nào hết, Thầy biết nó rất rõ. Cho nên đối với Thầy không có nước mắt tầm bậy, còn các con lơ mơ là đổ nước mắt cả đống chứ hông có dễ đâu. Chưa có hiểu cái này các con khổ sở lắm.  Cho nên ông Anan mà nghe Phật chết ông khóc lu bù là vì ông ấy chưa hiểu nhân quả. Các con biết ông ấy ra rừng mà ông ấy khóc hù hù. Mặc dù ông Anan là ông ấy thông kinh sách chứ ông ấy chưa có thông nhân quả đâu, cho nên ông ấy khóc dữ tợn lắm. Còn cái bà Hoa- Ni -Sắc Tỳ Kheo này bà đã thông nhân quả.

Không có ai cho phép

Từ chỗ này nó đi

Từ đâu nó đi đến

Được sống bấy nhiêu ngày

Nó được sống bao nhiêu ngày thì hay bao nhiêu ngày chứ nó đâu có cần biết gì mà nó sống cho nhiều hoặc là nó sống bao nhiêu thì kệ nó, ăn thua gì với nó, nó đến nó đi kệ nó, có mắc mớ gì mình đâu mà mình buồn khổ.

Từ chỗ này nó đến

Từ chỗ kia nó đi

Nó đến một con đường

Nó đi một con đường

Nó đến thì một con đường, nó đi thì một con đường, nhưng con đường đến, con đường đi nó chỉ là nhân quả thôi chứ đâu có gì đâu.

Mạng chung hình sắc người

Luân hồi nó sẽ đi

Đến vậy đi như kia

Ở đây khóc than gì ?

Các câu bà kết luận nghe rất là thắm thía, ở đây khóc than gì? Mà bà Hoa - Ni - Sắc Tỳ kheo bà đã từng khóc hai đứa con của bà, từng khóc cha mẹ chết, từng khóc đứa em trai chết trong một lúc thì các con biết bà đứt ruột biết bao nhiêu. Sau khi theo tu đạo Phật bà mới thấu rõ được cái lý nhân quả, cho nên bà mới viết bài kệ thấm thía, đến thấm thía vì cái người mà đang sống ở trong cảnh đau khổ đó người ta mới hiểu được cái nhân quả. Người ta tu chứng được người ta thấy được cái nhân quả, còn người chưa chứng được người ta bị mờ mịt không thấy gì hết.

Sau khi nghe xong bài kệ, 500 Liên Hoa Sắc cảm thấy tâm hồn dao động liền xuất gia dưới dự lãnh đạo của bà Hoa- Ni - Sắc Tỳ kheo. Sau khi xuất gia 500 nàng giới pháp tín thọ, tín nghĩ, tín nghĩa thọ, giới pháp tín thọ, nghĩa tín thọ, pháp tín thọ, nghĩa tín thọ, nghĩa là đây Thầy đưa ra cái pháp mà cho 500 vị này mà tu tập đó, tức là bà Hoa- Ni -Sắc Tỳ kheo đưa ra cái pháp, với cái pháp, cái pháp đầu tiên là pháp tín thọ, cái pháp thứ hai là nghĩa tín thọ. Các nàng triển khai thiền quán, tùy pháp, hướng pháp chẳng bao lâu chứng quả Alahan, sau khi chứng quả Alahan các nàng làm kệ, các bà đó làm kệ.

Thì cái nghĩ như thế nào, cái pháp tín thọ, cái pháp tín thọ khi mà nghe cái bài kệ rồi thì mấy cô Liên Hoa Sắc này, các cô thấy rất rõ cái đường đi nhân quả, cho nên các cô tin thọ, tin mà thọ đó, tin là tin sâu đó, tin không có bao giờ mà tin một cách lờ mờ đó. Thấy rõ cái đường đi của nhân quả, cho nên các cô này đang còn cha mẹ gì hết, cắt đứt hết. Tôi thấy rõ đường đi của nhân quả rồi, nó đến nó đi cha mẹ tôi có đến đi cũng là nhân quả đi nó ở kia nó đến mà nó hợp với nhân quả cho nên tôi là con vậy thôi chứ không có cái gì khác hết. Cho nên tin quá thôi, tin thọ, tin quá tin không có nghi ngờ.

Mà cái nghĩa, ở đây cái nghĩa tín thọ, cái nghĩa đó, cái nghĩa mà hiểu ra làm cho các cái cô này rất là tin tưởng, tin tưởng từ trong thân tâm của mình cho nên bắt đầu bỏ hết của cải tài sản. Bắt đầu bỏ hết cái sự sắc đẹp của các cô, dẹp hết, dẹp hết hoàn toàn cho nên cái câu, cái pháp mà tín thọ, cái pháp nghĩa tín thọ này nó có cái nghĩa đặc biệt là ở chỗ này, là cắt đứt tất cả những cái dây mơ rễ má mà cái lộ trình thứ nhất mà con người cư sĩ cần đi.

Còn chúng ta bây giờ có đủ cái niềm tin ở cái pháp tín thọ chưa, có đủ cái niềm tin mà hiểu được nghĩa của những cái bài kệ này chưa? Còn người ta chỉ nghe cái bài kệ thôi, mà người ta đã với cái pháp tín thọ và nghĩa tín thọ. Thì các thầy đã nghe Thầy giảng chứ nhưng mà có được tin như vậy không? Có làm được như vậy không, làm được như vậy mới là pháp tín thọ và nghĩa tín thọ, còn làm chưa được như vậy thì chưa được gọi là pháp tín thọ và nghĩa tín thọ.

Đó, Thầy giải thích như vậy, quý thầy có hiểu chưa? Nghĩa là mình làm cho được như các cô này, mà dứt bỏ được như vậy để mà thực hiện con đường tu hành cho đến chứng quả Alahan như vậy đó, mà dứt bỏ một cách “rụp” như vậy, đến đó quá khổ là bị dính mắc tất cả những sự thương ghét cha mẹ, anh em, nhà cửa con cái của mình, đau khổ nó đến mà khi bà nói bài kệ thì đã thông suốt được cái lý nhân quả rồi. Cho nên dứt bỏ liền tức khắc xin xuất gia liền tu hành theo bà liền, không có hề mà còn thương ghét gì đối với gia đình vì con đường nhân quả quá rõ. Nội cái bài kệ không, Thầy đã thấy rằng khi mà cái người mà tín thọ và nghĩa tín thọ này thì thấy cuộc đời không có gì cả, không còn con cái, này nọ, nghĩa là dẹp sạch hết thì mới đúng là cái nghĩa pháp tín thọ và nghĩa tín thọ. Còn nếu mà chưa được vậy, chưa cắt đứt được vậy thì chúng ta chưa dám dùng cái danh từ, hoặc là cái pháp đó gọi là pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Còn nếu mà chúng ta làm được thì mới gọi là pháp tín thọ, nghĩa tín thọ.

Đó thì, những cái danh từ nó dùng trong kinh, nó nhấn mạnh đến - mức độ mà chúng ta không ngờ được ông Phật ông dùng những cái danh từ như vậy để mà chỉ cho cái người đoạn dứt, đoạn lìa ra các sanh pháp của thế gian mà không cho nó dính mắc ở trong ấy. Cho nên sự chứng quả Alahan của các vị này cũng rất là nhanh chóng, không phải là khó khăn. Đây thầy đọc bài kệ

Cây tên khó thấy được

Nghĩa là các cô đó nói ví dụ như những cái sự tình thương, cái nhân quả, mà tình thương đó giống như là cái mũi tên.

BĂNG SỐ 23

Mặt A:

Chúng ta thương chúng ta khổ đó, từ tim của chúng ta chứ đâu. Cho nên các thầy nhớ là đôi trai gái nó có vẽ trái tim đó, nó thương nhau cũng từ trái tim mà nó ghét nhau cũng từ trái tim, phải không? Đó cái chỗ đó đó, cho nên nó từ trong trái tim đó mà nó đâm, cái mũi tên đó nó vô hình lắm, nó không khó thấy lắm nhưng mà nó đâm nát tim người ta, giết chết người ta. Ngồi tu chứ nó đâm nát tim của chúng ta, ở đây thì nhớ con nhớ vợ hoặc là nhớ của cải tài sản, đó là chúng ta bị mũi tên độc đó nó đâm ở trong tim chúng ta. Ở đây mà ngồi nhớ chùa nhớ miểu thì nó cũng đâm nát tim của chúng ta chớ không phải thường đâu. Ngồi đây mà chúng ta nhớ ăn nhớ uống thì nó cũng đâm nát tim chúng ta chứ không phải không đâu. Đó cho nên ở đây câu kệ đầu tiên:

“Cây tên khó thấy được

Từ tim ta nhổ lên

Ta diệt sầu vì con

Sầu ấy ám ảnh ta

Nay cây tên được nhổ

Không ham muốn tịch tịnh

Không thương ghét một ai

Ta quy y ẩn sĩ

Phật pháp và chúng tăng”.

Đó các con thấy nghe nó đơn giản, nhổ được cái mũi tên nó ra thì dễ dàng tu hành lắm, mà chưa nhổ được cái mũi tên đó thì như là mình chưa có bứt ra được lộ trình thứ nhất thì không thể nào đi lộ trình thứ hai. Cho nên ở đây ví dụ thì Thầy thấy cái mũi tên này là cái lộ trình thứ nhất. Nó phải nhổ cho được mũi tên ra, cho nên cái bài kệ quá thấm thía cho cái cuộc đời tu hành của các thầy hôm nay.

Để cho các thầy càng sáng lên, càng rõ lên, càng hiểu lên, càng minh mẫn ra, nó không phá trừ những cái vô minh mà từ lâu nay mình chấp đắm đó, thì hôm nay quý thầy thấy rõ rồi phải không.

Bây giờ Thầy đọc lại bài kệ để một lần nữa để cho quý thầy nhớ kỹ:

Cây tên khó thấy được

Đó mấy cô này ví dụ cây tên đó chúng ta khó thấy quá, mà không có người chỉ thì chắc chắn là tim của chúng ta bị nó đâm nát, không có còn.

Từ tim ta nhổ lên

Cái tên đó nó đâm ở trong tim của chúng ta, bây giờ, từ đó mình nhổ lên chứ không ở chỗ nào.

Ta diệt sầu vì con

Sầu ấy ám ảnh ta

Nay cây tên được nhổ

Không ham muốn tịch tịnh

Không thương ghét một ai

Ta quy y ẩn sĩ

Phật pháp và chúng tăng.

Bây giờ mới được là nương vào 3 ngôi Tam Bảo, cho nên sắp sửa tới đây Thầy sẽ giảng cái giới bổn nói về quy y Tam Bảo, chứ nếu mà.. Bởi vì quy y Tam Bảo tức là quy y 3 cái giới đầu tiên, chứ không phải nói là 250 giới, hay là 348 giới, hay hoặc là ngũ giới hay hoặc là thập giới, hay hoặc là 10 cái thập thiện, không phải đâu. Mà 3 cái giới đầu tiên là 3 giới gốc đó, là quy y Tam Bảo đó. Phải học được 3 cái giới gốc, rồi mới lần đó mình mới tăng ra tới các giới khác nó mới đúng là mình quy y, mình nương theo. Mà quy y theo 3 Tam Bảo đó là nương theo 3 cái giới, 3 cái giới hạnh đó, để cho mình tu hành. Mà 3 giới hạnh này là Phật hạnh nè, Pháp hạnh nè, Tăng hạnh nè, phải không? Nếu mà không có những gương hạnh này thì lấy ai mà làm gương cho mình tu. Cho nên 3 cái này là mình phải hiểu là 3 cái giới đầu tiên, bắt đầu quy y Tam Bảo. Đó, đến đây thì chúng ta nghỉ chút xíu.

Giới luật là một bộ môn học đạo đức giải thoát của người tu sĩ Đạo Phật, vì thế trong quá trình phát triển từ lúc sơ khởi đến bây giờ đã cho chúng ta nhận xét thấy được giá trị sứ mạng của nó về tinh thần cũng như về mỗi hành động đạo đức chơn thật mà người tu sĩ không thể thiếu được. Nhờ nhìn vào giới luật chung, chúng ta có thể xác định được triển vọng tương lai của Phật giáo ở ngày mai. Nghĩa là khi mà bộ môn giới luật học này mà đã thực hiện được thì chúng ta mới có hy vọng củacái triển vọng cái tương lai của Phật giáo. Nếu mà cái bộ môn giới luật này mà không thực hiện ở trong các vị tu sĩ, mà thực hiện cái đạo đức của nó thì Phật giáo ở ngày mai chúng ta thấy đen tối, không bao giờ sáng sủa được.

Pháp luật của một quốc gia đối với người dân tuân giữ pháp luật vốn chẳng có tác dụng nếu muốn bảo vệ an toàn và lợi ích cho những người tuân giữ pháp luật nên cần phải có pháp luật. Pháp luật cần phải được thiết lập vì trật tự an ninh xã hội và cuộc sống của con người. Ở đây thì đem cái ví dụ cũng như pháp luật của nhà nước. Nếu một người dân mà tuân giữ pháp luật thì pháp luật không có tác dụng. Do có những người dân mà không có giữ được pháp luật, làm cho mất trật tự an ninh, cho nên pháp luật mới ra đời để giữ gìn những cái người mà phạm pháp luật, làm mất trật tự an ninh, đem lại cái sự an ninh cho những cái người mà tuân giữ pháp luật. Đó là cái ý nghĩ cái pháp luật của một quốc gia là như vậy.

Cũng thế, nó có cái tương tự ở trong Đạo Phật thì nó cũng vậy, cho nên Phật chế định giới luật không phải là bắt buộc cho đệ tử của mình. Chế giới luật không phải là bắt buộc như là cái pháp luật của nhà nước bắt buộc những người phá giới. Nhưng mà chế giới luật ở đây nhằm để đưa cái người đệ tử của mình đi đến chỗ giải thoát chớ không phải là bắt buộc. Còn cái bắt buộc thì thôi, cái người vô tu mà bắt buộc họ phải giữ gìn giới luật như là pháp luật thì thôi xin khuyên cái người đó ra đi đừng có ở tu, vì ở đời cũng có chỗ mấy người sống chứ mấy người vô đây mà bắt buộc mấy người khổ quá như vầy thì tôi không có làm cái điều đó đâu. Cái giới luật của chúng tôi mà đặt chế ở đây là để cho cái người đó được giải thoát, chớ không phải bắt buộc mấy người vô đây mà chịu khổ. Đó, thì do đó mấy người ở ngoài tự do đi. Muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, chứ còn ở đây thì ăn ngủ không có được tự do đâu. Cho nên không phải bắt buộc quý vị mà vô đây để khép quý vị ăn một bữa đâu, tôi không có bắt buộc cái điều đó đâu. Quý vị thấy rằng ăn một bữa là có sự giải thoát cho quý vị thì quý vị cứ ở mà sống mà ăn chứ không phải là cái sự đặt giới luật ra bắt buộc quý vị ăn ngày một bữa.

Cũng như người nào vô đây ăn ngày một bữa mà quý vị cứ đói lên đói xuống hoài thì tôi chịu không có nổi đâu, tôi thấy quý vị khổ quá tôi chịu không có nổi đâu, tôi đặt ra cái kiểu này tôi làm khổ quý vị chắc tôi không dám đặt đâu. Cho nên ông Phật ông khuyên, giới luật của ông không phải là pháp luật của nhà nước. Pháp luật của nhà nước là muốn giữ trật tự an ninh chung cho mọi người mà người ta tuân thủ pháp luật, còn cái này, tôi đặt ra cái pháp luật này là để cho người ta đi tìm lấy con đường giải thoát. Còn quý vị muốn giải thoát thì quý vị sống như chúng tôi thì quý vị thấy giải thoát. Mà không sống được mà lấy cái giới luật này mà bắt ép quý vị ăn ngày một bữa để cho người ta nói tu sĩ hoàn toàn ăn ngày một bữa hết á, mà trong đó có một số thì người ta lấy cái đó làm cái giải thoát, còn có một số thấy cái đó đói khổ quá thì chắc chắn là tôi mời quý vị về ngoài đó sống ăn ba bữa đi cho nó khỏe, chứ còn ở đây tôi thấy khổ quá, mà hơn nữa cái pháp tôi đặt ra là để giải khổ mà bây giờ đem cho quý vị khổ như vầy tôi không nỡ tâm nào hết.

Cho nên Đạo Phật không có giải thoát là tại ở chỗ tâm của quý vị chứ không phải là pháp môn của tôi, đức Phật muốn nói vậy đó.

Mà chính vì con đường giải thoát của các tu sĩ và cư sĩ, và cũng là phương thuốc ngăn ngừa sự hư đốn của tăng đoàn. Đó, thì chúng ta phải hiểu cái giới luật của Phật ra là đem cái pháp môn đó làm cho cái sự giải thoát cho tu sĩ và cư sĩ. Mà cũng phải nói rằng trong cái tăng đoàn thì nó có nhiều người, thì cũng có những người hư đốn chứ đâu phải người nào cũng tốt hết sao. Cho nên đó, cái giới luật nó ra nó ngăn ngừa cho những người mà hư đốn phạm phải những cái ăn phi thời hoặc là những cái sai. Đó, cho nên đó là những cái hư đốn. Như vậy là quý thầy đã hiểu được cái chỗ đó rồi thì mới thấy được giới bổn của Phật giáo nó không phải là cái sự khô cằn cỗi đâu, nó không phải là sợi dây lòi tói mà trói buộc, mà bắt buộc quý vị phải ăn một bữa đâu, nó không có khép chặt quý vị….

Đó, quý vị hiểu như vậy thì mới thấy được cái giáo pháp của đức Phật nó mới có một cái giải thoát nó không làm khổ ai hết, nó không trói buộc ai hết.

Tu sĩ nếu không có giới luật làm tiêu chuẩn phép tắc cho sự sinh hoạt tu tập hằng ngày thì liệu sự tu tập hằng ngày liễu sanh thoát tử thì không phải dễ dàng đâu. Nếu mà nó không có giới luật thì đi tìm cái liễu sinh thoát tử không có dễ dàng, là vì có giới luật ở đó thì chúng ta mới đi tìm cái liễu sanh thoát tử nó mới có dễ dàng. Cho nên cái giới luật nó rất là quan trọng, nhất là cái giới hạnh, giới hạnh tức là giới bổn đó.

Tăng đoàn mà không có giới luật làm cương lĩnh thống nhiếp, giáo hóa thì tiền đồ của Phật giáo không những tan rã mà tu sĩ Phật giáo sống trong đen tối. Chúng ta phải hiểu cái chỗ này nữa. Là vì nếu mà không có cái giới bổn này làm cái cương lĩnh thống nhiếp giáo hóa thì chắc chắn là cái con đường của Phật giáo nó tan rã, chứ nó không có còn đâu.

Vì bây giờ tại sao mà chúng ta thấy Phật giáo hiện giờ nó không có cái giới luật nghiêm chỉnh mà nó còn làcó lúc nó hưng có lúc nó thịnh, à chúng ta phải suy nghĩ như thế này thì chúng ta thấy rất rõ. Là vì bây giờ nó hưng là nó theo một vị thầy, nó theo một vị tổ, nó hưng theo cái vị thầy vị tổ đó. Rồi cái vị thầy vị tổ đó hướng dẫn sao nó tin tưởng theo, nó theo đó, cho nên nó hưng là nó hưng theo cái vị thầy. Còn khi mà vị thầy đó mất rồi thì nó suy xuống, nó không còn ai nó theo nữa thì nó suy xuống. Cho nên thường thường là Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo bên Trung Quốc là cái Phật giáo nó không có chấp hành cái giới luật nghiêm chỉnh, cho nên nó thịnh suy là theo cái vị tổ của nó mà thôi, cái vị hướng dẫn đó. Nó có lên xuống lên xuống thường xuyên, lâu lâu vậy có vị xuất hiện ra nói, ăn nói nghe lưu loát cái là bắt đầu họ tập trung theo, rồi họ tu tập, rồi hết vị đó chết rồi không còn ai mà ăn nói lưu loát nữa hoặc là số ăn nói lưu loát đó họ cứ nghe hoài nhàm tai rồi họ thấy nó cũng không có nhằm nhò gì đến sự giải thoát cho nên họ bắt đầu lui dần lui dần thì trong cái bóng tối dần.

Cũng như mình thấy thiền Trúc Lâm của mình một thời của 3 vị tổ như là Trần Nhân Tông, như là PhápLoa, như là Huyền Quang, 3 vị đồng thời một lượt với nhau trong một cái thời điểm rồi phát huy cái thiền Trúc Lâm. Rồi do đó, sau đó sau khi các vị này tịch rồi thì hầu như nó chết lìm chết lìm dần đi mất, không còn người nào nữa hết. Là tại vì nó hưng thịnh theo cái giáo pháp của các ngài đó, mà người ta nghe nó hay thì người ta tập trung nhưng sau đó thì người ta không thấy nó đạt kết quả nữa cho nên người ta lui dần. Vì vậy mà cái thiền này nó bị lui vào ở trong bóng tối, nó không còn sống được nữa.

Còn cái giới luật của Phật đặt ra mà từ ngày đức Phật đến giờ nó không có được thay đổi, cho nên ở đây trong cái giới luật Thầy sẽ nhắc lại, như ông Ca Diếp thì ông khi mà kết tập giới luật xong thì ông nói: “Có nhiều người nói đức Phật bảo thay đổi những cái giới nhỏ nhặt nào đó, bỏ bớt đi, mà đức Phật không nói ra những giới nhỏ nhặt nào đó cho nên người ta cũng không biết sao hết”, Cho nên ông Ca Diếp nói: “Không có bỏ cái giới nhỏ nhặt nào hết, mà cũng không có thêm được cái giới nào hết”, thì ông Ca Diếp ông nói kiểu ổng thì chắc chắn cái giới của ổng thành cái cây rồi. Cho nên cái mà tuyên bố như vậy thì Thầy nghĩ rằng đó là cái giới cây chứ không phải là giới luật của Phật.

Giới luật của Phật nó linh động và nó khéo léo, mà nó cũng không thêm mà nó cũng không bớt. Bởi vì đức Phật đã di chúc cho chúng ta hẳn hòi là: (các thầy nhớ kỹ lời di chúc cuối cùng của đức Phật như thế nào?) “Các thầy Tỳ kheo hãy lấy giới luật ta mà làm thầy” thì cái chỗ đó có bớt được không? Nếu bớt thì đức Phật đã bớt trong khi đức Phật còn sống, phải không? Sau này các ông thấy giới luật nó gò bó quá như vậy, bớt ra cho đỡ đỡ chút, để dành có muối ăn chớ, nếu không có bữa đi xin người ta cho cơm không, không có muối về ăn lạt chịu sao nổi.

Cho nên có cái ông Đại Thiên, ổng chế ra cái giới mới của ổng: “Đức Phật còn cho chúng ta để dành muối”. Thầy thấy cái chuyện đó là cái chuyện còn chạy theo dục lạc, ăn cơm mà không muối chắc nuốt không vô rồi. Có gì đâu mấy con, Thầy nói thật sự ăn cơm không có muối có gì đâu, chế nước vô lua cứ tống cho nó vô, nó không vô lấy cái muỗng mở cái cổ ra cho nó chạy vô trỏng thì nó cũng vô trỏng, có gì ở đó mà mặn lạt, phải không? Nó vô một hơi nó đầy thì cũng phải no thôi. Cái chuyện đó là cái chuyện của người ăn để mà sống chớ không phải là cái người ăn để ngon.

Còn mình sợ không có muối nên đặt ra cái giới “Phật còn chế ra cái bớt cho chúng ta là bỏ bớt, là còn được cất giữ muối để dành” để bữa nào đi xin người ta cho cơm không về lấy muối đó để ăn. Có phải là chạy theo dục lạc không? Đây là Thầy nói cái muối không cũng là đủ biết cái nghiện muối của chúng ta cũng là nghiện. Cho nên có người thì ăn mặn quá mà cũng có người ăn lạt. Đó các con thấy cái điều đó là cái điều nghiện của chúng ta chứ đâu phải cái gì. Thử bữa nào mà đem cơm không, mà không có cho đồ ăn, rau luộc cũng đừng có cho muối các con nuốt vô không? Chắc gì mà vô. Thầy thì bao nhiêu Thầy thọc cũng vô hết. Phải nó không vô, lấy cái muỗng nạy ra cho nó vô, đổ nước cho nó chảy vô hết, có gì đâu mà sợ. Cái cổ của mình là cái ống chứ đâu có phải là gì đâu mà không tuột. Còn mấy con mà nuốt nhai như vậy thôi nuốt trợn trắng con mắt mà nuốt không vô đâu. Biết cách thì nhét nó vô được hết thì nó no mà không biết cách thì chắc nó đói ở trỏng. Đó là cách thức mà của người tu, chớ không phải cái người mà không tu.

Cho nên ở đây Thầy thấy hầu hết là nói về giới bổn, Thầy đọc Thầy mắc tức cười cho mấy ông ngày xưa mà sao mấy ổng thiệt là tìm mọi cách mà phá giới đó, mà ông Ca Diếp lại tuyên bố cái kiểu đó là ổng... Thầy không biết ổng hiểu giới như thế nào. Nếu mà có ông Upali ở đó chắc là ông rằn ri lắm, ông nói kiểu này chắc đời sau là họ chết hết đó. Nó khô quá khô à, không cho thay đổi, mà không gì hết. Tức là giới luật người ta linh động lắm chứ, nhưng mà người ta đâu có thêm mà người ta đâu có bớt, bởi vì giới luật là thầy của mình rồi, mà đức Phật đã xác định như vậy rồi thì giới luật đó không bao giờ được thêm mà cũng không bao giờ được bớt. Tại sao vậy? Tại vì nó đầy đủ rồi, nó không thiếu. Nghĩa là bây giờ tới thời đại nào nó cũng đầy đủ hết, cái hoàn cảnh nào, cái thời đại nào nó cũng phải như vậy là như vậy. Nghĩa là nó là một cái chơn lý của giới luật. Là một bậc thầy của chúng ta rồi thì không bao giờ mà ông thầy đó được thay đổi, từ cái ngày đức Phật đã chế nó ra cho tới bây giờ chúng ta sống nó phải như vậy, mà kẻ nào làm khác là kẻ đó không bao giờ đi đúng con đường của đạo Phật.

Thầy nói như vậy, cái xác định của Thầy là cái xác định rất linh động. Chẳng hạn như hồi đó nó đâu có ti vi, nó đâu có tủ lạnh, đâu có máy điều hòa không khí, nó đâu có cát xét, nó đâu có video phải không, các con hiểu không? Nhưng bây giờ mà đức Phật cấm không cho chúng ta ca hát thì chúng ta biết hạng đó là loại ca hát không chứ gì, thì dẹp quách nó đi thì có gì đâu mà phải chế giới mới, phải không? Các con hiểu điều đó. Còn bấy giờ hồi đó thì nó không có cà phê, phải không? Nó chỉ có rượu thôi, bây giờ có cà phê, thuốc phiện thì giờ mình cấm luôn, có gì đâu mà trật. Bởi vì thứ đó là thứ ghiền. Hồi đó hổng biết có thuốc lá không thầy không biết nhưng mà có cấm rượu, chắc chắn hồi đó là chưa biết sắc thuốc lá đâu cho nên các ông đó chắc chưa biết hút, cho nên không nghe cấm thuốc, chứ còn bây giờ Thầy cấm thuốc. Cho nên hồi đó ông Phật không cấm thuốc nên mấy thầy bây giờ cầm điếu thuốc hút như thường, nói ông Phật đâu có cấm thuốc. Là lúc bấy giờ ông Phật đâu có thuốc hút mà cấm, chớ mà ông hút thuốc mà sinh ghiền, sinh bệnh vậy là ổng cấm liền chứ đâu để tu sĩ mà cầm thuốc hút bậy bạ vậy, phải không?

Cho nên giờ mấy ông thầy chúng ta thấy, thậm chí như HT cũng rút điếu thuốc hút, mà rút điếu thuốc kêu là thuốc thơm, thuốc ngon nữa chứ đâu phải, thuốc có các đàng hoàng, chứ đâu phải hút thuốc rê. Thầy thấy trên cái kiểu của họ xài như vậy là đủ biết rằng họ đã nhiễm, mà cái thứ nhiễm là đức Phật đã không ưa rồi. Giới luật của Phật là cấm cái thứ nhiễm.

Các con thấy giới luật của các tôn giáo khác đâu có cấm uống rượu, cho nên mấy ông Cha uống rượu lia lịa. Còn ông Phật ông chơi về cái kiểu đó mấy ông thầy đâu dám uống, cho nên cứ lén uống bia, phải không? Các con thấy cái chuyện đó là cái chuyện bậy bạ. Mà đức Phật biết đó là những cái nó làm cho mình thành cái thói quen nghiện ngập mà nó sinh ra những cái tồi tệ. Những cái giới khác nó bị phạm do cái chỗ mà nghiện ngập này mới sanh ra tham lam trộm cắp, mới sanh ra thứ này, thứ kia do cái chỗ nghiện rượu. Nó là thứ 5 chứ nó đặc biệt nó phạm hết tất cả các giới đó. Khi nó say sưa rồi nó biết cái thứ gì, con gái người ta nó cũng ôm nữa chứ đừng nói nó tham, cái thứ thằng say mà nó biết thứ gì. Thầy nói đó là cái sự thật hiển nhiên, tới chừng đem bắt nó ở tù, nói hồi đó tôi say rượu chứ tôi đâu có biết. Có giam nó được không? Các thầy phải nghĩ cái điều đó, nó mượn rượu mà nó làm tầm bậy, lúc bấy giờ người ta cũng đâu có bỏ tù nó được. Có nhiều ông như vậy, họ chửi cách mạng, mà họ mượn ba chén rượu chửi cách mạng đã đời rồi, bắt bỏ tù, nói hồi đó tôi say tôi đâu có biết, rốt cuộc cũng phải thả nó ra, mấy thằng say mà biết gì. Chứ sự thật nó mượn rượu nó chửi người ta, nó chửi cho đã mồm nó. Đó thì Thầy nói để cho thấy được chỗ mà giới luật cho đúng, mà từ xưa đến giờ nhiều cái về giới bổn này nó đều là sai lệch hết.

Từ khi mà chia ra làm 20 bộ phái của Phật giáo rồi, người nào cũng chấp một giới luật nào đó, họ cho là của họ đúng rồi họ làm bộ luật ra, cho nên năm, bảy bộ luật. Thậm chí như người ta nói như thế này, trong kinh sách nói như thế này: Lần kết tập đầu tiên mà ông Upali đọc giới xong rồi người ta nói như thế này này: “Không có viết ra thành văn bản, chỉ có đọc mà nhớ thôi”. Trời đất ơi! Kết tập kinh điển bộ chuyện dễ sao, khi mà người lãnh đạo kết tập kinh điển như ông Ca Diếp là một bậc Alahan thượng thủ trí tuệ, đâu có lý nào để mà đọc nghe chơi, xong rồi đi về, làm sao nhớ hết được. Cái chuyện đó đặt bịa ra nói không có ghi chép, cho nên sau này 25 bộ phái không có cái bộ luật chính, cho nên vì vậy ai muốn đặt sao thì đặt, họ lấy lý do đó để mà... Không ngờ á, là mấy cái ông này, mấy ông đem đốt bộ luật của ông Ca Diếp kết tập hồi ông Upali đọc, ông đốt sạch đi. Bây giờ ông mới chế ra giới luật nên mới năm, bảy bộ luật. Trời ơi! đâu cũng có bộ luật, Tiểu Thừa cũng có bộ luật, Đại Thừa cũng năm bảy bộ. Luật gì mà luật dữ vậy. Luật thì gồm có một bộ thôi chứ? Cái ông nào cũng có bộ hết à. Bộ phái nào cũng có bộ luật hết à. Hai mươi bộ phái thì chia làm 20 bộ luật. Mà giờ người ta rút lại còn có 5 bộ luật à, chớ còn nếu mà để thì bây giờ một đống luật, chúng ta cất tủ ngập hết á.

Đó là những cái sai của người ta. Người ta chạy theo dục lạc nơi đâu thì người ta chế theo giới luật đó để nó giảm bớt luật của Phật đi, để cho chúng ta sống theo thoải mái, muốn hút thuốc thì nói Phật không có dạy hút thuốc, phải không? Muốn uống cà phê nói Phật không có dạy uống cà phê. Bây giờ rượu Phật hồi đó cấm uống rượu nếp này kia chứ đâu có cấm rượu La-be (rượu label). Còn bây giờ cứ cho uống rượu La-be đã thôi đâu có sao. Cái chuyện đó đâu có phải là Phật cấm rượu La be đâu, hồi đó đâu có rượu La-be, hồi đó cao lắm là rượu nếp, rượu gạo thôi, chứ đâu có rượu La-be được. Cho nên tất cả những cái này đều là những cái mà có thể cái miệng lưỡi của người ta vì ghiền cái đó rồi, bắt đầu lý luận phá giới luật. Mà nếu mà ông Ca Diếp ông bảo rằng không có được thêm mà không có được bớt. Thì hồi đó ổng nói không có được thêm thì tôi đâu có thêm, vì Phật cấm uống rượu, bây giờ tôi uống cà phê đâu có sao, tôi uống trà cũng đâu có sao, tôi đâu có lỗi. Tôi hút thuốc cũng đâu có sao, Phật cấm uống rượu không. Vậy thì bây giờ ai dám thêm chỗ này là cấm hút thuốc đâu. Cho nên ông Ca Diếp nói họ bắt cái trớn ông Ca Diếp thì Giới luật của Phật nó khô cằn rồi. Lúc bấy giờ tu sĩ mình nó ngồi nó nghiện, nó ngáp, nó hút á phiện nó gật gù gật gù, thử hỏi còn dáng tướng của tu sĩ nữa không? Phải không? Các thầy phải hiểu chỗ đó không?

Đó, như vậy mà không linh động được cái pháp mà cấm họ thì bây giờ nhà cửa trong cái thất của tu sĩ. Hồi đó Phật đâu có cấm radio, ti vi, đầu (video), này kia đâu, bởi vì có đâu mà cấm, chỉ cấm tôi ca hát thôi. Bây giờ máy nó hát chứ đâu phải có đào kép hát đâu, phải không? Hồi đó đào kép hát Phật cấm không cho xem. Còn bây giờ cái máy nó hát chứ đâu phải người hát, tôi mặc tình tôi nghe, có gì đâu. Họ lý luận cũng vẫn được chứ đâu có gì sai phải không các con.

Cho nên Giới luật của Phật rất linh động, những lời ca tiếng hát nó làm chúng ta đắm nhiễm chứ đâu phải là cái con đào, con đào là cái hình sắc nó cũng làm đắm nhiễm, nhưng mà nó làm đắm nhiễm cả trong cái lời ca của nó nữa. Sắc nó cũng đắm nhiễm, âm thanh nó cũng đắm nhiễm. Sự thật biết được, thấy được cái điều này rồi mà giới luật cấm ra là để chúng ta đừng đắm nhiễm, đắm nhiễm sắc, đắm nhiễm âm thanh. Rõ ràng là sáu cái sắc thanh hương vị xúc pháp đó nó đối trị với sáu căn của chúng ta mắt tai mũi lưỡi thân ý của chúng ta.

Tất cả những cái điều này mà học đến giới luật thì Thầy, nhiều khi dạy đến giới luật Thầy bực mình cái chỗ này, mấy ông già xưa sao mà không có sáng suốt chỗ nào hết, mà để cho Giới luật của Phật nó chết mòn, chết dần như thế này. Mấy ông già thiệt là tệ quá. Mà sự thật ra Thầy nghĩ rằng ông Ca Diếp không bao giờ nói lời nói đó đâu. Ông là một cái người gọi là Đệ nhất Đầu đà của đạo Phật không bao giờ nói ra lời nói đó đâu, mà chính mấy ông sau này đặt điều nói ông Ca Diếp nói chứ không phải ông ấy nói để cho cái giới luật đó. Đặng chi, các con biết không? Không có được thêm, nghĩa là đức Phật cấm uống rượu chứ không có cấm hút thuốc, thì mấy ông thầy, mấy ông thầy bâygiờ hút thuốc tự do, phải không? Đó là cái chỗ mấy ông đặt câu nói của ông Ca Diếp nói như vậy đấy là xác định ông Ca Diếp là người kết tập kinh điển giới luật đầu tiên, mà ông xác định như vậy không cho thêm mà cũng không cho bớt. Nghĩa là lỗi nhỏ nhặt không bớt mà thêm nữa thì không được. Cái thời đại của chúng ta nó thêm biết bao nhiêu là cái thứ dục lạc, phải không? Thế mà ông Phật thời đó không có mà bây giờ chúng ta làm sao? Mà không thêm thì như vậy là tu sĩ chúng ta nó trở thành tu sĩ nghiện hết rồi chứ đâu có còn là tu sĩ giải thoát, mà tu sĩ mê dục lạc hết rồi.

Đó, thì như vậy chúng ta mới thấy được cái chỗ mà giới luật chứ còn không khéo chúng ta không thấy đâu.

Cho nên ở đây nếu mà nhìn thấy cái tăng đoàn mà nó không có cái giới luật như vậy, mà không có cái giới luật linh động như vậy thì cái Phật giáo nó sẽ sống ở cái sự đen tối của nó.

Đó bây giờ thì đến đây chúng ta xin nghỉ để sắp sửa ăn cơm.

Tăng đoàn

Tăng đoàn mà không có giới luật làm cương lĩnh, thống nhiếp, giáo hóa thì tiền đồ của Phật giáo không những tan rã mà tu sĩ Phật giáo sống trong đen tối chẳng biết đường lối tu tập. Cũng vì thế khi đức Phật sắp sửa nhập Niết bàn Ngài di chúc lại lời dạy cuối cùng: “Các thầy Tỳ kheo nên lấy giới luật của ta mà làm thầy”.

Tục ngữ có câu: Lời thẳng trái tai, thuốc đắng dã tật. Phàm quy định một sự câu thúc nào, tri kiến cho người ta dừng bước để đạt đến cảnh giới cao nhất, khiến cho mọi sự an ổn, yên vui, thích thú hơn song sự hướng thượng nào cũng chưa chắc đã giúp cho mọi người tiến bước một cách dễ dàng. Hẳn nhiên là có một cảnh giới tốt đẹp đang chờ đợi mọi người, nhưng trước khi đến đó, đầu tiên ta phải trả một giá rất đắt, là một sự gian nan cay đắng. Phải xem người trượt tuyết, từ trên cao trượt xuống thấp mau chóng dễ dàng, tuy có cái nguy hiểm mất mạng, mà ngay nơi đó rất là dễ chịu, dễ dàng, còn hướng lên cao tuy có được cảnh giới an vui, xinh đẹp, hạnh phúc nhưng trước tiên phải chịu gian nan thử thách. Vì thế hướng thượng ai cũng ước ao, ham muốn nhưng mấy ai dễ đạt được mục đích.

Thì ở đây quý thầy thấy là cái giới luật của Phật là giúp cho chúng ta hướng thượng cho nên khi mà hướng thượng thì chúng ta phải có những cái gian nan, cái thử thách của nó. Chứ còn nếu mà chúng ta đi xuống theo như ngoài đời, cuộc sống ở ngoài đời thì đó là cái người ta đổ ở trên núi người ta đổ xuống dốc người ta xuống. Nó dễ dàng lắm, chạy theo dục lạc thì đâu có gì khó, nhưng mà chúng ta đi ngược trở lên, do đó chúng ta mới thấy cái khó khăn của nó. Như ở ngoài đời người ta ăn ba bữa còn mình thì ăn một bữa, thì đó là người ta chạy xuống còn chúng ta đi lên đó. Ở ngoài đời thì người ta vui cái này vui cái kia, còn mình thì khép chặt ở trong cuộc sống trầm lặng, cho nên tất cả những cái đó là cái trái ngược nhưng khi mà chúng ta đạt được cái cao tuyệt hạnh phúc, thì nó ở cái độ cao chứ không phải ở cái độ đi xuống.

Đó, thì những cái gian nan đó, thì như vậy nó mới có cái giới luật của Phật, nó mới có cái giới bổn, cái giới luật của Phật mà để khép chặt chúng ta trong cái khuôn khổ, để đưa chúng ta đi đến cái mục đích cao hơn, hạnh phúc hơn, an vui hơn. Còn nếu mà không có cái giới luật của Phật thì chúng ta sẽ tụt xuống chứ không bao giờ mà đi lên được. Bằng chứng như bây giờ chúng ta đã thấy rõ người tu sĩ Phật giáo là đang trượt xuống chứ không phải đi lên. Đó, thì muốn mà đi lên thì chúng ta phải khép chặt mình ở trong những cái giới luật, giới bổn của Phật.

Sau ngày Phật diệt độ, trong chúng Tỳ kheo, có một vị Tỳ kheo tên là Bạt-nan-đàcảm thấy vô cùng thích thú khi hay tin Phật diệt độ. Ông ta nói với mọi người: “Lão già ấy chết đi là tốt, lúc còn sống chế điều này là phải làm, điều kia là không nên làm, nhất là hay nói về ăn, về ngủ, về độc cư, sống phải trầm lặng, sống theo lão buồn chán và tẻ nhạt chẳng có gì là thích thú của đời tu hành. Lão ấy chết rồi chúng ta được tự do”. Đó là trong cái thời đức Phật mà khi nghe đức Phật nhập diệt thì có vị Tỳ kheo đó tên là Bạt-nan-đà ông ta nói ra những cái lời nói đó đủ biết trong cái thời đức Phật người ta cũng không thích thú gì cái lối giới luật của Phật, cái lối pháp tu của Phật đâu, người ta cũng có người như vậy chứ không phải là không. Nhưng có người người ta hướng thượng, người ta chịu khó gian nan vất vả người ta đi lên được, người ta thấy được cái hạnh phúc thật sự của của cái giới, của giới luật của Phật như vậy.

Lời nói này được truyền tới tai tôn giả Ca-diếp, ngài cảm thấy rất đau buồn cho Phật, cho Đạo Phật ngày mai, “Nếu quả như vậy tinh thần và công đức cứu thế của Phật giáo, nhân vì đức Phật nhập diệt, mà cũng theo đó kết thúc sao?”. Đó là cái ông Ca-diếp đó thì ổng mới nghe cái lời nói đó thì nghĩ rằng cái thời đại về sau tương lai, thì không lý nào mà Phật giáo lại kết thúc ở tại chỗ đó, nhưng sự thật chúng ta nhìn Phật giáo hiện giờ thì phải thấy rằng cái đà mà xuống dốc của nó, thì chúng ta thấy nó chẳng đi về đâu cả. Cho nên Phật giáo còn là hình thức còn, chứ còn nội dung về tinh thần giải thoát của Đạo Phật thì nó không còn có nữa. Cho nên lời ông Ca-diếp nói chỗ này là một cái nghi vấn, nhưng nó là một cái sự thật cho về sau của chúng ta, của những người bất hạnh mà không có được gặp đức Phật hiện tiền trong cái thời đức Phật.

Chúng ta gặp Phật, không có gặp Phật mà chỉ gặp pháp, gặp giới luật của Phật và cái đà đi xuống của Đạo Phật làm chúng ta mất đường, mất lối, chúng ta không biết đâu mà đi, đi lên để chúng ta hướng thượng, để chúng ta tìm lại sự giải thoát chân thật của nó, để thoát ra cảnh khổ của cuộc đời mà mỗi con người đều đang khổ như nhau, không ai khác nhau.

Nhớ lại lời dạy sau cùng của đức Phật: “Này các thầy Tỳ kheo, sau khi ta diệt độ các thầy phải nên tôn trọng và cung kính giới bổn Patimokkha như là một vị thầy của các ông. Giới luật là ánh sáng giúp cho các ông đi trong đêm tối. Giới luật là tài sản, của báu mà các ông là những người nghèo khổ được nó. Giới luật còn là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất. Các ông hãy cố gắng giữ gìn”. Nhân đó tôn giả Ca-diếp quyết tâm triệu tập các vị đại đệ tử đương thời kết tập luật tạng.

Đó, thì nhân cái chỗ mà qua lời di chúc của đức Phật như vậy “Đạo Phật còn là giới luật còn, Đạo Phật mất thì giới luật mất” thì do cái lời di chúc đó mà ông Ca-diếp ổng phải nỗ lực ngay cái đám tang của đức Phật xong thì ngài triệu tập, vì lúc bấy giờ các đại đệ tử của Phật đều về đầy đủ trong cái đám tang đó mà chứ không có thiếu ai hết, cho nên nhân cái cơ hội đó thì ngay liền ông Ca-diếp triệu tập cái cuộc họp để mà tập kết kinh luật, kinh luật tạng chứ không để mà chờ cái cơ hội nào khác nữa. Đó là cái dịp may, nhân cái đám tang đó mà làm cái việc kết tập kinh tạng rất dễ không khỏi phải đi từ cái xứ này đến xứ khác mà mời các vị đại đệ tử của Phật. Vì lúc bấy giờ các vị đại đệ tử của Phật thường là đi du hóa, đi dạy đạo ở các nơi xa xôi cho nên nhân cái dịp mà đức Phật nhập diệt thì họ về các đám tang đó cho nên Ngài Ca-diếp lợi dụng chỗ đó dễ dàng để gặp từng người nói với họ là chúng ta sẽ ở lại để mà để kết tập xong cái giáo lý cái giới luật của Phật xong rồi chúng ta sẽ trở về cái địa phương của chúng ta để giáo hóa chúng sanh.

Thì lúc bấy giờ các ngài đều thấy cái mạng mạch của Phật pháp còn hay là mất là do cái chỗ còn kinh tạng, kinh giới này, mà còn thì mạng mạch của Phật pháp mới còn, chứ đức Phật đã mất rồi, mà lời di chúc của đức Phật nói hẳn hoi rõ ràng là giới luật là thầy của các vị Tỳ kheo sau này. Mà không kết tập thì lấy cái gì làm thầy được, chứ đâu phải chỉ ông Ca-diếp hay hoặc là ông nào đó làm thầy thì thôi chứ ông đó ổng khỏi cần phải kết tập làm chi kinh sách. Còn đằng này đức Phật lại chỉ cái giới luật, thì thử hỏi chúng ta làm sao, các bậc Tỳ kheo, các bậc Thánh tăng trong lúc đó bây giờ đức Phật đã chỉ định cho một cái người mà thừa kế Đạo Phật như vậy, thì nó một là cái giới bổn rồi, nó là một cái giới rồi không thể nào mà không viết thành văn bản được. Cho nên buộc lòng các ngài cũng phải tập trung nhau lại để kết hợp thành một cái văn bản thật sự của đạo Phật, để làm cái khuôn vàng thước ngọc cho các vị Tỳ kheo nương theo đó mà thực hiện con đường tu hành giải thoát.

Đó thì hôm nay chúng ta xét như vậy thì chúng ta thấy cái chỗ mà kết tập của ông Ca-diếp lần đầu tiên nó không phải là cái sự cạn cợt đâu, mà là cái sự tích cực hết sức để duy trì mạng mạch của Phật giáo về sau chứ không phải là cái việc làm tầm thường đâu. Lời di chúc của Phật ngay đó là trước đó vài giờ là Phật chưa thị tịch đó, thì Ngài đã nhắc đi nhắc lại cái lời này mà sau đó thì Ngài thị tịch rồi, cái lời đó còn nó còn một bên với các vị đại Thánh tăng chứ không phải Ngài nhắc một tháng, hai tháng thì nói các ngài quên, mà đằng này vừa, trong khi vừa sống đó, vừa nhắc cái lời cuối cùng đó thì Ngài là thị tịch, thì lúc bấy giờ thì các ngài phải nhớ mãi rằng Phật pháp còn thì giới luật còn, Phật pháp mất thì giới luật mất.

Đó, thì như vậy là chúng ta thấy cái lời của Phật nói ở đây nhắn nhủ các đệ tử của mình “giới luật còn là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất”. Cái câu nói này nó tha thiết đến độ Thầy nói không có thể lường được cái chỗ đó, mà một người tu sĩ Đạo Phật mà đọc đến câu này mà chúng ta phạm giới, thì chúng ta không thấy làm sao mà chúng ta không đau khổ, nếu chúng ta phạm giới tức là chúng ta đã làm mất Phật pháp rồi, chúng ta đã hủy hoại Phật pháp rồi. Cái lời nói này nó làm cho mỗi một vị tu sĩ của Đạo Phật nó thâm tâm nó sâu sắc đến cái mức độ nào, không ngờ mà người ta sao mà không có một cái tâm trạng đau đớn như vậy. Ngày ăn ba bữa mà họ nỡ tâm họ ăn được, Thầy không hiểu sao, họ sung sướng ở trong những ngôi chùa cao tháp lớn, họ sung sướng, họ đầy rẫy những vật dụng ở trong phòng ốc của họ, mà họ sung sướng được mà cái lời nói của Phật: “Giới luật còn là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất”. Nếu chúng ta chẳng phải là đệ tử của Phật, chẳng phải là đệ tử xuất gia của Phật thì chúng ta làm gì cũng được, mà chúng ta là đệ tử xuất gia của Phật, là một vị Tỳ kheo mà tại sao chúng ta nỡ tâm trước cái lời di chúc tha thiết đến mức độ này mà chúng ta nỡ phá giới luật của Phật.

Thầy không hiểu làm sao mà các bậc tôn túc, các vị lớn của chúng ta đã từng là dịch ra những kinh sách luật đã nói đến những điều… trong giới bổn. Bởi vậy Thầy thấy, là một cái khi mà đọc đến đây, nhiều khi đọc qua cái lời di chúc của Phật nói đến cái lời mà Thầy phải thấy cái bổn phận và trách nhiệm của một vị tu sĩ, Thầy thấy rưng rưng nước mắt. Thầy nghĩ rằng một người tu sĩ phải có bổn phận và trách nhiệm giữ gìn cái mạng mạch của Phật pháp, mà giữ gìn nó bằng gì đây, bằng cái lời nói “Giới luật còn là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất”. Lời nói của ông cha lành từ ngàn xưa còn văng vẳng mãi bên tai chúng ta, mà thế nào người ta sung sướng được, thế nào mà người ta chạy theo dục lạc được để cho Đạo Phật mất. Đó là những điều mà cái người đệ tử của Phật phải từng tâm niệm thâm sâu nỗi khắc khoải trong lòng của mình nhìn thấy Phật giáo đi xuống mà đau lòng đứt ruột.

Đó là lần kết tập an cư thứ nhất sau khi đức Phật nhập diệt, đó cũng là lần kết tập kinh luật thứ nhất tại hang Thất Diệp với sự tham gia của 500 vị đại A-la-hán. Ngay sau khi tôn giả A Nan tụng xong kinh tạng, kế tôn giả Upali tụng luật tạng, đại chúng tham dự buổi kết tập này ấn chứng và thông qua không có điều chi thêm bớt, thêm hoặc bớt. Do thế tạng kinh và tạng luật đầu tiên được tuyên bố là hoàn thành. Theo một giả thiết người ta cho sự kết tập của thời ấy không có ghi chép lại thành văn tự chỉ là thống nhất do miệng tụng tâm ghi nhớ mà thôi. Riêng phần về ý kiến của tôi (ý kiến của Thầy đó), thì tôi không hiểu đơn giản như vậy được, khi kết tập là phải có viết thành văn tự không thể kết tập mà chỉ kết tập chỉ đọc suông để ghi nhớ. Vả lại lúc bất giờ kết tập kinh luật là một điều quan trọng của Phật giáo, không thể các ngài sơ sót như vậy được. Các ngài bấy giờ là các bậc Thánh tăng, là các Đại đệ tử của đức Phật, làm việc này với thánh trí để duy trì kinh luật của Phật giáo. Cho nên Phật nhập diệt trong khi chúng tăng còn đông đảo, còn đông đủ, lợi dụng đều có mặt của các bậc thánh tăng, ngài Ca-Diếp mời chư tăng ở lại kết tập đều là những tay thượng thủ của Phật giáo lúc bấy giờ, chứ không như ý kiến của Thánh Nghiêm. Thánh Nghiêm là cái người mà viết cái bộ luật đó, ý kiến phỏng đoán, nghĩa là ông phỏng đoán, ông cho rằng không có viết thành văn bản đó, sau ngày Phật diệt độ có một số các trưởng lão Tỳ kheo không nhận lời mời của ngài Ma-ha-ca-diếp tham gia hội kết tập lần thứ nhất. Đó là cái ông Thánh Nghiêm ổng phỏng chừng rằng sau cái ngày mà Phật nhập niết bàn thì không có một số Trưởng lão khi mà ông Ca-Diếp mời, thì cái số Trưởng lão đó không có nhận cái lời mời tham gia kết tập kinh sách, thì cái điều đó là cái điều sai, khi mà còn các bậc đại Thánh tăng của đệ tử, mà trong khi đức Phật mà tịch thì chắc chắn các ngài phải về hết.

Theo Thầy thiết nghĩ thì không có người nào có thể bỏ cái đám tang mà của một vị đạo sư của mình hết, họ phải về. Và lợi dụng cái đó ông Ca Diếp khỏi phải đi xứ này xứ kia để gọi các ngài về, cho nên rất là tiện lợi, vì vậy ngay đó là kết tập liền. Còn ở đây đó là phỏng chừng, phỏng đoán và đồng thời ông Thánh Nghiêm ổng còn phỏng đoán là cái kiểu mà không viết thành văn tự nữa. Đó là cái sự phỏng đoán theo cái sự nghiên cứu giới luật mà thấy nó lộn xộn, nó lu bù thì ông nghĩ rằng như vậy có lẽ là tại không có cái bộ giới luật chính cho nên các ngài muốn thêm thắt như thế nào là tự ý thêm thắt. Do đó mà cái sự suy tư, cái kiến giải, cái tưởng giải của Thánh Nghiêm thì nó lệch lạc, nó không đúng. Bởi vì các bậc Thánh tăng người ta nghĩ rằng làm một việc gì người ta cũng phải có ý tứ chứ. Bây giờ nói rồi đến chừng đó nó không thành văn bản thì lấy cái gì mà làm thầy của chúng tăng đây, rồi nay ông này nói vậy, mai ông khác nói sao.Phải lấy nó làm thành văn bản, bởi vì bây giờ chúng ta làm một việc gì đó nó phải có văn bản, có chứng cớ thì nhà nước người ta mới xử được, còn mình nói khơi khơi làm sao người ta xử được. Cho nên mình muốn thưa kiện ai cũng phải văn bản, chứ mình nói tôi vậy vậy tôi đúng vậy người kia cũng nói vậy, ông nội ai biết ai đúng ai sai, phải thành văn bản người ta xem đó. Thì giới luật là thầy của mình thì cũng phải thành văn bản thì kinh giới nó cũng vậy, giới bổn nó cũng phải vậy cho nên không lý một cái người Thánh tăng, trong những vị Thánh tăng như vậy mà không hiểu cái điều đó sao? Phải chi trong cái thời đó nó không có chữ thì thôi, đằng này chữ viết người ta có ba bộ kinh Vệ Đà hẳn hoi, thì lý đâu mà các thầy, các vị Thánh tăng đó lại không biết chữ viết cho nên chỉ ngồi nghe chơi không à thì như vậy làm sao có cái tập hợp. Bởi vì giới luật là cái làm cho hòa hợp chúng tăng mà, nó là thiện pháp nữa mà, cho nên phải có một sự văn bản rõ ràng.

Mà cái sự nói về vấn đề mà nghi vấn rằng khi đức Phật nhập diệt thì có một số vị trưởng lão Tỳ kheo không có nhận lời mời, điều đó đều sai với trách nhiệm của quý vị hết mà. Dù bây giờ người nhỏ người lớn đi nữa thì trừ ra những người còn giữ lại ở những địa điểm của mình nơi xa xôi đó thì những người đó về không được thôi, chứ toàn bộ mà nếu mà có mặt ở đó thì người ta tham dự hết. Nhưng mà rất đông vì vậy mà người ta chọn lấy 500 vị thượng thủ, tức là 500 vị Alahan kết tập chứ còn cái số Tỳ kheo mà chưa chứng đạt Alahan thì hàng vạn mà về cái đám ma đó chứ đâu phải ít.

Thôi bây giờ Thầy đặt vấn đề như Hòa Thượng TT tịch đi, có phải hàng vạn đệ tử về không chứ đâu phải là ít, còn đức Phật ngày xưa còn bao nhiêu nữa. Đâu có chuyện đó mà nói cái chuyện mà dễ dàng như vậy, nói cái chuyện mà tưởng như vậy được. Cho nên những cái người mà nghiên cứu về giới luật của Phật mà thấy nó khó khăn rồi chỉ tưởng ra thế này, tưởng ra thế kia làm cho lệch lạc cái lịch sử trong cái thời các đệ tử của Phật cũng như trong cái thời của Phật.

Chỗ này chúng ta phải hiểu, nếu là những bậc thánh Tăng thì kỳ kết tập kinh luật lần thứ nhất thì các vị đều phải thấy bổn phận của mình đối với Phật giáo. Còn hay mất là ở chỗ kết tập kinh sách này. Cho nên không thể nào từ chối lần kết tập này được. Nghĩa là dù bây giờ dù ông Ca Diếp có đi mời ở xứ này xứ kia thì các ngài cũng không có quyền mà từ chối, cái bổn phận của các ngài khi được Phật dạy như thế nào thì các ngài về nghe:“Ờ cái đó ông Anan ông đọc, ông nói cái đó, cái bài kinh đó, tôi nghe hồi đó Phật dạy là khác ông phải sửa lại, cái này ông không hiểu, tôi hiểu nên tôi chứng quả Alahan như vậy đó”. Thì các ngài phải có bổn phận về để chỉnh đốn lại cái giáo lý của đức Phật chứ, giới luật của đức Phật chứ, đằng này nó còn từ chối nữa. Như vậy cái vị đại đệ tử của Phật trong thời đó mà từ chối như vậy thì vị đại đệ tử đó có trách nhiệm với đạo Phật không, không có trách nhiệm. Coi như là đạo Phật ngoài cái vấn đề đó, đây là ngoại đạo chứ đâu phải là đệ tử của Phật, cho nên phải thấy cái bổn phận trách nhiệm của mình, mạng mạch của Phật pháp còn hay không.

Một đấng giáo chủ như đức Phật đã đưa ra một cái tôn giáo như vậy là các vị đệ tử phải có sự hợp tác với nhau để mà trùng tu, để mà làm cho nó trường tồn mãi mãi dưới cái thế gian chứ. Các thầy có nghe thấy khi mà đức Chúa không, khi mà ngài tịch rồi thì các thánh đồ của ngài luôn luôn lo lúc nào cũng kết tập lại những cái gì mà của Chúa để làm cho cái đó nó luôn luôn sống mãi với con người. Thì các đệ tử Thánh tăng của chúng ta cũng vậy chứ đâu phải là những người thiếu trách nhiệm cho nên ở đây nói mời mà không đến, từ chối thì cái chuyện đó là chuyện bịa đặt chứ còn Thầy nghĩ rằng người tu hành… Bây giờ Thầy nói nếu một người nào mà kết tập kinh sách đúng, mà ở chỗ nào đúng, nói đúng giới luật của Phật mà mời Thầy, Thầy đi ngay liền không từ chối. Mặc dù trong lúc bấy giờ Thầy ẩn bóng nữa, Thầy thấy trách nhiệm của Thầy phải đem hết cái khả năng của mình ra để giúp cái người đó để hoàn thành phận sự của họ đối với Phật pháp để trường tồn, chứ chưa nói… Thầy không lộ hình ra là vì danh vì lợi nhưng mà khi mà làm lợi ích cho Phật pháp Thầy lộ hình ra tức khắc để làm cái chuyện lợi ích chứ đâu phải Thầy ẩn bóng.

Thầy nói thật sự cho quý thầy thấy rằng trong vấn đề trách nhiệm, bổn phận của người tu sĩ phải thấy mạng mạch của Phật pháp, sống còn là do nơi mình, mình làm sao cho nó sống còn chứ đâu phải mình làm cho nó chết. Đó là cái mà chúng ta học để chúng ta hiểu trong cái vấn đề mà giới luật hôm nay mà Thầy dạy ra, để chúng ta biết giới luật nào mà là thầy của chúng ta. Tới đây Thầy sẽ phân tích cho quý thầy thấy cái giới luật nào là thầy của chúng ta mà đức Phật đã di chúc.

Vì nó phải được trung thực với lời dạy của đức Phật, của đức bổn sư, không thể thiếu vắng một vị nào ngoại trừ những vị ấy đã nhập diệt cũng như những đệ tử của các trưởng lão thì không tham dự có thể được. Nghĩa là các đệ tử của các bậc Thánh tăng thì họ không tham dự thì có thể được, họ chưa chứng quả Alahan thì có thể được và họ chưa có trực tiếp nghe lời của đức Phật dạy thì được, chứ còn những bậc đã được trực tiếp nghe lời Phật dạy cho mình tu hành chứng quả Alahan thì chắc chắn là bổn phận của mình phải tham dự chứ không có thể. Dù ở xa bao nhiêu dù cái sự việc của mình đang phải làm công việc gì lớn lao gì cũng phải là thấy cái vấn đề đó nó không lớn lao nữa, mà chỉ có vấn đề kết tập kinh và luật của Phật là cái vấn đề quan trọng nhất thì các ngài phải có bổn phận, phải trở về để mà góp những ý kiến, những điều mà mình đã thực hiện được ở trong cái đời sống giải thoát của chính mình. Thì đó là bổn phận của các ngài, các ngài phải thấy chứ các ngài không có từ chối được.

Vì vậy, vì các vị còn đang tu học theo với thầy của mình chưa bao giờ được trực tiếp với Phật, vả lại có gặp cũng rất ít khi. Sau 100 năm Phật nhập diệt các đệ tử lớn của đức Phật đều lần lượt nhập diệt hết. Nghĩa là 100 năm sau đó, các đệ tử của Phật như ông Anan người này người kia lần lượt họ nhập diệt hết. Bởi vì Phật nhập diệt rồi sau 100 năm thì các đệ tử đều nhập diệt. Khi đức Phật còn tại thế thì giới luật rất nghiêm chỉnh chúng Tỳ kheo không dám vi phạm. Khi đức Phật nhập diệt và các đệ tử của đức Phật cũng lần lượt nhập diệt theo. Giới luật không còn ai chăm sóc kỹ lưỡng nên lần lần quí thầy dễ duôi đối với giới luật nên lần lần, nên lần lần các ngài tự thay đổi giới luật theo cuộc sống tu hành của chính môi trường, các hoàn cảnh. Do thế tu sĩ giới luật không còn nghiêm chỉnh nữa. Khi giới luật mà có sự thay đổi không còn nghiêm chỉnh, nghiêm trì nữa, thì 37 phẩm trợ đạo để tu hành của Đạo Phật cũng không có hiệu quả.

À, tới cái giai đoạn cái giáo án mà giai đoạn thứ 3, tức là cái giới hành, dạy về giới hành, ở đây là Thầy nói về giới bổn, giới hạnh còn mà về cái giới hành, tức là 37 phẩm trợ đạo mà Thầy dạy tới cái giai đoạn giáo án thứ 3, là dạy 37 phẩm trợ đạo. Đó gọi là giới hành, bởi vì giới luật thì phải có giới hành nó không phải pháp luật, vì pháp luật nó không có cái hành mà cái bắt buộc. Qúy thầy phải hiểu, còn giáo pháp của đức Phật, giới luật là một cái pháp môn tu, cho nên nó phải có một cái hành để mà tu. Vì vậy mà 37 phẩm trợ đạo đó là giới hành chứ không phải là cái gì khác hơn hết. Phải hiểu như vậy chúng ta mới hiểu được giới luật của Phật là một pháp môn để đưa chúng ta đi đến cái chỗ giải thoát chứ không phải là trói buộc chúng ta để làm cho chúng ta khổ sở. Đó 37 phẩm trợ đạo để tu hành của đạo Phật, nếu giới luật mà không nghiêm trì rồi, thì 37 phẩm trợ đạo mà để tu hành thì nó không còn hiệu quả nữa. Nó không còn hiệu quả nữa vì giới luật bị phá rồi thì 37 phẩm trợ đạo này chỉ là nói suông chơi chứ còn không có thực hành được nữa. Mà giới luật chúng ta nghiêm chỉnh thì 37 phẩm trợ đạo này là cái giới hành để chúng ta thực hiện những cái giới luật nó nghiêm chỉnh và nó giải thoát. Từng cái giới luật mà chúng ta áp dụng trong 37 phẩm trợ đạo này bằng cách là trau dồi, rèn luyện, bằng cách tu tập ở trong 37 phẩm trợ đạo này, làm cho chúng ta đạt từng giới một, mà mỗi giới chúng ta đạt được là có sự giải thoát trong tâm hồn của chúng ta. Đó là cái chỗ tu hành của chúng ta là như vậy.

Cho nên nói giới luật tức là nói giáo pháp của đức Phật. Tại sao vì 37 phẩm trợ đạo chỉ giúp cho người tu tập có hiệu quả là phải trì giới luật nghiêm chỉnh. Nói cách khác là 37 phẩm trợ đạo của đạo Phật nhằm phát triển thiện pháp, chấm dứt các ác pháp.

Đó thì các thầy cứ thấy Phật bảo là mình tu trên thân quán ngoại thân để khắc phục tham ưu là ác pháp. Đó thì rõ ràng là, như Tứ Niệm Xứ đó Phật dạy đó, mình trên thân quán thân rồi để cho mình khắc phục những tham ưu ở trong đời, ở trong tâm của mình, đó là ác pháp chứ gì. Thì chúng ta thấy đó là cái giới hành, cái giới hành của Phật pháp ở trong cái giới luật.

Chấm dứt các ác pháp, nên người nghiêm trì giới luật thì 37 phẩm trợ đạo là pháp tối thượng, còn những người phạm giới, phá giới thì 37 phẩm trợ đạo chỉ là pháp môn Tiểu Thừa. Nghĩa là họ xem như là 37 phẩm trợ đạo nó nằm ở trong cái pháp môn gọi là Tiểu Thừa. Cho nên nó đâu có làm cái gì được đâu, họ phá giới thì tức là nó trở thành Tiểu Thừa rồi chứ làm sao mà gọi là giải thoát được, mình gọi là Đại Thừa được. Do thế, khi mà tu sĩ không nghiêm trì giới luật thì tất cả pháp môn cũng đều có sự thay đổi. Nghĩa là không nghiêm trì giới luật thì pháp môn tu hành nó thay đổi.

 

Mặt B:

Ba mươi bảy phẩm trợ đạo tuy rằng nói vậy chứ nó có sự thay đổi, nó không có đúng như cái điều kiện, bởi vì thí dụ như nó thay đổi như thế nào? Phật dạy như lý tác ý, thì họ không biết cái gì hết thì đó là sự thay đổi của họ rồi, họ đâu có biết đó là cái pháp hành của họ, (...)cho nên gọi là Phật giáo phát triển.

Khi mà 37 phẩm trợ đạo nó thuộc về Tiểu Thừa rồi, thì bắt đầu họ không còn biết lối nào họ tu, như cái lời Phật dạy như tùy pháp quán pháp, hay hoặc là ức chế pháp hay hoặc là tịnh chỉ pháp đều họ ngơ ngẩn họ không biết nữa. Nói về bốn thiền họ chỉ nói: Ly dục ly bất thiện pháp nhập sơ thiền, họ nói vậy chứ họ không biết ly dục bằng cách nào nữa hết, họ không biết cách thức nào, bởi vì ly dục là giới luật rồi, mà giới luật là phải dùng những cái pháp hành nào để mà chúng ta mới thực hiện được cái giới luật, cho nên 37 phẩm trợ đạo nó thuộc về Tiểu Thừa. Vì vậy bây giờ họ không còn pháp mà tu, cho nên họ phải phát triển để phá giới luật, nghĩa là Phật giáo càng phát triển bao nhiêu thì lại phá giới luật bấy nhiêu.

Rồi họ phát triển pháp môn tu tập, không còn tu tập theo các pháp của Phật như trong kinh nguyên thủy đã dạy, nghĩa là bây giờ họ tu tập theo cái kiểu mới chứ không phải theo cái kiểu cũ, như bây giờ họ ngồi họ lại giữ tâm, họ bằng cách này hoặc cách khác, hoặc là họ niệm kinh, hoặc là họ niệm Phật để cho tâm được nhất tâm, hoặc là họ giữ tâm mình bằng cách này hoặc cách khác để cho nó không có vọng tưởng.

Tất cả những cái điều kiện như trong kinh Kim Cang dạy: ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, họ giữ cái tâm mình đừng cho trụ chỗ nào để cho Phật tánh kia sinh ra thì đó là những cái họ phát triển mới, còn đạo Phật chúng ta muốn giữ cho cái tâm nó được thanh tịnh, được giải thoát thì nó phải ly dục ly bất thiện pháp, nó khác xa, hai cái pháp đều tu khác xa không giống nhau. Cho nên họ phát triển họ đi dần dần đến cái chỗ xa lạ với 37 phẩm trợ đạo của Phật.

Vì không có bậc tu chứng nên chư tăng dựa vào kinh sách Nguyên Thủy rồi lý giải theo kiến thức của mình, từ kiến giải riêng tư của mình nên bất đồng mọi ý kiến, kiến giải của người khác. Nghĩa là cũng dựa vào kinh sách Nguyên Thủy chứ họ không có đi xa. Họ lấy kinh sách Nguyên Thủy rồi họ nghiên cứu, vì họ không có tu chứng cho nên kinh nghiệm tu chứng của họ không có, cho nên cái trụ cột, cái cốt lõi nó không có, cho nên từ đó cái tư tưởng của họ nó xiên bên đây, nó xiên bên kia. Họ nghiên cứu cuốn kinh Nguyên Thủy, tạng kinh Nguyên Thủy thì họ lại kiến giải thế này, kiến giải thế khác. Người thì kiến giải cái này, người thì kiến giải cái khác nó không có đồng với nhau một cái sách hành, cho nên do đó mà họ kiến giải ra rồi họ không đồng nhau cho nên họ chấp cái kiến của họ, họ bị kiến chấp đó đi, rồi họ mới có sự tranh chấp với nhau họ nói người này thấp, người kia cao họ nói đủ thứ. Cho nên vì vậy mà cái loại kinh mà phát triển nó làm cho, đó là cái kiến chấp của những người mà tu không chứng.

Từ những kiến giải bất đồng và phi phạm hạnh nên đưa đến kết quả phân chia bộ phái, đó là sự việc xảy ra từ 100 năm đến 300 năm sau khi Phật nhập diệt độ. Khi Phật diệt độ 100 năm sau, có cuộc kết tập lần thứ hai tại Vệ Xá Ly, cuộc kết tập này không có nghĩa là kết tập kinh luật mà chỉ là giải quyết sự phân chia của các bộ phái. Kết quả kỳ này chỉ là thành lập giới luật của các bộ phái riêng tư.

Đó, phải nhớ là cái sự kết tập lần thứ hai này ở tại Vệ Xá Ly (thì lần kết tập này) là giải quyết cái sự bất đồng của chư tăng, do mỗi người mỗi ý kiến riêng tư ở trong giáo lý Nguyên Thủy, mà thành lập những cái bộ phái, do đó nó có 20 cái bộ luật, 20 cái bộ luật chứ không phải là như chúng ta thấy nó còn bây giờ là chúng ta còn thấy sáu bộ đó. Chứ lúc bấy giờ nó 20 bộ phái là nó phải có 20 cái bộ luật. Bởi vì một tập thể nào nó cũng phải có nội quy, có kỷ luật của nó, nó mới giữ được cái tập thể đó, nó mới được yên ổn của nó, còn nếu không có thì lấy cái gì mà làm cái chuẩn cho họ sống chung với nhau được, cho nên nó phải có, phải đặt thành vấn đề là phải có 20 cái bộ luật.

Một lần nữa chúng tăng lại cách xa giới luật của Phật, thêm bớt và sửa lại rất nhiều và người ta đã dẹp mất cái bộ luật mặt thực của giới luật kết tập lần đầu tiên. Bởi vì bây giờ họ kiến chấp như vậy đó, làm sao họ để cái bộ luật mà đầu tiên đó được, buộc lòng họ phải đốt đi, hoặc là họ phải xé bỏ đi. Mỗi bộ phái có giới luật riêng để lưu truyền trong bộ phái của mình. Thượng Tọa Bộ chiếm đa số luật tạng, còn Đại Chúng Bộ chỉ có một bộ luật mà thôi.

Ở đây thì theo như ở trong kinh sách thì nói là cái bộ phái Thượng Tọa Bộ thì nó lưu truyền trong cái bộ phái mình thì nó chiếm đa số về luật tạng, nghĩa là nó còn giữ một cái số mà nguyên gốc của nó chứ còn nó cũng có sự thay đổi rất nhiều trong đó. Còn Đại Chúng Bộ thì chỉ có một bộ luật mà thôi, nghĩa là trong Đại Chúng Bộ nó chia ra làm nhiều bộ phái lắm nhưng mà nói nó chỉ có một bộ luật mà thôi thì hầu hết là cái bộ luật của nó, nó đều giống nhau là cái bộ luật phá giới, chứ không phải là cái bộ luật không phá giới. Cho nên nó gần giống nhau chia làm 20 bộ luật, nhưng mà 20 bộ luật đó thì có bên Thượng Tọa Bộ nó còn giữ được giới luật chiếm đa số luật tạng của Phật, còn có cái gốc chút, còn cái phần mà của Đại Chúng Bộ thì nó phát triển theo cái kinh điển phát triển, thì cái giới luật đó nó phá sạch cho nên nó mới đẻ ra cái giới luật bồ tát giới đó, thì nó phá sạch cái giới luật của nguyên gốc đi cho nên nó đặt thêm thứ này thứ kia để nó phá giới ở trong cái giới luật của Phật. Do vì vậy đó mà nó gần như là cái Đại Chúng Bộ nó chỉ có một cái bộ luật chung là cái bộ luật phá giới mà thôi.

Giáo pháp của đức Phật là Tam Vô Lậu học Giới - Định - Tuệ, là cơ sở, là trung tâm thiện pháp của sự phát triển tu tập, đó cũng là một giáo án ngắn gọn nhất và cô đọng nhất. Ngay từ thời đức Phật còn tại thế, các vị đại đệ tự của người đều lấy tam vô lậu học làm cơ sở giới luật của mình tu tập. Nếu chẳng trì giới luật thì sự tiến tới con đường giải thoát trở thành vô vọng. Vì thế tất cả đệ tử của đức Phật đều là những bậc trì giới nghiêm chỉnh và người nghiêm chỉnh trong giới luật là ông Upali.

Chúng ta thử kiểm lại xem, thử kiểm thảo lại xem, giới luật dù là căn bản của Phật pháp tại sao người tu giới luật không cảm thấy thích thú, hứng thú. Nguyên lai người ta hiểu giới luật của đạo Phật như một pháp luật trong quốc gia. Người ta không hiểu giới luật của Đạo Phật là một pháp môn toàn thiện đem lại sự giải thoát và ích lợi lớn cho con người.

Ở đây chúng ta phải hiểu giới luật của đức Phật chính là những pháp môn tu hành, ngoài giới luật ra không có pháp môn tu hành nào khác riêng, cho nên 37 phẩm trợ đạo, từ lúc trợ đạo lành, tức là trợ giúp làm cho thành tựu thiện pháp. Giới bổn Patimokkha chẳng qua là những oai nghi tế hạnh của người tu sĩ đạo Phật thể hiện qua giới hạnh trong giới kinh của đức Phật chứ không có gì mới mẻ và riêng biệt, chỉ người sau không hiểu biến thành bộ kinh giới riêng biệt với kinh điển của Phật.

Ở đây Thầy xin giải thích thêm để hiểu chỗ này: nghĩa là khi chúng ta nhìn qua 37 phẩm trợ đạo thì chúng ta biết nó là cái giới hành của giới bổn, giới luật của Phật. Cho nên giới luật của Phật thì chúng ta biết nó là cái giới luật của Phật là cái thiện pháp, còn giới bổn chẳng qua là những oai nghi tế hạnh để cho người ta bổ túc vào 25 cái giới hạnh mà trong giới kinh Thầy đã dạy. Bởi vì 25 giới hạnh, nó nói tổng quát, nó nói chung mà cái chi tiết li ti thì nó chưa có nói ra. Mà giới bổn thì nó nói những cái oai nghi tế hạnh đó, cũng như Thầy vừa giảng cho quý thầy nghe đó, những cái hành động nhỏ nhặt của chúng ta mà còn tâm ham muốn, còn cái tâm vội vàng ở trong đó, thì đó là cái giới bổn nó sẽ chỉ những cái vi tế đó để mà chúng ta thấy rằng đó là còn cái tâm dục chưa có ly, còn cái tâm ham muốn, còn cái tâm vội vã, còn cái tâm muốn mình mau, người khác đến trước mà phải chịu sau mình, đó là còn cái tâm tham. Cho nên cái giới bổn là nó chỉ cái vi tế đó để cho bổ túc thêm cho 25 cái giới hạnh trong kinh, mà chúng ta đã học rồi.

Chúng ta thấy được như vậy, chúng ta thấy cái giới bổn có quan trọng đâu, nó đâu phải là thầy chúng ta được, nó chỉ thêm để những cái oai nghi của chúng ta được nó làm sáng tỏ trên cái giới hạnh mà thôi chứ nó đâu có trong giới đức, nó đâu có nằm trong cái giới đức được, mà nó đâu có nằm ở trong, bởi vì kinh giới chúng ta thấy nó đâu có nói về thiền định được, mà kinh giới nó đâu có nói ra, cái kinh giới bổn đó thì nó đâu có nói ra cái giới Tuệ được.

Còn ở đây giới kinh của chúng ta nó có giới Hạnh, giới Đức và giới Tuệ, nó đầy đủ, trọn vẹn của một còn đường toàn diện là giới, giới bổn của Phật. Mà giới bổn của Phật như vậy là, Thầy nhắc lại có một vị Bà La Môn hỏi đức Phật, sau khi đức Phật nhập diệt thì ai là người thừa kế đức Phật để dẫn dắt chúng Tỳ kheo sau này? Đức Phật nói một người mà phải có đủ ba cái điều kiện thì người đó sẽ là thay Phật dẫn dắt chúng tăng sau này. Ba cái điều kiện đó là gì? Phật nói đó, là cái người đó phải có hạnh lực đó là cái thứ nhất, phải có thần lực là cái thứ hai, phải có huệ lực, thì cái đó là cái thứ ba, ba cái này có thì người đó mới mới xứng đáng là hướng dẫn chúng tăng sau này, thì chúng ta nhìn thấy các bậc thánh tăng chưa có người nào mà xứng đáng có được ba cái oai lực này.

Một người được cái giới Hạnh mà không được cái giới Đức thì nó chỉ tạm thời nó chưa có tròn đầy được cho nên mới có vị đệ tử này đệ nhất cái này, đệ nhất cái kia chứ đâu có ai mà đệ nhất hết cả, giống như Phật đâu được, mà chỉ có giới bổn là đệ nhất đủ hết, như Thầy đã giảng rồi. Thì các thầy thấy trong giới bổn, giới đức có này, giới hạnh có này, giới tuệ có đó là đủ ba cái oai lực của một vị tu sĩ để lãnh đạo chúng tăng sau này cho nên đức Phật không di chúc cái người mà thừa kế Phật là ai, không phải là giới luật sao?

Còn bây giờ chúng tăng nhìn ông Ca Diếp thì có cái hạnh đầu đà, mà ông Xá Lợi Phất thì có cái đại trí tuệ mà thôi, còn ông Mục Kiền Liên thì có đại thần thông thôi, đệ nhất thần thông thôi, mà ông La Hầu La thì có mật hạnh thôi. Thì các thầy thấy, mỗi người có một góc độ thì làm sao tròn được cái oai lực đó mà làm thầy cho chúng Tỳ kheo sau này.

Cho nên không có người nào mà thừa kế chúng ta là tại vì chúng ta thấy đức Phật khen ông này đệ nhất, ông kia đệ nhất cái này cái nọ cái khác, thì nó không tròn đủ rồi. Mà không tròn đủ thì tức là chưa có đủ một cái oai lực mà có thể nhiếp phục chúng tăng tu hành theo đúng cái sự giải thoát của đạo Phật. Chỉ có đức Phật là người mới là người đủ ba cái oai lực đó, đó thì chúng ta đọc lại kinh chúng ta thấy cái chỗ mà Phật nói, chúng ta xác định nhìn chúng Tỳ kheo của Phật, nhìn những cái bậc thánh tăng mà đệ tử của Phật không đủ ba cái oai lực đó thì làm sao mà cái người hướng dẫn chúng Tỳ kheo sau này được, chỉ có giới luật mới đủ mà thôi. Cho nên Thầy giảng giới luật để chúng ta thấy giới bổn của đức Phật, là cái giới luật nào. Còn cái giới bổn mà chúng ta đã học mà các ngài đã kết tập thành đó là chi tiết của giới hạnh chứ đâu phải là gì, cho nên đọc đến chúng ta thấy từ một trăm giới chúng học rõ ràng là những chi tiết lặt vặt nhỏ nhặt chứ đâu phải là cái gì khác hơn hết.

Xét như vậy chúng ta mới thấy được cái giới nào là cái giới làm thầy của chúng ta, chứ còn không chúng ta cứ lấy giới luật đó làm thầy chúng ta như cái cây khô vậy, tu riết muốn chết luôn à, sống gì mà trời đất ơi quá khổ vậy nè, có giải thoát thứ gì đâu người ta ăn mình ngồi đó mình nuốt nước miếng có sung sướng chỗ nào.

Vì thế, giới bổn được xem như là pháp luật trong một quốc gia, cho nên tu sĩ tu giới luật quá khó khăn và xem như mất tự do, bị giới luật ràng buộc thế nên kinh điển Đại Thừa và Thiền Tông phá vỡ giới luật của đạo Phật, phá giới luật tức là phá pháp môn tu hành của đạo Phật.

Người thuyết giảng giới luật gọi là giới sư, họ thuyết giảng khó khăn khiến cho người tu theo giới luật không có đường giải thoát, toàn thấy cuộc sống rất khổ hạnh đụng đâu cũng phạm phải lỗi lầm, lỗi lớn lỗi nhỏ, tâm hồn họ không được thanh thản an vui. Do không hiểu giới luật nên người tu giới luật thành một pháp môn khắc khổ, cằn cộc.

Tại sao đệ tử của Phật lại có người được Ngài ca ngợi, tán thán đệ nhất pháp môn này, đệ nhất pháp môn kia? Giới luật là một pháp môn có thấp có cao, có hạnh, có đức, có tuệ. Nếu ai kiên trì ở chỗ nào, làm gương hạnh tu tốt cho người khác thì đức Phật gọi là đệ nhất. Như tôn giả Upali là trì giới hạnh đệ nhất, nghĩa là ông giỏi về giới hạnh đệ nhất. Nghĩa là ông Upali ông giỏi về giới hạnh đệ nhất. Mà giới đức ông chưa giỏi, bởi vì giới đức ông phải thiền định giỏi chớ còn đằng này giới đức ông đâu có giỏi và giới tuệ ông cũng chưa có giỏi, cho nên ông chỉ có cái giới hạnh không à, cho nên vì vậy ông chỉ có ở cái góc độ đó làm sao ông xứng đáng là ông làm thầy của mình ở sau này. Đó là chúng ta thấy cái chỗ mà Thầy vạch ra để thấy cho rõ được cái tại sao đức Phật không di chúc là cái ông đó là thầy mình mà lại là di chúc giới luật là làm thầy mình?

Tôn giải Xá Lợi Phất giỏi nhất về tri kiến giải thoát, giỏi nhất về tri kiến giải thoát thuộc phần thứ nhất giới tuệ, đệ nhất trí tuệ. Nghĩa là đức Phật gọi ông Xá Lợi Phất là đệ nhất trí tuệ đó, thì ông giỏi về tri kiến giải thoát ở trong cái phần mà thứ nhất của giới tuệ, chúng ta nói khi mà cái tâm mà nó định tĩnh rồi thì ở đó ông phát triển cái giới tuệ thứ nhất nó phát triển cái tri kiến và cái chánh kiến, cái tri kiến nó sáng suốt vô cùng, thì ông ở đây ông sáng suốt, Phật chưa nói mà ông giải thích được, Phật chưa bao giờ nói cái bài pháp đó mà người hỏi ông giải thích, người đó đến hỏi Phật thì Phật nói ta cũng nói cỡ vậy thôi, thì đó ông phát triển được cái tuệ, cái giới tuệ ở chỗ cái mức độ đó chứ chưa phải là toàn bộ cái giới tuệ. Bởi vì giới tuệ nó có 33 cái giới lận, chứ đâu phải ít mà ông chỉ phát triển ở chỗ đó thì đức Phật chỉ khen ông ở chỗ đó chứ đâu thể khen ông toàn bộ được. Cho nên ông đâu phải cái người mà làm thầy chúng ta được.

Còn tôn giả Mục Kiền Liên thì giỏi nhất về giới tuệ thứ ba, thần thông đệ nhất cái chỗ mà một thân biến ra nhiều thân, muốn biến ra cái gì cũng được hết, thì cái đó là cái giỏi về cái giới tuệ đó, mà cái giới thứ nhất, cái giới tuệ thứ nhất thì ông cũng luôn luôn lu mờ chớ ông đâu có, Phật nói sao ông nói lại như vậy chứ ông đâu có dám nói trật đâu.

Còn ông Xá Lợi Phất thì Phật chưa dạy ông dám nói trước được mà nói không sai ý của Phật chút nào hết, còn ông này khai triển chỗ đó không nổi, cho nên ông chỉ ờ Phật dạy sao bây giờ chúng Tỳ kheo hỏi sao ông cũng dạy y vậy chứ ông không dám nói, hỗng dám sai khác. Đó là ông chỉ có cái phần là cái giới tuệ của ông ở cái phần thứ ba đó, thần thông đệ nhất mà thôi.

Còn ông A Na Luật thì thiên nhãn đệ nhất, tức là ông giỏi về tuệ thứ tư. Ông giỏi về cái tuệ thứ tư, cái thiên nhãn, tức là ông giỏi về cái lục thông tức là chỉ có cái thiên nhãn thôi chứ ông đâu có nhĩ thông được nữa.

Đó thì chúng ta thấy trong những bậc thánh tăng nó có giỏi từng góc độ của nó mới gọi là đệ nhất, còn nếu mà người nào cũng đệ nhất hết thì cái người đó mới xứng đáng là thầy của chúng ta, cho nên ông Phât ổng giao cho một người lãnh đạo Phật Giáo sau này ổng phải giao cái người đầy đủ chứ ổng giao cái người mà không đầy đủ thì Phật giáo nó suy đồi sao? Thế mà chúng ta có ông thầy đầy đủ chúng ta quẳng ông thầy đó đi. Rồi bây giờ chúng ta đặt hai chục ông thầy vô thì chúng ta biết chọn ông nào đây? Lấy ông nào mà làm thầy mình bây giờ đây, ông nào mà cũng cỡ tầm vóc là phá giới không thì làm sao là thầy mình?

Đó, thì như vậy trên cái bước đường tu hành của chúng ta, trong cái thời đại của chúng ta quá khó, ông thầy giới luật của chúng ta mà bây giờ nói ra thì cứ nói cái đó là kinh, chứ họ có nói cái đó là giới đâu, mà hôm nay Thầy giảng quý vị mới thấy đó là giới bổn của Phật đó. Nó phải đủ ba cái oai lực của cái người lãnh đạo Phật Giáo sau này, thì ông Phật ngày xưa ông đủ ba cái oai lực, bởi vì hạnh lực, thần lực và tuệ lựccủa ông. Chúng ta phải thấy được cái điều đó mà chúng ta mới biết rằng giới luật của Phật rất là tuyệt diệu không có phải là cái thứ thường đâu.

Khi tu hành ta phải hiểu mỗi đặc tướng riêng của con người, tánh sở trường của người ấy ở đó, họ phải đạt cái đó cao nhất vì thế đức Phật gọi là đệ nhất, tức là đệ nhất sở trường của họ. Trong giáo phái, giới luật của Phật cũng vậy, nghĩa là trong giáo phái giới luật của Phật nó nhiều cái chỗ mà đạt cái sở trường, mà cái người nào thích cái đó thì họ đạt cái sở trường. Cũng như bây giờ các con là học sinh nè, các con vô trong trường các con học, tại sao có thằng giỏi toán mà có thằng giỏi văn, mà có thằng giỏi sử địa, đó là cái sở trường của nó, cái thích thú của nó, nó phải giỏi môn đó. Cho nên đệ tử của Phật đâu phải toàn diện hết, nó thích cái nào là cái sở trường của nó, còn cái sở đoản nó học dở, cái thằng giỏi văn thì toán nó làm mù mờ nó không biết gì hết, vô nó cắn ngòi viết chứ nó không làm được cái gì hết, mà tới viết văn thì nó viết thao thao bất tuyệt, nó viết không bao giờ ngòi bút nó dừng, mà tới làm toán rồi nó ngồi nó cắn bút, thì đó là cái sở đoản của nó. Mà cái sở trường của nó, nó phải thông chứ sao, đó thì quý thầy cũng biết con người chúng ta nó có đặc tính riêng của nó cho nên người thì thích Văn, người thì thích Toán, người thì thích cái này cái kia mà cái sở thích của nó. Còn cái người mà đồng đều hết lại là không giỏi thứ nào hết, cái nào cũng đều đều, là không có giỏi thứ nào hết, phải hiểu. Mà có người còn giỏi tất cả các môn nữa đó mới gọi là bậc làm thầy của chúng ta. Mà trong cái thời của đức Phật chúng ta thấy Thánh tăng không có người nào mà giỏi đồng đều hết. Đó, thì biết như vậy chỉ có giới luật mới là thầy của chúng ta mới là đồng đều thôi chứ còn không có ai mà đồng đều được.

Đời nay ít người thấu đạt giáo pháp này, nên đem phân chia giáo pháp ra từng manh mún, vụn vặt biến thành nhiều pháp môn, mà mỗi pháp môn chẳng dẫn ai tu hành đi đến đâu cả, lừng chừng, lỡ dở, tu sĩ ương ương gàn gàn, pháp môn nào chẳng ra pháp môn nào, giới luật nào cũng chẳng ra giới luật nào. Nghĩa là cái nào nó cũng chẳng ra cái nào hết à, ương ương gàn gàn, tu chẳng ra tu mà tới đâu cũng chẳng tới đâu, chỉ có nói mồm nói mép thôi à, mà không làm được cái thứ gì hết. Thì đó, quý thầy thấy họ phân chia ra làm, họ phân chia họ dám cả gan dám nói 84 ngàn pháp môn. Phật giáo có 84 ngàn pháp môn chứ không phải có mộtpháp môn, họ dám nói dóc như vậy đó. Thử họ đếm thử coi tính ra xem có 84 ngàn pháp môn không, kinh sách nào mà kê ra cho chúng ta thấy có 84 ngàn pháp môn không, có không? Đếm cho lắm thì cũng cả trăm pháp môn thì cũng là quá sức tưởng tưởng rồi chứ nói tới 84 ngàn thì đặt ra nói cho dữ chứ ở đâu mà có dữ vậy. Đó là cái vọng ngữ, quá là đại vọng ngữ chứ không còn gì nữa hết, dám cả gan nói cái lời nói như vậy.

Rồi nói là Phật nói chứ có phải nói mà dám nói là mình nói đâu, đưa ông Phật ra ổng nói vậy ổng không nói láo đến cái mức độ ấy chứ, nói sao ông kê ra thử coi tôi thấy coi ông nói như vậy có đúng không, cuối cùng xét lại trong kinh sách đi chúng ta đếm hết đi, từ Đại Thừa qua và Nguyên Thủy Tiểu Thừa đi, chúng ta đếm hết thử coi đi coi có đủ không? Cộng luôn cả Thiền Tông và cả luôn Thiên Chúa cả luôn tất cả luôn, đếm hết đi tất cả tôn giáo trên thế gian này coi xem có 84 ngàn pháp môn được không? Chứ đừng có nói chi nội Phật giáo.

Tại vì sao? Tại vì không còn người tu chứng pháp môn của Đức Phật nữa nó mới chia ra làm tầm bậy như vậy đó, là tại vì không có người tu chứng, chứ có người tu chứng người ta kết tập lại pháp môn nào là ra pháp môn nấy chứ, như bây giờ Thầy kết tập lại giới luật là giới luật, trong giới luật là pháp môn để chúng ta tu không có pháp nào khác hơn hết, Đạo Phật gì mà nhiều quá vậy, biết đâu mà tu.

Chỉ có cái pháp môn đó, rồi có từ cái chỗ thấp đến chỗ cao chứ không phải có nhiều pháp môn, người muốn tu phải tu cái gì trước cái gì sau thì nó là một pháp môn cũng như bây giờ chúng ta muốn thi đậu một ông bác sĩ thì chúng ta phải đi học từ lớp 1 cho đến lớp 12 rồi mới vào học trường Y khoa rồi đậu được bác sĩ, cái đường lối nó phải vậy thì chúng ta phải chứ đâu phải là cái lớp 1 là một pháp môn, cái lớp 2 là một pháp môn rồi cái lớp 5 lớp 6 là một pháp môn, mấy ông nói sao mà lạ lùng vậy. Nó chỉ là một cái giáo trình, cái giáo án của người ta học tập thì nó phải đi từ lớp thấp đến lớp cao thì lại cho nó là mỗi cái cấp bậc học như vậy là một cái pháp môn à? Mấy ông ngu si quá độ như vậy.

Tại vì không còn người tu chứng pháp môn của đức Phật nữa, tại vì người tu sống theo dục lạc thế gian, mới chẻ pháp môn của Phật ra để mình tu theo sở thích, chẻ nó ra để mình tu theo cái sở thích, chạy theo dục lạc đó, đặt ra cái pháp môn đó để cho mình chạy theo nó chứ không có gì khác. Bởi vì dục lạc nó cám dỗ quá nhiều mà, sống cái đời sống giới luật mà họ đặt ra cái giới luật họ thấy khổ quá, sống kiểu này chắc tu... chứ tu có nổi gì đâu, cho nên đặt ra các pháp môn tu để theo cái sở thích đó mà thấy như không phạm giới, mà còn có hy vọng là có thể sanh vào được cõi trời hay hoặc là về cõi cực lạc nó cũng sướng, cũng phè phỡn lên trển muốn ăn gì cũng có, còn ở dưới thế gian này muốn ăn phải mần cực khổ mới có ăn cho nên ước ao để lên cảnh giới đó, mới đặt ra những cái điều đó. Tại vì loài người thiếu phước không đủ duyên với Phật pháp.

Đó thì chúng ta thấy đức Phật nhập diệt rồi, sau 100 năm thì chúng ta thấy lần lượt con người ở thế gian này thiếu phước, Đạo Phật có đó mà không có chánh pháp để chúng ta thực hiện. Toàn là chia chẽ ra, chạy theo, biến nó trở thành tà pháp, tà kiến hết nó không còn cái chánh pháp nữa. Cho nên Phật giáo hiện tiền có trước mặt với nhân loại, mà pháp môn thì bị chẻ vụn như những miếng giấy xé nhỏ, mà vò nát nữa chứ chưa nói xé nhỏ không mà còn bị vò nát ra nữa. Không còn dùng vào một việc gì được cả, chỉ còn bỏ mà thôi. Họ lý luận thế này thế khác là để che đậy những lỗi lầm tu sai, phạm giới của họ, giống như một lớp nước sơn ở ngoài còn bên trong là một khúc gỗ mối mọt đục khoét tan nát.

Nếu đem tất cả kinh sách, luật ra đọc ta thấy có sự sai biệt. Rất nhiều điểm khác nhau có bộ thì yêu cầu nghiêm trì giới luật, có bộ thì yêu cầu giảm bớt nhẹ nhàng. Nếu đọc sách luật mà cho bộ này phải, bộ kia phải hoặc bộ này trái, bộ kia trái thì người đọc sách luật là vô ích, không lợi ích cho đường tu mà bị ảnh hưởng của những người xưa không hiểu luật pháp của Đạo Phật mà viết ra thành luật thì giới luật của Phật thành ra bản hiến pháp của quốc gia chứ không phải là pháp môn tu hành của Phật nữa.

Đó thì quý thầy thấy bây giờ giới luật của Đạo Phật bây giờ nó thành bản hiến pháp, nó thành bản hiến pháp cho nên tu sĩ bắt đầu mà vô thực hành, chấp nhận cái bản hiến pháp này ông nào cũng le lưỡi hết trơn, đâu có chấp hành nổi, mà là giới luật của Phật là pháp môn tu làm cho người ta giải thoát người ta mới thích thú, còn cái này vô bắt đầu trời ơi tôi khổ quá trời, giới luật như thế này chết. Đi thì đi chân trần như thế này, đạp ba cái nước cứt trời ơi về nó ngứa chân gần chết đêm nó đâu có ngủ được. Đó, đó là những cái bản hiến pháp đó, cái pháp luật của nhà nước là bản hiến pháp đó, đó cho nên ở đây, chúng ta phải thấy rằng cái chỗ giới luật của Phật nó không phải là cái chỗ hiến pháp đâu. Do thế, giới bổn Patimokkha trở thành pháp chế. Đó Thầy xác định cho qúy thầy thấy nó trở thành pháp chế chứ nó đâu có còn cái giới luật của Phật nữa. Vì vậy tất cả các tu sĩ bị pháp chế gò bó, khổ sở cho đời sống tu hành, mất sự an lạc thanh thản.

Hầu hết tất cả các bộ luật hiện hành của Phật Giáo bây giờ, trong các chùa, tu viện đều do những người không chứng giới pháp của Phật mà soạn hoặc viết ra, rồi tự thêm tự bớt làm cho giới pháp mang đầy tính chất Khổng Giáo, Lão Giáo và còn có tính chất thần quyền, mê tín nữa. Đó Thầy nói, như ở trong giới luật các thầy thấy có một vị giới luật hỏi vậy chứ: Tôi giữ gìn giới luật vậy tôi có còn phạm gì không, hỏi ông thần hộ giới đó: Tôi giữ gìn giới luật vậy tôi có còn phạm giới gì nữa không? Ông thần hộ giới mới nói ông ăn cơm rồi ông không tráng nước bát nên vẫn còn những cái hột bựa ở trong đó cho nên ông còn phạm giới. Trời đất ơi! mình là người tu mà hỏi Thần, Thầy không biết làm sao á, nó là cái sự mê tin, giới luật mà nói cái chuyện đó thì Thầy thấy quá là thần quyền rồi. Đọc trong kinh giới Thầy thấy Thầy buồn cười những cái chuyện, đặt ra những cái chuyện đó mơ hồ, pháp luật của Nhà Nước cái hiến pháp của Nhà Nước không biết có nói cái chuyện đó không? Đơn giản mọi người chỉ biết giới luật tối thiểu là năm, là năm điều tức là ngũ giới, tối đa là 348 giới, nghĩa là người ta biết có giới luật từ cái năm điều rồi đến 348 giới là tối đa của Tỳ kheo ni giới.

Đây chỉ là điều văn mà thôi, một người chỉ biết học thuộc lòng điều văn của giới luật thì chẳng thành chuyên gia giới luật học bởi vì trong mỗi điều giới có tướng có tánh, có thể của nó, phần nhiều đều có sự phân biệt khai – giá - trì phạm. Mỗi điều giới có đẳng cấp khinh trọng cho nên đồng phạm một điều giới mà động cơ phương tiện kết chẳng đồng, kết tội người ta chẳng đồng. Cùng phạm giới mà động cơ phương tiện nó phải có sự sai khác chứ không thể nào, mà người đó phạm vậy mà người kia cũng phạm vậy mà hai cái này nó đều đem ra kết tội người ta y như nhau thì không đúng. Bởi vì trường hợp người ta phạm tuy là cái giới đó nó phạm vậy nhưng mà trường hợp nó khác. Ví dụ như bây giờ phạm về giới dâm, mà trong khi người bị bắt buộc người ta dâm, còn cái người mà vui thích hành dâm thì hai cái tội dâm thì nó giống nhau, nhưng mà có người bị bắt buộc mà có người không bị bắt buộc. Như một cô gái bị ép buộc người ta dâm thì cũng kết tội người ta dâm sao? Cho nên khi mà xử người ta, động cơ phương tiện mà kết cái tội của người ta, phải thấy cái được nguyên nhân đó. Còn nếu mình kết tội người ta người nào cũng dâm hết, người nào cũng tội Ba La Di, tội chặt đầu hết thì cái chuyện đó là cái chuyện không đúng rồi. Còn cái người tìm người ta để hiếp dâm người ta thì cái tội đó là tôi chặt đầu, đáng rồi. Còn cái người bị người ta bắt buộc hiếp dâm, mà quý vị cũng bắt chặt đầu người ta thì cái tội đó là tội như thế nào? Người ta có phải người ta đi tìm cái đó người ta hiếp người khác đâu? Đó cũng đồng một cái tội. Thầy đem một cái ví dụ như vậy để thấy rằng đồng một cái tội dâm nhưng mà cái người phạt nặng và cái người phạt nhẹ, và có thể nó là tha bổng nữa là khác đó chúng ta phải hiểu, không có tội nữa. Do thế phạm tội, phạm tội khinh trọng mà phương thức sám hối cũng chẳng đồng, nghĩa là tội nhẹ mà sám hối cũng chẳng đồng nữa, người thì bắt quỳ hương người chỉ phát lồ ra nói rồi xả hết tội khỏi cần quỳ hương. Còn người phải quỳ hương, còn người phải cấm phòng nữa. Đó là những cái điều đó thì nó rất khó ở trong giới luật chớ không phải dễ, chớ không phải dễ đối với người cầm vận mệnh giới luật mà muốn sao cũng được đâu, bức oan người ta, cái chuyện đó không phải là chuyện đơn giản.

Cho nên ở đây giới luật của Phật không phải là cái điều đó mà giới luật của Phật giúp chúng ta từng bước để xả cái tâm của chúng ta ly dục ly bất thiện pháp để chúng ta tiến tới một con đường giải thoát hoàn toàn tâm hồn. Cho nên giới luật của chúng ta nhẹ nhàng và nó thảnh thơi, nó làm cho con người của chúng ta mỗi ngày một giới luật thêm trong thân tâm chúng ta, mỗi một bước giải thoát trong tâm hồn, thì như vậy mới gọi là giới luật của Phật chứ, mới là ông thầy của mình chứ. Ông thầy gì mà tới đây cứ đánh tôi hoài à, đập tôi hoài, tối ngày cứ đập tôi hoài tôi chịu sao nổi ít ra ông cũng phải an ủi xoa dịu, ông cũng phải nói những lời ngon ngọt tôi mới thích ở ông chứ, còn ông cứ làm cái chuyện này thì tôi đi tôi bỏ ông chứ tôi đâu có ở đây được. Thì cái giới bổn, hiện hành bây giờ của Phật Giáo đang dùng nó là như ông thầy kêu mà lấy roi mà quất mình đó.

Tuy nhiên trong giới bổn có những điều không ghi, nhưng điều gì làm trái với nguyên tắc Phật Giáo cũng đều coi là phạm giới. Phần nhiều là ở trong giới bổn có những điều nó sơ sót nó không ghi, nhưng mà có điều thì nó lại làm trái với Phật pháp. Phạm giới là gì? Phải có biện pháp nào? Đều phải phân biệt rõ ràng như chỉ trong lòng bàn tay. Nghĩa là cái phạm giới, phạm giới là gì? Mình phải biết cái chỗ phạm giới, phải biết cái biện pháp nào để nó trừng trị những cái phạm giới đó đều phải như là người nắm vận mệnh của pháp giới để mà điều khiển pháp giới, điều khiển giới luật thì phải rõ ràng như là… Phạm giới là gì? Phải có biện pháp nào? Đều phải phân biệt rõ ràng như chỉ trong lòng bàn tay, mới được gọi là thông hiểu giới luật.

Một tu sĩ Phật giáo không những biết về phạm giới, tướng khinh tướng trọng mà còn phải biết về phương hướng sám hối. Nghĩa là nói chung về mà cái người tu sĩ Phật giáo chúng ta mà muốn mình làm một vị thầy mà hướng dẫn người ta thì mình phải rõ ràng được tất cả những cái này thì mới có thể làm thầy người ta. Cho nên sau khi Thầy tu hành xong rồi, Thầy đã từng nghiên cứu về cái giới luật rất nhiều mặc dù thầy Thanh Từ bảo Thầy đọc kinh sách Đại Thừa, Tiểu Thừa nhưng mà cái phần nhiều Thầy nghiên cứu là về giới luật, bởi vì Thầy biết là cái pháp nào khi tu hành mà Thầy đạt được, vì sau 10 năm ở trong thất Thầy giữ gìn rất trọn vẹn cái giới luật cho nên Thầy đã biết nó như thế nào.

Cho nên sau khi về thầy TT bảo Thầy là phải đọc tất cả những sử của Phật giáo, rồi sử của thiền Trúc Lâm, sử của các vị thiền tông Trung Hoa này, hành tạng của các vị thiền tông Trung Hoa này, rồi đọc lại kinh sách Đại Thừa này, rồi A Hàm này, Nguyên Thủy này, Thầy TT dạy Thầy như vậy. Tất cả những cái điều kiện đó phải đọc lại hết để sau này giúp thầy, đó là cái lời của thầy TT dạy như vậy, nhưng mà Thầy về Thầy đặt hết thời gian vào nghiên cứu giới luật của Phật, Thầy tìm mọi cái bộ luật mà Thầy nghiên cứu hết. Thầy thấy con đường giải thoát ở nơi giới luật chứ không phải ở chỗ Thiền tông hay hoặc là ở chỗ kinh sách nhảm nhí đó. Cho nên Thầy có đọc tất cả những cái đó, Thầy mới viết ra thành một bộ sách Thầy để là Đường Về Xứ Phật, Đường Về Xứ Phật là cái lý luận của Thầy bác cái sai, cái đúng của đạo Phật chứ không phải Thầy giải thích cái gì thêm đâu, cái bài kinh nào đúng, cái bài kinh nào sai là Thầy đã viết ở trong đó ra. Nhưng Thầy thấy nó không có phù hợp nên Thầy đem Thầy bỏ Thầy không có xài nó, Thầy để đó như một cái đống giấy đó thôi, nó không có phù hợp ở trong cái thời đại này ra, đưa nó ra thì đụng chạm với các bậc tôn túc, các thầy giáo hội ở trong cái thời đại này, cho nên Thầy hoàn toàn Thầy dẹp nó sang một bên, vì làm khổ người thì không nên, Đạo Phật đã dạy như vậy, người ta đang có kiến giải, đang có nghĩ là cái đó đúng mà mình cho nó là cái sai thì người ta đau khổ rồi, mà người ta nhận đó là sai thì người ta cũng thấy đau khổ người ta rồi, cho nên không có làm cho người ta đau khổ. Chỉ âm thầm tìm mọi cách làm sao mà chấn hưng được Phật pháp, làm sao cho người ta thấy cái đúng, cái sai mà thôi.

Cho nên Thầy rất là nghiên cứu về giới luật, vì vậy Thầy thấy, Thầy đọc hầu như các tác phẩm giới luật của các vị tôn túc cũng như những người sau này mà viết ra Thầy thấy thiệt là dẫm lại cái lối mòn của người trước, mà còn dẫm trật nữa là dẫm đúng.

Người nghiên cứu giới luật của Đạo Phật hiện giờ mà không thông hiểu giới luật Đại Thừa và Tiểu thừa, thì sự thông hiểu khiếm khuyết quá nhiều. Nghĩa là mình mà không nghiên cứu cái giới luật của Đại Thừa và giới luật của Tiểu Thừa mà kết hợp lại, thì tức là sự khuyến khuyết của mình rất nhiều. Chẳng hạn bây giờ ở bên Nguyên Thủy, các sư bên Nguyên Thủy họ chỉ nghiên cứu cái giới luật của Tiểu Thừa họ thôi, còn ở bên Đại Thừa của mình thì chỉ nghiên cứu sáu cái cái bộ luật của mình ở bên Đại Thừa thôi thì tức là mình còn khiếm khuyết rất nhiều chứ chưa đủ đâu. Cho nên cả cái giới luật ở bên Nguyên Thủy, cả giới luật của bên Đại Thừa đều phải nghiên cứu coi các tổ, các tổ luật của mình họ viết như thế nào, họ làm sao, có đúng hay sai. Rồi mình nương vào cái giới kinh, rồi mình xét qua mình biết họ đúng hay sai, bởi vì khi mà tu hành rồi người ta thấy cái giới kinh nó rõ ràng lắm, bởi vì mặc dù trong kinh Nguyên Thủy nó có sự thêm bớt một hai bài kinh nhưng mà cái giới kinh nó rất cụ thể rõ ràng. Bởi vì nó chỉ cho chúng ta hạnh lực, thần lực và oai lực của nó đủ những giới hạnh, giới đức và giới tuệ nó đủ, cho nên nó là một bậc thầy của mình vì vậy mình lấy cái đó mình làm cái chuẩn mà mình xét qua cái kinh giới của các bậc này viết sai hay đúng mình biết rõ. Bởi vì giới luật là thầy của mình, mà giờ nó là giới bổn là thầy của mình chứ gì thế mà cái giới bổn mà viết như vậy thì nó làm thầy của mình được không?

Đó thì hôm nay Thầy nói để quý thầy rõ được, khi một người mà đã tu học đã có cái sự thành tựu được sự giải thoát, nó có cái sự thông minh kinh khủng lắm, nó không lường được cái trí tuệ thông minh đó. Cho nên nó nghiên cứu tất cả nó biết được cái sai cái đúng. Bây giờ Thầy nói cho quý thầy thấy như thế này, hiện bây giờ nếu có một người mà tu như Thầy để làm một bằng chứng thì cái hình ảnh của đức Phật Thích Ca không phải là cái hình ảnh như chúng ta thấy bây giờ đâu. Nói cho quý thầy biết không phải đâu, nghĩa là chúng ta dẫn tâm trở về quá khứ, chúng ta sẽ thấy được cái mặt đức Phật Thích Ca thật sự. Mà có một người tu được như Thầy, thì đó là cái sự ấn chứng với nhau để nói rằng chúng ta thấy đúng, còn bây giờ có một mình Thầy, Thầy nói ra người ta cho là nói láo, cho nên Thầy đâu có nói cái chuyện mà mơ hồ đó được.

Cho nên nếu mà có mười người, một trăm người tu được như Thầy thì đó là cái bằng chứng cụ thể nhất là tất cả những hình ảnh của đức Phật Thích Ca bây giờ dẹp bỏ hết, chúng ta không xài cái đó đâu. Thầy nói thật sự với quý thầy bởi vì con đường tu hành nó không phải là nó còn cái thời gian quá khứ lâu như xưa đâu. Hai ngàn năm trăm bốn chục năm nay đâu phải là thời gian xa lắc xa lơ gì, cái hình ảnh của đức Phật Thích Ca nó vẫn còn ở trong quá khứ đó chứ đâu mất. Chúng ta trở về đó thì cái hình ảnh Đức Phật như thế nào thì nó y như vậy chứ không phải cái mặt nó như búp bê vậy đâu. Cho nên phải có một người mà tu tập được như Thầy thì chúng ta sẽ có người ấn chứng với chúng ta tin tưởng. Hai người, mười người, một trăm người càng làm cho người ta tin thì tất cả những cái bộ mặt mà tượng đồng cốt chúng ta dẹp hết. Thầy nói thật, còn nếu bây giờ chúng ta dẹp, chúng ta nói ai tin người ta chỉ nói mình nói huyễn hoặc, nó không có cái bằng chứng cụ thể.

Cho nên Thầy mong rằng quý thầy nỗ lực tu hành đúng những cái lời mà Thầy dạy đó các thầy sẽ đạt được, không có lâu đâu. Thầy một mình trong thất mười năm mà Thầy rèn luyện một mình không có người hướng dẫn mà Thầy còn làm được, còn các thầy làm sao làm không được, có Thầy hướng dẫn, chỉ có chuyên cần siêng năng, giữ gìn giới hạnh cho đúng, xa lìa những cái tâm dục, tâm ham muốn của mình, thì phải đạt được tới đó chứ đâu có gì mà khó. Pháp hành chúng ta rõ ràng cụ thể chứ đâu phải chúng ta... cái pháp hành là cái pháp dùng để mà chúng ta tạo ra một cái lực của tinh thần chúng ta rất mạnh mà, sai bảo cái gì cũng được hết thì quý thầy đã thấy rõ cái pháp hành, ở đây Thầy chỉ dạy các thầy cụ thể chứ đâu phải là cái chuyện mơ hồ tu hành kiểu ngồi đó mà lơ mơ lơ mơ rồi cái hành đó làm sao tới đâu. Đó là những cái mà chúng ta cần phải biết để chúng ta thực hành cho rốt ráo những cái pháp vi diệu như vậy. Bỏ cuộc đời để đi làm những cái gì vĩ đại chứ bỏ cuộc đời để đi làm những cái việc nhỏ mọn như vậy sao.

Giới luật của Đại Thừa và giới luật của Tiểu Thừa là thứ giới luật phát triển theo các bộ phái, đó Thầy gộp chung cho quý thầy thấy, phát triển theo các bộ phái, nghĩa là lúc bấy giờ nó chia ra làm hai mươi bộ phái, thì nó phát triển cái giới luật đó theo bộ phái chứ làm sao mà còn cái nguyên chất của nó được, cho nên thêm bớt lung tung, đọc giới kinh Nguyên Thủy chúng ta thấy điều này rất rõ ràng. Cho nên không thể nào lấy giới luật khô khan cằn cỗi như thế này mà áp dụng vào đời sống tu hành của tu sĩ có kết quả được. Nghĩa là lấy giới bổn mà bây giờ áp dụng cho nó làm thầy của mình thì làm sao mà chúng ta giải thoát được. Tuy nhiên nó chỉ nhắc nhở cho chúng ta ở phần giới hạnh mà thôi nghĩa là nó bổ túc cho phần giới hạnh rõ nét để cho ngươi tu sĩ nhận ra oai nghi tế hạnh của mình mà tránh được mỗi hành động nhỏ nhặt sai lầm do giới bổn của các bộ phái đặt ra theo sở thích riêng tư của họ từng bộ phái.

Nên người giảng dạy giới luật ít có người theo tu hành được. Cho nên các thầy thấy về cái phần bộ môn giới luật không phát triển được mà thiền định thì họ phát triển được lắm, về bộ môn kinh thì họ cũng phát triển được lắm, dạy học rồi này kia, học trò học kinh cũng khoái lắm, học thiền thì cũng khoái lắm. Nhưng mà đụng tới giới luật mà dạy thì cái ông thầy cũng phạm giới luôn, thành ra ông dạy thì dạy chứ đâu dám rầy học trò. Thầy ăn ba bữa giờ ở trong kinh giới nói một bữa mà thầy dám nói học trò ăn một bữa không? Đâu dám, nói các thầy dạy thầy cũng ăn ba bữa mà thầy bảo tôi ăn một bữa, thì như vậy ông thầy đã là phạm giới rồi đâu dám dạy học trò, mà dạy như vậy thì nó có giống không? Tri hành có hợp nhất không? Như vậy làm sao phát triển được giới luật cho nên giới luật mới chết lìm chết lịm dần dần. Chỉ dạy cho có chừng vậy thôi, ở trong các trường hạ hoặc trong cái trường lớp chỉ dạy cho có chừng, cho có giới luật vậy thôi chứ đâu có dám nói giới luật. Nói ra học trò nó lôi ra hỏi ông thầy ăn một bữa đâu? Chết mồ ông thầy luôn. Đó là cái sống hàng ngày nó chỉ cho ông thầy thì ông thầy cũng hoảng sợ luôn nữa, tại sao?

1. Vì giới bổn Patimokkha khô cằn cỗi, gò bó, trói buộc, câu thúc, không thoải mái, khó chịu, giới bổn nó thành ra cái pháp luật rồi cho nên nó trói buộc cái người tu dữ lắm.

2. Người dạy giới luật phải trì giới nghiêm chỉnh không vi phạm một lỗi nhỏ.

Đằng này người dạy giới luật mà vi phạm giới luật thì người ta làm sao theo mình tu được, tức là người dạy giới luật tri hành không hợp nhất. Vì giới luật Patimokkha khô cằn nên người dạy giới luật không trì giới nổi. Chính cái người dạy giới luật, giới bổn Patimokkha đó họ cũng không giữ nổi nữa, thì họ làm sao họ dạy giới luật mà phát triển được. Mà giới luật vi phạm thì sai thì ai ai cũng nhận thấy rõ, nghĩa là giới luật mà chúng ta vi phạm thì người nào cũng thấy rõ, như bây giờ nói tôi giữ gìn giới luật mà thấy sáng ông uống cà phê rồi thì tức là ông có giữ không? Thì như vậy là ông đã sai rồi thì ông dấu đâu được, còn cái gì có thể dấu Thiền tông thì có thể dấu, chỉ ráng ngồi cho được hai, ba tiếng đồng hồ, trời tôi nhập định ở trong đó hai, ba tiếng nhưng mà có nhập được gì đâu? Chỉ ngồi cho có tụ vậy thôi chứ trong đó tâm nó lung tung, cũng như là nó nhảy múa ở trong đó, cũng như cái rạp hát vậy đó, lúc thì nó ngủ, nó buồn ngủ thì nó ngủ gục ở trỏng lúc nó hứng rồi bắt đầu nó nhảy múa lung tung như đào kép ở trỏng, có cái gì mà khác lạ, cho nên ráng ngồi được cũng là cái hình thức để cho người ta nói: ờ cái ông này ngồi được hai giờ mình mới ngồi được ba mươi phút mình thua ổng cho nên ổng có cái gì trong đó rồi, chứ thật ra đâu có cái gì ở trong ấy, đều là đồ điên khùng ở trỏng chứ có cái gì.

Mà giới luật vi phạm thì ai ai cũng nhận thấy, nên người dạy giới luật không hứng thú bằng giảng kinh luận thiền. Cho nên cái người mà dạy giới luật riết rồi họ hết dám à, mà chỉ có cái người dạy kinh, dạy luận, dạy thiền thì khoái lắm, dạy chúng mê lắm cho nên phát triển dễ lắm. Vì thế pháp sư học giáo lý, giảng kinh có thể lên tòa thuyết pháp dễ dàng. Nghĩa là mình hút thuốc chứ mình lên mình giảng kinh được, hổng sao, phải không? Còn cái người mà dạy giới mà lên cầm điếu thuốc hút hơi bị nguy hiểm, hoặc là để cái lon bia để uống giải lao đó thì chắc chắn là không được rồi. Cho nên cái ông đó lên tòa hổng được, còn cái ông mà dạy giới sư dạy kinh thì ông ấy lên tòa được, thuyết pháp rất là dễ dàng. Có thể thâu đồ chúng nhiều, có thể được cả danh, lẫn lợi nữa. Nghĩa là lúc bấy giờ mình giảng hay thì người ta tập trung chứ gì, ổng nói hay quá trời, đúng lý nói mình không có cãi được cái chỗ nào, ví dụ cụ thể nữa, thực tế, sát thực ở trong cái đời sống của mình nữa, hay quá ông giảng sư này tuyệt vời. Cho nên như vậy là đồ chúng cũng đông nè, người ta nghe hay thì người ta theo ông thầy đó chứ gì, do đó thì danh có lợi có, khoái quá chừng mà, còn gì nữa.

Thì như vậy giới luật nó bắt buộc danh lợi phải tém ra hết cho nên ông thầy ở trong cái chòi tranh. Còn cái ông thầy dạy kinh này thì trời ơi càng ngày cái nhà, cái chùa ổng càng sang lên, khoái quá. Cho nên đi làm pháp sư thì khỏe quá, mà đi làm giới sư thì thấy khổ quá, cho nên ai muốn làm  luật sư đâu, phải không? Cho nên thiền sư cũng vậy, cũng ngon lắm không thua gì cái ông pháp sư đâu. Thiền sư cũng vậy, thiền sư có thể lên tòa thuyết pháp thiền thu hút nhiều đệ tử và cả danh lẫn lợi nữa nhưng rất dễ dàng, nghĩa là dùng cái pháp thiền mình nói ra, thì tự tại vô ngại mà, cả thậm chí như tranh thập mục ngưu đồ mà, xách cá, xách rượu đi mà còn không phạm mà, phải không? Ăn thịt uống rượu đâu có phạm tội đâu. Cho nên thiền sư dễ dàng lắm, bao nhiêu tổ sư thiền của mình đã chứng minh điều đó, giải thoát hoàn toàn đâu có bị ràng buộc, giới của ta là giới thể còn mấy ông là giới tướng mà, cho nên đâu có bằng tụi tui, phải không? Do chỗ đó đó, cho nên cái ông thiền sư thu đồ chúng dễ dàng lắm, miễn là ông nói sao, có lý mà hợp lý dạy người ta ngồi được ba bốn tiếng đồng hồ, bảy tám tiếng đồng hồ thì chắc ăn nhất. Nghĩa là cái người mới vô ngồi ba mươi phút là đau muốn chết rồi còn cái ông này ngồi tám tiếng đồng hồ, mười hai tiếng đồng hồ không đau, tập luyện được như vậy, mình làm cái tướng như vậy là hấp dẫn người ta rồi, cho nên khoái, người nào cũng ráng ngồi cho bẩy tám tiếng đồng hồ cho ngon, nhưng mà trong đó cái tâm mình như thế nào, như đống rác.

Hết băng 23.

BĂNG SỐ 24

Đường lối tu tập của đạo Phật, còn tu chứng hay không dường như các vị giảng kinh, thuyết thiền gần như không có trách nhiệm với các đệ tử của mình, chỉ đổ thừa căn cơ thấp kém nên tu lâu, và người đệ tử có chợt ngộ một trạng thái nào do cái tưởng dục lưu xuất thì vội vàng ấn chứng cho người đó là ngộ Phật tánh, nếu vị đó còn tham sân si thì bảo là còn tạp khí. Nghĩa là: Tôi ngộ Phật tánh sao giờ tôi còn giận quá vậy? Thì ông thiền sư biết sao vậy ổng trả lời, tại còn tạp khí, Bồ tát còn tạp khí mà, mình mới chúng sanh mà, cho nên giờ còn giận hờn là còn tạp khí chớ sao. Đó là cái đổ thừa để tránh né qua cái chỗ mình ấn chứng, nó hổng đúng, chứ hổng phải là gì hết. Chứ còn một người tu rồi thì người ta đâu còn tham sân si nữa, bởi vì ly dục ly bất thiện pháp mà, mà có Sơ thiền của người ta thôi thì đây mới có cái giới đức của người ta mà người ta đã được ở chỗ đó rồi. Còn mình đi tới quá xa rồi, ngồi quá nhiều rồi mà thế mà vẫn còn tham sân si mà thấy được Phật tánh.

Phật tánh, nếu vị đó còn tham sân si thì bảo là còn tạp khí, hầu hết các vị tu theo kinh giáo và thiền thời nay không có kinh nghiệm của bậc chơn tu nên hỏi ra vị nào cũng còn tham sân si như thế tục, tuy cường độ có giảm nhẹ hơn một chút, thậm chí như các bậc thầy, giảng sư, thiền sư vẫn còn tạp khí nên che đậy bằng lối Bồ tát còn tạp khí. Đúng ra là họ tu chưa đúng pháp môn của Phật, chỉ tưởng tượng theo chữ nghĩa, theo các tổ đi trước, người trước sai, người sau kế tục cũng thành sai, và tiếp tục sai mãi, từ đó Phật giáo có người tu mà mất gốc, không còn ai tu chứng nữa.

Phải biết thời này dạy giới bổn Patimokkha không thích hợp với trào lưu hiện tại, vì thế giới sử kiến văn chứ thời nay dạy giới bổn Patimokkha không thích hợp với trào lưu hiện tại. Vì cái giai đoạn của Phật giáo hiện giờ nó không có hợp, vì mọi người, người ta đua theo cái đà mà dục vọng đó, thì mình dạy giới luật không có phù hợp đâu. Cho nên ở đây đem giới luật ra mà dạy thì nó không thích hợp ở trong cái thời đại của chúng ta. Thiền sư và kinh sư dễ kinh doanh làm ăn hơn, giới sư khó kinh doanh nên các vị đều lặn mất chỉ dạy lấy có mà thôi. Kinh sách thuộc về giới cũng ít người thèm đọc nên bán ế ẩm, còn kinh sách thiền và kinh thì bán chạy như tôm tươi. Hễ tưởng giải ra một loại thiền nào hợp lý một chút là dễ bán, cho nên có những thiền sư lại giả dựa vào khoa học khuyếch đại thiền tông để gạt người kinh doanh lợi dưỡng cho mình. Nghĩa là người ta lấy cái sách thiền đó, người ta thấy bây giờ trong Phật giáo dạy thiền như vậy, bắt đầu họ nghiên cứu qua cái sách khoa học đi, rồi họ dựa vào đó cái họ dạy thiền như là khoa học vậy đó để cho người ta thấy nó có gì mới mẻ hơn chút cho nên họ tu với nhau, họ mua sách thiền của ông này dữ tợn, từ đó cái danh ông cũng có, rồi cái lợi thì ông này cũng thu cũng nhiều. Đó là cái sự kinh doanh của các vị thiền sư mà chưa có tu chứng, đó là những việc làm của họ là cái việc làm như vậy đó. Nhưng mà chính bản thân của họ họ cũng chưa biết cái điều đó nữa, họ chỉ nghĩ rằng mình nghĩ vậy là đúng, để đem ra, để phổ biến cho người ta tu. Mà chính bản thân họ thì chưa có giải thoát được cái đó, nhưng mà họ nghĩ rằng có thể giải thoát được, mình tu mình dẫn người khác tu theo cũng được, cũng tốt, thế nào rồi thầy trò cũng giải thoát nhau hết. Nhưng mà cuối cùng thì đi xuống hố thẳm hết cả đám.

Tuy giai đoạn Phật giáo hiện tại kinh sư và thiền sư là những tay lấy Phật pháp kinh doanh làm ăn lớn nhất, đáng thương cho những người Phật tử u mê, nghe sao làm vậy chẳng có trí phán đoán đúng sai phải trái của đạo nên bị lừa bịp rất là đáng thương. Thầy nói thì các thầy cứ suy ngẫm coi, từ hai ba chục năm, bốn năm chục năm nay người ta tu đến đâu, có đúng bị lừa bịp hông? Bỏ nhà bỏ cửa, bỏ vợ bỏ con, bỏ cả tài sản đi vô chùa tu đến bây giờ hai bàn tay trắng, nhìn lại cũng hai bàn tay trắng có làm chủ được sống chết chưa, có giải thoát hết được tham sân si chưa? Đạo Phật thì không dối người, mà người bây giờ dạy đạo thì dối người. Thì đó là những cái nguyên nhân mà hôm nay Thầy nói để cho thấy rằng giới luật của Phật là một cái điều phải nói rằng giúp cho chúng ta vượt thoát ra những cái điều mà mê muội theo cái lời nói của người khác. Bởi vì mình thấy cái vị thầy đó phá giới là tức là tà sư rồi chứ không phải là cái thứ thiền sư chính cống đâu. Một ông thầy mà giữ gìn đúng giới hạnh thì tức là dễ thấy nhất chứ còn cái gì, mà giới hạnh không đúng thì tức là ông thầy đó là cái loại gì? Có phải là tà sư không? dẫn mình đi đến đâu? dẫn mình đi vào tà pháp, rơi vào hố thẳm chứ làm gì.

Cho nên muốn chọn một bậc thầy không phải đụng cái ông thầy nào cũng chọn đâu, mà phải chọn những bậc giới hạnh hẳn hòi, đàng hoàng thì đó là thầy của mình. Mà giới hạnh không hẳn hoi thì thôi thôi từ giã đi, mấy ông này là tà sư ngoại đạo mượn cái điều gì đó, để rồi lý luận nghe cho thông đó, rồi làm cho mình khoái cái lỗ tai, mê theo mà đâm đầu chạy thì suốt cuộc đời của mình thì chẳng qua là đi xuống địa ngục chứ không có đi lên thiên đường được đâu.

Đây quý thầy nghe giới sư Thánh Nghiêm nói : “Người học giới, trì giới tuyệt đối chẳng dám lạm thu đồ chúng, bằng không tức là phạm giới".Nghĩa là thu đồ chúng, người mà giới sư đó, mà ông Thánh Nghiêm là ông thuộc về loại giới sư đó, ông xác định như thế này, người mà học giới đó, trì giới mà tuyệt đối đó, thì chẳng dám lạm thu đệ tử, mà hễ thu đệ tử thì phạm giới, tại sao vậy? Ông thì ông cố gắng giữ gìn giới hạnh ông nghiêm túc mà đệ tử của ông lén ăn hai ba bữa, ăn trái cây hoặc ăn đường thì thử hỏi có phạm không? Ông dạy đệ tử của ông phạm giới là ông cũng phạm chứ gì, cho nên ông đâu có dám thu đệ tử, thu đệ tử đông nó phạm tùm lum hết. Bảo nó đừng nói chuyện nó nói chuyện thì ông thầy cũng bị tội chứ đâu phải không. Đó các thầy nghĩ, bây giờ Thầy tu ở đây là mười mấy vị này mà bảo đừng nói chuyện độc cư, mà mấy ông cứ nói chuyện độc cư, nói chuyện thế tục, nói chuyện nhà chuyện cửa không thì Thầy cũng phạm tội trong đó chứ. Bởi vì giới tràng ở đây nó phải thanh tịnh, nó nghiêm tịnh ở trong thầm lặng chứ sao lại có chuyện động vậy, người này đi qua thất người kia, người kia đi qua thất người nọ thì nó làm động vậy, là Thầy đã phạm giới rồi. Phật đã dạy giới kinh, giới bổn mà, phải thầm lặng, phải sống cô đơn đó là những cái giới của người ta rõ ràng chứ đâu phải cái chuyện mà nói thế này thế khác. Thì quý thầy thấy một cái người mà làm giới sư, mà nhận đệ tử mà đệ tử làm sai là ông thầy đó phải có lỗi rồi, mà có lỗi thì phải đọa địa ngục thôi chứ làm sao không? Cho nên Thầy còn dám nhận không, ẩn bóng hông, phải hông? Đã thấy nhận mà mình cứ phạm lỗi hoài, dạy đệ tử không nghe thì tức là mình chịu cái lỗi đó chứ ai chịu, cho nên do đó thì Thầy ẩn bóng là phải chứ. Nếu mà không ẩn bóng mà ngồi đây thì sau khi cái giáo án này ra thì ai nghe cũng hay hết. Trời ơi, giới luật tuyệt vời! Tu có thần thông như vậy, tu cái gì cũng hay hết, do đó tập trung về đây mà tu, thì cả trăm, hai ba trăm người thì thử hỏi, cả trăm, hai ba trăm người phạm giới. Hồi đó bây giờ Thầy có mười mấy người phạm giới thôi nó còn nhẹ, mà giờ cả trăm, hai ba trăm người thì Thầy xuống địa ngục sớm chứ gì? Phải hông? Các thầy thấy cái điều đó, cho nên Thầy đâu dám, người mà biết giữ giới rồi rất là sợ.

Đó thì Thánh Nghiêm đã nói như vậy. Do đó nếu muốn lập chí hoằng giới trước tiên cần phải chuẩn bị chịu kham khổ, bản thân là một người hoằng giới, sinh hoạt của người ấy chắc chắn phải là một vị tỳ kheo khắc khổ. Vật dụng nuôi thân chẳng dám quá tốt, bằng không sẽ thành phạm giới. Nuôi thân cũng chẳng phải dám ăn cái gì ngon ngọt hết. Cho nên nó đâu có dám tầm bậy tầm bạ được, nên nó quá khắc khổ rồi. Bằng không thì sẽ phạm giới. Còn mấy ông thiền sư, kinh sư, các thầy thấy nghĩ sao? Ăn uống lúc nào cũng được, bánh trái lia lịa, cho nên ông nào ông nấy mập phì ra hết, có ông nào ốm đâu, phải hông? Còn mấy ông mà giới sư á, trời đất ơi! Cái mình còn có bằng cái xương, cũng như con khỉ. Cái đít ông ngồi lật lên nó chai hai cục. Bởi vì có thịt ở đâu mà không chai.

Phật giáo hiện giờ ở Việt Nam vốn đã đánh mất một cái tập quán quý chuộng giới luật. Nghĩa là bây giờ nói chung là Phật giáo Việt Nam của mình là không có quý chuộng giới luật đâu. Cho nên hầu hết là quý thầy cũng như cư sĩ cũng đều là không có quý chuộng cái giới luật nào hết. Cho nên Thầy nói đây là một cái sự thật, Phật giáo hiện giờ ở Việt Nam vốn đã đánh mất cái tập quán quý chuộng giới luật. Họ bây giờ quý chuộng thiền à, quý chuộng học cho đỗ bằng cử nhân, Phật học, tiến sĩ Phật học đó là cái quý chuộng của họ đó, chứ còn cái mà quý chuộng về giới luật thì chẳng có ông thầy nào mà muốn học giới luật hết. Vì thế chúng ta đề xướng hoằng dương giới luật đâu phải gặp những hoàn cảnh chẳng quý chuộng giới luật của giáo hội cũng như của tu sĩ trong toàn nước. Nghĩa là khi mà chúng ta hoằng dương giới luật thì điều mà chúng ta gặp khó khăn nhất trong mọi hoàn cảnh chống đối của quý vị, mà ngay của giáo hội nữa, chứ chưa nói gì khác nữa. Mặc dù là họ không nói được nhưng mà họ cũng tìm cách ngầm để mà phá cái người mà hoằng dương cái giới luật đó đi. Để sao, để cho họ nó được tự tại một chút, nó không có sợ hãi, chứ còn nếu mà cái giới luật mà nó hoằng dương được hưng thịnh thì mấy ông đó phải đi vào trong cái khuôn khổ hết, mặc dù đó là những ông giáo hội, chớ không phải là ngoài ra nữa. Bởi vì giáo hội cũng đều là những tu sĩ của Phật giáo cho nên phải thực hiện từ ông lớn đến ông nhỏ, từ hòa thượng mà mấy ông già bây giờ ổng ăn ba bữa ông quen rồi mà bắt đầu bây giờ bắt mấy ông ăn một bữa mà ông già kiểu đó chắc là ông chết luôn chứ đâu có sống nổi. Cho nên làm sao mà ông không tìm cách ông phá đi, đó thì quý thầy thấy cái chỗ, do cái chỗ đó mà cái người hoằng dương cái giới luật rất là khó.

Nhưng mà Thầy nghĩ rằng, đối với Thầy, Thầy hoằng dương là không khó, tại vì Thầy có cái giới hành của nó theo, cho nên một cái giới mà Thầy dạy cho cái người nào đó thì cái người đó phải áp dụng cái giới hành theo, cho nên khi cái giới của họ bắt đầu vào thì họ sẽ có một sự mát lạnh ở trong cái sự an ổn tinh thần của họ. Cho nên họ thấy mỗi cái giới là mỗi cái sung sướng của họ chứ không phải là mỗi cái giới là trói buộc họ làm cho họ khô cằn, khô cỗi trong cái cuộc sống chết chóc, trong cái cuộc sống họ bất hạnh phúc đó đâu.Cho nên Thầy không ngán chỗ đó đâu, vì vậy mà Thầy luôn luôn ca tụng Giới Luật, ca tụng cái đức giới của Phật.

Đó là một sự trở ngại lớn nhất cho sự hoằng dương giới luật, vì mọi tu sĩ đang sợ người đem lý do của giới luật ra để câu thúc hoặc phê bình, đả kích họ cho nên nghe giới luật là họ đã không an tâm. Đại sư Hoằng Nhất dạy, dạy luật Ngài nói rất nhiều nơi chẳng hoan nghênh ngài, thậm chí thấy ngài ăn mặc là một giới sư thiểu dục tri túc thì người ta coi ngài như là một quái vật. Đó, bây giờ mấy ông kinh sư, mấy ông thiền sư thì mặc đồ lòe loẹt, vải đồ thì tốt đẹp còn cái ông giới sư thì mặc đồ vá, rách rưới lang thang. Trời họ thấy cái ông giới sư thì họ coi như là con quái vật giữa các ông đó rồi, cái kia người ta bệ vệ như một ông quan còn cái này đi lộm cộm như con khỉ, như vậy là con quái vật chứ gì? Các thầy thấy chưa, đó, cho nên ông Hoằng Nhất ổng là cái người mà hoằng dương cái giới luật đó, mà ổng đi ra ngoài người ta xem ổng là con quái vật. Đúng không? Bởi vì giới sư thì phải thiểu dục tri túc rồi, thế mà thiểu dục tri túc có bình bát với ba y rồi mà đi lỡ đường rồi mà không giặt được, trời ơi đi đến ông giới sư này sao mà hôi rình. Còn đến cái ông thiền sư với cái ông kinh sư trời ơi nó thơm tho mà có dầu thơm nữa chứ, giặt quần áo bằng xà bông thơm, phải hông? Còn cái ông giới sư này ông đâu dám làm điều đó. Cho nên đi mà một ngày đi như vậy đâu có nghỉ, mà có bộ đồ làm sao thay. Đi thì phải y trung y hạ trong phải mặc đầy đủ, y ngoài thì y lớn y thượng thì phải choàng đặng oai nghi tế hạnh của mình, thế rồi đi tới chiều tối chưa có nước nôi, chỗ nào đó mà lại gần nhà ai thử coi, cái mình ổng nó hôi cũng như là cái đống rác chứ còn cái gì nữa. Cho nên tới đâu ai cũng bịt mũi hết, trời con quái vật đó đến nhà tôi, chứ đâu phải?

Cho nên giới sư quá khổ, vì thế mà giữ gìn giới hạnh của Phật không phải đơn giản. Cho nên chính cái kinh nghiệm của Hoàng Nhất người mà dạy giới luật này, ông hoằng dương giới luật ông nói đến đâu thì người ta hông có hoan nghênh mình chút nào hết, nói sao khô khan quá không ai nghe, không hay ho gì hết, còn mấy ông kinh sư với thiền sư nói người ta hoan nghênh, người ta tập trung người ta nghe. Cho nên ông nói có một cái ở trong kinh giới thuật lại, ông đi hoằng dương cái giới luật có nhiều chỗ người ta đến có hai ba người à, thậm chí như người ta nghe nói giới luật người ta chưa có biết, nghe ổng đến giảng thì bắt đầu người ta tập trung được hai ba chục người, nghe một hơi dòm lại (nhìn lại) còn có một ông ngồi đó, mà ngủ ngục chứ không phải thức được đâu, ngồi mà ngủ còn mấy ông kia đi hết rồi. Thầy nghe Thầy nói thiệt nó chán thiệt, trời! Cứ đem ba cái kinh bổn mà dạy người ta. Rồi mình giữ cái hạnh thì đi ra ngoài họ coi mình như con quái vật, bởi vì hạnh của giới luật của giới sư tri túc thiểu dục thì giống như con quái vật chứ không còn gì nữa khác.

Thật sự mình suy ngẫm lại đúng, ông Hoằng Nhất ông nói rất đúng. Chúng ta phải thấy cái điều đó là cái điều thực của ông, ông nhắc lại qua cái kinh nghiệm mà đi hoằng giới đó.

Ngược lại cho thầy Tỳ Kheo sinh hoạt đúng hạnh, Tỳ Kheo là quái vật nghĩa là mình sinh hoạt đúng cái hạnh giới luật thì đó là quái vật, chẳng phải là kỳ quái sao. Nghĩa là nhìn thấy nó rất là kỳ quái, đúng là kỳ quái, người ta ai cũng là mặc đồ bệ vệ coi nó sang cả, Phật tử thì rầm rộ hầu hạ, còn đằng này đi lổm tổm lổm tổm không ai hầu hạ hết, mà leo teo ốm nhom ốm nhách như con khỉ, ăn uống như vậy làm sao mập được như người ta, ngày một bữa mà ăn không dám ăn ngon, ăn không dám ăn ngon, ai cho sữa cho bơ không dám uống. Uống nó không có đúng cái hạnh, cho nên đâu có dám lợi dưỡng, vì vậy mà ốm nhom ốm nhách, còn mấy ông thiền sư, kinh sư uống đã thì thôi, uống không hết thôi, nhiều khi có đổ nữa. Thì đó là những cái mà chúng ta thấy giữa hai cái này ai chọn cái nào? Đời phải chọn cái sướng hơn chứ ai chọn cái khổ, mà chọn cái khổ mà theo kiểu mà ông Hoàng Nhất này thì chắc chắn là ai dám chọn?

Nhưng dù nói thế nào trong hoàn cảnh Phật giáo hiện giờ của đất nước thì giới luật là một chướng ngại cho cuộc sống sinh hoạt trong các chùa bây giờ. Bây giờ các thầy nghĩ coi có phải không, giới luật là một sự chướng ngại rất lớn cho sinh hoạt trong các chùa, họ làm những cái chuyện không có đúng cách hết rồi làm sao mà giới luật đưa ra một cái là kể như chùa họ phải dẹp rồi. Từ cái chùa to họ thành ra cái chỗ mà cột, cho người ta đến không có được, bởi vì ông thầy mà giới luật thì không có ở chỗ nào sang cả, ở chòi tranh vách lá nó mới đúng cái hạnh của người tu giới luật chứ. Còn ông thầy gì mà ở cái phòng sao mà tường cao cửa rộng, cửa kiếng đầy đủ, rồi máy điều hòa không khí còn đầy trong đó thì tức là còn cái gì nữa mà giới luật.

Đó thì quý thầy thấy cái vấn đề đó là cái vấn đề mà bây giờ nó là cái chướng ngại cho cái sự sinh hoạt mà chúng ta đem giới luật ra dạy trong các chùa bây giờ. Khó lắm chứ không phải, chùa nào bây giờ cũng vậy hết, không có thấy chùa nào mà có giới luật, thì giờ đem ra dạy ai chấp nhận, mà người ta tập thể đông, người ta đập dẹp mình xuống liền ngay ngay tức khắc, đi đường không biết chừng cho xe hơi đụng mình nữa. Cái ông mà dạy giới luật đi bộ chứ đâu dám đi xe, cho nên xe nó ở sau nó chỉ cái xe Honda nó ủi cái là ông thầy cũng tiêu mạng rồi để nó nói láp dáp thì mình ở trong chùa không có yên. Đó thì các thầy thấy, vấn đề đó là tai nạn lưu thông chứ có ông thầy nào mà chịu tội, thằng mà nó lái xe nó lỡ đụng đó thì nó ở tù ba bốn tháng thì thôi chớ, tôi đâu phải tôi quyết tôi giết ổng đâu, đó các con thấy cái chuyện đó đi làm giới sư có sướng không? Khổ sở mà lại sống cái hạnh thiểu dục tri túc nữa, trời ơi! Phật đâu hổng thấy mà thấy toàn là thứ khổ không, như vậy là có ham không? Đâu có ham.

Giới kinh và giới bổn là những bản kinh được in ấn hẳn hoi thì sự hoằng dương giới luật mọi người không thể phản đối được, nghĩa là giới kinh và giới bổn bây giờ nó có hẳn hoi rồi đó, thì mình đem ra giảng thì không có ai phản đối được hết, nhưng mà họ lén họ ủi mình sau đó, chứ đâu phải mà chuyện thường được. Cho nên đem giới ra nói là ông thầy nào cũng câm miệng hết à, ngồi đó mà ngậm miệng chứ còn hổng có dám nói gì hết, nhưng mà ở sau lưng nó lén đâm à chứ không phải là chuyện đùa được.

Chẳng lấy lý do chỗ nào phỉ báng công khai được, nghĩa là đem giới luật ra thì họ không có vạch cái chỗ nào mà họ công khai phỉ báng mình được hết. Mà cũng không thể nào thủ tiêu được giới luật đó, bây giờ nó nhan nhản, nó có kinh sách hẳn hoi rồi đâu có thủ tiêu được. Hồi đó thì cái bộ luật mà đầu tiên ra thì nó chia ra làm 20 bộ phái, thì người ta đồng ý với nhau, bởi vì nó chia ra rồi, thì mỗi người có một bộ luật riêng rồi thì bắt đầu mình thủ tiêu cái bộ chính này đi để cho cái bộ của mình nó chơn chánh hơn chứ còn để ở đây rồi nó làm cái gốc thì cái bộ luật của mình nó đâu có được. Cho nên mấy ông đồng ý với nhau, bởi vì chia làm 25 bộ phái, Thượng Tọa Bộ rồi Đại Chúng Bộ, nó chia ra làm 25 bộ phái rồi bắt đầu mấy cái ông thầy lớn đồng ý đốt sạch cái bộ của ông Ca Diếp đi cho rồi, để cái thứ này nó mất công mình sau này mình có lý luận mình nói tại hồi đó mấy ông không viết chữ. Đó, có vậy thôi đó là quá rõ ràng rồi, cho nên nó rất dễ dàng vì vậy mấy ổng thủ tiêu đi, mới đặt ra 20 bộ luật của mấy ổng, sau này thì người ta kết tập lại còn 6 bộ. Người ta coi những cái điểm vị đồng và những cái điểm nó khác biệt người ta kết tập lại cho nên nó còn 6 bộ mà thôi. Do đó bây giờ chúng ta cũng thấy khổ sở trong 6 bộ luật nãy dữ lắm chứ không phải dễ.

Họ cũng không thủ tiêu được giới luật của chúng ta được, nghĩa là giới luật bây giờ nó thành văn, kinh bây giờ nó cũng có kinh giới nữa thành ra văn bản rồi, họ không thủ tiêu được những cái bản kinh, bản giới này được nữa mà chỉ còn có cách là ngăn chặn không cho người khác tự do hợp tác. Nghĩa là bây ông dạy giới luật phải không, thì không cho học trò mình học theo ông đó đâu, mày vô học tao từ mày á, phải hông? Không cho học trò theo. Cho nên không có cho người hợp tác, mà cũng không có cho giúp đỡ nữa, đừng có cho Phật tử cúng dường ổng, riết ông tiêu luôn thì làm sao hoằng giới được. Đó là những cách ngăn chặn mà ngăn chặn bằng cách đó, chớ không phải là đem giới luật mà chỉ trích nói à ông nói giới luật vậy là sai này kia, không không dám nói đâu. Vì giới luật mà đâu có gì sai được, cho nên không có nói điều đó được, không có phê phán, không chỉ trích được. Cũng như Thiền tông thì người ta lấy thiền này thiền kia người so sánh rồi người ta chỉ trích, còn giới luật thì không có lấy chỗ nào mà chỉ trích được hết cho nên không có chỉ trích rằng ông đó dạy sai, dạy đúng được mà chỉ còn cái cách là mình không có cho người hợp tác với ông ta để ông phát triển không được. Cái thứ hai là mình bưng bít đi, mọi cái sách của ông ta ra, phổ biến ra thì mình bưng bít đi, mình đừng có cho nó phổ biến rộng, thì tức là nó không có rộng rãi ra thì người ta cũng không hiểu giới luật. Cho nên cái khéo léo là nói cư sĩ không được đọc giới luật, đọc giới luật là đọa địa ngục, cho nên giới cư sĩ mà vô hàng sách, đọc thấy quyển giới luật không dám mua, phải không? Các thầy thấy rõ mà, bởi vì vô chùa mấy ông thầy đó dạy rồi. Mấy ông cư sĩ không có được đọc giới luật nghe, đọc giới luật thì mất gốc hổng có tu hành được đâu, Cho nên mấy ông đó sợ, thấy giới luật thì hông dám mua chớ mấy ổng cũng muốn đọc lắm, nhưng mà không dám mua, mua sợ mình đọc bậy đi. Cho nên có người nói với thầy con đọc cuốn Kinh Thủ Lăng Nghiêm con mới thọ sa di à, mà con đọc Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói thọ sa di thì chưa có thọ giới cụ túc thì không có được đọc giới luật của tỳ kheo. Cho nên con được bộ giới luật của một người bạn con tặng mà con không dám đọc ở trong đó sao hết, sợ nó mất cái căn tu đi.

Đó, thì đó là những cái mà người ta làm cho nó bị hạn chế đi, nó làm cho không được phổ biến cái giới luật ra, các con hiểu điều đó. Cho nên cư sĩ mấy con mà còn mặc chiếc áo cư sĩ đến hàng sách thì cứ lựa sách thiền với kinh mà mua thôi, còn cái giới luật thôi không dám rớ tới nó, rớ tới nó đọa địa ngục chết. Mình đọc giới rồi đây, bắt đầu đó, tâm mình giữ không trọn đây coi chừng rớt địa ngục á. Do cái chỗ đó là cái chỗ mà mánh khóe của các bậc đi trước sợ người ta biết giới luật để chỉ vạch cái mặt của mình ra, đó cho nên mới có cái lối mà cấm đoán như vậy. Thì trong cái kinh Bồ tát giới đó, các thầy nào có thọ Bồ tát giới rồi thì biết, nó cấm giữ lắm chứ đâu phải chuyện thường. Đó là cái giới của Bồ tát giới mà. Các vị là Bồ tát thì các vị chỉ biết cúng dường bố thí thôi, chớ mà các vị rớ tới giới luật là các vị bị đọa địa ngục.

Nếu một người biết giảng về giới luật thì sự linh động của giới luật càng tuyệt diệu, khiến cho mỗi thời đại và mỗi xã hội đều thích thú, đều thích nghi và người tu theo giới luật đạt được kết quả sở nguyện thiết thực, hiện tại. Còn ngược lại đem giới luật, đem giới bổn mà dạy theo kiểu răn điều, giới luật khô cằn, chết cứng mà áp dụng vào sự diễn biến linh động của mỗi thời đại và mỗi xã hội sống động đang tiến lên thì không thích nghi. Cho nên giới luật, mà giới bổn á, phải bị chết non không thể phát triển được. Nghĩa là bây giờ mà đem giới bổn ra mà dạy cho cái thời đại của chúng ta thì nó không phù hợp đâu, nó không linh động đâu, nhưng mà đem giới kinh mà dạy thì rất phù hợp, bởi vì giới kinh nó có giới hành cho nên nó rất phù hợp, người ta thích thú, mỗi một cái giới mà người ta được học rồi, người ta áp dụng vô người ta thấy giải thoát người ta khoái vô cùng rồi. Trời ơi! mình ăn ngày một bữa bây giờ mình giải thoát được hai bữa mình thấy khoái quá, sáng trưa chiều không lo gì nữa hết, mà trong khi mới học được cái giới ăn một bữa thì người nào cũng khổ sở hết, nhưng mà vì nó không có pháp hành cho nên do đó cái người đó khổ sở hoài, còn chúng ta ăn bữa chúng ta có pháp hành, cho nên chúng ta dùng pháp hướng này, dùng pháp tùy này, dùng cái pháp quán này, từ đó chúng ta mới thấu đạt.

Miếng ăn thì bất tịnh có gì mà ham, bỏ vô cổ nó ngọt cái rồi nó mất đi, nó đâu có gì, ói ra thì hỗng ai mà thèm hết, mùi hôi chua chát. Rồi một ngày đêm thì tống nó ra thì nó hôi thối không có chỗ nào mà chê, do đó mình dùng pháp quán mình đã thấy nó rõ rồi cho nên mình chán nó, phải hông? Vì vậy mà bây giờ mình dùng pháp hướng mình đoạn dứt nó, cho nên những cái đó mình nhắc nhở mình dứt đoạn nó đi. Thì mình dứt đoạn nó thì tức là nó không còn thèm ăn nữa, thì trong vòng một tuần lễ thì mình  thấy đồ ăn mình ghê gớm quá thôi cái gì ăn được nhét cho nó no bụng mình thôi chứ không ham ăn nữa, từ đó mình ăn một bữa mình thấy khỏe re. Như vậy là rõ ràng cái người dạy giới bổn thì nó khô cằn cho nên cả tháng trời mà cái người giữ giới ăn ngày một bữa trời họ còn khổ, còn Thầy dạy có một tuần lễ thì quý thầy thấy an, nhưng mà ngay khi mà nghe nó quán bất tịnh rồi thì cũng thấy hết ham ăn rồi. Cho nên từ cái chỗ mà biết giới rồi thì chúng ta thấy ăn ngày một bữa chúng ta thấy khỏe, chiều tối nó vừa sót ruột cái bắt đầu: đồ ăn dơ ở đó mà ham, ngay đó mình nhắc nó cái là pháp hướng bị liệt chứ gì. Do đó cái trong bụng nó nghe nó không sót nữa, phải hông, cho nên mình biết dẹp nó được liền.

Cho nên có giới hành nó kèm theo cái giới bổn cho nên chúng ta đạt được cái kết quả giải thoát an vui. Sau đó chúng ta thấy bây giờ: giờ này mà mình hổng ăn cũng hổng đói, còn mọi lần giờ này mà hổng ăn tới bây giờ các con hiểu ăn ba bữa giờ này mà không ăn thì các con nghĩ sao không? Trời đất ơi! Ngồi đây mà nó đói lả người ấy chứ, phải hông? Cho nên bây giờ mình khỏe re trưa mình ăn chiều mình cũng không có uống bột uống gì hết, sướng gần chết, ngồi chơi thoải mái, tâm hồn thanh thản không lo đói, lo no, khỏi lo gì hết mà không ăn gì hết, phải hông? Đó là giải thoát chứ gì, nó rõ ràng mà.

Đó là những cái giới mà đem đến cho chúng ta những cái pháp mà làm cho chúng ta giải thoát. Đó Thầy đem cái ví dụ để chúng ta thấy được cái chỗ mà tu giới của chúng ta là như vậy, vì vậy gọi là giới bổn, mà là thầy của chúng ta. Ông thầy dạy chúng ta là có giải thoát cho nên chúng ta nói ờ ông thầy này dạy ngon quá, ông dạy mình ăn một bữa thì bây giờ mình làm được liền cho nên bây giờ giải thoát được liền, vì vậy hổng tin ông thầy sao còn tin ai nữa, đó ông thầy của mình là Giới mà. Đó thì quý thầy thấy nó rõ ràng cụ thể, mà Thầy đem cái giới này mà thầy dạy thì tức là người ta phải thấy có thực tại cái sự giải thoát thì người ta phải ham thôi. Chứ đâu phải như mấy ông thầy dạy giới bổn đi lộm cộm như con khỉ mà người ta lại coi như là quái vật. Tức là làm sao mà thực hiện được cái đạo pháp trở lại trường tồn lại được.  

Muốn đem những văn điều giới luật Patimokkha chết cứng đặt lên đầu của mỗi người đệ tử, đệ tử Phật, của mỗi thời đại một cách sống động thật là một sự kiện khó khăn, cũng là một việc làm chẳng hợp lý. Nghĩa là bây giờ mình đem cái giới bổn Patimokkha này mình đặt trên đầu mọi đệ tử của Phật, mình bảo họ phải chấp hành, phải làm như vậy cho đúng, phải ăn ngày một bữa, mà mình không có cái giới hạnh, thì đó là một cái điều rất là khó khăn không phải là dễ, mà cũng không hợp lý nữa. Giới luật của Phật đâu phải là làm cho người ta khổ, cho nên Thầy thường nhắc mà, đạo Phật không làm khổ mình và không làm khổ người mà giờ mình đem pháp môn giới luật ra mình bắt người ta vậy phải làm khổ không? Cho nên cái ông Hoằng Nhất này, ông là luật sư, ông đi giảng luật ấy, ông thấy chính bản thân ông thấy ông thiểu dục tri túc, ông thấy ông khổ quá mà, cho nên ai dám theo ông.

Đó là những kẻ giảng dạy giới luật, chết cứng ở trong giáo điều giới luật, đó là những kẻ không hiểu giới luật. Giới luật là một pháp môn hành thiện, giới luật không phải là pháp luật, giới luật là một pháp cứu cánh giải thoát con người ra khỏi biển khổ, sông mê cuộc đời. Người dạy giới luật mà không hiểu giới luật, đã biến pháp môn vi diệu này trở thành những sợi dây lòi tói, trói con người và làm khổ cho những kẻ tu hành nhiều hơn. Đó thì Thầy nói như vậy thì quý thầy thấy rằng cái người dạy giới luật mà không hiểu được toàn bộ của cái giới kinh, mà cứ đứng trong cái giới bổn mà dạy thì biến cho cái người tu hành quá khổ sở, cho nên người ta làm sao người ta tu tập được.

Hầu hết các giới sư không hiểu lời của Tôn giả đã đề xuất ra nguyên tắc như thế này, khi mà tôn giả Ca Diếp ổng kết tập kinh giới rồi đó thì cái câu mà ông đề ra ông nói như thế này này: “Điều Phật đã chế chẳng được phép bỏ, dù là những cái giới nhỏ, điều Phật chưa chế chẳng được thêm vào”. Đó là cái ông Ca Diếp ra cái điều lệ khi mà ông kết tập kinh xong rồi. Thì khi mọi người đều thông qua hết rồi, chấp nhận đó là đúng rồi, thì bắt đầu ông có ý kiến, tôi có ý kiến những cái điều mà Phật đã chế ra rồi dù nhỏ dù lớn không được phá bỏ, mà những cái điều mà Phật chưa chế ra thì chắc không có được ai mà thêm vào, ông xác định như vậy. Bây giờ quý vị có đồng ý không, ờ đồng ý thì như vậy là sau này không có được ai thêm vào, mà cũng không có ai được bớt ra. Đó là ông quyết định như vậy, ông Ca Diếp hồi đó ông quyết định như vậy thì tất cả 500 vị Alahan lúc bấy giờ đưa tay lên đồng ý hết, vậy mà sau này phá vỡ dữ tợn đó. Họ đồng ý ngoài mặt chứ trong bụng... Thì lúc bấy giờ các vị ấy thánh tăng người ta đồng ý rồi nhưng mà sau này các vị đó chết đi hết rồi, thì cái số đệ tử sau này tu chưa chứng đó thì mới bắt đầu tuôn nhau mà sửa. Sửa cho đã đi để mà sống cho nó được hạnh phúc hơn. Lời nói này tôi xem hết các bộ luật do cách giới sư soạn ra rồi dịch thuật đều đã chẳng hiểu câu nói này.Nghĩa là Thầy đọc hết các bộ luật Thầy thấy hầu như là câu nói này thì các Giới sư mà soạn kinh giới ra họ không hiểu cái lời nói của ông Ca Diếp. Chúng ta phải hiểu lời nói của ông Ca Diếp nếu mà nói ra như vậy thì cái giới luật của Phật là một cái giới luật khô cằn cỗi, không linh động, không đáp ứng phù hợp cho thời đại đi lên hoặc về sau. Thì lời nói đó là hầu hết các cái vị Giới sư họ hiểu qua cái chỗ như là cái kiểu giới bổn đó, cho nên nó khô cằn đó, còn Thầy thì hiểu cái lời nói của ông Ca Diếp không phải vậy đâu. Nghĩa là ông Ca Diếp xác định rằng các giới luật của Phật đã đặt ra là làm Thầy cho tất cả các thầy Tỳ Kheo sau này nó linh động, và nó như là một đức Phật sống tại thế, cho nên không được thêm mà cũng không được bớt gì hết. Nghĩa là ngay từ giới luật đó chúng ta có thể linh động được mà không phải thêm giới luật trong đó.

Thầy ví dụ chẳng hạn bây giờ Phật đâu có cấm uống cà phê, đâu có cấm hút á phiện mà bây giờ chúng ta linh động là ngay cái giới thứ năm chúng ta biết rượu là nghiện ngập làm cho mất trí tuệ, cà phê cũng làm nghiện, mà thuốc phiện cũng làm nghiện con người, thuốc lá cũng làm nghiện con người, thì lấy cái giới thứ năm đó mà chỉ họ ra đừng có phạm, chứ còn đặt thêm cái giới thứ sáu đâu, phải hông? Các thầy thấy Thầy có đặt ra cái giới thứ sáu đâu. Chỉ trong cái giới thứ năm mà Phật đặt ra như vậy nó đủ trọn vẹn ở trong đó rồi. Những cái gì mà làm cho chúng ta, mà gây cho chúng ta những cái thích thú theo các dục lạc của thế gian thì dẹp nó qua một bên đi. Đó là cái điều của giới luật của Phật như vậy, thì nội cái giới thứ năm nó đã đủ cho chúng ta rồi, cấm người ta uống trà này, cấm người ta uống cà phê này, cấm người ta không có hút á phiện này, không có hút cần sa này, không có hút thuốc lá này, thì đủ rồi thì nó là giới thứ năm thôi chứ còn cái gì nữa. Thầy có thêm cái giới nào đâu mà nói là Thầy thêm.

Đó thì như vậy là chúng ta linh động được trong mọi thời đại, đó chứ còn nếu mà dạy giới luật mà không linh động vậy thì cứ chế ra, chế ra rồi bớt bớt, chế ra rồi bớt thế là một hồi 348 giới vậy chế riết ra một trăm giới, chế riết một ngàn giới nữa, chế riết rồi cái bản.. Bởi vì cái ngày mà hồi mới độc lập đó thì cái bản hiến chương có bao nhiêu giới thôi, thì giờ tính ra không biết bao nhiêu giới nữa. Bộ luật bây giờ nó dầy như vầy, trời đất ơi, dân chúng đụng tới đâu cũng đụng ráo hết, phải hông các con, phải hông? Đó là cứ mỗi ngày Quốc Hội cứ chế giới chế giới riết ra...trời ơi bộ luật Dân sự với bộ luật Hành sự gì mà nó quá nhiều, bớt thì hông thấy bớt mà chế ra riết. Đó Thầy nói bởi vì giới luật của Phật mà nếu mà cứ cho mà chế thêm như ông Ca Diếp, bởi vì ông Ca Diếp ông nói câu nói này, chặn đứng lại, giới luật của Phật đủ linh động đủ cái sức mà có thể làm cho người tu sĩ thanh tịnh được trong giới chứ đâu có cần phải chế thêm, mà bớt ra thì không được, bởi vì bớt ra làm thiếu, thiếu tức là cái oai nghi tế hạnh nó bị mất đi. Cho nên mình thấy những cái giới nhỏ nhặt chẳng hạn như Thầy nói giờ đó mình đứng để cho mọi người đều là xá mình rồi từng người tuần tự bưng cơm từng bát đi, xới bát này nó có cái trật tự oai nghi chứ gì, mà giờ mình bớt cái giới đó đi, thôi tới bữa cứ ngồi ăn đi, rồi đem cơm ra thì mọi người xúm nhau người này xúc rồi tới người kia, coi có phải chúng ta giành giựt nhau không, còn oai nghi tế hạnh chỗ nào không? Tuy nó là cái giới nhỏ nhưng mà nói lên được ý chí nhẫn lại của chúng ta trong khi chúng ta đứng chờ. Đó là một cái sự tu tập của chúng ta, đó là cái sự rèn luyện con người của mình có cái đức tính nhẫn nhục của chứ, còn nếu không có vậy thì chúng ta bộp chộp lắm, ai lại hổng muốn đi trước, ai cũng muốn ngồi trước cho khỏe. Bởi vì cái đó là cái dục lạc mà, cho nên giới luật nó làm cho chúng ta hạn chế, tránh xa những cái thứ dục lạc, ly dục mà, chúng ta hiểu được như vậy chúng ta mới biết được con đường giải thoát chứ.

Đó hôm nay Thầy nói hết để quý Thầy thấy rằng khi mà dạy về Giới luật, rồi đây tới cái giai đoạn mà thứ ba của giáo án mà dạy về cái Giới Hành, tức là 37 phẩm trợ đạo, Thầy phải dạy hết cho quý thầy thấy trong cái hành như thế nào để đạt được những cái giới của chúng ta, chứ đâu phải là cái gì khác đâu. Bởi vậy nó mới toàn diện là thầy của chúng ta, chớ còn ông thầy mà nó thiếu khuyết một chút thì làm sao ông thầy dạy chúng ta được. Ông thầy mà không có đủ 3 cái oai lực như vậy thì không thể dạy chúng Tỳ Kheo sau này, không thể dạy cái đời sau này, mà đủ 3 cái oai lực như vậy tức là cái giới luật mà đức Phật đã di chúc lại làm thầy chúng ta thì mới có đủ 3 cái oai lực đó. Chỉ có Giới mới đủ thôi, chứ không có một người tu sĩ nào mà đủ hết, ở đây Thầy nói, thật sự Thầy cũng có những cái sở trường của thầy chứ làm sao mà Thầy toàn diện được hết cái đó, cho nên Thầy đâu phải là thầy của quý thầy  mà chỉ có giới luật nó mới đủ toàn diện ba cái oai lực đó. Cho nên Giới Luật là thầy của quý thầy, còn bây giờ Thầy có thực hiện cái gì đi nữa nó cũng không phải là đệ nhất được.

Đó ví dụ như bây giờ, bây giờ Thầy giảng cho quý thầy nghe như vậy thì Thầy có cái sở trường của thầy ở chỗ nào ở trong đó thôi chứ không thể nào Thầy toàn diện hết được, cho nên Thầy không thể nào làm thầy của quý thầy được. Mặc dù những cái khác Thầy làm được nhưng mà nó không phải sở trường của thầy, thí dụ như bây giờ Thầy thí dụ á, thầy dùng cái Tứ như ý túc, Dục như ý túc, một thân Thầy biến ra một thân được nhưng mà nó không phải là chuyên môn của thầy, Thầy làm được nhưng mà nó không phải chuyên môn, còn cái sở trường của người ta nó chuyên môn lắm. Chẳng hạn như bây giờ Thầy phải 2 phút Thầy mới biến ra được một con người như Thầy ngồi bên, còn cái ông mà chuyên môn nháy mắt cái ngồi ra cả đống rồi. Nó chuyên môn mà, nó lanh, nó lẹ. Các con hiểu điều đó, cho nên người ta chuyên môn, người ta đệ nhất người ta phải nhanh. Còn ông Xá Lợi Phất, khi mà hỏi ông thì ngay đó ông phóng ra ông trả lời liền không cần suy nghĩ, còn Thầy Thầy đâu đệ nhất trí tuệ được cho nên Thầy phải suy nghĩ rồi Thầy mới trả lời. Thì Thầy trả lời cũng đúng, nhưng ông Xá Lợi Phất ông ấy phóng ra liền, còn Thầy phải có thời gian, cũng ít ra một phút Thầy mới trả lời được, còn ông ta đâu cần, hỏi rồi trả lời liền, thì như vậy là người ta đại trí tuệ, còn Thầy thứ tiểu trí tuệ mà đem ra mà làm sao làm thầy thiên hạ được, phải hông? Thầy nói như vậy là quý thầy sẽ biết được ở trong con đường của Phật pháp là cái người nào làm thầy của mình, còn giới luật của nó đủ hết trong này rồi. Cho nên hỏi tới đâu là nó phóng ra nó trả lời liền tức khắc chứ nó không có chậm chạp như chúng ta đâu. Bởi vì nó tròn đầy tất cả, các sở trường nó được đầy đủ hết như đức Phật ngày xưa. Bởi vì chỉ có Giới Luật mới chính đức Phật còn tại thế, cho nên ông Phật ông xác định nghĩa là Giới Luật còn là ta còn, mà Giới Luật mất là ta mất, mà Giới Luật còn thì đạo ta còn, giới luật mất thì đạo ta mất. Cho nên cái Giới Luật mà hôm nay Thầy giảng cho quý thầy thấy đó, đó là cái Giới Luật đó, chứ không phải cái giới bổn theo các sư mà dạy về giới luật kết tập lại đó gọi là giới, giới đó là thầy của quý thầy đâu.

Lời nói này tôi xem hết các bộ luật do các Giới sư soạn ra và dịch thuật đều chẳng hiểu câu nói này, nghĩa là không hiểu cái lời nói của ông Ca Diếp. Nếu đọc lại kinh giới cho kỹ từng chỗ của Phật chế giới ra thì dù bất cứ thời đại nào, xã hội nào tiến đến đâu, lùi đến đâu thì những chế giới này đều phù hợp cho mọi hoàn cảnh xã hội và sự thay đổi của thời đại đó. Rất ăn khớp và rất linh động, không cần luật sư chế giới thêm mà cũng không cần giảm bớt, bởi vậy đức Phật mới di chúc lại các thầy Tỳ Kheo phải lấy Giới Luật của ta làm thầy, bởi vì nó đủ như vậy đó, nó đủ cái oai đức nó như vậy mà nó linh động như vậy. Trường hợp thời đại của chúng ta tiến bộ tới mức độ nào thì cái Giới Luật của chúng ta cũng tiến tới mức độ đó. Mà thời đại lùi đi đến mức độ nào đến khi mà lạc hậu đi đó, còn những cái bộ lạc, thì giới luật của Phật nó cũng lùi lại để đứng cái tầm vóc đó để hướng dẫn người ta tu giải thoát. Thấy Giới Luật của Phật nó vi diệu vậy, chứ không phải nói thời đại của chúng ta tiến bộ thì giới luật của Phật đã cách đây 2540 năm nó lỗi thời rồi, như mấy ông giới kinh đều nói là lỗi thời rồi, nó không hợp.

Đó là không hiểu Giới Luật của Phật, mà Giới Luật của Phật đã có cái sự định đoạt trước của đức Phật đã suy nghĩ. Cho nên đọc lại kinh giới chúng ta thấy ông Phật ông không phải ông chế giới có một lần đâu, ông chế nhiều lần mới chấp nhận một giới của ông. Các thầy phải hiểu cái sự kỹ lưỡng của đức Phật như vậy, chứ ông chế ra một lần ông để đó cái rồi bắt mình thì như vậy ông chưa có chính xác đâu. Cho nên nhiều lần ông chế, có khi một cái giới ông chế 3 lần, 5 lần, quý thầy học kinh giới quý thầy biết liền à, chứ không có ít.

Tới đây thầy dạy giới bổn rồi thấy ông Phật ông chế, sửa đi sửa lại nhiều lần để mà chính xác cho sau này sẽ làm thầy của các vị Tỳ Kheo, ông đã biết trước cái vấn đề đó, trước khi ông còn 10 năm, 20 năm, ông thị tịch là ông đã biết từ khi mà ông soạn, ông chế giới ra là ông đã biết được cái người nào là thầy của chúng Tỳ Kheo sau này. Cho nên ông rất kỹ trên cái vấn đề mà viết ra cái bộ Giới Luật chứ đâu phải là viết một cách hàm hồ như chúng ta bây giờ, đặt ra cái thanh quy bữa nay trật bữa mai trật thì sửa lại, không phải đâu, đó là ông thầy của chúng ta thì đức Phật phải chỉnh đốn cái ông thầy cho những vị Tỳ Kheo sau này, cho những người đệ tử theo đạo Phật sau này. Cho nên đức Phật phải chỉnh đốn nó rất kỹ chứ không phải là thường.

Bởi vì đọc chúng ta mới hiểu được cái chỗ chế giới tại sao chế nhiều lần chứ còn nếu mà ông Phật coi thường giới thì ông chế một lần thôi, được được thôi chứ còn chế đi chế lại làm chi cho mất công. Bắt buộc họ cứ khép như vậy thôi còn phải chế giảm tới giảm lui cho nó phù hợp đó, nó phù hợp bởi vì cái người này phạm vầy, người kia phạm như vầy mà nó chỉ có một cái giới thôi mà bị phạm vầy, mà cái người trường hợp này, người trường hợp kia nó phải có sự sai khác cho nên Phật mới chế ra nhiều lần vậy để cho nó chỉnh đốn lại cái giới đó cho nó phù hợp.

Nếu Giới Luật chưa được chỉnh đốn thành một pháp môn bất di bất dịch, còn có sự thay đổi, thay đổi thêm bớt chắc chắc Đức Phật không di chúc các thầy Tỳ Kheo lấy Giới Luật làm thầy.Nghĩa là nó còn sự thay đổi như cái lời của ông Anan mà học lại đó, khi đức Phật sắp nhập diệt thì nói có những cái lỗi nhỏ nhặt, có những cái giới luật nhỏ nhặt thì cần phải bớt đi, thì ông Ca Diếp mới bắt tội, sao hồi đó ông Phật nói vậy sao không hỏi những cái giới nhỏ nhặt nào, bớt thì phải hỏi những giới đó là giới nào mới biết mà bớt chứ còn bây giờ ông nói cái giới nhỏ nhặt tôi biết cái giới nhỏ nhặt nào mà bớt, phải không? Các thầy hiểu, ông nói chỉ nói bừa thôi chứ đâu nói chuyện đó được, ờ Phật nói những cái giới nhỏ nhặt cần phải bớt ra, thì ông hỏi thưa đức Phật, bạch đức Thế Tôn vậy những giới nhỏ nhặt đó là giới nào, giới nào mà đức Phật bảo bớt ra thì đức Phật chỉ định cho chúng con thì sau này chúng con bớt ra, còn đằng này tại sao ông không hỏi, bây giờ ông nói những cái giới nhỏ nhặt bớt ra, tôi biết  cái giới nào tôi bớt ra, đọc thì đọc hết cái bộ giới vậy rồi, bây giờ biết cái giới nào là nhỏ, phải hông? Thì thử hỏi các thầy coi cái ông Anan có nhiều chuyện không, thành ra Thầy nói đây là những người sau đặt điều chứ không phải ông Anan nói đâu, ông Anan không có bao giờ nói ra cái điều đó đâu. Đặt điều ra nhiều cái thứ chuyện để mà phá giới chứ không phải, để thêm bớt ra đó.

Bởi vì mình xét ra những người mà trong cái thời đức Phật là những bậc người mà không có bao giờ mà vọng ngữ, phi thời. Không lý cái trí tuệ của ông Anan là người đa văn như vậy mà khi Phật nói vậy mà ông ấy không hiểu sao mà hỏi. Đâu có ngu si đến mức độ đó, để tới ông Ca Diếp nhắc vậy mới thấy cái lỗi của mình thì đâu có cái chuyện đó đâu, một người mà đa văn thông minh nói đâu nghe đó rồi thì đâu phải là người thường, mình có nghe rồi mình như cái máy này không, mà mình còn nhớ kia, mình còn biết kia, còn cái máy này mình nói đâu nó thu vô đó, còn ông Anan như cái máy catset chứ gì, ông Phật nói rồi ông nhớ rồi ông kết tập kinh điển ông nói vanh vách không có một cách nào mà sai hết, Phật nói sao ông nói y như vậy.

Đó thì quý thầy thấy trên cái vấn đề đó phải là một người có trí tuệ thông minh như ông Anan chứ đâu phải là người tầm thường, thế mà ông Phật nói cái chuyện như vậy mà ông ấy không hỏi, thì như vậy là ông như thế nào. Họ đánh giá trị của ông Anan quá thấp kém, làm y như là mình ý, nói ra rồi không nhớ gì hết, quên hết, đầu óc chắc bộ lo đi chợ, ăn hủ tiếu. Cho nên cái lời nói mà có những Giới Luật nhỏ nhặt sau này mà cần phải thêm bớt, cần phải bớt đi, tức là người sau này đặt điều ra chứ còn không phải ông Anan hoặc là một vị Thánh tăng nào trong cái thời đức Phật mà nói điều đó hết.

Còn nói Giới Luật không linh động, chết cứng là tại Giới sư chế cứng chứ không phải Giới Luật của Phật mà chết cứng. Nghĩa là mình chế giới ra mình không có hiểu giới, mình chế giới ra rồi mình gò bó bắt buộc người ta phải giữ gìn vầy thành ra cái giới hành nó không có. Do đó đâu có biết, chỉ thấy ba cái như là Tứ diệu đế này, Tứ như ý túc, rồi thấy như là Thất giác chi nè, rồi thấy Tứ niệm xứ nè, họ nói đó là pháp tu. Chứ họ đâu có hiểu đó là cái giới hành của người ta, họ đâu có hiểu cho nên mấy ông Giới sư này ông đâu có hiểu là 37 phẩm trợ đạo là Giới Hành của Giới Luật của Phật. Ông đâu có hiểu, cho nên ông thấy đó là pháp môn tu chứ đâu phải là giới, nhưng cái người mà người ta am hiểu giới người ta biết đó là cái hành động để thực hiện cái giới. Mà cái giới là cứu cánh, cái giới là thiện pháp nó làm cho chúng ta thoát khỏi sự đau khổ. Cho nên đó người ta mới biết là giới hành, còn cái người không tu không biết do đó thấy đó là pháp môn chứ còn 37 phẩm trợ đạo là pháp môn tu chứ đâu phải là Giới Hành. Còn người tu người ta biết đó là Giới Hành, để áp dụng cho chúng ta đạt được cái giới cho nên nó làm cho tâm chúng ta mát lạnh.

Đó thì quý thầy thấy, ở đây Thầy giải thích rất rõ, cái sai cái lệch của cái người, từ cái người xưa cho đến bây giờ chứ không phải là cái người bây giờ không đâu. Tại vì họ không có chứng đạt được cái sự tu hành của họ, họ không có cái đầu óc của một cái người chứng cho nên họ không thông minh được, cho nên họ không thể thấy được, họ chỉ tưởng giải, kiến giải của họ ra bằng cái cách nghĩ tưởng của nhà học giả. Họ nói họ lý luận trên mây xanh mà rồi rốt rồi cuộc họ không hiểu Phật pháp cái gì hết. Giới luật của Phật là ông thầy sống động của chúng ta, như đức Phật còn tại thế, bởi vì giới luật của Phật phải được như là ông thầy mà sống động như đức Phật. Ông Phật bây giờ là một cái Giới Luật rất là sống động cho nên chúng ta hỏi cái gì là ông trả lời liền ngay cái đó, thì cái ông thầy Giới Luật mà đức Phật đã chỉ định cho chúng ta sau này nó cũng sống động như vậy chứ sao lại chết khô cằn.

Đó thì quý thầy mới hiểu được cái chỗ mà Thầy giảng cái Giới Luật hôm nay mới thấy rõ đường đi của đạo Phật là ông thầy của chúng ta đó. Cho nên Giới Luật là pháp môn rất linh động cho mỗi trường hợp, mỗi hoàn cảnh, mỗi con người để thực hiện tu tập có kết quả ngay, thiết thực hiện tại mới xứng là ông thầy của các vị Tỳ Kheo, đâu như Giới Luật mà quý vị Giới sư đang giảng dạy. Các vị này đang dạy giới đều chết cứng cho quý vị, họ không hiểu gì về giới luật của đạo Phật, họ không hiểu ngay cả chữ Tam vô lậu học. Họ không hiểu chữ Tam vô lậu học là cái gì nữa thì làm sao dạy pháp môn của Phật, họ hiểu theo kiểu thế gian thường tình Giới là giới điều, là pháp luật, là bắt buộc mọi người tuân theo phải giữ gìn dù có khổ đến đâu cũng phải giữ gìn, đó là cái sai thứ nhất.

Giới Luật của Phật là pháp môn vô lậu, khiến cho người tu được giải thoát thế mà pháp môn này trở thành kiết sử, triền phược trói chặt người ta tu hành. Có phải không, các con thấy cái Giới bổn mà đưa ra có phải là kiết sử không, có phải là sợi dây trói chặt họ không? Cho nên họ khổ quá, trời ơi ăn ngày ba bữa đỡ, còn bây giờ ăn ngày một bữa như vầy thế này, thế này, thế này phải khổ không? Có thấy giải thoát gì đâu, ăn một cục đường một chút cũng hỗng cho, uống ly nước chanh cũng hông được, phải hông các thầy cứ nghĩ cái điều đó, gì mà quá khổ đâu phải là nuốt cả bụng hoặc là ăn bữa cơm như người ta đâu. Uống có chút xíu cũng không được, cũng phi thời phi thời. Đó thì như vậy là các thầy thấy nó khô cằn, nó thành những cái sợ dây kiết sử nó trói buộc cái người tu của chúng ta trở thành quá khắc khổ vì thế mà họ phải phá giới và thay đổi giới bằng cách bịa chuyện đức Phật cho bỏ những giới nhỏ nhặt. Nghĩa là họ phải bịa ra bỏ những cái chuyện mà bỏ những cái giới nhỏ nhặt để cho phù hợp với bộ phái của mình.

Định là một pháp môn vô lậu thì Thiền sư lại biến thành pháp môn ức chế tâm, bởi vì Tam vô lậu là Giới, Định, Tuệ mà, bắt đầu ông Thiền sư thì ông lấy cái định, ông lấy cái pháp môn định, định vô lậu nó làm cho chúng ta hết lậu hoặc thì ông lại chế tâm ổng. Ông làm ông nén tâm ông ấy xuống cho giữ tợn đi, nén tâm nên tham sân si lậu hoặc không hết, bởi vì mình nén tâm làm sao hết, còn người ta có cái pháp hành người ta nó xả tâm ra, nó ly ra, nó dùng pháp hướng nó quán triệt, nó làm cho xả ra hết cho nên tham sân si nó không còn, còn cái này ông nén tâm ức chế cho hết vọng tưởng, rồi ông nén ông tâm xuống, đè xuống cho đừng tham sân si. Lậu hoặc của ổng đầy rẫy ở trỏng, càng nén nó như cái lò xo à, cho nên đến cái lúc mà ông làm không được, đè không được nó bật lên thì ông nói là tạp khí, phải hông?

Đó là những cái điều mà người ta không có hiểu được cái Định vô lậu mà trong tam vô lậu học, mà người ta đã biến nó thành các pháp môn thiền định cái kiểu nén tâm. Thì bây giờ các thầy cứ nghĩ, ngồi đây mà cứ hít thở nén tâm, ức chế vọng tưởng thì mai mốt nó bị tẩu hỏa nhập ma chứ sao. Làm sao trật được điều đó, còn ở đây tâm người ta ly dục ly bất thiện pháp sạch hết rồi, đó là giới luật chứ gì, cho nên bắt đầu người ta điều khiển cho nó ngưng nghỉ, ngưng nghỉ, nó ngưng hết, thì nó ngưng nó vô định chứ gì thì nó làm chủ được sinh tử. Có cái gì đâu mà khó, còn mình nén mình có ngưng được hông, nén riết nó bực tức trong người, nó rối loạn thần kinh, nó điên khùng hết cả đám chứ ở đó, may mà tu ít ít chứ mà tu nhiều nó mới chết được đó. Người nào mà siêng năng nỗ lực tu thì nó bị nén nhiều, mà nén nhiều thì nó tức tối nó làm cho cơ thể bị rối loạn cho nên nó đi tới chỗ này tới chỗ kia nó thành bệnh. Còn cái người tu cầm chừng chơi chơi, tu không không thấy gì hết, lúc có vọng tưởng lúc hết vọng tưởng cũng tu, nhưng mà tu không có tích cực tối đa đó thì cái người đó không có bị rối loạn cơ thể mà nó cũng chẳng tới đâu. Lúc thì ngủ ngục ở trong đó, lúc thì tỉnh bơ không vọng tưởng, lúc thì an lạc khoái quá, lúc thì thưởng thức cái này, lúc thì thưởng thức cái kia, ngồi đó mà thưởng thức đủ mùi vị không khoái sao, cho nên Thiền sư khoái cái đó lắm. Cho nên mới tạo cái định ức chế tâm để mà ngồi thưởng thức các cái tưởng lạc ở trong đó chứ có cái gì hơn đâu, đến cuối cùng rồi cũng rủ nhau đi xuống địa ngục cả đám chứ làm sao hơn được, biết đường đâu mà đi khỏi cái địa ngục đó. Bởi vì đang ở trong cái dục lạc, cái hướng mà chạy theo cái hưởng lạc đó, ngồi thì nghe nó không vọng tưởng, nghe nó khinh an, khoái quá, trời ơi, cái này là thiền định rồi nhưng mà không ngờ cái đó là cái thứ dục lạc, dục lạc của tưởng dục, đó thì còn ham cái đó tức là còn tưởng dục chứ gì, thì cái đó nó sẽ đưa mình cái hướng đi xuống địa ngục chứ cái gì nữa. Như vậy thiền định của họ không thiết thực hiện tại, chỉ là một nguồn an ủi suông cho người tu.

Tuệ là một pháp môn vô lậu thế mà họ lấy tưởng kiến làm tuệ, đó bây giờ mà nói qua một ông thầy dạy kinh kiến giải kinh sách bằng cái này cái kia đó, thì đó là họ lấy cái tuệ vô lậu của Phật mà họ đặt thành cái tưởng kiến của họ làm tuệ, nên càng tu cái bản ngã càng to. Họ tu riết rồi thấy họ sao mà dữ tợn thấy ớn, đó là bản ngã họ càng to, mà họ trí tuệ họ nói thôi, kinh sách nào họ cũng thông suốt hết, bao nhiêu bộ kinh họ viết ra cũng được hết mà đụng tới họ thì mới thấy cái mặt họ nó rầm rầm ra một đống. Đó, bản ngã càng to, xây dựng đường lối tu hành bằng tập thể, bè phái do đó mới có sự chống đối lẫn nhau trong đại gia đình của Phật giáo tan nát. Đó bởi vì cái bản ngã to lớn thì phải xây dựng bè phái to lớn, bành trướng chỗ này, bành trướng chỗ kia, cái phái của mình mà phải bành trướng chỗ này chỗ kia để cho nó thành lập cái bè phái của mình, do đó mới có sự chống lại cái bè phái bên kia, bè phái bên nọ, cho nên chống đối nhau làm cho cái đại gia đình Phật giáo của mình càng ngày càng tan nát, chứ có tốt lành gì đâu, quý thầy thấy rất rõ ràng mà. Ông thầy này thì chỉ trích, ông thầy kia chê, ông thầy kia chỉ trích ông thầy nọ chê, chê nhau chê qua chê lại cuối cùng thì chẳng ông thầy nào giải thoát. Đó là sự hiểu biết Tam vô lậu học của thời đại Phật giáo hiện nay, đó họ hiểu qua cái tam vô lậu học là như vậy đấy. Đã là vô lậu mà họ không thành vô lậu mà còn bè phái ra thêm nữa thì thử hỏi cái đó không phải là cái bản ngã của họ sao.

Tóm lại:

- Luật sư biến giới luật thành giáo điều, pháp luật, bằng chứng là các bộ luật đang hiện hành trên thế gian này. Đó, bằng chứng là lấy các bộ luật đó chúng ta thấy rõ ràng là nó biến thành pháp luật chứ không có gì khác hết, thì đó là thuộc về luật sư đó, họ biến giới luật thành giáo điều, pháp luật bằng chứng các bộ luật của họ đang hiện hành ở trong các chùa Phật giáo bây giờ đó.

- Thiền sư thì biến Định vô lậu của đức Phật thành giáo điều gây ức chế tâm, nén tâm, bằng chứng là những bộ sách thiền đang tung ra thị trường buôn bán khắp nơi.

- Kinh sư thì biến Tuệ vô lậu của Phật thành tưởng kiến làm cho tri kiến con người góp nhặt những hiểu biết đó trở thành kiến chấp. Mà đã có kiến chấp thì ngã chấp càng to, thay vì trí tuệ vô lậu thì diệt ngã xả tâm để được giải thoát, càng huân tập tưởng kiến nhiều thì sinh ra tranh luận, hí luận khiến cho người ta không giải thoát được, bằng chứng kinh sách bán đầy chợ, thậm chí trên vỉa hè đường phố.

Nghĩa là bây giờ kinh sách quý thầy có thấy không? Kinh sư viết thôi quá nhiều để làm gì, để bày bán trên vỉ hè, mà kinh sách của Phật mà bày bán trên vỉ hè có cái nghĩa lý gì không? Thầy đi qua chùa Xá Lợi Thầy thấy nó để một cái hàng vầy, mà mấy sạp dài dài ở trên cái lề đường, chỉ có cần cái mà mình đi xe Honda mình ngồi ở trên yên đó thôi rồi mình kề nhô sát cái lề cái rồi mình lạng lạng vầy…Trời! Kinh sách mà ngồi trên xe mà thỉnh kinh, trời ơi, ông Tam tạng ông đi thỉnh kinh mấy thầy biết, trần ai khoai củ mới được cái bộ kinh, mà đến đó còn phải lo lót cái bình bát bằng vàng mới được xách kinh về, còn bây giờ mình chỉ rề cái xe lại mình ngồi lật lật cái rồi quăng hai ba đồng rồi lấy quyển kinh đi về. Kinh sách rẻ quá trời, mà dễ thỉnh, khỏi cần đứng xuống, khỏi cần chắp tay xá nữa, phải hông? Các con thấy kinh sách đó là cái loại kinh sách của kinh sư đó, bởi vậy còn cái gì là quý trọng của Pháp bảo nữa đâu.

Bởi vậy khi mà cái giáo án của Thầy ra các con phải nhớ rằng lưu ý cái vấn đề này, nó là Phật pháp hoàn toàn là của Phật đó, mà nếu làm cái hành động đó là mấy con đọa địa ngục đó chứ không phải là chuyện đơn giản đâu. Cái gì mà cần nghe là nghe, mà cái gì không cần nghe là quý vị không được cho nghe. Tại sao? Tại vì chúng ta không làm khổ ai, có những lời Thầy giảng là Thầy phải giảng hết ra để cho quý thầy biết thôi, còn những điều mà chúng ta không được cho người khác nghe là tại vì người ta, đừng có nên làm động những người mà họ đang phạm giới, chúng ta phải thương họ chớ, nói ra làm cho động tâm họ thì chúng ta không nên nói, chúng ta chỉ nghe biết để chúng ta tu tập sửa mình, để thắp sáng lại cái ngọn đuốc của Phật pháp. Còn bây giờ đem băng thầy ra cho thiên hạ nghe rầm rầm thì thử hỏi cái thế gian này, cái đạo Phật bây giờ nó đảo lộn xuống cũng như cái đầu nó trồng chuối ngược xuống dưới hết, nó đưa hai cẳng lên trời nó đi chứ làm sao mà nó đi được nữa, nó con biết ông thầy nào bây giờ cũng đi ra đường cũng ụp mặt như vậy chứ làm sao ngó ai, hiểu kinh hiểu thiền hiểu đó thì còn ngó ai được nữa, thử hỏi mấy ông đã chứng nghiệm được cái chứng của mấy ông chưa, thành ra mấy ông có làm sao mà lôi cái người nào ra mà thực hiện được cái này đâu, giới không được này, rồi thiền định cũng chẳng làm xong gì hết. Trí tuệ siêu việt của họ có làm được cái gì đâu, một thân biến ra nhiều thân được không, thử mấy ông nói mấy ông ngon đi thì mấy ông làm coi được không, có ông Thiền sư nào ở trong cái đời nay có làm được không? Thử hỏi họ, thử hỏi như vậy các thầy nghĩ sao, cho nên ông càm chiếu ngược ông đi thì sao. Còn ra đường chắc chắn ông phải lấy cái khăn ông che cái mặt ông lại chứ làm sao dám ngó ai.

Cho nên đừng có đem những cái này ra để cho người khác nghe làm cho người ta khổ, thì không có được. Để lần lượt đến cái thời điể nào nó tốt, nó phù hợp thì cái giáo án này ra là một cái cuốn sách, cuốn kinh của Phật nó đầy đủ những cái điều hành, những pháp hành, những cái lý pháp và cái lý hành nó đầy đủ để giúp cho những người chân tu, những người trùng tuyên lại Phật pháp, trùng tu lại Phật pháp thì những người đó họ mới đủ duyên mà nghe cái pháp bảo này.

Kể như quý thầy hôm nay mà được về đây nghe thầy giảng cái lời nói cuối cùng là quý thầy có duyên nhất, chứ nếu là không bao giờ có thể được nghe, và nghe rồi thì không phải là những cái lời Thầy giảng đây mà tung ra thị trường hoặc là tung ra cho mọi người nghe thì cái đó là cái sai của quý thầy. Thầy không muốn làm động một người nào ở trong cái thế gian này, Thầy không muốn làm động một cái giáo hội nào hết, họ làm sao thì mặc họ, nhưng mà cái lời nói cuối cùng của Thầy là cái lời nói để trùng tuyên lại Phật giáo, để làm sáng tỏ lại Phật giáo mà những gì người ta đã lầm lạc, người ta đã ném xuống. Đây là lầm lạc chứ không phải họ cố ý đâu, bởi vì từ người xưa cho đến giờ chứ không phải tự họ bây giờ, còn bây giờ Thầy đã thấy, đã biết qua cái sự tu hành của thầy, Thầy chứng nghiệm được cái sự hiểu biết của Thầy, Thầy nói rõ ra hết để rồi sau này có những người nhờ đó mà người ta thấy được cái đường lối của đạo Phật.

Đó là lỗi các vị tu hành không đến nơi đến chốn mà muốn làm Bồ tát độ chúng sanh, thì cái ông Bồ tát đui mù này sẽ dẫn một đám đui mù đi xuống địa ngục cả đám. Trên thế gian này, sự lường gạt và lừa bịp con người không có chỗ nào hơn và khéo léo hơn là ở trong các tôn giáo. Sự lường gạt tinh vi và vi tế cho thấy người cầm đầu lừa gạt mà họ vẫn tự còn không biết mình lừa gạt mà cứ ngỡ mình là Phật, là Bồ tát độ chúng sanh.

Đó Thầy nói chính cái người mà đang làm cái phận sự lừa gạt thiên hạ, họ cũng chẳng biết nữa, họ  nghĩ mình là Bồ tát làm Phật sự để lợi ích cho chúng sanh thôi chứ họ chưa có nghĩ đó là cái sự lừa gạt. Bởi vì mình dẫn dắt người ta mà mình chưa biết cái mục đích người ta đi tới đâu để giải thoát, rồi mình cứ dẫn dắt, nhắm mắt mà dẫn dắt cứ nghĩ rằng ở đó như vậy là giải thoát nhưng mà mình chưa có tới đó, mà mình chưa tới đó làm sao mà mình biết đường. Vì vậy mình cứ nghĩ tưởng đây là làm những chuyện lợi ích cho người ta chứ không phải là cái chuyện xấu, cho nên cứ dẫn đi, dẫn đi mà còn bỏ biết bao nhiêu phế, biết bao nhiêu con người mà theo tôi mà cái đời họ không ra đời mà đạo không ra đạo. Thay vì họ ở ngoài đời họ làm lợi ích cho bản thân họ và còn giúp cho bao nhiêu người bất hạnh trong xã hội. Còn bây giờ họ vô tu đó, bao nhiêu của hồ hôi nước mắt họ nuốt mà họ có làm gì lợi cho ai không? Đâu có lợi cho ai, họ chỉ xây dựng những cái nơi để du lịch chơi thôi.

Nếu muốn thoát ra cảnh lường gạt, bịp bợm này thì người tu sĩ phải tu cho đến nơi, đến chốn nghĩa là phải chứng được đạo thì mới chứng, mới không còn lường gạt, nghĩa là mình chứng được mình đến cái mục đích giải thoát, mình làm chủ được sanh tử, mình chấp dứt được luân hồi thì lúc bấy giờ mình ra dạy đạo thì mình không lường gạt ai hết, còn nếu mình chưa được thì đó là cái hình thức lường gạt.

Thà là không có Phật giáo, mà đã có Phật giáo thì phải Phật giáo thực chứ không phải Phật giáo giả. Còn Phật giáo giả thì thôi thà là đừng có ở trên thế gian này đi, để cho mang tiếng cái Phật giáo thế này thế khác, người ta cười chê bằng cách này, bằng cách khác, thà là không có nó thì không ai cười, mà có nó phải có cho thực. Và thà là một người, mà một người phải xứng đáng là người tu sĩ của đạo Phật, còn cả bầy mà không xứng đáng thì thôi dẹp quách hết không có chừa cái người nào. Bởi vậy, phải nói thì nói cho hết, quét thì phải quét cho sạch, quét cái nhà mà quét có bên đây chỗ, bên kia chỗ thì rác rưới nó còn, mà hễ quét thì phải quét cho sạch chớ đừng có để cho cái rác rết đó thì làm cái nhà chúng ta nó dơ bẩn thêm cho nên không có ích lợi gì.

Vốn Phật giáo ra đời để giải quyết cái khổ của con người, vì thế giáo lý và Giới Luật của Phật là pháp môn để người tu chứ không phải để người học lấy đó làm cấp bằng danh lợi.

Đến đây là hết phần giới thiệu về giới bổn Patimokka của đạo Phật.

THỌ TAM QUY NGŨ GIỚI

Vậy chúng ta sẽ thọ giới nào, sẽ thọ giới nào trước tiên. Bây giờ mình nói giới bổn mà mình biết thọ giới nào trước đâu, phải hông? À mình thấy năm giới, thường thường người ta nói thọ Ngũ giới chứ gì, rồi Thập giới chứ gì, rồi Thập thiện chứ gì, rồi 250 giới chứ gì, rồi 348 giới chứ gì, rồi Bồ tát giới chứ gì, đó mình nghe kê ra một loạt nhưng mà chưa chắc đã là Ngũ giới là đúng. Bởi vì Ngũ giới nó chưa phải là giai đoạn của nó mà khi một cái người mới bước vào để thọ giới của Phật, cho nên ở đây chúng ta phải hiểu Thọ Tam quy Ngũ giới.

Tại sao người ta nói thọ Tam quy Ngũ giới mà người ta không nói là thọ ngũ giới không? Đó bây giờ Thầy mới mở màn cho chúng ta thấy biết được cái chỗ mà chúng ta thọ như thế nào?

Có người bảo tin Phật chỉ cần thành tâm, hà tất nhất định cần phải quy y, mới thoáng nghe qua dường như là có lý, thật ra thì cái lý đó chẳng vững, nó chẳng có vững đâu, có người nói à mình tin Phật coi như là mình theo pháp Phật mình tu thôi cần gì mà phải quy y. Đó thì như vậy thì chúng ta phải hiểu. Tại sao? Ví như học sinh muốn học phải làm thủ tục giấy tờ đăng ký nhập học. Nghĩa là mình muốn học thì mình cũng phải đăng ký, thì mình muốn theo Phật thì mình cũng phải đăng ký chứ sao mà mình nói cái chuyện mà ngông cuồng vậy, hỗng đăng ký làm sao người ta biết tên biết họ mình có vô học không. Rồi cái trường học đó nó mở rồi ba cái thằng học sinh này không có tên họ đó thì làm sao mà cấp giấy học bạ cấp bằng cho nó. Đó là những cái mà chúng ta phải đem một cái ví dụ cụ thể cho một cái trường học, bởi vì mình đây là một cái trường học Phật cho nên mình bắt đầu mình phải thọ Tam quy. Vậy thì Tam quy là phải là cái giới luật mà thọ đầu tiên chớ cái gì khác hơn hết. Đó thì bây giờ quý vị mới thấy cái giới mà chúng ta thọ đầu tiên là cái giới Tam quý chứ không phải là Ngũ giới đâu, Ngũ giới nó còn sau nữa mà, Tam quy chưa xong mà làm sao, ba cái giới này chưa xong thì thọ ngũ giới làm sao làm được. Lớp thì phải đi từ từ lên chứ, lớp một lớp hai chứ, sao lại thọ giới thọ giới mau quá vậy.

Nghe nói thì người nào cũng nói tôi thọ Ngũ giới hết, ông cư sĩ nào cũng nói tôi thọ Ngũ giới hết mà cái Tam quy thì không hiểu làm sao hết. Trời ơi ba cái giới đầu tiên hỏi tới ông, ông không biết gì hết, ông nói Phật, Pháp Tăng, mà ông nói Phật Pháp Tăng chứ không biết giới. Ông Phật không phải là giới sống động sao, mà Pháp không phải là giới sao, mà Tăng không phải sống giới sao, thì đó là giới còn gì, giới thực tế giới cụ thể giới linh động nữa. Thì ba cái giới đầu tiên không phải quy y theo nó sao?

Đó thì hôm nay Thầy nói như vậy để cho quý thầy biết rằng chúng ta sẽ quy y cái giới nào trước, chứ không phải nói à tôi quy y thọ cụ túc 250 giới hoặc là 348 giới ni đâu, không phải cái chỗ đó là cái chỗ căn bản của chúng ta đâu, mà bắt đầu chúng ta phải thọ cái giới nào trước. Bởi vì học giới mà không rành giới thì làm sao mà biết thọ cái giới nào trước cái giới nào sau, hỏi cái ông mà dạy giới sư, hỏi cái giới nào thọ trước ông nói Ngũ giới, ông này mới nói thiệt là quê mùa, phải hông? Ông không hiểu, tưởng người cư sĩ vô tu là thọ ngũ giới à.

Bằng không trường học không có học tịch nên chỉ được miễn cưỡng dự thính, nghĩa là nó không có học tịch thì người ta có cho mình được dự thính là may lắm mà miễn cưỡng chứ làm sao người ta biết được thằng học trò đó là như thế nào. Đến cuối niên học không có giấy tờ chứng chỉ học bạ gì hết, một học sinh mà không có đăng ký như vậy đó, không có nhất định như vậy thì phải chiếu theo cái niên học như thế nào mà đạt được, chứng chỉ học bạ như thế nào mà đạt được. Cho nên chúng ta phải có cái sự rõ ràng, phải có sự đăng ký chứng chỉ học bạ để lên lớp, lên cấp từ tiểu học qua trung học rồi đến đại học. Đầu tiên vào tiểu học phải đăng ký, rồi khi mà hết tiểu học rồi phải đăng ký lên trung học, rồi hết trung học rồi thì phải đăng ký lên đại học chứ đâu phải nói tu học luôn một lượt đâu được. Cho nên thí dụ như bây giờ mình đăng ký thọ Tam quy nè, sau đó mình mới đăng ký thọ Ngũ giới chứ, phải hông? Các thầy thấy nó phải đi tuần tự chứ, Tam quy mà chưa xong rồi mình chưa tin ông Phật nổi mà tôi làm sao tôi thọ giới nổi mà tôi giữ gìn được, cho nên uống rượu cứ uống rượu hoài chứ nó làm sao giữ Ngũ giới được, mình tin ông Phật không nổi cho nên mình cứ uống rượu. Đó cho nên cái giới đầu tiên mình chưa có làm được, mình chưa đăng ký được thì mình chưa nên đăng ký cái Ngũ giới và còn thi cử xem có đủ năng lực hay không.

Do đó người theo đạo Phật là phải thọ Tam quy, thọ Tam quy tức là thọ giới đầu tiên trong đạo Phật, đó quý thầy thấy chưa, đây là thọ Tam quy là thọ ba cái giới đầu tiên trong đạo Phật mới đúng cái nghĩa của nó.

Ở đây Tam quy được xem là pháp thiện thứ nhất trong đạo Phật, bằng những hành động cao quý và gương hạnh tuyệt vời của ba giới này, tuyệt vời cả ba giới đầu tiên này, đem lại một cuộc sống an lành tràn đầy thiện pháp cho người cư sĩ đệ tử của Phật. Vì thọ Tam quy là bước đầu giới luật thứ nhất để tiến vào cửa ngõ đạo Phật, đó, ba cái giới đó là mình mới tiến vào cửa ngõ đạo Phật mới được chứ. Còn nếu mình chưa có mà thọ Tam quy thì làm sao mình tiến vào cửa ngõ của đạo Phật được. Cho nên dạy giới luật Thầy dạy rất rành, bởi vì trải qua một cái thời gian mà Thầy về được thầy T.T. khuyên nên đọc lại kinh sách thì Thầy đọc kinh sách là rất nhiều. Bởi vì Thầy đã sống từng mười năm ở trong sự mà thực hiện giới luật ở trong sự tu tập của thầy cho nên Thầy biết đó là cái mấu chốt giải quyết sinh tử luân hồi của con người, cho nên Thầy nghiên cứu cái này rất nhiều vì vậy mà Thầy biết cái giới luật nào đầu tiên mà giới luật nào sau cùng của nó. Chứ còn hầu hết là cái người mà không có tu hành mà đến nơi đến chốn thì không có hiểu nổi cái điều này. Để tiến vào cửa ngõ của đạo Phật, nếu chẳng đi bước thứ nhất này, thì đâu thể bước thứ hai, thứ ba thứ tư được. Muốn đi bước thứ hai, thứ ba ắt phải bắt đầu đi bước thứ nhất, cấp bậc tu hành giải thoát theo đạo Phật của hàng đệ tử lấy theo thứ lớp, lấy theo thứ lớp của giới luật mà quy định. Nghĩa là các thầy thấy không thọ Thập giới thì người ta gọi là Sa Di, phải hông? mà thọ 250 giới thì người ta gọi là Tỳ Kheo nó có cấp bậc rõ ràng mà. Cho nên bây giờ mình thọ Tam quy thì cái cấp bậc của mình là mới bước vào cửa ngõ của đạo Phật, thì như vậy rõ ràng là mình phải có cái sự đăng ký hẳn hoi chứ đừng có nói là tôi tin Phật, tôi chỉ tu theo pháp Phật thôi chẳng cần quy y gì hết, thì như vậy là mình đâu có thọ.

Quy y Tam là lớp cơ bản đầu tiên học về đạo đức nhân quả giải thoát của hàng đệ tử Phật, bao nhiêu giới luật và pháp môn của Phật cũng đều do ba giới đầu tiên này mà lưu xuất ra. Mình phải thấy từ Phật, Pháp, Tăng nó cũng đều ở chỗ đó mà nó lưu xuất ra giới luật của Phật, lưu xuất ra các pháp. Chứ không phải ngoài ông Phật làm sao có các pháp này, ai nói pháp này thì chúng ta biết, không phải từ ông Phật sao, mà ông Phật là cái giới đầu tiên của chúng ta thì nó phải lưu xuất ra tất cả những cái Pháp khác, cái giới khác để chúng ta tu hành, đó là không phải sao? Cho nên khi mà Thầy luận đến đây quý thầy thấy cái vấn đề thầy nêu lên là cái vấn đề rất rõ không có mơ hồ, không có tưởng tượng, mà đây là một cái sự thực, sự thực phơi bày cũng như là mọi vật ở trong cái lòng bàn tay của chúng ta. Bởi vậy tất cả Giới Luật đều lấy Quy y Tam Bảo làm căn bản. Ngoài cái Giới Luật của Đức Phật, pháp môn của Phật tu hành mà lìa xa cái Tam Bảo này thì nó không còn là giới luật của Phật nữa.

Có người cho rằng mình có đủ năng lực xem kinh thì tự mình trực tiếp hướng vào kinh Phật tìm ra con đường thành Phật, đâu cần phải quy y cũng có thể được sự thọ dụng của việc học Phật. Điều này trên lý thuyết thì nghe như là thông, mà trên thực hành thì sai, thì sai bét. Vì sự nghiên cứu vào Phật pháp nội cái để mà hiểu cho đúng còn khó khăn, và đôi khi chẳng hiểu gì cả, mà lại hiểu một cách méo mó làm lệch lạc Phật pháp, hầu hết Phật giáo thời này Phật pháp đều hiểu lệch lạc từ giới đến kinh. Một người mà đã được trang bị kiến thức đầy đủ như những ông tiến sĩ, nhưng đối với giáo lý của đạo Phật mà để kiến thức này nghiên cứu thì Phật pháp chẳng qua là biến thành một thứ giáo lý khô cằn cỗi. Cũng như những người kiến thức tưởng giải, biến giáo lý Phật giáo thành bóng ma trong đêm tối. Nghĩa là những nhà học giả đó, họ biến Phật giáo thành bóng ma trong đêm tối, mà những nhà có học thức, có tiến sĩ mà nghiên cứu Phật giáo thì nó cũng biến Phật giáo thành một cái thứ giáo lý khô cằn, nó cũng không có đem cái gì lợi ích cho con người hết.

Người muốn hiểu giáo lý và Giới Luật của đạo Phật phải là một hành giả, nghĩa là cái người mà hiểu được giáo lý phải là một hành giả tới nơi tới chốn, được một bậc đạo sư, hay một vị minh sư có kinh nghiệm hành trì, tri hành hợp nhất dạy và bảo qua những kinh nghiệm của họ để cho người này tu hành thì mới hiểu được giáo lý nhà Phật.

Đó một người mà muốn hiểu được cái giáo lý của nhà Phật mà chính xác đúng thì cái người đó phải là bậc hành giả, mà bậc hành giả đó không phải tự họ hành mà tự họ hiểu được mà phải có một bậc đạo sư như đức Phật chẳng hạn, hoặc là một vị minh sư có kinh nghiệm hành trì, tri hành hợp nhất, lời nói của họ phải đi đôi với cái hành động của họ, thì họ dạy qua những kinh nghiệm của họ cho cái người này, thì cái người này mới có hiểu được giáo lý, chứ không phải động người nào mà bước vô đọc kinh sách của Phật đều hiểu hết đâu. Người thì hiểu góc độ này, kẻ hiểu góc độ khác cũng như cái thằng mù mà sờ vòi, sờ lỗ tai thì cho nó là con voi, mà sợ cái đuôi cũng cho nó là con voi, mà sờ cái chân cũng cho nó là con voi, mà sờ con mắt cũng cho nó là con voi mà chẳng biết con voi toàn bộ nó là thế nào. Đó là sờ cái giáo lý của Phật là như vậy, đó là sờ còn đúng cái vị trí đó đó, còn nếu mà sờ mà chẳng hiểu đó là cái gì nữa là khác. Đó thí dụ con voi mà ỉa ra cục cứt mà sờ nó chẳng biết con voi nó nằm đây hay chỗ nào…thì cái chuyện đó là còn sai nữa đó chứ đừng nói chi mà sờ biết được cái lỗ tai nó là may lắm rồi, sờ cái vòi biết cái vòi cũng là may đó, còn sợ mà sờ cái vòi nói là cái roi mây thì trật luôn nữa đó. Đó thì tất cả những cái sai sót của người ta ở trong cái đời do tưởng giải và kiến giải mà làm cho lệch lạc Phật pháp mất đi con người tu giải thoát mà bao nhiêu thế kỷ, hàng trăm thế kỷ, hàng ngàn thế kỷ, hàng trăm thế kỷ nay làm cho người ta khó mà đi lại con đường của đạo Phật.

Rất dễ hiểu vì mục đích giáo lý này là chỗ hành động của cuộc sống để đem lại cuộc sống thực, an lành, hạnh phúc cho mọi người, còn kẻ nào nói giáo lý suông là đương nhiên không hiểu giáo lý. Lời dạy của Phật là lời dạy sống động, hành động chứ không phải lời dạy suông, còn hiện giờ kinh sách hiện hành là lời dạy suông, cho nên những ý kiến ở trên đều là sai hết.

Một người chẳng thọ Tam quy mà lại tự xưng là Phật giáo đồ thì như những trang giấy trắng mà chưa có một hàng chữ nào viết trong đó, thì tư tưởng này là tư tưởng không dứt khoát, kẻ này…Nghĩa là cái chỗ này, cái người mà chưa có thọ Tam quy mà tự xưng mình là Phật giáo đồ thì như là cái trang giấy mà người ta chưa có viết chữ nào vào đó hết. Thì cái tư tưởng này đối với Phật giáo nó không có dính gì hết cho nên họ nói vậy, bữa nay họ thấy ờ bây giờ mình nói vậy mai mốt nghe cái Tin Lành nói ngon quá nó nhảy qua, mình đâu có thọ tam quy đâu cho nên mình qua Tin Lành dễ dàng thôi đâu có gì khó, phải không? Cho nên cái ông này ông lừng chừng nhất nè, ông này ổng hiểu Phật giáo một cách chưa có sâu đâu nhưng mà bây giờ thấy nghe hay hay thôi thì mình cũng tự xưng mình Phật giáo đồ đi, rồi mai mốt cái bộ coi hỗng được cái mấy bữa nghèo quá đi. Ba cái ông Tin Lành ông đến cho một số tiền bạc cái thì nhào vô, bây giờ mình theo Tin Lành ngon hơn, trời ơi có tiền, có sắm sửa nhà cửa. Ít ra mấy ông Tin Lành cũng cho mình chiếc xe gắn máy chạy nữa, thì do đó thì tức là được cung cấp những cái đó thì cái ông này ông ấy nhảy qua luôn. Hồi đó tôi đâu có quy y Phật đâu mà tôi sợ, lỡ hồi đó quy y rồi đi ra vậy người ta nói mình ngoại đạo rồi, ờ mình theo ngoại đạo rồi bỏ giáo của mình rồi, thành ra trong đầu óc nó có hai tôn giáo, sợ người ta nói mình theo cái đạo này rồi mà theo đạo khác sợ chết xuống địa ngục người ta chẻ mình làm hai, nên hoảng đi hỗng dám. Còn bây giờ đó mình đâu có quy y đâu mà mình sợ, mình chưa có tôn giáo nào hết mình nói thì nói, mình thấy Phật giáo hay vậy mình tự xưng vậy chứ thôi chứ chưa có ai ấn chứng cho mình là mình đã theo Phật giáo, cho nên vì vậy mà bây giờ Tin Lành nó giúp đỡ mình thì mình theo nó cũng phải ngon thôi có gì đâu mà lo, phải hông. Cho nên nhiều người có người theo Cao Đài giáo bây giờ trở về Phật giáo nói tôi sợ quá tại vì tôi phản đạo thôi rồi thì sao? Hồi đó tôi đưa tay tôi thề là không có thay đổi đạo, mà bây giờ lỡ thề rồi nói làm sao bây giờ? Cho nên cứ dính Cao Đài hoài hông dám ra, phải hông các thầy thấy.Đó là một cái điều kiện mà cái người mà không có dám quy y Tam Bảo đó, là tức là không có dám quy vào cái giới của Phật đó, thì cái người đó họ lừng chừng lắm, họ còn đang lưỡng lự lắm, họ chưa có dứt khoát đâu. Cho nên ở đây, những cái họ lý luận ở trên, họ nói như vậy là những kẻ lừng chừng bởi vì thấy những cái tư tưởng đó là mình đã biết họ là cái loại người nào rồi.

Mình chọn cái tôn giáo đó mình vào là mình phải nghiên cứu cho kỹ lưỡng hẳn hoi mình vào, thì vào cho nó xứng đáng với cái sự vào cái tôn giáo đó. Còn đằng này, biết mình vào đó mình có tu chứng không, thôi để thử thử coi có được hông, được thì mình vô không được thì mình ra cũng không sao, cách thức đó là cách thức như vậy.

Thì tư tưởng này là tư tưởng không dứt khoát, kẻ này là kẻ vui đâu xâu đó, thích thì tự xưng là Phật giáo đồ mà không thích thì thôi, đó là lối thăm dò chứ chưa thực quyết tâm theo hướng thiện của đạo Phật. Những người này thường hay dụng câu tự quy y Phật, thường thường họ nói họ tự quy y Phật đó, coi chừng mà chúng ta thấy ở trong những cái bài kinh mà tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y Tăng đó, thì mấy cái ông này, họ lấy cái cớ đó họ nói tôi tự quy y chứ không cần ông thầy nào quy y hết. Bây giờ quý thầy phạm giới đủ thứ tôi không có quy y mấy ông đâu, tôi quy y Phật, quy y Pháp, tự quy y Tăng chớ tôi không cần mấy ông đâu thì cái đó là điều sai.

Bởi vì Thầy nói cho hết để chúng ta thấy rằng mình muốn quy y Phật thì mình chọn một bậc thầy xứng đáng mình quy y còn không có thì thôi, mình nghiên cứu rồi mình đi tìm kiếm những bậc nào mà giới đức hẳn hòi thì mình đến mình quy y. Còn mình quy y ông thầy phạm giới thì từ đó mình cũng theo ông thầy đó cũng phạm vậy thôi, thầy mình sao thì mình vậy, cho nên ông thầy có vợ con thì mình theo ổng, mình quy y với ổng thì có ngày mình cũng có vợ con, cũng giữ cái chùa cũng như là cái gia đình vậy chứ không khác gì hết. Thầy nói đó là cái sự thật bằng chứng như vậy chứ hổng có làm cái…, còn mình theo ông thầy không vợ con thì cũng đỡ một chút, mặc dù ông có phi thời thì cũng đỡ đỡ chút, còn ông thầy mà có vợ con thì quá tệ rồi, không thể nào mà nói được. À tới đây thì Thầy xin nghỉ để ăn cơm.

Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học, hiểu một cách cạn cợt đã đưa Phật giáo xuống hố thẳm của mê tín thần quyền hay lạc vào đỉnh núi khoa học, khoa tâm lý học, tất cả sự tự quy y này đã đưa Phật giáo đến chỗ sai lệch này đến chỗ sai lệch khác, cũng như những bậc thầy đứng ra đại diện ba ngôi Tam Bảo để làm lễ quy y, mà vị thầy ấy giới luật chưa nghiêm túc, và tu tập chưa ra gì mà đứng ra quy y cho mọi người, họ cũng ví như một người mù mà dẫn đám người mù đi vào rừng thẳm, thì chắc chắn ông thầy và đám người mù này sẽ chết dưới vực thẳm trong rừng âm u, và có thể không còn một người nào còn sống sót. Bởi vậy bắt đầu vào đạo Phật đừng tự vội quy y Phật, Pháp, Tăng mà hãy nghiên cứu trước, mà phải tìm những bậc minh sư, họ chỉ dạy cho cách nghiên cứu.Bởi vì ở đây thì Thầy nói rằng khi mà chúng ta muốn quy y Tam Bảo đó, tức là thọ Tam quy đó, thì chúng ta phải chọn một cái vị thầy cho hẳn hòi đàng hoàng, một bậc minh sư của Phật giáo. Chứ nếu mà chúng ta chọn không có đàng hoàng, thì ông thầy làm sao thì sau này mình cũng như vậy. Ông thầy phá giới thì mình cũng phá giới, ông thầy có vợ thì mình cũng có vợ, ông thầy ăn uống phi thời thì mình cũng phi thời, ông thầy mà danh lợi thì mình cũng danh lợi. Bởi vì cái ông thầy là tượng trưng cho cái Tăng bảo, mà cái Tăng bảo nó sống gần ở bên mình, cái oai nghi tế hạnh nó không có thì mình cũng chịu ảnh hưởng luôn cái đời sống của mình như vậy mà không thể nào mình thoát ra khỏi. Không thể thầy mình mà sống như vậy mà mình làm khác thầy mình được. Cho nên đó là một cái điều khó cho người đệ tử sau này muốn sửa lại cũng rất là khó.

Bởi vậy bắt đầu mà vào đạo Phật, thì quý vị hãy đừng có vội vàng quy y, đừng có nghe theo cái miệng lưỡi của mấy ông mà hãy nghiên cứu cho kỹ, mà muốn nghiên cứu thì mình phải tìm những cái bậc minh sư mà người ta có Giới Đức, người ta có thiền định sâu mầu á, thì mình đến đó mình xin những cái bậc đó dạy cho mình cách nghiên cứu phật giáo. Kinh điển Phật giáo thì bây giờ không biết cái loại nào đúng, loại nào sai cho nên chúng ta đụng cuốn kinh nào cũng nói là của phật giáo hết thì sai. Vì vậy mà phải cần phải gặp những cái bậc mà người ta có tu đúng của đạo phật, có giới hạnh thì người ta mới chỉ cho mình hợp với nghiên cứu cuốn kinh nào cuốn sách nào chứ không phải đụng đâu mình đọc đó.

Đó là đem cho mình hiểu biết Phật giáo một cách chơn chính rồi từ đó mình rằng mình ghiên cứu xong cái đạo Phật nó tuyết vời  như thế nào nó phù hợp như thế nào, nó đúng cái ước vọng của mình như thế nào thì mới tìm đến cái bậc minh sư đó, người mà mình tin tưởng ông ta là giới hạnh nghiêm túc đó thì mới xin quy y. Rồi ông ta mới đứng ra mới đại diện cho ba ngôi Tam Bảo mà ông ta quy y chứ không phải là mình cứ quy y ông ta đâu mà mình quy y Tam Bảo. Đó là cái, cái đó là cái đúng, rồi cầu xin, mình cầu xin ông ta đứng ra quy y, nhưng nếu mà ông thấy cái tư cách mà ông ta chưa có đủ thì ông chỉ cho chúng ta một người có tư cách hơn ông. Bởi vì những cái bậc mà thiền đức á, những bậc mà giới đức á thì họ nhường lại cho những người mà có cái đức hạnh cao hơn họ khi mà họ thấy họ còn thiếu, còn những người mà danh lợi đó thì ai vô quy y họ cũng quy y hết. Đó vì họ quy y cho đệ tử cho đông để làm gì để phục vụ cho đời sống của họ cho đầy đủ. Đó là những cái, cái lợi, cái danh của họ, họ không thấy được cái lợi ích cho người đệ tử của họ quy y. Còn cái người mà người ta giới luật nghiêm chỉnh á người ta sợ cái người đệ tử của mình theo giữ gìn không có nổi, nếu mà người ta thọ cho cái người đệ tử cho họ quy y rồi thì người ta có trách nhiệm làm sao cho cái người đệ tử của mình phải đi vào trong cái giới luật của Phật, khép mình trong thiện pháp, cho nên sợ  đệ tử của mình giữ gìn không có trọn, cho nên người ta đưa đến những cái bậc cao hơn để cho cái oai lực và oai đức nó cảm hóa được cái người đệ tử đó đểt trở thành người tốt, một người đệ tử của Phật sau này nghiêm chỉnh, trì giới luật rất nghiêm chỉnh. Còn nếu mà ông thầy đó ông đủ cách thì ông đứng ra ông đại diện, còn nếu mà không đủ cách thì ông đứng ra ông giới thiệu cho một người khác. Họ từ chối chỉ cho chúng ta đến với một người khác, để cho người thầy của quý vị là một tấm gương sáng chói, tấm gương sống cho quý vị sau này trên bước đường theo Phật giáo tu hành. Họ là một cái tấm gương sáng chói làm cho chúng ta thấy cái gương hạnh đó mà chúng ta theo dõi cái bước chân tu hành của bậc thầy của mình, nhờ đó mà mình tiến bước trên con đường đạo Phật tu hành giải thoát.

Còn thời nay người chưa đủ tư cách mà đứng ra quy y, mà vội vàng là để cầu danh, cho đệ tử càng đông càng tốt, càng làm giầu, càng có danh có tiếng nhiều. Đó là cái số thầy mà người ta chỉ nhắm vào danh và lợi vào cái số đệ tử để gây cái uy tín người ta thì người ta không có nghĩ đến cái lợi ích của cái người đệ tử của mình để quy y.

Cho nên cái sự quy y thầy nói thật sự, quy y thường thường nếu mà để tỏ ra mà dẫn dắt người đệ tử không có được quy y đông, nghĩa là chỉ trong vòng 2 người hoặc 3 người thì nghiêm chỉnh, ở trong cái giờ phút ấy nó rất là nghiêm chỉnh để làm cho cái người đó người ta thọ được tam quy, người ta thanh tịnh. Còn mình thọ một lần 10 người hay 100 người hay 1000 người điều đó là chỉ gieo cái nhân Phật pháp với họ chứ không có nghiêm túc, không có thanh tịnh, không có đắc được cái Tam quy.

Bởi vì cái giới đầu tiên là Tam quy, mà Tam quy mà thọ kiểu đó thì kể như là nó chỉ là cái nhân cho tốt cho người đó chứ sau này không có người nào mà đắc Tam quy hết. Cho nên bây giờ chúng ta nhìn thấy Phật giáo thì đó là tình trạng bây giờ thì ai cũng biết chứ không phải là riêng Thầy nói đây mà quý thầy không có chứng nghiệm được điều đó.

Trong Phật giáo hiện giờ có những bậc thầy thống kê số đệ tử quy y của mình, họ lấy đó làm hãnh diện với một số tín đồ đông đảo. Nghĩa là có người họ thống kê lại à bây giờ họ được mười ngàn, hai chục ngàn, ba chục ngàn, hay một triệu tín đồ, họ thấy đó là cách hãnh diện nhất của họ. Chứ còn họ không biết là cái số đệ tử đó nó có được giải thoát hay là không được giải thoát, nó có nằm được trong cái thiện pháp hay là không thiện pháp thì họ chẳng cần, nhưng mà họ chỉ nhắm vào cái số đông đó. Cho nên có những vị thầy họ đem sổ ra họ thống kê lại xem cái số đệ tử quy y của mình được bao nhiêu. Thứ nhất là họ thống kê như vậy để khoe khoang cho mọi người biết rằng mình có số đệ tử đông như vậy. Những sự đông đảo ấy nhìn lại không có chất lượng là đệ tử của Phật.

Thọ Tam quy chẳng phải chỉ là vấn đề trên hình thức mà còn là một vấn đề nội tâm giúp cho người đó nhớ mãi không quên những pháp thiện, những hình ảnh thiện. Bởi vì Phật, Pháp, Tăng là cái pháp thiện, mà những hình ảnh của Phật Pháp Tăng là những hình ảnh thiện, cho nên cái hình ảnh đó nó ghi khắc mãi ở trong tâm chúng ta khi mà chúng ta thọ với một bậc thầy mà thanh tịnh giới luật, thì họ chỉ cách cho chúng ta thọ nó rất đúng cách. Nó làm cho cái ngày giờ mà chúng ta thọ nó thiêng liêng vô cùng chứ không phải là đơn giản, họ tạo ra cái cảnh giới làm cho  chúng ta nhớ mãi không quên cái ngày mà chúng ta đến với đạo Phật, đến với ba ngôi Tam Bảo đó. Ngày thọ Tam quy là ngày có tính chất trang nghiêm và trọng yếu với một vị thầy giới hạnh nghiêm chỉnh, thiền đức sâu màu, lực tuệ cao siêu thì vẻ trang nghiêm và trọng yếu càng tăng lên gấp bội. Nghĩa là có một bậc thầy mà nó thanh tịnh giới luật, mà nó có thiền định sâu màu và trí tuệ siêu việt thì cái buổi lễ mà thọ Tam quy đó, nó làm cho cái người đệ tử nó tăng lên gấp bội cái sự trọng yếu, cái sự trang nghiêm đó lên gấp bội trong tâm hồn của họ. Điều này khiến cho cái người thọ Tam quy khó quên, đã từng ghi nhớ mãi trong óc mọi hình ảnh hành động từ bi vô lượng của Phật, Pháp, Tăng thể hiện trong ngày hôm đó.

Còn bây giờ chúng ta quy y rồi chúng ta chẳng thấy như là một cái buổi lễ thường thường, rồi một buổi họp để mà vui chơi chứ chẳng có cái nghĩa lý gì trong cái ngày thọ Tam quy của chúng ta hết. Đó là thọ ba cái giới đầu tiên mà chúng ta thấy một cái người mà bước vào đạo Phật, bước vào cổng của đạo Phật đó thì tức là phải thọ Tam quy.

Vậy thọ Tam quy là gì?

Từ trên chữ giải thích thì thọ là hưởng, chịu lấy, chấp nhận; tam là ba; quy là quay đầu quay về, thọ Tam quy là chấp nhận trở về ba nơi. Đây là nói tắt, nói cho đầy đủ nghĩa là thọ Quy y Tam Bảo, thọ Quy y Tam Bảo là trở về chấp nhận nương tựa ba nơi quý báu. Nói cho dễ hiểu hơn là trở về chấp nhận nương tựa ba nơi thiện pháp cao quý. Nói một cách khác nữa quyết tâm tu tập ba thiện pháp cao quý. Nói một cách khác nữa quyết tâm sống đúng ba giới hạnh tuyệt đỉnh. Đó thì mình nói cho hết cái nghĩa của nó để mà khi chúng ta phải thông suốt được cái thọ tam quy nó như thế nào, vì vậy cho nên ở đây vạch hết tất cả những cái này, khi mà một cái người quyết tâm đến với Phật thì phải tu tập ba thiện pháp đó. Rồi phải sống đúng ba cái giới hạnh tuyệt đỉnh đó, rồi phải chấp nhận nơi thiện pháp đó. Đó là tất cả những cái mà chúng ta muốn, về đó là chúng ta phải chấp nhận như vậy, phải lấy cái đó mà trau dồi thân tâm của mình nữa, cho nên nói một cách dễ hiểu để chúng ta hiểu khi trở về đó, không phải lài trở về đó Phật độ mình hoặc mình có tai nạn gì đó ông xuống ông rước mình, không phải vậy. Mà chính mình phải trau dồi thân tâm của mình để cái gương hạnh Phật, Pháp, Tăng đó nó là một cái nơi để chúng ta thấy được, để mà trau luyện cho mình được như những bậc đó, những pháp đó.

Đó là cái chỗ mà chúng ta tự cứu mình chứ không phải mình quy y Tam Bảo rồi từng đó mình có tai nạn, bệnh tật thì Tam Bảo gia hộ mình. Theo cái kiểu mà bây giờ quý thầy hiểu là tôi làm Phật sự thì Tam Bảo cũng gia hộ tôi, sự thật Tam Bảo chỉ là pháp thiện thôi chứ đâu có cái gì mà gia hộ mình, mà người ta cứ nghĩ tưởng đó là những cái thần linh, những cái ông thần cho nên cứ phù hộ mình, cho nên cứ hở hở ra là nói tôi làm cái chuyện Phật pháp đây là Tam Bảo gia hộ tôi, sự thật là làm sao mà có sự gia hộ được. Phật giáo đâu có dạy cái vấn đề đó được, nhưng mà người ta nghĩ qua một cái thần giáo rồi cho nên nó có cái quyền năng ở đó để gia hộ mình. Sự thật ra mình làm bậy thì mình chịu, mình làm đúng thì mình hưởng tức là nhân quả nó rõ ràng.

Cho nên Phật giáo xây dựng cái đạo Phật nó ở trên cái nhân quả, nó cụ thể và rõ ràng như vậy cho nên từ cái bước đầu mà ba ngôi Tam Bảo đều là thể hiện qua cái thiện pháp chứ đâu phải là gì khác hơn, ba cái thiện pháp ở đây đầu tiên, tức là ba cái giới thiện đầy tiên mà chúng ta hướng về, và nó là ba cái giới đầu tiên, tức là ba cái pháp đầu tiên mà chúng ta hướng về chứ đâu phải là ba cái ông thần. Mà người ta nghĩ rằng ba ngôi Tam Bảo là ba ông thần. Ông thần thứ nhất là ông thần Phật, ông thần thứ hai là ông thần Pháp, ông thần thứ ba là ông thần Tăng, cho nên là ba ông thần đó mà ngồi trên cái bàn đó rồi phù hộ chúng ta khi mà chúng ta nương vào đó, cũng như là các tôn giáo khác vậy, có ông thần phù hộ đó. Cho nên Phật giáo nó biến thành thần giáo mất đi, mà Phật giáo là ba ngôi này nó là ba cái pháp, ba cái pháp thiện, từ đó Phật là một cái pháp thiện để chúng ta nương vào đó để chúng ta sửa mình lại trong cái pháp thiện mà từ đó chúng ta cứu mình ra khỏi nhân quả. Bởi vì nhân quả nó có thiện ác, mà thiện thì nó đem đến phước báu cho chúng ta, mà ác thì chúng ta thọ những cái quả khổ.

Ở đây thọ Quy y Tam Bảo cũng còn nói tắt, nói cho đủ là thọ Quy y Phật, Pháp, Tăng, nghĩa là mình nói thọ Quy y Tam Bảo là mình còn nói tắt đó. Mình nói cho đúng là thọ quy y Phật, Pháp, Tăng, tức là mình nương vào ba cái pháp, ba cái pháp thiện này.

Phật, Pháp, Tăng là gì?

- Phật tức là chỉ đức Phật là một con người như chúng ta mà đã sống được với thiện pháp siêu việt, làm gương hạnh sống toàn thiện, chân thiện.

- Pháp là lời dạy của đức Phật, lời dạy toàn thiện, thánh thiện, chân thiện.

- Tăng là những đệ tử của đức Phật, đều là những con người bằng xương bằng thịt như chúng ta theo Phật tu hành sống đúng toàn thiện, chân thiện.

Gồm lại những chữ này giải thích thọ quy y Phật, Pháp, Tăng là quay về nương tựa đức Phật, vâng theo lời dạy của Ngài và theo gương hạnh các bậc Thánh tăng tu tập. Đó thì như vậy là chúng ta lấy ba cái gương hạnh của ba ngôi Tam Bảo này mà chúng ta tu tập chứ không phải là nhờ ba ngôi Tam Bảo này gia hộ cho chúng ta.

Ở đây quý thầy phải hiểu Phật, Pháp, Tăng là ba giới luật sống động vì thế Phật còn sống tại tiền thì tất chúng Tỳ Kheo đều nương vào Phật tu tập, Phật dạy sao họ tu tập như vậy không có tu tập sai. Cuộc sống của Phật là cuộc sống của giới luật nghiêm chỉnh không sai phạm một lỗi nhỏ gì. Phật đã chế ra Giới Luật được nói lên gương hạnh sống giải thoát của ngài, qua hành động sống của Phật cho nên phải thấy Giới Luật là một điều quan trọng trong việc hành trì theo đạo Phật. Vì thế đức Phật phải quan tâm đến Giới Luật, cho nên Ngài phải chế giới nhiều lần để cho phù hợp với không gian và thời gian, có thời điểm và thời đại nào cũng phù hợp và thích nghi được.

Nghĩa là Ngài rất là quan trọng về Giới Luật chứ không phải là ngài chế giới cái chuyện mà không có quan tâm đến nó. Ngài không có nông nổi mà đặt ra giới đại đâu mà Ngài phải đắn đo suy nghĩ rồi mới chế ra cái giới và khi chế ra giới rồi Ngài còn sửa đi sửa lại nhiều lần để cho nó phù hợp, để cho cái không gian và thời gian nó không có bị không thích hợp; và cái thời đại diễn biến từ cái thời Ngài cho đến về sau, lúc nào nó cũng thích nghi được với cái giới luật đó mà không có cần sửa tới, sửa lui.

Ngài quan tâm và hoàn chỉnh giới luật trước khi ngài nhập diệt, Ngài biết rằng khi ngài nhập diệt không có một vị Thánh tăng nào đệ tử của ngài đủ tư cách làm thầy cho các vị Tỳ Kheo sau này. Từ lâu Ngài phải có ý định ai là người thay Ngài để dẫn dắt những người tu sau này chứ không phải lúc gần chết Ngài nông nổi di chúc Giới Luật là thầy cho chúng ta như vậy. Nghĩa là Ngài đã nghĩ rằng Giới Luật là thầy của chúng ta, nó hội đủ ba cái oai lực, đại oai lực, đại thần lực và đại minh lực, thì nó phải đủ ba cái lực như vậy thì nó mới xứng đáng làm thầy. Mà Giới Luật của Phật thì nó đủ ba cái oai lực đó, cho nên nó mới xứng đáng làm thầy của người sau và nó không bao giờ có một sự thay đổi nào được hết vì nó phải tròn đủ, chứ nó không thể thiếu mà nó cũng không thể thừa. Chúng ta nên xét một người như Đức Phật không thể nông nổi, bộp chộp, mà phải có sự đắn đo kỹ lưỡng, nhất là người cầm vận mệnh của tiền đồ Phật giáo sau này, mà đặt sai thì quý thầy nghĩ sao, một công trình 49 năm khai sáng Phật giáo, đem lại một cuộc sống...

BĂNG SỐ 25

GIỚI LUẬT

Nghĩa là trong khi Ngài đặt cái Giới luật mà làm thầy chúng ta Ngài phải thấy được cái sự thịnh suy của Phật giáo, cho nên Ngài mới di chúc cho chúng ta Phật giáo còn là Giới luật còn, Phật giáo mất là Giới luật mất. Chúng ta bây giờ thấy Phật giáo thì tu sĩ nhan nhản mà đều phá giới hết thì Phật giáo có còn không? Chắc chắn là lời Phật dạy chúng ta đã chứng minh điều đó rất rõ mà. Mà đức Phật còn nói Giới luật còn là ta còn, mà Giới luật mất là ta mất, nghĩa là Giới luật còn là hiện tiền đức Phật còn ở tại thế mà Giới luật mất là đức Phật đã mất. Mà bây giờ chúng ta thấy đức Phật có còn không? Mất, bởi vì Giới luật đâu còn, đối với tu sĩ bây giờ đâu có người nào mà giữ giới như thời đức Phật đâu cho nên Giới luật mất.Cho nên có một vị Tỳ kheo khi mà ở xa Phật thì lúc bấy giờ ngài muốn đến để mà gần gũi bên Phật, thì đức Phật nghe như vậy mới nhắn một người đến nói với ngài, đến nói với vị Tỳ kheo đó khi mà ở xa Phật, mà giữ gìn Giới luật của Phật nghiêm chỉnh thì như Phật sống ở bên, còn những người sống gần bên ta hàng ngày mà thấy ta, mà Giới luật không nghiêm chỉnh thì cũng như xa ta ngàn dặm, có phải không? Ngay từ cái lúc mà thờiPhật còn sống Đức Phật cũng xác định cái điều đó, Phật còn tại thế tức là Giới còn, mà Giới luật mất là Phật mất.

Đó thì như vậy chúng ta đã biết hiện giờ Phật giáo của chúng ta mất hay còn. Chúng ta đều xét qua những lời mà Ngài đã di chúc lại thì chúng ta biết. Mà nếu muốn còn thì chúng ta là những người đệ tử của Phật phải làm sao cho nó còn, thì phải là Giới hạnh, Giới đức và Giới tuệ chúng ta phải nghiêm chỉnh hẳn hòi, thì như vậy là Phật giáo sẽ còn.

Do thấy trước và hiểu biết đó Ngài đã chuẩn bị hoàn chỉnh Giới luật trước khi Ngài nhắm mắt:

 Này các thầy Tỳ kheo hãy lấy Giới luật ta làm thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc tu hành, Giới luật còn là Phật pháp còn, Giới luật mất là Phật pháp mất.

Ngài di chúc lời này tức là Ngài đã chuẩn bị cho đời sau một ông thầy như đức Phật, như Ngài còn tại thế. Ngài chuẩn bị cho cái người mà thừa kế Ngài như là Ngài chứ không có thua kém Ngài chút nào hết. Cũng như bây giờ số đệ tử nhưng mà đệ tử của Thầy người nào cũng có sở trường của nó làm sao Thầy dám di chúc. Ví dụ đó, thì Thầy phải di chúc cái người nào mà toàn diện chứ, thì cái người toàn diện làm sao có được. Ai cũng có sở trường sở đoản hết, chỉ có duy nhất là đức Phật sở trường tròn đầy, bởi vì đức Phật mới có đại thần lực, đại oai lực, đại minh lực nó tròn đầy, còn mấy ông kia thì một ông có đại thần lực nhưng mà không có đại oai lực, không có đại minh lực; một ông thì có đại minh lực nhưng không có đại thần lực thì làm sao mà tròn được, thì làm sao mà thành người hướng dẫn chúng ta sau này được. Giới luật còn là Phậtcòn,Giới luật mất là Phật mất.Cho nên lúc Phật còn tại thế,Phật thường dạy các ông sống gần bên ta mà Giới luật không nghiêm chỉnh thì như sống xa ta ngàn dặm, nếu các ông sống xa ta ngàn dặm mà Giới luật nghiêm túc thì như sống gần bên ta.

Đó cái lời của đức Phật nói trong kinh nó còn rõ ràng như vậy mà. Cho nên Phật còn tại thế tượng trưng Giới luật toàn chân toàn thiện và đức Phật nhập diệt thì Giới luật là ông thầy toàn chân toàn thiện của chúng ta. Hôm nay không phải Thầy ca ngợi điều đó mà chính trong kinh Phật nhắc đi nhắc lại điều này rất là nhiều, vì vậy mà chúng ta là người tu sĩ đạo Phật làm sao chúng ta quên được những lời này, làm sao chúng ta sống mà không giữ gìn Giới hạnh mà gọi là Phật giáo được.

Thế có kẻ ngu si dám đem Giới luật của Phật sửa tới sửa lui, đốt phá lung tung, đốt phá tạng luật của ông Upali kết tập lần đầu tiên tại hang Thất Diệp, bảo rằng kết tập luật không có viết thành văn. Đó là Thầy nhắc lại cái lời ở trong kinh nói rằng trong cái lúc mà kết tập kinh điển lần đầu tiêu, kết tập luật không có viết thành văn, cho nên do đó cái lý luận đó là lý luận phá giới, cái lý luận mà đập phá giới gốc của Phật.

Luật thì phải có một bộ, sao lại có nhiều bộ thế, một ông thầy thì một ông thầy sao bây giờ lại nhiều ông thầy quá vậy, ông thầy nào là chân, ông thầy nào là giả? Nghĩa là nhìn mấy bộ luật chúng ta không biết ông thầy nào là ông thầy mình hết, đông quá chừng đông, cho nên bây giờ luật sao thì có một bộ thôi chứ luật gì mà đủ thứ luật hết….Mà luật thì có bộ nói như này có bộ nói khác chứ đâu phải giống nhau hết đâu, chứ giống thì nó là một bộ rồi. Cho nên nó nhiều bộ tức là nó phải có cái khác ở trong đó rồi chứ không phải là giống hết được. Cho nên bây giờ chúng ta thấy, chúng ta hiện hành bây giờ Phật giáo chúng ta có sáu cái bộ luật chứ không phải là ít, có cái thì giống có cái thì khác nhưng mà toàn những cái bộ này thì đều có những cái dị biệt khác nhau chứ không phải giống hết.

Các thầy Tỳ kheo sợ Giới luật của Phật, chạy theo dục lạc thế gian, tham đắm sắc, danh, lợi, thực, thùy, cho nên mới đặt ra Giới luật mới làm khác đi để chạy theo cái dục lạc của đời, của cuộc đời làm đảo lộn Phật pháp, không biết ông thầy hiện giờ thì người tu sĩ không biết ông thầy Giới luật của mình là ông thầy nào. Nghĩa là bây giờ đứng trước sáu bộ luật này thì chúng ta chẳng biết cái bộ luật nào là ông thầy của mình hết, thì như vậy là mình thấy quá khó khăn chứ đâu phải dễ. Phật giáo chia ra làm 20 bộ phái, mỗi bộ phái có một bộ luật, vậy đạo Phật hiện giờ có 20 ông thầy, vậy bây giờ biết chọn ông thầy nào như lời Phật đã dạy, đã di chúc? Ông thầy được kết tập lần đầu tiên thì bị phế rồi, còn hai chục ông thầy mới này biết ai là ông thầy của mình? Hai mươi bộ luật này có những điểm tương đồng có những điểm khác biệt do thế người sau mới lấy các điểm đồng và dị biệt mà kết tập lại thành sáu bộ luật. Đây quý thầy nghe cái tên của sáu bộ luật đặt ra đây: Một – Thập tụng luật, hai – Tứ phần luật, ba – Tăng kỳ luật, bốn – Ngũ phần luật, năm – Giải thoát giới bổn kinh, sáu – Nhất thiết hữu bộ luật. Từ 20 ông thầy luật này còn lại sáu ông thì thử hỏi biết ai là thầy của chính mình.

Như vừa rồi chúng ta đã học trong giới kinh có phân chia làm ba loại giới, một là Giới hạnh, hai là Giới đức, ba là Giới tuệ, ba giới kinh này gọi chung là Giới - Định - Tuệ, Giới - Định - Tuệ không phải ngoài giáo pháp của Phật, giáo pháp của Phật là pháp thiện, Sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Vậy Giới - Định - Tuệ là pháp thiện của đạo Phật, pháp thiện của đạo Phật là Giới hạnh, Giới đức, Giới tuệ, ba giới này gọi là Giới luật của Phật còn gọi là giáo pháp của Phật, còn gọi là giới bổn, à còn gọi là giáo pháp của Phật. Riêng giới bổn chỉ là những oai nghi tế hạnh ly dục ly ác pháp của phần Giới hạnh trong giới kinh mà thôi. Nghĩa là cái giới bổn mà hiện giờ chia ra thành sáu cái bộ luật này thì nó thuộc về nằm trong giới bổn chứ không phải nằm trong giới kinh, cho nên cái giới bổn này nó chỉ cho chúng ta biết cái oai nghi tế hạnh, oai nghi tế hạnh để giữ gìn ly dục ly ác pháp ở trong cái phần Giới hạnh mà chúng ta học ở trong cái phần giới kinh, thì giới kinh nó chia ra thành ba cái giới rất rõ ràng: Giới hạnh, Giới đức và Giới tuệ. Nhưng mà cái phần giới bổn nó chỉ là cái oai nghi tế hạnh li ti để giúp cho chúng ta ly dục ly ác pháp trong cái phần Giới hạnh chứ nó không được nằm trong cái phần Giới đức, nó không được nằm ở trong phần Giới tuệ, nó chỉ nằm ở trong cái phần Giới hạnh mà thôi, tức là trong giới kinh mà thôi. Cho nên giới bổn dù có thay đổi 100 ngàn bộ thì nó chỉ là một phần nhỏ trong giới kinh mà thôi.Bây giờ có chia ra một ngàn, một trăm, một triệu bộ luật đi nữa chúng ta vẫn xem nó là cái phần nhỏ trong Giới hạnh chứ nó đâu là toàn diện của Giới luật của Phật, cho nên chúng ta đâu có ngán nó, nó chưa đủ sức làm thầy của chúng Tỳ kheo, nghĩa là cái giới bổn chưa có đủ sức làm thầy của chúng ta đâu bởi vì nó chỉ mới Giới hạnh mà thôi cho nên nó đâu có đủ sức làm thầy. Nó chưa đủ 3 cái thần lực của nó mà cho nên nó đâu có làm thầy chúng ta được, chỉ có giới kinh mới chính là thầy của các vị Tỳ kheo sau này.

Đó thì hôm nay Thầy phân cho để thấy giới nào là thầy của chúng ta, chứ không khéo người ta lấy giới bổn ra làm thầy thì chắc chắn là ông thầy này chỉ đem chúng ta đến cái chỗ chết chứ không có còn cái chỗ sống nữa chứ đừng nói tới chuyện mà giải thoát.

Có một bài kinh nói về khi Phật còn tại thế, có người Bà La Môn hỏi đức Phật sau này ai là người thừa kế đức Phật lái con thuyền đạo Phật, thì đức Phật trả lời người thừa kế Phật là người phải có đại oai lực, đại thần lực, đại minh lực. Nghĩa là ông Phật ông ấy xác định người mà thừa kế ông ấy là phải có những đại oai lực, đại thần lực như vậy, cho nên Thầy có nhắc lại với quý thầy là đại oai lực là như thế nào, đại thần lực là như thế nào, thì Thầy có nhắc đại hạnh lực, đại thần lực và đại huệ lực đó là ứng vào trong cái đại minh lực và cái đại thần lực và cái đại hạnh lực nữa. Vậy đại hạnh lực là gì - là  Giới hạnh; mà đại thần lực là gì - là Giới đức, đại oai lực là gì - là Giới tuệ hay hoặc là đại minh lực là Giới tuệ. Vậy Giới hạnh, Giới đức, Giới tuệ gọi chung là Giới luật của đạo Phật.

Cho nên trong kinh Di Giáo, Phật di chúc: “này các thầy Tỳ kheo khi ta diệt độ các thầy hãy lấy Giới luật của ta mà làm thầy, làm chỗ nương tựa tu hành”. Đó trong cái kinh Di Giáo thì Phật chỉ nói như vậy nhưng mà trong kinh A Hàm hoặc là trong kinh Nguyên Thủy thì lại có nói thêm cái chỗ này thêm, cũng là cái lời di chúc của Phật khi mà sắp sửa nhập Niết Bàn thì Phật bảo hãy lấy Giới luật ta và giáo pháp ta, thành ra cái giáo pháp với Giới luật nó chia làm hai cho nên nó không có đúng đâu. Đó là những cái người sau, người ta lấy cái Giới luật đó để lấy cái tên Giới luật đó làm cái giới bổn chứ sự thật ra trong giáo pháp của Phật thì nó là cái Giới luật, chứ nó đâu có gì khác hơn. Bởi vì trong 37 phẩm trợ đạo là tất cả các Giới hành, nó là cái hành động để chúng ta thực hiện cái giới chứ đâu phải nó là pháp gì, cho nên họ tưởng 37 phẩm trợ đạo là cái giáo pháp còn cái Giới luật là những cái điều mà kê ra cũng như pháp luật đó là Giới luật, cho nên người sau người ta không hiểu. Vậy người ta đem cái giáo pháp của Phật người ta chia ra làm có Giới luật rồi có giáo pháp thành ra hai cái. Cho nên cái lời di chúc đó là họ cũng chỉ thêm vô mà thôi. Cho nên trong kinh Di Giáo thì cái lời này Thầy thấy rất đúng là vì chỉ đức Phật bảo lấy Giới luật mà trong Giới luật đó nó có Giới hành, mà Giới hành tức là 37 phẩm trợ đạo chứ còn gì nữa, đâu có cái gì mà ngoài ra, lấy 37 phẩm trợ đạo mà làm giáo pháp thì nó là cái người không hiểu. Trong cái giới thì nó phải có Giới hành rồi không thể nào mà nói trật được.

Bởi vậy trong giới kinh có đầy đủ pháp hành, pháp hành tức là Giới hành đó, tức là 37 phẩm trợ đạo, chứ không phải 37 phẩm trợ đạo ngoài Giới luật mà có, 37 phẩm trợ đạo là Giới hành của đạo Phật. Cho nên có kinh ghi lời di chúc “hãy lấy Giới luật và giáo pháp của ta làm thầy” - điều này thừa, nghĩa là cái lời nói đó là lời nói thừa không có trọn không có đúng cái nghĩa mà tức là không có hiểu Giới luật của Phật là cái pháp thiện. Cái người mà ghi lại cái lời di giáo đó là…mặc dù là những cái bài kinh đó là những cái bài kinh trong kinh Nguyên Thủy trong bộ kinh Nikaya đó nhưng mà sự thật ra Thầy vẫn thấy nó là sai không đúng, bởi vì cái đó là hiểu không đúng bởi vì giáo pháp thì nó toàn diện trong đó nó có giới, Giới hành, Giới đức và Giới tuệ, Giới hạnh của nó đủ chứ không phải là…Bởi vì đạo Phật đứng trên nhân quả xây dựng thì nó là thiện pháp, mà thiện pháp nó có Sơ thiện, trung thiện, hậu thiện chứ đâu phải ngoài cái đó ra mà có được.

Giáo pháp của đức Phật được xây dựng trên nền tảng nhân quả cho nên nó phải toàn là thiện pháp, không phải là ác pháp, mà thiện pháp là Giới luật, trong Giới luật phải có Giới hành, có Giới hành mới gọi là giáo pháp. Bởi vì có cái hành động tu nó mới gọi là giáo pháp, chớ còn nếu mà không có Giới hành thì toàn giới đó tức là cái kỷ luật rồi, mà là cái pháp luật rồi. Nó không có Giới hành tức là không có tu, bắt buộc người ta phải giữ gìn nó thôi chứ nó không có, còn cái này người ta có Giới hành cho nên nó thuộc về pháp rồi, quý thầy thấy rất rõ không?

Cho nên muốn làm cho mình được thiện thì mình phải có sự trau dồi hành động cho nên có sự tu tập, còn cái pháp luật người ta đặt ra người ta có bắt mình phải trao dồi mình như thế nào không, ờ tôi bắt buộc anh không có được ăn trộm này, anh không có được ăn trộm, anh ăn trộm tôi bỏ tù, chứ không có biểu anh phải làm vậy, tập vậy, luyện vậy hoặc trau dồi vậy là không ăn trộm. Còn cái này, cái Phật pháp cái Giới luật của Phật pháp nó có những cái Giới hành, cho nên từ cái chỗ mình không tham lam, không giết hại chúng sanh thì phải tu tập như thế nào, trau dồi như thế nào thì đó nó có cái Giới hành của nó rồi, cho nên nó trau dồi tuần tự từ đó mình trở thành thiện pháp.

Đó quý thầy thấy Phật pháp nó hay ở chỗ đó, Giới luật của Phật nó hay chỗ đó, nó có cái pháp hành chứ nó không khô cằn cỗi như cái pháp luật. Mà người ta đưa ra cái Giới Bổn nó thành ra cái pháp luật cho nên vì vậy mà bắt chúng ta theo cái pháp luật mà tu hành chắc chắn đời sống của chúng ta cũng như là chúng ta gò bó trong cái pháp luật nhà nước nào độc tài, chắc chắn là người dân trong nước đó đều tiêu hết chứ không sống nổi đâu.

Giáo pháp của đức Phật được xây dựng trên nền tảng nhân quả cho nên nó phải toàn là thiện pháp không phải là ác pháp, mà thiện pháp là Giới luật trong Giới luật phải có Giới hành, có Giới hành mới gọi là giáo pháp, mà giáo pháp thì không phải là giáo điều, mà không phải là giáo điều thì không phải là pháp luật. Pháp luật thì có sự bắt buộc, bắt ép, gò bó trong khuôn khổ kỷ luật, pháp luật thì không có pháp hành, còn ngược lại thì Giới luật của Phật có Giới hành nên một điều giới nào đưa ra làm việc lành, tránh việc ác thì có Giới hành rèn luyện tu tập trau dồi thân tâm con người cho đến khi thuần hóa điều lành đó.

Thí dụ như cái Giới luật đưa ra thì mình có những cái Giới hành mình tu tập rèn luyện theo cái hành động đó, để cho tới chừng mình thuần hóa được cái điều lành đó làm cho thân tâm của mình ở trong cái pháp lành hoàn toàn là không có sai phạm nữa, chứ không phải là nói suông mà bắt trói mình. Vì vậy mà người mà người ta học Giới luật mà người ta có cái Giới hành, người ta thấy được cuộc sống của người ta thoải mái, dễ chịu, nó thanh thản, nó an lạc, nó giải thoát thật sự, cho lên Phật nói thiết thực cụ thể không có thời gian. Đến với đạo Phật thì ngay đó chúng ta đã thấy liền, mà đến với đạo Phật là đến gì, đến với pháp luật mà pháp luật có pháp hành chứ không phải pháp luật thiếu pháp hành.

 

Thì chúng ta thấy được cái đạo Phật nó hay là hay ở chỗ này, nó đưa con người đến cái thiện, nó phải rèn luyện cái thiện cho con người chứ không phải nói miệng suông hoặc là đưa ra cái giáo điều nào đó bắt ép người ta. Chứ không có bó buộc bắt ép ai hết, cho lên thí dụ như một người mà đi vào cái lộ trình của người tu sĩ ly gia cắt ái mà người ta chưa có đủ cái trình độ đó mà ép người ta vào đó sao được, cho nên người ta vẫn ở trong cái lộ trình của người cư sĩ mà người ta vẫn có những pháp hành thiện của người ta cũng đem lại cái đời sống hạnh phúc an vui cho người ta, cho xã hội, cho đất nước, cho nên nó vẫn là đem lại cái tốt cho mọi người chứ đâu phải chờ cho chúng ta tu hành như cái lộ trình của người tu sĩ mới là giải thoát được đâu.

Nếu người nào biết lấy Giới luật của Phật mà làm thầy tu tập thì thoải mái, dễ chịu, an lạc, yên vui và hạnh phúc. Từng giới một, từng giới luật một hễ tu được giới nào là có sự an lạc của giới nấy, nghĩa là mình chấp nhận cái giới nào là mình  tu, mình trau dồi trong một thời gian thì mình thấy an lạc, cũng như bây giờ mình chấp nhận ăn ngày một bữa, mình chấp nhận rồi mình tu luyện mình, mình tập luyện rồi mình hướng tâm mình nhắc nhở cho đến khi cuối cùng rồi mình thấy thoải mái dễ chịu ăn ngày một bữa. Ở đây không ai bắt ép ai hết à, Giới luật của Phật không buộc ai hết, bây giờ anh chưa ăn một bữa được thì anh nên ở trong cái giới cư sĩ đi, cái lộ trình thứ nhất đi anh ăn ngày ba bữa đi rồi anh sẽ tu những cái, anh trau dồi những cái Giới luật khác trong cái tầm vóc của anh thì anh cũng được giải thoát à, chứ không phải bắt ép anh vô đây ăn ngày một bữa để làm khổ anh.

Cho nên do cái đạo Phật nó vi diệu nó hay như vậy, ở từng cái cấp độ của người muốn giải thoát, cao thì chúng ta phải giải thoát ở cái chỗ cao để mà chúng ta thoát ra các ác pháp và cái người thấp thì cũng có những cái pháp để chúng ta rèn luyện ở trong cái thiện pháp thấp mà cũng đem lại cái sự an vui hạnh phúc cho chúng ta. Chứ đức Phật đâu có bắt ai cũng ăn ngày một bữa đâu, nghĩa là xã hội này đâu có ai cũng ăn ngày một bữa đâu, đâu có bắt buộc điều đó đâu, chỉ có giới tu sĩ chúng ta là ly gia cắt ái thì chúng ta mới ăn ngày một bữa, còn cái giới cư sĩ thì bây giờ đức Phật đâu có khuyên mấy ông một ngày ăn 4-5 bữa đâu nhưng đức Phật khuyên là ăn uống điều độ. Vì vậy mà chúng ta chọn ăn ngày 3 bữa hoặc 2 bữa hoặc 4 bữa, 5 bữa thì phải ăn điều độ thôi, chứ giới cư sĩ không có bắt ăn ngày một bữa, cũng không bắt ép ăn 2 bữa, cũng không bắt ép người ta ăn 3 bữa, tùy người ta có của cải người ta ăn bao nhiêu thì người ta ăn, nhưng mà ăn điều độ, ăn lung tung bữa nay ăn hai bữa, bữa kia ăn một bữa, bữa kia ăn 5 bữa thì nó không có điều độ thì cái thân của họ dễ bị bệnh. Đức Phật khuyên như vậy chứ đâu có bắt người ta ăn ngày một bữa đâu cho nên vì vậy chúng ta thấy cái Giới luật của Phật nó rộng rãi và nó là một cái pháp môn tu hành để đưa chúng ta trong cuộc sống từng cái ăn, ngủ nó cũng có cái sự giải thoát ở trong đó.

 

Học Phật pháp mà chúng ta hiểu được như vậy thì chúng ta thấy rất là thích thú vì mỗi cái bước đi, mỗi cái giai đoạn của đời người chúng ta đều có pháp hành và cái Giới luật thiện pháp của nó kèm theo cái đời sống của chúng ta, làm cho chúng ta hân hoan an lạc. … hân hoan, luôn luôn vui tươi chẳng biết buồn giận thương ghét ai, chẳng biết lo toan sợ hãi ai. Dù có bất cứ điều gì chỉ có một sự trầm lặng bao la khắp cùng tình thương yêu tất cả muôn loài sống hòa tan cùng vạn hữu.

Sau khi được nghe lời giảng này, quý thầy đã biết Giới luật nào là thầy của quý thầy chứ không phải sáu bộ luật hiện hành của Phật giáo bây giờ mà quý thầy đã học, đã đọc nó, đã hiểu nó. Sáu bộ giới luật không có đủ hạnh lực, thần lực và oai lực thì làm sao mà làm thầy của quý vị được. Những bộ giới luật này nó chỉ là một phần lượm lặt trong Giới hạnh của kinh giới, và viết ra mà lại còn thêm thắt làm lệch lạc oai nghi tế hạnh của người tu sĩ Phật giáo.

Cho nên thí dụ như họ viết ra họ thêm thắt, họ bảo rằng mình phải ăn thịt chúng sanh bằng cách không thấy không nghe này kia, rồi họ tự xúm nhau ăn thịt chúng sanh bằng cách không thấy, không nghe, không nghi. Do đó nó mới có những cái điều kiện sai lệch làm cho cái người tu sĩ Phật giáo mà nuôi cái tà mạng bằng cái xương máu của chúng sanh ở trong người của mình. Đó là chạy theo những cái dục lạc bằng cách lấy giới che, che đậy mình, lấy giới đặt ra để che đậy mình tưởng là mình không có phạm giới nhưng chính đó là cái phạm giới rất lớn và rất nặng oai nghi tế hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Cho nên bây giờ tu sĩ Phật giáo ngang nhiên ăn thịt chúng sanh như cọp ăn. Thế mà giới hành Tứ vô lượng tâm của các ngài từng học trong giáo lý của nhà Phật mà họ để đâu? Họ ném trong sọt rác để ngang nhiên chạy theo dục lạc thế gian bằng sự thêm bớt Giới Bổn - Phật cho ăn thịt chúng sanh không thấy, không nghe, không nghi để thỏa thích khẩu vị nuôi tà mạng. Những người tu sĩ này mượn giới luật phá hủy đạo Phật giữa ban ngày. Nghĩa là bây giờ họ ngang nhiên họ ăn thịt chứ không có ăn lén đâu. Chẳng có vị tu sĩ nào nhập định được cả và chẳng bao giờ có được Tam minh. Nghĩa là cái giới tu sĩ mà ăn thịt chúng sanh như vậy thử hỏi họ làm sao họ có nhập định được mà làm sao họ có Tam minh được, họ lý luận đời mạt pháp chẳng có người tu chứng quả  A-la-hán.

Đó bắt đầu mấy cái lão này, cái lão tu sĩ này họ nói như thế nào? Họ nói cái đời mạt pháp của mình rồi thì không có người nào chứng quả Alahan hết đâu đừng có mong nhập định, chỉ ngồi đó hưởng lạc một chút đó là may lắm rồi, ngồi mà nó không có vọng tưởng được yên lạc, thích thú đó là đã thiền định của cái thời đại này rồi đó, là phước lắm rồi chớ còn không có tới nữa được đâu.

Không nương vào ông thầy Giới luật chân chính của mình thì tu hành làm sao chứng được. Nghĩa là ông thầy Giới luật của mình không chân chính thì thân tâm mình làm sao thanh tịnh? Mà không thanh tịnh thì làm sao nhập được định, làm sao có được Tam minh? Đó là cái chứng nghiệm cho chúng ta thấy các pháp của đạo Phật nó để chứng minh cho chúng ta đi vào con đường thiền định là phải ly dục ly bất thiện pháp.

Để một lúc nữa Thầy sẽ nhắc lại ly dục ly bất thiện pháp nó có nhiều cấp độ, để quý thầy biết rằng khi mà chúng ta nhập vào bào thai mà cái chỗ ly dục ly bất thiện pháp nào chúng ta biết chúng ta nhập bào thai? Còn cái chỗ nào chúng ta sẽ không biết nhập vào bào thai Thầy sẽ đọc lại cái bài kinh đó, để cho các thầy thấy rằng đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy rõ nó có nhiều cái giai đoạn ly dục ly bất thiện pháp chứ không phải ly dục ly bất thiện pháp là hoàn toàn chúng ta sạch hết đâu, không phải.

Hầu hết tu sĩ Phật giáo không có thầy dẫn đạo, nghĩa là bây giờ chúng ta không có ông thầy dẫn đạo nên chẳng biết đường tu, tất cả đều tu hành đường lối của đạo Phật theo kiểu tưởng giải của học giải, nghĩa là theo cái tưởng của cái nhà học giả họ tưởng ra thôi, rồi họ soạn kinh họ viết ra cái kiểu này, kiểu kia rồi chúng ta chạy theo đó mà chúng ta tu tập chứ chúng ta chẳng có ông thầy mà dẫn đạo cho chúng ta tu tập. Còn Giới luật là Giới Bổn thì làm sao có Giới hành mà tu? Giới Bổn là một loại pháp luật khô cằn như cây khô không nhựa, đụng tới giới luật vị nào cũng lè lưỡi, người nào cố gắng lắm giữ gìn thì cũng như người tu khổ hạnh của ngoại đạo - cũng chẳng ra gì, cũng chẳng đi tới đâu. Nghĩa là mình có ráng giữ Giới luật cho nghiêm chỉnh cách gì đi nữa mà theo cái Giới Bổn đó thì trở thành một người khổ hạnh, mà khổ hạnh của ngoại đạo chứ chưa phải là khổ hạnh đúng của đạo Phật nữa. Cho nên do đó cái sự tu hành nó chẳng đi tới đâu cuối cùng thì cũng chết quỵ ở trên cái sự khổ hạnh đó mà cũng chẳng ra ngô gì hết, cũng chẳng làm chủ sanh tử gì hết. Bằng chứng như chúng ta đã thấy có một cái số tu sĩ bên Khất Sĩ họ cũng chấp hành Giới luật nghiêm chỉnh, họ đi chân không, đi khất thực đi xin ăn, họ cũng ở trong hang trong núi, mà họ không có biết cái Giới hành cho nên họ không thực hiện được, họ chỉ ôm chặt cái Giới Bổn rồi họ tu tập họ khép mình ở trong những cái khổ hạnh như vậy, cuối cùng họ cũng chết mòn ở trong hang trong hốc chứ chẳng có giải thoát được gì hết.

Bởi vậy Phật mới nói khi mà chúng ta khổ hạnh như con bò thì chúng ta sẽ thành còn bò, mà khổ hạnh giống như con chó thì sẽ thành con chó chứ không thành ông Phật hoặc thành tiên được. Cho nên chúng ta khổ hạnh ăn rau gì nữa, chúng ta ăn rau riết thì cũng thành rau thành cải chứ không thành gì. Đó là những cái điều mà chúng ta không có pháp hành cho nên nó không thành gì hết. Ờ nói bây giờ tôi ăn rau cải là tôi thiện pháp rồi, tôi không có giết hại chúng sanh nhưng cuối cùng thì mình cũng thành rau cải chứ có ra cái gì? Đó là cái hiểu sai Phật pháp, bởi vì Phật nói mình hướng tâm thế nào thì mình sẽ tái sanh về cái hướng đó cho nên những cái tu hành sai là những cái hướng tâm sai, cho nên nói tôi như vậy thì nhiều đời tôi sẽ đạt được...mình hướng chệch, mình hướng phá giới thì làm sao mình hướng đúng giới được, còn mình hướng đúng giới thì nó sẽ đúng giới, cho nên từ ngay bước đầu mình đi đúng là cái lộ trình đó sẽ đúng, mà bước đầu mình đi chệch đường thì cái đường đó nó sẽ dẫn mình đến cái chỗ chệch chứ không thể nào mà đi đúng được.

 

QUY Y TAM BẢO  

Bây giờ chúng ta trở về quy y Tam Bảo là ba cái giới sống động đầu tiên của Giới luật Phật giáo. Như chúng ta đã được nghe Thầy giảng, thọ quy y Phật, Pháp, Tăng là quay về nương tựa đức Phật, vâng theo lời dạy của Ngài và theo gương hạnh của các bậc Thánh tăng đệ tử của Ngài mà tu tập. Ví như cháu bé còn nhỏ xà vào lòng mẹ của nó, nương tựa mẹ nó, tin cậy mẹ nó vì thế nó có cảm giác an toàn, sự sinh ra của cảm giác an toàn này xuất phát từ sự bảo bọc thương yêu của người mẹ, vì thế mà trở về nương tựa với Phật, Pháp, Tăng cũng là sự bảo bọc thương yêu vững chắc hơn sự bảo bọc thương yêu của người mẹ. Phàm do nơi hành vi hướng về tin cậy đặt trọn lòng tin đáng tin cậy có sự bảo bọc an toàn nhất thì gọi là quy y. Nghĩa là chữ quy y đó là khi mà chúng ta quay về thì tức là phải có sự tin tưởng trong cái sự bảo bọc của cái đó, thì chúng ta mới gọi là quy y.

Ở đời chúng ta cũng từng thấy ở cha mẹ...nghĩa là mình ở đời thì mình sinh ra mình có cha mẹ thì mình nương cậy cha mẹ rồi; học sinh thì tin cậy ở thầy, ở thầy giáo; xí nghiệp thì tin cậy ở dự toán; thuộc hạ thì tin cậy ở trưởng quan.... Có người thì tin cậy ở túc mạng, tin cậy ở vận mạng, người ta tin theo túc mạng thì tin cậy ở vận mạng, người bạo ngược độc tài thì tin theo ở vũ lực, chính khách thì tin cậy vào mưu lược, người tham lam thì tin cậy vào tài sản, v.v.. Ở đây không được gọi là quy y, nghĩa là mình tin cậy vào cái đó thì không được dùng cái danh từ là quy y, vì sự nương tựa này không có bảo đảm vững chắc, nghĩa là mình nương tựa cái hạng người đó không bảo đảm, như nương tựa cha mẹ cũng không có bảo đảm vững chắc đâu. Ví như bị tai nạn nước lụt lớn người ta có thể trèo lên một ngọn cây, trèo lên nóc nhà, chạy nên gò nhỏ nhưng có thể nước và sóng gió to, nước dâng cao làm cho cây ngả, nhà sập, gò nhỏ bị ngập vì thế mà nương tựa như vậy không có vững chắc, nên không thể được gọi là quy y. Nghĩa là bây giờ mình đi nước ngập đi, mình treo nên nóc nhà mình ngồi nhưng mà nước cứ dâng nên thì nóc nhà cũng ngập thì mình cũng tiêu luôn chứ làm sao mình sống được, còn cây thì mình cũng trèo lên mình tránh nước nhưng mà gió nó to quá, nước nó chảy siết, cây nó ngả xuống thì mình cũng nhào xuống nước mình uống nước cũng tiêu luôn, thành ra mình nương tựa nó đỡ chứ sự thật ra nó chưa chắc. Vì vậy cũng như mình nương tựa cha mẹ mình vậy, nương tự như vậy nó đỡ chứ thật sự ra nó không có bảo đảm cho cái đời sống của chúng ta là hết khổ, mà nhiều khi nó còn khổ nhiều hơn nữa. Bởi vì ngồi trên cây mà tránh nước thì trong lòng nó run bần bật chứ, nó tưởng là sắp chết chứ nó đâu có còn sung sướng gì được, cho nên mình nương vào cha mẹ chứ mình thấy trước cái chết, cái bệnh tật của mình, cái đau khổ của mình cha mẹ có đau thế được không? Cho nên nương tựa chỉ an ổn cơm ăn áo mặc ông ta thôi chứ. Ông ta lo cho mình, bà ta lo cho mình đi học vậy thôi chứ thật sự ra sự đau khổ của mình thì ông bà cũng không có gánh cho chúng ta được cái gì hết, cho nên đó không thể gọi là quy y.

Còn ở đây chúng ta quy y ba ngôi Tam bảo này nó gánh hết cho chúng ta tất cả những sự đau khổ hết, từ cái sống chết của chúng ta nó đều gánh hết tức là nó làm hết. Cho nên có nhiều người hiểu lệch lạc lắm mới gọi là Tam bảo gia hộ, đó là hiểu cái lệch lạc, cho nên mỗi việc chúng ta làm gì chúng ta hay nói, tôi làm được cái này cũng nhờ Tam bảo gia hộ chứ không ngờ chính mình làm thiện mà nó được cái đó chứ không phải chính Tam bảo gia hộ. Người ta không hiểu nhân quả cho nên người ta mở miệng ra là nói là chệch nhân quả hết rồi, do vì vậy làm lệch lạc cái thiện pháp của đạo Phật hết đi.

Trong hoàn cảnh ấy, nếu gần đó có một cái trái núi cao, mọi người có thể chạy lên, trèo lên cái núi cao đó, chỉ có những kẻ ngu si thì mới không có trèo trên đó mà thôi, mới bỏ sót cái cơ hội sống sót đó mà thôi chứ không có điên gì mà có cái núi cao mà trèo lên cái cây, trèo lên nóc nhà mà chịu ở trên đó để cho chờ chết đâu, không có đâu. Chúng ta biết được như vậy, nghĩa là ở đây Phật ví dụ như là trong cái cuộc ngập lụt như vậy, thiên tai thủy hoạn như vậy đó mà có cái hòn núi cao, thì trong khi mà nước sắp sửa ngập người ta lo người ta chạy lên cái núi cao chứ không ai dại gì trèo lên nóc nhà ngồi chờ nước ngập cho chết, phải không?

Chúng ta biết là ba ngôi Tam bảo là cái chỗ mà chúng ta nương tựa vững chắc, thì chúng ta phải chạy đến cái chỗ mà ba nơi Tam bảo, chứ bây giờ mình nương cha mẹ mình mai mốt mình đau cha mẹ mình có chịu được không, đâu có thay thế được, mà mình biết mình nương ba ngôi Tam bảo, ba cái Giới hạnh này, ba cái giới thiện này thì nó sẽ giúp cho chúng ta thoát ra khỏi sanh, già, bệnh, chết, đau khổ, thì như vậy chúng ta đã nương tựa vào cái chỗ rất là vững chắc.

Đó như vậy Thầy ví dụ như là một cái...bây giờ giữa một cái cơn mà thủy nạn như vậy đấy thì mọi người sống ở trong cái khu này thì họ phải trèo lên cái núi cao, họ lùa trâu lùa bò lên cái núi cao hết chứ họ đâu có điên gì mà họ trèo lên cái nóc nhà họ ngồi trên đó, phải không? Hoặc họ trèo lên cái cây, họ đâu có điên. Cho nên do chúng ta đâu có phải là người điên, chỉ có người ngu mới trèo lên cái nóc nhà mà ngồi chờ chết chứ còn cái người mà người ta có trí chút không ai dại mà trèo hết. Người ta lùa trâu lùa bò lên trên núi người ta ở, làm sao mà nước ngập lên núi được, phải hông? Các thầy thấy! Mà Tam bảo là cái núi cao để bảo vệ cái sự sống của chúng ta, cho nên chúng ta không có điên đâu và cái người mà hiểu biết được Tam bảo như vậy thì không có bao giờ mà ai không quy y Tam bảo. Còn chúng ta không hiểu cho nên chúng ta thấy Tam bảo thường thôi chứ có cái gì đâu. Mà cái người mà mê tín thì quy y Tam bảo để Tam bảo gia hộ, thì cái đó biến ông Phật thành ông thần rồi, biến Tam bảo thành ba ông thần phù hộ rồi, thành ra cũng là lệch mất đi.

Có nhiều người biến ba Tam bảo này nó thành khoa học mất rồi, bởi vì ông nghiên cứu cái nào, cái tưởng giải của ông, ông nghiên cứu cái nào thì nó ảnh hưởng cái đó rồi ông đem Phật pháp ta ông chen vô đó. Ông muốn làm sao ông làm theo cái kiểu tưởng của ông đó thành ra Phật pháp bây giờ nó xiên xẹo đủ cách hết, làm cho con người ta không biết đường đâu mà tu hết, hồi thì Phật giáo thì như ông thần, hồi thì Phật giáo như con quỷ, hồi thì Phật giáo như khoa học, hồi thì Phật giáo nói như nhà tâm lý, nói cái tâm của mình chia chẻ ra cũng như sợi tóc, thực ra cái chuyện làm (đó) là cái chuyện làm của cái nhà (tâm lý) gợi được cái thị hiếu của con người chứ chẳng đưa con người đến chỗ nào gọi là thiện pháp, là đem lại an lành hạnh phúc cho con người được hết. Bởi vì núi cao đem đến sự bảo bọc an toàn vững chắc hơn những chỗ khác, nó cao chẳng phải như ngọn cây, nóc nhà, gò nhỏ mà có thể sánh với nó được. Người nào nhận thức được thế sự là vô thường, nhận thức được cái thế gian này vô thường, các pháp đều vô thường, tất cả tướng thế gian đều do nhân duyên đối đãi với nhau mà thành, mà khổ, mà vô ngã. Đó, người nào mà nhận được như vậy người ta mới nhào vô ba ngôi Tam bảo này người ta mới nương tựa, cũng như người ta nhận được nước sẽ tràn dâng lên thì người ta mau mau trèo lên núi cao, còn cái người mà không nhận được….

Có thể hiểu rõ ràng sự nương tựa về cha mẹ, thầy giáo, dự toán, trưởng quan, vận mệnh, vũ lực, tài sản v.v... nó chỉ là bảo bọc an ổn tạm thời nhưng rốt cuộc những chỗ đó không bảo bọc an toàn vững chắc tuyệt đối. Cha mẹ sẽ chết và không thay thế sanh lão bệnh tử của mình được, tri thức của thầy giáo sẽ lạc hậu, dự toán sẽ siêu ngạch, trưởng quan sẽ bị điều động đi chỗ khác, vận mệnh dựa vào không chắc, vũ lực, mưu lược cùng tài sản cũng không bảo đảm được gì - hôm nay làm vua, ngày mai thì làm tù nhân, hôm nay thì làm phú ông trăm vạn, ngày mai có thể là kẻ ăn mày đầu đường xó chợ. Tín ngưỡng của các tôn giáo khác có thể sanh lên trời song hẳn do nơi tín ngưỡng được quyết định sanh lên cõi trời, cõi trời ở trong Phật giáo vẫn còn sanh tử luân hồi, thọ mạng của trời tuy dài hơn người thế gian, song cũng có giới hạn, phước trời hưởng hết sau khi chết đọa xuống trần gian, do thế cõi trời chưa phải là chỗ nương tựa bảo bọc vững chắc.

Đó đức Phật ví dụ các tôn giáo khác thì xây cõi cực lạc hoặc thiên đàng hoặc cõi trời thế này thế khác, thì cõi trời vẫn là có tuổi thọ nó dài hơn thế gian chúng ta thôi mà hưởng hết cái phước báu đó rồi thì nó cũng rơi xuống à, nó vẫn còn tái sanh luân hồi, nó đâu có hết được cho nên nó đâu có vững chắc, còn ba ngôi Tam bảo của Phật thì nó vững chắc, nó chấm dứt sinh tử luân hồi, hoàn toàn vĩnh viễn nó không còn có tái sanh luân hồi, nó không còn có khổ đau. Còn bây giờ chúng ta có sanh lên cõi nào nó hết phước rồi cũng phải trở về, bởi vì nó còn nằm ở trong cái phước của nó, phước hữu lậu chứ chưa phải là vô lậu cho nên hoàn toàn nó phải trở về, vì vậy mà đứng ở trên góc độ của Phật giáo chúng ta thấy ba ngôi Tam bảo tức là ba cái giới mà chúng ta nương vào đầu tiên nó tuyệt diệu, nó đưa chúng ta đi đến chỗ chấm dứt sanh tử luân hồi. Từ ba cái giới này mà nó sanh ra bao  nhiêu cái giới khác để mà chúng ta biết mà chúng ta trau dồi, chứ không phải riêng ba giới này mà nó có. Cho nên ở trong kinh, thường thường ở trong kinh thiền, thì các tổ luận nó ba cái giới gốc của nó là tham sân si, không tham không sân không si đó, nhưng mà không phải đâu, ba cái giới gốc đó nó đâu có phải nó sinh ra các giới được do đó nó chính là Phật, Pháp, Tăng nó mới sinh ra, nếu mà không có Phật thì làm sao có giới này. Chúng ta thấy rõ ông Phật ông chế giới chứ đâu phải tham sâu si chế giới. Mà tham sân si nó biết gì nó chế giới, nó là ba cái độc mà, cho nên mấy ông tổ luận sai hết, cho nên Thầy thấy đọc ở trong Sáu cửa vào động Thiếu Thất, Bồ Đề Đạt Ma mà luận đó, luận là tham sân si là ba giới gốc, đó Thầy nói mấy ông tổ này cũng bày đặt ra nữa.

Cho nên khi đọc kinh giới rồi Thầy mới thấy thiệt là sự bịa đặt của họ quá nhiều mà họ làm lệch lạc, cũng như Bồ tát giới, các cư sĩ có thọ Bồ tát giới các thầy biết rồi chưa có thọ tam quy mà vẫn thọ Bồ tát giới được, có phải không? Người chưa thọ tam quy vẫn thọ Bồ tát giới được, bởi vì thọ Tam quy rồi mới thọ Ngũ giới, mới thọ thập giới Sa Di mới lần lượt mới đi tới mà 348 giới Tỳ kheo ni, còn cái này chưa thọ Tam quy vẫn thọ Bồ tát giới được, thì cái đó đọc lại Bồ tát giới Thầy thấy. Cho nên giới Bồ tát giới là giới của các Tổ đặt sau này, cho nên nó ngoài Tam quy ra, Tam quy nó đẻ giới ra chứ. Phật, Pháp, Tăng nó đẻ giới ra chứ, còn đằng này không có Phật, Pháp, Tăng ở đâu trên trời nó đẻ ra? Cho nên chưa có thọ Tam quy mà thọ Bồ tát giới được thì đó là một cái để cho chúng ta biết được cái kẽ hở của các vị tổ làm ra cái này đã là sai rồi, mà đọc vô Bồ tát giới thì rất là cấm không có cho cư sĩ đi đọc Giới luật, thậm chí cũng ngăn cản không có cho đọc kinh sách tiểu thừa nữa là khác.

Cho tất cả những cái mà nó đã làm lệch lạc thế này thế khác, cho nên khi mà nghiên cứu Giới luật rồi mới biết được cái sai của các người xưa, mới biết được các ông tổ mình bày đủ thứ hết để làm cho cái Phật pháp bây giờ nó chới với, nó không biết đường đâu mà đi. Từ cái chỗ sai này chúng ta thấy đến cái chỗ sai khác nếu mà không vạch ra thì không có ai còn biết Phật pháp nó ra làm sao hết. Nghĩa là Thầy không vạch ra thì người ta cũng nói Bồ tát giới là do Phật chế đó, thì mấy ông cũng viết rồi cũng nói do Phật chế, nhưng mà không ngờ cái kẽ hở của mấy ỗng nói chưa có cần thọ Tam quy mà thọ Bồ tát giới vẫn được như thường. Thầy thấy thiệt là cái kẽ hở để chúng ta thấy biết là những cái người mà gian xảo nó phải có cái kẽ hở, bởi vì người dối không thể dấu ai được hết mà cái người thật là bao giờ cũng không có kẽ hở đâu, người thật nói sao nó cũng thật, mà cái người dối rồi, giả rồi thì bao giờ cũng còn cái kẽ hở để chúng ta tìm thấy kẽ hở của người đó ngay. Cho nên ở đây nếu mà một người người ta sáng suốt một chút thì bao nhiêu kẽ hở của các Tổ để lộ ra hết không có che dấu được, bởi vì người gian thì không có che dấu ai được hết nhất là Phật pháp là những cái pháp thiện, pháp chân thật cho nên tất cả những người mà làm gian ở trong đó chúng ta đều vạch mặt được hết, không có cái chỗ nào mà chúng ta không thấy. Chỉ là chúng ta còn phàm phu, do cái tâm ly dục chúng ta chưa hết cho nên chúng ta còn bị mê mờ, còn bị vô minh ở trong cái màn ngũ triền cái nó làm chúng ta mê mờ chúng ta không thấy được, cho nên cứ nghe mấy ông nói sao chúng ta tin vậy chứ chúng ta chưa biết, nhưng mà khi chúng ta quét sạch ngũ triền cái rồi, tham sân si mạn nghi ra rồi, chúng ta nhìn thấy cái miệng của mấy ông chúng ta biết rồi cái miệng của mấy ông như thế nào chúng ta biết hết, chứ không có bao giờ mà chúng ta không rõ đâu.

Cho nên ở đây thì xác định có cõi trời nó cũng không phải cái cõi trời mà có cái chỗ nương tựa vững chắc cho chúng ta, cho nên các tôn giáo khác xây dựng cái thế giới siêu hình của họ mà cõi trời này, cõi trời kia thì nó không phải là chỗ nương tựa, cho nên chúng ta thấy tiên nó cứ bị đọa xuống hoài, nó xuống trần gian của mình hoài, ở trên ấy nhìn xuống đây nó thấy mấy cái ông này nào là có tivi, video rồi coi sướng quá cho nên ở trên nó nhào xuống nó đầu thai xuống dưới thế gian chúng ta. Thậm chí coi chừng Bắc Đẩu, Nam Tào cũng khoái cũng nhào xuống dưới chứ đừng nói….Thật sự mà Thầy nói thật bởi vì ở thế gian bây giờ nó khoa học quá chừng thành ra nó cám dỗ mấy ông tiên ở trên lắc đầu hết: Trời, nó còn hơn mình, nó ngồi đây mà nó nói bên Mỹ nghe được, còn mình phải dùng thiên nhãn mới được, thành ra bây giờ nó hay hơn mình, phải hông, các thầy thấy rất rõ mà, bây giờ mình ngồi đây mình nói chuyện với bên Mỹ được không? Đó, thì có thua mấy ông trời đó đâu, tụi nó còn hay hơn, nó dùng máy móc còn mình phải tu tập thấy mẹ, cực gần chết mới làm được, còn nó bây giờ nó có gì đâu, nó chế ra hàng loạt thằng nào nói chuyện với nhau được hết, còn mình có thằng nói được có thằng nói không được, có thằng thấy được có thằng thấy không được. Đó thí dụ như thiên nhĩ, thiên nhãn hai cái thằng quỷ này nó thấy được, còn mình có luyện cái đó đâu mà thấy được, phải hông, còn tụi nó bây giờ ở đây mà nó nói chuyện thấy được hình ảnh ở bên Mỹ với Pháp ấy. Cho nên thằng ở dưới thế gian bây giờ nó hay hơn, mình xuống dưới chơi với tụi nó ngon không, ở đây cõi trời còn thua, dục lạc ở đây đâu có bằng, nhưng mà sánh với Phật pháp thì tụi nó đâu... bởi vì Phật pháp là cái chỗ mà nó hết dục lạc còn cõi trời nó còn dục lạc mà, nó còn dục lạc tưởng của nó mà, đó thì do đó nó đâu còn vĩnh viễn đâu, cho nên sanh lên cõi trời còn phải vậy, cho nên thường thường những câu chuyện người ta nói tiên bị đọa. Ở trên trời không có nước tắm đi xuống mấy cái dòng suối của mình bây giờ mới có chỗ Suối Tiên rồi đó mới tắm, trời đất ơi cảnh của mình đẹp hơn ở trên đó, phải không? Thầy nói bởi vậy cho nên đất nước của mình cũng có chỗ cho tiên tắm chứ bộ không à? Đó bằng chứng nó cụ thể như vậy chứ không phải là thầy nói thừa đâu, cho nên đó là những cái mà tiên nó còn dục, mà dục tưởng còn chúng ta nó về sắc dục, nó dục thân sắc, dục về cái tướng, tướng dục.

Đó cho nên cảnh trên trời nó không có chỗ nương tựa vững chắc chỉ có ba ngôi Tam bảo là nơi vững chắc nhất để chúng ta tới đó là chấm dứt không còn dục nữa. Cho nên đạo Phật nói ly dục ly bất thiện pháp mà, ly hết. Cho nên nó không còn dục, thì không còn dục chúng ta không còn tái sanh luân hồi chứ không có gì hết.

Chỉ có Phật giáo mới dám dùng chữ quy y nghĩa là Phật giáo là chỗ nương tựa vững chắc, bảo bọc an toàn giải thoát mọi nơi, mọi nỗi đau khổ của kiếp người, nghĩa là chỉ có Phật giáo mới dám dùng chữ quy y, không có bao giờ Cao Đài nó nói quy y Cao Đài chư tôn đâu, các con thấy không, nam mô Cao Đà tiên ông thôi chứ nó đâu có dám nói quy y Tiên ông bao giờ, hoặc là nó có thể nói rằng, Thiên Chúa nói rằng quy y Thiên Chúa bao giờ, phải không, các con thấy đâu có dám dùng chữ quy y đâu, còn mình dùng chữ quy y tức là vững chắc vào đó là chấm dứt sự đau khổ không còn tái sanh luân hồi nữa, còn tụi nó thì nó còn lên còn xuống với thế gian mình đi lên đi xuống, chơi lên chơi xuống với cái cõi này vì nó còn thích, còn Phật giáo thì không còn thích, bị ly dục hết rồi còn gì thích, tiêu hết.

Cho nên cái người nào mà còn dục thì chúng ta ở lộ trình thứ nhất mà tu tập thì nó cũng đem đến hạnh phúc cho mình ở trong cái cảnh, coi như là mình hướng thiện thì tức là mình sẽ sanh lên cõi trời, mà mình có ở trên cõi trời mình xuống thì mình cũng cố gắng mình giữ thiện nữa thì ở cõi thế gian mình cũng vua chúa chứ có thua gì ai, cũng là sung sướng cũng đầy đủ cơm ăn áo mặc, thì cái pháp của Phật cái lộ trình thứ nhất là đem cái cuộc đời chúng ta toàn là những cuộc đời sướng, sướng không chứ không cho cái người khổ. Chúng ta có ác pháp đâu mà chúng ta khổ, mà sinh lên cõi trời chúng ta cũng hưởng sung sướng thôi.

Cho nên cái hướng của Phật là cái lộ trình thứ nhất thì đem lại cái đời người cũng được hưởng hạnh phúc thì nó cũng tương đương với những tôn giáo khác là sinh lên cõi trời rồi trở xuống hưởng cái cõi thế gian chứ có gì đâu. Nhưng mà họ lầm lạc, họ xuống đây họ hưởng họ khoái quá họ làm ác cái tiêu họ luôn, còn chúng ta là biết thiện cho nên chúng ta hưởng nó vừa đủ vì vậy chúng ta không có làm ác cho nên chúng ta lại trở về cõi trời, phải hông, cho nên đường của đạo Phật dạy chúng ta không có bao giờ mà trở về cái cảnh địa ngục, còn thiên hạ không biết hưởng hết cõi trời xuống cái cõi thế gian này thấy máy móc này kia rồi Honda, hoặc xe cộ ngon quá lái chạy bậy bạ cán đụng rầm bể đầu chết cái đi xuống địa ngục luôn. Bởi vì ham dục thì phải địa ngục luôn chứ sao.

Đó thì đó là những cái cảnh cám dỗ của thế gian họ thành dục thành ác cho nên từ đó họ bị rơi địa ngục, còn chúng ta là những người theo Phật pháp ở cái lộ trình thứ nhất thì chúng ta biết thiện pháp cho nên chúng ta không có ham. Cái gì có thì chúng ta xài, không có thì thôi cho nên từ đó chúng ta ở trong thiện pháp thì chúng ta lại sanh lên cõi trời nữa. Còn hết phước cõi trời thì chúng ta trở về cõi thế gian chúng ta cũng giữ thiện pháp mà tu nữa cho nên ở toàn bộ trong cõi thế gian chúng ta cũng hưởng hạnh phúc. Phật dạy đâu có làm cái chuyện đó được cho nên người cư sĩ chúng ta vẫn hoàn toàn thanh tịnh tốt.

Tổng thể Giới luật của Phật giáo không ngoài ba ngôi Tam bảo, đó các con thấy tổng thể mà gồm chung thì Giới luật của Phật giáo đâu có ngoài ba ngôi Tam bảo đâu. Hôm nay Thầy vạch ra cho các thầy thấy rất rõ cho nên cái Giới luật của Phật thì không ngoài ba ngôi Tam bảo, mà cái Giới luật nào đặt ngoài ba ngôi Tam bảo thì coi như là giới của ngoại đạo, cho nên Bồ tát giới Thầy được xem như là ngoại đạo chứ không phải Giới luật của Phật. Bởi vì chưa thọ Tam quy mà dám thọ Bồ tát giới thì Bồ tát giới nó ở ngoài rồi chứ đâu phải ở trong Tam quy mà ra, phải thấy được cái chỗ đó. Trên thực tế lễ quy y trước tiên phải bắt đầu từ quy y Tam bảo, nghĩa là cái khuynh hướng mà chúng ta theo đạo Phật thì bắt đầu là quy y Tam bảo chứ không thể nào mà thọ Tam quy chứ không thể nào mà thọ Ngũ giới trước. Chưa thọ Tam quy mà thọ Ngũ giới thì chệch đường rồi, bởi vì nó có từng cấp bậc của nó mà, từ thế nào thế nào. Bởi vì bảy thứ chúng ở trong đạo Phật, có bảy thứ chúng chứ không phải là ba chúng hay là bốn chúng đâu, bảy loại đệ tử của Phật ở trong đó gọi là bảy chúng đó. Thì bẩy loại chúng nó phân ở trong Giới luật của Phật ra chứ đâu phải ngoài cái bẩy loại chúng đó. Ví dụ như Tỳ kheo phải giới nào, Sa Di giới nào, Thức Xoa nó ở chỗ nào và cái cư sĩ nó ở cái giới nào, cho nên nó phải nằm ở trong cái giới đó mà người ta phân ra bẩy cái chúng của Phật. Chúng ta thấy rõ mà, đâu có phải là, nó có từng phần nói rất rõ mà, do cái Giới luật đó, mà do cái thiện pháp đó và tốc độ tu tập cái thiện pháp đó thì cái người đó nó phải ở cái cấp độ đó.

Như vậy là Thầy giảng quý thầy đã hiểu được cái Phật pháp nó là cái chỗ đó đó chứ không phải là cái chỗ nào khác, như một người thọ Ngũ giới thì không thể nào tu tập ở trong Ngũ giới mà nó nhiều bằng cái người mà thọ 250 giới được hoặc là bằng một chú Sa Di mười giới được, mình có Ngũ giới còn người ta tu tập tới mười giới lận, thành ra người ta phải hơn mình rồi, tức là người ta đi gần về phía giải thoát hơn mình chứ không phải là hơn ở trong cái giai cấp, mà đi gần về con đường giải thoát hơn.

Trên thực tế khuynh hướng của quy y trước tiên là phải bắt đầu từ quy y Tam bảo ở ngoài thân, nghĩa là mình bắt đầu làm cái lễ đó, làm cái lễ quy y Tam bảo thì nó ở bên ngoài, có nghĩa là hình thức, cách thức tổ chức lễ quy y, nghĩa là nó ngoài thân của mình á. Nghĩa là mình phải tổ chức như bữa đó phải bông hoa hay là hương đăng trà quả này kia tổ chức cho trang nghiêm cái buổi lễ đó thì nó mới có cái ý nghĩa của cái buổi quy y. Chớ còn mình trơ chẽn để cái bàn Phật như vậy không có bình hoa, không có gì hết chẳng thèm đốt hương nữa lại nói bậy bạ, lạy vài ba lạy rồi nói tôi quy y Phật, Pháp, Tăng đó là không có đúng đắn.

Cho nên trước khi ngày xưa, Thầy nhắc lại các vị ngoại đạo cũng như là các vị cư sĩ khi đến nghe Phật thuyết pháp xong rồi các vị đó mà muốn làm đệ tử Phật thì các ngài nói lên một cái lời nói. Nghĩa là từ lâu tới giờ nghe được cái pháp của Phật dạy rồi cái tâm lúc nào cũng thấy nó quá đúng, rất là tuyệt cho nên các ngài đứng trước Phật cho con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, xin tôn giả Gotama chấp nhận cho con là Ưu Bà Tắc hay Ưu Bà Di.

Thì các thầy thấy cái lời nói đó là quy y đó, tức là quỳ xuống đứng lên trước đức Phật và gọi tôn giả Gotama chớ không phải gọi đức Phật là Phật. Nhưng mà chính đức Phật hồi đó đâu có ba ngôi Tam bảo đâu, đâu có Phật, Pháp, Tăng đâu mà chỉ có mình đức Phật à, mà trong đức Phật đã đủ ba ngôi Tam bảo bởi vì nhất thể Tam bảo mà, có một mà nó là ba trong đó. Phật là, cái hình sắc của Phật là Phật - một phải hông, mà cái lời nói của Phật là Pháp, mà cái hành động sống mà không có tranh luận, hòa hợp thì đó là Tăng. Một ông Phật là đủ ba cái Phật, pháp, tăng ở trong đó chứ đâu có phải thiếu. Cho nên đứng trước Gotama là Gotama nhưng mà Phật, Pháp, Tăng nhất thể là phải có một cái hình ảnh siêu việt của pháp giới của nó, của Giới luật thanh tịnh trong đó. Cho nên vì vậy mà do đó đứng trước tôn giả Gotama xin quy y Phật, Pháp, Tăng chứ không phải quy y tôn giả Gotama, các thầy phải hiểu chỗ đó, cho nên đọc kinh nguyên thủy các Thầy thấy tuyệt quá, là quy y Tam bảo chứ không phải quy y Phật, Pháp, Tăng chứ không phải quy y riêng có ông Gotama này. Còn ông Gotama chỉ là đức Phật Thích Ca thôi chứ gì nhưng chính đức Phật Thích Ca là Gotama, mà Gotama chỉ là một cái tên để đứng ra một con người thôi chứ chưa phải, chỉ là chứng minh cho cái vị cư sĩ đó mà quyết quy y Tam bảo, đó các thầy thấy.

Thầy giải thích như vậy là quý thầy thấy hồi xưa đơn giản lắm không có làm lễ gì hết, mà khi nghe một bài thuyết pháp rồi nó long trọng lắm, vô cùng lắm ngồi mà trang nghiêm nghe thuyết pháp mà không có hề nhúc nhích, không có hề ngủ ngục trong đó, nghe nó thích thú làm sao. Như nó là một cái trận mưa, mưa pháp nó làm cho toàn cả vạn vật tươi mát hết, cho nên tâm hồn của các vị nó tươi mát lên hết vì vậy mà khi nghe cái bài pháp rồi thì ngài long trọng quỳ xuống, trước mặt tôn giả Gotama mà xin quy y Phật, Pháp, Tăng. Cái lời nói mà nên như vậy là lời nói tự thâm tâm của mình thấy đúng là cái chân lý để đem được cho mình đến chỗ giải thoát cho nên mới đứng ra phát nguyện cái lời nguyện lớn.

Cho nên bây giờ giới mà dạy về giới đàn tăng, cách thức mà để quy y thì họ không có nói hết đầy đủ nhưng mà họ cũng bắt chước theo kiểu đó là bắt đầu dạy cho cái người quy y Tam bảo là phải nói lên Tam quy, rồi tam tiết rồi tam thệ đó. Thiệt ra thì cái chuyện mà tam thệ Thầy thấy...nghĩa là nó, sau này họ đặt ra chứ thật ra đã quy y Tam bảo là mình đã tin tưởng Phật pháp rồi thì mới quy y, mà còn phải thệ, thệ tức là không tin, bắt buộc người ta thề, thề quy y Phật rồi không có quy y tiên thần quỷ gì nữa hết, đó phải không, thề mình quy y pháp rồi thì không có đọc kinh sách của ngoại đạo nữa, phải không? Đó là những cái thề, nhưng mà ở trong cái chỗ quy y đó Thầy thấy chỗ thề nó không đúng cái tính cách của đạo Phật, vì đạo Phật không có bắt buộc ai thề, thấy nó đúng, thấy nó đem lại sự giải thoát cho chính mình, thấy nó đoạn dứt được sự đau khổ của đời người, thì mình tin tưởng mình theo nó là mình Tam quy, mình nói lên cái lời nói tha thiết từ thâm tâm của mình, mình nương vào đó để thực hiện những cái nó đem lại cái sự giải thoát cho mình.

Đó là cái đúng, chứ còn cái mà Tam quy rồi tam kết rồi, để kết cho người ta, để người ta sợ người ta đừng có đi qua tôn giáo khác đó, kéo cho người ta dính vô rồi bắt buộc người ta thề nữa, cho nên hầu hết các tôn giáo khác phải đưa tay lên thề. Phật giáo mình khôn hơn bắt buộc ông phải nói ra không quy y thiên thần quỷ vật nữa, thì cũng là cái hình thức thề thôi. Cho nên mấy ông thầy sau này họ không hiểu được cái lý giải thoát của đạo Phật, lý Giới luật của đạo Phật, lý thiện pháp của đạo Phật cho nên nó bày ra những điều này. Chứ ngày xưa ông Phật ông ấy, Thầy thấy người ta đến người ta quy y Tam bảo nghe cái dễ dàng, chỉ phát ra cái lời Tam quy thôi, chỉ nói lên thôi chứ còn không thấy ông Phật kết nữa, ông muốn vậy thì tôi chấp nhận cho ông thôi, nếu mà ông ráng ông tu được thì giải thoát cho ông, còn ông không ráng thì ông chịu chứ tôi, tự ông làm chứ tôi đâu có làm dùm ông được, tôi đâu có cứu ông được, cho nên tôi đâu có kiết, có trói ông trong này làm gì, nếu ông thấy được thì ông ráng, ông tu được thì giải thoát cho ông, còn tôi trói vô đây mà ông tu không được thì tôi cực khổ với ông hoài tôi chịu không được, phải không. Cho nên ông Phật hông có kết mà mình sau này mình kết, tức là mình kết cho ông dính vô đó.

Từ hôm nay, chúng ta bắt đầu quay về Tam bảo, tức là quay về thiện pháp, chỉ có thiện pháp của Phật mới là chỗ an toàn bảo bọc vững chắc cho chúng ta.

Tam bảo là gì? Ở đây Thầy sẽ..Tại sao gọi là Phật, Pháp, Tăng là Bảo, đó là những cái mà để trả lời cho chúng ta biết cái chỗ. Đây là điều rất quan trọng, một người muốn tin Phật trước tiên cần phải quy y Tam bảo, nhưng trước khi quy y cần phải hiểu rõ, cần phải hiểu rõ Tam bảo bằng không chẳng hiểu chỗ hay đẹp của Tam bảo thì không được gọi là chân chánh quy y. Nghĩa là mình chưa có hiểu nó mà mình quy y Tam bảo thì nó không có được gọi là chân chánh trong quy y Tam bảo. Cũng như thí dụ như bây giờ mình chưa nghe một cái bài pháp, chưa có hiểu cái bài pháp như thế nào rồi vội mình quy y thì cái đó là cái sai. Cho nên hầu hết những người mà xuất gia theo Phật cũng như là những người mà quy y làm cư sĩ đệ tử Phật đều là những người được nghe pháp rồi sau cái bài pháp đó mới xin quy y, xin thọ quy y, đó thì nó mới rõ ràng và xin xuất gia. Cũng như một ngoại đạo được nghe Phật thuyết giảng xong rồi trong thâm tâm ông ấy nó thanh tịnh liền tức khắc, nó thấy đúng rất đúng rồi, nó không còn thấy một cái nẻo nào khác hơn là cái nẻo của đức Phật giảng đây cho nên từ đó xin đức Phật xuất gia. Mà vị ngoại đạo đó xuất gia thì đức Phật nói à bây giờ phải 4 tháng chúng tăng mới xem xét coi như có thể những cái tà kiến mà từ đâu chấp ở trong các pháp của các ông coi các ông có bỏ không. Nếu bỏ thì chúng tôi mới chấp nhận mà nếu không bỏ thì thôi, thì cái vị ngoại đạo nói 4 năm chúng tôi cũng chịu nữa đừng nói chi là ba, bốn tháng.

Đó thì ở trong kinh nó hẳn hòi những cái bài kinh nó còn rất rõ ràng, cho nên sau khi được nghe pháp rồi thì mới có quy y, mới có xin xuất gia chứ còn chưa nghe pháp mà xuất gia thì chắc chắn đến đức Phật không cho đâu. Không bao giờ mà đức Phật cho một cái người mà chưa biết pháp Phật như thế nào, còn mình thấy người ta tập trung vô đông đông đến nghe thuyết giảng gì đó rồi cái ùn nhau xin quy y, quy y hết chứ chẳng hiểu Phật pháp là cái chỗ nào thiệt, chỗ nào khác chẳng biết hết, thấy người nào bu theo cái chỗ đó đông đảo thì mình vô đó mà làm theo, nghĩa là hướng theo đó thì cái đó là cái không đúng của Phật pháp.

Cũng như chúng ta muốn thi vào trường đại học để cầu học nếu chẳng biết tên của trường đại học ấy và trường ấy dạy môn học gì thì quả thật đáng buồn cười. Mình quy y Tam bảo mà mình chẳng biết Tam bảo ra sao hết thì cũng như là mình muốn ghi tên vô trường đại học đó mà chẳng biết trường đại học đó dạy luật hay dạy cái gì, mình chả biết, hoặc là dạy kiến trúc hoặc là dạy gì không biết. Thì như vậy mình ghi tên làm sao mình biết đâu mình học, cho nên mình phải rõ, rõ rồi mình mới ghi tên vô. Đó ở đây Thầy đem một cái ví dụ nó cụ thể như vậy để chúng ta biết. Và trường ấy dạy môn học gì thì quả thật đáng buồn cười, đáng buồn cười cho cái người đó. Nếu mà muốn vào đại học đó mà chẳng biết như vậy thì chẳng qua mình thấy quá là ngu si.

Hầu hết chúng ta phải xác định hầu hết ngày nay đệ tử của Tam bảo, lúc mà thọ quy y chưa hẳn đã hiểu qua đại ý của Tam bảo, nghĩa là bây giờ hầu hết là một cái số người mà đệ tử của Phật mà họ quy y, họ chưa có thấu hiểu được cái Tam bảo. Như nãy giờ Thầy dạy hầu hết là quý thầy chưa có hiểu Tam bảo, tưởng là Phật, Pháp, Tăng là ông Phật này, pháp của Phật rồi tăng chứ đâu hiểu nó là Giới luật, phải hông? Hầu hết là bây giờ Thầy vạch ra thì mới thấy nó là Giới luật, còn hồi nào tới giờ quý thầy tưởng là ông Phật, rồi chúng tăng rồi pháp của Phật dạy thôi chứ các thầy có hiểu đó là Giới luật không? Đó là những cái mà quý thầy và một số nhiều người hiện bây giờ gọi là tín đồ của Phật giáo họ chưa biết là ba cái này là Giới luật của Phật, có hông, Thầy nói như vậy có phải xét không?

Thậm chí như bây giờ chúng ta là những người tu sĩ đi, thọ Tỳ kheo rồi mà chúng ta đã biết ba cái đó là Giới luật chưa. Nếu mà Thầy không nói ra thì quý thầy nghĩ đó là ba ngôi Tam bảo, là cái nơi mà mình đã quy y là Phật, Pháp, Tăng mà thôi, là vì thấy ông Phật, thấy lời của Phật dạy, thấy chư tăng mà thôi chứ còn không có thấy. Thậm chí có nhiều người lại còn không hiểu nữa là chư tăng hiện giờ là mình quy y theo các tăng đó thì còn lệch nữa. Cái lỗi là ở các thầy truyền thọ quy y chưa chắc ắt hẳn đã khai ngộ rõ ràng về đại ý của Tam bảo. Nghĩa là cái lỗi thứ nhất là cái người mà truyền cái Tam quy cho họ đó, truyền cho họ thọ Tam quy họ mà không có khai ngộ cho người ta hiểu cái này. Họ cứ dựa vào lối kinh mà các Tổ nói giống như ông thần ngồi đó để chứng minh cho chúng ta để thọ quy y thôi chứ không có rõ ràng cái gì được hết.

Nói ra là một điều xấu hổ của Phật giáo, bây giờ hầu hết là quý thầy đều dựa vào giới đàn tăng mà làm lễ quy y và giải thích theo trong đó khiến cho người Phật tử hiểu một cách lờ mờ, hiểu thì phải hiểu cho rõ ràng còn không hiểu thì thôi, mà hiểu lờ mờ lờ mờ làm cho người ta chẳng biết gì hết cho nên càng ngày người ta quy y Phật pháp mà người ta biến ông Phật thành ông thần hết ráo à. Cho nên vì vậy mà thậm chí có những bậc tôn túc của chúng ta còn nói Tam bảo gia hộ nữa, thì đủ biết rằng từ ông thầy lớn đến người Phật tử mà quy y Tam bảo cũng vẫn thấy là Tam bảo gia hộ thì hông phải là ba cái ngôi này là thần sao?

Đó là những cái chúng ta thấy họ hiểu lệch lạc Phật pháp như vậy thì làm sao mà con đường của đạo Phật tu tới đâu. Hiểu không đúng làm sao tu cho đúng, hiểu đúng nó mới tu đúng chớ, còn hiểu không đúng làm sao tu cho đúng được. Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng bởi vì từ Phật, Pháp, Tăng là ba giới thiện cao tuyệt nên thường sinh ra công đức vô lượng phước báu, phát huy diệu dụng vô tận, hưởng thọ vô cùng, lấy đó chẳng cạn, dùng đó chẳng hết, vô cực vô hạn, vô bến vô bờ. Thế gian cho vàng bạc châu báu, hột xoàn là có giá trị quý báu nhất, công dụng của nó rất lớn cho nhu cầu vật chất thế gian vì thế gọi là báu. Tức là thế gian cho vàng bạc châu báu là nó quý báu, nhưng mà ngược lại thì phước báu công đức diệu dụng của Phật, Pháp, Tăng tức là diệu dụng của ba cái giới này thì nó diệu dụng vô cùng tận, thì thông cả thế gian và xuất thế gian. Nghĩa là từ cái chỗ Phật, Pháp, Tăng này nó cả cái lộ trình thứ nhất và cả cái lộ trình thứ hai cho nên nó thông cả thế gian và xuất thế gian, thế gian là giới cư sĩ đó còn xuất thế gian là giới tu sĩ đó. Tức là từ ở trong ba cái giới này mà nó lưu xuất ra thế gian và xuất thế gian, phước báu vô lượng vô biên, vàng bạc của báu chỉ là một phước báu nhỏ của vật chất thế gian chẳng nhằm nhò gì với Tam bảo. Phước báu rộng lớn phủ trùm cả thế gian, xuất thế gian vì thế mới đáng gọi là Bảo, chữ Bảo ở đây đáng gọi là như vậy đó, chứ còn gọi là Bảo như cái kia thì bảo có chút xíu à.

Như Thầy đã nói ở trên, Tam bảo là pháp môn thiện nên khi đã quy y và nương pháp này thì phải được sự giáo hóa của nó khiến cho người sống bình an, an vui hạnh phúc ở nhân gian và làm cho con người ở nhân gian lìa khổ được vui, vì thế Tam bảo là báu vật quý nhất của loài người cho nên Tam bảo còn vượt hơn sự quý báu của các thứ quý báu tột đỉnh.

Đến đây Thầy xin dừng lại ở chỗ này để rồi chúng ta tiếp tục những cái bài bổ túc thêm cái phần…

Trước khi mà đi sâu vào Giới luật thì Thầy xin nhắc lại lời di chúc của Phật để bổ túc thêm cái phần giảng nãy giờ đó, để chúng ta thấy những lời di chúc của Phật để chúng ta thấy rõ. Bởi vì hồi nãy Thầy có nói là di chúc của Phật rất nhiều nhưng mà nó chưa đủ đâu cho nên Thầy bổ túc thêm phần này và bổ túc thêm cái phần nhập thai về cái vấn đề mà ly dục ly bất thiện pháp để cho các thầy thấy thấy được cái phần này thêm nữa. Bởi vì nếu mà không có bổ túc ngay chỗ này sau này chúng ta bỏ qua chỗ này thì làm cho quý thầy chưa thấy được chỗ ly dục ly bất thiện pháp của Phật là nó tuyệt diệu như thế nào. Cho nên trước khi đi sâu vào Giới luật thì Thầy xin nhắc lại những lời di chúc của đức Phật, đây là lời di chúc của Phật đây:

“Này các thầy Tỳ Kheo, các thầy hãy sống tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa vào một ai khác, lấy chánh pháp làm ngọn đèn, lấy chánh pháp làm nơi nương tựa không nương tựa vào một ai khác.”

 Lời nhắc nhủ thứ hai của Phật:

“Này các thầy Tỳ kheo các thầy hãy lấy mình làm hòn đảo, làm chỗ ở vững chắc rồi các thầy hãy lấy Giới luật của ta làm rào tường, bao quanh bảo vệ. Hãy lấy Giới luật của ta làm khuôn phép khép mình trong khung vàng thước ngọc này, hãy lấy Giới luật của ta làm kỷ luật cho chính mình không hề vi phạm, tái phạm. Hãy lấy Giới luật của ta làm thầy chỉ đạo tu tập, đừng nương tựa vào ai, đừng lấy ai làm thầy, làm tổ của mình, mà phải chính mình. Lấy Giới luật của ta làm thầy, làm tổ cho chính mình.”

Đó là những cái lời của Phật mà Thầy thấy ở trong kinh ghi chép, Thầy đem ra đây để mà ghi lại cho nó rõ ràng. Hồi nãy Thầy chỉ trích ra một phần nhỏ để chứng minh cho cái chỗ mà thọ Tam quy đó, để thấy cái Giới luật của Phật ba ngôi Tam bảo nó quý báu như thế nào và Giới luật của Phật mà Phật đã chỉ định cho cái người mà làm thầy cho chúng ta sau này, nó như thế nào đó. Bây giờ thì qua cái lời dạy này nó rất là đầy đủ và cặn kẽ, quý thầy phải hiểu đó là những lời cuối cùng khi mà đức Phật nhập Niết Bàn, Ngài rất là lo cho chúng ta đời sau không có ông thầy mà nhắc đi nhắc lại những cái lời này để chúng ta nhớ mãi mà không quên để lấy cái ông thầy đúng cái ông thầy của chúng ta. Nhưng mà vì người sau họ làm lệch lạc mất đi. Chúng ta thấy giới bổn tức là Giới luật, mà thấy pháp mà Phật dạy tu hành là Phật, cho nên đó là những cái họ làm cho lệch, rồi bây giờ người ta bị lệch rồi người ta không biết Giới luật là những giới nào, mà giới pháp của Phật, giáo pháp của Phật là cái nào họ chẳng biết, cho nên bây giờ Thầy hợp lại để chúng ta thấy Giới luật là giáo pháp của Phật. Mà Giới luật thì nó có Giới hành cho nên nó không phải là rời ra gọi là giáo pháp mà là Giới hành, bởi vì Giới hành là cái hành động giới để chúng ta đạt được những cái giới mà đã nêu lên, để chúng ta đạt được những cái hạnh và cái đức, cái tuệ của cái Giới luật.

Thì hôm nay qua những cái lời di chúc của Phật như vậy, quý thầy đã nắm rõ và vững vàng trong các lời di chúc này nó nằm ở trong kinh Di Giáo hoặc là ở trong kinh Du Hành hoặc là kinh Niết Bàn. Những cái lời này nó còn nằm ở trong những cái bản kinh đó.

Bây giờ Thầy nhắc đến cái chỗ mà vì cái vấn đề tu tập giáo pháp thiện này là cái mục đích nó ly cái tâm ham muốn của chúng ta ra, chúng ta thấy nó lìa cái tâm ham muốn của mình ra, mà nó lìa các cái ác pháp ra, bởi vì pháp của Phật là thiện thì các ác pháp nó không được xâm nhập vào cho nên do cái nguyên nhân cái lòng ham muốn nó mới sinh ra ác pháp, mà cái lòng ham muốn không có thì ác pháp nó không có, cho nên phải ly dục, ly dục được thì ác pháp nó không còn có nữa, nó toàn thiện pháp, mà toàn thiện pháp thì nó là Phật, Pháp, Tăng.

Đó chúng ta trở về cái bản gốc của nó là Phật, Pháp, Tăng cho nên vì vậy mà chúng ta lấy cái chỗ ly dục ly bất thiện pháp này chúng ta mới biết được cái chỗ tái sanh luân hồi. Bởi vì mình không ly dục ly ác pháp thì nó luôn luôn tái sanh luôn hồi à, nó không làm sao mà nó thoát khỏi được, mà mình ly dục ly bất thiện pháp thì nó mới chấm dứt được cái tái sanh luân hồi. Nhưng bây giờ như thế nào để chúng ta biết nó có bốn cách nhập thai, nghĩa là chúng ta sanh ra nó có bốn cách nhập thai chứ không phải một cách, bởi vậy cho nên phân tích ra để chúng ta thấy rõ nè.

Một,người phàm phu nhập thai thì không biết mình nhập vào bụng mẹ, không biết mình trụ ở trong bụng mẹ và không biết mình ra khỏi bụng mẹ, đó là loại nhập thai thứ nhất. Đó cũng như bây giờ quý thầy biết quý thầy vô bụng mẹ quý thầy đâu có biết, mình vô mình cũng hông biết rồi mình nằm trong đó mình cũng chẳng biết, rồi mình đi ra mình cũng chẳng biết, họ đẻ ra thì họ đẻ còn mình chẳng biết gì hết, rồi bắt đầu tới chừng biết được thì mình khóc thét lên thì chắc chắn có thể nó ngộp thở làm sao nó chịu không nổi mình la lên cho thở cho được chứ còn hồi đó chắc chưa biết gì hết. Đó, lúc đó là lúc mê muội ngu si không có tỉnh, cho nên vì vậy mình ly được cái phần nào thì mình tỉnh cái phần đấy.

Đây bây giờ đức Phật nói cái phần thứ hai để cho người mà biết như thế nào gọi là như thế nào, lại nữa, có người tu chánh niệm tỉnh giác định, đó bây giờ chúng ta biết cái tu chánh niệm tỉnh giác định là tỉnh thức chứ gì, đó quý thầy thấy. Họ có đủ sức thức tỉnh khi chết đi họ biết mình nhập thai vào bụng mẹ, có sức tỉnh rồi bắt đầu chết đi biết mình nhập thai vào bụng mẹ. Thì cũng như mấy ông Lạt Ma, quý thầy nghe nói mấy ông mà chết đi mấy ông biết sanh vào nước này nước kia. Mấy đứa nhỏ mới sanh ra mà biết, đó là mới có tỉnh thức thôi, mới có tỉnh giác định thôi chứ mấy ông ấy có cái gì hay ho đâu để chứng minh cho chúng ta biết cái điều đó phải không. Họ có đủ sức tỉnh thức khi chết đi họ biết mình nhập thai vào bụng mẹ nhưng không biết mình an trú trong bụng mẹ và không biết mình ra khỏi bụng mẹ, đó là loại nhập thai thứ hai. Cho nên cái sức tỉnh thức đó nó làm cho mình cũng ly bớt dục rồi bởi vì người ta chửi mình cũng bớt giận, còn cái người mà chưa có tỉnh thức người ta chửi mình mình ăn thua đủ mình đâu có nhịn ai. Mình tỉnh thức thì mình biết nhịn rồi tức là mình có nhẫn rồi, tức là mình có ly rồi đó, ly bớt được tâm sân si phiền não của mình rồi, đó là ly một phần nhỏ của ly dục ly bất thiện pháp đó, cho nên nó mới có sự tỉnh đây, đó là loại thứ hai.

Loại thứ ba, người tu tập định vô lậu tâm tỉnh thức, tâm tỉnh thức rất cao và ngũ triền cái xả ly nên khi chết biết mình nhập thai vào bụng mẹ, khi mình chết rồi mình biết mình nhập vào chỗ nào. Đó là bắt đầu ông này đã được một phần tỉnh thức cao hơn cho nên mới xả được ngũ triền cái, lậu hoặc nó đã bớt. Người này tu cái định vô lậu hồi nãy cái người tu cái định tỉnh giác định, chánh niệm tỉnh giác định đó, còn bây giờ cái ông này hơn chút là ông tu cái định vô lậu cho nên cái tâm nhờ cái tỉnh giác định đó mà chánh niệm tỉnh giác định đó ông mới xả được cái lậu hoặc của ông ấy cho nên ngũ triền cái ông xả ly. Cho nên khi chết ông ấy nhập thai vào bụng mẹ ông biết, biết rất rõ, an trú trong bụng mẹ ông cũng biết nữa, nhưng không biết mình ra khỏi bụng mẹ. Khi mình sanh ra thì chắc bộ hồi đó quay đầu, điên đầu hết biết rồi, còn ông nằm ở trong ấy thì ông biết nhưng mà khi ông quay đầu để sanh ông ra đó, còn nếu mà không quay đầu thì đẻ ngược thì sao, còn khổ nữa. Cho nên khi mà quay đầu ra dốc ngược cái đầu ông ra đó ông điên cái đầu giờ ông hết biết, ông mê cũng như người chết mê man không biết gì nữa, thì chắc là lúc sanh ra chắc cũng mê man thì cái ông này mới có xả được cái triền cái chút ít cho nên vì vậy mà ông còn mê chứ chưa có biết hoàn toàn. Như vậy là ông mới xả ly ly dục ly bất thiện pháp ít ít thôi chứ chưa phải được nhiều cho nên vì vậy đó mà nó còn cái chỗ mà mê muội nó chưa có hết.

Thứ tư, có người ly dục ly bất thiện pháp khi thân hoại mạng chung biết mình nhập thai vào bụng mẹ, biết mình an trú trong bụng mẹ và biết mình ra khỏi bụng mẹ, đó là nhập thai thứ tư. Chỉ có ly dục ly bất thiện pháp không thì vô bụng mẹ an trú trong đó biết thì như vậy rõ ràng chúng ta đi vào con đường Tứ thiền chứ gì? Cho nên chúng ta muốn tái sanh khó không, quý thầy thấy không, bởi vì đầu tiên mà chúng ta đi vào Tứ thiền thì phải ly dục ly bất thiện pháp mới nhập Sơ thiền, đó phải không? Nhập Sơ thiền từ đó con đường chúng ta đi là hoàn toàn đi tới Tứ thiền là hoàn toàn là ly dục ly bất thiện pháp hết, toàn thiện sạch bóng cho nên cái người này phải nói bắt đầu từ cái Sơ thiền mà họ đi vào, họ đi vào cho nên vì vậy họ muốn thoát sanh chứ gì? Dễ quá, cái chuyện đó dễ quá, cho nên muốn làm chủ sanh tử nó quá dễ rồi đâu còn khó nữa, chỉ điều khiển nào đó. Ở trong đó mình dùng cái thiên nhãn minh của mình nhìn chứ gì chứ gì, coi cái nhà nào mà có duyên phước với mình thì mình đến mình độ cái gia đình đó luôn cả cha mẹ trong đó luôn hết, anh em dòng họ đó hết thì mình nhào vô đó bắt đầu mình tái sanh, vô đó mình nhập bụng người ta thì mình đi chứ ai mà...nghiệp ở đâu mà lôi mình, phải hông, mình ly hết dục rồi thì đâu có cái nghiệp nào mà lôi mình được, đâu có ác pháp nào lôi mình đâu, cho nên tự mình đi.Cho nên ở đây Phật nói có người ly dục ly bất thiện pháp khi mà thân hoại mạng chung biết mình nhập thai vào bụng mẹ. Biết mình ở đây Thầy nói biết chứ không phải đâu, mình nhập thai chứ không phải biết đâu, mình tự tại mình ở trong bụng mình nằm đó mình muốn nó ba năm là ba năm, mình muốn nó hai năm là hai năm, mình muốn một ngày nó ra nó cũng ra, phải không? Đó là cái tự tại của mình mà cho nên đâu phải là cái quyền lực của mình mình muốn điều khiển như thế nào, cho nên toàn bộ là khi sanh ra thì mình cũng biết mà khi nhập vào thì mình cũng biết, ở trong đó mình cũng biết rất tỉnh táo, bởi cái sự tỉnh táo quá cao. Cho nên chúng ta mới thấy Tứ thiền mà chúng ta ngồi đây mà như ngủ gục thì làm sao gọi Tứ thiền. Cho nên cái người mà nhập Tứ thiền là người ta hoàn toàn không có ngủ, ngày đêm người ta không ngủ, người ta nằm đặt niệm trước mặt người ta tỉnh thức. Mà người ta ngủ, ngủ mà không mê cho nên luôn luôn lúc nào cũng biết. Vì vậy mà khi nhập vào Tứ thiền rất là tỉnh, trời sét không nghe mà rất là tỉnh hẳn hoi đàng hoàng mà muốn nghe thì nghe mà không muốn nghe thì không nghe, đó là cái chỗ siêu việt của đạo Phật là như vậy.

Cho nên khi mà chúng ta tu hành mà chúng ta được đến cái chỗ này thì cái sự tự tại sinh tử chúng ta rất dễ. Và vì vậy chúng ta đọc qua bốn cái nơi mà đi tái sanh này chúng ta thấy rõ từ cái Tam bảo này mà nó lưu xuất ra cái thiện pháp, cho nên chúng ta từ ở trong ba cái pháp thiện này mà chúng ta ly dục, ly dục tức là chúng ta đi gần đến những cái thiện pháp càng ngày càng xa ác pháp rồi cho nên cái tâm dục mà càng ly thì cái ác pháp nó càng xa và đến khi mà toàn thiện thì tức là ly dục ly bất thiện pháp, cho nên tâm thanh tịnh từ đó chúng ta có phải ức chế tâm đâu, mà chúng ta đi vào Tứ thiền một cách rất là tự tại, vậy là chúng ta rất rõ ràng. Cũng như bây giờ quý thầy ngồi đây mà quý thầy hít thở với cái hơi thở bình thường của quý thầy mà bắt buộc cho nó đừng có nghe đừng có biết hơi thở để mà nhập Sơ thiền thì quý thầy có làm được không, đâu có được. Bởi vì tâm quý thầy còn dục này tâm quý thầy còn ác pháp này, làm sao mà thanh tịnh được cho nên hễ ngồi đây mà không vọng tưởng thì không biết hơi thở, nó không rời ra mà thở nhẹ nữa thì thở không được bởi vì thở có 3 giây mà làm sao thở nhẹ nữa được chứ không phải thở 10 giây 20 giây thì mình thở mình hông thấy hơn thở được, còn đằng này thở ra vô ra vô liên tục mà biểu nó đừng nghe làm sao nó đừng nghe vì vậy mà người ta nhập Sơ thiền người ta hông nghe.

Đó thì quý Thầy thấy cái phương cách và cái sự tu tập của đạo Phật nó hay là hay ở cái chỗ này, cho nên chúng ta tu sai là sai mà tu đúng là đúng à. Cái người tu sai là tu sai biết liền mà cái người tu đúng thì cũng biết liền, cho nên hiện giờ ví dụ như, bây giờ ví dụ như Thầy nói thí dụ như bây giờ ở đây như thầy Thiện Thuận này, thầy Minh Tông này mặc dù là Thầy biết rằng cái Sơ thiền chưa nhập được nhưng mà Thầy bảo rằng các ngài đang tập cái sức tỉnh thức đó, nghĩa là tập sao cho đừng ngủ, phải hông, mà khi không có ngủ thì si hết, mà si hết thì ngũ triền cái ly dục ly bất thiện pháp sạch thì tức là nhập Sơ thiền được, mà nhập Sơ thiền được thì Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền quý thầy làm cái rẹt, phải hông? Cho nên chúng ta thấy coi vậy mà quý thầy đang phá cái si, đang tập cho mình tỉnh thức đó, hàng ngày các thầy đang nỗ lực để tu tập cái gì, phải hông? Các thầy phải hiểu chỗ đó, còn quý thầy bây giờ chưa chắc đã làm được như Minh Tông như Thiện Thuận đâu, phải hông? Vì mình chưa có đủ cái sức của mình để mình tập cái tỉnh thức đó được, mình nằm xuống mình hít thở vào ba bốn hơi thở thì nó đi tút lút rồi, mất tiêu còn người ta còn được một giờ, hai giờ người ta làm còn được 6-7 tiếng đồng hồ người ta nằm đó người ta biết hơi thở ra vô thì đó là sự tỉnh thức của người ta cho nên người ta phá được cái chiêm bao, mà phá được cái chiêm bao tức là người ta ly được 18 cái loại tưởng của người ta rồi chứ còn không khéo nó cứ lọt trong chiêm bao không, mà bây giờ người ta đã bị những cái trạng thái đó dẫn tới dẫn lui người ta vô cùng tận chứ đâu có phải, nhưng mà người ta đang rèn luyện để phá cái si, mà tham sân si, cái si nó rất quan trọng, mà si không có thì tham nó không có và sân nó hết cho nên ngũ triền cái nó quét ra hết. Các thầy phải hiểu chỗ đó, đó là cái mấu chốt đi vào để người ta ly dục ly bất thiện pháp.

Cho nên vì vậy nghe thì nói các thầy này chưa có ly dục ly bất thiện pháp, chưa có ly. Sự thật bây giờ họ chưa có ly bởi vì họ còn đang ở trong cái sức tỉnh chưa đủ, chứ mà họ tập riết một thời gian nữa thì họ đủ. Đó thì như vậy quý thầy thấy cái chỗ mà tu tập của đạo Phật nó quá rõ ràng và cụ thể chứ nó không phải mơ hồ đâu. Mà cái người tu nào chỗ nào đúng chỗ nào sai Thầy biết hết, cho nên Thầy xác định bây giờ như Minh Tông, như Thiện Thuận chưa nhập được Sơ thiền bởi vì các ngài thường là tu tập hơi thở từ hồi nào tới giờ chứ chưa có biết định vô lậu hoặc cái định chánh niệm tỉnh thức này.Nhưng mà chính cái chánh niệm tỉnh giác này nó giúp cho chúng ta cái sự tỉnh thức, nó làm cho chúng ta nằm ngủ mà nó không có bị mê tức là phá si mê chứ gì? Đó quý thầy thấy rõ không, mà bây giờ những người này họ đang tập để họ phá cái ngủ của họ, tức là họ phá cái si, họ phá niệm si được thì minh chứ gì do đó lậu hoặc tham sân si họ sẽ quét sạch hết. Hễ nó có cái đó thì nó hết, nó tỉnh rồi thì cái đó nó phải ra thôi, nó phải ly thôi chứ nó không còn ở trong tâm chúng ta được. Cho nên từ đó thì bây giờ chúng ta thấy nó cụ thể rõ ràng của đạo Phật chứ nó đâu có lỗi thời. Quý thầy tu nó đâu có mất đi chỗ nào hết, cũng như quý thầy tập luyện hơi thở nó đâu có mất đi chỗ nào đâu, nhưng mà phải biết cái chỗ nào mà chúng ta đang đi để mà phá cho được chứ không khéo rồi chúng ta không hiểu chúng ta tu riết rồi nó cũng lệch mất đi, đó những điều mà Thầy nói.

Ở đây hôm nay Thầy có thêm một cái đoạn này để chúng ta thấy được cái lộ trình của kinh nghiệm của các bậc Thánh tăng ngày xưa, từ các cái vị Thánh tăng từ ông A-Nan cho đến ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên mỗi vị đều có kinh nghiệm mà hôm nay Thầy trích ra một phần kinh nghiệm của ông A-Nan nói trước, bởi ông A-Nan là người đa văn mà ông chưa chứng đạo cho nên phải thấy cái chỗ tu của ông trước để mà lấy kinh nghiệm của ông, phải hông, rồi sau đó mình mới lấy kinh nghiệm của những bậc mà người ta đã tu xong, tu chứng quả A-la-hán mình mới được, mới tới, chứ còn mình lấy cái ông cao quá mình đem lại của mình rồi mình nhìn lại mình còn xa quá làm sao mình với cho được tới những cái nghiệm của ông này. Đó cho nên vì vậy mà Thầy biết cách sắp xếp cho từng bậc Thánh tăng đó cái người nào mà tu ở giai đoạn nào để cho nó phù hợp với mình.

Thì bắt đầu chúng ta sẽ bắt đầu từ các vị Thánh tăng nhất là ông A-Nan, ông này cuối cùng đức Phật chết rồi ông mới chứng đạo lận, cho nên ông ấy chẳng biết cái thứ gì mà nói về kinh nghiệm chứng đạo trước được mà ông chỉ biết nói cái kinh nghiệm của ông trong khi theo Phật mà thôi, vậy thì đầu tiên chúng ta theo Phật là phải như thế nào, phải giống ông A-Nan chứ sao, phải hông? Chứ đâu thể nào giống ông Mục Kiền Liên được.

Vậy thì bây giờ đây là cái câu chuyện ở trong rừng Gosinga.Đây là cái bài kinh trong bộ kinh trung bộ tập 1 trang 463 bài kinh số 32.Hôm nay tất cả những bài kinh mà Thầy bổ túc thêm cho cái giáo án này Thầy đều nói trang nói họ nói tên cho đầy đủ để sau khi đó quý thầy trích ra đọc cái bài kinh đó cho nó cụ thể và rõ ràng, phải hông? Cho nên khỏi cần phải đi tìm kiếm cho nó nhiều, còn Thầy giảng mà như trong đó Thầy không có nói kinh nào kinh nào dù đó hoàn toàn là những bài kinh của Phật hết chứ không phải là của Thầy nói ra, nhưng mà vì không có chỉ chỗ ở bài kinh nào, cuốn kinh nào thì các thầy đi tìm ra những cái chỗ đó thì quá khó, cho nên ở đây Thầy muốn vạch ra cái chỗ này để sau này quý thầy đi tìm lại những cái bài kinh đó. Bài kinh này nói lên những kinh nghiệm của các vị đại đệ tử của đức Phật. Xin quý thầy lắng nghe để rút tỉa kinh nghiệm của các ngài rồi tu tập cho chính mình.

Bây giờ tôn giả Xá Lợi Phất nói, này hiền giả A-Nan, ông hỏi ông A-Nan đó. Cái khu rừng Gosinga đêm nay trăng rằm sáng tỏ tuyệt đẹp, cây Ta-la trổ bông cùng khắp, như hương trời bay tỏa khắp nơi, này hiền giả A-Nan, hạng Tỳ kheo làm chói sáng khu rừng Gosinga này như thế nào?

Bây giờ cái ông Xá Lợi Phất ông cũng chơi cắc cớ là trong cái đêm đó trăng sáng mấy ông ngồi mà đem những cái chuyện đạo để mà họp nhau bàn bạc kinh nghiệm để mà tu tập đó, thì lúc bấy giờ ông Xá Lợi Phất mới hỏi ông A-Nan trước, vậy thì ông nghĩ như thế nào trong cái khu rừng mà đẹp như thế này, trăng sáng như thế này này, hương của bông cây Ta-la nó bay khắp cả phương trời chúng ta thấy ngào ngạt mùi hương, vậy thì người tu sĩ chúng ta làm sao cho cái khu rừng Gosinga này nó lại sáng chói lên nữa, nó đẹp lên nữa, cái sức tu hành của chúng ta làm sao cho nó đẹp hơn nữa. Thì bây giờ ông A-Nan ông đã trở lời.

Bây giờ quý thầy lắng nghe những cái kinh nghiệm mà đức Phật khéo sắp xếp cái bài kinh này cho hợp đường lối tu tập của đạo Phật bắt đầu phải tu cái gì trước, đó thì ông A-Nan trả lời tức là lấy kinh nghiệm. Chúng ta phải hiểu cái ý đó, vì có hiểu được như vậy chúng ta mới lắng nghe mới rút tỉa cái kinh nghiệm của ông A-Nan rồi đến những cái bậc kế đó, những cái bậc tu gần gần ông A-Nan đó, rồi những cái bậc tu xa hơn, những cái kinh nghiệm rất hay, những bài kinh này Thầy đọc Thầy thấy ông Phật cũng khéo sắp xếp những bài kinh này để mà chỉ cho chúng ta từ cái thấp cho đến cái cao, trong cái quá trình tu tập theo cái đạo Phật này.

Bắt đầu phải tu cái gì, đây ông A-Nan trả lời, ở đây này hiền giả Xá Lợi Phất, Tỳ kheo nghe nhiều, ông A-Nan bắt đầu ông nói. Bởi vì ông ấy là người nghe nhiều thành ra ông lấy kinh nghiệm của ông ấy, ông nghe nhiều ông nhắc chúng ta chứ gì. Tỳ kheo nghe nhiều giữ gìn những điều đã được nghe, nghĩa phải nhớ giữ gìn những cái điều mà Phật nói, nghe hết đừng có bỏ cái nào hết, ông A-Nan theo kinh nghiệm của ông ấy mà, bảo là mình phải nghe cho nhiều, Phật nói gì mình cũng nghe, đừng có không nghe, đừng có thiếu, đừng có bỏ mà nghe cho nhiều và giữ gìn những gì mình đã được nghe, chứ đừng có nghe rồi lỗ tai bên đây chui qua bên kia mất đó cho nên cái đó là cái không nên, tích trữ lại những điều đã được nghe.

Đó ông A-Nan đầu tiên ông khuyên mình đó, tức là ông ấy lấy kinh nghiệm của ông nói ra mà, nói ra như vậy thì chúng ta biết là muốn làm cho cái rừng Gosinga này nó sáng chói lên thì trước tiên chúng ta là vị Tỳ kheo phải nghe nhiều và giữ gìn những cái điều mà đã được nghe và tích tụ lại những cái điều đó, điều được nghe đó.Vậy ở đây ông A-Nan muốn bảo chúng ta nghe cái gì mà phải nghe nhiều, giữ những điều gì đã được nghe, tích tụ những điều gì đã được nghe, vậy nghe cái gì đây? Đó mình đặt ra câu hỏi ông ấy bảo mình nghe, mình phải giữ gìn mình nghe cái gì đây? Qúy thầy nghe ông A-Nan nói tiếp, những pháp...đó bây giờ ông A-Nan nói đây, đây là những cái bài kinh mà chứ đâu có phải, bởi vì ông bảo mình nghe nhiều thì nghe cái gì đây? Không lẽ mình nghe nào là Tứ thiền, nào là Tứ niệm xứ hoặc này kia, lung tung đủ thứ thì nghe cái đó có đúng không, cho nên ông bảo nghe cái kiểu mà ông bảo nghe đây là nghe cái gì, vì vậy đó cho nên mình phải biết nghe những cái pháp, chứ nếu mà không biết nghe thì biết cái gì đây, cho nên ông A-Nan ông nói tiếp. Những pháp Sơ thiện, trung thiện, hậu thiện- đó ông xác định cho mình nghe, nghe cái pháp gì, nghe pháp Sơ thiện, nghe cho kỹ nghe cho rõ ràng, rồi nghe cái pháp trung thiện, nghe cho kỹ nghe cho rõ ràng và hậu thiện cũng phải nghe cho kỹ, nghe cho rõ ràng. Nghe rồi thì phải giữ gìn, tích tụ, những cái điều nghe đó đừng có để quên. Đó thì ông biểu như vậy đó, văn nghĩa phải đầy đủ, nghĩa là nghe phải văn phải nghĩa phải đầy đủ, phạm hạnh phải được nói lên hoàn toàn thanh tịnh.Nghĩa là khi nghe rồi những cái phạm hạnh đó thì mình phải được nghe mà được nói lên những cái phạm hạnh đó được thanh tịnh như thế nào, làm sao cho nó được thanh tịnh ở trong những cái pháp này? Những cái pháp ấy quý vị phải được nghe nhiều, giữ gìn, giữ gìn lấy được lặp đi lặp lại nhiều lần lớn tiếng, ở trong này ông A-Nan bảo mình lặp đi lặp lại lớn tiếng, được ý tứ, duy trì, được tri kiến khéo quan sát.Nghĩa là nghe những cái pháp đó mình phải lặp đi lặp lại mà lặp lớn tiếng nữa, rồi phải ý tứ duy trì những cái tri kiến đó, những cái sự hiểu biết đó, rồi cũng phải khéo quan sát nó nữa. Vị ấy nói pháp cho bốn hội chúng,nghĩa là khi mà mình hiểu biết rồi như vậy đó thì mình đem ra mình lặp lại cho bốn hội chúng người ta nghe văn cú, chiêm dung lưu loát với mục đích khiến người hiểu biết đoạn trừ mọi tùy miên, à cái mục đích của ông đó khi mình nghe mình hiểu biết vậy rồi thì mình làm sao giúp cho người ta đoạn trừ mọi cái tùy miên. Như Thầy đã dạy cho quý thầy có bẩy cái tùy miên đó mà. Phải hông chứ không phải đây thùy miên đâu nghe, bẩy tùy miên đó chứ không phải là một, do vì vậy cái mục đích của ông A-Nan ở đây nghe nhiều hiểu nhiều ở trong cái pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện tức là pháp thiện của Phật toàn thiện đó, lấy cái pháp thiện đó mà làm sao đoạn dứt bẩy cái tùy miên.

Đó là cái mục đích của ông A-Nan chứ ông không có nói thiền nói đạo gì hết, nghĩa là lấy cái pháp thiện đó mà đoạn dứt tùy miên, làm cho cái tâm mình nó đừng miên man ở trong đó, chứ đừng có nối tiếp. Ví dụ bây giờ mình ham ngủ tức là mình thùy miên rồi đó, phải hông, mình vọng tưởng gọi là trạo cửtùy miên đó,tùy miên nó liên tục nghĩ lăng xăng cái này cái kia, phải dứt cái đó đi; mà bây giờ sân tùy miên, sân mà nó cứ kéo dài ngày này qua ngày khác nó tùy miên đó, còn ham muốn cái gì đó không chịu dứt nó ra thì nó kéo làm sao cho đến khi mình mua sắm được cái đó gọi là tùy miên, nó lôi mình hoài đó, gọi là tùy miên. Chẳng hạn thèm cái đó cái bánh hay cái trái gì chưa ăn được mà cứ nhớ hoài đó gọi là tham tùy miên đó, đó nó kéo dài mình hoài đó, mình nghi người nào mà người ta ăn trộm hoài thì gọi là nghi tùy miên; còn cái ngã của mình ai đụng tới nò sừng ra đó, thì đó là ngã tùy miên làm cho bự ra đó, nó lôi mình hoài mà mình không chịu chấm dứt. Cho nên bây giờ mình học Sơ thiện, hậu thiện, trung thiện này mục đích của mình là để đoạn dứt những cái tùy miên này, đoạn dứt nó có hết không? Nó chưa có hết, ông A-Nan thì ông nói đoạn dứt như vậy là ngay lúc mình giận mình biết bây giờ nó tùy miên cái giận này, bây giờ đừng có giận nữa nè, hông có giận nữa nè, giận là nó tùy miên cho nên nó làm liên tục cái sự giận của mình ngày này qua ngày khác, cái mặt nó buồn buồn hoài là nó tùy miên ở trong đó chứ gì. Cho nên bây giờ vui lên không có được giận nữa, giận như vậy là tùy miên đó, phải đoạn dứt nó đi thì như vậy nó có hết giận không, chưa. Cái ông A-Nan nói cái kinh nghiệm của ông ấy, bây giờ mới có dứt sơ sơ, dứt tùy miên sơ sơ thôi. Đó quý thầy thấy ông A-Nan ông dạy chúng ta cách tu đơn giản không, đó đâu có khó gì, giận thôi bây giờ đừng giận nữa, giận khổ chứ làm gì, mình nói vậy nó cũng bớt giận chút chút, tức là nó bớt tùy miên chút đó đó là cái lối của ông A-Nan dạy. Như vậy nó cũng làm sáng chói được cái khu rừng Gosinga này, phải hông các con thấy nó bớt được cái đó nó làm sáng chói chứ gì tức là có giải thoát trong đó rồi.

Đến đây Thầy dừng lại để quý thầy suy ngẫm, đó bây giờ mình suy ngẫm cái giai đoạn đầu đi rồi ngày mai này mình sẽ học thêm được của cái người khác nữa, phải hông. Bắt đầu để mình suy ngẫm chứ, còn nếu mà Thầy đưa ra một lố kinh nghiệm bắt đầu quý thầy hông biết kinh nghiệm nào hết, bắt đầu mình dứt sơ sơ cho nó bớt tùy miên chút đi, đó là cái đầu tiên, mà cái đó phải nghe nhiều phải tích tụ cái sự nghe ở trong các pháp, pháp thiện, sơ thiện, hậu thiện, trung thiện.

Đó thì như vậy chúng ta thấy cái kết quả của sự tu tập chưa? Mà bây giờ Thầy nói nhiều quá tức là quý thầy sẽ mất đi và bây giờ tiếp tục là quý thầy, nếu mà quý thầy không có hỏi gì thì Thầy tiếp tục ở trong cái bài giảng, mà nếu quý thầy có hỏi thì chúng ta ngưng lại đây mấy phút để mà thưa hỏi những cái điều kinh nghiệm tu tập, bây giờ chấm dứt chút đi.

À, theo Thầy thiết nghĩ quý thầy nên viết ra, ví dụ như muốn hỏi Thầy kinh nghiệm tu hành nào đó để cho nó có lợi ích chung về sau đó thì quý thầy viết trong cái tờ giấy hỏi câu hỏi con bữa nay hay ngày mai, ngày mốt, hôm qua hôm kia gì đó con tu tập cái trường hợp con thấy vậy có đúng hay sai, hoặc con hiểu qua cái bài Thầy giảng vừa rồi đó con hiểu cái đó nó như thế nào thế nào có đúng hay là sai, vì vậy mà do đó nó làm sáng tỏ thêm cái giáo án của chúng ta hơn và cũng là lúc chúng ta đang có những cái phút mà gần bên Thầy để thưa hỏi những cái kinh nghiệm tu tập. Cho nên do đó mà ghi lại những cái lúc mà mình tập ở trong hơi thở ổn định hay hoặc là nhiếp tâm ở trong hơi thở để cho mình giúp cái tỉnh thức của mình, để cho nó phá được cái buồn ngủ, để cho nó phá được cái si mê, hoặc là tu những cái định vô lậu đặt cái niệm mà cái pháp hướng, để mà dùng cái pháp hướng để mà quét sạch những cái lậu hoặc của chúng ta, thì có nhiều người đặt sai mà cũng có nhiều người đúng. Những cái đặt sai đặt đúng này được Thầy minh xác lại để mà chỉ định cho nó đúng sai rồi cũng rút tỉa từ kinh nghiệm đó, quý thầy dễ dàng nhận ra được.

Đó quý thầy có thể lấy một cái tờ giấy hoặc là ghi lại trong cái tập giấy của mình, cũng là lưu lại những cái kỷ niệm tu hành của mình chứ gì. Do đó, quý thầy cứ để lại tập giấy sau cái buổi giảng này, quý thầy có hỏi gì đó thì quý thầy cứ để cái tập giấy lên đây thì Thầy sẽ lật ra cái trang đó Thầy sẽ thấy hỏi thưa gì thì Thầy sẽ trả lời, do đó chúng ta lại được thu vào băng và đồng thời cũng là cái kinh nghiệm sống để cho quý thầy tu tập, và cũng là cho người sau, nó có lợi ích cho mình và cho người sau.

Đó thì đến đây hôm nay Thầy sẽ thuyết giảng luôn, là vì nó chưa có chuẩn bị trong cái phần này, cho nên tiếp tục Thầy sẽ giảng cho quý thầy về cái phần, để mà hiểu rõ về cái phần Tam bảo hơn, để tiếp tục phần quy y Tam bảo.

Đến đây quý thầy đã hiểu rõ Tam bảo là quý báu như thế nào rồi, bây giờ chúng ta kê ra chủng loại Tam bảo, mình đã hiểu rõ Tam bảo ở cái phần đó nhưng mà chưa biết là cái chủng loại Tam bảo như thế nào nữa. Bởi vậy giảng thì phải giảng cho sạch chứ giảng không sạch hiểu lờ mờ thì sao, làm ông thầy mà giảng không hết như thế này thì thôi chẳng thà đừng có làm thầy, mà làm thầy thì phải làm cho chọn cái bổn phận của mình làm sao cho người ta hiểu cho hết cái Phật pháp. Cho nên đến đây thì quý thầy đã hiểu rõ Tam bảo là quý báu, mới có hiểu rõ nó là quý báu thôi chứ còn chưa có biết nó cái chủng loại nào Tam bảo được, cho nên ở đây tiếp tục Thầy sẽ giảng cho quý thầy hiểu rõ cái chủng loại của Tam bảo.

Xưa nay có nhiều cấp phân biệt từ ở trên đại thể mà nói, chẳng ngoài do sự bất đồng của sự tướng và lý thể, nay Thầy làm lại. Nghĩa là trong sự bất đồng của sự tướng và lý thể của nó do cái chủng loại của Tam bảo, cho nên vì thế mà Thầy phải làm lại cho nó rõ ràng ra để cho chúng ta thấy được cái chủng loại Tam bảo nào cho nó cụ thể hơn, cho các thầy sẽ nhận ra được, chớ còn nếu mà nói mà không rõ làm cho quý thầy chưa thấy cái sự tướng của Tam bảo và lý thể của Tam bảo như thế nào.

BĂNG SỐ 26

Mặt A.

Từ trên cái sự tướng thì nó phải có cái trụ trì Tam bảohóa tướng Tam bảo, chúng ta phải hiểu chỗ đó chứ không khéo nghe nói Tam bảo thì chúng ta cứ tưởng là cái ông Phật bằng xi măng này nó là Tam bảo, phải không? Hay là một đống kinh để trong tủ sách kia là Tam bảo hay hoặc là mấy ông Thầy mà đi khất thực ở ngoài đường kia là Tam bảo? Thì cái đó nó thuộc về Tam bảo gì, mình phải hiểu chứ, vì vậy bây giờ mình phải phân loại ra làm cho nó sáng tỏ ra chứ không khéo hỏi Tam bảo chúng ta nói trên chùa thờ mấy ông Phật đó là Phật bảo, còn cái tủ kinh sách đó là Pháp bảo và mấy ông tăng ngồi đây thọ trai đây là Tăng bảo thì cái đó thuộc về cái loại Tam bảo nào, nó cũng có cái loại Tam bảo đó chứ không phải không, cho nên nó còn nhiều loại lắm chứ đâu phải có hình thức đó không. Cho nên từ trên sự tướngtrụ trì Tam bảo và hóa tướng Tam bảo, những cái danh từ này quý thầy chưa có nghe thì nghe nó lạ, đã nghe rồi thì nó không lạ lắm.

2 - Từ trên lý thể, hồi nãy nó là tướng đó, từ ở trên sự tướng thì nó có như vậy mà bây giờ từ ở trên lý thể thì thấy như thế nào? Hai, từ ở trên cái lý thể nó có nhất thể Tam bảo và lý thể Tam bảo. Cho nên hai phần nó rất rõ ràng mà, sự tướng rồi lý thể, cho nên nó phải thấy được cái chỗ này, mà nếu không hiểu thì quý thầy chẳng hiểu như thế nào hết.

Trước khi Thầy giải thích chủng loại Tam bảo, đầu tiên Thầy cần phải chỉ cho quý thầy biết hàm ý của Tam bảo. Cái hàm ý là nó bao gồm hết, phải biết cái hàm ý của nó, còn nếu mình không bao gồm hết cái Tam bảo thì mình đứng ở trên đó coi như mình phân tích ra nó rời rạc ra mất tiêu hết rồi. Cho nên vì vậy phải thấy được cái bao gồm của cái ý của cái Tam bảo ở trong đó rồi mới phân tính trên sự tướng, lý thể của nó mới được.

Phật là người giác ngộ, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Còn Pháp là phép tắc là khuôn khổ khiến cho người ta hiểu được và có khả năng tu tập trau dồi dứt bỏ các pháp ác, tăng trưởng các pháp lành, đó là Pháp bảo. Còn hồi nãy là cái người giác ngộ, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn đó là Phật bảo. Chúng ta phải hiểu nó bao hàm cái nghĩa của nó trong đó mà. Tăng là hòa hợp chúng, hòa hợp mọi sự, nơi cái lý chung với nhau, tức là nơi cái mục đích giải thoát chung nhau đó thì tăng là phải có cái sự hòa hợp, mà tăng không có sự hòa hợp thì nó không phải là cái mục đích chung của tăng. Vì vậy dù là bây giờ có hàng trăm tăng mà không hòa hợp thì đương nhiên không được xem là tăng, mà tăng mà có hòa hợp thì đương nhiên mới gọi là Tam bảo, còn tăng không hòa hợp thì đương nhiên là không được gọi Tam bảo.

Đó cũng như bây giờ quý thầy thấy các thầy chống đối nhau bằng pháp môn này pháp môn khác, ca ngợi nhau thì như vậy là tăng không hòa hợp. Mà tăng không hòa hợp tức là tăng chống trái nhau, mà tăng chống trái nhau thì không thể gọi là Tăng bảo. Cho nên bây giờ muốn chọn Tăng bảo thì phải chọn những vị tăng, Thánh tăng trong thời đức Phật nó mới có sự hòa hợp. Đó thì hôm nay nó bao hàm để chúng ta hiểu đươc cái nghĩa của Tam bảo nó rõ ràng như vậy.

Bây giờ về cái phần:

1 - Trụ trì Tam bảo, như hồi này mà Thầy nói cái phần một nó có về cái sự tướng của nó trụ trì Tam bảo. Vậy trụ trì Tam bảo là như thế nào, bây giờ chúng ta phải thấy đây, Thầy giải thích ra. Như dùng ngọc mà chạm, đá mà khắc, vàng mà đúc nấu, đất mà đắp, xi măng mà đắp lên, gỗ chạm, sơn dầu, mực hoa, mực họa, thêu trên vải, vẽ ở trên giấy,..hình tượng Phật ấy là Phật bảo, rõ ràng không? Bởi vì đó là cái trụ trì Tam bảo mà, phải không? Cho nên cái tượng Phật xi măng mình đây cũng là Tam bảo chớ, cũng là Phật bảo đó chớ. Rồi có người thì người ta làm bằng lò gốm người ta đúc ra, có người lấy gỗ mà khắc, có người lấy đá mà chạm, rồi có người lấy ngọc mà làm. Tất cả những cái hình ảnh mà trở thành cái hình ảnh của một con người mà ngồi thiền kiết già đó thì là hình ảnh của tượng Phật đó thì gọi là Phật bảo, Phật bảo đó gọi là trụ trì Phật bảo, hiểu không?

2 - Tam tạng kinh điểnhoặc là chứng thực về Phật giáo của chư đại đức xưa nay đấy là Pháp bảo, nghĩa là kinh điển của Phật như tam tạng kinh điển đó bây giờ cất ở trong tủ đó thì chúng ta gọi là trụ trì Tam bảo, đó là Pháp bảo trụ trì Tam bảo đó. Hiểu như vậy chúng ta mới hiểu rõ ràng mà, cái sự tướng của nó mà, nó đâu có trừu tượng đâu, nó rõ ràng.

3 - Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni cạo tóc mặc áo nhuộm ấy là Tăng bảo mà phải hòa hợp, còn nếu không hòa hợp thì nó không thành. Nó phải hòa hợp thì nó mới thành, nó không hòa hợp thì nó không thành. Tu sĩ gì mà cãi cọ còn hơn ngoài đời, tranh nhau còn hơn ngoài đời thì làm sao mà thành Tăng bảo làm sao mà trụ trì Tam bảo được.

Đó cho nên vì vậy nó phải có sự hòa hợp thì nó mới mình cạo tóc, cạo đầu nó có sự hòa hợp thì cái đó, mặc áo nhuộm thì cái đó mới gọi Tăng bảo, trụ trì Tăng bảo. Còn nếu mà mình tranh cãi nhau thì thôi thôi mấy ông này là cư sĩ trọc rồi chứ không phải là Tăng bảo nổi đâu, bởi vì mình cạo đầu mình mặc áo vậy mà mình cãi cọ nhau thì nó đâu gọi là Tăng bảo. Phật nói là mấy ông cư sĩ trọc, ngày xưa đức Phật nói những người mà cạo tóc cãi cọ tranh cãi không hòa hợp nhau thì được xem như là những người cư sĩ trọc. Chứ không phải Tăng bảo. Chúng ta phải biết rõ cái trụ trì Tam bảo là cái sự tướng của nó như vậy.

Sau khi đức Phật nhập diệt mọi người phải nương tựa vào một loại Tam bảo này để nối tiếp huệ mạng Phật bảo, tinh thần Phật giáo và truyền bá giáo nghĩa Phật giáo. Hình thức này gọi là trụ trì Tam bảo. Nghĩa là qua những cái hình thức đó, để mà nó còn cái hình thức đó người ta mới thấy được. Cũng như bây giờ nó có tượng này, có kinh này, nó có những cái vị tu sĩ nó có sự hòa hợp này, cho nên người ta mới thấy đó là ba Tam bảo.

Còn nếu mà bây giờ tu sĩ không có, hoàn toàn là cư sĩ, cũng như Thầy nghe nói trong thời nào đó khi mà chúng tăng nó không còn có nữa. Bởi vì cái xã hội mà lúc bấy giờ nó thay đổi đi, mấy ông Thầy không có dám tu nữa cho nên mấy ông Thầy để tóc hết hoàn toàn hết, thì lúc bấy giờ không có thấy ông tăng cho nên Tăng bảo mất tiêu luôn. Chùa thì có mấy ông từ, mấy ông cư sĩ ở giữ chùa thôi chứ hoàn toàn là không có ông thầy nữa. Mà hễ láng cháng có ông thầy thì bị mời đi ở tù hết cho nên do vì vậy mà không có ông nào dám tu hết cho nên Tăng bảo mất tiêu. Còn kinh sách thì lén lút dấu chỗ này, chỗ kia chứ còn để bậy bạ cũng bị đốt nữa. Cho nên nó cũng là trong một cái giai đoạn ví dụ như đời nhà Tùy là Phật giáo suy, thôi mấy ông tăng hoàn tục hết chứ không có ông nào dám để tóc hết, ờ không dám cạo đầu cho nên Tăng bảo mất. Rồi kinh sách trong lúc đó nhà Tùy đem đốt sạch hết không có để kinh sách Phật nữa cho nên Pháp bảo cũng tiêu luôn. Còn chùa mà những cái tượng Phật những cái chùa đó đều là xung công cho mấy cái ông mà Lão giáo làm miếu hết. Còn cái tượng của mình, tượng Phật đó thì đem đập bỏ hết, tượng gỗ thì đem đốt sạch cho nên Phật bảo cũng tiêu luôn. Gọi là trụ trì Tam bảo nó tiêu sạch hết, nó không còn gì. Trong cái đời nhà Tùy, Phật giáo nó suy đến cái mức độ đó thì chúng ta thấy trong những cái giai đoạn của cái giai đoạn thịnh suy của Phật giáo thì nó có cái lúc nó suy đến cái mức độ mà Tam bảo, trụ trì Tam bảo nó không còn có nữa. Chùa thì người ta lấy người ta làm miếu hết rồi nó không còn có cái chùa nữa. Đó là những cái lúc mà suy của Phật giáo.

Còn bây giờ cái phần hai là hóa tướng Tam bảo của cái sự tướng đó, hồi nãy là cái sự tướng kia chúng ta nói Phật, Pháp, Tăng là những cái tướng của nó như là hình tượng, như là kinh sách, như là chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni cạo tóc, hành đúng cái hòa hợp với nhau, đó là cái trụ trì Tam bảo, còn bây giờ là hóa tướng Tam bảo.

1 - Phật Thích Ca Mâu Ni từ khi xuất gia tu hành thành chánh giác cho đến khi nhập diệt, đức Phật Thích Ca là Phật bảo. Đó bây giờ nó cũng là cái tướng đó nhưng mà ông Phật ông chết rồi, nhưng mà cái tướng của ông ấy nó phải vẫn còn chứ nó không thể nào mất được. Từ khi ông tu hành cho đến khi ông nhập diệt thì cái ông Thích Ca đó ông ấy là Phật bảo chứ không thể ông khác mà Phật bảo được, mà chỉ có ông ấy mà thôi. Cho nên không thể nói ông Phật Di Đà là Phật bảo hay là ông Phật Di Lặc là Phật bảo được mà chỉ có ông Phật Thích Ca mới gọi là Phật bảo. Cho nên không thể nào mà một cái tôn giáo mà có hai, ba ông giáo chủ ở trong đó được, cho nên bây giờ chúng ta chỉ biết có ông Thích Ca là Phật bảo thôi chứ không thể nào. Đây là hóa tướng Tam bảo. Phải hiểu như vậy.

Chứ nhiều người đem ông Phật Di Đà vô đây bảo nói ông Phật Di Đà cũng là Phật bảo điều đó là không đúng đâu, bởi vì ông Phật Di Đà ông có sáng lập cái tôn giáo Phật giáo đâu mà gọi là Phật bảo. Ông chỉ là một cái người mà được giới thiệu thôi để mà độ chúng sanh lên cõi Cực lạc thôi. Cho nên ông ấy đâu có phải Phật bảo. Cũng như ông Phật Di Lặc là đời sau cũng là do sự giới thiệu của ông Phật Thích Ca thôi chứ không thể nào nói ông ấy là Phật bảo được. Cho nên vì vậy chỉ có Phật Thích Ca là cái hóa tướng của ông là cái chỗ mà chúng ta nhận ra ông ấy là cái Phật bảo.

2 - Các thứ giáo pháp đương thời đức Phật dạy đệ tử như là Tam vô lậu học, Tứ thánh đế, Tứ niệm xứ, Tứ như ý túc, vv... ấy là Pháp bảo. Nghĩa là các pháp mà đức Phật dạy cho các đệ tử trong cái thời đức Phật mà bây giờ chúng ta đọc là Tứ diệu đế, Tứ niệm xứ, Tứ như ý túc đó thì đó là cái Pháp bảo.

3 - Đệ tử đức Phật Thích Ca đương thời là Tăng bảo, nghĩa là như ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiều Liên, ông La Hầu La, ông A Na Luật đó là những bậc Thánh tăng trong cái thời đó gọi là Tăng bảo. Chứ không phải là như hồi nãy trụ trì Tam bảo như mình đây đâu. Mà đây là hóa tướng Tam bảo nghĩa là tất cả những cái người đó họ đã ra đi hết rồi cho nên đó là hóa tướng mà. Nhưng mà cái hình ảnh cái tướng của họ nó vẫn còn ở trong thâm tâm của chúng ta, cho nên gọi là hóa tướng Tam bảo. Phải hiểu những cái lời mà Phật dạy ngày xưa bây giờ chép lại thành kinh sách chúng ta đọc ra như Tứ diệu đế hoặc Tứ niệm xứ rồi đó. Ngay hồi đó mà đức Phật thuyết giảng thì bây giờ coi như nó đã qua rồi, nó là hóa tướng Tam bảo của Pháp bảo. Chúng ta phải hiểu như vậy thì chúng ta mới biết được Tam bảo. Đây là hình tướng chỉ đức Phật đang trụ thế dạy đạo nên người ta gọi là hóa tướng Tam bảo.

Đó thì bắt đầu chúng ta đã hiểu được cái chỗ trụ trì Tam bảo, hóa tướng Tam bảo rồi thì bắt đầu chúng ta hiểu nhất thể Tam bảo. Nhất thể Tam bảo, cái phần thứ ba là nhất thể Tam bảo. Nhất thể Tam bảo là chỉ có một mà nó đủ trong đó là Tam bảo đó chúng ta phải hiểu. Cho nên khi mà một cái người cư sĩ họ đứng trước đức Phật họ xin quy y Tam bảo là nó đã đủ rồi. Đó bây giờ mới thấy cái nhất thể Tam bảo đây.

1 - Phật.

A - Trong Tam bảo Phật, Pháp, Tăng mỗi điều riêng có công đức của Tam bảo. Đời sống của Phật thường năng chiếu vì thế gọi là Phật bảo, đó là một phải không? Nghĩa là đức Phật luôn luôn giác chiếu chứ đâu có mê mờ, đâu có ham ngủ như chúng ta. Cho nên vì vậy mà gọi là Phật bảo.

B - Phật thường hay thuyết pháp tự tại đối với pháp cho nên có cái khả năng hủy trì vì thế gọi là Pháp bảo. Ông Phật ông nói pháp là Pháp bảo chứ gì cho nên nó có khả năng hủy trì nó làm cho người ta hiểu rõ ràng, nó làm cho người ta thấy được cái đường lối giải thoát rất là rõ ràng cho nên vì thế mới được gọi là Pháp bảo.

C - Phật không có tranh cãi hơn thua với ai vì thế gọi là Tăng bảo, cho nên ông Phật ông đâu có tranh đua. Cho nên có một ông Phật mà nó đã có đủ Tam bảo rồi phải không? Cho nên chúng ta quy 1 ông Phật mà chúng ta lại thọ quy y Tam bảo một cách rất là rõ ràng cụ thể, thì đó quý thầy thấy nhất thể Tam bảo, phải không có rõ chưa?

2 -

A - Bản thể của nó. Bản thể của nó có đầy cái tánh năng sanh chư Phật vì thế gọi là Phật bảo. Nghĩa là pháp nó, nếu mà nương vào pháp thì nó sanh ra chư Phật mà, cho nên bây giờ ông Phật là thiện chứ gì? Mà mình nương vào pháp, pháp thiện thì nó sanh ra lòng thiện. Mà lòng thiện là Phật chứ gì? Vì vậy gọi là Phật bảo. Cho nên nương vào Pháp mà thấy có Phật liền, phải không?

B - Bản thân của công năng hủy trì, nghĩa là ngay cái bản thân của pháp thì nó có công năng, nó làm cho người ta sáng tỏ ra, nó làm cho người ta hiểu rõ ra cho nên gọi là Pháp bảo. Bởi vì bản thân của pháp nó làm cho người ta hiểu rất rõ cái đường lối ác và thiện nó rất rõ. Cũng như các Thầy nói thập ác như thế nào và thập thiện như thế nào? Cho nên cái công năng hủy trì nó làm cho người ta sáng tỏ cái đó ra. Cho nên đó là Pháp bảo, đó thấy chưa? Tự nó, nó đã làm cho người ta sáng ra. Ờ bây giờ không sát sanh thì nó như thế nào? Mà sát sanh thì nó như thế nào? Cho nên người ta sáng ra người ta biết, sát sanh thì làm cho chết con vật này con vật khác. Còn không sát sanh thì con vật nó không chết. Do đó người ta thấy rõ ràng như vậy thì cái công năng nó sanh ra cái pháp, nó sanh ra chúng ta biết được thiện và ác như thế nào cho nên từ đó gọi là Pháp bảo.

C - Pháp pháp thì bình đẳng chẳng chướng ngại nhau vì thế gọi là Tăng bảo. Bởi vì nó không có chướng nhau, pháp thiện thì nó đâu có chướng, pháp ác thì nó rõ ràng. Pháp thiện thì nó đâu có chướng nhau, còn pháp thiện thì chướng nhau như thế nào? Pháp thiện mình tu thiền này mình chỉ trích thiền kia thì nó có thiện không, chỉ người ta mà thiện gì mà thiện phải không? Mình giữ giới như vầy mình chỉ giới người ta thì nó có thiện không? Đâu có thiện, cho nên nó thường nó không có bình đẳng như vậy cho nên không thể gọi là Tăng bảo. Mà nó không có chỉ trích ai, nó hòa hợp, ai làm sao kệ, nó không nói ai hết, thì đó mới gọi là Tăng bảo, phải không? Từ ở trong cái pháp chúng ta thấy cái pháp mà nó không có chỉ trích ai hết, nó không có khen chê ai hết, mà nó hòa hợp, ai làm gì thì làm nó chẳng cần tranh cãi với ai hết thì cái đó gọi là Tăng bảo của Pháp.

Hồi nãy thì các thầy thấy từ cái Phật bảo, từ cái nhất thể Tam bảo của Phật thì nó cũng đủ ba Phật, Pháp, Tăng. Rồi từ ở trong cái nhất thể của Pháp bảo nó có đủ Phật , Pháp, Tăng. Đó nó rõ ràng như vậy thì chúng ta mới biết là nhất thể Tam bảo.

Tăng:

A - Tăng thường quán chiếu là Phật bảo. Mình tu hành thì mình phải quán chiếu mình mới xả ly mình mới ly dục ly bất thiện pháp. Mình ngồi đây mà tâm giận hờn không có ly ra được thì có quán chiếu không? À mình chưa quán chiếu thì chắc chắn mình chưa gọi là Phật bảo được hết. Mà mình Tăng, mình quán chiếu mình ly tất cả những cái ham muốn của mình, mình ly những cái ác pháp ra thì cái đó là Phật bảo.

B - Tăng có cái dụng hủy trì là Pháp bảo. Nghĩa là mình có hành pháp, mình có trì pháp, mình có quán pháp đó. Tức là mình sử dụng nó đó để cho mình ly, mình lìa các cái triền cái, lìa cái lậu hoặc của mình. Mình lìa ra mình làm cho cái tâm mình trở về thành thiện pháp. Nó trở thành xa lìa cái dục đi, đó là cái mà mình làm cho nó mình tu tập như vậy đó mình hành động như vậy theo những cái tùy pháp hướng pháp đó, thì cái đó gọi là Pháp bảo.

Cho nên từ cái ông tăng mà sử dụng cái đó thì gọi là Pháp bảo. Còn mình không sử dụng mình để với cái tâm phiền não, cái tâm giận hờn, cái tâm ham muốn của mình hoài hoài thì cái đó không thể nào gọi là Pháp bảo.

C - Tăng có cái thể hòa hợp là Tăng bảo, mà khi mà mình biết như vậy thì mình như thế nào? Một vị tăng mà đã có nhẫn nhục tùy thuận bằng lòng thì nó là hòa hợp chứ gì? Mà đã biết tu tập để mà ly dục ly ác pháp thì nó là hòa hợp rồi. Mà hòa hợp thì tức là cái vị tăng đó sống luôn luôn lúc nào cũng nhẫn nhục tùy thuận bằng lòng. Không có bao giờ mà không có vui lòng trước mọi đối tượng nào hết, cho nên gọi là hòa hợp, mà hòa hợp gọi là Tăng bảo. Đó quý thầy thấy từ ở trong tăng mà nó có đủ cái bản chất của nó gọi là nhất thể Tam bảo, hoặc là nhất thể Tăng bảo ở trong đó.

4 - Lý thể Tam bảo.

Tam bảo là thiện pháp sẵn có trong tất cả chúng sanh, có chỗ nói Tam bảo là Phật tánh của chúng sanh. Thiệt ra thì Thầy thấy bây giờ một cái người chưa tu thì họ cũng có thiện pháp trong tâm họ chứ đâu phải có ác pháp không đâu, phải không? Do cái lòng ham muốn họ mới nảy sanh ra ác pháp, chứ họ có thiện pháp mà. Vì vậy chúng ta thấy mỗi con người chúng ta có thiện pháp mà vì cái lòng ham muốn đó mà chúng ta có ác pháp. Cho nên ở đây chúng ta không lấy cái bản tánh, cái Phật tánh mà chỉ cho là thiện pháp mà chúng ta thấy cái thiện pháp. Bởi vì chúng ta đang tu học ở trong thiện pháp của Phật, ba ngôi Tam bảo này toàn là thiện. Cho nên Tam bảo là thiện pháp sẵn có trong tất cả chúng sanh. Nghĩa là sẵn có bây giờ chúng ta chỉ trau dồi nó thôi, chúng ta tu tập để đem nó lại để dứt được cái ác pháp ra khỏi nó dính vô, cái thiện pháp của chúng ta đã sẵn có. Không phải ở ngoài mà đem vào. Nghĩa là trong tâm chúng ta có thiện pháp sẵn mà.

Cho nên cái ông Khổng Tử ông nói “Nhân chi sơ tính bổn thiện” đó mà. Người mà sinh ra là tính thiện. Nhưng mà sự thật ông nói đó là ông nói trong cái chỗ cạn của ông ấy thôi chứ sự thật ra chúng ta đã tích trữ bao nhiêu cái ác chúng ta mới sanh ra làm con người, mới thọ cái thân mới chịu quả khổ như thế này, chứ nếu mà không có ác làm sao chúng ta sanh ra con người làm gì. Nếu mà “Nhân chi sơ tính bổn thiện” thì ông sanh ra làm con người làm gì, phải không? Ông sanh ra cõi nào chứ ở đây, hoặc là ông ấy chấm dứt sanh tử luân hồi rồi. Cho nên cái ông Khổng Tử thì ông thấy sanh ra thằng nhỏ chưa có biết gì hết cứ khóc không đó. Ông ấy đâu có biết khóc là cái nhân quả ác của nó chứ còn gì. Nếu mà nó cười thì chắc là thiện rồi, mà thằng nhà nào sanh ra mà hổng khóc, phải không? Có ai mà sanh ra hổng khóc không? Quý Thầy có ai mà sanh ra không khóc?

Miệng cũng thét ra làm người ta giật mình, mà nó khóc vậy là mấy bà mụ mừng. Chớ mà nó không khóc kể như tiêu luôn, phải không, sanh ra mà không khóc kể như chết, còn khóc người ta mừng, còn nó không khóc thì móc miệng nó ra cho nó khóc, phải không, cho nên người nào sanh ra cũng khóc. Người ta nói, có cái nhà thơ nói, “Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra”, có không, hổng biết là cái ông nào Thầy quên tên ông ấy rồi... Đó thì các con thấy người ta hiểu một chút Phật giáo thôi mà người ta cũng xét qua cái đời sống của con người sinh ra thì người ta cũng biết được là, “Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra”. Không có người nào mà mang tiếng cười mà ra. Không biết ông Phật hồi ông sanh ra không biết thấy ông sanh ra người ta huyền thoại ông ấy đi liền mà. Không biết ông có khóc không chứ Thầy nói chắc chắn ông ấy có, chứ hồi Thầy ra chắc cũng khóc thấy mồ, thấy tổ.

Đó là cái sự thể nó như vậy thì chúng ta phải biết rằng nó, là chúng ta phải hiểu là trong mỗi con người chúng ta đều có thiện pháp. Là vì cái lòng ham muốn đó mà nó mới sanh ra ác pháp. Nó tạo ra nhân quả nó mới tạo ra cái khổ đau cho chúng ta trong cái ác pháp.

1 - Do sự trau dồi tu tập dứt trừ các ác pháp, chuyển mê mà thành ngộ gọi là Phật bảo. Đó thì bây giờ lý thể Tam bảo đó. Thì chúng ta thấy mình trau dồi mà dứt trừ các ác pháp, chuyển mê thành ngộ. Mình ngộ ra được cái chỗ mà thiện pháp nó hoàn toàn là nó không còn khổ nữa. Cho nên chuyển khổ thành vui, gọi là chuyển mê thành ngộ gọi là Phật bảo. Mà chuyển khổ thành vui gọi là Pháp bảo, mà chuyển họa thành phước gọi là Tăng bảo.

Đó quý thầy thấy không mình chuyển cái này thì thành cái kia, mà trong khi mình thọ tam quy có ba cái này thôi mà mình chuyển được mình thành Phật bảo. Mà chuyển được cái nọ thì mình thành Pháp bảo, chuyển được cái kia nữa mình thành Tăng bảo. Đó bây giờ Thầy lặp lại cho quý thầy thấy: “do sự trau dồi tu tập dứt trừ ác pháp mà chuyển mê thành ngộ gọi là Phật bảo, mà chuyển khổ thành vui gọi là Pháp bảo, mà chuyển họa thành phước gọi là Tăng bảo”.Đó nó có rõ ràng không?

Bởi vậy cái giáo pháp của Phật nó là thiện pháp mà mình biết chuyển nó tức là mình chuyển nhân quả. Mà chuyển được nhân quả thì đó là Phật, Pháp, Tăng rất rõ ràng cụ thể cho nên gọi là lý thể Tam bảo, có đúng không? Rất đúng chứ không có sai đâu. Thầy mà Thầy nói ra quý thầy cứ suy ngẫm đi, nó có cái lý của nó. Nếu mà chúng ta không biết cách như vậy, không hiểu như vậy thì chúng ta chưa biết cách tu. Mà chưa biết cách tu thì chúng ta cứ chổng khu mà đi tu cái loại thiền này hay tụng chú tụng thần chú chứ gì để cho nó thành Phật. Thiệt ra chúng ta chưa có hiểu gì Phật pháp hết thì dù chúng ta có tụng kinh ngàn bộ đi nữa, Thầy nghe có người tụng mấy ngàn bộ kinh Pháp Hoa mà đến bây giờ Thầy thấy còn khan tiếng chứ chưa có thành Phật. Nghe kinh Pháp Hoa tụng dễ lắm còn có nhiều người thôi niệm Phật cũng lần biết bao nhiêu xâu chuỗi, đứt biết bao nhiêu sợi dây chưa mà cũng chẳng thấy đến Cực lạc bao giờ hết. Mà hầu như là Thầy nói thật cho quý thầy thấy trong kinh mà dạy về niệm Phật người ta nói nhiều cái chuyện hay lắm. Có nhiều vị ở xứ này xứ kia, tỉnh nọ niệm Phật được đức Phật Di Đà rước lên Cực lạc rồi hay lắm. Nhưng mà nhìn chung thực tế trong cái cuộc sống của chúng ta Tịnh độ mà hưng thịnh thì hầu như là tất cả các bậc tôn túc của chúng ta đều tu Tịnh độ. Nhưng mà đến khi chết thì chúng ta thấy các bậc tôn túc của chúng ta như thế nào? Mê muội vô cùng không có sáng suốt nữa. Cho nên đến cái giờ phút nhiều khi để lại những cái sự đau khổ bán thân bất toại, nằm đó mà cả một, hai năm mới chết chứ không phải ít. Mà xâu chuỗi nào ông đó cũng bóng lưỡng hết bởi vì tối ngày đêm ở chỗ nào cũng niệm Phật để mau được sanh Cực lạc ai không muốn. Nhưng mà cuối cùng trước cái chết của họ, Thầy thấy cái địa ngục rất là đau khổ.

Đó bây giờ Thầy nhắc lại cho quý thầy như bây bây giờ sư trưởng ở Huê Lâm đó. Sư trưởng tức là hòa thượng của bên ni gọi là sư trưởng, bên tăng gọi hòa thượng còn bên ni gọi là sư trưởng đó. Cái chức vụ của ni lớn họ là hòa thượng đó. Thế mà sư trưởng bây giờ không còn biết gì hết nằm ở trên giường. Vừa rồi có một sư cô về cho biết là sư trưởng giao hết cái trách nhiệm rồi. Từ cái chỗ mà còn biết đi lo lắng, bây giờ mà nằm liệt rồi thời gian mà đi không được nữa. Lúc mà còn biết thì ngồi trên cái xe lăn mà đẩy đi nè, ngồi mà lăn như cái người mà hai cái chân đi không có được nữa. Đó không biết là tu tập như thế nào mà bây giờ khổ sở như đến đó, như là cái người mà tàn tật hai cái chân hết có đi được rồi, không có bước đi. Cho đến bây giờ là nằm im lìm không còn biết gì, đái ỉa không còn biết gì hoàn toàn chờ đến ngày chết thôi, mà giờ nó không chịu chết mà cứ nằm đó.

Đó là những cái vị mà tôn túc lớn nhất mà kinh sách các vị rất thông suốt chứ không phải không thông suốt đâu. Các vị viết kinh nào là kinh Bát Nhã rồi tất cả các loại kinh gọi là trí tuệ siêu việt, rồi cho đến khi những cái giới bổn bên ni người ta rành rọt lắm. Người ta làm những giảng sư người ta thuyết giảng cho bên ni mà, cho nên người ta mới làm bậc hòa thượng của ni chứ đâu phải ít. Thế mà bây giờ trong cái cảnh tượng đó chúng ta thấy quá khổ, quá khổ đau. Đau đớn là khi chúng ta xét thấy không có phải là chúng ta chê những vị đó đâu. Mà chúng ta nghĩ đến cái thân phận của mình, thấy những cái người đó mà chúng ta nghĩ thân phận của mình. Mình tu hành rồi mình cũng đi vào con đường đó, mình phải làm sao chứ, mình phải hiểu làm sao cho Phật pháp cho đúng chứ. Bởi vì những người đó họ đã tu tập như thế nào, mà họ đi lạc đường như thế nào bây giờ họ phải thọ lấy những cái quả khổ đó. Mà trong khi họ làm bao nhiêu cái sự việc để cho chúng ni toàn bộ là ni bộ đều tập trung dưới sư trưởng chứ đâu phải làm lợi ích cho một người đâu. Bao nhiêu ni đều là ngài lãnh đạo hết chứ đâu phải. Coi như là về giới ni, sư trưởng Huê Lâm là ngài lãnh đạo hết chứ không phải là tầm thường đâu. Cả trăm ni mà ngài kêu một tiếng là người ta tập hợp về tức khắc ở đâu cũng phải về. Mà bây giờ ngài phải khổ sở như vậy thì chúng ta biết được con đường của Phật pháp nếu mà sai một chút là chúng ta đã bị lạc đường. Lạc đường thì chúng ta rất khổ sở, cái phước thì chúng ta thấy chúng ta làm được mọi người khác thấy chúng ta làm như làm phước. Ngài mở tiệm cơm chay để lấy tiền đó nuôi chúng ăn học cho nên mới có những cái chúng mà thông suốt được giáo lý, mới có những chúng nữ mới thông suốt được giáo lý của Phật, mới có cử nhân, mới có tiến sĩ Phật học chứ. Thế mà bây giờ ngài tạo như vậy mà bây giờ ngài thọ cái khổ như vậy là cái nhân quả nào đây? Chúng ta phải suy xét cái điều đó, mà đạo Phật là đạo nhân quả mà. Ngài có làm gì cho cá nhân ngài đâu, ngài có đem về nuôi cha nuôi mẹ ngài đâu. Thế mà nuôi toàn cả những người tu hành mà bây giờ ngài phải khổ.

Còn chúng ta có làm gì lợi ích cho ai đâu mà bây giờ chúng ta lại thọ dụng của đàn na thí chủ như thế này, mà không giải quyết được thì chúng ta làm sao đây? Nó còn khổ hơn ngài gấp mấy nữa, phải không? Cho nên vì vậy mà chúng ta phải hiểu biết được cái lý tu hành sao mà cho nó đúng.

Đó, do cái lý thể thiện pháp mà xét, lý sự nhất như là Phật bảo, lý sự sổ quán là Pháp bảo, lý sự năng quán là Tăng bảo. Bây giờ do cái chỗ mà lý thể Tam bảo này thì chúng ta biết được những cái gì. Bởi vậy cho nên cái phần hai này chúng ta thấy rất rõ. Hồi nãy cái phần một là chúng ta trau dồi tu tập phải không? Còn cái phần hai này do cái lý thể thiện pháp mà xét. Đứng ở trên cái lý thiện pháp của Tam quy này chúng ta xét. Thì lý sự nhất như là Phật bảo, mà lý sự sổ quán tức là chúng ta tu quán thì tức là Pháp bảo. Mà lý sự năng quán thì tức là Tăng bảo.

Tam bảo tuy phân ra làm bốn loại nhưng gồm lại thì có hai thứ tính chất: sự và lý.Nghĩa là gồm nó làm bốn, chia nó ra làm bốn loại như vậy nhưng mà gồm lại thì nó chỉ có hai tính chất thôi, sự và lý mà thôi. Sự tướng Tam bảo là hiện thực cụ thể vì thế rất dễ hiểu, còn lý thể Tam bảo trừu tượng rất là khó hiểu nhưng chúng ta cũng dễ nhận. Ở đâu mà dục hết ác pháp hết tức là ly dục ly bất thiện pháp á, thì ở đó là lý thể Tam bảo, là Niết bàn. Cho nên vì vậy mà bây giờ chúng ta trở về ly dục ly bất thiện pháp chứ gì, đó là lý thể của Tam bảo chứ gì. Còn nếu mà chúng ta không ly dục ly bất thiện pháp thì đâu gọi là lý thể Tam bảo được, phải không? Còn sự tướng Tam bảo thì chúng ta ai cũng thấy rõ, tuy là nói bốn loại nhưng mà nó gồm lại thì nó có… (mất tiếng) (A 27:55).

Hôm nay tiếp tục cái bài giảng, thì vừa rồi khi mà Thầy dạy xong cái bài giảng thì cũng có một vài cái ý kiến. Do đó thì hôm nay trả lời cái ý kiến trước để cho nó thấu suốt cái bài giảng vừa rồi, rồi chúng ta sẽ tiếp tục đến cái bài giảng kế. Thì ở đây có một vị thầy hỏi Thầy:

“Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Thầy hoan hỷ bố thí cho con thưa hỏi. Như buổi thuyết giảng hôm qua Thầy giảng về lý và sự quy y Tam bảo, có đoạn hóa tướng Tam bảo. Thưa Thầy, chỗ hóa tướng Tam bảo Thầy chỉ đức Phật giáo chủ bổn sư Thích Ca Mâu Ni hiện tại thuyết pháp độ sanh. Vậy trong kinh Di Đà đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni tại hội thuyết ở nước Xá Vệ trong vườn của trưởng giả Cấp Cô Độc. Kinh văn có đoạn Ngài bảo Trưởng lão Xá Lợi Phất từ đây sang phía tây trải qua hơn 10 vạn ức Phật độ có một thế giới tên gọi là Cực lạc, nước ấy có Phật hiệu là A Di Đà, hiện nay đang nói pháp. Thưa Thầy đức giáo chủ Thích Ca Ngài nói ra kinh này là ý chỉ giáo pháp gì và tại sao lại sinh ra pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh về Cực lạc quốc? Cúi xin Thầy chỉ giáo cho con”.

Đó là cái câu hỏi.

Bởi vì Thầy giảng ở trong cái bài giảng thì Thầy biết rằng theo cái giáo lý của đức Phật thì một tôn giáo chỉ có một đức giáo chủ, chứ không thể có nhiều giáo chủ. Cho nên hầu hết chúng ta cũng nhìn thấy trên cái hành tinh chúng ta có nhiều tôn giáo nhưng mà mỗi tôn giáo đều có một đức giáo chủ chứ không có hai, ba giáo chủ. Do vì vậy thì đạo Phật chúng ta cũng biết rằng chỉ từ có đức Thích Ca mà thôi. Nhưng sau này mình phải xác định như thế này này, sau này người ta thêm thắt ra, rồi người ta ở trong cái tư tưởng nào mà người ta thêm thắt ra. Thí dụ như trong kinh Di Đà đó, thì đức Phật không phải là giới thiệu, có một cái đức Phật A Di Đà là một giáo chủ của cõi Tây Phương. Mà trong đó đức Phật còn giới thiệu bốn phương, rồi phương trên, phương dưới đều có những đức Phật làm giáo chủ mỗi phương hết. Rồi ở trong kinh văn Duy Ma Cật thì đức Phật, cũng chính đức Phật Thích Ca cũng giới thiệu ở trong kinh Duy Ma Cật thì có một nước Chúng Hương thì ở đó cũng có một cõi giới mà đức Phật ở cõi nước Chúng Hương đó cũng có Bồ tát cũng có Thanh văn, cũng có đủ hết người ta đến dự cái thuyết pháp ở trong cái buổi thuyết pháp của đức Phật Thích Ca. Do đó vì vậy mà đức Phật cũng giới thiệu cho chúng ta biết cái nước Chúng Hương đó. Như vậy chúng ta thấy những cái người mà sau này thêm vào người ta đứng ở trên cái lập trường nào, mà người ta thêm vào có nhiều cái giáo chủ của đạo Phật như vậy? Nhưng mà kẽ hở của người ta để cho chúng ta thấy rất rõ là vì người ta tưởng tượng có thể mỗi một cái quốc gia đó là một ông vua là một giáo chủ. Cũng như bây giờ trên hành tinh của chúng ta có nhiều nước chứ đâu phải có một nước, phải không? Nhưng mà mỗi nước thì có một ông vua, vì vậy cho nên cái người mà thành lập những cái pháp mà sau này đặt ra để mà gạnh ra thì họ đứng trên cái môi trường của vai trò mà phong kiến. Tức là cái thời vua chúa rồi đó, thành ra họ cứ nghĩ bây giờ mình đặt vậy thì cái tôn giáo có nhiều giáo chủ là cũng giống như trên hành tinh chúng ta có nhiều đất nước, có nhiều ông vua. Họ nghĩ vậy mà, bị ảnh hưởng như vậy đó mà họ không thấy kẽ hở.

Bởi vì tôn giáo nó chỉ có một ông giáo chủ đó, cái giáo lý, cái triết lý của nó chỉ có một không thể hai được, không thể hai, ba được. Bởi vì thí dụ bây giờ chúng ta đứng ở trên lập trường chúng ta nhìn này, cái tôn giáo mà hiện bây giờ chúng ta phải thấy như tôn giáo Cao Đài người ta đến người ta nghiên cứu về tôn giáo Cao Đài. Người ta tìm cái chân lý của nó không có, mà nó lấy Phật giáo rồi lấy Thiên giáo rồi lấy Khổng giáo, lấy Thiên Chúa giáo nó kết hợp lại nó thành ra một cái tôn giáo Cao Đài. Là một cái tôn giáo Cao Đài nó không có chân lý thật của nó. Không có chính của nó. Còn cái Thiên Chúa nó có của nó. Đó cho nên một cái tôn giáo ra đời nó phải có cái triết lý của nó ở trong đó, mà nó phải có pháp của nó ở trong đó, nó riêng biệt nó không giống ai, cho nên mới nói nó. Còn bây giờ chúng ta tổng hợp các tôn giáo lại chúng ta gọi là Thông Thiên Học đi. Thì Thông Thiên Học nó chỉ là kết hợp các tôn giáo lại để nó hòa hợp nhau thôi chứ nó làm sao mà nó có chân lý gì riêng của nó đâu mà gọi là Thông Thiên Học là cái giáo. Cho nên nó đâu có giáo chủ. Đó bằng chứng như vậy là các thầy thấy rằng cái vấn đề mà người ta gạnh vô, người ta gạnh vô thêm một cái phần nào đó.

Cho nên đọc qua cái sử của Phật giáo thì chúng ta thấy khi mà vua Bình Sa Vương bị vua A Xà Thế giam ở trong tù thì chỉ có mình ông ta thôi. Còn bà mẹ bà Vi Đề Hi thì không có bị bắt. Nhưng mà khi trong kinh Tịnh độ thì người ta gạnh cái câu chữ đó người ta nói ra là bà Vi Đề Hi và vua Bình Sa Vương bị vua A Xà Thế giam ở trong tù. Cho nên bà ở trong tù bà tha thiết bà cầu đức Phật Thích Ca cứu độ bà làm sao cho bà thoát ra cảnh khổ của vợ chồng như vậy. Lúc bấy giờ đức Phật mới thể hiện thần thông đến trong khám đường mới dạy bà cách thức niệm Phật, niệm Phật A Di Đà. Chứ không phải như ở trong kinh giới thiệu một cách đơn giản mà phải giới thiệu bằng cách có lịch sử đàng hoàng, nhưng mà sự thật lịch sử thì nó không phải vậy.

Cho nên do đó chúng ta thấy trong lịch sử viết rất rõ là khi mà vua Bình Sa Vương bị bỏ tù, bị nhốt rồi thì bà Vi Đề Hi bà mới đem thực phẩm đến bà nuôi vua Bình Sa Vương. Thì vua A Xà Thế mới cấm không cho bà đem thực phẩm nữa. Bà không biết làm sao mà vô thăm Bình Sa Vương, làm sao có gì ông này ăn mà sống được cho nên do đó bà mới thoa mật khắp cùng người của bà, rồi bà mới mặc áo vô thì bà mới xin đi thì coi như lính nó xét tay không mà đâu có gì. Nhưng mà trong người bà bà thoa mật. Nhưng mà vua A Xà Thế mới thấy sao cái thời gian bà này ra mà không có đem gì ăn mà ông này ông ấy không chết. Lẽ ra bỏ đói cho ông ấy chết mà sao ông không chết cho nên mới cho lính khám quả đúng là bà thoa mật ở trong người bà ấy cho nên vua Bình Sa Vương mới vô đó liếm từ cái mật đó mà sống. Cho nên ông ấy cấm luôn bà Vi Đề Hi tức là mẹ của ông cấm không cho vô thăm nữa. Thì khi mà cấm như vậy lúc bấy giờ bà Vi Đề Hi đâu có vô được.

Cho nên lúc bấy giờ vua A Xà Thế vừa sanh ra đứa con. Khi sanh ra đứa con thì ông thấy ông thương đứa con ông quá chừng, thương không thể nào mà tưởng tượng được. Ông mới chạy vô ông hỏi mẹ, khi mà mẹ sanh con vua Bình Sa Vương có… (mất tiếng) (A 35:23) Cách thức mà vua Bình Sa Vương thương vua A Xà Thế như thế nào? Đó, một hôm con bị cái mụn nhọt ở cái đầu ngón tay mà nó sưng nó nhức con khóc không có ai mà dỗ được cho nên cha con mới dỗ con. Nhưng mà ông biết làm sao không? Vì khi vua mà ngậm cái mụn nhọt ở trong miệng, mà ngậm ngón tay con ở trong miệng thì nhờ sức nóng từ miệng vua Bình Sa Vương thì con không có đau nhức, cho nên ông cứ ngậm hoài. Mà hễ lấy ra nó lạnh thì nó đau nhức con khóc, cho nên đến khi cứ ngậm như vậy cái mụn nhọt ở ngón tay con nó bể mủ mà ông cũng không dám lấy ra nữa phải đành nuốt máu mủ con.

Vua A Xà Thế nghe mẹ mình diễn tả cái tình thương của cha mình đến cái mức độ đó ông không còn đứng yên được nữa. Ông chạy vô khám mà mở cửa khám thả cha mình ra, nhưng mà không ngờ cha mình đã nhịn đói 3 đến 4 ngày chết rồi còn đâu, ông đã chết đói ở trong khám. Đó thì câu chuyện như vậy đó. Thế mà người ta dám đặt ra là bà Vi Đề Hi bị ở tù với ông Bình Sa Vương. Rồi từ đó bà Vi Đề Hi, đàn bà thì người ta nhát gan lắm người ta ở tù người ta sợ lắm cho nên người ta cứ cầu Phật thôi. Cho nên ông Phật cảm động được chỗ đó mới hiện đến, dạy bà niệm Phật Di Đà để cầu vãng sanh đến được cõi Cực lạc an ổn, nên mới có câu chuyện như vậy.

Các thầy thấy trong những chuyện mà dựa vào chuyện lịch sử mà ghi như vậy nó có đúng sử không, cho nên trong kinh Di Đà, tất cả những kinh như kinh Trực Chỉ, kinh Di Đà, rồi kinh Vô Lượng Quang, hầu như là người ta tu về pháp môn Tịnh độ thì nó rất nhiều chứ không phải. Bởi vì cái thời đại mà trước chúng ta, các bậc tôn túc của chúng ta, các bậc hòa thượng, như bây giờ chúng ta thấy như hòa thượng Thiện Hoa, hòa thượng Tuyết Tịnh rồi một số quý bậc hòa thượng lớn bây giờ hiện họ còn đang tu Tịnh độ đó. Cho nên trong cái sự tu Tịnh độ thì trong kinh nó nhắc như ở bên Trung Hoa thì nó nhắc có một cái ông này ở tỉnh kia, có một ông nọ ở cái làng nọ, ở xứ này kia, mọi người đều tu Tịnh độ, đến cái ngày Cực lạc tây phương thì có Phật Di Đà hoặc có triệu chứng này triệu chứng kia thì nghe rất hay. Những cái huyền thoại những câu chuyện chúng ta thấy tuyệt vời. Pháp môn Tịnh độ người ta tu chứng rất đông. Cho nên cái ngài khi mà ngài thiền sư Huệ Viễn đó Ngài lập Liên Trì Thư Xã, ngài sớ giải tất cả các loại kinh đại thừa Tịnh độ này hướng dẫn cho người ta. Ngài là một thiền sư có danh tiếng ngài thị tịch một cách tự tại. Khi mà vua mời ngài đến đăng đàn thuyết pháp thì ngài từ chối ba lần như vậy. Thì trong một hôm đó cái người đến mà mời ngài, cái vị sứ quan đến mời ngài thì ngày đó là ngày mời lần thứ ba, nếu mà kỳ này ngài không đến thuyết pháp cho vua, cho trong cung vua thì tôi sẽ bị cả gia đình bị tru di tam tộc đi. Xin ngài thương chúng tôi mà ngài đi dùm thì ngài hứa thôi được rồi ta sẽ đi. Nhưng ngài nguyện là ngài không có rời khỏi núi cho nên hôm đó Ngài họp chúng lại ngài hỏi ai đi với ta xuống được kinh đô? Thì trong chúng ai cũng nói con đi được 50 dặm con thì đi được 70 dặm, con đi 100 dặm, con đi 200 dặm.

Ông nói mấy ông đi với ta không được đâu. Vậy còn ai đi được với ta nữa không mới đi với ta xuống dưới. Thì có một chú thị giả nói con đi được thưa hòa thượng. Hỏi vậy chứ ông đi được bao nhiêu mà ông đòi đi theo ta, thì nói hòa thượng đi tới đâu con đi tới đó. Thì bắt đầu ông Huệ Viễn đó ông ngồi ông thị tịch, ông ngồi ông thị tịch chết thì chú thị giả đứng hầu bên cũng thị tịch luôn. Hai Thầy trò đứng chết, trời chúng ta nghe hay quá chứ gì, thầy trò sao mà chết tự tại quá. Đó là cái câu chuyện của ngài Huệ Viễn, nhưng mà ngài Huệ Viễn là một thiền sư tự tại như vậy mà không đem cái pháp môn tự tại dạy người ta, để thành lập cái Liên Trì Thư Xã dạy người ta. Cho nên ngài Vĩnh Minh Diên Thọ sau này xương minh ngài nói như thế này này: một người tu thiền mà tu Tịnh độ như cọp mọc sừng. Mười người đều đạt được mười người, còn người tu thiền mà không tu Tịnh độ mười người chưa đạt một người. Vậy là ngài Vĩnh Minh Diên Thọ xương minh cái Tịnh độ hết mức.

Nhưng sự thật chúng ta đọc trong kinh Tịnh độ chúng ta thấy có những cái mẩu chuyện mà người tu Tịnh độ chứng đạt rất là vi diệu. Nhưng mà nhìn thực tế thì chúng ta lại không thấy. Bởi vì thực tế là các bậc tôn túc thầy tổ của chúng ta đều là những người tu Tịnh độ hết rồi bắt đầu phật tử chúng ta ai cũng lần chuỗi hết. Cho nên hiện giờ mà quý thầy thấy, quý thầy mà ra ngồi, lên đàng mà ngồi ông nào cũng đeo xâu chuỗi dài tới cổ hết. Trời ơi trang trí Thầy nói ông thầy nào cũng đẹp hết à, phải không? Thầy nào cũng đeo chuỗi, chuỗi tay rồi chuỗi cổ, có nhiều người đeo hai, ba chuỗi chứ đâu phải một chuỗi. Ông thầy nào cũng có hết không phải là thầy Tịnh độ sao. Nhưng mà quý thầy thấy khi chết rồi quý thầy thấy sao, bằng chứng thực tế chúng ta phải nhìn chứ để chúng ta biết cái pháp môn đó có dẫn chúng ta đến chỗ nào không chứ. Nếu mà chúng ta cứ nghe cái chuyện nói láo vọng ngữ ở trong kinh sách mà đặt điều ra nói, nói ông ở chỗ này chỗ kia, như bây giờ Thầy ngồi đây Thầy nói có một ông ở xã Thạnh Phước, ông ở xã Trường Lưu hoặc ở huyện Gò Dầu có ông đó vậy. Nhưng mà đến đó hỏi không có ông đó, phải không. Nhưng ở đây Thầy đặt được, ờ ông đó ông tu Tịnh độ vậy vậy đó tới ngày vãng sanh trời ơi mùi thơm ngào ngạt hoa sen rất cùng, hoa trời đầy hết. Thầy nói ở trong bài thì Thầy viết thì như vậy nhưng mà thực tế lại cái chỗ đó hỏi có ông tên đó không? Không! Không ai biết tên ông đó hết, có phải là vọng ngữ không? Gạt người ta để xương minh cái Tịnh độ chứ gì. Thì cuối cùng chúng ta hình dung bao nhiêu người đã tu Tịnh độ, từ cư sĩ có nhiều người khi nghe cái Tịnh độ ai cũng được hết, vậy hết bởi vì pháp môn dễ niệm Phật là được vãng sanh. Cho nên bốn mươi tám lời nguyện của đức Phật như thế nào :

“Thiện nam tín nữ các người,

Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra

Ta không rước ở nước ta,

Thệ không làm Phật chắc đà không sai”.

Các con thấy ông Phật Di Đà nguyện rất lớn nhưng mà người ta niệm Phật đâu có mười tiếng, trời đất ơi cả lố, phải không các con thấy đếm không có hết, chuỗi này lần tới chuỗi kia ông nào cũng muốn sanh Cực lạc, chứ ai muốn ở thế gian, ở cái cõi trần này cực khổ gần chết. Cho nên nó có những cái pháp môn mà nhiều người phải niệm Phật phải la cho lớn để ức chế vọng tưởng vậy. Có nhiều người niệm Phật theo cái hơi thở, nhiều người phải đếm xuôi đếm ngược đủ loại đủ cách để mà ức chế vọng tưởng. Cuối cùng chẳng thấy ma nào mà có thể giải thoát sanh tử, không có làm chủ được sanh tử, mà không biết chết đi đọa ở đâu. Chứ còn Thầy thấy khi mà chết rồi các bậc hòa thượng thì mình còn dễ thấy bởi vì họ là những bậc Thầy mình mà. Họ đều là tu niệm Phật hết mà nhưng mà tới chừng đó họ bán thân họ nằm tới cái ngày chết họ mê muội luôn, họ chết hổng biết gì hết, không có tỉnh gì hết.

Đó, bằng chứng Thầy dẫn chứng trong cái bài kinh của Phật dạy chúng ta rõ ràng chúng ta tu Chánh niệm tỉnh thức thôi mà chúng ta chết đi chúng ta biết chúng ta được vào bào thai mẹ, phải không? Có một cái Chánh niệm tỉnh thức thôi chúng ta chỉ đi chúng ta nhìn ở dưới chân chúng ta đừng có đạp chết chúng sanh là cũng đã đủ tỉnh thức rồi là khi chết chúng ta đi vào lòng mẹ chúng ta biết. Tức là không phải nghiệp lực lôi chúng ta rồi, cho nên khi mà vào bào thai rồi chúng ta biết, chúng ta biết chúng ta đi vào bào thai. Tức là biết chúng ta sanh vào cái nhà nào, cái người đó là ai chúng ta biết được. Bởi vì cái sự tỉnh thức của chúng ta cho nên không có cái nghiệp, cận tử nghiệp nào lôi chúng ta được. Còn cái sức tỉnh thức chúng ta không có thì chúng ta phải mê. Mà bây giờ vì cái duyên nghiệp nào mà các người niệm Phật mà lại nằm mê man ở trên giường bệnh. Người mà bán thân khi chết họ mê man họ không biết.

Cho nên bây giờ Thầy có nhắc lại cho quý thầy thấy đó, thí dụ như bây giờ hiện sư trưởng không phải người của niệm Phật sao. Không phải các hòa thượng tôn túc Thầy không nhắc không kể tên ra cho quý thầy thấy, các bậc hòa thượng mà danh tiếng ở trong đất nước chứ không phải không đâu, những cái bậc đó đều danh tiếng. Cho nên hầu hết là những người đó đều là thông kinh sách hết mà họ tu Tịnh độ, cuối cùng họ trăn trở trên cái giường bệnh của họ rất là khổ sở.

Đó là tất cả những cái mà Thầy tổ của mình là những người mà đã hướng dẫn, Thầy nói Thầy và quý thầy hiện bây giờ mà biết được những bậc mà hòa thượng danh tiếng chứ còn mà những bậc nhỏ nhỏ chúng ta không biết được đâu, phải không. Không hiểu đâu nhưng mà những bậc hòa thượng danh tiếng, những người mà gọi là ai cũng biết tiếng, nhưng mà khi chết thì rất đau khổ. Họ là những người mà tin Cực lạc hết sức tin, niệm Phật hết sức niệm đó, đêm ngày niệm, hở ra chút nào ngồi ở trên pháp tọa chứ rảnh là ngồi lần chuỗi rồi không có để kẽ hở đó, họ đáp từ nói gì nói rồi ngồi không họ tụng. Họ đến cái chỗ mà họ thọ trai cũng vậy, họ ngồi ăn thì thôi chứ còn hở ra cái họ ngồi lần chuỗi rồi. Làm như cái thói quen của họ rồi, Thầy thấy quý hòa thượng vậy à, liên tục như vậy đến cuối cuộc đời của họ để lại cái hình ảnh đau khổ hết sức. Nhiều khi mổ xẻ từng lớp da của họ ở trong thân của họ, thì thấy qua những cái chuyện giải phẩu của bệnh viện, tan nát, "thiện nam tín nữ các người chí thành...

Mặt B.

Đau khổ mà chúng ta không sáng suốt. Con người chúng ta sao Vô Minh đến độ mà không nhìn thấy. Cứ đọc ở trong kinh sách như thế nào chúng ta tin như thế nấy.

Thứ nhất làm sao mà một tôn giáo lại có nhiều giáo chủ được. Dù đức Phật Thích Ca có nói vậy chúng ta cũng phải nghĩ rằng ông Phật Thích Ca chỉ là người khiêm nhượng mà thôi. Nếu mà đã có những bảy ông Phật quá khứ thì làm sao không có giáo pháp của đức Phật mà ông Phật Thích Ca phải đi tìm từng ông này đến ông kia, rồi phải bỏ đi tự mình đi phát triển ra một cái pháp tu hành. Các con nghĩ đức Phật nói ờ quá khứ có bảy vị Phật, phải không? Thế mà ông Phật phải đi tìm cái pháp để tu, nếu mà có bảy vị Phật tức là phải có cái giáo pháp chứ? Sao lại có bảy người tu được mà lại không có giáo pháp để lại cho đời sau. Tu nào là nhập phi tưởng, phi phi tưởng xứ định, không vô biên xứ, tu cái gì đủ thứ. Ông Phật khổ hạnh đến cái mức độ mà da bọc xương không còn gì hết, rờ da bụng đụng xương sống, rờ xương sống đụng da bụng, ngồi hết có nổi rồi. Ông Phật chỉ còn nằm dẹp xuống đó mà thở thoi thóp như mà sắp chết. Nếu mà không may mà gặp cái cô mà chăn dê ở đó vắt sữa mà đổ cho ông Phật thì ông cũng tiêu luôn rồi còn gì, còn gì tu. Vậy thì có giáo pháp mà tại sao lại không có giáo pháp của đức Phật mà có bảy đức Phật ở quá khứ, cái lý do gì không có? Mà ngoại đạo thì sáu cái giáo phái của tà giáo ngoại đạo, trong lúc đó lại bành trướng phát triển rất lớn. Còn kinh sách của Phật giáo bây giờ lại không có nữa, chỉ có 3 bộ kinh Vệ Đà chứ chưa có bộ Áo Thư nữa, thì quý thầy nghĩ như thế nào? Đâu phải đất nước Ấn Độ không có chữ nghĩa, mà có chữ nghĩa lại có những bộ kinh Vệ Đà lâu đời nhất ở trong đất nước đó, thế mà đức Phật ra đời đã có những kinh đó rồi. Thế mà sao lại không có kinh gì của bảy đức Phật này đã tu thành tựu được như vậy, đều là bậc chánh giác.

Vả lại cái nữa đức Phật trong kinh nói đồng thời trong một lượt của đức Phật. Trong một lượt đức Phật không có một bậc A-la-hán mà lưu xuất hai người một lượt, thì đồng thời đâu có được. Đó các thầy thấy không có được, bởi vì nếu mà đồng thời đức Phật có giới thiệu có một đức giáo chủ ở chỗ nào đó, thì ở đại Ta Bà này có một đức giáo chủ thì đồng thời một cái thời điểm trong cái không gian vũ trụ này đã có hai đức giáo chủ không thể có lưu xuất ra được một lần. Kinh xác định quá rõ ràng, bài kinh Nguyên Thủy rõ ràng, đức Phật xác định chỉ có một, chỉ có một mà thôi chứ không thể hai. Cũng như vua Chuyển Luân Vương, chỉ có một vua Chuyển Luân Vương trong cái thời đại đó chứ không có thể có nhiều ông vua Chuyển Luân Vương ở trong cái thế gian này được. Nghĩa là bây giờ ở trong cái thế giới mình nó, trên cái trái đất hành tinh nó có nhiều nước, phải không mà chỉ có một ông Chuyển Luân Vương ra đời thôi chứ nước khác không có ông Chuyển Luân Vương được. Nếu có hai ông Chuyển Luân Vương này ngang nhau nó đánh nhau chết hết còn gì, các con hiểu không? Bởi vì ông Chuyển Luân Vương này cũng có bảy cái báu thì ông kia cũng có bảy cái báu mà đồng thời ra một lượt thì hai ông này choảng nhau thì bà con mình nhăn răng méo miệng hết đâu còn.

Cho nên đức Phật nói đồng thời không có hai ông Chuyển Luân Vương được, mà đức Phật đã xưng mình, trong cái bài Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư Phật, làm Thầy trời và người. Người là ở trên hành tinh của chúng ta là nơi đâu có những cái sắc thân con người đều là Thầy của loài người. Mà chỗ nào cái thế giới vô hình Tam giới mà, cái thế giới vô hình, dù cõi trời hay cõi nào, vô hình ở đâu bất kỳ cõi nào cũng đều là Thầy hết. Vậy thì có một ông chứ sao lại có hai ông. Như vậy đời sau người ta không hiểu cái ý đó, cho nên người ta gạnh thêm. Gạnh thêm thứ nhất là lịch sử sai, thứ hai là gạnh thêm như trong kinh mà nhắc ra vậy là sai hết. Cho nên chúng ta là người có trí chứ đâu phải chúng ta ngu để mà người khác gạt chúng ta được. Chỉ có những người vô minh nói đâu nghe đó, làm thằng điên thằng khùng cuối cùng tu hành chẳng ra gì. Cuối cùng chết nhăn răng méo miệng, nằm đó mê mờ cũng như là không biết gì hết.

Đó thì bằng chứng Thầy thấy hiện tiền là trải qua cái đời của Thầy thôi chứ Thầy chưa nói các đời khác. Nhưng mà xét đến từ khi tất cả các đại đệ tử của Phật thị tịch hết rồi thì Phật giáo vắng bóng rồi. Người ta chia ra thành 20 bộ phái là tiêu rồi đó. Kể như là Phật giáo tiêu rồi đó không còn nữa. Đó bây giờ hiện chúng ta thấy trong cái vấn đề đó nó cụ thể và rất rõ ràng, cho nên chúng ta phải xét thấy được cái đường lối mà chúng ta hiện giờ tu hành. Tu hành làm sao mà chứng nghiệm được cái chúng ta làm chủ, làm sao mà chúng ta thức tỉnh được. Đó là những cái đặc biệt của Phật giáo.

Đó thì hôm nay Thầy giải thích như vậy để biết rằng, tất cả những cái này là những người sau người ta thêm bớt, người ta làm ra, người ta đặt ra nào nào Liên Trì Thư Xã, rồi người ta dạy đủ cách thức niệm Phật chứ không phải có một lối niệm Phật đâu, không phải niệm Phật thường đâu. Người ta niệm Phật thế này không được người ta đặt niệm Phật cách khác đủ mọi đủ loại.

Đó là một cái pháp môn mà nói về Tịnh độ đó, chúng ta đủ biết là nó như vậy rồi, còn tất cả các pháp môn khác họ đặt ra biết bao nhiêu thứ. Cũng như bây giờ nghe Phật dạy Định niệm hơi thở mà chẳng biết Định niệm hơi thở làm sao hết mà dám đặt ra hơi thở. Mà cái người dạy hơi thở cũng chẳng biết hơi thở là cái gì ở trong thân của chúng ta nữa, họ chỉ biết là hơi thở là cái mạng sống của con người thôi chứ còn họ chẳng biết cái hơi thở tu tập như thế nào đúng, như thế nào sai. Cho nên người ta mới đặt ra pháp An Ban, rồi người ta mới đặt ra pháp sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Rồi người ta thần thoại những cái chuyện vi diệu của một vị như ngài Thiên Thai, ngài còn nằm mộng ngài đi lên cái cõi núi Linh Thứu ngài dự cái pháp hội, pháp hoa của đức Phật, không phải là nằm mộng sao? Mà ông thầy nằm mộng làm sao vượt qua được Tam thiền, Nhị thiền chưa xong nữa thì thử hỏi như ngài Hư Vân hòa thượng ngài còn thấy ngài khi mà bị bắt giam ngài trong khám ngài bị hành hạ quá độ. Đêm đó ngài mê man ngài thấy ngài xuất hồn ngài đi lên ở trên trời Đâu Suất ngài gặp đức Phật đang thuyết giảng kinh ở trên đó. Ngài xin thôi cho ngài ở trên đó, ở thế gian này quá khổ. Đó là những cái hiện tượng chiêm bao của ngài chứ đâu phải là cái thực có như vậy đâu. Mà ngài Hư Vân hòa thượng các thầy nghe cái lịch sử tu hành của ngài dữ tợn lắm chứ đâu phải thường, thế mà ngài chẳng đi tới đâu hết.

Rồi các thầy thấy như các tổ, như Hoàng Bá còn mộng. Mộng thấy mẹ mình sinh lên cõi trời, còn ngài Nam Tuyền thấy thần nhân mách bảo. Tất cả những cái này đều hoàn toàn là còn mộng mị hết. Mà còn mộng mị thì Thầy nghĩ Nhị thiền chưa xong phải còn mộng mị chứ sao, đâu có làm sao mà dẹp cái thứ này được. Cho nên làm sao mà người ta phải phá được cái tỉnh thức đến cái mức độ người ta không ngủ. Mà người ta không ngủ mà thân người ta ngủ cho nên nó đâu có mỏi mệt. Vì tỉnh thức cho nên nó không có mộng được, còn không tỉnh thức thì phải ngủ quên thì phải mộng thôi. Do mộng thử hỏi cái sức độ của thiền sư tu đến cái mức độ nào mà còn mộng mà gọi mình là triệt ngộ, gọi là chánh đẳng chánh giác được, gọi là làm chủ sanh tử được. Đủ bấy nhiêu đó chúng ta cũng đủ biết rằng cái miệng lừa của họ họ lừa chúng ta nhiều quá rồi, gạt chúng ta tận cùng rồi.

Đem hết cuộc đời chúng ta đã không lợi ích cho bản thân mình mà không làm lợi ích cho người nào được hết. Tối ngày cứ ngồi liên miên ở trong thất tu hành riết cuối cùng không lợi ích cho ai hết rồi cuối cùng chẳng có đem lợi cho mình chút nào hết. Cuối cùng chết cũng nhăn răng méo miệng, người này bưng bít người kia, người kia bưng bít người nọ. Họ huyền thoại câu chuyện này huyền thoại câu chuyện kia để gạt người ta. Để rồi ngồi không đó mà tính tiền tính bạc, kinh doanh sự sống bằng mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Phật giáo thì phải cho đúng Phật giáo, Phật giáo gì mà không ra đúng gì hết.

Bởi vậy càng nói Thầy càng thấy giữa Bắc Tông chúng ta cũng vậy, mà đến Nam Tông chúng ta cũng thế. Một cái đất nước mà gọi Phật giáo là quốc giáo của họ, thế mà dân tộc của họ tàn sát con người đến cái mức độ các thầy cũng thấy rõ chứ. Như dân tộc Cam-pu-chia bây giờ sao, nó diệt chủng gần như muốn hết không còn ai nữa. Nếu mà không có cái sự can thiệp của Việt Nam vào đó thì dân tộc nó còn gì? Rồi nó giết những kiều bào Việt Nam chúng ta ở trên đất nước nó, khi mà nó về nó giết, nó không gớm tay chút nào hết, mà mỗi người dân nước nó 18 tuổi là phải được người thanh niên phải được vào chùa để mà 3 năm tu tập trong đó.

Mà đạo Phật là đạo thiện pháp, nó là cái đạo Phật chân chính cái gốc của đạo Phật nó tự xưng là cái đạo Therevada tức là cái gốc của đạo Phật, thế mà cái gốc của đạo Phật nó ác như vậy đó. Nó học hỏi trong kinh Phật vậy như vậy đó, là thiện pháp là nhân quả, là giới luật như vậy. Bây giờ nó ra nó cầm rựa cầm súng nó bắn nó giết người ta như vậy thì thử hỏi Phật giáo như vậy là cái ông sải vua. Gọi là sải vua họ là những người điều khiển đạo đức cho một cái dân tộc đó mà họ điều khiển như vậy đó. Giết cả dân tộc nó như vậy giết cả mọi người thì thử hỏi cái đạo Phật đó là đạo gì? Chúng ta nhìn qua bên Thiên Chúa chúng ta thấy cái ngày mười bốn tháng bảy của đất nước của Pháp, Tin Lành nó giết Thiên Chúa sạch hết. Sáng ra người ta thấy kinh thành Pa-ri không có người đi. Cái ngày kỷ niệm đau đớn nhất tôn giáo ở bên Tây phương.

Còn bên đây chúng ta nhìn thấy cái đất nước Cam-pu-chia nó giết người chúng ta cũng thấy đau đớn cho Phật giáo. Nhìn như vậy, nhìn những trang sử đau đớn như vậy mà chúng ta thấy cái giáo pháp gọi là từ bi hỷ xả, từ bi hỷ xả của Phật ở chỗ đó được sao? Con kiến còn không dám giết, cọng cỏ không dám dẫm đạp cho nó héo. Thế mà cầm gươm, cầm súng mà giết người hàng loạt như vậy. Thấy những cái đống xương sọ người ta thấy kinh khủng rồi. Các thầy cứ nghĩ một cái đạo Phật mà dạy người ta như vậy có phải là chơn chánh không. Có phải hiểu không?

Cho nên Thầy nói thật sự ra tất cả những cái điều mà các thầy tại sao mà bên đó nguyên thủy mà ăn thịt chúng sanh, mà tu theo đạo Phật mà ngồi đó mà nuốt từng cái miếng thịt chúng sanh được. Cho nên cái hành động giết người nó phải được thôi.

Còn Phật giáo Bắc Tông chúng ta nhờ ảnh hưởng Bà La Môn chứ nếu mà nguyên gốc chắc cũng ních ba cái cục thịt cũng đầy miệng hết rồi. Nhờ ảnh hưởng Bà La Môn cho nên ăn chay vì thế nó cũng đỡ nó không đến nỗi giết người như vậy. Cho nên các thầy cứ nghĩ đi. Nếu mà dân tộc chúng ta như Cam-pu-chia mà cái Phật giáo nguyên gốc như vậy, chắc chắn là khi mà giải phóng xong mấy ông sĩ quan này chặt đầu hết, có không? Nó dẹp sạch hết chứ, nó róc hết, nó róc từ cả trứng nước chứ chưa chắc để. Nó giết hết cả dòng họ, nó tru di tam tộc hết. Hồi đó mấy ông biết không, mấy ông cầm súng của Mỹ, của Tây mấy ông bắn tôi biết bao nhiêu không? Bây giờ mấy ông cứ nhìn cái nghĩa trang coi biết bao nhiêu người của cách mạng chết không? Bây giờ mấy ông chả nhằm nhò gì các thứ mấy ông, phải không?

Việt Nam chúng ta không có cái tàn ác nhờ ảnh hưởng Phật giáo của Đại Thừa, biết ăn chay đó, biết niệm Phật Di Đà đó, nó đỡ. Hồi nãy Thầy chê là tại vì niệm Phật Di Đà nó không có đem đến giải thoát thật sự. Nhưng ít ra nó cũng còn có thiện hơn là những cái nước mà gọi là Phật giáo Nam Tông. Bằng chứng đó bây giờ lịch sử như vậy chúng ta không có thể nào mà chối cãi được. Phật giáo Nam Tông ảnh hưởng đó là tôn giáo đó phải chịu trách nhiệm, người mà lãnh đạo Phật giáo ở đó phải chịu trách nhiệm cái điều đó trước đức Phật. Đức Phật đâu có dạy mấy ông vậy, bây giờ mấy ông dạy người ta ăn thịt ăn cá để cho thấm nhuần trong thân tâm của mấy ông thịt cá. Để mấy ông cầm gươm cầm súng mấy ông giết người, có không? Mấy ông đừng có chối cãi được, một người dân một người thanh niên của nước mấy ông là quốc giáo bắt buộc người ta vào tu ở trong đó. Để đi ra làm cái chuyện tàn ác đó, thì đó là một cái lên án mấy ông là đúng chứ không có làm sao mấy ông chối cãi được hết.

Bây giờ Thầy sẽ nói thêm cái phần của cái bài giảng vừa rồi, vì sợ quý thầy có hiểu lầm qua cái ý của Thầy khi đó Thầy có so sánh ở chỗ này. Thầy nói Thầy sanh ra từ cái chỗ con người cũng khóc thét chứ đâu có cười được. Cũng  trong từ cái chỗ sanh ra của cha mẹ bẩn thỉu mà hôm nay Thầy làm được những cái điều mà cũng khó có người làm. Nhưng mà đối với đức Phật thì Thầy đâu có đủ đại thần lực, đại oai lực, đại minh lực được. Đối với đức Phật thì Thầy còn thua xa, đối với chúng Thánh tăng Thầy cũng còn xa, Thầy chỉ có một phần là làm chủ được cái sống chết của mình thôi. Nghĩa là bây giờ Thầy muốn sống hồi nào Thầy sống, Thầy muốn chết ngày nào Thầy chết, Thầy thấy có bao nhiêu đó Thầy đủ cái ước vọng của mình rồi. Bởi vì con đường mà tu hành theo đạo Phật trước cái sống chết mà mình không có ngại nó nữa rồi, thì mình thấy được cái chỗ giải thoát rồi. Và đồng thời mình xét qua cái tâm của mình, nó không còn tham đắm một thứ gì trên thế gian này từ cái ăn, cái mặc, cái chùa, cái tháp... Tất cả mọi cái mình đều xả bỏ được thì Thầy thấy đây là nó giải thoát rồi. Thầy không ham tới những cái thần thông, oai lực cũng như các bậc và Thầy cũng không có ước vọng mình là một bậc đạo sư và cũng không ước mình là một giáo chủ hoặc là ước mình là một người thừa kế đức Phật. Cho nên Thầy thấy được giải thoát là đủ rồi.

Cho nên so với đức Phật thì Thầy còn cách xa ngàn vạn dặm mà so với các vị đệ tử của đức Phật thì Thầy còn cách xa trăm ngàn thước chứ chưa có nhằm nhò gì đối với các bậc Thánh tăng. Cho nên đối với Thầy, Thầy chỉ có ước vọng nhìn các bậc tôn túc tu hành đến khi mà chết nhìn quá khổ, còn Thầy bây giờ chắc chắn là lúc nào chết cũng là tự tại rồi chứ không có đến khổ nữa thì ước vọng của Thầy đã viên mãn. Cho nên khi Thầy về thầy TT là mục đích của Thầy thứ nhất là gợi lên cái ý để làm cho những người, người ta bỏ hết cuộc đời người ta tu để cho thầy TT lấy cái chỗ đó đó mà khuyên Thầy nên thực hiện các sức thiền định làm chủ của mình coi cho những vị này người ta thấy. Để cho người ta có cái niềm tin rằng mình cũng có sức làm chủ như vậy.

Nhưng mà thầy TT Thầy không có hiểu cái điều đó cho nên thầy hỏi qua những cái công án, mà làm gì Thầy không hiểu công án. Thầy TT nói cái gì Thầy cũng biết ở trong bụng sao mà Thầy không hiểu. Cho nên lời nói để diễn tả cái hiểu của mình qua cái ý của người ta, nhưng mà hiểu hơn cái lời nói đó rồi thì có cái gì mà không hiểu, dù câu gì đi nữa làm sao những công án, làm sao mà gạt được những người mà tâm đã tịnh, người ta đã ly hết cái thế gian rồi, tâm nó tịnh thì người ta hiểu từ trong tâm ý chứ đâu phải người ta hiểu ở ngoài cái lời nói. Cho nên thầy TT hỏi gì Thầy trả lời cái nấy hết. Không có gì mà Thầy trả lời không đúng tâm của thầy TT. Nếu mà Thầy không hiểu tâm của thầy TT thì Thầy trả lời nó sẽ sai. Mà Thầy đã hiểu tâm thầy TT muốn nói câu đó là thầy TT muốn Thầy phải trả lời câu nào, cho nên đúng thì Thầy sẽ trả lời ngay câu đó thì đúng ý ông ta liền, có gì đâu.

Còn mấy thầy học hiểu như vậy là nắm được cái mấu chốt nào đó để mò mà trả lời may nó trúng không may thì thôi, phải không? Đó là các thầy nghĩ rằng mình ngộ được cái công án như vậy. Chứ còn Thầy hiểu trong tâm người ta mà trả lời chứ không phải trả lời bằng cách ở bên ngoài như vậy. Đó là Thầy thấy chuyện mà Thầy làm là Thầy muốn để gây lại cái niềm tin cho người ta biết đó là con đường tu để mà làm chủ sanh tử. Mục đích đó thôi và đồng thời khi đó có sự yêu cầu của hòa thượng thì Thầy ghi lại những kinh nghiệm tu hành của Thầy giao cho hòa thượng. Từ đó Thầy thị tịch luôn để cho chúng, bao nhiêu chúng lúc bấy giờ đông chứ không phải ít, bao nhiêu chúng nhìn thấy cái sự tự tại của Thầy để cho họ niềm tin họ biết cái pháp này làm được.

Từ đó thầy TT, thầy sẽ khai triển cái này thầy giúp cho người ta, tới bây giờ 17 năm biết bao nhiêu người làm chủ sanh tử không? Nếu mà họ đã được cái chân pháp rồi, họ tin tưởng được rồi thì bao nhiêu người đã làm chủ sanh tử. Còn tại sao mà Thầy không tự mình mở ra để cho người ta theo mình để làm chủ sanh tử? Làm sao được, cái kiến chấp của thiền tông của họ đầy ắp ở trong đầu, cho nên họ về đây Thầy dạy họ chứ họ không tu đâu, họ không tin đâu, họ tu theo kiểu họ. Hầu hết là người nào cũng vậy, suốt 17 năm trời Thầy đã thấy cái điều đó quá chừng, còn cái người quyết theo Thầy nghe cái lời Thầy tu thì quá ít. Nói độc cư họ chẳng độc cư gì hết. Họ nói thiền Đông Độ dạy tự tại đâu có chuyện khép ăn ngày một bữa cũng đâu có… Hoàn toàn nó rộng rãi quá mà cho nên 20 người trong thời gian rất ngắn chừng hai ba tháng là họ đi hết sạch, còn có 2 người à. Còn hai người là Mật Hạnh với Chân Tịnh chứ ai, còn bao nhiêu quét đi hết, họ đi bay hết, đó rồi Chân Tịnh sau này cũng bay luôn, ăn với ngủ, ngủ li bì không có chịu khắc phục, không chịu đi kinh hành lười biếng nằm riết rồi cũng phải đi thôi. Rồi sống như vậy độc cư không nói chuyện chịu không nổi, rồi đụng ai vô đây gặp mới gặp cũ gì cũng kéo nhau nói chuyện với nhau hết. Do đó làm sao tu hành được.

Các thầy thấy trong vấn đề làm sao mà nghe lời Thầy dạy, mà không nghe lời Thầy dạy thì làm sao mà Thầy dạy được. Cho nên vì vậy Thầy biết bây giờ đứng ra ngoài cái góc độ của hòa thượng không thể độ ai được, chỉ có hòa thượng nói người ta tin. Mà cái chứng nghiệm để cho người ta tin sâu hơn là Thầy phải chứng nghiệm, Thầy phải ra đi. Cái ra đi của Thầy để chứng minh rằng Thầy tự tại trong cái sự sống chết, để làm cho người ta tin sâu. Từ đó hòa thượng lấy kinh nghiệm đó mà dạy họ thì chắc chắn là bao nhiêu người cái kiến giải thiền Đông Độ họ quét sạch ra họ đâu có thèm tu, phải không? Họ đi vào con đường giới luật của Phật, từ đó người ta thực hiện được những cái sự giải thoát thật sự của đạo Phật, chừng đó là hòa thượng đã dựng lại Phật pháp. Thầy đâu có cần danh cần lợi mà ở đây Thầy dựng, nhưng bởi vì hòa thượng không chấp nhận nên Thầy mới 17 năm trời lận đận Thầy mới ở đây mà chịu nhận quý thầy thấy khổ hết sức chứ đâu phải, bao nhiêu lần cực khổ. Mở ra bốn vị về, công an nó bắt ra ngoài nó khám nó nhốt ngoài đó một ngày một đêm, đâu có phải chuyện dễ. Thầy cũng phải chạy đi lo, Thầy với ông thầy Châu chạy đi lo muốn chết mới ra được chứ đâu phải chuyện dễ đâu quí thầy tưởng, mà đều là mấy ông già lụm cụm không, chỉ có một chú Thiện Ngộ còn thanh niên, nó bắt nó nhốt trong cái xô, trời nắng mà ở trong nhà riết trời ơi, ông về ông ấy hoảng sợ luôn ông ấy không dám ở đây mà ông ấy trở về nhà ông, ở đây cô Út phải đưa đi, ông sợ quá sợ rồi, trời ơi vô trong đó ở truồng không có mặc quần áo gì hết. Nó như vậy các thầy biết gian khổ vất vả, gian khổ vất vả chứ không phải được như bây giờ đâu, đến đây nhà nước cho đăng ký, hồi đó giấy tờ cũng đàng hoàng đến đăng ký rồi bắt đầu mời ra, không phải chuyện dễ. Đó Thầy nói đó là lúc bấy giờ Thầy Diên Hải về đây đó, Thầy Diên Hải cũng bị nhốt chứ đừng có nói khỏi.

Đó là những cái mà Thầy thấy rất là gian khổ, mười bảy năm trời tìm ra một người đem cái chân pháp mình dạy không ai tin hết. Hễ dạy họ căn bản họ đòi cái gì đâu, họ đòi phải nhập định liền à! Thì thử hỏi dạy làm sao dạy không. Cái bước đầu không đi mà cái bước sau họ đi, dạy ăn ngày một bữa họ nói: Thầy cứ dạy ăn với ngủ không, không biết dạy gì hết. Trời đất ơi ăn ngủ còn chưa làm chủ biểu làm chủ cái gì bây giờ, Thầy chả biết cái gì nói nữa. Ăn ngày một bữa hổng được mà bây giờ còn muốn ăn cái bụng cho nhiều, cho đầy 3 bữa thì dục nó sinh ra ông nội Thầy muốn ngăn nó cũng hổng được nữa. Nó thấy con gái thì nó nhìn mê hết, nó bảo Thầy làm sao bây giờ? Bởi vì mình ăn ít, cái dục mình nó ít, lần lượt cái ngủ nó giảm bớt đi, cái ăn nó ảnh hưởng dữ lắm cho nên nó mới sanh ra ít dục. Từ đó mình mới khắc phục mình lần lần, cái thân này nó đòi hỏi, dữ lắm chứ đâu phải dễ.

Biết như vậy mà nói không ai nghe hết, khép họ vô ăn họ nói chóng mặt nhức đầu, ăn như này làm sao tu, sức khỏe đâu tu. Trời ơi họ tu cái gì, Thầy chả biết cái gì, người ta tu người ta còn cái bộ xương à, mà cái tinh thần của người ta lớn lên. Còn quý thầy ăn uống mập ra mà cái tinh thần của quý thầy như hột cát vậy đụng đâu là co đó. Cho nên nhìn qua 17 năm trời Thầy thấy cả một vấn đề mà độ người. Nếu mà phải người nào đến đây nghe lời Thầy hết thì 10 người 20 người họ đều đạt được hết, thì cái chuyện đó quá dễ rồi. Bởi vì Thầy biết cái kiến giải, cái kiến chấp ở trong đầu của họ. Họ mang nhiều cái pháp trong đó, người thì mang Tịnh độ, người thì mang pháp này pháp kia, phá cái đó không có được, vậy thì độ làm sao độ được.

Thầy nói như vậy thì quý thầy thấy cái nỗi khổ của Thầy ghê gớm lắm, nhưng mà muốn chấn hưng Phật pháp phải chịu khó ở lại mấy năm trời mới được, cho đến bây giờ Thầy thấy họ vén lên được một chút ít người ta đã thấy được con đường, dù sao đi nữa vẫn bị cái sự cô lập của những giáo phái khác chứ đâu phải không. Hai cuộn băng mà Thầy đưa ra gần đây nhất là Phật Môn Bảo Huấn với Trở Về Đạo Phật là gợi ý cho hòa thượng đó. Nghĩa là hai cuộn băng mặc dù Thầy không trao, nhưng mà gián tiếp trao cho Thầy Thông Luận, Thầy Thông Luận mới đưa về cho Thầy Nhật Quang, Thầy Nhật Quang mới đưa về hòa thượng. Do đó hòa thượng nghe hai cuộn băng đó hòa thượng chỉ nói như lời của Thầy Thông Giác về nói lại với Thầy là người dám ăn dám nói vậy phải có gì được đây.

Chỉ vậy thôi rồi luôn luôn bưng bít không bao giờ mà cho người nào nghe. Thậm chí như người ta nói. Người ta nói như thế này: nếu mà cho nghe hai cuộn băng này thì nó không có ích lợi gì cho quí thầy, nghĩa là Thầy nói sai mà, cho nên vì vậy nó đâu có ích lợi cho thầy, các con hiểu không? Cho nên đó là cái lý luận của họ, chứ nếu nghe hai cuộn băng này mà như ở trong cả cái miền nam này mà được phổ biến, như mà Chánh Trực mang về miền Bắc phổ biến á, thì bây giờ cái số người miền Bắc mà hôm nay còn ngồi đây được mà nghe được là được nghe những cái lời băng đó, lời băng của Thầy giảng. Chứ mà nếu không có nghe không có Chánh Trực mà làm điên làm khùng đem về ngoải mà phổ biến á, thì chắc chắn bây giờ không có người nào mà ngồi đây được. Bưng bít như mà ở miền Nam này bưng bít không có cho, bởi vì Thầy nói họ biết đúng là pháp họ không có thể mà phân tích được mà phê bình được lời dạy của Thầy. Nhưng họ vẫn bưng bít, họ vẫn không có cho người theo đó để mà tu tập, họ tìm mọi cách, Thầy biết rõ điều đó mà.

Cho nên Thầy muốn gợi ý là để không phải Thầy muốn đoạt cái quyền của mình để hướng dẫn đâu. Bởi vì trong cái số đồ chúng trong Các Chiếu không phải người nào cũng tu hết một lượt mà được đâu, nó còn tâm thương tâm ghét gia đình này kia. Thì những người đó để lần lượt hòa thượng hướng dẫn cho họ trên con đường pháp đó. Còn trong đó số ít, rất ít chọn những người mà người ta cắt đứt được gia đình người ta hết. Những người đó chọn đi vào một cái vị trí sâu hơn do hòa thượng điều khiển và Thầy chỉ âm thầm ở trong đó làm cái người hướng dẫn, thì có phải đào tạo những con người không? Nhưng mà hòa thượng không hiểu ý, Thầy đâu có về đó mà hàng ngày Thầy đi thuyết giảng thay hòa thượng rồi để cho hòa thượng làm thái thượng hoàng, ngồi ở đâu. Đâu có điều đó, hòa thượng còn có trách nhiệm dạy bao nhiêu cái thứ chúng, cũng như chúng cư sĩ, cũng như chúng tu sĩ mà đang ở trong cái bắt cá hai tay, thì hòa thượng sẽ giảng dạy các pháp của hòa thượng, rồi lần lượt giúp cho cái bàn tay của họ đừng có nắm hai tay mà đi vào đạo. Bởi vì hai tay rõ ràng Thầy nói hai tay rõ ràng, đạo là phải ăn một bữa, đạo không thể ăn ba bữa, mà cái người nào mà chấp hành được ăn một bữa thì mới khép vào cái chỗ tu hành sâu chứ. Còn người nào ăn ba bữa thì thôi cứ để họ ăn ba bữa, dạy họ những cái gì với cái tầm vóc, với cái khả năng của họ thì không phải quý sao? Thì không phải giữa Thầy trò hợp nhau mà xây dựng Phật pháp sao, đi vào đúng con đường của đạo Phật thì cái giới hạnh của người ta hiện ra, cuộc sống của tu sĩ ai là không quý trọng.

Thì Thầy thử hỏi trong cái đất nước này mà có được cái sự hợp nhau mà thầy trò hợp nhau bây giờ Phật giáo bao nhiêu cái thời gian mà chúng tu hành thì thử hỏi từ cái ngày mà Thầy về hòa thượng cách đây là 17 năm. Nếu mà cái ngày đó mà tới bây giờ hòa thượng đã đào tạo biết bao nhiêu người không? Với cái số người mà họ tin ở hòa thượng vì hòa thượng là những người thuyết giảng dạy về giáo lý họ từ xưa đến giờ, từ hồi mà hòa thượng Thiện Hoa. Thì bây giờ cái số người mà theo hòa thượng là những người đã học với hòa thượng. Còn Thầy có giảng dạy cho ai bao giờ đâu, cho nên làm sao họ biết Thầy được mà họ theo, mà họ có tin nổi Thầy không? Đó là cái đầu tiên mà Thầy về Thầy thị hiện để mà trợ giúp hòa thượng, nhưng hòa thượng không hiểu, hòa thượng bảo Thầy về Thầy đọc kinh sách đi, đọc hết đi rồi giúp hòa thượng, giúp hòa thượng bằng cách đi thuyết giảng như vậy sao. Cho nên Thầy đọc là đọc chứ không bao giờ đi thuyết giảng mà tìm người để mà dạy họ cho được để làm cho Phật pháp sáng tỏ.

Hôm nay vì cuối cùng Thầy thấy nó được cái duyên khó mà có thể hợp tác làm cho sáng tỏ Phật pháp, giúp cho người ta bớt cái thời gian để cho mọi người đạt được cái sự cứu cánh khỏi uổng cái cuộc đời của mọi người đang tu ở trên cái hoàn cảnh này. Nhưng mà cái duyên mà thôi, cho nên buộc lòng Thầy, cuối cùng ẩn bóng là Thầy soạn cái giáo án này ra, đường lối của đạo Phật như vậy đó, các ông tu sai là các ông phải bị. Thầy đập hết, từ Nam tông Bắc tông Thầy quét sạch hết, ai có nghe không nghe thì thôi, hoàn toàn Thầy là người không còn ở trong thế gian này nữa, coi như là ẩn bóng, coi như là Thầy đã thị tịch cho nên không còn ai gặp được Thầy khi mà giáo án Thầy ra đời.

Rồi ở đây thì các cư sĩ, các tu sĩ thấy đúng thì theo đó mà tu, thấy không đúng thì thôi không có ai ép buộc, bởi vì Thầy đâu có tu viện, đâu có chỗ nào để cho các thầy theo Thầy đâu, cho nên theo Thầy chẳng ai phạm cái gì hết, người ta biết bây giờ cái giáo án của Thầy viết ra như vậy rồi sai rồi đúng ai muốn luận sao thì mặc họ. Ai có duyên thì nghe được nó mà nỗ lực đúng từ cái bước đầu mà Thầy đã vạch ra thì họ sẽ đi đến nơi, lấy giới luật của Phật mà làm Thầy, nương vào đó mà tu hành. Cũng như Thầy chưa có ai dạy mà Thầy cũng nương vào giới luật, Thầy sống đúng giới hạnh thì từng đó tâm thanh tịnh Thầy cũng đạt Thiền định được đâu có gì khó khăn.

Đó hôm nay Thầy đã nói như vậy để rồi chúng ta sẽ biết rằng những cái sự mà Thầy nói ra đều có cái những ý nghĩa. Nhưng mà cái ý nghĩa đó nhiều khi người ta không hiểu. Người ta tưởng qua một cái góc độ nào kiến chấp đến mức độ, người ta phân tách những cái bài giảng của Thầy ra để mà phỉ báng Thầy hoặc là người ta làm cho lệch lạc con đường của Phật pháp sau này. Đó là cái nhân quả của họ, họ sẽ gánh chịu điều đó. Thầy hoàn toàn với cái tâm rất tốt, không chống trái ai, nói thẳng nói thật ai sai là bị thôi chứ còn không nói người nào.

Bởi vì nhìn chung Phật giáo hiện giờ chúng ta đã thấy đã lệch lạc, từ Nam Tông đến Bắc Tông chứ không phải riêng có quý thầy ở đây không. Mà cả thế giới hiện bây giờ người ta chịu ảnh hưởng với một cách lệch lạc như vậy đó. Cái bổn phận và vấn đề của Thầy đã thực hiện được. Những gì mà làm chủ được, những gì mà giới luật được mà Thầy làm chủ thì Thầy phơi bày ra trên cái trang giấy này để may ra người có hữu duyên người ta gặp được những cái bổn này, người ta theo đó người ta tu hành. Đừng có theo những cái người mà đã làm lệch lạc Phật pháp rồi uổng phí cuộc đời vô ích. Đến đây Thầy dừng lại cái trả lời qua những cái ý kiến của quý thầy và đồng thời chúng ta tiếp tục cái bài học.

Tín ngưỡng Phật giáo bắt đầu từ tín ngưỡng trụ trì Tam bảo. Mục đích của tín ngưỡng trụ trì Tam bảo là ly dục ly bất thiện pháp thể hiện lý thể Tam bảo. Đó thì quý thầy thấy cái chỗ mà ly dục ly bất thiện pháp nó là thực hiện cái sự giải thoát thật sự. Lìa ra những cái tâm tham muốn của mình, lìa ra những cái ác pháp mà mình đang đầy ắp trong đầu óc của mình. Đó cho nên cái tín ngưỡng Phật giáo nó bắt đầu từ đó, thế mà người ta lại không có ly cái lòng ham muốn. Không có ly cái ác pháp cho nên bàn tay người ta cầm súng cầm dao người ta giết người không gớm tay, đó là một cái không hiểu, không hiểu cái giáo lý của Phật pháp. Mà tín ngưỡng của Phật pháp nó bắt đầu từ chỗ tín ngưỡng trụ trì Tam bảo đó tức là thọ Tam quy đó nó xuất khởi ra. Mà xuất khởi ra cái thọ Tam quy đó là cái tín ngưỡng trụ trì Tam bảo đó là nó, mục đích của nó là ly dục ly bất thiện pháp. Chứ đâu phải là chúng ta biết ông Phật, Phật là Pháp Tăng để mà phù hộ, gia hộ chúng ta đâu. Mà chúng ta biết nó để chúng ta ly cái lòng ham muốn của chúng ta ra để mà diệt cái ác pháp trong tâm chúng ta thì làm sao có cầm gươm cầm súng giết người. Đó là chúng ta mới thấy rõ được cái lý thể của Tam bảo, cho nên ly dục ly bất thiện pháp là thể hiện lý thể Tam bảo.

Bởi vậy không có trụ trì Tam bảo thì cũng không làm sao ly dục ly bất thiện pháp được. Nghĩa là nếu mà chúng ta không thọ cái Tam quy này, không có trụ trì Tam bảo này thì cái hình ảnh đó làm sao mà chúng ta biết cách mà chúng ta ly dục ly bất thiện pháp. Nghĩa là nhìn ba ngôi Tam bảo là người ta biết là những cái bậc ly dục ly bất thiện pháp, do đó nương vào cái chỗ đó mà chúng ta ly dục ly bất thiện pháp nơi tâm của mình.

Đó thì như vậy nếu mà không có trụ trì Tam bảo thì làm sao có ly dục ly bất thiện pháp được để thể hiện lý thể Tam bảo. Mà không nhận thấy được chỗ ly dục ly bất thiện pháp là lý thể Tam bảo thì trụ trì Tam bảo cũng không làm sao an lập được, nếu mà mình ly dục ly bất thiện pháp không được thì bây giờ cái trụ trì Tam bảo bây giờ có chùa, có chiền có hình tướng, có kinh sách cả đống đi nữa mà không ly dục ly bất thiện pháp thì không thể nào an lập cái trụ trì Tam bảo được. Cho nên hình thức là bây giờ chùa chiền có mà người ta cầm súng cầm dao người ta giết được người. Đó là người ta không an lập được trụ trì Tam bảo cho nên bây giờ Thầy kết án những cái loại sư mà không hiểu Phật pháp, để làm cho Phật pháp suy đồi đến nỗi mà Phật pháp trở thành những ác pháp, giết người ta trong thế gian như thế này, xương máu đổ biết bao nhiêu. Mà đó là những nước mà gọi là lấy Phật giáo làm gốc đó, quốc giáo đó.

Thì chúng ta thấy vấn đề đó là vấn đề đau lòng cho Phật giáo chứ đâu phải là, Phật giáo ở tại đất nước đó gọi là quốc giáo đó lại làm Phật giáo suy đồi nhất. Hình thức thì chúng ta thấy quá là…, cái trụ trì Tam bảo quá rõ ràng nhưng mà cái lý thể Tam bảo thì chẳng có một cái gì hết. Chẳng có lý dục ly bất thiện pháp, cho nên cái hình ảnh Tam bảo ở chỗ đó thật là máu xương. Trong chùa gì mà thịt cá vô nghe tanh hết, thử hỏi cái mùi như vậy là cái mùi gì, mùi sát khí. Cho nên hòa thượng Huệ Hưng nói khi mà đi đến cái khu vực của quý sư Nam Tông, nghe cái sát khí nghe nó lạnh lùng. Vô trong cái chùa của mấy ông ấy nghe mùi thịt bò này, thịt heo này, thịt gà, thịt vịt này. Trời đất, mình ăn chay quen rồi vô đó mình chịu không có nổi, mà ngồi với mấy ông đó nghe cái mùi hôi của mấy ông nghe heo, nghe gà, nghe vịt ở trong đó. Thử hỏi một tu sĩ như vậy làm sao chứ mình ăn nó mình không có mùi hôi mình toát ra cái thứ đó? Ăn heo thì nó phải toát ra heo, mà ăn bò thì nó phải ra hôi bò chứ làm gì mà không có cái mùi đó được. Quý vị cứ đi quý vị ăn tỏi đi ngồi gần Thầy nghe cái mùi tỏi liền à, làm sao mồ hôi mấy vị không toát ra, thấm cái gì thì nó ra cái đấy chứ ở đâu làm sao trật được.

Cho nên tất cả những cái này đều là những cái trụ trì Tam bảo, nó thể hiện mà không đúng cách của nó, nó không ly dục ly ác pháp thì cái lý thể Tam bảo không bao giờ có, cho nên cái mùi hôi của họ là cái mùi hôi của phàm phu tục tử, cái mùi hôi bất tịnh.

Lý thể Tam bảo là quả của trụ trì Tam bảo, do thế trụ trì Tam bảo là nhân. Đó các thầy thấy lý thể Tam bảo là cái quả, mà cái quả thiện thì nó mới thực hiện cái trụ trì Tam bảo. Nó là cái nhân, mà cái nhân thiện thì nó mới có quả thiện, mà cái nhân ác thì nó có quả ác, ăn thịt chúng sanh thì nó là quả ác. Cho nên cái thể hiện trụ trì Tam bảo của họ như vậy cho nên cái lý thể Tam bảo của họ là phải giết hại chúng sanh, không có thể nào gọi là từ bi hỷ xả được. Cho nên người cư sĩ tại gia phải hiểu rõ điều này thì mới xin thọ Tam quy, thọ Tam quy tức là thọ ba giới đầu tiên của đạo Phật, phải hiểu, hiểu rồi mình mới thọ. Còn mình không hiểu mình thọ như mù mờ là mình chẳng biết gì hết. Nghe người ta có cái pháp danh cũng xin pháp danh, thì đó là cái điều mình chạy theo cái tên, ờ được cái tên đó là coi như mình là tín đồ của Phật rồi.

Nhưng mà sự thật nó đâu có như vậy đâu, cho nên chúng ta phải hiểu cho rõ như thế nào là trụ trì Tam bảo, như thế nào là lý thể Tam bảo. Mà hiểu được như vậy rồi chúng ta mới biết được lý thể Tam bảo là cái chính của cái nhân của trụ trì Tam bảo, là vì phải ly dục ly bất thiện pháp nó mới là cái lý chính của nó.

Ở đây quý thầy phải hiểu trong Tam bảo, Phật bảo là tôn quý nhất, Pháp bảo là cao hơn hết, nhưng địa vị Tăng bảo là trọng yếu hơn hết. Đó quý thầy thấy ở đây Thầy dùng những cái chữ để mà chỉ rõ, Phật bảo là tôn quý nhất, nhưng Pháp bảo là cao hơn hết, trái lại Tăng bảo là trọng yếu hơn hết. Nó trọng yếu hơn hết nếu mà dù là chúng ta tôn quý Phật bảo và Pháp bảo có cao hơn hết mà cái Tăng bảo nó không ra gì, thì tức là nó sẽ làm lệch lạc hết tất cả những cái Phật bảo và cái Pháp bảo hết.

Cho nên Tăng bảo coi vậy chứ trọng yếu lắm chứ không phải thường đâu. Một vị tăng mà giới luật không nghiêm chỉnh thì đạo Phật sẽ sa đọa, mà một vị tăng giới luật nghiêm chỉnh thì thiền đức sâu màu, trí tuệ tuyệt luân thì Phật giáo hưng thịnh. Dù là trong cái đất nước đó chỉ có một ông Thầy thôi cũng là Phật giáo hưng thịnh. Mà trong cái đất nước đó không có một bậc Thầy như vậy thì dù đất nước đó có hàng vạn ông Thầy đi nữa cũng vẫn là suy đồi.

Bởi vậy sau khi đức Phật nhập diệt, đạo tràng của Phật giáo phải do Tăng bảo trụ trì, nghĩa là đức Phật nhập rồi, bây giờ từ cái ngày đức Phật nhập rồi sau đó phải coi như là Tăng bảo giữ gìn cáigiềng mối đó cho nên Tăng bảo phải trụ trì ở trong cái đạo tràng đó. Kinh điển của Phật phải do Tăng bảo bảo tồn, chỉ có ông tăng mới bảo tồn được cái giáo lý này chứ không có ông tăng thì làm sao ai bảo tồn được giáo lý này, mà ông tăng bậy bạ thì họ đem đốt ba cái giáo lý thật đi, họ xen ba cái giáo lý tầm bậy vô đó thì chúng ta biết không, cho nên ông tăng giả là giáo lý cũng bị hư và Phật bảo nó bị méo mó hết. Ông Phật hồi nào cái mặt ra làm sao bây giờ nó làm mặt ông như ông búp bê vậy đó, như con búp bê vậy thì thử hỏi coi ông Phật như thế nào mà bây giờ vẽ ra như vậy đấy. Thì nó làm lệch lạc tất cả từ cái Pháp bảo, trụ trì Tam bảo nó vẽ trật hết, nó làm khác hết, nó không giống chút nào hết.

Rồi tới cái Pháp bảo thì nó không có bảo vệ, nó muốn như thế nào, nó chạy theo dục lạc như thế nào thì nó vẽ ra như thế, nó muốn ăn thịt chúng sanh thì nó vẽ ra cái nấy nó ăn, nó muốn uống rượu thì nó cũng vẽ ra nó uống rượu, nó muốn hút thuốc thì cũng vẽ ra hút thuốc, nó muốn làm sao thì nó vẽ ra Phật dạy vậy vậy đó. Nó vẽ ra nó cũng nói ông Phật nói vậy đấy, nó nói như thị ngã văn nhất thời Phật tại Xá Vệ quốc, hồi ở Xá Vệ quốc thì ông Phật ông cũng nói vậy, tôi bây giờ tôi cũng nói lại như vậy tôi có thêm bớt đâu.

Kinh điển của Phật phải do Tăng bảo bảo tồn, văn hóa của Phật giáo phải do Tăng bảo truyền bá, tín đồ của Phật giáo phải do Tăng bảo tiếp dẫn. Những người mà bây giờ vào tu thì phải do mấy ông tăng, chứ ông Phật bây giờ ông tịch rồi còn ai mà nói đâu, còn ai mà dẫn đâu, còn pháp thì nằm yên đó ai muốn thay thì thay. Do đó cho nên Tăng bảo nếu mà chơn chính, Tăng bảo mà đúng cách thì Phật pháp sẽ còn, mà Tăng bảo mà sai rồi thì Phật pháp sẽ mất.

Đó thì hôm nay Thầy giảng như vậy thì quý thầy phải thấy rõ được cái quan trọng của Tăng bảo chứ không phải là thường, ba ngôi Tam bảo Tăng bảo là quan trọng. Cho nên bây giờ chúng ta cứ dựa theo Thầy mình, ông Thầy bảo sao mình làm vậy, làm riết làm trật hết trơn hết trọi Phật pháp, đâu có thấy được đường sáng suốt của đạo Phật.

Lúc đức Phật còn tại thế Phật giáo lấy đức Phật làm trọng tâm. Nghĩa là lúc đức Phật còn sống người ta lấy đức Phật làm trọng tâm, cái gì sai gì đúng thì người ta cứ hỏi Phật. Thì Pháp cũng từ nơi miệng Phật mà lưu xuất ra, Tăng cũng từ nơi cái hành động của Phật mà hòa hợp mà người ta theo đó mà người ta nương vào đức Phật. Còn bây giờ chúng ta ông Phật mất rồi thì có Tăng là cái người mà đại diện từ cái hành động, từ cái lời nói, từ cái điều kiện mà của ông tăng làm ra người ta đều tin vào đó. Mà giờ ông tăng nói bậy nói bạ người ta cũng nghe, mà nói đúng người ta cũng nghe, mà ông tăng nói đúng bây giờ chúng ta thấy đúng không? Ông nào cũng nói trên trời dưới đất không à, mà sống thì sống y như thế gian, hưởng thụ thì hưởng thụ dục lạc của thế gian chứ có ông thầy nào gọi là sống đúng như Phật ngày xưa không?

Còn ngày nay nói tín ngưỡng của Phật giáo phải lấy Tăng bảo làm chỗ quy y cung kính Tam bảo, phải cung kính Tăng bảo. Nghĩa là bây giờ chúng ta lấy Tăng bảo làm chỗ quy y của chúng ta, chúng ta cung kính Tăng bảo, lấy Tăng bảo, bây giờ Thầy đọc lại chỗ này. Còn ngày nay nói tín ngưỡng của Phật giáo phải lấy Tăng bảo làm chỗ quy y, thì mình phải cung kính Tăng bảo. Mà bây giờ quý vị Tăng bảo của chúng ta có đáng cung kính không? Ông nào bây giờ làm sao mà chúng ta cung kính được, mà cái hình ảnh đó bây giờ chúng ta cung kính các Thánh tăng thời đức Phật thì mấy ông này nhập diệt mất rồi còn đâu mà cái gương cho chúng ta nữa? Chỉ là chúng ta đọc lại những cái mẩu chuyện của các ngài rồi chúng ta nương theo như vậy chứ thiệt ra nó không có cái hình ảnh sống động.

Còn cái vị tăng các thầy của chúng ta bây giờ là cái hình ảnh sống động, mà sống động phá giới, phạm giới làm sao mà chúng ta cung kính mấy ông đó được, mà bắt buộc chúng ta cứ đảnh lễ mấy ông hoài à. Đến lạy mấy ông đó mà mấy ông đó có sống hơn mình không? Ăn cũng ngày ba bữa, cũng ỉa đái cũng hôi thối như mình nè. Chứ ông có ỉa đái ra vàng bạc đâu mà bắt mình phải cung kính ổng hoài à. Mà ổng coi bộ sống sung sướng hơn mình, mình thì làm việc cực khổ hơn ổng. Ổng ngồi không ổng ăn mập bự ra vậy, còn mình thì ốm nho ốm nhắt, cực gần chết. Mỗi ngày mỗi tháng cũng dành dụm gia đình phải chèn xén cái ngân quỹ gia đình của mình để dành dụm đến cái ngày nào đó đi nghe thuyết pháp cúng ổng, cho ổng ngồi đó ổng thuyết pháp cho mình nghe mình biết được Phật pháp. Nhưng mà cái gương hạnh của ổng có xứng đáng cho mình đảnh lễ không? Cuối cùng mình cứ đảnh lễ hoài rốt cuộc cái đời của mình tới chừng đó nó cũng đọa địa ngục chứ đâu ổng có rước mình được. Chính ổng cũng đâu cứu được ổng cho đến cái ngày mà ổng sắp chết ông nhăn răng méo miệng ông chẳng làm sao được cái gì hết. Thì ổng không cứu ông được thì làm sao ông cứu mình được. Mình đảnh lễ mình nhờ ông sau khi mình có chết thì mình nhờ ổng cứu thế mà ông có cứu gì được đâu. Đó thì quý thầy thấy cái điều mà chúng ta lầm lạc, chúng ta lẫn lộn mà đến khi chúng ta chết đi chúng ta mới thấy cái sự lẫn lộn đó, mà thậm chí chúng ta vẫn chưa hiểu nữa, nó hướng đi cái hướng mà sai lệch như vậy cuối cùng đời sống của chúng ta chẳng ra gì hết. Uổng cái đời của chúng ta, bị người ta gạt mà không thấy.

Trong hàng ngũ tăng sĩ hẳn có rồng rắn lẫn lộn, rồng thì ít mà rắn thì nhiều, cho nên chúng ta quy y phải chọn rồng đừng chọn rắn, chúng ta muốn quy y ông thầy thì chúng ta phải chọn rồng, nhưng mà hầu như bây giờ rắn nó nhiều, mà rồng ở chung rắn cắn hết làm sao, phải không? Cho nên rồng nó phải chui trong rừng trong núi hoặc xuống biển ở chứ nó dám ở chung với mấy con rắn này sao? Nó cắn đầu hết, rắn thì nó có nọc độc, còn rồng thì nó đâu có nọc, phải không? Cho nên bây giờ mình kiếm tìm rồng mà mình đi quy y đâu có phải chuyện dễ đâu, không phải dễ đâu, rắn không à. Rồng đâu có ở chung với rắn được, đó là một cái điều mà thực tế như vậy, không có thể nào mà chúng ta lẫn lộn ở trong đó mà rồng rắn ở chung nhau được đâu, không có được.

Ví thử như quý thầy ăn ngày một bữa quý thầy qua chùa người ta quý thầy ở đi, họ cho ở chung á, cho nên rồng rắn đâu có ở chung với nhau được. Ông ăn kiểu đó Phật tử nhìn tôi bằng nửa con mắt rồi.

Có một câu kinh trong kinh Đại Thừa dạy Tỳ Kheo phá giới vẫn có đủ tư cách làm Thầy trời người. Trời ơi ở trong kinh Đại Thừa nó dạy câu này Thầy mới giật mình chứ, cái ông thầy Tỳ Kheo mà phá giới có đủ tư cách mà làm Thầy trời người? Trời ơi ai tin mà làm Thầy trời người đây? Bởi vì chỉ có trời người ngu si họ mới đảnh lễ mấy cái ông thầy đó chứ, còn ai mà đảnh lễ đâu mà làm Thầy trời người được?

Bởi vậy người ngu si thì cái miệng của ông Thầy phá giới họ nói nghe hay quá, cho nên họ ngồi hút thuốc vẫn còn nghe họ thuyết giảng chứ. Lẽ ra mà thấy ông Thầy phạm giới mà ngồi một hơi cái lấy điếu thuốc, kẹt hút thuốc rồi phà phà hai ba hơi bắt đầu cái thuyết giảng nữa, như vậy đó thì thôi đi về đi còn ngồi đó. Ông thầy như vậy còn ngồi nghe thuyết pháp thì Thầy chẳng biết ra làm sao hết. Hơi thì uống ly nước chanh, hơi thì uống một ly nước đường, hoặc là coca uống để giải lao rồi thuyết pháp. Thế mà chổng khu nhau ngồi cả đám mà nghe, quỷ nó ngồi nó thuyết pháp đó chứ cái gì, phạm giới phá giới đủ cách, mà ngu si mà ngồi đó mà lắng tai mà nghe. Bài kinh họ nói cái gì, họ nói cái kiểu ăn kiểu uống chứ nói cái gì, kiểu phá giới đó. Tỳ Kheo phá giới vẫn đủ tư cách làm Thầy trời người, nghe câu kinh này Thầy phát lạnh xương sống Thầy.

Như đức Phật mới có thể làm Thầy trời người được là có đủ 3 oai lực, còn nếu mà đủ có cái oai lực không thì chưa đủ. Tại sao mà đức Phật nói đại oai lực, đại thần lực, đại minh lực, đại oai lực là cái gì các thầy biết không? Là giới hạnh, oai nghi tế hạnh, chữ oai là oai nghi tế hạnh, một người tu sĩ mà oai nghi tế hạnh ra đường người ta đi người ta ngó xuống đất, không ngó qua ngó lại, cái bước đi của người ta nó nhẹ nhàng, nó thanh thoát, đó là cái oai nghi của người ta. Còn cái đại thần lực của người ta là cái gì, là thiền định của người ta, còn đại minh lực là cái trí tuệ của người ta. Cho nên đó là ba cái thần lực đó, ba cái đại oai lực đó nó mới xứng đáng làm Thầy trời người.

Còn ông này phá giới ở trong câu kinh nói, vị Tỳ Kheo mà phá giới vẫn đủ tư cách làm Thầy trời người, ở trong kinh nói rõ ràng như vậy. Thầy viết ra câu này rất rõ để cho quý thầy thấy mà. Họ nói như vậy đủ để làm Thầy trời người. Ông trời ông thấy ông thầy mà ăn phi thời ông đứng ở trên mây ông không dám xuống. Bởi vì ông trời ông đâu có ăn phi thời cái kiểu đó mà ông dám lại gần cái ông thầy ăn phi thời. Thì ông đứng ở trên chứ ông đâu dám. Nó bất tịnh cái mùi hôi của ông ấy nó xuất lên, gặp mấy ông thầy Nam Tông cái hơi thịt, hơi thịt heo thịt bò nó bay lên ông ở trên ấy ông còn ngột, bởi vì ông ấy đâu có ham cái thứ đó. Cho nên mấy ông trời đâu dám đến để mà mấy ông đó làm Thầy mấy ổng.

Đó thì Thầy nói như vậy các con biết rồi, khi thân của chúng ta không thanh tịnh là nó bốc ra cái mùi thúi chứ không có mùi gì thơm đâu. Bởi vì người phàm phu chúng ta cái lỗ mũi nó không có thính đâu, người ta trét dầu thơm vô trời ơi ông thầy này thơm quá, chứ không ngờ ông đem ba cái xà bông thơm ông giặt quần áo, có gì đâu. Còn cái thân của ổng ba ngày đau mà không đi tắm quý vị lại gần có chịu nổi không? Đâu có chịu nổi được cái mùi hôi đó.

Tam bảo là nền tảng của niềm tin sâu vào thiện pháp của Phật, đó thì hôm nay quý thầy thấy rằng Tam bảo là cái nền tảng của cái niềm tin làm cho chúng ta tin sâu vào thiện pháp của Phật để chúng ta trau dồi cái thân tâm của chúng ta. Do đó vì vậy Tam bảo là cái gương hạnh sống của người tu sĩ đạo Phật. Lấy Tam bảo là 3 cái giới đầu tiên, nó là cái gương hạnh sống của chúng ta tu theo đạo Phật. Cho nên từ đó chúng ta trau dồi tâm mình ở trong thiện pháp, nó mới từ cái gương hạnh đó chúng ta mới trau dồi cái thiện pháp, chúng ta mới ly dục ly bất thiện pháp được chứ. Bộ muốn nó ly thì nó ly sao, đâu phải chuyện dễ, bây giờ ăn ba bữa đâu phải cái chuyện nhào vô mà nuốt một bữa được sao, nó phải trau dồi, phải tập luyện, phải khắc phục mình, nhắc nhở như thế nào để khi nó đói, nó mệt lúc bấy giờ mình phải có pháp mình nhắc nhở nó mới không thấy đói thấy mệt chứ. Đó là sự trau dồi. Còn khi không mà nhảy ra ăn một bữa ông nào cũng lắc lưỡi le đầu hết chứ đâu có làm sao mà chịu nổi.

Cho nên sau khi bước lên nền tảng để vào cửa Phật thì cũng chẳng được rời bỏ nền tảng này. Nghĩa là bây giờ mình có tu tới đâu thì cái nền tảng Tam quy cũng không bao giờ mình rời bỏ được nó. Bởi vì nó là cuộc sống hàng ngày của tu sĩ, dù cho chúng ta có chứng đạo quả cao siêu thì nền tảng Tam quy này càng ngày càng rõ nét qua những oai nghi tế hạnh. Nghĩa là chúng ta có chứng đến cái mức độ nào có đủ ba cái oai lực đi nữa cái oai nghi tế hạnh này, hàng ngày nó phải rõ nét ở trong Tam quy, y như ba ngôi Tam bảo, nghĩa là lúc nào nó cũng phải thực hiện đúng y như là cái giới đầu tiên là Tam quy đó. Phải rõ nét ra cái hành động sống, cái cử chỉ, cái lời nói của chúng ta nó phải rõ nét ra, nó không có bao giờ mà lệch lạc được.

Tam quy là viên đá đầu tiên kiến trúc đạo nghiệp thiện, chúng ta thấy Tam quy là ba cái giới đầu tiên, nó là những viên đá mà nó xây dựng cái tòa nhà đạo nghiệp thiện của chúng ta, chớ nó đâu phải là cái gì khác hơn hết. Có thành tựu công trình kiến trúc vĩ đại thì viên đá này là viên đá đứng đầu trong các viên đá khác. Bây giờ cho tới 348 giới đi nữa thì đó là những viên đá khác để xây dựng những cái tòa nhà, những cái viên đá đầu tiên này để xây dựng những cái tòa nhà thiện pháp của chúng ta chứ đâu có cái pháp môn nào ngoài là giới luật này, ngoài là những cấp bậc tu hành giới luật này đâu.

Quy y Tam bảo có 5 bậc. Đó thì bây giờ lần lượt Thầy mới phân ra cho các thầy thấy là nó như thế nào chứ, nói suông suông không thì các thầy không rõ đâu. Cho nên quy y Tam bảo có 5 bậc.

Một là phiên tà Tam quy, nghĩa là đầu tiên tiến vào cửa Phật, cái một phiên tà Tam quy có nghĩ là đầu tiên mình bước vào cửa Phật đó. Đó là quy y Tam bảo đó gọi là phiên tà, thì quy y Tam bảo nó có cái bước đầu, rồi nó có tới nữa.

Hai là ngũ giới Tam quy,sau khi tin Phật thọ thêm ngũ giới, nghĩa là bây giờ đầu tiên là cái cửa cổng mà đi vào cái cửa nhà Phật thì nó là tam quy, cái danh từ của nó gọi là phiên tà Tam quy, theo trong kinh sách luật thì nó có những cái….

Hết băng 26.

BĂNG SỐ 27

Như là chúng ta thọ ngũ giới đó, thì ngũ giới nó nằm ở trong tam quy cho nên gọi là ngũ giới tam quy, các thầy hiểu chưa? Đó, còn phiên tà có nghĩa là bắt đầu, sự bắt đầu của chúng ta tức là bắt đầu tam quy. Cho nên đầu tiên tiến vào cửa Phật đó là cái danh từ của nó gọi để chúng ta thấy rằng chúng ta bắt đầu vào đạo Phật đó thì chúng ta phải bắt đầu tam quy, kế đó thì chúng ta phải ngũ giới tam quy, thì từ tam quy đó lưu xuất ra ngũ giới. Cho nên chúng ta phải thọ ngũ giới, đó là quy y ngũ giới. Sau khi tin thọ Phật thì chúng ta thọ thêm ngũ giới.

Ba, Bát giới tam quylà tức là thọ bát quan trai đó, các thầy thấy chưa, lẽ ra ở chỗ này thì chúng ta nên thêm cái chỗ này nó đúng bởi vì theo Thầy thấy là cái chỗ này cái bát giới quan trai đó là cái chỗ mà cái người cư sĩ người ta tập, tập theo cái hạnh của người tu sĩ. Cho nên người ta thọ một ngày đêm đó, các thầy nghe trong chùa mà hay dạy chúng ta thọ bát giới quan trai đó, thì đó là tập luyện để mà chúng ta bước qua cái giai đoạn thứ hai, cái lộ trình thứ hai.

Thì cái chỗ này theo trong kinh sách nói thì là thứ 3 thì Thầy thấy Thầy cũng viết ra đây để cho đúng nhưng mà Thầy sửa lại, Thầy thấy nó không đúng. Là vì ở trong cái vai trò, cái lộ trình của người cư sĩ đó thì nó phải thọ thập thiện tam quy nó mới đúng. Bởi vì thập thiện là mười cái pháp lành, mười cái pháp lành rồi mới có thể thọ bát quan trai mới đúng, thì nó như vậy mới đúng. Vậy cho nên quý thầy nên sửa lại, là cái thứ ba đó, là thọ thập thiện tam quy, là trau dồi thập thiện đó, bởi vì cái người cư sĩ phải là thọ thập thiện để mà trau dồi. Khi mà ngũ giới rồi thì tức là thập thiện, nó phải đúng chớ, rồi bắt đầu chúng ta mới thọ bát quan trai đó thì chúng ta phải tập dần để mà chúng ta bước vào lộ trình thứ hai, để mà trở thành người tu sĩ, thì thọ bát quan trai là một ngày một đêm là tập cái hạnh của Sa Di đó, cho nên nó mới có bát quan trai này.

Đó thì như vậy là thọ bát quan trai là bát quan trai tam quy đó là thứ tư. Còn thập thiện tam quy là thứ ba. Đó thì Thầy sửa lại, đổi lại cho nó đúng cái vị trí của nó.

Tới cái thứ năm là thập giới tam quy, đó là Sa Di, Sa Di ni đó, thọ mười giới đó, tức là cái thứ năm này bắt đầu qua cái lộ trình thứ hai của tu sĩ rồi đó, nghĩa là cái người xuất gia rồi đó, ly gia cắt ái rồi đó.

Thứ sáu thì cụ túc giới tam quy, từ tam quy đó mà sanh ra cụ túc giới cho nên Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni dâng thọ đại giới, bây giờ mà thọ đại giới là 250 giới, 348 giới đó là cụ túc giới tam quy. Đó là quy y tam bảo ở đây nó có sáu cái bậc chứ không phải năm bậc, mà nó có sáu cái bậc. Bởi vì thập thiện tam quy mà ở trong kinh sách giới thì nó chỉ có để năm thôi. Là nó năm bậc cho nên Thầy thấy thập thiện tam quy họ không có viết tức là họ đã bỏ. Họ đã bỏ trong cái vai trò của lộ trình của người cư sĩ thì cái đó là cái sai cho nên họ bỏ ra. Thập thiện tam quy nó rất là rõ ràng cái pháp thiện mà người tu sĩ cần phải thực hiện trong cái đời sống của họ, họ mới biết thiện biết ác mà họ sửa mình chứ. Còn nếu không biết thiện biết ác thì họ làm sao họ biết đâu mà họ sửa.

Đó, thì cho nên ở đây Thầy thêm một cái phần thập thiện tam quy là nó có sáu cái điều kiện mà quy y tam bảo, nó có sáu cái bậc như vậy, sáu cái bậc là sáu cấp bậc mà tu hành theo đó mà có thể phân chia ra cấp bậc mà chúng ta tu hành nó mới đúng.

Tại sao Thầy dám thêm, Thầy dám bớt là tại vì Thầy thấy cái lộ trình của giới kinh nó rõ ràng lắm. Cho nên Thầy nắm giới kinh mà Thầy biết đi cái chỗ nào đúng, cái chỗ nào sai. Còn cái giới bổn nó bỏ như vậy, nếu mà một người cầm giới bổn không thì chắc chắn là phải tin có năm thôi, có năm bậc chứ không thể nào mà nói sáu bậc được.Nhưng mà nằm trong giới bổn Thầy thấy rõ ràng là khi bước qua giới hạnh mà tu tập thì đức Phật dạy cái thập thiện này rất rõ. Về thân thì nó có 3 hành động này, rồi khẩu nó có 4 này, rồi ý nó có 3 tham sân si này thì đó là thập thiện rồi. Do đó mà trong cái giới kinh Phật nhắc tới nhắc lui cái thập thiện rất nhiều mà trong cái giới bổn thì làm như người ta quên đi, người ta bỏ cái thập thiện đi. Đó là người ta đã coi thường thập thiện, mà người ta sơ sót, người ta hông thấy. Cho nên ở đây Thầy dựa vào giới kinh mà Thầy thêm vào cái chỗ này chúng ta mới thấy rằng quy y Tam Bảo nó có sáu bậc chứ không phải nó có năm bậc như ở trong kinh giới nói. [05:00]

Tam quy chẳng những là căn bản của tất cả giới mà còn là căn bản của sự tu tập hàng ngày của tiền đồ Phật giáo. Tam quy là gốc sinh ra Phật pháp cho nên Phật giáo Nam Tông xem tam quy rất quan trọng, họ xướng tam quy bằng danh từ suông để hành trì. Họ xem cái sự tam quy đó quan trọng lắm, cho nên khi mà họ xướng lên để mà thọ tam quy đó, nó có cái vẻ trịnh trọng lắm. Nhưng mà đó là bằng những danh từ suông.

Và cũng xướng tam quy mê tín để khấn nguyện cho người, nghĩa là Thầy nói bên Nam Tông họ xướng cái tam quy đó nó có nhiều cách, nó xướng suông để làm cho cái vẻ long trọng của buổi lễ tam quy đó. Ở đây Thầy không có được nghiên cứu nhiều ở bên nước nó, Thầy không có dịp đi để mà xem thọ cái tam quy nó như thế nào. Nhưng mà dựa vào những kinh sách thì người ta nói đó thì Thầy chỉ dựa vào đó Thầy nói ra ở chỗ này để chúng ta thấy được là.. nói họ làm cái lễ thì nó nghiêm trang lắm nhưng mà họ xướng lên thì đó là cái danh từ suông thôi, bằng chứng là tại sao chúng ta biết là danh từ suông? Nếu mà một cái người nó có đi vào cái thâm tâm mà tam quy thì nó không có thể nào thực hiện cái ác pháp của nó mà cầm súng, cầm dao giết người như vậy. Đó là cái thứ nhất bằng chứng để chúng ta thấy cái hiện tại chứ không thể nào chúng ta dựa vào cái hình thức mà tôn trọng cái trang nghiêm đó mà cho rằng nó là thiện pháp đâu.

 

Cho nên qua cái hạnh ác của họ thì chúng ta chứng minh rằng cái thọ tam quy đó là cái hình thức, hình thức suông. Không có gieo được trong tâm hồn của họ một cái thiện pháp cho nên họ dám cầm súng, cầm dao, cầm rựa họ giết người một cách rất là tàn nhẫn.

Và cũng xướng tam quy mê tín để khấn nguyện cho người, nghĩa là xướng tam quy lên cũng như mình nói là tam quy gia hộ cho mình thế này thế khác, đó là cách thức của họ. Vì vậy mà ở Việt Nam Đại Thừa của chúng ta cũng vậy, khi nói tam quy là cứ nói tam quy gia hộ đó. Đó là cái lối dạy người mà khi thọ tam quy có hình thức mê tín trong đó, làm cho người ta mất cái thấy thiện pháp ở trong tam quy mà người ta thấy có cái vẻ trịnh trọng bằng cách này, bằng cách khác qua cái hình thức đó làm cho người ta hăng máu hơn chứ còn người ta không có thiện pháp được.

Vì thế tu sĩ Nam Tông hành tam quy bằng miệng lưỡi. Đời sống họ chẳng giống Phật chút nào, ăn uống phi thời, ăn thịt chúng sanh, dựa vào các bộ luật, phi luật của người đời sau nên không có giới lý rõ ràng, giới hành rõ ràng. Nghĩa là cái giới lý của họ nó không có rõ ràng, nó phá chỗ này nó chắp chỗ kia, nó không có rõ ràng. Giới hành cũng không có rõ ràng. Nghĩa là nó không có cái giới hành nữa, làm cho người tu thiền Nam Tông sinh ra các loại thiền ngớ ngẩn chẳng biết cách thức nhập định như thế này như thế khác. Tự kiến giải ra loại thiền Minh Sát Tuệ, đó thì quý thầy có đọc cái thiền Minh Sát Tuệ không? Phật dạy hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra. Ông ta dạy thở phình, xẹp, phình xẹp nếu mà cứ tập trung cái bụng mà phình lên xẹp xuống kiểu này ít bữa cái bụng nó thành cái trống chầu vậy nè, để cho mấy ông làng ông xã đánh rước thần, rồi tu chẳng tới đâu hết, rồi cái minh sát ra, minh sát là vô thường khổ vô ngã.

Đó là những cái mà không hiểu được cái đường lối của đạo Phật cho nên từ cái chỗ tu ức chế tâm bằng cách nương theo cái bụng lên xuống gọi là phình xẹp, phình xẹp đó, phình xẹp riết chắc là nó thành cái trống. Cho nên do những cái không hiểu Phật pháp rồi dựa vào những cái kiến giải quá tầm thường mà những cái bài kinh của Phật mà bên Nam Tông họ viết rất nhiều, kinh sách họ đâu có phải như mình đâu, bán đầy chợ, đầy búa hết, loại nào cũng có hết. Lấy định vô lậu và định niệm hơi thở câu hữu không đúng cách. Lấy Tứ niệm xứ làm thiền quán, thiền quán sai chẳng rõ trong tứ niệm xứ có ba tướng, nhân tướng, hành tướng và đặc tướng. Biến tứ niệm xứ thành loại thiền quán sai bét. Họ chẳng biết Tứ niệm xứ là niệm lực, mà còn niệm thì làm sao gọi là thiền. Vậy mà họ gọi Tứ niệm xứ là trái tim thiền định. Đó họ đặt cái tên của Tứ niệm xứ là trái tim thiền định, quý thầy nghĩ sao? Mà Tứ niệm xứ là còn niệm làm sao gọi là thiền định. Họ hiểu như thế nào? Người ngu, người ngu si không thấu rõ giới hành của Phật, biến giới hành thành pháp môn thiền định điên khùng cho nên không thể nhập được Bốn Thánh định của đạo Phật. Đó thì bằng chứng các thầy thấy có những vị thiền sư của Nam Tông họ tu, họ rút vô nhả ra, rồi rút vô nhả ra rồi họ nghe trời sét hoặc là đại địa này nó nổ bùng lên hết rồi bắt đầu họ chứng ngộ, chứng theo kiểu thiền tông đó. Tu thiền của phật giáo nguyên thủy mà họ chứng riết thành Thiền tông hết ráo. Đó thì những cái trạng thái và những cái bài pháp của họ qua những kinh nghiệm họ để lại, những cái lời tự thuật của họ, của những vị thiền sư này Thầy được đọc Thầy thấy toàn là thứ không hiểu Phật pháp kiến giải ra tu hành.

Phật dạy cái lộ trình thiền định như thế nào để đi đến đó? Họ không chịu ly dục ly bất thiện pháp, họ không chịu rời ăn thịt, ăn máu chúng sanh, mà họ làm sao họ ly được cái ác pháp được hông? Cho nên làm sai cái ác pháp ngay trong miệng họ. Họ nuôi cái tà mạng họ bằng xương máu chúng sanh, họ gọi là họ ly, ly cái gì mà Phật dạy ly dục ly bất thiện pháp là ác pháp chứ gì? Mà hàng ngày họ ăn những cái ác pháp thì làm sao họ ly, mà họ không ly thì làm sao có định được? Cho nên ba cái định này đều là ba cái định tưởng của họ, họ tưởng ra họ vẽ ra, họ dạy. Bây giờ kinh sách ở bên nước họ mang qua Việt Nam bán đầy chợ, thử hỏi quí thầy có tin không? Nào là Trái tim thiền định, nào là Thiền Minh Sát Tuệ, ở trong chùa nào của mình giờ cũng có hết chứ đừng nói. Bây giờ cư sĩ các con cũng có, coi như là các con cũng đọc nhạo hết mấy cái thứ đó rồi chứ không phải là không. Còn bao nhiêu thứ đặt ra nào là Thiền quán ba mươi mốt, ba mươi tám ngày gì nội tu ba bốn bốn mốt ngày là nhập định, trời ơi thiền gì mà nhập mau dữ vậy, nói sao mà nói vọng ngữ đến mức cái độ Thầy không ngỡ được. Phật pháp gì mà có chuyện dạy kỳ vậy, nội cái ly dục ly bất thiện pháp nhập cái sơ thiền không đã gần chết người ta rồi. Hở hở ra chút thì nó ham muốn cái này, hở hở ra chút thì nó sanh ra ác pháp nó giận hờn thương ghét đủ thứ ở trong này, biểu ly có bao nhiêu đó mà ly không được còn ở đó mà nhiếp tâm thiền định cái gì.

Đó thì nói cho hết để cho quý thầy thấy được con đường Phật pháp bây giờ nó lộn xộn, nó ngầu xà ngầu hết nó đầu chẳng ra đuôi, đuôi chẳng ra đầu.

Che dấu sự vô minh họ bảo đời mạt pháp không ai nhập định được, họ không nhập ra được định là do ly dục ly ác pháp mà tâm có định. Vì thế mọi pháp hành thiền định của họ toàn là thứ ức chế tâm và nén tâm cho nên tu hành chẳng đi đến đâu. Rất uổng phí đời tu hành rồi đây sẽ sa địa ngục cả đám để trả nợ máu xương của chúng sanh. Luật nhân quả không tha từ một ông nào. Phước hết thì họa đến, sanh thiên còn phải đọa xuống địa ngục huống là các ông.

Đó thì ở đây Thầy nói như vậy để cho quý thầy biết rằng Phật giáo bây giờ nó không có cái lối mà chúng ta hiểu biết với các ông thầy này đâu, bên Nam Tông cũng như là bên Bắc Tông của chúng ta chẳng ai mà có thể nói là... Thầy không phải hơn ai hết nhưng mà phải dựa vào trong kinh sách của Phật Nguyên Thủy hẳn hòi gốc nói ra chứ Thầy không có hơn ai hết. Nhưng mà Thầy nói là Thầy nói qua cái chỗ mà Thầy đã có cái kinh nghiệm biết được cái chỗ đó. Từ mười năm ở trong giữ gìn giới hạnh nghiêm túc cho đến ngày hôm nay được chút chút đỉnh thiền định làm chủ được cái sống chết của mình Thầy mới dám nói lời này. Nếu không được vậy chẳng dám nói ai hết, vì mình nói như vậy mình có biết mình có đúng hay sai? Mình có làm được không, đây mình sa xuống địa ngục sao? Nói người ta mai mốt mình ngáp gió, mình nằm đó mình lăn lộn trên cái giường bệnh chúng nó cười mình đó, còn bây giờ mình làm được mình dám nói. Mình dám nói để rồi mai mốt mình có chết đi thì người ta cũng nói ở ông thầy này ông ấy nói được chứ ông cũng làm được đây, người ta còn tin chút mình nói đúng. Còn không khéo mình nói ho dữ đi rồi đến chừng đó nhăn răng méo miệng há họng người ta chở vào nhà thương mổ xẻ từng tấm da lúc bấy giờ người ta cười đó. Phải biết cái chỗ nói mình nói chứ, mình nói mình phải làm sao cho được mình mới dám nói chứ. Nói mà nó mạnh thế này mà làm không được chúng còn xé xác mình nữa, ông nói giỏi bao nhiêu ông thầy vô nhà thương. Ông nói giỏi bây giờ ông làm đi coi coi, tôi đập ông đó chớ, phải hông? Đó là cái hẳn nhiên bởi vì nhân nào thì phải quả nấy à, mà mình nói mình làm được chẳng sợ ông nào hết.

Sau khi chúng ta đã có khái niệm, à bây giờ đây về phần một quy y Tam bảo như thế nào, Thầy đặt thành cái đề mục của nó, sau khi chúng ta đã khái niệm hiểu biết về quy y tam bảo rồi thì phải nên quy y tam bảo. Nghĩa là mình đã hiểu được khái niệm của quy y tam bảo rồi, như Thầy đã nói quý thầy đã hiểu rồi thì bắt đầu bây giờ quý thầy mới quy y tam bảo, nghĩa là khi bây giờ quý thầy đã quy y tam bảo rồi. Nghĩa là quý thầy đã có những vị thầy quy y tam bảo rồi, nhưng bây giờ quý thầy thấy rằng quý thầy theo ông thầy đó quy y tam bảo không đúng cách, quý thầy có thể xin quy y tam bảo lại, chớ không có lỗi lầm gì hết bởi vì cái ông thầy đó không có đủ cái sức đại diện mà quy y tam bảo cho quý thầy đâu. Người ta không có dẫn quý thầy đi vào thiện pháp mà người ta dẫn quý thầy đi vào ác pháp, qua cái hành động sống của họ tức là họ sẽ dẫn quý thầy vào ác pháp.

Cho nên chúng ta từ giã mấy ông thầy đó đi, đi tìm những cái bậc nào mà có đủ thanh tịnh nghiêm túc như tam bảo để đứng ra làm cái lễ cho chúng ta quy y thì chúng ta hãy chọn những bậc thầy đó mà làm thầy của mình. Thầy nói đây không có nghĩa là quý thầy xúm lại quy y với Thầy đâu, Thầy ẩn bóng rồi đừng có mong mà tìm Thầy nữa. Bởi vì nếu mà Thầy nói ra mà để cho quý thầy tập trung về mà Thầy quy y làm đệ tử của Thầy tức là Thầy còn danh còn lợi đó. Cho nên Thầy đề nghị khi mà Thầy nói ra tất cả những cái này rồi thì quý thầy khó mà tìm Thầy, gặp Thầy quy y Thầy đâu.

Để nghi lễ quy y tam bảo lúc Đức Phật còn tại thế. Lúc mà Phật còn tại thế thì người quy y tam bảo nó không có dùng cái nghi lễ, nghĩa là trong kinh nó diễn tả cái này rất rõ ràng, nghĩa là không phải dùng cái lễ gì hết. Như người đệ tử đầu tiên quy y tam bảo với đức Phật Thích Ca là cha của Da Du Dà, ông chỉ ở trước đức Phật nói lên, phát lên ba lần như thế này: “Con nay quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng cúi xin Thế tôn nhận con làm Ưu Bà Tắc”. Đó là ông nói ba lần như vậy, ông quỳ xuống trước đức Phật ông nói ba lần vậy xin đức Thế Tôn nhận con làm Ưu Bà Tắc vì đức Thế Tôn là nhất thể tam bảo cho nên ông đứng trước đức thế tôn mà xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

Khi mà nói lên là sau khi ông được nghe một cái bài pháp chứ không phải đơn giản đâu, cái bài pháp đó nó làm cho ông thấm thía được cái cuộc đời của ông, ông thấy chỉ có ba ngôi tam bảo là thiện pháp, đem cái đời sống ông giải thoát mà thôi, từ đó nó ngộ được cái lý sâu sắc cái bài pháp đó. Cho nên thường thường chúng ta đọc kinh hầu hết là người ta những người cư sĩ đó họ chưa có cắt lìa được, họ chưa có xuất gia được thì họ xin là làm Ưu Bà Tắc hay Ưu Bà Di -Ưu Bà Tắc là nam, Ưu Bà Di là nữ. Cho nên đây là cái ông này, ông là Ưu Bà Tắc tức là nam, còn cái người nữ mà xin Phật làm cư sĩ nữ thì gọi là Ưu Bà Di, đó, Thầy phân biệt, bởi vì hai chúng cư sĩ mà, chúng nam chúng nữ đó.

Cho nên vì vậy ông này ông đứng lên quỳ xuống đức Phật ổng xin ổng là cái lời nói như vậy là cái lời nói nó phát ra gọi là Tam quy. Còn ông Phật thì ông làm thinh ông chấp nhận thôi chứ ông không nói gì hết, tức là tam kết chứ không phải như bây giờ, a tốt lắm như vậy là quý lắm, đó là mình kết người ta chứ gì, rồi bắt người ta thệ đừng có quy y quỷ vật thiên thần nữa, đó là bắt người ta thệ. Ông Phật hồi đó không bắt ai thệ, bắt người ta thệ tức là ghép người ta không có dám rời, người ta tu hành một thời gian người ta không thấy được người ta cứ rời chứ, ép buộc người ta vào cái đạo của mình là đạo thiện pháp mà. Có lợi ích thì người ta đến, còn người ta thấy không lợi ích, người ta muốn ở ác pháp thì người ta cứ về. Chứ căn cớ gì mà bắt người ta thề, buộc chân người ta cứ theo mình hoài, mà người ta theo mình người ta làm không được phải làm khổ cho người ta thêm không?

Đó cho nên đạo Phật không có cái mà thề ở trong đó, còn cái tôn giáo khác thì họ có bắt thề. Đức Phật làm thinh biết là đức Phật đã nhận lời chớ còn mình đây mấy ông thầy mình sao. Thiện hỷ làm tốt lắm được vậy tốt lắm, nói một lời khi mà phát lên nói tốt như vậy là kết họ đó, cho họ dính vô đó, gọi là tốt.

Từ đó họ được xem là thọ quy y tam bảo, thọ quy y tam bảo rồi. Nghĩa là sau cái lời đó rồi thì cuối cùng cái người cư sĩ đó họ là đệ tử của Phật rồi, họ không còn là đệ tử của ngoại đạo nữa, từ đó họ đến với tịnh xá, đến với đức Phật chứ không bao giờ họ đến cái nơi của ngoại đạo đâu.

Tại sao lúc bấy giờ chưa có đủ tam quy thì làm sao có quy y được, Phật có một mình và pháp chưa thuyết. Nghĩa là lúc bấy giờ có một đệ từ đầu tiên là cái ông là cha của Da Du Dà đó, chỉ có mình ông đó là người đầu tiên mà làm đệ tử cư sĩ của Phật, chứ không phải 5 anh em Kiều Trần Như đâu. Quý thầy nói 5 anh em Kiều Trần Như là tu sĩ còn cái ông cư sĩ, mà không phải có một ông này đâu còn hai người nữa là những cư sĩ mà đệ tử của Phật đầu tiên đó. Thì bây giờ Phật chỉ có một mình à, Pháp thì chưa thuyết chưa có nói, bởi vì đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên là dạy cho năm anh em Kiều Trần Như chứ đâu có dạy ai đâu. Các thầy hiểu bởi vì đó là cái pháp đầu tiên Phật nói ra với năm anh em Kiều Trần Như còn cái ông cư sĩ này có nói pháp cho ông nghe chưa đâu, phải hông? Nhưng mà qua oai nghi tế hạnh, rồi qua những cái điều kiện hoàn cảnh của ông ta, ông hỏi thì Phật thuyết pháp cho ông ta nghe nó đúng cái hoàn cảnh ông ta mới thấu hiểu được cái giáo lý của đạo Phật. Thì tức là đức Phật phải có thuyết pháp nhưng đâu phải là cái bài pháp đó là cái bài đầu tiên. Bởi vì bài pháp đầu tiên phải nói là Tứ Diệu Đế rồi, thì những cái này là những cái duyên mà người ta gặp hỏi thôi. Rồi ông ta hỏi bây giờ con tu vậy đó, sai hay là đúng, phải hông? Hoặc là con nghe kinh đó vậy vậy như thế nào? Phật mới giải thích chứ không phải là đem pháp giảng để dạy cho người ta hiểu đó là cái tà, cái chánh kiến thôi.

Đó thì như vậy thì các thầy thấy đó là không phải cái bài pháp đầu tiên đâu, cái bài pháp đầu tiên là thuyết giảng cho 5 anh em Kiều Trần Như. Cho nên đây là chỉ nhắc lại, nhưng mà ông này ông ấy lại nhận ra được cái lời của Phật dạy quá là tuyệt, đúng, đúng là cái môi trường của ông là như vậy sai quá sai rồi. Cho nên ông thấy là chỉ có đức Phật là người hướng dẫn ông đúng chánh pháp, mặc dù ông chưa hiểu cái chánh pháp đó ra sao hết nhưng mà nói nghe hợp lý, nghe đúng cho nên từ đó ông mới xin làm đệ tử cư sĩ của Phật.

Phật có một mình chưa thuyết pháp làm sao có Pháp bảo, tăng chưa độ làm sao có tăng bảo thế mà đức Phật nhận quy y người. Lúc nãy Thầy có dạy nhất thể tam bảo quý thầy có nhớ không? Từ trong Phật có đủ ba ngôi tam bảo:

- Một, Phật có cái khả năng giác chiếu nên gọi là Phật bảo.

- Hai, Phật thuyết pháp tự tại vô ngại cho nên có cái khả năng hủy trì vì thế gọi là pháp bảo.

- Ba, Phật không có hý luận tranh luận vì thế gọi là tăng bảo. Do vậy từ một đức Phật có đủ ba ngôi tam bảo.

Như vậy từ một Đức Phật có đủ ba ngôi tam bảo như vậy, Da Du Dà quy y tam bảo mà không thiếu một bảo nào nên đã thành quy y tam bảo, còn thiếu thì chẳng thành.

Đó bây giờ thí dụ có một mình Phật à, mà quy y có Phật không thì ba ngôi kia làm sao đủ, thì ba ngôi kia không đủ thì làm sao gọi thành tam bảo được. Đó mà ở đây mọi nhất thể tam bảo chúng ta thấy ông Phật là đủ hết rồi. Cho nên khi mà vị cư sĩ này đã quy y Phật là thành quy y tam bảo không có còn thiếu nữa.

Tăng già đầu tiên của đức Phật là khi đã độ được 5 anh em Kiều Trần Như thì hóa tướng tam bảo mới đầy đủ. Bây giờ cái này là hóa tướng tam bảo đây, còn hồi đó là nhất thể tam bảo đó. Còn hóa tướng tam bảo thì bắt đầu có 5 anh em Kiều Trần Như mới có được 6 người đức Phật nữa mới là 6 người. Cho nên tăng bảo là 5 người đó, đó thì chúng ta thấy nó có cái giáo đoàn nó có một cái tăng già rồi đó. Thì bắt đầu từ 5 anh em Kiều Trần Như, còn trước khi chưa độ 5 anh em Kiều Trần Như thì quy y tam bảo thì chỉ là chỗ nhất thể tam bảo, đó, còn sau này có rồi thì gọi là hóa tướng tam bảo.

Các con thấy các danh từ như vậy mình phải hiểu chứ còn nếu Phật pháp mà không hiểu như vậy lúc người ta hỏi nhất thể tam bảo, hóa tướng tam bảo lúc bấy giờ mình nghe mình không biết cái gì hết. Nhất thể tam bảo thì biết là chỉ có một mình ông Phật thôi, mà hóa tướng tam bảo thì biết là có ông Phật với 5 anh em Kiều Trần Như và sau này chúng càng đông thì đó là hóa tướng tam bảo hết.

Cho nên được xem là thọ tam quy rồi, sau đó đức Phật còn truyền tam quy cho 2 người lái buôn và Lâm Vương  rồi đến 5 anh em Kiều Trần Như là chỗ nhất thể tam bảo. Nghĩa là ông Phật ông đã cho một cái vị cư sĩ cha của Da Du Dà làm cư sĩ quy y tam bảo và đến đó một vị lái buôn và một vị Lâm Vương đó là 3 cái người đệ tử đầu tiên cư sĩ đó. Đó là 3 cái vị đầu tiên rồi sau đó mới độ 5 anh em Kiều Trần Như là độ những người tu sĩ.

Bây giờ trong khi mà độ như vậy cho quy y 3 vị đầu tiên cư sĩ đó gọi là nhất thể tam bảo và đồng thời đức Phật mà độ cho 5 anh em Kiều Trần Như thì cũng gọi là nhất thể tam bảo vì lúc bấy giờ đức Phật đâu có tam bảo. Mà 3 cái người này cũng phải, từ bắt đầu mà muốn thành tu sĩ thì cũng phải quy y tam bảo rồi ngũ giới, rồi thập giới, thập thiện rồi cho đến 250 giới. Cho nên những người này mà được thành tu sĩ tỳ kheo thì nó cũng phải trải qua các cấp bậc đó, chứ không phải là bây giờ có đức Phật rồi cái thọ 250 giới liền không phải đâu. Mà lúc bấy giờ các thầy có thấy kinh bổn ra đời chưa? Chưa có mà, 13 năm sau mới có kinh bổn ra chứ đâu phải.

Khi mà chúng Tỳ Kheo đã phạm pháp, đã phạm giới còn chúng bấy giờ người ta không có phạm pháp, người ta không có phạm giới luật, rất thanh tịnh, ăn ngày một bữa là một bữa. Còn chúng sau này ăn lộn xộn, một ngày một bữa không ăn còn đi kiếm để dành, để...để ăn thêm. Như vậy Phật phải chế ra để ngăn cản mấy ông đó, đó là sau 13 năm chứ không phải là khi mà 5 anh em Kiều Trần Như là đã có chế giới đâu. Cho nên giới bổn sau này nó không có cái giá trị mà giới kinh thì lúc bấy giờ là pháp bảo của Phật là giới kinh. Cho nên nó có từ ngay trong cái thời đức Phật, nó lưu xuất từ cái miệng ông Phật, nó lưu xuất từ cái tâm tự tại vô ngại của Phật mà nói pháp ra thì pháp bảo là giới kinh. Cho nên giới bổn nó ra đời sau 13 năm nó mới ra đời.

Nghe trong kinh tạng Nikaya câu nói quy y tam bảo thật là rất đơn giản và đầy đủ ý nghĩa, đây trong kinh Nikaya thường thường là các vị mà xin để mà quy y tam bảo thì các vị nói như thế này: “Nay chúng con xin quy y tôn giả Gotama, quy y pháp và quy y chúng Tỳ Kheo tăng. Mong tôn giả nhận chúng con từ nay trở đi cho đến mạng chung chúng con trọn đời quy ngưỡng”. Đó thì lời nói này trong kinh, trong kinh Nikaya thì cái lời nói này rất là nhiều. Đây là một câu nữa: “Nay con xin quy y thế tôn, quy y pháp, quy y chúng Tỳ Kheo tăng mong thế tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung con trọn đời quy ngưỡng”. Bắt đầu quỳ xuống trước mặt, khi mà nghe bài thuyết pháp xong rồi ngộ được cái lý của đạo Phật rồi bắt đầu những người này mới quỳ xuống mới trước Phật, xin đức Phật cho mình được trọn đời cho đến ngày mà mạng chung mình đều quy ngưỡng theo tam bảo.

Đó là câu trong kinh dạy quy y tam bảo rất là tự nhiên đơn giản chứ không giống như cuội ở trong cái giới đàn tăng đó. Ở trong giới đàn tăng nó dạy chúng ta theo các tổ mà đặt ra giới đàn tăng rồi đó, để làm những cái lễ quy y chúng ta cách cuội lắm. À bây giờ Thầy nhắc câu đó bắt các con phải nói trở lại, nhắc lại cũng như mà mấy ông đánh võ vậy đó, ở ngoài mình thấy mấy ông đánh ngon lắm chứ sự thật mấy ông cuội để cho mình xem thấy đòn nào ngon. Chứ còn đánh thật mấy ông chắc dập mặt hết đó, phải hông các con? Đó là cái cuội. Vì vậy mà cái sự quy y theo Phật, Pháp, Tăng này Thầy thấy làm cái kiểu trong giới đàn tăng Thầy đọc nghiên cứu Thầy thấy cái lối cuội. Ông thầy đọc rồi bắt đầu, mấy con có quy y không, Thầy không biết có không chứ còn Thầy thấy rõ ràng là mấy ông nói trước mấy con nói sau cứ lặp lại, lặp lại. Ít ra mình muốn nói nó mình phải nói từ tâm nguyện mình chứ mình bắt chước nhại lại của người ta thì cái tâm nguyện của mình lúc bấy giờ sao? Ráng lo mà nhớ cái lời ông ta nói là hết sức rồi còn đâu mà cái tâm của mình như thế nào gọi là quy y?

Các con phải biết nếu mình không nhớ được thì ít ra mình cũng phải soạn cái câu nào đó để mình hướng đến tam bảo quy y mình phải học thuộc lòng, từ đó mình thuộc lòng rồi tâm của mình nó duyên theo hình ảnh của đức Phật, Tam bảo đó mà mình nói lên cái lời nói của mình. Tốt nhất là mình để tự nhiên của mình lưu xuất ra chứ mình học câu cũng không hay nữa. Thầy nói thật sự hông hay, còn cái này cuội theo mấy lão ngồi đó mà nhắc chừng cũng như mình nhắc tuồng hát vậy đó. Thiệt ra thì rõ ràng là nhắc tuồng hát để rồi các người quy y đó nhắc theo chứ có làm gì, chứ không phải là nhắc tuồng hát sao.

Đó thì Thầy thấy nó từ cái chỗ hình thức dẫn đến nó sai nó sai làm sao mà nói lên cái tâm thành quy y của người nó đâu phải là cái việc cuội như vậy. Cái chuyện mà làm giả như vậy được, nói hết để cho thấy được cái trò bịp bợm người ta, gạt gẫm người ta nó đủ cách, nó không còn cái hình thức thiêng liêng của cái tôn giáo người ta đến đó. Mà người ta cứ ngỡ rằng, cái người mà làm đó người ta cứ ngỡ rằng đó là mình làm đúng chứ người ta đâu có thấy được cái sai. Người ta làm sao người ta gợi được cái ý của người đó đó, cái người mà muốn mà quy y tam bảo người ta hiểu được cái tam bảo như thế nào để từ cái thâm tâm người ta, người ta quỳ trước tượng Phật, người ta quỳ trước tam bảo mà người ta phát lên cái lời nói tận đáy lòng của người ta. Để người ta quy ngưỡng để đem lại cái sự hạnh phúc, cái sự an vui, cái sự giải thoát cho họ từ cái chỗ mà trôi lăn ở trong sanh từ đau khổ này mà người ta chấm dứt được cái sinh tử đó, người ta mới có cái sự tha thiết đó chứ.

Nói như vậy 3 lần tức là chánh thọ tam quy, tam quy giới, nói 3 lần như vậy đó gọi là chánh thọ tam quy giới. Sau là tam kết, tức là cái ông thầy hướng khải đó gọi là tam kết là được một vị thầy chấp nhận lời xin quy y đó. Chỗ trọng yếu của quy y là nói lên 3 lần chánh thọ tam quy, nhận lấy giới thể vô tát của tam quy, cái giới thể của tam quy gọi là giới thể vô tát tức là cái hạnh sống của tam quy đó. Cũng ở chỗ chánh thọ này tuy đơn giản nhưng sự quy y như vậy trong một bầu không khí trang nghiêm, vắng lặng và trang trọng thì tạo cho người quy y tam bảo cảm giác như có một sự thiêng liêng, thâm u, huyền diệu biết bao. Cái lời nói trong cái sự trang nghiêm vắng vẻ đó, cái lời nói đó chừng 1,2 người quy y người ta nói lên cái lời nói từ tận đáy lòng. Nó làm cho cái cảnh giới lúc bấy giờ nó thiêng liêng vô cùng nó huyền diệu vô cùng, nó làm cho người ta siêng vào cái thiện pháp rất là thấm nhuần ở trong cái tâm hồn, từ đó quy y rồi về người ta không dám giết hại chúng sanh, người ta không còn muốn ăn thịt chúng sanh.

Còn hầu hết bây giờ cư sĩ quy y tam bảo rồi về ba cái thịt nuốt sạch, ông nào cũng vậy, thịt nó ngon mà, nó bổ mà, nó mập mà còn ăn ba cái rau cải nó khô nó héo hết. Cho nên quy y rồi ở trong quy y đã nương theo Phật rồi mà về mà nuốt thịt được thì Thầy thấy không có còn cái chỗ nào mà Thầy chê được cái chỗ đó hết. Ba cái tượng trưng, ba cái chỗ mà thiện pháp cao đỉnh nhất mà giờ cúi đầu, to tiếng nói lên những cái giọng là quy y tam bảo rồi, thế mà về vợ con đem phở cái lên làních, hông có tha tô nào hết, còn thêm nhiều tô nữa chứ, bữa nay bà nó nhà nấu sao ngon quá, cho tôi tô nữa. Có hông? Thầy nói đâu có trật, nấu dở dở thì ăn vài miếng thịt chơi thôi, dẹp, phải hông? Ăn thịt thôi chứ đâu có phải lật ở dưới mà ăn giá đỗ đâu? Đâu có thèm bởi vì nó dở, chỉ nuốt ba cái miếng thịt nó ngon. Quy y tam bảo mà còn thấy cái chỗ đó thì thiện pháp ở chỗ nào. Thật sự ra họ không thấy Phật pháp là thiện pháp cho nên Thầy quét cho ba cái ông mà theo Phật giáo mà làm cái điều ác.

Câu nói tuy đơn giản ngắn ngủi nhưng lời nói quy y rõ ràng mạch lạc, nói ra lời nào chữ nào cũng phải nhấn mạnh rõ ràng tự tâm hồn tha thiết hướng về người cha lành muôn mầu tuyệt đối chẳng được lôi thôi. Nghĩa là lúc bấy giờ mình nói lên những lời nói đó tận đáy lòng của mình, phải rõ ràng mạch lạc, lời nào ra lời nấy cho hẳn hoi. Bởi vì đó là đấng cha lành của mình, ba ngôi tam bảo là đấng cha lành của mình, trong 3 cõi mà, đâu có phải một cõi đâu, Cho nên mình hướng về đó là hướng về cả cái tâm hồn của mình.

Đại sư Hoằng Nhất nói: dù người xuất gia hay tại gia lúc thọ tam quy, trọng yếu nhất là có 2 điểm, thứ nhất là người thọ tam quy phải chú ý đến nghĩa của quy y tam bảo, thứ hai là ngay cái lúc thọ quy y, vị thầy chịu trách nhiệm quy y phải giảng nói rõ văn ngôn phải đơn giản để cho người nghe dễ hiểu, dễ nhận nếu không được vậy thì quyết chẳng đắc tam quy hoặc cách xa nghe không rõ cũng chẳng đắc tam quy, hoặc tuy nghe hiểu, biết nhưng trong đó có 2, 3 chỗ nghi mà không chịu hỏi thưa giải nghi thì cũng chẳng đắc tam quy. Đó thì ở đây ngài Hoằng Nhất ngài là một giới sư cho nên ngài nêu ra khi mà thọ tam quy, mà cái người mà đứng ra mà làm lễ tam quy mà không giải nghĩa cho cái người mà thọ tam quy hiểu thì cái lỗi đó là lỗi của ông thầy đó. Rồi mà giảng làm sao cho người ta nhận hiểu cho được rõ ràng, nếu mà người ta ngồi xa quá người ta không nghe thì người ta cũng không đắc tam quy đâu, mà nghe mà có chỗ nghi nghi ở trong đó thì cũng chẳng đắc tam quy đâu. Đó, cho nên vì vậy đó, khi mà mình muốn nghe cái gì đó mà vì cái thọ buổi  lễ tam quy khi ông thầy giảng cho mình hiểu để lát nữa mình phát tâm lên mình nói lời nói quy y tam bảo cho nó tận ở trong lòng của mình thì mình phải rõ thật rõ. Có nhiều người quy y cả ngàn người hoặc cả trăm người ngồi đầy cái giảng đường này, đầy cái nơi này, mà rồi lúc bấy giờ đó, họ ngồi ở dưới đó, dường như họ không nghe họ ngủ nữa. Tới chừng đó biểu quy y họ cũng quỳ lên họ cũng nói, nói tầm ruồng tầm đế, ông thầy nói sao họ nói vậy, chứ hồi nãy không biết ông thầy ông ấy nói cái gì mà quy y tam bảo. Tới chừng ra rồi hỏi ông quy y tam bảo rồi ông biết hồi nãy ông thầy nói gì không? Trời đất ơi! tôi có biết đâu nhất thể tam bảo như thế nào, mà trụ trì tam bảo như thế nào tôi chẳng biết hết á.

Bây giờ quý thầy đã quy y rồi Thầy hỏi nhất thể tam bảo hoặc là trụ trì tam bảo, mà nếu mà Thầy không giảng ra, Thầy hỏi quý thầy có hiểu không, có biết sao mà trả lời không? Mà người nào cũng quy y rồi đó. Bởi vì nếu mà không có Thầy vạch ra cho rõ thì coi như là quý thầy có quy y tam bảo cũng chẳng biết quy y tam bảo là cái thứ gì nữa chứ đừng nói, nó hông biết là nhân duyên như thế nào nữa.

Tam quy rất là đơn giản, song muốn thật sự đắc cái thể của tam quy cũng chẳng phải dễ dàng đâu, cho nên vì vậy mà quý thầy thọ tam quy rồi có ông nào mà đắc tam quy đâu. Thầy nói về cũng vẫn ăn thịt cá thì có đắc ở chỗ nào được đâu còn đắc tam quy rồi thì mình phải giống ông Phật chứ, chứ làm sao mà…Cũng như mà các con nghe một câu chuyện của ông Visakha chứ gì ông đến ông nghe ông Phật thuyết rồi, về cái bà vợ.. mỗi lần thì ông đến nhà, bà vợ đưa tay cái ông chồng nắm, hai vợ chồng mới dẫn đi lên, bữa nay nghe Phật không biết nói làm sao không biết, ông về bà vợ đưa tay ông không thèm nắm tay bà ấy nữa. Ơi trời cái kiểu đó, bà sao tức tối ông này ông ấy nghe Phật nói sao bây giờ ông đối xử với mình kỳ vậy ta hay hoặc là có cái bà cư sĩ cũng vô ngồi nghe Phật rồi ông nhiễm rồi bây giờ ông về ông không thèm mà nắm tay mình nữa cho nên bà nghi ngờ vậy. Cho nên khi đó ông ấy đi trước bà đi sau, mà mỗi lần thì nắm tay nhau đi song song mà hôm nay hổng được ông đi xa xa bà ấy chứ bà ấy mà đi ráng ráng lại gần thì ông ráng ông đi xa hơn không dám lại gần bà nữa, thấy ông này kỳ cục cho nên đến cái phòng khách rồi thì bắt đầu ông ấy ngồi lên ghế kia, bà ấy ngồi ghế bên đây chứ mọi lần 2 người ngồi chung cái ghế, nay ngồi riêng ra, rồi bà mới hỏi sao nay ông sao kỳ quá vậy, nay tui thấy ông không giống như mọi lần vậy, có ai không, có bà nào không? Bà nổi ghen trước cái đã, như vậy lẽ đương nhiên đàn bà là phải vậy thôi, có người nào mới làm vậy chứ không có sao mà kỳ vậy. Cho nên bà mới hỏi ông ấy, đâu có tôi nghe Phật thuyết pháp tôi thấy đây là cái nhân sinh tử, thôi bà đi nghe Phật thuyết pháp đi rồi bà biết chứ bây giờ tôi nói bà cũng không tin tôi đâu, bà sợ tôi có cô nào cư sĩ cũng vô nghe Phật rồi tôi nhiễm bà ta rồi về bà ghen tuông bậy bạ thì hổng được, thôi bà cứ đến nghe Phật rồi bà mới biết lòng tôi chứ giờ tôi giãi bầy bà cũng không tin tôi đâu.

Bởi vì người ta nghe Phật thì có nam có nữ nhiều, mà bây giờ đi có mình tôi không có bà nên giờ về bà nghi như vậy cũng phải, mà tôi làm vậy là đúng lời Phật dạy rồi, bởi vì tôi biết đó là sanh tử nhưng giờ tôi nói bà hông nghe đâu thôi bà cứ đi. Bà ta bà sửa soạn xe cộ bà đến bà nghe Phật thuyết pháp, sau khi nghe ông Phật thuyết pháp rồi bà về mà xin ông chồng cho bà xuất gia đi, bà đi tu, ông bằng lòng ông ở nhà ông nuôi con phải hông? Còn bà đi tu. Cho nên sau này Thầy sẽ nói lại cái chỗ mà ông Visakha là chồng bàDhammadinna khi mà bà tu chứng rồi mà ông về ông hỏi pháp ông chất vấn bà dữ lắm chứ không phải không đâu, để coi bà thâm hiểu như thế nào, đi tu theo Phật như thế nào bàDhammadinna bà trả lời rất là tuyệt diệu. Thầy nói những cái bài đó Thầy sẽ đọc, lẽ ra bữa nay mà nó đủ thì giờ Thầy sẽ đọc cái bài đó cho các con nghe gương hạnh của người xưa người ta tu kinh lắm.

Cho nên phải hiểu những cái gì mà chúng ta phải hiểu, cho nên nói mình đắc mà tam quy đó, thì chắc chắn Thầy nhìn hết cư sĩ mà thọ tam quy rồi, chưa nói là ngũ giới đâu, Thầy nói nội tam quy thôi thì chưa có ai mà đắc tam quy hết. Nghĩa là hầu như là nói là nói một lẽ thôi cũng là tam quy,cũng là cái cáilòng thái (khoái?), người nào thọ tam quy ngũ giới cũng cái  lòng thái (khoái?)rồi. Trời! đẹp đẽ lắm chớ.

Do vì vậy đó, thì sau này các con sẽ được học cái bài mà của bà vợ của ông Visakha bà nói pháp cho đến cuối cùng thì ông cũng chưa có đủ cái niềm tin ở chỗ bà cho nên ông mới đến gặp đức Phật, hỏi đức Phật bà đã giải thích như vậy có đúng hay không? Đức Phật nói ta cũng cỡ giải thích như là bàDhammadinnavậy thôi chứ không hơn, nghĩa là ta chỉ giảng như vậy thôi cũng như là bà. Cho nên trong cái giới ni bà là đệ nhất trí tuệ, đức Phật đã khen ngợi bà là đệ nhất trí tuệ, cho nên những cái bà giảng hầu như là đức Phật không có cho là sai cái chỗ nào hết, không có sai chỗ nào, có nhiều cái đức Phật không giảng mà bà giảng ra được. Cho nên tất cả những cái thiền định, từ cái nhập diệt thọ tưởng định các con sẽ nghe bà giải thích về nhập diệt thọ tưởng định rất kỹ, rất là hay, rất là tuyệt, cách thức mà dùng cái định nào, dùng cái gì để mà tu tập thiền định bà giải thích rất hay, rất rõ.

Do đó trong những buổi giảng Thầy thêm những cái bài đó để sau này khi mà giảng về cái giới hành thì nó dễ hơn, nó ngắn hơn mà chúng ta đã chuẩn bị cho chúng ta có những cái bài học nó cụ thể rồi. Sau khi dạy qua cái giới hành thì Thầy rất dễ dạy cho quý thầy hiểu. Bởi vì cái trục mà Thầy sẽ nhắm vào là Thầy sẽ lấy Bát Chánh Đạo mà dạy tất cả 37 phẩm trợ đạo quay xung quanh ở trên bát chánh đạo, tám cái ngõ mà đi đến giải thoát, cho nên vì vậy mà Thầy trang bị cho quý thầy ở trong khi mà học giới bổn này hoặc là học những cái điều kiện khác Thầy trang bị cho những cái bảng tin để quý Thầy chuẩn bị cho tinh thần mình có sự hiểu biết, chứ đến đó mà Thầy giảng mà nếu không trang bị, đem những cái bài kinh kia vô nữa thì nó quá nhiều, nó làm cho loãng đi. Còn bây giờ thỉnh thoảng xen vô trong những cái giới bổn này là chúng ta có những cái gợi về thiền định cũng làm cho chúng ta thích thú trong khi nghe, nó cũng như thay đổi, nói hoàn toàn giới không, nó khô lắm cho nên đem những cái giới hành vô để xen vô những cái kinh nghiệm của các vị tu hành làm chúng ta có thay đổi cái không khí nó tốt hơn. Chứ còn nói điều 1, điều 2, điều 3, điều 4, điều 5 nói riết chúng ta thấy cũng chán lắm, cho nên Thầy khéo léo để làm cho tâm lý của các con phấn khởi trên bước đường tu tập.

Thầy xin đọc lại chỗ này, quy y tam bảo rất đơn giản xong muốn thật sự đắc giới thể của tam bảo cũng không phải là chuyện dễ. Bởi nhìn chung mọi người Phật tử ai cũng đều quy y tam bảo nhưng hầu hết không có người đắc tam bảo. Nếu như tự biết không đắc tam bảo thì chẳng ngại gì thỉnh một vị minh sư, hoặc là thỉnh thầy khác thọ quy y một lần nữa, trong nghi thức thọ quy y, đại quy mô của tập thể mấy chục người hoặc mấy trăm người, mấy ngàn người là chẳng thể tin cậy được, chỉ là gieo trồng căn lành cho họ mà thôi.

Nghĩa là quy y đông nó không có cái sự thiêng liêng mà nó có sự vui nhộn ở trong đó thôi, nghĩa là thấy người ta quy y là bắt chước đó thôi, cho nên gieo cái nhân đó thôi chứ còn không có đắc cái tam bảo được. Cho nên vì vậy mà cái số người lượng mà đông mà quy y tam bảo bây giờ về họ bán phở họ vẫn bán phở, họ bán cháo lòng thì họ vẫn bán cháo lòng. Họ làm cái gì thì vẫn cái nấy, nhà họ thì ăn thịt thì họ vẫn ăn thịt như thường, mà họ vẫn quy y tam bảo họ vẫn thọ ngũ giới rồi, nhưng mà họ nói rằng tôi thọ ngũ giới là tôi không cầm giao tôi giết thôi. Nghĩa là tôi ra ngoài chợ họ mần (làm) gà, mần thịt, mần cá thì tôi mua về tôi ăn thôi chứ không sao. Nhưng mà quy y tam bảo nó không phải như ngũ giới. Mà ngũ giới đó là cái bước thứ hai của chúng ta để tu tập họ còn cái lý luận ở trong cái gián tiếp sát sanh. Mình không mua không ăn làm gì người ta giết, chính mình mua mình ăn người ta mới giết chứ, cũng như quý thầy nói ăn không nghe, không thấy, không nghi mà chính mình ăn người ta mới giết cho mình ăn chứ, chứ mắc mớ gì người ta đem thịt cá cho mình ăn. Mình ăn chay thì ai mà cho, một lần, hai lần người ta hông biết người ta cho thôi. Còn ngày xưa có người nói đức Phật đi khất thực, thì người ta nấu ăn cái gì thì người ta cho mình ăn cái nấy, mình nói mình ăn chay làm sao giờ. Thì là lẽ đương nhiên ông Phật ông hông cãi rồi, ông hông nói tôi ăn chay rồi nhưng mà ai cho ông, thì ông có ăn hay là không ăn là cái quyền của ông ấy chớ cái người đó có ép ông ấy được sao? Cho nên bây giờ có bỏ ông ấy đầy bát thịt đi nữa ông ấy cũng mang về nhưng có ăn hay không ăn là quyền của ông ấy. Trước mắt ông thấy những cái thịt chúng sanh vậy ông ấy ăn được sao, là một cái người tu sĩ đạo Phật tâm từ người ta đâu có đơn giản được, cho nên người ta không ăn thì người ta phải bỏ ở dưới đất đi chớ. Bởi vì cái đó là cái lòng của người cư sĩ họ cúng dường mình thì mình nhận chứ nhưng mà mình không ăn là vì lòng từ của mình chứ, còn đằng này mình thèm khát mình nuốt hết thì tức là mình có phải là cái lòng từ đâu, cho nên mình nhai mình nuốt hết, càng ngày nó càng nghiền ra nó muốn ăn, cho nên bữa nào mà người ta hông có thịt cá cho mình về mà ăn nuốt không vô.

Cần thọ tam quy vốn chỉ cần thỉnh cầu một vị thầy thanh tịnh giới hạnh quy y ở trước Phật 3 lần, mỗi lần nói lên với tâm thành tha thiết tam quy tam kết là được.

Trong tam quy chánh phạm có tám mục, ở trong cái quy y tam bảo đó thì cái chánh phạm hạnh của nó thì nó chia làm tám mục.

Mộtlà người thọ quy y phải dâng cúng hoa quả đèn đuốc, đây là cái nghi thức thầy nhắc ra để cho quý thầy biết khi mà mình muốn thọ quy y thì mình phải làm cho nó đúng cái cách của nó, một là người thọ quy y phải dâng cúng hoa quả, đèn đuốc chỉnh tề rồi đến đảnh lễ một vị thầy thanh tịnh giới hạnh lên tòa quy y. Nghĩa là lên cái chỗ ngồi mà để làm cái lễ mà thọ quy y cho mình, đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai, vị thầy thỉnh mười phương tam bảo chứng minh thọ quy y, trong cái buổi đó thì cái vị thầy đó, cái cách thức của họ đó, cái nghi lễ của họ đó, thì cái vị thầy đó phải thắp hương rồi hoàn nguyện mười phương để chứng minh cho mình cái ngày hôm nay mình đại diện mình quy y tam bảo, đó là cách thứ hai. Nghĩa là cách thứ nhất là cái người thọ quy y phải sắm sửa đầy đủ rồi thỉnh cái vị thầy đó, vị thầy đó chấp nhận rồi thì vị thầy đó đến mặc y áo đàng hoàng. Mình đại diện cho Phật đâu có phải mặc cái đồ lè phè lên đó được, phải nghiêm chỉnh đàng hoàng rồi bắt đầu mới thắp cây thắp hương, mới quỳ xuống mới đảnh lễ trước cái tam bảo đó, rồi mình mới thỉnh chư Phật mười phương ba đời chứng minh cho hôm nay là mình đại diện cho Phật, Pháp, Tăng để mà thọ quy y cho cái người đệ tử tên gì đó, đó là cái giai đoạn thứ hai.

Thứ balà vị thầy khai thị ý nghĩa của tam quy, đó sau khi mà thắp hương thỉnh chư Phật chứng minh rồi thì bắt đầu mình lên thượng tòa thì bắt đầu mình khai thị ý nghĩa của tam quy cho cái đệ tử mình ngồi nghe, nghe cho rõ, đó là cái giai đoạn thứ ba. Bởi vì mình làm một cái lễ nào đó nó cũng phải có từng tiết mục của nó ở trong những cái lễ đó, mà nếu không nắm được cái này thì mình làm sao mình làm cái lễ quy y ra được, cái gì trước cái gì sau. Cho nên trong giới đàn tăng nó dạy chúng ta, nhiều khi mà cái người chưa có bao giờ mà đứng ra làm một cái chủ lễ một cái gì đó thì đọc ở trong giới đàn tăng nhiều khi chúng ta chưa biết đâu, chúng ta phải có trực tiếp sống coi quý thầy họ làm cái nghi lễ như thế nào, thế nào thì lúc bấy giờ có thấy rồi, có trực tiếp thấy người ta tổ chức một cái lễ giới đàn tăng đi, cái gì làm trước cái gì làm sau, người nào làm gì gì chúng ta có trực tiếp sống trong đó rồi thì chúng ta mới đọc giới đàn chúng ta mới hiểu.

Đọc rồi mới hiểu thì Thầy thấy viết sách nó quá vụng, Thầy chê ngay liền giới đàn tăng này viết, một cái người mà thọ lãnh cái trách nhiệm mà đứng ra mà làm cái vị hòa thượng đường đầu để mà lãnh đạo cái chỗ  thọ cái cuộc giới đó, họ chưa có làm một lần nào, chưa có được mà trực tiếp thấy lần nào, thì họ chới với đọc trong sách họ không làm được. Còn trái lại khi mà Thầy viết kinh sách ra á cái người đọc kinh sách họ biết từng cái tiết mục, tiết mục đó phải làm cái gì, ai làm cái đó người đó làm sao, rồi cách trả lời như thế nào ở chỗ đó thì cái người đó phải tùy tiện thông minh của mình mà trả lời cho nó hợp với cái chỗ đó. Viết ra một cuốn sách như vậy nó mới có giá trị của giới đàn tăng, còn viết ra quyển sách người ta...

Nói chung là đây là những người Trung Hoa họ viết ra rồi hòa thượng của mình dịch trở lại, chứ còn Việt Nam của mình các vị hòa thượng không có ai mà dám mà đặt ra cái này hết, chỉ có nói Thầy đặt thôi, nghĩa là chỉ có Thầy có thể nói nói là Thầy đặt giới đàn tăng ra được, là vì Thầy đi từng tiết mục. Một cái người mà cầm cái bổn mục của Thầy ra họ chưa bao giờ mà làm cái lễ nào hết họ cầm đó họ làm cái lễ được, họ biết rằng cái gì làm trước cái gì làm sau. Bởi vì qua kinh nghiệm bản thân của Thầy từng ở trong những cái tổ chức, những cái giới đàn, những cái lễ này kia trong cái các pháp yết ma Thầy đã nắm rất vững trong cái vấn đề này, cho nên Thầy rất thông suốt về vấn đề này, cho nên Thầy dám đặt ra những cái bảng mà giới đàn tăng. Cái người mà chưa từng biết gì hết, bây giờ Thầy nói như Minh Tông này hoặc Mật Hạnh này, hoặc mấy con này chưa có từng biết và thọ giới gì hết, nhưng mà cầm cuốn sách Thầy ra là các con biết tổ chức cái giới liền, phải làm cái gì, phải trang nghiêm thế nào, trong cái đạo tràng đó phải làm sao, làm sao, cái gì trước cái gì sau, cái người nào ngồi đâu, vị trí nào, tam sư thất chúng ở vị trí nào Thầy vẽ ra cái bản đồ hết, các con coi theo đó mà có thể sắp xếp người ta, ngay đó là tổ chức cái giới đàn rất là nghiêm chỉnh, chứ không phải là đọc ở trong đó chúng ta chẳng biết tổ chức làm sao hết.

Đó là những cái mà người viết sách nó không có cái kinh nghiệm mà qua cái chỗ mà dựa vào cái người này đến người kia nó có cái trừu tượng, nó khó có thể mà chúng ta vạch ra được, tự mình làm ra một cái lễ được.

Bốn,người thọ quy y nguyện sám hối những lỗi lầm trước để ba nghiệp thanh tịnh nhận được giới thể tam quy không tạp, không uế. Đó, thì các thầy thấy đó, khi mà mình chưa có quy y là cái thân của mình là ăn thịt chúng sanh, là giết, là hại, là có những ác pháp, là tham là sân là si, nó đủ cách là nhiễm của thế gian rất nhiều rồi. Mà khi mà nghe được cái lời dạy của cái vị thầy mà người ta giảng khai thị cho mình hiểu rồi thì ngay đó thì cái người mà quy y tam bảo là họ quỳ xuống trước thầy đó mà người ta xin quy y liền. Còn cái này có quy y đâu, họ có sám hối không, quỳ xuống sám hối điều gì? Nghe cái bài người ta giảng rồi biết tất cả những cái lỗi lầm của mình từ hồi nào tới giờ mình chưa biết Phật pháp rồi cho nên mình có những cái lỗi lầm ở trong những cái ác pháp đó, cho nên ngay liền đó thì sau khi cái lời khai thị của vị thầy mà đứng ra quy y rồi, thì cái người mà thọ quy y đó đâu có phải chờ tới quy y rồi mới là nói lên đâu mà ngay đó là biết mình đã có lỗi rồi, có lỗi từ những cái thời gian đã qua rồi. Cho nên bây giờ đứng lên xin sám hối để cho thân tâm mình thanh tịnh, để cho mình nhận ba cái pháp thanh tịnh vào, còn tâm mình chưa có sám hối nó chưa có thanh tịnh này, mình chưa có thấy được cái lỗi lầm của mình, nhận thêm ba cái pháp thiện vào làm sao nhét vô được, thiện với ác nó kỵ nhau chứ làm sao hai cái nó ở chung nhau được một nhà, thử hỏi coi ông chồng thì dữ như cọp, bà vợ thì hiền như ông bụt thì thử hỏi vợ chồng người đó ở được hông? Phải hông đâu có làm sao mà sống chung với nhau được, một người hiền một người dữ không làm sao sống chung với nhau được hết, nó phải là hai người nó phải như nhau mới sống chung với nhau được. Cho nên vì vậy mà tâm chúng ta đang ở trong tâm ác này mà bây giờ nhét vô pháp thiện có vô nổi không cho nên có người nào mà đắc tam quy đâu. Đó, vì vậy đó khi mà cái người mà biết quy y thì cái phần thứ tư này cái người quy y phải quỳ ngay trước bậc thầy đó và quỳ trước tam bảo xin sám hối những lỗi lầm từ đây con sẽ hoàn toàn cố gắng là con giữ gìn không được vi phạm nữa, và con xin để mà con đem ba cái pháp thiện này vào trong thân tâm của con. Đó mình hứa phải như vậy, từ đó mình mới thọ tam quy nó mới có được chứ, còn tâm chưa thanh tịnh gì hết thọ đại, nhét vô làm sao nhét vô nổi, nhét vô thì cái ông thiện ông bung ra ông nhảy lên, trời ơi ông ác đẩy tôi chạy thấy mồ tôi làm sao mà tôi ở đó được, cho nên làm sao đắc tam quy. Quý thầy phải hiểu bởi vì đây là cái nói của Thầy là phải nói hết, nói để cho quý thầy biết nhét chỗ nào mà nhét cho được, mà nhét không được thì đừng có nhét, nhét bậy thì nó càng khổ cho mình thêm.

Năm, thọ tam quy, tam kết và tam thệ, cái phần thứ năm này là trong giới đàn kinh có dạy rõ tam quy, tam kết và tam thệ nhưng mà ở đây Thầy thấy cần thiết là chúng ta quy y thọ tam quy và cái sự chấp nhận của vị thầy đó đại diện cho ba ngôi tam bảo đó là đủ, tam kết, tam quy là đủ, còn tam thệ thì đó là để giành cho cái phần tôn giáo của người khác chứ không phải Phật giáo. Đó cái tam kết thì chúng ta bỏ, chúng ta được thì chúng ta cứ ở theo Phật mà chúng ta tu thì được phước báu, mà không được thì chúng ta muốn quy thiên thần quỷ vật gì cũng được, nghĩa là chúng ta muốn làm ác thì chúng ta muốn quy y ở đâu cũng được chứ có gì đâu mà bắt buộc người ta phải ở với mình mà người ta phải khổ, cho nên Phật không có bắt buộc một tín đồ nào hết, được thì anh cứ ở tu để giải thoát cho anh, mà không được thì anh cứ ra chứ chúng tôi không có ép cho nên không có tam thệ.

Sau đó rồi, khi mà quy y rồi thì cái vị thầy đó, tức là cái vị thầy mà đứng ra đó, cái phần thứ 6 này vị thầy đó có lời khuyến chuất nói rõ cái phần mà, cái sự mà nương theo tam bảo này nó đem lại cái kết quả gì cho cái đời sống của người ta thọ tam quy, nghĩa là phải giải rõ, ở đây Thầy viết như thế này: vị thầy khuyến chuất nói công đức tam quy thù thắng và người thọ tam quy phải vâng làm và thực hành cho đúng để được kết quả hữu ích khi bước vào cổng nhà Phật. Đó là cái lời viết ngắn ngọn như vậy nhưng mà chúng ta phải biết rằng khi mà cái vị thầy đó khuyến chuất nói được khi mà chúng ta thực hiện cái hành sống của chúng ta đối với ba ngôi tam bảo này sẽ đem đến cái hạnh phúc gia đình của anh như thế nào và những người xung quanh của anh như thế nào, nó sẽ được sự giải thoát an vui như thế nào, nó đem lại cái cuộc sống của anh như thế nào trong cái đời sống của anh hiện tại chứ không phải đợi ngày mai đâu.

Nghĩa là quy y tam bảo rồi, ngày nay anh về bắt đầu vợ con phải sửa soạn đồ chay hết, nghĩa là có thay đổi rồi đó, phải hông? Các con thấy không thiện pháp liền tức khắc trong nhà, còn mình quy y rồi về bữa nào cũng như bữa nào cũng thịt bằm đầy thớt, chảo nào cũng ngập lút hết thịt cá hết thì quy y đó có nghĩa lý gì, cho nên ông thầy của mình phải khuyến khích cho cái người đệ tử của mình quy y, phải thấy được điều này, cho nên cái người quy y mà cư sĩ về rồi thì người đó hoàn toàn ăn chay. Bởi vì cái ăn chay này nó chưa phải là ăn chay trên ăn chay đâu. Còn cái người tu sĩ chúng ta phải có tâm từ bi viên mãn khắp chúng sanh, cho nên ăn chay nó trên ăn chay nữa, cái này ăn chay là mới có ăn chay sơ sơ thôi đó, nghĩa là tránh những hình ảnh đau xót mà mình nhét vào trong cái tà mạng của mình. Đó là những người cư sĩ.

Cho nên hầu hết những người theo Thầy, mà là cư sĩ, đến mà Thầy chịu, Thầy mà chấp nhận Thầy quy y rồi thì về ăn chay chứ nếu mà về ăn mặn đừng có nói là đắc tam quy đâu, Thầy chẳng có chấp nhận mấy cái thằng đệ tử đó đâu. Nó phải đúng là đúng, theo đạo Phật đúng là đúng mà không đúng là thôi, còn bây giờ mình thấy mình chưa có thọ tam quy được, mình còn thích thịt thì thôi, thì ở ngoài đó đi đừng có vô đây mà làm cho Phật pháp người ta suy đồi đi, để cho người ta có được người nào nó quý người đấy, người nào mà gọi cư sĩ đệ tử của Phật người ta cũng vẫn thấy thanh tịnh. Còn mình vô mà mình quy y có hình thức rồi mình cũng ăn thịt ăn cá rồi mình cũng chửi mắng la hét rầm rộ tùm lung tà la thì thử hỏi Phật pháp còn cái gì nữa, đạo Phật nó suy là suy do mấy ông đó.

Bảy,khi mà thọ tam quy và được khuyến cáo rồi thì cái người thọ quy y đó phải đảnh lễ thầy tỏ lòng tri ân, đó là cái mục thứ bảy. Bây giờ Thầy vạch ra cho quý thầy thấy từng mục từng mục để cho chúng ta làm thì các thầy bây giờ chưa bao giờ thấy đi nữa nhưng mà nghe Thầy vạch ra từng mục như vậy các thầy dễ quá mà đâu có gì khó đâu, Thầy dạy quá rõ ràng rồi.

Tám,người thọ tam quy hứa khả vâng lời dạy, bây giờ mình quỳ xuống mình đảnh lễ thầy để tri ân thầy đã đứng ra mà thọ quy y cho mình rồi và bắt đầu cái phần thứ tám mình phải nói cái lời hứa của mình mà qua thầy đã dạy cho nên mình sẽ không bao giờ đối với tam quy Phật, Pháp, Tăng không dám biếng trễ, nghĩa là cái hành động Phật pháp như thế nào thanh tịnh như thế nào, mình cố gắng mình khắc phục cho được ba cái thiện pháp này.

Đến đây là thọ tam quy đã xong, nghĩa là sau khi mình hứa khả cố gắng về khắc phục đời sống của mình cho đúng cái người đệ tử của Phật, đệ tử cư sĩ của Phật, mình phải làm cho đời sống của mình phải đúng như những cái lời mà Phật dạy trong kinh thì nó đem đến cái thiện pháp, nó đem đến cái sự an lành cho cái gia đình đó, thực tế cụ thể chứ không còn đi ở tù đâu. Thầy nói mình thọ tam quy rồi mà mình còn ăn hối lộ thì mình ở tù chứ làm sao, mình thọ tam quy rồi mình còn gian xảo mình bán vàng mình còn bớt này kia mình cân đo thiếu người ta mai mốt công an đến nó coi cân mình cân non nó bắt mình phải hông, bỏ tù mình sao, nó phạt mình thì sao. Đã quy y rồi, hỏi ra ông là gì, nói tui quy y tam bảo rồi, tôi quy y thọ giới rồi, tôi có pháp danh đàng hoàng rồi mà làm ăn như vậy đó có phải làm nhà nước họ cười cho, ông đệ tử của Phật gì mà gian xảo quá.

Đó là những cái mà cái giới cư sĩ mà không thấy được cái điều của mình đã làm sáng tỏ Phật pháp hay làm suy đồi Phật pháp, mà hầu hết là cư sĩ, đâu có nói là tu sĩ bây giờ nói tu sĩ là chúng ta đã thấy làm cho Phật pháp suy rồi mà giới cư sĩ có làm không, có chứ sao hông làm. Mấy ông ở tù mà nói là Phật tử, rõ ràng hỏi ra mấy ông cũng gian xảo đủ cách mánh khóe các ông làm ra tiền ra bạc bằng cách này bằng cách khác, mấy ông ở tù thì không phải là cái đó là mấy ông đã hạ Phật pháp xuống sao? Phật dạy các ông làm điều lành tại sao các ông làm gian xảo như vậy, Phật dạy các ông không có ăn giết hại chúng sanh mà các ông về bữa nào cũng dẫn nhau đi nhà hàng ăn tôm tươi nữa, chứ đừng có nói, ăn cá tươi nữa, bắt lên rồi bỏ con cá còn lăn lộn vậy bỏ trong chảo còn nhảy múa tùm lum mấy ông ngồi đó gắp mà ngon, không phải sao? Thầy nói mấy ông Phật tử chứ ai vô đó, thấy vô nhà hàng thấy mặt là biết liền.

Đến đây là thọ tam quy đã xong, theo đạo Phật không có nghĩa là thọ tam quy suông mà phải có hành tam quy giới, nghĩa là đâu có phải mình thọ tam quy suông đâu, mà mình thọ phải có hành nó, mình hành nó tức là mình sống đó. Bây giờ quý thầy hành như thế nào, thậm chí có nhiều người bây giờ cả quy y rồi, cả bây giờ Phật pháp 7-8 năm, 10-20 năm rồi mà vẫn có thấy thay đổi gì đâu, mà nói là đệ tử Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di của Phật, có vọng ngữ không?

Có 4 điều kiện mà quý thầy phải hành thì xin nhắc lại, Thầy xin nhắc lại 4 cái điều kiện mà người cư sĩ phải chấp nhận phải hành nó, đó là Thầy xin nhắc lại, ở đây là nhắc lại chứ còn cái này là quý thầy đã nhớ rồi chứ không phải không đâu.

Một là thông hiểu những gì chưa thông hiểu, đầu tiên quý thầy cần phải hiểu Phật pháp thêm, không phải quy y tam bảo rồi về có bao nhiêu đó là mấy vị đủ đâu, bởi vì còn phải tìm hiểu thêm nữa, cho nên các vị phải thông hiểu những gì chưa thông hiểu.

Hai là trau dồi những gì chưa trau dồi.Bây giờ quý vị về quý vị thay đổi cuộc sống của quý vị này, ăn chay này, nhỏ nhẹ trong gia đình này, không chửi mắng nhau, rồi có nghiện rượu nghiện thuốc thì bỏ dần hết do đó là quý vị đã trau dồi được một phần đó, nhưng mà còn những cái cần trau dồi nữa đâu phải có bao nhiêu đấy đủ. Cho nên nó còn tiếp tục ở trên con đường để đi đến đem lại hạnh phúc an vui cho quý vị rất nhiều nữa, thì quý vị cần phải trau dồi những gì chưa trau dồi.

Ba, tu tập những gì chưa tu tập, nghĩa là những cái gì mình đã biết mình tu tập nó chưa đủ đâu nó còn phải tu tập nữa chứ đâu phải tới đó mình thỏa mãn rồi, bây giờ hạnh phúc gia đình mình ngon quá rồi tiền bạc cũng dư ăn dư để rồi, thôi bây giờ nhiêu đó đủ đạo Phật đâu có dạy chúng ta thỏa mãn, toại nguyện ngay nửa đường đâu, phải đi tới nữa chứ, đó cho nên vì vậy đó chúng ta phải biết.

Thứ tư là dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ.

Ba giới đầu tiên này quý vị cứ theo 4 điều kiện trên đây mà tu tập, theo 4 điều kiện trên đây mà tu tập, mà hàng ngày quý vị sống đúng giới hạnh của tam quy, chắc chắn quý vị sẽ có một đời sống hạnh phúc an vui và yên ổn nhất, thiết thực hiện tại không có thời gian.

Đến phần giới hành, Thầy sẽ chỉ dạy tu tập 3 giới đầu tiên này, từ 3 giới đầu tiên này chúng sanh ra ngũ giới, ngũ giới là gì, ngũ giới là năm giới cấm còn gọi là năm thiện pháp. Kế đến cũng từ ba giới đầu tiên này sinh ra thập thiện, thập thiện là gì, là mười điều lành còn gọi là 10 giới cấm. Kế đến nữa từ ba giới đầu tiên này sanh ra bát quan trai giới, bát quan trai giới là gì, là tám cửa ải phải vượt qua mới thanh tịnh được thân tâm còn gọi là tám giới cấm, còn gọi là tám thiện pháp. Những giới cấm này đều là của hàng cư sĩ tu tập trau dồi những thiện pháp mà thôi. Muốn thành tựu những pháp thiện này người cư sĩ phải lấy giới hành trau dồi tứ vô lượng tâm, tứ chánh cần. Phải lấy giới định tu tập Thánh phòng hộ sáu căn, Chánh niệm tỉnh thức định, Vô lậu định. Đó là những cái mà cái người cư sĩ cần phải tu tập trong những định đó đó, để thực hiện cách giới hạnh đó từ thọ Bát quan trai cho đến tất cả ba cái thọ giới Tam quy đều là phải tu những cái định, cái định chánh niệm, cái định phòng hộ sáu căn, cái định vô lậu thì nó mới thực hiện được những cái pháp thiện đó.

Thì đó là những cái điều kiện trong cái lộ trình của người cư sĩ, cư sĩ phải tu tập những cái pháp đó.

Phải lấy giới pháp thực hành, pháp quán, tùy pháp, hướng pháp, tịnh pháp. Nghĩa là lúc bấy giờ đó thì cái vị cư sĩ phải học phải biết cho rõ các pháp hành như thế nào, các giới pháp như thế nào, để mà thực hành, thì thực hành nó có quán pháp, tùy pháp, hướng pháp và tịnh pháp. Đó nó làm cho chúng ta được thanh tịnh tâm gọi là tịnh pháp, cho nên đó là khi mà tịnh tâm thì đó là ly dục ly bất thiện pháp.

Giới luật trong Phật giáo trên đại thể gồm có hai loại khác nhau, đó, mình phải thấy giới luật của Phật giáo nó chia làm hai loại nó có khác nhau chứ nó không giống nhau, một là Tiệm Thứ giới, hai là Đốn Lập  giới. Đó những cái danh từ này nếu mà không được Thầy giải thích Thầy không nói rõ, thì nghe thì quý thầy khó mà hiểu, còn ở đây Thầy dạy giới là phải dạy hết, hết sức dạy của mình để làm cho quý thầy hiểu biết cho nó rõ ràng.

Tiệm Thứ giớichỉ cho tam quy ngũ giới, Bát quan trai giới, Thập thiện giới là giới tại gia hay là giới của người cư sĩ, còn gọi là pháp lành của người cư sĩ. Đó thì Tiệm Thứ giới đó là những giới mình lần lượt mình tu tập dần dần, dần dần đó gọi là Tiệm Thứ giới, mà những cái giới  này nó thuộc về, nó như là tam giới đó, tam quy đó, tam quy giới đó, ngũ giới đó, bát quan trai giới đó, thập thiện giới đó, là những cái pháp mà của người cư sĩ đang hành ở tại gia. Đó thì như vậy là cái người cư sĩ đã trang bị cho họ những cái giới hành của họ, những cái giới lý và giới hành của họ, là đầu tiên thì chúng ta gọi những cái giới đó là Tiệm Thứ giới, nó có cái tên gọi là Tiệm Thứ giới.

Không thọ ngũ giới, bát quan trai giới, thập thiện giới thì sẽ không thọ được thâp giới Sa Di, nghĩa là cái người mà không có thọ cái Tiệm giới này thì không có bao giờ mà có thể đi qua cái lộ trình thứ hai mà thọ thập giới Sa Di được, nó khó như vậy đó. Sa Di, Sa Di ni không thọ thập giới Sa Di, Sa Di ni sẽ không thọ được Tỳ Kheo giới, Tỳ Kheo ni giới, nghĩa là cái người mà muốn thọ Tỳ Kheo và Tỳ Kheo ni mà không thọ Sa Di thì không bao giờ mà có thể thọ Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni giới được. Trong quá trình từ Sa Di tiến vào Tỳ Kheo ni phải thọ giới pháp của Thức Xoa Ma Na. Đôi bên Tỳ Kheo ni, Sa Di ni với Tỳ Kheo ni đó thì nó còn một cái đoạn nữa là để mà thử thách ở bên ni là họ phải thọ Thức Xoa Ma Na.

Do vì cần phải tuần tự tiến lên từng cấp thiện pháp này cho nên gọi là Tiệm Thứ giới, nghĩa là tất cả những cái giới mà như vậy đó, của cái lộ trình của thứ hai của tu sĩ đó thì nó được gọi là Tiệm Thứ giới chứ chưa phải là Đốn Lập giới.

Đó thì chúng ta thấy cái Tiệm Thứ giới đó bên cái lộ trình cư sĩ thì nó có những giới gì mà bên tu sĩ thì nó có những giới gì cho nên gọi là Tiệm Thứ giới.

Hai chúng tại gia cộng thêm năm chúng xuất gia thành ra bảy chúng đệ tử Phật đều lấy Tiệm Thứ giới để được danh phận theo thứ tự, nghĩa là lấy Tiệm Thứ giới đó mà chia ra làm bảy cái chúng đệ tử theo cấp bậc của giới luật.

Đốn Lập giớichỉ là bát giới và bồ tát giới của kinh Phạm Võng và kinh An Lạc, hai thứ giới này là giới biệt giải thoát, giới biệt giải thoát ở ngoài thất chúng giới, tức là ở ngoài bảy cái giới Tiệm, Tiệm giới ở trên, cho nên cái Đốn giới này nó có cái quan trọng gì không?

Đốn giới này không phải từ tam quy giới lưu xuất ra, đó, mình nghiên cứu về kinh sách đó, mình mới thấy rằng cái Đốn giới này nó không có phải từ trong tam quy lưu xuất ra, cho nên mới nói Đốn giới là do các Tổ chúng ta đặt ra, làm ra. Cho nên Thánh Nghiêm có xác định, cái ông mà giới sư Thánh Nghiêm này ông có xác định cho chúng ta thấy được cái điều mà Đốn giới này nó không phải ở từ tam quy lưu xuất ra mà nó từ ở nơi những người khác mà lưu xuất ra. Giới này và giới kia tuy đồng là Phật giới nhưng không thọ tam quy ngũ giới cũng có thể thọ ngay Bồ Tát giới và bát giới, đó thì ông xác định cái câu ông nói để chúng ta thấy rõ, thì cái giới này với giới kia thì nó có giống nhau nhưng mà nó cũng có những cái khác nhau chứ không phải giống nhau hết đâu nhưng nó không phải từ ở tam quy, nghĩa là cái người mà không có thọ tam quy, thì thọ Bồ Tát giới hoặc là thọ bát giới đều được, đó, do đó thì chúng ta biết ngoài tam quy nó còn có những giới khác rồi thì tức là nó của ai?

Bởi vì tam quy là Phật pháp, mà Phật, Pháp, Tăng từ đó nó mới lưu xuất ra các giới thế mà không cần thọ tam quy mà bây giờ thọ bồ tát giới là vẫn như thường, thì ông là một cái vị mà luật sư, ông Thánh Nghiêm là một vị luật sư, ông nghiên cứu rất là kỹ lưỡng trong các bộ luật cho nên ông xác định đó là một cái điều mà chúng ta phải thấy rằng trong các bộ giới luật Bồ tát giới hay là bát giới thì nó đều là ngoài cái Phật, Pháp, Tăng ra nó có những cái giới đó. Đó là một thứ giới do các Tổ chế ra để bịt mồm bịt miệng người khác, để phá giới luật của đạo Phật mà chẳng ai dám nói. Vì thế chúng ta phải biết tất cả giới đều do tam quy mà có, tam quy là mẹ sanh ra các giới hay nói cách khác tam quy là nơi sanh ra các pháp lành, còn Bồ Tát giới thì không nơi tam quy sanh ra mà nơi các Tổ sanh ra, nên gọi là không thọ tam quy mà thọ Bồ Tát giới vẫn được. Đó là một bằng chứng Bồ Tát giới không phải là giới luật của Phật. Đó, xác định cho rõ những cái vị trí đó chúng ta mới biết Bồ Tát giới không phải là giới luật của Phật, nó không phải từ tam quy mà ra, bởi vì muốn thọ cái nào đi nữa thì nó cũng phải từ tam quy, thọ tam quy rồi mới thọ ngũ giới chứ, còn cái này chưa thọ tam quy mà đã thọ ngũ giới thì tức là ngũ giới đó ngoài tam quy rồi. Cũng như Bồ Tát giới nó ngoài tam quy mà nó có, tức là của tổ mình đẻ chứ không phải Phật đẻ rồi.

Đó thì chúng ta khi mà nghiên cứu kinh giới vậy đó, chúng ta mới biết hồi nào tới giờ nghe mà thọ Bồ Tát giới thì khoái lắm. Trời ơi! Mình chưa gì hết vô thọ Bồ Tát giới làm việc từ thiện rồi. Các thầy biết thọ Bồ Tát giới để làm gì không? Để mình đi đến chùa mình cúng dường cho nhiều quý thầy chứ gì, làm công quả đầy đặn, coi như làm công mà khỏi tốn tiền chứ gì, chùa bây giờ sắp sửa xây cất đây quý Phật tử mà thọ Bồ Tát giới phải vô đó mà đẩy đất, phải vô đó mà khiêng gạch, phải vô đó trộn hồ mà làm, đó là được phước lớn á, không phải là người thọ bồ bát giới là phải đi làm vậy không, đó là cái điều kiện mà người ta chế ra để mà người ta lợi dụng lấy công sức của người khác, lợi dụng cái mồ hôi nước mắt của người khác mà khỏi tốn tiền, khỏi trả công. Cho nên có nhiều chùa biết bao nhiêu mà nói công quả, họ cất vĩ đại lắm như tòa thánh Tây Ninh biết bao nhiêu công sức của người ta bỏ vô công quả hông, làm như vậy có lợi ích chứ, Bồ Tát giới của mấy ông mà, mấy ông thọ rồi mấy ông không làm thì làm sao có lợi ích.

Đó là những cái điều mà người ta đặt ra người ta lấy công sức của kẻ khác, hoặc là lấy tiền bạc của kẻ khác đóng góp vô. Bồ Tát giới phải biết bố thí, phải biết cúng dường chứ, đó là cái hẳn nhiên, đó là những cái điều mà đọc lại trong kinh Phạm Võng bồ tát giới thì chúng ta thấy cái điều đó rất rõ.

Nội dung của ngũ giới, bây giờ Thầy nói về cái nội dung của ngũ giới nhắc lại để chúng ta, ai thì chắc cũng biết rồi nhưng mà ở đây thì mình phải nói cho nó hết chứ không khéo nói ngũ giới không thì ở trong cái lời giảng của Thầy nó không có nói ra ngũ giới như thế nào hết thì tức là chúng ta ngầm biết nhưng mà chúng ta phải nói ra.

- Nội dung của ngũ giới:một là không sát sanh, hai không trộm cắp, ba không tà dâm, bốn không vọng ngữ, năm không uống rượu.

- Nội dung của thập thiện:một không sát sanh, hai không trộm cắp, ba không tà dâm, bốn không vọng ngữ, năm không nói lưỡi hai chiều, sáu không nói thêu dệt, bảy không nói lời hung ác, tám không tham, chín không sân, mười không si.

- Nội dung của bát quan trai giới:một không sát sanh, hai không trộm cắp, ba không dâm dục, à ở đây bát quan trai giới các thầy thấy ở trên kia ngũ giới thì không tà dâm, mà bát quan trai giới là không dâm dục, nghĩa là cái ngày mà thọ bát quan trai giới mà tâm tư ý nghĩ mà còn nhớ vợ nhớ con thì không được. Đó là cái vấn đề đó là không dâm dục hoàn toàn là phải trong sạch đó, nó khác hơn là cái ngũ giới rồi, cho nên cái chỗ này là vấn đề quan trọng của cái vai trò mà chúng ta tập để mà chúng ta đi qua cái lộ trình thứ hai của người tu sĩ là cấm đứt dâm. Bốn là không vọng ngữ, năm là không uống rượu, sáu là không đeo tràng hoa hương thơm, không xoa dầu thơm, không ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không có đến xem, bảy không ngồi giường nằm cao rộng lớn, tám là không ăn phi thời.

Đó là cái thọ bát quan trai,nó kết hợp như vậy để mà chúng ta tập luyện để bước sang qua một vị Sa Di, một vị đầu tiên của đệ tử xuất gia của Phật đó là tập luyện cho cái người cư sĩ như vậy.

Về phần bát quan trai có tám điều giới nhưng kỳ thật là 9 điều giới trước của thập giới Sa Di, nghĩa là trong bát quan trai chứ sự thật ra nó là 9 giới của Sa Di chứ không phải là tám đâu, trừ điều thứ mười chẳng cất giữ tiền bạc của báu. Hoàn toàn đều giống Sa Di giới chỉ đem hai điều giới sáu và bảy hợp lại của Sa Di giới thành một điều giới thứ sáu. Chỗ khác biệt nhất giữa bát quan trai giới và Sa Di thập giới là chỉ chỗ thọ trì một ngày một đêm trong sáu ngày trai chẳng giống như Sa Di giới phải thọ trì suốt đời. Nghĩa là chỗ khác biệt của thọ bát quan trai với Sa Di thì thứ nhất cái khác biệt là cái giới thứ chín, là cái giới thứ mười là không cất giữ tiền bạc đó và hai cái giới nó hợp lại nó thành một cái đó là chỗ khác biệt của Sa Di giới còn hoàn toàn thì nó giống Sa Di giới hết.

Cho nên cái thọ, cái người mà thọ bát quan trai đó thì họ thọ có một ngày, một ngày một đêm còn cái người Sa Di thì thọ trì suốt đời, rồi cứ tháng nào chúng ta cũng thọ trong một ngày, hai ngày thọ bát quan trai hoặc 6 ngày tùy theo ngày trai giới đó mà chúng ta thọ, cho nên nó có khác hơn là cái người mà Sa Di họ thọ suốt đời giới của họ, họ không có rời cái giới của họ, còn cái kia thì bữa nay chúng ta tu tập như vậy, luyện tập vậy ngày mai chúng ta về cái đời sống nó khác nó không giống như đời sống của thọ bát quan trai nữa. Vì thọ Sa Di giới là người cư sĩ đã bước vào lộ trình thứ hai của đạo Phật, nghĩa là cái người mà thọ Sa Di giới đó là cái người cư sĩ đã tu tập thọ bát quan trai giới, đã có cái kết quả đã có cái hướng đi vào cái lộ trình thứ hai, người Sa Di giới là cái người đã tập luyện thuần thục ở thọ bát quan trai, là cái người cư sĩ đã thọ bát quan trai thuần thục. Lộ trình này đi đến quả vị giải thoát cao nhất của nó là Alahan, nghĩa là bắt đầu từ cái chú Sa Di này đi đến cái quả vị cao nhất của chú là chú sẽ đạt được quả vị Alahan.

Bát quan trai giới là phương pháp tập sự của cư sĩ để tiến vào lộ trình thứ hai vượt sanh thoát tử. Bộ phận chủ yếu của sinh tử là ở tại hai nguồn gốc đại họa là dâm dục và ăn uống. Đó bây giờ Thầy xác định cho quý thầy thấy có ăn uống mới có dâm dục, không ăn uống chừng một ngày hay ngày mấy người đói mệt lả mấy người đòi dâm dục được không, đòi dâm dục sao được cái thân nó đi hết muốn nổi, nó mệt thở cầm canh rồi làm sao, chỉ có ăn nuốt vô cho nó mập ra rồi nó mới sanh thôi chứ, cho nên dâm dục và ăn uống nó là hai cái thằng nó kết hợp nhau nó hại cái đời của quý vị trôi lăn trong sanh tử luân hồi. Cho nên ở đây người ta cứ nói Thầy dạy cứ ăn uống không à không có dạy gì hết.

Sắc dục, ẩm thực là nguyên nhân căn bản khiến chúng sanh thành chúng sanh. Đó quý thầy thấy chúng ta thành chúng sanh mãi mãi là do cái ăn với cái sắc dục chứ không phải cái gì hết, ẩm thực thì nó bổ túc cho sắc dục, ăn nhiều thì nó sắc dục nhiều, mà ăn ít thì sắc dục ít chứ không có gì. Ăn uống là trợ duyên tăng thượng của sanh tử, dâm dục là nguyên nhân căn bản của sanh tử. Ăn uống thì chúng ta nó trợ duyên cho cái sự dâm dục chứ gì, cho nên nó trợ duyên cho sanh tử, dâm dục là nguyên nhân căn bản của sanh tử. Cho nên khi chúng ta đã hiểu biết được vậy chúng ta nhìn thấy ăn uống là chúng ta phát ghê nó rồi, rồi chúng ta thấy sự dâm dục mà nó đòi hỏi là chúng ta thấy nó cũng sợ hãi rồi. Cho nên thấy phụ nữ cũng như là thấy rắn, thấy cọp vậy thôi. Còn quý thầy thấy phụ nữ mà cứ ngó hoài rớt con mắt mà hông hay, cái điều đó là cái điều ta hại lớn, tu theo đạo Phật mà cái kiểu đó mà đi ra đường thì Thầy thấy xe đụng có ngày cũng chết.

Tất cả chúng sanh đều do chẳng đoạn dâm dục vì thế chẳng lìa sinh tử, tất cả chúng sanh đều do tham luyến các khoái lạc dâm dục thành trợ duyên cho sự sinh tử con cháu sau này khổ đau, đẻ ra con cháu đứa nào khỏi khổ đâu, tự thân cũng bị sợi dây sanh tử trói buộc. Chúng sanh có dâm dục là bẩm sinh, cha mẹ sanh ra là có dâm dục rồi nhưng mà đã biết nó là con đường sanh tử thì chừa nó đi, nghe nói bẩm sanh dâm dục thì mê miết theo à, càng ngày càng khuếch trương càng tăng trưởng cho lớn ra nữa, một vợ hông đủ, ba bốn vợ còn thêm nữa, thì đó là những cái sai, tăng trưởng cho dữ thành ra khổ nhiều.

Sự giao tiếp hai tánh nam nữ hình thành sự dâm dục phải sau khi được no ấm, nghĩa là cái sự giao tiếp giữa hai cái tính dâm dục là no ấm mới sanh ra, còn nếu mà đói khát thì làm sao sanh ra được. No ấm thuộc về ăn mặc, ăn so với mặc còn trọng yếu hơn. Bởi vì cái ăn có thể mình no được còn cái mặc coi vậy chứ ở trần riết nó cũng quen rồi, lạnh lạnh chứ nó không thấy lạnh đâu, còn mấy người cứ hở hở ra cũng mặc áo ấm thì nó cũng quen rồi, nghe hơi lạnh lạnh cái là đóng áo ấm vô, thì đó là nói ăn với mặc rồi, còn về cái người mà người ta ở trần hoài, cái ông nông dân mà họ trùng trục mà họ không thấy lạnh tức là họ quen da với lạnh rồi cho nên họ không cần mặc áo ấm. Mình không mặc thì nó cũng không chết, có mặc mà không có ăn thì lại chết, nghĩa là bây giờ nó lạnh vậy chứ nó không chết đâu, nhưng mà có thể nói rằng nó lạnh quá thì nó sanh bệnh của mình rồi nó cũng chết, nhưng mà nói rằng không có mặc thì nó không chết liền đâu, nhưng mà không có ăn thì phải chết liền.

Vì thế dâm là căn bản của sanh tử, ăn là trợ duyên sanh tử, nếu vượt ra ngoài dâm dục và ăn uống là liễu sanh thoát tử.Nghĩa là mình vượt ra được cái ăn uống và cái dâm dục, cho nên các thầy thấy khi mà mình tịnh chỉ hơi thở này, các hành ngưng này, lúc bấy giờ mình ngồi 7-8 ngày có ăn uống không? Thì mình, tức là mình vượt ra ăn uống rồi thì còn gì dâm dục nữa, dâm cái gì nổi, ngồi như gộc cây mà còn gì dâm cho nên đó là những cái mà mình đã thấy được cái sự làm chủ của mình rồi, cho nên liễu sanh thoát tử ngay chỗ đó chứ còn chỗ nào nữa mà gọi là liễu sanh thoát tử. Trong tam giới cõi trời phi tưởng phi phi tưởng của vô sắc giới không còn có niệm dâm, nghĩa là trong cái cảnh giới mà phi tưởng phi phi tưởng thì nó không có cảnh dâm nhưng cũng chẳng lìa tưởng thực, lúc bấy giờ mấy ông cũng còn khoái ăn à, cái ăn này coi bộ độc hơn, Thầy nói dâm dục mà người ta tu đến tưởng xứ phi tưởng phi phi tưởng lìa được dâm dục mà cái ăn lìa không nổi, các con thấy không mà nhập Tứ thiền là chúng ta lìa cái ăn được, không thèm ăn nữa.

Đó là các con thấy cái chỗ mà đức Phật dạy chúng ta rất rõ ràng để mà chúng ta thấy được cái chỗ làm chủ của mình. Dù là cõi trời nào chứ cũng cũng khoái ăn à, họ không khoái dục chứ họ khoái ăn cho nên họ gọi là vô sắc dục mà, họ không có dục nữa, vô sắc, vô dục nhưng cũng chẳng lìa tưởng thực do thế vẫn không ra khỏi sanh tử. Còn ăn đó là còn sanh tử đó. Cho nên cái người mà nhập tứ thiền rồi họ tịnh chỉ hết nó làm cho không còn đói khát nữa từ đó nó hết ăn rồi cho nên nó lìa sanh tử rồi, còn cái người mà chưa nhập tứ thiền, tam thiền cũng còn ít nữa thì chắc chắn là còn sanh tử.

Vì vượt qua sanh tử nên phải giới không dâm là ức chế dâm dục nó phải thọ trai giới rất là kỹ lưỡng, đối với dâm thì chúng ta muốn vượt qua sanh tử thì đối với dâm là chúng ta phải cố gắng mà vượt qua. Sinh hoạt lộ trình xuất gia xuất thế bắt đầu thực hiện từ giới dâm và trì trai, đó thì bắt đầu qua cái giới bổn các thầy thấy giới dâm là đầu tiên Thầy đã giảng rồi đó, giảng cái giới bổn khi mà bước qua Thầy có giảng, thì nó là giới dâm rồi đó, đó thì bắt đầu mà cái con đường mà thực hiện để làm chủ sanh tử để chấm dứt cái sự luân hồi thì ngay đó là giới dâm đầu tiên đó trước, chứ đâu có nói giới sát, Sa Di thì nói sát mà các vị mà thọ cụ túc giới, thọ 250 giới các vị Tỳ Kheo đó thì cái giới dâm là làm đầu.

Dâm dục do ăn uống đầu đủ mới nổi dậy, đó ở đây Thầy xác định cái điều đó quá rõ ràng cụ thể mà. Chính vì thế trì trai là giới điều thứ tám không ăn uống phi thời, mà không ăn uống phi thời đức Phật còn dạy chúng ta ăn ít ít thôi chứ đừng ăn nhiều, ăn nhiều rồi nó cũng sanh ra nữa, mình sợ nó đói rồi mình ăn cho lung mà không ngờ là nó sinh dục. Bây giờ quý thầy mới  thấy ăn ngày một bữa rất là quan trọng cho con đường tu hành theo đạo Phật. Đó bây giờ quý thầy thấy dạy chỗ này quý thầy thấy cái sự ăn một bữa là rất là quan trọng cho sự tu tập của chúng ta, mà người ta không thấy quan trọng cho nên người ta thấy ăn ngày ba bữa hoặc thế này thế khác, cho nên tu sĩ mình bây giờ có ai mà chịu ăn một bữa không, họ đâu có thấy nó quan trọng, họ đâu có muốn liễu sanh thoát tử, họ muốn nó sanh tử luôn luôn ở trong này, cho nên chúng ta cứ làm Bồ Tát hạnh cứ luôn luôn sanh tử trong này đi để làm thầy dạy người ta hoài phải khỏe không, đời nào mình cũng làm ông lớn hết không phải sướng sao, nhưng mà chắc được không? Điều đó thì còn để nhân quả nó trả lời cho quý thầy.

Nghe sự giải thích bát quan trai giới như thế này quý vị sẽ không hài lòng chỉ vì tám giới mà chỉ có giải thích hai giới dâm và ăn. Ở đây quý thầy thấy bát quan trai giới mà Thầy giải thích có hai giới đó mà nó nhiều quá nhiều, còn bao nhiêu thì không giải thích, thì quý thầy thấy Thầy dạy như vậy là thiếu khuyết quá nhiều. Ở đây quý thầy phải hiểu mục đích của thọ bát quan trai giới là bắt đầu sự tu tập chấm dứt sanh tử luân hồi, cho nên hai giới này rất quan trọng vì thế phải giải thích cho rõ ràng, 5 giới đầu của Bát quan trai bất đồng với ngũ giới là ở chỗ giới không tà dâm và giới không dâm. Đó là chỗ phân biệt chúng ta thấy ngũ giới nó khác với bát quan trai giới là chỗ cái kia là không tà dâm nhưng mà còn dâm được, dâm với vợ chứ không có thể dâm loạn với người khác được, đó còn ở đây hoàn toàn là bước qua trai giới rồi thì người cư sĩ này không còn dâm, đó là chỗ sai khác của hai cái giới này.

Giới thứ 6 và giới thứ 7 là những giới hành gián tiếp đến dâm, tại sao mà nói nó là những cái giới thứ 6 thứ 7 nó là gián tiếp đến dâm để chúng ta sẽ thấy những hành động đó đều là môi giới phóng túng dâm dục cho nên phải biết. Bây giờ mình trang sức là làm gì, thoa son đánh phấn rồi này kia, chải tóc rồi cho đẹp thì không phải gợi lên người ta dâm sao, đó không phải cái đó nó là cái gián tiếp để gợi ra cái dâm dục của người ta sao. Cho nên cái ông thầy mà đi ra còn vuốt vuốt cái đầu mình coi cạo nó có còn cái cọng tóc nào có sót không thì cũng đều là  sửa soạn cho cái hình thức của mình mặc dù cái đầu cạo trọc có đẹp đẽ gì đâu mà vẫn sợ nó còn ló ló mấy cái cọng tóc dài dài ra người ta coi nó xấu đi. Đó cũng là hình thức để mà giao tiếp trên cái sự môi giới của dâm chứ không phải gì, sợ mấy cô kia coi cái đầu ông thầy này trọc mà coi nó chưa sạch, nó lam nham như cóc gặm đó. Cho nên những cái hình ảnh mà chúng ta soi gương này kia điều đó là còn trong cái hình ảnh của những cái giới mà có thể nói rằng nó còn tạo lên trong cái gián tiếp của dâm, muốn làm đẹp đó, đó là những cái hẳn nhiên rồi.

Vì vậy mà những hành động đó đều là môi giới, phóng túng dâm dục cho nên phải biết các điều giới vẫn thuộc về phạm vi dâm, nghĩa là các cái giới đó đều là phạm vi dâm hết, ca hát cất giọng lên ca hết để làm cho mấy cô nghe khoái chơi, ông thầy mà tụng cất giọng ông lên cái...sướng cái gì đó. Trời ơi! mấy cô khóc ngất hết, tới chừng ông thầy về cái nhớ cái tiếng ông thầy mà tụng bữa đó, mấy cô nhớ mãi muôn đời thì ông thầy khoái lắm chứ có gì đâu. Đó là cái kiểu mà ca hát, Thầy nói đây ca hát trong cái mấy ông thầy mà tụng đám đó, ông thầy nào mà có tiếng ca giọng lên một cái là Thầy nói mấy cô rơi nước mắt hết, kêu là gì ..gì mà..cái gì mà sanh.. Thầy quên rồi…. thuyết minh sanh, ờ mấy ông thầy thuyết minh sanh, trời ơi!  nói lên cái, cất giọng lên một cái là mấy bà rơi nước mắt hết. Gì kêu cái gì ông cha mồ tổ gì đó cho nó dậy đó làm sao người ta động tâm, động ý được, mà cái giọng của mấy ông lại hay nữa. Đó là những cái điều kiện mà như vậy thì quý thầy thấy rõ ràng mấy ông thầy tụng kinh mà sám đồ hay, mấy ông tụng thu băng để làm gì?

 

Đó là cái hình thức giao tiếp của cái sự mà với cái dâm chứ gì làm cho mấy cô cảm động được cái lời tụng kinh của mấy ông. Ông thầy tụng kinh hay quá, bữa nào mình ra chùa mình xem coi mặt ông sao, thấy đẹp cái rồi thôi dính vào. Vậy thì làm sao tu hành được! Các thầy thấy trong cái chỗ đó, từ cái chỗ mà mình đem cái âm thanh có giọng cao, giọng thấp giọng trầm bổng của mình để tụng kinh để gây cái quyến rũ người ta thì tức là ngay đó người ta đã biết cái tâm dâm mình nó hết chưa? Chưa hết, ở đây giới luật có chỉ rõ để mà chúng ta thấy được cái bộ mặt dâm nó ở chỗ nào mà chứ đâu phải là giấu chúng ta được đâu. Thấy cái hành động là biết được cái tâm dâm nó ở mức độ nào.

Bởi vậy quý thầy phải hiểu bát quan trai giới là giới trừ dâm dục và tiết chế ăn uống. Bát quan trai giới là một giới hạnh trong tam quy mà ra, ở đây người cư sĩ chỉ sống có một ngày một đêm, còn người tu sĩ thì phải hằng sống lấy đó làm cuộc sống hàng ngày của mình, đời sống của người xuất gia mặc y hoại sắc. Cho nên người tại gia cư sĩ khi thọ bát quan trai thì cũng phải ăn mặc thô xấu chứ không phải, thọ bát quan trai thì hầu hết mấy cô thoa son đánh phấn trời ơi!, thọ bát quan trai cái kiểu đó thì thầy nói thôi hết rồi, đã là gợi cái, đây là tám cái giới để mà diệt cái tâm dâm của chúng ta để mà hoàn toàn chúng ta sống trong một ngày một đêm, để mà thực hiện được cái con đường sinh tử. Thế mà đi vô thọ bát quan trai Thầy thấy hầu hết mấy bà cũng đi thọ bát quan trai đó, son phấn lòe loẹt, mặc áo thiếu điều muốn bànhh ngực ra cho người ta xem, cũng là thọ bát quan trai. Lẽ ra thì chúng ta phải mặc đồ thô đồ xấu, những cái quần áo rách ở nhà mà  nhét vào lỗ cống đó lấy ra mặc, mang đi thọ bát quan trai thì mới đúng cái nghĩa, ông Phật ngày xưa ông còn lượm vải thây ma ngoài đồng, ông kết lại thành một cái y ông vấn, ông Ca Diếp ông đắc cái y đó lắm cho nên khi đức Phật được cái người khác cúng dường là ông quỳ xuống ông xin đức Phật cho ông ấy cái y đó tức khắc liền, ông sẽ luôn luôn mặc mãi trong đời ông. Thì thọ bát quan trai là cái hình ảnh phá cái dâm dục, phá cái con đường sanh tử, thì cái hình ảnh mặc y tốt đẹp là cái hình ảnh gì, là cái môi giới dâm dục chứ gì.

Đó thì hôm nay Thầy dạy hết cho quý thầy thấy biết được từng cái chi tiết tâm lý của con người nó như thế nào, cho nên cái bản chất của người nữ là bản chất dâm dục chứ gì, cho nên sanh ra là họ sửa soạn rồi, còn mấy cậu con trai mà hay nổi tiếng coi mặt coi mày nặn mụn đó cũng là cái hình ảnh dâm dục chứ gì, chứ còn hông dâm dục thì ai làm đẹp làm gì?. Do chạy theo cái kiểu dâm dục đó mà nó thực hiện qua cái sự trang điểm mặt mày quần áo đi thì ngó tới ngó lui coi áo quần mình nó nếp không, có ly thẳng không, nhăn nheo sợ chúng nói cái thằng này nó bù xù như cái thằng khùng, như cái thằng bợm thì ai mà thương được, đó là những cái hình thức mà chúng ta tạo ra cái cảnh giới để mà dâm dục.

 

Đời sống của người xuất gia mặc y hoại sắc cho nên người tại gia cư sĩ khi thọ bát quan trai đều nên mặc y phục mộc mạc, thô không trang điểm như giới thứ 6 và thứ 7 đã dạy, đó là hạnh sống giải thoát của người cư sĩ, của người tu sĩ đạo Phật.

Trong thời đức Phật còn tại thế có một bà quyền uy, có tiền của địa vị lớn lao trong xã hội, bà tên là Tỳ Xá Khư Mẫu. Có một lần bà đi đến bái kiến đức Phật. Khi đến gần cửa tịnh xá Kỳ Viên bà mới nhớ ra những đồ trang sức trên thân đều là những vòng hoa Anh Lạc chiếu sáng ngời, bà biết rằng đi bái kiến đức Phật như thế này không nên, nhưng trở về nhà thì đường xa mà cởi đồ trang sức thì bất tiện. Cho nên trở về nhà thì nó xa quá đi đến cửa tịnh xá Kỳ Viên rồi mà bây giờ trở về nhà bà cũng như đây mà ra chợ Trảng Bàng vậy đó thì bà thấy nó xa quá mà bây giờ làm sao đây, đeo đồ này giờ mình quên rồi, mình bỏ ở nhà hết đi, lỡ đeo rồi bây giờ làm sao đây, để bà cư xử như thế nào để bà mới diện kiến đức Phật được chứ. Bà đeo như thế này vô ông Phật ông quở một cái từ đây về sau chắc bà không dám gặp mặt ông Phật nữa. Nhưng trở về nhà cởi đồ trang sức thì bất tiện do thế bà tùy tiện cởi vòng hoa Anh Lạc bỏ dưới gốc cây trong tịnh xá, mộc mạc không trang sức đi bái kiến đức Phật. Đó thì như vậy trong khi bà bỏ đó rồi khi trở về bà lại quên đi bà đi về luôn, phải là bà lại gốc cây bà lấy ra thì cũng được, bà quên đi. Cái câu chuyện đó nó rõ ràng lắm, bà quên đi, rồi do đó thì cái ông Anan ông thấy ông lượm ông đem vô giao cho đức Phật thì trong khi đó bà trở lại tịnh xá bà sai cái người đầy tớ của bà trở lại gốc cây đó lượm mà không thấy cho nên ông Anan biết được cho nên vì vậy ông Anan đi nói với Phật đem trả cái đó, thì bà mới đem cái đó bà cúng dường cho đức Phật để xây dựng thêm những cái gì cho tu tập bà không có nhận cái đó trở về, coi như đây là cái của cúng dường đi.

Đó thì các con thấy trong khi đó người ta đến với đức Phật là người ta phải có một cái sự như vậy, mộc mạc như vậy đồ trang sức người ta dẹp hết người ta mới dám đến, đến mà gặp Phật. Còn bây giờ hầu hết Phật tử con thấy họ đến đây họ nghe Thầy thuyết pháp sao? Trời đất ơi! Thầy nói thôi khỏi nói rồi, Thầy hông còn nói chỗ nào nữa hết, mà Thầy đến các chỗ khác cũng vậy nhất là của người phụ nữ, nam thì nó ít hơn chút, phụ nữ thì quá tệ, Thầy nói thiệt, các con khỏi nói, mặc quần áo thì khỏi nói cũng hết chỗ chê, còn mà sửa sang thì cũng không có chỗ nào mà nói được hết. Đó là đi yết kiến những bậc tu hành mà như vậy, cho nên thường thường mấy cô mà đến nghe một hơi là Thầy nạt, Thầy nạt liền, đến cái chỗ này không phải là chỗ thoa son đánh phấn đâu, không phải là chỗ mà dạ hội đâu, không phải là cái chỗ đám cưới đâu, ở đây là cái chỗ nghe Phật pháp tu hành, xả ba cái thứ đó xuống đi, dẹp ba cái thứ đó đi ra rửa mặt đi.

Đến đây là chúng ta đã hoàn chỉnh lộ trình thứ nhất trong giới luật của đạo Phật, hay nói cách khác là chúng ta đã tu tập đúng cách thiện pháp của đạo Phật.

Đến đây là lộ trình thứ hai của người xuất gia nghĩa là cái lộ trình thứ nhất chúng ta hoàn chỉnh rồi đó, cái giới luật mà lộ trình thứ nhất chúng ta đã hoàn chỉnh.

Bây giờ cái lộ trình thứ hai là lộ trình xuất gia, xuất gia là cái mục đích là chúng ta đi tìm con đường giải thoát, nghĩa là phải lìa cái cuộc đời chứ không phải là xuất gia với cái danh từ suông đâu, hầu hết là bây giờ chúng ta xuất gia với danh từ suông đó cho nên không có lìa cái sự giải thoát.

Xuất gia là gì? Xuất gia là ra khỏi nhà, xuất là ra khỏi, gia là nhà, của cải, tài sản, anh em chị em vợ chồng con cái cha mẹ... Nghĩa là giải thích hai cái chữ xuất gia để chúng ta thấy rõ, chữ xuất là ra khỏi, chữ gia là nhà của cải, tài sản, anh em, chị em vợ chồng con cái cha mẹ,... Xuất gia nghĩa là từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, từ bỏ bà con quyến thuộc lớn sống không gia đình, không nhà cửa chỉ còn ba y một bát mới gọi là xuất gia, chứ không phải xuất gia theo kiểu mình như bây giờ đâu. Như Thầy bây giờ cũng chưa chắc gọi là xuất gia, chùa gì mà dữ tợn như thế này thì còn gì mà xuất gia, xuất gia là bỏ hết không có cái chùa gì mới gọi là xuất gia chứ. Thầy còn có được Tu Viện Chơn Như làm sao gọi là xuất gia, còn cái nhà rõ ràng mà, rồi còn cái này cái kia cái nọ. Bây giờ ai dám nói cái này là của quý vị đâu, có ai mà dám lấy cái máy này mà của Phật tử đem đến cho Thầy mượn quý vị có dám lấy xài không, chỉ có Thầy dám xài thôi, họ giao cho Thầy, Thầy dám xài chứ quý vị dám xài không? Có ai mà dám rinh cái máy Thầy đem lại thất chơi không? Mà như vậy đâu phải của quý thầy, mà Thầy dám đem chỗ này chỗ kia được thì tức là của Thầy chứ còn của ai. Nói bằng cách của Phật tử chứ thật sự mình sử dụng là của mình rồi, như vậy là Thầy có phải là xuất gia không, chưa, chưa xuất gia đâu, còn dính mắc cả đống, bàn ghế này, tủ bàn ông Phật còn ngồi trên bàn của Thầy hết chứ của ai vô đó vì vậy là Thầy cũng chưa hẳn là xuất gia đâu, chừng nào mà thầy ba y một bát mà ẩn bóng nay chỗ này, mai chỗ kia mới gọi là Thầy chân thật xuất gia đó. Cho nên cái hình ảnh đó là cái hình ảnh Thầy sắp sửa bước đi để cho mình thực hiện là cái người xuất gia, chứ đừng có nói xuất gia mà nghe cái kiểu mà danh từ đó thì không có đúng đâu. Đó thì cho nó đúng cái chỗ mà chúng ta còn ba y một bát nó mới gọi là xuất gia.

BĂNG SỐ 28

( Từ đoạn 0 phút đến 8:08 là trùng với băng số 27B) băng 28A bắt đầu từ phút số 08:08

Khi từ bỏ như vậy mà đi lang thang không biết pháp tu hành từ bắt đầu cho đến viên mãn thì cũng uổng phí một đời. Nghĩa là nói mình xuất gia mình bỏ hết, mình bỏ hết dòng họ bà con mình đi lang thang đầu đường xó chợ đi từ chỗ này đến chỗ khác thì Thầy thử hỏi coi cái sự xuất gia đó nó có nghĩa lý gì không? Đâu có nghĩa lý gì.

Giờ chúng ta tiếp tục cái bài học.

Khi từ bỏ như vậy mà đi lang thang không biết pháp tu hành từ bắt đầu cho đến viên mãn thì cũng uổng phí một đời người mà chẳng giải thoát được gì, chỉ thành một gã lang thang, phiêu bạt giang hồ rày đây mai đó, chẳng có ý nghĩa gì cả. Đó thì quý thầy thấy khi mà chúng ta đã xuất gia từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc, từ bỏ tất cả tài sản không còn có một gì, chỉ còn có ba y một bát, mà đi lang thang như vậy mà không có pháp tu hành thì quý thầy thấy như bây giờ mà chúng ta đã thấy bên cái phái khất sĩ đó mà hiện đã thành lập ở đất nước của chúng ta đó, lấy ba y một bát mà thực hiện từ ngay bước đầu mà tổ sư Minh Đăng Quang đó đã hướng dẫn người ta thực hiện ba y một bát sống trong cái túp lều tranh chứ không phải như bây giờ khất sĩ mà ở những tịnh xá mà sang giầu như vậy đâu. Hồi mới ai cũng rất là mến cái đức hạnh của khất sĩ hết, người ta thấy cách sống rất là quý cái hạnh, nhưng mà cuối cùng không có cái pháp hành cho nên hầu hết các khất sĩ người ta đã không có thấy đường lối người ta giải thoát, lấy cái giới bổn khép chặt cái kỷ luật làm cho người ta sống cái cuộc đời sống rất là khắc khổ. Cuối cùng thì không thể nào mà duy trì cái ba y một bát đó được cho nên cuối cùng thì vẫn cáo chung, cho nên thành một gã lang thang nay đây mai đó hoặc là ở hang, ở núi nhưng cuối cùng thì tất cả những khất sĩ cũng tha thiết cái sự tu hành giải thoát. Nhưng cuối cùng thì họ không có pháp hành cho nên họ không có hiểu được cái đường lối của đạo Phật thực hiện cho đúng cái pháp hành, vì vậy mà không có đạt được con đường giải thoát, cuối cùng thì họ cũng chết dần chết mòn ở trong những hang, hốc hoặc là những cái nơi hành. Cuối cùng thì hầu hết Thầy thấy có nhiều người họ ngồi thiền mà họ ngủ ngay trên cái sự ngồi thiền đó, họ không có dám nằm nữa, họ rất là khắc khổ. Vì vậy mà cuối cùng họ hoàn toàn là Phật thành những con cóc hết trơn, chẳng có ra một cái gì hết à. Cuối cùng thì các thầy suy ngẫm coi bên khất sĩ họ hiện bây giờ họ đang tu hành như vậy, nhưng mà những người mà khổ công tu hành như vậy họ chẳng đạt gì hết, vì vậy cuối cùng mà những cái người còn lại làm sao mà họ không phá giới?

Cho nên hiện giờ hầu hết khất sĩ phải nói là phá giới, cái hình thức thì nói ăn một bữa đi khất thực, chứ sự thật đó là còn cái hình thức thôi chứ không còn có cái mà gọi là có thể gọi là cái ba y một bát mà có thể thực hiện cái đời sống phạm hạnh của đức Phật ngày xưa được nữa. Bởi vì trải qua một cái thời gian mà người ta không có cái pháp hành đó, tức là cái giới hành người ta không có cho nên người ta không làm sao để thực hiện được cái giới luật của Phật, cho nên từ đó cái giới luật nó khô đi, nó khô cằn đi nó làm cho người ta quá khổ sở. Vì vậy mà người ta phải thay đổi để cho cuộc sống của người ta nó có cái gì hơn chứ, vậy đến để mà giải thoát thì không giải thoát được. Do cái chỗ đó cho nên họ không đạt được cái sức mà làm chủ sanh tử, họ không đạt được cái cứu cánh Niết bàn của họ, mà chỉ có ở trên cái giới luật không thì cuối cùng họ phải bỏ dở giới luật, họ không thể nào sống nổi 5 giới được.

Còn chúng ta mà có đủ cái pháp hành thì chúng ta không có bỏ dở đâu, cho nên cái bộ Chân Lý của tổ sư Minh Đăng Quang mà viết ra đó, thì hầu như là cái pháp hành không có mà chỉ có cái lý, cái lý giải của nó mà thôi, mà lại nó tạp nhạp vì nó kết hợp với Nam Tông với Bắc Tông, rồi nó lại có ảnh hưởng ở bên thiền Đông Độ nữa cho nên nó là cái áo vá thành ra nó không thực hiện được cái giới hành, cái giới hành của Phật.

Còn trái lại đạo Phật thì nó có cái giới luật của nó, cái giới luật của nó nó có nhưng mà nó có giới hành của nó, cho nên nó tạo cho chúng ta thực hiện được cái đời sống phạm hạnh rất là nghiêm chỉnh mà nó có một cái nguồn giải thoát, tự thân tâm của nó có một cái hỷ lạc rất là cao độ. Nó làm cho cái người mà thọ dục cái hỷ lạc của thế gian đó nó thấy cái hỷ lạc của đạo Phật là cái hỷ lạc ly dục ly bất thiện pháp nó tuyệt vời hơn cái dục lạc của thế gian. Thí dụ như bây giờ chúng ta ăn cái miếng ăn nó ngon, thì cái đó gọi là cái hỷ lạc của cái ăn, chúng ta nằm ở cái nệm nghe êm ấm, cái đó là cái sự hỷ lạc của cái sự êm ấm, của cái thân của chúng ta. Nhưng cái hỷ lạc mà ly những cái trạng thái đó thì nó lại tuyệt với hơn nữa, cho nên từ đó người ta dùng cái pháp, cái giới hành mà nó thực hiện được nó đem lại cái sự an lạc vô cùng cho cái tinh thần của người ta. Vì vậy mà cái giới luật của người ta rất là nghiêm chỉnh, phạm hạnh của người ta rất là đầy đủ, trọn vẹn. Người ta sống thì nhìn vào thấy như là khổ hạnh nhưng mà trong tâm hồn của người ta không có chút nào khổ hạnh vì đó là một cái nguồn giải thoát thật sự chân thật của tâm hồn người ta. Cho nên ngay cái cuộc sống hàng ngày của người khất sĩ đó người ta đã thấy được cái niết bàn tại cái cuộc sống của họ rồi, chớ không phải đợi mà họ phải nhập niết bàn mới là thấy niết bàn. Mà chính hàng ngày họ đi xin họ đã thấy cái niết bàn ở tại cái hành động xin của họ rồi. Chứ không phải, không phải như người ta không có cái pháp hành, người ta thấy đó là cái khổ, đó là cái đói khát, đó là cái hèn hạ.

Do cái chỗ mà không biết vì vậy mà người ta đã không có hiểu được cái pháp hành mà người ta thành lập cái giới luật như vậy là người ta trói buộc cái con người đi vào trong cái cảnh địa ngục, hình thức thì tu nhưng mà đó là cái cảnh địa ngục. Cũng như bây giờ người ta ở ngoài đời người ta chạy xuống người ta ăn ba bữa, mình ăn một bữa không dám thưởng thức cái ngon cái dở gì hết, thì không phải bây giờ nếu mà không có cái pháp hành thì cái ăn của chúng ta bây giờ nó là cái địa ngục rồi, nó không có cái an lạc gì cho cái sự ăn của chúng ta hết mà nó còn lại làm cho chúng ta khổ, thì chúng ta thiếu cái pháp hành, cái giới hành thì cái giới luật ăn nó sẽ bị phá vỡ.

Cho nên sau này như quý thấy đã thấy khất sĩ đó, sáng họ cũng phải ăn tiểu thực, họ nói là một lẽ nhưng mà sáng họ phải ăn tiểu thực, chiều họ phải có ăn dặm, hoặc là nước uống cái gì chứ còn họ không có thể không ngơ được. Có nhiều chỗ thì họ còn cố gắng chiều không có uống phi thời đồ nhưng mà buổi sáng họ không ăn họ cũng không chịu được. Cho nên hiện giờ thì nói về khất sĩ thì chỉ là còn cái danh từ suông mà thôi chứ không thể nào mà giới luật của họ như ngày mà lúc mà tổ sư Minh Đăng Quang mới thành lập cái giới khất sĩ. Nghĩa là lúc đầu tiên phái khất sĩ ra đời người ta rất ngưỡng mộ qua cái giới hạnh của Phật dữ lắm nhưng mà vì không có pháp hành nên lần lượt nó đi đến cái chỗ phá giới hết và cái hành động nó không có được giải thoát, nó không có được cái hỷ lạc của thiền định mà chính của cái giới hành của đạo Phật cho nên từ đó cái giới, cái giới bổn của đạo Phật nó bị thay đổi đi, nó thay đổi từng chút để cho nó phù hợp với cuộc sống của người tu, chứ nếu không thì làm sao người ta sống nổi.

Đó thì hôm nay đến đây thì quý thầy thấy rõ nếu mà chúng ta không khéo mà lấy giới bổn mà trói mình thì coi chừng chúng ta sẽ là những người phạm giới chứ chưa phải...Bởi vì hầu hết đầu tiên là chúng ta phạm giới ý, ý phạm, sau đó thì khẩu phạm rồi tới cái thân của chúng ta phạm, tất cả những cái này lần lượt chúng ta sẽ bị phạm, nếu mà chúng ta không có giới hành thì chúng ta lần lượt sẽ bị phạm hết.

Khi chấp nhận đời sống vô vật chất, vô gia đình thì phải thọ pháp trau dồi tu tập để dứt bỏ những gì mà tâm ta còn đắm nhiễm. Nghĩa là tuy rằng chúng ta chấp nhận cái giới luật như vậy nhưng mà chúng ta sống trong một ngày hai ngày, một tháng hai tháng hay một năm, hai năm, nhưng mà chúng ta không có cái giới hành mà trau dồi thân tâm của chúng ta thì chúng ta không thể kéo dài hơn được nữa thì chúng ta phải phá giới mà thôi.

Vậy pháp đầu tiên tu tập của người xuất gia là gì? Người xuất gia chân chính mở đầu từ pháp môn Sa Di thập giới, nghĩa là chúng ta phải thấy cái giới luật đầu tiên của chúng ta đó là Sa Di thập giới. Người xuất gia mà không thọ thập giới Sa Di không được kể là người xuất gia. Nghĩa là chúng ta mà cái người mà gọi là xuất gia mà không thọ thập giới Sa Di thì cái người đó không được gọi là cái người xuất gia. Dù bây giờ người đó mà nhảy ngang đi mà thọ tỳ kheo đi nữa mà không thọ thập giới Sa Di thì người đó cũng chưa có gọi là cái người mà có thể xuất gia được nữa. Bởi vì chúng ta phải đi từng cấp bậc của sự tu tập, sau khi thực hiện cái giới thập giới Sa Di được thì chúng ta mới có thể thực hiện được các giới khác của tỳ kheo. Còn nếu mà thập giới Sa Di mà thực hiện không được, đời sống của chúng ta không đúng mười cái giới Sa Di này thì kể như vị tỳ kheo đó dù là bây giờ là hòa thượng đi nữa cũng chỉ là một cái người cư sĩ trọc mà thôi. Nghĩa là nhìn thập giới Sa Di mà người đó ăn phi thời này, cất giữ tiền bạc này, ở chùa to tháp lớn đó thì coi như cái vị đó là cư sĩ chứ không phải là vị thầy đâu.

Thầy xác định để cho thấy là bậc xuất gia là một bậc ly trần, lìa tất cả những thế gian, mà còn cất giữ, còn giữ tài sản, của cải tài sản, còn cái nhà cửa cao sang thì cái người đó vẫn là cái người cư sĩ chứ không phải là...cái lộ trình của người cư sĩ chứ không phải là lộ trình của người tu sĩ. Vì tu sĩ phải xả bỏ hết mà tu sĩ không xả bỏ hết thì người đó chưa phải là tu sĩ. Đây là chúng ta nhìn vào cái thập giới, mười cái giới của Sa Di mà chúng ta đoán được cái người đó là người tu sĩ hay là người không tu sĩ. Nó phải rõ như vậy chứ đạo Phật mà nó mù mờ, thì nó là cái hình thức gạt người ta, mà đạo Phật đã xác định rất rõ, cái người mà gọi là đệ tử của Phật xuất gia là phải thọ thập giới Sa Di, mà không thọ Sa Di thì người đó không phải là kẻ xuất gia. Người đó dù bây giờ là hòa thượng hay một bậc gì ở trong hàng giáo phẩm mà người đó không sống đúng thập giới Sa Di thì đương nhiên chúng ta cũng không xem cái người đó là một bậc xuất gia mà là một người cư sĩ.

Đó thì hôm nay Thầy giải thích như vậy để quý thầy nhận được cái người xuất gia hay là những người không xuất gia. Dù bây giờ họ đứng trong hàng giáo phẩm có thể gọi họ là hòa thượng đi nữa, họ mặc y áo bệ vệ cách nào đi nữa mà hình thức sống không đúng giới hạnh của Sa Di thì chúng ta vẫn xem họ là cái người chưa có xuất gia.

Vì thế Sa Di thập giới là cơ sở của người xuất gia, đó thì cơ sở của người xuất gia mà cái cơ sở đó không có thì cái người xuất gia đó là gì, thì chẳng qua là đi ăn cắp cái bộ đồ của tu sĩ mặc vào để giả mạo mà thôi chứ có cái lý do gì, vì cái hành động của Sa Di là cái cơ sở vững chắc của nó là một cái người tu sĩ mà cái cơ sở nó không có thì bây giờ cái người đó bây giờ họ có là vua sãi đi nữa người ta cũng vẫn xem họ là cái người cư sĩ chứ làm sao mà gọi họ là tu sĩ được.

Ở đây quý thầy nhận xét qua người tu, thường là nhận xét qua thập giới Sa Di. Nghĩa là đừng có nhận xét qua cái bộ áo, qua cái chuỗi hạt, tràng hạt cuả họ, qua cái chức phẩm của họ, qua cách bệ vệ có kẻ hầu người hạ họ, qua cái chùa to tháp lớn của họ mà hãy nhận qua cái pháp của thập giới Sa Di. Họ chẳng có gìn giữ nghiêm túc đúng cách của một chú Sa Di, mặc dù bây giờ họ là những vị tỳ kheo trong hàng giáo phẩm, họ là đại đức, thượng tọa, hòa thượng mà đời sống thập giới Sa Di của họ chưa được thì thử hỏi họ còn tu pháp môn gì của Phật được. Xin quý thầy suy ngẫm để mà xét người tu hành cho đúng của đạo Phật.

Đó thì bây giờ quý thầy cứ suy ngẫm rồi xét cái người mà tu theo đạo Phật người đó có đúng là vị đệ tử của đạo Phật không, có đúng là người xuất gia của đạo Phật không, chỉ xét qua thập giới Sa Di là chúng ta đã biết. Nghĩa là bây giờ chúng ta thấy nhan nhản tu sĩ nhưng mà xét qua thập giới Sa Di thì chúng ta biết họ là tu sĩ, họ là người xuất gia hay là người chưa xuất gia chúng ta biết. Mặc dù là bây giờ họ xuất gia biết bao nhiêu lần chưa, nhưng mà cái xuất gia của họ mà thập giới Sa Di nó chưa được, chưa có thọ được thì tức là họ chưa phải là kẻ xuất gia. Mà nếu thập giới Sa Di chưa có được tròn đủ thì thử hỏi họ có tu pháp gì dù có cao siêu tối thượng thì nó cũng không phải là Phật pháp. Nghĩa là là Phật pháp phải đi vào cái cơ sở đầu tiên của nó, mà giờ cái cơ sở đâu tiên của nó hông có thì bây giờ họ có tu pháp gì, họ có nói cái pháp của họ tối thượng đi nữa thì cái pháp của họ cũng chẳng qua là tà pháp ngoại đạo mà thôi. Vì cái cơ sở đầu tiên không có, thì những cái gì ở sau đó cũng đều là những cái sai chứ không thể nào đúng được. Tại sao vậy, tại vì Sa Di thập giới là pháp môn tu hành cơ bản của người tu sĩ đạo Phật, mà pháp môn cơ bản không có tu tập, không sống đúng pháp môn cơ bản này thì không những pháp hành của vị đó hiện giờ không phải là tà pháp hay sao? Nghĩa là bây giờ vị đó có hành pháp gì đi nữa mà cơ sở đầu tiên của vị đó mà nó không đúng cái thập giới Sa Di thì vị đó dù có hành pháp nào thì không phải là tà pháp sao?

Cho nên chúng ta nhận xét qua rất là dễ nhận chứ không có sai được, bởi vì đây là cái cơ bản của Phật pháp mà, làm sao mà chúng ta học hiểu biết như vậy mà làm sao mà chúng ta tin được những cái người đó được, và tin được những cái pháp của người đó mà điên khùng mà theo những người đó mà gọi là theo đạo Phật. Họ có nói họ có lý luận, bởi vì cái lý luận của người ta, người ta có cái lý luận của người ta hay, nhưng mà người ta cũng đều là lọt vào trong 62 cái lập luận của tà giáo ngoại đạo mà đức Phật đã xác định ở trong kinh rất rõ mà. Cho nên bây giờ cái hình thức của họ là cái người mà đầu tiên đệ tử của Phật là phải thập giới Sa Di. Thế mà họ không giữ trọn đúng, họ không sống đúng như vậy thì họ không phải là đệ tử của Phật rồi, thì tức là không xuất gia rồi. Mà không xuất gia rồi thì dù họ có lý luận pháp gì đi nữa, họ có nói đây là Phật pháp thì chúng ta cũng biết họ là những kẻ mạo nhận Phật pháp chứ chưa phải là đạo Phật như vậy. Vì đạo Phật chứng minh cho rõ là cái người tu sĩ của đạo Phật phải thực hiện cái cơ sở đầu tiên của nó là một cái rất dễ dàng, có mười cái điều lành, có mười cái điều giới đó mà họ không sống được thì thử hỏi họ sống cái gì nữa, mà có mười cái điều đó mà họ tu không được thì họ tu cái gì nữa. Thì tức là nó phải thấy đó là cái sai rất lớn cho Phật giáo hiện giờ. Dù bây giờ chúng ta thấy có hàng vạn tu sĩ Phật giáo đi nữa nhưng mà mười cái giới căn bản, cơ bản của cái người xuất gia mà không có một cái người nào mà sống đúng đó thì chúng ta vẫn xem là Phật giáo đã suy đồi rồi, đã chết mất rồi. Vì những cái hạng người này nó là tà giáo ngoại đạo mang cái hình thức của Phật giáo, của tu sĩ Phật giáo chứ không phải là Phật giáo thật. Cho nên Phật giáo đã chết đi, giáo lý của nó đã bị dẹp bỏ đi, nó không còn có nữa vì cái giáo lý cơ bản nó đã bị dẹp rồi thì cái giáo lý gì đi nữa họ cũng dẹp hết chứ họ đâu có để.

Mà nói cho đúng ra tại vì họ chưa hiểu được cái giáo lý của đạo Phật cho nên họ không sống đúng mười cái giới thập giới Sa Di. Vì từ người trước đến người sau cho nên họ truyền nối như vậy làm cho người sau bít lối không biết chứ không phải người sau muốn sai phạm như vậy đâu, họ không muốn sai phạm đâu. Nhưng mà tại vì người trước đã mê mờ đã không thấy được con đường của đạo Phật, hay hoặc là đã phá giới rồi làm lệch lạc, đặt bày ra đủ loại kinh để nó phá những đường lối của đạo Phật, làm cho người sau mờ mịt không biết đường đi, chứ không phải người sau chúng ta phạm mà chính là những cái người trước.

Vì tu không chứng cho nên mới sanh ra chạy theo dục lạc mà phá đi tất cả những cái đường lối của đạo Phật làm cho đời sau người ta không biết đường lối của đạo Phật mà tu tập.

Nhưng chúng ta vẫn còn thấy rõ ràng thập giới Sa Di có mười cái điều mà cái người tu sĩ phải thể hiện, mà không thể hiện được thì tức là chúng ta vẫn xét được chứ không phải là không xét được.

Người tu sĩ hiện giờ của đạo Phật chỉ biết nói Sa Di thập giới chứ không có ai biết tu nó, biết sống cho đúng nó. Cho nên đạo Phật hiện giờ mất gốc người chân tu. Nghĩa là cái người chân tu mà theo đạo Phật thì đã mất gốc rồi, bởi vì Sa Di thập giới mà không có thực hiện được thì coi như là bậc chân tu của Phật giáo đã mất rồi.

Người xuất gia là cầu đắc đạo, niết bàn, giải thoát sanh tử. Ba đời chư Phật ở tại nhân gian thành Phật đều là hiện tướng xuất gia. Hiện tướng xuất gia tức là phải oai nghi tế hạnh đó chứ, tại sao hiện tướng xuất gia mà bây giờ nó lại là kỳ cục vậy, phạm hết tất cả mười cái điều giới của đức Phật là cái oai nghi tế hạnh đầu tiên của một vị tu sĩ. Thành Phật đều là hiện tướng xuất gia sống đúng oai nghi tế hạnh của pháp Sa Di thập giới. Không có đức Phật nào mà không xuất gia mà không sống đúng hạnh Sa Di thập giới mà thành Phật được. Nghĩa là từ xưa đến giờ phải nói không có vị Phật nào mà thành Phật được mà sống ngoài mười cái điều giới của Sa Di thập giới được mà thành Phật được, vì thế Sa Di thập giới là cơ sở của đạo giải thoát.

Xuất gia chẳng phải là điều Phật giáo phát minh trước nhất, nghĩa là cái sự xuất gia này đâu phải là đạo Phật đã phát minh trước nhất đâu, nghĩa là cũng chẳng phải chỉ có Phật giáo mới có sự xuất gia này đâu. Ở Ấn Độ trước khi đức Phật Thích Ca giáng sanh đã có nhiều thứ ngoại đạo. Sa Môn, có nghĩa là dứt tận, dứt tâm ác, tịnh chỉ nên gọi chung là những người tu sĩ Ấn Độ xuất gia. Nghĩa là khi mà đức Phật chưa ra đời thì nó có những bậc Sa Môn nhưng mà nói cái danh từ Sa Môn có nghĩa là dứt cái tâm ác của chúng ta để tịnh chỉ làm cho cái tâm của chúng ta thanh tịnh trở lại. Thì tất cả 6 cái ngoại đạo mà trong cái thời đức Phật giáng sinh đó thì cái mục đích họ cũng làm cho tâm họ dứt cái ác, tịnh chỉ để cái tâm được thanh tịnh, chứ đâu phải cái giáo pháp nào, cái ngoại đạo nào mà ra đời để làm cái điều ác đâu, họ đều làm điều lành nhưng vì hành cái pháp hành họ không đúng cho nên họ không có giải thoát được, dứt được cái tâm ác của họ mà họ không được tịnh chỉ cho tâm họ thanh tịnh. Cho nên cuối cùng thì đức Phật ra đời để chỉ cho chúng ta có cái pháp hành, chứ họ cũng có giới luật, họ cũng có những cái để cho họ dứt cái tâm ác họ, nhưng mà vì nó không có cái pháp hành cho nên họ dứt không được.

Còn bây giờ chúng ta lấy giới luật mà khép mình như khất sĩ không có pháp hành rồi cuối cùng thì chúng ta cũng bị phạm giới à, không có làm sao mà chúng ta thoát ra được. Thì cũng như lục sư ngoại đạo lúc bấy giờ họ cũng có những cái giới luật của họ để ngăn chặn cái tâm ác của họ, để tịnh chỉ làm cho cái tâm họ nó thanh tịnh, nhưng vì nó không có pháp hành đúng đắn cho nên nó khó mà dứt được cái tâm ác, mà khó dứt được làm cho tâm thanh tịnh. Cho nên nói chung thì họ vẫn đưa con người đến cái chỗ giải thoát mà những cái giới luật những cái hành của họ nó sai đi, nó làm cho những cái người tu hành mà trong cái thời đức Phật có nói những cái người khổ hạnh đó, họ sống cái hạnh con bò, sống cái hạnh con chó, rồi họ sống cái hạnh mà nằm trên phân, nằm trên ro, năm dưới nước ngâm mình, đủ loại đủ cách đó, đó là người ta cũng quyết dứt cái ác để người ta làm cái thiện người ta mới chịu khổ hạnh như vậy. Nhưng mà cái sự khổ hạnh đó không có đưa họ đi đến đâu, họ trở thành con bò, hoặc con chó hoặc là con heo, vì họ làm cái nào giống cái nấy, thì cái thú hướng đó sẽ làm họ đưa đến. Nhưng mà họ đâu có biết cái pháp hành như thế nào thì họ phải hành cái khổ hạnh như vậy, họ tưởng là khổ hạnh như vậy để được giải thoát nhưng cuối cùng thì lại là làm khổ họ mà cuối cùng lại là sanh vào địa ngục.

Cho nên chúng ta nếu mà chúng ta lấy cái giới bổn mà khô khan, mà của các 20 bộ phái lúc bấy giờ mà đã chia làm 6 cái bộ luật như vậy đó mà chúng ta hành đi, thì chắc chắn chúng ta là cũng như là các cái vị khổ hạnh trong lục sư ngoại đạo kia chứ không khác gì hết. Bởi vì nó không có cái pháp hành cho nên chúng ta không thể nào sống được và đồng thời chúng ta lại sống không có đúng cái cơ sở căn bản của một cái người mới xuất gia nữa. Cho nên thập giới Sa Di chúng ta không có thực hiện được từ đó mà chúng ta trở thành những ngoại đạo, mặc dù hiện giờ là Phật giáo nhưng mà cái tên Phật giáo với cái hạnh sống là ngoại đạo chứ không phải là Phật giáo nữa.

Sau khi Phật giáo sáng lập để phân biệt Sa Môn ngoại đạo với Sa Môn Phật giáo nên gọi Sa Môn Phật giáo là Sa Môn Thích Tử. Nó có cái danh từ để chúng ta gọi cái Sa Môn của ngoại đạo với Sa Môn của Phật giáo nó khác nhau có một chút là Sa Môn Thích Tử. Thì quý thầy thấy nó chỉ có cái danh từ để gọi chứ còn cái hành thì, cái hình tướng thì của ngoại đạo lúc bây giờ dưới cái vị Sa Môn mà của Phật giáo nó giống nhau. Người ta cũng mặc y hoại sắc chứ người ta đâu có mặc cái đồ trắng, đồ vải, người ta cũng mặc đồ thô, người ta cũng sống nó khổ hạnh chứ đâu phải người ta sống lợi dưỡng như quý thầy bây giờ đâu, người ta sống rất là khổ hạnh, thế mà người ta vẫn thành ra không đúng, cái pháp hành nó không đúng, nó không đem lại cái sự giải thoát, nó không lìa được cái ác pháp, nó không ly được dục, cho nên do đó mà người ta không đạt được cái cứu cánh. Tại vì cái pháp hành người ta không có nhưng cái giới thì người ta có.

Đó thì chúng ta hiểu được như vậy thì cái Sa Môn của ngoại đạo nó cũng là cái hình thức của Sa Môn của Phật giáo nhưng ở đây cái Sa Môn của Phật giáo Thích Tử thì nó có cái giới hành, nó có cái pháp hành cho nên nó thực hiện được cái tâm giải thoát cứu cánh, cho nên nó đến cái chỗ hoàn toàn là thanh tịnh tâm nó.

Quan niệm về hình thái xuất gia tu hành gần như là hiện tượng chung của các tôn giáo trên thế giới. Nghĩa là nói về mà cái hình thức mà xuất gia mà tu hành, thì những cái hiện tượng đó thì các tôn giáo trên thế giới gần giống như nhau hết chớ không có khác nhau bao nhiêu đâu.

Mục đích tối cao của tôn giáo là sự tìm cầu giải thoát khỏi nhục dục và sự tự tại của tâm linh. Đó thì tôn giáo nào cũng nhắm vào cái chỗ đó chứ không có tôn giáo nào mà khác cái chỗ đó. Nhưng có làm được hay không là do cái chỗ pháp hành đúng hay là sai, vì pháp hành sai là đưa chúng ta đi đến chỗ không giải thoát được, mà pháp hành đúng thì sẽ đưa chúng ta đi đến chỗ giải thoát. Vì thế tôn giáo mới được gọi là tôn giáo. Nó có như vậy mới gọi là tôn giáo chứ nếu không được như vậy thì ai gọi nó là tôn giáo làm gì. Cho nên tất cả các phương pháp bất luận là những hành pháp nào tu tập hay trau dồi tất nhiên cũng phải ra khỏi cái cuộc đời thế gian. Nghĩa là cái tôn giáo nào thì cái người mà tu theo cái tôn giáo đó thì cũng phải sống ra khỏi cuộc đời sống của thế gian chứ không thể nào mà nằm trong cái cuộc đời sống của thế gian mà thực hiện cái pháp môn đó mà được. Cho nên mới gọi là xuất gia, hoặc gọi là xuất thế gian.

Đó thì quý thầy phải hiểu cái chỗ này chứ nếu mà không hiểu thì mình cứ sống ở trong thế gian mà mình cứ nói, ờ tôi xuất thế gian đó, thì nó không được.

Cho nên Thầy mới dựa vào những cái bài kinh của Phật mà Thầy vạch ra cho thấy hai cái lộ trình rất rõ, hai cái lộ trình rất rõ để chúng ta thực hiện những cái pháp nào ở trong cái lộ trình nấy, chúng ta chuẩn bị cho bước sang cái lộ trình thứ hai là cái đời sống của người xuất gia nó phải như thế nào đúng, giữ cái hạnh nào đúng, rồi những cái pháp nào để trau dồi để cho cái hạnh đó mà chúng ta được viên mãn cho đến khi mà chúng ta thành tựu được cái sự hoàn toàn giải thoát. Đó là cái điều mà chúng ta phải lưu ý, chứ còn nếu không lưu ý đó thì nhiều khi chúng ta sống ở trong thế gian mà như là tưởng mình là xuất thế thì cái đó không có đúng cái tính cách của cái người tu sĩ, dù là tôn giáo nào cũng vậy.

Cho nên chúng ta thấy rất dễ các tôn giáo khác cái hình thức của họ, họ không phải như là Phật giáo. Phật giáo vào thì cái đầu phải cạo trọc, nghĩa là thay đổi cái tướng của nó rồi đó rồi y áo nó phải thay đổi hết, nó không có ăn mặc theo cái kiểu thế gian. Còn trái lại thì chúng ta phải thấy các tôn giáo khác đó thì cái đầu họ không có thay đổi đâu, họ để tóc cũng y như cái người thế tục. Cho nên do cái chỗ cái hình dáng của họ như vậy đó, họ làm bậy làm bạ, họ sống theo kiểu dục lạc thế gian thì dễ gạt người ta lắm. Bởi vì thí dụ như bây giờ có một vị linh mục, ông mặc cái chiếc áo linh mục vô thì ông nói ông linh mục nhưng mà ông bỏ cái chiếc áo linh mục ra thì ông đi ra quán rượu ông ngồi ông uống như thường, hoặc là ông vô cái lầu xanh đi nữa thì người ta cũng đâu có biết ông là linh mục. Cho nên vẫn thấy ông là linh mục khi mà ông ở trong nhà thờ, nhưng khi ông đi ra ngoài rồi thì người ta không nhận ra ông là linh mục. Cho nên ông có thể làm cái điều sai quấy có thể dễ dàng lắm. Còn mấy ông tu sĩ chúng ta mà đi làm bậy bạ, vô cái nhà lầu xanh mà thấy cái đầu trọc mà ở trong đó thì chắc chắn là thiên hạ cười ngất rồi, không có thể nào mà chịu được thấy cái đầu trọc mà vô trong đó.

Cho nên có một lần Thầy nghe cái câu chuyện của Khưu Trường Xuân, ông tu theo tiên đạo như thế nào đó không biết mà cái tâm dục ông như thế nào đó mà ông muốn vô lầu xanh ông thử ông, mà ông vô đó ông lại gặp Bồ Đề Đạt Ma cái đầu trọc lốc thì còn cái gì của đạo Phật nữa không? Các thầy nghĩ cái điều đó, cái điều mà không biết họ viết họ đặt điều như vậy không lẽ là Bồ Đề Đạt Ma mang cái đầu trọc vô lầu xanh trong đó mà thí nghiệm nữa thì Thầy không hiểu làm sao. Kiểu đó là cái kiểu thiệt là bịa đặt đủ thứ để mà hạ nhục Phật giáo của chúng ta. Cho nên cái đầu trọc không có dám đi đâu hết à, đừng có nói chuyện vô trong quán mà ngồi uống rượu cái đầu trọc này mà ngồi đó uống rượu được nữa, thế mà có mấy ông đầu trọc ngồi đó uống rượu tự nhiên. Không phải Thầy nói không có đâu, có tự nhiên lắm chứ không phải không đâu. Họ xem cái sắc tướng của một vị tu sĩ đạo Phật quá tầm thường, họ phạm pháp hết sức không có thể nào tưởng tượng nổi. Cho nên người đời họ xem Phật giáo bây giờ có ra gì đâu, đó là những cái mà người ta không thấy được cái trách nhiệm cái bổn phận của người tu phải làm sao mà làm sáng tỏ Phật pháp lại.

Đó thì các thầy thấy rõ không, các tôn giáo khác người ta dễ lắm, như bây giờ ông Cao Đài ông mặc cái áo trắng vô thì mình thấy biết đó là cái ông chiến sĩ Cao Đài rồi, ông cởi cái áo trắng ra rồi thì bắt đầu ông ngồi chỗ nào cũng được hết, ông ở chỗ nào cũng không ai nói ông Cao Đài hết. Đó thì rất dễ, cái chuyện ông chạy theo dục lạc rất dễ. Còn ông tu sĩ ông Phật ông chơi độc lắm, ông bắt chúng ta cạo đầu và cấm không cho chúng ta uống rượu, còn kia các tôn giáo khác không có cấm uống rượu, cái giới luật của họ không có cấm uống rượu cho nên thả cửa mà lại còn hàng năm...Thầy nghe mấy ông Cha mấy ông nói mà hàng năm ở Vatican cung cấp cho mỗi ông Cha là bao nhiêu chai rượu nho mà thứ đặc biệt đó để cho mấy ông uống cho ngon đó. Chứ không phải như chúng ta ông thầy chùa mà vô mà uống rượu là bị phạt liền. Nó có những cái tu hành của đạo Phật, nó có những cái khắc khổ là vì nó không có cho hưởng lạc của thế gian, mà cái rượu nó là một cái kích thích nam nhi chúng ta mạnh lắm, thích lắm chứ không phải, mà gợi chí anh hùng, gợi cái anh hùng cá nhân của chúng ta cũng dữ tợn lắm. Cho nên khi mà cái người say rượu rồi, cái anh hùng của ông ta nổi lên thì ông ta chẳng sợ cái gì hết. Cho nên cái đó là cái nguy hiểm nhất, ác nhất của cái con người, mà đức Phật đã hiểu được cho nên mới có cái giới luật đó cấm, còn trái lại các tôn giáo khác không có cái giới luật đó.

Chúng ta phải hiểu được cái chỗ tu hành của đạo Phật nó phải nằm ở trong toàn thiện thì cái rượu, cái đồ mà nghiện ngập đó sẽ đưa chúng ta đến chỗ ác độc nhất cho nên đức Phật cấm, không có cho chúng ta nghiện ngập. Đức Phật là xây dựng trên nhân quả, mà nghiện ngập nó tạo thành cái nghiệp, nghiệp là cái thói quen, mà nghiện ngập nó mới thành cái thói quen, cho nên do cái chỗ đó mà đức Phật mới cấm chúng ta chứ không phải là làm chúng ta khổ sở đâu.

Đó có hiểu biết như vậy chúng ta mới thấy được cái đạo Phật nó trên hết tất cả các tôn giáo khác là nó không có đem cái hình dáng của nó mà làm tầm bậy được. Còn bây giờ tại vì chúng ta bắt chước, nhưng mà bắt chước để chúng cười, còn cái kia người ta bắt chước mà chúng không cười. Nghĩa là người ta chạy theo dục lạc mà đâu có ai biết đâu mà cười, còn mình hở ra cái đầu trọc không lẽ bây giờ để tóc hoặc là mua đồ tóc giả chụp lên để mà hưởng dục lạc thế gian.

Cho nên Thầy có nghe trong báo Công an có đăng thế này, có một tên ni cô và một cái ông thầy, rồi hai người bị đầu trọc hết rồi thì làm sao? Ni cô thì mua cái đầu tóc giả trùm lên, ông thầy thì cũng mua cái đầu tóc giả chụp lên rồi hai người mới rủ nhau đi Vũng Tàu chơi. Không ngờ trên đường đi lại nó bị tai nạn giao thông cho nên té bật ngửa ra đó, công an nó lại nó thấy. Trời ơi! Lòi ra hai ông thầy với ni cô chơi kiểu này thôi chết luôn rồi, nó bại lộ tất cả những cái bại lộ vì bây giờ cái đầu trọc mình giờ tóc nó mọc sao kịp, phải hông? Nó văng ra hai cái đầu tóc giả nó nằm đó thì tức là người ta thấy. Vì vậy mà nó bại lộ, nó xấu xa quá độ. Nó xấu mấy người đó thì chúng ta đâu có yên tâm, chúng ta là những người tu sĩ mà, xấu lá xấu nem, xấu anh xấu em một người xấu là cả bầy xấu với nhau, người ta cũng nhìn mình với bộ mắt đó chứ làm sao người ta nhìn khác hơn nữa. Người ta cũng nói ông thầy nào cũng vậy chớ làm sao người ta khen mình được, cho nên tất cả những cái sai lầm này nó làm cho Phật pháp suy đồi, nó làm cho cái người tu hành chân chánh người ta rất ngại ngùng. Các thầy phải hiểu cái điều đó. Đau lòng lắm chứ đâu phải sung sướng đâu, khi mà cái tờ báo Công an mà nói giáo chủ này mà rờ đít người kia. Trời ơi, chúng ta không phải sống yên tâm đâu, sung sướng gì đâu, cái đầu trọc của chúng ta với cái đầu trọc kia nó có khác nhau chỗ nào đâu? Hai cái đầu nó cũng không có tóc mà chúng ta sung sướng được sao, nghe người ta chửi ông kia thì ông này cũng động tâm chớ. Người ta nói thố tử hồ bi, con thỏ chết con cáo nó còn khóc. Còn chúng ta là đồng con người mà đồng một tôn giáo như vậy mà bây giờ các ông làm bậy để cho chúng ta những cái nỗi đau khổ chúng ta chứ đâu phải sung sướng gì. Thế mà nhan nhản những cái sự đó, hiện bây giờ còn chứ không phải là hết đâu. Làm sao chúng ta dẹp cho sạch, cái hạng mà tu hành mà còn dục lạc không có chịu xả bỏ thì làm sao mà, làm sao mà đi trên con đường này được. Thế cho nên vì vậy thập giới Sa Di là cái cơ sở để mà xây dựng cái con người, cái người tu sĩ của đạo Phật, thế mà bây giờ không còn cái thập giới Sa Di ra gì nữa hết thì 250 giới có nghĩa lý gì đối với mấy người đó. Người ta hoàn toàn là ở trong cái hình thức chứ không còn có cái thực sự xuất gia nữa.

Hình thái xuất gia tuy các tôn giáo đều có song xuất gia mà đạt được sự thật đến cảnh giới giải thoát sanh tử thì chỉ có Phật giáo. Do hình thái xuất gia tuy gần giống nhau nhưng nội dung xuất gia hoàn toàn bất đồng. Nghĩa là chúng ta thấy nó có giống nhau vậy chứ nhưng mà nó có cái sự bất đồng nó không có giống nhau hết đâu.

Phật giáo đặt nền móng trên nhân bản, nghĩa là cái nền móng của Phật giáo ra đời là nhắm vào con người, từng cá nhân con người, từng cái cấp thăng hoa của nó, để xuất phát từ cái lý trí phán đoán biết được. Nghĩa là Phật giáo lấy cái con người mà làm cái hướng, làm cái đối tượng để mà từng cái pháp môn để thăng hoa cho con người đi đến cái toàn thiện của nó, xuất phát từ cái lý trí của cá nhân đó, của cái bản thân của người đó, phán đoán và quét sạch để cứu mình chứ không phải là có một người nào cứu họ được.

Đó chúng ta phải hiểu, từ cái chỗ mà, lý trí chúng ta mà phán đoán quét sạch đó thì nó mới lưu xuất ra trong những cảnh giới đích thân chứng ngộ, đích thân chứng ngộ của chính người đó và cũng chính đó là cái chỗ mà chính đích thân đức Phật đã chứng ngộ. Chúng ta phải hiểu như vậy nó mới đúng cái nghĩa chứ không phải là đến với tôn giáo của đạo Phật mà không phải chính cái hành động của mình thì chắc chắn là mình không thể nào đạt được. Cũng như bây giờ chính cái hành động của các vị đó mà chạy theo dục lạc như vậy thì làm sao mà có được giải thoát. Mà chính những cái hành động của các vị đó phải từ bỏ, phải ly tất cả những cái dục, ly tất cả những cái ác pháp thì nó mới chứng được cái đích, cái sự chứng ngộ của đạo Phật, mới chứng thật chứ không phải cấm dục cực đoan như trong các giới bổn.

Nghĩa là quý thầy phải hiểu rằng chính chúng ta phải thực hiện trau dồi chúng ta để chúng ta thực hiện được cái giới bổn đó bằng cái chứng nghiệm của cái sự giải thoát chứ không phải lấy giới bổn đó mà cấm dục cực đoan. Các thầy có hiểu cái chỗ Thầy nói? Nghĩa là mình đừng có lấy giới bổn đó mình cấm dục, cấm cái dục của mình, mà mình phải trau dồi để mình ly ra chứ không phải là lấy cái giới bổn mà cấm dục, đó thì cái chỗ này là cái chỗ quan trọng để mà chúng ta hiểu được cái giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề. Còn nếu mà không hiểu như vậy thì coi như là chúng ta lấy cái giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề mà cấm dục, để cho cực đoan để chúng ta đến chỗ chết chứ chúng ta chẳng có giải thoát được gì.

Ở đây Phật giáo đặt giáo pháp của mình trên cái lộ trình nhân quả căn cứ vào suối nguồn thiện ác. Đó thì quý thầy thấy rõ ràng Phật giáo đặt cái lộ trình của mình trên cái nhân quả cho nên căn cứ vào cái suối nguồn thiện ác mà thực hiện trau dồi. Bởi vì ác với thiện mình phải thấy rõ, cho nên giới luật của Phật phải nằm ở trên thiện ác đó mà chúng ta thực hiện theo nhân bản, tức là luôn luôn lúc nào cái nhân bản của chúng ta càng ngày càng thiện thì nó đề cao cái nhân bản của chúng ta lên. Còn bây giờ chúng ta cứ làm những cái điều ác thì làm sao cái nhân bản chúng ta cao lên được, cho nên ở đây đức Phật nhắm vào con người để đề cao cái nhân bản họ càng ngày càng tăng lên trên cái thiện pháp, ly tất cả cái ác pháp ra, cái nhân bản của con người đó nó càng ngày càng được cao lên và những cái pháp ác càng ngày càng dứt bỏ ra, căn bản những cái pháp ác đều là bị thoái trừ ra qua cái đường lối tu tập của đạo Phật.

Chúng ta thấy rất rõ mà, càng ngày càng thấy cái đạo đức của đạo Phật càng thể hiện ở trên cái con người tu sĩ của đạo Phật chứ. Còn đằng này càng thấy càng ngày các thầy mà cái hình thức mà chúng ta thấy giả dối mà đội cái tóc giả mà đi như vậy, đi hưởng cái  dục lạc thì đó là sống ở trong pháp ác chớ, thì hai cái người này chỉ còn có cái nước mà chui xuống đất chứ còn ở đó mà nhìn thấy ai nữa không. Mà quý thầy phải biết khi mà người ta phát giác ra những vị này đều là những vị có giáo phẩm ở trong hàng giáo hội chúng ta chứ đâu phải là những tay thường đâu, chứ đâu phải là những chú Sa Di, những tu sĩ mà chẳng danh chẳng lợi gì đâu, đều là những người có chùa to tháp lớn hết chứ không phải thứ nhỏ đâu.

Đó là những cái điều mà Thầy thấy thiệt là một cái rất là sai, bởi vì của cải tiền bạc nhiều thì dục lạc nó phải sinh ra chứ làm sao, còn cái ông tu sĩ chẳng có cái gì hết làm sao có dục lạc. Còn cái này của cải tiền bạc chất ngập chùa thì tức là phải sanh cái chuyện tầm bậy, rồi mới cặp đi tầm bậy như vậy để hưởng lạc ở Vũng Tàu. Cho nên đó là những cái mà càng làm lớn bao nhiêu, tiền bạc càng nhiều bấy nhiêu thì nó lại sinh ra dục lạc bấy nhiên đó. Cho nên Phật dạy chúng ta xả bỏ, xả bỏ cho sạch, người lớn cũng như người nhỏ, không có người nào còn một cái tài sản nào hết thì mới có thể giải thoát, mới có nhân bản chúng ta càng ngày mới dứt các pháp ác thì cái nhân bản thiện pháp chúng ta càng ngày càng tăng trưởng. Còn nếu mà còn một vật chất gì thì nó xui khiến chúng ta làm những cái điều ác thêm chứ không phải, bởi vì dục lạc nó có cái sự cám dỗ rất lớn, mà nếu mà chúng ta có cái phương tiện có đầy đủ thì nó sanh ra, sanh ra cám dỗ chúng ta, nó đẩy chúng ta đi đến chỗ con người rất là xấu xa tệ bạc.

Bởi vậy đạo Phật đặt nền tảng quan hệ đạo đức nhân quả để thăng hoa từng cấp bậc. Nghĩa là chúng ta từ cái Sa Di đó mà chúng ta thăng lên từ cái hạnh của người ta thực hiện ra nó như thế nào chứ, còn đằng này mình thăng cái cấp của mình lên quá cao trong hàng giáo phẩm, tới cái bậc hòa thượng rồi, mà nhìn cái đời sống của mình nó thua cái chú Sa Di mới vào tu à, thì thử hỏi nó còn cái chỗ nào mà chúng ta có thể gọi là đạo Phật được.

Từ sinh hoạt tại gia lấy Tam quy làm gốc, Ngũ giới làm hành động sống hàng ngày, Bát giới chỉ là tập luyện cho quen dần với đời sống xuất gia mà thôi. Nghĩa là cái đời sống người cư sĩ người ta còn phải có sự tu tập của nó như vậy, lấy tam quy làm gốc, ngũ giới nó làm cái hành động sống của họ và Thọ Bát quan trai chỉ là người ta tập luyện cho người ta quen với đời sống xuất gia. Thì qúy thầy thấy rất rõ từ cái sinh hoạt tại gia của cái người mà tại gia tức là cư sĩ đó thì họ cũng phải lấy gốc Tam quy, tu tập của cái người mà cư sĩ tại gia để mà họ tập quen với đời sống xuất gia. Chúng ta thấy cái đường lối của cư sĩ đó người ta còn phải thực hiện như vậy còn huống hồ là mình tu sĩ bắt đầu từ thập giới Sa Di rồi thì mình đi lên nữa chứ đằng này mình đi lui xuống cư sĩ á.

Bởi vậy đạo Phật đặt nền tảng quan hệ đạo đức nhân quả để thăng hoa từng cấp bậc từ sinh hoạt tại gia, nghĩa là bây giờ mình muốn thăng hoa cái cấp bậc của mình đi trên con đường giải thoát đó, để thể hiện cho đúng sự giải thoát của nó. Thầy thấy rất rõ từ cái sinh hoạt tại gia của cái người tại gia, tức là cư sĩ đó thì họ cũng phải lấy gốc Tam quy nó làm cái gốc của họ, mà lấy ngũ giới làm hành động sống hàng ngày của họ cho nên nó làm sao mà nó sai lệch được. Còn bát giới, bát quan trai giới chỉ là cái sự tu tập của cái người cư sĩ tại gia để họ tập quen với đời sống xuất gia. Chúng ta thấy đường lối của cư sĩ người ta còn phải thực hiện như vậy. Còn huống hồ là mình tu sĩ bắt đầu từ thập giới Sa Di rồi thì mình đi lên nữa chứ, đằng này mình đi lui xuống cư sĩ á, mình còn thua người cư sĩ nữa thì thử hỏi như vậy làm sao gọi là...nghĩa là mình đi lui rõ ràng mình đi lui.

Nhìn thập giới Sa Di rõ ràng mình đi lui rõ ràng à, tu sĩ gì mà một ngày ăn ba bốn bữa không phải đi lui xuống cư sĩ sao, rồi tu sĩ gì mà cất giữ tiền bạc không phải là đi lui xuống cư sĩ sao? Tu sĩ gì mà còn hành nghề, nào là thầy thuốc này, thầy bùa này, thầy coi ngày tốt xấu này, thầy kim tinh, bói quẻ, thầy cúng bái này, tu sĩ gì mà đi lui lại người cư sĩ à, có phải đi lui không hay là đi tới? Đó thì quý thầy thấy tu sĩ gì mà đi trồng rừng, đi trồng cây trái, đi làm lập vườn cafe, đi làm cái này cái kia, thì tu sĩ gì mà không bỏ cái thế gian mà còn ham tiền ham bạc mà đi làm thì không phải đó là đi lui sao? Đi lui xuống dưới cái dạng của người cư sĩ chứ không phải là người tu sĩ đâu.

Đó người cư sĩ người ta dần người ta đi lên người ta tập thọ Bát quan trai để tập đời sống của người xuất gia, còn mình là tu sĩ rồi, thọ 250 giới rồi, 348 giới rồi mà bây giờ đi lui lại đi ra làm ruộng để lấy lúa mà ăn, thì thử hỏi còn cái gì là người tu sĩ không? Đi lập vườn tiêu nè, đi lập vườn thanh long nè, đi lập cơ sở này, cơ sở khác. Thậm chí có người còn đi ra buôn bán nữa, mở tiệm cơm chay rồi đi bán nữa thì thử hỏi những cái đó là cái đúng hay cái sai. Phật có dạy chúng ta ở trong kinh không, bảo chúng ta bỏ hết chỉ còn cái nghề đi xin ăn mà thôi, ai có cho thì ăn mà không cho thì đói, còn đằng này thì không, tôi làm đủ thứ hết nghề nào đương đác rổ rá gì đủ thứ, không có còn chỗ nào mà chừa hết. Trong cái nghề thế gian thì để cho con người thế gian người ta làm ăn, mình đi tu rồi cũng muốn tranh nữa, cũng muốn giành các nghề của người ta nữa thì thử hỏi quý thầy cứ nghĩ như thế nào, là đúng hay là sai không.

Đó là những cái sai, mà cái lùi của người tu sĩ chứ không phải là cái thăng hoa, cái tiến cấp của người tu sĩ giải thoát mà lùi trở lại để đi về với cái dục lạc của thế gian, cái kiếp sống của con người thế gian. Người thế gian người ta chưa hiểu cái đường tu thì người ta lấy cái đó người ta làm kiếp sống của người ta, còn mình là người đã hiểu Phật pháp rồi mà mình lại hiểu giới kinh của Phật dạy rất rõ rồi mà mình còn đi lùi trở lại sống như vậy. Nếu mình tu được thì mình tu còn tu không được thì mình đi trở về cái đời sống của cư sĩ, của thế gian đi, chứ còn mình đừng có mặc cái chiếc áo này mà làm nhục, làm mạ lụy Phật pháp, làm suy đồi Phật pháp thì tội đó quý vị sẽ thọ lấy những cái quả báo sau này phải đọa biết bao nhiêu cái địa ngục, chứ không phải một cái địa ngục. Tại sao vậy? Tại vì đạo Phật nhắm vào giải thoát cho con người trên thế gian này ra khỏi sự đau khổ của chính họ. Thế mà chúng ta lại làm cho Phật pháp suy đồi, làm cho Phật pháp mất gốc thì những người này phải chịu quả báo rất lớn đối với cái sự đau khổ của con người trong thế gian này.

Ngũ giới và thập thiện là đặt nền móng đạo đức nhân quả để xây dựng đạo đức luân lý của xã hội loài người. Do đặt trên nền móng nhân quả, Phật giáo mong muốn mọi người đều tin Phật, học Phật để tự giải thoát cho mình và cho người. Vì thế đạo Phật tuyệt nhiên không ép buộc mọi người theo đạo Phật hoặc ép buộc mọi người phải xuất gia, vì lợi ích thiết thực cụ thể, giải thoát sự đau khổ của mọi người nên họ tin Phật, học Phật, tuyệt nhiên không được ai có quyền bắt ép họ thọ Tam quy hoặc xuất gia. Đó là đạo Phật là một cái đạo nó không có buộc, không có quyến rũ ai hết thế mà có Tứ nhiếp pháp, Tứ nhiếp pháp để làm gì? Để quyến rũ người ta chứ làm gì, cho tiền người ta bảo vào đạo Phật mình, lại nói ngon nói ngọt như thế này để dụ người ta vào đạo Phật của mình không phải là có cái chỗ quyến rũ sao, cho nên Tứ nhiếp pháp từ đâu sanh ra quý thầy có biết không?

Để lần lượt rồi Thầy sẽ giảng tới quý thầy thấy những cái lối đó nó không có đúng cái Phật pháp chút nào hết. Bởi vì Phật pháp xây dựng ở trên cái nền tảng giải thoát cho con người, thì cái người đó người ta thấy được cái hành động thiện thì đem lại cái sự an lạc cho họ và cái hành động ác đem đến cái sự đau khổ cho họ, từ đó họ thấy đúng cho nên họ mới tin Phật, họ mới theo Phật. Còn họ không hiểu không biết thì chúng ta không có dụ dỗ họ, không có ép họ. Dụ dỗ họ mai mốt không tiền cho cái họ đi ra tôn giáo khác, phải không? Hay họ vô đó họ quậy, họ phá họ làm tùm lum ra đó thì như vậy dụ dỗ họ để họ phá đạo chứ làm gì. Cho nên đạo Phật không có ép buộc ai hết, không có buộc người nào xuất gia hết. Vậy mà có một số người cứ đến rỉ tai vô cái lỗ tai của mấy người cư sĩ xuất gia đi, xuất gia đi, xuất gia đi rốt cuộc rồi đi làm công quả cho các chùa, lau chùa, lau miểu họ chứ có làm cái thứ gì mà nên trò trống gì. Hầu như cứ nghe nói xuất gia, cái xuất gia vô rồi bắt đầu đi vô đó mà lau chùa chứ có làm cái gì, rồi đi làm ruộng làm rẫy, đi trồng vườn trồng tược để mà ăn mà sống thì cũng như bao nhiêu người thiếu gia. Rủ nhau cả đám, để mình  xuất gia mình làm bậy, thì rủ người ta làm bậy thì không ai cười, còn để có mình mình làm bậy thì chúng cười. Cho nên rủ nhau cả đám cho đông chứ có làm cái thứ gì nên trò trống gì. Tu hành cho tới bây giờ hai ba chục năm rồi nhìn ông nào bà nấy cũng là, cái mặt y như là người thế gian chứ có khác chút nào đâu, có thể nói rằng dục lạc còn hơn nữa.

Muốn biết người nào đã có sự thích nghi với sự xuất gia hoặc tại gia ở trong Phật giáo, chỉ cần xem người đó có tiếp thọ được tinh thần nhân quả trong giới luật của đạo Phật hay không? Người ta nói căn cơ, người có căn tu người không có căn tu, sự thật căn gì, ở đây chúng ta biết được cái nhân quả, cái nhân quả của cái người đó họ có thích nghi được cái nhân quả đó không, họ có thích làm điều thiện hay không, hay hoặc là họ thích làm điều ác. Một ông đồ tể chuyên môn đi giết heo, giết bò mà ông có thích nghi được chuyện của chúng ta không, nếu ông thích nghi được cứ rủ ông đi, ông cũng vô đạo Phật ông đem tiền cúng chùa để mà ông cầu cho con heo đừng có ăn ông, chứ có ai mà phù hộ ông được. Thì thử hỏi trong cái vấn đề mà đi quyến rũ một cái người mà đang cầm cái dao mà giết bò giết heo như vậy thì chúng ta quyến rũ họ được không? Vậy mà có người bằm thịt mà gọi là thấy Phật tánh thì quý thầy nghĩ sao?

Giới luật xuất gia do quan niệm đạo đức nhân quả thăng hoa mà lập thành. Đó thì quý thầy thấy cái giới luật của đức Phật chúng ta thấy rõ, giới luật xuất gia rõ ràng là nằm ở trên cái nhân quả thiện ác rồi, mà nhân quả thiện ác rõ ràng là giới luật của Phật nó đâu có đi làm cái điều ác. Do đó vì vậy mà chúng ta mới thấy rõ ràng nó thăng hoa lên từng cấp bậc thiện của chúng ta càng ngày càng cao lên trên cái nền đạo đức của nhân quả. Nhân quả chấm dứt thì cảnh giới niết bàn giải thoát, nghĩa là khi mà nhân quả mà chúng ta đã chấm dứt được cái nhân quả thì cái cảnh giới niết bàn nó giải thoát, nó hiện tiền, còn cái nhân quả mà nó còn chi phối chúng ta có thiện có ác thì nó luôn luôn nó tiếp tục tái sanh luân hồi, nó đưa chúng ta từ cái nghiệp này đến cái nghiệp khác để mà thọ lấy hạnh phúc hay hoặc là thọ lấy sự khổ đau của nó mà thôi. Cho nên con đường của đạo Phật vạch ra chúng ta rất rõ, muốn mà giải thoát thì chúng ta phải chấm dứt nhân quả, mà còn nhân quả thì chúng ta không thể nào mà giải thoát.

Đây chẳng phải là sự siêu xuất sanh tử một cách đột ngột,nghĩa là chúng ta muốn làm chủ sinh tử không phải là cái sự siêu việt nào mà chúng ta làm chủ nó được mà chúng ta phải thấy cái lộ trình của nhân quả, do đó chúng ta mới chậm dứt được cái lộ trình nhân quả thì sanh tử chúng ta sẽ làm chủ.

Đây chẳng phải là sự siêu xuất sanh tử một cách đột nhiên như các tà giáo ngoại đạo khác tưởng ra. Nghĩa là hầu hết là các tà giáo ngoại đạo khác tưởng ra mình phải khổ hạnh như thế này, làm như thế này thì mới là liễu sanh thoát tử được, hoặc là tu tập như thế này thì nó mới liễu sanh thoát tử được mà nó do cái sự tu tập đó đột nhiên nó đến. Còn ở đây chúng ta biết mà, nó thăng hoa từng chút, chúng ta làm một điều lành, rồi chúng ta dứt một điều ác lần lượt mà chúng ta dứt trừ các cái điều ác rồi tăng trưởng các điều lành thì tức là thăng hoa cho đến khi mà nhân quả chấm dứt.Thì lúc bấy giờ làm chủ sanh tử chúng ta không phải là sự siêu xuất mà là cũng không phải sự đột nhiên mà đến, mà do cái quá trình trau dồi xa lìa cái ác pháp để rồi tuần tự mà thực hiện toàn thiện pháp, còn thiện pháp không mà không còn ác pháp thì lúc bấy giờ nhân quả nó không còn đối đãi nữa, mà không còn đối đãi nữa thì tức là nhân quả nó dứt, mà nhân quả nó dứt thì Niết Bàn giải thoát chứ có cái gì mà khác lạ, nó đâu phải là một cái gì đột xuất nào một cách mà siêu việt ở đâu mà đến mà làm chủ sanh tử được.

Nhân bản của đạo đức nhân quả phải được sự thăng hoa từng cấp giới luật đạo đức nhân quả của đạo Phật. Đó chúng ta thấy ở đây Thầy lặp lại như vậy để thấy được cái chỗ mà đạo đức của nhân quả nó đưa chúng ta từng cấp, từng cấp mà đi lên cho đến khi mà cho đến khi mà chúng ta giải thoát đó mới gọi là đạo đức của đạo Phật, mới hoàn thành được sự giải thoát. Vì thế đây chẳng phải là vô căn cứ mà phải đặt trên nền móng sinh hoạt hàng ngày tại gia của mỗi cá nhân cư sĩ. Nghĩa là bắt đầu chúng ta phải đi vào đạo Phật là chúng ta phải thực hành hàng ngày ở tại gia đình của chúng ta trong những cái lộ trình của nhân quả, chứ không phải là đợi chúng ta xuất gia mới thực hiện, bây giờ xuất gia mà thực hiện thì chúng ta phải hơn chứ, tại sao chúng ta lùi lại cư sĩ, chúng ta còn tệ hơn những người cư sĩ mà người ta mới có thọ tam quy à.

Đó thì chúng ta thấy chúng ta đã thọ cái gì, bây giờ là 250 giới, 348 giới rồi, trở thành những cái bậc thượng thủ của đạo Phật rồi, đệ tử xuất gia cao rồi thế mà cái đời sống của chúng ta còn thua cái người mà cư sĩ mới thọ tam quy. Thì bằng chứng là quý thầy bây giờ cứ nhìn những cái vị tu sĩ Phật giáo ở trong đất nước của chúng ta có phải họ đang lui, mà còn lui hơn là những cái người cư sĩ mới thọ tam quy không? Người ta còn biết tập luyện thọ bát quan trai, người ta còn biết giữ gìn 5 giới của người ta nghiêm chỉnh, còn mình thì 5 giới chẳng nghiêm chỉnh gì hết, ăn thịt cá như mấy ông Nam tông thì thử hỏi có gìn giữ cái thứ gì đâu. Đó thì chúng ta thấy quá rõ ràng, như vậy là còn thua cư sĩ của mình bây giờ người ta còn có được ngày chay nữa, còn ông một tháng 30 ngày ních thịt hết 30 ngày có cái ngày nào mấy ông chừa.

Đó thì quý thầy thấy rõ ràng tâm họ như vậy thì cái lòng họ làm sao mà gọi là ở trong cái ác pháp, mà nhân quả ăn thịt chúng sanh là cái ác pháp chứ làm sao mà gọi là thiện pháp được, mà đạo Phật đâu phải xây dựng ngoài cái vấn đề nhân quả đó, thiện ác đó, thế mà họ ngồi ăn thịt, 30 ngày không có ngày chay thì thử hỏi còn cái gì nữa mà là thiện là ác? Vậy mà gọi là sư sãi, gọi là vua sãi.

Đến lộ trình thứ hai của đạo Phật người xuất gia được chia làm 5 cấp, nghĩa là đến cái lộ trình thứ 2 của đạo Phật thì cái người xuất gia chúng ta chia làm 5 cấp. Hồi nãy giờ Thầy nói cái đời sống xuất gia chúng ta nó lui lại cái đời sống cư sĩ, thì chúng ta thấy rằng nó không có bằng cái chú Sa Di mà mới ba tuổi, kêu là chú Sa Di mà đuổi gà đó, đuổi chim đó, nó chưa bằng đâu, chú vô đó chú còn không tiền bạc này, còn không có cái gì hết, hoàn toàn chú chỉ là sai đuổi chim, đuổi gà đó thôi, chứ còn để nó ăn nó làm động ở trong chùa đó. Thì do đó chú này chú chỉ có cái việc làm đó thôi vậy mà chú còn hơn mấy cái bậc tôn túc hòa thượng của chúng ta nữa đó. Đó là cái người mà 5 cấp này thì chúng ta phải rõ, cái đầu tiên là cái chú Sa Di, tức là nam đó, kế đó, là thứ hai đó, là Sa Di ni, cái thứ ba đó là Thức Xoa Ma Ni cái người mà sắp sửa lên làm tỳ kheo ni đó thì nó giữa Sa Di ni và giữa Tỳ Kheo ni, thì nó có một cái cấp bậc của cái người mà nữ đó, thì họ phải ở đó, họ trụ ở đó ít ra 2 năm để trắc nghiệm sau đó họ mới thọ cái giới cụ túc rồi tỳ kheo ni mới được, cho nên có cái tên gọi là Thức Xoa Ma Ni hoặc Ma Na, bốn tỳ kheo tăng, năm đó là tỳ kheo ni. Cho nên có năm cái cấp bậc đó nó rất là rõ ràng không có thể nào mà xóa một cấp bậc nào được hết, nghĩa là vào đạo Phật thì nó có 5 cái cấp bậc đó rất là cụ thể.

Đó là cái lộ trình mà thứ 2 của đạo Phật nó có 5 cấp bậc của người tu sĩ. Năm hạng tu sĩ này là 5 loại đẳng cấp của nó. Người nam dù già trẻ bé lớn thọ thập giới xong đều được gọi là Sa Di, nghĩa là bây giờ người có 80 tuổi mới vô mà thọ thập giới của Sa Di đều gọi là Sa Di hết chứ không phải nói tôi lớn rồi tôi trưởng lão đâu, không phải đâu, mà cái chú 3 tuổi cho đến 8 tuổi, 10 tuổi, 20 tuổi thì cái chú đó thọ thập giới Sa Di đều gọi là Sa Di hết. Người nữ thọ thập giới xong cũng đều được gọi là Sa Di ni, người nam trên 20 tuổi thọ toàn bộ giới, 250 giới đó, mới gọi là tỳ kheo;người nữ thọ toàn bộ giới, 348 giới bổn xuất gia thì gọi là tỳ kheo ni.  Thức Xoa Ma Ni là một quá trình của giai đoạn giữa từ Sa Di ni đến tỳ kheo ni. Mỗi Sa Di ni cần phải trải qua quá trình 2 năm Thức Xoa Ma Ni mới có thể thọ giới tỳ kheo và trở thành tỳ kheo ni.

Về tính chất xuất gia Phật giáochia làm 3 loại, bây giờ bởi vì Thầy dạy về giới bổn thì Thầy phải dạy cho quý thầy hiểu được từ cái đẳng cấp của cái lộ trình mà xuất gia nó có bao nhiêu cái đẳng cấp của nó, rồi bây giờ về cái tính chất xuất gia nó có phân chia làm mấy loại Thầy cũng giải cho quý thầy hiểu, để không quý thầy cũng chẳng hiểu xuất gia nó như thế nào thế nào, quý thầy không hiểu đâu. Mà hiểu như vậy để làm gì? Để chúng ta biết cái đúng cái sai, để chúng ta nhìn cái số mà tu sĩ của chúng ta hiện giờ đang thực hiện họ có biết hay không, họ có làm đúng hay không? Nếu mà chúng ta không hiểu cái này thì chúng ta phê phán họ một cách mù mờ, còn chúng ta hiểu rõ chúng ta chỉ định rằng họ là những cái hạng người như thế nào chúng ta thông suốt hết.

Một là thân, tâm đều xuất gia, đó thì bây giờ cái tính chất xuất gia nó chia làm ba loại, cái loại thứ nhất là thân, tâm xuất gia, thân cũng xuất gia mà tâm cũng xuất gia. Đó thì như vây chúng ta phải thấy cái thân tâm xuất gia là như thế nào? Ở đây Thầy giảng ra để cho thấy, thân trụ ở rừng, núi, hang, chòi lá, chùa, am, thất, cốc đó là thân xuất gia, nghĩa là thân của mình ở cái chỗ mà nó không có giàu sang, nó xa lánh những cái cám dỗ của vật chất thì cái đó gọi là thân xuất gia. Trong tâm không còn luyến mộ khoái lạc ngũ dục thế tục, sắc, lợi, danh, thực, thùy, nghĩa là 5 cái dục lạc nó cám dỗ người mà trong tâm chúng ta mà không còn luyến mộ nó, không còn ham nó nữa, từ bỏ xa lìa những cái đó, danh lợi, dâm, ăn ít ngủ ít là tâm xuất gia. Đó thì Thầy nói như vậy đó, rõ là cái thân của chúng ta xuất gia thế nào, mà cái thân xuất gia mà ở trong cái chùa to thì thử hỏi có xuất gia không? Nó đâu có đúng nghĩa rồi, cái thân mà chúng ta xuất gia thì nó phải nằm ở trong cái vị trí của cái nơi nào mà nó gọi là xuất gia, tức là nó phải có cái sự giải thoát ở trong đó chứ. Thân gì mà còn ở trong cái chỗ sang quá, thân gì mà còn nằm ở trên cái nệm mút một cọc vậy thì thử hỏi là xuất gia kiểu đó là xuất gia cái gì?Cái đó là cái sai, thân mà còn nằm ở trong cái nhà mà quạt máy rồi cái máy điều hòa không khí đó thì cái thân đó là cái thân thế gian chứ đâu phải là cái thân xuất gia.Cái thân xuất gia nóng lạnh thì phải chịu chứ không có thể mà làm cho nó thế này thế khác để chạy theo cái dục lạc của cái cảm giác mát hay ấm đó, thì cái đó là không phải là thân xuất gia. Còn cái thân mà ở trong cái lều, am, thất nhỏ bé mà cái tâm cứ rong ruổi theo sắc dục nhìn cô này, ngó cô kia, thèm ăn cái này, thèm khát cái kia, ham ngủ, sống độc cư không được thì cái tâm đó là tâm chưa có xuất gia đâu, cái tâm đó là tâm còn thế tục thì dù bây giờ có thọ 250 giới hay là 348 giới đi nữa thì chúng ta phải biết cái tính chất đó là cái tính chất chưa phải là xuất gia.

Vì vậy thôi biết cái tâm mình như vậy thôi mình ra đời đi đừng có mặc cái chiếc áo này mà làm xấu hổ Phật giáo đi, làm cho người ta cười chê Phật giáo đi, mình biết cái tâm xuất gia chưa có được và cái thân của mình còn ở nhà cửa sang đẹp, giường chõng êm ấm, quần áo lụa là đó thì thôi thôi cái thân đó đi ra ngoài đời đi đừng có ở cái chỗ mà xuất gia mà gọi mình thế này thế khác thì không có được đâu, làm cho người ta cười thêm chớ không, người ta thấy như vậy người ta biết liền, mình có xuất gia hay không? Thân xuất gia, tâm xuất gia hay không đó thì cái đó là cái sai đó.

Thân tâm nhất trí an tâm vui đạo là thân tâm xuất gia, nghĩa là mình vui vẻ với cái tri túc thiểu dục của mình ba y một bát đó, thì đó gọi là thân tâm xuất gia, đó phải hiểu. Đây là phép tắc xuất gia chân chính cũng là bổn phận của người xuất gia, đó là cái thứ nhất, cái tính chất của xuất gia đó là cái thứ nhất, chúng ta phải thấy cải bổn phận xuất gia của chúng ta.

Có nhiều người không có thấy bổn phận xuất gia của mình, xuất gia rồi mà ăn mặc lòe lẹt xe cộ rườm rà đi đâu cũng có tiền hô hậu ủng, người tới kẻ lui đủ thứ, nhà cửa sang đẹp, thất của mình thì hơn là cái lâu đài của người khác thì cái đó là thôi thôi không phải là cái thân xuất gia. Còn cái tâm ăn uống một ngày 3, 4 bữa thì thôi thôi cái tâm đó cũng chưa phải xuất gia. Thôi mấy cái người này đi ra đời đi, sống theo người thế tục đi cho rồi đi, rồi để cho Phật pháp cho những người mà người ta chân chánh thiểu dục tri túc đó, người ta biết được cái hạnh xuất gia của người ta, cái bổn phận của người ta để người ta làm sáng tỏ lại Phật pháp. Còn mình thấy mình đắm nhiễm như vậy thì thôi thôi đừng có ở cái chỗ mà xuất gia này mà làm ô nhục cho cái pháp xuất gia của đạo Phật thì cái đó là cái đọa địa ngục chứ chưa phải, hết bước rồi đây quý vị sẽ biết cái địa ngục của quí vị.

Hai, thân xuất gia mà tâm chẳng xuất gia,đó bây giờ cái phần thứ hai thì chúng ta thấy cái người mà thân xuất gia mà cái tâm chẳng xuất gia. Ở đây nó giải thích cho chúng ta sẽ rõ: Có người tuy cạo tóc, mặc tăng phục, trụ tự viện, không lấy vợ, không lấy chồng hoặc cũng giữ được thân thanh tịnh, thân thanh khiết song nội tâm của họ lại khao khát. Nghĩa là không lấy vợ lấy chồng mà khao khát chồng vợ, khao khát ăn uống như hồi nãy Thầy nói đó thì cái người đó là cái tâm không xuất gia, mà cái thân của họ thì họ ráng họ giữ gìn cho được. Người ta thấy cái tướng của họ, đó là tướng xuất gia đó, cũng ăn mặc rách rưới cũng ba y một bát, cũng theo kiểu như mấy ông khất sĩ vậy đó, đó là thân xuất gia. Còn cái tâm mấy ông lung tung cho nên mấy ông chịu khổ không nổi đó, đó là cái tâm không xuất gia. Do vì vậy đó hai cái này nó không hợp nhau được, cho nên nó làm cho mấy ông điêu đứng, nó làm cho vị tu sĩ khổ sở lắm, nếu mà hai cái nó hợp lại, nó đúng cái xuất gia thì nó giải thoát, mà nó không hợp lại, hai cái này nó đi hai ngả, một ngả cái tâm nó chạy theo đời, mà cái thân trói ép nó ở trong giới luật để cho nó tu thì kiểu đó là hai cái đứa này nó đánh lộn với nhau ở trỏng. Bởi vì nó có cái mặt trận tư tưởng ở trong đó, cái thằng thân nó nói tao làm như vậy thì tao mới xuất gia, còn cái thằng tâm nó nói mày xuất gia kiểu đó chết tao, tao chịu không được, cái mặt trận tư tưởng nó đánh ở trong đó, tan nát ở trong đó.

Thì quý thầy thấy cái vấn đề đó là cái vấn đề hẳn nhiên của cái người tu sĩ chúng ta mà không có thực hiện thống nhất được, thân tâm mà không thống nhất được thì nó là cái cuộc nội chiến rất mạnh trong đó, nó giằng dai lắm. Thấy cái món đó muốn ăn cái thằng thân nó nói: ăn hông có được tao là xuất gia, thằng tâm nó nói: mày xuất gia kiểu đó tao thèm, phải hông? Như vậy là chết với nhau, nó có một cái cuộc đánh lộn với nhau trong đó, do đó thân tâm nó đánh nhau dữ lắm. Vì vậy mà khi tu hành chúng ta phải nhìn thấy được cái chỗ đó, bởi vì đó là tính chất xuất gia mà, xuất gia làm sao cho đúng chứ xuất gia mà không đúng nó có cuộc nội chiến ở trong đó đánh, cho nên nó làm khổ chúng ta lắm.

Xong nội tâm của họ lại khao khát tưởng nhớ đến ngũ dục, họ vì sinh hoạt cho đến vì danh vọng và địa vị của xã hội mà xuất gia. Nghĩa là cái tâm khao khát của họ họ cũng thích làm ông này bà kia, cũng thích cấp bằng này cấp bằng kia, cũng thích muốn mình có địa vị trong xã hội có người này kia, cho nên họ xuất gia là cái danh vì vậy mà nó có cái cuộc nội chiến ở trong đó, cái thân của họ thì khép vô coi bộ khổ hạnh lắm nhưng mà cái tâm của họ nó muốn làm ông này bà kia thì nó đấu tranh với nhau dữ lắm. Đó là những cái mà Thầy kể thêm ra để thấy cái cuộc nội chiến ở trong tâm chúng ta của người xuất gia không đúng cách.

Đối với phương thức sinh hoạt xuất gia họ không cảm thấy hứng thú nhưng vì vấn đề sinh hoạt và sự bó buộc của quan hệ xã hội nên miễn cưỡng xuất gia. Vì cái sự danh, cái sự mà quan hệ xã hội đó, bắt buộc họ xuất gia miễn cưỡng như vậy chứ họ không có thích. Bây giờ thí dụ như bây giờ mình muốn làm cái ông đại diện của Phật giáo ở huyện này mà nếu mà không xuất gia thì làm sao đại diện Phật giáo được, buộc vô phải làm cái ông lớn để coi tất cả các tu sĩ ở trong huyện này do đó mình cũng là ngon lành, mình coi được cái số tu sĩ trong huyện mà, do đó bây giờ phải xuất gia, xuất gia vô rồi bắt đầu đó mình chạy chọt như thế nào để làm được cái ông đại diện của Phật giáo của huyện. Do đó khi mà được làm đại diện rồi thì mình mới có cái quyền mà sai bảo mấy cái chùa khác được chứ, mấy ông thầy khác được chứ, kêu họ hội họp bảo họ làm cái này làm cái kia chứ. Đó là cái quyền hạn của mình có quan hệ, vậy mình thích cái đó cho nên mình xuất gia chứ thật sự không phải nhắm vào cái chỗ giải thoát xuất gia mà đó là cái chỗ danh lợi của mình. Cho nên cái tâm của mấy ông này nó không có thanh tịnh đâu, nó lăng xăng dữ lắm.

Những hạng người này thật đáng thương, thương xót họ không được cái thú vị của sinh hoạt thực tại tu hành, cũng không được sự lợi ích của Phật pháp. Nghĩa là họ cũng chẳng được Phật pháp gì họ chạy theo cái hình thức, họ mang cái hình thức tu sĩ đó chứ thực ra họ chạy theo cái danh lợi của dục lạc thế gian. Họ sẽ bị quả báo đời vị lai rất đáng sợ, do vì họ đối với tín ngưỡng Phật giáo có vấn đề, nghĩa là họ vô tín ngưỡng Phật giáo là họ đặt thành vấn đề rồi, vấn đề danh lợi của họ đó, cho nên họ phải đọa địa ngục đó. Mượn đạo tạo đời nên sinh hoạt xuất gia không được hoàn chỉnh và còn nhiều sự lầm lẫn, vì thế đây là một loại người xuất gia, xưa đức Phật thường quở trách, trong thời đại của chúng ta hạng tu sĩ này gần như là tám chín chục phần trăm.

Đó Thầy xác định như vậy thì quý thầy cứ thấy rất là rõ ràng, cái hạng người này là hạng người rất nhiều ở trong cái giai cấp mà tu sĩ của Phật giáo bây giờ. Xưa đức Phật quở trách mấy ông này là gì? Trong thời đức Phật không phải không có những loại tu sĩ này đâu, có chứ không phải không, cho nên mới có một cái bài kinh mà Phật quở mấy ông toàn là cư sĩ trọc, à ông Phật ông dùng cái danh từ là cư sĩ trọc, chứ không có thể nào mà nói tu sĩ được.

Đó thì Thầy nhắc lại để cho quý thầy thấy cái tính chất của cái giai đoạn thứ 2 này là nó không đúng cái tính chất của người xuất gia đâu.

Đây bây giờ đến giai đoạn của người...cái tính chất thứ ba bởi vì hồi nãy thầy có giới thiệu đó, có ba, về tính chất xuất gia thì phân chia làm 3 loại, bây giờ nó mới loại thứ 2 Thầy giải thích cho quý thầy nghe.

Bây giờ tới loại thứ 3, tâm xuất gia mà thân chẳng xuất gia,đây là bồ tát chứng vị thánh, đó bắt đầu đây mấy thầy thấy, Thầy mới đọc cái chỗ này để thấy bồ tát vị thánh. Tâm xuất gia mà thân thì chẳng xuất gia. Đây là bồ tát chứng thánh vị, các ngài không tham luyến ái của ngũ dục, vì hóa độ chúng sanh nên thường hóa hiện thân phận người tại gia có vợ có con như các ngài Duy Ma Cật, ngài Hiền Hộ, các ngài tuy ở tại gia có vợ con nhưng tâm các ngài không nhiễm, không đắm, không tham, không dục, thanh tịnh sáng suốt, không động. Nhưng đây không phải là pháp tắc thông thường của xuất gia nên chẳng thể thành phương thức sinh hoạt của xuất gia. Người cư sĩ họ đâu có thọ Sa Di thập giới như mình đâu, cho nên họ đâu có thành phép tắc xuất gia đâu, vì vậy mà mấy ông này đâu có thuộc về loại xuất gia, bởi vì họ có vợ con mà làm sao họ xuất gia, họ là cư sĩ mà, họ còn ở lộ trình thứ nhất cho nên họ chưa có thọ thập giới Sa Di, cho nên cái lộ trình thứ hai họ chưa có bước qua thế mà người ta gọi họ là những cái Bồ Tát chứng thánh vị, thì quý vị nghĩ sao này? Họ có vợ con mà bây giờ họ không có...

Thầy nói bây giờ đặt thành vấn đề một người đạt thành thánh vị rồi thì cái tâm dục nó không còn có, mà tâm dục không có thì họ ở với vợ họ được không? Các thầy cứ nghĩ đi, còn cái này ông ở ông có vợ, có con đẻ con ra thì tức là ông ấy có dục rồi chứ gì. Các thầy thấy không, trời đất ơi! mấy ông cư sĩ này là Duy Ma Cật có vợ có con nè, ông Hiền Hộ có vợ có con nè, chứ không phải nói ông có vợ thôi, thì thôi, ờ bây giờ mình kết nhau thôi chứ tôi không thể nào mà tôi dục được hết, thì tôi kết làm vợ chồng với bà tôi để tôi thể hiện tôi là Bồ Tát, tôi độ chúng sanh tôi dẫn dắt đi, còn đằng này đẻ con ra, mà đẻ con ra thì không dục làm sao đẻ, các thầy cứ nghĩ đi, như vậy là mấy ông này là như thế nào các thầy nghĩ xem họ đặt ra như vậy chứ có được không?

Đó, đó là những cái mà kinh Duy Ma Cật mà đã thấy được những cái vị mà gọi là thượng thủ mà tất cả các đại đệ tử của đức Phật trong thời bấy giờ ông Xá Lợi Phất cũng không dám đương đầu này. Các thầy cứ đọc kinh Duy Ma Cật biết thì các thầy thấy nó rất rõ phải không? Chỉ có ông Văn - Thù- Sư- Lợi bồ tát mới có thể đương đầu với ông ta, mới có thăm bệnh ông ta được, chứ còn không ai dám thăm bệnh ông ta được, thiệt là ba cái ông Đại thừa này thiệt, ông đưa ba cái ông dâm dục như vậy mà vô đây mà gọi là…. Dâm dục là con đường sanh tử, thế mà đem vô, gán vô trong đạo Phật gọi là thượng thủ thì Thầy thấy thiệt là quá tệ chứ không có thể nào nói được. Đặt kinh Duy Ma Cật ra để mà hạ cái Phật giáo xuống tận gốc đó chứ không phải thường đâu, bầy đặt ra cái pháp môn bất nhị.

Sáu mươi hai lập luận của ngoại đạo trong cái thời đó, cái pháp môn bất nhị vẫn có chứ không phải không, thế mà bây giờ người ta lại lấy, dẵm lên cái 62 lập luận của ngoại đạo để mà thành lập cái bộ kinh Duy Ma Cật để mà phá Phật giáo tận cùng. Coi như là các bậc đại đệ tử của đức Phật là cái người trí tuệ đệ nhất là ông Xá Lợi Phất mà đức Phật thường ca ngợi mà còn không dám đương đầu với ông Duy Ma Cật thì đủ biết rằng họ ca ngợi cái ông cư sĩ, cái ông cư sĩ mà có còn dục, đẻ con chứ chưa phải hết, trời ơi! Ông này trong kinh nói mà ông có vợ có con chứ không, nói có vợ không thì Thầy cũng nghĩ à ông ta có vợ mà không có con thì chắc là hai ông bà này chắc hỗng có gần nhau, còn đằng này đẻ con ra làm sao Thầy nói.. Trời đất ơi! Một cái người mà không có dục thì làm sao sanh ra được cái điều đó. Thầy nói bây giờ cái người...các con chưa có chứng tới chỗ đó đâu, mà chứng tới chỗ đó các con biết, cho nên đức Phật nói là, mã âm tàng của đức Phật như thế nào, nó không dục nó phải rút lại, còn cái người còn dục thì nó đâu có rút lại, Thầy nói thật đó các con, đừng có nghĩ cái chuyện đó, Thầy biết quá rõ mà, cái người còn dục thì nó đâu có phải cái chuyện đó, cho nên ông Anan ông mới lật y cho người ta xem coi của ông Phật ông như thế nào vì vậy mà ông Ca Diếp ông bắt tội đó.

Đó thì tất cả những cái câu chuyện nó lặt vặt như vậy nhưng mà chúng ta không nói ra thì chúng ta không hiểu được cái đạo Phật nó như thế nào, mà nó lầm lạc đủ cách mà người ta đặt như thế này thế khác. Đọc kinh sách Đại thừa chúng ta rất ngạc nhiên khi thấy cư sĩ Duy Ma Cật và ngài Hiền Hộ các ngài thể hiện là một cư sĩ tâm xuất gia mà thân không xuất gia chỗ này rất đặc biệt của kinh Đại thừa. Tâm thanh tịnh mà thân cứ hưởng dục lạc, thì làm sao? Tâm thanh tịnh cái tâm là cái chủ chốt tâm nó thanh tịnh rồi thì cái thân làm sao nó dục được, phải không? Các con thấy bây giờ Thầy nói trên cái vấn đề ăn thôi mà cái tâm của Thầy nó không có thèm ăn, nó thấy cái gì nó cũng không có muốn ăn thì bây giờ cái món ngon nào cái thân Thầy nó có thèm muốn ăn không, phải không, do cái tâm nó thèm cái thân nó mới lấy nó ăn mới biết ngon, còn cái thân cái tâm mà nó không thèm thì có bảo ngon nó nuốt cũng không có ngon, có phải không? Cái người mà người ta thèm ăn thì thấy người ta ăn ngon Ai thèm? Cái tâm chứ cái gì, chứ đâu phải cái thân, cho nên khi đó cái món đò mà nó thèm đó thì nó bỏ vô trời ơi! ngon quá, phải hông? Cũng như bây giờ chúng ta đói, cái thân nó đói thì cái tâm nó mới sinh ra nó thèm, phải hông, do đó nó mới có đòi hỏi. Còn cái này, ông này cái tâm ông sạch hết rồi mà cái thân ông ấy thì sống hưởng dục lạc, bởi vì thân cư sĩ mà còn dục lạc, mà rõ bằng chứng là có con, cho nên do đó chúng ta thấy cái dục lạc nó phải có.

Như vậy chúng ta có đáng tin không, nhìn thấy cái thân mà hưởng dục lạc như vậy chúng ta có đáng tin không? Cho nên cái kẽ hở của những người viết kinh này, làm cho kẽ hở chúng ta thấy. Bởi vì khi chúng ta tu chưa chứng thì chúng ta chúng ta chưa hiểu đâu, nhưng khi chứng rồi chúng ta biết, bởi vì cái ly dục ly bất thiện pháp nó có cái lạc của cái ly dục ly bất thiện pháp, nó đặc biệt lắm, nó làm cho chúng ta thấy được cái dục lạc của thế gian như thế nào rất rõ rồi, cho nên cái người nói sai như thế nào chúng ta biết, còn cái người chúng ta chưa có nếm được cái hỷ lạc của ly dục, ly bất thiện pháp thì chúng ta chưa có rõ. Cho nên nghe người ta nói sao mình tin vậy thôi chứ mình chưa biết, chứ khi ly nó rồi nó không còn có cái chuyện đó nữa đâu, mà nó không còn chuyện đó thì có ông trời làm sao ép nó được.

Thầy nói đó là một cái phải suy ngẫm cho nó... hai cái lộ trình nó rất rõ ràng, cái lộ trình của người cư sĩ còn dục lạc nó khác, mà cái lộ trình của người tu sĩ không còn dục lạc. Mà ở trong kinh đã nói rằng Duy Ma Cật đã chứng thánh vị, vì độ chúng sanh mới thể hiện cư sĩ, thể hiện cư sĩ kiểu nào chứ thể hiện cư sĩ mà kiểu trẻ con thì chắc chắn là Thầy hông tin rồi. Hay đây là một loại kinh phá giới bằng một cái lập luận bất nhị để phá toàn triệt giới luật của đạo Phật? Thầy đặt câu hỏi để cho quý thầy suy ngẫm coi có phải nó phá giới không? Bởi vì tâm nó thanh tịnh quá nó thành quả Phật rồi mà cái thân nó ở với vợ nó thì cái chuyện đó thì Thầy làm sao mà những cái kinh này không phải là kinh phá giới của Phật sao. Nó tự tại quá mà, nó vô ngại quá độ cho nên nó xách rượu xách cá nó đi tùm lum cũng được hết mà, nó thể hiện như là Tế Điên hòa thượng vậy đó mà, thành ra làm sao mà chúng ta không nghi ngờ cái Phật giáo được.

Thân thì dâm dục với vợ mà tâm thì thanh tịnh như thánh ai mà người ta tin nổi, phải hông dưới này quý vị có tin nổi không? Bây giờ quý vị nói bây giờ như Thầy bây giờ này, Thầy nói thầy tu như vậy như vậy Thầy làm chủ sanh tử mà thầy kè thêm một bà vợ nữa thì quý vị có tin nổi không, phải hông, ít ra nó cũng phải ly được cái gì mới tin được nó chứ, còn bây giờ đi trên con sông hoặc 2 người ngồi trên Honda mà chở nhau trời ơi! Ông thầy ông làm chủ sinh tử cái kiểu này chắc ông ấy tử luôn ấy chứ, phải hông, đâu có cái chuyện đó được đâu.

Thấy như vậy chúng ta đoán được chứ không phải chúng ta là người không có trí, bởi vậy Phật nói chỉ có con người có trí mới hiểu biết được điều này thôi còn cái người không trí thì không có hiểu đâu. Chúng ta là con người là phải có trí chứ, thấy biết cái đúng cái sai chứ, đâu lý nào đụng đâu cũng tin, đụng đâu cũng tin hết, mà kinh Duy Ma Cật biết là in biết bao nhiêu không? Thế mà người ta ngu, ngu đến mức độ nghe pháp môn bất nhị hay lắm nhưng mà đó là 62 cái lập luận của tà giáo ngoại đạo trong thời đức Phật chứ đâu phải hay ho gì, nếu mà cứ đem ra thì chúng ta kê ra chúng ta thấy rất rõ chứ đâu phải cái gì hay. Ngày xưa họ cũng có những triết lý của họ, họ cũng lập luận rất là tuyệt vời chứ đâu phải là đợi chúng ta bây giờ mới lập luận như vậy.

Xưa khi đức Phật còn tại thế có một vị Bà La Môn hỏi Phật, bạch Thế Tôn khi một người chứng quả giải thoát còn sống trong dục lạc nữa hay không? Đó, có người thắc mắc mà, ông nói ông giải thoát rồi vậy bây giờ ông sống trong dục lạc có được không hay là không có còn sống được ở trong đó nữa, đó thì cái Bà La Môn đó hỏi Phật như vậy. Đức Phật dạy: khi một người đã chứng quả giải thoát tâm bất động trước các pháp tức là tâm không còn bị tham dục tất cả các pháp thì làm sao sống dục lạc thế gian được. Đó đức Phật xác định như vậy mà, tâm mình nó hết dục rồi bây giờ mình làm sao mình dục được ở thế gian, tâm giờ nó hết thích ăn rồi mà bảo nó thích ngon thì làm sao thích được. Đó là những cái cụ thể và thực tế, rất là cụ thể rõ ràng chứ không như là cái kinh Duy Ma Cật nói cái kiểu đó thì như là trên trời rớt xuống, đây không biết là cái bậc nào đây, kỳ cục quá. Tâm thì giải thoát hoàn toàn không còn dục lạc mà cái thân thì ngủ với vợ, thì thử hỏi cái chuyện đó làm sao mà chúng ta tin nổi không? Đẻ con nữa chứ, không biết đẻ mấy con chứ phải 5-7 đứa chắc chúng ta cũng còn hoảng hồn nữa.

Thí dụ một vị đã sống chứng ngộ được lý bất tịnh của các pháp thì làm sao còn thích ăn, thích dâm dục được mà tâm đã thanh tịnh không móng khởi dâm dục thì làm sao có dâm dục được, thế mà các vị này có vợ sanh con được, đây là lấy vải thưa che mắt thánh. Kinh đại thừa như vậy, một người trí không thế nào tin nổi các loại kinh sách này chỉ là người ngu mới tin mà thôi. Cho nên các loại kinh không thiết thực cụ thể, nghĩa là kinh mà dạy mà không thiết thực cụ thể cho cái đời sống giải thoát của chúng ta như vậy, mơ hồ như vậy thì chúng ta chẳng có nên tin mà xem nó như là những cái cuốn sách tiểu thuyết đọc chơi cho vui vậy thôi, giải trí thôi chứ đó không phải những cái pháp môn mà chúng ta tu đâu. Chỉ có những người vô minh, ngu si không thấy không hiểu mới tin mà thôi. Xét cho cùng trong cái cuộc đời tu hành của chúng ta, về cái đời sau khi đức Phật nhập diệt thì kinh sách và luật thì người ta đã viết rất nhiều, và viết rất nhiều để làm gì, để phá toàn bộ cái giới luật của đạo Phật, để làm gì, để cho người ta chạy theo những cái dục lạc thế gian mà không bị phạm phải cái lỗi. Thì cái hình thức của kinh này nó cũng là vấn đề đó, để viện cớ cho những tu sĩ của chúng ta lấy cái cớ của ông Duy Ma Cật đó mà chúng ta coi như là tổ chức phái tân tăng có một vợ một con cũng đều là những vị tu sĩ được hết, đó là cái hình thức mà chúng ta đã thấy người ta hô hào phái tân tăng thế này thế khác đó.

Những hình ảnh của đạo Phật bây giờ tu sĩ hầu hết là tâm xuất gia mà thân thì chẳng xuất gia, nghĩa là cái thân của họ bây giờ họ sống họ không có xuất gia, mà cái tâm của họ thì họ nói họ thanh tịnh họ xuất gia, đó là cái phần mà chúng ta thấy cái hiện tướng của nó, nó rõ ràng như vậy. Chứ không phải là cái tâm xuất gia thật của họ đâu, mà đây là cái tâm xuất gia giả của họ cho nên cái thân của họ nó rong chơi nó chạy theo dục lạc nó chơi, chơi tạm chơi đỡ đó chứ nó không có chơi thiệt đâu, nhưng mà để chừng nào cái tâm họ thanh tịnh thật thì nó mới lôi cái thân họ trở về được, còn bây giờ nó chưa thanh tịnh thật thì nó để cái thân nó chạy rong ở ngoài đường chơi chút xíu thôi, quý thầy cũng đừng có lấy đó mà quở trách nó tội nghiệp. Đó thì quý thầy thấy cái vấn đề mà chúng ta như vậy đó thì chúng ta cũng không lấy đó mà chê cười họ, để chờ cho cái tâm họ thanh tịnh thì nó cũng lôi cái thân họ trở về được cái chánh pháp của đạo Phật. Chứ mình cười chê họ nhiều quá rồi họ nhột họ cũng không có tu được rồi cũng thành tội họ, để cho họ tu được ngày nào họ thắp hương Phật được ngày nào cũng là có cái lợi ích chứ  không phải là không lợi ích.

Do những cái điều kiện mà họ tu tập như vậy đó thì họ phải có những sự lừa gạt của thế gian, lừa gạt những cái người khác, cho nên cái sự lừa gạt của họ bằng cách nào? Thì các thầy cũng sẽ thấy rằng họ lừa gạt thì họ nói đó là những cái hành động của họ phải nhập vào thế gian mới độ chúng sanh được, làm những hành động đó mới độ được, chứ còn nếu mình không làm hành động đó làm sao độ được. Cho nên thí dụ như ông Duy Ma Cật ông có vợ con, thì coi như là tôi phải nhập thế gian, thân tôi nhập thế gian chứ tâm tôi là thánh vị rồi, do tôi nhập thế gian tôi mới biết cái ngũ dục lạc nó cỡ mức độ nào tôi mới biết mấy ông, tôi mới lôi mấy ông ra, chứ còn tôi mà không có nhập vô đó thì làm sao tôi biết cái khoái lạc nó như thế nào, rồi tôi làm sao tôi lôi mấy ông ra được, tôi phải biết cái cấp độ khoái lạc đó là dục lạc nó như thế nào rồi, mà bây giờ tôi thánh vị thì tôi đâu có biết được cho nên bây giờ tôi phải nhập xuống tôi làm cư sĩ để tôi hiểu được cái đó rồi, ờ tôi biết cái cấp độ đó là cái cấp độ khổ hay là nó khoái lạc như thế nào tôi mới lôi mấy ông ra, ờ bây giờ cái cấp độ mà giải thoát ly dục nó hơn cái đó nhiều cho nên mấy ông phải bỏ cái khoái lạc của dục lạc đó đi mà theo tôi đi. Thì đó là cái lối lý luận của cái kiểu mà nhập thế gian để độ chúng sanh. Cũng như có người nói tôi có vô lầu xanh, tôi làm lầu xanh thì mới độ mấy bà lầu xanh được, có nhiều người nói tôi uống rượu thì tôi mới dẫn dắt mấy ông kia khỏi uống rượu, tôi có nhập vô tôi mới làm bợm rượu với mấy ổng, tôi mới nói chuyện mấy ông ấy nghe chứ còn tôi không có làm bợm rượu thì tôi làm sao mà tôi nói chuyện mấy ông đó nghe. Đó là những cái lý luận của những cái người mà nghiện rượu mà lại nói là mình độ chúng sanh đó.

Pháp thế gian, nghĩa là luôn luôn lúc nào cũng phải nhập thế gian chứ, đâu có lý nào mà rời thế gian mà độ chúng sanh được, cho nên Phật pháp thì bất ly thế gian, họ nói vậy đó thì quý thầy thấy cái kiểu họ nói đó là những cái lấy màn thưa, cái vải thưa mà che mắt thánh.

Khi chưa tu thành đạo đức Phật còn là một phàm phu thì có vợ sinh con giống như mọi người khác. Nghĩa là chúng ta thấy rất rõ mà, khi đức Phật mà chưa có tu hành thì ông có vợ này, rồi ông sinh con này thì ông phải có dâm dục, phải hông? Vậy mà dám nói ông là bồ tát phổ minh ở đâu trên trời đâu suất, thì như vậy ông là bồ tát thì ông còn dâm dục nữa không mà ông xuống ông đẻ đứa con, bằng chứng là có La Hầu La, có phải hông? Như vậy là người ta huyền thoại ông này một cách sai lệch, cho nên ông Duy Ma Cật cũng là bồ tát chứ gì, cho nên ông cũng đẻ con được, và ông Phật cũng là bồ tát ở trên cõi trời đâu suất tức là bồ tát phổ minh chứ gì? Ông lưu xuất, ổng đầu thai xuống cho nên giờ ông cũng đẻ con được, thì như vậy là hai ông cũng giống nhau cho nên có ai dám nói ông Phật đâu, lấy ông Phật làm cái nề đó. Nhưng mà không ngờ ông Phật lúc bấy giờ ông tu chưa có chứng, phải hông, ông còn phàm phu, chứ lúc ông chứng rồi ông đâu có làm chuyện bậy bạ đó, còn cái ông Duy Ma Cật ông đang là người thánh vị rồi, phải hông, chúng ta thấy rõ ràng phải hông? Do vì vậy đó mà ở đây Thầy mới nêu cái hạnh của Phật để không khéo người ta cũng lấy “ông Phật cũng có vợ con thì ông Duy Ma Cật cũng có vợ con” thì tức là hai ông này cũng thánh hết chứ gì, mà tại sao Thầy lại chê ông Duy Ma Cật mà Thầy không nói ông Phật. Thầy dám nói ông Phật luôn, ông Phật tại vì lúc bấy giờ ông tu chưa chứng. Sáu năm khổ hạnh dưới cội bồ đề mới chứng đạo, phải hông? Thì lúc bấy giờ đó,  ông mới bỏ vợ bỏ con ông mới làm được chuyện đó cho nên ông mới ly được dục, ly tất cả những ác pháp, cho nên ông mới thành tựu được, mới là có cái đạo Phật, chứ đâu phải ông là bồ tát ông ấy ly được rồi sao? Cho nên vì vậy đó, mà ở đây ông Duy Ma Cật là những cái bậc thánh không có thể nào mà có những hàng đại đệ tử mà ly dục đến nói chuyện với ông ấy được, mà trong lúc đó ông còn dục, thì thử hỏi nếu mà bây giờ có ông Xá Lợi Phất trong cái thời đức Phật mà còn là phàm phu thì ông Xá Lợi Phất có phải là thầy của ông Phật lúc bấy giờ không? Phải không, các thầy thấy ông Xá Lợi Phất hiện bây giờ tất cả cái giáo lý của Phật đều là ông thông suốt hết, mà nếu mà có mà ông Xá Lợi Phất mà khi mà ông Phật chưa tu thì ông Xá Lợi Phất phải là thầy ông Phật, còn đằng này ông Phật tu chứng rồi mới độ ông Xá Lợi Phất. Thì cho nên ông Xá Lợi Phất chỉ đệ nhất về trí tuệ, về pháp thì lúc bấy giờ đức Phật chứng minh cho ông là đệ nhất trí tuệ là vì ông Phật truyền dạy cái pháp cho ông Xá Lợi Phất tu giải thoát ly được dục, ly ác pháp, phải hông? Mà ông Phật thì phải 6 năm khổ hạnh rồi thực hiện dưới cội bồ đề 49 ngày mới ly tất cả các dục lạc thế gian được. Vậy bây giờ các thầy có thấy khi mà ông Phật đã thực hiện được rồi thì vợ ông còn đó, vợ con ông còn đó, tại sao ông không về ông đẻ đứa nữa? Phải hông, nếu mà đẻ đứa nữa thì nói ông đó là ông Duy Ma Cật thì thầy đồng ý, còn đằng này ông Phật ông không làm cái chuyện đó nữa thì Thầy thấy đó nó hết dục rồi thì làm sao người ta đẻ được đứa con nữa thì đâu có cái La Hầu La thứ hai nữa được, phải hông? Chỉ có một La Hầu La thôi chứ đâu có còn La Hầu La thứ hai được.

Đó là bằng chứng hiển nhiên để chúng ta thấy rằng cái kinh Đại thừa nó là một cái phá đạo hết chỗ nói không có thể nào mà chúng ta tin tưởng được nó hết. Thầy nói là Thầy nói, dù là Thầy có đọa địa ngục cách gì Thầy vẫn cứ nói không sợ thằng nào hết, nghĩa là bây giờ Thầy làm chủ được cái sống chết của Thầy rồi, Thầy muốn chết hồi nào Thầy chết thì bây giờ cái thân của Thầy giờ nó làm sao nó hành hạ Thầy được nữa, cho nên Thầy có nói thì địa ngục cũng không tới với Thầy được, phải không? Còn cái người nào mà chưa có làm chủ được mà nói bậy như vậy là coi chừng đó, cái Thân nó nằm sình trương hết đó, đó là cái địa ngục thế gian cho mà biết. Còn bây giờ đối với Thầy, Thầy đâu có ngán cái địa ngục nữa đâu, Thầy coi cái địa ngục cũng như là thiên đàng của Thầy rồi cho nên Thầy đâu có sợ, tên nào nói bậy là Thầy đập đầu nó xuống hết chứ mấy ông đừng có nói.

BĂNG SỐ 29

dễ với Thầy đâu. Đó, hôm nay lời Thầy nói còn ở trong băng, nó không bao giờ mất đâu, Thầy không sợ đâu. Ngàn đời nó cũng vẫn còn! Nếu mà các con mà giữ được một triệu năm nó vẫn còn tiếng nói Thầy, nếu mà giữ không được thì thời gian thì thời gian nó xóa mất thôi. Thì cái đó là cái lời dạy đúng đắn của Thầy, Thầy hổng sợ ai hết. Thế mà, ở đây ông Duy Ma Cật, ông Hiền Hộ, lại là dâm dục với vợ, sinh con mà được gọi là Bồ Tát chứng thánh vị. Bồ Tát này thuộc về loại Bồ Tát giả hiệu, tất cả hàng đại đệ tử của Đức Phật trong thời bấy giờ đều sợ ông ta hết, không ai dám đến đương đầu với ông ta, chỉ có Đại Trí Văn Thù tưởng tượng của kinh Đại Thừa, mới dám đương đầu với ông Duy Ma Cật. Kẻ ngoại đạo dám cả gan viết kinh này hạ bệ Phật Giáo tận gốc. Nếu đời sau này, không có người chứng nghiệm lời dạy của Đức Phật, thì ai là người mà dựng lại giáo lý và chấn hưng Đạo Phật. Biết bao nhiêu kinh sách phá hoại Phật Pháp, che mờ... Những loại kinh này làm sao họ hiểu đâu là kinh của Phật thật, đâu là kinh giả của Phật? Đó, những cái loại kinh này cũng đều là nói kinh Phật hết à, cũng do Phật thuyết hết à. Do đó mà những cái kinh như vậy làm sao mà cái người đời sau, mà chúng ta làm sao hiểu đâu là kinh của Phật thật, đâu là của Phật giả.

Đó, thì chúng ta thấy những cái khó khăn cho cái cuộc đời mà tu hành của cái người sau này, rất là khó là những cái kinh mà phá giới, phá luật như vậy nó nhan nhản ở trong kinh sách rất nhiều.

Giới luật mà đặt ra để mà phá giới nữa, nó rất nhiều ở trong cái kinh sách Đạo Phật hiện giờ, thì làm sao người sau mà chúng ta biết ở đâu? Nếu mà không có một người chứng nghiệm được con đường của Đạo Phật thì ai mà vạch cái lối này ra cho quý vị, ai đã làm sao cho người sau này người ta thấy được. Nếu mà không có người thực hiện được cái giải thoát đúng là như lời Phật đã dạy thì làm sao mà biết được cái tà, cái chánh của Đạo Phật ở trong cái số đống kinh như thế này, một đống kinh như rừng như núi vậy đó. Các tạng kinh của Đạo Phật bây giờ nó quá vĩ đại, có thể nói rằng nếu một người mà đọc nó, có thể nói rằng nghiên cứu mà cho kỹ đó, thì suốt đời của chúng ta cũng chưa đọc hết nó nữa, chứ chưa nói nữa. Do vì vậy, mà nó là cái quá khó chứ không phải cái dễ. Nếu một bậc mà không có thực hiện được cái đạo giải thoát mà chính của Đạo Phật rồi, không có giữ gìn giới luật của Phật nghiêm túc á, thì không có thể nào mà đi đến cái chỗ giải thoát được. Bởi vì ba cái luật, ba cái kinh này nó là kinh phá giới làm sao cho cái người mà tu giữ gìn giới luật được.Hễ đụng tới đâu thì thấy ờ cái đó nó cũng vậy, nó đâu có phạm đâu. Do đó cái giới luật không thanh tịnh, mà giới luật không thanh tịnh thì làm sao ly dục, ly bất thiện pháp, mà đạt được cái thiền định của Đạo Phật, mà không đạt được thiền định của Đạo Phật thì làm sao có một cái trí tuệ mà thấy cái kinh nào đúng kinh nào sai. Cho nên khi mà đạt được cái thiền định của Đạo Phật đó thì nó mới lưu xuất ra được cái trí tuệ. Từ cái trí tuệ đó nó mới phán đoán được cái sai cái đúng ở trong kinh điển của Đạo Phật, mới vạch ra. Mà cái hạng người đó thì đâu phải là dễ dàng ở trong một cái thời đại nào mà có thể mà lưu xuất cái hạng người đó, dễ lắm sao? Đâu phải tìm được những cái bậc đó đâu, may ra mới có được 1 vị, 2 vị Độc Giác nào đó mà người ta giữ gìn giới hạnh cho nghiêm túc, từ đó người ta mới thấy được cái sai của Đạo Phật bây giờ, người ta mới vạch ra được, chứ còn không khéo thì ngàn đời chúng ta cũng mù mờ ở trong cái đống kinh này, biết cái nào đúng cái nào sai. Cho nên rất là khổ tâm đối với Phật pháp bây giờ, cái người mà đứng ra dựng không phải là một cái chuyện dễ.

Họ hiểu biết Phật Giáo và cố ý phá hoại Phật Pháp. Nghĩa là, phải nói rằng cái người mà họ hiểu Phật Pháp đó, thì chắc chắn phải nói rằng... những cái người mà viết ra kinh này đó, họ chưa có hiểu Phật Pháp nữa. Bởi vì họ chưa có thực hiện được cái giới hạnh nghiêm túc cho nên họ chưa có hiểu được Phật Pháp. Do không hiểu đó chứ không phải là họ cố ý phá Phật Pháp, mà vì không hiểu họ mới viết ra cái kiểu hiểu của họ, cho nên từ đó họ phá Phật Pháp mà họ không biết họ phá Phật Pháp.

Phải nói rằng các Tổ của chúng ta, do không hiểu Phật Pháp cho nên viết ra kinh để mà sống theo cái lợi dưỡng của dục lạc của thế gian, làm giảm bớt cái giá trị của cái pháp ly dục, ly bất thiện pháp của Đạo Phật đó. Để cho giới luật mới của họ nó nhẹ bớt đi, làm cho giảm cái sự ly bớt đi để cho họ sống nó thoải mái một chút, để cho cái hình thức tu hành của họ nó dễ dãi hơn một chút. Bởi vì họ không biết cái giới hành, cho nên họ muốn cho đời sống họ được vững vàng ở trong cái chiếc áo tu sĩ cho nên họ giảm bớt cái giới luật đi, mà càng giảm bớt cái giới luật đó, thì họ chẳng bao giờ đạt được cái quả giải thoát của Đạo Phật. Từ đó họ mới nghĩ ra cái này cái khác họ viết ra, vô tình mà họ phá hoại Phật Pháp chứ không phải là họ cố ý phá hoại Phật Pháp.

Đó là cái sự luận cứ vào cái sự hiểu biết của Thầy không ai mà có thể mà có ý đồ mà phá Phật Pháp, nhưng vì không hiểu rồi chúng ta phá Phật Pháp. Cũng như bây giờ quý thầy đang giảng thuyết, quý thầy đâu có hiểu là quý thầy đang phá Phật Pháp? Bây giờ các giảng sư hiện bây giờ họ đang ở trong các trường cao cấp hoặc là trong các trường cơ bản họ đang giảng những cái bài Pháp kinh của Phật. Họ nghĩ rằng họ giảng cái đó là giảng đúng ý của Phật nhưng họ đâu có hiểu rằng đó họ chưa có thực hiện tu tập giải thoát, cho nên những cái điều mà họ giảng ra đó là họ phỉ báng Phật Pháp. Họ đâu có hiểu, bởi vì chính không hiểu đó họ mới giảng như vậy, chứ còn họ hiểu thì họ đâu có giảng như vậy.

Vì vậy cho nên cái hành động sống của họ nó không nghiêm túc ở trong giới luật và lời giảng của họ nó không đúng cái giáo lý của đức Phật. Cho nên họ vô tình chứ không phải họ hữu ý họ phá hoại Phật Pháp. Vì vậy họ cũng muốn xương minh, họ cũng muốn làm cho Phật Pháp sáng tỏ lên với cái sự hiểu biết của họ, nhưng lầm lạc họ đã phá hủy Phật Pháp.

Chúng ta hiểu được như vậy chúng ta mới thấy cái tội, là cái tội do cái sự vô minh của cái người chứ không phải là cái ý đồ của cái người đó hay hoặc là họ là những cái tu sĩ của ngoại đạo đến đây để phá Phật Pháp. Họ không phải, họ là những tu sĩ Phật Giáo chứ không phải là tu sĩ ngoại đạo, họ muốn xương minh, họ muốn dựng lại Phật Pháp nhưng vì không hiểu mà họ dựng sai, thành ra thay vì cất cái nhà của Phật Giáo ở trên cái đám đất nó khô ráo, nó không có sình lầy, trái lại họ đặt cái nền móng của Phật Giáo ở dười cái đám sình lầy, cho nên cái nhà Phật Giáo nó không có vững vàng, nó sẽ sụp đổ một cái ngày nào họ không hay biết.

Bởi vì cái thời đại con người nó càng có cái sự thông minh, và nó còn có cái sự phát triển về cái vấn đề cuộc sống của họ mà càng đi lên mà họ thấy cái Đạo Phật mà như thế này đó, thì một ngày nào đó không còn ai đến với Đạo Phật, thì Đạo Phật sẽ bị diệt hoàn toàn không còn có một cái hình ảnh nào là của một cái vị tu sĩ nữa. Đời cha tôi tu hành cũng đi tụng niệm, bây giờ tôi chưa có thèm đi làm cái cái chuyện đó đâu, tôi thà tôi đi cấy đi cày tôi ăn còn sướng hơn. Đó thì như vậy rõ ràng là vấn đề đó, bây giờ tất cả những cái chuyện mà làm cái danh lợi của mấy ông bây giờ, ở trong bây giờ các chùa thì mấy ông còn làm cái chuyện đó, kiếm ăn đều được, kinh doanh đều được, nhưng mà sau này khoa học đến những cái việc làm của người ta, người ta tạo ra cái thực phẩm người ta sống nó dễ dàng hơn, nó thoải mái hơn, hơn là mấy ông thầy chùa bây giờ kinh doanh, thì bắt đầu mấy ông thầy chùa đó: tôi kinh doanh kiểu này cũng thua mấy thằng cha ở ngoài đó nó làm khoa học nó còn ngon hơn mình, phải hông? Cho nên từ đó nó hổng ở trong chùa kinh doanh nữa, cho nên ai mà thèm vô chùa tu nữa, rốt cuộc cái chùa để chúng ta chơi thôi, đó. Trời! mấy cái chùa này nó làm vậy vậy đó, người ta đến người ta thấy mấy cái chùa người ta chỉ Phật Giáo là vậy vậy chứ không có gì hết. Đó thì càng lúc xã hội sẽ đi lên, thì con người sẽ đưa những tôn giáo mà sai lệch đó nó đi vào bóng tối hết, nó không còn có nữa, nếu mà không có sự dừng lại cho đúng đắn để xây dựng một cái đạo đức con người mà nhân quả như thế này á thì chắc chắn Phật Giáo sẽ đi vào bóng tối.

Trải qua hơn hai mươi mấy thế kỷ những loại kinh sách phát triển này đã làm thay đổi bộ mặt thật của Phật Giáo, thành một bộ mặt Phật Giáo mới. Tâm xuất gia mà thân chẳng xuất gia, vì thế trong các chùa hiện giờ ngũ dục lạc đầy đủ còn hơn người thế tục, hưởng dục lạc bằng mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Đó thì bắt đầu quý thầy thấy, hiện giờ cái chùa của Phật Giáo bây giờ rất là đầy đủ, cũng như là những cái người nhà giàu vậy đó, xe hơi có này, cái gì cũng có, tất cả những cái vật dụng của thế gian mà tiện nghi nhất thì trong chùa chúng ta đủ hết, tủ lạnh rồi cái gì cũng có hết à, tất cả những cái mà vật dụng của người thế gian như nào thì cái vật dụng ở trong chùa cũng như thế nấy. Họ sinh hoạt cái đời sống họ ăn uống ngủ nghỉ cũng giống như cái  đời sống của thế gian, nó chỉ khác có cái là họ tụng niệm rồi họ đi giảng dạy về Giáo Pháp của kinh sách mà thôi. Đó là chúng ta thấy trong những cái vấn đề đó nó cụ thể và rất là rõ ràng.

Giảng đến đây, thì Thầy còn nhớ lại một cái chỗ này nữa, giảng đến đây Thầy nhớ lại một bộ kinh tưởng của Đại Thừa rất lớn, đó là kinh Pháp Hoa, gọi tắt nó là kinh Pháp Hoa, mà cái tên của nó thì nó cũng có dài lắm, cho nên cái tên của nó gọi là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Kinh này hiện Phật tử tại gia cũng như tu sĩ đều lấy đó làm kinh nhật tụng hàng ngày của mình, nghĩa là lấy đó mà làm cái sự nghiệp tụng tu tập của mình. Cho nên nghe đến kinh này thì hầu hết là người nào, người cư sĩ họ cũng chổng khu, chổng gọng mà tụng để may ra được cứu khổ hoặc là thế này thế khác. Các cư sĩ  thì tụng kinh này á thì nghe nó là tung kinh nó mát mẻ lắm, sẽ thành Phật giải thoát sau này đó, do đó thì ai cũng thích tụng nó hết.

Đọc phẩm Phổ Môn, Thầy rất là buồn cười, nghĩa là đọc ngay cái phẩm Phổ môn đó là Thầy thấy là nó có cái gì đó nó làm cho nó sai lệch của Đạo Phật. Người viết kinh này chẳng hiểu Phật Giáo, nghĩa là cái người mà soạn ra bộ kinh này phải nói là họ không hiểu Phật Giáo. Vì như Thầy đã nói, Phật Gíao đó, cái giáo lý của Đạo Phật nó xây dựng trên nền tảng của nhân quả, còn cái bộ kinh này nó lại là xây dựng trên cái phi nhân quả. Tại sao là phi nhân quả, vì ở trong cái bộ kinh Phổ Môn đó, là nói rằng chúng ta mà có gặp tai nạn gì đó hoặc là có gặp cái bị tù tội, hoặc là bị rắn độc hoặc là bị thuốc độc gì đó thì cứ niệm bỉ Quán Âm lực, tức là niệm đức Quan Thế Âm đó thì cái lực của đức Quan Thế Âm sẽ cứu mình thoát khổ. Như vậy là đặt thành 1 cái vấn đề là bây giờ có 1 người ăn trộm ăn cắp đi, rồi cũng bị bắt ở tù đi, nó cũng..bao giờ thằng ăn trộm, ăn cắp nó muốn ở tù đâu, cho nên nó niệm Quan Thế Âm đi, thì đức Phật Quan Thế Âm hộ trì cho nó thoát ra khỏi tù, nó khoái quá có ông này phù hộ mình ăn cắp cho dữ tợn hơn nữa. Phải không? Thì như vậy cái kinh này nó thuộc về loại cái kinh phi Phật Pháp, phi nhân quả rồi, phi cái đạo đức nhân quả rồi làm sao gọi là kinh điển của Đạo Phật được.

Nội trong cái phẩm Phổ Môn là chúng ta đã thấy nó là không phải là kinh của Đạo Phật rồi. Mà bây giờ có người luận là như thế này, nếu mà chúng ta làm cái điều lành đó thì đức Bồ Tát Quan Âm mới phù hộ, mà làm cái điều ác á thì đức Quan Âm đâu có phù hộ, thì cái đó lại luận sai nữa rồi, nếu mà kinh mà viết như vậy thì thôi nói nhân quả thì hơn, nói với kinh này làm gì. Thì bây giờ chúng ta làm lành chúng ta không ăn trộm, ăn cắp ai bắt bỏ tù, còn mình ăn trộm, ăn cắp chúng bắt bỏ tù thì mới có cầu khẩn. Chứ còn nếu mà  không làm cái chuyện ác thì làm sao có chuyện tội lỗi đó, mà có chuyện mà quả khổ đó mà cầu, phải không? Nếu là làm thiện hết thì có ai có khổ đâu, thì có còn cầu ai nữa đâu, thì như vậy là kinh này chỉ là người lý luận thế này người lý luận thế khác, cái miệng của họ thì lý luận như vậy nhưng mà lý luận rốt cuộc rồi sai thì chúng ta đứng trên nhân quả là hơn. Nếu mà tâm chúng ta làm tốt thì cần gì phải cầu Quan Âm, còn nếu mà chúng ta làm xấu thì chúng ta mới cầu Quan Âm chứ, mà Quan Âm phù hộ kiểu đó thì cái xã hội, hành tinh này nó ra sao? Có phải là rối trật tự không, cái thằng ăn trộm ăn cắp giết người này, cái thằng buôn thuốc phiện lậu mà nó đi qua mặt được hải quan thì cả mà bao nhiêu cái con người chúng ta nghiền thuốc phiện riết rồi cũng chết hết còn gì, phải hông?

Vì vậy, cái kinh này thiệt là kinh của Đại Thừa thật chứ không phải là kinh giả đâu, chỉ có Đại Thừa mới dám làm chuyện này chứ. Bởi vì Đại Thừa nó lớn cho nên nó mới dám làm cái như vậy, chứ nhỏ nhỏ nó đâu có dám làm chuyện đó. Nghĩa là cái người hung ác mà nó thả được, nó ban bố cho cái người đó được thì như vậy nó như thế nào? Thì các thầy thấy quá rõ ràng à, vậy mà cái kinh này là hầu hết các Phật tử chúng ta đều tin tưởng hết. Bây giờ kinh này nó bán thiếu gì, nghĩa là muốn hồi nào cũng có hết. Bởi vì cái kinh rất là phổ thông, mà tưởng ra rất hay, nghĩa là Phật tánh cũng tuyệt diệu. Các thầy cứ nghe Người Cùng Tử không, phải hay không? Mà nó Ví dụ cái nhà lửa cũng tuyệt vời, chỗ nào nó ví dụ những cái bài, cái phẩm kinh nào Thầy thấy nó cũng hay, bởi vì nó thuộc kinh tưởng mà, nó tưởng ra nó rất tuyệt lắm, rất hay làm cho ai cũng đọc kinh thấy tuyệt diệu. Cho đến cái phẩm Phổ Môn thì các thầy thấy sao? Đâu đâu cái chùa nào cũng thờ Đức Quan Âm hết, để mà cho ngài ngự trị chỗ nào là  phù hộ cho mình tai qua nạn khỏi chứ gì, đâu đâu cũng có.

Đó thì quý thầy thấy đó, tất cả những cái này nếu mà Thầy không vạch ra thì ai mà dám vạch, thì không có người nào mà dám vạch cái này hết, chỉ có Thầy cả gan dám vạch ra, ai làm gì làm. Thầy chết ở trong Phật Pháp chứ Thầy không chết mà để Phật Pháp suy đồi. Nghĩa là Thầy đem cái thân mạng của Thầy mà để chấn hưng lại Phật Pháp, Thầy thà chết ở trong giáo pháp của Phật, làm sao cho Phật Pháp phải đúng của nó, chứ không thể mà đem những thứ cái thứ này mà, tạp nhạp này mà gọi là của Phật được. Cho nên các thầy nghe, các tổ đều là nghe Đức Phật giảng ở trên núi Linh Thứu Kinh Pháp Hoa chứ gì? Phải không? Các con nghe thử coi có không? Luôn luôn lúc nào mà các tổ cũng...người nào mà tu thiền kha khá được thì xuất hồn lên trên đó, trên trời Đâu Suất để mà nghe Đức Phật Thích Ca đang thuyết pháp Kinh Pháp Hoa rền cũng như sấm vậy đó. Mà Kinh Pháp Hoa là kinh vậy đó, kinh để độ người bằng cách như vậy đó. Thì chúng ta thấy đau lòng lắm thay, nhìn Phật Pháp chúng ta thấy những cái chơn pháp của Phật, cái thiện pháp của Phật, cái đạo đức nhân quả của đạo Phật nó dìm xuống tận dưới bùn rồi nó không còn có cái gì mà có thể gọi là được hết cho nên rất là đau lòng

Phật Pháp rất là vi diệu, làm cho từ cái người cư sĩ cuộc sống rất là an hòa, rất là hạnh phúc, giải thoát rất thực tế, bởi vì cái hành động thiện của họ là họ đem đến cái hạnh phúc của họ. Vì nhân quả mà, cái luật nhân quả nó công bằng vô cùng, không có một đấng tạo hóa nào mà có thể ban phước cho chúng ta được mà cũng không ai làm một con quỷ, con ma gì mà làm hại chúng ta được hết, không có giết chúng ta được hết. Luật nhân quả là cái luật công bằng nhất của con người. Từ cái nhân quả chúng ta sinh ra rồi chúng ta cũng trở về nhân quả thì có ai hơn là cái nhân quả.Do đó đạo Phật dạy chúng ta chấm dứt nhân quả là chấm dứt sinh tử luân hồi, chứ đâu phải là cái gì khác hơn hết. Thế mà người ta không hiểu được nhân quả, người ta lập luận theo cái kiểu đó thì thử hỏi có phải đưa đạo Phật đi vào mê tín không? Cầu khẩn, làm ác mà cầu khẩn thì cái kẻ mà làm ác nó lại càng bành trướng rộng ra, càng đông ra nữa. Thì cái xã hội này còn cái gì. Có ai mà muốn sung sướng được, có ai mà muốn mà không ngồi không mà hưởng, ai cũng muốn ngồi không hưởng hết. Vì vậy mới chà đạp lên nhau, chứ còn ai cũng thấy bổn phận mình phải làm những cái hành động tốt thì mình mới thọ hưởng, còn mình không làm thì mình không thọ hưởng. Đằng này, mình tu hành mình cũng muốn ngồi trên mồ hôi nước mắt của người ta mình ăn thì như vậy mình tu cái gì? Mình phải hiểu được cái chỗ tu hành của mình chứ? Nói cho hết cùng, để rồi chúng ta thấy cái giáo án nó thành lập cho đúng cái người xuất gia.

Tâm xuất gia mà thân chẳng xuất gia, đó, thì quý thầy thấy rằng cái tâm mà xuất gia mà cái thân chẳng xuất gia là cái thân mà chúng ta đang ở trong cái hình ảnh của ông Duy Ma Cật là cái tâm mà chúng ta giải thoát đó mà cái thân chúng ta chẳng xuất gia thì nó đúng hay là sai? Nghĩa là chúng ta phải chọn lấy thân, tâm phải xuất gia chứ mà nói 1 cái chỗ nào cũng không được hết. Nghĩa là nói thân mà xuất gia mà tâm không xuất gia cũng không đúng. Mà nói tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì cũng không đúng. Nghĩa là ba cái điều mà Thầy đã nêu lên đó, thì chỉ có điều thứ nhất là đúng thôi. Còn hai điều còn lại đều là sai hết. Người nào đi vào cái quỹ đạo đó đều là trật hết, không có đúng với người xuất gia.

Đến đây Thầy xin chấm dứt rồi ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục nữa...

***

Bây giờ bắt đầu cái giáo án mà chúng ta học đó.

Thầy xin nêu lên những cái gương hạnh để nó làm sáng tỏ cái giáo án của chúng ta.

Ngày hôm qua, chúng ta đã đập phá cái sai của các tổ, của các kinh sách, cho nên bây giờ chúng ta phải thuật lại những cái gương hạnh của các bậc Thánh tăng người ta tu cái nào đúng, tu cái nào sai. Cho nên ở đây hôm nay Thầy nêu lên hai cái vị, những cái bậc Thánh tăng ở bên nữ do để chúng ta biết rằng cái thứ nhất là để chỉnh đốn lại cái pháp hành của chúng ta. Cách thức mà Thầy dạy quý thầy đó, là tu tập cái định vô lậu, nhiều khi quý thầy chỉ đặt đơn giản 1 cái câu trạch pháp ra như thế này: “thân thì vô thường, khổ, vô ngã” rồi cứ ngồi đó mà cứ  đọc nhẩm cái đó, thì nó không đúng đâu. Thì các thầy sẽ thấy một cái vị Thánh ni mà người ta đã đặt ra một cái pháp trạch để người ta quán từ cái tóc tai của người ta cho đến khi mà người ta toàn triệt được cái lý vô thường, lý khổ của nó người ta phá được cái vô lậu của cái tâm người ta. Người ta diệt sạch ba cái ngũ triền cái, cho nên người ta chứng quả Alahan liền. Đó là những cái gương hạnh mà người ta rất là tỉ mỉ đi từng chút để người ta đi vào. Qua những bài kệ của cái vị Thánh ni này đã để lại cho chúng ta biết là cách thức mà hành trì một cái pháp hành là như thế nào đúng. Cho nên ở đây có nhiều cái gương hạnh mà chúng ta không có nêu ra được rồi chúng ta không có biết cách hành, chứ còn nếu mà thật sự  mà Thầy đem những cái gương hạnh này thì Thầy chắc chăn là quý thầy sẽ trạch pháp rất là kỹ, khi mà chúng ta quán vô thường, quán cái thân của chúng ta như thế nào rồi chúng ta biết từng chút từng, từng chút.

Đây Thầy sẽ đọc lại 1 cái gương hạnh của bà Ambapàlì, bà Ambapàlìbà tên như vậy. Khi còn là thiếu nữ thì bà rất là đẹp, cho nên những vương tôn công tử thường cạnh tranh để chiếm bà. Vì vậy đó, khi mà bà còn trẻ bà rất đẹp cho nên mọi người tranh với nhau để mà chiếm cho được bà. Bà là một người rất giàu trong cái thời của đức Phật, cho nên bà cất một cái ngôi tịnh xá trong khu vườn của nhà bà đó, rồi bà dâng cúng lên đức Phật và chúng tăng. Lúc bấy giờ đó thì bà có một đứa con trai đã xuất gia theo đạo Phật tu hành thì cái đứa con trai đó khi mà về thăm bà đó, thì nó thuyết pháp cho bà nghe. Do nghe bài pháp mà cái lý vô thường đó thì bà thấy bà rất hiểu, từ cái tuổi trẻ của bà đó, bà thấy bà là một cái người rất đẹp, bà hãnh diện với cái sắc đẹp của bà cho nên bà thấy những cái vương tôn công tử mà đến cạnh tranh mà để chiếm đoạt bà đó, bà hãnh diện  hơn ai hết. Cho nên bà nghe cái bài mà thuyết giảng của đứa con bà về mà nói về cái lý vô thường á thì bà thấy bà chứng nghiệm tới bây giờ tuổi già bà cũng thấy quá rõ trong cái lý vô thường đó.

Ngày xưa bà đẹp đẽ như thế nào, bây giờ thì nó ra như thế nào. Do qua những cái lời giảng đó thì bà quán xét cái thân của bà. Và cuối cùng thì bà đã chứng đạo được Alahan trong chiếc áo cư sĩ chứ chưa phải là tu sĩ.Người ta chỉ thấu được cái lý của vô thường là người ta đã chứng được đạo đó mà chưa phải là xuất gia đó, mà khi nghe đứa con người ta thuyết giảng rồi  người ta nhận ra được cái lý đó rồi thì bắt dầu bà dùng cái pháp trạch, bà trạch ra một câu để rồi bà quán từ đầu đến chân bà như thế nào.

Đây quý Thầy sẽ nghe qua cái  bài kệ coi bà quán như thế nào đây. Đây là những cái gương hạnh mà chúng ta bắt chước để mà chúng ta tu tập cho đúng cách, để mà chúng ta được giải thoát chứ không phải là gì khác hơn hết.

Đây bà ví dụ, bà bắt đầu bà đặt cái niệm trước mặt bà, bà quán cái thân vô thường  của bà đây:

Đen như sắc con ong,

Nghĩa là bà ví tóc của bà thời còn thiếu nữ đó, nó đen như là con ong, nó đen mượt, đen tốt lắm.

Tóc dài ta khéo uốn,

Tóc bà rất dài, bà uốn lên coi như là trên cái đầu bà uốn là đẹp đẽ vô cùng lận đó chứ không phải ít đâu.

Nay biến đổi vì già,

Như vải gai vỏ cây.

Đây các con thấy hai câu kệ này, bây giờ nó già rồi, nhìn cái tóc của bà như là cái vải gai, vải thô, vải xấu lắm nó không còn cái đẹp đẽ gì như ngày xưa nữa hết, giống như cái vỏ cây mà phủ trên đầu bà vậy đó, cứng đơ cứng ngắt nó không có mềm muội gì như hồi còn con gái, mà nó không có đen như là con ong nữa.

Đó tức là bà suy nghĩ mà, bà nghĩ hồi cái thời mà tuổi trẻ của bà tóc nó như thế nào. Các con thấy không? Tức là người ta quán chứ gì! Còn mình, mình quán cái gì “thân này vô thường, khổ, vô ngã” rồi cái ngồi hơi rồi “thân này vô thường, khổ, vô ngã”  cứ nhiêu đó lập đi lập lại nó có nhằm nhò gì, có thấy được cái gì đâu. Còn người ta phải suy nghĩ từng cái chút ở trong cái thân của người ta. Người ta mới tìm được cái lý vô thường của nó chứ. Hồi đó sao nó đẹp đẽ, nó như vậy, còn bây giờ thì nó là như thế nào? Rờ cái đầu tóc mình cái cọng tóc hồi đó nó mềm còn bây giờ thì nó cứng như cái dây gai gì ở trên đầu á, mà nó bạc, nó có khúc đen khúc bạc nó làm kì cục như đồ bỏ vậy đó. Cho nên bà ví như vải gai, như vỏ cây. Đúng như lời giảng dạy của bậc nói sự thật, bậc nói sự thật là đức Phật đó, tức là bà không có nói bậc Thế Tôn nhưng bà nói bậc nói sự thật, ông Phật ông nói là cái sự thật mà, bây giờ mình quán xét mình mình thấy rõ ông Phạt ông nói.... Cũng như bây giờ mình nói  Phật nói là: “thân vô thường, khổ vô ngã” thì mình biết như vậy, nhưng mình không quán biết như vậy mình thì làm sao mình biết đó là bậc nói sự thật, phải hông?. Cho nên đó là bài kệ thứ nhất bà bắt đầu bà quán cái mái tóc của bà đó, cái mái tóc đẹp mà bà khen nó như là, đen bóng như là, sắc như con ong mà, đẹp lắm.

Đây bà bắt đầu đây, cái mái tóc đó đâu phải hôi như chuột xạ đâu, phải hông? Nó thơm chứ. Cho nên như thế nào đây, do đó bà mới quán:

Thơm như hộp ướp hương,

Nghĩa là cái mái tóc bà bị tối ngày xức dầu dừa rồi ướp dầu thơm trên mà nó không thơm sao được.

Đầu ta đầy những hoa,

Thì lúc bấy giờ bà còn thiếu nữ thì chắc chắn là phải giắt bông, giắt hoa trên đó làm cho đẹp thêm cái mái tóc của mình chứ, để cho mấy chàng trai mới ngó chứ, chứ nếu mà làm xấu ai nhìn, ai ngó làm gì? Cho nên bà cũng là tay sửa soạn dữ lắm đó. Cho nên bà mới quán... quá cụ thể rõ ràng.

Nay biến đổi vì già

Hôi như lông con thỏ.

Ơ, người ta quán người ta nghĩ, bây giờ thật sự ra thì không có còn mà xức dầu thơm nữa thì ba bữa hay là tuần lễ Thầy nói cái đầu tóc mà phụ nữ đó, một tuần lễ chắc không ai dám lại gần đâu. Bà ví dụ nó hôi như con thỏ chứ Thầy nói còn hôi hơn chuột cống dưới lỗ cống nữa chứ đừng nói. Vậy mà mấy ông thấy khoái lắm, hít thở tùm lum ở trên hết. Đó, bà quán như vậy các thầy thấy có thấu không, có thấu cái lý vô thường không? Trước thì nó thơm tho, nó như là cái hộp ướp hương ở trong đó lận, phải hông? Trên đầu thì hoa đồ dắt. Trời ơi! Nhìn nó đẹp biết bao nhiêu, nhưng bây giờ nó hôi như cái lông con thỏ thì còn cái thứ gì nữa. Đâu còn cái thứ gì nữa.

Đúng như lời giảng dạy

Của bậc nói sự thật.

Đó, lấy những kinh nghiệm này mà chúng ta tập từ từ, chúng ta tập quán, tập suy tư ra chứ? Nhiều khi quý thầy lười biếng lắm không chịu có suy tư, nghe Phật nói “vô thường khổ, không, vô ngã” thì cũng nhẩm đi nhẩm lại hoài, không có chịu quán sát. Bởi vì quát sát nó mới có những tri kiến cái sự hiểu biết của chúng ta nó mới, cái tri kiến giải thoát nó mới ra. Chứ còn mình lười biếng mình cứ  nói “vô thường, khổ, vô ngã” rồi cái nằm đó chơi cho đã, lát nữa cũng nói “vô thường, khổ, vô ngã” thì ngàn đời nó cũng không vô thường, khổ, vô ngã, ai đụng tới cái mặt nó dằm dằm như muốn đánh người ta. Thì cái đó không phải là vô thường đâu.

Bây giờ bà mới quán tới gì nữa đây:

Như rừng khéo vun trồng,

Lược kim ta chói sáng,

Nghĩa là bà sắm lược rồi kim hoa bà giắt trên đó cũng như cái rừng mà người ta khéo trồng cây, bà ví cái đầu bà lúc bà sửa soạn bà cắm lược cài trâm dắt ở trên đó giống như là cái người khéo trồng rừng, nghĩa là khu rừng họ rất khéo trồng cây cho nó đầy ở trên đó hết. Thì bà cũng làm cái đầu của bà ở đầy trên đó. Đó, thì các thầy coi có đúng không? Đúng lắm chớ, bà nào mà không sửa soạn, không cài lược, không giắt kim, không giắt hoa ở trên. Cho nên giống như là cái người trồng rừng ở trên đó.

Nay biến đổi vì già,

Tóc lơ thơ rơi rụng

Trời ơi, xói xói hết rồi còn cái thứ gì, còn có đẹp ở chỗ nào đâu nữa, còn giắt cái gì được nữa, nó thưa, ba cái cọng tóc mà thưa như vậy giắt nó tụt xuống hết còn gì đâu mà trồng rừng ở trên được nữa. Cho nên giờ còn đẹp đẽ gì nữa.

Đó các con thấy không? cái duy nhất mà để cho người ta ngó là cái gì? Là cái đầu của phụ nữ, mà bà bây giờ bà quán như vậy, thì cái phụ nữ họ hãnh diện về cái đầu của họ lắm chớ không phải không hãnh diện đâu. Họ đẹp là họ hãnh diện là cái gì? Thứ nhất là cái đầu của họ, cho nên vì vậy dó mà bà đem cái đầu của bà ra để bà quán trước, cái đó là cái bà hãnh diện nhất đó. Bấy giờ bà quán trước bà ném cái đầu bà xuống đi, phải hông? Bà ném cho sạch cái đầu bà xuống rồi thì bà mới thấy được cái sự vô thường thật sự của nó. Bà ví dụ:

Tóc lơ thơ rơi rụng

Thiệt là cái rừng cũng như cái rừng nó cỗi hết rồi, cây người ta đốt sạch hết rồi, còn thứ gì.

Đúng như lời giảng dạy

Của bậc nói sự thật.

Rồi bây giờ bà tới đó rồi, bà tới cái gì nữa đây, bà quán tới nữa. Các thầy thấy, đi tuần tự người ta quán chứ không phải người ta quán cái ào cái tới cái chân  liền, còn quý thầy quán cái nó hết cả toàn thân mà không thấy tóc tai của mình nay nó điểm hoa râm hết như muối tiêu ở trên hết mà hổng nghe người nào nói hết, phải hông?  Đầu mình hoa râm mà mình hổng có quán cái hoa râm đó để thấy nó vô thường, mình cứ  quán cái “thân này vô thường, khổ vô ngã” rồi cái thôi. Cái đó là quá vắn tắt rồi, nó không có thấu suốt được cái lý vô ngã cón quán như bà thiệt là thấu. Bởi vì Thầy đọc tới đây Thầy mới thấy người xưa thiệt là có những kinh nghiệm tu chứ còn thời nay nghe đâu nhai đó. Nhai bã mía khi mà nhai nó không có nước mà vẫn cứ nhai, phải có nước ngọt thì cũng ráng nhai cũng chút chút cũng đỡ, đằng này người ta nuốt hết nước ngọt rồi mình cứ cố nhai hoài mà không chịu nhả ra bỏ. Ít ra mình phải nhai cái gì nó có cái chất gì chứ, đằng này nhai mà không có chất mà cũng cứ nhai thì cái đó là cái tệ quá tệ. Bởi vậy đừng có nhai lại cái điều đó mà phải tìm ra cái gì mình nhai có những cái chất gì gì thì mình nhai thêm nó mới là cái lý vô thường nó mới đúng.

Bây giờ bà tiếp tục ở trên cái đầu của  bà nữa đây:

Trang điểm với bện tóc,

Bây giờ bà trang điểm, tóc thì bà bện lên bện xuống, có người thắt đuôi sam, đuôi chuột, đuôi gì đủ thứ hết, thả lòng thòng, kéo lên kéo xuống, quấn ở trên đầu đủ loại ở trên đó. Thầy thấy đủ thứ hết, người thì uốn phải hông, người thì thắt tệt, đuôi sẵm gì đó, quấn qua quấn lại, người thì thả lòng thòng xuống, làm đủ kiểu. Đó là những cái mà làm dáng, làm đẹp như là cái thân của vô thường đó.

Sáng chói nữ trang vàng,

Nghĩa là dù là trang điểm cách nào, bện tóc cách nào thì cũng giắt những cái trang điểm, những cái vòng vàng ở trên đó để làm cho cái đầu của mình đẹp thêm nữa.

Tóc mềm mại êm dịu,

Lúc bấy giờ tóc nó mềm mại êm dịu, giắt cái gì nó cũng tốt hết.

Thơm ngát với mùi hương,

Nghĩa là lúc bấy giờ sửa soạn là nó thơm tho như vậy đó.

Nay biến đổi vì già,

Rơi rụng đầu sói trọc

Hồi nãy còn lưa thưa, bây giờ nó xói trọc hết rồi, còn cái gì nữa mà đẹp đẽ. Đó, người ta suy nghĩ  bây giờ mà đầu mình chưa có xói trọc nhưng rồi đây nó sẽ rơi rụng hết nó xói trọc không có còn cọng nào đâu. Đúng như lời giảng dạy của bậc nói sự thật. Đó những cái bài kệ đó thì các thầy thấy người ta  quán từng chút từng chút à. Rồi bắt đầu đây cái đầu nó rụng hết rồi, sói trọc rồi, không còn gì nữa thì bà đi đến cái gì đây:  

Trước lông mày của ta,

Thấy chưa, thấy người ta quán chưa, người ta quán từ từ đó, người ta quán hết cái đầu của người ta rồi, bây giờ nó rơi rụng, nó xói trọc rồi, bắt đầu người ta mới tới cái lông mày. Còn quý thầy làm nhanh quá vô chặp rồi phát vô đầu rồi cái nhảy...thành ra cái sự quán như vậy nó không có thấu đâu, nó không có thấm cái lý mà nó không chứng được cái lý vô thường đâu. Đi từ từ như bà, chung ta đi từ từ,  tới đâu chúng ta chặt cho nó sát hết, tức là cái lý nó sẽ thấm được.

Trước lông mày của ta

Chói sáng khéo tô vẽ,

Trời! Bà này chắc vẽ vòng nguyệt dữ lắm chứ phải không đâu. Phải hông? Bởi vì cái lông mày của bà, bà phải nhổ cho nó như thế nào chứ thiên nhiên tự nhiên thì nó cũng mọc tầm bậy chứ làm sao mà nó mọc ngang hàng được. Cho nên bà phải nhổ, phải làm cho nó coi nó ngay hàng thẳng lối. Rồi còn phải vẽ cho nên nó làm chói sáng cái... bà nói khéo tô vẽ nữa mà, chói sáng khéo tô vẽ. Cái lông mày mình tự nhiên nó không có chói sáng bằng đâu, tô vẽ thêm nó lợt lợt thì mình tô đậm lên. Thì hầu hết là quý thầy thấy mấy bà chứ gì, rõ ràng là họ tô trên đó chứ gì, có nhiều khi họ còn… cho nó dài ra, cho nó đẹp nữa, chứ đừng nói, phải hông? Đó là những cái mà chúng ta không thấy nó vô thường, cho nên chúng ta chạy theo nó để làm cho nó đẹp.

Nay biến đổi về già,

Lông nheo cũng rơi rụng.

Nghĩa là lông nheo nó cũng rụng xuống hết. Mà cái mắt nó như thế nào? Chỗ này, cái chân mày chỗ này giờ nó cũng nhăn nhăn, còn cái thứ gì nữa mà làm đẹp. Có vẽ gì đi nữa coi cũng không ra gì hết.

Đúng như lời giảng dạy

Của bậc nói sự thật.

Đó chúng ta thấy bà lần lượt quán đến lông mày của bà rồi đó. Rồi lông mày bà hết rồi, thì còn quán cái thứ gì nữa đây! Bà quán tới con mắt của bà, phải hông?

Mắt ta xanh dài dài,

Đẹp quá phải hông? Như mà chúng ta thấy cái rặng núi mà nó nhô lên, mà nó kéo dài trông đẹp phải hông?

Sáng đẹp như châu báu,

Nay biến đổi vì già,

Đúng như lời giảng dạy

Của bậc nói sự thật.

Con mắt bây giờ nó sâu như hai cái hố à, bởi vì già quá nó lộn ở trổng, hai cái mí mắt trên này nó nổi lên, già nó nhăn nheo 2 cái chân lông mày nó nổi lên che cụp xuống rồi con mắt nó sâu o ở trỏng , thì còn cái  gì đâu mà vẽ mà đẹp đẽ nữa. Đó, là cái quán của nó thấy cái sự vô thường từ lúc trẻ của mình nó đẹp nó tròn trịa, mắt nó xanh dài ra, nó đẹp, còn bây giờ nó đâu có còn gì nữa, nó thụt vô trong đó rồi, nó lờ mờ rồi, rồi ở ngoài cái chân mày của mình thì nó nhăn nheo nó rủ xuống, nó làm coi có vẻ như 2 cái giếng ở trong đó có cái gì còn đẹp nữa. Đó mình quán, mình xét cái thân của mình, mình thấy nó thay đổi vậy thật là vô thường. Mà mỗi lần thay đổi vậy đó thì mình xấu xí vậy đó, mình có buồn không, buồn lắm chứ. Ai mà phụ nữ mà thấy mặt mình xấu mà mình không buồn, không đâu khổ cho nên Phật nói cái gì các pháp mà vô thường thì đều khổ, nó có sự thay đổi rồi nó làm khổ cho mình.

Đúng như lời giảng dạy

Của bậc nói sự thật.

Rồi bây giờ con mắt rồi thì  bà quán tới cái gì nữa đây, bà quán tới cái lỗ mũi:

Lỗ mũi mềm và thon,

Lỗ mũi dọc dừa à chứ không phải là lỗ mũi thường đâu, không phải là lỗ mũi tẹt đâu, mà đây là dọc dừa cho nên bà nói thon là Thầy hiểu biết là dọc dừa rồi, mà mềm nữa chứ không phải cứng như vỏ cây đâu.

Sáng chói như măng tre,

Nghĩa là bà ví cái mũi của bà cũng như cái mụt măng mà nó rất đẹp đó.

Nay biến đổi vì già,

Héo khô và tàn tạ

Cái mũi bây giờ nó có khi mà nó sụp vô, nó méo, nó móm, nó không có tròn trịa, nó không có thon như hồi trước nữa mà nó cũng không mềm mại nữa, nó làm sao mà nó khó coi vô cùng đó..

Đúng như lời giảng dạy

Của bậc nói sự thật.

Rồi bắt đầu bây giờ bà đã quán được lỗ mũi bà rồi, bà thấy nó xấu quá rồi, không còn đẹp đẽ gì nữa hết. Bây giờ bà quán tới cái gì? Tới răng, phải không? Bà đi tuần tự thứ tự trên tóc trở xuống tới chân mày, tới lỗ mũi, rồi bây giờ tới răng:

Như răng ta sáng trói,

Như búp nụ chuối hoa,

Nghĩa là mỗi cái răng của bà nó giống như là cái buồng chuối mà nó mới trổ ra đó, nó y như vậy cho nên bà so sánh cái hàm răng của bà. Những cái hàm răng của bà quá đẹp.

Nay biến đổi vì già,

Bẻ gãy vàng như lúa

Nghĩa là bà thấy cái răng của bà bây giờ cái đưa tới cái đưa lui, như là cái lúa mà nó chín vàng người ta sắp đập rồi, đâu còn thứ gì nữa đâu gọi là đẹp đẽ nữa. Cho nên nhìn mấy bà già mà bây giờ đừng có trồng răng xương thì chắc chắn là Thầy thấy cái miệng của mấy bà đó thôi thấy cái còn cái mất cũng không còn cái đẹp đẽ gì hết, cái đưa tới thì nó đung đưa rồi, cái đưa ra, cái đưa vô, cái thì gãy, cắm chỗ này, rồi khoét chỗ kia. Ăn uống thì toàn bị mắc, chứ nuốt gì được, rất là đau khổ. Do vì vậy đó, cái sắc đẹp đó nó có thường đâu, ai chắc cũng gẫy răng hết chứ ai hông gãy răng nhất là già thì còn gẫy răng nhiều hơn hết. Đó là bà quán tới bộ răng bà thấy nó thiệt là vô thường thiệt. Nếu mà thường thì giờ nó vẫn phải như hồi trước chứ? Sao bây giờ nó xẹo qua, xẹo lại, nó ngã tới, ngã lui vậy. Như là một cái rừng cây mà bị bão vậy, coi sao cho được. Thì như vậy thì chúng ta đã thấy được cái sự quán xét của bà nó vô thường, từng chút của cái cơ thể của bà, chứ không phải như chúng ta quán nhanh quá.

Rồi bây giờ tới cái  răng rồi thì bà quán tới cái gì đây? Bà quán tới cái giọng nói của bà, bởi vì phụ nữ mà có giọng nói thanh tao thì lên khán đài hoặc là lên chỗ nào để mà ca hát thì chắc chắn cất giọng ra thì bên nam chắc là khoái lắm rồi đó. Cái giọng bà chắc là ngon lắm nên bà mới quán cái giọng của bà đây, chứ còn ồ ề như ếch kêu dưới giếng chắc bà không nói đâu, cái giọng của bà cũng thanh tao lắm, lên sáu câu vọng cổ thì Thầy thấy cũng là ăn đứt đó, cho nên bà mới đem ra bà quán đây:

Ngọt là giọng nói ta,

Nghĩa là giọng nói chắc êm ái lắm, nghe thanh tao lắm cho nên bà nói nó ngọt đó là cái thị dụ là giọng nói bà rất là thanh tao.

Ngọt là giọng nói ta,

Như chim cu hót rừng,

Bà ví nó như tiếng hát của buổi sớm mà như là con chim cu hót ở trong rừng, nó thâm như vậy đó. Đó, thì biết giọng nói của bà là như thế nào rồi.

Nay biến đổi vì già,

Tiếng bể la dứt đoạn

Y như tiếng đồng la, mà đồng la bể, chứ không phải đồng la còn nguyên. Đó, bà so sánh tiếng nói của bà hồi còn là thiếu nữ nó thanh tao như tiếng chim cu rừng hót, mà bây giờ bà nói ra cái tiếng nói của bà như là đồng la bể vậy đó. Thì quý thầy còn thấy nó có thường không? Nó vô thường quá đỗi, nó đâu còn thanh tao nữa! Kiểu này mà lên cất giọng ca thì chắc chắn ai còn thèm nghe nữa.

Đúng như lời giảng dạy

Của bậc nói sự thật.

Rồi bây giờ bà quán được cái giọng nói của bà rồi, thấy nó vô thường rồi, thì bà tới cái gì nữa đây? Bà quán tới cái cổ của bà. Thì thật sự ra thì bà quán tất cả những cái gì mà đẹp đẽ nhất ở trong cái thân của bà thì bà đã tuần tự, bà lần lượt bà quán nó thấy sự vô thường. Thì cái cổ của người phụ nữ cũng là đối tượng cho nam nhân nhìn chứ đâu phải là cái chuyện tầm thường đâu, cho nên bà cũng biết nó là cái chỗ mà lôi cuốn người ta chứ đâu phải không, nên bà cũng sửa soạn cần cổ của bà để cho lôi cuốn thiên hạ chứ bà đâu phải ngu. Cho nên vương tôn công tử mới tranh nhau, chứ còn nếu bà để cái cổ bà như cái cổ cò thì chắc ai mà thèm, phải hông? Các thầy thấy hư mà để cái cổ cò thì ai mà thèm. Cho nên vì vậy bà phải sửa soạn cái cổ bà như thế nào chứ. Cho nên bà biết cái đó nó vô thường rồi. Còn chúng ta không có để ý thì chúng ta không có thấy được cái chỗ nào mà chúng ta quán đâu. Bà quán từng chút, từng chút bà biết cái đẹp, cái xấu, cái vô thường, cái không vô thường. Cho nên bà đặt nó ra bà quán:

Trước cổ ta sáng chói,

Mềm đầy đặn nhu nhuyến,

Thì cổ rất là mềm, đẹp lắm đó, phải hông?

Nay biến đổi vì già

Nhiều ngấn và khô cằn.

Bây giờ nhìn mấy cổ bà già coi, gân hai cái nhô lên nè, ngấn qua, ngấn lại, đủ thứ hết giờ có ai thèm ngó nữa đâu. Cho nên nó khô cằn như là cái da cây mà nứt lằn lằn vậy, thì thử hỏi còn cái gì nữa, đó không phải là vô thường sao? Đó các thầy thấy nó là cái sự thật mà, nó là sự thật khi mà chúng ta quán nó là sự thật thì nó làm cho chúng ta xả bỏ được cái thân. Còn mình quán mà cái kiểu quán mà không có thấy thấy sự thật á thì nó như là mình bị che mờ hết đi. Mà mình nói cái danh từ xuông không à, mà không nhìn ra cái sự thật. Cho nên khi mà quán thì chúng ta nhìn đặt cái quán là chúng ta tưởng ngay cái cổ chúng ta như thế nào. Hồi đó như thế nào? Nó bóng, nó mượt như thế nào, nó liền như thế nào, nó làm hấp dẫn người ta như thế nào. Thì bây giờ nó già cằn cỗi rồi thì bây giờ nó nhìn như vỏ cây nó lằn nứt như thế nào, rồi nhiều cái ngấn ở trên cổ chúng ta như thế nào, rồi gân cổ nó nổi nên như thế nào. Thì nhìn thiệt là thấy giống như cổ rắn rồi chứ đâu còn cái thứ gì mà ai mê nữa. Cho nên đó là sự vô thường rồi, đâu có còn gì. Đó là cái sự thật để mà chúng ta nhìn thấy cái thân của chúng ta.

Rồi bây giờ bắt đầu bà tới cái gì nữa đây. Bà tới cánh tay của bà:

Trước cánh tay của ta

Như sáng chói cột tròn,

Nghĩa là cánh tay của bà nó tròn lắm chứ không phải là nó méo, nó dẹp gì đâu. Đây là những cái tay rất đẹp đó, cái cánh tay rất đẹp đó.

Nay biến đổi về già

Như hoa kèn yếu ớt

Nghĩa là hoa kèn, chắc là Thầy nghĩ là hoa Phù Dung hay hoa gì mà  nó có cái đầu dài ra vậy nè bây giờ nó tàn rồi thì nó gục cái đầu nó xuống. Cái cánh tay của bà rồi bây giờ nó cũng cỡ đó cho nên là thấy nó yếu ớt quá, còn hồi đó thì nó tròn trịa, nó đẹp đẽ, làm cho ai thấy cũng muốn nắm tay bà hết. Đó, thì như vậy là bà đem cái chỗ mà nó đẹp đẽ đó bà quán đến cái chỗ tàn tạ của nó, đó là cái lối vô thường chứ gì nữa. Các thầy thấy chưa? Hồi đó mình thích nó bao nhiêu, thì giờ mình thấy nó mình gớm bấy nhiêu. Cho nên bà nói hôi như lông con thỏ, tức là làm cho mình gớm nó chứ gì? Đó là phá, là đập cái  tâm mà chấp của chúng ta để thấy cái sự thật là sự thật vô thường. Cho nên bà cứ nhắc lại lời của Đức Phật là tại sao?

Đúng như lời giảng dạy

Của bậc nói sự thật.

Bà quán tới đâu bà thấy Đức Phật nói đúng, nói thật, không thấy sai, còn mình nghe Đức Phật nói mình cũng biết đúng thật nhưng mà mình không có quán vậy đó, thì cái mình hiểu biết đúng thật nó mới ngộ mà thôi chứ chưa chứng cái lý. Còn bà quán như vậy bà sẽ chứng được cái lý vô thường đó. Cho nên chúng ta tu mà đúng cách đó thì chúng ta ngồi 1 tiếng đồng hồ mà suy ngẫm cái thân của mình rồi, sau một tiếng đồng hồ rồi ra người ra chửi mình hết muốn giận ai nữa rồi. Còn mình ngồi tiếng đồng hồ rồi mình đi ra, hoặc là mình ngồi nửa tiếng đồng hồ mình cứ quán “vô thường, khổ, vô ngã” rồi  đi ra ai động tới mình nghe cái bực bực mình rồi. Như vậy có vô thường không? Có vô ngã không? Hoàn toàn nó còn nằm 1 đống đó, nó chưa có hết!

Và bây giờ bà quán tới cái gì? Cái cánh tay bà rồi, bắt đầu bà quán tới cái bàn tay:

Trước bàn tay của ta,

Mềm mại như cánh hoa,

Sáng như mở rương vàng,

Nghĩa là cánh tay của bà khi mà đưa ra thì nó chắc là đeo vàng nhiều lắm, như là mở cái rương vàng, chắc nhẫn bà đeo cũng nhiều lắm đó cho nên bà nói như là mở cái rương vàng vậy đó. Tức là ngón tay của bà chắc là năm ngón đeo hết chứ không có còn chừa ngón nào. Nhà giàu mà, chắc có lẽ là vậy rồi. Cho nên bà nói: sáng như mở rương vàng. Mở cái rương ra, ánh sáng nó như cái bàn tay bà đưa ra là người ta thấy vàng đầy hết trên đó.

Nay biến đổi vì già

Như rễ cây khô cằn

Đúng vậy, các con bây giờ đưa bàn tay vàng của các con ra coi có đúng như rễ cây không? Gân nó nổi giống như rễ cây, y như vậy đâu có khác đâu! Khô cằn nữa, nó đâu còn hồi đó mà liền bóng, coi nó mát ướt đâu. Coi bộ sao nó khô, nó nhăn nheo, nó muốn chết nó rồi.

Nhăn nheo và thô nhám

Đúng rồi chúng ta rờ cái gân, rồi da chúng ta sao mà nó nhám như ồ à, hồi đó nó liền, nghe nó mượt ở trên đó à, nó không có cái kiểu đó. Cứ nhìn mấy bàn tay của quý thầy rồi quý thầy nhìn mấy cái bàn tay của quý thầy trẻ coi, nó có khác xa không? Gân gì đâu mà nổi như cái rễ cây ở trển vậy? Đó là cái quán thật đố các thầy, bởi vì cái này là bà quán thật, bà đem cái sự thật ra để mà phá cái tâm của bà, còn chấp cái ngã bà không thấy nó vô thường. Cho nên bà quán thật cho nên bà thấy nó vô thường. Vì vậy mà cái lý của bà đưa ra Thầy thấy cái  người phụ nữ này quá là tuyệt vời trong cái sức mà quán cái lý mà Phật đã dạy.

Đúng như lời Phật dạy,

Của bậc nói sự thật.

Đó quý thầy thấy chưa, đó là sự thật hiển nhiên mà không biết áp dụng đúng cách thì chúng ta cũng chẳng làm sao mà giải thoát được, mà chúng ta biết đúng cách chúng ta sẽ giải thoát được. Tới bàn tay của bà rồi thì bà quán tới cái gì nữa đây. Bà đâu có quán chung chung như các thầy đâu mà bà quán từng cái, từng cái, giờ bà quán cái vú của bà đây. Bởi vì cái bộ vú của bà cũng là làm cái sự thu hút người ta, hồi trước nếu mà cái vú nó không có cao lên thì bà phải độn lên, còn bây giờ đó thì bà mới thấy cái đó là cái sai của mình, cho nên bà đem nó ra bà quán nó như thế nào đây?

Trước vú ta sáng chói,

Căng thẳng và tròn đầy,

Nghĩa là bà đem cái tươi đẹp của tuổi trẻ đó.

Nay biến đổi vì già,

Trống rỗng treo lủng lẳng,

Trời đất, còn có thứ gì, thiệt là trống rỗng, treo lủng lẳng. Bà nói thật, nói đúng, Thầy thấy cái quán...

MẶT B

Như da không có nước,

Bây giờ coi trong đó coi như là nó không có nước, như hồi trước thì còn nước rồi này kia trong đó, tức là sữa chứ gì. Còn bây giờ nó khô queo hết rồi chứ còn gì.

Như da không có nước

Trống không, không căng tròn,

Đúng như lời giảng dạy,

Của bậc nói sự thật.

Đúng như vậy không? Bà quán như vậy bà mới thấy rằng cái bộ vú của mình không còn đẹp đâu, nó là vô thường, phải chi mà nó thường thì bây giờ nó cũng phải như trước, nó phải đẹp vậy. Còn bây giờ nó trống rỗng, treo lủng lẳng như cái..., nó không còn cái gì như là, cái gì mà tươi mát được nữa hết. Đó, thì do đó thì chúng ta thấy cái sự quán của bà thấm thía lắm.

Rồi bây giờ bà quán tới cái gì đây? Bà quán tới cái thân mình của bà, bây giờ nó tới toàn thân của bà:

Trước thân ta chói sáng,

Như giáp vàng đánh bóng,

Nghĩa là cái thân của bà hồi đó chắc là da đẹp lắm, cho nên coi như nó tròn trịa, không có còn một cái chỗ nào mà có thể nó nhăn nheo gì ở trong cái thân đó hết.

Nay biến đổi vì già

Trông vết nhăn nhỏ xíu.

Thiệt ra chúng ta không để ý, chứ chúng ta để ý coi, nhìn cái thân của mình coi? Hồi đó thì nó căng, nó tròn, nó không có nếp nhăn nhỏ xíu nào hết, còn bây giờ mình nhìn coi nó lăn nhăn ở trong cái thân của mình, nó lăn nhăn, mấy thầy cứ dòm đi có chỗ nào mà gọi là da thẳng hồi đó, bây giờ mấy thầy coi nó lăn nhăn, nó lít nhít, nó nứt nẻ ra hết trơn hết trọi, có hông? Cho nên bà quán thiệt tỉ mỉ đó. Nó vô thường đến cái mức độ chúng ta không để ý. Chứ chúng ta già rồi chúng ta nhìn hồi tuổi trẻ chúng ta, bây giờ nhìn cái da của mình: bắp đùi này, rồi đít, rồi khu này, rồi ngực, bụng,... coi nó lăn nhăn đủ thứ hết, nó nứt nẻ hết trơn hết trọi nó đâu có còn cái gì đâu mà gọi là tốt đẹp nữa. Cho nên, do đó mình mới thấy nó được là vô thường chứ, nó thấy mới được là vô ngã chứ.

Đầy vết nhăn nhỏ xíu

Bà nói đầy vết nhăn là nhiều lắm, không có ít. Mà đúng vậy, chúng ta có quan sát đi, quan sát coi cái bàn tay của chúng ta bây giờ có phải những cái lằn nhăn nhỏ xíu, nhỏ xíu chứ hồi đó nó thẳng bóng lên, nó đâu có nhăn, bây giờ nó nhăn nheo hết.

Rồi bắt đầu bây giờ bà quán đến cái thân bà như vậy rồi, rồi bắt đầu bà quán tới cái  gì nữa đây?

Trước bắp vế của ta,

Bà quán tới cái bắp vế của bà đây.

Sáng chói như vòi voi,

Các thầy thấy hông, nghĩa là cái vòi voi nó tròn trịa như thế nào thì bà so sánh cái bắp vế của bà như thế nấy.

Nay biến đổi vì già,

Giống như những ống tre,

Nghĩa là nó xuôn đuột à,  nó đâu còn vòi voi nữa, nó xấu quá xấu rồi.

Đúng như lời giảng dạy

Của bậc nói sự thật.

Đó, bây giờ bà đã quán sát cái bắp đùi của bà rồi, bắp vế của bà, thì bây giờ bà quán tới cái ống chân của bà:

Trước ống chân của ta,

Mềm mại như kiềng vàng,

Nghĩa là cái ống chân của bà, bà so sánh như chiếc kiềng vàng.

Nay biến đổi vì già,

Chẳng khác gậy cây mè,

Thầy thấy cây mè là cái cây mà nó có ba, bốn cái gốc đó, nó ốm, khi mà chúng ta chặt cây mè hổng biết là gậy mè này nó có phải là cây mè đó không? Cây mè mà chúng ta làm muối vừng đó. Thì Thầy thấy cây mè thường thường nó vuông, khi mà nó già rồi nó không có tròn như hồi nó mới lên mà nó chia ra làm 4 cái cạnh, nó làm lòi ba cái xương ra đó …Gậy cây mè thì chắc chắn Thầy nghĩ rằng cái chân của bà bây giờ nó đã ốm, nó đã lòi những cái xương ống chân nó ra, nó có góc, có cạnh rồi. Đó là cái gợi ý vô thường của nó. Khi trước thì nó mềm mại, nó tròn đầy, bây giờ thì nó như góc cạnh rồi. Đó là cái sự vô thường.

Bây giờ bà quán cũng thêm cái phần mà của chân bà nữa đây:

Trước chân ta chói sáng,

Với lông mềm như bông,

Đó bà quán tới cái những cái lông mà ở trên chân của bà, nó mềm mại.

Nay biến đổi vì già,

Nứt nẻ đầy đường nhăn,

Bây giờ lông nó rụng hết rồi, nó không còn mà mềm mại như xưa nữa mà toàn để lại những cái vết nứt nẻ đầy đường nhăn ở trên cái chân đó, không còn có cái gì mà đẹp đẽ nữa hết

Đúng như lời giảng dạy

Của bậc nói sự thật.

Thân này là như vậy,

Nay già chứa nhiều khổ.

Nghĩa là cái thân này là nó vô thường như vậy đó, nó sự thật như vậy đó, nó không thể nào mà ai nói gì được hết, đó là một cái chân lý thay đổi. Hoàn toàn là cái sự thay đổi của cái vô thường của nó, không có thể nói là nó thường được nữa. Nay nó già thì nó chứa nhiều cái khổ lăm, bây giờ nó, chính nó đã gầy mòn, nó già như vậy thì trong đó nó sẽ có nhiều khổ cho con người lắm. Cho nên chúng ta phải nỗ lực mau mau mà thoát ra cái cảnh khổ của cái tuổi già này, mà nếu để thì các thầy chắc các thầy cũng biết rằng khi tuổi trẻ các thầy đâu có bệnh cái này, bệnh cái kia, nay nhức chân, mai nhức khớp, đâu có cái chuyện đó mà bây giờ mà tới già rồi thì quý thầy mới thấy nó đổ ra bao nhiêu thứ bệnh. Hở hở ra cái trời lạnh hay trời nóng gì nó cũng đổ ra hết, còn tuổi trẻ thì lâu lâu nó mới có một đợt vậy thôi chứ nó không phải là như tuổi già. Cho nên chúng ta thấy cái thân mà nó già rồi là một cái khổ của nó, cho nên ở đây nói:

Nay già chứa nhiều khổ

Tức là cái thân già nó chứa nhiều khổ

Ngôi nhà đã cũ kỹ

Coi như cái thân của mình là bà quán nó là cái nhà cũ kĩ rồi.

Vôi quét tường rơi xuống

Nghĩa là từ lâu tới giờ cái nhà của mình nó mới thì quét vôi nó còn dính đó, bây giờ nó cũ rồi lần lượt mình thấy từng mảng vôi nó rớt xuống, rớt xuống. Thiệt là bà quan sát cái nhà mà cũ đó, nó rớt từng cái mảnh vôi, mảnh gạch nó rớt xuống tuần tự. Thì bà nhìn cái thân của bà nó cũng rơi rớt xuống tuần tự theo cái sự vô thường của nó. Còn mình không để ý cho nên mình không thấy, còn bà quán xét bà thấy, nó rơi từng cái, bữa nay thấy nó làm rớt một miếng, cái miếng vôi mà tô cái tường đó nó rớt một miếng, ngày mai làm cho chỗ kia một miếng, ngày nọ chỗ nọ một miếng. Lần lượt nó để lòi ba cái gạch ra hết, rồi ba cái gạch rồi bắt đầu ba cái gạch nó mục lần lượt nó cũng đổ chỗ này xuống đống, chỗ kia xuống đống, cái thân của mình nó y như vậy đó. Bà đem cái chỗ này bà ví dụ thiệt là để cho mình thấy mình hết có chấp cái thân của mình là thường, chấp cái thân của mình là ngã trong đó.

Quán như vậy nó mới thấu triệt được cái lý vô thường, khổ, vô ngã chớ. Cho nên chúng ta mới thấy được cái chỗ mà bà quán. Qua một bài kệ rất dài để dẫn dắt cho chúng ta thấy từ cái chút mà chúng ta đi dần vào cái pháp quán vô lậu. Đó là mới đúng cách mà chúng ta tu cái con đường của đạo Phật. Còn nhiều khi chúng ta lười biếng, chúng ta không có chịu suy nghĩ từ cái đầu đến cái chân. Chúng ta có nhiều cái mà trong cuộc đời chúng ta sẽ gặp thấy cái thân vô thường của chúng ta, nó có những cái nó không phải giống như bà như vậy nhưng mà nó phù hợp với cái cuộc sống của chúng ta thì những cái đó là cái tri kiến giải thoát của chúng ta phóng ra để nó thược hiện được cái chỗ giải thoát của chính nó.

Đó, thì quý thầy thấy rất rõ chứ đâu có phải là cái chuyện mà mù mờ đâu. Cái chuyện này là cái chuyện phải thực tu thực chứng là mới được.

Khi quán xét như vậy là thấy rõ hình tướng vô thường trên thân của mình, nhận thức được tính vô thường của ba giới. Nghĩa là nhận được cái thân vô thường rồi thì mình lại nhận qua được ba giới, ba cái cảnh giới chứ không phải một cái cảnh giới đâu.

Cảnh giới thứ nhất thì dục giới, cảnh giới thứ 2 là sắc giới, cảnh giới thứ 3 là vô sắc giới. Cho nên bà nói khi bà quán như vậy được rồi thì bà lại thông suốt được ba cái cõi giới. Ba cõi giới nó đều là vô thường hết chứ nó không có cõi giới nào là thường còn, đó bà thông suốt được như vậy. Khi bà phá được cái thân chấp của bà là thường thì bà lại phá được cái ngã của nó rồi, thì bà nhìn qua trong cái thế gian này thì bà đã thông suốt được các tánh vô thường của ba giới, ba cái cõi giới là dục giới, sắc giới, và vô sắc giới. Tự tâm bà quán triệt tánh vô thường, khổ, vô ngã, và từ đó phát triển tuệ quán, bà chứng quả Alahan thành tựu được Tam minh. Từ cái chỗ bà mà phá vỡ được rồi thì nó phát triển được cái tuệ quán, tuệ quán tức là cái giới tuệ đó. Cho nên bà hoàn toàn bà nhập Tứ thiền, rồi bà chứng được Tam minh, thành tựu được quả Alahan.

Đó là cái kết luận của bài kệ này, mà do từ cái pháp môn này mà thực hiện được sự giải thoát chính chỗ này. Như vậy chúng ta có thấy rằng con đường tu nó có khó không? Nếu mà hàng ngày mà chúng ta cứ suy tư để mà  phóng ra cái tri kiến nó mới mẻ để mà phá được cái thân vô thường của chúng ta, thì ba cõi tam giới này chúng ta làm sao không thấu suốt nó là vô thường, nó là vô ngã. Đó là một cái bài thứ nhất!

                                                             ***

GƯƠNG HẠNH CỦA THÁNH NI Rohinì

Đến một cái bài thứ hai của một vị thánh ni để cho chúng ta thấy rằng qua cái bài pháp vừa rồi mà Thầy đã giảng, để chúng ta biết rằng cái hạnh sa môn, cái người tu thế nào đúng sai, để chứng minh cho cái lời dạy của Thầy, chứ không khéo mà không có một bậc mà thánh ni trong cái thời đức Phật mà tu hành mà nói lên cái chỗ mà chỗ đúng chỗ sai..., ngày xưa người ta cũng nhận thấy cái ông sa môn nào đúng, bởi nó có nhiều sa môn như Thầy giảng đó: sa môn Thích tử là đệ tử cùa Phật, mà sa môn mà không phải là đệ tử của Phật là của ngoại đạo, của Bà la môn nó cũng vẫn là sa môn. Vậy thì mình chọn ông sa môn nào đây, ông nào cũng giống y như vậy hết, cũng đi xin ăn, mình biết ông nào là của Thích tử?

Cho nên phải nhận như thế nào, cho nên không khéo để lầm lạc. Vì vậy bây giờ đời chúng ta cũng vậy, là qua cái giáo án của Thầy vạch ra cho chúng ta biết rằng cái ông tu sĩ nào mà của Phật giáo đúng trong hiện thời mà cái ông tu sĩ nào mà của Phật giáo sai để chúng ta biết nó mà chúng ta theo cho đúng chớ. Còn nếu không biết thì làm sao theo cho đúng. Vì vậy nên ở đây á, cái bà này á, bà nói lên cái bài kệ để chúng ta nhận được cái ông sa môn đúng, ông sa môn sai. Thì để nó áp dụng vào trong cái bài pháp mà trong cái giáo án mà chúng ta vừa học.

Đó, như vậy các con phải nghĩ rằng Thầy phải đi tìm những cái gương hạnh nào mà cho phù hợp ở trong cái bài mà giáo án Thầy đang dạy để cho áp dụng cho đúng, thì đó là cái rất là cực khổ bởi vì kinh điển của Phật nó quá nhiều, mà nói về các bậc Thánh tăng, Thánh ni nó cũng quá đông, cho nên làm sao mình chọn lựa ra được cho nó  phù hợp ngay khi mình giảng cái bài giảng đó mà có vị đó để chứng minh cho được cái chỗ mình chọn lấy một cái người sa môn đúng hay là người sa môn sai.

Đây, bây giờ Thầy nhắc lại. Bà Rohinì, bà tên là Rohinì, đến tuổi trường thành, khi Đức Phật còn tại Vesali á, bà đến nghe pháp, chứng được quả Dự Lưu. Bà nghe được cái pháp thì bà chứng được quả dự lưu, tức là khi nghe cái Pháp nào đó Phật nói thì bà thấy cái cuộc đời bà hết ham rồi. Nghĩa là bà không còn mà thích cái ăn uống, ngủ nghỉ, hoặc là nhà cửa, tiền bạc, của cải tài sản thế gian nữa rồi, thì cái đó gọi là, Đức Phật gọi là Dự lưu, còn mình còn ưa, còn thích, còn ham vợ ham con đồ đó, còn thích quần, thích áo, thích ăn ngon, mặc đẹp đó thì nó chưa Dự Lưu đâu. Bởi vì cái đó là cái tâm trạng thế gian mà làm sao dự phần Thánh được. Cho nên khi bà nghe thuyết pháp xong rồi thì bà hết thích rồi, bà ly hết rồi, bà không ham nữa rồi, cái gì bây giờ đem mà cám dỗ bà cũng không được rồi. Bà nghe qua bài pháp, thì như vậy nghe qua bài pháp mà nghe nó chứng Dự Lưu, thì chúng ta nói “gì mà nghe cái chứng liền”. Sự thật ra mình nghe mình thấy cái đó nó đúng rồi thì mình bỏ nó đi, thì đó là mình chứng chứ gì, mình không còn ham nữa. Còn giờ mình nghe rồi mình cũng về mình cũng thích uống rượu thì cái chuyện đó làm sao? Thì cái đó là cái mình đâu có chứng được Dự Lưu. Còn bây giờ thí dụ mình mà cái nghe bài pháp của Thầy thuyết rồi, mà mình hồi nào tới giờ mình uông rượu, giờ mình nghe rồi mình không uống rượu nữa thì đó là mình chứng Dự Lưu chứ sao.

Thầy nói đơn giản thôi, một cái bài giảng thôi mà mình nghe mình dứt ngay liền, tật mình nghiền rượu này, mà bây giờ mình nghe mình thấy đúng rồi, thôi từ đây chết bỏ, nhất định không uống rượu nữa, rượu nó hành hạ gì cũng không uống nữa. Cũng như bây giờ người mà nghiện thuốc phiện nghe Thầy nói cái bài pháp rồi biết thuốc phiện là tai hại rồi, biết thuốc phiện là dẫn dắt mình đi vào con đường đau khổ rồi, thì ngay đó là họ nhất định là từ nay về sau không hút thuốc phiện nữa, thì như vậy là  họ chứng Dự Lưu rồi đó quý thầy, chứ đừng có nghĩ rằng mình phải tu tập cái gì đâu. Cho nên mình nghe đức Phật thuyết giảng sao lại các bậc này chứng Dự Lưu nhanh quá? Mà mình không biết chứng Dự Lưu là chứng cái gì? Cho nên ở đây chứng Dự Lưu là gì? Là mình dự vào được dòng Thánh, mà dự vào được dòng Thánh thì  tức là mình phải dứt bỏ cái tâm thế gian chứ, cái  tâm ham muốn thế gian mới Thánh chứ, Thánh gì mà còn ham ăn, ham ngủ thì đâu có Thánh được, mà nghe nói ham ăn, ham ngủ là không phải Thánh thì làm sao mình Dự Lưu được...Bây giờ tôi không ham ăn, ham ngủ nữa, tôi hổng thích, ai cho ăn gì sống thôi chứ tôi không thèm nữa, ngày một bữa tôi thấy là quá đủ rồi, không còn ham thích. Vì mình đã nghe ăn ngày một bữa, mà về ăn ngày một bữa thấy nó đòi hỏi cái này, đòi hỏi cái kia thì đó Dự Lưu sao được, không có Dự Lưu.

Cho nên ở đây muốn hiểu cái phần mà quả Dự Lưu thì chúng ta phải hiểu chỗ đó. Cho nên ông Phật ông dạy hồi đó không có nói dối đâu. Vậy cho nên nhiều người cũng nghe nói: “gì mà nhanh quá, tôi tu thấy bà tôi chưa Dự Lưu có Dự Lưu được, còn ông ngồi ông nghe cái hoặc bà ngồi bà nghe cái Phật nói: Dự Lưu rồi”. Vậy cái  Dự Lưu là cái  dự gì? Là cái lìa tâm ham muốn của cái tâm người ta ra, người ta không chạy theo 5 cái dục lạc nữa thì tức là Dự Lưu chứ gì, nhưng mà từ đó người ta phải đoạn dứt cái tâm cho nó sạch, còn người ta bây giờ người ta mới có hiểu biết, thấy cái đó là cái khổ rồi nên người ta không ham nữa thì như vậy là người ta Dự Lưu rồi. Chứ đâu phải, phải cái gì là Dự Lưu.

Cha mẹ bà Rohinì thường không đồng ý với người tu sĩ ăn không ngồi rồi. Nghĩa là cái thời đó thì có nhiều người đi xin, sa môn nào cũng đi xin, ăn không ngồi rồi hết. Thì trong cái sa môn mà Thích tử đó tức là đệ tử Phật và Đức Phật cũng là những tay ăn không ngồi rồi, phải không? Cho nên vì vậy cha mẹ của bà thì không có đồng ý, cái người mà ở đời thì phải làm ăn, mình làm mình ăn chứ mình đi xin người ta như vậy là mình ăn lường người ta rồi, mình chùm gởi rồi, mình bám người ta rồi. Cho nên cái người mà hiểu cái đạo đức của thế gian thì người ta thấy cái loại đi xin đó là lười biếng.

Cho nên bây giờ thí dụ như, ngày giải phóng thì Nhà nước người ta về người ta thấy cái loại thầy chùa mà ngồi không ăn không, người ta ngồi trong mát ăn bát vàng, mấy ông ngồi đó mấy ông không có làm gì hết, người ta lao động gần chết mới có cơm ăn, còn mấy ông thì chỉ ngồi đó làm bộ lần chuỗi niệm Phật rồi bắt đầu đó bày ra chuyện này chuyện kia mà để ăn không ngồi rồi trên mồ hôi nước mắt của người ta. Đúng vậy. Mình có tu ra gì, mình ngồi đó làm cái chuyện mê tín người ta thì mình cũng phải là ngồi trong mát ăn bát vàng sao, cái đó là cái sai. Cho nên Cách mạng về mà phá vỡ cái này Thầy rất đồng ý, còn cái  người tu thật đâu phải người đó người ta đi xin ăn rồi người ta về đó ngồi chơi như mình đâu, hoặc ngồi đó để mình tính cách thức này, cách thức kia, ngày mai này có cái đám ma này rước mình đi để mình vừa có ăn ngon này lại vừa có tiền nữa nè, khoái khoái sao.

Đó là những cái ngồi không để tìm các nghề nghiệp, ngồi không để khỏi có lao động, khỏi có cày ruộng mà có gạo lúa ăn, mà có tiền bạc xài nữa, mà lại có chùa giàu sang nữa, cất chùa tường, chùa gạch nữa. Thì cái này là cái  phải phá bỏ chứ không để cái hư này được, cái này là cái sai, không có đúng. Còn cái người tu như thế nào? Vì thế cho nên ông bà của cha mẹ bà này đứng về tư tưởng đó, mà bây giờ Cách mạng chúng ta cũng thấy điều đó, chứ không phải đâu? Thấy mấy cái ông gì mà tay chân thì lành lặn, còn đi làm được, không có chịu đi làm ăn, cứ trưa nào hay chiều nào cũng lại nhà mình, đứng trước cổng đòi xin à. Không cho thì không đi. Làm cái nhà của mình nó bẩn quá, không biết làm sao mà đuổi mấy ông này đi hết. Cho nên ông bà này tức giận lắm chứ không phải không tức giận, vì thấy đứa con gái này cứ nghe lời Phật dạy như vậy đó mà cứ lui tới, lui tới cái tịnh xá đó hoài, thấy phát ghét.

Đó, thì cái gia đình này là cái gia đình nghịch duyên như vậy đó. Vì thế bà thuyết phục cha mẹ bà, bà nghe Phật nói cái gì bà nắm được, cho nên bà Dự Lưu được, bà hiểu được. Khi mà Dự Lưu được người ta hiểu được cái đúng cái sai ở trong đó rồi, cho nên bà về bà thuyết pháp cho cha mẹ bà, để được cha mẹ đồng ý cho xuất gia. Chứ lúc bấy giờ, thời đức Phật mà cha mẹ hoặc là có người thân mà không cho xuất gia là không được xuất gia. Thời Đức Phật nghiêm ngặt lắm, chứ không phải là như bây giờ mà chúng ta nói là xuất gia rồi chúng ta lấy cớ như đức Phật là trốn đi rồi bây giờ chúng ta trốn đi, hông được đâu. Nghĩa là bây giờ chúng ta làm một cái tội gì hoặc là trộm cướp mà trốn vô chùa là cũng không được Phật chấp nhận đâu. Mà làm một cái chuyện chánh trị gì mà trốn trong chùa cũng không được nữa đâu. Mà thất tình thất vọng mà vô tu hành thì đức Phật cũng không chấp nhận đâu, không phải dễ đâu. Chỉ sau này người ta rộng rãi, phá những cái giới luật của Phật…Cho nên cha mẹ mà không chấp nhận, cho đến bảy chục, bảy mươi mấy tuổi đó cha mẹ chết rồi hoặc là cái thời gian mà chồng không cho đi đó, mà tới bẩy tám chục tuổi mà chồng chết rồi mới có thể mà đi tu mới được, chứ đâu phải dễ. Thì đó là những cái gương hạnh để nhắc lại cái thời đức Phật, mà đức Phật rất là kỹ, không làm khổ mình, không làm khổ người.

Cho nên ở đây thì quý thầy thấy khi mà bà đã hiểu biết được cha mẹ mình như vậy rồi thì bà cố gắng bà thuyết phục cha mẹ để cha mẹ cho bà được xuất gia, vì thế bà thuyết phục cha mẹ để được xuất gia. Khi cha mẹ đồng ý cho xuất gia thì bà triển khai thiền quán, chẳng bao lâu bà chứng quả Alahan. Nhớ lại cuộc đàm thoại giữa bà và phụ thân, ông thân của bà đó, khi bà mới có đặt niềm tin ở Phật mà đã thuyết phục được ông thân của bà hiểu được sự chơn thật của sự tu hành của các vị thánh tăng trong thời đó. Nghĩa là bà đem cái lời bà thuyết phục, bà hướng dẫn ông thân của bà thấy được cái chỗ sa môn nào tu đúng, sa môn nào tu sai, để cho ông bà mới không có vơ đũa cả nắm mà cho rằng cái thứ làm biếng hết.

Đó, thì bắt đầu ở đây thì cái ông thân của bà đó đặt ra câu hỏi bà trước, ông thân của bà nói với bà như thế này:

Con chỉ cho ta thấy,

Đây là cái bài kệ đây, tức là bà đó, chỉ cho ổng thấy đó.

Đây là một sa môn,

Con thức tỉnh ta dậy

Đây là một sa môn,

Con khen tặng sa môn

Muốn thành nữ sa môn.

Nghĩa là ông cha ông nói khi ông nghe con ông thuyết phục được rồi, ông thấy rõ rồi thì ông mới đọc cái bài kệ đầu tiên, ông nói ông giới thiệu:

Con chỉ cho ta thấy,

Đây là một sa môn,

Con thức tỉnh ta dậy

Đây là một sa môn,

Con khen tặng sa môn

Muốn thành nữ sa môn

Nghĩa là con muốn thành một nữ tu sĩ cho nên con khen tặng Sa môn, khen tặng đúng chứ không phải khen tặng sai. Đó, bây giờ đó thì bà như thế nào để mà chúng ta hiểu cái chỗ mà bà làm cho cha bà ngộ được, thấy được cái quý của những vị tu sĩ trong thời đức Phật.

Con tìm cho sa môn

Cái ông cha đó, ổng nhắc tới những hành động của bà đối xử với các bậc sa môn như thế nào thì ông nhắc:

Con tìm cho sa môn

Rất nhiều đồ ăn uống

Con hỡi, Rohinì

Sao con quý sa môn?

Chúng biếng không thích làm

Sống với đồ người cho

Chúng ham lợi thích ngọt

Sao con quý sa môn?

Đó, ông cha ông đặt ra câu hỏi, trước tiên ông hỏi. Bây giờ đó, mặc dù là bài kệ trước tức là con ông thức tỉnh nói ông thế này thế khác nhưng mà ông đặt câu hỏi để đi tuần tự, để nó trở  thành một cái bài kệ để thấy bà giải quyết như thế nào để mà cho ông nhận ra được bậc sa môn đáng kính, đáng trọng. Đó, cho nên ông mới đặt ra, đưa ra, nêu ra câu hỏi:

Con tìm đến sa môn

Rất nhiều đồ ăn uống

Nghĩa là bà đến với mấy ông sa môn này thì bà đem đồ ăn, đồ uống này kia bà cúng dường cho các vị tu sĩ theo đức Phật đó. Cho nên ông mới hỏi:

Con hỡi, Rohinì

Sao con quý sa môn?

Chúng biếng, không thích làm?

Họ đều là họ ngồi không hết mà mình làm gần chết mà cứ đem cho họ ăn, vậy thì chúng lười biếng quá mà sao con ngu quá vậy, con không thấy.

Sống với đồ người cho

Họ không có làm gì hết, sống với đồ người ta cho chứ gì. Dơ, thiu thối, cũ gì cũng ăn hết, không có bỏ cái gì đi hết. Bởi vì họ đi xin mà, cho nên cái đời sống của họ nguội lạnh gì họ cũng ăn. Phải không? Họ nấu thì họ ăn sớm, còn đằng này mình cho họ thì phải đồ nguội thôi. Mà sống với đồ mà người cho thì có ngon gì đâu, mà sao con ngu quá vậy. Con đem đồ đến cho họ, mà họ là người lười biếng nhất, họ không chịu làm. Đó.

Chúng ham lợi thích ngọt

Chúng thì cũng ham tiền ham bạc, cũng thích ngọt, thích ăn cái này cái kia nọ, thì ông gợi cho chúng ta thấy không? Thấy ông cha của bà ta nói đúng không? Đúng, rất đúng mà.

Sao con quý sa môn?

Sa môn gì mà kì quá, ham danh ham lợi đủ thứ, nhà cửa họ còn giàu hơn mình nữa, mà con cứ đem vô con cho họ ăn à, con ngu quá vậy? Đó thì rõ ràng là ông cha này ông thấy rõ ràng mà, chúng thì biếng, làm biếng lắm, không có là. nói bậy bạ rồi gạt người ta kiếm ăn thôi, ngu gì mà cứ nghe họ để mà bị lường gạt như vậy. Cho nên ông cha này ông rầy đứa con, ông rầy bà ngu quá, con ngu quá, con không thấy, con cứ đến với mấy ông đó, không đúng đâu.

Rồi bắt đầu bà nói như thế nào?

Lâu rồi cha thân mến,

Bây giờ bà mới trả lời ông cha đây, lâu lắm rồi, con hiểu cha lắm rồi nhưng mà con chưa có nói chuyện với cha thôi. Cho nên bà mới nói:

Lâu rồi cha thân mến,

Hỏi con về Sa môn,

Không phải là bây giờ ông cha mới rầy bà có một lần này đâu, mà nhiều lần ông đã rầy bà không có nên đem của mình đem cho những cái người làm biếng đó đâu, mà họ cũng ham danh ham lợi,cũng thích ngọt, cũng ăn cũng uống như mình mà đem cho họ như vậy. Thì cái ông này thiệt là chánh kiến chứ không phải là tà kiến đâu. Còn như bây giờ chúng ta có phải là chúng ta tà kiến không? Thấy một cái đám mà thầy bây giờ họ danh họ lợi, họ ăn ba bốn bữa như vậy mà họ ngồi không, cứ đem cung cấp cho họ, thôi thôi bao nhiêu người cứ đem cung cấp cho họ rồi họ mượn cái hình thức tu cái này, tu cái kia, mình có biết gì tu trong đó, mà có thấy ông nào giải thoát đâu, ông nào cũng ăn cả bụng, cả bụng hết à, mà còn chơi, còn hát, còn xướng, còn đá banh, đá bóng nữa, còn nhảy còn múa nữa, đủ loại y như ngoài thế gian. Vậy mà cứ ngu mà đem cho, thì tức là ông cha không phải là con người mà không thấy, ông thấy. Mà thấy cái không đúng chứ còn ổng đâu có thấy cái đúng được. Cho nên đứa con mới vạch cho ông thấy cái đúng của những người tu sĩ.

Lâu rồi cha thân mến

Hỏi con về sa môn

Nghĩa là lâu lắm rồi, cha có hỏi con nhiều lần, tại vì con chưa có nói mà thôi. Bây giờ bà mới trả lời:

Con tán thán Sa môn,

Tuệ, giới hạnh tinh cần,

Nghe bà chỉ cho chúng ta rõ ràng đó. Tại sao mà con ca ngợi những vị sa môn đó, còn cha thì cha nhìn những vị sa môn nào mà cha không chấp nhận. Còn con thì con nhìn sa môn nào mà con chấp nhận thì cha có thấy:

Tuệ, giới hạnh tinh cần

Họ siêng năng họ giữ gìn cái trí tuệ của họ, họ tinh cần những giới hạnh của họ. Thì như thế nào? Một vị tu sĩ mà chơn chánh thì đi ra đường có ngó qua ngó lại không? Thì có phải mình kính trọng cái ông sa môn không. Còn cái ông mà đi ra đường mà ngó qua ngó lại thì có kính trọng không? Cũng hai ông sa môn mà cái ông thì kính trọng, ông không kính trọng chớ. Con thì con kính trọng những cái bậc mà giới hạnh, chứ còn con đâu có kính trọng những thứ mà ăn không ngồi rồi làm biếng đó, mà ăn ba bốn bữa đâu. Đó, thì bà nói thẳng với ông cha vậy. Cho nên cha đừng thấy mà cái bọn ăn ba bốn bữa mà con tin họ đâu. Con tin là con vô tịnh xá của đức Phật là con thấy những bậc thánh tăng này người ta ăn ngày một bữa, còn những sa môn kia họ ăn phi thời, họ thích cái này, thích cái kia đủ thứ, họ bày ra chuyện này chuyện kia, đó là cái loại sa môn mà con không có đến. Cha thấy rất rõ mà, chứ con đâu có phải con đụng đâu mà con cũng đến mà cha rầy con. Đó, bà mới giải thích cho ông cha nghe, vậy thì những cái vị sa môn Thích tử nào mà nó được như vậy?

Tuệ, giới hạnh tinh cần

Người ta siêng năng hàng ngày người ta làm cái chuyện đó.

Chúng thích làm, không biếng,

Nghĩa là hàng ngày rèn mà luyện mình tinh cần ở trên những giới hạnh. Bước ra đi thì phải ngó xuống chân đàng hoàng, thì đó là rèn luyện, mà phải siêng năng chứ lười biếng làm được không? Phải hông? Cho nên tuệ, giới hạnh người ta phải tinh cần, người ta tu tập, trau dồi như thế nào thì đừng có gọi là người ta làm biếng. Người ta xin mình ăn để người ta ngồi người ta làm chuyện đó, vĩ đại hơn mình mà. Mình đâu có làm được, mình chỉ làm ra cơm gạo chứ đâu có làm được cái tâm mình nó được thanh tịnh như vậy được. Cho nên cái việc làm đó không phải là cái việc làm thường của chúng ta. Cho nên bà giải thích:

Tuệ giới hạnh tinh cần.

Chúng thích làm, không biếng.

Không có lười biếng đâu, những cái người sa môn đó họ hoàn toàn họ siêng năng lắm

Chúng làm việc tối thượng, tối thắng,

Phải hông? Bà nói những người sa môn đó họ đang làm cái việc tối thắng chứ không phải là làm cái việc tầm thường.

Chúng từ bỏ tham sân

Nghĩa là hàng ngày người ta khắc phục cái tham sân, người ta không còn tham danh, tham lợi, tham ăn, tham ngủ. Cho nên hình tướng người  ta, giới hạnh người ta nghiêm túc, người ta ăn ngày một bữa còn mấy ông sa môn kia ăn ba bốn bữa mà cha vơ đũa cả nắm cha nói người ta hết. Mà con đi đến những ông đó như vậy thì cha phải tán thán chứ, cái người mà người ta từ bỏ cái tham sân si, đâu phải người ta làm một ngày mà nó hết sao. Nó quá cực khổ chứ đâu có phải dễ. Đó, cho nên bà mới giải thích ra cho cha bà thấy, đó như vậy là: Con đi đến với cái tịnh xá của đức Phật á là vì con tán thán những sa môn đó đó, chứ con không thán thán cái thứ sa môn ngoài kia đâu. Sa môn ngoài kia là sa môn chùa to tháp lớn đó, con đến tịnh xá của ông Phật chòi tranh vách lá mà cha nói con đâu có ngu hay  con đem đồ ăn cho những người mà giàu sang đó đâu, họ lợi dụng mồ hôi nước mắt của mình. Còn con đem đến những người này là những người rất siêng năng, họ rất là siêng năng, họ giữ gìn giới hạnh này, họ tu tập giới tuệ này, họ tu tập giới đức này, họ từ bỏ tham sân si này, họ làm những việc mà có thể cái  người thế gian khó làm lắm, không có làm nổi, cho nên cái việc làm của họ là tối thắng, đó, cha thấy có như vậy không? Thì ông cha: ờ, mày nói chắc có lẽ đúng rồi,  tao thì nhìn cả đám với nhau tao thấy chứ bây giờ mày chỉ ra thì tao thấy được rồi. Đó ông cha thì nghe đứa con nói phải quá mà, nó nói đúng rồi. Thế nào tao cũng thấy đúng chứ, nhưng mà tao nhìn chung.

Ba cội gốc ác pháp

Chúng quét sạch, thanh tịnh

Mọi điều ác đoạn tận

Do vậy con quý chúng.

Đó, bà mới nói ba cái cội gốc của tham, sân, si đó là ác pháp chứ gì. Mà những người tu sa môn này họ quét sạch ra hết cho tâm họ thanh tịnh, mọi điều ác họ đoạn tận hết, do vậy con mới quý trọng họ chứ. Còn nếu mà họ tham, họ sân, họ si, họ tích lũy, họ cất chùa to tháp lớn, họ đầy đủ những vật dụng thế gian, quần này, áo nọ, y kia nhiều thì thử hỏi làm sao con quý.

Đó thì như vậy, vậy bài pháp này chúng ta thấy rõ ràng là người xưa người ta cũng có cái để mắt để người ta chọn được bậc sa môn người ta thờ chớ, người ta theo chớ. Còn mình có phải là người đui mù không, phải hông? Các thầy thấy chưa, mình có phải người đui mù không? Hoàn toàn là thấy quý thầy sống trong dục lạc mà nhảy theo vô ngồi tu tùm lum cả đống nhau trong đó, Có đúng không? Người xưa người ta còn có đôi mắt người ta  nhìn được, tìm được cái bậc sa môn chơn chánh, tu hành giới hạnh nghiêm túc, người ta sống để người ta ly các pháp ác, người ta đoạn dứt các pháp ác. Còn những người đó họ nuôi dưỡng các pháp ác chứ làm sao pháp thiện được. Chạy theo dục lạc làm sao mà pháp thiện được.

Đó thì vậy, do vậy những cái Thầy đập phá xuống đây là không có nghĩa là Thầy ganh ghét họ mà Thầy muốn cho mọi người thấy cái đúng để cho chúng ta thắp lại cái ngọn đuốc của Phật pháp. Còn nếu mọi người mờ mịt như vậy thì chúng ta có thắp lại ngọn đuốc Phật Pháp không? Đem cái giáo lý gì vô đó nói Phật pháp chứ làm sao mà nói Phật pháp được. Cho nên từng những bài kinh, từng những cuốn kinh sai mà phá giới luật của Phật, phá cái hạnh của người tu thì Thầy đập xuống hết, chớ không phải là Thầy không thấy cái điều đó. Đập làm chi cho người ta...nhưng mà tại vì cái kiến chấp của quý thầy bây giờ đầy ắp ở trong đầu á, quý thầy không có biết cái đúng, cái sai. Buộc lòng Thầy phải vạch ra, như Thầy nói kinh Duy Ma Cật như vậy, thì Thầy nêu lên các thầy thấy rõ ràng một ông Duy Ma Cật mà có vợ con mà làm sao gọi là Bồ Tát Thánh vị được, mà đem viết ra cái bài kinh đó để mà nêu lên, để mà chà đạp Phật pháp xuống một cách rất là tàn nhẫn như vậy.

Chúng ta thấy rõ ràng mà. Ở với vợ sinh con mà còn gọi là không dục thì Thầy nói là làm sao mà không dục mà làm sao có được chuyện đó. Còn kinh Pháp Hoa đứng ở trên góc độ cầu khẩn như vậy thì thử hỏi làm sao giáo lý của đạo Phật chấp nhận được, nhân quả mà làm sao mà có cái chuyện đó được. Thế mà người ta chổng khu, người ta thờ cái kinh Pháp Hoa còn hơn là thờ ông Phật nữa. Nhưng mà đó là cái tà pháp, cái kiến chấp của người khác. Cho nên vì vậy bây giờ bài này là để chứng minh cho chúng ta thấy là cái chỗ nào đúng mà chỗ nào sai. Để thấy cái người xưa người ta cũng biết chọn được cái bậc thầy của người ta chứ, cái bậc sa môn đúng chứ. Bây giờ chúng ta cũng vậy, chúng ta là con người đi vào đạo Phật thì cũng phải biết chọn ông thầy đúng chớ, biết chọn những sa môn đúng chớ. Tại sao đụng sa môn nào cũng nhào vô hết. Hồi xưa đâu phải không có sa môn, thứ sa môn mà lục sư ngoại đạo đâu phải là ít, nó cũng đầy đường đầy xá hết, nó cũng đi chật nẻo hết chứ nó đâu có ít. Bởi vì ngồi không ăn mà, lại còn được cung cấp, còn được cái này cái kia nữa thì ai lại không thích mà vào. Phải hiểu như vậy. Đây cái bài kệ tới bà nói:

Thân nghiệp chúng trong sạch,

Khẩu nghiệp chúng cũng vậy,

Ý nghiệp chúng trong sạch,

Do vậy con quý chúng.

Bà này bà nói: Bởi vì những sa môn này thân nghiệp họ rất thanh tịnh, họ làm những hành động gì nó không còn có dính mắc, tham đắm. Họ đâu có rờ mặt phụ nữ, họ đau có ôm hôn phụ nữ, mà nếu họ ôm hôn phụ nữ thì làm sao mà con kính trọng họ. Còn miệng họ nói có lời ác không? Họ có nói ra cái lời hung dữ không? Họ sống trầm lặng, họ không có nói. Mà nói một lời nói là họ khuyên không làm khổ mình, không làm khổ người, làm sao con không quý trọng họ. Còn ý nghiệp là họ như thế nào? Luôn luôn lúc nào cũng giữ trong sạch, không có nghĩ bậy nghĩ bạ, làm sao con không quý trọng họ, còn vị ngồi lại mà nghĩ tầm bậy tầm bạ, nghĩ ăn nghĩ uống, nghĩ lát chiều nay mình phải nấu nồi chè ăn cho ngon chơi. Thì nghĩ như vậy là con làm sao mà con quý trọng họ được

Đó thì thí dụ như quý thầy nghĩ, nghĩ như vây có phải là bà này sáng suốt không? Bà sáng suốt bà chọn bậc thầy bà mà. Cho nên bà nói ra những bài kệ này để vừa là chỉ cho ông cha thấy rằng ông cha nên chọn lấy cái đó, và ông cha ông thông cảm, ông nghe rồi thì ông cho bà xuất gia liền. Đúng, tao chấp nhận mày xuất gia theo mấy vị thầy này là tốt nhất, chứ đừng có theo cái bọn kia, bọn kia là tao cấm không có cho, mày mà bước mẻn vào cái loại đó là tao chặt chân à, chứ không phải vừa đâu. Lẽ đương nhiên là ông cha ông phải có sự giáo dục con ổng, mà ông nghe đúng là ông cho đi liền.

Đó, bây giờ bà giải thích thêm để ông cha thấy thêm nữa đây:

Không cấu uế giải thoát,

Như vỏ ốc trong sạch

Trong sạch cả bên trong,

Trong sạch cả bên ngoài,

Công đức chúng trắng tinh,

Do vậy con quý chúng

Đó, thấy không người ta không có cấu uế cho nên người ta giải thoát, mà trắng như vỏ ốc trong sạch. Thì nhìn vào ba y một bát nó đâu còn...hỏi làm sao mà cái đó trắng bạch như vỏ ốc được. Cho nên bà lại thêm cho chúng ta thấy:

Trong sạch cả bên trong

Sạch ở bên trong, tâm cũng trong sạch. Mà sạch cả bên ngoài. Còn chúng ta nghe các thầy nói như thế nào: Tâm xuất gia tức là trong sạch ở bên trong, mà bên ngoài không xuất gia thì tức là nó không trong sạch bên ngoài. Thì như vậy là có đáng chọn không? Thầy có giảng trong bài giáo án rồi mà. Như ông Duy Ma Cật đó, tâm thì trong sạch, Thánh vị rồi, nhưng mà cái thân thì còn là cư sĩ, cho nên có vợ có con. Đó là cái thân nó chưa trong sạch. Do đó thì ở đây bà này bà có chấp nhận cái thân không trong sạch ở bên ngoài không?

Công đức chúng trắng tinh

Nghĩa là nhìn cái công đức tức là cái hạnh tu đó nó trắng tinh không có hề một vết nhơ ở trong đó. Thì như vậy, rõ ràng là chúng ta nhìn cái trong sạch ở bên ngoài như thế nào, thấy ông thầy ăn ba bữa là chúng ta đã biết có trong sạch bên ngoài không? Rõ ràng chúng ta nhận (thấy). Còn bên trong thì nói trong sạch chúng ta biết sao mà rõ bên trong ông ta được, mà ở bên trong mà chúng ta muốn rõ thì ông thầy ai nói gì mà ông sân lên thì chắc chắn là chúng ta biết là ông thầy đó ở bên trong không có trong sạch đâu. Mà mình nói cái gì mà trái ý ông ta, ông trợn mắt ông phùng mang ông cãi thì chắc chắn mình thấy cái đó là không  trong sạch ở bên trong rồi. Thì đó cũng dễ nhận thôi chứ đâu có gì khó. Nhưng mà chúng ta thấy bên ngoài rất dễ. Rất dễ nhận ở bên ngoài, nó không trong sạch ở bên ngoài là chúng ta thấy rất dễ. Mà ở đây là phải trong sạch bên trong và trong sạch bên ngoài, trắng như vỏ ốc, không có cấu uế nữa. Thì như vậy con làm sao mà con không quý chúng, không có quý những người đó. Đó thì bà trả lời cho ông cha bà  thấy cái chỗ quý kính của bà nó đúng hay không đúng? Đúng, rất đúng.

Nghe nhiều thọ trì pháp,

Mạng sống đúng chánh pháp,

Nhiếp tâm giữ chính niệm,

Lời sáng suốt khiêm nhường,

Chúng chấm dứt đau khổ,

Do vậy con quý chúng.

Đó, thì bà giải thích cho chúng ta nghe những người này họ chịu khó họ nghe rất nhiều, tức là thông hiểu những gì chưa thông hiểu đó. Mình nghe nhiều mình mới thông hiểu chứ, mà thông hiểu đúng chánh pháp. Rồi mạng sống đúng chánh pháp, cái mạng sống của họ không có ăn thịt ăn cá, không có ăn phi thời, họ không có uống ăn lặt vặt, không có lấy viên thuốc C bỏ miệng ngậm chơi, không có làm cái chuyện tào lao mà tầm bậy đó. Lúc nào đúng ăn là ăn, đúng uống là uống, lúc nào có giờ giấc nghiêm chỉnh. Như vậy làm sao mà con không có quý kính họ. Đó, thì bà đã giải thích cho ông cha thấy.

Từ làng chúng đi ra,

Không nhìn ngó vật gì,

Chúng đi không mong chờ,

Do vậy con quý chúng

Bà diễn tả cho hình tướng các vị tu sĩ mà bà đã quý kính, từ làng mà đi ra, nghĩa là từ tịnh xá đi ra làng, rồi từ làng đi về tịnh xá, luôn luôn lúc nào cái mắt vị đó đều không có ngó vật gì hết, mà không ngó vật gì thì quý thầy phải nghĩ sao. Họ ngó xuống chứ họ không có ngó qua lại đâu, mà bà đã quan sát rất rõ những bậc này là bậc đáng quý kính, còn người ngó qua ngó lại bà đã nghĩ như thế nào? Họ cũng giống như mình, vậy thì có gì hơn mà mìnhphải quý kính. Đó, cho nên cách thức người ta đi mà đã là làm cho bà đã cảm hóa được cái hành, cái hạnh  đi của những người tu sĩ rồi.

Chúng đi không mong chờ

Nghĩa là đi xin cũng không mong chờ cho người ta cho mình nhiều ít nữa, cho được bao nhiêu hay bao nhiêu. Thì như vậy rõ ràng là những cái bậc đó là đáng quý kính rồi chứ gì. Còn có nhiều người ôm bình bát đi xin mong cho người ta cho mình nhiều. Bữa nay đức Phật Quan Âm phù hộ, tôi đi khất thực bữa nay làm sao cho Phật tử cho tôi những cái gì ăn cho ngon chớ hôm qua cho ba cơm muối nuốt không được. Đó là mình còn mong chờ, phải hông? Mà đi giờ cầu khẩn ai giờ? Bởi vì mình có học đức Quan Âm phù hộ rồi, mấy bữa rày khổ gần chết, thôi để cầu Quan Âm phù hộ cho gặp sướng chút, chứ bữa nay cho mấy ổ bánh mì không hoặc nó xách trái dừa không nó bỏ vô chắc chắn là đầy bát phải ôm trái dừa về ăn sao no được, phải hông? Cho nên vì vậy mà cầu Quan Âm cho nó đừng chơi cái kiểu đó. Mà hễ mang trái dừa về rồi, thì hễ đầy bát phải mang về chứ không lẽ đi xin nữa. Phải hông? Đó là những cái mà đức Phật Quan Âm ngự trị để cứu khổ mấy ông thầy này đó chớ, mấy ông thầy mà mong cầu á, chứ còn mấy ông thầy mà không mong cầu thì người ta đâu có cầu Quan Âm đâu. Phải không? Người ta chỉ là người tu hạnh đúng thì như vậy là những ông thầy mong cầu thì chúng ta thấy ông phải thọ lấy những cái khổ là ôm trái dừa đi về ăn đó, ăn ba cái vỏ đó cho nó no. Ở đây chúng ta thấy cái bà này thật là bà rất là sáng suốt, từ cái hành động nhỏ của tu sĩ chúng ta bà không bỏ qua chút nào hết. Bây giờ bà tiếp thêm đây:

Không tìm cầu kho tàng,

Không kho chứa, kho cất,

Chúng tìm cầu cứu cánh,

Do vậy con quý chúng.

Nghĩa là nhìn thấy người ta ở trong cái thất của người ta nó không phải là cái kho tàng, nó không có cầu cái kho tàng, cho nên không thấy vật gì hết, phải hông. Rồi vô nhìn cái chỗ ở của người ta thì toàn bộ không có thấy cái kho mà chất chứa của cải tài sản gì hết, nghĩa là vô trong cái thất người ta đã nhìn là thấy không có gì hết. Vô trong thất mà thấy cái giường của quý thầy kín mít không biết chừng nó đầy ở trong đó. Mặc dù là không biết, nhưng không biết chừng cái giường mà kín đó là chắc có rồi. Chứ còn gặp Thầy nằm trên cục đá là đâu có nhét cái gì ở trong đó được, cho nên hoàn toàn không có. Phải hông, các thầy hiểu. Các thầy có cái giường trống, có cái bệ trống các thầy nằm người ta nhìn thấy. Trời ơi! Ông thầy này thiệt là đúng ông có kho tàng. Còn nhìn cái giường của quý thầy mà có cái hộc rồi người ta nói ông này có kho tàng nhỏ đó. Thầy nói có hông? Thể nào cũng phải có chất chứa trong đó, không ít thì nhiều. Còn cái ông nào không có gì hết lấy gì cất chứa. Đút ở đâu mà chất chứa, để đâu người ta cũng thấy hết, cho nên đâu có dấu ai được. Cho nên vô cái nhà mà thấy tủ bàn ghế, kho tàng chứ cái gì, đó là chỗ mà chất  chứa tài sản của  báu chứ gì. Như vậy là người đó họ có tìm cầu cứu cánh không? Họ tìm cầu những cái vật chất chứ làm sao tìm cầu cứu cánh được. Còn cái ông thầy mà vô nhìn thấy có cục đá nằm đó thì chắc chắn là không có tìm cầu rồi. Mà không có tìm cầu tức là cứu cánh rồi.

Nhưng mà bây giờ, thí dụ như bây giờ đặt thành vấn đề như Thầy bây giờ đây Thầy là trụ trì, thì Thầy là người mà coi tu viện này, thì tất cả những cái gì này cũng của Thầy hết chớ sao? Phải hông? Như vậy là tủ bàn ghế hay kinh sách, thư viện nọ kia cũng của Thầy hết chứ làm sao mà nói của quý thầy được. Cho nên vì vậy đó mà Thầy ẩn bóng ra đi một thân, ba y một bát. Thì đó là Thầy đã xả hết rồi, còn nếu mà Thầy cứ sống tới chết Thầy cũng còn dính mắc cái kho tàng chứ chưa chắc là đã hết cái kho tàng. Phải hông? Như vậy là một cái người tu là người ta phải ý thức được cái điều đó. Có xả hết hay không? Có dám mà xả được không? Nó đâu phải chuyện dễ đâu. Thầy nói một cắc chưa dám bỏ mà bây giờ cả cái tài sản mà lớn cũng như bây giờ cái thiền viện Trúc Lâm đó, dám bỏ không? Còn Thầy bây giờ cái tài sản nhỏ hơn thiền viện Trúc Lâm cả trăm ngàn lần mà Thầy dám bỏ cũng là gan dạ rồi, chứ còn người mà nhiều như Trúc Lâm thì dám bỏ không? Dễ bỏ sao. Các con thấy trong cái vấn đề đó là hẳn nhiên là càng của cải tài sản bao nhiêu nó trói chặt, còn Thầy đây nó ít, còn mấy con giờ đâu có gì, phải hông? Vậy mà bỏ còn không được nữa chứ đừng nói. Có cái giường nằm không mà cái hộc nhỏ vậy mà bỏ không ra thì thử hỏi Thầy nhiều quá vậy làm sao Thầy bỏ. Nào là thiền đường, trai đường, nào là thất này thất kia của quý thầy, đều là hoàn toàn của Thầy hết cấp cho mấy con chứ làm sao của ai. Bây giờ nói phật tử ai dám nhận không? Nhận tôi làm sao tôi điều khiển nổi cái này, cũng phải giao (cho) Thầy. Bây giờ Thầy hổng bỏ tức là ai bỏ, phải hông? Nó dính theo Thầy nó sát như sợi dây vậy. Cho nên cái mà Thầy đã ẩn bóng tức là cái mà thể hiện cho các thầy thấy Thầy bỏ sạch, không có cái gì của Thầy nữa hết. Giao lại của ai, làm gì thì làm Thầy không biết, ủy quyền họ. Người nào có làm được, làm không làm được, bỏ. Còn này sợ giao người ta rồi làm hư hao, mất hao của cải tài sản. Trời ơi của phật tử để cho người khác người ta điều khiển người ta ở người ta tu chứ,  mình cứ giành của mình để mình điều khiển à, như vậy là mình quá tham.

Đó Thầy nói hết để cho quý thầy biết rõ là khi mà chúng ta xả là xả sạch và vì vậy mới thấy cái đời giải thoát của chúng ta thực sự. Bởi vì cái hưởng mà cái hương vị giải thoát, cái hỷ lạc mà giải thoát Thầy đã thấy rồi, nó không phải là cái chùa này đâu, không phải là những cái đồ chúng mà đang ngồi trước mặt Thầy đâu mà cả một trạng thái rất là tuyệt diệu. Vì vậy mà Thầy đâu có ngu gì mà Thầy ôm ba thứ nặng nề này như treo đá đây để Thầy chết mòn, chết dần ở trong này, Thầy đâu có ngu. Một người đã có trí rồi thì không còn ngu, mà cái người không trí thì phải ngu. Mà ngu thì ba cái đồ này nó trói, nó trói chặt. Nó đè xuống đó cũng như  mà nó nhận mình dưới nước, thở thì muốn ngộp. Thầy phải thấy điều đó chứ, bởi vậy Thầy điên gì Thầy mà chịu nó nhận xuống nước cho Thầy ngộp, Thầy thở không được cho nên Thầy cũng ráng Thầy ngoi lên để mà Thầy đi chứ, đó là cái khôn của một vị có trí. Còn cái người ngu á thì cứ ôm ấp nó vô, nó đè xuống đó mà như là mộc (bóng) đè, hổng biết các thầy không biết nằm ngủ có bị mộc đè không, trời ơi muốn la cho người ta cứu mà cứ cứng mình, nhúc nhích không có được, phải hông? Cho nên lúc bấy giờ là bị mộc đè thì của cải tài sản nó đè cũng cỡ đó đó, nó đè hơn nữa chứ không phải đè vậy đâu.

Cho nên ở đây Thầy thấy cái bà này khi mà đọc đến cái gương hạnh, cái gương hạnh của bà này Thầy thấy sao mà có duyên, chứ thực ra Thầy tìm kiếm chắc không nổi trong đống kinh đâu. Mà tại sao Thầy lật sao nó trúng ngay cái chỗ mà Thầy giảng. Như thế này để mà chúng ta nhận ra được những bậc thầy của chúng ta, để chúng ta theo đó mà chúng ta tu. Bởi vì cái hình thức mà tu sĩ bây giờ chúng ta biết ai là người chánh không? Chỉ có những cái bài này mà mở con mắt chúng ta đã thấy được cái người chơn chánh tu theo đạo Phật đúng hay sai. Để chúng ta biết kẻ tu đúng, kẻ tu sai. Mà cái mà Thầy dập xuống đó là dập đúng chứ không phải dập sai, dập những cái kẻ phá Phật pháp, kẻ mà mượn danh, mượn lợi, mượn tôn giáo mà làm danh làm lợi, để mà phè phỡn trong cái cuộc sống bằng mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Phải đập xuống hết.

Đó, thì ở đây bà này bà chỉ cho chúng ta thấy những cái điều đó:

Chúng không nắm giữ tiền,

Không nắm vàng nắm bạc,

Chúng sống với hiện tại

Do vậy con quý chúng.

Nó nhìn thấy một ông thầy mà có tiền có bạc mà mua cái này, sắm cái kia thì thử hỏi còn có tin được không? Mà giờ chúng ta nhìn thấy quý thầy người nào là không tiền không bạc, phải hông? Vô đây các thầy thấy Thầy giảng tới cái chỗ mà, cái khéo léo đến mức độ mà ông thầy khéo léo lắm, không cất giữ tiền bạc, giao cho người cư sĩ nào đó, mà sổ sách thì mình nắm hết. Cái đó là cái gian nữa, cái đó là cái khéo léo nữa của những cái vị  tu sĩ. Còn cái người mà nó không khéo léo đó thì họ lại nắm giữ tiền bạc, họ lại chi phí tiền bạc. Những người khéo léo người ta tổ chức, nhưng mà cái sự điều khiển chi phí đó là ông thầy đó. Thì quá cha rồi chứ còn gì, ông làm ra vẻ ông thanh tịnh không cất giữ tiền bạc. Đó, cho nên Thầy mới nói đây, Thầy vạch hết cái bộ mặt ra hết mà, để cho thấy hết mà, để cho biết, thì quý thầy sẽ thấy được cái giáo án của Thầy nó lật bày hết cái sai của Phật giáo bây giờ, mà nó đã làm cho Phật giáo chết đi biết bao nhiêu thế kỷ đây không? Hai mươi mấy thế kỉ, từ đức Phật tới giờ là hai mươi mấy thế kỷ rồi, mà nó đã giết Phật giáo không có còn cái gì mà Phật giáo hết.

Chúng không nắm giữ tiền

Không nắm vàng, nắm bạc

Chúng sống với hiện tại

Trong hiện tại có gì sống nấy chứ không cất giữ tiền. Bởi vì cất giữ tiền bạc là lo vị lai đó. Các con thấy không, phải hông? Nếu mà không có tiền bạc thì ngày mai mình lấy gì đây? Thì tức là mình nghĩ cái vị lai có chuyện gì, à bây giờ, bây giờ tui mạnh đây tui cất giữ tiền bạc để ngày mai ốm tui mua thuốc chớ gì? Thì đâu có sống hiện tại được. Đó là sống ngày mai rồi đó cho nên mới cất giữ tiền bạc. Đó, câu kệ nói như vậy, mà nếu mà Thầy không phân tích ra thì quý thầy không hiểu được, cho nên ở đây cái câu nói:

Chúng sống với hiện tại.

Chỉ biết sống hiện tại mà thôi, bây giờ mạnh là bây giờ biếtăn ngà y một bữa. Ngày mai đau thì xin thuốc uống, mà không đau nhất định không có giữ thuốc lại. Đó, là cái người như vậy là con mới quý kính chớ, còn người mà bây giờ chưa có gì hết, chưa đau mà để lo, để giành tiền để mai đau mua thuốc thì con không có quý kính cái người đó đâu. Đó là cái chuyện nhỏ nhặt về cái nhu cầu cần thiết mà chính là bà này còn bà thấy bà còn không chấp nhận, chớ không phải là cất tiền bạc để mà ...hàng trăm lượng vàng ở trong cái tu viện, cho nên quý thầy giờ có người cả hàng trăm lượng vàng ở trong tu viện á mà chưa dám bỏ ra nuôi chúng nữa.

Từ gia đình, quốc độ

Xuất gia sống khác nhau

Nhưng chúng thương kính nhau

Do vậy con quý chúng.

Nghĩa là từ cái gia đình này, gia đình nọ, mỗi người đều ở trong mỗi gia đình. Rồi mỗi quốc độ nước này, nước kia nữa. mà họ đến họ xuất gia họ sống chung nhau mà họ thương nhau như là anh em ruột vậy. Họ không bao giờ mà có tranh cãi nhau. Còn chúng ta thấy bây giờ có không? Trời ơi họ sống, ở chỗ này chỗ kia đến họ sống, chút cái họ tranh nhau, có nhiều người ở chung nhau một xứ nữa, cũng một nơi nữa mà đến ít hôm cái rầy rà nhau, tranh cãi nhau. Thì cái đó có phải là hòa hợp chúng không? Cho nên chúng như vậy là bà có cung kính không? Không, bà không cung kính đâu. Bà thấy sao người ta ở mỗi người mỗi gia đình, mỗi người mỗi xa lạ nhau, mỗi người mỗi nước mà đến chung nhau ở trong cái mái nhà tu hành này sao mà  họ thương nhau, họ cung kính nhau quá, họ trọng nhau quá. Đó, bây giờ chúng ta thấy như cái bữa thọ trai (của) chúng ta thôi, chúng ta đứng chờ trong cái thời gian trật tự như vậy, rồi chúng ta chào hỏi nhau rất là kính trọng nhau. Đây là cái hình thức thôi chứ chưa nói là cái tâm thật của chúng ta đâu. Nhưng mà từ cái hình thức đó nó sẽ biến dần cái tâm thật của chúng ta mà đi đến con đường mà chúng ta càng ngày càng trau dồi được thân tâm nó thể hiện qua cái tâm thương yêu hòa thuận nhau, không có chống trái nhau nó mới đi đến cái thật được. Nhưng mà cái hình thức mà chúng ta không tập luyện thì thử hỏi làm sao chúng ta có được, chúng ta có được cái tâm sau này. Cho nên nó từ cái hình thức nó mới đi đến cái tâm niệm chúng ta mới được.

Do cái chỗ đó nó mới thể hiện qua người ta thấy người ta mới quý kính của cái bậc tu sĩ của chúng ta. Còn tu sĩ gì mà thiếu điều muốn đánh lộn với nhau thì làm sao mà người ta quý kính được. Đó, thì do như vậy bà mới chỉ cho chúng ta từng cái chút, từng chút để chúng ta nhận ra người thầy của mình, cái người tu đúng, sa môn đúng. Còn cái hạng sa môn sai nó nhiều lắm, nó không phải ít đâu trong cái thế gian này.

Hỡi này Rôhini

Con sanh trong gia đình

Con đem lại hạnh phúc

Cho gia đình chúng ta

Con tin Phật - Pháp - Tăng

Lòng cung kính, sắc bén.

Đó, ông cha ông mới, khi mà nghe xong rồi thì ông cha ông mới nói với đứa con gái của ông: Chỉ có con mới đem lại cái trong gia đình hạnh phúc, rất hạnh phúc. Mà chỉ có cái tin ở Phật – Pháp - Tăng mà con mới đem lại cái hạnh phúc cho gia đình của mình ngày hôm nay, nghĩa là làm...

BĂNG SỐ 30

Thì họ sẽ mang đến cái chân hạnh phúc cho gia đình họ liền tức khắc, chớ họ không phải làm khổ gia đình họ đâu. Đó là cái chỗ mà chúng ta đứng ở trên cái thiện pháp, ở trên cái nhân quả mà cái câu kết luận của ông cha ổng đã hiểu được cái nhân quả mà đứa con đứa con đã kể cho ông thấy được cái hành động của các vị Sa môn, của các vị tu sĩ theo đạo Phật ngày xưa đó là như vậy đó. Cho nên ổng xác định rằng con hiểu được Phật pháp mà sắc bén như vậy con đem đến cho gia đình của chúng ta một cái hạnh phúc rất lớn. Đó!

“Con biết rõ cái này

Là ruộng phước vô thượng

Cả gia đình tín kính

Các vị Sa môn này

Tế đàn thiết lập đây

Đối với cha rất lớn”.

Nghĩa là bây giờ ông cha ông là cũng như giàu có chứ không phải là người nghèo đâu. Sau khi nghe con rồi đó, ông mới tế cái đàn mà để mà trai tăng cúng dường cho các bậc Sa môn đó. Cho nên đó là cả gia đình đem hết cái lòng kính tín, đó là cái ruộng phước, nghĩa là các bậc Sa môn đó là ruộng phước của gia đình của mình cho nên mình đem hết cái sức của mình ra để mà cúng dường, cung kính cái ruộng phước, mong cái ruộng phước được sống mãi.

Ruộng phước đó không có nghĩa là Phật - Pháp - Tăng này mà đem lại giàu sang cho họ đâu. Mà chính đem lại họ cái thiện pháp cho họ biết để mà họ hành động sống hàng ngày họ đem lại sự hạnh phúc an vui của họ. Nếu mà những bậc Thánh tăng này, cái gượng hạnh sống mà đức hanh như vậy đã làm cho họ hành động toàn thiện ở trên cái đường nhân quả. Cho nên đây là một cái rất là quý, cho nên họ ở đây ông cha ổng mới nói con biết rõ cái này nó là ruộng phước vô cùng thượng. Nó đem lại hạnh phúc cho mọi gia đình, mọi con người đó. Cho nên cái Giáo án giáo trình mà cái đạo đức Nhân quả nó phải ra đời để mà nó đem lại hạnh phúc cho con người ở trên cái thế gian này, trên hành tinh này. Mà nếu không có thì đạo Phật sẽ mất đi rồi, không còn có nữa.

Vậy mà quý thầy đã thấy được cái chỗ bài kệ này nó có một cái giá trị rất lớn là nó từ cái chỗ hành động của các Sa môn mà nó đến cái đạo đức nhân quả, nó làm cho mọi gia đình của con người trên cái hành tinh này được hạnh phúc an vui.

“Nếu cha sợ đau khổ

Và cha không thích khổ

Hãy quy y Phật pháp”.

Đó! Đứa con nó khuyên ông cha.

“Quy y Pháp và Tăng

Hãy chấp nhận Giới đức

Cha sẽ được hạnh phúc”.

Đó! Thì lúc bấy giờ bà này khuyên cha bà “Nếu cha sợ đau khổ”, như cha thấy có cái sự đau khổ như vậy đó, và cha không có thích cái khổ nữa cha làm sao mà cha không có ưa cái khổ nữa, cha thoát ra cái khổ thì cha hãy quy y Phật đi, rồi quy y chúng Tăng đi, quy y Pháp và chúng Tăng đi và chấp nhận Giới đức, Giới hạnh thì từng đó tức là Giới đức, Giới hạnh tức là nó là nhân quả chứ gì, thì cha sẽ được hạnh phúc, như lúc bây giờ cha sẽ được an vui, không có lúc nào mà cha không an vui. Bà khuyên người cha bà rất là thành thật, rất là đúng đắn.

“Cha hãy nói quy Phật

Quy y Pháp và Tăng

Tôi chấp nhận Giới luật

Tôi sẽ được hạnh phúc”.

Bắt đầu cái cô con gái này cô khuyên ông cha nên mình nên đứng ở trước Phật đó nên xin đức Phật đi, cha hãy nói quy Phật đi! Quy y Pháp và Tăng đi! Rồi cha sẽ nói “Con chấp nhận Giới luật – Con sẽ được hạnh phúc”. Cái lòng tin như vậy cha sẽ nói như vậy, cha sẽ được hạnh phúc hoàn toàn. Đó! Bà khuyên ông cha bà như vậy đó!

Thì để đem lại hạnh phúc cho gia đình đình, cho cha bà bà khuyên ông cha thiệt là bà là người con có hiếu, rất là có hiếu. Không có thể nào …..

Cái bà này bà khuyên cha bà:

“Cha hãy nói quy y

Quy y Pháp và Tăng

Tôi chấp nhận Giới luật

Tôi sẽ được hạnh phúc”.

Đó! Bà khuyên ông cha bà và gia đình cha mẹ bà như vậy đó!

Thì đó là cái lời mà thọ Tam quy đó các con! Chứ cái lời mà xin thọ Tam quy đó mà bà lấy câu này ra là cái câu thọ Tam quy đó! Khi mình Tam quy đó mình phát ra cái lời nói từ thân tâm của mình thấy cái chân chánh của nó rồi cho nên: “Tôi chấp nhận Giới luật”, nghĩa là không bao giờ khi mà hứa là mình chấp nhận Giới luật là không bao giờ vi phạm. “Tôi sẽ được hạnh phúc”, sẽ được hạnh phúc ở trên cái Giới luật đó đó! Đó là cái câu mà phát ra tận đáy lòng của mình biết là chánh pháp của Phật đã đem lại một cái số người mà Sa môn mà giữ được cái hạnh như vậy là cái hạnh giải thoát thực sự. Còn những cái hành động làm không đúng như vậy là cái hành động không giải thoát, nó không ly được cái thế gian được, ly cái pháp thế gian được thì không giải thoát.

Bây giờ kế tiếp nữa:

“Lúc trước cha chỉ là

Bà con của Phạm thiên”.

Tức là Bà la môn đó, cho nên ổng mới nói ổng là bà con của Phạm thiên.

“Nay cha chính là

Một vị Bà la môn

Cha chứng đạt Ba Minh

Được an toàn yên ổn

Ba Vệ đà chứng ngộ

Cha tắm rửa thật sạch”.

Nghĩa là sau khi được con khuyên ông rồi ông đến ông quy y Phật pháp rồi đó, bắt đầu về ông thực hiện những Giới luật của Phật dạy thì ông cũng đã chứng được Ba Minh chứ không phải là tầm thường đâu! Ông cha này cũng là cái tay cũng dữ tợn lắm chứ không phải… tu dữ lắm đó, khi mà ngộ được cái lý của Phật rồi. Còn chúng ta thiệt ngộ Phật pháp mà chưng ta chưa có dứt thoát được cho nên ông này kể như là cả gia đình của ông trao hết cho bà vợ làm gì làm rồi. Cho nên ông theo cái bước chân của con gái của ông ta, cho nên ông nói cái câu cuối cùng ông nói rất là chí lý và rất là tha thiết với cái sự giải thoát thật sự. Khi trước ông cấm con ông thôi ông tức giận con ông biết bao nhiêu, bây giờ ông trở thành đệ tử của Phật cũng không thể nào mà tưởng tượng được. Đó là những cái người ta hiểu, trước kia người ta hiểu nó không đúng bây giờ người ta hiểu đúng thì người ta trở thành đệ tử của Phật rất là xứng đáng.

“Lúc trước cha chỉ là

Bà la môn của Phạm thiên

Nay cha thật chính là

Một vị Bà-la-môn

Cha chứng đạt Ba Minh

Được an toàn yên ổn

Ba Vệ đà chứng ngộ”.

Chứng ngộ nghĩa là biết cái Vệ đà đúng hay là sai đó chứ không phải là chứng ngộ ở trong kinh Vệ đà đâu. Mà biết kinh Vệ đà hồi trước ông đã học như thế nào đó. Ông đã ngộ được cái lý của Vệ đà là như thế nào nào đó, đúng hay sai.

“Cha tắm rửa thật sạch”.

Nghĩa là bây giờ ông đã sạch hết không còn cái gì nữa, cả ba cái bộ Kinh Vệ đà ông đã hiểu nó như thế nào ông cũng quét nó ra luôn hết. Mà cái ý nghĩ như vậy đó thì khi mà đến với đạo Phật rồi thì chứng Ba Minh rồi thì cái gì lại không hiểu. Cho nên lúc bây giờ coi như là ông đã tắm sạch hết rồi, tắm sạch ở trên các pháp thế gian hết rồi, rời ra hết rồi, dứt ra hết rồi, không còn nữa rồi cho nên “Cha tắm rửa thật sạch”. Bây giờ ông tắm rửa thật sạch rồi, không còn một vết gì ở trong bộ kinh Vệ đà dính trong đầu, tức là không còn cái kiến chấp nữa. Các con thấy cái bài kệ nói như vậy là chúng ta đã biết là ông không còn cái kiến chấp mà ở trong bộ kinh Vệ đà cái đó đúng cái đó sai. Ông thấy Phật hoàn toàn là đúng là vì giải thoát thật sự chớ không còn cái mù mờ, những cái kiến chấp mà không giải thoát. Cho nên bây giờ chúng ta vì những cái kiến chấp mà chúng ta không giải thoát.

Đó là những cái bậc Thánh tăng trong cái ngày xưa và những gượng hạnh để lại qua những bài kệ mà nó quá là thực tế, quá là cụ thể, làm chúng ta thấy con đường tu hành chúng ta nó vui thích, càng thấy những bậc Thánh tăng mà thực hiện được cái thiện pháp như vậy chúng ta thích quá. Chúng ta không bao giờ mà phải nói rằng khi hiểu được mà lời Thầy giảng ở đây rồi chúng ta không có thể nào bỏ Phật pháp được hết, chúng ta không bao giờ từ giã nó được hết mà đi vào cái tôn giáo nào khác hay hoặc là chúng ta trở về cuộc đời mà sống một cách hưởng lạc ở thế gian nữa. Chúng ta hết có ham rồi, chúng ta biết nó vô thường rồi, chúng ta không còn thích thú nữa!

À bây giờ thì tới cái giai đoạn này thì Thầy xin nhắc lại một cái phần này nữa để chúng ta càng rõ đi trên con đường mà chúng ta sắp sửa học những cái giáo án này.

Vì muốn dạy về Giới luật mà nếu mà chúng ta cứ tiến tới mà cứ đập phá người ta hoài thì nó cũng làm cho chúng ta chán đi. Mà chúng ta phải thấy khi đập phá rồi chúng ta phải xây dựng nó lại, chúng ta làm nó lại tốt để chúng ta hiểu, như nãy giờ Thầy nêu lên những cái gương. Bởi vì những cái việc làm của Thầy Thầy hiểu biết. Khi đập phá người ta rồi thì mình phải xây dựng. Mình xây dựng để cho mình thấy được cái đường lối đúng cái đường lối sai để mình tu chớ! Còn mình đập phá người ta riết mà không có xây dựng cho mình biết, thì tức là mình thằng điên mất rồi. Cho nên xây dựng một cái giáo án của Phật rất là khó ở chỗ này nè: Biết lúc nào đập mà lúc nào xây dựng. Đó là cái việc làm của một người phải có trọng trách của nó, thấy cái trọng trách của nó.

Vì vậy đó mà chúng ta phải hiểu cái con đường tu hành của đao Phật quả thật là dài dẳng và gian nan.Bởi vì khi mà chúng ta phải thấy được cái con đường của tu hành nó không phải là trong một ngày hai ngày đâu. Như khi mà chúng ta nghe những cái bài kệ đó thì chúng ta thấy nó nhanh quá, nó không phải đâu! Nó cả một cái vấn đề chứ không phải đâu. Chúng ta có nghe mà ở trong những cái gương hạnh của các bậc Thánh ni đó họ tu hai mươi lăm năm, ba chục năm chứ không phải ít. Nhưng mà tại vì họ dứt không nổi, nhưng mà có người thì nhanh chóng lắm. Tại vì người ta bước chân vào mà ngộ được cái lý vô thường là người ta dứt ra được thì nó rất nhanh. Còn có người cũng ngộ ra nhưng mà dứt không được, bỏ không được cho nên cả hai mươi lăm năm, ba chục năm là tại vì dứt chứ không phải là cái lý do gì khác hết. Cho nên chúng ta phải nói rằng cái dứt bỏ đó là một cái có cái gan dạ, cái lầm lỳ, cái dữ tợn mới dứt bỏ, chứ không khéo chúng ta bị nó trói lằng nhằng mà chúng ta cứ ngỡ tưởng là mình dứt chứ chưa phải dứt đâu.

Con đường tu hành của đạo Phật quả thật là dài dẳng và gian nan, không ai nói là dễ dàng.Nghĩa là bước vào chúng ta phải khi có tu tập rồi chúng ta thấy không phải dễ dàng đâu. Tuy nhiên đó là con đường duy nhất dẫn đến giải thoát, đến trạng thái chấm dứt bất toại nguyện hay đau khổ. Những ai trong chúng ta có nguyện vọng tha thiết thành tựu chấm dứt sự đau khổ ấy, cuối cùng phải đơn độc tiến bước trên con đường khó khăn muôn vàn này. Nhiều lúc chúng ta đành ngã gục bên đường nhưng phải có đủ can đảm và ý chí cương quyết sắt đá, mỗi lần té ngã là mỗi lần tiếp tục đứng lên không chùn bước, luôn tiếp tục vững tiến.

Như vậy là chúng ta biết nó khó khăn như vậy thì mỗi lần có ngã xuống thì chúng ta cứ đứng lên mà tiếp tục tiến tới chứ không có lui. Bữa nay chúng ta dùng pháp hướng đó chưa được ngày mai chúng ta thay đổi pháp hướng khác, quyết định quét sạch cho ra tất cả các lậu hoặc. Chớ không phải là chúng ta tu thấy nó không có kết quả rồi chúng ta cứ ngồi tu chơi ỳ đó, cứ nhai đi nhai lại hoài, không phải đâu. Chúng ta phải nổ lực bởi vì chúng ta biết nó không có kết quả là chúng ta phải thay đổi. Trong một tuần lễ hoặc là trong hai ngày ba ngày mà chúng ta thấy cái pháp hướng đó không có kết quả, nó không hết lậu hoặc của chúng ta thì ngay đó là chúng ta phải tìm một cái phái hước khác. Trạch phát liên tục, chớ đâu phải một pháp chết đứng như một câu học thuộc lòng mình cứ đọc hoài đọc hoài thuộc lòng hoài mà giờ cứ đọc Tâm Kinh Bát Nhã hoài mà thấy nó cũng hổng có… nó… Ngũ uẩn nó cũng chưa giai không mà cứ đọc tâm Kinh hoài thì nó có hết giai không không?

Các thầy thấy rõ không? Bao nhiêu người mà đọc Tâm Kinh Bát Nhã là Ngũ uẩn giai không mà cho tới giờ phút này mà tám chục tuổi rồi thì cũng đọc Ngũ uẩn giai không mà Ngũ uẩn có giai không đâu. Như vậy là chúng ta cứ dùng một cái pháp hướng đó mà chúng ta nhai hoài thì có đúng không? Cho nên Thầy phải nói, khi mà chúng ta chừng ba ngày hai ngày mà chúng ta thấy nó không có kết quả là chúng ta phải thay đổi cái pháp hướng liền,chỉ trừ ra cái pháp hướng nào mà nó quét sạch được mà nó không có làm chúng ta còn những cái trạng thái ham muốn đau khổ nữa thì lúc bây giờ mới chính là kết quả. Còn nếu chưa kết quả là phải thay chứ, đâu có phải mà đọc nhâm cái Tâm kinh Bát Nhã hoài mà không có giờ phút nào mà ông thầy nào không có đọc Tâm kinh Bát Nhã, mà Thầy thấy ông thầy nào cũng là dính mắc ở trong Ngũ uẩn hết chứ không thầy nào mà gọi là giai không nổi hết.

Đó thì phải biết được cái chỗ mà tu tập, đó là cứ dùng cái pháp hướng như vậy mà hướng hoài hướng hoài nó không được thì tức là nó không có hiệu quả thì phải quăng nó đi. Điên gì mà tối cũng Bát Nhã rồi chiều cũng Bát Nhã, khuya cũng Bát Nhã, cái nào lúc nào cũng Bát Nhã, ăn cơm cũng Bát Nhã. Thầy nói thiếu điều họ muốn đi cầu đi đái đi ỉa họ cũng Bát Nhã luôn nữa để cho nó giai không nữa đó. Mà nó có giai không được người ta nghe nói giai không thì nó hay quá rồi nó không... Ngũ uẩn mà giai không thì thành Phật rồi chứ gì. Thế mà đụng đâu họ cũng Bát Nhã hết. Cho nên Thầy nói cái đó không phải thừa đâu. Chúng ta có thể nói đi cầu đi ỉa đi đái cũng là ngồi tụng Bát Nhã rồi mới đi cầu đi đái nữa, để cho nó giai không ở trong lúc đó cho nó đừng có đau bụng, mà có hết đau bụng đâu. Cho nên vì vậy mà chúng ta thấy cái pháp hướng nó chưa đúng cho nên chúng ta xả bỏ đi. Có dịp rồi Thầy đập Bát Nhã xuống cho mấy thầy., nhưng mà có duyên chứ mà không có duyên thì không đập. Đây là mới sơ sơ đó! Mới sơ sơ giáo đầu cho nó chút đó thôi.

Muốn được vậy cần phải có sự hướng dẫn của những đã thực hiện giáo pháp chân chánh, chân chánh ấy. Lời dạy... Nghĩa là muốn được sự giải thoát được như vậy thì chúng ta phải tìm một bậc Minh sư chân chánh họ có Giới Đức, Giới Hạnh, Giới Tuệ hẳn hòi đàng hoàng thì họ sẽ dạy chúng ta thì chúng ta mới có kết quả. Còn nếu mà chúng ta tu khơi khơi thì khó mà có kết quả lắm. Cho nên Thầy nói nội sơ cái trạch pháp ra cái câu mà để chúng ta tu để mà kết quả nếu mà không có bậc thầy hướng dẫn chúng ta, chắc chắn là chúng ta cứ nghĩa ra chúng ta tìm cái câu mà cho đúng để mà chúng ta tu để mà giải được cái tâm của chúng ta cũng không phải là chuyện dễ đâu. Chỉ có một bậc thầy sau một thời gian tu tập thì người ta sẽ tìm kiếm cái đặc tính của quý vị như thế nào để mà áp dụng cái pháp hướng đó cho đúng thì quý vị mới phá được cái tâm của quý vị chớ đâu phải đơn giản. Đó là một lời thật của Thầy nói. Chỉ có người mà người ta đi trước rồi nguồi ta mới tìm hiểu cái căn tánh, cái đặc tướng riêng của cái vị đệ tử của mình sau cái thời gian mà hướng dẫn người ta thì mới thấy được cái đặc tướng của người đó, cho nên biết được cái sở trường sở đoản họ chỗ nào người ta mới nhắm vào cái sở trường mà người ta đưa cái pháp hướng đó ra thì cái sở trường của người đó nó mới thích thú họ mới quá thấu triệt. Còn cứ đưa cái pháp hướng mà cái sở đoản của người ta, người ta không thích thú mà người ta ngồi đó người ta quán khô như gộc cây thì thử hỏi làm sao người ta đi tới đâu được. Cho nên cái khó là cái khó ở chỗ mà trạch ra cái pháp cho nên Phật nói trạch pháp giác chi là cái khó là chỗ trạch pháp.Còn ái chỗ mà quán niệm thì nó hướng thì nó không khó đâu, nhưng mà chỗ trạch pháp là chỗ rất khó. Trạch pháp sao cho đúng cái đặc tướng của người ta, trạch pháp sao cho đúng cái hành tướng của người ta, mà trạch pháp sao cho đúng cái nhân tướng của người ta, cái đó là cái khó của cái người hướng dẫn. Do vì vậy mà khi chúng ta chọn được cái người rồi thì cái lời dạy của họ, lời dạy của bậc Thầy đó là những kinh nghiệm tu tập từ bản thân của họ, và họ là người sáng suốt có trí tuệ đầy đủ cho nên họ mới quán xét họ biết được mình nằm ở trong cái trạch pháp nào, cái đặc tướng nào mà họ giúp cho mình tu tập.

Phải tin tưởng vững chắc nơi họ và kỷ luật họ đặt ra là phải chịu khép mình trong cái khuôn khổ tu tập. Nghĩa là cái người thầy mà họ dạy mình, mình phải tin họ rồi cái kỷ luật họ đặt ra họ bảo mình phải khép mình như vậy là mình phải khép mình vậy. Bảo không nói chuyện là không nói chuyện, bảo ăn một bữa là phải ăn một bữa, bảo làm cái gì là phải làm đúng theo cái đó, phải sống đúng như vậy thì cái vị thầy này người ta mới dẫn dắt mình được. Còn nếu mình làm ngược lại thì cái vị thầy này thôi người ta cũng đầu hàng thôi.

Do khép mình ở trong kỷ luật đó, được sự hướng dẫn thì mình mới tìm thấy được sự giải thoát chân thật, cụ thể và tuyệt đối ngay ở đây, trong hiện tại.Nghĩa là ngay trong lúc mình tu tập mà mình khép chặt cái lời dạy trong kỷ luật của cái vị thầy đó thì ngay liền tức khắc người ta đưa cái trạch pháp ra là mình đã thấy có kết quả giải thoát. Ngay liền chớ không phải là đợi tôi tu một ngày, hai ngày, năm ngày đâu, mà ngay liền người ta dạy mình mình áp dụng mình thấy có sự giải thoát. Mình lắng cái tâm mình thấy cái điều kiện mà người ta dạy cái pháp hành là mình thấy có giải thoát trong tâm mình liền tức khắc. mặc dù nó chưa thuần thục nhưng mà có sự giải thoát thật sự. Rồi một thời gian mình tập thuần thục thì mình thấy thiệt là giải thoát hoàn toàn thật sự.

Đến đây Thầy xin nhắc lại giai đoạn tu tập này là một bắt đầu giai đoạn thứ hai. Nghĩa là bây giờ cái giai đoạn mà Thầy đang dạy trong cái giáo án này là cái giai đoạn mà tu tập cái giai đoạn thứ hai của cái người tu sĩ chứ không phải còn là cái giai đoạn thứ nhất nữa, nhưng nó rất là cơ bản cho đời sống tu tập theo Phật giáo. Như vậy Thầy đã nhắc quý thầy là Tam quy là cái cơ bản mà chúng ta thọ để mà chúng ta thực hiện cái lộ trình thứ hai này, nó là cái cơ bản nhất. Cho nên chúng ta phải hiểu cho nó thông suốt được cái này mà chúng ta thực hiện con đường tu tập của mình, nó giúp cho quý vị nhận ra được sự đúng sai của người tu theo Phật giáo.

Cái thứ nhấtlà khi mà cái người mà không quy y Tam bảo mà coi thường Tam bảo, sống không đúng theo Phật Pháp Tăng. Nghĩa là Thầy nói như thế này, một vị thầy mà sống không đúng Phật là sao? Ông Phật ăn ngày một bữa mà thầy đó ăn ba bữa thì ông ta đã nói quy y Phật mà ông không sống đúng như Phật thì ông quy y ai đây? Có phải ông quy y Thiên thần không? Ông nói Phật chứ sự thật ông quy y cái ông nhà giàu, bởi vì ông nhà giàu ông ăn ba bữa à! Phải không? Mà mình quy y Phật thì mình phải ăn ngày một bữa như Phật chứ ! Sao lại mình ăn giống như ông nhà giàu? Rồi lại còn ăn ba bốn bữa thì có phải mấy ông ba Tàu ông ăn nhiều không? Thì như vậy là rõ ràng mình quy y mấy ông ba Tàu chứ đâu phải quy y Phật. Mình phải biết chứ! Tại sao tôi quy y Phật mà bây giờ tôi lại làm giống ông Ba Tàu ngoài chợ kìa. Ông có tiền ông muốn ăn hồi nào ông ăn. Thì như vậy là mình đã sai rồi, đâu có đúng được.

Thầy nói như vậy để quý thầy thấy cái hành động mà chúng ta đã quy y Phật thì chúng ta phải làm sống giống như Phật chứ đừng có sống như mấy ông nhà giàu, đừng có sống như mấy cái ông trưởng giả, đừng có sống theo kiểu vua chúa. Ăn phải cao lương mĩ vị. Cái sống đó là cái hiện tiền mà chúng ta nhìn thấy được cái sai trong đạo Phật. Chúng ta phải ly cái đó ra. Đó là chúng ta để nhận cho đúng cái ông thầy của chúng ta, cái người mà chúng ta có thể mà theo tu tập trong cái lộ trình thứ nhất. Nó giúp cho quý vị không có một giáo pháp nào lường gạt được. Bời vì hầu như mấy cái ông đó họ có những cái lời lẽ, họ có lý luận, họ gạt quý vị, họ nói cai này cái kia. Cho nên quý vị thấy cuộc sống của họ ăn ba bữa, họ còn thích xem hát xem ti vi, còn thích đá banh đá bóng, họ còn thích coi người ta đá cầu nữa. Những người mà còn ham thích những cái dục lạc của thế gian như vậy thì đâu phải là quy y Phật. Mặc dù bây giờ họ có quy y một ngàn lần đi nữa mà cái chùa mà ông Phật, cái tượng Phật bằng cái đứng cả cái bầu trời này nữa thì Thầy thấy đó không phải là quy y Phật đâu. Đó là những cái mà chúng ta không có để cho họ lừa bịp mình được.

Nếu quý vị muốn tìm tu giải thoát trong Phật giáo thì quý vị hãy nhìn Sa di thập giới, nghĩa là nhìn mười cái giới của Sa di của một vị thầy thì biết vị thầy đó là tu sĩ Phật giáo hay là tu sĩ ngoại đạo. Mặc dù họ cũng thờ Phật, họ cũng thờ tất cả những bậc Thánh tăng ở trong chùa mà cách sống của họ đó là họ quy y của vua chúa, họ quy y nhà giàu, họ quy y ông trưởng giả. Cho nên cách thức họ sống là sống theo cái ông trưởng giả, ông nhà giàu thì đó là chúng ta thấy họ không phải quy y Phật. Họ mượn cái hình ảnh Phật để họ quy y nhưng mà cái lối sống đó là theo mấy ông trưởng giả, nhà giàu, vua chúa, tức là không phải là cái ông thầy của chúng ta đâu, nó là ngoại đạo đó. Ở đây quý vị đừng phân biệt chiếc áo, cái đầu tròn mà hãy nhìn cái oai nghi tế hạnh của vị thầy ấy có đúng oai nghi tế hạnh của Thập giới Sa di hay không. Đó là lời khuyên của Thầy để chúng ta nhận xét cái người đúng người sai, cái người là thầy của mình chứ đừng có nương vào những ông thầy bậy bạ đó mà rồi chúng ta sẽ rồi cũng trở thành những nhà trưởng giả, những ông phú ông, những người vua chúa để chúng ta trở thành bắt chước nhau cả đám đó, để mà chạy theo những cái lợi dưỡng của thế gian.

Mục đích của đạo Phật là…. Giới luật tôn giáo của mình nên đức Phật đã xác định… Bây giờ cái bài kinh của đức Phật đã xác định cho chúng ta thấy cái mục đích của Phật giáo không có nghĩa là nêu lên, cái mục đích của đạo Phật nêu lên để mà giúp cho con người thoát ra cảnh khổ, chớ không phải tranh dành con người, chớ không phải giật mà đem tín đồ người ta vào tín đồ của mình, hay hoặc là đem mọi người, khuyên mọi người về với tôn giáo của mình hoặc xuất gia thọ Tam quy theo tôn giáo của mình. Đức Phật xác định cái bài này rất là rõ ràng và cụ thể.

Đây là qua lời của đức Phật mà xác định, nói với một cái vị Bà la môn ở trong thời của đức Phật đây.

“- Này Ni-ro-da! - tức là cái vị cư sĩ đó tên là Ni-ro-da – Lời tuyên ngôn của Như Lai khẳng định: Như Lai không muốn gồm thâu tất cả tín đồ trên thế gian này về mình”.

Đó là cái lời của đức Phật đã xác định mà, cho nên chúng ta mới thấy được cái đạo Phật nó cao quý ở chỗ đó, không có giành cái tôn giáo của ai, không có giành tín đồ của ai hết, không có muốn giật của ai hết. “Như Lai không muốn các ông từ bỏ công trình tu học theo đạo giáo của các ông”. Đó lời đức Phật xác định như vậy, nghĩa là đức Phật không có muốn các ông bỏ cái đạo giáo của các ông, từ bỏ lối sống của các ông. Nghĩa là không có từ bỏ cái lối sống của các ông, các ông sống sao các ông cứ sống, nhưng mà Như Lai chỉ có cái là dạy cho các ông biết cách sống đó nó thiện hay ác, nó đem đến khổ hay không khổ cho các ông thôi. Rồi các ông cứ ở trong các tôn giáo rồi các ông biết cái này nó làm khổ các ông thì các ông đừng có làm, mà cái này nó đem lại hạnh phúc thì các ông cứ làm.

Ông Phật chỉ muốn các ông giải thoát chứ không phải muốn các ông về với Phật giáo, về làm đệ tử của Phật nữa đâu. Ông Phật ông xác định như vậy, mà đức Phật chỉ vạch ra cái này nó làm cho các ông khổ thì các ông đừng có làm thôi. Còn cái này mà nó làm cho các ông không khổ thì các ông hãy làm. Thì cái đời sống của các ông sẽ hạnh phúc để sự giải thoát. Ông Phật muốn như vậy. Nghĩa là bây giờ Thiên Chúa, Cao Đài, Hòa Hảo, tất cả mọi tôn giáo trên thế gian này thì ông Phật không có muốn người nào bỏ cái tôn giáo của họ hết. Nhưng mà đức Phật chỉ cho bây giờ các ông theo cái tôn giáo này mà dạy vậy đó mà cái này là khổ thì ông đừng có tu tập, mà cái này là không khổ thì các ông tu tập làm cho nó đem lại cái hạnh phúc của đời sống ông. Hòa Hảo là Hòa Hảo mà Cao Đài là Cao Đài, đừng có nói ông mượn cái danh là ông Phật mà rồi ông cũng làm tầm bậy thì cũng không đúng Cao Đài, cũng không đúng là Phật giáo đâu. Mà chính ông ở trong một cái tôn giáo Cao Đài mà ông làm những điều đem lại hạnh phúc cho ông thì ông làm sáng tỏ cái tôn giáo của ông ra. Người tu ở trong tôn giáo chỉ có bổn phận tôi dạy cho các ông đem lại hạnh phúc cho các ông, giải thoát cái khổ thôi, mà ông có làm sáng tỏ thêm tôn giáo của các ông thêm chớ đâu có lợi ích gì cho Phật giáo của chúng tôi đâu. Cho nên đâu có nghĩa là chúng tôi lôi cuốn ông vào tôn giáo Phật giáo đâu, mà tôi muốn cái đời sống của các ông, con người ở trên thế gian này không phân biệt tôn giáo giai cấp nào hết, ai cũng được giải thoát.

Đó là chính cái mục đích của đức Phật đã xác định như vậy mà, cho nên ở đây Thầy đọc lại cái lời của Phật đã nói ở trong kinh mà người ta đã dịch ra rất là rõ ràng cụ thể. Có nhiều chữ thì họ dịch không có thoát nghĩa cho nên Thầy có sửa lại một vài chữ để cho nó thoát nghĩa cho đúng cái ý nghĩ của Phật. Bởi vì mình đọc một cái câu kinh mặc dù là học dịch ra họ dùng chữ không có sát nghĩa, nhưng mình phải hiểu được ý của đức Phật nắm ở trong cái câu nói đó. Cho nên mình phải dùng những cái chữ cho nó xác đáng hơn để cho người ta hiểu được cái ý của Phật.

“Như Lai không muốn các ông từ bỏ công trình tu học theo đạo giáo của các ông, từ bỏ lối sống hiện giờ của các ông. Như Lai cũng không phải đặt các ông tin vững chắc vào những việc mà chính các ông và các thầy cả các ông xem là xấu xa và bất thiện”.

Đây là Như Lai cũng nói bây giờ thầy của các ông dạy cái đó là xấu xa này, cái đó là bất thiện này thì các ông cứ tin vào ở đó đi. Phải không? Các ông đừng có bỏ những cái đó đi. Ờ, thầy của các ông bảo đó xấu thì các ông đừng làm, mà bảo cái đó là bất thiện thì các ông đừng làm, mà cái đó thiện thì các ông cứ làm. Nhưng mà bây giờ tôi là một cái người tôi chỉ, bây giờ các thầy của các ông nói cái đó thiện nhưng mà tôi vạch cho các ông thấy cái thiện này nó đem lại cho các ông có được an vui không. Nếu mà không được an vui tức là nó chưa thiện, thì các ông không nên làm, mà cái này nó là thiện, cái này nó là xấu xa mà cái này nó đem lại cho các ông hạnh phúc an vui, mặc dù là thầy các ông dạy nó là xấu xa nhưng mà cái này tôi giải thích cho các ông nghe mà nó đem đến cho các ông hạnh phúc, nó không xấu xa, nó không ác pháp nữa thì các ông nên làm, chứ tôi không bảo các ông nên bỏ những cái này. Các con hiểu không? Vì cái này các ông hiểu như thế nào đó mà các ông không có làm cho các ông được hạnh phúc mặc dù nó là cái giáo lý của người khác nói cái đó là xấu xa, cái đó là tệ, không nên làm nhưng mà trong cái xấu xa đó nó chưa phải tệ. Tôi vạch cho các ông thấy, vì vậy cho nên các ông thấy ờ cái này nó chưa phải xấu xa, nó còn có cái làm cho mình không khổ mà cho người khác không khổ.

Cũng như bây giờ có những cái mà nói rằng đó là thiện, là phải khổ hạnh như thế này thế khác, tức là đem cho mình được giải thoát, Ờ tui sẽ nói rằng bây giờ mình tu những cái hạnh mà khổ hạnh như con bò hoặc là như con chó thì nữa là mình cái thú hướng đó mình biết rằng cái đó là cái khổ hạnh là cái tốt mình đâu có hại ai, nhưng mình ráng mình tập theo mình giống theo con bò mình ăn cỏ rồi mình ỉa đái mình cũng làm như con bò cho nên tui mới nói đó là mình tu tập như vậy là nó sẽ đưa đến cái thú hướng này nó sẽ mình thành con bò. Mà quý vị có muốn thành con bò thì quý vị cứ tu. Còn quý vị không muốn thành con bò, thành con người thì quý vị cứ theo đây mà đừng có làm cái hành động đó nữa. Thì vậy đó! Thiện hay là ác thì do tôi vạch ra cho quý thầy thấy thôi chứ tôi không bảo là quý vị bỏ cái pháp đó, để đừng có thành con bò mà quý vị muốn thành con bò thì tôi đâu có cấm cản được, thì quý vị cứ thực hiện cái hạnh con bò thì nó sẽ thành con bò. Tôi chỉ vạch ra cho quý vị biết. Quý vị là con người mà quý vị muốn thành con bò thì quý vị cứ làm cái này đi thì nó là pháp thiện của quý vị. Còn nếu quý vị thấy ờ cái hạnh này làm con bò thôi quý vị thấy cái này không được, nó xấu xa quá, mình là con người mà mình làm kiểu ỉa đái rồi giống con bò nằm rồi quất đuôi quất cẳng rồi thì giống con bò thì không được thì thôi quý vị đừng có làm thì quý vị thấy con người mà làm giống con bò kỳ quá cho nên quý vị không làm. Vì vậy mà quý vị không thực hiện nó. Đó, rồi quý vị thấy nó là cái pháp không hợp quý vị thôi. Thì như vậy là tôi không có bài bác cái pháp người ta nói là đúng. Bởi vì người ta muốn thành con bò thì người ta cứ tu tập thành con bò chứ làm cản sao. Tại vì người ta muốn như vậy!

Đó là đức Phật muốn nói như vậy để chúng ta thấy biết rằng đức Phật không có can dự vào các tôn giáo của ai, ai tu đúng tu sai, nhưng mà đức Phật muốn mọi người ở trong tôn giáo đều có một sự giải thoát, làm cho họ hết khổ thôi. Đó là cái mục đích của đạo Phật mà, mặc dù anh ở tôn giáo nào đó thì anh cũng có cái khổ ở trong đó chứ, cái khổ của đời sống của anh, khổ vì vật chất, khổ vì tham muốn. Cho nên tôi chỉ vạch cho các ông thấy các ông ở tôn giáo nào cũng vậy nhưng mà làm sao các ông thoát ra được khổ là cái mục đích của tôi. Tôi muốn giúp đời thoát khổ chứ tôi không muốn đem lại cho tôn giáo tôi có hàng triệu người theo tui đó thì tôi không muốn đâu. Dù bây giờ tôi không có người nào theo tôi tôi vẫn đem cái giáo pháp này mà tôi dạy cho tất cả các người đều được giải thoát. Đó là cái nguyện vọng của tôi chứ tôi không muốn tôi có một tôn giáo mà hàng vạn hàng triệu như người ta thường ca ngợi là Phật giáo bây giờ trên thế giới đều tập trung, chỉ có Phật giáo là độc nhất, là con người theo tu nhất, còn Thiên Chúa hoặc là các tôn giáo khác bây giờ chỉ có số không. Thì cái điều đó chắc ông Phật ông không muốn cái điều đó rồi. Quý thầy phải hiểu trong cái mục đích của đạo Phật khi đọc kinh Thầy mới hiểu được cái giáo lý của Phật nó cao siêu đến cái mức độ mà người ta không có thành lập một cái tập thể để bành trướng cho rộng từ đông sang tây, từ nước này qua nước khác để mà bành trướng cái tôn giáo người ta đâu. Phật giáo không có mục đích đó đâu. Mà chỉ có mục đích đem cái giáo lý đạo đức Nhân quả để lồng vào cái khuôn khổ con người, để giúp cho con người ở trong cái tôn giáo nào người ta cũng vượt thoát ra được cái khổ đau của cái lộ trình của nhân quả. Đó là cái hay của đạo Phật nhất mà Thầy thấy Thầy phục, Thầy nói chung là Thầy tu rồi Thầy thấy ở trên đời này không có một cái tôn giáo nào hơn Phật giáo ở chỗ này hết. Tôn giáo nào cũng muốn bành trướng rộng ra hết à. Từ nước này nó bành trướng ra nước kia. Cho nên từ Đại Thừa nó phát triển rồi nó đi tùm lum hết rồi hoằng dương đạo pháp để nó bành trướng chứ gì. Còn ông Phật thì muốn đem cái giáo pháp đó đến dạy cho người ta ở đó con tôn giáo nào mặc người ta nhưng mà làm sao cho người ta thực hiện được cái thiện pháp, cái nhân quả để người ta thấy cho rõ, đem lại hạnh phúc cho người ta là đủ rồi chứ đừng có phô trương mình, tôn giáo của mình có hàng triệu người đó thì cái đó là cái hiểu Phật không có đúng Phật đâu.

Đó thì hôm nay quý thầy được nghe Thầy giảng tới đây quý thầy mới thấy được cái mục đích của đạo Phật nó không phải là cái mục đích đi xâm chiếm người ta, phá cái tôn giáo người ta cho nên đức Phật không bao giờ muốn tranh luận với ai hết đó.

“- Này Ni-ro-da! Như Lai chỉ nói lên những điều xấu xa và bất thiện mà không buộc ai lại bỏ những điều đó”.

Nghĩa là nói lên nhưng mà cũng không bắt buộc ai, miễn là người ta thấy cái điều đó đem đến cái sự mà người ta giải thoát được thì người ta an vui hạnh phúc được thì người ta làm, chứ không bắt buộc người nào hết. Cho nên cái bổn phận là đức Phật nói lên cái sự thật để cho người ta thấy rồi người ta đứng ở cái vị trí cuộc sống như thế nào đó mà người ta chấp hành cái sự thật đó để đem lại cho người ta có một cuộc đời giải thoát.

Bởi vì đức Phật chỉ nêu lên cho chúng ta thấy là những cái điều ác, những cái điều mà liên hệ đến cái sự ô nhiễm, nghiện ngập, thói quen dẫn đến trở thành từ không đến có. Nghĩa là đức Phật muốn dạy chúng ta từ cái không có đó mà chúng ta trở thành cái có. Như bây giờ chúng ta chưa nghiện thuốc điếu này, rồi bắt đầu chưa có hút thuốc gì, bắt đầu chúng ta nghiện ngập thì từ đó từ cái chỗ không chúng ta tới có cái ghiền. Cũng như bây giờ chúng ta chưa có quen uống rượu, kê miếng rượu vô đắng nghét, phun ra không kịp. Rồi bắt đầu từ đó chúng ta tập quen với bè bạn rồi bây giờ nốc cái từ cái chai này đến cái chai khác cũng cạn sạch hết thì do đó từ cái không mà đến cái có. Đức Phật nói cho chúng ta thấy cái giáo pháp của đức Phật nó chỉ cho chúng ta thấy từ con người từ cái không mà đi đến cái có, nó trở thành cái Nghiệp. Từ cái Nghiệp đó nó dẫn chúng ta đi tái sanh luân hồi chớ không có một đấng vạn năng nào mà tái sinh luân hồi chúng ta.

“Những điều này phiền nhiễu và quấy rầy, chướng ngại, tạo hậu quả đau khổ dẫn đến chỗ nương tựa bất an cho mọi người”.

Đó những cái điều mà đức Phật dạy chúng ta thấy chứ không phải là đem cái giáo pháp mà nói thiền này thiền kia cao siêu tuyệt vời hoặc là nói làm chủ sanh tử lòe người ta thì cái đó là cái không đúng. Không có đúng của đạo Phật đâu mà chính cái chỗ đúng là cái chỉ cho người ta vì cái chỗ mà người ta từ cái có mà đến không, ờ từ không mà đến có nó thành cái Nghiệp của họ. Những cái đó nó mới tạo ra những cái hậu quả đau khổ dẫn đến cái chỗ nương tựa bất an cho mọi người, người ta không còn cái chỗ nương tựa yên ổn được nữa, nó bất an.

Cũng như bây giờ trong gia đình mình có người nghiện thuốc phiện, mỗi lần mà không có thuốc phiện nó co nó giật ông ta thì cả gia đình đau khổ chứ làm sao mà sung sướng được. Quý thầy thấy cái vấn đề đó. Vì vậy mà đức Phật muốn làm sao người ta từ cái không mà đi đến cái không nữa để cho người ta thoát ra khỏi. Để bây giờ từ cái không người ta đi đến cái có mà cái có kiểu đó là cái có khổ sở của cuộc đời biết bao nhiêu là người khổ. Cho nên nhìn chung đạo Phật có, mà có ai dạy đúng để cho con người thoát ra cái khổ không? Cho nên cái ước vọng của Thầy khi mà Thầy ẩn bóng Thầy vẫn tiếp tục soạn cái Giáo trình đạo đức Nhân quả để cứu con người thoát ra khỏi, dẫn con người thoát ra khỏi mặc dù họ ở cái tôn giáo mặc họ. Thầy làm đúng y như lời Phật đã nói ở trong cái bài kinh này. Thầy không cần là người ta theo Thầy thọ Tam quy Ngũ giới với Thầy gì hết. Thầy không cần có người đệ tử nào hết, nhưng mà người nào mà đã thực hiện được sự giải thoát thì phải nói rằng người đó là đệ tử của Phật. Cho nên dù họ ở Thiên Chúa, tôn giáo nào đi nữa thì họ cũng là thực hiện được cái pháp lành đó là cái hạnh phúc của đạo Phật đã dẫn dắt con người ra khỏi cái bể khổ trầm mê này rồi.

Đó, cái ước vọng của Thầy mà Thầy đã hiểu được Phật và Thầy là cái người mới tập tành được cái đường lối của đạo Phật chút ít cái sự giải thoát trong thân tâm của mình, xa lìa những cái dục lạc của thế gian, Thầy đã thấy được và hiểu được cái tâm nguyện của đức Phật. Cho nên Thầy là một cái người đi sau mà hiểu được như vậy thì làm sao mà Thầy làm ngơ trước cái con đường của đạo Phật được, làm sao mà Thầy làm ngơ trước cái đức Phật mà đã có tâm tha thiết đối với chúng sanh mà để lại cái giáo pháp cứu con người ra khỏi cái đau khổ mà chính bàn tay và khối óc của họ đã tạo cho họ đau khổ.

“Từ duyên có đến duyên sanh tạo thành mạng lưới trói buộc, phiền não, tái tê, u sầu và bệnh chết suốt cả đời này sang đời khác của kiếp con người mãi mãi”.

Nghĩa nhìn thấy như vậy làm sao mà không thương xót chúng sanh được. Thấy mọi người ngồi trước mặt của Thầy, Thầy biết được rằng nó sẽ lưu chuyển mãi mãi đời này sang đời khác làm sao chấm dứt được. Thầy chỉ chấm dứt có mình Thầy, còn các thầy làm sao đây? Đâu phải Thầy là cây là đá mà ngồi đó thấy người ta đang lăn lộn ở trên cái sự đau khổ của cái sự tái sinh luân hồi này. Mỗi một kiếp người là đau khổ, Thầy đâu phải là những thứ vô tri mà không biết thương xót người. Cho nên Thầy đâu có làm ngơ được. Vì vậy mà buộc lòng Thầy phải viết cái giáo án này, chứ Thầy đâu còn ham danh ham lợi gì mà viết ra cái này để mà cầu tên tuổi mình đâu. Mà vì sự đau khổ của con người, vì tất cả con người trên thế gian này mà viết ra cái giáo án để xây dựng lại con đường đúng của đạo Phật để đem lại một cái đạo đức Nhân quả cho mọi người để người ta thọ hưởng được cái sự giải thoát chính bản thân của họ, chính hành động của họ. Đó là cái điều mà Thầy ao ước, ước muốn. Cho nên Thầy suốt cái thời gian mà ba tháng nay mà Thầy nỗ lực ngày đêm liên tục không giờ nào ngơi nghỉ, để làm gì? Để thành lập, để xây dựng lại cái giáo trình cái giáo án của đức Phật mà ngày xưa đức Phật đã khổ công tu tập tìm ra được cái chân lý này, cái giáo pháp này mà giúp cho con người trên thế gian này thoát khổ. Mà bây giờ Thầy là người thừa kế cái giáo Pháp này được thấy sự giải thoát nơi tâm hồn của mình mà lại làm ngơ trước sự đau khổ của chúng sanh thì Thầy làm sao mà làm được. Cho nên dù là thân của Thầy có tan rã, sức khỏe Thầy có mòn mỏi đến cách nào Thầy cũng cố gắng cái giáo pháp này nó phải được ra đời, phải được thực hiện ở trong cái đời nay để cứu con người thoát ra khỏi.

“Vì thế Như Lai muốn loại bỏ những điều ấy giúp mọi người thoát khổ, nên không phân biệt giai cấp của xã hội và tất cả các tôn giáo trên thế gian này”.

Đó thì quý thầy thấy ở đây các thầy thấy qua cái ý của đức Phật những cái bài kinh ngắn mà Thầy đọc ở trên thì chúng ta biết được cái ý của đức Phật.

“Vì thế Như Lai muốn loại bỏ những điều ấy giúp mọi người thoát khổ, nên không phân biệt giai cấp của xã hội”.

Giai cấp nào ở trong xã hội thì đức Phật cũng không có phân biệt và tất cả các tôn giáo trên thế gian này.

“Do vậy Như lai mới tuyên dạy giáo pháp của mình”.

Do mà có tư tưởng mà không có phân biệt giai cấp ở trên xã hội này cho nên trong cái giáo đoàn của đức Phật Thánh tăng các thầy thấy có những bậc trong các giai cấp rất là hạ tiện, là những giai cấp như là hốt phân đó đó. Cái giai cấp rất là hạ tiện mà đức Phật vẫn chấp nhận vào cái giáo đoàn của mình. Làm cho vua chúa quá sợ hãi đó. Như ông Ca Chiên Diên là cái người hốt phân ở trong thành Xá vệ đó. Người đi từng nhà mà xin rác phân của người ta để về làm trồng trỉa cái gì đó. Cho nên cái giai cấp này là giai cấp rất hạ tiện hoặc là đi hốt rác hốt phân của nhà người ta để mà dọn dẹp nhà cửa nhà người ta cho sạch sẽ rồi đem ra cái gò mả hay cái đồng trống nào gánh đổ ngoài đó để không hôi thúi đó. Thậm chí như con người ta ỉa đái gì đó thì ông cũng phải gánh để mà đem ra đồng mà đổ đó. Ngày ngày đi kiếm cơm kiếm gạo bằng cái cảnh hạ tiện như vậy. Mà thế mà một bậc Thánh tăng ở trong cái thời đức Phật thì đủ biết rằng cái giai cấp mà ở trong đạo Phật nó không có giai cấp nào hết, cho nên phá dở những giai cấp. Nhưng mà đức Phật không có phân biệt cái giai cấp. Nếu mà đạo Phật phân biệt giai cấp thì làm sao mà thu nhận ông Ca Chiên Diên. Đó thì quý thầy thầy nó rất rõ.

“Nếu sống đúng theo giáo pháp những gì có liên hệ đến ô nhiễm, làm mọi người đau khổ sẽ được loại trừ”.

Đó, thì các thầy thấy những cái pháp mà ô nhiễm nó làm cho chúng ta có sự liên hệ đến ô nhiễm thì chúng ta nên hãy đoạn trừ nó đi, dứt trừ đi. Thì cái ô nhiễm đó là cái gì? Cái ăn cũng không phải là ô nhiễm sao? Cho nên ở đời người ta cũng thích ăn. Rồi cái ngủ cũng không phải ô nhiễm sao? Tất cả những cái đó là cái pháp ô nhiễm, nhưng mà tại sao chúng ta không thấy mà bây giờ quý thầy cứ nói ăn ít là nó thiếu sức khỏe, nó là cái pháp ô nhiễm chứ nó thiếu sức khỏe nào? Bằng chứng như chúng ta sống ở đây ăn ngày một bữa chúng ta có thấy thiếu sức khỏe đâu! Người nào Thầy thấy cũng nói: từ ngày vô tới giờ Thầy thấy không có người nào ốm hơn chút nào hết. Đâu có người nào còn cái bộ xương đâu mà gọi là ăn thiếu chất. Cho nên chúng ta mấy người có đem theo bánh trái ăn phụ không? Đâu có người nào mà nhét trong giường được. Do đó thì làm sao gọi là ốm yếu đâu. Người nào ốm thì nó cũng vậy mà người nào bình thường thì nó cũng vậy, mà người nào mập thì Thầy thấy cũng ăn ngày một bữa vậy thôi chứ cũng không thấy sa sút chút nào hết.

Đó là những cái mà chúng ta thấy đó là những cái pháp ô nhiễm. Chúng ta nhận ra cho được cái pháp ô nhiễm đó mà chúng ta tránh nó đi để chúng ta không có được không còn ô nhiễm nữa. Những pháp thiện pháp làm cho con người trở nên trong sạch và an vui thanh thản. Bởi vì những cái ác pháp đó làm cho chúng ta không có an ổn được, nó phiền não, nó giận hờn, nó đau khổ thì làm sao cho tâm hồn của chúng ta trong sạch được. Mà chỉ có thiện pháp nó mới giúp cho chúng ta trở nên trong sạch và an ổn, thanh thản, hạnh phúc, sẽ được tăng trưởng. Đó là những cái lời của Phật dạy rất là thực tế cụ thể chứ đâu có cái sự mê mờ. Cứ chổng gọng ngồi thiền mà trong khi đó ăn ngày ba bữa thì cứ sống như cái pháp ô nhiễm thì thử hỏi ngồi thiền nó có thanh tịnh nổi không? Đâu có gạn lọc được cái tâm hàng ngày mình tiếp xúc ba bữa rồi ăn lặt vặt tầm bậy tầm bạ, bánh trái lúc nào cũng nhét vô miệng hết thì thành thử nói mình cứ ô nhiễm hoài cái ô nhiễm đó. Rồi tối tới giờ ngủ thì không có chịu thức dậy tu tập tỉnh thức mà hễ nó buồn ngủ thì trèo lên giường nằm ngủ. Ngủ đã giấc rồi thì lười biếng không chịu dậy nữa. Nắm đó nướng qua nướng lại cũng như nước bánh phồng thì thử hỏi quý thầy nghĩ sao những người như vậy có phải là những người sống ở trong cái pháp ô nhiễm không? Mà giờ nào khuya nào cũng dậy ngồi thiền thì ngồi thiền cái đó là ngồi thiền cái gì? Ngồi thiền thì mình phải biết mình tránh những cái pháp ô nhiễm để cho tâm mình tỉnh lên chứ! Còn đằng này không thấy gì hết. Ô nhiễm vẫn ô nhiễm.

Cho nên Thầy thấy một số người ở đây họ về tu đây thời gian trước buồn ngủ ngủ gục cái bắt đầu họ mới đầu thì họ ngồi thiền họ tranh nhau giữ lắm. Họ ngồi dám tới 12 giờ 1 giờ khuya họ mới xả họ đi nghỉ. Họ làm cho họ ngồi có hơn, nhưng mà họ làm có mấy bữa à, sau đó 9 giờ hay là 8 giờ đó họ đã chui trong cái góc nào đó rồi họ ngủ. Hỏi Mật Hạnh có có không? Ở đây Mật Hạnh đã chứng kiến cái điều đó quá rõ mà đâu có gì sai đâu. Họ đâu có thực hiện được. Còn Mật Hạnh thì nó lăn, buồn ngủ thì nó lăn theo cái hàng ba ở trước cái tổ đường ở trước đó. Nó lăn vòng vòng để cho nó không ngủ. Còn quý thầy ngồi gục xuống mà ngáy kho khò thầy đi ngang qua, trời đất! Giờ này mà tu kiểu này chắc là thành Phật hết rồi. Mấy ông đó nhập định hết rồi. Định không phải định Tứ thiền đâu, nó định ngủ thiền đó. Bởi vậy khi đi kinh hành mà Thầy ngang qua Thầy xem thấy quý thầy thôi rồi, kiểu này quý thầy nhập ngủ hết, ngủ thiền hết.

Bởi vậy chúng ta phải thấy được cái pháp thiện, cái pháp ác, cái pháp ô nhiễm nó như thế nào là ô nhiễm, như thế nào là không ô nhiễm thì chúng ta phải biết rằng cái gần gũi nhất là cái pháp ăn của chúng ta là pháp ô nhiễm nhất.

(...) sẽ được tăng trưởng và chúng ta có thể cũng như mọi người sống an vui hạnh phúc bên nhau mà không làm khổ cho nhau ngay tại đây và trong hiện tại mãi mãi.

Bởi vậy nền giáo dục của đức Phật đã vững chắc duy trì giá trị hướng dẫn thực dụng vào đời sống con người, đạo đức nhân quả của con người. Từ xưa cho đến ngày nay không có một nền giáo dục đạo đức nào so sánh hơn được. Nghĩa là chúng ta thấy cái nền đạo đức Nhân quả của đạo Phật thì không có một nền đạo đức nào từ xưa đến giờ mà hơn cái nền đạo đức này được. Bởi vì họ đạo đức nhưng mà thật ra họ không có làm sao mà thoát được cảnh khổ là không làm khổ mình khỏi người. Đạo đức nhân quả nó làm cho mình không còn làm cho mình đau khổ mà cũng không còn làm cho ai đau khổ mình khổ hết. Cái đạo đức nhân quả nó đặc biệt như vậy đó! Nó làm cho có một hạnh phúc tràn đầy, cái sự sống của chúng ta trong cuộc sống của con người hàng ngày.

Nền giáo dục của Phật giáo không phải dành riêng cho một chủng tộc, một quốc gia hay một vùng nào, mà phải phổ cập khắp cùng mọi nơi trên toàn thế giới. Nghĩa là cái mục đích mà đạo đức Nhân quả này phải được phổ cập rộng rãi như vậy mới cứu hết con người ở trên thế gian này, chứ nếu không thì không thể cứu người ta được. Chứ không phải là cái tôn giáo nhỏ mọn như Phật giáo mà dạy thiền này thiền kia tu theo có một số người là không phải đâu. Cái giáo pháp của Phật, cái nền đạo đức của Phật nó phải sâu rộng như đến đó để cứu con người ra khỏi từng cái bàn tay, từng cái hành động do chính họ tạo ra sự đau khổ cho chính họ.

Nền giáo dục của Phật giáo dạy con người có lối sống vững vàng, mạnh mẽ và thuần đạo lý nhân quả. Nền giáo dục của phật giáo là một giáo lý thực dụng và hợp với lý trí của con người nhất. Không có một lý luận, luận cứ dưới mọi hình thức mê tín, cuồng tín nào xen vào đạo đức Nhân quả được. Nghĩa là quý thầy thấy Thầy xác định câu nói đó rất đúng mà. Không có một cái mê tín một cái cuồng tín nào mà xen vào cái đạo đức Nhân quả được. Nghĩa là nó cầu ông Thánh ông Phật thì cái đó bị luật Nhân quả đập ngay tức khắc. Cho nên kinh sách mà đứng ở trên luật nhân quả rồi Thầy đập xuống hết. Bởi vì Thầy biết đức Phật xây dựng cái nền đạo đức đó để cứu con người ra khỏi cái kiếp trầm luân đau khổ của họ, mà chính người nào đã xây dựng mà xen vào mà cái giáo pháp của đức Phật bằng những cái mê tín cuồng tín tầm bậy tầm bạ đó thì lúc bây giờ nền đạo đức Nhân quả nó sẽ đốn xuống hết, nó không để chừa một cái bài kinh nào bậy bạ đó được hết.

Bức thông điệp của đức Phật để lại cho mọi người thời đại và ngày nay, chúng ta đều nhận thức rằng nền giáo dục đạo đức Nhân qủa của đạo Phật cung ứng, thích nghi, giải đáp cho những thắc mắc mà tâm trí của con người hiện đại đang khao khát mong tìm một nền đạo đức Nhân bản chân thật. Đó là một cái nền đạo đức Nhân bản chân thật. Nhân bản tức là cái đạo đức của con người đó, dùng ở đây cho sát nghĩa là chữ Nhân bản đó thì để quý thầy thấy rằng cái nền đạo đức Nhân quả đó là một cái nền đạo đức Nhân bản chân thật để giải quyết những khó khăn trên khắp toàn cầu.

Bây giờ chúng ta đâu có cái đạo đức nào mà toàn thiện như vậy, có thể giải quyết cho con người ở khắp toàn cầu này được, chỉ có cái đạo đức Nhân quả mới có thể giải quyết được cho con người. Bởi vì mọi con người đều có hành động nhân quả hết. Còn những cái đạo đức kia thì nó đâu có thể nằm ở trong những cái hành động đó. Cho nên họ làm sao mà họ phổ cập khắp toàn cầu được. Cho nên người ở bộ lạc này kẻ ở bộ lạc kia đều là những người dân dù cho họ có lạc hậu đến mấy đi nữa mà chúng ta vẫn đem cái nền đạo đức này đến dạy họ thì họ vẫn thấy cái đúng cái sai liền tức khắc. Không ai là con người sinh ra trên trái đất này mà không hiểu được. Nó đâu có gì mù mờ, nó rất rõ. Một cái hành động mà anh giết một con vật thì phải thấy sự đau đớn của con vật chớ làm sao anh không thấy. Mà anh thấy cái sự đau đớn đó thì chính cái thấy sự đau đớn của thân anh. Tại sao anh nở tâm anh làm điều đó, thì do đó làm sao cái người đó bây giờ họ lạc hậu cách gì đi nữa thì Thầy nói ra họ cũng hiểu được.

Cho nên thầy lên án Phật giáo ở bên Nam tông là do cái sự dạy người ta không đúng cái đạo đức Nhân quả, cho nên cái dân tộc có đi tu nhưng mà không thấy cái đạo đức Nhân quả cho nên cầm súng cầm gươm mà giết nhau như vậy thì lên án là phải chớ làm sao mà không phải. Bởi vì họ không hiểu đạo đức Nhân quả là cái gì. Họ tưởng là nào là Tứ niệm xứ này, Tứ diệu đế này, nào là Thất giác chi này, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề này, rồi họ thuyết giảng ba cái đó ra rồi họ chế tầm bậy tầm bạ ra đủ loại thiền đủ loại này kia, kinh sách thì bán đầy chợ mà dân tộc thì hung ác như là con quỷ sứ. Thì chúng ta thử hỏi chúng ta thấy như thế nào? Đạo Phật mà quốc giáo mà dạy con người như vậy, đưa con người đến chỗ tàn ác giết người như vậy thì quốc giáo đó là quốc giáo gì? Có phải là tà giáo không? Nói Phật giáo chứ sự thật ra đó là tà giáo. Phật giáo đứng ở trên Nhân quả thì làm sao mà xây dựng con người tàn ác như vậy?

Đến đây Thầy bổ túc thêm cho bài Kinh Trung bộ...

 Mặt B

CƯ SĨ VISAKHA VẤN HỎI TỲ KHEO NI DHAMMADINNA.

Đây là một cái bài pháp giữa cư sĩ Visakha là chồng của bà Dhammadinna, bà xuất gia bà thành Ni tỳ kheo khi bà từ giã gia đình bà và được chồng bà chấp nhận cho xuất gia và khi mà thành tựu được đạo pháp bà trở về thăm nhà thì chồng bà hỏi bà, vấn đạo bà qua những điều bà đã hiểu Phật pháp tu hành như thế nào mà hiện giờ bà được đức Phật chấp nhận là một vị Alahán. Ông cũng đâu có tin bà nói rằng cái vấn đề bà đã chứng quả Alahán đâu. Ít ra bà cũng phải trả lời cho tôi nghe sao mà cho ngọt cái lỗ tai tôi tôi mới chấp nhận chớ lơ mơ thì tôi méc với đức Phật liền chớ bà đừng về đây bà tự xưng bà là Alahán là chết đó. Đâu có chuyện dễ đâu! Đối với ông cư sĩ này cũng đâu phải tay thường, ông là đệ tử cư sĩ mà cũng là đệ nhất chứ đâu phải là thường. Cho nên khi bà về gặp lại ông thì Thầy nhắc lại:

Khi mà ông Visakha mà ông đến với đức Phật ông được nghe một bài thuyết pháp, sau đó ông về Thầy có nhắc lại cho các thầy nghe rồi một lần mà, thì về thì thường thường ông đi đâu về thì bà Dhammadinna đón tiếp ông dưới cầu thang, rồi đưa bàn tay cho ông nắm, rồi hai người mới dẫn nhau mà đi lên nhà khách hoặc lên phòng nghỉ. Thì hôm nay thì bà đưa cánh tay thì ông không nắm, rồi ông lách bà ông đi trước, không có đi song song nữa! Chơi cái kiểu đó đó! Cho nên bà đi sau chứ trong bụng bà nghe nó ấm ức không biết bữa nay ông đi vào Tịnh xá nghe Phật thuyết giảng không biết là có bà nào mà cái kiểu này là chắc là có bà nào rồi. Kiểu này là không có được rồi. Thế nào là lên phòng khách đây cũng phải cật vấn ông một hơi cho đã mới được chớ còn không khéo phải cho mấy con đầy tớ nó đi rình coi ông này ông đi nghe Phật thuyết giảng kiểu nào mà ông về ông làm cái hành động như thế này. Vì vậy đó cho nên khi vào phòng khách ngồi rồi thì thay vì mọi lần thì ông bà ngồi chung nhau một ghế, nay ông chơi ngồi riêng bên kia ông ngó hoài bà ngồi riêng bên này. Bà xích xích lại gần ông nói không có được, bà ngồi ở đây! Đó! Người ta hiểu Phật pháp người ta nhập lưuđược tức là người ta đã có hành động xả liền đó. Còn các con nghe thầy thuyết giảng mỏi miệng đó chứ chưa chắc đâu! Về cái vợ con ngồi trời nó chạy ra nó ôm thì ẳm nó luôn đó. Chứ chưa đâu! Ở đây nói thật mà! Ờ đứa này đứa kia tùm lum nó chạy "Ba đi lâu quá! Ba tháng trời nay con nhớ ba quá!". Thôi ẳm đứa này đã rồi ẳm đứa kia, hun hít đứa này nọ kia. Thử hỏi nghe Thầy thuyết pháp vậy có nhập dự lưu chưa? Chưa! Còn bà này, cái ông này ông nghe Phật thuyết pháp rồi về cách ly, bà xích xích lại gần, "Bà ngồi đó đi! Không có lại gần đây!". Thấy chưa? Đó là người ta đã nhập lưu Thánh rồi, người ta không có còn thấy dục lạc đó, không có còn thấy cái cảm giác giữa nam nữ nữa. Mà người ta biết đó là cái khổ cho nên người ta cắt ly liền, người ta không còn cái thích thú mà ngồi nói chuyện với cái chuyện tầm thường của thế gian nữa, mà người ta nhắm vào cái sự giải thoát chứ người ta không còn nhắm cái thế gian phàm phu tục tử đó nữa. Cho nên cái người chưa hiểu thì cái tâm người ta còn dính mắc, người ta thấy đó là hạnh phúc. Còn cái người đã hiểu rồi người ta thấy đó là cái khổ nạn, cái đau đớn chứ đâu phải là cái hạn phúc.Cho nên hai cái người mà nhập lưu rồi, nghe vừa nghe bài pháp rồi thì này nhập lưu rồi, vào Thánh quả rồi. Cho nên cái hành động của ông là hành động Thánh rồi, chứ còn hành động phàm phu chúng ta gặp con gặp vợ là thấy ẳm thôi, hun hít lia lịa thôi. Rồi lại nói: Ba đi ba về ba mua bánh đồ này kia cho con. Ờ để chút nữa ba dẫn con đi ra nhà hàng cha con vợ chồng mình ăn một bữa, lâu ngày vắng nhau bây giờ làm cho vui một bữa! Đó là những cái tâm phàm phu thật mà, Thầy nói thật sự đó gọi làm sao chứng Thánh quả được. Mà Thầy nói mỏi miệng các con có chứng Thánh quả không? Mà ông Phật ông nói bài pháp rồi ông này ông chứng Thánh quả liền. Đó gọi là nhập dự lưu. Các con thấy rõ không? Đó rõ ràng người ta nghe là người ta dứt được đó là dự lưu, chứ chưa phải là người ta tu tập gì hết. Người ta bỏ được đó là dự lưu.

Bây giờ ông Visakha hỏi này:

"- Thưa ni sư! Bản thân của chúng ta được gọi là ngã, còn Thế Tôn gọi nó như thế nào?".

Đó, ông trắc nghiệm bà thử coi. Bây giờ cái thân của mình đây thì ai cũng biết nó là ngã. Vậy bà học với đức Thế Tôn thì Thế Tôn gọi nó là cái gì?

"- Này hiền giả Visakha! Thế Tôn gọi năm Thủ uẩn là Tự thân chớ không phải là ngã".

Thấy không? Thấy ông Phật ông nói rất rõ không? Chớ không các con cũng nói là đức Phật nói là năm cái Thủ uẩn này nó hợp lại thành cái ngã của mình. Nếu vậy là mấy con đã phỉ báng Phật rồi đó! Phải không? Còn ông Phật ông nói rất rõ. Các con sẽ nghe những cái bài này thấm thía được cái chỗ mà đức Phật dạy.

"- Này hiền giả Visakha! Thế Tôn gọi năm Thủ uẩn là Tự thân chớ không phải là ngã. Tức là năm Thủ uẩn ... thọ Thủ uẩn... ".

"- Này hiền giả Visakha! Thế Tôn gọi năm Thủ uẩn là Tự thân, chớ không gọi là tự ngã. Tức là sắc Thủ uẩn, thọ Thủ uẩn, tưởng Thủ uẩn, hành Thủ uẩn và thức Thủ uẩn, năm Thủ uẩn này Thế Tôn gọi là Tự thân, không gọi là tự ngã".

Đó, bà nhắc lại. Bởi vì ông Visakha hỏi chúng ta thấy cái thân này, cái thân của chúng ta đó gọi là tự ngã. Còn Thế Tôn gọi nó như thế nào? Bà giải thích chúng ta thấy rõ cái chỗ mà gọi là Tự thân nó khác mà gọi là tự ngã nó khác. Chúng ta phải phân biệt được hai cái danh từ dùng thì chúng ta mới hiểu được cái chỗ nói.

"- Lành thay! Thưa ni sư, xin ni sư cho hỏi một câu nữa!".

Được rồi! Bà nói đúng quá rồi! Tôi cũng nghe ông Phật nói vậy rồi. Bà nói thì không sai rồi. Thì bây giờ cho hỏi câu nữa chứ bấy nhiêu đó tui chưa có đủ tin bà đâu! Bà đâu nói hay đi nữa bà cũng nhại lại cái miệng của ông Phật chứ đâu phải là của bà, cho nên tui đâu có tin. Bà có vui lòng thì tui hỏi nữa, bà không vui lòng thì thôi, tui đi nghỉ. À nhưng bà này thì cứ tự tiện, hiền giả cứ tự tiện mà hỏi.

"- Tự thân tập khởi được gọi như vậy. Còn Thế Tôn gọi như thế nào?".

Cái Tự thân mà nó tập khởi năm cái Thủ uẩn nó tập khởi như vậy thì gọi nó là Tự thân. Còn bây giờ Thế tôn gọi nó như thế nào?

Đó! Bây giờ cái Tự thân mà nó tập khởi như vậy đó thì chúng ta đã được trả lời ở trên đó là cái Tự thân rồi chứ không gọi tự ngã. Vậy thì nó có cái gì ở trong đó nữa không? Nó còn có cái gì ở trong đó nữa không? Cái câu của ông Visakha hỏi câu này:

"- Tự thân tập khởi được gọi như vậy!".

Tức là gọi như ở trên rồi.

"- Còn Thế Tôn gọi như thế nào nữa?"

Gọi cái Tự thân đó cái Tự thân nó còn có tên gì nữa không? Nó còn dụng gì ở trong đó nữa không hoặc là nó còn cái thể gì ở trong đó nữa không? Hay hoặc là nó chỉ bao nhiêu đó là tự thân thôi. Quý thầy hiểu cái chỗ đó cho nên ở trong cái chỗ đó thì bây giờ được gọi nó là Tự thân rồi. Đức Thế Tôn gọi nó là Tự thân rồi, tôi chấp nhận đúng rồi nhưng bây giờ ở trong cái Tự thân đó nó còn có cái gì nữa không? Nó còn có cái gì nữa không mà có thể gọi nó một cái tên khác được không? Hay là chỉ có gọi nó Tự thân thôi.

Đó, thì cái ông này cũng rắc rối cái bà này dữ lắm, cho nên ông hỏi cái kiểu thiệt là rắc rối chứ. Đã nói Tự thân rồi còn hỏi ở trong đó có cái gì nữa mà còn có gọi cái tên gì nữa còn đòi nó có nhiều tên nữa. Thì bà Visakha cũng vui vẻ mà trả lời:

"- Này hiền giả Visakha! Khát át này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ, tham, tìm cầu, hỷ lạc chỗ bày chỗ kia tức là dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Khát ái này Thế tôn gọi là Thân tập khởi".

Phải không? Bây giờ cái nhóm của nó là năm cái Thủ uẩn nó hợp lại thì gọi là Tự thân, nhưng mà trong cái Tự thân đó có còn cái dụng gì ở trong đó cho nên nó phải có cái... bây giờ nó Tự thân không rồi nó nằm cứng ngắc ở đó rồi cũng như gộc cây thì có nghĩa lý gì đâu. Phải không? Cho nên cái ông này ông rắc rối bà này dữ lắm. Ông hỏi nhưng mà bà này cũng lanh trí thiệt chứ không phải không. Bà biết được cái chỗ mà bà tu học cho nên bà biết được cái sự ngọt dụng của thân, nó phải có cái Khát ái trong đó cái thân nó mới có linh động chứ nếu mà nó như cái gộc cây hợp lại thành cái bàn này thì thôi rồi, thì làm sao mà gọi là cái Tự thân của con người được phải không? Cái bàn bây giờ nó cũng duyên hợp, nó cũng là đất nước gió lửa nó hợp thành cái bàn. Nhưng mà rốt cuộc cái bàn nó đâu phải là cái thân con người đâu. Cái cây kia nó làm sao nó giống con người được. Cho nên nó có những cái trí tuệ, nó có những cái gì ở trong cái Tự thân đó, cho nên cái câu hỏi của ông Visakha là như vậy để chúng ta thấy từ cái chỗ Tự thân của chúng ta nó có cái gì đó mà chúng ta nó mới chấp thành cái ngã. Còn nếu nó không có thì ai gọi nó là cái ngã. Cho nên nói Tự thân là nói một cái phần của Thủ uẩn nó hợp lại mà thôi.

Cho nên vì vậy mà bà Dhammadinna bà mới trả lời:

" - Này hiền giả Visakha! Khát ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với Hỷ, với Tham...".

À đây này! Ở trong cái Tự thân đó nó cái Khát ái. Nó có sự khao khát ham muốn ở trong đó chớ không phải là nó không có. Mà nó có như vậy là nó sẽ đưa đến cái sự tái sanh của nó. Cái mục đích của cái thân Ngũ uẩn này nó có tiếp diễn được cái thân này thân đến thân khác Ngũ uẩn như vậy là nó phải có cái mầm mống của sự Khát ái của nó ở trong đó. Mà cái Khát ái đó nó sẽ làm gì? Nó một mình thì nó không thành. Nó không thành cho nên nó câu hữu với cái gì? Nó câu hữu với Hỷ, nó câu hữu với cái sự thích, sự vui mừng, chớ nó câu hữu với khổ thì chắc nó không dám rồi. Chắc nó câu hữu với tức là nó kết hợp, cái Khát ái đó nó kết hợp với cái sự thích thú của nó, cái sự Hỷ của nó. Vậy thì khi mà nó câu hữu với Hỷ rồi và nếu tham rồi thì nó mới có sự tìm cầu Hỷ lạc. Cái Khát ái đó bây giờ nó kết hợp với cái Hỷ và cái Tham thì nó mới đi tìm cầu cái Hỷ lạc. Đó thì bản chất con người mình có cái thân thì bây giờ mình đi tìm cầu cái gì? Bây giờ mình đi kết hợp với cái gì? Mình muốn ăn ngon. Phải không? Mà mình muốn ăn ngon thì mình phải kết hợp cái Tham, cái Tham nó mới muốn có đồ ăn chứ còn không có Tham thì làm gì muốn. Phải không các thầy thấy rõ không? Bây giờ có Tham nó mới có khởi ra bây giờ mình muốn ăn ngon, mình ăn chén chè này, thì giờ mình muốn ăn chén chè tức là mình phải câu hữu với cái Tham, Tham là đi mua đậu đường về nấu, nếp mới nấu ra chè. Đó là nó bắt đầu có cái Tham, và khi mà thành chén chè rồi thì nó mới cầu được cái Hỷ lạc của nó thì bắt đầu mình mới bỏ miệng mình ăn nó mới có cái ngon của nó đó. Đó là ái Hỷ lạc của nó. Chỗ này, chỗ kia hoặc là cái này cái kia, hỷ lạc cái này cái kia chớ không phải nói nội chén chè không. Cái này cái nọ cái kia mà nó sanh ra cái Hỷ đó. Mà khi mà cái chỗ này nó có đó thì tức là Dục ái. Phải không? Cái danh từ là Dục ái. Cho nên quý thầy thấy rõ từ cái bước nhỏ nhất của nó đi từ từ nó câu hữu cho đến khi nó Dục ái. Dục ái thì nó có Hữu ái và có Phi hữu ái trong đó. Nghĩa là từ đó nó mới sinh ra Dục ái, Hữu ái và Phi hữu ái. Cho nên Khát ái này đức Phật gọi là Thân tập khởi, bởi vì nó kết hợp lại thì nó phải có Khát ái. Bởi vì Ngũ uẩn nó kết hợp lại nó mới thành cái thân của chúng ta gọi là Tự thân. Mà khi nó kết hợp lại thì nó phải có cái Khát ái trong đó.

Đó chúng ta phải thấy được cái chỗ mà do nguyên nhân nào mà chúng ta bây giờ mà không rời được mà có Tham, có Sân, có Si, có thích thú cái này cái kia đó là do cái chỗ tập khởi của cái thân, mà tập khởi của cái thân thì có tên gọi là Khát ái. Còn hồi nãy thì năm cái Thủ uẩn nó hợp lại, nó duyên hợp lại mà chú ta gọi là Tự thân. Còn bây giờ nó tập khởi thêm thì nó gọi là nó có Dục ái, Hữu ái, Phi hữu ái đó thì nó gọi là Tập khởi, Tập khởi của thân. Cho nên Khát ái này được Thế Tôn gọi là Thân tập khởi.

Đó thì ông Visakha ông nghe nói vậy lúc bà nói cũng có lý đó, đúng đó, hay đó! Bà thông rồi đó. Tôi chấp nhận bà nói cái này là được, là hay rồi. bây giờ tôi xin hỏi bà thêm một câu nữa:

“- Thưa ni sư! Thế nào là thân diệt?”.

Cái thân mà ông hỏi cái kiểu này thiệt là từ cái Tập rồi bây giờ ông hỏi Diệt đó, thì các thầy thấy từ khi mà hỏi cái thân tập, hỏi cái bản ngã thì bản ngã là do năm cái duyên Ngũ uẩn mà hợp lại. Bây giờ ông mới hỏi nó Tập khởi, cái sự Thân tập khởi này nó duyên hợp còn cái này nó tập khởi nó thành ra ba cái thứ Dục: Dục ái, Hữu ái và Phi hữu ái.Đó rồi nó tập khởi để rồ nó thành ba cái thứ dục đó mà trong cuộc đời của chúng ta không có người nào mà chạy ra khỏ ba cái dục này hết, ba cái thứ ái này hết. Cho nên chúng ta phải thấy được cái chỗ này rồi thì chúng ta mới tiếp tới cái chỗ, ở đây là nó tập khởi, mà bây giờ đến cái giai đoạn này thì ông hỏi cái thân, cái Tự thân này nó diệt là nó diệt cái tập khởi đó như thế nào? Nó làm cho mình giải thoát đó.

“- Thưa ni sư! Thế nào là Thân diệt? Và đức Thế Tôn gọi Thê diệt là như thế nào?”.

Đó! Muốn mà diệt cái Tập khởi làm cho nó dứt ba cái Dục ái này, rồi Hữu ái này, Phi hữu ái này, làm cho nó dứt cái đó đi, cái Ái đi, thì nó gọi là đoạn diệt chứ gì. Thì đó là ông Visakha hỏi bà Diama. Vì vậy mà bây giờ thì bà trả lời:

“- Này hiền giả Visakha! Sự đoạn diệt, không tham đắm, không có dư tàn của cái Khát ái ấy, sự xả ly, sự vất bỏ, sự từ bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp. Này hiền giả Visakha! Sự đoạn diệt này Thế Tôn gọi là tự thân đoạn diệt”.

Đây bà dùng một cái lố để mà chúng ta thấy, à bây giờ đó:

“- Này hiền giả Visakha! Sự đoạn diệt…”

À, sự đoạn diệt nó như thế nào? Là không tham đắm. Bây giờ chúng ta thấy chúng ta muốn ăn cái đó thì chúng ta biết cái tâm tham của mình chứ gì. Phải không? Do biết nó tâm tham thì chúng ta đừng có cho nó tham. Mình đoạn dứt nó đi! Tham là khổ đó. Không được, đừng có tham ăn. Do đó chúng ta dứt. À chưa tới giờ cơm mình đói bụng muốn ăn rồi thì đó là tham ăn chứ gì. Cho nên đó là mình cững chấm dứt. Đúng giờ ăn cơm chứ không đúng giờ mà đòi đòi á, cái bụng này tao khoét ra, tao mổ tao quăng ra hết chứ ở đó mà sôi ruột ở trong. Mình ám thị mình hướng vậy nó hoảng hồn đi cho nên nó đâu có sôi ruột nữa. Bây giờ nó đói rồi bắt đầu bọt bèo ở trong đó nói sôi rột rột nó đói bụng muốn ăn rồi thì bắt đầu mình phải thấy đây là cái tâm tham nó thể hiện qua cái thân đây. Bởi vì nó tập khởi với nhau mà nó kết hợp với nhua đó. Bây giờ cái tâm thì nó muốn ăn, cái bụng thì nó muốn sôi lê rột rột ở trong đó thì chắc là mày muốn dữ tao hả? Tao rút dao ta rọc ra cho mày coi cái chỗ nào mày tham. Thì vì vậy là mình dứt tham chứ gì. Cho nên cái tâm nó hết thèm. Chứ còn không nó rột rột hơi cái muốn ăn muốn ra ngoài đó thấy cái cục kéo hay trái ổi thì nuốt đại chứ để không đói quá. Phải không? Từ đó cái bắt đầu mình tham thật, mình ăn cắp rồi. Phải không? Thành ra ăn trộm, tức là cái xấu từ chỗ tham đắm đó nó đi đến chỗ không hay. Cho nên ở đây chứng ta phải ngăn chừa nó liền tức khắc.

Cho nên bà Visakha dạy đoạn diệt đó thì không được tham đắm. Hễ nó hở ra ra chút nào mà nó làm cái chuyện gì thân nó kết hợp nó làm sao mà mình nghe khó chịu, nhức đầu, nó làm cho mình nặng đầu, đói bụng quá trời, chóng mặt quá, bây giờ đứng lên không thấy đường. Như vậy là mình phải kiến nước cơm hoặc là cái bánh cái trái gì nuốt đây cho nó đỡ chóng mặt lát ra ăn cơm chứ không khéo làm sao ăn cơm được. Do nó lý luận cái kiểu đó đó thì tức là mình có cái mình đoạn cái lòng tham này đi thì mình nói: Chết bỏ, nhất định tới giờ tao lê mặt ra đó tao ăn cơm kéo chân ra đó ăn cơm chứ bây giờ chết tao nằm đây cho mày chết chứ đừng có nói chuyện mà đòi ăn. Thì chút nó tỉnh bơ à, chứ nó không có đói, nó đói giả mà. Đó là tưởng nó làm vậy chứu không phải đâu. Tưởng nó câu hữu nó làm cho chúng ta tham đắm đó. Cho nên chúng ta biết là chúng ta hàng phục nó ngay liền, dứt liền. Cho nên Phật dạy: Những gì dứt bỏ cần dứt bỏ mà. Chúng ta thấy cái tâm tham của mình là biết tham rồi thì dứt bỏ ngay liền, không được để nó kéo dài. Chết bỏ chứ người tu hành mà sợ chết thì sao mà… nếu mà sợ chết thì thôi đừng đi tu. Đã không sợ chết mới đi tu chứ! Để làm chủ sinh tử mà. Bà Dhammadinna bà còn bảo: Không có dư tàn, nghĩa là mình dứt bỏ cái tâm tham rồi mà để nó còn sôi lục bục ở trong đó nó cứ nhắc mình hoài coi chừng cái dư tàn đó mà lát mình phạm đó. Cho nên phải dứt đi, mình phải tìm mọi cách mà để cho quên cái sôi lục bục ở trong bụng mình nó cồn cào ở trong đó nó muốn đòi ăn đó thì mình phải làm cho dứt. Lúc bây giờ chúng ta phải dùng cái pháp nào mà chúng ta để dứt. Đó là những cái pháp hành mà chúng ta để phá cái tâm tham của chúng ta đó. Nó phải có chứ không phải chúng ta dứt là chúng ta nó bảo như vậy là nó dứt đâu! Chúng ta phải duyên cái tâm của mình đi vào cái chỗ nào thì cái bụng nó mới hết sôi, nó mới hết làm khó chịu mình. Đó là cách thức mà chúng ta xả ly.

Đó, thì không có dư tàn của Khát ái ấy, nghĩa là đừng có để cho cái tâm mà muốn của cái Khát ái đó nó nằm ở cái chỗ đó mà nó duy trì hoài hoài đó. Mình phải dứt cho không có cái tàn tích gì ở trong đó thì mới là giải thoát. Sự xả ly, sự dứt bỏ, sự từ bỏ, sự giải thoát, sự vô chấpđó là những cái mà bà thêm cho chúng ta thấy cái sự mạnh mẽ để chúng ta dùng những cái pháp hướng qua những cái danh từ này để chứng ta dứt, đoạn dứt lấy tinh thần chúng ta quét sạch trong khi đó chúng ta giữ cho đúng cơm ngọ mà không có ăn bậy bạ. Thế Tôn gọi là tự thân đoạn diệt,tức là tự cái thân của mình phải là cái đó chứ không ai làm cho mình được hết. Đó!

Bây giờ ông lại hỏi cái nữa.

“- Thưa ni sư! Tự thân Diệt Đạo như thế nào?”

Đó bây giờ ông đã hỏi bà hồi nãy đó thì cái âu hỏi trên thì quý thầy thấy: “- Thưa ni sư! Thế nào là Tự thân Diệt?” Chớ đâu có hỏi Đạo. Phải không? Bây giờ là ông hỏi tới nữa. Hồi nãy là tự mình đoạn diệt là tự của mình thấy cái điều đó là cái Tham mình biết nó tham rồi mình phải dứt trừ liền mà nó không có cái đường lối tu tập. Phải không? Mình phải dứt trừ rồi mình dùng những cái pháp để cho mình quên cái tâm mình đi ngay ở chỗ đó đi chớ để nó cứ sôi lụp bụp hoài thì không được. Cho nên bắt đầu mình đi làm cái gì hơi cái nó quên đói à. Có không? Quý thầy cứ ngồi đó mà nhớ đói thì nó sôi sục dữ lắm! Nhưng mà đi ra nhổ cỏ hay cuốc đất một hơi cái sau nó quên mất. Thầy nói cái đó là cách thức để cho mình đừng có dư tàn cái chuyện đó. Một người mà có tu mới thấy được cái kinh nghiệm này. Bởi vì đây chưa có pháp tu cho nên do đó mà nếu mà chúng ta không sử dụng cái đó thì chúng ta không thể nào mà khác hơn được. Cho nên một người người ta làm việc người ta quên đói là cái chỗ đó, là mê mà đâu có đói được. Còn mình ngồi không nó hay đói lắm! Thử hỏi mấy người ngồi không là hay đói lắm! Mà cái người làm ít có thấy đói. Đó là cái chỗ đó!

Do vì vậy đó bây giờ mà cái ông Visakha ông lại hỏi:

“- Thế nào gọi là Tự thân Diệt Đạo, Tự thân Diệt Đạo như thế nào? Và đức Thế Tôn gọi Tự thân Diệt Đạo như thế nào?”.

Ông hỏi bà rồi ông hỏi đức Thế Tôn gọi vậy có đúng không? Hai người có nói đúng không? Chớ ông không có hỏi riêng một mình bà không đâu, mà ông còn thêm cả đức Thế Tôn gọi Tự thân Diệt Đạo như thế nào và coi và dùng cái đạo nào bà diệt được cái thân tham Khát ái đó mà đức Thế Tôn lại dùng cái đạo nào để diệt cái đó. Còn bây giờ cái trên thì bà nói chung rồi. Tui làm việc thì tui quên đói cũng được rồi đâu có gì cái chuyện đó là tự thân nó diệt được cái Tham ái đó được rồi thì bà nói thì tôi cũng chấp nhận rồi đâu có cái gì khác. Cho nên bây giờ tới cái giai đoạn này thì bà nói thì Phật phải nói cho nó đúng nhau chứ nó trật thì tôi không có chấp nhận đó. Ông căn dặn ông hỏi như vậy là ông nêu lên hai câu hỏi, tôi hỏi bà mà bà nói trúng Phật mà Phật nói trúng bà thì tôi chấp nhận, mà bà nói sai Phật mà Phật nói không đúng bà thì tôi không có chấp nhận cái chỗ mà Đạo Diệt này đâu. Cũng như thí dụ như ông Phật nói diệt cái này bằng con đường nào đó mà bà nói con đường khác thì tôi không chấp nhận. Tôi sẽ hỏi Phật lại và tôi méc Phật đó. Bà nói bậy là chết tui đó. Đó!

Do cái chỗ mà thư hỏi này thì vì vậy mà bà trả lời:

“- Này hiền giả Visakha! Con đường Thánh đạo tám ngành Thế Tôn gọi là Tự thân Diệt Đạo, tức là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định”.

Đó, thì bà trả lời cho ông thấy đó là đức Phật dạy và bà chấp nhận rằng con đường này chỉ là con đường mà có thể nói rằng nó là Tự thân Diệt Đạo chứ không còn con đường nào khác hơn hết. Bà cũng chỉ hiểu như vậy mà thôi chứ bà cũng không có hiểu khác được hết. Nghĩa là hoàn toàn là chỉ có tám cái nẻo này là cái gọi là Tự thân Diệt Đạo mà thôi chứ không có cái pháp nào khác ngoài cái pháp này thì không có cái pháp nào gọi là Tự thân Diệt Đạo nữa, nghĩa là không có cái pháp nào mà diệt cái Khát ái đó, diệt ba cái dục đó được. Cho nên ngoài cái tám đường này thì không có.

Sau này Thầy sẽ giảng cái trục mà tám nẻo Chánh đạo này nó sẽ làm một cái pháp chính mà tất cả mọi cái pháp của Phật, Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo đều quay ở trên trục chính này mà để thực hiện con đường tu chứ không phải ngoài tám nẻo này mà chúng ta tu những cai pháp khác đâu. Cũng như nói Thất Giác Chi, Thất Giác Chi nó cũng phải nằm ở trên Bát Chánh Đạo, tám cái nẻo này mà nó tu chứ không phải ngoài tám cái nẻo này mà tu được.

Đó thì quý thầy phải hiểu con đường mà tu tập như vậy nó mới đúng cái điều kiện tu tập. Ở đây Thầy muốn thay đổi về cái phần Giới một chút cho quý thầy thấy thay vì những cái bài này phải được áp dụng vào cái Giới hành. Nhưng mà vì cái Giới hành nó đến đó nó còn nhiều cái bài giảng, nó quá nhiều chớ không thể nào nhắc những cái bài của vợ chồng ông Visakha này vào ở trong cái chỗ Giới hành mà Thầy nhắc. Bởi vì cái Giới hành nó thuộc về hành động rồi. Còn ở đây chúng ta phải nên lên những cái lý thuyết của cái phần của hai người này đối đáp nhau để chúng ta thấy làm sáng tỏ được con đường tu tập của chúng ta, trong những cái Giới luật mà chúng ta học.

Đến đây Thầy xin chấm dứt vì sắp sửa đến giờ ăn cơm rồi.

Bây giờ bắt đầu lại cái bài học của cái giáo án về Giới luật.

Trải qua hơn hai mươi mấy thế kỷ, các những loại kinh sách phát triển này đã làm thay đổi bộ mặt thật của Phật giáo thành một bộ mặt Phật giáo mới, tâm xuất gia mà thân chẳng xuất gia. Vì thế trong các chùa hiện giờ Ngũ dục lạc đầy đủ còn hơn người thế tục, hưởng dục lạc bằng mồ hôi nước mắt của người khác. Họ đã hiểu Phật giáo mà cố ý phá hoại Phật giáo. Nghĩa là người ta hiểu Giới luật của Phật giáo lắm chớ không phải là người ta không hiểu. Bởi vì cái Thập giới Sa di chúng ta thấy rất rõ đi vào con đường mà cái lộ trình thứ hai là cái lộ trình của người tu sĩ thì thập giới Sa di là cái căn bản nhất. Thế mà hiện bây giờ chúng ta thấy hầu hết tu sĩ chúng ta biết cái Giới luật đó chứ không phải không biết. Biết không cất giữ tiền bạc nhưng cất giữ tiền bạc, biết không ăn phi thời nhưng mà vẫn ăn phi thời, biết không trang điểm những đồ quần áo y phục đẹp mà vẫn mặc quần áo y phục đẹp, biết cấm ca hát hoặc là xem ca hát thế mà người ta vẫn xem ca hát. Đó là tất cả những cái điều mà Phật đã cấm cái người mà bước vào cái lộ trình thứ hai để mà tu tập để được giải thoát, tức là được ly dục ly ác pháp. Thế mà người ta không ly được cho nên người ta mãi biết mà cố ý, cố ý phạm Giới luật của Phật. Mà đã phạm Giới luật của Phật thì tức là cố ý phá hoại Phật giáo bằng những câu kinh. Thì khi mà người ta đã có ý phạm cái Giới luật rồi, cố ý phá hoại Phật giáo rồi thì người ta phải tìm những cái người ta phát triển những cái loại kinh mà nó không có đúng tính cách của đạo Phật, lệch đi con đường của đạo Phật.

Cho nên đạo Phật đứng ở trên Nhân quả thì mọi cái hành động của chúng ta thiện thì đem đến cái hạnh phúc cho mình, mà là một cái điều các thì đem đến cái tai họa cho mình, cũng do chính mình chứ không có cầu khẩn. Thế mà ở đây có những loại kinh nó dạy cái người Phật tử phải cầu khẩn thì tai nạn nó mới qua, cho nên có những cái câu kinh ai có tai nạn gì cần niệm câu Quan Thế Âm Bồ Tát thì được cứu khổ. Như vậy làm cho người mê tín không có hiểu Phật pháp thì người ta tin rằng đó là Phật dạy, mà mình cứ niệm thì tức là nó sẽ có hiệu quả của cái sự cứu nạn đó. Cho nên hầu như người ta có niệm Quan Thế Âm, rồi người ta cũng thấy có những cái sự hiệu quả cho nên họ đâm tin thật, tin rằng có thật. Nhưng ái đó nó do đâu mà nó có hiệu quả đó thì họ không biết, họ tưởng rằng có một đức Phật Quan Thế Âm thương chúng sinh ai có đau khổ, ai có gặp tai nạ gì, có tù tội thì cứ niệm Quan Thế Âm thì được cứu khổ. Nên bây giờ mọi Phật tử gặp tai nạn gì hoặc đau ốm đều thắp hương niệm Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Trong nguyên bản kinh cái nguyên bản kinh của phẩm Phổ môn của kinh Diệu Pháp Liên Hoa đó thì cái phẩm Phổ môn thì ở trong đó có cái đoạn mà những cái bài kệ sau nó tóm tắt lại đó thì có những cái câu ngắn gọn để chúng ta dễ nhỡ dễ thuộc ở trong đó thì Thầy tạm dịch như thế này:

Hoặc bị tù tội, hoặc bị tai nạn, hoặc bị rắn độc thì người đó niệm Quan Âm lực thì sẽ được giải cứu ngay.

Đó là những lời dạy trong kinh như vậy làm cho người ta thấy cái bộ kinh này, cái phẩm kinh này người ta biến thành cái bộ kinh cầu an ở trong gia đình của mình nên thường các chùa cũng như ở trong mọi gia đình người ta lấy cái phẩm này người ta tụng hàng đêm người ta tụng để mà cầu đức Phật Quan Âm gia hộ để cho gia đình họ được bình an. Đó thì như vậy là nó đã làm lệch đi cái ý của đạo Phật, bởi vì cái ý của đạo Phật thì không ai cứu khổ mình được mà chỉ có tự mình cứu mình mà thôi. Cho nên đức Phật khi mà còn sống tại tiền thì đức Phật nói các đệ tử: Các thầy hãy tự thắp đuốc lên mà đi, ta chỉ là người hướng dẫn mà thôi mà bây giờ biến chư Phật Bồ tác thành những người phù hộ chứ không còn là cái tự thắp đuốc lên đi. Qua cái bộ kinh này chúng ta xét thấy rất là phi lý.

Thầy đặt thành vấn đề: Một kẻ cướp của giết người bây giờ bị công an bắt bỏ tù, pháp luật kết án tử hình. Lúc bấy giờ kẻ trộm cướp này muốn sống hay là muốn chết, muốn ra tù hay là muốn ở tù? Chắc chắn là họ muốn sống chớ không bao giờ mà họ muốn chết. Vậy thì cứ việc niệm Quan Thế Âm Bồ Tát thì sẽ được ra tù, sẽ khỏi chết, thì những con người ở trên hành tinh này sẽ ra sao với những cái bọn hung ác này? Nghĩa là khi mà được giải cứu như vậy thì chắc chắn cái bọn hung ác này sẽ có một vị thần phù hộ rồi thì mình cứ việc tiếp tục là những cái việc ác đó nữa. Và như vậy thì cái luật Nhân quả nó còn có cái luật công bằng của Nhân quả không? Thì chắc chắn là không có cái công bằng của Nhân quả nữa thì thế gian này đâu có cái trật tự, đâu có gọi là Nhân quả được.

Thầy cho một ví dụ nữa: Ví như bọn buôn lậu ma túy mà cứ niệm Quan Thế Âm Bồ Tát thì chúng không bị hải quan bắt thì nhân loại trên thế gian này sẽ ra sao? Tất cả đều nghiện thuốc phiện, cơ thể thù suy yến dần mòn từ thế kỷ này sang đến thế kỷ khác. Đó thì nếu mà cái thuốc phiện mà nếu mà nó đã được cái sự gia hộ mà nó thoát qua như vậy đó thì thử hỏi trên cái thế gian này con người sẽ trở thành như thế nào? Nó bạc nhược tất cả hết rồi còn cái gì đâu mà gọi là hạnh phúc cho con người nữa.

Cho nên nếu mà có những kinh như vậy thì nó đi ngược lại cái sự cứu khổ của kinh, nó giải khổ cho con người. Thế mà cái kinh mà được cầu khẩn như vậy mà được thành tựu, được theo ý nghĩ của như vậy thì chắc chắn ai cũng muốn như vậy hết. Thí dụ như bây giờ mình có muốn trúng vé số thì mình cứ niệm Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứ nạn tui, bây giờ gia đình tui nghèo quá mong Ngài phù hộ cho tui trúng vé số một triệu, hai triệu, ba triệu. À thì chắc chắn mà nếu được như vậy thì có ai mà thèm làm chi, cứ việc niệm Quan Thế Âm mua vé số, thì bây giờ cả triệu dân Việt Nam hay là năm chục triệu dân Việt Nam cứ chổng khu niệm á thì cái chỗ mà phát vé số nó sạt nghiệp chết hết còn gì.

Đó thì như vậy là mình thấy cái lý nó không có vững, mà mình biết rằng trong những kinh mà viết như vậy là nó phi Phật pháp rồi, nó không đúng. Bởi vì ở đây đức Phật nói tự mình hành động mình mới có mình ăn, tự mình hành động mình mới có phước báu mà mình cứ ngồi đó mình tham tưởng những cái sai, cái quấy cái ác thì chắc chắn là không thể hưởng được.

Nếu quả có một Bồ Tát Quan Âm thực sự như vậy thì Bồ Tát Quan Âm có phải là một kẻ từ bi thương người không hay là Bồ Tát Quan Âm là một ác quỷ để gia hộ cho kẻ xấu hung ác cường hào ác bá, hạng người này thế gian chẳng thiếu gì hiện giờ. Kinh sách mà dạy như vậy có phải là kinh sách tà giáo ngoại đạo không? Xin quý thầy suy ngẫm. Người ta còn kiến giải biện hộ Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn cho người lành chứ không cứu khổ cứu nạn cho người dữ. Thầy sẽ hỏi quý vị:

- Đứng trên lập trường Nhân quả, người lành sao có tai nạn? Mình làm lành làm sao mình lại có tai nạn? Ít ra mình cũng phải có hung ác gì nó mới có cái quả đó chứ!

Vậy thì cái quả đó là do cái hành động hung ác của mình bây giờ tới cái quả thì mình phải trả. Tại sao giờ đi cầu Quan Âm để rồi Quan Âm cứu mình rồi bây giờ nói Quan Âm cứu người lành thì người lành làm sao có tai nạn? Mà không có tai nạn thì ai mà đi cầu Quan Âm làm gì? Chẳng hạn là như bây giờ mình không đi ăn trộm thì làm gì có người ta bắt mình đánh hoặc đi bỏ tù. Mà không có bắt bỏ tù thì mình cầu Quan Âm làm gì? Có đánh, có bỏ tù, có khổ có sở có tai nạn thì mới cầu Quan Âm chớ! Còn bây giờ không có thì làm sao mà cầu. Đó là những lý luận nó không vững. Người lành sao lại có tai nạn. Ví dụ Thầy không đi ăn trộm ăn cắp làm sao ở tù. Thầy không giết hại chúng sanh làm sao có thọ thân bệnh tật. Thầy không làm khổ ai làm sao có tai nạn. Nếu được đức Quan Thế Âm độ người lành thì thừa. Bởi vì người ta không có tai nạn thì có ai cầu đâu mà độ, do đó bằng thừa. Mà nếu độ cái người có tai nạn thì họ lại làm ác, thì do đó là mình là gì? Tức là mình cũng thành ác quỷ mất rồi. Bởi vì nếu mà độ người ác thì nó sẽ làm hại bao nhiêu người khác. Cho nên thành ra mình là Ác thần chứ không phải là Thiện thần nên mới giúp cho những người ác.

Vì thế kinh Pháp Hoa phi phạm hạnh mà còn phi nhân quả của đạo Phật, một loại kinh tưởng của người sau viết ra gây mê tín cho những người thiếu trí tuệ, vô minh, ngu si. Mà hiện giờ thì quý thầy xem thấy cái lời nói của Thầy giảng ở đây có đúng không? Và hầu hết từ Đông sang Tây, Nam sang Bắc các bậc Hòa thượng đến các hàng cư sĩ Bắc tông đều tin tưởng một cách mù quáng. Người ta lấy nó làm kinh Nhật tụng đó, ai ai cũng cố gắng mà tụng niệm hàng đêm hàng ngày, cũng lấy nó mà làm cái thời khóa tu tập nữa.

Có người vẽ vời câu chuyện này câu chuyện kia của Bồ Tát Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn một cách linh thiêng và huyền diệu khiến người ngu mê càng mê mờ hơn nữa. Nghĩa là người ta nói có cái chuyện như thế này: Một cái xe đi đổ xuống dốc rồi trong khi cái thắng nó đứt hết rồi, mà ở trên xe hơi thì bốn năm người ở trên xe hơi thì có một người cư sĩ ở trên xe hơi đó thường là thờ đức Phật Quan Thế Âm ở trong nhà rồi thường hay niệm Quan Thế Âm cho nên khi mà xe hơi đứt thắng vậy nó sắp sửa nó đổ xuống hố rồi thì cái ông ta ông sợ quá ông chuyên ông nổ lực ông niệm Phật thì tự dưng cái xe đương chúc xuống hố thì nó dừng lại liền, làm như có ai chặn đứng lại một cách là linh thiêng vô cùng vậy! Thì người ta tưởng là cái thần lực của Quan Thế Âm đã chặn đứng cái xe. Cho nên có những cái ngôi chùa có những cái mà để tên chùa Quan Âm này kìa rồi đó thì đó cũng là có cái sự người ta nghĩ có cái sự linh thiêng nào đó người ta mới cất cái chùa đó lên rồi người ta mới đặt cái tên hiệu của đức Quan Âm để mà tưởng nhớ cái ông ơn Ngài cứu khổ cho những người mà thoát nạn như vậy. Đó là những cái vấn đề mà người ta nên lên, mà nó có đúng vậy không? Xin để trả lời rằng cái chuyện đó nó có đúng hay không nó có hay là không có mà nó có là do đâu mà nó có như vậy? Đó là những cái để mà chúng ta trả lời cho nó đúng cái lý của Nhân quả, đúng với cái lý của đạo Phật chứ không khéo thì chúng ta cũng thấy có sự linh hiển lắm chớ đâu phải không có những cái sự linh hiển đó. Nhưng mà những cái sự linh hiển đó nó do đâu mà nó ra chứ không phải do một đức Bồ Tát mà gia hộ. Cho nên qua những cái sự kiện này nếu mà nói mà không giải thích cho rành thì chắc chắn là người ta sẽ cũng không có tin mình nói đâu. Bở vì hiện tiền là người ta có niệm Quan Thế Âm người ta thấy cũng có sự hiển hiện chớ đâu phải là không có, cho nên người ta phải tin kinh Pháp Hoa chứ. Còn bây giờ mình nói mà mình không có cái lý rõ ràng cụ thể thì người ta sẽ nói rằng mình chỉ là phỉ báng cái kinh đó mà thôi chứ cũng không có gì. Cho nên ở đây Thầy dẫn chứng thêm để quý thầy thấy những cái điều đó cho nó rõ ràng hơn.

Họ đâu biết rằng đó là tưởng uẩn của họ lưu xuất ra cứu họ vì trong cuộc đời của họ họ đã làm những việc lành. Nghĩa là trong cuộc đời của những người đó mà khi họ biết niệm Quan Thế Âm thì chắc chắn là họ cũng phải có những hành động tốt rồi chớ không đến nỗi người biết niệm Phật mà họ lại làm việc ác. Cho nên vì cái sự việc lành của họ làm hoặc là họ không niệm Phật nhưng mà cũng có người người ta có nhưng cái tâm lành gặp ai có tai nạn gì người ta cũng giúp đỡ chớ là con người thì phải có những cái tình thương của con người tự dưng nó phải có, khi mà sinh ra thì cũng ta phải có cái thiện ở trong cái ác của chúng ta rồi. Nhưng mà có người thì cái thiện nhiều có người thì thiện ác do cái sự huân tập của kiếp này đến kiếp khác cho nên khi mà sinh ra thì họ cũng có tạo được những cái phước của họ sẵn có trong tiền kiếp cũng có mà trong hiện kiếp họ tạo thêm những cái nhân thiện thì cũng có. Do vì vậy nó khi mà cái quả của những cái ác nghiệp của họ đến thì trong lúc đó nó sẽ chuyển cái nghiệp khổ của họ đi.

Đó là cái trường hợp cũng như có người thường hay niệm Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát một hôm thì họ lên một cái chiếc xe đó họ đi, thì đồng thời thì cái xe nó chạy vượt đi nó không có rước họ đi thì họ đi cái chiếc xe khác. Nhưng mà khi mà cái xe của cái người đi sau đó họ đến thì cai xe kia đã lật dù xuống ruộng, bao nhiêu người bị thương và chết thì họ nói: Trời ơi tui nhờ niệm Quan Thế Âm mà tui thoát được tai nạn. Do vì vậy mà người ta mãi tin như vậy, nhưng mà sự thật ra đó là cái nhân cái hành động thiện của họ mà nó đã báo trước hoc họ hoặc là nó tạo cho cái hoàn cảnh của họ nó trượt chiếc xe, tức là chiếc xe nó đầy đi, nó không có rước họ.

Bởi vì khi đó nó cái người mà lái xe đó họ muốn cái xem họ nhiều hơn nhưng mà họ biết là có cái đoạn đường đó có cái chỗ đó cảnh sát sẽ xét xe mà nếu dư thì nó không được cho nên họ không dám nhét thêm. Vì vậy mà khi cái người này họ đón tay thì nó lại gặp cái xe nó đầy đi rồi. Do đó cho nên nó không rước, vì vậy mà cái tai nạn người này thoát nạn. Là vì cái đó là do cái tạo cái duyên thiện của mình mà đến cái giờ đó thay vì mình sẽ đồng chung số phận với những người kia trong cái gặp tai nạn đó nhưng mà vì mình dã có tạo những cái duyên thiện cho nên do cái nhân quả nó đến thì nó chuyển được, nó làm cho mình trượt chiếc xe chớ không phải có ai phù hộ hết. Nhưng mà phả nói rằng trong cái niệm Quan Thế Âm Bồ Tát đó thì cái ý niệm của người niệm Phật thì phải nói rằng khi mà người ta niệm thì người ta cũng có cái nghĩa người ta phải biết làm lành. Chớ không phải là gì khác hơn hết. Nhưng nếu mà chúng ta hiểu sai thành ra biến Phật pháp nó làm cho lệch lạc đi là mình thành mêm tín. Còn mình hiểu đún cái Nhân quả đó thì cái tụng kinh niệm Phật cũng là cái tốt chớ đâu phải là cái sai, đâu phải là cái bậy. Bởi vì không lẽ mình tụng kinh Phật mà mình đi làm ác sao? Cũng như có nhiều người tui tụng kinh mà tui đi giết hại chúng sinh thì tui đâu có làm cái chuyện đó. Bữa nay mình tụng kinh Pháp Hoa mà ngày mai mình đi mua cá về mình đập giết nó thì không có được. Cho nên người ta cũng suy nghĩ, người ta cũng có đầu óc suy nghĩ chứ mình tụng kinh Phật mà. Đã tin nó là kinh Phật thì không thế nào mà làm cái chuyện ác. Do từ cái chỗ mà tụng kinh niệm Phật nó có cái tốt chứ không phải cái xấu nhưng mà vì chúng ta không hiểu đúng cách thì trái lại cái tụng kinh niệm Phật nó bắt đầu nó biến cho chúng ta trở thành mê tín, trở thành cầu khẩn, trở thành van xin. Cho nên cứ ngỡ tưởng rằng mình niệm đức Quan Âm nó phù hộ cho mình, không ngờ vì chính mình niệm, đọc kinh niệm kinh thì do đó nó giúp cho chúng ta có những hành động thiện theo chỗ niệm kinh theo chỗ tụng niệm đó.

Cho nên khi một người thầy phải giải thích cho người ta hiểu rõ để không mà người ta không hiểu rõ thì người ta không có hiểu cái Nhân quả, mà người ta tụng kinh thì cứ ngỡ đó là có chư Phật chư Bồ Tát gia hộ mình. Cái đó là cái sai. Cho nên ở đây Thầy cũng phân tích cho rõ là do cái hành động thiện ác của mình chớ không phải là do cái chỗ cầu khẩn mà đạt được mà chính cái chỗ tụng kinh mà mình giữ được cái thiện thì cái đó tốt. Chứ nhiều người tụng kinh vừa tụng xong cái bộ kinh thì nghe đầy tớ ở dưới nhà nó cãi cọ như thế nào: Tao mà tụng kinh xong xuống bay chết à! Đó thì cái chuyện mà như vậy thì nó có phải là thiện không? Tụng kinh mà như vậy thì họ nghĩ là tụng kinh cầu chư Phật gia hộ cho họ thôi chứ còn cái chuyện làm ác họ vẫn làm ác thì cái tụng kinh đó đâu có nghĩa lý gì. Cho nên cái phước báu đó nó không bao giờ mà có thể đem đến cho cái người mà tụng kinh được hoặc là gia đình cái người tụng kinh được.

Thầy nói đây là có một cái sự thật mà. Có một cái bà đó bà theo cái đạo Phật rồi bà được dạy cho tụng kinh thì bà về nhà bà tụng kinh, mấy đứa ở nó làm gì không xong gì đó không biết nó la rầy gì đó bà ngồi đang tụng kinh bà tức bà kìm không được bà nói: tao đang tụng kinh chớ mà không tụng kinh là bay chết hết à! Đó thì cái đó là cái tâm ác của bà thay vì mình tụng kinh thôi, mình ráng tụng cho hết cái thời kinh đi mình thấy mình tụng kinh mình phải có những cái nhẫn nhục đó chứ! Cái này bà cũng đang tụng kinh đó mà dằn không có được, nói cái lời mà như thế đó thì nó không phải là cái người mà biết tụng kinh. Cho nên ở đây mình dạy người thì mình phải dạy cho họ rõ cái Nhân quả để cho họ thấy cái tụng kinh nó giúp cho chúng ta khởi cái niệm hoặc là cái hành động, hoặc là cái lời nói chúng ta ở trong cái thiện pháp mà cũng từ đó đem lại cái hạnh phúc cho mình, cho cả gia đình của mình và tai quan nạn khỏi đều là được chuyển qua.

Bởi vì Nhân quả chớ không phải là định luật định mệnh. Cái định mệnh nó khác là cái số mình cũng hành động thiện hành động ác nhưng mà nó không có chuyển là vì mình làm ác thì mình phải thọ lấy những cái quả, tất cả những cái gì điều ác của mình mà mình làm lành thì mình phải thọ hưởng những cái phước báu, nhưng mà nó có số định. Còn ở đây cái Nhân quả nó không có số định mà nó chuyển. Thay vì bây giờ tuổi của mình sắp sửa chết mà mình biết làm một cái chuyện gì mà cứu chúng sanh thì cái tuổi nó kéo dài thêm ra. Cũng như trong câu chuyện mà ở trong kinh Giới đó, có một cái chú Sa di theo một vị thầy tu học ở trên núi, vị thầy đó là một vị A la hán cho nên biết chú này còn bảy ngày nữa là chú chết, cho nên mới khuyên chú thôi về thăm cha mẹ đi. Thì trên đường chú về thăm cha mẹ là ông thầy tưởng kỳ này chú về kỳ này là chú về thăm cha mẹ rồi chú chết ở gia đình của chú, nhưng mà không ngờ trên bước đường đi thì chú lội ngang qua một dòng suối thì chú thấy có một cái ổ kiến trôi trên dòng suối mà cho nên chú vớt cái bầy kiến đó đi chú để lên trên bờ gác lên cây cho cái đoàn kiến nó không có chết. Rồi chú đi về nhà chú. Sau bảy ngày chú trở về ông thầy, chú thăm cha mẹ rồi chú trở về ông thầy, ông thầy mời ngạc nhiên. Biết cái số chú này là bảy ngày nữa chết mà sau bây giờ chú sống nhăn chú trở về. Cho nên ông thầy mới hỏi:

- Tại sao mà thầy nghĩ rằng con về kỳ này là thăm cha mẹ là con không có trở về mà sao con được trở về? Trên đường con có làm cái chuyện gì không?

Thì chú này mới thuật lại cái chuyện chú lấy cái áo tràng mà chú cứu cái bầy kiến mà lôi nó khỏi cái dòng suối khỏi dòng nước mà chết thì ông thầy nói là quả là chú đã tạo được cái tuổi thọ chú thêm. Đó là do cái nhân thiện của chú tạo mà chú mới sống chứ còn thầy thấy cái số yểu tử của chú chỉ còn trong 7 ngày nữa mà thôi.

Đó là cái câu chuyện như vậy nhưng mà chúng ta vẫn thấy rằng đó là cái chuyển của Nhân quả. Cái chuyển của Nhân quả chứ không phải là định mệnh. Ví dụ chẳng hạn như bây giờ chú có làm cái điều đó đi nữa nhưng mà cái thuyết định mệnh thì chú cũng phải chết, để rồi cái chuyện chú làm cái việc mà cứu chúng sanh thoát khổ, bầy kiến thoát khổ đó thì kiếp sau cái tuổi thọ chú sẽ tăng lên chứ không phải chuyển ngay ở trong kiếp này. Nhưng mà cái chuyện này là rõ ràng ràng là ở trong kinh Giới đã thuật lại như vậy thì chúng ta biết rằng phải có một sự chuyển ở trong cái Nhân quả. Mà đúng vậy. Chúng ta phải xét rằng nó có đúng chứ không phải sai. Bởi vì chúng ta phải thấy khi một người họ chửi mình mà mình không chửi họ thì cái sự việc nó xẩy ra nó sẽ êm dịu lần xuống. Mà người ta chửi mình một mình chửi người ta hai thì nó lần lượt nó tăng lên, cái Nhân quả nó càng tăng lên mà nó cái quả khổ nó càng tăng lên cho chúng ta. Cho nên nó có sự linh động di chuyển chứ nó đâu có cố định được. Mình chửi họ mà họ nhịn thì cái lòng tức của mình nó cũng giảm lần xuống, mà người ta chửi lại mình thì cái lòng căm tức của mình lại bừng bốc lên, thì đó là cái Nhân quả nó càng lên càng xuống, tức là nó có sự thay đổi dy chuyển.

Cho nên chúng ta thấy cái định luật mà định mệnh cố định thì nó không đúng, mà cái định luật Nhân quả dy chuyển thì chúng ta thấy có sự thay đổi đúng. Do vì vậy mà đức Phật thấy cái chỗ này mới đem cái đạo đức Nhân quả dạy chúng ta để chuyển hóa cái đời khổ của con người thành ra cái cuộc sống an vui hạnh phúc. Và cũng vì cái chỗ này mà đức Phật mới đem cái giáo lý của mình ra giảng dạy cho con người ta chuyển cái tâm tham muốn, chuyển cái tâm dục của người ta, chuyển cái ác pháp để cho người ta ly hết để mà người ta trở thành giải thoát. Chớ nếu mà cái định mệnh, cái định luật Nhân quả mà nó là định mệnh thì chắc chắn đức Phật không dạy đâu. Bởi vì dạy mà người ta chuyển rồi kiếp sau nó cũng phải như vậy như vậy thì tức là cũng không có ngay trong đời hiện tại làm sao có giải thoát được mà gọi là mình giải thoát. Cho nên vì chuyển ngay từ ở trong đời thì chúng ta đã giải thoát được liền tức khắc. Đó là cái thực tế cụ thể.

Nếu mà chúng ta không hiểu chỗ này thì chúng ta sẽ trong cái giai đoạn này chúng ta không hiểu thì chúng ta dễ biến Phật giáo thành mê tín lắm! Cho nên hầu hết là hình ảnh của Phật giáo của chúng ta là vì các bậc tôn túc của chúng ta từ trước đến giờ họ không thực hiện được sự giải thoát, họ không thấy được cái lộ trình này cho nên có những câu chuyện là cái người mà thành Phật rồi mà cũng bị nhức đầu. Câu chuyện mà ông Phật xách cái đầu cá mà lúc nhỏ dồi chơi cho đến bây giờ ông cũng bị trả cái quả nhức đầu. Rồi một cái Bách Trượng Dã Hồ đó, cái câu chuyện mà của một cái ông lão mà trước kia ông là cái vị Thượng tọa mà ông nói sai đi một lời nói nó không đúng thì sau này ông phải đọa làm thân chồn thì đó là những cái câu chuyện định luật chứ không phải Nhân quả, định mệnh, nghĩa là mình làm sai rồi mình phải chịu trả cái quả đó thôi chứ không có chuyển được. Do đó làm cái nào thì mình chịu cái này chỉ mình biết nó đừng có khổ là thôi.

BĂNG SỐ 31

Thì như vậy là có sự cố định. Cho nên câu chuyện mà đức Phật dồi cái đầu cá rồi bị nhức đầu ba lần khi đức Phật thành Phật thì như vậy là mình từ lâu tới giờ bao nhiêu cái sự kiện, không dám giết hại, không dám đạp một con kiến, không dám đạp ở trên cây cỏ để héo úa. Chuyện đó nó có chuyển được cho cái kia không? Chắc chắn là nó không chuyển cho nên mới bị nhức đầu. Còn nó chuyển nó còn bị nhức đầu nữa không? Chắc chắn là phải hết. Đó thì thấy, từ cái chỗ thiện mà chúng ta đã không làm đau khổ nữa, mà cái này chỉ là trẻ con vô tình thôi. Lấy một cái đầu cá dồi chơi như là dồi trái banh thôi mà còn phải trả quả, mà trả quả rất là cố định, không có được thay đổi, thành Phật rồi mà cũng không chuyển được nữa, thì như vậy có phải là phỉ báng Phật pháp không?

Cho nên không hiểu được cái nhân quả nó linh động và di chuyển như vậy thì tức là chúng ta đã sai lệch qua cái thuyết định mệnh. Mà chúng ta đã biến cái thuyết nhân quả thành cái thuyết định mệnh á thì nó đã lệch Phật pháp mất rồi. Không chuyển được. Mà không chuyển được thì làm sao gọi giải thoát. Nếu ông Phật không chuyển từ cái pháp thiện thì cái giải thoát làm sao mà được. Cho nên phải nói rằng, phải chuyển.

Như vậy nếu mà chúng ta chuyển thì chúng ta phải có phương pháp chuyển. Cái thân này là cái thân của vô thường, cái thân của nhân quả. Tức là nó có sự hoại diệt, mà nó có sự hoại diệt thì Phật nói cái gì vô thường thì khổ, nó có sự thay đổi thì phải khổ. Khổ thì như thế nào? Nó phải bệnh nó mới khổ, nó không bệnh làm sao chúng ta khổ. Mà bệnh á, thì chúng ta có chuyển vì chúng ta có phương pháp chúng ta chuyển. Thành ra, khi nó bệnh, nó khổ thì chúng ta chuyển thì chúng ta đâu có khổ. Bởi vì chính nó là vô thường cho nên chúng ta chuyển bằng cái sức tu tập của chúng ta. Lúc bấy giờ chúng ta thấy, chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp, chúng ta ly tất cả  các pháp mà thay đổi đó đi, thì trong tâm tư chúng ta không còn nữa. Thì lúc bây giờ chúng ta sẽ có một sự mát lạnh. Cho nên Phật nói, khi cái sức tận cùng chịu đựng của thân mạng chúng ta trong cái thọ khổ thì nó có một cái cảm giác rất là mát lạnh. Đó là cái chỗ chúng ta chuyển cho nên tâm chúng ta luôn luôn bất động. Còn cái người mà chúng ta không có thực hiện được đến cái chỗ mà chúng ta giải quyết được cái nhân quả, làm chủ được cái sanh tử nhân quả, thì lúc bây giờ đau quá chúng ta chịu không nổi cho nên nó không mát lạnh. Vì cứ tập trung trong cái thọ, cái sự vô thường của các pháp thọ, cho nên do vì vậy mà chúng ta không thể thoát khổ.

Bây giờ chúng ta trở lại vấn đề chánh của cái bài học của cái Giáo án này. Nãy giờ chúng ta bàn ra ngoài vấn đề để chúng ta thấy được cái đúng, cái sai của đạo Phật và cái tư duy cho đúng đắn để cho chúng ta không có lạc lầm vào cái sự mê tín. Mà chúng ta phải hiểu Kinh chớ không phải Thầy muốn nói là đừng có tụng kinh niệm Phật. Không phải, tụng kinh, niệm Phật rất tốt chứ đâu có sao. Vì nó cũng giúp cho chúng ta thực hiện được cái nhân lành để thọ hưởng được cái phước lành, cái sự an ổn, yên vui của mình và của mọi người xung quanh nữa.

Phương thức sinh hoạt xuất gia của Phật giáo có tác dụng nhiều tới giai đoạn tu tập. Nghĩa là khi chúng ta bước đầu vào lộ trình xuất gia của người tu sĩ thì nó không có đơn giản, mà nó có nhiều cái phương thức mà để chúng ta tu tập qua nhiều giai đoạn tu tập. Chớ không phải là có một giai đoạn nào mà nó đạt được ngay liền được. Mà nó có nhiều giai đoạn.

- Thứ nhất, là vì lý do “liễu sanh thoát tử”. Ở đây chúng ta thấy, cái phương thức sinh hoạt của giới xuất gia nó có nhiều cái tác dụng mà nhiều cái giai đoạn tu tập. Thứ nhất, thì chúng ta vì lý do gì. Vì lý do liễu sanh thoát tử. Tức là chấm dứt cái tái sanh luân hồi để làm chủ cái sanh tử, nó không còn chi phối trong cái đau khổ trong kiếp con người nữa. Đó là lý do thứ nhất để một người mà bước vào lộ trình này, họ sẽ gặp những cái khó khăn là đi ngược với dòng đời. Họ không có chạy theo dục lạc của thế gian được nữa.

Do vì vậy đó, mà họ phải chấp nhận ở trong cái cuộc sống đó để mà họ liễu sanh thoát tử. Còn nếu mà họ thấy bây giờ bước qua cái lộ trình này quá khổ, muốn cái gì cũng không được, cái gì cũng hoàn toàn khép mình trong khuôn khổ của thập giới Sa di. Thì chúng ta thấy một cái người bước vào mà ép chặt mình trong cái giới sa di đã là cái người mà không có ý đi tìm cái sự liễu sanh thoát tử, thì chắc chắn khó mà sống được cái này. Hầu hết là chúng ta cũng muốn đi tìm cái đó, nhưng mà chúng ta thấy cũng đâu có dễ mà bước vào cái thập giới Sa di này nổi. Cho nên vì vậy, chúng ta thấy phải có một cái lý do rất là chơn chánh, một cái tư tưởng của chúng ta rất là mạnh mẽ. Phải có một sự nhiệt tâm hết sức ở trong cái ước vọng đó. Ước vọng gì, ước vọng liễu sanh thoát tử. Chúng ta phải đặt mạnh cái tâm của chúng ta ở cái chỗ: làm sao để thoát khỏi cuộc đời đau khổ này, làm sao mà liễu sanh được cái sống chết này, làm sao chấm dứt được cái sự luân hồi.

Thì đó là cái lý do thứ nhất  của cái người bước qua cái lộ trình thứ hai này. Bởi vì chúng ta phải biết, cái lộ trình thứ hai này nó không thể sống như đời sống thế tục được, mà nó phải sống rất là khắc khổ. Nếu mà không khắc khổ, chúng ta không thể sống nổi. Tri túc thiểu dục đến mức độ có gì chúng ta vẫn thấy nó đủ chứ không có đòi hỏi thêm nữa, vẫn thấy nó đủ.Thiểu dục đến độ mà, bây giờ bệnh đau thế này mà không có thuốc thang thì chúng ta vẫn có cái tinh thần là thiểu dục, biết đủ, không có rên la. Có ai có bố thí thuốc cho mình, mình cứ thọ dụng mà không có mình cứ thấy biết đủ. Biết đủ là mình biết được cái nghiệp của mình, mình chịu ở trên cái nghiệp chứ không có đòi hỏi, không có chạy đông chạy tây, chạy tới chạy lui. Nhận qua cái chỗ đó thì chúng ta mới thấy được cái tinh thần mà xuất thế. Nếu không nhận ra cái chỗ này, chúng ta không đặt xuất thế thì chúng ta khó mà có thể sinh hoạt trong cái xuất gia được.

- Lý do thứ hailà lí do cảnh tỉnhdẫn dắt thế tục. Nghĩa là lí do, chúng ta nghĩ mình phải nỗ lực tu hành để mình giải thoát được rồi thì mình đem cái sự hiểu biết này, đem cái lợi ích này để dẫn dắt chúng sanh, để dẫn dắt mọi người, để người ta cũng được như mình, cũng giải thoát như mình. Những cái người mê luyến ở trong cái trận đồ thanh sắc, chìm đắm say sưa trong biển ngũ dục mà mở ra pháp môn thức tỉnh giải độc cho họ. Thì đó là cái lý do thứ hai, chúng ta thấy rằng khi mà tu xong rồi, để mà dẫn dắt họ ra khỏi sông mê bể khổ. Thức tỉnh họ để mà giải những cái độc ở trong tâm của họ, đang lầm chấp, say đắm cái ngũ dục lạc ở trong cái thế gian. Đó là những cái chất độc mà họ không thấy. Cho nên chúng ta tu được rồi, chúng ta mới giải độc cho họ, để cho họ thấy cái ngũ dục lạc là những thứ độc của những thứ độc.

Lý do thứ hai này là một biện luận. Trong khi mà chúng ta tu chưa có xong, chưa có thực hiện được. Thì có nhiều người, họ dùng cái lý do này để thực hiện bồ tát hạnh, độ chúng sanh á, thì nó trở thành một cái lý luận, cái biện luận che đậy. Một cái người mà tu xong rồi, thì cái này mới chính là cái chỗ mà họ độ chúng sanh.Cho nên, hầu hết là chúng ta có nhiều người tu chưa xong chưa có liễu sanh thoát tử, chưa làm chủ sanh tử, nhưng mà vì cám dỗ của dục lạc thế gian, danh sắc, nó làm chúng ta mờ mắt đi. Do đó chúng ta sẽ lấy lí do rằng, chúng ta sẽ dẫn dắt chúng sanh, để độ cho mọi người. Mình biết được tới đâu, mình dẫn dắt tới đó, đều có lợi ích như nhau. Không ngờ, là cái biết của mình chỉ là cái tưởng mà thôi. Cái tri kiến mà thôi. Nó không có gì kinh nghiệm, cho nên mình dẫn dắt mình đi chưa xong, rồi dẫn dắt một số người nữa. Cùng với mình, thì chắc chắn số người này sẽ bị lạc ở trong rừng sâu, rồi rơi vào hố thẳm mà chết hết.

Chúng ta phải hiểu, bởi vì nó có nhiều lý do như vậy mà chúng ta phải nắm cho vững để không chúng ta sẽ bị những lý do đó lý luận, che đậy và gạt gẫm chúng ta.  Cho nên hầu như chúng ta chưa có tu xong gì hết mà ra lãnh một cái chùa. Nhiệm vụ của một cái chùa là phải hướng dẫn phật tử, tăng ni tu học. Cái gánh vác đó, khi mà chúng ta chưa có tu xong mà chúng ta gánh vác thì chúng ta đã bị chìm ở trong cái đó rồi. Bị chìm nghỉm ở trong cái danh lợi vị trụ trì chùa đó rồi. Vì vậy, mình tiếp tục dẫn dắt một số người này nữa thì đó là mình dẫn dắt họ đi xuống địa ngục hết. Nó có những lý do mà hiện bây giờ trong những kinh đều có những ca ngợi, những tán thán công hạnh của những bậc Bồ tát như vậy. Cho nên chúng ta không khéo rồi chúng ta bị lầm lạc. Rồi cuộc đời tu hành chúng ta chẳng đi tới đâu hết.

Ở đây, các thầy cũng có những vị làm trụ trì thì các thầy thấy lời nói của thầy có đúng không? Từ ngày mà lãnh cái chùa rồi, quá bận rộn không có thời gian nào mà có thể tu hành cho mình được nhiều hết. Nhiều khi mình ráng hết sức mà giao lại cho người ta mới nhập thất được đôi ba tháng đó là may lắm. Mà trong ba bốn tháng đó, họ kêu tới kêu lui, họ hổng có để cho mình yên ở trong thất nữa. Mà vì quí trọng ông thầy, họ ráng giữ ổng ở, để không để cho ông thầy đi. Họ ráng để cho ông thầy nhập thất ba tháng hay sáu tháng gì đó, chờ mong cho ông thầy ra để bao nhiêu công chuyện họ dao. Cái ông thầy khi mà ra thất rồi, tưởng là giải thoát không ngờ rằng, việc này rồi việc kia họ để cho cả đống đó, họ hổng giải quyết. Ra mà giải quyết một hồi đó là mệt, mệt là thấy, thôi cuộc đời mà tu riết kiểu này là tiêu chớ hổng còn gì nữa. Như vậy là chúng ta có làm trụ trì rồi chúng ta biết được bao nhiêu cái gánh vác, chứ không phải dễ mà độ chúng sanh đâu. Cho nên khi nào mà chúng ta tu xong rồi thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy dễ dàng.

Lý do thứ hai này là một biện lực che đậy tâm tham danh lợi của chính mình. Vừa gạt, vừa bịp mình và người nữa. Khi họ là người tu hành chưa chứng đắc, câu nói trên đây là bịp mình, bịp người rõ ràng. Còn khi họ là người đã tu xong, đã liễu sanh thoát tử được rồi, thì câu nói này là câu nói từ tâm từ của họ, thoát ra, lưu xuất ra để thương xót tất cả chúng sanh. Khi mà cái người tu xong rồi thì cái lời nói để mà độ chúng sanh, dẫn dắt chúng sanh như vậy là do cái tâm thương yêu của họ chân thật. Còn cái người mà chưa có xong thì cái câu nói đó là lời nói che đậy tâm danh lợi của họ. Họ bị chết trong danh lợi mà không biết, họ bị lường gạt mà không biết. Họ tưởng đó là Bồ tát hạnh độ chúng sanh.

Lý do rất là chính đáng nhưng người tu mà chưa chứng đạo mà lấy lý do này cảnh tỉnh dẫn dắt thế tục cũng giống như người mù mà dẫn dắt một đám mù. Thì tất cả mọi người đều phải chết hết. Cũng vì lý do này, nhiều người lợi dụng nó để kinh doanh tôn giáo. Cũng ra mặt tui độ chúng sanh, không ngờ như vậy. Có người họ có thủ đoạn, họ lợi dụng chỗ đó họ tập trung một số tu sĩ ở chỗ đông, họ ở phía sau kinh doanh sự làm giàu làm có cho họ.

Cho nên, có một câu chuyện thế này, có hai ông nhà giàu có tiền bạc, ở thôn quê họ cũng là gia đình địa chủ, giàu có. Hai ông này mới  bàn giờ tui với anh ra thành phố sẽ lập nghiệp. Anh kia nói rằng, ra thành phố mình sẽ lập cái khách sạn, người ta sẽ đến ở thì hàng ngày mình sẽ thu được tiền bạc này kia nhiều và đồng thời mình phát triển, thu được này kia giàu có được. Ông kia nói, anh tính như vậy chứ hổng bằng tui. Tui sẽ ra đó tui lập cái chùa, tui thờ Phật, kêu quí thầy đến ở, giúp đỡ họ. Rồi bắt đầu, người ta cúng bái này kia. Họ thuyết giảng này kia, thì tôi nghĩ rằng, tôi phải làm việc này. Vì tôi cũng là một ông thầy chùa đi, tôi cũng thuyêt giảng, tôi cũng học hiểu cho giỏi để tôi thuyết giảng hấp dẫn. Bắt đầu họ tập họ trung nghe, đúng lý họ bắt đầu cúng dường. Hằng ngày họ tấp nập cúng.

Quả như vậy, hai ông này ra thực hiện. Một ông thì cất chùa ở thành phố, một ông thì cất khách sạn. Nhưng mà khách sạn thì lần lần nó ế ẩm mà cái chùa thì lần lượt nó tập trung càng ngày càng đông. Cái ông mà kinh doanh này, càng thấy ổng cất nhiều chùa lên, còn ông kia cất được cái khách sạn lên thôi chứ hổng cất nữa được. Còn ông này, chỗ này cũng có cái chùa, chỗ kia cũng có cái chùa. Mà cái chùa nào người ta cũng đến tấp nập hết, qua những cái lời mà thuyết giảng của ổng hợp lý quá, người ta thấy đúng lý cho nên người ta đến rất đông. Còn tu chứng hay không tu chứng ông ta không cần biết. Nói làm sao đúng lý là được. Cho nên cuối cùng ông ta cất được rất nhiều chùa mà người ta rất là tin tưởng, còn cái ông kia, khuếch trương 2,3 cái khách sạn thì người ta nói, ông này làm ăn theo cái đời, không có đúng. Còn ông này làm vì Phật pháp, người ta ca ngợi ông này, coi ông này như là Phật. Thì cái điều đó, cả hai ông này, hai ông nhà giàu địa chủ này, sau này một ông người ta ca ngợi như Bồ tát. Từ chỗ đó chúng ta thấy có cái lợi, ông này được cái danh lớn hơn. Còn ông kia cuối cùng thì chẳng qua chỉ là một ông giám đốc khách sạn thôi chứ chẳng có ai lạy ông ta nữa. Còn ông này người ta lạy ổng tối ngày, sáng đêm. Đụng đâu, người ta cũng cung kính ổng hết, cho nên ông này kinh doanh mà danh mà lợi rất là lớn. Còn cái ông kia kinh doanh mà không bằng.

Cho nên, hầu hết người ta có thể lợi dụng tôn giáo làm những cái chuyện rất là phi pháp. Nhưng ở đây, thì khi mà làm như vậy, có cái ý đồ như vậy thiệt là ác. Còn nhiều khi có những người, người ta nghĩ người ta vì chúng sanh, vì thấy cái sự đau khổ của chúng sanh. Người ta cố gắng nghiên cứu giáo lý của Phật, người ta hiểu, người ta dạy cho họ làm những điều lành, họ không có nghĩ đến mình, người ta chưa có đạt. Bởi vì thương chúng sanh. Những người này là những người chưa có hiểu cái sự giải thoát của mình, chưa có làm chủ. Nhưng chính cái lý luận, cái hiểu, độ chúng sanh đó nó lại lừa bịp mình. Rồi do đó nó vô tình lừa bịp người khác. Chứ cái người này không có cái thủ đoạn kinh doanh làm giàu, mà chính bị cái lý luận mà trong kinh sách để thế này, thì chúng ta thấy cái lý do mà thứ hai nó thường thường bị lầm, chính cái người thầy cũng vẫn bị lầm mà bị lường gạt ở cái lý do thứ hai này mà làm cho người ta có tội lỗi. Mà cái tội lỗi này là cái tội lỗi còn nhẹ là vì người ta vô tình mà thôi, người ta không có hiểu qua cái lý do đó.

Cho nên, ở đây đức Phật dạy các đệ tử khi mà tu xong rồi thì mới đi độ người ta. Mà chưa xong thì ông Phật ổng không cho đi độ ai hết. Do vì vậy, chúng ta thấy có ông Phú Lâu Na ông xin đến một cái xứ nào đấy để độ, thì Phật trắc nghiệm ổng xong rồi thì Phật chấp nhận cho ổng đi. Mà nếu mà ổng trả lời không được thì ông Phật ổng không cho đi đâu. Cho nên, cuối cùng thì ông Phú Lâu Na trả lời Phật như thế nào? Họ giết con, con thấy càng tốt càng thiện, họ thương con. Khi mà người ta giết mình mà mình không có giận hờn thù oán mà còn thấy họ thương mình thì chính là mình mới đi độ được. Thì đó là đức Phật trắc nghiệm ổng ở trên cái thiện pháp, chứ không phải ác pháp. Tức là đứng ở trên nhân quả. Qua câu chuyện của ông Phú Lâu Na với đức Phật khi ông Phú Lâu Na xin đi để độ chúng sanh ở biên cương. Ở đó, dân chúng nó rất là hung ác. Cho nên đức Phật trắc nghiệm người đệ tử mình không phải ở chỗ thiền định mà cũng không phải ở chỗ thần thông, mà cái chỗ nhân quả, cái chỗ thiện ác đó. Chúng ta thấy qua cái bài pháp đó chúng ta thấm, Phật nhắm vào cái chỗ đó mà độ chúng sanh. Cho nên ở đây, nó không phải lưu xuất ra những cái gì để mà gạt người mà thực chất là làm cho người ta ở trong thiện pháp. Cái nhân quả mà người ta đạt được cái chỗ giải thoát của họ.

- Lý do thứ balà gì, lý do Phật pháp mà trụ ở thế gian mà có. Đây là để ý vào trong cái chỗ kiến lập tăng đàn. Mong có qui luật mà vĩnh cửu, triển khai, và nối tiếp nhiệm vụ hoằng dương Phật Pháp. Lý do thứ ba này, lí do hồi nãy là để độ chúng sanh, lí do thứ ba này là để cho Phật Pháp cửu trụ. Cũng như Thầy mà viết cái giáo án này là cũng muốn cho Phật Pháp cửu trụ. Mà nếu mà Thầy không có hiểu, Thầy cũng là bị cái ý này nó làm lệch mình đi. Thầy viết cái giáo án này ra để cho người ta hiểu biết được cái chánh pháp, người ta theo đúng nhân quả thiện ác người ta tu hành. Người ta hiểu được những cái lý hành đem ra thực hiện chớ đâu rốt ráo. Mà Thầy cứ ngồi chình ình ra đây thì chắc chắn ông thầy coi chừng chấp danh chấp lợi mất rồi. Bởi vì người ta hiểu biết được thì người ta phải đến người ta tu tập chớ sao. Mà người ta không dựa vào cái giáo pháp này, mà người ta cứ dựa vào Thầy. Thì người ta cứ dựa vào Thầy. Đó là cái chỗ mà chúng ta thấy rõ, là tại sao Thầy phải tránh danh, tránh lợi, tránh sự cung kính là như vậy. Là vì khi viết ra rồi thì nó không thật chất cụ thể của nó, nó không thể lệch lạc được. Chính ông Phật đã di chúc lại cho chúng ta sau này, ông Phật đã hoàn chỉnh được ông thầy này trước khi Phật nhập niết bàn. Do vì vậy, Thầy mới đi vẽ ra cái lộ trình này, không phải ngoài cái ông thầy giới luật nữa, mà chính ở trong cái giới luật khai triển ra cái hành của giới luật giúp chúng ta hiểu rõ để tự chúng ta đi, thắp đuốc lên mà đi theo cái ông thầy này chớ không phải theo thầy.

Các thầy hiểu cái điều đó. Cho nên, khi Thầy có ẩn bóng đi thì quí thầy vẫn có một cái lộ trình là ông thầy giới luật của quí thầy rõ ràng mà Thầy đã vạch ra qua cái kinh nghiệm tu của mình, được ông thày giới luật đã dạy như thế nào, thế nào. Thầy đã vạch ra cho quí vị như vậy. Quí vị cứ sống đúng rồi tập đúng thì quí vị sẽ đến đích chứ không cần ai hướng dẫn hết. Bởi vì Đạo Phật là đạo tự mình, chính ông Phật cũng ngày xưa tự ổng cứu ổng chứ có ai dạy cái đạo đó cho ổng đâu. Và bây giờ ổng để lại ông thầy là cái gương hạnh của giới luật để chúng ta nương vào đó, lấy đó chúng ta tiến vào con đường giải thoát. Như vậy chúng ta đâu đời đời kiếp kiếp chúng ta đâu cần phải thay đổi ông thầy đâu, lúc nào chúng ta cũng có ông thầy giới luật. Bởi vậy Giáo án của Thầy ra nó cụ thể, thực tế, chúng ta thấy được cái lộ trình của một người xuất gia tu hành giải thoát, đi đến chỗ chấm dứt sanh tử luân hồi thì chính là cái chỗ này chứ không phải là Thầy đâu. Thầy chỉ lấy qua kinh nghiệm của mình mà tu tập được, dựng nó lại những gì mà người ta bỏ quên, mà người ta không làm được.

Thì qua ba điều kiện này chúng ta thấy nó rất là chính đáng. Nếu mà chúng ta lầm lạc về cái lý do vì Phật Pháp cửu trụ mà chúng ta ngồi đó để đón nhận thì coi chừng chúng ta cũng lầm lạc mất đi.

Cái lý do chứng đạo thì lý do thứ ba là tốt đẹp. Nghĩa là mình chứng đạo rồi, Phật Pháp mình mới giữ cửu trụ được, còn mình chưa chứng đạo mình đón thì cũng là nguy hiểm. Khi mà mình chứng đạo rồi thì mình cửu trụ cũng bằng thừa, mình ở lại cũng bằng thừa. Tại sao, tại vì giới luật nó hẳn hòi rồi. Đâu đâu nó ra đó, pháp hành ra đâu đó rồi thì mọi người nương theo giới luật mà làm thầy. Do đó, cái ông thầy đứng ở giai đoạn thứ ba muốn cửu trụ thì phải thực hiện cái giới pháp của Phật hẳn hoi đàng hoàng, giải thoát thì ông thầy đó làm sao không hiểu được cái giới luật rõ ràng. Một khi hiểu được giới luật rõ ràng thì ông đã vẽ ra một cái đường đi, vẽ ra một cái gì mà Phật đã dạy thì nó rất đúng rồi, nó không còn sai nữa. Thì ông thầy đó, ổng có ở đó nữa không? Không. Nếu ổng ở đó thì bằng thừa. Bởi vì ông thầy giới luật đã có rồi, lại thêm ông thầy bằng xương bằng thịt ngồi gần bên nữa, thì đây cả hai ông thì mọi người người ta biết nương vào ông nào đây. Bây giờ nương vào ông thầy có thịt, có da này. Ông thầy kia ông câm miệng, hổng nói cho nên họ làm biếng, họ hổng chịu nghiên cứu. Vì vậy cho nên họ càng không có cái trí tuệ sáng ra, họ không chịu nghiên cứu cả cái thân họ, không chịu nghiên cứu đường lối Phật dạy qua cái giới luật này. Họ cứ nương vào cái ông thầy, nương vào ông thầy làm gì, để sống cho nhờ ông thầy có cơm ăn, áo mặc, khỏi cần đi khất thực chứ gì. Nhưng rồi rốt cuộc rồi, nó sai cái hạnh của mình đi. Nó hổng đúng.

Đó, thì tới đây quí thầy thấy rất rõ là con đường của đạo Phật, nó có cái ông thầy sẵn có. Tuy rằng nó vô hình, nó có một cái đường lối cho chúng ta theo ông thầy mà đi. Người xuất gia theo đạo Phật phải (...) thực hiện ba ý nghĩ này. Nhưng chúng ta phải thực hiện từng ý nghĩ chứ không thể vì chúng ta chưa tu chứng mà thực hiện cả ba ý nghĩ là không được.

Đối với chính mình là cầu giải thoát sanh tử. Đối với người khác là vì cảnh tỉnh, dẫn dắt thế tục. Đối với Phật Pháp là vì trụ trì, hoằng dương, làm cho sáng tỏ lại con đường đó. Đồng thời truyền kinh nghiệm của mình cho một vài người như thế nào để cho nó có đủ cái niềm tin cho những người khác. Rồi đồng thời cái đường lối đó nó hẳn hòi là cái ông thầy của mọi người rồi, họ tự đó mà họ đi.

Ba điều này, thiếu một thì không hoàn chỉnh được, cái vị thầy mà đã vạch ra được cái này thì phải khéo léo, không bị danh bị lợi che mắt ông thầy này. Nhưng mà ông thầy đã giải thoát rồi thì ổng biết cái thời gian nào, cái thời điểm nào mà ổng còn ở trong ba ngôi tam bảo này. Thời gian nào ổng ẩn bóng, thời gian nào ổng thị tịch, chứ không phải là ổng không biết cái điều này, ông phải biết rõ.

Về giải thoát sanh tử thì xuất gia mà chẳng tự cầu giải thoát sanh tử thì chẳng cần xuất gia. Nghĩa là mình xuất gia mà không cầu sanh tử thì mình xuất gia làm gì, chẳng cần xuất gia. Xuất gia mà chẳng cảnh tỉnh, dẫn dắt thế tục ấy là trái với tinh thần Phật giáo, nghĩa là không hóa độ chúng sanh. Xuất gia mà không trụ trì Phật pháp, ấy là cô phụ cái ơn lớn của Tam Bảo. Thí dụ bây giờ Thầy xuất gia, Thầy giải thoát rồi, mặc ai thầy hổng thèm độ, hổng thèm viết ra cái giáo án để cho người ta thấy con đường của đạo Phật thì đó là mình cô phụ của Phật Pháp. Mà xuất gia mà không làm cho người ta hiểu đúng, để cho người ta hiểu sai Phật Pháp thì cái xuất gia mình cũng chẳng có nghĩa lý gì hết.

Nghĩa là mình chứng đạo rồi, mình thấy họ tu sai mình hổng dám nói, mình nói đây rồi họ thù họ oán, họ giết này kia, họ hại mình bằng cách này cách khác, thì cái xuất gia của mình không có ý nghĩa. Mình xuất gia, mình biết cái sai cái đúng rồi thì mình phải nói thật ra để cho người ta biết được cái sai, cái đúng người ta sửa, người ta đi theo con đường của đạo Phật cho đúng. Đó thì quí thầy phải hiểu chỗ này, cho nên Thầy làm sao mà thầy câm miệng lại được khi mà mọi người người ta không thấy cái đúng cái sai của đạo Phật. Bây giờ Thầy nói lên, mặc dù là có những sự kiện nó có thể xảy đến với thầy bằng cách này, bằng cách nào Thầy cũng phải nói lên để dựng lại những cái gì mà của Phật pháp đem lại lợi ích cho con người rất lớn. Mà bây giờ mình không dám nói ra, sợ bao nhiêu người, người ta tu sai, người ta sẽ phiền não, người ta sẽ tìm cách hại mình. Thì như vậy Phật Pháp biết bao giờ mà phơi bày ra cái sự thật của nó được.

Cho nên đứng ở trên ba cái lý do này, cái người mà tu làm chủ sanh tử rồi thì họ không có ngần ngại trước cái sống chết, những cái danh, cái xấu. Miễn làm sao phơi bày được Phật Pháp, để người ta trở về đúng với chánh pháp của Phật. Cái đó là cái viên mãn ước nguyện của cái người tu đó.

Ba lý do trên đây, chỉ lý do thứ nhất được chấp nhận với người mới tu. Nghĩa là lý do thứ nhất, chúng ta phải lo cái vấn đề này trước cho chúng ta đã. Còn hai cái lý do kia là khi mà chúng ta tu xong rồi, thì chúng ta mới tiếp tục để làm cái điều này.

Vì vậy mà mười bảy năm trời khi mà tu làm chủ được cái sự sống chết rồi, 17 năm trời Thầy khắc khổ với nỗi lòng lo lắng về cái vấn đề mình phải làm gì cho lợi ích chúng sanh, phải làm gì cho Phật Pháp trường tồn. Bây giờ mình nhìn chung người ta tu sai rồi, giờ mình làm sao đây? Nói làm sao được, nói ra không biết thầy tổ của mình có nghe không. Cho nên cái khổ tâm của Thầy rất lớn. Còn chiều theo họ thì nó lệch Phật pháp đi, rồi người sau người ta đâu biết lối đâu mà đi nữa. Như vậy là cái nỗi khổ rất là khổ, cho đến cái giờ phút cuối cùng này, Thầy thấy không còn giải quyết gì được hơn hết, không còn âm thầm mà làm những gì êm đẹp được hết. Buộc lòng phải nói ra hết sự thật mà thôi. Đó là đúng lúc mà đúng thời rồi, không còn có cái chỗ nào mà không nói.

Ba cái lý do trên đây chỉ có lý do thứ nhất được chấp nhận cho người mới tu, còn hai lý do sau người đang tu không được nghĩ đến, nghĩ đến là tai hại khó đo lường cho người đó. Và Phật Pháp sẽ mất lối giải thoát, chỉ còn lại hình thức mà thôi. Nếu mà người tu chưa xong, độ chúng sanh thì chỉ còn cái hình thức tu hành chứ không phải là để giải thoát nữa.

Người xuất gia phải buông bỏ hết tất cả, thấy suốt tất cả, không tranh thị phi, không phân biệt nhân ngã vì thế ở đời ít có người làm được. Nghĩa là cái người xuất gia phải thông suốt được cái này, không có tranh hơn thua với thị phi, không có phân biệt nhân ngã...Tất cả những cái gì chúng ta cũng phải bỏ hết. Vì thế ở đời ít có người làm được là như vậy. Cho nên cái lộ trình xuất gia rất là khó, chớ không phải là dễ. Nhưng có một số người tu theo kiểu Phật giáo thời đại hiện nay bảo những người tu này là tiêu cực, yếm thế, khổ hạnh, ép xác. Họ thấy những người tu theo thập giới Sa di sống đúng những cái hạnh của người tu sĩ là tiêu cực, yếm thế, khổ hạnh, ép xác. Đúng nghĩa người xuất gia theo đạo Phật phải tự mình buông bỏ sạch, trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không. Ngoài  ba y một bát, những người này nếu không tích cực làm sao bỏ xuống hết được. Nếu mà chúng ta không tích cực từ bỏ thì không bao giờ chúng ta bỏ xuống hết được. Cho nên chúng ta không thể nào mà thực hiện được cái thập giới Sa di hết. Cho nên phải hết sức tích cực trên bước đường tu tập. Vì chính bỏ hết thì mới hết tai họa và đau khổ. Nghĩa là bỏ hết mới hết tai họa và đau khổ, còn không bỏ hết thì chúng ta sẽ còn tai họa và đau khổ.

Tội ác và đau khổ của con người chẳng toàn là do con người không chịu buông xuống. Nghĩa là chính những sự đau khổ và tội ác của chúng ta là do chúng ta chưa chịu buông xuống mà thôi. Chứ nếu mọi người mà biết buông xuống như một chú Sadi thập giới thì đâu còn tội ác, đâu còn sự đau khổ nữa. Thấy chỗ này thì chúng ta mới thấy lộ trình của Đạo Phật là từ cái cuộc sống của chúng ta mà thay đổi thì chúng ta mới thấy cuộc sống buông bỏ, buông xả.

Tội ác và đau khổ của con người chẳng toàn là do con người không chịu buông xuống và không sáng suốt mà tạo ra ư? Nghĩa là, do người ta không chịu buông xuống nên mới có những tội ác và những sự đau khổ. Và cũng chính vì không sáng suốt nên người ta không có buông xuống được. Còn cái người mà người ta sáng suốt thì người ta buông xuống được. Cho nên mình nói mình sáng suốt nhưng sự thật mình đi tu rồi mà mình cũng chưa bỏ được hết thì mình cũng chưa sáng suốt. Mà mình bỏ xuống được hết thì đó mình mới là sáng suốt. Và như vậy mình không  còn khổ đau nữa. Người xuất gia là người sáng suốt, biết buông xuống hết, danh lợi, tư dục ...

Mục đích xuất gia của Đạo Phật tự mình cầu giải thoát và khi tu xong trợ giúp người khác giải thoát, lấy việc tự cứu mình rồi sau cứu người và mọi người đều được giải thoát như mình. Vì thế xuất gia quí thầy phải hiểu là việc làm của bậc đại trượng phu chẳng phải việc quan tướng có thể làm được. Nghĩa là cái việc xuất gia là cái việc của bậc đại trượng phu, chứ không phải cái việc mà làm quan, làm vua. Cái việc làm quan, làm vua nó không phải là việc của bậc đại trượng phu. Còn cái việc chúng ta buông xả xuống hết là việc làm của bậc đại trượng phu. Còn làm quan, làm vua cái việc làm nó tích, nó không có buông xuống, nó tích lũy, nó đem vô thêm. Nên cái việc đó dù làm quan làm tướng, làm gì đi nữa thì cái vấn đề đó nó vẫn đem vô chớ không buông xuống nên không thể nào gọi họ là bậc đại trượng phu được.

Việc quan tướng là điển hình cho anh hùng hào kiệt. Đó thì đó mình thấy những người mà làm quan, tướng người ta gọi là anh hùng hào kiệt, nhưng những người đó có buông xuống không. Không có buông xuống nên người ta gọi là anh hùng hào kiệt. Còn việc làm của đại trượng phu là điển hình như Thánh hiền. Những cái bậc Thánh hiền người ta buông xuống hết mà, người ta xả hết những long ham muốn, những cái vật dụng của thế gian, những tình cảm nhỏ mọn ở thế gian. Hào kiệt dựa vào khí thế mà thành. Thánh hiền thì bám vào khí chất mà thành. Ở đây quí thầy thấy này, hào kiệt họ vào cái khí thế mà thành. Nghĩa là mình muốn thành anh hùng, tui muốn thành hào kiệt thì mình dựa vào cái khí thế tạo cho mình mạnh lên thì mình mới thành anh hung hào kiệt. Còn thánh hiền bám vào khí chất mà thành. Nghĩa là cái khí chất đó gì, là cái sự buông xả của mình, nó tạo nên một cái toàn là thiện pháp cho nên mới gọi là Thánh Hiền. Trong khí chất của Thánh Hiền thì hàm dung cả khí thế của hào kiệt. Bởi vì nếu không có khí thế mạnh, thì chắc chắn là chúng ta không bao giờ buông xả xuống được hết. Nhưng trong khí thế của hào kiệt, chẳng có cái khí chất của Thánh Hiền. Cho nên nó có thể nói là anh hùng hào kiệt, nhưng vẫn giết hại con người như cỏ rác chứ nó đâu có tha, nó đâu có phẩm chất của Thánh Hiền được, cho nên nó đâu có thiện. Cho nên muốn làm hào kiệt anh hùng thì phải đầu rơi máu đổ, dữ lắm mới làm tướng, làm nên danh phận. Một danh tướng thì phải đầu rơi máu đổ bao nhiêu của thiên hạ mới là danh tướng được, chớ đâu phải ít. Đó là cái chỗ phân tích để thấy được những hào kiệt, những anh hùng, và những Thánh Hiền là như thế nào, chỗ nào là bám vào khí chất, khí thế. Cả hai cái này có khác nhau chớ không phải giống nhau.

Lấy Phật mà làm điển hình, cái sanh, già, bệnh, chết của chúng sanh chỉ có xuất gia, tu chứng thì giải đáp được sanh già bệnh chết, ưu bi sầu khổ. Chỉ có chúng ta tu chứng mới giải đáp được cái đó. Còn chúng ta tu chưa chứng thì chúng ta không giải đáp được cái sanh già bệnh chết.

Mục đích của người xuất gia trong Phật giáo, trên nguyên tắc là phải sống y như Phật, nghĩa là phải ra khỏi nhà thế tục, lìa bỏ vợ con, lìa bỏ cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc, đó là đi ra khỏi cái nhà khổ của sanh tử. Mình lìa bỏ cha mẹ đó, là mình ra khỏi nhà khổ của sanh tử, chỗ đó là chỗ sanh tử. Bởi vì chính chỗ đó sanh mình ra mà, cho nên chỗ đó không phải là chỗ sanh tử sao. Cũng từ chỗ đó mà mình chết. Rồi mình đi ra mình xuất gia rồi, là mình ra khỏi nhà sanh tử đó. Mà ra khỏi nhà sanh tử rồi, quí thầy ngồi đây tu mà nhớ, thì thử hỏi quí thầy có ra khỏi không. Cho nên chúng ta ra khỏi không phải thân chúng ta ra khỏi mà cả tâm chúng ta cũng phải ra khỏi nữa. Hiểu như vậy thì chúng ta thấy cái lộ trình thứ hai của cái người xuất gia rất là khó chứ không phải dễ. Cái tình cảm của chúng ta nó đâu có phải dễ, cái nhân quả của chúng ta nó trói chặt rất là bền chặt, chắc lắm. Không có thể nào mà chúng ta dứt cái tình thương của chúng ta đối với những người thân của mình dễ dàng đâu.

Đến với đường tu của đạo Phật, tốt nhất là lúc tuổi còn trẻ. Nghĩa là ở đây Thầy cũng xác định, đến với đường tu của đạo Phật tốt nhất là lúc tuổi còn trẻ, tại sao? Sức khỏe chúng ta còn, chúng ta sống mới nổi với cảnh giới ly dục, ly bất thiện pháp, với cảnh ăn một ngày một bữa. Già rồi nhiều khi chúng ta sống không nổi nữa, ăn một bữa chúng ta thấy khó sống lắm. Chỉ có khi chúng ta tu xong rồi, chúng ta quen thì chúng ta mới sống được, chớ không thì cũng phải thêm cái này kia chớ còn ăn một lần thì họ ăn hổng được đâu. Tốt nhất là nên xuất gia lúc tuổi còn trẻ, sức lực còn cường tráng, thì lúc tu hành tốt nhất và dễ thành tựu nhất. Có người nói thôi hãy đợi về già hãy tu, họ nói như thế là để kéo dài thời gian chạy theo dục lạc chứ chẳng phải gì hết. Phí đi cái tuổi trẻ quá uổng, là vì cái thân người rất khó, mà tìm được cái chánh pháp còn khó hơn, thế mà họ cứ lần lữa. Hẹn lần hẹn lữa, đến khi mà thân hoại mạng chung thì ôi thôi, không làm sao mà cứu kịp.

Thất bại trên đường tình ái và sự nghiệp mà xuất gia. Bây giờ đến những người thất bại trên đường làm ăn hoặc tình ái, sự nghiệp mà xuất gia. Thì Phật giáo cũng không cự tuyệt, song cũng không có khuyến khích, cổ xúy họ và cũng không thể nào nhiệt liệt hoan nghênh những kẻ này. Nghĩa là mặc dù những người này họ đến với cái tâm đau khổ thì Phật giáo cũng cho họ xuất gia, cũng cho tu để cho họ an ủi. Nhưng mà cái mục đích của họ không phải là giải thoát sanh tử đâu, mà chính họ để quên đi cái nỗi khổ thất vọng, thất tình của họ vì họ không đạt được ý muốn chạy theo dục lạc thế gian thôi. Có vậy thôi, cho nên đối với cái người mà nhận họ, không nhiệt liệt hoan nghênh những người này, biết rằng họ có tu cũng chẳng tới đâu. Vì những kẻ ấy có xuất gia tu hành cũng chẳng đi tới đâu hết, không bao giờ tìm được sự giải thoát. Nghĩa là cái người thất tình, thất vọng mà vào tu thì cũng chẳng đi tới đâu hết. Vì tâm tư của người thất tình, thất vọng là tâm tư của người chạy theo dục lạc thế gian. Còn đạo Phật là đạo dứt bỏ thế gian. Hai cái này nó khác. Ông ta thất tình tức là ông ta bị bạc đãi gì ở ngoài thế gian, ông ta chạy theo dục lạc không có đạt được, nên ông đau khổ. Cho nên có một chàng trai yêu cô gái nào đó, cô này cô đi lấy chồng khác đi, ông này mới thương quá, ổng đau khổ bỏ vô chùa tu. Thì tu cái kiểu này là không có giải thoát. Lấy câu kinh, tiếng mõ để tụng niệm hàng ngày để quên đi cái hình bóng. Cũng như cái câu chuyện ở trong “Tâm hồn cao thượng” mà Lan với Ngọc hoặc là trong cái “Hoa rơi cửa Phật” gì đó, chú tiểu Lan mà cắt đứt dây chuông gì đó, đó là cái tình cảnh mà tu ngàn đời cũng hổng thành Phật được.

Thì cái người tu của chúng ta cũng có nhiều dạng như vậy lắm chứ không phải không. Cho nên ở đây Thầy nói hết để cho quí thầy thấy tu như vậy không có đúng cái nghĩa của người xuất gia để mà tu. Cũng mặc áo tu nhưng mà tâm tư nó thường đau khổ, nó nhớ tình nhân của nó ở ngoài đời, rồi nó không làm sao gặp bởi vì cái người tình nhân đó đã có vợ có con rồi, hoặc là có chồng rồi. Bây giờ ngồi tu nó nhớ hình dáng trong lúc mà còn gặp nhau ở ngoài đời.

Bây giờ mình tới cái giai đoạn phải thông hiểu về cái Sadi giới và các loại Sadi. Bây giờ mình tới cái giai đoạn mình phải hiểu về cái Sadi, cái giới Sadi rồi, giờ tới các loại sadi như thế nào. Tại sao gọi là sadi và sadi ni.

Như các thầy đã học, lộ trình thứ hai của đạo Phật gồm có 5 hạng chúng. Ở giai đoạn này chỉ có 3 hạng Sadi: một là Sadi, hai là Sadini, ba là thức xoa ma ni, người ta còn gọi là thức xoa mana. Ở đây chúng ta thấy chữ ni đúng hơn. Vì Sadi ni, trên bậc Sadi ni, để 2 năm nữa mới thọ Tì kheo ni, thì bặc này nên gọi là thức xoa ma ni. Trong nhà Phật gọi ba giai đoạn là Tam tiểu chúng, tức là ba chúng nhỏ. Nam nữ xuất gia nhỏ hơn 20 tuổi không được thọ Tỳ kheo giới và tỳ kheo ni giới.

Giới luật của sadi và sadini đều gồm 10 điều, đều giống nhau chỉ điểm khác nhau là ở oai nghi đại chúng và đại chúng học. Nghĩa là đối với ni thì cái oai nghi của nó khác với bên nam. Sadi phải học theo luật nghi tỳ kheo còn sadi ni phải học theo luật nghi của tỳ kheo ni. Do vì thế ở đây có sự khác biệt giữa tỳ kheo và tỳ kheo ni. Nghĩa là bên đây phải học luật nghi của Tăng, bên kia phải học luật nghi của Tỳ kheo ni. Ở đây quí thầy chỉ học Sadi giới là thông suốt Sadi ni giới.

Sadi dịch âm chữ Phạn là ramanora. Chữ này có ba cách dịch nghĩa. Nghĩa thứ nhất là tức từ, nghĩa thứ hai là cần sách, nghĩa thứ ba là cầu tịch. Tức từ là dứt ác mà hành thiện. Cần sách nghĩa là khuyến khích, siêng năng. Cầu tịch nghĩa là cầu lấy đạo niết bàn và quả viên tịch. Nghĩa thứ nhất, cái người sadi đi vào cần phải dứt ác hành thiện. Cho nên thập giới sadi cũng dạy chúng ta những cái điều dứt ác hành thiện. Cần sách thì chúng ta phải khuyến khích, siêng năng. Có khuyến khích siêng năng, khích lệ trên con đường dứt ác hành thiện thì chúng ta mới làm trọn vẹn được. Nghĩa thứ ba cầu tịch là nghĩa cầu lấy đạo niết bàn, giải thoát cho đến viên mãn, giải thoát. Nghĩa của Sadi nằm ở ba nghĩa này. Cho nên hiểu cái nghĩa Sadi, chúng ta bước qua cái lộ trình thứ hai nó vững chắc không có còn lưỡng lự, lo lắng vì chúng ta đã chuẩn bị cho cái tinh thần của chúng ta, phải có ba cái nghĩa bắt đầu để chúng ta tu tập.

Một người mà thất tình, thất vọng mà đi tu làm sao đúng nghĩa được. Phân biệt như vậy chúng ta mới thấy rõ được. Bởi vì chỉ có cầu tịch là đúng nghĩa hơn hết. Nhưng để mà cầu tịch được nó phải có tức từ, tức là phải có dứt ác hành thiện. Mà nếu không có siêng năng, hổng có cần sách thì làm sao siêng năng mà được. Cho nên phải nói chỉ có cầu tịch là đúng, chúng ta có tâm hướng đến giải thoát đó, nhưng chúng ta phải có thực hiện từ cái bước đầu. Cho nên Sadi nó phải bao hàm cả cái hành động để thực hiện lộ trình của cái người Sadi.

Sadi ni có nghĩa là cầu tịch nữ, chữ ni ở đây chỉ cho chữ nữ. Nội dung của Sadi thập giới và Sadi thập giới trong bát quan trai giới là đã đủ 9 điều của Sadi, chỉ còn có một điều của Sadi là giới không cất giữ tiền bạc mà thôi.

Nghĩa là khi mà học thọ Bát quan trai, quí thầy đã thấy thầy giảng 9 cái điều, còn 1 điều của sadi là không cất giữ tiền bạc, châu báu.

Ở đây thầy liệt kê lại cho quí thầy thấy rõ hình thức, hình thái của thập giới sadi mà có lần thầy đã dạy rồi. Mười giới Sadi là:

1 không sát sanh,

2 không trộm cắp,

3 không dâm dục, ngũ giới của cư sĩ á là không tà dâm, còn ở đây sadi là không dâm dục nghĩa là không có phi phạm hạnh được.

4 không nói vọng ngữ,

5 không uống rượu,

6 không đeo tràng hoa, chuỗi hoa, không dùng dầu thơm,

7 không ca múa, biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không ca hát và nghe ca hát,

8 không ngồi giường cao rộng lớn,

9 không ăn phi thời,

10 là không cất giữ tiền bạc, châu báu. Tất cả giới này thầy đã giảng trong thọ bát quan trai, chỉ có giới thứ 10 là chưa giảng, không cất giữ tiền bạc, châu báu.

Bây giờ Thầy mới giảng tiếp cái giới không cất giữ tiền bạc để cho quí thầy hiểu đủ 10 cái giới Sadi.

Ở đây qúi thầy phải hiểu, người xuất gia vì phá trừ tâm tham, phá trừ thói quen. Người ta thường nói con người chết vì của cải, có người còn nói con người không sống được ngàn năm mà lo tính chuyện vạn năm. Sự ham muốn và tích tập chất chứa của cải của con người có thể nói là bẩm sinh, có 100 mong muốn 1000, có 1000 mong muốn 1 vạn cho đến thành phú ông trăm vạn, ngàn vạn rồi lại mong muốn lũng đoạn kinh tế thế giới, muốn cả thế giới này đều thuộc sở hữu của mình. Điều này ở trong xã hội tư bản chủ nghĩa của công thương nghiệp thì được cổ vũ, nhưng ở trong thế giới đại đồng XHCN thì lại không được hoan nghênh. Trong Phật giáo của chúng ta lại càng không có chấp nhận, nghĩa là không có chấp nhận chuyện làm giàu như vậy. Có thêm hoài, thêm hoài là không chấp nhận, bởi vì đạo Phật thì phải bỏ ra chứ không có chấp nhận thêm vô.

Của cải có thể tạo phước cho con người, đó là một lẽ thật không thể phủ nhận được. Nhưng của cải có thể trở thành chủ nhân của loài người và con người trở thành nô lệ cho của cải, cũng là sự thật không ai có thể phủ nhận được. Ai cũng biết của cải là vật ở ngoài thân, xem của cải là vật ở ngoài thân là điều ít ai làm được. Nghĩa là nó ở ngoài thân chứ đâu ở trong thân, thế mà không có người nào mà bỏ nó được hết. Đó là một cái khó. Ai cũng biết của cải là vật ở ngoài thân, xem của cải là vật ở ngoài thân lại là một điều điều ít ai bỏ được. Nghĩa là nói nó ở bên ngoài chứ bỏ ra hổng được, chứ phải nó ở trong ruột mình, bỏ ra nó khó, thế mà nó hổng ở trong ruột, ở ngoài mà bỏ hổng được. Do thế chúng ta phải biết, của cải dù ít, dù nhiều, nó vẫn có khả năng lớn sai khiến loài người. Cho nên người xuất gia trong đạo Phật chủ trương buông xả sạch, không tích tụ của cải. Vì thế giới luật của Phật cất giữ của cải, tài sản là hành vi phạm giới. Khi đã thấy và thấu suốt tính chất trói buộc của tài sản của cải đối với sự ham muốn, chiếm hữu mãnh liệt của con người đối với của cải. Khi mà chúng ta đã thấy và thấu suốt tính chất trói buộc của tài sản đối với mình là như vậy, thì mình phải sợ lắm. Còn nếu mình mà không sợ, thì mình sẽ bị cột chặt, vì vậy mà con đường tu hành của mình, càng tu thì mình bị của cải tài sản, những cái vật chất của thế gian nó trói mình rất chặt. Mặc dù hình thức mình tu, nhưng mà mình ko để ý, thì mình bị trói chặt rất lớn. Cho nên mình phải nhìn thấy cuộc sống của mình, đừng có nghĩ nó là gian khổ. Như Thầy nghĩ, ba y một bát, đi chỗ này đi chỗ kia, nay ở hang mai ở núi thì gian khổ lắm. Do đó mà không dám thì tức là chưa dám xả. Còn một cái người đã thấy thân này là vô thường thật sự rồi, không có cần nó nữa thì người ta xả hết. Cho nên vì vậy mà người ta không có ngại gian khổ đối với cái thân tứ đại này. Còn nếu mà không thấy, coi chừng một chút xíu nó vẫn trói mình đó. Nó không có thể mà nương tay mình được.

Biết như thế nên muốn cho đệ tử xuất gia của mình đừng bị dính mắc nên ngài mới chế giới cấm không cất giữ tiền bạc, châu báu. Vì của cải, tiền bạc làm động tâm khiến khởi tâm tham đắm, ham mê. Quí vị nào mà đã có sự tu chánh niệm tỉnh thức, quán xét ngũ triền cái thì bây giờ mới thấy thấu suốt được, mới buông xuống được. Còn nếu mà chúng ta chưa có tu chánh niệm tỉnh thức thì chưa có đủ cái sức mà tỉnh thức sáng suốt thì chúng ta ham mê nó mà chúng ta ngỡ rằng mình không ham mê. Cho nên cái vấn đề mà tu chánh niệm tỉnh thức thì nó rất là quan trọng, để khi mà chúng ta đặt một cái niệm gì. Tham thì ngay đó chúng ta quán xét tâm mình xem nó còn tham chỗ nào không. Thì chừng đó mình thấy những cái vi tế của vật chất nó còn dính mìn thì mình thấy cái tâm tham của mình rất rõ. Cho nên cái vấn đề ở đây, cái tu chánh niệm tỉnh thức á, nó làm chúng ta sáng suốt để mà chúng ta quét sạch tâm tham. Và quét sạch tâm tham của chúng ta, thì những cái vật chất, tiền bạc của cải ở xung quanh chúng ta đều được buông xuống được hết. Còn nếu mà chúng ta không có tu tập cái đó thì coi như chúng ta không sáng suốt mà chúng ta cứ ngỡ là mình buông xả, nhưng sự thật ra là mình dính hết, chớ không thể nào mà không dính.

Không tu thì thôi, mà đã tu thì phải thật tu, tu cho rốt ráo, tu cho thành đạt, tu cho giải thoát. Mình đã cạo cái đầu tròn rồi, đã bước vào chùa rồi, thì quyết định là phải tu cho đến giải thoát, thì quyết định là phải quán xét cho sạch, cho thông suốt, không còn một vật gì chướng ngại là mình sợ nó đói, khổ, lạnh lẽo, y áo…

Vì chính chúng ta sợ cái thân của chúng ta khổ cho nên chúng ta không dám hành những giới luật của Phật. Nếu mà chúng ta gan dạ, chúng ta không có sợ, thì chắc chắn là chúng ta đạt được những cái kết quả rất lớn của sự tu tập.

Đó hôm nay thầy nhắc lại cho quí thầy thấy, khi bước qua cái lộ trình này chúng ta phải hiểu để mà chúng ta bước. Chứ còn nếu chúng ta mà chưa hiểu, chúng ta bước không trọn vẹn thì chúng ta cũng chẳng đi tới đâu hết.

Người tu theo đạo Phật xem của cải như đồ vô dụng, giữa ngày ăn một bữa, sau khi đi từng nhà khất thực, ngủ đêm dưới gốc cây là chỗ có thể an thân của người tu sĩ. Đó mình phải chấp nhận, thấy được của cải, tài sản, nhà cửa nó không có quan trọng đối với người tu sĩ nữa.

Nghĩa là cái bữa ăn chúng ta đi xin, có cái gì ăn cái nấy, rồi đi xin từng nhà, rồi ngủ thì dưới gốc cây hoặc là cái đống rơm nào đó chúng ta có thể chui vào ngủ cũng được, không cần phải có nhà có cửa gì hết. Gặp cái gò mả hay là cái nhà mồ của người Hoa chỗ nào đó, chúng ta chui vào đó ngủ chung với mấy cái thây ma đó cũng an ổn. Một đêm sáng ra rồi cùng yên ổn. Còn mà người nhút nhá, vô đấy thấy mấy cái quan quách của người Hoa mà để trong nhà mồ, không dám ở thì không thể nào mà lập cái hạnh của người xuất gia được. Cho nên vì vậy mà trước khi xuất gia thì người nào mà có tánh mà sợ ma rồi thì phải tập sửa, đừng có sợ ma nữa. Vì cuộc đời chúng ta còn sợ mà là còn sợ chết. Bởi vì ma nó có làm hại gì mình đâu được, mà mình còn sợ tức là mình sợ chết, mà còn sợ chết tức là còn sợ ma. Cho nên vì vậy mình phải cố gắng tập, đừng có sợ ma nữa. Do đó thì mình ngủ nhà mồ, ngủ ở đâu cũng hổng sợ. Ngủ rừng, ngủ bụi cũng hổng sợ. Còn mình còn chút sợ chết, sợ khổ thì không thể nào thực hiện được cái hạnh của người tu giải thoát của đạo Phật được. Đó chúng ta phải thấy được cái mục đích, vì chúng ta sợ khổ, sợ chết mà chúng ta không dám rời cái gia đình, không dám rời cái cuộc sống, cho nên chúng ta không thực hiện được cái đạo giải thoát.

Ở bên Ấn độ là miền nhiệt đới, thân cây to lớn, nhánh lá nó sum suê, ngủ dưới gốc cây giống như ngủ ở trong cái lồng thiên nhiên. Khí hậu Ấn độ thì rất nóng, giả sử đêm đông lạnh nhất, đức Phật sống ba y một bát có thể đủ ấm. Nghĩa là trong cái thời đức Phật cái thời tiết của đất nước đó nó nóng chứ hổng phải là như những đất nước lạnh. Vì vậy mà đức Phật sống ba y một bát rất dễ dàng. Gặp mà chúng ta ba y một bát ở đất nước Liên Xô chắc là chúng ta tiêu luôn. Cho nên nó cũng phải tùy theo cái đất nước, cái địa thế, cái khí hậu ở đất nước đó nó thế nào. Chấp nhận ba y mà không có mặc áo bông mà ở Liên Xô thì chắc cũng phải chết chứ hổng sống bởi vì lạnh quá, lạnh dưới không độ. Lạnh 75,76 dưới không độ chớ hổng phải dưới không độ 1,2 đâu. Mà dưới không độ ở cái mức độ đó thì cái nước đá của chúng ta nó không có chảy nước. Còn của mình bây giờ cục nước đá để đó, nó đông nó là 0 độ đó, nhưng mà vì cái độ nóng của nó, nó tan nó chảy nước hết. Còn cái kia người ta chun vào trong nước đá mà người ta ở trong đó người ta thấy ấm hơn là ở ngoài. Mình đụng vô nước đá là thấy tê cóng tay chân rồi, người nào cầm cục nước đá thấy cái tay nó hẻo hết, nó cóng ra liền, nó cứng ngắc hết. Như vậy mà người ta chưng nó người ta sống được, còn ở bên Ấn độ điều đó hổng có đâu.

Cho nên như vậy mà Phật ba y một bát, nếu mà một cái người mà không hiểu mà cũng sống như vậy, xả bỏ. Nhưng mà vì cái đất mà lạnh quá, chúng ta cũng phải y áo cho ấm cái thân của chúng ta, nhưng mà không được nhiều, vừa đủ. Đừng có nghĩ nước tui lạnh, tui phải sắm 5,7 cái bộ áo lông cừu cho dữ tợn, thì cái đó là ôm theo cả đống là còn nguy hiểm hơn. Cho nên vừa đủ 1 cái ấm thân thôi chứ đừng có mang nhiều, như vậy thì nó mới đúng cái nghĩa của người tu. Thay vì ở bên Ấn độ thì ba y một bát nó mỏng, qua đó thì ba y một bát nó dày, nó cứng, nó ấm đủ cái sức mà giữ ấm trong người, không bị cái thời tiết lạnh mà làm hại mình. Đó thì phải biết sử dụng cho đúng cách, nhưng mục đích của nó là buông xả chứ hổng phải cố chấp ba y một bát.

Còn ở đất nước của chúng ta thì là một đất nước ở trong cái nhiệt đới, nó không phải là xích đạo nhưng mà nó ở trong cái nhiệt đới thì nó cũng nóng chứ đâu có phải lạnh như các nước khác. Nhưng mà ở miền Bắc thì cũng có lạnh chớ không phải là không lạnh đâu. Chớ đừng có mùa lạnh mà tui cũng ba y một bát theo cái y của Thầy đây thì chắc là tiêu đấy, chiu hổng nổi đâu. Mình phải sáng suốt, sau cái y này mà trời lạnh, ở miền Bắc thì chúng ta cũng choàng thêm một cái áo ấm để giữ cái thân của chúng ta được mạnh khỏe và tiến bước trên con đường tu. Nhưng mà đừng có nhiều cái áo, 2,3 cái áo ấm thì trật. Một cái mà thôi, tùy cái thân của mình chứ đừng cố chấp ba y một bát.

Đồng thời, phong tục Ấn độ, đương thời người chết phần nhiều đem bỏ vào thi lâm, để lộ thiên cho tan rã, để mặc cho đến khi chim thú ăn chỉ còn xương trắng mà thôi. Nghĩa là cái phần nhiều ở bên Ấn độ, người ta có những cái rừng gọi là thi lâm, lâm là rừng, thi là cái thây ma. Khi mà người chết họ đem vô rừng đó họ bỏ, rồi chim rồi này kia sình lên hôi thúi. Chim chóc nó đến nó ăn, nó rỉa, riết còn xương trắng thôi. Họ chôn thây ma ở trong rừng, cho nên vì vậy ở bên Ấn độ, theo cái kiểu mà chôn cất như vậy, cái môi trường nó rất là ô nhiễm. Cái đó là cái không đúng, tại vì ngày xưa người ta chỉ làm vậy thôi để khỏi mất công đào hầm, đào hố. Lẽ ra thì đốt là tốt nhất.

Do đó những cái quần áo của những cái thây ma đó nó vứt bỏ đầy rừng. Nghĩa là chết rồi người ta đem vải quấn cái thây ma đi, người ta cũng bỏ đi. Sau khi chim rồi những cái loài vật nó xé cái thây ma đi nó ăn, thì những cái vải đó nó vương vãi khắp khu rừng. Thì những cái người mà xuất gia, người ta chỉ cần đi nhặt những cái vải đó mà thôi. Chúng ta bây giờ mà mặc thì chắc chắn là tối ngủ thấy ma. Đó là cái sự thật mà Thầy nghe nói những cái người mà người chết có miếng vải đậy mặt, thì họ lấy miếng vải đó đi. Khi mà chôn cái người đó rồi, cái người nào mà lấy miếng vải đó trùm lên mặt, tối mình trùm lên mặt mình thấy cái người chết đó liền. Đó là cái thấy ma đó. Như vậy là họ nói như vậy chứ chắc hổng có ai làm, chắc chắn là họ cũng nghĩ vậy thôi. Cái tưởng của họ có thể lưu xuất qua chiếc khăn mà đậy cái mặt người chết, thì thầy cũng nghe cái người xưa người ta nói như vậy. Người ta còn nói cái chiếu mà cái người chết, mà đem cái chiếc chiếu đó đừng có chôn theo, rồi giặt cái chiếu đó, để lên bàn thờ. Trong nhà mình mà có trộm cướp gì thì coi như là cái linh hồn của người đó họ còn nằm ở cái chiếu đó, họ chưa có đi đâu. Cho nên nhà mình có ăn trộm thì người chết sẽ báo mộng, kêu mình dậy thì ăn trộm không lấy đồ được. Thầy nghe nói như vậy.

Tại vì có một sự kiện như vầy, lúc mà Thầy còn nhỏ thì ở bên ngoại Thầy thì bà cố của thầy chết cho nên bà ngoại Thầy với ông ngoại Thầy mới lấy cái chiếu mà bà cố thầy nằm, mới đem giặt rồi trải lên cái giường thờ. Bởi vì ở trên cái bàn thờ, xưa nó có giường thờ, chứ cái bàn thờ nó khác nha. Mới trải lên đó, cho nên nhà có ăn trộm thì cứ bà cố Thầy về kêu, thành ra ăn trộm hổng lấy đồ được. Đó là những cái mê tín của người ta như thế nào Thầy chẳng biết nhưng mà nghe thuật lại như vậy. Cho nên thầy thấy cũng là cái chuyện tạo ra cái tưởng của mình thôi. Người này đồn người kia rồi tạo ra cái tưởng. Từ cái niềm tin đó cái tưởng nó lưu xuất. Có những cái duyên lành, người này không có tham lam, ăn trộm của cải của ai thì từ đó cái người mà ăn trộm vô lấy của cải của người đó, tự nhiên cái tưởng của họ nó sẽ lưu xuất.

Cũng như bây giờ mình không có tham lam, ăn trộm của ai, mình làm bằng mồ hôi nước mắt, cái kiếp trước mình cũng hổng có ăn trộm, ăn cắp của ai hết. Cho nên bây giờ ăn trộm vô, thì chừng đó mình tự thức giấc à, thằng trộm nó vừa móc, nó sắp sửa đào lỗ thì mình thức giấc rồi, thì mình nghe lộm cộm thì nó hoảng hồn nó chạy rồi, cũng hổng lấy được nữa. Đây là cái chuyện thật sự. Còn mình có tham lam trộm cắp, cái nhân quả nào đó, lúc đó mình ngủ mê thì lúc đó mình còn ngủ mê hơn lúc chưa có ăn trộm nữa. Nó khiến cho mình ngủ rất mê, để cho thằng trộm lấy sạch rồi, đi mất rồi mới thức dậy, thấy nhà mình trống trơn.

Đó là tại cái nhân quả của mình, chứ không phải là tự dưng mà nó có. Cho nên khi mà cái người không mất của, ngay khi thằng trộm lúc đầu vô họ đã thức. Cho nên ăn trộm không làm sao lấy được. Còn cái này là cái nguồn tin, tin tưởng như vậy, cho nên mới lấy cái chiếu đó giữ nhà của mình. Tức là bắt bà cố thầy phải ở trên cái chiếu đó, hổng có cho đi đầu thai. Cái kiểu đó nó là như vậy. Vì vậy cho nên cái đó nó là cái mê tín, hiểu sai hổng có đúng, do hành động thiện ác của mình, nó bao bọc được cái tài sản của mình.

Cho nên, khi mà ở bên Ấn độ mà quán về cái xương trắng thì nó quán rất dễ, nó quán về cái thân bất tịnh rất dễ. Chỉ cần vô rừng đó, thấy cái thây ma mà nằm sình lình, hôi thúi, mình đi tới đó, mình giở ra mình thử thử chút coi, hôi thúi thế nào. Tức là mình về, mình ngồi đó nghe nó hôi thúi rồi. Còn bây giờ mình đi tìm cái thây ma khó lắm chứ đâu phải dễ. Người ta chôn hết hoặc đốt sạch rồi, tìm đâu mà được. Mình tưởng tượng ra cái mùi thúi, tưởng hổng nổi. Mà mình có con chuột chết hoặc con chó nào mà chết mình mới tưởng tượng được cái thây ma nó thúi. Cái thây ma con người nó thúi hơn con chó mà chết nữa. Cái thây con người nó thúi ghê lắm.

Cho nên chúng ta tưởng tượng hổng ra đâu. Chúng ta nghe con chuột chết nó thúi vậy đó, hoặc con chó con mèo nào chết, chúng ta nghe thúi cũng khó chịu rồi. Thế mà cái thây con người chết nó còn thúi hơn. Bởi vì nó huân ba cái đồ gì độc ở trong này thì nó phải thúi hơn chứ. Chó thì nó ăn thừa của mình nó ít thúi hơn mình, bởi vì mình ăn ngon nhiều mình thúi nhiều. Còn nó ăn dở thì nó ít thúi. Đó thầy nói sự thật mà, cái gì mình chấp nó là ngon nhứt là bậc nhứt thì là bất tịnh nhứt chứ hổng phải. Thì khi một người mà quán cái định vô lậu, mà quán bất tịnh thì chúng ta nên trực tiếp đến những cái rừng đó. Mà rừng của mình thì hổng có cái chuyện bỏ thây ma đó rồi. Có lỡ mà có hôi thúi thì cả xóm đã chạy đi đào lỗ dập liền chứ hổng có để.

Quần áo của cái người mà chết trong rừng đó thì mấy vị sư, mấy người xuất gia đi lượm cái đó mà kết lại thành cái áo mà để mặc, đắp. Thì những người đó thiệt là những người không có nhát gan rồi đó. Còn chúng ta mà nhát gan thì chắc chắn chẳng dám rớ đâu. Mà lại còn gớm nữa. Còn những cái người mà tu hành họ hổng có gớm đâu, bởi vì chính cái gớm cũng là cái chỗ tâm của chúng ta nó còn chấp đó, nó còn dính mắc, còn chê dơ chê sạch đó. Nhưng mà đứng ở trên một cái nhìn, vệ sinh hay không vệ sinh, cái đó là quan trọng lắm đó. Bởi vì, chúng ta phải hiểu, muốn mà lấy những cái vải đó làm cái vải mà đắp trên mình của mình là phải tẩy nó như thế nào để cho nó đắp vệ sinh chớ. Một cái ông bệnh cùi mà mình lấy cái vải ông mình đắp lên, ba bữa rụng tay, rụng chân mình hết.

Bởi vậy nó cũng là một cái cho chúng ta có sự suy tư, chớ không phải là không suy tư, chớ không phải là đụng đâu mình cũng chắp vá lại này kia, nhưng mà cái vải mà mình chắp vá nó phải là vệ sinh chứ không phải là thiếu vệ sinh. Vì cái thân của chúng ta dễ bị bệnh, mà cái bệnh vi trùng rất nguy hiểm. Cái bệnh mà rối loạn thần kinh, nó không nguy hiểm đâu. Mà cái bệnh vi trùng, nó rất nguy hiểm bởi vì nó có một cái loài vật đục phá cơ thể của chúng ta. Nó làm cho cơ thể chúng ta sẽ bị hoại diệt trước khi chúng ta thành tựu sự tu tập. Mà cái loại trừ vi trùng trong thân chúng ta rất khó, mà phục hồi chức năng của rối loạn của cơ thể chúng ta rất dễ khi chúng ta dùng thiền định. Còn loại trừ cái vi trùng trong thân chúng ta rất khó, dùng bằng sức tu tập trong thân chúng ta loại trừ rất khó. Ví dụ như bây giờ một người bệnh bị phổi vi trùng cốc, dùng cái sức thiền định, họ loại trừ cho nó ra được thì cái chuyện này cũng không phải là chuyện dễ. Nó khó lắm. Còn cái bệnh mà rối loạn cơ thể, chúng ta chỉ ngồi thiền là nó phục hồi, mau lắm.

Đó, phải hiểu được cái điều kiện cho nó rõ ràng. Cho nên vì vậy mà cái sự vệ sinh về cái y áo mặc của chúng ta, dù nó không tốt, không đẹp nhưng ít ra nó cũng phải vệ sinh. Bởi vì cái chỗ hiểu biết của chúng ta, kiến thức của chúng ta không thể nào như người xưa nữa. Chúng ta có hiểu biết rất nhiều, vì khoa học nó đã cho chúng ta biết có những loại vi trùng nó thế này, thế khác, tàn phá cơ thể chúng ta.

Vì thế nguyên lai phấn tảo y cũng lấy từ vải gò mả, người sau này muốn làm kiểu đó, nên lấy vải nguyên cắt rụng ra rồi may lại làm giống như y phấn tảo. Nghĩa là mấy ông khất sĩ của mình, họ không có đi lượm vải ở ngoài đồng mả được cho nên họ ra chợ họ mua tấm vải lớn về, 2 thước, 3 thước, 10 thước rồi họ cắt nhỏ nhỏ ra. Rồi bắt đầu đem mấy ông thợ may kết lại từng miếng, từng miếng nhỏ thành cái y phấn tảo theo kiểu của Phật. Nhưng mà cách thức này, theo Thầy thấy, thôi để tấm vải đắp cho khỏe đi.

Bởi vì ngày xưa, những sợi vải, chim chóc, chó nó xé cái thây ma nó ăn, nó rách tùm lum tà la đi thì bây giờ mới kết lại từng miếng nhỏ nhỏ vầy. Còn bây giờ mấy ông này, vải lớn hổng để làm chi cho nó cực. Theo Thầy thấy tấm vải cứ để nguyên đó mà đắp lên cho nó khỏe. Mình tu giải thoát tâm chứ đâu giải thoát ở tấm vải. Nhưng mà đứng có trang diện cái tấm vải đó, có hãnh diện ở trong tấm vải đó. Tui là cái người mà mặc y phấn tảo. Nhiều khi chúng ta thấy cái người mặc y như thế này, những cái miếng lớn này thì có người họ nói, thầy mặc y không xứng đáng. Thầy giữ gìn giới hạnh như vậy, phải mặc cái y bát hàm hàm, nó từng miếng từng miếng nhỏ là nó mới xứng đáng, đó là cái y phấn tảo. Đó là sai rồi, bởi vì cái hình thức là nó như vậy, nhưng mà cái chuyện mình làm nó trật rồi.

Bây giờ nói, thầy phải mặc cái y mà lượm vải ở ngoài đồng, từng miếng nhỏ người ta quăng ra đó, mình mới kết lại để làm cái y thì như vậy là đúng. Còn bây giờ mình mua ngoài chợ cái tấm vải quá bự, cắt nhỏ ra rồi cũng làm như vậy, qua cái hình thức cho đó là cái y phấn tảo. Thì những người sau này họ hay làm cái hình thức quá cho nên nó mất cái ý nghĩ của cái cái y phấn tảo. Nếu đức Phật còn tại thế, Ngài cũng bật cười. Nghĩa là thấy các sư mà mặc cái áo đó, Ngài cũng bật cười. Mấy y phấn tảo của mấy ông làm khổ người ta không. Chớ làm sao mà nín cười được, bởi vì tui thì lượm từng miếng nhỏ tui chắp lại cho nó thành miếng lớn tui đắp. Còn mấy ông miếng lớn mấy ông lại cắt nhỏ ra mấy ông đắp. Thành ra phải cười mấy ông chớ sao.

Chọn cái hình thức phấn tảo bên ngoài mà không chọn cái phấn tảo ở trong tâm của mình. Nghĩa là ở đây các ông chọn cái hình thức phấn tảo bên ngoài cái áo mà không chọn cái phấn tảo ở bên tâm của mình.

Phấn tảo có nghĩa là bỏ sạch đi, tảo có nghĩa là quét, quét cho sạch, thì mình mặc cái y thì mình quét hết rồi, thế mà ở trong tâm thì không quét. Phấn tảo có nghĩa là bỏ sạch đi, lượm đồ bỏ của người ta bỏ mà mặc. Chúng ta cũng vì cái chỗ bắt chước mà không thấu cái lý mà tu hành, cho nên biến ra cái chỗ tu hành bằng cái hình thức cho nên nó không đúng cái cách của y phấn tảo. Cho đến đây Thầy giải thích cái y phấn tảo cho chúng ta thấy đúng cái nghĩa của nó. Cho nên nếu muốn mặc đúng, thì chúng ta nên đi lượm vải rách của mấy người thợ may, họ để thừa dư đó, chứ đừng có mua vải miếng lớn rồi cắt nhỏ ra thì đó là cái hình thức.

Mình đi xin những người thợ may, họ cắt vụn thiếu gì. Do đó mình kết lại mặc thì nó cũng đỡ đi. Chứ còn đúng nghĩa của nó là phải đi lượm vải mà người ta chùi đít con họ, rồi họ quăng vô thùng rác. Còn cái vải mà người ta may á, người ta còn có chỗi người ta dùng được. Mấy người ở không đó, họ lấy vải vụn rồi họ lấy dầu ăn gì đó, họ chấm cho nó dính dính họ làm chổi quét nhà, nên vẫn chưa là đồ bỏ, vẫn còn dùng được. Cho nên mình xin đó thì họ cũng thương mấy nhà sư, họ cũng cho đó, chứ thật ra họ còn bán được, chưa có bỏ.

Đó thì chúng ta thấy, cái vật bỏ là cái vật mà người ta quăng ở trong cái thùng rác, hoặc là vải mà mấy ông thợ máy mà họ lau tay, mà dầu dính vô dữ tợn, họ hết xài được, họ quăng đi mình lượm về mình giặt, mình đắp lên thì là y phấn tảo thiệt.

Bởi vì đất nước của mình nó không có vải thây ma, vải bó cho thây ma quẳng ngoài rừng, cho nên nó khó kiếm. Vì vậy mình cứ đi ra ngoài thùng rác, mấy ông thợ máy mà vải ông lau tay, ông quăng, không dùng được nữa thì mình lượm về, giặt chút đi rồi kết lại cho được thành một cái y thì đúng nghĩa của phấn tảo, của người ta bỏ. Thì trong sự tu hành nó phải đúng nghĩa của nó, chứ nếu mà không đúng nghĩa của nó, thì mình thành hình thức mất đi. Nên ở đây, Thầy nói, hiện giờ phật tử cúng gì mình có mình xài thôi. Chứ mình hổng ham thêm nữa, miễn là cái y mình đắp lành lặn thôi. Đừng nghĩ phải là miếng lớn, miếng nhỏ này khác. Thì cái đó nó thuộc về hình thức, vì bây giờ mình đâu có kiếm vải thây ma được mà gọi là phấn tảo. Mình đi nhiều thùng rác bây giờ chưa chắc đã có rác, người ta chùi đít con người ta cũng đâu lấy giẻ đâu, người ta cũng lấy giấy rồi. Thành ra cũng khó tìm những cái vải bỏ lắm, hầu như là khó tìm cái vải người ta bỏ.

Xin quí thầy nghe một vị luật sư, Thánh Nghiêm giới thiệu cho chúng ta biết cái người xuất gia nó như thế nào. Những người xuất gia của Phật giáo mỗi ngày càng đông, thể chất người xuất gia, có người thì tráng kiện, có người thì yếu đuối. Đặc tánh của người xuất gia có người thì can đảm, có người thì sống đạm bạc, cũng có người thì không chịu nổi phong sương, dãi dầu. Có người còn mang tạp khí tham cũng rất nặng, có người thì không xúc tích của cải nhiều, có người thì xúc tích của cải nhiều. Đó là luật sư Thánh Nghiêm có giới thiệu, so sánh cho chúng ta thấy, cái giới xuất gia của chúng ta hiện giờ, thì có người dãi gió phong sương thì được, có người thì chịu không được. Có người thì tâm tham vẫn còn, tạp khí tham vẫn còn, trong giới tu hành có người thánh thiện, có người yếu đối… Chúng ta phải thấy rõ.

Đây là lối luận của luật sư. Thầy xin xác định lập trình của tu sĩ đạo Phật. Nếu tu được thì lập hạnh thiểu dục tri túc. Nếu tu không được thì đừng có đổ thừa thể chất này hay thể chất khác. Nghĩa là mình đổ thừa như luật sư Thánh Nghiêm thể chất của chúng ta như thế này thế khác, cho nên lần lượt rồi chúng ta phải tu tập bỏ cái này, bỏ cái khác. Lần lượt nghĩa là mình cũng xuất gia, thọ giới sadi, tâm tham còn, mình còn giữ chút ít tiền, đừng có giữ nhiều có cất mà cả triệu bạc, chỉ cần có vài trăm thôi, để cho có hữu sự, đi xe thì nó có. Bởi vì cái tạp khí của mình nó tham, thì mình còn cất giữ chút ít. Còn cái người yếu đuối, nay đau mai ốm, thôi thì giữ chút chút đi, để rồi đau ốm rồi hỏi xin ông thầy trụ trì lúc đó ông không có làm sao ông cung cấp cho mình được, nằm chịu đau sao nổi. Có người thích đạm bạc, có người không thích đạm bạc. Người đạm bạc, người ta thiểu dục thì nó cũng đỡ, người ta nằm cái giường không cũng được. Còn mình nằm cái giường không nghe nó lạnh quá, hổng được. Cho nên thôi cho ông này trải tấm ga hay gì đó chút. Hoặc là ông này hơi ốm, xương cấn, ông nằm cái giường không nghe nó hơi cấn thôi cũng cho ông miếng mút để cho ổng nằm êm. Đó là những cái mà luật sư Thánh Nghiêm cho chúng ta biết, mặc dù ổng không có nói ra, nhưng mà thầy hiểu ý của ông, giờ giới tu sĩ của mình có những loại như vậy đó, mình phải nới một chút để họ tu được. Nhưng mà sự thật ra, những người mà tu như vậy khó mà đi đến con đường giải thoát lắm, khó lắm. Bởi vì nếu mà tu được, lập hạnh thiểu dục tri túc, còn không thà chết. Bây giờ nằm lạnh cấn thì cấn chứ không có thêm cái gì ở trên mặt giường hết.

Đó là chúng ta mới có sự quyết định, đi tìm cái chết để mà tìm cái sống, để mà giải thoát cái cuộc đời của chúng ta. Nếu tu không được thì đừng có đổ thừa thể chất thế này thế khác, đổ thừa không chịu nổi cái phong sương, đổ thừa tạp khí nặng. Những lối lí luận này là khéo che đậy để phá giới luật của Phật mà thôi. Bởi vì hầu hết người ta chỉ nhìn vào một số tu sĩ mà thôi, ví dụ 100 người mà toàn sống đúng cái giới hạnh của Sadi, người ta quá kính trọng. Mà 100 người, có 3 người sống đúng, cả lố người không sống đúng, thử hỏi người ta nhìn cái số tu sĩ này ra làm sao. Đó là cái mà mình cứ bào chữa, bào chữa cho số này thọ Sadi hết. Mà cuối cùng, Sadi này là Sadi của thế gian chứ không phải Sadi xuất thế gian.

Cho nên mà nói Sadi thế gian thì tốt hơn là làm cư sĩ đi, tập luyện cho nó được rồi mới vô. Còn tập luyện không có được mà cũng vô làm tu sĩ nữa thì thôi. Cái tu sĩ này chắc là làm hư hại Phật pháp hết. Cho nên theo thầy nghĩ, quí vị còn sợ phong sương, chịu hổng nổi. Còn những cái tạp khí mà bỏ tiền hổng được, phải bỏ túi chút ít. Thì quí vị cứ ở trong cái lộ trình của người cư sĩ đi, chừng nào mình thấy bỏ được mình mới bước vô, còn chưa bỏ được thì thôi. Chớ đừng có bước vô, mà người ta nhìn quí vị, người ta chê cười Phật pháp.

Đó là cái lý mà Thầy bàn ở trên cái giới của luật sư Thanh Nghiêm để mà giảm bớt cái giới luật, để làm cho nó nhẹ bớt. Một số tu sĩ mà tu như vậy, không lấy chỗ đó làm phiền hà. Nhưng riêng Thầy thì không được, đó là làm hư Phật pháp đi. Nhìn vô 1 số tu sĩ, 100 người, mà có 2,3 người giữ đúng giới thì người ta vẫn chê cả đám với nhau hết. Hoặc là thầy nói cho 50 người giữ giới, 50 người mà không giữ giới nghiêm túc vậy, thì người ta cho đó là hư hết, chứ người ta có khen được đâu, bởi vì có người vầy, kẻ khác là người ta đã thấy rồi.

Những hạng người này, có xuất gia mà cứ phạm giới thì tu hành tới đâu, tu mà đạo chẳng ra đạo, đời chẳng ra đời. Bởi vì đời người ta cất giữ tiền bạc rất nhiều, thậm chí người ta còn gửi ngân hàng, đó là đời thật đời đi. Còn bây giờ, mình cất  giữ chi nhiều chỉ 5, 3 chục ở trong túi chi cho mắc công, nhiều khi đi giặt quần áo quên đi, vò nó nát. Tốt hơn đừng có cất thì đâu có vò nát. Cho nên không có thấy cái điều đó.

Thường đừng nên, đứng ở vị trí này, đứng ở vị trí của người cư sĩ mà  trông vào vị trí người tu sĩ, nghĩa là chúng ta đứng ở vị trí người cư sĩ là chúng ta chưa có xả bỏ, mà chúng ta cứ ham vào để đứng ở vị trí người tu sĩ thì không có được. Phật giáo như vậy là không có chấp nhận.

Vào tu mà sợ ăn ngày một bữa, sợ ngủ ít, sợ không được nói chuyện, sợ nắng, sợ mưa, sợ không được tiêu tiền, sợ mất hết tài sản, của cải, sợ xa nhà, xa vợ, xa con, sợ xa cha, xa mẹ. Thì cái tu hành mà sợ như vậy nó chẳng đi đến đâu. Nếu ai tu hành mà sợ những loại này thì như vậy thì xin lột áo tu sĩ trả lại cho Phật giáo đi. Để cho đạo của Phật nó được thanh tịnh, trong sạch. Nó phải thực hiện cái hạnh tri túc thiểu dục, chứ còn mình tu như vậy làm cho người ta thấy cái đạo Phật nó chẳng ra gì hết. Cho nên mình có sợ thì thôi mình đứng trong vị trí của người cư sĩ. Còn mình thấy rằng mình không có sợ những cái loại này thì mình hãy vào tu, mà mình giữ đúng cái hạnh thiểu dục tri túc, xứng đáng là người tu sĩ, buông xả, giải thoát dòng thế tục mới đáng là đệ tử của Phật.

Đây quí thầy nghe tiếp, một sự bào chữa cho tu sĩ phạm giới hiện tiền trong cái thế gian này, do đó đức Phật vì nhu yếu dần dần cho phép chúng tăng có chùa chiền, có tịnh xá, có tăng phòng, có xúc tích đồ cần dùng cho cuộc sống cũng như khai mở ra cho phép được tiếp nhận của cải tiền bạc. Cái câu này là sư Thánh Nghiêm nêu lên cho chúng ta thấy giới bổn của đức Phật có những câu như vậy đó. Cho nên Thầy đóng lại những câu này ở trong những cái giới bổn mà sư Thánh Nghiêm đã trích ra.

Vì đức Phật đã thấy dần dần cái pháp tu xuất gia nó khó khăn quá, nhất là cái giới sadi đó, dầm sương chang nắng khổ sở, cho phép chúng ta được ở chùa chiền, tịnh xá, tăng phòng, cho nó khang trang, xúc tích đồ đạc, tiền bạc cho nó có ở trong chùa, dần dần cho tiếp nhận tiền bạc, của cải nữa. Cái điều này thật ra là cái lời nói phá giới rất là phạm. Ông Phật đã dạy mình là ông thầy rất thanh tịnh, mà giới luật thêm như vậy, coi bộ ông thầy này bớt thanh tịnh rồi, có nhà có cửa có tăng phòng, rồi xúc tích đồ đạc, của cải, rồi cuối cùng ông Phật cho tiếp nhận tiền bạc nữa thì ông thầy giới luật chấp nhận cho như vậy rồi, thì bây giờ tu sĩ của chúng ta thiệt là giống y vậy hết, nó không khác. Ông Phật nói cái làm liền. Nói bảo nó giữ gìn thập giới Sadi, thì nó còn lâu, mà nói như vầy thì mau đó mau đó, nó cất chùa liền, cất tịnh xá liền, xúc tích đồ vật đầy đủ ở trong chùa hết liền. Và đồng thời nó tiếp nhận tiền bạc, không phải tiếp nhận ít mà nhiều. Đó là cái hiện tượng mà chúng ta đã thấy được cái giới luật của Phật, cái lời mà ghi như thế này. Cho nên bây giờ người ta dựa vào  cái này người ta nói người ta không có sai, người ta làm đúng là vì Phật đã dạy mà.

Cái câu kinh này dạy rõ ràng, trong giới luật của Phật có chế ra như vậy, bảo chúng ta vì có những cái cần dùng, vì dầm sương dãi nắng cho nên nó có sự khó khăn, từ đây đến đó dễ sinh bệnh sinh tật, cho nên cho phép chúng tăng có chùa có tịnh xá, có đồ đạc. Rồi khai mở cho phép tu sĩ được nhận tiền bạc. Thì như vậy là nó tiêu tùng giới luật hết rồi. Tức là bây giờ thập giới Sadi bảo không cất giữ tiền bạc, không có đồ đạc châu báu, không có chùa to tháp lớn, thế mà bây giờ vẫn là cho phép được. Thì như vậy chúng ta thấy ông Phật này ổng xây dựng ông thầy cho chúng ta mà bây giờ ổng sửa sao mà thầy, thấy từ hai chân ổng còn có một chân à. Thử hỏi ông thầy giới luật này ông đứng sao mà vững. Chắc chắn là ổng phải té.

Giọng luận điệu, già hàm, lẻo mép. Tự đặt ra những lời nói này mà dám bảo là Phật nói. Bởi vì ông thầy giới luật là ông thầy thanh tịnh, thì thêm bớt như vậy là một cái điều rất tội lỗi của đạo Phật. Bởi vì có cái hạnh nào mà chúng ta suy nghĩ ly dục ly bất thiện pháp, có cái hạnh nào mà hơn là giới luật của Phật, mục đích để làm chủ sanh tử là phải ly dục ly bất thiện pháp chớ, đó là một cái thiền định mà chúng ta cần phải đạt được. Thế mà qua những giới luật của Phật là mục đích giúp cho chúng ta không phải là cái hình thức, không phải vì giới luật mà giải thoát mà vì ly dục ly bất thiện pháp. Cho nên giới luật giúp chúng ta ly được cái đó để chúng ta đạt được cái sự giải thoát. Mà bây giờ chế ra như vầy, chúng ta làm sao ly, ly gì, ông này ổng có cái chùa rồi làm sao ông ly được. Tối ngày ông lo ông quét chùa rồi, thành ra ông làm nô lệ cho cái chùa rồi. Rồi bây giờ ổng lại có tiền bạc của cải rồi sợ ăn trộm, ăn cắp vô lấy mấy cái máy của ông làm sao, cho nên ông ngủ cứ chập chờn chập chờn, hổng dám ngủ. Như vậy ông có giải thoát được đâu. Rồi bây giờ ông có tiền bạc nữa, ông gởi ngân hàng, rồi ông lo ngân hàng không biết nó có sập tiệm không. Đó những nỗi lo của những người tu sĩ kiểu đó thì Thầy thấy, bị trói hết rồi. Vì vậy chúng ta thấy nỗi khổ, người ta phá giới bằng những câu nói đó thì ông này ông có ly được không, ông ly không được thì có tu ngàn đời của ông cũng có nhập được Sơ thiền không, mà không nhập được Sơ thiền làm sao ông nhập được Tứ thiền. Đó, mục đích chính của đức Phật là nhắm vào cái chỗ ly dục ly bất thiện pháp, mà trong khi đó chúng ta sống cái đời sống không ly thì làm sao mà chúng ta ly được. Cũng như giờ chúng ta ăn một ngày ba bữa, thì chúng ta đâu có ly được. Mà ăn còn biết ngon thì chúng ta cũng chưa có ly được, mặc dù chúng ta ăn một bữa, chúng ta còn thấy muốn ăn ngon là chúng ta cũng chưa có ly được đâu. Ly dục nó phải hiểu được cái dục, còn mình thích ăn ngon là còn dục rồi. Phải hiểu như vậy, mục đích của Phật dạy chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp và ác pháp thế mà chúng ta không làm được, không sống được, chúng ta lại chế ra như vầy, chúng ta thấy làm sao đúng giới luật của Phật được. Cái chỗ đó làm sao chỗ ly, chỗ đó là cái chỗ lìa. Họ tưởng chế như vậy rồi sống rồi giữ gìn giới luật, đâu có được. Ly là ly mà hổng ly là thôi chứ, làm sao mà được cái này. Có hiểu như vậy thì quí thầy mới thấy cái luận điệu già hàm lẻo mép của cái người sau, họ mới đặt ra, họ mới nói là Phật nói. Vì Thầy xét hết tạng kinh, Thầy đọc hết tạng kinh không thấy Phật có nói câu nói này, mà sao ở trong giới bổn lại có lòi câu nói này. Đặc biệt, kì cục vậy.

Có lẽ là khi mà phân chia hai cái bộ phái thì chắc chắn là mấy ông muốn cất giữ tiền, cất giữ của cải tài sản gì đó, hoặc là đi lang thang cũng cực khổ, dầm sương chang nắng. Thôi mấy ông cũng chế ra có chùa có tịnh xá này kia mình ở một chỗ cho yên, để khỏi phong sương, dãi nắng dầm mưa. Cho nên các ông đặt ra cái này gán cho ông Phật.  Thì các thầy thấy người sau họ cũng khôn ngoan khéo léo mà gán cho Phật đủ mọi cái điều. Thành ra ông Phật mình mâu thuẫn quá, trước thì nói như vầy, sau thì nói khác, thành ra không có làm sao mà tin được.

Bây giờ thời đại hiện tại của chúng ta lại có thêm biết bao nhiêu là giới sư, luật sư. Nói cái kiểu như vậy thì rất nhiều, họ luận cái kiểu như vậy thì rất nhiều. Chớ không phải chỉ một cái ông luật sư đó nói như vầy đâu, đây là ông Thánh Nghiêm ông nói cho chúng ta thấy, những cái bộ luật mà đã có những cái câu nói như vậy, để chúng ta biết rằng nó đúng hay là sai. Mà trong những cái bộ giới luật, bao nhiêu là luận sư, người ta luận kiểu này, kiểu nọ để mà phá giới rất nhiều chứ không phải không có.

Thì lúc bấy giờ mà luận như vậy chúng ta mới nghĩ rằng, hiểu  biết đúng là ly dục ly bất thiện pháp, nó phải nương vào giới luật đúng mới có ly được. Mà cái giới luật mà sai thì không thể nào ly được. Vì vậy, khi mà Phật pháp có những cái luận đó nó xen vô thì Phật pháp còn gì không, không còn gì hết. Chỉ là những người chạy theo danh lợi, sắc, thực, thùy đặt điều cho Phật nói, Phật cho phép. Những cái luật sư sau này, họ không căn cứ vào giới kinh mà căn cứ vào giới bổn, thấy ghi những cái lời của Phật nói, cho phép như vầy như vầy, là họ tin theo thôi. Bởi vì, luật sư họ đâu có hiểu, giới kinh là phương pháp tu, họ đâu có ở trên giới hành mà họ hành, họ chưa chứng đạt. Họ chỉ ở trên giới bổn mà nghiên cứu, do đó, họ dựa trên những bản kinh giới họ cho đó là đúng, không dám nghĩ đó là sai. Bởi vì Phật cho phép mà, đâu dám nghĩ sai được. Mà cứ dựa vào giới bổn. Giới bổn đâu phải là chỗ tin cậy được của chúng ta, xin quí vị phải sáng suốt, nhận xét cho phân minh, đừng dựa vào người xưa cho là đúng, rồi theo đó mà luận thì sẽ sai hết.

Đạo Phật vốn đem lại sự giải thoát chân thật cho mọi người, chỉ có mục đích là buông xả, ly dục ly ác pháp, mà không xả lại còn xúc tích thêm thì thử hỏi có đúng đường lối tu hành giải thoát của đạo Phật không. Đây quí thầy nghe một đoạn kinh giới của các giới sư. Nhân vì tiền tệ là tài sản vật chất của nền văn minh nhân loại. Nó có thể làm môi giới cho …

BĂNG SỐ 32

BĂNG SỐ 33

BĂNG SỐ 34

BĂNG SỐ 35

BĂNG SỐ 36

BĂNG SỐ 37

BĂNG SỐ 38

BĂNG SỐ 39

Mấy ông này chỉ đi tìm y chứ đâu phải là tìm giải thoát. Đó là những cái giới luật mà cấm đi xin y, cấm kêu là xin y đó. Người nào mà đi xin như vậy đó gọi là tội xả đọa và tội ác tác.

Giới hai mươi chín, giới Thắng Ca để rời y quá sáu đêm. Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở vườn Cấp Cô Độc, các Tỳ Kheo hạ an cư xong còn một tháng hậu an cư, ngày mười sáu tháng bảy đến rằm tháng tám là nơi A-La-Nhã có nhiều bọn cướp giật y. Các Tỳ Kheo sợ sệt đều đến nơi tịnh xá Kỳ Hoàn. Phật dạy, các Tỳ Kheo ở chỗ A-La-Nhã có nghi ngờ, nhiều sợ sệt, trong ba y, mỗi y lưu trong nhà dân. Bấy giờ Lục Quần Tỳ Kheo bèn gởi y trong nhân gian để đi du hành. Phật kêu họ, quở trách rồi họp Tăng, kiết giới. Vì ở trong cái thời Đức Phật, nó có những bọn cướp, nó hay lấy y phục của Chư Tăng lắm. Cho nên, vì vậy mà đức Phậtbảo họ mình nên gửi những cái y thượng của mình á cho những cái người cư sĩ họ cất giùm, sau khi mình đi rồi thì những người cư sĩ họ tìm đến họ giao lại cho mình, hơn là mình mang đi thì người tu sĩ của mình thì người ta giựt thì mình chịu thôi còn người cư sĩ họ đi có thể cả đoàn, cả đoàn họ bảo vệ được. Do đó, cho nên mới gởi vậy. Do cái lợi dụng đó thì Lục Quần Tỳ Kheo họ lợi dụng cái chỗ đó, họ đi cái chỗ hạ này, hạ kia họ có nhiều y họ cũng đem họ gửi hết, rồi do đó họ gởi để mà cho họ rất nhiều y đó. Do Phật mà biết được, Phật chế cái giới mà họ rời y quá sáu đêm thì bị tội xả đọa, bị tội ác tác.

Ba mươi, giới đem của Tăng Già về mình. Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, có một cư sĩ muốn cúng Phật và Tăng rất nhiều đồ trai phạm và y vật. Tỳ Kheo Bạt-Nan-Đà đến nhà cư sĩ ấy nói: “Vấn đề dâng cúng chúng Tăng nhiều lắm. Ông nên cúng thức ăn cho chúng Tăng, còn y có thể cho tôi”. Ông đó ông giành y à, ông ham ý lắm. Cư sĩ thuận theo ý, sáng hôm sau chúng Tăng đến thọ thực. Cư sĩ thấy các Tỳ Kheo oai nghi tề chỉnh đầy đủ liền nói lớn rằng: “Tại sao chúng Tăng nghiêm chỉnh thế này mà tôi không được cúng y?”. Các Tỳ Kheo hỏi. Biết rõ vấn đề, đức Phật vì nhân đó mới kiết giới. Bởi vì ông Bạt – Nan - Đà này ông đã đoán trước rồi, cúng đồ ăn thôi, còn bao nhiêu y thì cúng cho tôi cất đi, chứ còn đừng có cúng cho mấy ông. Do đó, khi mà thấy Tỳ Kheo đến tề tựu để mà thọ thực, người nào cũng oai nghi tề chỉnh, mà sao không có cúng y cho người ta trong cái Hạ như vậy, mà ra Hạ rồi mà không có y áo gì cúng cho người ta hết. Cho nên mới hỏi ra thì mới biết rằng, ông Bạt – Nan - Đà ông đã cản mũi trước rồi. Do đó Phật mới kiết giới này để cho người nào mà phạm cái giới này á, thì đương nhiên là phạm vào cái tội xả đọa và cái tội ác tác. Vì vậy mà những người nào mà cản những cái sự cúng y áo như vậy là bị cái tội đó.

Đến đây là ba mươi cái tội mà xả đọa, ba mươi cái giới xả đọa mà chúng ta đã học xong.

Trước khi học cái giới bổn thì hôm nay Thầy nhắc lại. Vì có một thầy đến xin Thầy ghi lại cái bảng tóm tắt cho cái sự tu tập mình ở cái lúc ban đầu. Nhân cái dịp thì Thầy ghi rồi Thầy cũng ghi lại ở trong băng để cho nó không có quên.

Quý thầy nhớ kỹ:

Người mới tu tập phải sống ba hạnh, nghĩa là mới vào tu tập thì phải sống đúng ba cái hạnh: Một là Ăn, hai là Ngủ, ba là Độc Cư sống trầm lặng. Kế đến phải lập ba cái đức: Một là Nhẫn Nhục, hai là Tùy Thuận, ba là Bằng Lòng. Hằng ngày thì quán xét thân tâm, xa lìa các ác pháp, tăng trưởng các pháp lành. Cái người mới tu thì chúng ta phải thường xuyên học Thập Thiện, biết Thập Ác để mà chúng ta xa lìa các pháp ác mà tăng trưởng các pháp lành. Kế đến thì chúng ta hãy dứt bỏ các thói quen, tật xấu Tứ đổ tường như rượu, chè, bài, bạc hay hút sách... Tất cả những cái tật xấu đó, hay hoặc là cái tâm mà hay thích dâm dục thì phải từ bỏ tất cả các tật xấu đó hết thì mới có thể đi vào con đường của Đạo Phật mới được.

Kế đến thì tu tập các loại định:

- Một là Định Sáng Suốt - giữ tâm thanh thản, tâm vô sự. Đó là cái thứ nhất mà cái người mới tu nên tu tập cái Định Sáng Suốt giữ tâm thanh thản, tâm vô sự.

- Cái thứ hai là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, tu tập cái Định Chánh Niệm Tỉnh Thức á, đó là cái thứ hai, nhưng mà phải đi kinh hành, tức là nương vào cái đi kinh hành mà tu tập.

- Cái thứ ba đó, Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên bốn Tâm Vô Lượng, phải thực hiện ở trên cái bốn Tâm Vô Lượng: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Mà tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên bốn cái Tâm Vô Lượng đó. Nghĩa là hàng ngày chúng ta, lúc nào chúng ta cũng phải tập Tỉnh Giác ở trên bốn Tâm Vô Lượng Từ Bi Hỷ Xả của chúng ta.

- Bốn, Chánh Niệm Tỉnh Giác trong hơi thở, quý thầy chắc biết Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong hơi thở chứ gì? Tức là lấy cái hơi thở bình thường, không được thở dài thở ngắn mà phải dụng cái hơi thở bình thường đó, rồi cái sức Tỉnh Thức của chúng ta ở trên hơi thở, cái niệm của hơi thở: Hơi thở vô tôi biết vô, mà hơi thở ra tôi biết ra đó. Đó là cái Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên cái hơi thở.

- Năm, Chánh Niệm Tình Giác ở trong mọi công việc làm. Chúng ta làm cái gì thì chúng ta phải ý tứ ở trong công việc đó. Thường thường thì chúng ta phải nhắc cái tâm của mình trên cái pháp hướng, nhắc cái việc làm mình đang làm đó để cho cái nó tâm nhớ cái việc làm đó mà nó không có quên, không có sinh ra cái vọng tưởng, hoặc là vô ký.

- Sáu, Chánh Niệm Tỉnh Giác trong ăn cơm. Trong khi mà đang ăn cơm á, chúng ta cũng phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong khi đang ăn cơm chứ không phải là tỉnh giác ở trong các hành động khác rồi ăn cơm ngồi đó ăn cứ lo ăn mà không có Tỉnh Giác là sai, hoặc là ngồi đó đi tìm món ngon, món ăn dở thì sai. Mà phải tỉnh giác từng cái món ăn mà chúng ta bỏ từng ở trong miệng, khi nhai, khi nuốt đều là phải tỉnh giác hết. Đó là tỉnh giác trong khi ăn cơm.

- Bảy, Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong giấc ngủ. Chúng ta cũng phải tập tỉnh giác ở trong giấc ngủ như vừa rồi Thầy dạy, ngủ mà không mộng mị đó là tỉnh giác ở trong giấc ngủ đó.

- Tám là Chánh Niệm Tỉnh Giác đối với các pháp. Đối với các pháp như người ta mắng, người ta chửi mình hoặc là các cái pháp đến làm cho tâm chúng ta ham muốn, lôi cuốn tâm chúng ta đi vào cái chỗ mà say mê đó, thì chúng ta phải tỉnh giác các pháp để chúng ta ngăn chặn cái tâm ham muốn của chúng ta, để chúng ta tránh được sự tham ưu đau khổ của cuộc đời. Vì các pháp nó sẽ đem đến cho chúng ta nhiều sự đau khổ cho nên chúng ta cũng phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác ờ trên các pháp.

- Chín, Chánh Niệm Tỉnh Giác khi tiếp chuyện. Nghĩa là khi mà nói chuyện với ai thì chúng ta nên Chánh Niệm Tỉnh Giác khi tiếp chuyện. Người đó nói đúng, nói sai chúng ta cũng phải Tỉnh Giác chứ không phải là nghe người ta nói có lý rồi chấp nhận rồi thành ra cái kiến chấp, thành ra cái tà kiến mất đi. Cho nên chúng ta không còn thấy cái đúng cái sai nữa. Cho nên khi mà tiếp chuyện á, thì cũng ta cũng phải Tỉnh Giác ở trong khi tiếp chuyện với người khác.

- Mười, Chánh Niệm Tỉnh Giác khi tu tất cả các loại định. Nghĩa là chúng ta tu cái gì chúng ta cũng phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên cái hành động đang tu. Chứ không phải là nó tôi tu cái đó rồi tôi chỉ biết cái đó thôi, chẳng phải. Chúng ta phải Tỉnh Giác, coi cái sự tu đó nó có xảy ra cái gì. Thí dụ như bây giờ mình đang dùng cái hơi thở, mình hướng để mình tịnh chỉ Tầm Tứ để mình nhập Nhị Thiền, mà bây giờ cái hơi thở đó nó sẽ đứng đó mà nó mà nó không chậm nữa hay hoặc là nó không nhẹ nữa thì mình phải Tỉnh Giác ở trong những cái đó để cho mình thiện xảo, mình vận dụng như thế nào hoặc là mình hướng tâm như thế nào để cho nó đi sâu hơn hoặc là nó phải đi ra như thế nào.

Đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong khi tu các loại pháp như Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt, hoặc là cái Định Hiện Tại An Lạc Trú - nhập từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền - chúng ta đều phải Tỉnh Giác hết.

Đó là cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định là cái vấn đề rất là quan trọng mà người tu, mới tu thì phải tu tập cái này rất nhiều.

Kế đến chúng ta tu tập cái Định Vô Lậu:

- Cái Định Vô Lậu, thứ nhất, đặt niệm thân trước mặt, quán vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh. Lấy cái thân của chúng ta đặt rồi chúng ta xem xét, quán xét từ đầu đến chân, từ chân đến đầu coi nó bất tịnh như thế nào, coi nó vô thường như thế nào, coi nó khổ như thế nào, coi nó vô ngã như thế nào, để cho nó thấu suốt, nó chứng được cái lý vô thường, khổ, không, vô ngã của nó, và bất tịnh.

- Hai, đặt niệm thực phẩm ăn trước mặt, quán bất tịnh. Hằng ngày chúng ta vì cái ăn mà chúng ta có sự tham đắm ở trong đó, do đó chúng ta hãy đặt cái niệm thực phẩm trước mặt của chúng ta mà quán xét. Chừng nào mà thấu cái lý chúng ta thấy thực phẩm bất tịnh, chúng ta không còn thích ăn nó nữa, ăn để sống như một cái liều thuốc thì chừng đó chúng ta không có tu nữa. Nhưng mà bây giờ chúng ta còn thấy thèm, thấy muốn ăn cái ngon, cái dở, thì lúc bấy giờ đó chúng ta phải cần đặt niệm để mà quán triệt, để mà xả cái lậu hoặc vì cái ăn.

- Ba, đặt niệm sắc dục trước mắt, quán bất tịnh, quán rắn độc, quán khổ. Tức là chúng ta sẽ đặt cái niệm sắc dục trước mặt của chúng ta để chúng ta quán nó bất tịnh, quán rắn độc, quán khổ. Chừng nào nó thấm cái lý, nó làm cho cái thân chúng ta không tràn tinh, không xuất tinh, không mộng mị nữa thì đó là chúng ta đã đạt cái quán vô lậu của sắc dục.

- Bốn, đặt niệm danh trước mặt, quán vô thường, khổ, nguy hại, như cọp dữ. Chúng ta thấy cái danh, coi vậy chứ nó cũng rất khó vì nghe người ta khen là mình mừng, nghe người ta chê là mình buồn. Đó là cái danh chứ chưa nói là cái sự mà chúng ta làm ông này bà kia hoặc là đỗ cấp bằng này, cấp bằng kia, nó đều làm cho chúng ta có cái chạy theo của cái danh. Cho nên, do đó mà chúng ta đặt cái niệm danh trước mặt để chúng ta quán, thấy nó vô thường, nó đem đến sự khổ, nó nguy hại cho đời sống chúng ta, nó giống như là cọp dữ. Đó thì chúng ta phải đặt cái niệm đó để quán xét cho thấu suốt để cái danh nó được xả đi, nó không còn được ở trong tâm chúng ta nữa.

- Năm, đặt niệm lợi trước mặt, quán vô thường, khổ, nguy hại như thuốc độc, như rắn độc. Chúng ta phải đặt cái niệm lợi như tiền bạc, châu báu, hoặc là nhà cửa, xe cộ, chùa chiền, tháp to, tháp lớn gì đó, tất cả mọi cái chúng ta đặt rồi chúng ta quán xét để chúng ta thấy nó là như thuốc độc, nó có thể giết chúng ta hồi nào cũng có thể được. Nó như rắn độc, nó có thể cắn chúng ta hồi nào cũng được.

- Sáu, đặt niệm hôn trầm, thùy miên, quán tối tăm u mê, ngu muội, lười biếng, hèn nhát. Chúng ta phải đặt cái niệm hôn trầm vì hầu hết là Thầy thấy cái vần đề mà hôn trầm thùy miên rất là khó. Phải đặt cái niệm đó, rồi quán xét, rồi tu tập cái Chánh Niệm Tình Thức. Trong khi ngủ phải tỉnh thức, do đó nó mới phá được cái hôn trầm thùy miên, chứ không khéo thì cái bệnh hôn trầm thùy miên là bệnh si này rất là nguy hiểm, nó làm chúng ta không có cái tri kiến, không có cái tri kiến giải thoát được.

- Bảy, đặt niệm tham trước mặt, quán khổ, nguy hiểm, tai hại, nghèo khổ, bần cùng. Cái niệm tham của chúng ta thì chúng ta đặt nó trước mặt để chúng ta quán xét, quán cái tham coi từ đâu đến, nó do đâu mà có mà làm chúng ta khổ suốt cả đời chúng ta. Rồi từ cái tham đó, nó hễ có cái này rồi nó đòi hỏi tới cái khác, nó tham tới cái khác. Một đồng nó muốn mười đồng, mười đồng nó muốn trăm đồng đó. Thì cái tham nó cứ từng bước nó lên, nó leo thang lên chứ nó không có dừng lại. Do đó chúng ta thấy càng tham thì càng khổ, vì vậy mà chúng ta phải quán xét để phá cái tâm tham của chúng ta nó trở thành vô lậu.

- Tám, đặt niệm sân trước mặt, quán khổ, hung dữ như cọp, như rắn độc, hại mình, hại người. Chúng ta phải đặt cái niệm sân, vì cái niệm sân nó làm chúng ta rất khổ đó, do đó chúng ta phải quán xét cái niệm sân và dùng cái pháp hướng để đoạn dứt nó đi. Nói chung là mỗi cái niệm mà chúng ta đặt đây đều là chúng ta phải có cái pháp hướng, pháp hướng sau khi chúng ta quán xét xong rồi thì chúng ta kế tiếp bồi một cái lệnh truyền tạo thành một cái lực để mà đoạn dứt nó, đoạn dứt những cái tâm đó. Do đó, nó nhờ cái pháp hướng đó mà nó sẽ đoạn dứt nhanh chóng hơn. Quán là chúng ta thông suốt, thấu suốt được cái lý của nó đúng để chúng ta không còn cái tâm đó nữa nhưng dù sao chúng ta phải có cái sự truyền lệnh làm chủ, thì cái pháp hướng đó nó giúp chúng ta sẽ làm chủ được.

- Chín, đặt niệm kiêu mạn trước mặt, quán vô thường, khổ, vô ngã. Thì cái tâm kiêu mạn, cái tâm ngã mạn của chúng ta thường thường là ai cũng có cái ngã, thấy mình hơn người một chút là mình thấy có cái ngã rồi. Nghe người ta khen mình là mình nở mũi rồi, đó là cái ngã, nghe người ta chê mình, mình buồn đó là cái ngã của mình. Vì vậy mà tất cả những cái này chúng ta phải đặt cái niệm đó trước mặt để từng dùng cái Định Vô Lậu mà quét sạch cái tâm kiêu mạn của chúng ta ra khỏi cái tâm của chúng ta.

- Mười, đặt niệm nghi trước mặt, quán về cái niệm nghi đó, quán cái tâm nghi của mình đó, nó hay sinh những tội lỗi và do đó mà đời sống của chúng ta - cái nghi đó nó sẽ làm cho chúng ta nhức đầu. Ví dụ như mình nghi vị thầy mình tu chưa chứng, nghi vị thầy mình như thế này thế khác mà mình không có đủ sức mà mình dò xét vị thầy mình, coi như thế nào là người giới hạnh, giới đức, giới tuệ như thế nào, mình chưa đủ sức quán xét. Nhưng mà mình sống gần một vị thầy mình mà mình vội vàng mình nghi thì chưa đúng, mình hãy còn xem xét. Cho nên nghi không phải là nghi thầy mình không, mà nghi tất ...

Đây là cái sự tóm lược của Thầy, chứ nó còn biết bao nhiêu, có thể nó từ cả trăm cái điều kiện mà chúng ta có thể chúng ta đặt cái niệm trước mặt mà chúng ta tu tập. Hằng ngày, nếu chúng ta hằng ngày chúng ta thấy cái tâm của mình ở cái góc độ nào thì mình nên lấy ở cái góc độ đó, mình đặt cái niệm ra mình tu, mình thấu triệt được cái độ đó thì nó sẽ phá được cái tâm vô lậu của mình. Và hàng ngày mình làm những công việc hoặc có những duyên sự gì đó thì mình lấy cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác, mình đặt cái sự hành động của mình ngay cái chỗ đó mình tu tập thì nó sẽ ngay cái đặc tướng riêng biệt của mình thì nó đem lại cái kết quả tốt cho cái sự tu tập của mình, nhanh chóng và tỉnh táo nhất. Và đồng thời thì Thầy thấy qua cái sự tu tập đó, thì Thầy thấy các thầy nên tập tỉnh thức ngay ở  trong giấc ngủ của mình, phá cái niệm si trước tiên để chúng ta không còn có Vô Minh thì cái Minh nó thể hiện được, thì cái trí tuệ mà thể hiện được thì tu cái Định Vô Lậu rất là nhanh chóng. Vì cái tri kiến giải thoát chúng ta phát hiện chứ không phải là cái tri kiến suông, vì cái tri kiến suông là cái tri kiến được huân học của kinh sách, của các thầy nhờ đó mà chúng ta làm cái điểm tựa thôi. Còn trái lại cái tri kiến giải thoát của chúng ta được phóng ra được á thì đó là phải nhờ cái sức tỉnh thức mới có phóng ra được. Như vậy là quý thầy ghi tạm thời có mười cái điều kiện để tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, và mười cái điều kiện mà tu tập cái Định Vô Lậu. Bây giờ Thầy xin trả lại cuốn tập cho cư sĩ.

Trước khi mà học tiếp cái Giới Bổn thì Thầy thấy có một cái bài kinh ở trong cái Kinh Trung bộ, cái bài kinh số sáu, kinh Ước Nguyện. Thầy thấy cái bài Kinh này nó nhắc đến mọi cái điều kiện mà chúng ta ước muốn một cái điều gì đó thì cái cần thiết là cái điều kiện là chúng ta phải thành tựu, phải viên mãn được cái giới luật. Cho nên ở đây học giới luật thì Thầy sẽ đem cái bài Kinh này ra để chứng minh cho Phật nhắc nhở các vị Tỳ Kheo trong thời đức Phật (...) thì nhận xét thấy cái bài Kinh Ước Nguyện của Phật trang 79, Kinh Trung Bộ, Tập 1, của Tạng Kinh Việt Nam. Do thấy cái bài kinh đó nó nhằm chỉ để chỉ dạy cho chúng ta thấy cái giới luật nó rất là quan trọng trên con đường tu tập của chúng ta đối với cái sự giải thoát thân tâm và làm chủ sinh tử. Thì giới luật rất là quan trọng đối với cái người tu tập. Bây giờ quý Thầy sẽ nghe cái lời Phật dạy, Thầy sẽ đọc lại nguyên bổn của Kinh để quý Thầy thấy đây là cái lời khuyên của Phật trong cái thời đức Phật còn tại thế.

"Này các Thầy Tỳ kheo, các Thầy hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới".

Đó thì đức Phật khuyên chúng ta vào giới thiệu về cái giới luật, thì đức Phật đã giới thiệu cho chúng ta biết cần phải trau dồi và học tập và rèn luyện cái giới luật để mà chúng ta được ly lục, ly bất thiện pháp mà sau này mới có thể nhập được các Thiền định.

 "Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện" - tức là ước mong mình, ước mong một cái điều gì đó - "mong rằng ta được các đồng Phạm hạnh thương mến, yêu quý, cung kính và tôn trọng" - đó là khi mà đức Phật dạy, khi mà chúng ta vào tu theo Đạo Phật, muốn cho các vị mà tu tập trước cũng như sau đồng một cái pháp môn, đồng một cái Phạm Hạnh, mà thương mến kính trọng mình. Thì muốn mà được như vậy thì đức Phật Khuyên:

"Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy muốn ước nguyện được như vậy thì các thầy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì giữ gìn giới luật, nội tâm tịch tĩnh, ly dục – ly ác pháp, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống độc cư tại các trụ xứ yên tịnh vắng lặng".

Đó thì đức Phật khuyên chúng ta nên sống độc cư, nên thành tựu các quán hạnh, sống độc cư tại các trụ xứ yên tịnh vắng lặng. Nghĩa là một người Tỳ kheo mà tu tập theo cái Đạo giải thoát thì không nên sống ở cái chỗ ồn náo như thành thị, nơi mà có đông đúc người mà phải tìm cái sống cái yên lặng, độc cư tại các trụ xứ yên tịnh, vắng lặng. Đó thì đó là cái bài Kinh của Phật khuyên chúng ta như vậy, thì chúng ta thích sống như vậy và chúng ta giữ gìn giới luật, nghiêm chỉnh như vậy thì các vị đồng phạm hạnh của chúng ta đều là kính trọng chúng ta. Còn quý vị mà sống mà nói chuyện với nhau, tiếp duyên với nhau, rồi bằng cách này, rồi bằng cách khác nói chuyện y áo, nói chuyện ăn, nói chuyện mặc, nói chuyện ngủ, nói chuyện nghỉ, nói chuyện tào lao, phiến diện thì chắc chắn là các vị mà người ta có Phạm Hạnh người ta không có kính trọng mình đâu, người ta sẽ xem thường mình đó. Mà mình sống đúng Hạnh, đúng giới luật thì người ta rất kính trọng mình.

Đó là cái lời khuyên thứ nhất đối với chúng ta muốn được các bạn, các người đồng tu Phạm Hạnh quý trọng mình thì mình hãy giữ gìn giới Luật, thọ trì giới Luật cho nghiêm chỉnh và ly dục, ly ác pháp. Do cái sự ly dục, ly ác pháp này chúng ta thiểu dục ít muốn cho nên vì vậy đó mà người ta quý trọng mình. Rồi Thiền định thì mình liên tục mình tu tập không có bỏ ngày nào hết, mình tu tập Thiền định Vô Lậu là mình quán được các hạnh, làm cho mình thể hiện ra cuộc sống người ta thấy được cái Hạnh của mình rất là tốt và đồng thời người ta xét thấy qua cái Hạnh Độc Cư của mình không có nói chuyện với ai hết do đó người ta quý trọng mình, và mình lại còn tìm cái chỗ trụ xứ vắng vẻ, đến cái chùa nào mà yên tịnh, trong rừng, trong núi hơn là ở những cái chùa mà ở thành phố. Đó là người ta quý trọng những cái vị tu đó đó, còn quý vị mà ở thành phố vui chơi hoặc thế này thế khác thì người ta không quý trọng đâu. Các vị Phạm Hạnh người ta không quý trọng.

Tiếp đến, đức Phật đã dạy đến:

"Này các thầy Tỳ kheo, các thầy có ước nguyện mong rằng ta được các vật dụng như y phục, các món ăn khất thực, sàng tọa và các dược phẩm trị bệnh" - Nghĩa là mong cho mình được cái đó để cho đời sống mình không có đói  khổ, không có thiếu thuốc thang khi bệnh đau “thì Tỳ Kheo ấy cũng phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì giữ gìn giới luật, nội Tâm tịch tĩnh, ly dục – ly ác pháp, không gián đoạn Thiền định, thành tựu Quán Hạnh, thích sống độc cư tại các trụ xứ yên tịnh vắng lặng".

Đó thì đức Phật cũng khuyên chúng ta cũng nên phải thực hiện giới luật trước tiên, kiên trì giữ gìn giới luật. Mà khi chúng ta giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh như vậy thì ước muốn của chúng ta được y phục, được các món ăn, được dược phẩm để trị bệnh đều là ở đâu chúng ta cũng sẽ được đầy đủ hết, nghĩa là ước muốn chúng ta sẽ được, đạt được là khi chúng ta giữ gìn được giới luật nghiêm chỉnh. Chúng ta sống đúng như vậy thì ở đâu cúng ta cũng được đầy đủ không có thiếu.

"Này các thầy Tỳ Kheo nếu các thầy có ước nguyện mong rằng, những người cúng dường cho ta, vật dụng, y phục, món ăn khất thực, sàng tọa nhà ở và dược phẩm trị bệnh sẽ được quả báo tốt đẹp, sẽ được lợi ích lớn" - nghĩa là mình nhận của cúng dường của người ta, mọi vật để cho mình sống, mình tu hành được đầy đủ không có thiếu, không có khổ sở trong cái sự thiếu hụt đó thì cầu cho những người đó, ước mong cho những người mà cúng dường cho mình họ được những quả báo tốt đẹp và được lợi ích lớn cho họ, thì ước muốn của chúng ta mà muốn cho họ đạt được thì cái điều kiện đó thì chúng ta phải thế nào? Phật dạy chúng ta phải giữ gìn cái giới, phải thành tựu cái giới luật viên mãn, phải kiên trì giữ gìn giới luật, nội tâm phải được định tĩnh, ly dục – ly ác pháp, không gián đoạn thiền định, thành tựu Quán Hạnh, thích sống độc cư tại các trụ xứ tịch tĩnh vắng lặng. Đó là Đức Phật dạy chúng ta muốn mà ước nguyện cho người khác cúng dường cho mình được thành tựu cái lợi ích lớn, thì mình cũng là một cái người phải thành tựu viên mãn cái giới luật chứ không thể nào mà thiếu cái thành tựu viên mãn giới luật mà ước nguyện cho người ta được. Đó là cái ý ở trong cái bài Kinh này là như vậy. Cho nên ở đây quý thầy thấy mỗi cái mong muốn của chúng ta, cái gì mà có lợi ích đều là ở trong cái giới luật, cái hạnh của chúng ta sống cho đúng giới luật, thì chúng ta muốn làm sao cho người khác đều là được mãn nguyện cái ý muốn của chúng ta.

 "Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các Thầy có ước mong, mong rằng những bà con huyết thống với ta, khi họ chết và mệnh chung, được tâm định tỉnh, không bị hôn mê, không bị cận tử nghiệp lôi, tỉnh thức, đi thoát sanh. Này các thầy Tỳ Kheo, nếu muốn được như vậy, các thầy phải thành tựu viên mãn giới luật".

Đó là đức Phật cũng nhắc chúng ta, là những vị mà ước muốn cho những người thân của mình, chứ không phải là bảo mình về tụng kinh, cầu siêu, cầu an cho những cái linh hồn đó siêu sanh Tịnh Độ, mà đức Phật bảo mình phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì cái ước muốn của mình, những người thân của mình có chết đi, mạng chung đó thì họ cũng sẽ đạt được cái ý nguyện của họ, cũng tỉnh thức để không bị những cái cận tử nghiệp lôi đi, không bị những cái hôn mê, trong khi bị chết họ vẫn sáng suốt, tỉnh táo hoàn toàn, khi mà chúng ta giữ gìn giới luật thì chúng ta sẽ ước muốn cái điều đó, bà con huyết thống của chúng ta sẽ đạt được. Ví dụ như cha mẹ mình mà trong khi mình tu chưa có thành tựu nhưng mình giữ gìn giới luật và cái lòng ước muốn của mình - cha mẹ mình chết đi được tỉnh thức, không có bị mê muội, không có bị nghiệp, cận tử nghiệp lôi đi thác sanh. Do đó thì cái ước muốn của mình sẽ thành tựu đối với cha mẹ của mình. Nó vi diệu như vậy, lời Phật nói như vậy, Thầy tin rằng một vị mà trì giới luật thanh tịnh chắc chắn là cái ước muốn đó sẽ thành tựu được chứ không sai được.

Thì đến đây, cái phần kế nữa:

 "Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện, mong rằng ta nhiếp phục lạc và bất lạc thọ chứ không phải lạc và bất lạc thọ nhiếp phục ta. Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục bất lạc thọ, được khởi lên. Muốn được vậy thì Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật".

Thì cũng là nhắc chúng ta phải thành tựu viên mãn giới luật. Cho nên, ví dụ bây giờ trong cái khi tu hành chúng ta tu dễ bị cái lạc lắm, cái thọ lạc nó lôi chúng ta lắm, rồi cái thọ bất lạc nó cũng lôi chúng ta lắm, cho nên vì vậy mà chúng ta thấy rất khổ. Khi ăn miếng ăn đó mà chúng ta thấy nó ngon tức là chúng ta thấy lạc rồi, mà thọ lạc nó làm chúng ta còn thèm ăn nữa. Cho nên muốn mà cho nó nhiếp phục, cho nó đừng có lôi mình được, nó đừng có làm cho mình thích nữa, nó không phải là một cái chuyện dễ. Cho nên ở đây cái ước muốn như vậy, thì muốn được như vậy thì chúng ta cần phải viên mãn cái giới luật của Phật chứ không thể nào mà chúng ta không viên mãn giới luật của Phật mà ước muốn vậy được. Mà giới luật thì nó làm cho chúng ta xa lìa cái đó, xa lìa cái ham ăn, ham uống đó. Cho nên ở đây Thầy nhắc quý thầy phải nhớ rằng cái lời của Phật dạy là những cái lời vàng, lời ngọc, những cái lời mà chúng ta cần phải thực hiện. Bởi vì con đường giải thoát của Phật là người đi trước, và Thầy mười năm trong thất Thầy cũng đã sống từng những cái giới luật của Phật rất là nghiêm chỉnh đối với mình, khắc phục với mình cho nên Thầy biết cái này. Nếu mà hôm nay Thầy có được cái sức Thiền định mà làm chủ được cái sống chết của mình, Thầy cũng biết rằng đó chỉ có giới luật chứ không phải là cái gì khác hơn. Cho nên Thầy cứ nhắc các thầy là Đạo Phật ly dục – ly ác pháp là quan trọng chứ không phải ngồi mà hít thở mà quan trọng đâu. Cái thở đó là phụ mà thôi, nó là mượn cái hơi thở để đi vào nhập cái Định chứ không phải là cái chỗ hít thở, không phải cái chỗ ức chế tâm; mà cái chỗ ly dục – ly ác pháp. Mà chỉ có giới luật của Phật mới ly dục – ly ác pháp, còn hoàn toàn ngoài ra làm sao được, làm sao có pháp nào mà làm được. Cho nên ở đây mới thấy được cái quý giá của giới luật của Phật là ở cái chỗ này.

Tiếp đến, đức Phật khuyên các thầy Tỳ Kheo:

"Này các Thầy Tỳ kheo, nếu các Thầy có ước nguyện, mong rằng ta nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi, chứ không phải khiếp đảm sợ hãi nhiếp phục ta, mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi được khởi lên. Muốn được vậy Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật.”

Đó thì các thầy thấy đức Phật cũng nhắc chúng ta cũng phải thành tựu viên mãn giới luật thì chúng ta mới khắc phục được cái tâm khiếp đảm của chúng ta, sợ hãi của chúng ta. Hầu hết là chúng ta ở rừng ở núi, những nơi mà không cơm, không gạo, chúng ta sợ đói lắm, sợ rắn độc, sợ hơi độc, sợ khí độc, đủ mọi cách có thể làm chúng ta chết người, chúng ta sợ, chúng ta khiếp đảm. Nhưng mà khi chúng ta giữ gìn giới luật mà thanh tịnh, viên mãn được giới luật, chúng ta chẳng có sợ cái điều đó nữa. Không sợ cọp dữ mà cũng không sợ rắn độc, cũng không sợ nước độc, khí thiêng gì chúng ta chẳng sợ gì hết khi mà giới luật chúng ta đã viên mãn. Đó thì cái lời của Phật dạy rất là hay và rất là tuyệt. Bởi vậy, giới luật là Thầy, là người bảo hộ cho chúng ta tận cùng trên con đường giải thoát. Mà chúng ta cứ xa lìa giới luật, không chấp nhận giới luật thì làm gì cái đời sống chúng ta đạt được đến cái cứu cánh giải thoát được.

 Đây quý Thầy nghe tiếp:

 "Này các Thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện mong rằng ta tùy theo ý muốn của ta, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức ta chứng bốn Thiền một cách dễ dàng, thuộc về tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú”.

Đó là đức Phật muốn nói đến bốn cái loại thiền mà chúng ta  đang tu tập nương cái hơi thở đó, mà chúng ta quá tu tập khó khăn phải không? Mà phí sức rất nhiều, nhọc nhằn rất nhiều, mà cũng chưa chứng được. Thì cái ước nguyện mà chúng ta muốn đạt được bốn cái Thiền này thì cái điều kiện mà tiên quyết là chúng ta phải giữ gìn, phải viên mãn, phải thành tựu giới luật. Muốn được vậy, "Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật". Đó, thì đức Phật nói muốn mà nhập được bốn Thiền thì các thầy Tỳ Kheo cũng phải thành tựu viên mãn giới luật mới có thể dễ dàng nhập mà không có phí sức, không có khó khăn, không có mệt nhọc. Còn nếu không thì chúng ta rất là mệt nhọc, rất là phí sức, rất là khó khăn. Đức Phật nói đúng lắm, bởi vì xét qua chúng ta chưa ly dục, ly  hoàn toàn, ly ác pháp hoàn toàn cho nên chúng ta tu thấy vào bốn Thiền rất là khó.

"Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy Tỳ Kheo có ước nguyện, có những giải thoát tịch tĩnh, siêu thoát sắc giới và vô sắc giới, mong rằng ta có thể cảm xúc với thân và sống an trú cảnh giới ấy".

Nghĩa là cái ước muốn ấy là cái khi mà cái tâm của chúng ta luôn luôn ở trong cái cảnh mà sắc giới và vô sắc giới đó luôn luôn nó được siêu thoát, nó được tịch tĩnh ở trong những cảnh giới, tức là cảnh giới Thiền định đó. Nói ở đây, đức Phật muốn nói rằng cái cảnh giới mà ở trong cái thân này mà chúng ta luôn luôn giữ cái tâm của chúng ta tịch tĩnh siêu thoát ra ngoài cái thân mà không có, mặc dù chúng ta đang sống trong cái sắc giới và chúng ta đang sống ở trong cái vô sắc giới khi mà chúng ta lọt vào trong cái trạng thái tưởng thì các cái thân mắt tai mũi lưỡi thân ý chúng ta hoàn toàn nó ngưng nghỉ, nó không tiếp xúc nữa giống như cái người ngủ mà chúng ta cũng vẫn tịch tĩnh siêu thoát trong cái cảnh giới đó, thì như vậy là chúng ta đã vượt qua coi gọi là chúng ta ly hỷ trú xả, tức là chúng ta đã nhập được Tam thiền rồi đó. Ở đây mà chúng ta mong muốn được cái điều này thì cái sự mong muốn đó muốn đạt được thì tức là chúng ta phải giữ gìn giới luật phải được viên mãn. Chứ còn không phải là thiếu giới luật mà đạt được cái ước muốn đó đâu. Đó thì ở đây chúng ta cũng thấy rằng muốn được như vậy Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới luật.

Tiếp tới nữa:

 "Này các Thầy Tỳ kheo, nếu các thầy có ước nguyện mong rằng ta diệt trừ ba kiết sử, làm cho muội lược tham sân si, ta chứng được Nhất Lai, chỉ còn trở lại một đời này nữa để đoạn trừ khổ đau. Nếu muốn được vậy Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới Luật".

Nó cũng là nhắc chúng ta, bây giờ chúng ta muốn mà, muốn diệt trừ ba kiết sử, ba kiết sử đầu tiên là tham sân si chứ gì, mà muốn diệt nó thì chúng ta cũng phải giữ gìn giới luật chứ còn thiếu giới luật mà muốn diệt tham sân si thì chúng ta diệt không nổi đâu. Ở đây đức Phật từ cái ước muốn này cho đến cái ước muốn khác, chúng ta thấy tham sân si là ba độc muốn cho nó dứt đi thì chúng ta cũng phải lấy giới luật mà sống thì chúng ta sẽ dứt được nó.

"Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các Thầy có ước nguyện mong rằng ta sẽ diệt trừ năm hạ phần kiết sử, ta được hóa sanh, chứng được Niết bàn, ngay tại cảnh giới ấy, không còn trở lại trong trạng thái này nữa. Muốn được vậy Tỳ kheo phải thành tựu viên mãn giới luật".

Đức Phật cũng nhắc chúng ta muốn mà diệt trừ năm cái hạ phần kiết sử tức là tham sân si mạn nghi á, nó không còn có nữa đó, thì để chứng được Niết bàn ở trong cái tâm trạng của chúng ta và lúc bấy giờ chúng ta không còn có thai sanh nữa mà chúng ta được hóa sanh, tức là chúng ta sẽ được sanh vào một cái cõi trời nào đó, cõi trời đó là hoàn toàn hóa sanh chứ không còn thai sanh nữa. Ngay tại cảnh giới ấy, dù đó là cảnh trời nào thì chúng ta cũng được tự tại hết. Không còn trở lui cái trạng thái này nữa, tức là chúng ta không còn tái sanh ở trong cái thế gian này nữa. Mà muốn được vậy thì Tỳ kheo phải thành tựu viên mãn giới luật. Cho nên nãy giờ chúng ta thấy giới luật rất là quan trọng, quan trọng cho con đường tu của người tu sĩ.

"Này các thầy Tỳ kheo, nếu các thầy có ước nguyện, mong rằng ta chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, ta hiện hình các loại cầm thú, biến hình, đi ngang qua vách, qua thành qua núi như đi ngang qua hư không. Ta độn thổ, trồi lên, ngang qua mặt đất liền như ở trong nước. Ta đi trên nước không chìm như đi trên đất liền, ta ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với bàn tay ta chạm và rờ mặt trăng, mặt trời, những vật có đại oai lực, đại thần lực như vậy. Thân ta có thần thông bay đến cõi Phạm Thiên. Muốn được vậy Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật".

Dù chúng ta có muốn được thần thông được như vậy thì chúng ta cũng phải giữ gìn giới luật, viên mãn giới luật. Thì đó là những cái điều kiện mà chúng ta cần phải hiểu. Nếu không hiểu thì chúng ta không có giới luật gì hết mà cứ niệm chú, niệm bùa để có thần thông, thì cái đó là không đúng của Đạo Phật.

"Này các Thầy Tỳ Kheo, nếu các Thầy có ước nguyện mong rằng với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, ta có thể nghe hai loại tiếng Chư Thiên và loài người ở xa hay ở gần" -Nếu mình có cái sự ước muốn như vậy thì muốn được như vậy -"Thầy Tỳ Kheo cần phải thành tựu viên mãn giới luật". Đức Phật cũng nhắc chúng ta cũng phải thành tựu viên mãn giới luật. Chứ còn không ngoài không có thành tựu viên mãn giới luật thì chắc chắn chúng ta không đạt được đâu.

 "Này các Thầy Tỳ Kheo, nếu các Thầy có ước nguyện mong rằng, với tâm của ta ta biết được tâm của các chúng sanh và loài người. Tâm có tham ta biết tâm có tham, tâm không tham ta biết tâm không tham, tâm có sân, ta biết tâm có sân. Tâm không sân ta biết tâm không sân. Tâm có si ta biết tâm có si, tâm không si ta biết tâm không si. Tâm chuyên chú, ta biết tâm chuyên chú, tâm không chuyên chú ta biết tâm không chuyên chú. Tâm tán loạn ta biết tâm tán loạn. Tâm đại hành ta biết tâm đại hành, tâm không đại hành ta biết tâm không đại hành, Tâm chưa vô thượng ta biết tâm chưa vô thượng, tâm vô thượng ta biết tam vô thượng. Tâm thiền định ta biết tâm thiền định, tâm không thiền định ta biết tâm không thiền định. Tâm giải thoát ta biết tâm giải thoát, tâm không giải thoát ta biết tâm không giải thoát. Muốn được vậy Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới luật".

Đó, muốn mà mình biết mọi cái tâm niệm của chúng sanh, bây giờ họ ngồi thiền họ có định hay không định thì mình phải thành tựu giới luật thì mình mới có được cái biết đó. Còn nếu mà không thành tựu giới luật thì chẳng biết gì hết.

"Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện mong rằng, ta nhớ đến các đời quá khứ như một đời, hai đời, ba đời, vô lượng đời, nhiều kiếp thành kiếp hoại. Muốn được vậy thì Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới luật".

Đó là chúng ta cũng nhớ, nếu mà chúng ta có cái hiểu biết nhiều đời của chúng ta, tức là Túc Mạng Minh, thì nếu mà chúng ta muốn có Túc Mạng Minh mà hiểu biết như vậy thì chúng ta cũng phải là giữ gìn thành tựu viên mãn giới luật.

"Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy ước nguyện, mong rằng ta có Thiên Nhãn Minh thấy sự sống chết của chúng sanh, muốn được như vậy Tỳ Kheo cũng phải thành tựu viên mãn giới luật".

Đức Phật cuối cùng mà chúng ta  có những cái Lậu Tận Minh hoặc là có cái Thiên Nhãn Minh đi nữa thì cũng phải là làm giới luật làm hàng đầu.

"Này các Thầy Tỳ Kheo, nếu các Thầy có ước nguyện với sự diệt trừ các lậu hoặc tận gốc, ta phải có Lậu Tận Minh. Muốn được vậy thì các Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới luật".

Đó thì đến đây thì ba cái Minh là xong rồi thì chúng ta ước muốn, đi tu mà chúng ta không ước muốn quét sạch lậu hoặc thì làm sao giải thoát, làm sao chấm dứt luân hồi, cho nên đó là sự ước muốn của chúng ta rồi. Mà ước muốn như vậy thì chúng ta phải lấy cái gì, Phật khuyên là chúng ta phải thành tựu và viên mãn giới luật chứ không có cái gì khác hơn hết.

"Này các thầy Tỳ Kheo, muốn được vậy, bây giờ, ngay lúc này, các thầy hãy sống" - nghĩa là muốn được như vậy, muốn được những cái ước muốn mà đức Phật nêu bên trên đó, chúng ta muốn được như vậy đó, thì ngay bây giờ "lúc này các Thầy hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn. Đầy đủ oai nghi, chánh hạnh. Thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và tu học các học giới như vậy. Phàm đã nói gì, chính duyên ở đây mà nói vậy" .

Tức là cái đứng ở chỗ giới mà nhắc nhở cho quý thầy thấy được cái con đường mà tu tập theo đúng của đạo Phật - là lấy giới luật mà làm đầu. Bởi vậy Tam Vô Lậu Học, chúng ta thấy học giới tức là cái giới là cái pháp môn học đầu tiên Giới - Định - Tuệ. Cho nên giới là phải thành tựu viên mãn thì tất cả những cái khác Định và Tuệ chúng ta cũng sẽ dễ dàng mà thành tựu được. Đó thì quý thầy thấy rất rõ chứ? Cho nên ở đây, khi mà học giới, nếu mà bỏ cái bài kinh này thì Thầy thấy quá là uổng, không có thể nào mà thiếu được nó.

Cho nên bây giờ chúng ta lại tiếp tục ở trên cái bài học giới.

Năm, chúng ta tiếp tục giới Bổn.

Năm,Kiết giới Cửu Thập Đọa - chín mươi tội đọa.

Nếu phạm vào một tội nào cũng bị đọa địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, ác đạo, nhận lấy cái khổ thiêu đốt, nếu không ân cần sám hối, bèn có thể trở ngại cho thiện pháp. Đó thì chúng ta thấy cái bây giờ nó tới chín mươi cái tội đọa, chín mươi cái tội đoạ này nếu mà nếu chúng ta không có học thì chúng ta không có biết và ở đây mục đích chúng ta học không có nghĩa là chúng ta chấp nhận những cái giới luật ở đây là đúng đắn của Phật đâu. Bởi vì hầu hết khi mà giảng qua những cái giới luật của Phật xong rồi, Thầy thấy hầu như là cái người sau thêm nó không đúng cái giới luật của Phật, nó giảm đi, nó làm cho cái người mà chấp nhận giới đó nó có phạm những cái dục lạc của thế gian, nó có chạy theo những cái dục lạc của thế gian. Như những giới y rồi chế ra để cho nó rộng rãi ra cho Tỳ Kheo đắm đuối ở trong những cái dục lạc, cái cám dỗ của các pháp thế gian như y, áo, đồ ăn, đồ uống. Tất cả những cái này đều là do người sau mà chế ra. Cho nên ở đây chúng ta học, bởi vì Thầy không có cái thời gian mà có thể soạn lại những cái Kinh giới này đề mà cái nào là của Phật, còn cái nào là của người sau là chúng ta gạt ra. Vì cái giới luật của Phật là vốn giúp cho chúng ta để đạt được những cái kết quả giải thoát chứ không phải là cái pháp luật, không phải là cái điều lệ mà bắt buộc chúng ta, trói buộc chúng ta bằng cách khô khan để rồi rộng rãi cho chúng ta hưởng từng giọt dục lạc của thế gian. Chúng ta thấy quá rõ những cái giới luật của Phật mà trong cái giới bổn này mà gọi là của Phật á hầu như là chế đi chế lại là như là bắt đầu gắt thì không cho chúng ta thọ hưởng cái dục lạc thế gian, sau đó chế lại để cho chúng ta nhỏ từng giọt cái dục lạc thế gian để cho chúng ta thọ hưởng cái dục lạc đó. Có phải là chúng ta thấy cái giới đó, nó không có ly được cái dục lạc, để rồi chúng ta lại chế ra, cái giới đó nó làm chúng ta không hưởng được cái dục lạc của thế gian, rồi rộng ra một chút để cho chúng ta nhỏ từng giọt hưởng, hưởng cho thôi thà hưởng hưởng cho sạch, còn không hưởng thì thôi, hưởng chi từng giọt, từng giọt để cho nó thèm khát thêm. Chế giới luật cái kiểu đó làm nhấp nhem, nhấp nhem cho mấy ông tu sĩ càng thèm, càng khát thêm nữa chứ làm cái gì.

Cho nên Thầy đọc giới luật Thầy phát bực với những cái người mà viết giới mà không thấy được cái pháp của Phật, làm những cái điều sai trái, làm cho con đường của Phật lệch lạc đi. Nghĩa là cái dục lạc của thế gian nó đem chúng ta đến cái khổ, thế mà còn nhấp nhem cho nó, cứ no không cho nó ăn no, mà cứ cho ăn đói, cứ lát nắm nắm cỏ cho đút vô miệng voi, ở trong cái miệng voi, con voi nó đói gần chết nó thấy nắm cỏ là nó phát thèm, lúc bấy giờ cứ nhử nhử như vậy, chế giới rộng rãi mà nhử nhử như vậy có phải chết nó không, con voi lúc đó bây giờ nó chết đói, nó bằng cách mà kiểu đó. Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu được cái tâm lý con người. Dứt thì dứt mà không dứt thì thôi chứ đừng có nhấp nhem, nhấp nhem nữa. Cái thứ đó là cái thứ nó khổ sở cho người khác nữa, cho nên hầu hết là cái người phạm giới là vì bị nhấp nhem những cái đó mà bị phạm giới, rồi lén làm tầm bậy, cho nên có người thì tới bảy tám mươi tuổi rồi mà tu hành bảy tám mươi tuổi rồi, thọ đến cái tuổi đạo là bốn năm chục tuổi đạo thế mà còn cõng một bà vợ thì thử hỏi coi có phải bị nhấp nhem không.

Đó là những cái sai của giới luật để làm cho người ta không có giữ trọn được cái Phạm Hạnh của người ta. Cho nên Thầy không có cái dịp rảnh rang mà soạn lại cái giới bổn để làm cho nó đúng cái con đường, để khép cái mình của tu sĩ vào cái khuôn khổ để đi đến cái sự giải thoát hoàn toàn, ly dục – ly ác pháp. Còn đằng này đọc giới luật gì Thầy thấy thiệt là bày đặt đủ cách, đủ kiểu. Có một ông Tỳ kheo mà xách tới xách lui có một ông đó à. Không lẽ ông phạm một lần, ông hoảng hồn hoảng vía rồi bây giờ cũng còn phạm hoài à? Thầy thấy cái đó là cái đặc biệt, cái đó là đặt ra cái điều kiện đó, nói ông đó như vậy. Nếu mà một lần phạm thì đã tống cổ ông ấy ra Tu viện còn đâu phạm nữa. Lột chiếc áo ông ra ông thành cư sĩ còn đâu phạm nữa. Mà để ông đó cứ chế giới, chế đi chế lại hoài à. Rồi phạm giới này cho đến phạm giới khác, cũng có một ông, cũng có mấy ông thôi chứ không có nhiều. Thì mấy ông mà phạm giới vậy, tống nó ra hết rồi còn đâu nữa mà phạm, còn đâu nữa mà chế. Đó là những cái sai của giới bổn.

Bây giờ chúng ta học.

Giới thứ nhất - giới cố nói dối.Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi Phật ở nước Thích - Xí-Xậu – Ca – Di – La - Vệ trong vườn Ni-Câu-Loại. Có Tỳ Kheo dòng họ Thích tên là Tượng Lực có tài nghề đàm luận. Mỗi khi cùng với ngoại đạo, phạm chí, nghị luận, nếu bị đuối lý liền nói nghịch lại, phản lại với lời nói trước của mình. Trong chúng Tăng, khi hỏi đến cũng nói ngược lại như vậy, trong chúng biết mà vẫn nói không thật, Phạm Chí chê hiềm, Phật nhân đó mà kiết giới. Thật sự ra Thầy thấy cái chuyện này cũng chỉ là cái chuyện bịa đặt mà thôi. Một cái người mà đã tu hành Phạm Hạnh thì đâu có cái chuyện mà Đức Phật đã cấm không có tranh luận với người khác, thế mà ở trong cái Tu viện của mình vậy mà ngoại đạo vô đó để cho một vị Tỳ Kheo ngồi mà tranh luận với họ. Tranh luận rồi đuối lý. Phật Pháp có cái chỗ nào đuối lý không? Từ khi mà Thầy xét cái kinh điển của Phật không có một cái ngoại đạo nào mà có thể đem mà đến mà cật vấn được Phật hết. Cái gì mà nói không đúng là đức Phật từ chối không nói, cái đó là nói ngoài vấn đề rồi, mà nói trong cái vấn đề đúng là đem lại cái sự giải thoát cho…

Băng 39 - B

 ...lại lý luận, lý luận với ngoại đạo đuối lý. Cũng như người ta hỏi mình từ đâu mà sanh Vô Minh á thì ông này đối đuối lý rồi. Ông không thấy cái vòng tròn của Thập Nhị Nhân duyên. Cho nên ông không biết đâu ổng trả lời hết à. Do vì vậy đó mà ông bị đứt đi, vì vậy mà ông đuối lý, rồi ông nói ngược nói ngạo. Thành ra chế cái giới này nói ông nói dối. Sự thật ra nó đâu có cái việc Tỳ Kheo mà đệ tử của đức Phậtđâu có đi lý luận với thiên hạ đâu. Người ta nói không đúng là nói: Cái đó là ngoài vấn đề của tôi rồi, ông nói hỏi đúng thì tôi trả lời, còn hỏi câu hỏi không đúng thì nhất định tôi không trả lời. Có đâu mà lý luận với thiên hạ. Có đâu mà tranh cãi với thiên hạ. Còn cái này hầu hết là theo kiểu tu sĩ của mình, học ba cái Kinh Đại Thừa, học ba cái Thiền Đông Độ, rống họng với nhau mà tranh luận với nhau cho hơn thua với nhau cho nên mới có lý luận đó chứ. Vì vậy nó thuộc về loại 62 lập luận của ngoại đạo mà trong thời đức Phật đã cho chúng ta biết. Cho nên bây giờ hầu hết tu sĩ ngoại đạo hồi trước cũng hay tranh luận. Rồi bây giờ tu sĩ của chúng ta bây giờ cũng hay tranh luận như vậy. Muốn hơn, muốn thua. Nhưng mà nhìn giới luật của mấy vị ê chề không có ra gì hết, thì quý vị có hơn thua ai, cái đời sống của quý vị chẳng bằng ai hết mà quý vị còn muốn hơn thua người khác thì hơn thua cái gì. Một đời sống của tu sĩ nó phải ra tu sĩ chứ, đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo mà đi tranh luận hơn người ta. Nói cái gì cũng cao siêu chứ sự thật ra ở dưới đất cái á, chẳng bằng ai hết. Đó là một cái giới mà chế ra rồi câu chuyện đặt ra như vậy, làm sao chúng ta tin được cái điều này.

Giới thứ hai, giới nói lời chê bai.Vì sao Phật kiết giới này? Khi xưa đức Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, Lục Quần Tỳ Kheo đoán tránh sự dùng chủng loại mắng Tỳ Kheo. Tỳ Kheo xấu hổ quên trước, quên sau không nói được. Các thầy Tỳ kheo bạch Phật, Phật nhân đó mà kiết giới. Kiết giới là cấm không có cho chê bai người khác. Nhưng ở đây quý thầy thấy có cái đám Lục Quần Tỳ Kheo nè, có sáu cái vị Tỳ Kheo này à, mà hầu hết Thầy thấy hầu hết trong giới luật của Phật cứ lôi ba cái ông sáu cái ông Tỳ Kheo này ra là phạm cái này, phạm cái kia. Theo Thầy nghĩ, đức Phật ngày xưa nếu mà sáu ông này mà phạm một lần, hai lần mà thấy nó không được là lôi đầu mấy ông đuổi ra chứ đâu có để cái chuyện ở trong cái Giáo đoàn như vậy, để rồi chế bao nhiêu giới cũng cái đám Lục Quần Tỳ Kheo này, cũng có mấy cái ông đó nhảy qua nhảy lại à, mà không đuổi được à? Thì như vậy là các pháp Yết Ma đặt ra làm gì? Cái tập thể của đức Phật ngày xưa không có người sao? Thập Đại Đệ Tử của đức Phật không còn ai sao? Đó là những cái bịa ra không có đúng cách. Chế giới ra mà bịa ra không đúng cách. Ít ra thì cũng có người này phạm, người kia phạm chứ? Sao lại có một đám đó à? Có một bọn đó, có mấy người đó thôi à? Mà chế được cái giới luật như thế này. Người ta nói đó là Bồ Tát thị hiện nghịch hạnh để cho chế giới. Còn bày đặt Bồ Tát nghịch hạnh nữa. Sự thật ra mình tu đúng, mười ba năm đầu đức Phật, đệ tử không có phạm thì bây giờ còn đặt ra cái đám phạm này để mà chế giới ra làm gì? Thì bây giờ cho tới khi mà đức Phật mà nhập diệt đi nữa, khỏi cần chế giới thì ngay trong kinh điển của Phật, cái lời Phật dạy, các Pháp của Phật tu đó là giới luật chứ còn gì nữa, chứ cần phải chế lại cái giới bổn này sao? Cho nên tất cả những cái này là những cái sai của người sau, không hiểu được Giáo Pháp của Phật mới rặng ra cái này, cái kia. Cho nên thậm chí như cái bài đầu tiên Thầy thuyết giảng: Người ta dám đặt điều là khi mà kiết giới, ông Ưu – Ba - Ly đọc giới, người ta chỉ đọc để nghe thôi chứ không có ghi chép. Trong giới bổn nó nói vậy đó. Cho nên bây giờ, cái giới đầu tiên mà cái bộ Kinh giới đầu tiên mà được ông Ưu Ba Ly đọc thì không có chép lại thành bảng, do đó bây giờ nó không còn có nữa. Vì vậy mà sau này chia làm hai chục bộ phái, rồi bắt đầu đó nó có hai chục bộ Luật của các bộ phái này. Thì cho đến sau cùng người ta thấy giống nhau, người ta bỏ bớt, bỏ bớt giờ còn năm sáu bộ Luật thôi. Cái đó là cái bày đặt họ chứ, không lý nào ông Ca -Diếp lúc bấy giờ là một Thượng Thủ mà Thầy đã nhắc lại trong cái lúc trước các con thấy rõ ràng, mà lại thiếu thông minh như vậy sao. Phật đã chết rồi thì còn ai mà dám đặt giới thêm, giới bớt nữa. Cho nên chúng ta phải ghi lại những cái gì mà của Phật đã dạy, lý đâu mà có sai chỗ đó được, chỉ muốn phá giới, đem cái bộ Kinh giới đầu tiên mà kết tập đó, mấy ông đốt đi, rồi mới tự chế ra chạy theo dục lạc thì có như vậy nó mới đốt bộ Kinh giới đó. Cho nên, mới nói rằng hồi đó ông Ca - Diếp kết tập không có ghi chép, cho nên bộ Kinh giới không có. Đó có phải là các vị đó nói láo không? Đó là nói đại vọng ngữ đó. Ở đây, Phật chế cái giới mà mình không có được chê bai người thì Thầy thấy cái giới đó đúng chứ không phải sai đâu. Thầy tạm thời cho nó được.

Cái giới nói lưỡi đôi chiều,thì ở trong cái giới Kinh thì Phật cũng có dạy cái này rồi, thì bây giờ ở đây thì lấy ra cái này thì cũng đúng rồi chứ không có sai nữa. Vì sao Phật kiết giới này? Cũng vì khi đức Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, bấy giờ Lục Quần Tỳ Kheo truyền lời nói riêng của đôi bên khiến cho trong chúng chưa có đấu tranh sinh ra đấu tranh, đã có đấu tranh thì không có chấm dứt được sự đấu tranh nữa mà tăng rộng ra cái sự đấu tranh bằng miệng lưỡi đó nữa. Nhân đó, Phật mới kiết giới này. Không được nói lưỡi đôi chiều, đem chuyện bên đây nói theo bên đây, bên kia nói theo bên kia để cho người ta giận hờn người ta đấu tranh nhau. Đó là những cái giới nó cũng ở trong cái giới Kinh Thầy thấy những cái này đều là có...Phật chế như vậy đều là đúng. Nhưng mà ở đây, lấy cái câu chuyện của Lục Quần Tỳ Kheo, lấy những cái người xấu này mà nói như vậy thì Thầy thấy rằng, ngay đó là đuổi mấy ông này hết rồi còn đâu mà nói chuyện nữa.

Bốn, giới cùng phụ nữ đồng nhà mà ngủ. Vì sao Phật kiết giới này? Khi xưa Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, ôn giả A-Na-Luật trên đường đi tại nước Câu – Tác - La, nơi không có trú xứ của Tỳ Kheo, ngủ nhờ nhà của dâm nữ đầu đêm, cuối đêm dâm nữ đều tha thiết yêu cầu được làm vợ, tôn giả không trả lời cũng chẳng ngó đến cô ta. Cô ta bèn thoát y, nắm lấy tôn giả. Tôn giả bỗng hiện người lên trên hư không. Dâm nữ xấu hổ, hướng lên trên hư không mà ba lần lạy xin sám hối. Tôn giả nói diệu pháp, cô ta đắc nhãn tịnh và cầu thọ giới Ưu Bà Di. Tôn giả sau khi nhận bữa cơm do cô cúng dường rồi về Tăng Già Lam kể lại chuyện ấy. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật nhân cái chuyện này mà kiết giới.

Ở đây thì thuật lại một câu chuyện, thiệt ra, thì Thầy thấy cái câu chuyện nó không đúng, một bậc Thánh Tăng mà đi vô cái nhà dâm nữ, dâm nữ tức là cái phải nói lầu xanh hoặc lầu hồng gì đó, nơi mà bán dâm, không phải có một bà này đâu. Bởi vì bà là dâm nữ, tức là bà phải mở những cái phòng nhà của bà để mà bán dâm rồi. Thế mà cái ông tu sĩ này lại dám vô trong cái nhà này mà xin ngủ đêm thì Thầy thấy, thà rằng ngủ rừng, ngủ bụi chứ ai vô cái nhà đó, kỳ cục vậy. Ở đây, thiệt ra họ đặt những cái chuyện mà Thầy thấy không có, một cái vị mà tu hành thanh tịnh rồi thì biết cái chỗ nào mình ngủ mà chỗ nào không mình ngủ. Nhất là cái ông A Na Luật, chứ không phải là một cái vị thường. A Na Luật là một cái vị có Thiên Nhãn thuần tịnh siêu nhiên chứ không phải là một cái tay tầm thường - Đệ Nhất Thiên Nhãn đó, mà đức Phật đã từng ca ngợi đó. Thế mà, ông không có đủ cái trí tuệ để mà đi đến cái nhà dâm nữ mà ở cái nhà dâm nữ, để rồi bắt đầu cô ta mến thương ông A Na Luật, mà ông phải thể hiện thần thông trên hư không như vậy. Thì cái điều đó Thầy thấy hoàn toàn là không thể có được. Cũng giả hạn bây giờ Thầy cũng chỉ là một phàm phu thôi, mà nói cái chỗ đó là cái chỗ bán dâm là chắc chắn là Thầy không đến đó đâu. Thầy nói bây giờ quý thầy thôi à, mình mới tu đây thôi à, mà nghe cái chỗ đó cũng chưa chắc dám đến mà ngủ đó nữa. Người ta là cái chỗ bất tịnh, cái chỗ nhơ uế làm gì một vị tu sĩ thanh tịnh như ngài A Na Luật mà đến đó, rồi người ta đổ thừa, tại cái duyên phải độ cái bà đó cho nên ông này phải thị hiện. Cái đó là còn sai nữa. Nếu mà cái nhân duyên của bà ta đến thì bà ta phải tự đến chứ không phải là tự mình đến làm cái chuyện đó. Cho nên ở đây, đặt ra những cái này, Thầy thấy nó nhiều khi nó làm cho cái người mà tu sĩ của Phật Giáo khi mà đến đó mà chúng ta có độ được đi nữa, thì khi đi ra các cư sĩ nhìn hai bên: Cái nhà của bà đó bán dâm, mà có ông thầy chùa ổng vô đó đó. Thì thử hỏi các thầy nghĩ sao? Người ta ở ngoài đời, người ta đâu phải là thánh nhân, người ta thấy cái bước đi cùa mình vô cái nhà đó, thì người ta đã đặt câu hỏi rồi. Rồi từ đó người ta sẽ nhìn thấy Phật Giáo ra sao không. Người ta đâu có biết, chính mình làm cái hành động, mình vô đó bao nhiêu người người ta phỉ báng Phật Pháp. Rồi mình nói, mình đổ thừa là tại mình độ cái người đó, mình độ cái bà bán dâm đó. Nhưng sự thật mình độ cái bà bán dâm bằng mình đổ hết bao nhiêu Phật Pháp xuống hết không? Phải hiểu được cái hành động mình cái nào lợi mà cái nào không. Nếu bà ta có đủ duyên chắc chắn sớm muộn gì bà ta cũng có được đọc kinh sách hoặc được nghe cái bài thuyết Pháp nào đó của Phật thì chắc chắn bà ta đến chứ đâu phải mình đi đến tìm bà ta. Cho nên do vì vậy mà mình đến tìm bà ta bằng cái nhà của người đó, ai cũng biết cái bà này bà bán dâm hết mà mình dám đến đó mình ngủ đêm thì tức là người ta đã đánh giá trị ông thầy đó rồi. Dù ông là Thánh đi nữa, tôi cũng coi ông là thường rồi. Tôi đâu có biết được, ông tốt hay xấu tôi đâu có biết được. Trong cái nhà bà ta có mình bà ta với ông, ông nói ông tốt tôi đâu có tin.

Đó cho nên, đó là những cái mà chúng ta thấy rằng, cái lầm lạc của cái người mà đặt ra cái những cái Kinh giới mà hầu như muốn dìm cái Phạm Hạnh, dìm Phật Giáo xuống rất sâu. Nếu mình tâm lý mình đặt ra, thử hỏi một ông thầy bước vào đó, công an nó theo dõi đó, coi ông thầy này làm gì. Thấy không? Mà nếu mà lơ mơ nó lôi ra nó bỏ tù rồi nó đăng trên báo chí tùm lum ra đó rồi mặc tình mà biết. Vì vậy cho nên, bởi vậy cho nên bây giờ bao nhiêu thầy mà được công an nó đăng báo không? Bởi vì nó theo nó thấy ông thầy lủi thủi, lủi thủi tới, vô nhà đó, nó biết cái nhà đó là cái nhà không tốt rồi. Người không tốt người ta mới đến đó chứ người mà người lành, người có đạo đức mà bình thường cư sĩ người ta không đến đó, mà ông thầy chùa đến đó thì thử hỏi như thế nào. Mà đây là rõ ràng là biết dâm nữ mà đến đó ngủ đêm, đâu phải thiếu nhà cửa, đâu có phải, ông A Na Luật có thần thông như vậy mà ông sợ ngủ rừng, ngủ bụi sao mà phải đi tìm nhà vô ở cái nhà đó. Nhất là, cái giới luật như vậy, nó có phản lại giới luật không?

Chúng ta thấy rõ ràng là có cái bài trong giới luật nó "Gia vô nam tử, bất khả nhập môn" - nhà không con trai thì không có bao giờ cái người tu sĩ đến. Thế mà ông A Na Luật là người nam mà đến nhà của một bà nữ nữa thì thử hỏi có phải là cái giới mà  Tỳ Kheo này có phải là sai không, có đúng không? Cho nên viết tầm bậy, tầm bạ đặt vô không có đúng cách. Vậy mà cứ đọc kinh giới này, dạy người này dạy người kia, bao đời biết chừng nào mà có người  mà viết lại cái bộ Kinh giới này cho chúng sanh đời sau này để mà tu tập chưa. Thật sự ra cái nhiệm vụ của Thầy quá nặng nề mà Thầy làm sao Thầy gánh vác hết. Đọc hết Kinh giới Thầy thấy tan nát hết, không có còn gì nữa hết.

Năm, giới người chưa thọ đại giới cùng ngủ.Vì sao Phật kiết giới này? Duyên xưa khi Phật ở thành Thắng – Dã, Lục Quần Tỳ Kheo cùng với trưởng giả ngủ chung tại một nhà giảng. Có một vị trong Lục Quần loạn ý ngủ mê trở mình lộ hình, Trưởng giả chê hiềm. Đức Phậtnhân đó mà kiết giới. Nghĩa là có lẽ là ông ngủ mê rồi ông bành da bành thịt, ông lộ những cái thân thể của ông, nó không có được cái tốt đẹp. Cho nên được người cư sĩ trưởng giả này chê. Cho nên đức Phậtnhân đó mà đặt cái giới. Bởi vì cái thứ nhất là tại sao chúng ta ngủ riêng một mình, mà đức Phật không cho ngủ chung, là ngủ chung nó sẽ sinh ra những cái đồng tính luyến ái, đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai đó, ngủ chung nó sinh ra chúng ta không có dạn dĩ, nó luôn luôn nó sợ hãi. Cái ngủ chung nó sinh ra những cái tình cảm bậy bạ, nó không tốt. Do vì vậy đó mà đức Phật chế không cho ngủ chung. Và đồng thời ngủ chung, nhiều khi ngủ một mình mình lỡ nó có hở hang, có gì đó thì cũng không ai thấy. Còn ngủ chung với người này thì khi mình lỡ mình vô tình xắp xếp y áo của mình á, người ta thấy hoặc là nước miếng mình chảy ra hay hoặc là gèn cháo hay hoặc là cái gì đó làm bất tịnh thì người ta thấy không có oai nghi của một người tu sĩ người ta chê. Nhưng ở đây không phải là chính chỗ đó mà chính chỗ mà hai người mà ở chung, sợ đồng tính luyến ái, sợ có cái tình cảm qua lại, giữa nam với nữ cũng như nam và nam, nữ với nữ, nó cũng sinh ra cái tình cảm bậy bạ không tốt. Đó là đức Phật cấm cho chúng ta không có được ngủ chung là vậy.

Sau đó vì La Hầu La chưa thọ đại giới nên các thầy Tỳ Kheo đuổi ra ngoài nhà tắm, cầu xí. Đức Phật biết mà vẫn nói các thầy Tỳ Kheo không có lòng từ nên mới đuổi con nít như thế. Đã là con Phật mà không bảo vệ được, ý như của Phật từ nay về sau cho phép Tỳ Kheo cùng với người chưa thọ Đại giới ngủ đêm, đến đêm thứ ba, khi mà mặt trời mọc thì phải đi tránh không có được mà ở lại đêm thứ tư. Hoặc tự mình hoặc bảo người thọ đại giới đi không được ở lại.

Thì Thầy thấy chế cái giới này Thầy thấy nó không có đúng. Nhiều khi một vị Tỳ Kheo đó mà ngủ chung với một chú Sa Di nhỏ đó, tự nhiên cái tình cha con nó thực hiện qua cái tình cảm đó. Nó khó lắm chứ không phải dễ đâu. Nó thấy rồi từ đó nó thương cái chú đó. Nó không có xa lìa, vì vậy mà cứ quấn quýt như vậy là làm sao mà ly dục – ly ác pháp được. Cho nên ở đây nhiều khi cái duyên nó nhỏ mà nó lại trở thành lớn, mà trở thành lớn là nó cản con đường tu tập không giải thoát được. Cho nên ở đây thật sự ra thì cái thất của La Hầu La, mặc dù là một Sa Di, vẫn có một cái thất riêng của nó ở, mà Tỳ Kheo không được đến đó quyền đuổi cái chú Sa Di đó. Còn mình ỷ mình Tỳ Kheo mình đến mình đuổi người ta thì cái đó là Phật chế cái giới cấm, các vị Tỳ Kheo dù sao đi nữa mình cũng là con người mà chú Sa Di cũng là một con người mà chú Sa Di là một cái mầm non tương lai của Phật Giáo, của Giáo Đoàn, của Tăng Già sau này thì không lý nào một vị Tỳ Kheo lại đuổi một cái chú này. Mình không có nhà thì mình ngủ rừng, ngủ bụi. Mình lớn rồi, đuổi một chú nhỏ mà đi ra khỏi cái nhà để cho mình ngủ có phải là phàm phu không? Nó đặt ra như vậy chúng ta thấy ở đây rõ ràng câu chuyện như vậy rõ ràng câu chuyện như vậy các vị Tỳ Kheo này toàn là thứ phàm phu, chưa phải là những cái bậc mà tu giải thoát đâu. Những cái bậc tu giải thoát người ta phải nhìn thấy, người ta phải có trí tuệ chứ. Đặt giới luật mà không thấy cái chỗ, nêu lên những cái câu chuyện quá là tầm thường, quá là phàm phu tục tử. Cho nên đối với Thầy, mà những cái sai này, Thầy đập xuống sạch.

Giới cùng với người chưa thọ Cụ Túc - giới tụng kinh. Vì sao Phật kiết giới này. Duyên khi Phật cùng ở tại thành Khoáng Dã, Lục Quần Tỳ Kheo cùng với trưởng giả, cùng đọc lời của Phật - tức là tụng kinh - tại giảng đường. Như Bà La Môn đọc sách, không khác, làm loạn tâm các vị ngồi thiền ngồi ở gần một bên. Đức Phật nhân đó mà kiết giới.

Ở đây chúng ta thấy cái sai thứ nhất là rất rõ ràng. Qua cái bài này, chúng ta thấy ở thời đức Phật, Thầy thấy nó không có kinh điển, nghĩa là đức Phật dạy tu thôi chứ không có chép, không có ghi không có chép gì hết. Do đó làm sao mà có những cái bản kinh mà cái Lục Quần Tỳ Kheo này ngồi mới tụng kinh với các trưởng giả mà làm động người ta tu thiền. Hầu hết là Thầy đọc lại trong kinh sách của Phật đó. Các vị Thánh Tăng, Thánh Ni thường thường là người ta sống, người ta đi kinh hành, rồi người ta ngồi thiền người ta đặt niệm trước mặt người ta phá những cái tham ưu ở đời, ở trong thân tâm của mình. Chứ người ta đâu có mà tụng niệm. Thế mà ở đây lại đem cái tụng niệm tức là cái người mà viết giới luật này là phải là trong cái đời của chúng ta. Nghĩa là trong cái thời của chúng ta, có kinh sách, có sự tụng niệm rồi mới viết ra. Họ lầm tưởng rằng trong thời đức Phật là luôn luôn có sự tụng niệm. Theo Thầy biết rằng, trong thời đức Phật không có tụng niệm. Cho nên bốn cái chỗ Niệm, bốn cái chỗ mà Phật gọi là Niệm, tức là Tứ Niệm Xứ, lấy cái thân mà niệm Phật, thì đâu có phải là Ứng Cúng Chánh Biến, Tri Minh Hạnh Túc, Thiện Thể Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ,  Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đâu có đọc được như vậy. Lấy cái thân, làm sao cái thân mà đọc cái chỗ được, lấy cái miệng mà đọc, lấy cái ý mà đọc thì có thể được. Nhưng Phật đâu có nói là cái ý niệm Phật, mà cái miệng niệm Phật đâu. Mà Phật nói Thân, Thọ, Tâm Pháp niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Như vậy là chúng ta mới thấy tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì chúng ta mới thấy rõ rằng Phật dạy chúng ta không có miệng niệm, không phải là ý niệm, mà là Thân niệm, mà là Tâm niệm, mà là Pháp niệm, mà là Thọ niệm. Đó là bốn cái chỗ để mà chúng ta niệm Phật Pháp Tăng. Như vậy, mới đúng cái đường lối của Đạo Phật chứ. Còn đằng này chúng ta dạy tầm bậy, mà giờ tụng kinh là bằng miệng thì cái đó còn sai nữa. Mà kinh không có lấy gì tụng? Không phải là đặt giới tầm bậy sao? Đặt giới trong cái thời của chúng ta rồi. Ở đây bây giờ có Kinh rồi, bây giờ đặt như vậy là đúng, chứ còn thời đức Phật đâu có cái chuyện đó, cho nên đến cuối cùng ông Ca Diếp mới kết tập Kinh mới có Kinh, lấy cái Kinh gì đọc đây, không lẽ lấy kinh Vệ-Đà mà đọc tụng sao? Nên chúng ta phải hiểu được cái chỗ sai, sai ở trong cái dòng lịch sử mà chúng ta đã biết được cái điều này là do chúng ta đọc lại những Kinh Nguyên Thủy mà chúng ta đã thấy rất rõ.

Giới, đến người chưa thọ Cụ Túc nói tội thô. Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật. Có Tỳ Kheo Hàng – Ma - Na - Đõa ngồi nơi hàng dưới. Lục Quần nói với Bạch Y, tức là nói với các cư sĩ, là các vị ấy phạm tội thô ác. Tỳ Kheo kia và các vị khác nghe đều xấu hổ. Đức Phật quở Lục Quần Tỳ Kheo rồi kiết giới này. Khi ấy có Tỳ Kheo không biết mắc tội thô ác, sau mới biết tác pháp xám Ba Dật Đề. Phật dạy, không biết thì không phạm. Tôn Giả Xá Lợi Phất được trong Tăng sai đến, Vua và nhân dân nói tội của Đề Bà Đạt Đa nghe Phật kiết giới này như thế, tâm sinh sợ sệt. Phật dạy, Tăng sai thì không phạm. Do đó ngài kiết giới lại thêm câu - trừ Tăng Yết Ma cho nói tội thô ác là Ba-La-Di và Tăng Tàn. Nghĩa là cái người mà được Phật sai, hay Tăng sai mà đến kiết cái tội lỗi của người ta, thì cái người đó mới chỉ cái người đó tội lỗi. Còn cái người màkhông được Phật nói, thì không có được chỉ lỗi.

Đây cũng là một cái điều kiện của giới luật đặt ra để mà bịt miệng thiên hạ đây. Thầy thấy vần đề này là vấn đề của người sau hay đặt ra. Bây giờ một cái người đó, bởi vì Lục Quần Tỳ Kheo mà nói cái vị Tỳ Kheo Ma - Na này là phạm cái tội này, phạm tội kia là nói xấu người khác. Là tại sao vậy? Tại vì có sự hiềm khích hoặc là có sự ganh tị qua cái phạm hạnh của người ta mới nói như vậy. Cho nên khi Phật mà xét thì cái vị đó không có tội, còn nếu mà cái vị đó có tội thì người ta nói để cho cái người đó sửa chứ không phải đem nói cho cái bạch y người ta biết để người ta cười cái vị đó.

Chẳng hạn bây giờ trong Chúng của chúng ta có một cái người mà có phạm một cái lỗi là tại vì sống độc cư không được, nói chuyện mà bây giờ quý vị đem ra nói cho các vị cư sĩ ở ngoài biết rằng cái thầy đó đó ở trong Tu viện không có giữ gìn cái giới luật nghiêm chỉnh được như vậy thì cái đó là cái xấu của quý thầy. Còn trái lại quý thầy nói Thầy phạm cái giới đó, thầy hay nói chuyện như vậy thì thầy phương trượng sẽ buồn lắm. Thầy sẽ không có dạy quý thầy tu đâu. Cho nên quý thầy hãy cố gắng mà giữ đó là cái lời của mình nói cái lỗi của người đó để cho người đó sửa thì cái đó là tốt.  Còn mình đem mình nói cho người khác cười chê cái vị đó, mà vị đó người ta không có làm cái điều đó, người ta không có lỗi điều đó thì cái đó là cái sai của mình, là cái không tốt. Vậy mà cái bọn Lục Quần Tỳ Kheo này luôn luôn có hiện tiền ở trong các bài Kinh giới hết. Cho nên cứ lấy mấy cái ông này ra mà không có đuổi tống cổ. Đã một cái lời nói xấu người ta như vậy rồi, Phật đã biết rồi thì sao lại không  tống cổ sáu cái vị Tỳ Kheo này ra khỏi cái Giáo đoàn. Cứ để cho mà chế giới, chế giới làm cái gì? Có cái gì đâu mà chế giới. Đó thì như vậy chúng ta thấy rằng cái giới thứ bảy này mà đem cái câu chuyện này ra Thầy thấy là bịa đặt ra mà thôi chứ không phải đúng đâu. Nhưng mà cái đúng là người ta nói xấu mình để cho mình sửa cái đó là cái tốt để cho mình sửa chứ không phải bịt miệng người ta bằng cách này. Đợi Tăng sai, hoặc là đợi Phật sai đi thì mới nói tội người ta còn không có thì không được nói tội người ta. Thì cái đó là bít miệng, để cho người ta phạm tội hoài.

Tám, giới đến người chưa thọ đại giới nói Pháp tự chứng.Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức Phật ở bên sông Nhi - Hầu tập hợp các Tỳ Kheo trong vườn Bà - Câu lại để quở trách rồi kiết giới này trường hợp nào mà điều bốn của Ba – La - Di là phạm tội khí, thì ở đây phạm tội đọa, trường hợp nào mà điều bốn Ba – La - Di, Thôi – Lăng - Giá hoặc là Độc -Tác La thì ở đây phạm tội Độc-Tác-La. Vì đây là hành vi thuộc ngữ nghiệp, nên cần hội đủ năm yếu tố như điều một Ba – La - Di Đề và điều bốn Ba – La - Di mới thành tội. Có năm điều:

- Người nói Tỳ Kheo chưa mất bản thể.

- Người khởi tâm vọng cố nói xấu người.

- Ba, nói rõ ràng, và thân khẩu hiện tướng nói dối rõ ràng.

- Bốn, người nghe lãnh hội.

- Năm, người đối tượng chứ không phải có một mình.

Nghĩa là mình nói xấu cái người đó có người chứng, có người hẳn hoi, đàng hoàng thì mình không có tội. Còn nếu mà không có cái người chứng, mình nói xấu mà không có ai thấy cái người đó xấu thật đó thì mình sẽ đắc tội mà thuộc cái tội Ba – La - Di chứ không phải là tội sám hối, tội mà Tăng Tàn. Đó là cái chỗ này nói thêm để chúng ta biết rằng cái giới mà nói xấu người thì cái giới đó nó có phạm tội vào cái tội vọng ngữ.

Chín, giới cùng phụ nữ nói Pháp quá lời. Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở vườn Cấp – Cô - Độc, Ca – Lu – Đà - Di - cũng ông Ca – Lu – Đà - Di này nữa, có mấy ông à. Chắc có lẽ là cái đám Lục Quần Tỳ Kheo này chứ không ai mà vô đây hết, tên qua tên lại thì cũng có mấy ông này à – đến nhà trưởng lão khất thực cùng với đàn bà nói Pháp giọng nhỏ, giọng to. Bà mẹ chồng thấy vậy chê hiềm. Vì vợ của người ta, dâu của người ta mà mình lại mình nói chuyện, ông thầy gì mà nói chuyện nhỏ nhỏ với dâu người ta. Thì bà mẹ chồng bà thấy bà coi rẻ cái ông thầy quá. Cho nên, đến trình cho Phật hay, và Phật nhân đó mà kiết giới này. Sau có người nữ mời thuyết Pháp, các Tỳ Kheo đều cẩn thận sợ phạm giới cho nên không dám thuyết Pháp. Bắt đầu từ cái ông này phạm cái lỗi, các thầy nghe cho rõ này: Cái ông này ông nói to, nói nhỏ với bà ta không biết tình tứ gì đó chứ đâu phải thuyết Pháp, thế rồi cái bà mẹ chồng thấy vậy đó mới chê ông thầy, mới đến nói với Phật. Phật mới cấm từ đây về sau các thầy không có được thuyết Pháp. Về hỏi ông thầy này, ông Ca – Lu – Đà - Di ông nói ông thuyết Pháp cho cái bà đó nghe chứ ông đâu có nói chuyện, nói nhỏ hoặc là nói tình, nói tứ với bà ta đâu, tại bà mẹ chồng này nghe không được cho nên bà đến bà báo cáo với Phật đó. Chứ còn con thì con đâu có nói nhỏ nói tình tứ với bà ta, chỉ dạy cho bà ta pháp để bà ta tu thôi. Cái ông tu sĩ này ông về nói với Phật vậy. Cho nên Phật mới cấm thôi từ đây về sau thì các thầy đừng có nói chuyện với đàn bà nữa. Không có được thuyết Pháp cho mấy bà đó nghe. Do đó sau này, có một cái người cư sĩ nữ họ mời các thầy thuyết Pháp, nghĩa là đến thuyết Pháp có chỗ ngồi hoàn toàn thuyết Pháp. Nhưng các thầy Tỳ Kheo sợ Phật chế cái giới này cấm không cho được mình thuyết Pháp. Do đó các thầy không có thuyết Pháp được, vì vậy mà có nhiều người về trình với Phật. Và chính cái bà mà  nữ cư sĩ đó họ đến họ trình với Phật, con mời quý thầy đến thuyết Pháp cho gia đình con nghe, cho mọi người nghe để người ta theo Phật người ta tu tại sao mà Thế Tôn lại cấm không có cho các Tỳ Kheo theo thuyết Pháp. Cho nên đức Phật nghe nói vậy mới cho phép người ta nói năm lời, sáu lời thôi. Thuyết Pháp mà có năm lời sáu lời thì thuyết Pháp cái thứ gì? Phật mà nó dám đặt trong này nó nói như vậy đó! Và kiết giới này thêm quá năm sáu lời thì cũng được, mà các thầy lại có tâm cẩn thận, sợ do không có nam tử nên không dám nói Pháp cùng nữ nhân. Đức Phật dạy trừ có tri nam tử cho phép nói quá năm sáu lời, lại kiết giới này thêm. Trừ hữu tri nam tử, khi ấy có các nữ nhân thỉnh thọ Năm giới, Tám giới hoặc là tán thán Đạo nói Mười Thiện Pháp, cầu giải thoát giải thích nghĩa. Vì không có tri nam tử, các thầy Tỳ Kheo cũng sợ cẩn thận không có dám nói nữa. Phật dạy “Không có tri nam tử, đều không vì người nữ mà trao giới cho đến giải nghĩa vân..vân.. Nhân đó Phật kiết giới này.”

Đó thì quý thầy thấy, cái vấn đề mà ông Phật làm như là, Thầy nói thật sự ông Phật mà chế giới này Thầy thấy qua cái giới thầy thấy ông Phật quá là đần độn. Chế cái giới mà cứ chế mò, chế mò chế mòlàm như cái người không biết vậy. Chế thì phải chế như thế nào, đâu nó sát thực đó. Chế mà cứ lần lần, lần lần. Thầy thấy khi mà một cái sự kiện mà xảy ra thì chúng ta biết rằng cái chỗ mà cái ông Thầy này họ như thế nào mà bị hiềm chê đó chứ không phải là thuyết Pháp. Bởi vì thuyết Pháp đâu có phải có một cái bà đó mà ngồi nghe. Bà mời mình đi thuyết Pháp tức là bà phải đâu có ngồi chỗ kín, chỗ đáo mà phải lên Pháp Tọa đàng hoàng thì trong gia đình của bà đâu có phải là của riêng bà mà phải của bà mẹ chồng nữa chứ đâu phải riêng. Mình là người tu sĩ giới Hạnh đàng hoàng, ý tứ đàng hoàng tức là mình tu được Chánh Niệm Tỉnh Thức rồi, luôn luôn lúc nào mình cũng phải có ý tứ hết. Mình nhận người ta thuyết Pháp, thì sau khi mà ngồi nói cái gì đó thì đâu phải ngồi chỗ lén, chỗ lút mà phải hoàn toàn chứ, không lẽ giờ rước Thầy đến thuyết Pháp mà giờ đem vô trong buồng rồi bà phụ nữ đó ngồi bên Thầy, Thầy nói pháp cho bà ta nghe riêng như vậy sao? Đó có lẽ là truyền Tâm ấn đó chứ đâu có phải là nói Pháp. Thầy nói thật sự đó, cái đó là mấy cái ông truyền Tâm ấn đó. Họ truyền bà ta đó, mai mốt truyền cho bà một bụng đó, chứ đừng có nói truyền truyền. Cái thứ đó là cái thứ phá giới. Cho nên ở đây người ta rước mình đến thuyết Pháp, thì tức là đường đường mình ngồi trên giảng đường chứ đâu phải, giờ nhà người ta cũng phải có cái phòng khách đàng hoàng, gia đình người ta phải tập hợp nam nữ, chứ đâu phải mình thuyết Pháp cho một người nghe. Cái chuyện làm tầm bậy. Bởi vậy cho nên ở đây đặt giới, đặt những cái điều kiện mà ông Phật Thầy nói sao mà ông không có trí tuệ chỗ nào, coi như ông Phật là cái người ngu si à? Bởi vì ông Phật ổng chế giới ra bây giờ đó mình đặt cái giới này ra mình thuyết Pháp cho phụ nữ thì khi được mời đến cái Pháp Tọa như thế nào, hẳn hoi đàng hoàng thì quý thầy chấp nhận còn nếu không thì nhất định là không thuyết Pháp. Người ta dụ mình, mời mình thuyết Pháp mà đến cái phòng ngủ của người ta bảo mình nói Pháp chắc chắn là cái điều kiện đó mưu đồ rồi, mưu đồ của bà này như thế nào đối với mình rồi. Thì như vậy ngay đó mình ôm bát mình đi ra chứ ai ở đó, ngồi đó. Thì tức là cái người tu sĩ chúng ta ý tứ đó, vô cái phòng mà thấy người ta dọn sẵn cho mình cái Pháp Đàn để cho mình thuyết Pháp thì mình còn ở, màvô đó mà dẫn mình đi qua cái hành lang ngõ ngách màvô cái buồng của bà ta kể như là mình rút lui rồi. Thôi thôi bà đừng có dẫn tôi kiểu này, bà chôn hết Phật Pháp của chúng tôi xuống hết. Mình nói ngay thẳng mặt chứ mình vị tình gì, bộ bà ta không cho cơm thì người khác cho cơm chứ đâu phải có mình bà ta mình mới no bụng sao. Bởi vì ham y áo cho đẹp, cho nên mới theo mấy phụ nữ đó mà làm cái chuyện tầm bậy.

Đó thì đọc giới như vậy Thầy xả hết á. Cho nên Thầy dạy giới không phải là dạy giới theo kiểu là mấy ông Giới sư mà giảng sao cũng theo khuôn khổ đó hết. Nghe sao cũng hay vậy hết chứ không có dám nói ra cái sai cái đúng. Cái này là cái sai mà, đem ông Phật trí tuệ như vậy, ba Đại Thần Lực như vậy mà kiết giới như vậy thì thử hỏi ông Phật là cái gì? Có phải đem là Phật trở thành một cái, cho nên Đại Thừa nó nói phải là Ông Phật Tiểu Thừa là phải, đúng đó. Các bậc A La Hán là Tiểu Thừa đó phải, cho nên tiêu nha bại chủng. Cái kiểu mà chế giới này chẳng phải là tiêu nha bại chủng sao? Chế giới riết rồi bao nhiêu tu sĩ phạm giới hết, không phải là tiêu nha bại chủng sao?

Mười, giới đào đất. Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại thành Khoáng - Dã. Lục Quần Tỳ Kheo tu bổ nhà Giảng của Phật, tự tay đào đất xung quanh. Trưởng giả chê hiềm nói, Thích Tử mà còn đoạn mạng căn của mình, còn đoạn mạng căn của chúng sanh - tức là đào đất tức là làm giết hại chúng sanh chứ gì? Đức Phật nhân đó mà kiết giới. Các vị ấy lại sai người nói đào chỗ này chỗ kia, cư sĩ cũng chê hiềm. Đức Phật lại kiết giới này lại nữa. Đó như vậy Thầy thấy đức Phật cấm là chúng ta chỉ lấy một cái nghề là chúng ta đi xin ăn. Nhà rách thì chúng ta xin người khác cất chứ chúng ta không có làm. Đó là cái giới luật của Phật như vậy đó. Bởi vì chúng ta làm, là chúng ta làm theo ý muốn của mình cho nên nó không có đúng là cái người tu giải thoát. Cho nên ở chỗ này mà đào đất, thì ở trong cái giới mà Thầy giới thiệu đầu vô giới bổn á thì các Thầy thấy. Cái giới mà Sa Di, nó đào đất được mà cái giới của Tỳ Kheo thì không đào đất được. Mấy ông này là ông lớn, là mấy ông cha không có đào đất, để mấy ông con đào đất. Cho nên bắt mấy chú Sa Di đào đất. Chứ sự thật ra mấy chú Sa Di vẫn không đào đất. Giới luật của Phật cấm, nghĩa là đi ăn xin thôi chứ không đào đất. Còn mấy ông đặt giới ra bắt mấy chú Sa Di này lao tác thấy mồ. Làm chùa cũng bắt mấy ông Sa Di này đẩy xe đất, đẩy, chùa nào đến cũng bắt xây cất, xây cất đẩy mấy ông gần chết luôn.

Thầy nói thật sự hồi ông thân Thầy cũng đi tu, mà riết rồi, vô chùa riết rồi bắt đầu về cưới vợ thôi. Tới chùa nào cũng bắt đẩy đất đắp nền, xây nhà, xây chùa. Trời ơi! Thôi thôi chết, ông già ông chết! Sau Thầy đi tu, ông nói không có được con ơi, thôi đừng đừng đừng! Đừng có tu! Thôi bây giờ ở chùa nhà, Thầy dạy sao thì con tu vậy thôi, chứ đừng có đi mấy cái chùa, đi đâu họ cũng bắt mình xây cất hết, lấy cái sức của mình ra làm riết, điêu đứng hết, không có học hành cái thứ gì được đâu. Không có tu hành cái thứ gì được đâu. Tới đâu nó cũng xây cất hết à. Nó làm cái này ít bữa rồi nó làm cái khác. Nó chưa có đẹp mắt, nó làm hoài. Mấy ông Hòa Thượng kỳ cục lắm. Chính ông thân Thầy hồi đó nói. Cho nên không bao giờ muốn cho Thầy đi tu hết. Vì vậy mà Thầy đã từng qua nhiều cái kinh nghiệm của ông thân của Thầy để lại, nhắc Thầy tới lui dữ lắm chứ không phải không. Nhưng mà Thầy cái duyên tu hành cho nên từ đó Thầy đến Hòa Thượng, Thầy thấy giới luật không nghiêm chỉnh là Thầy bỏ đi. Ba tháng là Thầy đi. Thầy nói đi đi, người nào giữ được nghiêm chỉnh là ở ..., làm được nền các cái thất trời ơi gian khổ. Bởi vì núi nó dốc dốc là là vậy này, mà muốn làm cho nó bằng được cái mặt mà cất cái thất đâu phải chuyện dễ, cực lắm.

Đó, Thầy nói, mà đúng vậy, Thầy đến cái chùa nào cũng cứ là xây cất không. Cứ ít bữa là Thầy thấy đổ ra cái này cất, đổ ra cái kia cất. Mà tiền của Phật tử đâu mà cứ đổ ra cho họ cất Thầy không biết nữa. Báo cho mấy ông Tăng cực gần chết. Ít bữa xây hồ nước, ít bữa thì xây cái này, ít bữa xây cái kia, tùm lum hết. Họ ở riết rồi Thầy thấy như cái Dinh Độc Lập nữa. Đó là cái vấn đề mà cái giới đào đất. Thật sự ra đức Phật không có dạy chúng ta đào đất. Đi mà còn không đạp lên cỏ mà chết nữa, làm sao mà đào đất được.

Giới mười một -  giới phá hoại chỗ của quỷ thần. Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật cũng ở tại thành Khoáng - Dã. Có Tỳ Kheo tu bổ phòng xá, cố ý tự mình chặt cây. Đức Phật vì đó mà kiết giới này. Nếu có đại sự, chẳng phải cố ý phá hoại thì không phạm. Nghĩa là mình chặt cây mà không phạm. Thật sự ra cái cây cũng không nên chặt nữa. Nói chung là giới của Phật là không có làm cái gì, động cái gì hết. Nghĩa là chuyên môn ăn no rồi tu tập thôi chứ không có gì. Đi xin người ta cho dở ăn dở, cho ngon ăn ngon, về đó cứ tu tập mà đi Kinh hành rồi tập Chánh Niệm Tỉnh Thức, tập Định Vô Lậu, Định Hiện Tại An Lạc Trú, Định Sáng Suốt. Luôn liên tục dùng hơi thở, định niệm hơi thở ra, hơi thở vô. Hoàn toàn là chúng ta nỗ lực tu hành chứ không có một thời giờ nào mà rảnh rang đi đào đất nữa.

Cho nên Thầy thấy quý thầy mà vác cuốc đi đào đất, Thầy biết quý thầy rảnh lắm. Còn thích, quý thầy làm cái này làm cái kia Thầy biết là quý thầy còn rảnh lắm. Chứ còn người ta có thời giờ đâu mà rảnh. Thầy cho bao nhiêu pháp rồi, đặt ra một ngày một đêm là luôn liên tục. Đâu phải thí dụ như quý thầy tu có cái hơi thở không thì quý thầy sẽ bị nhức đầu, quý thầy sẽ khó khăn. Nhưng mà quý thầy tu hơi thở chỉ một ngày một đêm có một lần, rồi tu những Định khác, chia nó ra từng phần, từng phần các thầy tu. Các thầy thấy thoải mái, dễ chịu giải thoát ngay liền trong cái thời gian tu. Không có khổ sở không có gì hết. Mà tuần tự cái tâm của quý thầy nó ly dục – ly ác pháp ra thấy một cách rất rõ ràng. Cơ thể không có bịnh đau không có gì hết, không có buồn bã, không có gì. Hằng ngày, mình có cái Pháp cho nên mình sống cô đơn, sống trầm lặng rất là thích thú. Còn trái lại, quý thầy cứ ngồi không đó, mà quý thầy buồn bã rồi quý thầy sanh ra chuyện làm cái này, làm cái kia rồi đi trồng rau, trồng cải đủ thứ đó. Kiểu đó là cái kiểu nó đi lạc đường rồi đó. Thầy thấy quý thầy mà làm cái sai là Thầy biết nó đi lạc đường, biết là quý thầy tu có đúng hay sai là biết là cái chỗ thấy cái việc của quý thầy mà biết.

Giới mười hai, giới nói lời khác làm não người.Vì sao Phật kiết giới này? Bấy giờ Phật ở nước Câu Diệm Di, Triển - Đà phạm tội, các thầy Tỳ Kheo hỏi: Thầy có tự biết phạm tội hay không? Triển - Đà nói quanh: “Thầy nói với ai? Nói việc gì? Luận bàn vấn đề gì? Vì tôi nói hay là vì ai mà nói? Ai phạm tội? Tôi do đâu mà sanh? Tôi không thấy có tội”. Nói theo kiểu mà Tổ Sư Thiền đó. Cái giọng của ông thầy này là nói theo kiểu Tổ Sư Thiền đó, nghĩa là ông nói kê ra một cái loạt này, đặt thành một câu hỏi thì ông thấy như là một ông Phật, Tánh của ông hoàn toàn ông không có làm cái gì có tội hết. Đó là cái lối mà cái giọng điệu của các Tổ Sư. “Tội do đâu mà sanh? Tôi không thấy có tội”. Bởi vì cái câu mà trong cái Thiền Tông đó: “Tánh tội vốn không do Tâm tạo. Tâm đã diệt rồi tội sạch không”. Tâm ông diệt hết rồi cho nên giờ tôi đâu thấy có tội gì đâu. Mấy ông nói tội, tội gì đâu, mấy ông nói đi. Làm cho mấy ông thầy kia đâu có nói được. Các thầy Tỳ Kheo mới bạch Phật. Phật bảo Tăng vì các dư ngữ, bạch Yết Ma đại đức xin lắng nghe. Triển Đà Tỳ Kheo này phạm tội. Các Thầy Tỳ Kheo hỏi, tôi không thấy tội, nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận sẽ gọi Tỳ Kheo Triển Đà là người tác dư ngữ, nghĩa là nói lý luận đó che đậy cái tội lỗi của mình đó. Đây là cái lời tác bạch. Bạch rồi kiết giới: Nếu Tỳ Kheo nói quanh phạm tội Ba - Dật - Đề, Tăng đã chế cấm không được nói quanh, nghĩa là cái lối mà lý luận quanh, kêu là đức Phật nói cái ba mươi hai cái lập luận của ngoại đạo đó, nó có một cái giới ngoại đạo mà nói trườn uốn như con lươn đó, thì cái lối này là cái lối mà của Thiền Tông á, nói nó kê, nó tội, nó phạm giới cái bắt đầu nó trườn qua trườn lại, nó uốn qua uốn lại tránh né cái tội nó bằng cách này, bằng cách khác đó. Đó là cái lập luận của 62 lập luận của ngoại đạo trong cái thời đó. Thì ở đây chúng ta thấy cái vị Tỳ Kheo này cũng là cái kiểu đó. Mà tất cả mà chúng ta tiếp xúc các vị mà tu Thiền Đông Độ á, hầu như cái lối mà luận của họ theo cái miệng Tổ của họ dạy đó, thì cách thức của họ cũng trườn uốn như vậy. Họ phạm tội rõ ràng chứ, ăn phi thời đó, họ có thấy tội gì đâu. Họ ăn họ coi như họ không có ăn vậy. Đó là cái lối lý luận trườn uốn con lươn của họ.

Cho nên ở đây Thầy đứng ở trong góc độ của Phật Thầy đập mấy cái ông này hết. Mấy ông phạm tội là phạm tội, mấy ông chạy theo dục lạc, mấy ông nói không có tội. Mấy ông còn đắm nhiễm cái ăn, cái uống của mấy ông, mấy ông có một ngày được như chúng tôi không? Mấy ông đâu có làm được. Còn mấy ông nói hay, mấy ông có ngồi Thiền được như chúng tôi không? Mấy ông có nhập Định được như chúng tôi không? Những cái điều mấy ông nói là những cái điều mấy ông lách qua lách lại mà tránh né chứ không phải là cái điều mà mấy ông làm được. Sau Xiển Đề lại xúc não chúng Tăng, kêu đến không đến, không kêu lại đến, nên đứng dậy lại không đứng dậy, không nên đứng dậy lại đứng dậy, nên nói không nói, không nên nói lại nói. Đức Phật bảo chúng Tăng, tác Pháp xúc não, bạch Yết Ma, Đại Đức Tăng xin lắng nghe. Tỳ Kheo Triển Đà này xúc não chúng Tăng, kêu đến không đến, nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, chấp chế Tỳ Kheo Triển Đà tác xúc não. Đây là lời tác bạch hiệp hai, việc kết thành văn giới này.

Đó là những cái người mà hay lý luận trườn uốn như vậy đó. Thì những cái người này thì chúng ta mời họ ra khỏi cái Tu Viện cho rồi chứ không có để cho họ làm cái chuyện mà như vậy được. Theo Thầy thì cái giới đó là phải mời thôi, coi như là nó thuộc về Ba-La-Di đi cho rồi chứ còn không có tính cái gì nữa hết, đứt đầu cho mấy ông này luôn luôn đi, cho nó khỏi cái Tăng Đoàn của chúng ta. Để cho những người này họ muốn ra đời, họ muốn nói hay, nói dở gì với người ta, tranh luận với thiên hạ chứ còn ở đây chúng ta mệt với mấy ông này lắm.

Giới hiềm mắng người.Vì sao Phật chế giới này. Xưa Kia Phật ở tại núi Kỳ Xà Phật, bấy giờ, Ba – Ma – La -Tử vì chúng Tăng chia tọa cụ mời Tăng theo thứ tự đi thọ thỉnh, Từ Địa liền ở chỗ mắt thấy tai không nghe chê hiềm Đạp Bà Tử có ái, có sân, có sợ, có si. Các Tỳ Kheo bạch Phật kiết giới. Sau ở chỗ tai nghe mắt thấy có ái, Phật hiệp lại hai việc kết thành giới này. Nghĩa là cái ghét người khác rồi tìm cách mắng chửi người ta bằng cách này, bằng cách khác thì đức Phật kết tội cái người này trong cái tội để mà họ phải sám hối. Hoặc là cái tội đọa Địa Ngục và khi họ mắng người khác thì đương nhiên là Phật kết cái tội họ là phải đọa Địa Ngục. Và đọa Địa Ngục như vậy đó không có nghĩa là những người đó mà còn ở trong Tăng Đoàn. Cho nên cái tội này theo Thầy thiết nghĩ cũng khép vào cái tội mà đứt đầu của họ. Đuổi ra khỏi Tu Viện tận sức ra  cho rồi. Không có để mà vị tu sĩ mà hay nói xấu người ta, hiềm hận trong lòng cái rồi đặt điều nói xấu người ta. Do cái sự mà xích mích nào nhỏ thôi rồi để trong lòng đó rồi sau đó kiếm cách, kiếm cớ nói xấu người khác.

Hầu như ở đây Thầy cũng biết được những cái điều đó rất lớn, khi mà có chuyện gì mà không có thuận nhau rồi bắt đầu đó, thì thầy này đem cái chuyện không có, đặt điều nói xấu ông thầy khác. Thậm chí như còn đặt điều nói xấu thầy của mình là người dạy mình, là người thầy của mình đã đứng ra để mà xuất gia cho mình nữa. Mà mình còn dám nói xấu. Thì những người mà học trò như vậy, những người mà tu sĩ như vậy thì còn để họ ở trong cái Tu Viện chúng ta làm gì nữa. Những người mà chỉ hiềm hận trong lòng của mình rồi đặt điều nói xấu thì cái giới luật đó chế ra như vậy là đuổi họ đi chứ không có nói mà còn đọa Địa Ngục, còn nói cho họ sợ làm gì. Mấy cái người đó họ đọa bao nhiêu Địa Ngục họ có sợ đâu.

Giới trải tọa cụ của Tăng không tự cất.Vì sao Phật kiết giới này. Khi đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc bấy giờ có hai trưởng giả mời Thập Thất Quần Tỳ Kheo lấy tọa cụ của Tăng trải nơi kinh Thành, không dọn cất bỏ đi. Bị đất bụi, trùng, chim cắn hư, ô uế không sạch. Các Tỳ Kheo bạch Phật, nhân đó Phật mới chế giới này. Nghĩa là lấy cái tọa cụ là trải mà ngồi thiền đó, rồi chắc có lẽ vô kinh thành, vô cái vườn Ngự, cái vườn bông, vườn gì của nhà Vua đó rồi trải trong đó ngồi thiền ở trong đó. Rồi tới chừng đi, mượn của người ta trải rồi bỏ đi. Do đó thì không có đem về. Vì vậy mà đức Phật chế cái giới này để cấm không có được trải tọa cụ rồi không tự cất mà bỏ. Thì cũng như bây giờ, mình có cái Thiền Đường đây, rồi bắt đầu lấy một cái đống tọa cụ mà mỗi người ngồi một cái trên cái tọa cụ để ngồi thiền. Sau khi ngồi rồi đó, thì để y nguyên chứ không có dẹp. Cho nên hầu hết là Thầy thấy có số quý Thầy rất là lười biếng. Khi mà về Trúc Lâm Thầy thấy cũng vậy. Vô thăm Thầy Hòa Thượng dẫn vô, Thầy thấy sao bồ đoàn còn để dài dài đó hết mà không dẹp. Có phải là lười biếng không? Khi ngồi thì để đó mà khi không ngồi thì cũng để luôn đó. Như vậy, nó làm cho cái khi người khách người ta đến người ta thấy mấy cái ông thầy này lười biếng thiệt. Cái bồ đoàn của mình, cái tọa cụ của mình ngồi mà còn để y nguyên đó à. Do đó, hai ba chục cái để hàng hàng đó, theo Thầy nghĩ rằng họ lười biếng họ để lát vô ngồi nữa. Sự thật ra khi mình ngồi rồi thì mình chỉ còn có cái đó mình xách về Thất của mình đi. Sau khi tới đó thì mình lại để lên mình ngồi thì không phải tiện sao? Cái này là sợ mất công, ngay cả cái đầu tiên đó, mà ý tứ như vậy mà đức Phật cũng đã thấy cái điều này cho nên mới chế cái giới này ra. Biết rằng cái người cư sĩ chúng ta phải tập siêng năng chứ. Đâu có lý nào mà lười biếng đến mức độ đó. Cho nên Thầy nhìn vô cái chỗ đó Thầy biết rằng cái bọn này là cái bọn lười biếng. Trong thiền đường của Thầy mà ngồi tu mà để tọa cụ mà ngồi như vậy thì Thầy quét ra, Thầy cho quý Thầy ra chứ đừng có mà nói chuyện lười biếng được.

Ở đây một chút ý phải hẳn hòi, chớ mà làm sai là Thầy thấy là, tập siêng năng gọi là Chánh Tinh Tấn, tập Tinh Tấn chứ đâu phải là tập lười biếng. Ở đây mà bỏ qua một cái là Thầy thấy rồi, đó là lười biếng chứ không phải là cái siêng năng. Từ cái tập siêng năng đó nó mới có trở thành cái Chánh Tinh Tấn của chúng ta, nó mới trở thành cái Tấn Lực. Mà trong khi tu tập cái chuyện ngồi thiền nó là đơn giản, còn cái tâm hung dữ, tâm hung ác của chúng ta này mà không siêng năng nó mà loại trừ nó ra thì làm sao cho hết. Cho nên muốn mà siêng năng, chúng ta phải tập hết sức cái siêng năng đó chứ. Từ cái chuyện nhỏ chúng ta phải siêng năng cho đến cái chuyện lớn chúng ta mới siêng năng được, còn cái chuyện nhỏ chúng ta lười biếng được thì cái chuyện lớn nó cũng sẽ lười biếng theo. Cho nên cái Chánh Tinh Tấn không phải là cái chuyện dễ cho một cái người mà mới tu tập mà phải giảng cho người ta hiểu từng cái chút một, phải siêng năng từng cái chút , như vậy là sau này người ta mới tích tụ được từ những cái siêng năng đó trở thành chánh Tinh Tấn. Chưa dạy tới mà Bát Chánh Đạo, chứ dạy tới Bát Chánh Đạo thì Thầy sẽ dạy Chánh Tinh Tấn.như thế nào để quý thầy biết được cái sự siêng năng cùa quý thầy từng chút chứ.

Giới trong phần Tăng trải tọa cụ không cất.Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, có khách Tỳ Kheo nói với vị cụ trú rằng, tôi xin trải tọa cụ ở Tăng tại bên phòng của Tăng để ngủ. Sau đó không nói với chủ, bèn bỏ đi. Tọa cụ bị biến sắc, hư. Phật nhân đó mà kiết giới này. Đó cũng là một cái một cái vị Tăng mà lười biếng nhất đó. Hành động đó là biết là hành động thiếu Tinh Tấn rồi đó. Ở đây chế cái giới để mà cho họ siêng năng chứ không phải là gì hết.

Mười sáu, giới cưỡng đạp chỗ ngủ nghỉ.Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật cũng ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần cùng với Thập Thất Quần, trên đường đi tại nước Câu – Tác - La đến thôn không có trú xứ của Tỳ Kheo. Thật Thấp Quần nói với Lục Quần Tỳ Kheo:  Các Ngài là bề trên của chúng tôi nên tìm chỗ để nghỉ trước. Lục Quần trả lời: Các ông tự đi tìm chỗ cho mình chứ chúng tôi không tìm chỗ nghỉ làm gì. Khi ấy, Thập Thất Quần tìm chỗ để nghỉ rồi Lục Quần đến sau cưỡng bức trải tọa cụ chính giữa mà nằm. Phật do đó mà kiết giới. Mấy ông Lục Quần này là chơi cha đó, xúi cho mấy ông nhỏ nhỏ là Thập Thất Quần Tỳ Kheo này đi kiếm chỗ rồi vô đó mà cưỡng người ta để mà lấy cái chỗ ngủ. Đó là Phật chế giới là. Sao lại mà ở trong Tăng đoàn mà tu thành theo giới luật của Phật mà lại có những cái chuyện này. Thầy thấy nó quá phi lý mà người ta đặt ra như vậy. Một cái người mà tu theo Đạo Phật người ta phải có bốn cái Tâm Vô Lượng Từ Bi Hỷ Xả ở trong đó mà vô đầu là người ta đã luyện tập trau dồi cái người đó qua một cái hạnh...

BĂNG SỐ 40

Trước khi nghe băng Thầy giảng trong cái buổi sáng hôm qua thì các con nghe Thầy nói một vài vấn đề rất là quan trọng trong cái sự tu hành của Đạo Phật. Bởi vì cái quan trọng của Đạo Phật là vốn chúng ta khi bước chân vào Đạo Phật thì chúng ta phải chọn cái bậc Thầy của mình. Cái bậcThầy của mình là cái bậc Giới Hạnh, mà Giới Hạnh của cái người mà đầu tiên bước vào cái con đường tu tập theo Đạo Phật á là thọ Thập Giới Sa Di. Các quý thầy ai cũng biết thọ Thập Giới Sa Di hết chứ? Cho nên cái hình ảnh một vị Tăng mà ăn ngày một bữa là trong cái Thập Giới Sa Di nó đã có rồi. Mà hiện bây giờ thì hầu hết là quý vị mà theo tu hành theo Đạo Phật đó, thì cứ nhắm cái chùa nào mà có phật tử đông theo quy y á, chứ không nhắm cái ông thầy, xem coi ông thầy mình đức hạnh về cái ăn với cái ngủ của ông có xứng đáng chưa? Rồi về cách mà sống của ông như nhà cửa, chùa chiền của ông có sống đúng không. Bởi vì, năm cái giới của người Sa Di mà cái Giới Hạnh thì không có nằm ở trên giường cao rộng lớn, rồi không có ở trong những nhà cao rộng lớn nữa. Mà tất cả những cái đồ đạc cũng không có nữa. Đó là cái Hạnh của cái người Sa Di chứ chưa phải là người Tỳ Kheo đâu. Thế mà họ là bậc thầy của chúng ta, họ là bậc Tỳ Kheo rồi, thế mà họ không sống đúng cái Hạnh của người Sa Di á, thì đó là mười cái Giới đầu tiên cho cái nẻo, cái lộ trình mà cái người xuất gia bắt đầu.

Nghĩa là Thầy dạy cho các con khi mà chúng ta mà thọ Tam quy á, thọ ba cái Giới đầu tiên là Phật, Pháp, Tăng đó, là của người cư sĩ chứ không phải là người tu sĩ thọ cái đó đâu. Rồi thọ Ngũ giới cũng là người cư sĩ chứ không phải là người tu sĩ đâu, phải không? Ai cũng thấy điều kiện đó hết. Rồi tới mà thọ Thập Thiện, mười cái Điều Lành đó thì cũng là người cư sĩ chứ đâu phải là người tu sĩ đâu.

Đó, do vì vậy mà chúng ta thấy từ cái bước đầu á, cái lộ trình thứ nhất mà Thầy đã vạch ra trong cái giáo án này thì các con đã thấy rõ cái người cư sĩ phải ở trong cái Giới Pháp nào của Đạo Phật. Mà thấy cái đầu tiên mà vô mà thấy cái người cư sĩ mà nói là tín đồ của Đạo Phật mà còn bán phở, bán cháo lòng, hoặc bán bánh canh thì qúy vị có nghĩ đó là người cư sĩ của Đạo Phật không? Bởi vì Phật đã cấm sáu cái nghề không được làm mà, phải không? Nếu mà chấp nhận làm cư sĩ là đệ tử của Phật thì sáu cái nghề đó không được làm. Nghề bán thịt có cấm không, nghề săn bắn, nghề chài lưới có không? Mà giờ cái ông này chài lưới ông cũng xưng ông là Phật tử nữa à. Rồi cái ông bán thịt ở ngoài chợ mà bán thịt mà cắt ký ký bán người ta ông cũng xưng ông là Phật tử nữa, ông cũng tu hành theo Phật được, ông là cư sĩ nữa. Rồi cái người mà bán phở, cháo lòng ngoài chợ họ cũng xưng họ là cư sĩ nữa, đệ tử cư sĩ nữa. Thì cái đó có đúng không?

Rồi bây giờ bắt đầu qua cái nẻo thứ hai thì chúng ta thấy cái lộ trình của người tu sĩ  thì nói Thập Giới Sa Di là bắt đầu, phải không? Thì chúng ta muốn mà được trở thành người tu sĩ thì ít ra chúng ta cũng phải thọ Tam quy này, rồi Ngũ giới này, rồi Thập thiện này, rồi bây giờ mới bắt đầu qua thọ Thập Giới Sa Di chứ. Thì như vậy là cái hành động sống của chúng ta nó sống có giống người thế gian nữa không? Nội Thập Giới Sa Di không chúng ta đã thấy rồi, vậy mà chúng ta nhắm mắt, đui mù không thấy bậc thầy của mình là người nào hết. Chỉ thấy cái bộ áo bệ vệ của ông ta đắp y rồi dữ tợn đội mão từa lưa vô, mang hia mai hia như vua chúa thì coi như là thầy mình rồi, phải không? Tập trung năm mười ông ngồi hàng hàng vậy rồi bắt đầu tổ Giới Đoàn ra cái bắt đầu cho mình thọ Sa Di chứ gì, thọ Tỳ Kheo chứ gì? Mê lắm, làm được như mấy ông đó cũng đội mão từa lưa lên làm vậy là ngon rồi chứ gì? Nhưng mà không ngờ là cái hành động sống của ông ta có phải là đúng là những bậc chân nhân không? Đâu có phải bậc chân nhân, đâu phải bậc Thánh. Ăn uống như phàm phu, ngày ba bốn bữa mà còn dối trá che đậy nữa, dối trá che đậy làm sao?  Các thầy thấy không, ăn sáng họ còn bày đặt nói tiểu thực. Ăn thì ăn chứ còn tiểu thực, tiểu cái gì, ăn cứ nuốt đầy bụng chứ Thầy có thấy ông nào mà nuốt nửa bụng bao giờ đâu mà gọi là tiểu, tiểu với đại phải không? Chiều thì ông nào cũng quất một tô bột lớn vậy đó, cái bụng phình ra như cái trống chầu ấy mà hô là uống bột chứ không có ăn. Có không?

Thầy nói đụng chạm hết cả đám hết. Nhưng mà sự thật phải nói để thấy biết. Một người Sa Di, Phật nói ăn một bữa ăn còn không có ăn nhiều. Bởi vì ăn là nó giúp cho chúng ta sinh ra cái dục mà cái dục tức là con đường sinh tử. Mà Đạo Phật là chấm dứt con đường sinh tử. Chúng ta ăn ít nó mới sinh ít dục. Còn ăn nhiều nó sinh dục. Mà ăn bữa người ta còn không dám ăn nhiều, còn mấy ông ăn ba bữa mà mấy ông còn bày đặt che đậy, người ta nói sáng tôi tiểu thực chứ tôi không có ăn đầy bụng. Mà thấy ông nào cũng quất no hết chứ có ông nào mà. Bởi vì Thầy cũng ăn tiểu thực chứ, Thầy biết chứ. Cũng no cành hông, đi hết muốn nổi làm sao Thầy không biết. Thầy đã từng sống Thầy không biết sao? Chiều uống chừng chén bột vậy không có uống đâu, quất một tô vậy nó mới vừa. Có không? Ít ít thì đâu chịu. Còn thêm đường, thêm sữa đồ trong nữa cho nó bổ. Trong vòng ba tháng hạ thôi, ông nào thấy cũng đi hết muốn nổi. Còn hồi ở chùa mình thì thôi muốn ốm tong, ốm teo. Có không? Bởi vậy! Chọn cái ông thầy như vậy cho nên ở đây á.

Ở đây có một bài kinh. Sau này thì đây là những cái bài mà Thầy sẽ giảng ở trong cái Giới Hành, nó thuộc về Giới Hành rồi, nhưng mà bây giờ chúng ta chưa học Giới Bổn xong. Bởi vì, bây giờ là bắt đầu chúng ta mới học Tam Quy, Ngũ Giới chưa rồi mà làm sao học tới Giới Bổn được phải không? Cho nên khi mà tới Giới Bổn xong rồi thì mới tới Giới Hành. Nhưng mà ở đây Thầy cũng nhắc nhở cho các con thấy rằng trong cái con đường tu hành của Đạo Phật cái gì chúng ta cũng phải có con mắt rõ ràng là chọn những bậc Thánh, những bậc Chơn Nhân làm Thầy của mình chứ. Đâu có đụng ai cũng làm thầy mình được. Làm thầy của mình, ông thầy có vợ con, mình sống chung riết với ổng rồi cũng có vợ con à? Ông thầy của mình họ sống bừa bãi như thế nào đó, riết rồi mình cũng vậy thôi. Bởi vì cái đó là cái ảnh hưởng xấu mà mình không thấy được rồi mình cứ nói: ờ ông tu vậy mà còn vậy thì mình sao, thôi mình cũng vậy được rồi, hay là hoặc mình khá khá hơn ổng chút là cũng ngon rồi. Không ngờ là dẫn nhau cả đám đi tầm bậy hết à. Cho nên vì vậy đó, tất cả những cái này là cái khó.

Các con cứ nhìn thấy đi Phật Giáo Cam-Pu-Chia chứ gì hoặc Phật Giáo Nam Tông chứ gì. Người ta nói Phật Giáo là Quốc Giáo của các nước đó chứ gì? Có đúng không? Các con thấy không? Ăn thịt đống đống mà Quốc giáo. Đem mà chôn sống mấy ông sư đó hết chứ quốc giáo. Phải không? Các con thấy không? Thầy muốn nói như thế nào? Đạo Phật là đạo thiện mà tại sao quốc giáo mỗi người dân của nước đó khi lớn lên phải được vào học ba năm tu ở trong cái chùa, có phải không? Thanh niên là phải đi học hết, đi vô tu hết. Thậm chí ông vua cũng phải vô tu nữa. Thế mà các con thấy không? Họ diệt chủng như thế nào? Cam-Pu-Chia diệt chủng như thế nào? Cái người mà tu theo đạo Phật ấy con kiến còn không dám giết vậy mà con người của nó, dân tộc của nó nó giết cả đống như vậy thử hỏi nó tu theo Phật cái gì đó? Phật của nó là gì? Ác quỷ hay là cái gì? Phải không? Rồi nó giết đồng bào Việt Nam của mình, nó thả trôi sông Cửu Long này, trôi bồng bềnh ở dưới sông Tiền Giang, Hậu Giang này. Có không? Thầy có một ông bác cũng ở gần biên giới Cao Miên, nói chung là ở trong đất Miên chứ không phải ở biên giới gì hết, ông ở trong đất Miên ấy. Tới chừng đó cắp vườn nó chạy không còn xách một cái gì ra nữa hết. Mà con cái đồ chạy không khỏi chặt chết hết, chạy có mình ra khỏi đó thôi.

Đó thì các con thấy mà người ta nói người ta quốc giáo được những cái chùa như là Đế Thiên, Đế Thích, những cái chùa mà ở trên Cam Pu Chia chúng ta thấy vĩ đại. Biết bao nhiêu là mồ hôi, nước mắt, tiền bạc của dân tộc đó đổ vào đó để xây dựng những cái ngôi chùa vĩ đại như vậy. Quốc giáo mà, cái chùa lớn lắm mà. Phải không? Các con thấy không? Nhưng mà cái đạo đức họ có không? Họ giết người không gớm tay. Chính họ diệt chủng họ, họ giết dân họ. Nếu không có quân đội Việt Nam lên trên đó can dự vào thì chắc chắn là ba cái ông cộng sản đỏ giết sạch hết không còn, phải không? Các con thấy không? Còn cái gì không? Vậy mà là Phật Giáo.

Đó thì chúng ta thấy cái chỗ mà nó ăn thịt chúng sanh nó phải hung dữ chứ. Còn Phật Giáo của mình, Đại Thừa chứ coi vậy chứ ăn rau cải chứ nó cũng hiền. Nó tu thiền Đông Độ rồi bậy bạ, nó không có phải là quốc giáo, nó không phải là Nguyên Thủy thật nhưng mà nó không đến nỗi là giết người quá. Trong chiến tranh của chúng ta biết bao nhiêu người Việt bị chết. Biết bao nhiêu là những gia đình mà chúng ta hiện giờ, nhắc lại thì con em của chúng ta đã đổ xương, đổ máu trên quả đất này là vì người ta không có biết Đạo Phật. Nhưng mà Đạo Phật Phật Giáo Đại Thừa không có dạy dân tộc Việt Nam chúng ta đi xâm chiếm đất nước người ta mà giết người như vậy. Các con thấy không. Có không? Cho nên thấy nó cũng đỡ chứ, nó đâu có đến nỗi mà quá tệ.

Còn mình thuộc về quốc giáo mà, quốc giáo nguyên thủy gốc của Đạo Phật nữa. Kinh điển thì kinh điển nguyên thủy nữa mà là không hiểu cái thứ gì hết à. Mà người dân bắt buộc phải là lớn lên mười tám tuổi là phải vô chùa, ba năm tu rồi sau đó muốn tu thì ở luôn mà không muốn tu thì ra đời. Thì ra đời cũng còn mang cái thiện pháp chứ ra đời lại mang cái ác pháp vậy, vác cái rựa ra chém người ta đứt đầu mà không thương chút nào hết. Đó là họ học Giáo Pháp của Phật, họ học Luật của Phật bằng cách nó khô như pháp luật đó. Cho nên vì vậy mà họ ra họ bực quá trời, từ hồi tôi vô trong đó khép ngày ăn một bữa đi xin cực quá, tôi ra tôi chém đầu tôi lấy của tôi ăn có sướng không? Các con thấy không? Phật Giáo mà giáo dục người ta như vậy. Thì như vậy là Chánh Giáo hay là Tà Giáo. Dù bây giờ nói là Phật gì đi nữa Thầy cũng xem đó là Tà Giáo chứ. Bởi vậy Thầy quét sạch ba cái thứ này ra hết. Thà là Thầy như thế nào mặc Thầy, Thầy không quan trọng, ai nói gì nói mặc nhưng mà những người nào phá Phật Pháp thì Thầy đã quét ra hết. Giới Luật của Phật là cái pháp Thiện không phải là các pháp Ác, không thể giết người được. Tứ Vô Lượng Tâm là bốn cái Tâm Vô Lượng của người ta rộng lớn, phủ trùm tất cả chúng sanh thì tại sao không làm được những điều đó.

Cho nên các con thấy không? Trong cái số của chúng ta học tập đây, ai là người có duyên đủ học các Pháp Thiện? Bắt đầu nghe cái Giáo Án thì ai cũng thấy hay hết phải không? Nhưng mà lần lượt các con thấy họ có đủ phước họ ở đây học với chúng ta không? Nó xảy ra đủ việc để cho họ phải dứt đi thôi. Thầy tiếc nhất là thằng Đạt, quá tệ. Một cái người mà đã có công ở đây rất nhiều, giúp cô Út rất nhiều, thế mà rất là tối tăm ngu si, không thấy gì hết. Ít ra các con cũng phải học cho tới tận cùng các con mới biết được cái chỗ nào mà bắt đầu. Chứ từ nào tới giờ Thầy chưa có dám bắt đầu chỗ nào của Phật Pháp. Tại sao không có dám bắt đầu? Bởi vì người ta tu sai hết, bắt đầu người ta không có tin mình. Tại sao vậy? Tại sao Thầy biết là người ta không tin Thầy, Thầy biết rất rõ. Là tại vì lúc bây giờ đó, thì các con thấy, nghĩa là người ta có những cái kiến chấp, chẳng hạn là như mấy con học Thiền Tông chứ gì, các con kiến chấp Phật Tánh. Rồi mấy con học cái Tịnh Độ Tông chứ gì, mấy con niệm Phật, mấy con chấp là có cõi Cực Lạc rồi. Bây giờ Thầy bắt buộc các con phải tu lại những cái gì mà của Đạo Phật các con không tin Thầy đâu. Chắc chắn các con không có làm được. Các con sẽ làm theo các con. Bởi vậy Đức Phật nó là cái kiến chấp của người ta, người ta chấp chặt rồi, mình không làm sao mà cho người ta phá được hết. Chỉ bây giờ chờ cho cái duyên nào mà người ta làm không có được, người ta quá khắc khổ người ta thấy người ta đứng ở trên đó người ta dậm chân mãi, năm năm, mười năm, hai ba chục năm người ta tu không tới nữa đó rồi người ta ngán, người ta không biết cái Pháp đi tới đâu nữa. Cái tâm tư, cái chấp của người ta nó bị vơi bớt đi nó không còn nặng nữa. Thì lúc bấy giờ mình mới chỉ cho họ, lần lượt họ mới từ từ xả ra. Thì lúc bấy giờ mình mới dạy lại.

Như vậy là Thầy chưa có dạy các con ban đầu như thế nào. Tại sao bây giờ Thầy cứ dạy các con là Pháp Hướng hoặc thế này thế khác. Là bởi vì có người hướng có hiệu quả, nhắc các con để các con bắt chước theo thôi. Như thấy Minh Tông hướng bảo hơi thở ngưng hoặc thế này kia hoặc là bảo ngủ hay thức hoặc là bảo đừng có nhức, đừng có đau cái thọ là vậy. Để các con làm thấy nó cũng có hiệu quả các con tin nó vậy thôi, để phá cái chấp của các con thôi. Chứ sự thật ra các con biết không, mỗi cái trạch pháp ấy, là cái bước đầu, các con phải tu cái gì, trạch pháp cái câu nào để cho nó đúng với cái đó. Các con gọi trật cái tên thì trạch pháp nó cũng không có hiệu quả nữa chứ đừng nói. Ví dụ nội như cái Tâm với cái Ý. Mà các con gọi tên Ý với cái Tâm mà các con gọi trật nó cũng không hiệu quả nữa chứ đừng nói. Cũng như cái thằng Xoài, con gọi thằng Mít nó đâu có biết nó là tên gì đâu nó vô. Nó ngó ngó nó đâu có tưởng gọi nó. Nhưng mà con tính con gọi thằng Mít, nhưng mà con cứ gọi Xoài Xoài vô đây biểu thì nó biết ở đâu mà nó vô. Các con hiểu điều đó. Cho nên cái tu hành nó cũng như vậy. Thế mà các con tưởng là học hiểu nội bấy nhiêu Thầy nói đủ rồi. Bây giờ về cứ ở chỗ nào yên tịnh tu. Không có dễ đâu con. Nó không có đơn giản đâu.

Bởi vì ở đây này, các con thấy này. Cư sĩ Visakha,... hỏi, Thầy đọc lại cái chỗ này để cho các con thấy này:

 “Thưa Ni Sư, Thủ ở trong mười hai Thập Nhị Nhân Duyên” - 12 nhân duyên đó, các con biết là Thủ, Hữu rồi Sanh đó, trong mười hai nhân duyên phải không?  “nó có khác với Năm Thủ Uẩn hay không?”.

Đó, ông Visakha này hỏi cắc cớ với cái bà Ni sư này lắm. Bà Ni Sư này tức là vợ của ông. Ở đây Thầy thuật lại câu chuyện của Ni Sư Dhammadinna này. Khi mà ông Visakha ông đến, ông nghe Phật thuyết pháp rồi đó thì ông ngộ được cái lý sanh tử rồi. Cho nên lúc bấy giờ ông về nhà, Thì ông về nhà, thường thường là ông về nhà thì bà vợ đưa cái tay cho ông nắm. Rồi ông nắm tay cái bà vợ ông mới dẫn đi lên trên cái phòng khách đó, hai vợ chồng mới ngồi nói chuyện. Mà hôm nay lạ lùng ông đi đến Phật rồi, ông về, thì bà đưa cái tay ra thì ông không có nắm.

Các con thấy cái câu chuyện nói nghe nó cũng hay lắm chứ không phải là không hay đâu. Ông không nắm. Bà mới ngạc nhiên. Sao kỳ, ông này ông đi nghe Phật rồi ông về ông không chịu nắm tay mình nữa, lạ à. Bắt đầu đó, ông đi trước bà đi theo sau, bà không có đưa tay nắm nữa. Cho nên bà đi lên tới cái phòng khách rồi ông ngồi cái ghế khác, bà ngồi cái ghế khác. Chứ hồi đó hai ông bà ngồi chung cái ghế, cũng như ngồi cái ghế sa-lon dài đó. Còn đây, ông ngồi cái, bà ngồi cái, bây giờ ông ngồi riêng, không có ngồi chung nữa.

Đó, bây giờ đó, bà mới hỏi tại sao lại, ông nay sao lại kỳ quá vậy. Mọi lần thì ông đi đâu thì ông về thì đâu có cái tình trạng như vậy, mà sao nay ông đối xử với vợ con như vậy. Ông nói đâu phải, bởi vì cái đó là cái đường sinh tử. Tôi hôm nay về tôi bàn với bà đó là bà nên đến nghe đức Phật đi, đứcThế Tôn đi. Rồi bà sẽ nghe rồi đó, thì tôi tin rằng bà sẽ theo đức Phật liền. Bà nói, không biết ông Phật ông nói cái thứ gì mà cái ông này ông mê quá trời, xong bảo mình đi nghe ông Phật, ông còn không thèm nói cho mình biết nữa. Thôi bà cũng sửa soạn bà đến bà nghe ông Phật thuyết pháp. Khi bà đến thì bà nghe ông Phật thuyết pháp xong rồi thì bà xin ông Phật xuất gia luôn. Bà đi tu luôn. Bà về bà giao nhà, giao cửa, giao con lại cho ông. Ông nói: được, tôi bằng lòng tôi lo hết bà cứ yên tâm bà tu đi. Miễn là bà tu được là tôi mừng. Do đó cái bà đi luôn, bà cạo tóc bà vô trong giới Ni bà tu luôn ở trong đó.

Sau khi bà chứng quả bà mới trở về bà thăm nhà, đây là hai ông bà mới gặp nhau. Ông Visakha ông cũng là một cư sĩ tài ba của Đạo Phật lắm chứ không phải không, hỏi bà, chất vấn bà nghĩa là sát đáng á, Phật Pháp mà ông rất thông suốt là một cư sĩ á. Rồi sau này Thầy sẽ đọc hết những cái này cho các con nghe toàn bộ. Bây giờ Thầy chỉ đọc một cái đoạn để cho các con thấy ở cái chỗ mà ông hỏi thôi. Ông hỏi cái chỗ này là cái sự phải có hiểu biết mới hỏi á. Làm sao mà cái chữ Thủ này nó ăn khớp gì với chữ Thủ trong Ngũ Uẩn đâu mà ông dám hỏi câu hỏi với cái bà Ni Sư này thì ông cũng không phải là người mà không hiểu.

Bởi vì phải thông những gì đã thông đó. Khi mà mới vào Đạo Thầy đã giảng cái giáo án, các con hiểu không. Bốn cái điều kiện mà phải không? Tức là muốn vào Đạo Phật ấy thì phải thông hiểu những gì chưa thông hiểu. Cái đó đầu tiên phải không? Rồi kế đó thì các con thấy cái gì nữa này. Trau dồi những gì phải trau dồi này, dứt bỏ những gì phải dứt bỏ này, tu tập những gì phải tu tập. Các con đã nhớ bốn cái điều kiện chưa? Học rồi quên mất rồi.

À, bây giờ ông cư sĩ này là ông đã thông hiểu như vậy đó thì các con thấy ông sẽ đối xử với...ổng hỏi bà, Thầy nói thiệt ra tu sĩ bây giờ chưa biết chắc đã dám biết hỏi câu hỏi này nữa. Đây này nếu mà ông không biết thì làm sao ông hỏi câu hỏi như thế này với bà mà bà trả lời rất đúng.

“Thưa Ni sư”- bây giờ thì ông gọi bà là Ni sư chứ không dám gọi bà nữa đâu. Không dám gọi là bà vợ nữa đâu, coi như bà là một bậc Thầy rồi đó

-“ Thưa Ni Sư, Thủ trong Mười Hai Nhân Duyên này có khác với Năm Thủ Uẩn hay không? Hai Thủ Uẩn này là Năm Thủ Uẩn”.

Đó, ông hỏi. Các con từ lâu đến giờ đã học kinh sách dám hỏi điều đó không? Có biết gì đâu mà hỏi.

“Này hiền giả Visakha”- bà không kêu ông là chồng nữa đâu, kêu là hiền giả thôi - “Thủ trong Mười Hai Nhân Duyên tức là Năm Thủ Uẩn” - Bà xác định như vậy.

Đó, các con thấy chưa. Bởi vì nó có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức này nó mới dính mắc chứ nếu không có cái này thì làm sao gọi là Thủ phải không? Bởi vì dính cái bàn cái ghế này mà nếu không có cái thân này thì nó dính cho ai đây? Bà nói trúng chứ Thủ ở đây là Năm Thủ Uẩn đó. Có Năm Thủ Uẩn đó mới có dính, mới có Thủ đó, mới có Thủ của  Mười Hai Nhân Duyên đó. Đúng không? Các con Thấy bà trả lời có sai không? Bởi vì ông Phật ông nói bà Dhammadinna đó, bà trả lời như vậy thì ta cũng trả lời như vậy thôi chứ cũng không hơn bà nổi. Ông Phật ông xác định bà là một Đại Trí Tuệ, Đệ Nhất Trí Tuệ bên Ni mà đâu có thường đâu.

“Này hiền giả Visakha Thủ trong mười Hai Nhân Duyên tức là năm Thủ Uẩn- Thủ này không khác với Năm Thủ Uẩn, phàm có dục đối với Năm Thủ Uẩn tức là có thủ đối với chúng ở đây”.

Nghĩa là có dục ngay đó, thì nó dính rồi thì cái vật gì nó cũng dính theo hết cả đám thì không phải là Thủ trong Mười Hai Nhân Duyên sao. Đó cho nên mới có nhà cửa, mới có anh em, mới có dòng họ, mới có ruộng vườn, có của cải chứ. Đó, nó mới dính mắc, nó mới có Sinh Tử Ưu Bi chứ.

Bây giờ ông hỏi tới nữa này:

- “Thưa Ni Sư, Thế nào là thân kiến?”

Đó, bây giờ chính cái Thủ này, Năm Thủ Uẩn này nó mới tạo thành cái thân kiến đó. Cho nên ông mới hỏi câu kế đó. Chứ chúng ta chưa hiểu đâu. Cho nên ông mới lần đi tới ông hỏi à.

“Thưa Ni Sư, thế nào là thân kiến?”.

“Ở đây, này  hiền giả Visakha, kẻ vô văn phàm phu không đến chứng kiến với bậc Thánh, không thuần thục Pháp các bậc Thánh, không tu tập các bậc Thánh, không đến yến kiến các bậc Chơn Nhơn, không thuần thục Pháp các bậc Chơn Nhơn, không tu tập Pháp các bậc Chơn Nhơn”.Đó, “thường nghe những tà sư, ngoại đạo nói pháp, giảng pháp không đúng sự chân thật. Không đem lại sự ích lợi nhất thiết cụ thể, thường sống những hành động phi Phạm Hạnh mà các bậc Trí thường không tán thán.”- Đó thì các con thấy, thường thường á, mình không chọn ở đây..(...).

Trước khi tiếp tục nghe giáo án Đường Lối Tu Tập của Đạo Phật, xin quý thầy chấp tay lên niệm Hồng Danh Đức Bổn Sư để tưởng nhớ công ơn của Người:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Bây giờ quý thầy đã niệm Phật xong, phải nghe nối tiếp bài học hôm qua. Hôm qua Thầy đã giảng đến câu: (..)

Một người cư sĩ người ta đã luyện tập được Tứ Vô Lượng Tâm người ta rồi, cho nên hầu hết là nói đến Tứ Vô Lượng Tâm là chờ Bồ Tát Mới có tập luyện Tứ Vô Lượng Tâm. Cái đó là cái không đúng. Ngay từ lúc đầu chúng ta đã luyện tập cái tâm để chúng ta phá cái Sân, cái Si, cái Tham của chúng ta. Nếu mà không có cái Tâm Từ thì làm sao đối trị được cái Tâm Sân của chúng ta được. Cho nên ngay từ đó chúng ta phải tập luyện Tứ Vô Lượng Tâm rồi. Thế mà còn có cái chuyện xảy ra như thế này sao? Cái ông lớn đi ăn hiếp ông nhỏ để mà tranh chỗ nằm chỗ ngủ. Giàu sang gì? Đi ở những cái chòi canh, vách lá, mà còn cái gì nữa mà tranh. Ngủ hang, ngủ hốc, ngủ rừng, ngủ bụi, ngủ đồng mã thây ma, ngủ trong nhà mồ mà còn cái gì bảnh đâu mà giành giật. Mấy ông Thất Thập Tỳ Kheo này, mấy ông này á, mười bảy vị Tỳ Kheo này á, Thập Thất Tỳ Kheo này đi tìm ở trong nhà mồ. Đi tìm xong rồi trải tọa cụ thì mấy ổng vô mấy ổng giành, tưởng là giành cái nhà lầu, nhà đài gì mà giành. Giành cái nhà mồ. Trời ơi, thây ma nó để cả đống trong đó, mà giành ra mà ngủ. Hôi hám, thúi rình ở trong đó mà ham mà giành. Thử hỏi mấy ông này sao ngu quá ngu vậy không biết. Vậy mà Lục Quần, sáu cái vị Tỳ Kheo này sao ngu quá ngu, tưởng là mình lớn mình đi làm chuyện đó đúng sao.

Cho nên ở đây Thầy thấy vô lý đến là vô lý Giới Luật của Phật, Giới Bổn ấy. Đọc đến những cái Giới này Thầy thấy vô lý, mấy cái ông này đặt tầm bậy. Người ta bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ cái sự sung sướng rồi bây giờ còn đi giành cái chỗ nằm như vậy đó. Thì đâu có cái lý nào có cái chuyện đó được đâu. Cho nên Giới Luật, Giới Kinh của Phật dạy chúng ta tu hành các pháp rất là rõ  ràng, đâu có cái tâm mà còn bỉ thử, còn tham cái chuyện mà tham không đúng tham. Bởi vậy, Thầy nói thật, tham là tham như người đời đi, mà không tham thì thôi chứ đừng có vô chùa mà tranh từng cái bàn chải, cái kem, hoặc là cục xà bông. Thì cái đó là, hoặc là tham tranh cái chỗ ngồi trước, ngồi sau. Chỗ nào cũng được, đó cho nên vì vậy mà Thầy thấy cái tâm phàm phu của chúng ta nó quá là phàm phu. Mà đã đi tu rồi mà còn phàm phu vậy sao. Mà học, mà tới các vị này là Tỳ Kheo rồi, mà không thấy được cái chỗ tu tập của mình sao. Tứ Vô Lượng Tâm còn ở chỗ nào. Cho nên đặt Giới như vậy đặt làm gì.

Mười bảy, giới đuổi Tỳ Kheo khỏi phòng.

Vì sao Phật kiết giới này? Phật cũng tại vườn của ông Cấp Cô Độc. Thập Thất Quần vào trong chùa trải tọa cụ ngủ rồi Lục Quần đến sau rồi lôi kéo ra ngoài phòng. Phật nhân đó mà kiết giới. Mấy cái ông mà Thất Quần này, vô trong chùa người ta trải tọa cụ rồi ngủ. Mấy ông này đến sau, lôi mấy ông này ra mấy ông ngủ chật hết, mấy ông ra ngoài nằm ngoài sân đi, tui giành cái thiền đường này, sau ông này giành cái thiền đường ngủ. Làm cái chuyện Thầy nói thiệt ra Thầy nói người tu sĩ mà làm còn hơn ở ngoài đời thì Thầy thấy còn những cái Giới Hạnh này Thầy thấy thiệt là ngoài đời người ta cũng không có mà làm vậy nữa.

À bây giờ này, các con ngoài đời này các con vô đây màcác con thấy cái chùa này trống này, các con trải đồ các con ngủ, thì mấy ông kia có vô sau, thì cũng ờ thôi mình cũng nằm ké ké nhau ngủ chứ đâu mà lôi người ta quăng qua. Chuyện đó là chuyện ngoài đời rồi. Cái bọn này là bọn cướp giật. Cái bọn này không đúng là tu sĩ của Đạo Phật đâu.

Giới mười tám, giới trên tầng gác, ngồi trên giường sút chân.

Vì sao Phật kiết giới này? Phật cũng tại vườn Cấp Cô Độc có Tỳ Kheo ở trên lầu, chân bị xổ, ngồi không vững. Chân bước xuống trúng Tỳ Kheo ngồi tầng dưới bị chảy máu - nói cái chuyện quá là chân tay -  Phật quở trách rồi kiết Giới.

Cái ông này chắc bộ là thương binh rồi. Sao mà họ đặt Giới kỳ cục Thầy không biết sao mà nói. Bây giờ mình ngồi trên giường cao, giường này kiểu mà sinh viên mà nôi trú ở trong các trường đại học mà nội trú, nó có những cái giường cái tầng thấp, tầng cao vậy này. Người ở dưới này, rồi người chun lên trên nữa, ba bốn tầng vậy, một cái giường mà ba bốn người ngủ đó. Do đó là cái ông này cũng cái kiểu là bộ là sinh viên rồi. Cho nên cái ông mà đặt Giới này chắc hồi đó ông cũng học ở trường đại học cho nên ông biết cái này mà ông đặt ra đây chứ gì. Ông Giới sư này kiểu này chứ không phải đâu chứ làmgì mà đức Phật hồi đó có cái giường kiểu đó mà ngồi trên mà chúc chân. Mà trong cái thời đức Phật đâu có lý nào mà gãy chân mà vô xuất gia tu bao giờ. Đi khất thực làm sao được, vậy mà cũng mang cái chân gãy này đi khất thì Thầy thấy cũng dữ tợn đó chứ. Thế mà rồi ông ngồi đó, ông lơ mơ gì đó sút cái dây rớt cái cây làm u đầu người ta chảy máu, cho nên Phật mới chế ra. Cái này cũng là cái ý nói để chúng ta cẩn thận ý tứ thôi. Nhưng mà đây là nó vô lý, rất là vô lý, nó không có phải như vậy. Câu chuyện thì nó buồn cười chứ sự thật ra nó vô lý quá à, nó không có đâu. Vì sao Phật kiết giới này?

Giới mười chín, dùng nước có trùng xối lên bùn cỏ.

Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại nước Câu Diệm Di, Triển Đà Tỳ Kheo cất nhà lớn dùng nước trùng trộn hồ và bảo người trộn. Đức Phật nhân đó mà kiết giới này. Khi có Thầy Tỳ Kheo không biết có trùng sau mới biết nên tác pháp xám hối. Phật dạy, không biết không phạm. Và Phật kiết giới này lại: nếu biết có trùng mà dùng tưới lên bùn cỏ, phạm Ba Dật Đề.

Thật sự ra thì trong khi mà ở đây, thì Phật cấm các vị Tỳ Kheo không có cho mà trộn, không có cho cất nhà tường, nhà gạch. Thì ở đây thì chắc có lẽ các ngài mới trộn đất để trét cái vách đất như líp mình, trét cái đất cho nó mưa đừng có tạt ướt. Thì nhân đó mà cứ múc, thấy cái vũng nước ở đâu đó có  lăng quăng hoặc là có cá nhái, cá cóc gì đó ở trong đó nó lội tùm lum đó. Mấy ông đó nhắm mắt múc lên đổ trộn trong bùn rồi trét. Bao nhiêu cái con trùng đó, con vật đó nó chết đi. Do vì vậy đó mà  Đức Phật nói mình vô tình, mình không thấy không biết mình phạm thì không có tội. Nhưng mà sự thật ra Thầy nói vô tình gì ở đây Thầy cũng quét ra. Mấy ông tu theo Đạo Phật thì mấy ông phải ý tứ rồi. Múc cái vũng nước đó thì mây ông phải coi nó có hay không. Mà bây giờ mấy ông nói mấy ông vô tình thì cái chuyện đó là cái chuyện, là ông đã từng ở đâu ông vô đây, ông đã tu tới bây giờ là ông thọ Tỳ Kheo rồi thì đâu có lý nào mà ông không Chánh Niệm Tỉnh Thức, Tỉnh Giác Định được. Dù ít ra ông cũng phải tỉnh thức chứ. Vì vậy mà ông múc nước ông cũng phải coi biết đó là có trùng hay là không trùng ở dưới đó chứ. Tại sao ông giết hại chúng sanh rồi ông nói rằng ông vô ý, không có phạm.

Điều đó là, Phật mà chế giới này như vậy Thầy thấy.. nếu mà ông Phật chế như vậy là không đúng đó. Nghĩa là cái người tu sĩ của Đạo Phật là cái người phải có ý tứ hẳn hoi đàng hoàng mới gọi là tu sĩ của Đạo Phật. Còn cái người vô ý là cái người mà chưa phải đệ tử của Phật, còn là cư sĩ, còn tập luyện những cái chánh niệm tỉnh thức, tu ở trong những cái hành động hàng ngày. Chừng nào mà người ta có đủ cái ý tứ rồi thì mới chấp nhận cho người ta xuất gia tu hành trở thành tu sĩ của mình, thì đâu có làm cái chuyện phi pháp như vậy, đâu có chuyện mà tàn sát hại chúng sanh như vậy.

Đó thì đọc qua cái này, thì cái Giới này chúng ta phải chế như thế nào để cho đúng cách của một cái người tu sĩ chúng ta phải làm cho đúng. Thì như vậy Thầy chỉ phê phán cái này, sau này mà có dịp Thầy sẽ soạn lại cái bộ Kinh Giới này. Chứ không để ba cái thứ Kinh này được. Không phải Thầy giỏi, nhưng mà tại vì nó nói vô lý quá vô lý rồi không có thể chịu đựng nổi được nữa thì phải dẹp nó đi chứ.

Hai mươi, giới lợp nhà quá ba lớp.

Vì sao Phật kiết giới này?  Duyên khi Phật vẫn ở tại nước Câu Diệm Di. Triển Đà cất phòng xá lớn, tranh dư lợp hai ba lớp không thôi, nhà sập xuống, cư sĩ chê hiềm, Phật nhân đó mà kiết giới. Trời, cái ông này sao mà ông ngu, bao nhiêu tranh dư thì ông chất lên hết trên nhà để cho sập. Thiệt là, Thầy thấy sao mà chế cái Giới sao mà quá ngu vậy thì Thầy không biết sao. Người ta muốn lợp,bây giờ Thầy muốn lợp cái nhà này thì ít ra Thầy cũng phải có cái đầu óc suy nghĩ nó, bây giờ mình để xích vô thì cái cột cây này nó phải như thế nào mới bắt xích vô chứ, còn tôn nó nhẹ thì phải lợp như thế nào, tranh lá nó phải như thế nào, Thầy cũng phải suy tính chứ. Ông này sao mà cái ông Tỳ Kheo này ông ngu đến mức độ, bao nhiêu dư ông đem ông đắp lên trên hết, để cho chuột ở chứ làm cái gì, ông tiếc gì vậy, cho người khác người ta cất cái thất không phải được sao. Cho nên những cái mà Thầy nói Giới gì mà đặt sao, nó làm sao mà thấy Tỳ Kheo sao mà sao mà nó si, nó si sao mà không có thể tưởng tượng nổi, vậy mà đệ tử của Phật nữa. Thầy không hiểu sao hết.

Đó thì các Thầy thấy đọc những Kinh Giới chúng ta mắc tức cười à. Mà các Thầy không nghe Thầy giảng ra thì các thầy chấp nó, các thầy nói nó hay chứ nó không có dở đâu. Mà Thầy giảng rồi các Thầy thấy rõ ràng là cái thứ thiệt là thứ tầm bậy không à. Đem ba cái thằng ngu si vô trong này gọi là Tỳ Kheo, thật sự ra nó ngu, nó ngu hơn là cái người ngoài đời nữa. Người ngoài đời người ta còn khôn ngoan chứ. Ai mà điên gì mà lợp dữ vậy, lợp cho tới sập nhà. Viết gì mà kỳ cục vậy, mà vậy mà đem nêu vô trong này mà nói, đặt cái Giới đó ra, thiệt là quá tệ.

Hai mươi mốt, giới tự đi dạy bảo ni.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc. Bà Đại Ái Đạo Tỳ Kheo Ni thỉnh cầu Phật cho phép các Tỳ Kheo vì Ni mà giáo giới thuyết pháp. Đức Phật bảo ông A Nan theo thứ tự mời các vị Thượng Tọa đến giáo giới vì Ni nói Pháp. Khi ấy, theo thứ tự nên mời tôn giả Bàn Đà đến dạy, song tôn giả chỉ thuộc bài kệ nên đến nơi, ba phen chỉ nói một bài kệ. Mỗi lần nói xong liền vào để Tứ Thiền, tức là nói xong thì ông nhập Tứ Thiền, chứ còn không nhập Tứ Thiền, người ta hỏi thì ông biết đâu ông nói. Ông chỉ thuộc có bốn câu kệ thôi chứ ông làm sao ông nói. Cho nên,  hễ ông nói bốn câu kệ rồi thì ông nhập vô Tứ Thiền rồi ông ngồi im re đó. Các La Hán ni đều là rất hoan hỉ, còn Lục Quần Ni thì lại kêu giọng giỡn cợt chê bai. Tôn giả liền thăng lên hư không hiện ra các thần thông biến hóa nói pháp mà đi. Lúc khi ấy, Lục Quần Tỳ Kheo tự tiện đến giáo hóa, nói bao nhiêu chuyện khác, không nói chánh Pháp, chỉ nói các chuyện thế tục trong thế gian, Lục Quần Ni rất là hoan hỉ. Bà Đại Ái Đạo biết đến bạch Phật. Ngài bảo, các Tỳ Kheo này từ nay về sau, Tăng phải bạch nhị Yết Ma, sai người đến giáo thọ Ni. Lúc ấy, Lục Quần Tỳ Kheo bèn ra ngoài Giới cùng nhau sai đến. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật dạy Tỳ Kheo nào thành tựu mười phápvề sau mới được giáo thọ Tỳ Kheo Ni, nhân đó Phật kiết giới này.

Nghĩa là cái ông Bàn Đặc ấy, thì ông có thuộc có bốn cái câu kệ thôi chứ ông không có thuộc nhiều. Cho nên ông A Nan sắp xếp cho ông đi giảng ở cho bên Ni ấy thì ông đến đó ông nói bốn câu kệ rồi ông nhập Tứ Thiền thì những người mà Ni mà đã chứng quả A La Hán thì họ rất là tán thán về cái sự thuyết giảng của ông. Còn trái lại thì những người Ni mà Lục Quần Ni Tỳ Kheo thì lại chê bai ông nói không có hay cho nên sau đó thì ông thấy các vị đó chê vậy thì ông không có đến thuyết giảng nữa. Do vì vậy mà sau này Lục Quần Tỳ Kheo mới tự tiện mình, mới thay phiên nhau đến thuyết giảng cho bên Ni. Thì trong lúc đó, chắc ông A Nan ông ấy ở đâu không biết, chắc ông ngủ quên rồi chứ sao, chứ không lẽ mà ông A Nan ông không phái mà mấy ông này mà dám đến thuyết như vậy thì Thầy thấy đây là những cái chuyện mà bịa đặt nó không có lý đâu.

Phật đã sai ông A Nan sắp xếp những người nào mà đi thuyết giảng cho bên Ni thì nó phải có người chứ. Còn đằng này không có sắp xếp Lục Quần Tỳ Kheo mà thế mà mấy ông này tự nhiên đi mà ông A Nan ông không biết à. À, bữa nay là ông Bàn Đặc đi, thì ông Bàn Đặc ít ra ông về ông ấy cũng trình lại ông A Nan là tôi đến tôi thuyết giảng như vậy mà bên Ni ấy họ được nghe vậy và đồng thời họ không có hiểu được cái thâm ý của tôi là muốn chứng tỏ rằng cái chỗ mà nhập Tứ Thiền là cái chỗ vi diệu nhất, chỗ giải thoát nhất, để cho các người đó nương cái câu kệ của tôi đã học được Phật đó thì bắt đầu lấy cái câu kệ đó mà tu để được giải thoát làm như chính tôi đã làm, nhưng mà các vị đó không có hiểu. Vậy thì ông A Nan phải phái cái người khác thay tôi để trong cái ngày mai đó đến Giáo Giới cho bên Ni. Bởi vì ông này ông thấy bên Ni nó có người chứng quả A La Hán rồi thì họ đâu có cần, họ rất là tán thán rồi, còn những cái người mà còn mê muội chưa chứng đó thì cần phải có cái người giảng như thế nào để cho hiểu. Chứ nhè tôi mà tôi giảng như vậy, tôi chỉ đọc có bốn câu kệ rồi bắt đầu tôi nhập Tứ Thiền rồi thì họ tiêu hết họ làm sao họ hiểu. Vậy thì ông hãy phái người khác đến. Thì do đó ông A Nan phái. Đằng này ông ta về cũng chằng nói gì. Một bậc Thánh Tăng như ông mà ông không biết nói cái điều gì đó thì như vậy là quá phỉ báng ông rồi.

Bởi vì cái nhiệm vụ, cái trọng trách màkhi được mình nhận lãnh cái trọng trách mà đi giảng người ta, dạy người ta để tu tập thì cái nhiệm vụ trọng trách mình có chứ. Nhưng mà mình thấy người ta không có nhận được, cho nên vì vậy đó mình thấy cái duyên nó không có thì mình về báo lại cho ông A Nan biết để ông A Nan ông sắp xếp cho cái người khác người ta thay mình để mà người ta giảng. Thì như vậy mới đúng cái lý của Phật Pháp chứ. Không lẽ mình không giảng thì mình nghỉ à? Mình nghỉ rồi mấy cái ông này thừa nước đục mà thả câu ấy. Kêu là thừa nước mà để mà đi vào đó mà dạy tầm bậy, tầm bạ cho bên đây. Cho nên bên kia mấy cô mà thích ăn, thích ngủ mà nghe  mấy cái ông Lục Quần Tỳ Kheo này nói, nào là Giới này, Giới kia rồi Phật chế rộng rãi rồi bây giờ mình ăn thỏa thích đi. Mình đi coi hát cũng được này, mình muara vô ti vi hoặc là video về mình chiếu phim đồ lên rồi coi thỏa thích đi. Thì mấy bà đó phải khoái rồi chứ gì. Mà gặp lục quần Tỳ Kheo này là còn thích nhất nữa. Gặp cái thời đại chúng ta, trong cái thất, trong cái cốc của mấy ông đó, chắc để đầy đủ máy móc hết rồi không có thiếu cái gì cả hết.

Cho nên ở đây, theo Thầy thiết nghĩ là nó đặt cái Giới mà đặt cái Giới nó không có hợp lý. Cho nên là làm sao có những người mà am tường hiểu biết được cái Giới Luật của Phật để chúng ta soạn lại cái bộ Kinh Giới nó đầy đủ hơn, nó đúng với cái nghĩa của nó hơn, để cho cái người mà người ta giữ Giới mà người ta được ly dục, ly ác pháp, người ta được giải thoát là cái nhiệm vụ và trọng trách chứ không thể nào những cái bộ kinh Giới như thế này mà lưu hành ra thì toàn bộ là tai hại cho tu sĩ chúng ta, phá Giới hết chứ không còn nữa.

Chúng ta phải biết được cái bộ kinh nào nó đem đến cái sự lợi lạc cho con người tu hành sau này. Và cái bộ kinh nào nó sẽ tai hại chứ không phải. Bởi vì Thầy đọc toàn bộ Kinh từ Đại Thừa cho đến Tiểu Thừa mà Thầy viết ra một cái bộ sách gọi là Đường Về Xứ Phật. Cái bài Kinh nào đúng của Đức Phật là Thầy để, mà bài kinh nào không đúng của Phật Thầy bác ra hết. Thầy quét sạch ra hết. Cả một cái hệ thống mà toàn cả cái tạng kinh của Phật, mà Thầy hết sức công phu viết nhưng mà Thầy thấy đem ra cái này cũng là cái điều rất là đau khổ cho cái người thời nay, cho nên Thầy chẳng bao giờ mà Thầy cho ai đọc hết. Và cuối cùng thì hôm nay Thầy Giảng như thế này thật sự ra từ lâu đến giờ Thầy có học Giới thật sự, nhưng mà Thầy lo tu chứ Thầy không có nghiên cứu ba cái này đâu. Giữ gìn mình đúng trong những Giới Hạnh mình tu. Đến khi mà đọc mà giảng cho quý thầy, Thầy thấy toàn là tan nát hết rồi. Mấy cái ông ba lăm nhăm này viết tầm bậy, tầm bạ cũng gọi là Tổ này, Tổ kia dữ tợn.

Thật sự Thầy nói tội Thầy đọa địa ngục Thầy chịu chứ Thầy chẳng có thấy cái Giới Luật của Phật như thế này mà Thầy chấp nhận được. Bởi vì Thầy hiểu biết cái Giới Luật của Phật là ly dục, ly ác pháp chứ không phải là cái thứ Giới mà như thế này được.

Đây là mười cái pháp:

- Một là Giới Luật đầy đủ,

- Hai là học rộng hiểu nhiều,

- Ba là thông suốt hai bộ Kinh - hai bộ Giới đó, Tăng và Ni đó,

- Bốn là quyết đoán không nghi ngờ,

- Năm là thuyết Pháp khéo léo,

- Sáu là xuất thân từ chủng tộc cao,

- Bảy là dung mạo đoan trang thấy liền hoan hỉ,

- Tám là có khả năng thuyết pháp khiến Ni hoan hỉ,

- Chín là không vì Phật xuất gia mặc pháp phục mà phá các trận cấm,

- Mười đã đủ hai mươi hạ trở lên.

Thì mười cái điều kiện nêu ra cho một vị thuyết pháp bên Ni là phải như vậy, nhưng có những điều mà có thể chúng ta thấy nó không hợp đâu. Nhưng nói nhiều quá động chạm mấy ông này hết. Thôi Thầy chẳng thèm nói làm gì. Dẹp ba cái này ra nữa thì chịu không có nổi rồi. Khi nào mà Thầy có dịp rảnh Thầy soạn ra rồi Thầy mới kết lại như thế nào mà đúng một cái người đi thuyết giảng cho bên Ni. Cái Phạm Hạnh như thế nào mới được Thuyết Giảng cho bên nữ, còn không đúng thì không có nên mà đến đó, đến đó mà tâm chúng ta còn yếu, cái hình sắc, cái nụ cười, cái hình tướng của cái người nữ nó làm cho chúng ta dao động. Đồng thời thì mấy cái cô này cũng chưa tới đâu đâu, gặp một cái ông thầy mà nói có duyên rồi thì mấy cô đó mai mốt mấy cô đó đến phòng rồi đem cái này kia biếu, câu như là câu cá đó, thì cái điều đó là cái điều còn tai hại lắm đó chứ không phải là thường cho cái sự tu hành mà làm nó càng ngày càng sa đọa trong cái Giới tu hành của Phật Giáo.

Cho nên ở đây khi mà có dịp mà Thầy được rảnh Thầy soạn lại cái bộ Kinh Giới, mặc dù Thầy không phải Giới Sư đâu, nhưng Thầy phải soạn nó để lại cho đời sau có một cái giáo án của Phật, đường lối tu tập của Phật từ dễ đến cao, có cái lý pháp và cái hành pháp nó rõ ràng và đồng thời thì phải có cái bộ Giới Luật rất là cụ thể  rõ ràng cho mỗi Giới, đều mà có một cái Pháp mà chúng ta tập luyện ly dục, ly ác pháp để chúng ta đi thẳng vào con đường giải thoát của Đạo Phật.  Chứ Giới Luật như thế này Thầy thấy nó không phải là cái pháp ly dục, ly ác pháp đâu. Mà nó còn có thể nuôi lớn những cái tâm dục của chúng ta bằng cách nhỏ giọt, làm cho chúng ta ham thích theo cái dục lạc của thế gian thêm nữa.

Giới hăm hai, giới dạy bảo ni đến chiều tối.

Vì sao Phật kiết Giới này? Đức Phật vẫn ở tại vườn ông Cấp Cô Độc. Khi ấy, tôn giả Nan Đà được tăng sai đến giáo thọ ni, ni chúng, Tôn giả âm thanh tốt nói Pháp người nghe ưa thích nên đến mặt trời lặn ni chúng (...) đã đóng, phải ngủ bên ngoài. Sáng thành mở cửa vào trước mọi người, các trưởng giả thấy chê hiềm phỉ báng Ni chúng cùng Tỳ Kheo ngủ đêm. Nhân đó, Phật kiết Giới này.

Ở đây cái câu chuyện đặt ra như vậy là tại vì cái ông này thuyết giảng hay quá cho nên quá giờ rồi mà chúng Ni không có ra về, cho nên về tối rồi cửa thành bị đóng, vì vậy mà phải ở ngoài cửa thành mà ngủ, sáng ra thì mới vào. Thì các vị mà cư sĩ ở trong thành người ta thấy Ni sao mà ở ngoài thành. Có lẽ là trong cái thời Đức Phật mà đọc qua cái chỗ này thì chúng ta thấy có lẽ cái tổ chức của Phật ngày xưa thì các bên  Ni - bên nữ á, thì cái Tịnh Xá hoặc là cái nơi mà các Ni ở thì nó ở trong thành, còn Tăng thì ở ngoài thành, ở trong cái khu rừng nào đó, cho nên các Ni thì thường thường là đến nghe Phật thuyết pháp thì bữa hôm đó thì cái ông Nan Đà này ông thuyết pháp và ông thuyết pháp quá hay làm cho các cô Ni này quên về đi. Vì vậy mà cuối cùng thì ở ngoài cửa thành.

Thật sự ra thì trong khi mà có cái sự tổ chức như vậy Thầy thấy cái nhiệm vụ của cái ông Giảng sư, không có nghĩa là ông Nan Đà mà ông để cho mấy bà này mà ở lại nghe cho tới tối mới về đâu, không phải đâu. Nghĩa là đúng giờ cho mấy người về mấy người còn vô thành. Bởi vì mình ở gần bên thành mình biết mà, đóng cửa lúc nào, mở cửa lúc nào mình biết. Cho nên giờ này là quý cô hãy về, không được ở lại, về để vào kịp ở trong tịnh xá mà nghỉ, không được ngủ ở ngoài đường, ngoài xá, nhất là thân nữ. Cho nên đâu có lý do mà chế cái giới này kỳ cục như vậy. Cho nên ở đây nhiều cái Thầy nói, nó nhiều cái mà cái không thể nào tưởng tượng được hết. Cũng như bây giờ Thầy giảng các con này, buổi chiều này, Thầy giảng cho các Thầy nghe này, mà bây giờ các Thầy không có được ở đây mà ở ngoài Trảng Bàng này phải về ngoài đó, thì lúc bấy giờ đó, khi mà Thầy thấy đúng giờ Thầy phải cho về liền để cho về kịp chứ đâu có lý nào mà ở lại đây. Ở lại đây không có chỗ ngủ làm sao ở lại được. Mà do vì vậy đó, mà tới giờ là phải nghỉ thôi, không có thể nào mà không cho nghỉ. Thì như vậy làm sao mà có cái chuyện mà xảy ra như vậy được.

“Trừ dạy tụng kinh hoặc việc khác, phạm ác tác”. Nghĩa là ở đây còn gặn thêm trừ tụng kinh nữa. Bởi vì tụng kinh bảy giờ tối kia mà. Cho nên cửa thành đóng mất rồi làm sao. Cho nên còn thêm cái trừ tụng kinh mới không có phạm cái tội. Nghĩa là, ở lại tụng kinh chứ nghe pháp là phạm tội. Nghe Pháp nó còn phải hay hơn cái tụng kinh không. Cho nên ở đây Thầy thấy đặt cái Giới chỗ này là đã không có cái nghĩa rồi. Cái người mà thuyết pháp không phải không biết được cái thời gian. Cũng như bây giờ, Thầy nói bây giờ Thầy thuyết pháp này, dù Thầy có ráng đi nữa thì chắc chắn là cũng năm mười phút chứ không thể nào mà hơn cái giờ mà chúng ta ăn cơm được. Cũng phải đình chỉ lại à, chứ không thể nào hơn được. Thì quý thầy thấy đó là cái bổn phận của người mà giảng. Còn quý Thầy có nghe nghe  hay là quý thầy có thích nghe đi nữa, Thầy đình là Thầy đình thôi chứ không làm sao mà nói: Bây giờ con thích nghe Thầy cứ nói thêm nữa đi, Thầy giảng thêm nữa đi. Đâu có được. Giờ này không phải là giờ ngồi đây mà còn, giờ chúng ta sắp sửa ăn cơm rồi thì phải đình, phải không. Cho nên giờ mà mấy cô phải về thì mấy cô phải về.

Mà vả lại Thầy biết rằng khi Đức Phật sai một cái vị Tỳ Kheo mà thuyết giảng á, cho cái bên Ni mà tu tập á, thì chắc chắn là phải có cái giờ giấc hẳn hòi chứ nên Ni nó lộn xộn lắm. Nó tối rồi đây bắt đầu nó ngủ, ở trong cái chùa của mình là tiêu tan hết chứ không phải là lơ mơ đâu, rồi đây rồi mang tiếng cả đám nhau, Tăng Ni nó ngủ chung với nhau đó, đâu có phải chuyện dễ  đâu. Cho nên mình dạy rồi bắt đầu, mấy cô tới giờ này phải đi chứ không có được ở đây, phải nói thẳng à, ở đây nó mang tiếng lắm, Tăng Ni phải đâu ra đó. Cho nên do cái chỗ mà hướng dẫn nghiêm chỉnh như vậy thì cái Giáo đoàn, Tăng đoàn nó mới có thanh tịnh chứ đâu phải mà tối rồi, giờ này tối rồi mà còn ngồi ở đây, ngồi đống đống ở đây, rồi Tăng đi qua đi lại, nó thấy mấy cô nó khoái lắm nên nó đi qua đi lại như diều á. Cho nên như vậy làm sao cái tâm người ta thanh tịnh, người ta tu được, làm sao người ta tu, ác pháp. Bao nhiêu cái hình ảnh đó gợi trong ý, rồi Tăng thì cũng đi qua đi lại mặc áo đẹp đẽ ủi láng coóng đi tới đi lui làm cho mấy bà ngồi đó cũng điêu đứng hết. Ngồi mà không dám nhúc nhích. Thì tất cả những cái này là cái làm cho tâm người ta quá rối loạn, điêu đứng. Cho nên ở đây chúng ta tu hành, chúng ta không thấy cái bóng dáng hình nữ á thì chúng ta thấy cái tâm càng ngày nó càng  thanh tịnh. Mà thấy cái thứ đó rồi nó khó lắm, nó khó móc ra lắm chứ không phải dễ đâu. Nuốt vô thì được chứ ói ra nó khó lắm chứ không phải dễ.

Hai mươi ba, giới chê bàng Tỳ Kheo khác dạy bảo Ni.

Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật vẫn ở tại vườn của ông Cấp Cô Độc, khi ấy các Tỳ Kheo Ni nghe thầy Giáo Thọ đến nên ra nửa, do từng đón rước, phòng xá thoải mái, thức ăn, chỗ ngồi tốt, chỗ tắm rửa khang trang. Lục Quần Tỳ Kheo không được Tăng sai sanh lòng tật đố nói: Các thầy Tỳ Kheo không có chân thật chỉ vì ăn uống nên mới giáo thọ Ni chúng. Các Tỳ Kheo bạch Phật, Phật nhân đó mà kiết Giới này.

Thầy nói thật sự đây, những cái này viết nó rất sai này. Các thầy thấy này, một vị mà tu sĩ mà Tăng mà đến mà thuyết giảng nơi của người nữ ở đó, thì cái sự tiếp đón họ mình phải công nhận rồi. Phòng xá mà chỗ mà giảng dạy ấy thì nó phải rồi. Thức ăn, chỗ ngồi tốt thì đúng rồi, còn cái chỗ mà tắm rửa khang trang nữa thì ai mà vô cái phòng tắm của người ni mà tắm bao giờ. Các thầy thấy không, ở đây mà nó dám viết cái điều đó. Thầy bây giờ, mời Thầy một trăm ngàn lần mà vô cái phòng tắm của người ni, Thầy chả thèm vô dù ở đó cái phòng có sang trọng thì Thầy cũng không thèm nữa, Thầy nói thật đó. Làm cái gì mà vô cái phòng tắm của họ, Thầy đâu có thèm. Ở đây, nhiều cái nó nói Thầy thấy vô lý thật vô lý. Một ông Tăng mà tu cái tâm thanh tịnh không bao giờ họ thèm đến cái chỗ phòng tắm của người nữ đâu, họ chẳng bao giờ vô phòng ngủ của người nữ đâu.  Nói thật sự đó, Thầy nói đúng cách của người Giới luật mà thanh tịnh rồi họ không bao giờ mà có thể nói rằng: Từ cái chỗ họ biết như thế nào, như cái lý của như thế nào của Pháp rồi thì họ biết cái chỗ nào là bất tịnh, chỗ nào mà không bất tịnh, họ biết rồi. Họ đâu có bao giờ họ ngu si, màhọ đem cái thân, cái Tâm của họ vô cái chỗ bất tịnh đó để mà họ nhồi nhét nó thêm đâu. Họ thoát ra được, họ bỏ ra được họ bỏ chứ đâu có lý nào. Bởi vì viết Giới mà sao khôngthấy cái chỗ nào, cái ông mà viết Giới này ông cũng muốn vô phòng tắm của phụ nữ rồi, cho nên ông mới viết như vậy đó. Để mà mình thuyết giảng rồi bắt đầu, phòng tắm của phụ nữ nào là xà bông thơm nè, nào là dầu thơm nè, rồi kiếng soi mặt nè, rồi vô trong đó soi mặt ra rồi cái mặt của mình nó đẹp đẽ lên, cho nên mấy ông cũng khoái lắm. Còn cái phòng tắm của Tăng coi, nó kèm hèm, rác rến, cỏ rác tùm lum nó đâu có bằng bên Ni đâu. Viết như vậy là Thầy thấy thiệt là nó không có có cái lý đúng của sự tu tập, cái chỗ mà ly dục, ly ác pháp của người tu.

 

 

Giới hai mươi bốn, giới cho y Tỳ Kheo Ni không phải bà con.

Vì sao Phật kiết Giới này? Đức Phật cũng vẫn ở tại vườn Cấp Cô Độc. Trong thành có một Tỳ Kheo khất thực, oai nghi đầy đủ. Khi ấy, có một cô Ni thấy mà thường xin, một cô Ni...

(Hết mặt A)

Trong thời đức Phật có nói như thế này nè: Câu chuyện của bà Hoa Ni Sắc tỳ kheo, trong khi đó, trong khu vực nó bị hạn hán, nó bị đói khổ, rồi bà Hoa Ni Sắc tỳ kheo bà đi xin, bà được cái thực phẩm. Do đó có cái vị tỳ kheo đi tới, thì vị tỳ kheo nói: Bà có xin được thì bỏ vào bát tôi đi. Bà này thì bởi vì bên giới Ni mà Bát Kỉnh, thì khi như vậy thì bà trút hết cái bát, đồ bà xin ăn cho cái vị tỳ kheo này. Vị tỳ kheo này mang bát đồ ăn của bà xin được đem về ăn. Còn bà này đi từ hồi sáng đến bây giờ kiếm được có một bát à, rồi đâu có kiếm được nữa bởi vì người ta nghèo đói hết mà, thất mùa mà, cho nên bà mới ngất xỉu, bà ngất xỉu bà nằm dưới đường bà đi, bởi vì đói mà. Cho nên hồi trưa hôm qua ăn tới bữa nay mà xin được có nhiêu đó, ông này ông trút bát ông sớt ông đi rồi. Cũng như con quạ mà bóp cổ con cò ói ra con cá nó ăn vậy mà. Cho nên do cái hành động đó vì vậy mà chúng ta thấy rằng cái vấn đề mà Bát Kỉnh này nó quá sai. Cái ông tỳ kheo mặc dù ít ra thì người nữ người nam thì nó cũng có sự bình đẳng giống nhau, Bát Kỉnh là Kỉnh ông ta thôi, để cho mình có cái lòng cung kính thôi. Cái này cung kính đến có phải cái ông tỳ kheo ông chơi khôn đó, ông chờ cho mấy bà ni đi khất thựcxong rồi về cái kêu bà đó trút vô bát tôi đi. Chơi kiểu đó chết cha! Các con thấy không, cái Giới Luật gì mà đặt kỳ cục kiểu này, mà Thầy nói thiệt đọc Thầy thấy nó bực mình vô cùng. Nó không có chơi cái kiểu đó được, cho nên cái bà này, bà Hoa Ni Sắc tỳ kheo bà xin, bà không có được ăn rồi bà mệt bà đói, bà đi không nổi nữa thì có một vị trưởng giả cỡi con ngựa đi ngang qua thấy sao cái bà ni này sao lại nằm mà gần chết vậy. Mới xuống mới đỡ bà ta, mới đem về nhà, mới cho ăn cho uống bà mới tỉnh lại, mới hỏi ra duyên sự như vậy, do đó mới đến trình Phật. Phật mới chế cái giới này ra.

Thì đây là cái giới, cái giới này, thì như vậy là ở đây cũng có một cái sự kiện như vậy mà mới chế cái giới này ra. Thì thiệt ra Thầy thấy những cái điều kiện mà chế giới của Phật ở trong này, từ khi mình chế Bát Kỉnh ra nó không biết thế nào mà gọi là Bát Kỉnh, người ta không hiểu như thế nào rồi người ta bóp cổ người ta, người ta lấy thức ăn ở trước miệng của người khác. Người ta đi xin cực khổ, mà trong khi mà nó dễ dàng thì không nói mà nó khó khăn thì xin được miếng cơm đâu phải chuyện dễ. Thế mà mấy ông tỳ kheo này ngon lắm, cứ ngồi núp ở trong rào thôi, đợi cho mấy bà ni đi xin mà có đầy bát thì mấy ông ra, thì cái kiểu đó khỏi mình đi chứ gì? Cái giới luật gì mà kỳ cục! Thầy chẳng biết sao mà nói là Bát Kỉnh. Cho nên đọc lại cái chỗ Bát Kỉnh Thầy thấy không có cái điều đó mà mấy ông đó lại đặt trong cái Giới này là có sự kiện xảy ra như vậy, do đó Phật mới chế Giới ra. Thực ra thì cái chuyện họ đặt ra họ đặt sao cũng được khó mà có thể lường được cái tâm con người.

Giới hai mươi lăm: giới may y cho ni không phải bà con.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức Phật còn tại vườn Cấp Cô Độc lúc bấy giờ có cô ni muốn may đại y đem đến trong chùa, Ca-Lưu-Đà-Di nhận may và thêu hình nam nữ hành dâm. Ông này chơi may cái y của mình mà may nam nữ hoặc là Thầy nói thôi thêu trái tim thôi cũng thấy chết được rồi chứ đừng nói chi mà thêu cái hình nam nữ, cái đó thì cũng là cái nói tầm bậy tầm bạ, không bao giờ có cái chuyện đó được hết à. Cô ni đến nhận y dặn không được tự tiện. Khi mà cô này đến nhận y thì ông đó dặn, cái ông Ca-Lưu-Đà-Di này dặn, ở chùa mình chắc cũng có nhiều chùa cũng may y lắm, mà cái ông này cũng chơi cắc cớ cái chuyện đó. Dặn không được tự tiện trải y ra xem nghe, khi nào mà có đông chúng rồi mới trải y ra, cũng không được cho cái người nào, khi nào đến giờ mới mặc mà đi sau chúng. Thì cô ni này kia làm theo cái lời dặn, cư sĩ thấy mới vỗ tay cười. Cô này cũng đâu có để ý được, cái ông thầy này chơi cắc cớ, giễu cợt chơi như vậy đó, may y cho người ta mà diễu cợt như vậy đó, phá, kêu là phá đám! Các ni bạch tỳ kheo, tỳ kheo bạch Phật, Phật mới kiết giới này: Nếu tỳ kheo may y cho tỳ kheo ni mà làm cái kiểu đó là phạm Ba Dật Đề.

Thì các con thấy đâu có cái chuyện mà, bởi vậy Thầy nói có nhiều thầy họ làm hề, làm này làm kia thì cái ông này cũng kiểu mà chọc phá trời đất chứ không phải tay thường đâu. Cái kiểu này cũng là cái kiểu quậy trời quậy nước à. Nghĩa là mấy bà ni này đến nhờ ông may y, ông may y rồi ông thêu tầm bậy, ông dặn người ta như vậy để rồi cho người ta cười chơi. Thì Thầy thấy những cái chuyện tiếu lâm, những cái chuyện cổ dân gian có nhiều cái chuyện mà người ta làm những cái chuyện mà gọi là cười cợt. Sự thực ra một người tu sĩ của đạo Phật đâu có những hành động đó. Cho nên Thầy thấy khi mà nhìn cuộn phim nào ở Thường Chiếu lần đầu tiên đó, Thầy thấy có một ông thầy ngồi ôm cái đầu gối mà làm cây đờn mà kêu là cây đờn cò kêu ò e, ò e đó, thì trời đất, lấy cái đầu gối mình mà làm cây đờn mà gảy mà làm cho chúng cười lộn gan, lộn ruột lên. Thiệt là mình làm hề, làm giễu cho người ta thì cái giới hạnh, cái oai nghi của mình còn ở chỗ nào đâu? Cách thức đó là cách thức phá giới, phá Phật pháp bằng cách đó thì cái ông thầy này á, ông Ca Lưu Đà Di này, cũng là cái loại đó đó, cái loại kêu là phá Phật pháp á. Mà phá ngay bên ni nữa chứ, mới độc.

Thì cái Giới mà chế ra như vậy Thầy thấy hầu hết là cái số mà giễu cợt này thì từ khi vô thì đức Phật đã nhắm vào cái số mà hay có trò phá đời như vậy đó thì ít ra thì phải nói rằng ông Phật ông  phải sửa những cái người này ngay từ lúc đầu. Mình là người tu hành phải nghiêm chỉnh không có được giễu cợt, mà giễu cợt thì đâu phải là cái người tu, thì đâu cần phải chế cái Giới này làm gì.

Giới 26: giới cùng với ni ngồi chỗ khuất.

Vì sao Phật chế giới này? Đức Phật cũng ở tại vườn Cấp Cô Độc, Ca-Lưu-Đà-Di đến nơi cửa ngoài của Thâu – Nan - Đà tỳ kheo ni cùng ngồi một chỗ. Cư sĩ chê hiềm. Các tỳ kheo bạch Phật, nhân đó Phật kiết giới này. Bốn chúng ...(?) phạm ác tác, không phạm có bạn, có người trí, không đui, không điếc hoặc đi ngang qua, xỉu té, bệnh liệt, bị nhốt trói, mạng nặng bị thế lực lôi kéo.

Ở đây Phật chế cái người tu sĩ cùng ngồi với người ni ở chỗ khuất thì bị phạm. Đúng vậy. Mình mà một cái người nam và cái một người nữ, nhất là tu sĩ nữ, mà có hai người mà ngồi ở chỗ khuất. Như bây giờ mình ngồi đây này, có ở bên cái thư viện của Thầy đó, có một ông thầy ngồi nói chuyện với một cô ni, thử hỏi các thầy nghĩ sao với cô đó không, với ông thầy đó không? Tức là phải phạm tội rồi. Bởi vì mình muốn nói là phải có phòng khách, phải có nơi có chốn, mà phải nói phải có hai người, ba người chớ không có thể mà có một mình với cô ta được. Mà hầu như là người ta không có hiểu cái Giới này vì đó là giữ cái phạm hạnh cho chúng ta. Vì cái tâm của chúng ta ngồi riêng với một người khác phái nó hay sanh cái dục, chúng ta đâu phải Phật, chưa phải Phật là chưa ly hết dục mà, làm sao chúng ta hết được, thế mà chúng ta không có thấy được cái quan trọng đó mà chúng ta thấy thích, thích với người nữ, thấy thích với người ni, cho nên gặp thấy người ni là muốn nói chuyện à. Rồi người ni họ cũng thích người nam, họ cũng thích như vậy chứ đâu phải không. Mà trong khi thích thì họ muốn nói chuyện một mình chớ họ đâu muốn nói chuyện với nhiều người, vì nhiều người đâu có dám cười tình cười với nhau được, đâu có dám là háy huýt với nhau được. Còn ngồi một mình thì hai con mắt nó đá lia lịa, rồi cái lời nói nó lại nói những cái lời gì có thể, nó không có sợ hãi. Còn có người này người kia thì đâu có dè dặt được. Cho nên đúng là cái nghĩa của cái người tu sĩ Phật giáo là chúng ta phải sống độc cư, cắt ly không có bao giờ mà nói chuyện với cái người nữ. Không phải là chúng ta sợ, ngay bây giờ chúng ta là những người mới tu chúng ta còn yếu, khi mà chúng ta đạt được thành cái sức làm chủ rồi, tâm bất động rồi thì mặc tình chúng ta gặp. Nhưng mà lúc bấy giờ thì chúng ta cũng chẳng thèm gặp làm gì nữa, đi thì mắt ngó xuống có đâu mà chúng ta ngó qua ngó lại. Còn khi mà chúng ta ngồi nói chuyện làm gì mà chúng ta cười tình với người nữ được, cái tâm dục nó đâu còn mà cười tình với họ được. Cho nên chúng ta chẳng còn sợ nữa. Còn bây giờ coi chừng cái tâm của chúng ta khởi lên với cái nụ cười này, với ánh mắt của chúng ta này, coi chừng nó cười tình, nó liếc tình với nhau đó, rồi nó gây cho chúng ta không bao giờ tu tới đâu được hết. Cho nên ở đây cái Giới luật đó cấm là đúng đó. Thầy công nhận. Những cái nào đúng Thầy công nhận, những cái nào không đúng, Thầy thấy rằng cái giới đó chế ra không có đúng cách.

Giới 27: Giới hẹn với ni cùng đi một đường.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi đó Phật ở nước Xá Vệ, Lục Quần tỳ kheo với Lục Quần ni du hành trong dân gian, cư sĩ chê hiềm. Nhân đó nên Phật kiết giới. Cũng như bây giờ Thầy nói như thế này này, bây giờ chúng ta có hai cái tu viện, một cái tu viện nữ, một cái tu viện nam. Rồi bắt đầu quý thầy mới rủ ở bên nữ đi, nay mình đi Vũng Tàu chơi này nghe, tổ chức đi một cái xe. Rồi bắt đầu bên nữ cũng đi, bên nam cũng đi ra ngoài đó. Bởi vì mình nghĩ rằng mình một thầy một trò mà, một thầy mà, các trò đều là một thầy mà, cho nên cứ việc xả láng với nhau đó, thì cái điều đó là cái điều màmai mốt cái tu viện nó tan nát hết không còn gì nữa. Đó là những cái sai, chúng ta chưa phải là Thánh, nhưng mà khi Thánh rồi chúng ta cũng không bao giờ mà có những cái  chuyện màđi chơi với người nữ như vậy. Cho nên Thầy thấy hầu như các tu viện thiền á, hầu như có cái dịp mà rảnh rang, bên ni với bên nam họ rủ nhau đi chơi. Điều đó là họ tổ chức họ đi du ngoạn, họ đi chơi, họ đi tham quan chỗ này chỗ kia, đi tùm lum, tà la à. Rồi họ cặp nhau họ nói chuyện tầm bậy tầm bạ cuối cùng về Thầy thấy hai, ba cặp ra đời hết, cái chuyện đó là cái chuyện thường thôi.

Hai mươi bảy, giới hẹn với ni cùng đi một đường.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Đức Phật ở nước Xá Vệ Lục Quần tỳ kheo cùng với Lục Quần ni du hành trong dân gian. Cái này rồi phải không các con. Khi ấy tỳ kheo không hẹn mà trên đường đi gặp ni, vì cẩn thận sợ nên không dám đi, Phật dạy không hẹn thì không phạm. Ngài kiết giới này thêm: cùng hẹn khi ấy tăng ni hai chúng đều muốn đến nước Tỳ Xá Ly, do không cùng đi nên các ni phải đi sau nên bị giặc cướp. Đức Phật lại kiết giới thêm trừ trường hợp đặc biệt.

Nghĩa là khi mà cấm cái giới này ni cùng tăng không cùng đi được, do đó ni không dám đi với tăng, cho nên đi sau bị trộm cướp lấy hết đồ đạc, mấy ông tăng đi trước không có ai mà bảo vệ cho mấy người ni, cho nên Phật kiết giới trở lại.

Thực sự ra ở đây Thầy nói, khi mà muốn đi trên cái đường vắng như vậy thì không phải là ni nó không có cái lực lượng của nó đâu. Thầy cho một vài bà ni có võ nghệ coi ba cái thằng ăn cướp nó bẻ đầu hết chứ nó làm gì mà dám hiếp đáp. Thì trong cái giới ni đâu có phải là khi mà họ xuất thân họ vô tu, có nghĩa là họ ở ngoài đời họ có những người họ cũng có những người rất là thông suốt chứ phải không, cho nên họ đi đâu phải đi một mình. Muốn đến cái tu viện, muốn đến thăm Phật thì ít ra họ đi từ mười người, hai chục người thì làm gì cái bọn cướp ăn hiếp họ được. Cho nên đâu cần phải tăng che chở họ. Do vì vậy đó, thì cấm cái giới này thì cấm cùng đi là đúng, nghĩa là Thầy nói cùng đi là đúng. Họ có thể bảo vệ tự họ được, đừng có nghĩ rằng đàn bà họ yếu đuối đâu, họ cầm súng họ bắn giặc được thì tức là họ cũng làm cái gì cũng được, họ làm tổng thống cũng được chứ đâu phải họ làm không được. Họ cũng lãnh đạo chúng ni cũng hẳn hòi còn hơn tăng mình nữa. Thầy thấy bây giờ mấy cái chùa ni coi đông trùng trùng điệp điệp còn chùa tăng loe hoe có mấy ông à, chưa bằng họ chút nào đâu. Họ tổ chức cất chùa cũng vĩ đại, cũng không thua gì mấy ông tăng đâu. Chùa nào họ cũng cất kiên cố. Thí dụ như sư cô Diệu Hoa đệ tử của sư bà Huyền Ngọc, trên đường đi xuống dưới Hóc Môn, các thầy có thấy cất cái chùa ở Vĩnh Phước không. Quá chừng đồ sộ chứ đâu có phải, cô cũng đâu có thua gì bên tăng bao nhiêu đâu. Thầy Nhật Quang làm bao nhiêu cô cũng làm hơn nữa chứ đâu thua. Đó mà thầy Nhật Quang có sự ủng hộ của Hòa Thượng còn cô ta có Hòa Thượng ủng hộ đâu, cô cũng làm cái chùa cũng vĩ đại chứ đâu có thường. Thì thấy như vậy đâu có nghĩa là bên ni họ thua chúng ta chỗ nào đâu, nói về xây cất thì họ đâu có thua. Nhưng mà về cái sự tu hành thì họ đâu có thua gì, trong những cái Thánh ni mà chúng ta đọc thì chúng ta thấy rằng đâu có thua kém gì bên tăng chúng ta đâu. Cho nên đâu có nghĩa là mấy cô đó sợ ăn cướp đâu mà phải nương nhờ mấy ông tăng, bộ mấy ông tăng mạnh lắm sao, đi lớ quớ ba thằng ăn cướp nó cũng xỏ đầu mấy ông hết chứ ở đó mà.

Cho nên Thầy thấy ni nó cũng có trí tuệ, nó cũng có đủ sức của nó nó phải chiến đấu chứ nó đâu có phải, ở đây chúng ta cứ bắt ni nó phải thường nhường, là tại vì nó cũng có bản ngã dữ tợn, cũng có tài ,có ba, bản ngã nó lớn, nó có tình cảm nó cũng sâu cho nên đức Phật mới đặt ra Bát Kỉnh để nó khép cái mình của nó trong khuôn khổ, để cho cái ngã nó dẹp xuống, chứ còn nếu để cho nó mà lừng lên thử hỏi mấy ông thầy nó vuốt đầu hết á. Thiệt ra mà Thầy nói mà, cô Thủy hồi đó đó, như thầy Thông Quả đó với mấy chú nhỏ nhỏ vậy nè, thầy Thông Quả nói cái kiểu mà cô Thủy cô muốn vuốt đầu mấy chú nhỏ hết. Như thầy Thông Không còn nhỏ nhỏ đó, cô muốn rờ đầu mấy chú đó coi như là em út, coi như là con cháu cô không đó. Như vậy là mấy vị đó thọ tỳ kheo rồi mà cô còn vuốt đầu thì mấy thầy biết à. Thầy Thông Quả nói với Thầy mà chớ đâu phải là không có đâu, Thầy nói cái kiểu cô Thủy cô vuốt đầu mấy thầy nhỏ nhỏ này hết. Mấy thầy này thọ tỳ kheo rồi. Chứ cô có quỳ kỉnh đâu. Cô thò tay cô muốn rờ đầu hết.

Đó thì như vậy là cái ngã của bên ni dữ lắm. Mà khi đó các thầy thấy cô Thủy cô thuyết giảng ai cũng ca ngợi cô hết thì bây giờ cô phải là bậc đại sư rồi còn gì nữa, cho nên cô vuốt đầu mấy ông nhỏ này là phải lắm chứ đâu có thường. Phải hiểu được tâm trạng của người ni như vậy cho nên Phật chế Bát Kỉnh là để dằn cái ngã của họ xuống. Họ là những người mà tu chưa chứng thì cái ngã của họ dữ tợn lắm, thì trong cuộc đời chúng ta, chúng ta cũng thấy được cái chỗ đó chớ đâu phải không thấy. Mà thấy được như vậy mới thấy Bát Kỉnh của Phật.

Giới cùng ni đồng đi một thuyền.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức Phật ở tại nước Xá Vệ, Lục Quần tỳ kheo ni đi trên thuyền ngược dòng và xuôi dòng, cư sĩ chê hiềm nên Phật chế giới này. Khi ấy tỳ kheo không hẹn mà gặp ni, cẩn thận sợ không dám đi, Phật dạy không hẹn thì không phạm. Bởi vì mình không có hẹn thì làm sao phạm, bây giờ mình lên xe đụng cô ta ở đâu Tây Ninh, cô ta ngồi sẵn đó rồi. Bắt đầu thấy mặt cô ta cái mình nhảy xuống xe không đi không được. Làm quá thấy cô ta như quỷ sứ vậy sao. Đâu có chuyện đó, cô với mình đâu có quen biết. Có ngồi sát lại tìm cách gợi chuyện à, cô cũng đầu tròn, tôi cũng đầu tròn rồi ngồi nói chuyện với nhau thì không có được. Do đó mình lên xe thì mình thấy cô ta ngồi cái băng đó thì mình ngồi lút ở băng sau hoặc ngồi trước làm sao cho đừng nói chuyện với nhau đó là điều tốt. Còn cái này mình sề lại gần bên đó mình kiếm chuyện nói với cô ta thì cái kiểu đó, làm quen hỏi cô ở chùa nào, ở đâu, này kia, mai mốt tôi có rảnh, tôi có dịp về thăm chùa, thăm cô này kia đó là mình kết bạn, kết tình như vậy là sai. Nó gợi tình gợi cảm như vậy đó là mình không có ly dục, ly bất thiện pháp. Mình biết nó là rắn độc thì mình nên tránh. Còn đằng này mình thấy rắn độc mà mình cứ đến để cho nó quấn đầu mình thì mình ráng chịu. Còn ở đây thì mình thấy như vậy không có nghĩa là Phật cấm cái giới đó cái rồi mình bước lên xe đò cái mình vừa thấy cô ni ngồi trên đó mình lật đật nhảy mình xuống, không được, không được, mấy ôngtôi đi xe sau chứ xe này tôi không đi. Mấy ông lơ hỏi: gì vậy, ở đây còn chỗ mà sao thầy không đi? Nói: không không, ở đây có rắn độc, tôi không dám đi. Thì như vậy là mình nói tầm bậy rồi.

Đó là cái sai, cái không đúng. Cho nên ở đây thật sự ra khỏi cần chế đi nữa Thầy cũng nói mình không hẹn là không có tội lỗi gì hết, mình cứ đi nhưng mà đừng có nói chuyện với họ thôi. Bởi vậy khi mà đức Phật dạy đó: Lỡ mình gặp thì đừng có nói, lỡ mình gặp thì đừng có nhìn, mà lỡ nhìn rồi thì đừng có nói chuyện. Phật đã dặn mình trước rồi, bây giờ lỡ mình thấy nó rồi thì mình đi ra xa chỗ khác, mình đừng có nhìn nó nữa, và mình đừng có nói chuyện với nó thì đâu có sao. Tới chừng đó mình tới chỗ mình xuống, còn nó tới chỗ nó nó xuống khỏi cần ai nói chuyện với ai hết. Đó là cái phòng hộ sáu căn của mình ngay từ cái đó đó. Đó là những cái pháp Phật dạy phòng hộ sáu căn.  Đó thì những cái giới này có chế đi nữa, có chế qua chế lại đi nữa, hẹn thì tức là lỗi rồi đó, mà không hẹn thì làm sao có lỗi được, cho nên vì vậy mình cứ mặc nhiên không có gì mà lo. Đó là những cái đó khỏi cần chế những cái giới làm gì cho mất công, cho nó nhiều, để rồi mất ngày giờ mà tụng giới, học mất thì giờ.

Giới ni khen ngợi được thức ăn ngon.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức Phật ở tại nước Xá Vệ, bấy giờ trong thành có một cư sĩ thỉnh ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên dùng cơm, Thâu – Lan – Nan - Đà ni đến trước nhà kia nói với cư sĩ rằng: Hai tôn giả là người hà tiện lắm, khen Đề - Bà - Đạ t- Đa là một bậc rồng, một loại rồng lớn. Khi đang nói thì hai tôn giả đến, cô ta liền đổi lại nói là bậc rồng trong loài rồng đã đến. Cô này khéo miệng dữ lắm. Hai tôn giả thọ trai rồi về bạch Phật. Phật quở trách bè đảng của Đề Bà Đạt Đa cho ni đi khuyến hóa để được ăn, nhơn đó Phật kiết giới. Sau đó có tỳ kheo trước không biết là do ni khuyến hóa ăn rồi cầu sám hối. Phật dạy không biết không phạm. Phật kiết giới này lại thêm chữ biết thay chữ sai. Lúc ấy trong thành La-Dịa có một trưởng giả là bạn thân của tôn giả Lê-Sư-Đạt nghĩ rằng nếu Lê-Sư-Đạt đến ta sẽ vì tôn giả từ đầu đến cuối cúng dường cho chúng tăng. Một cô ni biết việc đó nên thấy tôn giả đến thành liền báo cho trưởng giả hay để sắm phẩm vật cúng dường, tôn giả cho đó là phạm giới, do lời khen của ni mà được ăn nên không dám ăn. Phật dạy nếu đàn việt có định trước thì không phạm. Phật kiết giới này là một lần nữa mới hoàn thành.

Thì cái giới này thì các con thấy, hầu hết là cái giới ni nó hay làm môi giới lắm, nó đến với phật tử nó nói ông thầy đó tu vậy vậy đó, nên cúng dường cho ông ta. Bữa nay mà ông đến đây mà ông thăm gia đình thì phải làm cái gì cúng dường cho xứng đáng, nó giới thiệu này kia để cho ông thầy đó. Tức là nó có cái tình cảm với ông thầy đó nó mới giới thiệu như vậy, nó mới làm cái chuyện như vậy. Do những cái chuyện như vậy đó mà Phật chế giới là khi cái người ni mà giới thiệu như vậy thì ăn chúng ta cũng không ăn nữa, mà lãnh cái gì nhận cúng dường, không có lãnh, mà nếu lãnh thì phạm tội. Thì do như vậy là đức Phật cấm cái điều mà khi mình đến để cho tự nhiên người ta cúng dường mình hơn là có người giới thiệu rồi mình đến thì người ta cúng dường mình bằng cách là thực phẩm ngon, bằng cách là đồ đạc tốt, dược phẩm tốt, thì cái điều đó là có cái người giới thiệu, thì họ phải sắm sửa cái đó. Còn tự nhiên mình đến, họ thình lình, họ cúng dường mình với tư cách là họ không có đặt trước không có nghĩ trước cho nên nó không có phải sắm sửa trước, vì vậy đó là giới của Phật để chúng ta đến một cách rất tự nhiên và tu một cách rất tự nhiên.

Ba mươi: Giới hóa thọ cúng một bữa.

Vì sao Phật kiết giới này? Xưa Phật ở tại nước Xá Vệ, lúc ấy ở nước Câu-Tát-La có một cư sĩ ở nơi không có trú xứ của tăng, thường cung cấp cho tỳ kheo một bữa ăn. Lục Quần đến nơi đó tham đắm thức ăn ngon, ở lại đến đêm thứ hai do không chịu đi, cư sĩ chê hiềm. Đức Phật vì vậy mà kiết giới này. Khi ấy ngài Xá Lợi Phất đến đó rồi mắc bệnh, sợ phạm giới này ngài liền phải dời đi, do vậy mà bệnh nguy kịch, do nhân duyên đó mà Phật kiết giới lại thêm vô chữ: vô bệnh.

Cái giới này là tại vì khi cái du tăng khất sĩ trong thời đức Phật họ đến cái chỗ này rồi vài ba bữa rồi họ xin họ đi chỗ khác, còn mình thấy ở cái chỗ này cúng dường đồ ăn ngon, rồi ở miết ăn đó thì cái người cư sĩ ngày nào họ cũng cung cấp riết họ thấy họ bực mình họ nói: mấy ông này nghe nói du tăng khất sĩ chứ ông có du tăng gì, ông ở đây ông ăn được rồi ông cứ ăn riết hoài không có chịu đi. Đó là do cái chỗ đó mà Phật chế giới này, vì vậy mà khi đó ông Xá Lợi Phất ông đến cái chỗ đó mới có một bữa, hai bữa à mà bây giờ ông gặp bệnh do vì vậy đó mà ông cũng phải đi chớ không dám ở. Ở người ta nói mấy ông này du tăng khất sĩ mà cứ ở đây miết đây ăn hoài, thì mang cái tiếng, cho nên vì vậy đó mà ông Xá Lợi Phất bị bệnh mà đi. Cho nên Phật mới chế trở lại: vô bệnh thì đi mà có bệnh thì ở lại. Đó là như vậy.

Thì trong cái giới này Thầy thấy đó là cái đời sống Phạm Hạnh. Đúng vậy, chúng ta ở một chỗ nào thì chúng ta tiêu phí bao nhiêu cái mồ hôi nước mắt của người khác, mà ở lâu thì người ta nghèo đói, cho nên chúng ta phải đi chỗ khác, không có ở một chỗ. Vì vậy mà cái khi đó, người ta cúng dường mình một ngày, hai ngày là người ta đã thấy cái ngân quỹ của gia đình người ta cũng quá kém khuyết rồi, mình đi chỗ khác để nhờ người khác nữa, chớ còn ở một chỗ thì người ta phải kiệt quệ, gia sản người ta phải tiêu vì cái lòng ngưỡng mộ Phật pháp mà người ta cúng dường mình, cho nên cái đoàn du tăng khất sĩ của Phật có lẽ là qua một cái bài này Thầy nghĩ rằng người ta ở đó chắc cao lắm cũng chừng năm ngày, mười ngày là hết sức chứ không có ở lâu, mà đi chỗ khác.

Mà với một số lượng đông như vậy mà gặp cái chỗ nghèo thì càng đi mau, có thể ở đó chừng một ngày, rồi xin được bữa ăn rồi họ đi chỗ khác vì thấy nghèo quá. Còn chỗ nào mà trù phú, đầy đủ gạo thóc thì chắc có lẽ ở đó lâu, hoặc là an cư kiết hạ đó ba tháng. Chứ còn ngoài ba tháng an cư kiết hạ là lâu nhất, chứ còn chắc ở chỗ này chừng vài hôm hoặc chừng năm mười hôm rồi đi chỗ khác. Đó là trong cái đời sống du tăng khất sĩ thời đức Phật, khi đọc qua mẩu chuyện của thánh tăng và những cái mẩu chuyện mà ở trong kinh giới thì chúng ta thấy đời sống nó rất là phù hợp cho cái sự giải thoát của sự tu hành của mình.

Giới ba mươi mốt: Giới cùng phụ nữ đồng đi một đường.

Vì sao Phật kiết giới này. Khi Phật vẫn ở tại nước Xá Vệ, bấy giờ tôn giả A-Na-Luật trên đường đi có một phụ nữ cùng với mẹ chồng cãi lộn, muốn về lại phía ngoại, bèn đi theo cùng đường với tôn giả, người chồng của bà ta rượt theo gọi tôn giả dụ vợ mình cùng đi trốn, bèn đánh tôn giả gần chết. Tôn giả liền đứng qua một bên đường nơi chỗ vắng ngồi kiết già nhập hỏa quang tam muội, người đàn ông kia sanh thiện tâm, đợi tôn giả xuất định đảnh lễ sám hối. Tôn giả vì ông mà nói diệu pháp cho nghe rồi đi. Khi về chùa nói lại cho các tỳ kheo nghe. Các tỳ kheo bạch Phật, Phật nhơn đó mà kiết giới.

Thật sự ra cái câu chuyện này đặt giới này Thầy thấy một vị mà tu sĩ như ông A Na Luật có thiên nhãn siêu nhiên thuần tịnh, thế mà không hiểu được cái nhân quả hay sao? Cùng đi trên một cái đường có một cái người nữ đi cùng bà mẹ chồng, bây giờ đó vì cái hiềm hận nào đó mà bà ta bỏ mẹ chồng đi qua cái nẻo khác với ông A Na Luật thì lúc bấy giờ ông A Na Luật ông điên gì mà ông đi cùng với bà ta sao? Ông là một người trí tuệ, là một cái người hiểu biết nhân quả thì ông biết rằng bây giờ đi với bà ta, cái chuyện này hồi nãy là bà mẹ bà chửi cái bà dâu này dữ tợn rồi, bà này bà buồn bà bỏ đi, mà bây giờ mình cứ đi chung với cái bà này thì biết đâu chừng bà mẹ bà nghi rằng mình dụ con dâu của người ta, có nguy hiểm không? Đây là cái hành động đi trên đường mà tỉnh thức chúng ta vẫn xét qua nhân quả, chúng ta vẫn biết có thể tai họa đến cho chúng ta. Một người ngu si như Thầy nè mà Thầy làm cái việc gì Thầy cũng nghĩ đến hậu quả của nó, đến cái sự suy nghĩ của nó như thế nào để đem đến cái tốt hay cái xấu chứ. Mỗi một lời nói ra Thầy còn phải suy nghĩ à bây giờ lời nói đó nó nằm trong cái nhân nào, cái quả nào chứ, không lý nào ông A Na Luật là một bậc thánh tăng, một vị đệ tử ở thời đức Phật, ông không hiểu đường đi nhân quả hay sao, ông không biết sao? Để tới chừng mà ông chồng ông theo ông đập ông gần chết rồi ông mới ngồi ông nhập định hỏa quang tam muội để ông phục hồi lại thì thiệt là ông này đời cho tới chết rồi ông mới có chuyện làm đó, làm cho ông kia hoảng hồn mà đảnh lễ ông. Thì đây là muốn nói chuyện về thần thông chơi chứ có nghĩa lý gì. Chứ ngay từ đầu là người tu sĩ người ta đã ý tứ rồi, người ta biết là cái bà này là như thế nào rồi, con người này như thế nào rồi, người ta biết ngay cả tâm trạng. Mà có thiên nhãn như vậy rồi thì làm sao mà không biết, tâm tham biết tâm tham, tâm sân biết tâm sân, tâm gì biết tâm gì của người khác hết rồi, thì làm gì đâu có lý nào mà không rõ nhân quả. Cho nên kiết giới như vậy là kiết giới để hạ những bậc A-La-Hán trong thời đức Phật đó, Thầy nói thẳng. Xem người ta là những bậc thánh tăng, phải chi mà đưa cái ông nào khác ra như ông Đề-Bà-Đạt-Đa hoặc là cái ông tỳ kheo nào hoặc như Lục Quần tỳ kheo đi cũng được thì Thầy cũng cho được, đằng này xách cái ông A Na Luật ra mà đưa vô chỗ này thì thiệt là hạ các bậc A-La-Hán trong cái thời đức Phật, những bậc thánh tăng mà chúng ta thường phải là tán thán và ca ngợi những cái hạnh tu.

Các thầy nhớ ông A Na Luật mà sống với ông Kim tôn giả, ông A-Nan-Đà tôn giả, mà ba vị mà sống chung nhau một cái nhà mà độc cư hoàn toàn không nói, ba năm mà không nói chuyện, cái hạnh đó chúng ta thấy phải đâu là dễ làm sao, sống chung nhau mà không nói. Người nào cũng trình bày con sống con tùy theo cái tâm của huynh đệ con, con không sống cho cái tâm của con. Câu nói đó Thầy thấy người mà sống mà tùy thuận ở tâm người ta, ở ý kiến người ta để sống thì làm sao mà lại không có thấy được cái nhân quả. Người ta thấy được nhân quả cho nên người ta sống được với cái ý kiến khác người ta, không sống với ý kiến của mình là người đã hiểu nhân quả. Còn cái người chưa hiểu nhân quả sống với ý của mình không à, cho nên đem lại bao nhiêu cái sự khổ. Còn cái người mà người ta, bởi vì Thầy dạy nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng nè.Mà cái tùy thuận thì đó là chúng ta sống trong những cái ý của những người khác, mà ông A Na Luật đã trình bày cho Phật: con sống giữ độc cư, sống không nói chuyện với nhau là con đã sống tùy thuận ở ý của các tôn giả khác, của hai tôn giả kia, cho nên chúng con sống rất là an ổn. Rồi hỏi hai tôn giả kia, thì hai tôn giả kia cũng trình bày, con cũng sống tùy thuận lại cái ý của các tôn giả khác cho nên con rất an ổn không có gì.

Thật ra chúng ta bây giờ ở trong tu viện chúng ta mười mấy vị này, mà chúng ta sống tùy thuận với ý của người khác làm sao chúng ta có nghịch ý không? Tại vì mình không có tùy thuận được ý người ta cho nên mình mới sống không có... Mà lại ở trong luật này lại lôi ông này ra thì Thầy thấy qua cái hạnh của ông là tuyệt vời, tức là ông đã sống trong nhân quả rất rõ. Tùy thuận, tùy thuận tức là chúng ta đã dừng cái ác, cái con đường, cái nhân quả ác mà chúng ta sống trong con đường thiện. Rõ ràng là chúng ta phải thông suốt được cái chỗ sống này mà chúng ta biết được là mấy ông này là những bậc mà thông suốt nhân quả. Bởi vì cái đường đi nhân quả nó vẽ cho chúng ta thấy rất rõ ràng, cái sống của người nào, chúng ta biết cái người đó đã rõ. Vậy mà lôi ông này ra đợi tới chừng đập gần chết ông rồi ông mới nhập cái định hỏa quang tam muội để rồi  phục hồi sự sống ông lại, làm cho ông kia thấy mới hoảng hồn sám hối, thì cái chuyện đó là lấy thần thông dọa người ta chứ người ta có sợ ông đâu. Ông là cái người mà dẫn vợ tôi thì tôi đập ông chứ có tha ông đâu, bây giờ ông làm bộ ông hiện thần thông, ông niệm chú gì đây, ông làm cho tôi sợ. Rõ ràng thì chỉ biết lấy cái thần thông để dọa người ta chứ không phải lấy nhân quả để mà sống đúng. Cho nên giới luật như vậy là Thầy thấy chỉ có người sau mới làm cái chuyện này mà phỉ báng những bậc thánh tăng trong cái thời đức Phật. Qua một cái giới là đã thấy họ đã phỉ báng Phật pháp chúng ta rồi.

Ba hai: Giới lần lượt ăn.

Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật ở thành La Việt, do chuyến du hóa nhân gian, có Sa-Nậu bà la môn chở 500 chiếc xe thực phẩm chở thức ăn, trải qua mùa đông đến mùa hạ đến bên cạnh Thế Tôn chờ đợi được cúng dường mà không có ngày nào mà không có người cúng. Người ấy đến nói với tôn giả A-Nan thay mặt bạch Phật muốn dùng thức ăn này trải nơi đất để đức Phật và tăng đi qua gọi là nhận sự thọ dụng cúng dường. Đức Phật bèn cho phép nấu cháo, làm bánh cúng chư tăng, sau khi ăn sẽ thọ thời thực. Khi ấy nước Tần Già có một đại thần có một chút lòng tin sắm những thức ăn ngon mời tăng, song tăng cũng dùng cháo đặc nên không thể ăn nhiều được, đại thần chê hiềm. Phật chế không cho phép ăn cháo đặc.

Cái đó là cái sai, ông Phật mà chế như vậy là Thầy thấy là quá sai rồi, không có cho ăn cháo đặc. Bây giờ có đồ ăn của ông quan đại thần cúng ngon quá rồi chế giới cấm không cho ăn cháo đặc, cháo dở. Do cái lòng cúng dường của người ta mà như vậy Thầy thấy thật sự cái lòng cúng dường của người cư sĩ này họ kéo 500 cái cỗ xe đến, bây giờ chỉ còn nấu cháo đặc ăn, nhiều đồ ăn quá rồi ăn không hết rồi giờ nấu cháo đặc để cho mấy người này ăn thì như vậy tới chừng có vị đại thần cúng thì lại cấm không cho ăn cháo đặc nữa, đem phí bỏ cái của mà 500 cỗ xe thực phẩm của người này đi. Thì như vậy ông Phật là cái gì? Thầy thấy cái đó là trật. Bây giờ ông A-Nan vô nói bây giờ có một vị cư sĩ đó họ kéo 500 cỗ xe đến để cúng dường trong cái mùa hạ này cho chư tăng ăn, thì như vậy là đức Phật phải phân bố: Bây giờ các ông chưa cúng dường là các ông chưa được nấu, phải không. Các con thấy không, đây là người ta kéo từ xa người ta đến đây rồi, người ta có cái lòng. Bây giờ mấy ông xin cúng dường, ngày hôm nay mấy ông dừng lại, tôi chấp nhận cho cái vị cư sĩ này đem những thực phẩm này nấu, hoàn toàn là 1250 vị tỳ kheo thọ dụng của cái ông này, cái lòng của ông đó từ hôm ấy đến nay ông chờ cả tháng rồi, bây giờ bắt đầu cho ông cúng dường rồi ông về chứ không lẻ ông cứ neo ở hoài lại đây. Còn mấy vị ở đây thì tuần tự mấy vị sẽ cúng dường, không có lật đật gì hết. Cái đó lẽ đương nhiên là đức Phật phải truyền lệnh rồi. Ông Phật gì đến độ gì không thấy gì hết, rồi bắt đầu bây giờ mới cho người ta nấu cháo để mà đổ trên đất để cho các vị  tỳ kheo đi trên đó là đủ rồi để mà coi như thọ dụng cúng dường rồi. Rồi trong khi ăn đồ ăn lại thọ thêm mỗi người bát cháo để cho cái chứng minh vậy thôi, có phải phí của người ta không? Mồ hôi nước mắt người ta làm ra, mà ông Phật như vậy là ông Phật là thứ gì?

Cho nên đối với Thầy nếu mà cái giới này mà do ông Phật làm ra là Thầy cũng quật ông Phật này luôn chứ đừng nói chuyện Thầy tha. Của mồ hôi nước mắt người ta làm ra mà, ít ra mình cũng phải bây giờ người ta có cái lòng tin tưởng mình đến cúng thì mình ngăn mấy người này đi, mấy người khoan nấu đã, ngày mai này tôi chấp nhận cho 500 cỗ xe bò này cho 1250 vị tỳ kheo này thọ dụng cái của này nè, lòng cúng dường của họ nè, thì ngày mốt quý vị sẽ bắt đầu quý vị tiếp tục cúng dường. Đó là cái lệnh của đức Phật mà, đâu có làm cái chuyện đó được. Vì vậy mà đâu cần phải chế cái giới này. Thì Thầy nói đó như vậy là chúng ta phải thấy được cái tổ chức của chúng ta có cái nghiêm chỉnh hẳn hòi, đàng hoàng chớ đâu phải là bây giờ người ta cúng nhiều quá rồi cái mình đem đổ đồ ăn xuống để mình đi trên đó để coi như mình thọ dụng. Phí quá vậy, đâu có được cái chuyện đó đâu. Đó là cái giới đó.

Giới thứ ba ba: Giới riêng cho chúng mà ăn.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi đó đức Phật ở tại núi Kỳ Xà Phật, Đề Bà Đạt Đa bị tiếng xấu truyền khắp, phương tiện sống bị chấm dứt bèn cùng năm tỳ kheo nhà nhà khất thực, Phật nhơn đó mà kiết giới này. Nếu tỳ kheo biệt chúng phạm Ba Dật Đề, khi ấy có tỳ kheo bệnh không dám biệt chúng thực, Phật dạy cho phép tỳ kheo bệnh được ăn riêng. Khi ấy tự tứ xong trong thành Ca Đề khi may y có ưu bà tắc sợ tỳ kheo vất vả không ăn được nên mời ăn, các tỳ kheo nói chỉ thỉnh ba vị ăn, chúng tôi không được biệt chúng thực. Phật dạy cho phép khi may y được phép thọ biệt chúng thực.

Ở đây Thầy thấy cái chế giới như vậy là quá lợi dưỡng cho cái người sau này mà người ta lợi dụng cái giới luật của Phật mà người ta làm không có đúng cái cách mà những cái giới như vậy. Thí dụ như bây giờ đó đức Phật chế ra cái giới là cái người biệt chúng đó là tức là bị phạm cái giới nào đó, người ta cho biệt chúng cái người đó là ở một nơi nào đó. Thì cái người đó họ vẫn đi khất thực hàng ngày họ sống chứ, tại sao không cho họ đi khất thực, rồi ai đem cơm cho họ ăn. Đó là cái riêng. Rồi bây giờ khi mà họ bệnh thì lại cho họ ăn riêng ra, họ bệnh thì họ cũng ăn một bữa. Chừng nào mà,khi nào màhọ thấy rằng bữa trưa họ ăn không được do đó họ cần phải uống thuốc hay cái gì đó để họ ăn thêm hoặc ăn cháo gì đó cho họ khỏe thì họ khai cái giới ra, chứ cần gì mà phải chế giới ra như vậy, nó luộm thuộm, nó đủ cách như thế này. Thật ra chế giới như vậy nó không có đúng cách. Bởi vì khi thí dụ như mình bệnh, ngày hôm nay mình uống thuốc, ngày mai nó bớt thì mình cứ giữ ngọ mình ăn, mình đâu có gì mình phạm mà phải chế tới chế lui, cho nên chế như vậy đó, để rồi người ta lợi dụng bệnh người ta ăn riêng, người ta ăn hai ba bữa, người ta bị bệnh phải ăn cho nó mau khoẻ. Sự thật ra không phải đâu. Ở đây là mấy vị sau này bày đặt ra đủ thứ để mà phá giới của Phật đó, phá giới ngày ăn một bữa. Bởi vì chính nó ăn ngày một bữa là ly dục, vì vậy mà dù chúng ta có uống thuốc, có gì đi nữa thì chúng ta cũng chỉ khai giới ra, bây giờ trong cái buổi chiều này mình không có ăn nè, mình khai giới ra, mà vì uống thuốc đó nó sẽ cào bao tử mình nè, mình khai cái giới ra, khai rồi bắt đầu mình lấy ly sữa hay gì đó mình uống thuốc với cái ly sữa đó, xong rồi thì coi như mình vá lại liền, tức là từ đây về sau không có ăn uống phi thời nữa vì mình uống thuốc rồi và cái ly sữa nó bảo đảm cho cái bụng mình không bị cào, do đó mình khai ra, mình khai rồi mình đóng liền.

Như vậy là đúng rồi còn bày đặt chế... cho ăn riêng, ăn riêng để rồi ăn riêng tư để rồi lát ăn nữa, lát nữa ăn nữa. Cái bụng của mình, cái tham dục của mình mà, biết chừng nào mà cái miệng của mình nó mới dừng lại được, nó khoái ăn lắm. Mà cho nó cái giới riêng biệt như vậy rồi bắt đầu nó lợi dụng cái đó nó ăn lia lịa rồi bắt đầu nó cứ nằm dật, nằm dựa đó nó cứ bệnh hoài đó chặp nó ăn. Cái đó là cái bệnh ăn chứ đâu phải là bệnh. Còn người ta bệnh thật là người ta khai ra rồi người ta uống thuốc rồi người ta vá lại liền, người ta đóng lại liền. Đó là những người bệnh thật mà người ta biết trì, phạm, khai, vá cho đúng cách của nó, thì đó là chúng ta đâu có cần gì phải phạm mà phải đem ra xử phạt tội này, tội kia. Đó thì như vậy là chúng ta thấy được những cái điều kiện mà chúng ta cần phải học giới.

Đến chỗ này thì Thầy xin dừng lại, chiều nay chúng ta sẽ học tiếp nữa.

Bây giờ Thầy tiếp tục giảng cho mấy con nghe tiếp tục về cái giới bổn. Trước khi mà nghe giới bổn thì Thầy cũng nhắc nhở cho các con thấy con đường tu theo đạo Phật. Vừa rồi buổi sáng trước khi mà học về cái giới bổn thì Thầy cũng tóm lược lại cho các con thấy rằng mới bước đầu chúng ta phải tu cái gì, tập luyện cái gì rồi sau đó chúng ta mới tập những cái xa hơn. Thầy có cho về cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định. Thầy có nêu ra 10 cái điều kiện mà tu tập cái Chánh niệm tỉnh giác định và cái định Vô Lậu thì Thầy cũng có nêu ra 10 cái điều kiện để mà chúng ta tu cái định Vô Lậu. Nếu mà Thầy ngồi mà soạn ra cho các con tu thì cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định nó không phải 10 điều đâu, cả hai ba chục điều kiện để mà chúng ta tu hàng ngày chứ không phải là ít. Và cái định Vô Lậu cũng rất nhiều chớ không phải ít. Vì các pháp...mà các phápnó làm cho chúng ta sanh ra lậu hoặc, do đó chúng ta phải tùy theo các pháp mà đặt niệm để mà tu cái định Vô Lậu quét sạch.

Cho đến bây giờ chúng ta khi mà nghe được cái giới bổn thì chúng ta hầu hết các giới là đều có cái sự mà vô lý hết sức, đặt vô lý. Và cái người mà phạm giới thì chỉ có một cái số quanh quẩn, chỉ có một số rất ít, mà tại sao là khi những cái người đó phạm giới như vậy mà không tống cổ họ ra khỏi cái tu viện để cho cái tịnh xá nó bị tiếng tai thế này thế khác, cũng chỉ có bấy nhiêu cái người đó mà thôi. Cho nên vì vậy muốn mà thanh tịnh, muốn không có chế cái giới bổn thì chúng ta đã có những cái giới kinh, những cái giới kinh là những bài pháp chúng ta đã tu học thì nó đã giữ gìn cái thân và cái tâm chúng ta thanh tịnh, ly dục ly ác pháp rồi, cần gì mà phải chế giới bổn. Mà nếu mà có chế giới bổn đi nữa thì cũng phải chế như thế nào để cho nó phù hợp, nó làm cái hàng rào hoặc làm một cái tường đồng để ngăn chặn những cái điều mà các pháp ở bên ngoài có thể xâm chiếm vào tâm của người tu sĩ. Để trở thành người tu sĩ rất khó khăn để ly dục ly ác pháp. Thì như vậy mới chế giới bổn. Còn chế giới bổn gì mà còn rộng rãi rồi còn thêm, còn bớt.

Cũng như bây giờ chúng ta ly dục, ly thì thiệt ly đi, còn không thì còn nhỏ giọt, nhỏ giọt. Cũng như bây giờ chúng ta ăn ngày một bữa mà rồi chế giới để bớt đi, để sáng chúng ta còn ăn tiểu thực, rồi chiều chúng ta còn uống sữa, uống cafe hoặc là uống nước sinh tố, trái cây gì đó. Làm như vậy cũng như là thôi thà chúng ta sống ngoài dục lạc ở thế gian đi, chúng ta ăn uống ăn cho đã đi. Tu thì tu cho thiệt tu đi, còn đằng này cứ nhỏ giọt nhỏ giọt nó thèm thấy mồ à. Uống một ly đâu có đã, nó muốn uống năm ba ly chứ đâu phải uống ly mà cứ nhỏ từng giọt như vậy thử hỏi có gẹo gan không? Thì như vậy làm sao mà tu hành. Thầy nói thật sự thà dứt là dứt mà không dứt thì thôi, còn cho bày đặt uống buổi chiều, uống buổi chiều, uống nhiều thì không dám sợ no bụng ngồi thiền không được, hôn trầm, còn uống ít ít, ít ít nó cứ thèm hoài. Người ta cứ uống, uống đã nó không thèm còn mình uống ít ít nó cứ thèm hoài, nó muốn uống hoài à, do đó coi như là gẹo gan cho dục lạc nó dẫn dắt chúng ta chứ làm cái gì. Cho nên Thầy thấy chế giới kiểu đó riết mấy ông tu sĩ phạm giới hết là phải. Bởi vì những người sau họ chế giới tầm bậy tầm bạ, họ làm cho cái người đời sau tu không được, phạm giới hết.

Do vì vậy đó mà hôm nay thì trước khi học đó, Thầy muốn hỏi các con cũng như bên nam, thì ai có điều gì muốn thưa hỏi Thầy. Bởi vì thời gian Thầy thấy nó quá ngắn rồi, còn có mười mấy ngày nữa mà nó hết cái mùa hạ rồi, hôm nay là 28, 29 rồi, thì con 14...Tới ngày 14 là Thầy giải hạ để cho quý thầy còn về chùa cúng rằm nữa chứ để không cái chùa vắng hoe, không có ai cúng quải gì hết. Thì người ta nói tu thiền riết rồi cái chùa bỏ.

Tu sinh hỏi:

Con tu định vô lậu, trước kia thì con tu như mấy cái bài Thầy dạy mấy vị Thánh ni hồi trước thời đức Phật đó, thì tu định vô lậu như định bốn sự thật, tứ bất hoại tịnh. Con quán hai cai đề tài đó rồi con tu, rồi con ngồi con đặt niệm trước mặt, con ngồi 30 phút rồi con quán thân vô thường, các pháp cũng vô thường, vô ngã không có thật, con quán đủ thứ hết để mà con cho thấu triệt được cái lý đó, con xả bỏ rồi con quét sạch nó ra, con tu như vậy thời gian một tuần lễ thì con thấy kết quả nó không được khả quan lắm cho nên con rồi đổi lại con tu.

Bởi vì con thường thường tối con nằm ngủ con theo dõi hơi thở đó, con để ý con theo dõi hơi thở thì cái tâm nó yên lặng lắm, rồi con đổi lại con ngồi ghế dựa hay là con nằm con quán xét tâm con đó Thầy, coi nó khởi nghĩ những cái gì, nếu nó khởi nghĩ ra rồi con xét coi nó là tham sân, hay là thương ghét, hay là si mê, những cái gì dục lạc thế gian đó, thì con cũng dứt bỏ nó.

Con cũng thường đem tâm ý con quán như vậy thành ra cái tâm nó được yên ổn rồi nó không có còn lăng xăng như trước. Cái tưởng thưa Thầy, cái ý mình không có làm việc thì cái tưởng nó ưa xen vô. Mấy hôm con quán về tâm thì cái ý thức nó làm việc thường xuyên đó, khi con ngồi con thở bình thường con cũng theo dõi hơi thở, rồi cái ý nó cũng nương theo đó nó quán xét cái tâm coi nó nghĩ cái gì, nó khởi cái gì. Mà nó khởi nghĩ lên thì con đoạn dứt nó. Mà khi con quán xét như vậy thì ít có khởi nghĩ, nó cứ theo dõi hơi thở bình thường thì nó yên ổn. Rồi như hôm trước thì Thầy dạy con tu tác ý để cho hơi thở ngừng nghỉ đó.Thì sau này con nghe Thầy dạy như thầy Thiện Thuận mà thầy tu rồi thầy tịnh chỉ được hơi thở mà âm thanh còn nghe, thầy bị tẩu hỏa nhập ma đó, thành ra con sợ âm thanh khi còn nghe, mình tịnh chỉ rồi sợ tẩu hỏa nhập ma cho nên con hổng dám ám thị tịnh chỉ nữa mà con chỉ ám thị cho dừng âm thanh đó, dừng âm thanh cho nó không có tác động vô. Cũng như con biểu cái nhĩ căn nó quay vô trong nó nghe hơi thở đi, thì hôm rày con quán như vậy chứ con không có ám thị tịnh chỉ.

Rồi con ám thị như vậy thì nó có hiệu lực lắm, nó quay trở vô liền Thầy, con vừa ám thị nó gom chặt thật chặt nó quay trở vô,  thì âm thanh những tiếng động nhỏ con cũng hổng nghe như là heo kêu rồi thì con cũng không có nghe nữa. Nó gom thật chặt, gom cứng lại luôn, mà giờ con bảo giờ quay vào trong nghe, nó quay vô liền, đó thì con thấy nó rất là hiệu quả hơn trước nhiều lắm.

Đó thì hôm rày con tu như vậy, con tu hơi về thở chậm nhẹ đó thì ban đầu vô nó chừng hai chục giây, mới vô tu thì con thở ba giây bình thường, con thở chừng năm phút thì con thở chậm nhẹ chừng hai chục giây, lần lần tới chừng ba mươi phút nó nhẹ hơn, nhẹ thật nhẹ, nó chậm thật chậm, thì con thở chừng chắc gần 1 phút/ hơi thở đó Thầy. Thì thấy hơi thở rất là nhẹ, rất là chậm, mà con hổng biết là nó mấy giây, chắc có lẽ cũng gần một phút. Như vậy thì con thấy cái tâm con rất là yên lặng, nó tỉnh thức là nhờ mấy bữa rày con tập hơi thở, mà ngủ con cũng theo dõi hơi thở thưa Thầy, cũng để ý lưu ý theo hơi thở bình thường đó, rồi tâm mình nó tỉnh thức lắm. Tưởng thức nó cũng ít có đánh vào nữa, khi tu thì cũng nhờ mấy hôm rày, mấy bữa mà nó rất là kết quả, nó ít có tưởng vô.

Lúc trước thì con có trình với Thầy, con ngồi có mấy hơi thì tưởng vô, con đưa ra nó dập một cái nó đi ra luôn cả tiếng đồng hồ không có thở vô được đó Thầy. Con tin rằng cái đó là tưởng, cho nên nghe thầy Thiện Thuận mà tịnh chỉ được thì con hiểu chắc đó là do tưởng chứ không phải là do sức Định thật. Cho nên hôm rày con không có dám ám thị. Nếu mà con không trình Thầy, Thầy không có dạy con  thì hôm rày chắc con cũng có tịnh chỉ được cái đó rồi đó, do tưởng chứ không phải do định thật. Tưởng nó vô thật lẹ, thành ra con tu như vậy. Con trình Thầy coi có phải như vậy được hay là không, Thầy chỉ dạy cho con".

Trưởng Lão trả lời:

Bây giờ Thầy sẽ trả lời cho cô Diệu Hồng, cũng là trả lời chung cho các con để các con chuẩn bị cho cái sự tu tập của mình cho nó đúng cách, coi vậy chứ trong cái sự mà tu tập nó không có đơn giản. Còn Thầy ở đây thì các con có nghe cái lời mà thuyết giảng của Thầy á, có Thầy còn sửa, mà nếu mà không có Thầy thì khi đó thì các con không có biết đâu mà sửa hết. Mặc dù cái lời giảng của Thầy nhưng mà tới dù sao đi nữa Thầy Thấy cái trách nhiệm của Thầy mà giảng cái giáo án này thì đến cái giới hành, tức là cái hành động mà tu tập hàng ngày của các con đó, đó là cái điều rất quan trọng, cho nên Thầy đặt thành cái vấn đề là phải trọng yếu cho cuộc đời, phải bỏ hết cuộc đời, chỉ còn có giới hành này mà dẫn các con đi đến nơi đến chốn hay là không đến nơi đến chốn là cái chỗ này.

Còn từ hôm rày Thầy giảng cái giáo án là để biết được cái đường lối của đạo Phật tu tập như thế nào đúng, như thế nào sai, cái gì đúng, cái gì sai của đạo Phật Thầy đã dựng lại cho nó đúng của đạo Phật. Chứ hầu hết là bị người ta đã dùng những cái pháp khác mà người ta ném cái đường lối, pháp môn của Phật quá xa, làm cho người ta bây giờ không biết đường lối của đạo Phật tu như thế nào hết. Vì vậy thì đến giai đoạn giới hành là cái vấn đề rất quan trọng và cũng đồng thời những cái buổi mà học tập như thế này các con được thưa hỏi để mà rút tỉa những cái kinh nghiệm đồng thời để bổ túc sau những bài học giới hành mà Thầy sắp sửa dạy, thì các con cũng biết…

BĂNG SỐ 41

định mà tu tập nhưng nó không có rõ ràng và cụ thể. Đây Thầy nói để cho các con thấy cái tu tập, tu tập cái định nào thì nó phải ra cái định nấy, nó rõ ràng lắm.

Thứ nhất là cái Định sáng suốt, cái định mà giữ cái tâm thanh thản của mình đó, để cho chúng ta ở trong cái trạng thái thanh thản đó mà chúng ta biết rằng lúc bây giờ tâm của chúng ta đã vô lậu, đã ly dục ly ác pháp chưa, nó được thanh thản như thế nào? Thì cái kết quả mà đầu tiên của cái người tu thiền định của đạo Phật, theo đạo Phật á thì cái mục đích của nó mà chúng ta giữ gìn cái giới hạnh ăn ngày một bữa, sống mà ít ngủ, độc cư không nói chuyện hoặc là lao tác những cái chuyện nhẹ nhẹ để cho nó khuây khỏa trong cuộc sống của chúng ta đó, thì cái mục đích nhắm của nó đó là làm sao chúng ta đạt được cái chỗ mà ly dục ly ác pháp, đó là cái đầu tiên.

Thế thì, các con hầu hết là không có lưu ý ở trong cái Định sáng suốt này, cái định này là cái định rất cần thiết. Nhưng nếu mà muốn đạt được cái Định mà sáng suốt này, cái tâm luôn lúc nào cũng được thanh thản á, thì nó không phải là chỉ có giữ cái tâm này mà được thanh thản lâu dài đâu.Do vì vậy mà chúng ta phải tu cái định Chánh niệm tỉnh giác định, cái mà Thầy đã nêu lên mười cái điều kiện mà chúng ta phải tu tập nó, đó. Còn cái Định mà niệm hơi thở mà hiện giờ mấy con mà đang tu tập cái hơi thở đó, thì cái này nó chờ cái thời gian sau - nó mới tới cái giai đoạn của nó,nhưng vì chúng ta đã từng tu tập quen rồi bây giờ chúng ta biết được thì chúng ta nên mỗi ngày một đêm vậy đó thì chúng ta chỉ tu tập một lần mà thôi, mỗi lần thì chừng ba mươi phút thôi. Còn chúng ta dồn những cái công phu cho những cái định khác. Bởi vì đây là một cái giáo án cái đường lối của đạo Phật nó đã hẳn hoi rồi chứ không còn mờ mịt như trước kia, cho nên chúng ta cứ nghĩ tưởng rằng mình ngồi mình tập trung cho hết vọng tưởng rồi sẽ nhập định này hoặc nhập định khác để làm chủ cái thân tâm của mình chấm dứt cái luân hồi bằng cái sức ức chế cái tâm của mình nó hết vọng tưởng, hết tầm hết tứ. Bây giờ chúng ta đã hiểu nó không phải vậy đâu mà chính là cái đường đi của đạo Phật á, cái bắt đầu á, thì nó là cái định Chánh niệm tỉnh giác định, mà nó bắt đầu hơn nữa thì nó lại là cái Thánh phòng hộ sáu căn, cách thức chúng ta phải giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình mà trong ba cái đức mà cái giới luật nòng cốt của Tu viện ở trong cái thanh quy đó là nhẫn nhục – tùy thuận – bằng lòng. Các con hiểu cái giới luật nòng cốt đó, đó là cái phòng hộ sáu căn giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng của mình là bằng ba cái đức nhẫn nhục – tùy thuận – bằng lòng đó.

Cho nên chúng ta có mắt khi một người mà bước vào tu theo đạo Phật, có mắt như không có mắt, có lỗ tai như không có lỗ tai. Vì vậy tâm của chúng ta mới đạt được yên ổn, mới tu cái Định chánh niệm tỉnh thức nó mới có đủ sức tỉnh thức. Còn không phòng hộ sáu căn đụng đâu nó dính đó thì tỉnh thức không nổi đâu. Các con thấy khi tâm chúng ta động chuyện gì chúng ta cũng dễ phiền não buồn giận thì lúc bây giờ chúng ta còn tỉnh thức cái chỗ nào nữa, còn phiền não buồn giận thì làm sao mà chúng ta tỉnh thức đâu, cho nên rất khó. Vì vậy mà chúng ta phải biết phòng hộ sáu căn là một cái điều kiện tiên quyết cho cái sự tu tập của cái người mới tu, và kế đó thì là Chánh niệm tỉnh thức sau đó mới là Định sáng suốt hay hoặc là giữ tâm thanh thản, giữ tâm vô sự.

Đó thì các con thấy từng cái bước đi của chúng ta tu tập nó có những cái bước đi, rồi trong đó nó có những cái trạch pháp, những cái câu để mà trạch ra, để mà dùng cái pháp hướng, để mà nhắc đi nhắc lại tâm mình cho nó thấm cái lý. Đó.

Còn riêng phần cô Diệu Hồng, thì Thầy thấy về cái phần Định vô lậu thì con quán lung tung, coi như quán nhiều, quán đủ thứ quá, quán rồi nó xả, nó không xả thì cũng đành chịu thôi, chỉ còn có giữ cái tâm trong hơi thở, rồi cho nó có cái niệm nào đó thì dừng nó lại liền để rồi cứ nương hơi thở thì nghe nó thoải mái dễ chịu nó không có còn lo lắng thương nhớ nữa. Còn ngồi mà quán lung tung nó quán một hơi rồi nó nhớ nhà quá trời quá đất nó muốn đi về. Tại vì ghẹo nó, nó hiện ra cho nên nó nhớ cái này cái kia. Thành ra cái đó là sai. Khi mà đặt một cái niệm mà tu cái Định vô lậu á thì chúng ta phải… bởi vì Thầy đưa ra mười cái điều kiện tức là mười cái đề mục đặt cái niệm. Bây giờ tâm của chúng ta đang nó có một cái...thường nó hay sanh những vọng tưởng, khởi cái niệm thí dụ như con bây giờ con đang… thường thường mà khi mà xả thiền ra không còn ở trong pháp tu á, thì nó có cái tâm nó nhớ mấy đứa nhỏ con của con, nó không biết là làm ăn như thế nào, sao, hôm đó nghe nó làm vậy mà không biết nó có thất bại hay là sao, hay là nợ nần nó còn mà nó chưa trả hết… Tuy vậy chứ cái tình cảm của mẹ con nó vẫn còn chứ chưa phải ly đâu. Cho nên khi mà cái niệm nó khởi như vậy đó thì chúng ta mới đem cái niệm đó đặt ra trước mặt của mình, trạch ra một cái câu rồi quán xét, đứng ở trong lcái ý nhân quả mà tìm hiểu từ chỗ chúng ta không hiểu nhân quả mà chúng ta suy ra, tìm ra, thì cái tri kiến giải thoát của chúng ta nó phóng ra nó tìm hiểu những cái lý nhân quả do đâu mà có mẹ, có con, do đâu mới có sự dính dắc như thế này, do đâu mà nó có nhân có quả như thế này, từ đó chúng ta phá từng cái mảnh của nhân quả, từng cái nghiệp mà nó đã tạo thành một cái cuộc sống giữa mình với người khác để thành ra thương ghét giận hờn.

Đó, chúng ta phải đặt cái niệm, khi mà đặt cái niệm đó nó chưa rồi, nó quán chưa thông thì một lát nữa hay hoặc là buổi tối mình đặt niệm đó trở lại. Rồi mình quán cũng chưa thấy được, chưa thông, nó cũng còn đây, cái niệm nó cũng còn đây, nó cũng còn nhớ đây nó chưa có hết, do đó mình đặt nữa, mình đặt chừng nào mà nó hết nhớ thì mình mới thôi.

Còn cái này thì quán lung tung, quán lung tung nó lại nhớ nhiều…nó cũng vô vậy à, coi như là mình nhai lại bã mía của các cỗ Phật, bây giờ nó cũng là vô thường, cũng khổ, cũng không, cũng vô ngã, cũng bất tịnh mình nói tùm lum một số danh từ vậy, thành ra nó nhiều quá rồi, thành ra đâu biết cái nào vô thường, cái nào nó không, cái nào nó khổ. Cứ theo ba cái đờm dãi của người xưa mình nhai riết, nhai hơi lạt bách cái miệng, không có chút ngọt nào hết cái nhả bỏ đi, bỏ đi cái nghe nó nhào vô, nhào vô cũng nói nữa, mày là vô thưởng, khổ, vô ngã gì, đủ thú tùm lum hết … Rồi nghỉ, nghỉ cái thấy nó cũng nhào vô nữa. Trời! Sao mà lại nó không hết… hễ buông ra nó nhào vô.

Bởi vậy Thầy mới nói khi mà chúng ta thấy khi mà chúng ta ngồi không, không có pháp tu á mà chúng ta thấy nó có thì biết rằng nó chưa có hết lậu hoặc nó còn nữa, do đó chúng ta mới đặt cái niệm chúng ta tu nữa, tu chừng nào mà ngồi không, mà chúng ta thấy tâm nó thanh thản, nó không có nghĩ gì hết, nó cũng không thương không ghét thì biết là lúc bấy giờ nó ly dục ly ác pháp rồi, cho nên nó ở trong trạng thái Sơ thiền đây. Rõ ràng là cái tâm thanh thản vô sự của mình là... Còn bây giờ các con ngồi không thôi nó không suy nghĩ cái này thì suy nghĩ cái khác thì đó là chúng ta biết lậu hoặc còn, mà không suy nghĩ thì nó sanh ra chuyện, ờ bây giờ cái thất của mình phải cột cái sợi dây này lại, cột lại rồi nó nói khiêng cái bàn này để qua, và cái giường để lại nó, cứ dời dọn vậy cho nó quên chuyện, còn hễ nó ngồi không thôi nó nhớ nhà. Phải không? Các con thấy không, hễ nó làm lắc xắc lắc xắc thì không nhớ. Thầy thấy như cô An Tịnh đó, cô lo trồng cây này cây kia đồ vậy cô không nhớ ai hết, mà hễ cô ngồi không cô nhớ nhà rồi, không có trật. Bởi vì cái Định vô lậu chúng ta phải biết khi nó nhớ như vậy đó là khi tới cái giờ tu chúng ta đặt cái niệm đó, chúng ta làm sao chúng ta phóng ra những cái tri kiến giải thoát, bởi vì chúng ta phải biết chúng ta có những cái tri kiến, cái tri kiến đó là cái sự mà chúng ta dùng nó để hiểu những cái lời Phật dạy, các Tổ dạy, các thầy dạy cho biết các pháp là vô thường, như thế này thế kia nhưng đó là cái tri kiến mà thôi. Vì vậy mà chúng ta phải đặt cái niệm đó để rồi trình tự chúng ta phóng ra những cái tri kiến giải thoát từ đó chúng ta phải có cái sự hiểu biết riêng của mình cho nên nó phá vỡ từng cái mảnh.

Mà Thầy nhắc các con á, những cái sự liên hệ, thương ghét của gia đình của mình á, đều là nó nằm ở trong cái lộ trình của nhân quả, do đó chúng ta đặt cái nhân quả mà chúng ta quán xét thì chúng ta thấu triệt được. Cho nên từ đó chúng ta không còn khởi cái niệm thương ghét, lo lắng cho mấy cháu nữa hết, chúng ta yên. Bây giờ chúng ta có lo gì thì nó cũng vậy thôi, cũng như bây giờ Diệu Hồng con ở đây con lo con tu thì phải tốt hơn không, mà ngồi đây mà lo tụi nó thì con có phỏng chừng có ở gần bên nó cũng coi con nó thôi chứ có làm gì hơn là lo cho nó được, đâu có ra mà gánh vác cái chuyện buôn bán đó được đâu. Già rồi chỉ coi con coi cháu nó để cho nó đi bán đi buôn hay hoặc là nó làm ăn thôi chứ có làm gì khác hơn. Cho nên thay vì bây giờ mình tu thì có lợi ích hơn, đã chăm đã nuôi nấng tụi nó cho bây giờ lớn khôn rồi bây giờ còn phải  làm đầy tớ coi con nó nữa sao, mà coi con nó mình ngồi không mình ăn cơm không có được, nó kỳ vậy cái nghiệp báo, cái nhân quả nó vậy đó, các con cứ thử nghĩ đi.

Bây giờ này, như Từ Đức này, như Diệu Hồng này, như An Tịnh này các con có con cái này, rồi các con cứ về trụ xứ của mình ở đi, rồi cũng có giờ thì mình cũng tu vậy nhưng mà sao mình bỏ không có được, thấy cháu thấy mặt nó cũng thương à bởi vì cái thứ dòng họ của mình mà, bỏ không có được. Đó là những cái mà chúng ta phải tu cái Định vô lậu, tu hết sức tu, chứ không phải là tu lơ mơ đâu, tu cho thấm nhuần, tu cho chứng được cái lý của nó à, nó mới thấy được đường đi của nhân quả, từ đó tâm chúng ta mới thanh thản mới vô sự được chứ không nó hữu sự lắm nó ngồi lại thì nó có sự có việc à. Còn không thì nó bắt thân của quý vị chạy Đông chạy Tây ra ngoài nào nhổ cỏ, nào làm cái này cái kia, đủ thứ để cho nó quên, còn không thì nó nhớ. Cho nên vì vậy mà khi tu hành chúng ta biết được cái vô thường, khổ, không, vô ngã, nhưng mình chứng được cái lý vô thường khổ không vô ngã là cả một công phu tu tập chứ không phải ít đâu.

Nhưng mà đến cái thiền định hơi thở, thì khi mà cái tâm nó tịnh rồi, nó không còn lậu hoặc rồi thì chừng đó các thầy, các con mà nhập tới Bốn thiền nó không còn khó nữa, các con chỉ cần ra lệnh là nó nghe à, bởi vì tâm chúng ta đã thanh tịnh rồi thì nó có cái lực của nó rồi. Để tới chừng nào Thầy dạy tới các cái Giới hành á, Thầy dạy Ngũ căn, Ngũ lực á, tới cái Ngũ lực thì các con biết rằng bước đầu vào cái Ngũ lực thì các con biết nó rất rõ. Cũng như vừa rồi thì Thầy chưa dạy các con tu cái pháp Tứ bất hoại tịnh, vì Tứ bất hoại tịnh là pháp bắt đầu cho cái người mà thọ Tam quy học Giới bổn xong á thì người ta niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng. Mà niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng thì người ta mới tu Tứ bất hoại tịnh, bốn cái pháp làm cho tâm chúng ta thanh tịnh mà không bị hoại diệt thanh tịnh đó thì Thầy mới dạy, nhưng ở đây Thầy chưa dạy mà con vội tu sớm quá  không biết tu cái nào đây cho nó thanh tịnh.

 

Phật tử hỏi… (Không nghe rõ).

Thầy nghe nói vậy, đó là cái lý, cái pháp lý chứ không phải là cái pháp hành. Cho nên nói thì một lẽ nhưng mà khi mà nói ra cái pháp hành á thì bắt đầu nó phải chỉ ra từng cái phần nhỏ chứ không thể nào mà nói tổng quát, bây giờ nói giống ông Phật, bây giờ tôi giống ông chỉ có chút là tui ăn ngày một bữa à, còn tôi ngủ, tối tôi ngủ tôi đâu ngủ như ông Phật được, ít ra tôi cũng còn chiêm bao còn ông Phật ông hết chiêm bao rồi mà ông đặt niệm trước mặt ông nằm, ông đâu có ngủ, còn ông Phật thì thân ông ông nhập định thì ông thần thông đủ cách, còn mấy con thì nhập định tưởng hết ráo rồi thành ra đâu có giống ông chút nào đâu. Cho nên bây giờ mà nói mà thân niệm Phật hay là tâm niệm Phật hay là thọ niệm Phật á thì nhiều khi các con đau cái chân, hai cái chân đau hay cái gì đau các con méo miệng còn ông Phật thì ông ngồi ông không có đau gì ông đau ông không có méo miệng chút nào hết, còn mình thì đau chịu không nổi rồi. Do đó vì vậy mà nói về cái thân, cái thọ, tâm và các pháp mà niệm Phật á thì chúng ta phải đi từ cái pháp hành, cái giới hành để chúng ta thực hiện cái nào trước cái nào sau để tuần tự cái thân của chúng ta nó phải niệm Phật như thế nào đúng, như thế nào sai, rồi cái Thọ của chúng ta thì niệm Phật như thế nào đúng, như thế nào sai, rồi cái Pháp niệm Phật như thế nào đúng, như thế nào sai, rồi cái Tâm của chúng ta niệm Phật như thế nào đúng, như thế nào sai.

Cũng lần lượt từng chút mà chúng ta đi vào, thì lúc bấy giờ chúng ta lại có sự phân ra chúng ta biết rằng chúng ta đang ở cái nẻo nào trong Bát chánh đạo mà niệm Phật. Bây giờ mình niệm Phật mà mình phải ở cái nẻo nào, bởi vì tám cái nẻo lận chứ đâu phải một nẻo. Tám cái nẻo đó mà lấy cái thân này niệm Phật, mà trong cái nẻo thứ nhất là Chánh kiến thì nó phải làm sao đây, phải tập luyện như thế nào, phải hành như thế nào ở trong cái Chánh kiến này, cái nẻo này để cho thân của chúng ta cho giống ông Phật, ông Phật thì ông cái thân ông thì ông ở trong cái Chánh kiến thì Chánh kiến nào? Cho nên bây giờ hỏi con cũng nói tu Tứ bất hoại tịnh chứ không có biết thân của mình nó sao rồi, cái thân ông Phật ở Chánh kiến ở chỗ nào hết thì chưa có biết.

Cho nên tới đó thì Thầy sẽ giảng cho các con nghe để rồi các con phải hành, từ bắt đầu cái chúng ta mà khi quy y Tam bảo, tức thọ ba cái giới đầu tiên Phật, Pháp, Tăng, kế đó là học Giới bổn nữa là bốn cái đối tượng để mà chúng ta niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm giới. Mà bây giờ thì cái giới bổn nó chưa hết cho nên lần lượt thì Thầy dạy cho hết cái Giới bổn để mà chúng ta có cái giới để từ đó bắt đầu vô Tứ bất hoại tịnh. Tứ bất hoại tịnh còn một cái tên là Tứ kỉnh pháp, bốn cái pháp cung kính, bốn cái pháp tỏ lòng cung kính của mình gọi là Tứ kỉnh pháp, nhưng mà tứ Bất hoại tịnh nó còn có một cái tên nữa là Tín lực, các con thấy trong ngũ lực thì Tín lực là đầu tiên mà Tín lực là Tứ bất hoại tịnh, hay hoặc là Tứ kỉnh pháp. Cái kia các con nghe khi mà đức Phật chế Bát kỉnh pháp cho bên ni là cái giới gì, bây giờ đó hay là cái này là giới hành của mọi tu sĩ tăng và ni cho nên gọi là Tứ kỉnh pháp chứ không phải Bát kỉnh pháp nữa. Từ lâu tới giờ các con đâu có nghe đâu nhưng bây giờ Thầy nói các con mới thấy được cái tên này, rõ ràng là trong kinh đã nói cái tên này nhưng mà người ta không có để ý cái tên này, người ta coi là quá thường. Cho nên bây giờ vạch ra cho mấycon thấy giới luật của Phật chế Bát kỉnh pháp cho ni nhưng mà chế cho tăng và ni đều là tu tập Tứ kỉnh pháp, thấy chưa? Mà Tứ Kỉnh pháp là tứ bất hoại tịnh, phải hông? Mà Tứ bất hoại tịnh là Tín lực, cái sự tin tưởng rất là dũng mạnh, cái lực, lòng tin của chúng ta cho nên tu làm sao mà đạt được cái lòng tin, phải có những cái kết quả mới có tin chứ, còn không kết quả làm sao chúng ta tin được.

Bây giờ như các con đã thấy một số mà giới luật mà Thầy đã dạy trong Giới bổn thì các con đã thấy rằng có quá nhiều cái sai. Đọc một số giới bổn vừa rồi ta nhận thấy người sau chế giới không phải Phật chế. Nghĩa là toàn bộ giới bổn phần nhiều là cái người sau chế chứ không phải là trong cái thời đức Phật chế đâu. Bởi vì chế qua chế lại, chế rồi gia giảm làm cho cái dục lạc của tu sĩ nó theo cái nhỏ giọt của dục lạc để làm cho người ta rộng rãi mà người ta sống được ở trong giới nhưng cuối cùng là người ta phá giới. Bởi vì chế như vậy cái kiểu đó là đưa người ta đi đến chỗ… Thay vì thí dụ như chế cái giới rồi nói cái người lạ đó thì không được xin y, mà cái người cư sĩ bà con của mình thì được xin y, mà xin y tốt của bà con mình thì được mà xin của cái người cư sĩ lạ thì không được xin y tốt được. Ông Phật mà chế giới kiểu đó để cho mấy người mà nhà giàu họ vô họ tu thì bà con họ cho y tốt y đẹp thử coi thì mấy ông thầy đó còn tu cái thứ gì nữa. Phải không? Các con thấy chế giới kiểu đó là chế giới người sau chế chứ không phải ông Phật chế đâu. Đạo Phật là đạo ly dục thì người nghèo cũng như người giàu phải ly hết chứ, chế gì mà kỳ cục vậy, cho nên hầu là mấy cái ông sau bày đặt. Gặp Thầy, Thầy đập xuống như vậy đó, gặp ba cái giới bổn này Thầy đập xuống cho sạch thiệt là mệt Thầy vô cùng.

Từ lâu thì Thầy hồi đó Thầy có học nó nhưng mà cái trong lúc học mình không để ý lúc giới nào thì mình hay vậy thôi, nhưng bây giờ khi mà tu rồi soạn ra mà tới bây giờ Thầy dạy về giới thì Thầy thấy thiệt là sai. Bây giờ mà Thầy ngồi lại mà Thầy soạn ra cái bộ giới này, giới bổn này để cho người sau đúng là cái giới để ly dục ly ác pháp thì tất cả những cái giới này Thầy quét ra hết, Thầy soạn cái khác. Thầy dựa vào ở trong kinh giới của Phật, ở trong kinh á Thầy soạn ra thì đúng cách, rất là đúng, rất là hợp, hợp vừa kinh giới, mà lại hợp vừa cái kinh bổn, làm cho người ta lấy kinh bổn người ta làm cái hàng rào, người ta giữ gìn người ta ly dục ly ác pháp. Còn cái này giữ cái hàng rào gì, muốn cái y cho đẹp cái lợi bà con của mình cư sĩ xin cái y, Phật chế cái giới cho như vậy thì đâu có phải lối đâu, cho nên cứ làm bừa vô thì cuối cùng hoặc là tiền bạc không cất giữ, giao cho bà con mình cất giữ đi, rồi ít bữa nữa xì ra: ờ bà con đứng ra cất chùa giùm tôi đi, cũng là tiền của ông Thầy đấy chứ ai vô đó, làm cái chuyện tuy là che mặt người ta, trong cá giới luật làm như vậy là sai, quá sai làm sao mà ly cho được.

Giới bổn.

Còn giới bổn chế tới chế lui cho Tỳ kheo sống rộng rãi để chạy theo những dục lạc thế gian, giới bổn giống như điều lệ, hiến pháp, pháp luật của một đất nước, của một xã hội, một tập thể. Xưa tập thể của đức Phật mười ba năm không có giới điều, nghĩa là khi mà đức Phật độ năm anh em Kiều Trần Như, độ những cư sỹ đầu tiên không có chế giới ra, mà tới mười ba năm người ta không có phạm một cái pháp gì, từ nơi pháp của Phật dạy là giới luật rồi, người ta ly dục ly ác pháp rồi người ta không có còn phạm, mà  tới sau này nhận ba cái ông mà Lục Quần tỳ kheo rồi thất tì kheo, ni, rồi mấy cái bà mấy ông này đưa vô để mà làm cho phá giới rồi mới đặt ra. Sự thật ra cái người tu theo đạo Phật mà ngay từ lúc đầu mà khép chặt á, như mấy con mà  vô đây mà Thầy khép chặt á chắc chắn là đúng cách thức mà Thầy tổ chức, Thầy khép chặt các con chưa có phạm cái lỗi nào đâu chưa có thể nói rằng phải chế giới này, chế giới kia nữa. Còn cái này để lỏng lẻo để rồi người ta mới làm cái chuyện này chuyện khác, nó bậy bạ, nó làm cho không có đúng cách.

Xưa tập thể của đức Phật mười ba năm đầu không có giới điều. Tại sao? Tại vì tâm các Tỳ kheo ly dục ly ác pháp đều sống ở trong tinh thần ly dục ly ác pháp nên ai cũng thấy mình giải thoát hoàn toàn, thoát ra khỏi dục lạc. Vì thoát ra khỏi dục là là không bị sự cam dỗ của dục lạc thì đó là con đường của đạo Phật, cho nên ai cũng thấy giải thoát hết. Còn ai mà ham nữa. Cũng như bây giờ, không lẽ bây giờ Thầy ăn ngày một bữa Thầy Thấy giải thoát rồi mà bây giờ người ta đem cái bánh hay cái gì ngon, hoặc ly nước sữa gì ngon “Thầy uống đi cho nó khỏe, Thầy thấy ốm quá”. Họ nói thì nói mặc họ, Thầy uống quyền Thầy chứ. Phải không các con? Đâu có điên gì mà thầy đi phạm, mà Thầy thấy đồ đó đâu có phải là đồ ngon. Đối với thế gian thì họ cho ngon, đối với Thầy nhìn nó là Thầy thấy đồ bất tịnh. Phải không? cái đồ mà không có thể mà Thầy chấp nhận được. Bởi vì tâm hồn của Thầy nó ly dục ly ác pháp nó có một trạng thái hỷ lạc cao tuyệt hơn cái đó rất nhiều.

 

Để Thầy nhắc lại cho các con nghe. Xưa nhà vua mới hỏi: “Tôi là một vị vua, cái hỷ lạc mà dục lạc của thế gian tôi đầy đủ, tôi muốn cái gì cũng có hết”. Ông Phật hỏi: “Vậy thì cái dục lạc của ông, ông đem một cái mâm đồ ăn của ông  này nè, ông ngồi ông ăn đây này, bắt đầu bây giờ ông ngồi ông ăn đi, cái dục lạc ngon cái miệng ông nó có tới sáng được không? Ông bỏ vô cái cổ là nó hết ngon rồi”. Phải không, ông làm sao nó ngon tới sáng được. Còn tôi mà ngồi thiền á, thì bây giờ tôi ngồi thiền nè mà tới sáng mai đó thì cái dục lạc mà ly hỷ ly dục lạc nó vẫn là đầy đủ, nghĩa là tới sáng nó liên tục nó có cái dục lạc nó ly hỷ dục lạc nó đầy đủ. Còn bây giờ ông ngồi ông ăn đi, ông bỏ miếng ăn này ông ăn riết hơi ông ớn ông thấy có dục lạc còn không? Ờ như vậy đâu có dục lạc đâu mà ông nói ông đầy đủ, ông muốn cái gì nó có dục lạc đâu. Dục lạc của ông nó chỉ cấp thời, nó có đó, rồi nó sẽ mất đi làm sao mà được một ngày một đêm như tôi được, đó là tôi nói ít đó. Còn bây giờ ông nói cái dục lạc gì ở trên thế gian này đi, ông thấy nó là hạnh phúc nhất của ông đi kéo dài một ngày một đêm, ông chưa có. Còn cái dục lạc mà do ly dục ly ác pháp nó kéo dài bảy ngày bảy đêm”. Các con thấy, ông Phật ông nói rõ ràng: nghĩa là liên tục, thời gian liên tục tôi ở trong cái trạng thái ly dục, liên tục tôi thấy có một sự an lạc, rất là thanh tịnh, an lạc rất là vĩ đại, nó kéo dài mãi bảy ngày bảy đêm chưa hết.

Các con có ngờ không, các con ăn cái bánh đó các con ngọt bỏ vô miệng nghe nó ngon quá, nuốt vô khỏi cổ rồi còn không, còn ngọt còn chỗ nào đâu chỉ Thầy xem coi, cái lạc đó còn không? Thì các con thấy cái dục lạc nó chớp thời, nó chớp mắt, nó không có kéo dài được thì nó là cái vô thường, còn cái này người ta kéo dài từ đêm này sang ngày kia đêm nọ, bảy ngày đêm vậy, liên tục như vậy thì có phải là nó thường không? Vậy thì chúng ta đi tìm cái gì chứ, còn đi tìm đổ mà giả dối, đồ đó làm cái gì mà chúng ta ham, thế mà Phật pháp đưa ra cái pháp để chúng ta ly những cái lạc tầm thường đó mà chúng ta lại không thấy mà bây giờ lại thấy người ta đem đồ ăn lại thích ăn, thích uống nữa thì có phải ngu không, các con thấy cái đó là cái quá ngu, phải không.

Đó thì hôm nay lẽ ra thì Thầy sẽ tiếp tục Thầy giảng về các giới cho các con nghe nhưng mới có trả lời được có một mình cô Diệu Hồng thôi, sửa soạn con phải chuẩn bị tu lại chứ không khéo tu như kiểu đó thì cái tâm nó vô lậu nó không có vô lậu được đâu, rồi chỉ dùng cái Định hiện tại an lạc trú là cái Định hơi thở để cho nó yên ổn ở trong cái yên lặng của cái đó mà tránh né nó. Rốt cuộc rồi hễ khi ngồi bình thường rồi nó lại nhớ ra, nó đâu hết lậu hoặc, nó đâu có ly được ác pháp ly được dục. Do vì vậy đó mà con phải nhớ kỹ sắp xếp lại, trạch pháp những cái câu, bởi vì nó khó là cái Định vô lậu nó khó là phải trạch pháp cái câu cho đúng cách, gọi đúng tên để mà chúng ta xả được cái lậu hoặc của nó thì nó mới có kết quả còn nếu xả không được thì nó không có kết quả.

Đến đây Thầy xin chấm dứt các con.

Vừa rồi thì Thầy có giảng cái đoạn kinh này nhưng vì có lẽ là cái máy nó trục trặc nó không thu được, hôm qua Thầy giảng cho bên nữ nhưng cái bài này cũng là có cái sự lợi ích rất lớn cho cái người mới theo đạo Phật, nếu mà không biết được ba cái điều kiện này thì đương nhiên theo đạo Phật chúng ta không biết cái lối nào vào trước, lối nào vào sau. Cho nên cái bài kinh này rất có giá trị, vì vậy hôm qua Thầy có giảng ở bên nữ nhưng vì không thu được cho nên hôm nay Thầy phải giảng lại cái bài này cho bên nam. Rồi trước khi mà nghe xong cái bài này thì chúng ta sẽ tiếp tục cái giới luật, giới bổn.

Bước đầu tu tập đạo Phật chúng ta nên phải lưu ý có ba điều kiện rất quan trọng. Phàm con người ai ai cũng thân cận dục lạc, thân cận bất thiện pháp ở trong thế gian này. Nói chung phần nhiều là cái con người mà sinh ra ở đời thì chúng ta thường thường thích cái dục lạc của thế gian, cho nên ai ai cũng thân cạn cái dục lạc đó. Và cái ác pháp thì ai cũng thân cận, ít có khi mà thân cận cái thiện pháp lắm. Vì vậy mà cái điều kiện quan trọng ở đây, của đạo Phật là chúng ta phải nhận ra, phải thông hiểu những gì chưa thông hiểu, thông hiểu coi cái dục lạc đó nó như thế nào mà con người ai cũng thích, rồi thân cận cái ác pháp tại sao chúng ta lại thích ác pháp.

Đó, thì như vậy chúng ta phải tìm hiểu, phải thông hiểu, vì có thông hiểu thì chúng ta mới có thể dứt bỏ được, còn nếu mà không hiểu thì chúng ta không thể dứt bỏ được. Ví dụ như một người họ ghiền thuốc hút, hoặc là thuốc phiện, hoặc là rượu mà họ biết rằng rượu là tai hại, thuốc hút là tai hại, thuốc phiện là tai hại. Khi họ biết rõ những cái loại đó là cái sự tai hại cho cơ thể họ dễ sinh ra bệnh tật làm cho họ đau khổ thì như vậy họ biết nó tai hại thì họ bỏ. Còn nếu mà họ thấy cái đó không tai hại thì chắc chắn là họ sẽ không bỏ. Muốn được như vậy thì chúng ta phải có sự thông hiểu, mà muốn thông hiểu thì chỉ có Thánh pháp mới dạy cho chúng ta mới có thông hiểu được mà thôi, chứ không có Thánh pháp thì chúng ta khó mà hiểu được cái dục lạc của thế gian, cái bất thiện pháp ở trong thế gian.

Bởi vậy Thầy thấy có nhiều thầy mà còn trẻ tuổi, họ thích thân cận ở bên phái nữ lắm, cho nên họ hay đi tìm ở bên cái phái nữ, cũng như tu viện của chúng ta ở đây, tuy vậy chứ hầu hết là cái tuổi trẻ, bởi vì nó có nam có nữ mà. Cho nên cái tuổi trẻ không thấy cái thân cận, cái dục lạc đó là cái tai hại, cái khổ, cái nguy hại mà cứ mải thích đi tìm nó thì nó sẽ đem đến cái tai hại cho mình chứ gì. Thế mà cứ đi tìm nó thì cái đó là cái nguy hiểm. Chúng ta nên tránh, cái khu vực của chúng ta thì chúng ta ở, đừng có nên lảng vảng đến cái khu vực của người nữ, vì vậy đó là những cái nguy hiểm nhất, mà trong đạo Phật người ta rất sợ, cái đó rất là sợ khi đi tu rồi người ta xem cái đó là người ta rất lo lắng, rất sợ.

Cho nên Thầy nhắc lại, ông Anan ngày xưa ông hỏi Phật: “Thưa đức Thế tôn! Chúng con là những người tu sĩ trẻ tuổi, đối với phái nữ chúng con phải làm sao?”, thì ông Phật nói: “Đừng có gặp”, rõ ràng là ông Phật ngăn ngừa chúng ta đừng có gặp phái nữ, thì ông Anan hỏi: “Lỡ chúng con gặp làm sao?” thì đức Phật nói: “Đừng có nhìn nó, có gặp thì đừng có nhìn”. Thì ông Anan hỏi Phật: “Bạch Thế tôn! Nếu mà chúng con lỡ nhìn làm sao?” thì ông Phật nói: “Đừng có nói chuyện, lỡ đã nhìn nó rồi thì đừng có nói”, rồi ông Anan hỏi Phật: “Lỡ chúng con nói thì làm sao?” thì đức Phật nói chỉ còn nước cuối cùng: “Thì hãy xem họ như chị, như mẹ, hoặc là như em ruột của mình” thì chỉ còn có cái nước đó là cuối cùng, đây là tới cái bệnh tật rồi, thì chỉ còn có uống thuốc mà trị thôi. Nhưng mà vua Ba Tư Nặc ngồi đó nghe thì vua lại nói như thế này: “Như các thầy đã xuất gia rồi thì coi tất cả như là anh, là chị, như em, như mẹ của mình được, còn chúng con là cư sĩ làm sao coi được như vậy, làm sao nghĩ được như vậy, bởi vì mình ly gia cắt ái rồi, mình bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ anh, bỏ em, bỏ chị em của mình hết rồi thì mình coi tất cả mọi người đều là như là chị em ruột thịt của mình hết, còn chúng con là cư sĩ  thì chúng con làm sao mà chúng con nghĩ như vậy được?”. Thì đức Phật mới nói: “Chỉ còn quán bất tịnh mà thôi”.

Đó là cái cuối cùng, cái đỡ gạc cuối cùng, chứ cái mà đầu tiên thì chúng ta không nên gặp, khi mà biết đi tu rồi thì tuổi trẻ chúng ta nên xa lìa nó đi, để cho chúng ta tu cho rốt ráo rồi, xong rồi thì mặc tình chúng ta có gặp thì nó cũng chẳng lôi cuốn chúng ta được. Chứ con bây giờ mà chúng ta mới tu, mà chúng ta gặp, nó xỏ mũi chúng ta nó dẫn đi cũng như là một cái người mà chăn trâu, họ xỏ cái mũi con trâu họ kéo đi đâu cũng được hết. Cái đó nó khó lắm, bởi vậy biết được cái đó rất khó là khó, nhưng mà quý thầy trẻ tuổi quý thầy không thấy cái đó là khó mà không thấy cái đó là rắn độc cho nên rất nguy hiểm cho quý thầy đó. Ở đây cho nên cái bài kinh này là vì thân cận dục, thì trong cái dục đó không phải có cái ái dục không, có cái dâm dục không, có cái tình dục không mà nó có nhiều cái dục mà cái dục nào nó cũng có những cái lạc, chứ không phải không có lạc. Nhưng mà cái lạc…

Cho nên nhà vua mới nói với đức Phật như thế này: “ … Chúa là những người mà có đủ những cái dục lạc, ngũ dục lạc thế gian chúng tôi hưởng đầy đủ không thiếu gì hết”. Do đó đức Phật hỏi nhà vua: “Vậy cái dục lạc của nhà vua có thể một đêm một ngày nó có thể kéo dài được không?”. Nhà vua nói: “Đâu có được”, nghĩa là chúng ta ăn một miếng ăn thì nó ngon tới cổ nuốt hết thì nó hết ngon rồi thì đâu còn lạc ở chỗ đó nữa. Cho nên vì vậy đức Phật nói: “Cái ly dục, cái ly bất thiện pháp thì cái hỷ lạc đó nó sẽ kéo dài một ngày một đêm vẫn được như thường, nó không có gián đoạn. Còn bây giờ ông chạy theo cái dục lạc của ngũ dục lạc  nó chỉ có một chút xíu thế thôi chứ nó không thể kéo dài một ngày một đêm được”. Và đức Phật nói: “Một ngày một đêm, rồi hai ngày hai đêm, ba ngày ba đêm cho đến bảy ngày đêm thì cái người ly dục, ly bất thiện pháp người ta có thể kéo dài cái trạng thái được bảy ngày đêm vẫn được như thường, nó không có gián đoạn”.

Đó, thì như vậy là chúng ta thấy khi mà chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp thì nó có cái trạng thái giải thoát, nó hỷ lạc làm cho chúng ta sống suốt một thời gian rất dài mà không bao giờ dứt đoạn. Còn cái dục lạc của thế gian ngay đó nó chỉ ngay đó nó cái lạc, hỷ lạc nó một chút rồi cái nó mất, rồi nó đem lại cái khổ cho chúng ta chứ chưa phải là nó đã kéo dài được.

Cho nên đức Phật đã dạy cho thấy rằng cái dục lạc của thế gian nó quá ngắn ngủi mà luôn liên tục nó có sự khổ đau kề cận bên đó. Cho nên ở đây, phàm con người ai ai cũng thân cận dục lạc, thân cận bất thiện pháp ở thế gian. Nói chung là con người ai cũng vậy cho nên điều thứ nhất, sau khi được nghe Thánh pháp Như lý tác ý, tức là ám thị đó quý thầy, đó là pháp hướng đó, cái đó là rất quan trọng. Mình hiểu được Phật pháp rồi thì thường phải nhắc đi nhắc lại ám thị tâm của mình để mình chứng được cái Chánh pháp, chứng được cái lý của pháp đó và nương theo cái pháp đó mà hàng ngày chúng ta sống gọi là Tùy pháp đó. Tùy là nương theo, cũng như bây giờ hàng ngày mình nương theo cái hơi thở mà cái thân mạng của mình sống đó, còn nếu mà mình không nương theo hơi thở, nó không thở ra thở vô thì chắc chắn là mình chết. Vì vậy cho nên khi mà chúng ta biết được Thánh pháp, hiểu được Thánh pháp thì chúng ta thường phải Như lý tác ý để chúng ta không có một thời gian gián đoạn vì vậy mà chúng ta sống ở trong cái Tùy pháp đó. Thì người này sống không thân cận dục lạc nghĩa là chúng ta nương vào cái pháp Thánh pháp đó thì chúng ta sẽ không thân cận dục lạc nữa. Còn hầu hết là quý thầy không có chịu sống nương theo cái Thánh pháp cho nên hễ để cái tâm nó có kẽ hở thì quý thầy chạy đi tìm cái dục lạc của thế gian, thân cận người này, thân cận người kia, rồi nói chuyện này, nói chuyện kia, lăng xăng, lích xích làm cho tâm của quý vị luôn luôn bị dính mắc ở trong cái dục lạc của thế gian. Rồi từ cái dục lạc thế gian đó, nó mới là sinh ra, khởi ra những cái ác pháp cho nên luôn luôn dính mắc thân cận ở trong cái ác pháp, bất thiện pháp không bao giờ xa lìa được.

Nhờ sống không thân cận dục lạc, không thân cận bất thiện pháp thì an lạc của cuộc sống khởi lên, lòng vui mừng sung sướng khởi lên, thấy rõ con đường giải thoát của đạo Phật, và đối với hàng ngày của cuộc sống không còn có sự va chạm làm cho tâm hồn đau khổ nữa. Tức là mình nương vào cái Thánh pháp rồi thì cái tâm của mình nó sẽ thoát khổ, mình không có thân cận dục, không có thân cận cái ác pháp ở thế gian nữa thì lúc bấy giờ mình nương vào mình theo cái pháp của Thánh pháp, thì mình va chạm trong cái cuộc sống hàng ngày của mình, mình hoàn toàn được giải thoát, mình không có còn đau khổ nữa. Đó là con đường tắt đưa đến an lạc, hạnh phúc thứ nhất của đạo Phật.

Đó, thì ở đầu tiên chúng ta mới vào đạo Phật thì chúng ta nên hiểu biết được Phật pháp, hiểu biết được Phật pháp thì chúng ta không có nên thân cận với dục lạc, không có thân cận với ác pháp. Đó là điều tiên quyết đầu tiên mà cái người tu phải hiểu.Do cái chỗ hiểu này chúng ta không thân cận nó, thì chúng ta sẽ ly nó được, sẽ cắt đứt nó được, vì vậy mà ở đây Thầy dạy cho các thầy là sống độc cư, sống cô đơn, sống một mình, sống trầm lặng cho nên chúng ta, đó là một cái chúng ta sống không thân cận với dục lạc, không thân cận với ác pháp đó, cách thức sống của chúng ta mà. Chúng ta sống như vậy là chúng ta sẽ không thân cận, còn sống mà chạy tới chạy lui, đến thất này thất kia nói chuyện thì quý thầy nghĩ sao, có thân cận không, thân cận với ác pháp chứ. Quý thầy nói quý thầy là nam, nhưng sự thật quý thầy nói chuyện qua lại thì có sự bất toại nguyện trong lòng quý thầy, tức là ác pháp chứ gì, nó làm cho quý thầy buồn bã cái này cái kia nọ đủ thứ, đó là quý thầy đã thân cận ác pháp.

Còn nếu quý thầy sống độc cư một mình mình trong thất, quý thầy không nói chuyện với ai làm sao có thân cận ác pháp đâu. Cho nên ở đây Thầy chỉ nêu ra là sống độc cư, sống trầm lặng là quý thầy đã không thân cận dục lạc thế gian, đã không thân cận ác pháp thì quý thầy đã tự cứu quý thầy rồi. Rồi từ cái cuộc sống đó quý thầy sẽ đi tới những cái pháp khác, do đó mà quý thầy được giải thoát chứ không phải được bây nhiêu đó mà đủ nhưng đây là bước đầu, bước đầu của quý thầy, đây là một cái pháp thứ nhất để đem đến hạnh phúc, đem đến sự giải thoát cho quý thầy.

Cho nên người mà sống độc cư được là cái người đã không thân cận dục lạc, đã không thân cận ác pháp, đó, quý thầy hiểu. Như vậy một danh từ độc cư cũng đủ thấy là cái điều mà Thầy dạy có đúng Phật pháp không, rất đúng bởi vì Phật dạy chúng ta ở đây là không thân cận dục lạc, không thân cận ác pháp mà Thầy chỉ dạy là sống độc cư như vậy là không thân cận dục lạc, không thân cận ác pháp. Đó.

Thứ hai, phàm con người chưa được trau dồi thân, miệng, ý nên thân hành thô lậu chưa được an tịnh, khẩu hành thô lậu chưa được an tịnh, ý hành thô lậu chưa được an tịnh. Đó thì đức Phật nói khi mà chúng ta đã sống độc cư rồi, đã không có thân cận những dục lạc rồi, đã không có thân cận các ác pháp rồi thì bắt đầu chúng ta hiểu biết rằng cái thân hành, cái khẩu hành và ý hành của chúng ta từ lâu rồi chúng ta chưa có trau dồi nó cho nên hễ hở một chút là chúng ta có thể sanh ra, khởi ra những cái ác pháp ở trong thân hành, khẩu hành, ý hành. Thì cái mục đích mà cái lộ trình nhân quả mà chúng ta đang đi thì quý thầy thấy nó ở đâu? Ba cái hành này chứ đâu, thân hành, khẩu hành, ý hành mới tạo ra nhân, mới tạo ra quả chứ còn nếu không có thì làm sao có nhân có quả được. Quý thầy thấy chưa, ở đây đức Phật dạy rất rõ, thứ nhất là chúng ta hãy tránh, hãy tránh cái lộ trình mà nó có thể sinh ra cái nhân quả, tức là dục lạc và ác pháp nó sẽ sinh ra nhân quả. Mà bây giờ chúng ta tránh, tức là chúng ta sống độc cư. Nhưng mà chúng ta sống độc cư mà chúng ta không chịu trau dồi thân, miệng, ý của mình thì phỏng chừng mình có đi đến cứu cánh không? Không có cứu cánh, mình phải trau dồi ba cái hành động thân, khẩu, ý của mình để chấm dứt cái nhân quả.

Các thầy đâu hiểu rằng chúng ta là những con người đang sống ở trong cái bầu trời của nhân quả, nó đang phủ trùm mọi người mà quý vị không có vượt ra khỏi bầu trời thì quý vị sẽ luôn luôn bị tri phối ở trong cái luật nhân quả. Người ta sống ở trong nhân quả, người ta biết nhân quả sanh mình ra, người ta biết từ nhân quả đó mà mình chết đi mình trở về nhân quả, thế thì chúng ta bị bao vây bởi cái nhân quả. Thế mà chúng ta không có tìm cách để thoát ra nhân quả thì làm sao mà chúng ta gọi là liễu sanh thoát tử. Nhân quả muốn chúng ta chết là chúng ta chết, muốn sống là chúng ta sống, muốn sanh là chúng ta sanh chứ chúng ta chưa có quyền làm chủ được nó.

Vậy thì bây giờ một người tu theo đạo Phật, là phải chấm dứt nhân quả, làm chủ nhân quả. Làm chủ nhân quả như thế nào? Người ta chửi mình mà mình không giận đó là mình làm chủ nhân quả đó, mà người ta chửi mình mình giận là mình không làm chủ nhân quả đó. Mà mình thấy một vật gì mà mình ham thích đó là mình chưa làm chủ nhân quả đó, mà mình thấy khôngham thích tức là mình làm chủ nhân quả đó. Giả dụ như cái thân của quý vị, là đang có những cái thọ khổ bệnh tật quá đau khổ, nhưng quý vị làm chủ được nhân quả thì quý vị chẳng bao giờ có thấy đau khổ, nhưng quý vị chưa làm chủ nhân quả thì quý vị sẽ thấy sự đau khổ. Vì vậy mà chúng ta muốn làm chủ nó thì chúng ta phải hiểu nó, phải biết nó, chúng ta là những người đang sống ở trong cái lộ trình của nhân quả - đang chi phối chúng ta từng phút từng giây diễn biến sự thay đổi của nhân quả liên tục ở trong thân và thế giới này. Thế mà không hiểu nhân quả.

Cho nên chúng ta chẳng chịu trau dồi ba cái hành động của chúng ta. Bắt đầu chúng ta trau dồi gì trước tiên, chúng ta phải trau dồi thân, thân hành, khẩu hành và ý hành. Vì hiện giờ nó rất là thô lậu, tại sao vậy? Tại vì mở miệng ra là có làm khổ mình khổ người, hành động của chúng ta ở thân, không hành động thôi, mà đã hành động ra thì có giết hại có chết chóc chúng sanh, lỡ đi mà chúng ta đạp có phải là chết hại chúng sanh không. Cho nên Phật dạy Tứ vô lượng tâm để làm gì, để chúng ta tu cái tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả chúng ta, để luôn luôn chúng ta có ý tứ ở trên bước đường chúng ta đi, ở trên cái hành động chúng ta làm, ở trên cái ý của chúng ta nghĩ, ở trên cái lời nói của chúng ta nói.

Sau một thời gian được nghe Thánh pháp, theo Thánh pháp Như lý tác ý, theo cái Thánh pháp để mà chúng ta trau dồi ba cái thân hành, thân hành, khẩu hành và ý hành của chúng ta đó. Sau một thời gian chúng ta nghe được cái Thánh pháp, hiểu được cái Thánh pháp đúng như thế nào đó, chúng ta hiểu biết đó là con đường chân thật đưa đến chúng ta giải thoát. Cho nên từ đó chúng ta trạch pháp ra, như cái trạch pháp đó, như cái lý đó mà chúng ta tác ý ra chúng ta thực hiện trong cái đời sống hàng ngày. Như vậy ở đây Phật dạy chúng ta như thế nào? Theo cái Thánh pháp đó mà tu cái Định vô lậu đó, để chúng ta trau dồi cái thân hành, cái khẩu hành, và cái ý hành của chúng ta. Hàng ngày phải liên tục tu tập để cho nó nương vào cái pháp đó mà nó từng sống theo cái pháp đó mà ở đây Phật gọi là Tùy pháp. Và chúng ta sẽ chứng đắc được cái pháp đó tức là nó thấm nhuần vào cái pháp đó. Cái Chánh pháp đó nó cho làm thân, khẩu, ý chúng ta nó có những oai nghi, phạm hạnh rất đầy đủ, nói ra, nghĩ ra một cái điều gì, nói ra một cái điều gì, hành động ra một cái điều gì là đem lại sự an vui cho mình cho người, không làm khổ mình khổ người. Do đó là chúng ta nhờ được Thánh pháp vì vậy mà chúng ta tu tập, do sự siêng năng tu tập như vậy đó chúng ta mới thấy được cái đời sống của chúng ta, cái tâm hồn của chúng ta được giải thoát hoàn toàn an vui.

Do công phu trau dồi thân hành thô lậu được an tịnh, khẩu hành thô lậu được an tịnh, ý hành thô lậu được an tịnh, an lạc khởi lên, và hơn cả an lạc và hoan hỷ trước kia đó là con đường tắt thứ hai đưa đến an lạc của đạo Phật.Nghĩa là cái sự an lạc này nó hơn là cái sự an lạc của cái lộ trình thứ nhất mà chúng ta đã tu tập. Cái lộ trình thứ nhất là Phật dạy chúng ta như thế nào, như cái lý nó tác ý như thế nào, là chúng ta xa lìa cái lòng ham muốn của chúng ta, xa lìa các ác pháp, đó là cái lộ trình thứ nhất. Còn cái lộ trình thứ hai Thầy bảo chúng ta như thế nào, bảo chúng ta phải trau dồi cái miệng, cái hành – cái thân hành, cái khẩu hành và cái ý hành của chúng ta, đó là cái lộ trình thứ hai.

 

Chúng ta phải biết cách tu tập từ cái một chứ, mới đầu chúng ta xa cái lòng ham muốn chúng ta chưa hẳn hết đâu, đó, chúng ta xa ác pháp chưa hẳn hết đâu, cái miệng cái hành thân của chúng ta nó còn, và cái ý hành chúng ta nó còn lung tung ở trong này chưa hẳn là nó xa đâu. Cho nên tiếp tới thì chúng ta, giai đoạn hai của lộ trình thứ hai này chúng ta phải tu tập là phải trau dồi cái thân hành thô lậu của chúng ta, cái khẩu hành thô lậu của mình, cái ý hành còn thô lậu của mình để cho nó không còn cái thô lậu đó nữa, do đó nó không còn nằm ở trong ác pháp, nó không còn nằm trọn vẹn ở trong cái lòng ham muốn của chúng ta nữa thì nó sẽ có cái sự khởi lên cái sự an lạc và cái sự an lạc đó nó sẽ hơn là ở cái lộ hành thứ nhất mà chúng ta mới tu tập. Đó thì chúng ta phải thấy đây là cái giai đoạn thứ hai của sự tu tập của chúng ta là trau dồi thân, miệng, ý, hành của chúng ta. Đó

Phàm người đời không như thật biết đây là thiện, nghĩa là ở ngoài đời người ta không biết đây, đây cái này là thiện mà cũng không biết đây là ác, cho nên do đó người ta mới lầm lạc, vì vậy mà lầm lạc người ta không có xa lìa các ác pháp được. Còn bây giờ đó, cái người mà được nghe Thánh pháp rồi, thì người ta phân biệt được đây là ác, đây là thiện cho nên ở trong này Phật dạy: Phàm người đời, không như thật biết đây là thiện, không như thật biết đây là bất thiện, không như thật biết đây là có tội, đây là không tội, đây cần phải thuận theo, đây cần phải tránh né, đây là họa, đây là hạ liệt, đây là cao thượng, đây là đúng, đây là sai, đây là tai họa, đây là vô tai họa”. Chúng ta không có thấy được cái này cho nên lúc đầu vô cái gặp tai họa rồi thì mới bổ ngửa ra đó mà chịu chứ không có làm sao mà  tránh né ở chỗ nào được hết. Cho nên ở đây Phật dạy chúng ta, mình phải có cái sự sáng suốt như vậy để nhận định, đây là thiện này, đây là bất thiện này, đây là có tội này, đó, đây là không tội này, đây là thuận này, đây là nghịch này, đây là phải tránh né không có được mà nhào vô này, đây là hạ liệt này, đây là cao thượng này, đây là đúng này, đây là sai này, đây là tai họa này, đây là không tai họa. Mình làm sao mình thấy được cái này thì do đó mình đã thấy được con đường nhân quả, mà mình thấy được con đường nhân quả thì tức là mình ly được các ác pháp, mình ly được các ác pháp tức là cái mầm của các dục của mình nó phải ly.

Đó thì đó là để nhắc lại cái sự trau dồi của chúng ta thì đầu tiên chúng ta phải tìm cách xa lìa lòng cái ham muốn của mình trước mọi vật, phải xa lìa nó và không được thân cận các cái ác pháp. Cái thứ hai trau dồi thân, miệng, ý của chúng ta rồi tới đây tới khi mà trau dồi như vậy chúng ta cần phải học, cần phải thông hiểu. Thông hiểu cái gì? Thông hiểu đây là thiện, đây là không thiện, đây là ác, đây là không ác, đây là tội, đây là không tội. Đó là mình phải phân biệt cho rõ ràng giữa hai cái này. Vì phân biệt như vậy do đó chúng ta phải học Thập thiện, mà không học Thập thiện thì ít ra chúng ta cũng phải học nhân quả, mà cái bộ sách nhân quả bây giờ thì chưa có ai viết, người ta viết nhân quả bằng cách mê tín thì có, nhưng mà viết cái nhân quả mà đúng cái luật nhân quả, hoàn toàn là sự thật thì chưa có ai viết nổi cái bộ nhân quả.

Cho nên ở đây là Thầy thấy rằng mình cũng có một cái trách nhiệm là một vị tu sĩ từng sống ở trên cái lộ trình của nhân quả mà bằng chứng là các con cũng đã thấy rằng Thầy đang sống ở trong thực nhân quả cho nên hoàn toàn là trước cái nhân quả Thầy vẫn thấy tâm Thầy bất động. Các con thấy rất rõ mà, Thầy bất động, Thầy không có bao giờ dao động trước cái nhân quả. Cho nên vì vậy mà Thầy là một cái gương đứng trước cái lộ trình nhân quả mà tâm vẫn bất động. Vậy mà các con còn không có nương vào Thầy để mà sống, hở ra chút nào thì các con thấy vẫn là phiền não, vẫn là đau khổ. Đó là không thấy cái lộ của nhân quả, chứ còn thấy cái lộ của nhân quả thì liền ngay đó thì mình không có còn cái tâm nào mình biết giận hờn ai nữa hết, mình không có còn phiền não ở trong lòng mình hết, mình thấy nhân quả rồi thì còn cái gì mà mình lại đau khổ. Còn các con không thấy nhân quả cho nên hở chút nào là các con có sự đau khổ trong lòng của các con liền tức khắc.

Người ta nói nặng nói nhẹ mình, người ta mắng chửi mình hoặc thế này thế kia đều là ở trên cái lộ trình nhân quả, chứ ngoài nhân quả làm sao cái điều này được. Mà đã thấy nhân quả thì làm sao mà cái tâm mình nó làm sao nó giận hờn, nó phiền não được, cho nên mình thấy mình rất là an vui. Sống trong nhân quả, thân do nhân quả sinh ra thế mà chúng ta lại trốn nhân quả là trốn ở chỗ nào vậy mà con người luôn luôn muốn trốn nhân quả thì Thầy thấy đó là cái vô lý, (mặt B) cũng như bây giờ mình sống ở trong cái nhà này mà mình gọi là mình trốn cái nhà này là trốn làm sao? Nhà nó đậy mình ở trên này rồi mà nói trốn cái nhà trốn ở dưới đít bàn thì trốn được có không, trốn, trốn cái gì, cái nhà nó ở trên, cái bàn này nó ở dưới thì nó cũng đậy luôn cái bàn nữa, mình chun dưới cái bàn này thì nó cũng đậy mình luôn nữa chứ có gì đâu mà trốn. Cho nên trốn ở đâu cũng không khỏi hết.

Vì vậy mà mình đương nhiên mình biết được nhân quả thì cứ ngồi giữa cái nhà nhân quả mà làm Phật ở đó thì không phải khỏe sao. Các con thấy không như ông Phật ông ngồi trong cái nhà nhân quả ông có buồn không, hề hề ông ngồi đó mắt ông hí ông ấy cười, các con nhìn cái miệng ông coi ông cười luôn chứ ông có khóc không. Còn chúng ta mỗi lần cái nhà nó hơi rung rinh là cái miệng nó méo xẹo à, phải không? Thầy nói có không? Có người nào cái miệng không méo? Đó là những cái mà chúng ta không thấy mình đang sống ở trong cái nhà nhân quả, chứ còn Thầy là người đã từng đã hiểu biết đường đi nước bước của nhân quả, từng sống trong cái nhân quả, bây giờ có cái thân này là thân nhân quả rồi thì bây giờ mỗi một chút như cái cô Minh Cảnh mỗi một chút cái vai nó đau thì: “Trời ơi, đau”. Đã sống ở trong nhân quả mà còn méo cái miệng, đau cái vai thì Thầy nói làm sao. Khi mà cái bụng đau thì: “Ôi trời ơi, cái bụng đau quá”. Trời ơi nhân quả thì nó đau mặc nó chứ phải cái bụng mìnhđau đâu mà sợ, thế mà cứ rên. Thầy nói thật sự, người mà biết nhân quả chết bỏ nhất định không rên, mình đã sinh ra trong nhân quả thì nhân quả nó làm gì mặc nó thì nhân quả tự nó làm chứ đâu phải mình làm, sao mình sợ, mặc nó làm gì nó làm, chết sống cũng do nhân quả chứ ai vô đây. Cho nên chúng ta đâu có định đoạt cái số mệnh của chúng ta được, chừng nào mà chúng ta làm chủ được nhân quả thì chúng ta định đoạt được cái số mệnh. Nhưng mà bây giờ nhân quả nó rớ tới mình cái là mình méo miệng liền, rớ tới cái là mình lôi chân mình nhẩy ra liền. Thử hỏi làm sao mà gọi là mình sống mình làm chủ nhân quả.

Còn đối với Thầy, Thầy làm chủ nhân quả nó có làm gì Thầy được đâu. Cho nên đối với Thầy thì tâm nó như như bất động, còn các con thì không có được nổi. Cho nên từ đây về sau các con phải thấy cái lộ trình của đức Phật và chúng ta đi trên cái lộ trình nhân quả, sống trong nhân quả mà vượt ra nhân quả. Cũng như một bầy cá đang sa vào cái lưới chỉ có một con cá giỏi nhất vọt ra khỏi lưới. Con cá đó giỏi thật, nó giỏi thật là tại sao, nó biết là nhân quả nên nó không ở trong đó. Thầy thì cũng đang ở trong nhân quả như các con, nhưng mà Thầy đã vọt ra các con có thấy đâu, cho nên tại sao các con không theo Thầy mà nhảy ra, bởi vậy phải cố gắng mà nhảy chứ, co đuôi nó vậy, thẳng đuôi nó vậy, bay nó ra mới được chứ, các con co sơ sơ bay sao nổi. Các con thấy cá mà nó vượt võ môn tam cấp không, con nào mà giỏi luôn thì co đuôi cao thì bay qua khỏi không thì xán vô mấy cục đá đó rồi chết tiêu nó luôn hết chứ đâu còn. Các con thuộc về loại cá dở, cá thi rớt đó, rớt ở trên đá nó bể đầu chết hết.

Cho nên ở đây, đối với Thầy về cái thân bệnh cũng như về tất cả mọi cái, các con thấy khi mà Thầy đi thành phố bị dầm mưa đó, về nào là mệt, nào là ho, mặc mày chết bỏ nhất định, giảng là giảng không có sợ, không có nghỉ. Thầy thấy có chết không, các con thấy chưa? Nay Thầy khỏe nhiều hơn rồi, đâu có chết. Hồi sáng đi đi chứ về về cũng vẫn giảng như thường, cho nên bây giờ Thầy có thấy cái...bởi vì sống trong nhân quả, biết nhân quả rồi thì thân này là thân nhân quả, mình sử dụng nó giờ nào cũng được hết chứ có gì mà phải nghỉ mình, mình có gì mà o bế nó như vậy, nó có phải vàng bạc châu báu của mình đâu mà phải nuôi nấng nó, phải vỗ về vậy, thôi để giữ cho khỏe để mai mốt rồi giảng nữa, như vậy là mình sợ nó rồi, sợ nhân quả rồi. Phải không các con? Cho nên Thầy không sợ nhân quả. Mày chết bỏ, bữa nay tao còn giảng, tao còn nói được cứ ráng nói không sợ thằng nào hết. Mà nói còn lớn nữa, không chịu nói nhỏ nữa, phải không? Đâu có chịu thua. Bởi vậy con người biết thắng nhân quả thì không bao giờ sợ nhân quả, cho nên quý thầy nói: “Thầy nói nho nhỏ, Thầy nói lớn quá, Thầy giảng không hết cái giáo án này”. Không hết có người thay thế Thầy giảng, chứ bộ mình Thầy à, Thầy đâu có giành làm mình. phải không? Còn có nhiều người thay Thầy làm chứ. Cho nên Thầy cứ giảng, cứ giảng hết sức mình thôi, nhưng mà nhân quả nó có cái mực, nó thua Thầy, nó sẽ lui. Cho nên bây giờ, hôm qua Thầy nói hơi hơi cái nó ho, nay Thầy nói nãy giờ đâu có ho cho nên nó thua Thầy. Đó là cái Thầy chiến thắng nó đó, còn nếu mà Thầy nhịn nó: “Ờ bữa nay đi mệt quá thôi chiều nay nghỉ mai giảng” nó nói Thầy thua nó, cho nên chiều nay nó hành hạ Thầy ho dữ lợn tợn lắm đó. Còn bây giờ Thầy nói đã, nó bay đâu mất hết rồi đâu có thua.

Cho nên làm người mà biết được nhân quả không bao giờ sợ. Vì vậy mà cái lộ trình ở đây Phật dạy cho chúng ta biết ba cái điều kiện mà Thầy đang dạy các con đó. Là cái thứ nhất cũng nằm trong nhân quả này, cái thứ hai là mình trau dồi miệng lưỡi để mình chiến thắng được cái hành động của nhân quả bởi vì nhân quả nó hành động chỗ nào các con biết không? Thân hành, khẩu hành và ý hành, nó lấy ba cái chỗ của cái nhân quả thân chúng ta để nó hành ba cái động tác này để mà nó đưa nhân thiện nhân ác, để nó đưa chúng ta đi vào cái vòng luân hồi sanh tử nó mãi mãi. Cho nên mình há sợ nó sao?

Cho nên đầu tiên đức Phật dạy khéo léo lắm, chúng ta biết cái dục, là mỗi con người do cái dục mà vì vậy mới tạo thành cái nghiệp, mà tạo thành cái nghiệp tức là nhân quả, cho nên đầu tiên ông Phật dạy: xa lìa đừng có thân cận thứ dục này, dục này là tai hại lắm, nguy hiểm lắm, nó là rắn độc, bỏ đi. Đó là đầu tiên phải không, ác pháp nó là rắn độc nó là nguy hiểm, nó làm chúng ta khổ, cho nên đầu tiên ông Phật dạy, như cái lý đó mình thường nhắc, đặt niệm trước mặt, quán xét bỏ cái tâm dục mình ra đi, cái lòng ham muốn gì cũng bỏ ra, ham muốn tốt cũng bỏ, ham muốn xấu cũng bỏ, bỏ sạch ra hết.

Còn này, các con nhớ con nhớ cái, nói tôi tốt tôi thương con cái tôi đâu có gì đâu mà xấu, chứ nó cũng lôi kéo các con cũng là ác pháp chứ không phải là thiện pháp đâu. Bỏ ra đi, dẹp ra đi không có con cái gì, cũng là nhân quả chứ không phải con cái gì hết, đó là vay nợ nhau cả chứ gì mà ở đó mà con cái, phải không? Các con, suy tư như vậy các con quán bỏ nó ra. Đó là lộ trình thứ nhất cũng chỉ rõ nhân quả.

Lộ trình thứ hai do ba hành động nhân quả chúng ta cũng phải dẹp nó luôn. Từ cái chỗ ba hành động này nó mới có nhân quả chứ nếu không có miệng lưỡi, thân hành, khẩu hành, ý hành chúng ta làm sao có nhân quả. Một người ngồi thiền ngậm miệng cứng ngắc làm sao nói đâu được mà có nhân quả chỗ đó được, ý không khởi niệm gì hết làm sao nó có những cái nhân quả được, thân kéo cho ngồi cứng ngắc đó cũng như gốc cây sao nó hành chỗ nào được mà nhân quả. Phải không các con, thấy rõ ràng nó đâu có nhân quả được, cho nên nó tê liệt, ba cái thằng nhân quả nó tê liệt nó đứng ở ngoài kia nó ngó vô chứ đâu dám lại gần. Cho nên Thầy chẳng sợ. Thầy nói lia lịa chứ nó không nhập vô được bởi vì Thầy nói toàn là pháp xa lìa nó không, cho nên nó hoảng hồn, nó ở trong bụng Thầy nó hoảng hồn nhảy mất, cho nên Thầy tự tại, an vui, không có sợ hãi.

Đó, các con thấy không, cho nên các con thấy mấy bữa kia Thầy nói sơ sơ cái, nó ở trong nó nhảy ra nó chặn họng Thầy, không cho Thầy nói, mệt rồi phải ráng nói nữa, còn nay nó đâu dám chặn Thầy nói giảng tuốt nó đi hết rồi. Bởi vì người tu hành đâu có ngán nó cho nên nó sợ, chứ còn không khéo cứ đi nhà thương chích thuốc khỏe rồi cho nó khỏe khỏe, trời cái thứ đó nhân quả nó nằm đầy bụng, nó nằm đầy óc đầy bụng mình, nó hành dữ lắm. Cho nên đối với Thầy, quý thầy nghe Thầy hơi ho này, nghe quý thầy nói để châm cứu, thì nó châm cứu chi cho đau, điên gì mà châm cứu, cái mình không đỏ mà cứ giác không giác cho đỏ tùm lum ra đó. Điên gì mà làm cái chuyện đau, nhân quả nó đã như vậy rồi mà còn làm thêm đau mình nữa, kệ nằm ngủ cho đã đi thôi nó hết chứ gì,còn không thì mình ngồi thiền nó cũng hết chứ gì. Bởi vì ngồi thiền nó đâu có hành động gì.

Cho nên mình ngồi thiền mình tập trung, mình gom mình bảo cái ý thức á, cái biết đó phải nằm ôm chặt cái tụ điểm, đừng có nằm ở chỗ cái vai hay cái chỗ nào đau đừng có nằm cái chỗ đó. Bắt đầu nó nằm im, nó không thấy đau nữa không phải khỏe mình sao, còn ngồi đó đi giáchay đi chích nó đau thấy bà luôn, còn lại đem lửa đốt nữa thì thôi chết được, thọ lại còn thọ thêm nữa, ngu quá, các con thật ngu đó. Còn đau đâu phải chuyện thứ thuốc đắng cứ kê miệng uống, trời ơi ngu gì mà giữ vậy, ngon ngọt mà không thèm còn đắng lại uống vô chi. Cho nên đối với Thầy, nhân quả không sợ Thầy được, cho nên cuối cùng Thầy giải thoát được nhân quả hết, khỏi cần hết. Biểu mấy đứa này chắt ba nước cơm, làm chi các con biết không? Nó có mệt mình uống vô miếng nước cơm cũng khỏe chứ, nhưng mà nói chứ trưa phải uống chứ không thể uống bậy được.

Đó, đó là những cái điều kiện mình chiến thắng nhân quả. Tới đây Thầy muốn nói, qua cái hành động thắng nhân quả của Thầy, sống trong nhân quả, biết mình bị cái nhà nhân quả nó phủ trùm mình rồi, mình không có đường nào mình đi ra khỏi nó hết. Cũng như bây giờ người ta sinh ra ở trong cái bầu trời này, mà muốn chạy đông chạy tây thì nó cũng ở trong bầu trời, có ai mà chạy lọt ra ngoài bầu trời được không các con. Phải không? Cho nên nhân quả nó là cái bầu trời rồi, nó đè mình đây, nó phủ mình đây này, bây giờ chạy đâu không được hết. Vậy thì mình ở trong bầu trời này mình làm chủ cái bầu trời đi, phải không? Cho nên một cái nhà khoa học ông ta nói nếu cho tôi một cái bẩy tôi bẩy bầu trời cho mà xem, phải không? Ông nói ông bẩy được quả địa cầu mình tức là ông bẩy bầu trời đó. Vì vậy cho nên ở đây Thầy cũng nói, Thầy cho các con một cái tụ điểm mà các con biết khéo giữ gìn cái tụ điểm này các con sẽ đẩy được cái nhân quả, bẩy văng cái nhân quả nghĩa là không có còn cái nhân quả nào mà bắt buộc các con đi trên cái lộ trình tái sinh luân hồi được nữa. Nhưng các con không nghe, không nghe lời Thầy, cho nên không tạo được cái tụ điểm cho chính mình, để cho mình tạo được cái điểm tựa, để cho mình bẩy cái vũ trụ, các con hiểu chưa? Đó là mình bẩy cái bầu trời nhân quả đó. Cho nên cái nhân quả đâu có làm chủ được mình nữa. Cho nên bây giờ thí dụ như, thân của Thầy, Thầy muốn chết hồi nào chết đó, là tức là Thầy bẩy được vũ trụ được rồi đó, Thầy ra khỏi nhân quả rồi, cho nên Thầy bảo nó chết nó chết, nó sống, nó đâu có làm chủ muốn sai Thầy được. Còn các con bây giờ làm chủ được chưa? Chưa thì phải ráng chứ, ráng bẩy cho nó bay cái vũ trụ này cho rồi, để nó làm chi nó đè trên đầu mình, cho nên nó đè chừng nào mình khổ chừng nấy à.

Đó, bây giờ tới giai đoạn thứ ba.

Sau một thời gian nghe được Thánh pháp, như cái lý mà tác ý, chứng đắc Chánh pháp và Tùy pháp, bấy giờ mới biết như thật, đây là bất thiện, đây là thiện.Sau một cái thời gian tu tập ở trên hai cái giai đoạn thứ nhất, thứ nhì đó thì các con mới biết đây mới là thật đó, đây là thật khổ đó. Bây giờ nói đời khổ chứ các con chưa biết khổ đâu, biết chứ không phải biết, có khổ chứ phải không khổ, nhưng mà biết như thật không có biết đâu, còn ham lắm, còn thấy khổ còn chạy, chạy theo sao biết sao, Thầy nói sao các con biết khổ mà sao còn chạy không, ngồi đây mà các con nhớ con nhớ cái không phải là biết khổ mà còn chạy đó, có không, có bao giờ mà các con khỏi hết nhớ con nhớ cái không, phải không. Ngồi đây mà còn nhớ ăn nhớ uống thì có phải là biết khổ mà còn ham không, ăn nó bộ sướng lắm sao, mất công ngồi ăn chứ bộ không mất công ra, nhưng mà tại vì đói mới ráng ăn. Còn mấy con, chờ cho đói, cho tới giờ ăn là ăn cho ngon miệng, thì cái kiểu đó là biết khổ mà còn tham khổ, còn Thầy đói mới ráng mà ăn chứ thiệt bữa trưa cũng không muốn đi ăn nữa chứ đừng nói, đó là người ta đã biết nó là bất tịnh như thế nào người ta không có thèm khát nó nữa đâu.

Cho nên vì vậy đó cái người mà tu mà người ta biết đây là thật khổ rồi, đây thật sự là thiện, đây là bất thiện, người ta biết rất rõ rồi. Đây là tội, đây là không tội, đây cần phải thuận theo, đây cần phải là không thuận theo, đây cần phải là tránh né, đây là hạ liệt, đây là cao thượng, đây là đúng, đây là sai, tất cả những cái này bây giờ người ta biết rất rõ.Nghĩa là người ta biết được cái nhân quả, cũng như là hiện bây giờ Thầy biết rõ nhân quả, cho nên Thầy ngồi ở trong bầu trời nhân quả mà Thầy được giải thoát. Còn các con bây giờ, nghe nói nhân quả, hiểu nhân quả chứ chưa thật biết nhân quả, cho nên Thầy nói, hở chút nào thì các con buồn, các con khổ, các con méo miệng, các con đổ nước mắt, các con rầu rĩ, ỉ ê đủ thứ hết, đó là các con chưa biết được cái nhân quả. Còn khi nào mà các con biết được nhân quả tức là các con đã thông suốt đây là thiện, đây là bất thiện, đây là tội, đây là không tội thì đó là các con đã biết được cái lộ trình nhân quả.

Lẽ ra Thầy nói như vậy các con lắng tai mà nghe, các con thâm sâu khi mà vừa nghe rồi các con đã chứng Thánh quả liền tức khắc, nghĩa là buông xuống hết, người nào cũng A la hán hết trơn đây. Thì chừng đó các con muốn đây mà vô trong mấy thất đó các con khỏi cần đi, chỉ cần tàng hình một cái là tới ngay liền, đâu có cần. Bởi vì khi mà chúng ta đã buông xả được, cái tâm nó liền tức khắc chúng ta đã làm chủ được nhân quả rồi, chúng ta chỉ cần ngồi xếp bằng bảo cái thân bây giờ bay ra cốc ngồi ở trên giường cho tao, cái nó bay ra khỏi nó ngồi liền. Đó là mình đã thanh tịnh cái thân tâm của mình rồi, chứ đâu phải cần mà tu tập cho cực, nhưng mà tại vì cái tâm mình chưa chịu buông nó ra, chưa thật thấy đây là thiện, đây là bất thiện cho nên chưa thật thấy cho nên cái tâm của các con nghe thì nó có hiểu, nhưng mà cái buông xả xuống cho nó thật buông thì chưa có buông, buông thật xuống.

Cho nên phải chờ một cái thời gian mà các con phải đặt cái niệm đó mà như cái lý mà tác ý cho đến khi mà biết thật, như thật, đây là thiện, đây là ác, đây là tội, đây là vô tội. Khi mà các con biết được như vậy rồi thì các con chỉ cần ngồi xếp bằng đây, đừng có thèm đi, đạp kiến nó chết tội, các con biểu nó bay ra ngoài nó bay ra. Sai cái thân mình, cái thân mình là nhân quả mà mình làm chủ nhân quả thì mình bảo nhân quả thì nó phải làm theo, các con hiểu không. Còn bây giờ các con chưa có làm chủ được nhân quả bảo cho nên bảo gì nó ngồi lì đó à, bây giờ chỉ còn có nước là mình phải chịu khó bước đi thì nó mới đi, chứ không bước đi nó không đi, cái thứ cái thân này là lười biếng nhất thiên hạ, mà nó đau nó đau nó cũng làm cho các con cũng khó chịu nữa, còn cái người ta làm chủ nhân quả bảo đừng có đau thì cái đầu nó không đau, cái thân nó không đau nữa, còn mà không có làm chủ được nó bảo sao nó cũng đau hết rồi.

Thì trong cái vấn đề mà tu tập ở cái giai đoạn thứ ba này là chúng ta đã thấm được cái lý tức là chứng được cái lý đạo, người ta nói ngộ đạo chứ chưa chứng đạo, một thời gian sau chúng ta mới chứng đạo. Vậy thì cái giai đoạn thứ ba này là cái giai đoạn chứng đạo chứ không phải cái giai đoạn ngộ đạo mà cũng không phải cái giai đoạn đang tu, mà cái giai đoạn này là giai đoạn chứng đạo.

“Nhờ Chánh pháp và Tùy pháp, biết như thật, thấy như thật, vô mình được diệt trừ, minh được sinh khởi, nhờ thế an lạc khởi lên, hỷ khởi lên đó là con đường tắt thứ ba hướng đến an lạc được đức Phật đã chỉ dạy”. Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta ba cái lộ trình, ba cái giai đoạn tu tập, cái giai đoạn thứ nhất là chúng ta phải sống đừng có thân cận với dục lạc, đừng có thân cận với ác pháp; mà giai đoạn thứ hai thì chúng ta trau dồi thân, miệng, ý của chúng ta, những cái hành động thân, miệng, ý của chúng ta. Khi mà trau dồi như vậy rồi, tu tập như vậy rồi thì chúng ta chứng được cái lý, giai đoạn thứ ba chúng ta chứng được cái lý nhân quả, chứng thật được cái lý nhân quả làm chủ được sự sanh tử luân hồi của chúng ta. Đó là ba con đường tắt mà chúng ta cần phải theo đó mà đi, theo đó mà tu tập.

Tóm lại thì rất là ngắn gọn, nó chỉ có ba giai đoạn tu tập. Giai đoạn thứ nhất là chúng ta đừng có gần cái sự ham muốn của chúng ta. Vậy thì muốn đừng gần cái sự ham muốn của chúng ta thì chúng ta nên cắt ly tất cả những vật dụng thế gian. Đó thì nói tóm tắt nếu mà chúng ta gần những cái nơi mà vật dụng thế gian nó tiện nghi đầy đủ thì chúng ta làm sao mà chúng ta ly nó được. Cho nên chúng ta phải tìm cái cách sống của chúng ta, sống làm sao mà đơn giản, dưới một chòi tre vách lá đơn sơ, vài cái muỗng dừa để ăn cơm, uống nước mà thôi. Không Thầy nói, những cái vật đó chúng ta không có tiếc các con, chứ còn chén đĩa, đồ này kia coi chừng nó dính dữ lắm. Lựa mấy cái muỗng dừa của người ta đó, mình cạo cho sạch đi rồi mình cũng đựng ăn cơm được, uống nước được chứ gì đâu, thứ đó không ai tiếc hết, mình cũng không tiếc cho nên không có dính mắc. Thầy nói thì nó đơn giản vậy chứ mà các con buông hết rồi các con sẽ thấy nó là giải thoát, thật sự đó. Trong nhà của mình có mấy cái muỗng dừa mình treo móc lên, không bao giờ mà sợ ăn trộm lấy, đờikhông giải thoát sao, lấy chi ba cái muỗng dừa. Cái nhà con, cái thất con ở dưới đó, mà các con treo chừng một chục cái muỗng dừa không ai thèm lấy đâu, Thầy không, Thầy nói thật mà cho nên bỏ hết, còn y áo của mình thứ rách rách cứ treo đi, ăn trộm không có lấy nữa còn thứ mà lành tốt các con nguy hiểm lắm, mất công giữ cho nên không có giải thoát đâu.

Vậy cho nên chúng ta phải, đó là Phật nói mình ly dục đó, mình ly dục là lòng ham muốn của mình, mà giờ làm sao giờ? Thì ly đồ vật hết thì nó mới hết thôi ham muốn chứ, còn đồ vật là còn ham muốn à. Cho nên vì vậy, bây giờ thí dụ như bây giờ Thầy nói Thầy ly, nhưng mà bây giờ máy móc cái này cái kia đầy hết thì nói ly chứ Thầy nói láo chứ đâu có ly được, bây giờ Thầy đi vô rừng núi không có gì hết, Thầy có ba muỗng dừa thì chắc chắn là Thầy ly rồi. Đó là chắc chắn rồi đó, đó là cái kiểu không có gì hết, mà còn lại cái cuộc sống của Thầy thì nhờ củ rừng, hay là củ mài, củ rạng, cụ vịt gì trong rừng đào ăn nữa thì hay là củ nho đồ đó thì còn khỏe biết mấy nữa, phải không đâu có lo cái đời sống nữa thì rất là sung sướng. Có năm ba cây mít gì ở trong rừng đó mà trái nó nhiều đó mình hái mình luộc mình ăn thay cơm cũng đỡ nữa rồi, cũng khỏe. Thầy nói nghe nói mấy người đi rừng khi mà không có cơm gạo, không có bắp đó, rồi cái bắt đầu họ đi tìm mấy cây mít ở trong rừng đó, thấy trái trời họ mê lắm, họ hái trái họ luộc ăn, với chuối rừng đó, họ bẻ họ luộc, chuối sống đó họ luộc họ ăn họ cũng no bụng nữa, mà thiệt ra ăn no bởi vì cái chuối nó có bột chứ cho nên nó vẫn sống như thường à.

Đó là cái cách thức sống mà Thầy đã từng góp nhặt của những cái người mà ở rừng, ở rú để khi mà mình lỡ bước ở trong rừng rồi đó thì mình có sống mình cũng thấy sống dễ thôi, không có khó khăn. Do cái trí của mình cho nên mình tạo được cái đời sống giải thoát, vì vậy đó mình ly dục ly ác pháp thì mình phải tạo cái hoàn cảnh sống trước đó.Thì ở đây đức Phật muốn nói, thì mình nói ly dục ly ác pháp ly làm sao lìa đây, đừng có thân cận dục, đừng có thân cận làm sao, thì thân cận dục là gì, có đối tượng dục nó mới có dục chứ không có đối tượng dục làm sao có dục được, có bàn có ghế mới có ham chứ còn không bàn không ghế thì mình ham muốn cái gì giờ. Cũng như bây giờ Thầy có đống đất trắng thì Thầy ham muốn cái gì giờ, ngồi trống bốc vậy thì ham cái gì được đâu, thành ra nó chẳng có tức là không ham, mà có thì phải ham thôi. Do đó khi mà nó không có rồi bắt đầu mình mới trau dồi cái miệng, cái hành động thân của mình, trau dồi cái miệng cái ý của mình, mình trau dồi cái nào nó cũng đầy đủ cái oai nghi chánh hạnh của nó. Thì tức là từ cái không có mình mới trau dồi được, chứ mình có mình trau dồi cũng khó lắm, khó trau dồi lắm.

Đó là những chuyện mà cái người có hành pháp, có chuyên tu rồi người ta mới biết được cái này, còn cái người mà không có hành pháp, họ nói khơi khơi khơi khơi vậy mà họ sống cả đống dục, đồ đạc cả đống mà biểu họ ly dục họ làm sao họ ly được. Cho nên đây là cái kinh nghiệm bản thân mà Thầy nói ra, thì các con thấy, lần lượt các con dẹp hết, dẹp hết thì các con sẽ thấy mình ly hết thì nó hết dục rồi. Bởi vì không còn gì nữa thì còn gì nó dục, nó phải sạch. Và từ đó mình sống vậy đó mình thiểu dục tri túc rồi, nó an vui nó hạnh phúc vô cùng rồi thì chừng đó mình thấy chỗ cái ly mới đem lại cái lạc, cái hỷ lạc của nó tuyệt vời. Cho nên chừng đó mình thấy đồ đạc người ta đem đến người ta cho mình, thôi thôi tôi không nhận nữa đâu, tôi sợ thứ này lắm, nó sinh ra ba cái ngủ nghê không có được, nó cứ lo ăn trộm ăn cắp hoặc cái này kia nọ đủ thứ hết, thôi thôi tôi xin từ đi. Cho nên các con thấy Phật tử người ta cúng Thầy cái này cái kia Thầy sợ lắm, làm mấy cái này bởi vì nó có những cái đối tượng thì nó sinh ra lòng ham muốn của mình à, còn nó không có thì mình không có ham muốn nữa, thôi mình bỏ hết thì tức là mình giải thoát à. Do vì vậy đó, mình trau dồi những cái pháp mình lần lượt mình sẽ thấy cái tâm hồn của mình càng ngày nó càng trống và càng sạch sẽ rồi nó thanh tịnh, chứ không phải mình ngồi mà mình tu như thế nào mà nó thanh tịnh nữa. Từ cái kiếp sống của mình từ rồi từ cái sự trau luyện, trau dồi cái thân tâm trong cái sự không có mình trau dồi nó mãi nó thanh tịnh được, chứ còn nó có không có thanh tịnh được đâu.Cho nên thấy những người tu mà nó có nhiều Thầy biết người đó không có trau dồi gì được không có tu tập gì được, khó lắm, cho nên ở đây nó là cái thực chứ không phải là cái giả. Đó là những cái điều kiện, ba cái điều kiện mà chúng ta cần phải tu tập.

Và kế tiếp thì Thầy sẽ giảng nói luôn trong cái lời mà trả lời cho một vị cư sĩ ở ngoài miền Bắc hỏi Thầy, sẵn dịp Thầy cũng sẽ trả lời để cho thấy cái bước đường mà mới tu tập nó phù hợp với những cái lời Phật dạy, ba cái cách thức để tu tập, để mà biết cách mà tu tập cho nó được giải thoát ra khỏi cái bầu trời của nhân quả mà đang phủ trùm chúng ta, đang đậy chúng ta ở trong cái bầu trời đó.

Thầy muốn nói cái lộ trình của nhân quả, cái đường đi của nhân quả là cái bầu trời đang chụp chúng ta đó. Các con tưởng tượng thì biết là mình đang ở trong cái lồng nhân quả chứ không phải là mình đang ở ngoài cái lồng nhân quả đâu.Cho nên hở hở cái gì là nhân quả không đó, không khéo mà chúng ta không biết rồi chúng ta cứ tạo nhân tạo quả liên tục lên nữa, nhân lên nữa thì chúng ta thọ lấy khổ và thọ được phước báu thôi chứ không có gì khác hơn là chúng ta vẫn tiếp tục luân hồi mãi mãi trong cái lồng của nhân quả này, trong cái lộ trình nhân quả này. Cho nên thấy được nó là cái bầu trời nhân quả đang phủ trùm chúng ta thì chúng ta hãy cố gắng mà vượt qua cái bầu trời này đừng để nó chụp cái đầu của mình nữa thì chúng ta mới thoát.

Đó là cái lời của Phật dạy qua ba cái cách thức để mà chúng ta tu tập để vượt thoát cái lộ trình nhân quả. Người ta nói pháp gì nói, Thầy cứ nói nhân quả à, thì các con hiểu Thầy muốn nói cái gì rồi, vì đó là cái thực của chúng ta cái sống của chúng ta từ nhân quả sinh ra cho đến khi mà chúng ta chết đi chúng ta trở về nhân quả thì nó không có đi đường nào mà chúng thoát ra khỏi bầu trời này, dù đi Đông đi Tây thì cũng nằm trong cái bầu trời này chứ không nằm ngoài bầu trời nhân quả được. Cho nên cái pháp của Thầy, Thầy giảng là đúng là cái đường đi của nhân quả mà của đức Phật đã dựng cái giáo pháp của ngài ở trên cái lộ trình nhân quả để chúng ta được thấy con đường đi cho nó chân chánh đó.

 

“Gửi các con”, - đây là một bức thư mà Thầy gửi cho những cái người Phật tử ở miền Bắc, người ta có một cái người chồng người ta đến đây tu hành, người ta cũng tha thiết muốn vào đây tu nhưng vì cái hoàn cảnh ở đây Thầy ẩn bóng, thì coi như là Thầy nghỉ ngơi trong một vài năm, để nghỉ ngơi cho nên Thầy muốn được cái sự yên ổn một vài năm để cho mình vào nhập cái định mà Diệt họ tưởng định trong một cái thời gian dài để cho các con ở ngoài này các con tự hiểu lấy mà tu tập. Sau những cái  thời gian mà nhập cái định xa vời như vậy đó, một vài năm mà nhập định, thì Thầy sẽ xuất cái định rồi ra, rồi tùy cái duyên, cái hoàn cảnh lúc đó tốt hay xấu, rồi mới tiếp tục mới hướng dẫn cho những người nào mà có duyên mà tu theo đạo Phật. Còn hiện giờ thì đưa cái giáo án này ra, sau khi cái giáo án này cuối cùng mà hoàn thành được thì Thầy kết luận để cho mọi người thấy rằng ở đây là cái sự hướng dẫn của Thầy là nhằm chấn hưng lại Phật pháp những cái gì mà người ta đã quên đi Phật pháp.

Cái lỗi mà không phải hiện giờ quý thầy là lỗi phạm giới, phá giới là do quý thầy mà tài vì từ xưa đến giờ nó đã đi nhầm vào cái đường sai đó chứ không phải là bây giờ quý thầy là người mới phạm giới. Mà vì ai cũng hiểu lầm hết cho nên cái phạm này không phải quý thầy. Cho nên sau khi mà kết luận cái giáo án này, Thầy có một cái lời nói cho tất cả tăng và ni, tất cả những người tu sĩ của Phật giáo ở trong nước cũng như ở trên thế giới này, ai là người theo Phật giáo, đều là đã đi lầm lạc trên ở con đường sai của Phật giáo thì chúng ta, không phải là cái lỗi của chúng ta mà cái lỗi của những người bắt đầu mà Phật giáo các vị Thánh tăng đã tịch đi rồi, thì cái người thừa kế đó họ không có tu chứng được, họ từ cái sai ít rồi họ dần dần kế tiếp tới cái sai nhiều, sai nhiều. Đến chúng ta thì nó mất lối cho nên chúng ta phạm giới, phá giới sống mà vẫn an nhiên ở trong cái sự phạm giới mà chúng ta vẫn thấy không có lỗi đó là từ quá lâu rồi chứ không phải là quý thầy mới đây mà quý thầy làm. Cho nên quý thầy không có lỗi lầm gì hết tại vì cái con đường Phật giáo nó như vậy là như vậy.

Chứ bây giờ là Thầy chỉ nói lại những cái đúng, những cái sai để rồi chúng ta cố gắng sửa những cái sai để thực hiện cho những cái đúng để đem lại cái đời sống cho mọi người được giải thoát và con người trên thế gian này được biết được cái lộ trình nhân quả mà đem lại từng cái phút giây hành động thân, miệng, ý của mình để đem lại sự an lạc, cái sự yên vui cho hạnh phúc cho gia đình, cho xã hội, và cho cả đất nước, cho nhân loại ở trên thế gian này.Thì đó là cái lộ trình của nhân quả để độ tất cả chúng sanh trên thế gian này được hạnh phúc, được giải thoát, an vui. Chứ không phải nhắm vào có một số người giữ gìn giới luật để tu thiền định, để đạt được Tam minh. Cái phần này là cái phần mà cái gốc của Phật pháp là cũng không phải là những cái phần này bỏ mất đi, mà cái phần này là giữ cái giềng mối duy trì Phật pháp, là những cái người mà đã quyết tâm xả hết cuộc đời của mình để đi vào cái lộ trình thứ hai này để thực hiện, để làm tròn cái trọng trách của mình đối với Phật pháp để thắp lên cái ngọn đèn của Phật pháp cháy mãi muôn đời để làm cho cái đạo đức nhân quả luôn luôn thấm nhuần trong tâm hồn của con người trên thế gian. Thì cái này là cái rất cần thiết cho cái đời người cho nên vì vậy đó mà những cái bài pháp mà sau cùng cái giáo án này Thầy sẽ có những cái bài pháp kết luận để làm một cái nguồn an ủi chung cho chư tăng, cho tất cả những người mà đang tu theo đạo Phật ở trên cái thế gian này, không riêng gì ở Việt Nam mà cả ở ngoại quốc.

Thế thì hôm nay, đây là một bức thư mà gửi lại cho những gia đình ở ngoài miền Bắc:

 “Này các con, con đường tu hành của đạo Phật là con đường thiện”, đó thì quý thầy phải hiểu rằng con đường mà tu theo đạo Phật đó là một con đường thiện chứ không phải con đường ác đâu. Vì nó từ ở pháp thiện đó nó mới đứng ở trong góc độ nhân quả mà nó ra, vì có ác mới có thiện, còn nếu thiện không, không có ác thì làm sao gọi là thiện.

“Con đường mà bất cứ ai trên thế gian này đều tu tập được và kết quả rất là tốt đẹp”. Không có người nào mà tu không có kết quả, đừng có mà nghĩ rằng hạ căn, trung căn, hay hoặc là thượng căn mới tu được còn cái thứ trung căn, hạ căn là không tu được đâu. Cái đó là những cái lời sai đã là con người mà ở trên thiện pháp mà sống thì người nào sống cũng được bình đẳng như nhau, cũng được hạnh phúc như nhau không có một người nào là còn kém khuyết người nào hết, người nào cũng được giải thoát bằng nhau, hạnh phúc y như nhau, nghĩa là cái luật công bằng của nhân quả là như vậy. Cho nên ở trong thiện pháp mà cái người nào cũng có thể tu được hết, một người đui, mù, mẻ, sứt chỉ cần có sự hiểu biết là đừng làm cái điều đó là cái điều ác, mà cứ thực hiện cái điều lành thì chắc chắn là cái người nào ở trên thế gian này cũng mang lại cái hạnh phúc do cái hành động họ đã làm điều lành.

“Con đường mà bất cứ ai trên thế gian này ai đều tu tập được cả và kết quả cũng y như nhau, người nào cũng được hạnh phúc, vui vẻ và giải thoát rõ ràng cho cuộc sống hiện tại và mai sau của họ”.Các con thấy không, cứ tu theo con đường nhân quả là con đường tu tập ai cũng được giải thoát hết, cho nên đừng rằng nghĩ tôi là người hạ liệt, tôi là người hạ căn, còn mấy bác, mấy chú, mấy anh là thượng căn mới tu được, tu thf phải nhiều đời nhiều kiếp. Không phải đâu, một hành động thiện bữa nay là ngay bây giờ chúng ta đã hưởng được phước báu của nó rồi, một phước báu rất rõ ràng cụ thể chứ không phải còn đợi ngày mai hay ngày mốt gì hết.

“Thế thì chúng ta phải hiểu biết được cái con đường của đạo Phật đưa đến chúng ta không có thời gian, chỉ đến là chúng ta sẽ thấy có kết quả liền. Muốn được giải thoát khỏi sự đau khổ của thế gian thì phải rõ ràng nhân quả tức là phải thông hiểu được nhân quả, có rõ thấu nhân quả thì hành động thân, miệng, ý phải được trau dồi, tu tập theo thiện pháp”.

Nghĩa là luôn luôn lúc nào hành động thân, miệng, ý của chúng ta phải được trau dồi trong thiện pháp. Chúng ta được biết thiện pháp thì chúng trau dồi nó đừng có để cho nó, thí dụ như bây giờ chúng ta biết này, sát sanh này là phải cầm cái dao này, hoặc cầm cái rựa này, cầm cái mũi tên này, cầm cái lưới này, phải đi bắt cá này, phải đi chài lưới này, phải đâm phải giết này. Thì cái hành động mà thân chúng làm như vậy đó, đó là ác thì chúng ta đừng có làm, thì không có làm thì đâu có làm ác, thì cái chuyện nó quá dễ rồi chứ đâu có gì. Đó thì nói đơn cử để chúng ta thấy rằng những cái hành động ác do thân, miệng, ý của mình. Mà bây giờ cái dao không cầm đâm người thì làm sao mà giết người, bây giờ chúng ta không lấy ăn trộm không hái trái cà, trái bí của ai thì làm sao mà gọi là ăn trộm thì chúng ta đừng có làm cái điều đó. Thì như vậy ai cũng biết cái điều đó là cái điều xấu, cái điều đó là điều ác, vì mình không muốn mất của tại sao mình ăn trộm của người khác, nếu mình ăn trộm của người khác, mai mốt người khác lấy của mình mình nghĩ sao, mình có buồn không, nếu mình buồn thì đừng có lấy trộm của người ta. Thì do đó, do cái chỗ mà suy tư như vậy thì cái người đó họ sẽ không làm cái điều ăn trộm. Thì như vậy là chúng ta thấy như thế nào, tất cả những pháp ác và pháp thiện chúng ta đã rõ rồi, thì chúng ta trau dồi thân, miệng, ý của mình trong những pháp này không được sao. Cũng như miệng mình, hay nói láo này, thì bây giờ đừng nói láo có được không, tại vì mình thích nói láo thì mình nói chứ còn mình không thích nói láo thì làm sao mà mình nói, cho nên mình biết, à bây giờ nói như vậy là nói không thật rồi, nhất định là không nói. Và không nói, một lần mình lỡ, lần thứ hai thì mình đánh cái miệng mình cho nó sưng lên đi, mai mốt nó thấy cái môi của nó sứt lên vầy nó hoảng hồn, mày còn nói láo nữa là tao đánh bên đây cho nó sứt lên nữa thì mày thành còn quỷ cho mày ớn, thì như vậy thì là mình sẽ không nói láo nữa. Mình sang đi, mình trau dồi cái miệng của mình đi, chừng đó cái miệng của mình nó không có nói bậy nói bạ nữa, nó không có nói vọng ngữ nữa. Còn cái miệng mình nó hay kiếm chuyện này chuyện kia, nói chuyện này chuyện kia, chuyện xấu chuyện tốt vả nó cho nó ớn đi, một lần, hai lần, ba lần, mười lần thì nó cũng ớn, vả cho nó rụng răng riết nó cũng phải sợ đi.

 

Đó thì mình phải tự trị mình, mình phải trau dồi mình, mình phải răn dạy cái miệng của mình, chừng đó mình không nói thêu dệt, mình không nói lời nói phiếm, lời nói này kia, cuối cùng thì mình trở thành cái miệng mình rất là tốt rất là thiện. Thì những cái điều đó là những cái điều mình trau dồi ở trong thiện pháp, thì ở đây Thầy nhắc nhở cho các con thấy rất rõ:  “muốn được giải thoát khỏi sự đau khổ của thế gian thì hãy rõ, hãy thấu rõ nhân quả, có thấu rõ nhân quả thì hành động thân, miệng, ý phải được trau dồi tu tập theo thiện pháp. Thiện pháp mà các con đã được học đó là mười điều lành và mười điều dữ”.

Các con thấy Thập thiện chứ gì mà ngược lại thập thiện là thập ác chứ gì, Phật đã vạch cho chúng ta thấy rõ cái đường mà, tại sao chúng ta không trau dồi thân, miệng, ý của mình để mở miệng ra thì có là thập ác rồi, mà hành động ra thì có những cái điều ác rồi. Và như vậy khi mà chúng ta làm một cái điều gì chúng ta ít ra cũng phải có ý tứ trên cái việc đó. Và vì vậy mà Thầy dạy các con tu tập Chánh niệm tỉnh thức hàng ngày trong hành động của các con. Thế mà không luyện tập được, không trau dồi được thân, miệng, ý của mình thì làm sao mình nằm ở trong cái lồng nhân quả mà mình thoát ra được nhân quả. Nó đậy mình, nó diệt mình hàng ngày hàng giờ, nó làm cho mình đau khổ từng phút từng giây, nó làm cho mình trở thành những cái nghiệp, trở thành những cái sự say mê, trở thành những tạp khí chói trặt mình đời này sang đời khác mà không thấy mà không bứt ra. Tại sao mình quá ngu si, mình quá mê muội để mình lầm lạc đến cái mức độ như thế này.

Đó, cho nên quý thầy phải thấy rằng Phật dạy quá thực, có pháp gì mà hơn là pháp Phật thực tế đến như vậy, trau dồi chúng ta có một cái đạo đức nhân quả rất là thực tế, biết thương mình, biết thương người, không làm khổ mình, không làm khổ người thế mà tại sao mình không thực hiện được những điều này cứu mình ra khỏi nhân quả. Thân, khẩu, ý hàng ngày phải ý tứ hết sức để tránh mười điều ác và luôn luôn phát triển mười điều lành, nghĩa là mình phải ý tứ hết sức cái thân, miệng, ý của mình. Hàng ngày trong những hành động thân miệng ý của mình, mình phải cố gắng dè dặt.

Một người biết tu mà không có cẩn thận, không có dè dặt thân, miệng, ý của mình là làm sao, tu cái gì, ngồi thiền hít thở để làm gì đây, hay niệm Phật tụng kinh để làm gì đây, hay nghe thuyết pháp này để làm gì đây. Có phải để cho chúng ta hiểu để hàng ngày chúng ta trau dồi, tu tập cái miệng, cái ý của mình không? Cái chuyện mà chúng ta làm hàng ngày nó có giá trị, bây giờ các thầy cứ nghe lời Thầy giảng mãi nó có phỏng ích lợi gì mà hàng ngày phải để cái thời gian mà chúng ta rèn luyện thân, khẩu, ý của mình trong thiện pháp của Phật không phải là sự giải thoát cho tâm hồn của chúng ta sao. Thế mà quý thầy, các con nghĩ sao mà các con không nỗ lực tu tập những cái điều này để chúng ta ở trong cái lộ trình nhân quả mà chúng ta vượt ra nhân quả, để chúng ta ở trong bầu trời nhân quả mà bẩy vũ trụ nhân quả. Chúng ta làm được một chuyện vĩ đại, rất là vĩ đại, sanh tử chúng ta nghe nói làm chủ sanh tử nghe khó, nhưng bẩy vũ trụ được là bẩy sanh tử được chứ gì, mà bẩy sanh tử được, làm chủ được sanh tử thì phải làm chủ được cái miệng, ý của mình, đừng nói bậy nói bạ, đừng có tạo nhân ác, đừng có tạo những cái hành động ác thì tức là chúng ta đã bẩy được vũ trụ rồi. Chỉ ngay nơi thân, khẩu, ý chúng ta mà làm được việc này thì cần gì mà phải lo, nhân quả luân hồi chúng ta sao được. Đó, đó là những việc mà gần gũi nhất mà các gia đình, mỗi gia đình có chồng có vợ có con cái đều phải thực hiện mười cái điều lành, tăng trưởng mười điều lành và hàng ngày diệt trừ mười điều ác nơi thân, khẩu, ý của chúng ta.

Đó là việc tu tập của các con hàng ngày phải theo đạo Phật, hàng ngày theo đạo Phật chứ không phải đến chùa cúng bái, tụng kinh, niệm chú hoặc ngồi thiền, niệm Phật, lần chuỗi, vân vân,… Ở đây không phải là cái chỗ mà quý thầy đi theo đạo Phật mà làm cái chuyện mê tín đó, cúng bái, cầu kinh, cầu siêu, cầu an, cầu Quan âm phù hộ, điều đó không phải, dẹp quách xuống đi. Nhân quả chi phối ở trong đầu chúng ta này, hàng ngày đau khổ liên tục ở trong nhân quả này mà cầu ông Phật làm sao ông phù hộ được, ông Phật dẹp được cái nhân quả của chúng ta sao mà cầu, cho nên đến chùa không phải là cái chuyện đó, mà đến chùa theo cái gương hạnh của những bậc thầy đã từng làm chủ nhân quả, để chúng ta bắt chước mà chúng ta làm theo như các thầy đó. Chứ không phải đến chùa lạy lạy ba bốn lạy ông Phật, bằng xi măng đó rồi về rồi tụng kinh niệm Phật cầu cho gia đình mình an ổn mà tối ngày rầy rà chửi lộn nhau, tranh từng miếng ăn miếng uống thì thử hỏi còn ra gì là một người mà cư sĩ đệ tử của Phật.

Cho nên ở đây, cái gì làm thì chúng ta phải làm cho đúng, cái gì không phải thì dẹp quách nó đi, đừng có lần chuỗi, đừng có ngồi đó mà thì thầm chửi mắng ông Phật đó. Không, Thầy nói thật, tên người ta mà cứ kêu hoài thì không phải chửi mắng người ta sao? Thầy nói thật, bây giờ tên Thầy này, mà ai cứ ngồi đó cứ kêu, kêu tên riết thì Thầy không tức hả. Không phải sao các con cứ niệm Nam mô a di đà Phật, Nam mô a di đà Phật ông Phật ông tức thấy mồ à, ông nói không được đó, tại miệng ông bằng xi măng chứ tại miệng ông bằng như Thầy ông la liền, tên tao mắc mớ gì mà mày cứ gọi. Thập thiện mà không tu mà tu cái gì, nhân quả nó rành rành ở đó, chết sống do nhân quả, chứ tao có làm nhân quả gì cho mày đâu mà mày niệm tao. Thật mà, Thầy nói thật, cái này là cái thật tại sao họ ngu quá vậy, họ không biết cái chuyện thật, nhân quả thì nó chi phối mình hàng giờ hàng phút, nó sinh tử, nó liên tục, thân của mình nó thay đổi liên tục. Mà ngay đó không chặn đứng nó lại được mà cứ niệm ông Phật, ông Phật làm sao ông thọc tay ông chặn vô được. Đâu phải ông thọc gậy bánh xe được à?

Nói vậy đụng mấy ông mà niệm Phật mấy ông Tịnh Độ ông chửi Thầy… Nhưng mà nói cho vậy để ông biết, đừng làm chuyện mê hoặc quá. Tại ông không hiểu chứ không phải là ...nếu mà ông biết được như lời Thầy nói thì ông lo tu thập thiện chứ điên gì ông ấy tu niệm Phật làm chi. Chắc gì có cõi Cực lạc mà ông về đó mà ông niệm. Nhưng mà sự thật ra Thầy nói, đừng có làm chuyện đó nó không tới đâu hết. Mà chính nhân quả nó chi phối từng phút giây cái trong sự sống của chúng ta. Nó làm chúng ta đau khổ. Bây giờ nó không đau khổ, lát nữa nó đau khổ. Nó vô thường mà. Rồi lát nữa nó hết đau khổ, rồi lát nữa tới đau khổ nữa. Cứ liên tục như vậy. Cũng như bây giờ các con ngồi mà nghe Thầy thuyết giảng này, lát cái nhăn mặt, nhéo mày giờ, nhức đầu quá trời rồi. Có không? Chưa chắc đã là người nào khỏi đau. Bởi vậy cho nên khi tu phải tu sao cho đúng. Làm sao tu mà làm sao mà bây giờ không đau, lát nữa không đau, lát nữa không đau thì mới được. Mà đau thì mặc nó, nó đau thì kệ nó. Thọ nó đau chứ phải mình đau đâu mà mình sợ? Cái của mình đâu có cái đau. Cho nên cái đau là cái ngũ uẩn chứ không phải là cái của mình. Ngũ uẩn duyên hợp lại mà do nhân quả nó tạo ra ngũ uẩn chứ bộ mình tạo ra đâu... nên mình sợ. Do đó mình đứng ra ngoài đi, nó làm gì nó làm, kệ nó, do đó nó ho nó làm gì kệ nó, mặc tình. Cho nên mình cứ việc mình, nó cứ việc nó, không có việc gì. Nhân quả mày làm gì mày làm, tao là tao chứ tao không phải tao là nhân quả. Cho nên từ đó mình thắng nhân quả. Các con thấy chưa, mình phải tu như vậy chứ. Bởi vì mình sinh ra từ trong nhân quả, mà mình thoát ra nhân quả là mình đứng ra ngoài nhân quả. Thì như vậy là mình không bị tác động nhân quả.

Sự tu tập của đạo Phật thực tế, cụ thể, không phải là một thứ hình thức mê tín, trừu tượng. Đó, quý thầy mà làm cái chuyện ở trên không phải là một cái hình thức mê tín trừu tượng sao? Còn cái cụ thể là tại sao quý thầy, Thập thiện quý thầy không làm? Là quá cụ thể, thực tế cho cái sự thay đổi, cho sự mà di chuyển luân hồi, vô thường từng phút, từng giây trong thân của quý vị quý vị lại không làm? Từng phút, từng giây trong tâm của quý vị mà quý vị không tu. Để rồi quý vị tu cái gì? Đau thì méo miệng nhăn mặt, mà lúc bấy giờ thì niệm Phật lia lịa. Ông Phật ông có xuống ông bóp cái đầu hết đau không? Ra mời mấy ông thầy châm cứu cái ông châm cứu còn đau thêm chứ ở đó mà hết.

Chính đạo Phật dạy người ta tri túc thiểu dục, tức là đem lại cho họ một nguồn vui sống yên vui, hạnh phúc. Thật sự như vậy, bởi vì chúng ta tri túc thiểu dục như chúng ta thấy, như hồi nãy cái bài đầu tiên Thầy nhắc phải không? Các con vô đầu, là Phật bảo là đừng có thân cận dục, đừng có thân cận ác pháp. Thấy không? Đừng có thân cận tức là mình phải lìa các vật đi chứ gì? Không có các vật thì làm sao mà chúng ta có dục, như hồi nãy Thầy nói. Thì như vậy là rõ ràng là phải sống thiểu dục tri túc. Đúng là chúng ta thiểu dục tri túc đó, thì như vậy là chúng ta không thân cận dục chứ gì, không thân cận ác pháp chứ gì. Như vậy là chúng ta giải thoát chứ gì? Đó quý thầy thấy chưa? Đó.

Chính vì loài người chưa biết tri túc thiểu dục nên thường đau khổ. Tất cả tai họa trong cuộc đời này mang đến cho họ chính là hành động ác của họ chớ không phải ai mang đến cho họ hết.Đó, thì như vậy chúng ta biết hành động ác của chúng ta là gì? Thân, miệng, ý của chúng ta chứ cái gì nữa? Đó. Nếu mà thân, miệng, ý của chúng ta thiện thì làm sao mà có tai họa. Cho nên có cầu khẩn ai, có tụng kinh, có niệm chú làm gì cho mất công. Vì vậy mà chúng ta thảnh thơi, an lạc, không có gì hết. Cho nên cuộc đời chúng ta biết rằng, khi mà chúng ta không có sống thân cận dục, không có sống thân cận ác pháp thì ngay đó thì chúng ta phải thực hiện một cuộc đời tri túc thiểu dục.

Các con nhớ chứ, tri túc thiểu dục, mà đó là những bậc Thánh mới có thể sống được tri túc thiểu dục. Thầy vào cái nhà nghèo nhất thì Thầy thấy cũng có nồi này, nồi kia đủ thứ, nào là chén sành, chén đĩa sành, tuy xấu nhưng cũng cả đống. Cho nên vì vậy nó cũng chưa gọi là tri túc thiểu dục. Cho nên tri túc thiểu dục là chúng ta cứ sống vài ba cái muỗng dừa bỏ của thiên hạ là thấy nó đủ rồi, không có còn gì hết. Thầy có nhớ là nghe một câu chuyện như thế này mà không biết có hay không bởi vì mình không ở xứ người ta.

Người ta nói ở xứ Na uy á, đâu bên Âu Châu chứ không phải ở đây, mà trên hòn đảo Na uy, cái dân ở đó kỳ lắm, một khi mà nó đi lấy chồng, nó có chồng đó….(mất tiếng), thấy đúng là tụi nó cũng thiểu dục tri túc dữ tợn lắm. Thời đại này mà nó sống được như vậy là cũng quý. Khi mà về nhà chồng nó đem về có mười hai cái muỗng dừa à. Về đó thì cái lớn thì làm chén, làm tộ rồi đựng canh, mà cái nhỏ vừa vừa thì làm chén ăn cơm, còn cái dẹt thì nó làm đĩa, còn cái nhỏ nữa nó làm muỗng nó múc. Nó khỏi cần mua muỗng, mua nĩa gì hết. Cho nên tụi nó quá tiết kiệm. Cho nên đời sống của tụi nó Thầy thấy, như vậy là vợ chồng nó chỉ mười hai cái muỗng dừa là đủ, đủ sống. Cho nên nó khỏi cần gì hết, sống nó không cần lu, cần hũ gì hết. Nó sống ở gần một cái hồ nước, rồi ra đó nó rửa ráy, nó múc cái này kia, nó nấu nướng này kia, rồi bấy nhiêu đó nó bày ra nó sống. Cho nên trong nhà nó không ăn trộm, ai lấy cái gì của nó hết, có bấy nhiêu đó thôi, bởi vì cái đồ đó. Mà cái xứ đó nó dừa dữlắm, vậy mà nó làm mấy cái này nó bào cho đen cho tốt rồi bắt đầu nó để nó xài thôi. Thành ra không có ai lấy của ai nữa hết, cho nên cái xứ đó không có tham lam.

Thầy nghe nói như vậy mà không biết có không. Nhưng mà cái kiểu sống đó thật là mấy ông thầy chùa của mình chắc chưa bằng đâu. Tại vì mình còn nhiều quá, lẽ ra thì mình sống như Phật thì ba y một bát thì hơn nó chứ còn mình sống cái kiểu đó là sống không nổi. Nhưng Thầy thiết nghĩ rằng, sau này, thì chắc chắn là nếu mà quý thầy mà sống ba y một bát á thì chắc chắn là chịu không nổi đâu. Nói thì nghe nó hay vậy chớ thực tế thì nó không được như vậy. Thầy nghĩ như thế này, tại sao? Bây giờ một bộ đồ như Thầy này, phải hông? Là y trung này, y hạ này, rồi cái y thượng này, rồi bây giờ Thầy bắt đầu từ Tràng Bàng này Thầy đi thành phố. Sáng sớm Thầy đi, đi riết cho tới thành phố năm chục cây số, tới dưới rồi mồ hôi, mồ hám ướt hết cả bộ đồ này hết. Mà bây giờ làm sao, giặt thì chỉ còn nước chun hang chứ làm sao ở ngoài được, phải không. Mà gặp mà trời mưa mà ướt nhoi thì làm sao đây? Chỉ có đêm sau là bị cảm lạnh bị chết luôn đó, mà coi chừng bị bệnh phổi nữa là khác.

Cho nên nói chứ đời sống của một người cái tu sĩ á, thiểu dục tri túc ít ra thì nó cũng phải có hai cái bộ đồ ngắn như thế này. Phải không các con? Giữ một cái y thượng thôi, đừng có nhiều, nhiều nó cực lắm. Vậy thì như thế nào? Khi mà cái bộ đồ mà chúng ta mặc này đi tới cái chỗ rồi, nó mồ hôi, nó hôi lắm rồi, chúng ta phải giặt hết rồi. Bây giờ có tắm rửa rồi mình có vấn cái y này lên cũng hôi lắm mà nó cũng rít rắm, nó không có thể ngủ được đêm đó đâu. Cho nên chúng ta phải lột bỏ hết cái này giặt đi. Rồi bắt đầu đó, chúng ta mới mặc cái bộ đồ mà chúng ta đem theo, một cái bộ đồ ngắn vậy thôi, phải không. Cái y hạ và y trung này chúng ta mặc vào thì đêm đó chúng ta ngủ ngon lắm, bởi vì nó không có dính mồ hôi, nằm nó mát mẻ. Chứ còn cái bộ đồ dính mồ hôi này, cũng như cái y này, tối mà Thầy đắp lên thì chắc chắn là Thầy ngồi thuyết giảng thế này mồ hôi không mà tối Thầy đắp nữa chắc chắn là Thầy thở không được rồi. Mồ hôi của Thầy á chứ đứng nói mồ hôi của người khác à, mồ hôi người khác chắc là Thầy chắc ngộp thở luôn à chứ không phải dễ đâu.

Đây là sự thật, cái gì sự thật là mình nói sự thật, cuộc sống mình như thế nào mình nói thư thế nấy, đừng có dối, đừng có che đậy nó. Nói tui sống ba y một bát, mình coi chừng mình nói láo đó. Nhưng mà sự thật ra, trong cái thời đức Phật thì mình không biết như thế nào nhưng mà thời của mình, theo Thầy kinh nghiệm, thì chắc chắn là phải hai cái bộ đồ ngắn thì nó tiện nhất. Nó không có cái y lớn này thì cũng được nhưng mà nó có cái y lớn thì mình đi ra ngoài, còn không có thì mình không có đi, mình ở trong hang, trong thất của mình thì thôi thì mình mặc đồ ngắn được. Bởi vì Thầy nhớ lại, cái kinh nghiệm bản thân của Thầy, suốt mười năm mà trong thất Thầy có hai bộ đồ. Bộ đồ vàng như thế này, bằng vải, mà hai bộ đồ như thế này. Tại sao mười năm mà Thầy có hai bộ đồ mà Thầy mặc được. Là tại vì Thầy thay cái bộ đồ này, từ sáng tới chiều thì Thầy tắm, tắm cái Thầy giặt cái bộ đồ này thì Thầy phơi đêm ra sáng là nó khô rồi. Rồi Thầy mặc cái bộ đồ kia, một ngày nữa Thầy cứ thay đổi. Còn rách tới đâu thì mẹ Thầy vá tới đó cho Thầy. Cho nên suốt mười năm, cái bộ đồ của Thầy đắp vá nó dầy vậy này. Từ cái miếng vải mà ở trong cái bộ đồ Thầy mặc đó thì nó đã mục hết rồi, nó chỉ còn cái miếng vá thôi. Rồi cái miếng vá kế đó, nó bị rách, mẹ Thầy đắp vá  lên. Thay vì bây giờ để mà gỡ miếng vá này đi thì cái áo nó bị rách lớn quá rồi, cho nên để cái miếng vá này rồi cái miếng vá này nếu nó bị rách mà rách nhỏ thì mình đắp miếng vá tiếp lên. Rồi cái miếng vá kế nó mục nữa, mà cứ giặt hoài nó phải mục mà, nó mục thì vá lên, vá lên. Cho nên cái áo của Thầy nó thành dầy. Mặc nó ấm dữ lắm, nhưng mà nó càng ấm thì nó lại càng nực chứ không có gì, nhưng mà thôi kệ nó, mình tu hành. Cô Út thì cực khổ quá, mình không có nên đòi hỏi may thêm nữa, thôi cứ... mẹ Thầy thì già rồi, đâu có làm gì. Cô út thì buôn bán còn Thầy thì ở trong thất tu. Cho nên mẹ Thầy cứ ngồi lụm cụm, cứ vá áo cho Thầy thôi. Mà cứ hai cái bộ đồ đó vá hoài. Bởi vì giặt ra thì dò cái nó rách, nó rách thiệt, bà vô coi thấy nó có lỗ thì vá, cứ như vậy Thầy mặc. Cho nên trong cái thời gian mà Thầy ra thất, cái khu đất ở chỗ sát thất của Thầy thời đó nó chưa có trồng tre trúc gì đâu, nó còn trống lắm, bởi vì hồi đó tranh rồi này kia phá ra. Do đó Thầy mới cuốc, thì cuốc cho nó Thầy cuốc, Thầy dập nó xuống rồi Thầy trỉa đậu. Thầy trỉa đậu, Thầy mặc cũng bộ đồ đó chứ Thầy cũng không mặc bộ đồ khác, mặc với bộ đồ đó. Thầy với chú Út nhỏ nhỏ này này. Hồi đó thì chú theo Thầy chơi chứ còn chú cũng không làm gì. Bắt chú bỏ hột đậu, Thầy trồng trỉa thôi. Và vì vậy đó thì các con thấy rằng, chú Chân Tịnh chú mới nghe đồn ở bên Tràng Bàng đây có ông thầy tu ông cuốc đất, ông trỉa đậu rồi ông cuốc đất chứ không bao giờ bắt trâu bò cày. Đồn vậy mới qua thăm thử coi ông thầy đó sao. Quả đúng qua thăm Thầy, thấy nội cái bộ đồ mà Thầy mặc không, Chân Tịnh đảnh lễ Thầy liền à. Chỉ có ông thầy nào mà mặc bồ độ đến nỗi như vậy đâu. Cho nên Chân Tịnh hồi mà về đây, muốn xin cái bộ đồ đó mà Thầy nói, thôi không có được, để bậy để bạ chúng cười chết đi, Thầy nghèo mà còn làm cái chuyện đó nữa. Cho nên sau đó Thầy đem Thầy đốt mấy cái bộ đồ Thầy hết, Thầy không có để, không có để cho ai hết. Sợ người ta để, người ta để lại cái kỉ niệm của Thầy hồi còn ở trong thất tu. Thiệt ra nếu mà để lại thì cái di vật rất quý chứ không phải thường đâu. Nhưng mà Thầy đốt.

Đó, như vậy là Chân Tịnh theo Thầy, mà theo Thầy nhưng mà phá cái ngũ không được. Chân Tịnh phá cái ngũ không được, chứ phải phá cái ngũ được thì cũng khá lắm. Cho đến tới cuối cùng mà độc cư không nổi buộc lòng Thầy phải đuổi đi thôi chứ Thầy không để được thì các con biết. Thì đó, cho đến hôm nay thì Thầy đem cái giáo án này để dạy cho các con biết rằng, cái Thập thiện là cái quan trong cho chúng ta cái bước đầu tiên. Và tất cả mọi cư sĩ đều tu ở trong nhân quả. Như nãy giờ Thầy nói, chúng ta đang sống trong cái bầu trời nhân quả, mà chúng ta vượt ra được cái bầu trời nhân quả tức là chúng ta ló được cái đầu lên cái bầu trời rồi. Còn bây giờ cái đầu chúng ta bị bầu trời chộp, cho nên không có ló. Còn riêng Thầy, các con chưa thấy cái đầu của Thầy ló ở trên đó. Ngồi đây chứ cái đầu của Thầy ló ở trên. Cho nên lúc nào bây giờ cái đầu ló ở trên còn cái nhân quả chộp ở dưới này phải không. Cho nên ai nói gì Thầy cười, không có buồn. Còn các con bị nó chộp ở trên này, nói cái nó đụng các con, các con méo miệng hết, không có người nào vui hết. Cho nên làm sao ló cái đầu được lên trên, nghĩa là cái đầu của mình biểu dài dài ra, ló ở trên, cao ở trên mây xanh, sướng quá rồi.


Cho nên cuộc đời mà nếu mà chúng ta....

BĂNG SỐ 42

Vậy hàng ngày các con phải lấy Thập thiện làm hành trang để tiến bước về đất Phật. Đất Phật ở đâu chúng ta không biết nhưng chúng ta vượt qua nhân quả là chúng ta đến với đất Phật đó. Cho nên lấy Thập thiện làm hành trang để tiến bước về đất Phật, lấy Chánh niệm tỉnh giác - đây là những phương pháp Thầy dạy các con đó, từng bước đó. Thập thiện nhớ không? Làm hành trang để tiến bước về đất Phật. Lấy Chánh niệm tỉnh giác làm phương tiện di chuyển. Cũng như mình lấy Chánh niệm tỉnh giác làm cái xe đạp mình đạp đi cho bớt mỏi chân chút, nhanh nhanh hơn chút. Tức là nếu mà mình đi bộ, lấy Thập thiện làm hành trang mình đi bộ thì nó lâu. Cho nên mình đi mau mau hơn chút thì mình lấy Chánh niệm tỉnh giác cũng như mình mượn chiếc xe đạp mình chở cho nhẹ chút. Cho nên mình làm phương tiện mình di chuyển đi cho nhanh chút.

Lấy Tứ Chánh Cần làm vũ khí để bảo vệ mạng sống của mình. Nghĩa là mình đi trên con đường vậy chứ nó cũng có những nguy hiểm lắm chứ. Cho nên phải lấy Tứ Chánh Cần làm vũ khí để khi gặp có gì đó là mình chặt đầu nó mình đi qua chớ không thì nó cướp mạng mình đi. À gặp cướp thì cũng có thể nó cướp giật mình giữa đường. Đó cho nên mình phải lấy Tứ Chánh Cần làm vũ khí, các con phải nhớ kỹ lấy Tứ Chánh Cần. Cho nên các ác pháp đến là mình diệt liền, đừng có để. Vậy cho nên lấy vũ khí mà chặt đầu nó đi còn các con để ác pháp nó đến nó xâm chiếm như bọn cướp nó cướp các con rồi. Cho nên các con phải tiêu, cho nên Tứ Chánh Cần Phật dạy đó. Các pháp ác chưa sanh không cho sanh mà đã sanh thì phải diệt. Các pháp thiện chưa sanh thì cho sanh mà đã sanh thì cho tăng trưởng. Phải không? Có bốn điều kiện của Tứ Chánh Cần. Vì vậy mà chúng ta lấy nó làm vũ khí có phải không?

Lấy tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Vô Lượng Tâm là gì đây? Đây các con sẽ nghe để mà biết chớ, không lẽ đi trên đường các con nhịn đói đi được sao? Cho nên lấy Tứ Vô Lượng Tâm mà làm lương thực, làm thực phẩm sống hàng ngày để mình sống mình đi. Chớ rồi không thể nhịn đói đi nổi không? Đói quá đi sao được phải không? Cho nên chúng ta lấy Tứ Vô Lượng Tâm làm thực phẩm hàng ngày để nuôi sống mà đi.

Lấy pháp hướng làm kim chỉ nam không bao giờ lạc lối.Cái pháp hướng các con cứ nhắc nó thì nó không có lạc, còn các con không nhắc vọng tưởng nó vô thì nó lạc mất chứ gì. Các con quên không? Cho nên những cái pháp mà Thầy nêu ra nó có đầy đủ những cái ý nghĩa đề khi mà chúng ta sử dụng nó. Các con quên nhắc nó là coi chừng các con mất kim la bàn rồi đó. Chỉ Nam Bắc mà các con đi Tây đi Đông mất rồi phải không? Cho nên không mất hướng rồi, còn có pháp hướng rồi các con không bị lạc đâu. Do đó các con sẽ không bao giờ lạc lối. Lấy cái gì nữa đây?

À, lấy Tri Túc Thiểu Dục làm phương châm cho cuộc sống của các con. Bởi vì mình thiểu dục là mình không có gì hết, đó là cái phương châm cuộc sống của mình có thêm bỏ ra, có thêm bỏ ra. Thì như vậy là mình bỏ ra mới đúng phương châm của mình, mà không bỏ ra là không đúng phương châm. Mình tu hồi mới đầu mình bỏ ra sau đó mình nhìn vô cái thất của mình trời bọc ni lông sao mà đầy hết trơn. Vì có bỏ ra được cái gì đâu tới cái lon sữa rồi cái gì cái gì mà người ta bỏ da-ua trong mình ăn rồi cũng mình để mai mốt mình đựng muối tiêu. Cái gì cũng không bỏ hết thì như vậy là các con đâu có Thiểu Dục Tri Túc, cứ nhét vô nhét vô không à. Đó đi ra ngoài thấy cây đinh cũng lượm vô, thấy con ốc gì của người ta chạy xe đạp người ta rớt cũng lượm vô để trong nhà. Trời đất ơi mình có xe đạp đâu mà lượm con ốc đó bỏ trong nhà. Người ta có xe đạp thì người ta lượm vô làm cái gì mà mình không có lượm con ốc bỏ nhà làm chi? Ở đó tất cả những cái đó là cái Thiểu Dục Tri Túc của chúng ta mà làm phương châm trong cuộc sống của mình. Rồi lấy cái gì nữa các con? Nó còn nữa chứ.

Lấy phòng hộ Sáu Căn diệt lòng ham muốn.Đó là chấm dứt sinh tử luân hồi. Cuối cùng thì chúng ta phải phòng hộ sáu căn của mình. Để làm gì? Để ngăn chặn nó. Phòng hộ mắt mình nhìn thấy cái đồng hồ mà nó khởi ham muốn là không có được. Tức là mình phòng hộ nó mình không cho ham muốn gì, nó lìa ham muốn ra hết cho nên mình trở thành Thiểu Dục Tri Túc. Mà nó lìa ham muốn thì tất cả những cái đó là chấm dứt sanh tử luân hồi của mình. Ở đây các con có nghe Thầy nói ngồi thiền hít thở không? Không, phải không? Thầy có dạy thêm cái gì nữa không? Không. Thế mà chúng ta chấm dứt được sinh tử luân hồi rồi. Vậy các con tu cái gì giờ đây? Phải không? Cứ theo cái lộ trình từ người cư sĩ tới người tu sĩ mà tu như thế này tức là chúng ta đã phá được con đường nhân quả của chúng ta rồi. Các con thấy rõ chưa?Rồi từ đó các con sẽ đi tới rồi các con sẽ thấy cái hơi thở ở chỗ nào Thầy mới dạy tới. Bây giờ dạy hơi thở các con chẳng thu biết hơi thở. Thầy biết hôm dài cứ hơi thở không à. Phải không? Mà ở đây con giảm giảm lại chứ còn trước kia các con liên miên bất tận lúc nào hở ra cũng hơi thở chớ không có bỏ hơi thở. Còn bây giờ thì đã giảm bớt nhiều rồi. Từ ngày mà có cái giáo án này các con thấy giảm xuống giảm xuống cũng khá nhiều rồi.

Chúng ta đi lầm đến cái con đường của đạo Phật, “Các con hãy cố gắng tiến lên. Tự thắp đuốc lên mà đi, ánh sáng và sự giải thoát đang chờ đón các con. Cố lên, cố lên”. Đây là bức thơ của Thầy mà, nhắc các con nhắc không những là người cư sĩ ở Hà Nội, những người đệ tử cư sĩ của Thầy đang ở Hà Nội đã hướng về Thầy mà đây cũng nhắc các con cũng đang hướng về Thầy, đang hướng đến những ngọn đèn mà Thầy thắp lên cho các con đi. Vậy thì các con hãy theo những cái gì mà Thầy dạy đây mà các con hãy bước đi, đừng để mất thời gian. Tuổi đời của các con sẽ qua mau rất là uổng.

À bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục học Giới Bổn.

Ba cái Giới Bổn này thật sự ra Thầy cũng không phải dạy các con học để làm gì, nhưng mà nói ra để cho mọi người nghe đồng thời chỉ ra cái đúng cái sai của nó. Sau này có dịp mình thành lập lại cái Giới Bổn cho nó đúng cách của người mà chấp nhận cái giới mà làm Thầy của mình để cho ly dục ly ác pháp như lời đức Phật đã nói: Lấy giới để tu tập để ly dục ly ác pháp để nhập được Sơ thiền. Còn cái giới nào mà nó làm cho chúng ta sống mà chạy theo dục lạc thì chúng ta nên bỏ cái giới đó đi. Không có chấp nhận cái giới đó vì giới đó không phải của Phật. Vì mục đích của Phật đưa ra giới nhằm tạo cho chúng ta có cái hàng rào giữ gìn cho cái tâm của mình đừng đắm nhiễm trên những cái dục lạc, những ham muốn của mình. Những cái ác pháp mà đang ở trong nhân quả như Thầy đã nói hồi nãy. Nó đang đeo đẳng, nó đang phủ chùm chúng ta, nó đang chờ những cơ hội mà lôi kéo chúng ta ở trong những nhân quả. Mà nhân quả thường thường là cái nhân quả ác chứ không phải nhân quả thiện. Cho nên vì vậy những cái giới luật này hầu giúp cho chúng ta vượt thoát ra khỏi những nanh vuốt của nhân quả. Để chúng ta thoát ra khỏi cái tâm ham muốn của chúng ta. Thế mà giới luật không giúp cho chúng ta vượt thoát ra cái lòng ham muốn, vượt thoát ra cái ác pháp đó thì cái giới luật đó chúng ta không chấp nhận. Vì nó không phải là cái giới luật của Phật. Vì giới luật của Phật mục đích của nó là giúp cho con người theo đạo Phật là phải ly dục ly ác pháp thì đó đúng là giới luật của Phật.

Giới 34: Giới thọ thỉnh quá ba bát

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc bấy giờ có vợ cư sĩ về bên mẹ. Chồng họ kêu trở về liền sắm thức ăn và y áo nghiêm túc. Lúc ấy có các Tỳ kheo đến nhà đó khất thực người đàn bà ấy bèn đem số thức ăn đã sắm đó cúng các Tỳ kheo ăn hết. Người đàn bà ấy phải sắm lại thức ăn cho nên chưa về lại nhà chồng. Trong thời gian ấy ông chồng đã cưới vợ khác. Lại có các Tỳ kheo khất thực xin hết lương thực của người khách buôn có tiếng tăm kia. Người ấy phải vào thành sắm lại lương thực đem về. Các người bạn đi rồi người ấy đi theo không kịp bị giặc cướp đạp. Phật quở trách cả hai trường hợp rồi kiết giới này.

Nghĩa là một cái người người ta sắm cái thực phẩm để mà người ta đãi cái bà con dòng họ của người ta. Thế rồi gặp các thầy đến đó khất thực thì người ta trút cái thực phẩm đó người ta cho quý thầy đi. Đó là cái trường hợp thứ nhất.

Cái trường hợp thứ hai là khi cái người vợ này họ sắp sửa họ trở về nhà chồng vì họ mắc lo bận bịu để mà lo mà đem lương thực này kia cúng dường cho các thầy, cho nên trở về không kịp ông chồng ông ở nhà cưới vợ khác ông bỏ đi. Thành ra bà này mất chồng đi. Do những trường hợp đó Phật nghe những trường hợp mà các thầy đã làm bận rộn cho người ta như vậy để làm cho người ta bỏ lỡ những cơ hội vậy Phật mới kiết cái giới này. Cho nên thọ thỉnh quá ba bát ở trong cái nhà người ta, mà mình đến mà mình xin ăn ba cái bát như vậy người ta phải mất khẩu phần ăn của người ta quá nhiều. Cho nên đức Phật muốn chế cái giới này nghĩa là mình đến xin đó mình chỉ xin người ta cho một người thôi rồi mình đi chỗ khác chớ mình không được ở đó chờ gia đình đó ba bốn người rồi năm bảy người mình đến đó chờ nhà đó mà cho mình ăn. Bây giờ trong nhà người ta làm có 5 phần ăn của 5 người ăn à, mà bắt đầu bây giờ có 5 ông thầy Tỳ kheo đến người ta sớt cho 5 người này thì 5 người kia ở trong nhà khách mà đến thì người ta lấy gì người ta đãi. Bất quá người ta cho 1 người thì còn 4 phần kia người ta có thể phủ trùm qua cho những người cho 1 người thiếu thì có thể được. Còn này thấy nhà người ta có đám như vậy mình đến mình xin sạch hết rồi lấy gì người ta làm cho người khác ăn. Cho nên hầu hết đức Phật cấm là vì có nhiều người thấy cái nhà đó có lòng cúng dường thì bao nhiêu ông cứ xúm lại, xúm lại cái nhà đó để mà xin thì đức Phật cấm là cấm như vậy. Làm cho người ta lỡ những việc mà may mắn của gia đình người ta cho nên mới cấm cái này. Đúng là đức Phật cấm cái này là đúng.

Thí dụ như bây giờ từ đây đến ở đằng kia nó có 5 cái nhà, mà mỗi cái nhà là 1 gia đình. Đây là 5 vị Tỳ kheo cho nên khi mà đến cái nhà này chưa chắc họ đã cho 1 cái người này mà đủ ăn trong 1 ngày đó, họ cho 1 bát cơm thôi. Rồi mình đến cái nhà kia, nhà kia họ có hảo tâm họ cho thêm 1 bát cơm nữa. Mà mình đi trong 5 người thì thử hỏi họ làm sao đây? Cho nên do vì vậy một cái người mà đã xin cái người đó người đó đã sớt bát thì người đó mở cái nắp bát ra cái người đó người ta đổ vô. Còn nếu mình không nhận cái sự cúng dường của họ, mình đậy nắp bát lại người ta xin cúng dường đó thì mình biết là người ta đã cúng dường cho mấy người kia rồi. Mình đậy cái nắp bát lại mình chờ người ta cúng dường. Ý nghĩ của cái giới này là mình tránh cái sự quá hao tốn của người khác. Trong khi biết nhà người ta quá nghèo thì người ta cho cúng dường một vị rồi thì tất cả những vị khác đều đậy bát lại hết. Rồi sau đó ta đi thì những người đó họ có van xin mà mình thấy rằng họ có thừa họ cúng dường mình thì mình mở bát ra mình nhận. Chớ không phải mình luôn luôn lúc nào mình cũng mở cái bát của mình ra mình để như thế này mình ôm ôm thế này mình mở bát ra đâu. Mình đậy bát lại nhưng cái người người ta lại cúng dường mình thì người ta xá mình rồi người ta đứng người ta xin cho người ta cúng dường mình. Do đó mình mở bát ra khi mà người ta đem cơm đến mới mở bát ra rồi người ta mới trút cơm vào trong bát của mình. Rồi mình đậy bát rồi mình đi chớ không phải mở bát ra thế này cũng như là ăn mày mà đưa cái nón thế này cứ nhìn hoài thì không có được.

Cái người mà đi xin theo hạnh khất thực đó thì Thầy nghĩ rằng khi mình đi mình ôm cái bát mình đậy cái bát lại chớ không phải mình mở cái bát. Nhưng mà khi mình đi mình không có ôm cái bát thì mình bỏ cái bát trong túi bát của mình, ở ngoài mình phủ y không ai thấy mình bưng cái bát thì người ta không biết mình đi xin. Còn nếu mình đi xin cái bát mình mình ôm nhưng cái nắp nó vẫn đậy chứ không mở nhưng mà khi người ta đến người ta xin mình, thì mình mới mở cái bát ra mình chấp nhận, mình nhận cái sự cúng dường của họ mình mới mở bát ra. Còn mình không nhận sự cúng dường thì mình đậy bát lại, do đó họ xin mình không nhận thì họ vẫn đi chứ họ không có làm sao họ nắm cái bát mình họ mở ra họ đổ vô được.

Do vì vậy đó thì khi mà trong cái giới này thì nghĩ rằng mình 5 người hay 10 người mà mình đến xin cái nhà đó. Trong một cái đoàn đi thì khi mà cái người đầu tiên trong cái nhà đó sớt cho mình rồi thì cái người đầu tiên được cái thực phẩm rồi thì họ đi tới. Nếu mà họ đã đầy bát rồi thì cái người này họ đi về, chớ không phải là họ đi luôn như vậy. Đi luôn như vậy thì cũng được chứ không phải không được nhưng đi về cho những người khác người ta tiếp tục người ta đi trên cái lộ trình này từng nhà mà người ta đến người ta sớt bát. Ông này đi đầu nè, 4 người kia đi sau nè, thì cái người đi đầu này ôm bát đi đầu thì đến cái nhà đầu tiên họ đến họ chắp tay họ xin để cho họ sớt bát thì cái đoàn này đều đứng lại hết, 5 người này đều đứng lại hết chứ không phải đi. Thì khi mà nhà đó đã đổ bát cơm cho ông thứ nhất rồi thì có người đổ bát cơm cho người thứ nhất rồi thì họ đến người thứ 2 họ xin. Thay vì đức Phật cầm giới này thì người xin thứ 2 không mở bát cho họ đổ nữa. Vì họ đổ cho người này là họ dành thực phẩm trong gia đình cho 1 người là nhiều quá rồi. Vì mọi người quá nghèo chưa phải người nào cũng giàu có.

Cho nên khi đó khi mà mình không nhận rồi thì cái người này họ về nhà họ không đem cho nữa. Do đó mình mở lần lượt mình đi, đi theo 5 người thì trong khi cái người đầu tiên này họ chưa đầy bát thì họ chưa có về đâu, họ còn tiếp tục họ đi tiếp 1 nhà 2 nhà 3 nhà, chừng nào họ đầy bát rồi bắt đầu cái người này họ đi về. Họ đi về thì còn 4 người, 4 người tiếp tục đi cho đến 3 nhà nữa thì cái người này đầy bát rồi trở về thì còn 3 người. Và cứ như vậy đến người cuối cùng họ đi 1 mình họ cho đến khi họ đầy bát họ mới trở về họ thọ thực. Chớ không phải đi cả đoàn chờ cho họ bỏ đầy bát hết rồi dẫn nhau cả đoàn về thì cái kiểu đó cũng chưa đúng cách theo cái giới luật này mà.

Thầy nghĩ rằng là đọc qua giới luật thì mình thấy qua cái hạnh khất thực thì nó như thế nào đúng như thế nào sai chớ không phải đợi người ta dạy cái này cái kia mình mới thấy đúng sai. Cho nên ở đây Thầy thấy quá rõ ràng là vì đi 3 người hay 4 người thì đều tiện. Giống như ở bên Thái Lan mà Chơn Thông đi qua bên đó về nói lại với Thầy là khi mà đúng giờ đi khất thực thì trong chùa có mấy người đi hết mấy người giờ đó đi hết. Thì ở ngoài đường thì 2 bên phố đó người ta cúng dường cho quý sư người ta ra 2 bên đường phố đó người xách cơm xách nước này kia họ ra họ ngồi dài 2 bên đường đó. Thì cái ông thầy đi trước người đó sớt rồi thì cái người đó sớt cho ông thầy đó họ về, cái người cư sĩ đó họ về thì ông thầy đó chưa đầy bát thì ông đi tới cái người kia nữa họ sớt vô nữa, rồi ông đầy bát rồi ông về thì cái người sau đó họ đi tới nữa cái người kế cứ sớt sớt vô. Cứ đi chừng hết chỗ kia là đoàn khất sỉ của mình đầy bát hết chớ khỏi cần đi đâu nữa hết. Nghĩa là sáng cái chùa đó là bao nhiêu phật tử họ tập trung vào cái đường đó rồi họ đem cơm họ dở sẵn đó hết, do đó buổi sáng mình đi cứ thẳng đường theo đó mình đi.

Thí dụ như bây giờ chùa mình có thêm một người thì ông trụ trì chùa đó ông báo cho nhóm phật tử đó biết rằng chùa bây giờ có thêm 1 người 2 người hay 5 người thì cái đoàn phật tử đó sẽ báo cho một số gia đình bây giờ ở chùa có thêm 5 người nữa thì quý vị ai ai mấy gia đình nữa hùn với chúng tôi cho 5 vị này mỗi bữa sáng họ ăn. Cho nên khi mà báo rồi hôm sau đi mới có bữa mà mình tới đó thì mình chỉ nhịn đói thôi, mình tới mình không đi xin ai được hết nghĩa là chưa có ai sẵn sàng cho mình hết. Cho nên người ta sắm sửa đâu đàng hoàng ra người ta sớt bát hoặc hai người mới đầy một bát hoặc một gia đình đầy một bát hoặc là hai gia đình mới đầy một bát tùy theo nhà nghèo nhà giàu, chớ không phải người nào người ta cũng sớt cho mình đầy hết đâu. Không phải nhà nào cũng sớt cho ông thầy đầy hết hoặc là sớt đầy.

Còn Thầy hồi đó Thầy đi khất thực đó Thầy nhắc lại để cho quý thầy các con thấy đó Thầy đi trong 1 cái đoàn thí dụ như 10 vị. Cũng trong cái mùa hạ an cư này nè Thầy về dưới Tịnh Xá Ngọc Vân ở dưới Mỹ Luông đó. Thầy trở về đó thì các sư cũng trở về đó đông lắm cho nên đi hơn 10 người chứ không phải là 10 người đâu. Một đoàn khất sĩ đi Thầy nói đi ngang qua cái chợ họ thấy người ta mua bánh này kia đó. Ví dụ như là họ đếm mấy người là họ mua mấy ổ bánh mì. À rồi họ thấy mình mấy người họ mua mấy chục gói xôi luôn. Ví dụ như 10 người họ mua một chục gói xôi, còn hễ 10 người là họ mua một chục ổ bánh mì. Do đó người cúng dường họ cúng mỗi ông một ổ hết chớ không bỏ ông nào hết. Cái khất sĩ của mình đi ngộ lắm đi xin là họ cho cho hết còn bây giờ một người đi thì họ cúng mình một ổ thôi chứ không cúng nhiều, rồi người khác muốn cúng thì họ bỏ vô cúng nữa. Chớ còn mình đi đông thì cũng một người họ cũng bỏ tiền ra họ mua 10 ổ, mặc dù nghèo họ cũng ráng họ mua 10 ổ. Thầy không biết là mấy con có đi khất thực không chứ Thầy đi khất thực Thầy thấy kiểu này chắc người nghèo mà cỡ một đoàn 100 người đi thì ông đó ông hết tiền nổi mua. Mua gì mua 100 ổ bánh mì bỏ người ta dữ vậy, thành ra đâu có mua nổi.

Cho nên Thầy thấy hồi Thầy ở Mĩ Luông Thầy đi khất thực với quý sư thì Thầy đi trong đoàn Thầy thấy đi cho người nào cũng đầy bát hết rồi mới lần lượt đi về một đoàn. Rồi cảnh sát nó thổi tôi hết rồi nó dẹp đường bởi vì đi vô chợ cho người ta tránh để mấy sư đi, ngon lắm đó. Các con nhớ hồi đó mà Thầy mà mấy sư với Thầy đi xin mà ra máy bay trực thăng mà đi ra Phú Quốc chơi được thì các con biết rồi. Xin vô chỗ mà phi trường mà ở Cần Thơ này xin nó cho mình đi ra ngoài nó chở mình đi luôn. Quý sư đi xin là cho đi hết, sướng lắm. Thầy đi ra ngoài Hòn Sơn rồi này kia Thầy lại Thầy xin tàu ghe rồi nó cho đi ra ngoài không tốn tiền bạc, ở ngoài về cũng vậy không tốn tiền bạc. Xin máy bay quân sự trực thăng nó chở mình đi ra ngoài, chở ra Phú Quốc. Vô xin cái bắt đầu mấy cái ông đại tá rồi hẹn ngày mai có chuyến trực thăng Thầy cứ lên đó thầy đi, mấy sư cũng được hết. Cho nên mấy sư ngồi trực thăng ngon lắm, mấy ông Việt cộng bắn cái rớt.

Đó thì bởi vì Thầy đọc giới Thầy thấy cái chỗ này thì nó đúng là như vậy đó, chúng ta phải cái người mà khất sĩ chúng ta phải hết sức thận trọng về giới này, vì hầu hết là người nghèo dữ chớ đâu phải người giàu. Đi chợ thì họ cho mình bánh trái họ mua vậy chứ còn đi trong xóm mà người ta sớt người ta cho mình chén cơm thôi à. Mình đi hai ba nhà mới đầy cái bát mình, nhiều khi họ cũng không cho đồ ăn nữa, họ cứ thấy mình đi họ chạy vô nhà xúc chén cơm họ đổ vô như là cho thằng ăn mày vậy đó, chớ họ không cho thêm muối gì hết. Thật sự ra nó như vậy, hễ muốn ăn cơm thì đi xóm ăn cơm của họkhông hết, mà đi chợ ăn bánh ăn thấy mồ cũng không có cơm ăn. Cho nên chia ra thí dụ như 5 sư đi trong xóm xin cơm về, 5 sư đi chợ kiếm đồ ăn về thì có. Nghĩa là họ bỏ đường họ bỏ nước tương này kia đủ thứ, họ bỏ đó muối dưa rồi cũng có đủ. Chia ra 5 thầy đi hướng này 5 sư đi hướng kia rồi về cái sớt cơm ra chia ra ăn đầy đủ hết. Cho nên hầu hết là Thầy ở Tịnh Xá Ngọc Vân - Mĩ Luông đó thì sống thời gian đó chừng độ 1 tháng thì Thầy thấy tổ chức của quý thầy quý sư ở đó cũng đầy đủ. Thì đi trong cái đoàn của Thiện Năng Thiện Ấn ấy! Chính mấy ông dẫn đi tùm lum mới biết hết mấy ông khất sĩ hết chứ Thầy có biết gì, đó các ông đi tùm lum hết.

Giới thứ 35: Giới chẳng làm phép dư thực mà ăn

Vì sao Phật chế giới này? Đức Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc cùng các Tỳ Kheo nói pháp ăn một bữa. Tỳ Kheo liền tuỳ theo đó mà ăn gốc, lá, bông, trái, cơm rồi bột cho đến nghiền sinh tố chỉ ăn một lần, dần dần cơ thể khô héo. Đức Phật cho phép một lần ngồi ăn cơm, bánh khiến cho no đủ Tỳ Kheo bị bệnh không thể ăn một lần được mà phải cho phép ăn mãi.

Nghĩa là cái chế giới ăn một lần này thì ở đây người ta cái giới này nó nói mình nghe cũng rất là kì. Là Phật chế cái giới này ăn ngày một bữa Tỳ Kheo liền tùy theo đó ăn gốc ăn lá ăn bông trái cơm bột cho đến nghiền sinh tố chỉ ăn một lần dần dần cơ thể khô héo. Chúng ta thấy ăn một bữa chúng ta có khô héo không? Ở trong giới này Phật chế giới ăn một bữa rồi mấy vị đó ăn tận cùng hết ăn cho no quá no mà vẫn khô héo, tức là vẫn ốm o đó, đó là cái nói mà không có thực. Chúng ta sống một bữa đâu có ốm o gì mà đây một bữa ốm o thì Thầy thấy cái giới luật này như thế nào rồi.

Đức Phật cho phép ăn một lần, cho phép một lần ngồi ăn cơm bánh khiến cho no đủ, Tỳ Kheo bị bệnh không thể ăn một lần mà cho phép được ăn mãi. Nghĩa là được ăn nhiều lần đó, lại cho phép người nuôi bệnh ăn xong rồi được ăn thức ăn của người bệnh ăn còn lại. Cái người Tỳ kheo này mà nuôi cái người Tỳ kheo kia đó mà khi cái người Tỳ kheo bệnh mà ăn không hết đó thì cái người Tỳ kheo kia được ăn cái thực phẩm mà người Tỳ kheo kia ăn lại. Mà trong kinh Thừa Tự ở trong kinh Trung Bộ nói về Thừa Tự Phật đó thì Thừa tự pháp chứ không phải Thừa tự thực phẩm. Thế mà cái ông Tỳ Kheo nuôi bệnh lại ăn thừa của cái ông Tỳ Kheo bệnh thì thiệt là ông truyền ba cái trùng rồi chết luôn chứ ở đó mà tham ăn cái chuyện đó. Lại cho phép người nuôi bệnh người bệnh ăn xong rồi được ăn thừa lại của người bệnh. Khi ấy Tỳ kheo buổi sáng thọ thực cất rồi vào thôn khất thực khác trở về lấy đó cho Tỳ kheo khác ăn.

Nghĩa là chơi cái kiểu này, mấy ông Tỳ kheo này bộ muốn ly dục hay sao mà pháp của Phật rõ ràng mà, còn mấy ông bây giờ đi khất thực rồi về cất cái đồ đó đi rồi đi khất thực nữa. Đi lại cái xóm nữa khất thực nữa, gạt người ta ngày khất thực hai ba lần vậy đó, rồi ông đem về ông ăn cái đồ sớt này đi còn cái đồ ông cất đi ông đem cho mấy ông kia ăn lại. Cất rồi vào thôn khất thực trở về lấy đồ khất thực cũ cho Tỳ kheo khác mà ăn, các Tỳ kheo đều không dám ăn. Phật cho phép nhận để ăn với pháp dư thực. Phật lại cho chứ. Nghĩa là làm cái tật xấu đó đi khất thực rồi về cất cái đó đi rồi bắt đầu đó ông mới đi khất thực cái khác về ông ăn. Rồi cái dư này ông ăn không hết nè, ông tính chắc bộ là mình ăn nhiều không ngờ là ăn không hết mới đem cho mấy ông Tỳ Kheo này mà mấy ông Tỳ Kheo này ăn rồi đâu dám ăn nữa. Nghĩa là cái tật xấu đó, đi khất thực rồi về cất đi, rồi bắt đầu ông mới đi khất thực cái khá về ông ăn, rồi cái dư này ông ăn không hết này, ông tính chắc bộ là mình tính mình ăn nhiều, không ngờ là ăn không hết mới đem cho mấy ông Tỳ kheo, mấy ông này ăn rồi đâu có dám ăn nữa. Cho nên Phật cho chế cái Giới ra cho ăn lại nữa. Trời nói như vậy là Phật thiệt ông không có ly dục mà, chế giới gì mà lạ lùng như vậy nè. Nhận để ăn với phép dư thực hoặc có Tỳ kheo vào thôn nhận được nhiều thức ăn cùng ăn, mang thức ăn dư đó về làm pháp dư thực mà ăn lại nữa.

Nghĩa là bây giờ Thầy nói như này nè, ở thành phố Thầy đi khất thực họ chất một đống họ kéo cà xích về chùa Thầy. Tức là khất thực kiểu Thầy rồi, mấy ông này giống Thầy á chớ không phải không đâu. Cho nên cái chuyện này là cái chuyện không có đúng cách. Khất thực vừa đủ bình bát để mình ăn thôi, ăn dư rồi các con biết không, đem bỏ vào đất trống chứ không được bỏ bên cỏ nữa, chớ không được để đến ngày mai nữa, đúng cái giới luật của Phật. Thế mà bây giờ Phật còn chế thêm cái pháp dư thực để mà ăn lại thì hóa ra mấy ông này ông chế giới ra để ông thọ ngày ăn 3 - 4 bữa cho đã miệng ông chứ gì. Vậy còn gọi là ly dục ly gì? Cho nên cái giới này theo mà đúng thì cái giới này nên là bỏ cái giới này đi không có xài.

- Pháp dư thực là sao thưa Đại đức? Tôi đã ăn xong biết đây xem đây vị kia nên lấy ăn một ít rồi nói: Tôi ăn rồi thầy lấy mà ăn đi.

Đó thì pháp dư thực nó là như vây, tức là cái pháp đó để cho mình ăn thêm. Còn mình không làm cái pháp đó tức là mình ăn phi thời, hiểu chưa? Còn nếu mà mình nói như thế này nè: Thưa Đại đức tôi đã ăn xong rồi, đây là thừa, vị kia tức là thầy đó, thầy nên lấy cái này mà ăn đi, đây là tui làm cái pháp dư thực rồi cứ ăn không có tội gì nữa đâu, ăn thêm không có tội. Rồi mai mốt tôi muốn ăn thêm thầy cũng làm cái pháp đó đi tui ăn thêm.

Nghĩa là hai người người ta đồng ý với nhau làm như vậy là ăn phi thời, đó con thấy cái giới luật như vậy các con chấp nhận được không? Bây giờ thí dụ như giờ này nè chúng ta ăn rồi nè, bây giờ đồ ăn còn trong kia không biết mấy thầy ăn hết chưa không biết bây giờ còn thấy bánh mì họ bỏ lại đó thôi rồi mình làm pháp dư thực đi, còn 3 - 4 ổ mình làm pháp dư thực mình ngồi mình xực. Có tội gì đâu mình làm pháp đó rồi đâu có tội. Nhưng mà các con nghĩ thế nào khi mà chúng ta là người tu hành ly dục ly ác pháp thì cái ăn cũng là thứ dục lạc rồi. Đúng không? Đâu có đúng pháp, như vậy cái giới luật này đâu có đúng, chế cái pháp dư thực này đâu có đúng. Cho nên cái giới luật này mình gạch bỏ đi mình đừng đem để trong kinh sách của Phật. Đây là mấy lão tham ăn, nói thẳng đi, nói thẳng tay đi, đây cái thứ mà chạy theo dục chứ không là cái giới luật mà như vậy là giới luật không tốt rồi. Cho nên không đúng pháp của Phật cho nên chúng ta gạch bỏ tên đi không xài. Thầy nói gạch là gạch, không xài là không xài.

Giới 36: Giới khiến cho Tỳ kheo phạm dư thực

Vì sao Phật chế giới này? Đức Phật cũng ở vườn ông Cấp Cô Độc, có Tỳ kheo ham ăn bị các Tỳ kheo khác quở trách, lòng ôm sân hận sau thời gian ân cần mời các vị khách ăn, muốn cho vị ấy phạm giới để trở lại gạn hỏi tội lỗi của người. Các Tỳ kheo bạch Phật, Phật nhân đó mà thuyết giới này:

“Nếu Tỳ kheo nghe mời liền thọ thực ăn mỗi miếng cả hai đều phạm tội đọa. Nếu cho mà người kia không ăn thì người không cho phạm ác tác, không phạm là trước không biết người kia đã ăn xong hay là không tâmmuốn người kia phạm”.

Ở đây cái giới chế ra như thế này, nghĩa là không có làm cái pháp dư thực. Mình đến đó người ta mời mình ăn mình ngồi xắn no thôi, rồi một lát thì khi mình ăn rồi mình muốn ăn trở lại thấy người ta mình ăn hết đồ ăn người ta mời rồi mình mới xúm mình ăn. Mình quên, để từ từ người ta dọn lên coi cái gì ngon mình ăn trước, đằng này quên đi đói quá rồi. Vì hôm qua mình ăn bữa nay mình đi khất thực mà khi về cây cái ông cư sĩ này mời ăn cái mình ngồi vô mình ăn, bị đói mình lo ăn. Chừng mà ăn xong rồi mình no rồi thì gần xong rồi người ta dọn ba cái đồ ngon lên nữa giờ muốn ăn thêm làm sao bây giờ? Mà quên làm cái pháp dư thực làm sao ăn? Do đó một mình mình làm sao làm pháp dư thực được, phải có người nữa họ làm pháp dư thực thì mình mới ăn được đằng này có mình làm sao làm. Thành ra bây giờ muốn ăn đâu có được mà ăn thêm thì tội, do đó nó mới kẹt chứ phải hai ông á thôi ông làm pháp dư thực cho tôi đi tôi ăn thì nó phải được còn tôi làm pháp dư thực cho ông ăn thì nó phải được. Còn bây giờ có mình tui làm sao tui làm cho tui được. Cho nên và vậy mà kiết cái giới này không thể nào làm pháp dư thực được, cho nên không có được ăn vì vậy mà ăn có một lần thôi rồi có ngon gì cũng không ăn. Phải không, các con thấy khi mà mình ăn rồi mình uống nước rồi thì bắt đầu người ta mới đem chè cháo trái cây lên uống nước rồi làm sao ăn cái thứ này được. Mà mình thấy chè cháo cũng thèm, rồi trái cây cũng muốn mà có mình mình làm sao được pháp dư thực mà ăn. Thiệt là chế ra cái giới này nó lộn xộn thiệt, toàn là các thứ ăn không à, không có cái gì hoàn toàn hết phải gì chớ toàn ăn không chứ có cái thứ gì, các con thấy không.

Giới thứ 37: Giới trái thời mà thọ thực

Vì sao Phật kiết giới này khi Phật ở vườn Cấp Cô Độc, Tôn giả Ca Di thường ngồi thiền tư duy nhàm chán việc đi xin đi hành khất đó, bèn chứa thức ăn lại để ăn, nhân đó Phật dạy ý của ông tuy muốn Thiểu Dục Tri Túc nhưng chúng sanh sau này làm theo không lợi cho chánh pháp, quở trách xong Phật kiết giới này.

Nghĩa là ông này ông tổ cha ngồi thiền mà ông tổ cha ông làm biếng lắm ông để dành thực phẩm ở nhà ông ăn ông không thèm đi xin, tức ông bỏ cái hạnh khất thực của ông đi. Thật sự ra cái sự mình nấu nướng mình ăn nó các con mà biết các con nấu nướng các con ăn nó không phải làm chủ cái ăn đâu. Khi nó ăn cái này nó ớn rồi nó đòi hỏi mình phải làm cái khác. Cho nên cái vấn đề này là cái vấn đề quan trọng của dục lạc lắm về cái ăn đó. Mà mình thắng được cái ăn là mình thắng được cái dục chớ không phải không đâu. Cho nên giới này vô cùng quan trọng mà chế giới này toàn chế giới tầm bậy tầm bạ không à. Nó chỉ chạy vòng vòng theo cái dục lạc cái ăn đó mà vì quý thầy bây giờ bỏ hết rồi chỉ còn cái ăn thôi à. Cho nên mới chế ra cái ăn chạy vòng vòng cái ăn chạy qua chạy lại cũng đi tìm ăn đây thôi chớ không tìm cái gì hết. Rồi bây giờ đây có ông thầy ông nói thiền mà ông tư duy ông làm biếng ông không thèm đi xin ăn ông để lại đồ ăn ông nấu nướng ông ăn thì ông còn tổ cha ông chạy theo cái dục còn hơn ai nữa. Nghĩa là thay vì đi xin cơm người ta cho cơm không có muối ăn nuốt không vô, còn bây giờ đó ông ở nhà ông nấu thế nào ông cũng làm đồ ăn đồ uống ông nấu cho ngon cái miệng rồi thành ra ông này ông chạy theo dục rồi. Mà chế cái giới này là Thầy thấy đúng là không cho ông này ở nhà ông ăn là đúng, cái giới này đúng, cấm không cho ở thất ở lều mà nấu ăn. Đi xin ăn thôi chứ không có ở nhà ở thất mà nấu ăn. Như cô Cảnh ở thất mà nấu ăn thì suốt cả đời cô cũng vậy thôi à thành cái người nấu ăn rồi chớ không tới đâu nữa hết. Mà nhiều khi còn để dành sữa rồi bữa nay uống hết mai không uống nữa, lẽ ra bây giờ nó còn một muỗng à mà nói bữa nay mình uống hết mai lấy gì uống thôi để mai đi có để dành chớ bộ không à. Đó là cái sự thật hiển nhiên chớ không thể nào mà chối cãi được hết.

Hoặc là bữa nay mình không có bệnh thôi để dành ba cái sữa này khi nào có bệnh mình uống, để bây giờ mình uống tới chừng bệnh lấy đâu uống, nó cũng còn cái để dành đó là cái sai. Cho nên bữa nay cứ việc mạnh khỏe cứ việc ních hết đi cho rồi ngày mai nó tới đâu thì tính đó. Còn cái này để dành ngày mai tính lo ngày mai phòng ngừa ngày mai thì chuyện đó không phải người tu sĩ của đạo Phật. Tu sĩ đạo Phật không phòng ngừa ngày mai, ngày mai tới đâu giải quyết tới đó, hiện tại bây giờ có gì ăn cái đó còn không thì thôi chứ nhất định chớ không bao giờ.

Giới 38: Giới thức ăn cách đêm

Vì sao Phật kiết giới này? Nhân vì khi Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc có Trưởng lão Ca La khất thực ăn không hết để dành phơi và qua ngày sau dùng, giống như mình ăn cơm không hết phơi để dành làm cốm ăn đó. Có không? Giống như mình đó. Vì vậy mà Trưởng lão không thường xuyên đi khất thực, bởi vì có cốm rồi đâu có đi khất thực làm một cục về thấy ngon rồi đâu cần. Mà sống một mình ở trong rừng chuyên tu thiền định. Dù vậy hành động cất chứa bị coi là phi pháp cho nên Phật nhân đó mà kiết giới này.

Ông tính ông tu thiền ông khỏi cần đi, đi ra ngoài nó không giữ được hạnh độc cư cho nên ông thôi cất giữ cơm lại để dành phơi khô rồi mình đi xin bữa nào họ cho mình tí đường về mình nhào rồi mình bỏ trong một cái bát để dành khi nào đói mình lấy cục mình ăn, mình khỏi có lo đi xin. Thành ra ông tính như vậy là khỏe mình cứ như vậy ngồi thiền chắc chắn là mau thành Phật. Nhưng cuối cùng vì cái hạnh này nó còn đòi hỏi ở chỗ cái ăn cho nên nó chưa có ly. Vì vậy mà cuối cùng thì ông cũng chả đạt thiền định gì hết. Cho nên Phật chế cái giới này, phải chi ông đạt được thiền định thì nhờ tôi ăn cơm ba cơm khô này tôi đạt thiền định thì chắc từ nay đều là mình thành cơm khô hết rồi. Tại sao ăn cơm khô thành cơm khô chớ không lẽ thành thiền định được. Cho nên chắc chắn Thầy nghĩ rằng người nào mà ăn cơm khô mà tu thiền định mà đắc được thì chắc là thiền định cơm khô chớ không phải gì.

Giới 39: Giới không thỉnh mà thọ thức ăn

Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật ở vườn Cấp Cô Độc, một Tỳ kheo thường khất thực mặc áo phấn tảo lấy thức ăn của cư sĩ cúng tế cha mẹ, anh em, chị em qua đời để ăn. Cư sĩ chê hiềm nhân đó Phật kiết giới, khi ấy các Tỳ kheo sinh nghi không dám tự lấy tăm xỉa răng và nước uống. Phật dạy không phạm rồi Phật kiết giới lại thêm câu trừ nước và tăm xỉa răng.

Nghĩa là ở đây cái giới không thỉnh mà thọ thức ăn vì sao đức Phật bây giờ mới cấm cái giới này? Là vì các vị Tỳ kheo họ đi xin thức ăn rồi họ về họ cúng tế cha mẹ của họ anh em cha mẹ của họ, những người mà chết đi á thì cư sĩ mới thấy điều đó mới chê nhân đó mà Phật kiết giới này. Vì vậy khi mà họ cúng bái rồi thì ở đây theo Thầy thiết nghĩ trong thời kì đức Phật thì cái hướng dẫn của đạo Phật nó phải rõ ràng và cụ thể là vì cái người chết đi nó không có cái linh hồn, thế mà sao các Tỳ kheo này không hiểu để mà cúng bái như vậy. Các con hiểu điều đó. Ở đây cái người sau mà viết cái giới này là vì họ bị ảnh hưởng của người sau, cho nên nó có linh hồn của cha mẹ mình nên các vị Tỳ kheo này mới lấy của xin đó đem về cúng bái cha mẹ của mình coi như có linh hồn. Đó thì cái này nó trật cái nghĩa của đạo Phật mất đi mà họ tưởng nó đúng nghĩa cho nên nó không có phải nghĩa như vậy.

Bởi vì mình đi xin thức ăn của cư sĩ mình về mình nuôi mạng sống của mình để cho mình ăn mình tu hành. Cái này chắc có lẽ nhớ đến ngày giỗ ngày kị gì cúng tế của cha mẹ mới nhân đó mà cúng bái cha mẹ của mình để rồi coi như có những cái linh hồn. Do vì vậy đó Phật chế cái giới này ra thì coi như cái người mà cúng bái như vậy là phạm giới và cái giới mà chế ra như vậy là cái trách nhiệm mà hiểu kinh của Phật có hiểu đúng không? Đó cũng như bây giờ tại sao hàng ngày mấy con thấy Thầy ngồi ăn Thầy cúng bái trước là cúng chư Phật sau là cúng ông bà cha mẹ của mình để làm gì? Có phải là Thầy cúng cho linh hồn của cha mẹ của ông bà của mình không? Các con phải hiểu ý nghĩa nầy. Cái bài tụng kinh bài tụng mà cúng đó là quá rõ ràng chứ gì? Như vậy nhưng không phải cúng ông bà cha mẹ của mình đâu. Mà đây mục đích của Thầy là phá tạp khí phá cái phong tục quán. Ngày tư ngày tết ngày giỗ ngày chạp chúng ta quá là chúng ta nhớ đến những ngày đó mà chúng ta không cúng không bái không gì đó hết là chúng ta có sự buồn khổ trong tâm. Còn bây giờ chúng ta là người tu sĩ hàng ngày chúng ta ăn chúng ta từng cúng như vậy là bây giờ tới ngày giỗ ngày chạp chúng ta có nhớ không? Chúng ta cúng hàng ngày chúng ta còn nhớ gì nữa? Cho nên ngày tư ngày tết chúng ta cũng chẳng cúng gì hết. Các con ngồi xích lên đây nghe.

Mục đích của mình ở đây á mình cúng không phải mình cúng linh hồn của cha mẹ mình đâu. Bởi vì mình là người đã hiểu nhân quả khi mà cái thân của mình chết đi rồi nó sẽ như cái ngọt đuốc bị tắt nó sẽ mồi tiếp ngọn đuốc khác nó cháy tiếp tục. Nó không bao giờ có sự gián đoạn ra 5 ngày 10 ngày hay 49 ngày đêm rồi tái sanh luân hồi không phải không có đâu. Nghĩa là nhân quả nó không bao giờ có sự gián đoạn một phút giây nào hết. Nó tiếp nối liên tục, nó hoàn toàn ở trong cái sự liên tục sanh diệt của nó. Cho nên ngay trong bản thân chúng ta nó hiện giờ đang sống nó có sự sanh diệt liên tục trong đó. Cho nên khi bỏ cái thân này nó tiếp qua một cái thân khác, nó liên tục như ngọn đuốc này tắt ngọn đuốc kia phải cháy, ngọn đuốc này chưa tắt thì ngọn đuốc kia chưa cháy. Cứ hễ ngọn này tắt thì ngọn kia cháy. Do đó cứ thân này diệt thân khác có liền nó không có một khẽ hở. Do đó không phải chúng ta ở đây cúng cha mẹ ông bà nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta hưởng đâu, mà chúng ta nhằm phá cái phong tục của dân tộc của tập quán của chúng ta rất nặng. Ngày tư ngày tết mà chúng ta không cúng không bái chúng ta có sự buồn khổ trong lòng. Do như vậy mà hàng ngày chúng ta ngồi lại ta ăn cơm là chúng ta nhớ rằng chúng ta đã cúng bái những người chết đi, chúng ta cúng bái những người đã qua phần đi làm cho tâm hồn chúng ta không còn cảm thấy cái sự thiếu thốn của tinh thần dân tộc của chúng ta. Vì tinh thần dân tộc của chúng ta là tinh thần có tinh thần của tổ tiên, cho nên chúng ta có nguồn gốc có tổ tiên sanh mình ra. Bây giờ mình không làm điều đó như là mình thiếu cái bổn phận của mình với ông bà tổ tiên của mình với cha mẹ mình. Cho nên mình làm cái bổn đó mình đứng từ góc nhìn của người tu sĩ của đạo Phật thì mình thấy như là mình làm một cái chuyện mê tín, chuyện không đúng cho nên chúng ta không làm cái điều đó được. Vì vậy mà hàng ngày chúng ta muốn phá vỡ cái phong tục đó đi hàng ngày ngồi ăn cơm chúng ta nhớ đến Phật nhớ đến ông bà nhiều đời nhiều kiếp của mình, coi như những người đó đang thọ hưởng bữa cơm với chúng ta rồi. Vì vậy tới ngày tư ngày tết ngày giỗ ngày chạp chúng ta không cúng chúng ta vẫn cảm thấy mình đã làm chọn bổn phận ngày nào tôi cũng mời các vị đó ăn rồi thì tôi làm hết cái bổn phận tôi rồi. Cho nên ở đây chúng ta không tổ chức còn tổ chức. Còn để không thì chúng ta bị tổ chức nó làm gián đoạn cái tâm hồn giải thoát của chúng ta. Trên cái lộ trình nhân quả không có gián đoạn mà thế là sự tu tập của chúng ta bị gián đoạn qua cái phong tục tập quán đó, nó làm cho chúng ta phải day dứt thế này thế khác trong lòng.

Cho nên ở đây chúng ta có chỗ nói phải không? Bởi vì chúng ta muốn đạp trên dư luận chúng ta đi thì chúng ta phải có cái cớ, mà không có cớ chúng ta sẽ nói không được. Chẳng hạn nào bây giờ nhà các con có người chết mà các con không mời thầy chùa tụng kinh á thì người ta sẽ nói các con, mà các con mời nhiều ông thầy tụng kinh thì thì người ta khen các con. Phải không? Cho nên ở đây các con rất khó, không biết tụng kinh nó không có cầu khẩn cho cha mẹ của các con được, mà làm như vậy thì nó trái với đạo Phật. Mà các con không làm thì bị người ta lên án, cho nên các con phải làm như thế nào để đúng. Do vậy mà các con phải làm cho đúng. Làm đúng như thế nào? Các con đơn sơ mời một ông thầy tụng cho nó xuôi qua đi, cho họ đừng có nói, đừng có tập trung nhiều ông để người ta khen, người ta ta khen cái đó nó không đúng đâu. Nhưng mà đừng có để cho người ta lên án mình bằng cách này bằng cách khác. Do đó chúng ta cũng tùy thuận.

Sau khi Phật giáo mà chấn hưng lại được thì chúng ta phá dở cái mê tín này đi. Nói cho rõ thì người ta sẽ không đi nữa, người ta không có lên án mình được. Còn bây giờ dục không á, mà người ta nói bây giờ tụi bay đi tu rồi chẳng biết ngày giỗ ngày chạp của ông bà cha mẹ bay hết thì các con đâu có chỗ nói được. Còn cái này bằng chứng cụ thể hằng ngày tôi đã cúng cha mẹ mỗi bữa ăn tôi đều cúng cha mẹ của tôi hết rồi thì bây giờ trong cái ngày tư ngày giỗ mấy anh mấy chị không cúng thì bây giờ mấy anh chị cứ cúng đi chứ! Tôi có cấm cản đâu! Còn riêng tui tui cúng hàng ngày rồi mà, làm sao bắt tui phải cúng nữa. Cho nên mình có chỗ nói mà người ta không nói mình được, nhưng mình phải hiểu cái ý của mình làm cái đúng cái sai.

Vì vậy cho nên mình có chỗ nói mà làm cho người ta không có lên án mình được. Vì vậy mình đạp trên dư luận mình đi mà mình đi với tính cách mình có cái chỗ trả lời họ rất đúng đắn. Cho nên ở đây Thầy muốn nói với các con làm một cái gì mình phải có sự suy nghĩ để không người ta sẽ lên án mình đủ mọi cách vì phong tục tập quán nó có cái đúng những cũng có cái sai chứ không phải là toàn bộ đúng hết. Bởi vì từ xưa đến giờ chúng ta là những người sống với những cái sự sợ hãi, cho nên những sự sợ hãi đó nó sinh ra những sự mê tín, nhưng sự mà không thể kiềm chế được cái lòng sợ hãi của chúng ta. Bắt đầu chúng ta sinh ra cái thiếu trí tuệ, thiếu cái sự minh sát, đúng thật cho nên chúng ta có những sự lầm lạc qua cái tưởng của chúng ta. Vì vậy mà chúng ta biết sai thì chúng ta cần phải có những cái làm cho nó đi lại được cái đúng, nhưng mà cái đúng lần lượt chúng ta cố gắng chúng ta làm thì hiện bây giờ chúng ta phải có những cách để chúng ta luận mà họ không có thể nào mà nói được chúng ta. Thì cái điều đó là chúng ta phải biết. Chứ không khéo là cúng ta bị người ta luận thế này thế khác thì nó không hay.

Như vậy đọc qua cái giới này chúng ta thấy rõ ràng là ảnh hưởng của Đại Thừa mà chế giới ra chớ không phải là giới Nguyên thủy. Đó thì chúng ta biết như vậy cái sai cái đúng để mà chúng ta chỉ mặt cho rõ những cái giới này. Và những người chế giới này là không phải thời đức Phật. Tại sao đức Phật lại chế giới như vậy được là vì trong thời đức Phật là Phật đã dạy các vị Tỳ kheo này phải hiểu Phật pháp rồi thì các Ngài đâu làm những cái chuyện này mà đi xin ăn về cúng cha mẹ mình. Đó thì phải hiểu những cái điều mà ở trong kinh sách Phật dạy và hiểu những cái giới này đúng sai để chúng ta phê phán sau này chúng ta chỉnh đốn lại Phật giáo. Nghĩa là trong các con phải có những người mà sau này phải thay Thầy mà chỉnh đốn lại những cái giới bổn này. Cho nên ở đây Thầy nói để các con lưu ý trong những cái phần đúng phần sai.

Giới 40: Giới không bệnh mà đòi thức ăn ngon

Vì sao Phật kiết giới này? Bởi khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Bạt Nan Đà đến một thương chủ xin ăn mỹ diệu. Chùa thương chủ chê hiềm. Phật nhân đó kiết giới này. Lúc ấy có Tỳ kheo bệnh, sợ không dám xin, cũng không dám vì người bệnh mà xin, nhận được rồi cũng không dám ăn. Phật dạy không phạm và Ngài kiết giới này. Nếu không bệnh mà xin thức ăn ngon cho chính mình, mỗi miếng ăn phạm một tội đọa, bốn chúng kia phạm tội Đột Cát La.

Nghĩa là trong cái giới này khi một người bệnh mà ăn không được thì xin những cái thực phẩm cũng như là sữa hoặc gì uống để cho nó được mạnh. Thay vì cơm thường thì ăn với muối này kia thì cái vị đó ăn không được cho nên bây giờ xin sữa xin tô hay lạc cho cái vị bệnh này ăn thì trong khi Phật chế cái giới này ra thì người ta tưởng người nào cũng không được, cho nên Phật lại chế thêm người bệnh thì được xin sữa, xin đường hoặc là xin những cái thực phẩm mà có thể người bệnh mà ăn được. Còn những thực phẩm mà người bệnh ăn không được thì thôi. Còn cái người mà mạnh mà đòi đi xin sữa xin bơ thì không được. Đó là Phật chế như vậy. Thì như vậy là Thầy thấy cái giới này thì có thể chấp nhận được là vì đúng là cái người bệnh nhiều khi chúng ta ăn cơm chúng ta ăn không được. Có những khi chúng ta cần phải ăn cháo. Vậy cho nên cái người mà được gần cư sĩ mà xin cho cái người mà đau ăn được những cái thực phẩm mà để cho người bệnh mà ăn được mau mạnh thì rất tốt. Cái giới này chế như vậy Thầy chấp nhận.

Giới 41: Giới tự tay mình cho ngoại đạo thức ăn

Vì sao Phật kiết giới này? Xưa đức Phật từ nước Câu Tát La du hành đến nước Xá Vệ, trên đường đi được nhiều thức ăn, đi xin trong số người đi xin có người nữa ngoại đạo lõa hình nhan sắc đoan chính, ông A Nan đưa bánh, bánh dính hai cái lại, ông tưởng là một và đưa cho người nữ đó, người nữ đó hỏi người gần: Một người một cái hay là hai cái. Người gần nói một người một cái, người nữ đó nói: Tôi được hai cái. Người kia nói: Vị sư chia bánh chắc cùng cô tư thông. Các thầy Tỳ kheo nghe đều không vui. Trong hội đó có một Phạm chí do đó mà khinh thường Sa Môn. Trên đường đi gặp Bà la Môn gọi Cồ Đàm Sa môn là bọn trọc đầu...

Mặt B

Do đó mà khinh thường Sa Môn, trên đường đi gặp Bà La Môn gọi Cồ Đàm Sa Môn là bọn trọc đầu và thuật lại việc kia hoặc do duyên ấy nên kiết giới cho là họ nhận phạm Ba Dật Đề, cho mà họ không nhận phạm tội Đột Kiết La, muốn cho mà không cho trở lại hối hận phạm tội Ác Tác, nếu cho cha mẹ, người có công quả không phạm tội.

Ở đây của đàn na cúng dường mình được quyền ăn chứ không được cho cha mẹ, mà trong giới này, theo Thầy thiết nghĩ trong giới kinh thì nói như vậy, nghĩa là mình có đi tu thì mình mới ăn được cái của đó, còn cha mẹ mình không có đi tu mà mình đi xin đem về cho cha mẹ mình ăn là tội rất lớn chứ không phải tội nhẹ đâu. Mà ở đây nếu cho cha mẹ hoặc người công quả trong chùa thì không tội - cái này là sai quá sai. Thầy thấy trật, không có đúng. Người công quả họ là cư sĩ, họ còn nấu cơm, còn ăn được, chứ họ đâu phải là khất sĩ như mình đâu. Các con thấy trong chùa những người công quả họ đâu phải là tu sĩ, họ là tịnh nhân, họ có thể ở ngoài nhà kia họ đến đây công quả rồi họ về nhà ăn cơm chớ hó đâu có…, này rồi mình đi xin về cho mấy người đó ăn thì họ sẽ mang tội lút cái đầu của họ. Cha mẹ ở nhà không tu mình cũng đem nào sữa nào bơ, xin một bát rồi đi xin xóm khác một bát nữa về cho cha mẹ mình bát nuôi cha mẹ mình. Thôi đi tu nuôi cha mẹ thì ở nhà làm nuôi cha mẹ đi, còn bày đặt đi tu rồi đi xin xỏ nuôi cha mẹ làm như thế là bất nhơn chứ đừng nói. Vậy mà hiếu gì? Thật sự ra cái này làm tội cha mẹ thêm, chứ hiếu. Bởi vì những điều kiện như vậy thử hỏi làm sao mà Thầy chấp nhận những giới này?

Cho nên đối với vị A-Nan sơ sót khi mà chia bánh, mà chia người nữ một cái bánh cũng như cái bánh mà người ta ấyđường mà có hai cái vòng đường nó dính ông đưa lại. Và đưa cho người nữ mà lại đưa bánh dính 2 cái vậy mới chết chứ. Mà cái ông đó là cai ông bất nhân mà phụ nữ thấy ông đó lại mến nữa chứ, mà ổng lại đưa cái kiểu đó cho nên từ đó mà người ta tuyên bố ra những sự sai trái.

Nhưng sự thật thì không lý nào ông A Nan sống với Phật mà không hiểu, lại lầm lạc đến mức độ đó, Thầy cũng chẳng hiểu. Đây cũng là việc mà người ta khéo bịa ra, chứ còn người tu sĩ không bao giờ làm chuyện đó hết. Thứ nhất, người tu sĩ đứng ra để chia bánh thì chắc cũng không có, vì Thầy nghĩ rằng người ta có đem đến đi nữa thì tự cư sĩ người ta chia sao thì chia, mình được bao nhiêu thì ăn bấy nhiêu, chứ còn mình chia nhiều khi mình để mình mấy cái. Thiệt mà, Thầy nói đôi khi mình chia… Hổng lẽ bây giờ mình chia hết rồi mỗi người một cái rồi còn lại 5 cái chia ai nữa đây? Mà trong khi mình 13 người còn dư 5 cái làm sao chia? Thôi, để lại cho mình tui chứ gì. Tại công tui chia phải để cho tui hết chứ sao. Đó là trong nhưng cái người mà chia thì họ nói công tui chia tui phải lời nhiều. Thì như vậy, Thầy thấy thà để cho người cư sĩ họ chia hết vòng xong rồi, bây giờ cái phần đó còn thì người cư sĩ đem về chứ chia sao cho được? Tui đây 13 người mà ông có 5 cái làm sao, mà ông bây giờ cắt hai ra cũng không đủ. Cho nên thôi ông chịu khó mang về đi, để đây tụi tui cũng không ăn được đâu.

Bởi vì luật hòa hợp của chúng tôi sống thân hòa đồng trụ, lợi hòa đồng quân mà! Có cái lợi thì chia nhau đều chứ không thể có người hơn người ít, cho nên khi ngồi chung nhau như thế này mà một người ăn hơn thì chúng ta không hổ thẹn sao? Người ta toàn bộ ăn muối, mà mình có cái gì đó ngon hơn mình nuốt sao trôi? Bây giờ Thầy hỏi: Bây giờ trong nhà các con có cha mẹ, năm ba đứa con cùng ngồi ăn cơm, mà cha mẹ ngồi gắp cá ăn, còn con ngồi ăn cơm với nước chấm thì thử hỏi làm sao có thể nhìn con mình được? Thà là cha ăn miếng, con ăn miếng, mẹ ăn miếng thì còn thì còn mà hết thì hết. Chứ lý đâu cả một gia đình mà cha mẹ lại ăn ngon mà mấy đứa con thì ngồi chấm muối mà ăn. Thì không thể nào mà được. Hay hoặc là cha mẹ ngồi ăn muối mà mấy đứa con nó gắp cá mà ăn được đâu. Con người mà! Đâu có ai mà như vậy được. Đó là tiểu gia đình chúng ta. Cho nên ở trong gia đình của chúng ta đại gia đình những người tu của chúng ta thì không lẽ nào người này đủ mà người kia thiếu thì chúng ta nghĩ được không? Cũng như người có sữa, người không sữa uống thì chúng ta nghĩ sao? Chúng ta sẽ khổ tâm lắm, thà là chúng ta không có thì không có hết, mà có là có hết.

Cho nên thí dụ như bây giờ các con là bên nữ, bên nam là 10 người hay 15 người mà ngồi hai bên, nếu đủ thì chia, không đủ thì dẹp món ăn đi, nếu thiếu một người thì chúng ta cũng bỏ hết, không ăn nữa. Đó là đúng lợi hòa đồng quân. Mà không đúng thì thôi chúng ta không chia. Thiếu là không chia, dẹp hết, chừng nào có đủ thì chia, không có đủ xin trả lại cho cư sĩ. Bởi vì không đủ chusgn tôi không thể nào chia được. Lợi hoàn đồng quân mà. Sáu cái hòa hợp của chúng tôi ở trong Tu viện mà. Sống cùng chia nhau, có cùng ăn với nhau. Thà là ăn muối hết chứ còn chúng tôi sống như thế này không đúng cách chúng tôi sống không có được đâu. Cho nên ở đây chúng ta thấy, muốn tổ chức hẳn hòi cuộc sống chúng ta phải như vậy. Trừ ra những người bệnh đau thì chúng ta biết, chúng ta nhường lại những thực phẩm để cho người đau họ ăn họ mau mạnh thôi, còn người mà không đau như chúng ta thì hoàn toàn phải sống y như nhau, người nào như người nấy.

Đó là điều kiện sống của chúng ta, không phải vì giới luật gì hết, mà ở đây phải chế giới luật thì Thầy thấy nó quá là thô tháo.

Giới 43: Giới ở trong thực gia gượng yên ngồi

Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, khi Ca Lưu Đà Di đến khất thực nơi nhà Trai Ưu Bà Di với tâm luyến ái, ăn xong không chịu đi, trở ngại người chồng lúc dục tâm dồn nén. Nhân đó, Phật trách ông Ca Lưu Đà Di và kiết giới.

Theo giới này khi mà người ta mời mình ăn rồi trong nhà thì mình đi liền, chớ không phải ngồi cà kê nói chuyện này chuyện kia để cho người ta nổi sân hoặc là người ta không có chuyện riêng tư vợ chồng người ta, hoặc là người ta nói chuyện làm ăn thế này thế khác làm mất thì giờ người ta. Hầu hết cũng có một số quý thầy đi thọ trai rồi ngồi cà kê với chủ nhà nói này kia tùm lum, làm duyên làm dáng với nhau, điều đó là sai. Cho nên Phật chế giới này rất đúng, khi mà chúng ta đến đó thọ trai hay là chuyện gì thì xong rồi chúng ta đi liền, chứ không được làm quen, làm thân.

Hồi Thầy đến thành phố cũng vậy, có nhiều thầy rủ thầy đến nhà người ta nói chuyện tầm bậy tầm bạ, ngồi nhà người ta làm mất người ta không xem tivi, không nghe radio được, người ta cũng thấy ghét mình nữa. Cho nên đối với Thầy, Thầy đã hiểu biết chuyện đó nên ở chùa thì ở chùa chứ không đến nhà cư sĩ, mời gì cũng không đến. Và cũng vì đó mà người ta rất quí trọng mình, còn mình cứ lê la đến nhà cư sĩ, họ coi mình chẳng ra gì hết.

Giới 44: Ở trong thực gia ngồi chỗ khuất nói chuyện

Vì sao Phật kiết giới này? Do duyên khi Phật ở vườn Cấp Cô Độc, Ca Lưu Đà Di bị Phật cấm trong nhà ăn có vật báu không được ngồi, phải ngồi ở chỗ duỗi cánh tay đụng cánh cửa nên ông ngồi sau cánh cửa cùng với Trai Ưu Bà Di, nhân đó Phật kiết giới này.

Nghĩa là ông ngồi sau cánh cửa, cánh cửa khép kín không ai thấy ông, ông ngồi đó nói chuyện với con gái của người ta. Trai Ưu Bà Di tức là đứa con gái đã thường hay đi đến tịnh xá cúng dường - là cư sĩ nữ. Cho nên ông thường hay đến nhà cư sĩ này ăn cơm rồi ở đó nói chuyện với cô này cho nên đức Phật nghe những điều đó, đức Phật mới cấm giới này: không được ngồi chỗ khuất, cánh cửa khép kín, không ai đi vô nhà, không ai thấy.

Giới 45: Một mình ngồi với người nữ

Vì sao Phật kiết giới này? Nguyên cũng do đồng như giới trước, chỉ khác là Ca Lưu Đà Di ngồi với Trai Ưu Bà Di chỗ trống, ngoài ra đều đồng như giới trước.

Nghĩa là trước đây ông này ông ngồi chỗ kín ông lấy cánh cửa ông đậy lại ông ngồi nói chuyện với cô gái người ta. Bây giờ ông ra ngoài đồng trống ngồi với cô gái, thiên hạ họ nhìn thấy họ cười. Do đó cũng học với Phật, Phật cũng chế không có được ngồi ngoài đồng trống mà nói chuyện, ngồi chỗ vắng cũng không được. Ngồi chỗ kín thì cũng cấm. Thì ông Ca Lưu Đà Di này ông nói Phật sao mà nhiều chuyện quá. … Rốt cuộc thì ngồi cái chỗ nào thì cũng bị cấm. Bởi vì nói chung là trong cái giới luật của Phật là cấm không có được nói chuyện với người nữ. Cho nên đức Phật nói: đừng có gặp, mà gặp thì đừng có nhìn, mà có lỡ nhìn thì đừng có nói chuyện. Đó là Phật cấm như vậy mà! Thế mà bây giờ ngồi chỗ kín rồi ngồi chỗ trống là làm sao? Vậy mà chế ra từng giới từng giới làm gì. Có một câu chuyện mà đức Phật đã dạy ta đủ cách hết rồi, chúng ta thấy rất rõ.

Như trong Kinh Giới, ông A Nan hỏi: “Chúng con là những tu sĩ trẻ tuổi, đối với người nữ như thế nào?”. Đức Phật nói: “Đừng gặp”. Phải không? Cái giới đừng gặp thì chúng ta có sao đâu! Rồi A Nan hỏi “Lỡ chúng con gặp rồi sao?”. Phật nói: “Đừng nhìn”. Đó là một giới nữa. Rồi ông A Nan hỏi tiếp: “Lỡ nhìn rồi sao?”. Đức Phật mới nói: “Đừng nói chuyện”. Phật cấm cái giới thứ ba là: đừng nói chuyện. Ngài A Nan lại hỏi: “Lỡ nói chuyện rồi sao?” Đức Phật lại bảo: “Mình cứ xem họ như mẹ, như chị, như em ruột mình đi”. Lúc đó vua Ba Tư Nặc ngồi bên mới nói: “Bạch đức Thế Tôn, chúng con là cư sĩ, làm sao chúng con xem được như vậy? Chúng con có chị, có mẹ, có em rõ ràng, còn các Ngài xuất gia rồi các Ngài xa lìa anh em chị em không còn ai là người thân của mình nữa. Dó đó người thân cũng như là người sơ, người quen lạ thì coi là chị em cha mẹ mình hết toàn bộ là được rồi. Còn tụi con là cư sĩ làm sao được?”, thì đức Phật bảo rằng: “Các ông nên quán bất tịnh”, là xong.

Các con thấy không? Thì các con thấy chỉ cần 5 giới là đủ cách để hàng phục tâm của mình rồi, còn đằng này chế chi từng chút, lúc thì ở chỗ kín, lúc ở chỗ trống cũng chế, lúc nào cũng cấm đoán, mà cấm đoán không đúng cách để chúng ta ly dục, ly bất biện pháp.

49: Giới cố làm cho Tỳ kheo không được thức ăn.

Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật cũng ở tại vườn Cấp Cô Độc, Bạt Nan Đà cùng với các Tỳ kheo cãi lộn, phải sám hối kết hận trong tâm. Sau một thời gian, dối gạt Tỳ kheo này cùng đi khất thực, Tỳ kheo này đi theo nghe lời đi theo đến chỗ không có khất thực dẫn đi khắp cùng ất thực, tỳ kheo này đi theo, nhưng đi mãi khắp nước Xá Vệ rồi trở về Kỳ Hoàn mà không có cơm ăn.

Cái ông Tỳ kheo này ông nghe lời ông kia ổng đi, mà cái ông kia ông… cái ông Bạt Nan Đà này ông bị phạt bị cãi lộn nên ông ghét, cho nên ông rủ ông này đi khất thực, ông dẫn đi cùng hết mà không ai cúng dường gì hết, cho đến quá ngọ rồi về đến Tịnh xá Kỳ Hoàn không có thực phẩm gì hết. Ông nọ đói gần chết, còn ông Bạt Nan Đà thì ông thốt lời nói xấu để đuổi đi, ông kiếm cớ ông nói cái ông này: “Ông đi khất thực kiểu đó làm sao có người ta cho ăn”. Vì vậy mà ông đi kiểu này không có được. Do đó làm cho ông này quá ngọ không có gì ăn hết. Còn ông đút nhét đồ ăn thành ra ông trở về thất ông có ông ních ông no, còn ông này thì đói thấy bà. Do vì vậy Phật mới kiết cái giới này ra, thù oán người ta đừng có cố mà làm cái chuyện mà người ta mất cái bữa ăn như vậy. Để tự người ta đi khất thực người ta mới có ăn, bây giờ dẫn người ta đi vòng vòng lựa mấy cái nhà không cho mà cứ đi hoài, gặp mấy cái nhà Thiên chúa mà cứ đi làm sao nó cho. Thành ra cuối cùng ông này đói gần chết. Tới chừng về đó ông kiếm chuyện ông đuổi ông này đi, ông nói: Thầy đi khất thực mà thầy đi như vậy thì làm sao? Tôi bảo thầy đi như tôi mà thầy đi như vậy làm sao người ta cho. Bây giờ chịu đói đi, đừng có theo tôi nữa. Thì ông về thất ông lục đồ ăn ra ông ăn no, còn ông kia có biết để dành đâu mà ăn, cho nên bữa đó đói gần chết. Thì ghét người ta, thù hận, cãi lộn với người ta rồi làm cho người ta đói.

Đó là cái xấu. Nhưng Thầy nghĩ rằng một vị Tỳ kheo tu hành rồi ai mà làm cái chuyện đó mà trong này nó đặt điều như vậy. Thật ra không bao giờ có điều đó đâu. Mà trong cái thời đức Phật là thời quá thanh tịnh rồi, đâu có đến nỗi như thời của chúng ta mà quá tệ, bởi vì chúng ta không có giới luật, không có pháp hành, còn thời đức Phật nó có pháp hành nó không thể nào Phật dạy mà thiếu pháp hành, cho nên người nào đến với Phật thì cũng giải thoát, không lý nào để xảy ra chuyện đó được. Ông Phật còn sống chứ đâu phải ông Phật chết đâu mà thiếu pháp hành để cho ông này vì cãi lộn nho nhỏ mà làm cái chuyện thù hận mà làm cái chuyện ác quá vậy. Cho nên những giới chế ra không có lý.

Giới 50: Quá ngọ thọ thuốc

Vì sao Phật kiết giới này? Phật ở tại vườn Ni Câu Lực, khi ấy cư sĩ Ma Ha Nam dòng họ Thích thường thỉnh chúng tăng cung cấp thuốc, Lục quần Tỳ kheo nói: Cư sĩ ấy cung kính thượng tọa nên cúng thuốc tốt, đối với chúng tôi không có tâm cung kính nên cho thuốc xấu, đến nhà đó xin lại gặp khó khăn, không cung ứng kịp thời, nên nói cư sĩ kia có ái, vv… Lời nói không thật, do vậy cư sĩ kia không cung cấp thuốc cho chư tăng nữa. Phật nhân đó mà kiết giới này. Sau do các duyên thỉnh khác lại khai cho thường thỉnh.

Đó thì cái giới này kiết ra là tại vì người ta cho thuốc mình mình đến thì tùy theo bệnh mà người ta cho thuốc, thì mấy Lục quần Tỳ kheo thấy cho người khác thuốc tốt mà cho mình thuốc xấu, rồi sanh tâm không tốt, nói ông cư sĩ này vị tình ái với mấy cô ni kia cho nên cho thuốc tốt, còn tụi tui cho thuốc xấu cho nên không hết bệnh. Do như vậy cái ông này ông không cho thuốc bên ni cũng không cho thuốc bên tăng nữa. Cuối cùng tăng ni không có chỗ nào xin thuốc được hết, do vậy Phật mới chế giới này ra: không được nói xấu, người khác người ta cho gì thì mình nhận nấy không được nói xấu.

Giới 51: Giới đi xem quân trận

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, bấy giờ vua Ba Tư Nặc tự mình cầm lục quân chinh phạt bọn phản loạn, Lục quần Tỳ kheo đến xem nhà vua chê hiềm, nhân cớ ấy vua gửi lời thăm hỏi đức Thế Tôn, gửi thêm một gói đường phèn để dâng cúng, nhân đó Phật quở tránh Lục quần Tỳ kheo và kiết giới này. Sau đó vua Ba Tư Nặc có hai người em tên là tên là Lê Sư Đạt và Phú La Na lãnh mạng đi chinh phạt trong quân trận khao khát muốn chiêm ngưỡng Tỳ kheo bảo người mời đến. Các Tỳ kheo cẩn thận sợ không dám đến. Phật kiết giới lại thêm câu: trừ có nhân duyên hợp thời đến không phạm, nếu Tỳ kheo xem quân trận đến mà thấy thì phạm Ba Dật Đề. Đến khi thấy thì phạm tội Đột Cát La. Nếu trên đường đang đi quân đội đến sau nếu không tránh thì phạm tội Đột Cát La, mà nếu có việc cần đến, hoặc người thỉnh đến hoặc bị thế tục dẫn đến, hay bị trói đem đến, hay nạn ác thú nạn giặc thì không phạm.

Ở đây thì đức Phật cấm cái giới này là không có cho cái người tu sĩ đến thăm quân lính dàn trận hay là diễn binh bởi vì mình là người tu sĩ rồi còn đi coi cái ấy làm gì. Các con thấy chưa, cho nên ở đây mình phải sáng suốt và không có nên đi xem cái chuyện đó. Không có đúng đâu! Người tu sĩ thì lo tu, ai ở đâu mà đi coi đánh trận, đi coi diễn binh, đi coi xe pháo này kia của họ thì đó là sai. Mình là người tu rồi thì bỏ những cái việc đó, cho nên ở đây chế cái giới này là quá tệ rồi, thành ra quá… Thật ra người tu sĩ khỏi cần chế cái này đi, nghĩa là ca hát không còn thì không còn xem quân trận, không còn tập võ gươm đao cung tên, không còn tập luyện thì thử hỏi đi xem cái này để làm gì? Đâu có cần thiết nữa.

Đó thì cái giới này chế ra đối với người tu sĩ của chúng ta hiện thời thì cái cuộc diễn binh hay dàn quân hay hoặc là những cái lễ lớn này kia có quân đội thì hầu như hầu như tu sĩ của chúng ta hiện giờ có đi xem. Cái giới này chế cho chúng ta bây giờ thì đúng, còn thời đức Phật thì Thầy nghĩ rằng những vị mà ly dục ly ác pháp rồi thì họ thấy những cái chuyện mà đánh đấu nhau là chuyện ác rồi, tức là chuyện giết người rồi thì quân đội là cái sự việc giết người rồi, vì vậy họ đâu họ còn con mắt mà họ đến đó nữa. Còn cái thời chúng ta bây giờ họ hăng say lắm, họ còn muốn đi ra trận nữa chứ đừng nói chi, cho nên mặc dù tu thì tu chứ họ muốn đánh trận lắm! Do đó họ đi xem diễn binh hoặc này kia thì bây giờ thì có thể chứ thời đức Phật thì chế cái giới này thì không đúng. Cho nên đây là cái giới mà sau này các tổ chúng ta chế ra là vì cái giới này mà tu sĩ sau này nó có phạm cái giới này cho nên mới chế ra. Trong thời đức Phật Thầy nghĩ rằng không bao giờ có chuyện mà tu sĩ làm cái đièu này đâu. Là tại vì đức Phật có pháp hành lý hành cho nên không bao giờ mà có chuyện quá tệ đó.

Giới 52: Giới đến trong quân quá ba đêm

Vì sao Phật kiết giới này? Nguyên do Phật đến ở nơi vườn Cấp Cô Độc, bấy giờ Lục quần Tỳ kheo có nhân duyên đến trong quân trận ngũ, cư sĩ chê hiềm. Phật vì đó mà kiết giới này. Duyên gì mà mình muốn đi coi xem thôi chứ có duyên gì đâu. Đâu có nên đến cái chỗ mà quân độ của người ta thì tất cả những cái này đều nằm ở trong cái vấn đề mà thích coi quân đội.

Giới 53: Giới xem thế lực quân trận

Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật cũng ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục quần Tỳ kheo nhân Thế Tôn chế giới cho phép có nhân duyên được hai ba đêm ngủ trong quân trại bèn xem coi quân trận, sức người sức voi, sức ngựa chiến đấu. Một vị Tỳ kheo bị tên bắn gây tích trở về, một cư sĩ chê hiềm. Phật nhân đó mà kiết giới.

Thật sự ra mấy ông này còn thích đấu tranh thì làm sao tu hành được. Bao nhiêu cái pháp của Phật nêu ra để chúng ta tu hành còn đâu thời gian để mà chúng ta đi chơi nữa. Thầy nói không còn thì giờ nữa, ngày như đêm, đêm như ngày đi khất thực về rồi ăn xong lo tu, tu mãi, mà mấy ông này còn ham mê là chưa giải thoát chỗ nào hết. Thế mà không lo tu mà con ham đi chơi thì còn nghĩa lý gì. Đi chơi cho đến nỗi quân đội người ta tập trận người ta bắn tên sao rồi trúng thân ông. Ngu quá trời! Giờ kéo về Tịnh xá để nuôi dưỡng dượng bệnh ông ấy. Cái này thiệt là đặt điều chứ Thầy nói không có vị tu sĩ nào mà đi chơi cái kiểu mà tên lạc mà bị thương vậy đâu! Những cái đó là cái sai.

Giới 54: Giới uống rượu

Vì sao Phật kiết giới này? Ở tại nước Tri Đà, tôn giả Tazada ngủ đêm trong phòng của phạm chí bện tóc, có con độc lông phun lửa. Tôn giả thể hiện các thần thông biến hóa hàng phục nó. Vua nước Câu Diệm Di thấy vậy lòng sanh kính phục. Tôn giả lại nói pháp khiến được hoan hỷ, vua bèn ân cần ba lần thưa hỏi: “Ngài cần gì?” Tôn giả không nói. Lục quần Tỳ kheo nói: sáu vật của Tỳ kheo nhận được thì cái gì khó được nhà vua giúp cho. Vua hỏi: Vật gì khó được? Được trả lời là hắc tửu. Ngày sau được thết cúng bao nhiêu món ăn ngon ngọt công với hắc tửu. Khi ấy tôn giả ăn uống no đủ rồi trên đường về bị mửa ói té xuống đất. Ông thầy có thần thông mà quá say sưa. A Nan bạch Phật, Phật dạy: Như hiện nay không thể hàng phục được con rắn nhỏ huống nữa là đại độc long. Từ nay về sau ai gọi ta là thầy cho đến không được dùng đầu cọng cỏ chấm vào rượu rồi thấm vào môi, rồi Ngài kiết giới này.

Tức là cấm uống rượu đó, mà lại thuật ra cái câu chuyện cái ông có thần thông hàng phục được con độc long như vậy, được vua thết đãi một bữa ăn rồi rượu mà rượu hắc tửu, rượu ngon nhất đó. Chắc có lẽ là lấy gạo nếp than mà nấu ấy cho nên gọi là hắc tửu, cho nên ông uống say rồi ông đi say giữa đường rồi mửa té. Sao mà thần thông mà còn nghiện rượu quá vậy? Thần thông giả mà. Chuyện đó thiệt là mấy ông này đặt điều. Một người có thần thông thì tâm thanh tịnh nhất là trong đạo Phật, hay người mà có tâm rất tịnh thì mới có thần thông, mới được Thiền định ở cái mức mà Tứ thiền rồi thì cái tâm rất là tịnh, nó ở trong cái chỗ ly dục ly ác pháp tối đa là của hỷ lạc của Tứ thiền đó. Đâu có phải là ái tầm thường đâu mà còn thích cái chuyện rượu mà uống say như vậy, lại còn cái gì đâu. Đó là cái dục lạc của thế gian à. Bởi vì nói tới cái tâm trạng đó Thầy thấy cái người này chưa có hiểu ly dục ở cái mức độ Tứ thiền rồi, nó cao tuyệt, nó không có cái gì gọi là... 7 ngày đêm liên tục mà bây giờ 49 ngày đêm liên tục nó có cái hỷ lạc của Tứ thiền chứ đâu phải không. Làm sao có cái món rượu mà nó kéo 7 ngày đêm, ông uống vô khỏi cổ ông rồi ông ra ông mửa cùng đường hết rồi lạc cái gì, nó thành ra bất tịnh hết chứ còn lạc cái gì. Vì vậy mà nói ông đấy có thần thông thì thần thông kiểu nào? Chỉ nói láo thôi chứ, Thầy nói chỉ tưởng thôi chứ đâu còn cái thứ gì mà nói.

Cho nên ở đây một cái người mà người ta thấy đúng người ta tu đúng rồi mà nói gạt người ta không có đủ sức người ta tin, chỉ có những người chưa biết thì nói sao họ tin vậy. Có thần thông rồi uống rượu cũng như mấy ông thầy bùa ấy mà. Càng có bùa chú linh linh rồi uống rượu riết rồi mất hết. Sau này cứ vẽ tùm lum ra mà không thấy cái gì linh hết. Mới đầu ở trên núi xuống còn vẽ ba cái vòng tròn nó còn chạy. Vẽ riết rồi bây giờ nó không chạy nữa, ba cái rượu làm sao nó chạy, chỉ còn có nước ông chạy ra đường ống ấy nằm thôi.

Giới 54: Giới tắm dưới sông đùa giỡn

Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, khi đấy Thập thất quần Tỳ kheo ở nơi sông A Kỳ La Đà để đùa giỡn trong nước. Vua Ba Tư Nặc cùng với phu nhân trên lầu từ xa trông thấy, phu nhân thấy là tuổi nhỏ xuất gia trong phát luật chưa bao lâu, phu nhân sai người đến thăm hỏi Thế Tôn, gởi một gói đường phèn để dâng cúng, bạch đầy đủ. Vấn đề Phật quở trách Thập thất quần Tỳ kheo. Thập thất là 17 vị Tỳ kheo này kiết giới, nghĩa là 17 vị Tỳ kheo này rủ ra ngoài biển tắm cái kiểu tắm đùa giỡn ở ngoài đó. Thầy thấy có một số qúy thầy ra biển tắm đùa giỡn rần rần ở ngoài đó, họ tạt nước rồi họ làm đủ cách hết. Đó là những cái sự sai lệch, một vị mà tu sĩ thì không bao giờ tắm đùa giỡn ở giữa sông giữa biển như vậy, phải ở nơi kín đáo hẳn hoi đàng hoàng, cho nên tắm mà không có đùa giỡn mà còn không được huống hồ đùa giỡn là cái sai. Nên cấm cái giới này rất đúng. Hầu hết là tuổi còn nhỏ nhỏ chúng ham lắm, tắm rầm rầm, ôm ba cây chuối lặn lên lặn xuống Thầy thấy như con nít không ra gì hết.

Giới 55: Giới thọc nách nhau

Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức Phật ở vườn Cấp Cô Độc, một vì trong Lục quần thọc nách, một vị trong thập thất quần cười hết hơi đến chết. Nhân đó Phật kiết giới này.

Chết người ta mới lo chế giới. Thật ra thì đâu có cái chuyện mà giỡn kỳ cục vậy. Tu hành gì mà giỡn y như là người ngoài đời, làm như con nít thọc nách người ta nhột đến chết. Chế những cái giới này thiệt là … Đi tu đâu còn là con nít nữa sao. Đã đi tu rồi đâu có còn cái chuyện mà nhỏ, mà đây hoàn toàn là những người lớn Tỳ kheo không chứ đâu phải nhỏ. Những cái giới chế nhiều cái nó vô lý đến vô lý. Không có lý nào một tu sĩ mà còn đùa giỡn được. Cái tâm mà chúng ta chưa có giải thoát được nỗi khắc khoải trong lòng của mình hết sức ngày đêm nó bất an chứ đâu phải nó sung sướng. Như bây giờ mấy con thấy mấy con tu chưa tới đâu mấy con bất an trong lòng lắm chứ. Có cái gì là mấy con rất buồn, không biết đời của mình nó ra sao.

Nhưng mà Thầy đặt thành vấn đề khi mà các con không quyết tu, còn khi mà dã quyết theo đúng con đường thì Thầy nói rằng một trăm người sẽ đạt một trăm người, không có người nào là không đạt được. Các con nên tin là khi mà cái giáo án Thầy viết ra là Thầy đã biết nó như thế nào con đường của đạo Phật. Tại vì người ta tu mà người ta còn thích dục lạc, còn thích ở đời thôi chứ còn người ta quyết định người ta quyết bỏ nó thì người nào cũng được, nghĩa là làm sao chúng ta ly sạch, chúng ta đừng có ham muốn nó nữa. Chúng ta biết chúng ta dứt như là cái bài mà Thầy đã nói, tuy rằng nó đơn giản chức các con thấy ba cái giai đoạn tuy rằng Thầy giảng đơn giản vậy nhưng mà các con hiểu được cái thâm ý của nó rất là thâm sâu. Đừng có thân cận dục, cái lòng ham muốn của ta đừng có thân cận nó, đừng ở gần nó mà chúng ta hãy xa nó đi. Mà không thân cận nó thì các con biết cái gì không thân cận không? Thầy vạch rất rõ cái bàn cái ghế này không còn có thì chúng ta đâu còn có cái dục được, mà còn thân cận nó chứ bây giờ cái thân cận là cái chỗ nào? Chỉ có những vật dụng xung quanh chúng ta mà chúng ta xa lìa nó thì chúng ta đã mất cái lòng dục của chúng ta chứ gì. Các con phải hiểu được cái lý đó.

Vì vậy mà các con quyết các con xa lìa hết thì lúc bây giờ làm sao mà các con không giải thoát được. Chỉ các con không muốn lìa nó được thì làm sao mà Thầy muốn bây giờ cũng không được. Mà người nào lìa được hết rồi Thầy nói bây giờ ngồi đây mấy con bao nhiêu đây là thành tựu bấy nhiêu, không có người nào mà không thành tựu, bỏ hết cuộc đời của chúng ta rồi còn gì nữa mà chúng ta còn tiếc cái bàn cái ghế, cái chuyện nhỏ nhặt này mà tiếc cái nhà cái cửa làm gì. Chỉ còn cái lớn của chúng ta là làm sao chấm dứt cái sự luân hồi, chấm dứt cái nhân quả này mà thôi. Đó là cái mục đích chính của mình mà, cho nên mình đâu còn tha thiết, vui mà chúng ta còn không dám vui mà. Làm sao mà chúng ta bây giờ muốn chết hồi nào chết muốn sống hồi nào sống biết được cái trạng thái chúng ta bỏ cái thân này là chúng ta ở chỗ nào rồi. Chúng ta biết rõ vậy thì cuộc đời chúng ta mới nở một nụ cười, chứ còn chưa có được thì chúng ta không dám cười đâu.

Có như vậy chúng ta mới thấy được làm sao mà những vị tu sĩ này đùa giỡn được, làm sao mà xối nước mà tắm dưới sông được khi mà chúng ta chưa làm chủ sanh tử. Khi mà chúng ta chưa làm chủ sanh tử thì làm sao chúng ta vui mà chúng ta thọc nách với nhau được. Ở đây những cái giới luật chế ra nó rất là vô lý với cái người quyết tâm tha thiết giải thoát thì không bao giờ họ còn vui với cái chuyện trẻ con khờ khạo như cái người ngu si ở thế gian này.

Giới 56: Giới không chịu lời can gián

Vì sao Phật kiết giới này? Xưa Phật ở nước Câu Diễm Di, Diễn Đà muốn phạm giới, các Tỳ kheo can mà không nghe. Đức Phật vì đó mà kiết giới.

Nghĩa là muốn phạm mọi cái giới, thí dụ như muốn sát sanh, muốn giết con vật nào đó mà tất cả các Tỳ kheo can đừng có giết mà ông ta cứ giết thì đó là đức Phật mới chế cái giới 54 này. Thật sự đó là thuộc về cái giới sát sinh rồi. Mình nói ờ anh đừng có giết con vật đó mà người này cố giết thì người này phạm tội sát sanh rồi chứ đâu có phải phạm tội đọa 54 này đâu, chỉ ngay cái giới sát sanh là cái giới đầu tiên là cũng bị rồi chứ đừng nói chi xa.

Giới Giới dọa sợ người

Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức Phật ở tại nước Ba La Lê, bấy giờ tôn giả Na Ca Ba La thường hầu hai bên khi Phật đi kinh hành. Đức Thích Đề Hoàng Nhân hóa làm kim kinh hành đường thường pháp của chư Phật. Nếu khi đi kinh hành người cúng dường đứng nơi đầu đầu đường đi kinh hành đầu đêm đã qua bạch Thế Tôn thỉnh Ngài vào phòng. Thế Tôn nín thinh đến giữa đêm, sau đêm cũng như vậy. Tôn giả bèn lại mặc áo bằng lông đến nơi Phật làm tiếng phi nhân khủng bố Phật. Sáng hôm sau Thế Tôn nhóm tăng quở trách. Vì cớ đó mà kiết giới này.

Nghĩa là có một vị Tỳ kheo muốn làm phi nhân để làm cho Phật sợ chơi. Ông này ông cũng giỡn với ông Phật đó. Kiểu này là kiểu giỡn mọi người không đủ rồi giờ tới đùa ông Phật chơi. Tối nay ông Phật ông đi kinh hành này ngang cái chỗ này vắng này, mình ngồi trong đó cái mình chạy ra sau lưng ông mình hù một cái coi ông sợ không? Đó, tất cả những cái đó các con thấy vô lý. Đối với một đức Phật rất là nghiêm nghị, đức Phật đi bao giờ cũng ngó xuống, không bao giờ mà có thể ngó qua ngó lại. Thế mà rồi đệ tử của đức Phật, một vị Tỳ kheo mà muốn đùa giỡn với đức Phật như vậy thì Thầy thấy cũng không có lý. Có làm cho người ta sợ thì có, huynh đệ nhau giỡn chơi thì có. Đằng này lại lôi ông Phật ra để cho vị Tỳ kheo này giỡn chơi với ông Phật thì Thầy thấy nó quá độ rồi. Nó vô lý đến độ vô lý rồi. Ví dụ như huynh đệ nhau thì: tối nay ông này ông đi kinh hành mình ngồi trong bụi này mình chạy ra mình chụp ông cho ông sợ chơi thfi cai đó được. Cái đó có thể nói Phật do cái đó mà chế giới được, nó còn có lý, chứ mình giỡn với thầy mình đâu có được, nó không có lý đâu. Cho nên những cái câu chuyện nói ra nhiều cái vô lý, nhưng mà họ muốn nói sao nói chứ sự thật Thầy không chấp nhận điều đó.

56. Giới hóa tắm rửa

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở vườn Ca Lan Đà, vua Bình Pha cho phép các Tỳ kheo vào trong ao của nhà vua tắm. Lục quần Tỳ kheo sao đêm tưởng mặt trời chưa xuất hiện vào ao tắm đến sáng ngày vua và các thị nữ đến muốn tắm mà không tắm được. Đại thần chê hiềm. Phật vì vậy mà kiết giới này. Sau đó nguyên nhân nóng bức nên Phật khai cho trường hợp đặc biệt.

Ở đây thì trong một cái ao của nhà vua có hồ nước để tắm thì nhà vua thì cũng nghĩ các thầy thì cũng là những người tu cho nên mới cho vào tắm. Nhưng mà các ông này lựa cái giờ gần sáng rồi thì nhà vua với các thị nữ người ta ra tắm thì mấy ông tắm trước đi. Mấy ông tắm trước đi quậy đục hết trơn hết trọi sáng ra nhà vua với mấy cung nữ tắm thì nước đục ngầu hết làm gì người ta tắm được nữa. Mấy ông chơi cái kiểu tắm trước kiểu đó là quậy chơi nhà vua mà. Giỡn với ông Phật đã rồi giờ giỡn với nhà vua nữa. Thì các con thấy cái giới luật này là chế biếm nhẽ làm như là Cống Quỳnh vậy đó, các con biết Công Quỳnh không? Cái ông Cống Quỳnh đây Thầy nói cũng cái kiểu đó. Chế giới mà không có nghiêm nghị chút nào hết. Lựa như là trò giỡn chơi vậy đó mà chế.

Nghe nói không có gì hết mà cái câu chuyện mà để mà cái câu chuyện mà để cho chúng ta biết cái giới này là cấm do cái câu chuyện nào mà cấm ra thì có những câu chuyện nó hữu lý, và có những câu chuyện vô lý. Do vì vậy mà muốn đọc ra đây để làm gì? Để cho các con suy ngẫm cái giới bổn có đúng là cái giới của Phật hay không? Cái mục đích của Thầy là ở đây chớ không phải dạy các con giới này để rồi bắt buộc các con 250 giới y chang như vậy, hay 348 giới là phải y như vậy không có thay đổi. Không phải, đọc ra đây để biết cái đúng cái sai của người xưa người ta làm để chúng ta chuẩn bị cho chúng ta một cái tư thế để xây dựng lại Phật giáo chứ không phải là lầm lạc ở cái miệng của họ, ở cái hành động của họ làm mà để lại cho chúng ta theo đó mà chúng ta làm nữa. Bởi vì chính họ không phải là những người giải thoát.

Còn bây giờ mình đã tu được, làm được, làm chủ được sinh tử, làm chủ được nhân quả chúng ta chẳng sợ ai nữa hết. Chúng ta đi đúng con đường của đạo Phật chúng ta xây dựng lại đạo Phật, chúng ta làm chủ được sống chết của mình thì chúng ta phải làm đúng lại cái gì của đạo Phật. Còn bây giờ nếu mà Thầy chưa làm được, Thầy chưa làm chủ được mình thì chắc chắn là không dám làm. Họ làm sao bây giờ cũng phải theo đó mà thôi chứ không dám làm. Còn bây giờ mình thực hiện được, mình có pháp hành được, mình biết con đường lối của đạo Phật như thế nào đúng sai mình làm được. Bây giờ mình phải sửa lại. Phải chi mình làm không được thì mình không dám. Còn đằng này mình làm được thì mình phải sửa, sửa lại để cho người sau được hưởng cái phước báu của đạo Phật chứ không khéo để mất hết không còn nữa.

Cho nên những cái mà Thầy đọc ra đây để rồi chúng ta lần lượt mà chúng ta sửa lại hết, không có để trong Phật giáo những cai loại mà nó vô lý như thế này được. Nó không đúng cái pháp của Phật, nó không làm cho chúng ta ly dục ly ác pháp được, mà luôn luôn nó có những cái sự đùa giỡn ở trong cái dục lạc của thế gian. Rõ ràng là tắm mà đùa giỡn cũng là cái dục lạc chứ cái gì các con. Đó thì các con thấy tất cả mọi cái này đều là những cái dục lạc hết. Không có cái gì mà không dục lạc hết.

Vì sao Phật kiết giới này? Bây giờ Phật ở tại thành Khoáng Giã, Lục quần Tỳ kheo nói với nhau ở… Thượng tọa ta không thể làm cho theo ý mình được, bèn ra ngoài phòng nơi chỗ trống tập trung cỏ củi bên gốc cây đại thọ nhen lửa để sưởi. Khi ấy trọng bọng cây có một con rắn bị hơi nóng của lửa xông vào từ trong bọng cây chạy ra. Các Tỳ kheo hoảng kinh lấy từng cây củi đang cháy quăng lung tung bèn cháy giảng đường, đức Phật nhân đó mà kiết giới: “Nếu Tỳ kheo tự sưởi ấm nhóm lửa nơi đất trống hoặc dạy người nhóm lửa thì phạm tội Ba Dật Đề”.

Bây giờ do cái duyên mà cháy cái giảng đường đức Phật mới chế cái giới cấm các vị Tỳ kheo này. Các vị Tỳ kheo này đốt lửa gần gốc cây con rắn nó bị nóng quá nó chạy ra, do đó các vị này mới lấy củi mà quăng con rắn chứ không phải gì, rồi quăng vô trong cái giảng đường. Mà giảng đường cất bằng tranh bằng lá cũng như mình vậy đó quăng vô bắt đầu lửa cháy lên cháy tiêu cái giảng đường. Cho nên Phật mới chế ra cấm không cho đốt lửa gần những gốc cây những chỗ này chỗ kia mà phải đốt lửa ở ngoài trống thì nó mới được.

Nhưng mà thật sự ra ở đây Thầy muốn nói như thế này nè, các con thấy trong vấn đề tu hành của đạo Phật là phải sống độc cư. Đâu có tập họp trời có lạnh đi chăng nữa đâu có tập họp mà đốt mà nhóm lửa, mà ngồi lại. Thường thường thì hơ lửa ngồi lại đốt lửa thì nói chuyện này chuyện kia chuyện nọ đủ thứ sinh ra những cái tâm động lắm. Nó không phải vậy ở nơi chỗ nào của mình mình ở chỗ đó. Lạnh thì mình tìm cách đốt lửa mình hơ tại chỗ mình chớ đâu tập trung ở giảng đường đốt lửa rồi quăng cháy giảng đường như vậy. Ba bốn người xúm thấy rắn sợ quăng củi như vậy thì không cháy giảng đường sao. Cho nên những cái giới này Thầy thấy là nhìn giới mà cái tăng đoàn của Phật xưa thiệt là rối loạn, chưa phải đúng là cái tổ chức. Chẳng hạn là như bây giờ Thầy tổ chức như thế này Thầy không phải Phật nè, là một con người bình thường như các con mà bên tăng ra bên tăng bên ni ra bên ni. Có một thầy mà hay đi lang thang qua tới lui là Thầy đã không chịu rồi đó. Thầy nói thật sự Thầy đã nghe tiếng hồi sáng giờ Thầy đi là vị thầy đó đã đi tới đi lui ở trước rồi. Hơn nữa Thầy thấy hầu như là nam có đi tới đi lui ở bên nữ là Thầy đã không bằng lòng rồi. Nam ra nam mà nữ ra nữ bởi vì đây là bất đắc dĩ cho một cái tu viện là cả nam lẫn nữ. Chứ thật sự thật ra tổ chức đâu có rành rẽ đâu có chuyện đó được. Còn xa hơn nữa vào đây rồi quý thầy phải sống độc cư không được thất này tới thất kia. Mà tới thất này thất kia nói chuyện một hai lần là Thầy đã không chấp nhận được rồi, những người đó làm sao theo Thầy được. Thầy đuổi hầu hết chứ Thầy đâu có để.

Đó là làm như vậy các con thấy đối với Thầy còn nghiêm nghị như vậy huống hồ là ông Phật. Đâu phải là chuyện ông Phật dễ đâu bởi vì ông Phật ông biết cái đường đi như thế nào rồi. Còn Thầy Thầy cũng biết cái đường đi như thế nào rồi mà Thầy thấy sai như vậy là Thầy không chịu rồi. Đó là sống theo phàm phu tục tử làm sao mà gọi là Thánh nhân được. Mà mình đến đây để mình tập làm Thánh nhân, mình làm sống y như Thánh nhân. Thế mà mình sống y như kiểu phàm phu thất này chạy qua thất kia nói chuyện, ở sau này rồi chòi mòi đi tới đằng trước để làm gì. Để nhìn người này nhìn ngó người kia thế này thế nọ thế kia làm sao mà tu hành được. Những người đó làm sao mà tu. Thầy nói thật sự mấy con thấy trong cuộc đời khi một vị thầy người ta tổ chức cho người được trở thành bậc Thánh nhân là người ta đã thấy những người không phải Thánh nhân người ta loại rồi chứ đâu phải để đâu. Đâu phải người ta điên để nuôi đó để tốn cơm tốn gạo tốn công tốn sức người ta đâu. Được là người ta nuôi không được là người ta đuổi mình đi chứ người ta đâu có để. Người ta đâu có vì tiền vì bạc người ta đâu có vì ân vì oán trong đó người ta sợ đâu. Người ta vì làm sao người ta vì Phật pháp để cho sống lại mọi người người ta hưởng được mọi cái phước báu của Phật pháp. Để được một cái tâm hồn giải thoát để sống trong một cái tình thương thân thương ái như nhau trong một cuộc sống chơn thật với nhau để giải thoát chớ đâu phải vì những người đó.

Đó cho nên ở đây Thầy học nhiều là nhiều chớ nhìn lại bao nhiêu người được. Họ sống hoàn toàn là họ sống theo cái tình huống thế gian chớ đâu phải họ muốn thành Thánh thành Phật, họ thành phàm phu thì họ muốn chứ họ đâu muốn thành Phật.

Giới 58: Giới dấu đồ vật của Tỳ kheo

 Vì sao Phật kiết giới này? Xưa Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc. Khi ấy có cư sĩ thỉnh tăng,  thập thất quần Tỳ kheo đem y bát tọa tựu để một nơi rồi đi kinh hành. Nhờ đến bữa cơm Lục quần Tỳ kheo rình khi họ đi kinh hành quay lưng lại lấy y bát của họ giấu. Đến giờ tìm không ra không được. Lục quần Tỳ kheo trêu ghẹo, nhân đó mà Phật kiết giới này.

Đó thì các con thấy tất cả Tỳ kheo Phật y như đồ con nít vậy đó. Thấy người ta để đồ đó rồi rình xem người ta đi kinh hành xa rồi bắt đầu đem giấu hết đồ. Chừng đó đến giờ đi khất thực y bát của người ta lấy cất đâu đi lại kiếm không được bữa đó chỉ còn nước đói chớ không phải gì đâu. À mấy thằng kia thấy tụi nó đi giỡn chơi thấy tụi nó đi xuống ao hồ xuống sông tắm quần áo nó cởi để bên trên này này xuống sông tắm. Mình đi ra đó tụi nó tắm mê đâu có biết mình. Ba bốn thằng đêm hốt quần áo với sách vở đem giấu bụi cây hết cái chạy trốn. Chừng mà tụi nó tắm xong lên quần áo mất hết rồi, thằng nào thằng nấy khóc bù lu bù loa hết. Cái bắt đầu thấy nó khóc quá rồi thấy nó bỏ đi về tội rồi mới chạy ra nói tao giấu đồ tụi bay. Chờ nó chửi một hơi đã nước rồi trả nó đồ nó thôi đi về. Đó là chơi cái kiểu con nít đó. Cho nên ở đây Thầy thấy hầu hết những cái này mà chế ra đều là kiểu dáng con nít hết chớ không phải cái dáng của người lớn, người lớn không bao giờ chơi vậy đó hết.

Giới: Cho y tự lấy lại mặc không nói với chủ

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật còn ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục quần Tỳ kheo chân thật tịnh thí khi cho Tỳ kheo rồi sao không hỏi chủ mà lấy lại mặc? Nhân đó Phật mới kiết giới này. Tịnh thí có hai cách chơn thật tịnh thí: Thưa đại đức một lần nghĩ tôi có y này chưa tắc tịnh nay vì tịnh xả cho đại đức. Hai, tuyển chuyển tịnh thí đối với vị kia tác pháp xong vẫn cất để dùng. Tác pháp như trên.

Nghĩa là mình cho người ta y mình không có được lấy lại mà mình cho rồi thì thôi. Còn này cho rồi đòi lại thì Phật cấm cái giới này. Khi cho rồi không được đòi lại mà mình cho rồi thì thôi đã cho rồi không được đòi lại người đòi lại là bị phạm tội. Đó là giới thứ 59.

Giới 60: Giới mặc áo mới không phải phai màu

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục quần Tỳ kheo mặc y màu trắng, cư sĩ chê hiềm nhân đó Phật kiết giới. Nếu đem y chưa nhuộm xuống nhà bạch y cũng phạm tội ác tác.

Nghĩa là khi mình nhận y phải nhận y ngoại sắc không được… hồi đức Phật chỉ có cư sĩ mới mặc y màu trắng thôi chớ còn tu sĩ không được mặc y trắng. Mà nếu mà tu sĩ mặc y trắng thì đức Phật cấm không có được. Vì vậy mà khi tu sĩ mặc y trắng thì coi như là diện lắm á, thì đức Phật chê. Vậy thì do vì cái chỗ mà giới này hầu như các người này cái tâm của họ còn thích đời. Nghĩa là bây giờ như Thầy nè thì phải ăn mặc như thế này nó mới là tu sĩ. Còn ông này ông ăn mặc như thế này ông thích mặc đồ Tây muốn đội cái nón cối lên thì như vậy đâu có nghĩa lí gì cái sự mà tu hành này theo Phật. Bởi vì phải xả hết tất cả y áo mà thế tục hết không còn mặc lại. Còn cái ông này bởi vì cái người mà cư sĩ bên Ấn Độ họ cũng giống y như vậy nhưng mà nó màu trắng. Chớ không phải cái màu này cho nên muốn khác hơn người cư sĩ mới chế cái màu này ra để ngoại sắc mặc cho nó khác. Cái người Ấn Độ họ mặc giống y như vậy cái chân cũng giống như ông Phật, y áo ở trong cũng giống y như ông Phật, rồi cái y ngoài cũng giống y cũng may giống y nhau vậy hết chớ không khác nhau chút nào hết à. Người tu sĩ với người cư sĩ không giống nhau nhưng cái người cư sĩ màu trắng còn cái người tu sĩ màu vàng màu hoại sắc. Cho nên nó có khác ở chỗ màu thôi chứ còn cái y nó giống nhau. Vì vậy mấy ông này mấy ông Lục quần Tỳ kheo này ông đóng vô cái màu trắng ông mặc ông đi. Ông không có mặc cái màu này ông đi mà cái đầu thì cạo trọc mà ông mặc đồ trắng này vô nó không giống cư sĩ mà cũng không giống ông tu sĩ. Cho nên đi ra mấy ông cư sĩ mới chê ông. Mấy ông như vậy kì quá tôi thấy không có được. Ông Phật nhân đó mới chế cái giới này, cấm không được mặc màu trắng, mà phải mặc y nhuộm. Mà bây giờ chưa nhuộm mà phải gởi ở nhà bạch y tức là cái người cư sĩ cũng phạm tội nữa. Bởi vì họ nhe mình muốn y trắng hồi mình muốn may thì cái màu nó phải màu vải nó phải ngoại sắc rồi kìa mình mới may chớ còn để y trắng không được.

Đó thì Phật cấm cái giới không cho mặc đồ đời mà phải mặc cái đồ tu là có nghĩa như vậy đó. Thì cái giới đó Thầy nói đúng. Hầu như là có nhiều người cư sĩ của chúng ta cũng vậy à tu sĩ của chúng ta cũng vậy. Cứ chưa có nhũng cái tu chơn chánh mà cứ chạy theo những cái dục lạc. Do đó mà các con thấy tu rồi mà vẫn mặc đồ đời vẫn đội tóc giả lên thì cái chuyện đó là cái chuyện phi pháp rất là phi pháp trong giới luật của Phật.

Giới 69: Giới giết hại chúng sanh

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật còn ở vườn Cấp Cô Độc, Ca Lưu Đà Di không ưa thấy chim chóc dùng ná bắn gom thành đống. Cư sĩ chê hiềm nên Phật kiết giới này. Nếu Tỳ kheo đoản mạng chúng sanh phạm Ba Dật Đề. Khi ấy các Tỳ kheo ngồi đứng tới lui làm chết nhiều con vật nhỏ. Có người làm pháp sám hối, có người cẩn thận sợ Phật dạy không biết không phạm ngài kiết giới lại trên chữ cố ý thì...

BĂNG SỐ 43

Ở đây á, mà vô ý đạp chết chúng sanh hoặc là…không có tội. Trừ ra mà lấy cung, lấy ná mà bắn chim thì có tội. Tội rất nhẹ, tội phạm Ba dật đề. Thật sự ra mình dùng cái ná hay hoặc là cung tên, hay hoặc là súng mình bắn chim, bắn chóc, mình bắn mình giết nó như vậy là tội Ba dật đề. Tức là tội đuổi ra khỏi Tu viện chứ đừng nói chuyện mà tội mà xin mà sám hối được đâu.

Đó thì các con thấy, từ ở chỗ mà bốn cái giới tứ khí của nó đó, là đứt đầu đó mà thế mà đến đây các con thấy cái tội rất nhẹ không. Coi có phải mấy ông này là già hàm, lẻo miệng không. Để mấy ổng đặt ra cái giới này, lấy cái giới này ổng không có tội nặng đâu.Nghĩa là ổng có giết vậy đi nữa ổng cũng Ba dật đề thôi chứ còn hổng có phải là cái tội trục xuất ông đâu mà ông sợ.

Đó, thì các con thấy bốn cái giới sát sanh nó cũng là một cái giới mà trục xuất chớ đâu phải là giới thường đâu. Thế mà tới cái chỗ này mà ổng này ổng bắn chim ổng gom thành một đống đó mà ông không có tội bao nhiêu đó thì đủ biết. Mà lại còn chế lại cái giới nữa, như là ngồi đứng, tới, lui, làm chết côn trùng nhỏ, có người làm pháp sám hối, có vị cẩn thận sợ, Phật dạy: không biết, không phạm, không có phạm tội gì hết à, mặc tình mà đi mà dậm cho nó chết hết, mình đâu có nhìn xuống dưới chân mà mình biết.

Đó, chế cái giới như vậy thì các con nghĩ coi, như thế nào có đúng không. Một vị tu sĩ mà như vậy thì còn có cái chỗ nào mà gọi là Từ -Bi- Hỷ -Xả hông.

Giới uống dùng nước có côn trùng.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở vườn Cấp Cô Độc, Lục quần Tỳ kheo lấy nước có tạp trùng uống dùng, Phật nhân đó mà kiết giới này, nếu Tỳ kheo uống dùng nước có tạp trùng phạm  Ba dật đề.

Phạm tội nhẹ không à. Mà có một vị Tỳ kheo uống nước mà đến mà gặp Phật ở trong giới Sadi lược giải đó, các con có đọc không? Mà uống nước mà có côn trùng mà sống để gặp Phật đó.Phật nói là thà là nhịn khát chết mà gặp Phật còn hơn là sống mà thấy Phật thì có ra gì. Đúng vậy, thật sự ra cái pháp mà uống nước có côn trùng. Có trùng ở trong đó mà cứ uống á thì coi như là bị đuổi ra khỏi Tu viện nữa là khác, khỏi tăng đoàn nữa.

Giới 63, giới cố xúc não người.

Vì sao Phật chế giới này? Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc. Thập thất quần hỏi Lục quần Tỳ kheo: “Nhập sơ thiền làm sao, cho đến nhập Tứ thiền là sao? Thế nào là nhập không vô tướng, vô nguyện. Thế nào là đắc tứ quả?”. Lục quần nói: “Như các ông vừa nói là tự xưng được pháp thượng nhân, các ông đã phạm Ba la di”. Chẳng phải là Tỳ kheo thập thất quần, Tỳ kheo bèn thưa với bậc Thượng tọa: “Chúng con hỏi, như vậy là phạm tội gì?” Thượng tọa nói: “Không phạm”. Tỳ kheo bạch Phật, Phật kiết giới. Tỳ kheo nghi ngờ cho người khác thì phạm tội Ba Dật Đề.Khi ấy chúng tập hợp lại một chỗ, cùng luận nghị pháp luật. Có một Tỳ kheo rút lui. Vị ấy nghĩ, như vậy các Tỳ kheo đã cùng mình gây nghi não. Các Tỳ kheo bạch Phật, Phật dạy chẳng phải cố ý thì không phạm.

Ở đây Thầy thấy, cái chỗ mà hỏi này, như Thập thất quần Tỳ kheo hỏi Lục quần Tỳ kheo rằng: “Nhập sơ thiền là sao, cho đến nhập tứ thiền là sao? Thế nào là nhập không vô tướng, vô nguyện định. Thế nào là đắc tứ quả?”. Lục quần nói: “Như các ông vừa nói là tự xưng được pháp thượng nhân, các ông đã phạm Ba la di rồi”. Nghĩa là người ta không biết người ta hỏi chớ phải chi mà người ta biết, người ta xưng người ta là chứng quả đó hay sao mà phạm tội. Trong cái giới này nó chế ra là kỳ cục như vậy là sai. Người ta không hiểu, người ta mới hỏi ổng. Trái lại, mấy ông này chẳng biết cái Sơ thiền, Nhị thiền như thế nào hết, mới nói mấy ông hỏi như vậy đó là mấy ông đã phạm tội Ba dật đề rồi. Tức là mấy ông tự mình xưng là pháp thượng nhân rồi. Người ta không hỏi, tức là mấy ông nói: “Bây giờ người ta hỏi mình mới nói, ờ Sơ thiền phải nhập như vậy, như vậy, phải tu như vậy, như vậy đó. Thì đó là sơ thiền”. Chứ mấy ổng có xưng là tui nhập Sơ thiền đâu. Các con hiểu điều đó không?

Đó, như vậy là người ta không hiểu như vậy, thì người ta hỏi thì mình biết là mình chỉ, còn mình không biết thì mình nói, cái này á nên vào hỏi Phật, Phật sẽ chỉ cho các ông biết.Thì như vậy là đúng rồi, còn tụi tui thì chưa có nhập nó, tụi tui không có biết đâu mà nói. Thì như vậy là cũng tốt rồi, chứ đâu là tự xưng mình là nhập Sơ thiền, nhị thiền đâu mà. Tự mình người ta không hỏi, mình đến nói “ờ tui nhập Sơ thiền nè, tui nhập Nhị thiền nè, tui nhập Tứ thiền nè, tui có thần thông phép tắc”. Đó là mình tự xưng mình thượng nhân. Thì đó là phạm cái tội kêu là vọng ngữ, đại vọng ngữ rồi, tăng thượng mạn rồi. Thì như vậy là mới gọi là tự xưng pháp thượng nhân, như vậy mới là phạm tội Ba la di. Còn ở đây đâu có gì đâu mà đặt cái này ra, bởi vì đem câu chuyện này ra thiệt ra thì mấy ông này là mấy ông không có hiểu cái gì hết à, viết tầm bậy tầm bạ à, Phải không các con?Nghe thì các con biết rằng mấy cái ông viết giới này toàn là gọi là mấy ông tổ chứ thiệt là tổ á cho nên viết tầm bậy, kêu là tổ á.

64, đây là chữ nghĩa rõ ràng á, Thầy không viết một chữ nào trong này Thầy đọc hết cho mấy con nghe đó. Họ viết họ in chứ Thầy hổng viết chỗ nào hết. Đó, như vậy thì các con thấy không, bởi vì Thầy nghĩ là Thầy đọc lướt qua Thầy thấy có nhiều cái sai lắm, cho nên Thầy chẳng thèm viết mất công nữa, đem ra đọc cho mấy con nghe rồi phê phán mấy ông này cho đã miệng mới được.

64, giới che giấu tội Thô Tỳ kheo khác.

Vì sao Phật kiết giới này?  Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, một Tỳ kheo do quen biết nên che giấu thô tội của Bạt Nan Đà sau đó bất mãn nhau nên đến Tỳ kheo khác nói. Các thầy Tỳ kheo bạch Phật, Phật kiết giới: Nếu Tỳ kheo che giấu thô tội của các Tỳ kheo khác thì phạm tội Ba dật đề.

À, trong cái giới này thì các con thấy này: Trước kia thì hai người thân nhau lắm, có phạm tội thì che giấu nhau hết, không nói đâu. Bây giờ bữa nào cái chửi lộn nhau mới đem ra nói cô Út, cô Út nghe. Như vậy thì có tốt không. Đó, mấy người đó là phạm tội Ba dật đề đó.Còn khi mà người ta phạm cái giới gì đó, mình đem ra nói để cho từ đó người ta sửa, thì đó là tốt. Sửa lại cho người bạn mình tốt. Còn này hồi thân thì giấu hết không có thèm nói, tới chừng mà hết thân rồi, bắt đầu có chuyện gì mình hiềm giận trong bụng rồi bắt đầu nói ra hết. Thì cái đó là cái không tốt. Cho nên cái Giới này thì chế Thầy thấy được, không có....chế tốt được.

Giới kém tuổi cho thọ đại giới.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở thành La Việt, Thập thất quần đồng tử trước vì quen với nhau, lớn nhất là 17 tuổi, nhỏ nhất là 12 tuổi. Rồi rủ nhau đến chùa cầu xuất gia. Các thầy Tỳ kheo độ cho xuất gia, trao đại giới cho họ.

Con nít mà làm sao trao đại giới, Thầy hổng hiểu sao, 20 tuổi mới trao đại giới chứ. Sao lại mới 17 tuổi với 12 tuổi mà trao đại giới, chỉ Sadi thôi chớ. Sao lại cho kỳ vậy? Đây cũng là cái nói sao mà lộn xộn quá.

Các Tỳ kheo độ cho xuất gia, trao đại giới cho họ. Họ không kham ăn một bữa. Nửa đêm đói khóc la. Phật nói với tôn giả A nan, không nên trao đại giới cho người chưa đủ tuổi 20. Bởi họ không kham chịu lạnh, nóng, đói, khát và không nhẫn được những lời nói ác. Không thể giữ giới, không kham ăn một bữa. Nếu chưa đủ tuổi 20 mà cho thọ đại giới, người ấy không đắc giới, Tỳ kheo bị quở trách, vì si mê mà còn phạm Ba dật đề.

Thật sự ra thì luôn luôn lúc nào đức Phật cũng nói rằng phải đủ 20 tuổi, nhưng mà không có nghĩa là ăn một bữa mà la khóc, như La Hầu La, như sa di Huân Đầu. Những người này mới 7, 8 tuổi à, mà người ta vẫn sống người ta ăn ngày một bữa. Có gì đâu mà gọi là la khóc. Thì mấy chú nhỏ này dù có muốn tu thì chú cũng đã biết cái hành trì của người xuất gia rồi. Đâu lý nào mà vô đó rồi nửa đêm khóc. Mấy ông này nhiều cái mà đặt như thế này là vô lý lắm. Bởi vì ít ra mình đi tu thì mình phải hiểu cái sinh hoạt ở trong cái chùa nó như thế nào rồi.Chẳng hạn như bây giờ mấy con chưa ăn một bữa, mấy con dám đến đây không? Phải không, do đó mấy con cũng phải chuẩn bị cho mình ăn một bữa rồi mấy con mới dám chứ. Chứ lí nào mà chưa có dám mài cũng xin vô đó rồi ở, rồi khóc la là sao, cái chuyện đó hổng có rồi. Đó là những cái giới mà đặt ra những cái câu chuyện nó không có hợp.

66, giới khêu gợi việc tranh cãi.

 Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc. Lục quần đấu tranh, như pháp diệt rồi sao phát khởi lên. Lại nói như thế này: "Ngài không quán sát đúng, không thành quán sát. Không khéo giải thích, không thành giải thích. Không khéo chấm dứt, không thành chấm dứt. Khiến cho tăng chưa có tránh sự lại sanh, chưa có tránh sự lại không chấm dứt được". Tỳ kheo biết bạch Phật, Phật quở trách rồi kiết giới này.

Nghĩa là trong khi mà hợp các Tỳ kheo làm pháp yết ma để mà cho những vị mà người ta phát lồ sám hối hoặc là xử một cái tội nào đó ở trong chúng, thì trong khi đó xử xong rồi thì các ngài lại đem cái câu chuyện này ra để phanh phui ra nói, xử như vậy không đúng, là không này kia. Hồi đó sao không nói, cho nên bây giờ lại nói đổ thừa Phật là xét xử không thấu suốt này kia nọ. Hồi đó sao không cãi, để bây giờ lại cãi. Như vậy Phật cấm cái giới này là sau khi mà xét rồi thì cứ y như pháp mà chấp nhận cái lỗi của mình. Chứ không được mà tránh né, nói đổ lỗi cho người này người khác.Cũng như bây giờ thí dụ như, Thầy có một cái người sai ở đây. Thầy họp chúng đi, Thầy nói cái lỗi của người đó xong rồi. Sau đó đó, khi mà đuổi họ ra đi, cái bắt đầu họ đi lại cái chỗ khác họ nói Thầy như thế này thế khác, đủ thứ, Thầy không sáng suốt này kia. Họ không có tội vậy. Trong khi đó ở đây, có mặt mọi người, ai cũng chấp nhận đó là cái tội thật sự rồi. Nhưng cái khi mà cái vị đó được đuổi họ đi rồi, bắt đầu họ ra ngoài họ nói như thế nào? Có không? Cái giới này rất có chứ không phải không có đâu. Đúng là như vậy.Cho nên, hầu hết là những cái người mà bị đuổi ra là họ phải tìm cách họ nói để họ che đậy cái lỗi của họ. Chúng ta cũng không nên... Theo Thầy nghĩ đức Phật còn chế cái giới này chứ Thầy thì khỏi chế cái giới này đi. Tại sao? Tại vì mình đuổi người ta ra, người ta phải che đậy cái lỗi người ta chứ gì? Người ta phải nói đỡ, gạt chút để người ta sống với mọi người chứ. Hổng lẽ người ta đến cái chùa đó người ta xin mà người ta nói người ta xấu thì làm sao người ta ở được. Người ta phải nói người ta tốt, thì tức là người ta phải nói, ờ tại Thầy đó xét hổng rõ, tui đâu phải cái tội đó. Cho nên ổng xét như vậy ổng là cái người sáng suốt chút nào hết. Và một số chúng ở trong đó cũng đều là bợ đít ổng mà thôi.Các con hiểu không, ông ta ông nói vậy để cho cái ông Thầy ở cái chùa đó ông chấp nhận cho ổng ở thôi. Thì cái chuyện đó mình cần gì phải chế thêm cái giới này làm gì nữa. Bởi vì ổng đi ra khỏi mình rồi mình chế làm chi cho mắc công, phải không?. Ổng có sửa gì đâu nữa mà chế, phải không? Các con hiểu không. Cho nên chế cái giới này làm cái gì? Ăn thua gì mình phải chế.

Cho nên những cái chuyện làm như vậy là vô cái lý lắm. Bởi vì khi còn ở trong cái khuôn khổ của mình, thì mình khép cho người ta để người ta tu hành cho đạt được cái ly dục ly ác pháp. Còn ra khỏi ngoài khuôn khổ thì người ta chê khen mặc người ta. Ăn thua gì mình. Mình đúng là lúc nào mình cũng đúng. Mà mình sai thì lúc nào mình cũng sai. Còn nếu mình cứ sợ hãi như vậy, thì thử hỏi ông Phật ổng sợ hãi như vậy thì ổng làm Phật làm gì? Bởi vì ông Phật đã nói ở trong kinh Sa môn quả thì đức Phật cũng đã nói: một cái người mà khen đúng là mình chấp nhận. Nhưng một cái người mà chê đúng thì mình cũng chấp nhận, mà một cái người khen sai mình không có chấp nhận. Mà một cái người chê mình sai thì mình cũng không chấp nhận, nhưng mình không tranh cãi. Nghĩa là không lý luận tranh cãi, cái đó là sai, cái đó là đúng. Họ chê mặc họ, mình cứ giữ đúng của mình, mình đi. Cho nên mình chẳng bận tâm với cái chuyện khen chê của thiên hạ. Cho nên, khi mà họ ra rồi, họ muốn nói gì nói, kệ họ. Mình trong sạch là mình trong sạch. Mà mình không trong sạch bây giờ mình có che đậy gì mình cũng không trong sạch đâu. Cho nên mình chẳng sợ ai hết.

Đó là cái sự tu tập của mình. Vì vậy mà mình thấy được cái chỗ của mình, mình chẳng có ngại gì khen chê ai hết. Cho nên, mình đâu có ngại. người ta sai mà mình thấy người ta ở tu không được thì mình đuổi người ta đi. Thì người ta ra người ta có quyền người ta nói gì mình cũng được hết à. Mình đâu có cần cái chuyện tốt xấu đâu, cho nên mình hổng ngại mấy cái vấn đề đó. Còn mình ngại thì mình lạy họ ở lại với mình đi. Sợ họ nói thì mình lạy, mình cầu họ đi. Đó là mình phàm phu tục tử rồi, mình hổng phải là những cái người mà Thánh đâu. Cho nên mình ngại khen ngại chê, ngại sợ mất tiếng, mất tai này kia rồi rào rồi đón đồ này kia. Thì cái đó là cái ngại. Còn mình là một cái người chơn chánh hẳn hòi, mình ở trong chánh pháp mình không sợ ai khen chê hết. Nói sao mặc họ. Tôi vẫn sống hằng ngày. Ngày nào đó rồi cái sự sống của chúng tôi sẽ trả lời các ông chớ các ông khỏi cần nói đi. Ai muốn nói gì đó nói. Cho nên, mình là người tu chơn chánh mình hổng sợ.

67, giới cùng bạn gặp đồng đi một đường.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục quần Tỳ kheo từ Xá Vệ đến Tì xá li cùng khách buôn làm bạn đi bị trạm quan thuế bắt cùng với khách buôn áp giải về chỗ vua Ba Tư Nặc. Vua không nỡ giết Sa môn mà chỉ quở trách rồi thả ra. Phật vì vậy mà kiết giới: Này các Thầy Tỳ kheo, cùng với giặc làm bạn đồng đi, cho đến một thôn phạm Ba dật đề. Nếu biết mà cùng đi chưa được 10 dặm thì phạm tội Đột cát la. Nếu giao hẹn mà không đi cũng phạm tội Đột cát la, bị nạn không phạm.

Cái giới này, đức Phật cấm là mình không đi chung với bọn trộm cướp, hoặc là đi buôn lậu. Tại sao vậy? Tại vì mình ngồi lên xe đò đó, mấy cái người bán buôn lậu đó, họ dúi ở trong cái bị của mình một gói thuốc. Vì vậy mà công an nó xét ra, cái ông Thầy này đi bán thuốc, bán thuốc lậu. Thì do đó, Thầy nói thật sự, cái tội này thì mấy thằng công an nó nghĩ mình là ông thầy cho nên nó nói nặng nói nhẹ chút rồi thôi cho quý thầy đi. Nhưng mà mình quên, mình vị tình cái cô mà bán buôn thuốc lậu này là cô hay tìm mấy ông thầy lắm, là vì nói rằng mấy cái người công an mà xét xe đồ đó, về buôn lậu đó chắc không có xét mấy ông thầy.Cho nên mình là một cái người tu sĩ hẳn hòi á, khi lên xe mà mấy cô này mà đưa mình thuốc này kia nhờ cất dùm á. Nói không được, tôi là cái người đầu trọc mà cất cái kiểu này thì không có được. Cái đầu tui nó nắm không có được, nhưng mà nó nắm cái áo của tui dễ lắm. Cho nên, mấy cô có thương người tu thì mấy cô nhờ cái người khác chứ còn đừng có đưa tui.

Cho nên trước kia mà Thầy hay đi về Thường Chiếu mà thăm ở ngoài Chân Không đồ đó, Thầy hay có đi xe đò lắm. Cho nên Thầy biết cái tình trạng này lắm. Do vì vậy mà mấy cô bán thuốc lậu này mua thuốc thì cô cứ 5, 7 gói cô làm một cái vầy cô nhét ở trong cái bị, nhờ Thầy cất dùm cho con đi. Do đó con là phật tử, con ở chùa này chùa kia. Nói nghe coi ngọt lắm.Nói không được đâu, Thầy là người tu mà công an nó xét cái túi của Thầy, nó thấy cái gói thuốc này nó nói Thầy còn đi buôn lậu thì chắc chết Thầy rồi. Thôi con làm ơn cất giùm Thầy đi. Đó là những cái mình thành thật mình nói với người ta. Để không khéo, Thầy bây giờ Thầy thì cái tật Thầy nhát gan lắm, Thầy thấy có cái gì giả ở trong cái túi của Thầy, Thầy thấy công an Thầy xanh mặt, Thầy run nó thấy nó biết liền, nó lại nó bắt à. Rồi nó mất gói thuốc của con đi. Mình cứ nói vậy đi, cái nó sợ, nó nói ông Thầy này nhát gan, cái nó lấy lại, nó không dám.Chứ mình làm bộ dạn dạn đó, bao nhiêu cô cứ đưa đây tui giấu giùm cho thì... trời! nó mừng lắm, nó lấy hết mấy người kia nó dồn lại cho mình. Lúc bấy giờ đó, thật sự ra công an nó không có xét đâu. Thầy biết, công an nó không xét mấy ông Thầy đâu. Nhưng mà mình làm như vậy là mình có cái sai trong cái giới luật của mình rồi. Không có tốt. Cho nên, ở đây cái giới này là nhằm cái mục đích là đừng có nối giáo cho cái người mà làm cái chuyện trật, chuyện không đúng. Làm cái gì cho đúng pháp luật. Làm không đúng pháp luật thì không nên làm.

Cho nên hầu như có nhiều Thầy đi buôn lậu nữa chứ không phải không đâu. Thầy ở trên cái đường Gò Dầu này mà, mấy ông thầy ở Gò Dầu mà mấy ông đi buôn lậu mà các con biết mấy ông làm chiếc xe honda mà mấy ông nhét ở trong quá trời trong đó mà mấy ông cỡi đi. Ta nói mói mấy ông thầy người ta đâu có bắt. Chừng mà thấy ổng đi hoài rồi sanh nghi. Nghi cái chừng người ta đón cái gặp liền đâu có làm sao mà trật được. Bởi vì, công an nó để ý lắm. Đi một lần, hai lần thì nó thấy ông thầy đi một lần, hai lần là vì có chuyện thôi. Nhưng mà, ngày nào ông có lời ông ăn được rồi bắt đầu ngày nào ông cũng đi hết làm sao người ta hổng nghi. Cái chuyện buôn lậu mà ngày nào hổng có đi, mình kiếm lời được một triệu, hai triệu thì nó ham quá rồi cái ngày nào cũng xách xe đi. Đi riết rồi công an nó biết mặt thì nó phải xét nó bắt thôi. Cho nên, từng đó mới đổ bể ra mấy thầy chùa mới mang cái tiếng đó, rất là tệ. Cho nên, ở đây chúng ta là người tu sĩ chúng ta phải bỏ hết cái này để mà ly dục, ly ác pháp.

Cho nên, ở đây cái giới này cấm là chúng ta đi cùng đường mà vẫn bị người ta kết tội mình là đồng lõa với bọn cướp.Mà sự thật ra nếu mà một vị tu sĩ như chúng ta làm sao đi với bọn cướp được. Kiểu  mà chúng ta móc nối với nó mà đi với nhau đó thì thời nay nó mới có vậy. Cho nên mới đành chịu chung cái số phận. Do đó mà đức Phật chế cái giới này ra là cũng có cái điều kiện gì với cái bọn này. Tại vì cái bọn này nó lợi dụng cũng mấy cái ông thầy này, lợi dụng như thế nào? Theo Thầy biết á là nhà vua thì rất kính trọng mấy cái ông thầy này. Cho nên, do vì vậy đó, nó có thể cướp bóc của người ta, do nó làm những cái tội vậy mà nó nương vào cái bóng của mấy ông thầy này để nó đi qua được cái cửa, cửa ải, cửa thành gì đây. Để nó qua cái chỗ này. Nhưng mà không ngờ lính nó canh gác quá ngặt. Nó lượm luôn mấy ông thầy này luôn. Nó dẫn vô nhà vua. Chừng xét ra, đúng là mấy thằng này ăn cướp giết người nè. Do đó là mấy ông thầy coi như là bị đồng lõa với mấy thằng ăn cướp này. Nó mới kết tội như vậy. Nhưng mà nhà vua vì thương những người tu hành cho nên mới thả mấy ông này ra.Nhưng mà đức Phật cũng phải là do cái chỗ này mà chế giới để mà tránh, không có được đi với những cái người mà phạm pháp như vậy.

Thì Thầy mới đem cái câu chuyện ra những người mà buôn lậu như vậy á là những người phạm pháp luật. Nhà nước cấm buôn lậu, vì buôn lậu nó làm cho kinh tế của đất nước chúng ta bị lũng đoạn đi. Nó làm cho dân chúng ta bị nghèo đói đi. Nó có lợi ích cho ngoại quốc chứ nó không phải là lợi ích cho toàn dân chúng ta. Nó chỉ lợi ích cho một số người thất nghiệp mà đi buôn lậu thôi.Họ chỉ kiếm ăn ở trong cái chỗ đi của họ thôi, chứ không có nghĩ bao nhiêu người ở trong đất nước của chúng ta đang thất nghiệp. Cho nên, họ không thấy được cái lợi lớn của đất nước mà họ thấy cái lợi nhỏ của họ mà họ hại biết bao nhiêu người. Thay vì họ đừng có làm cái nghề đó, họ đi trồng lúa, họ trồng khoai, trồng bắp họ sống. Mà bao nhiêu người mà người ta đứng ở trong nhà máy, cả trăm cả ngàn người, người ta sẽ sống được ở trong cái nhà máy sản xuất về thuốc. Còn bây giờ họ bán thuốc như vậy là cái nhà máy mà sản xuất thuốc đó, nó chỉ đóng cửa mà thôi. Bao nhiêu người, người ta chết, chết đói. Còn họ, chỉ có mình họ mà thôi.

Đó thì chúng ta phải hiểu được cái gì mà lợi ích cho nhiều người mà cái gì không lợi ích cho nhiều người. Và một ông thầy mà ngồi trên xe mà chấp nhận để mà nhận đồ buôn lậu như vậy mà ngồi an nhiên được, mà qua mặt cảnh sát được. Thầy thấy sao mà lương tâm mấy ông Thầy đó sao mà không cắn dứt được. Không hiểu được một cái gì của lợi ích cho đất nước của mình hết. Làm những cái chuyện đó quá là tệ. Đó vì vậy mà Phật chế cái này Thầy thấy ra là rất đúng.

68, giới không bỏ ác kiến

Vì sao Phật kiết giới này, Phật cũng ở tại vườn Cấp Cô Độc. Tỳ kheo A-le-tra sanh ác kiến tự nói: Tôi biết Thế Tôn nói pháp diệt phạm dâm dục, không phải chướng đạo, đạo pháp. Các thầy Tỳ kheo can không bỏ. Bạch Phật, Phật quở trách rồi cho phép chúng tăng vì Tỳ kheo A-le-tra bạch tứ Yết ma, tác pháp tha giáng cho bỏ việc ấy rồi Ngài kiết giới này.

Nghĩa là cái câu chuyện này, Thầy có đọc ở trong kinh thì nó có khác, nó không phải giống như vậy đâu.Mấy ông này thì viết ra như thế này thì nó rất là sai. Là vì cái ông Tỳ kheo này đó, ổng nói Phật dạy là các cái pháp mà do cái tâm ham muốn của mình nó đem đến cái khổ cho con người. Ông nói, toàn là những cái pháp Phật nói nó không có đúng, là tất cả những cái dục nó không có đem đến những cái khổ mà nó đem đến cái lạc, chớ không phải. Ông này mà nói về cái dâm dục mà ở đây nó đem ra cái dâm dục nói. Đó thì các con thấy ở trong kinh, may là có bài kinh nó đọc rõ ràng mà. Thế mà mấy ông dám đặt như thế này đây. Thì Thầy nghĩ rằng mấy ông có đủ cách thức mà để mà sửa lại những cái bài kinh mà chơn chánh của Phật như vậy. Cho nên, trong cái bài đó, hôm nào Thầy sẽ đọc lại cái bài đó thì các con sẽ thấy hết toàn bộ cái câu chuyện để mà đức Phật chỉnh lại cho cái vị Tỳ kheo đó, để mà hiểu biết cái sai, cái vô minh của ông ta. Đức Phật nói các dục là đem đến cho cái sự khổ của chúng ta, trong đó đâu phải là có dâm dục không, là ham muốn cái này, cái nọ kia toàn bộ hết mà. Mà ông này ở đây lại nói là dâm dục không à. Ở đây rõ ràng là: “Tôi biết Thế Tôn nói pháp, việc phạm dâm dục chẳng phải là chướng đạo”. Đó, nói như vậy. Nghĩa là dâm dục không có chướng đạo. Cũng như có ông Thầy nói là có vợ mà được phép có vợ vậy thôi. Thì ông ta muốn phá cái giới như vậy thì ông ta nói như vậy.Ở đây, ông này cũng muốn phá như vậy, chứ không phải cái lý ở trong cái bài kinh đó, thì cái ông này muốn nói rằng: “Đức Phật nói: tất cả các cái pháp mà do cái tâm ham muốn của chúng ta đó nó mới sanh ra chúng ta đau khổ”. Vậy thì chúng ta phải dứt trừ hết các cái pháp đó thì chúng ta mới hết đau khổ. Do đó, thì nó mới có cái lý chỗ đó mà đức Phật mới dạy cho ông ta.

Đó thì vậy Phật mới chế cái giới này, đó gọi là cái ác kiến, thì ở trong này nó cũng là cái ác kiến, cho nên chế cái giới này để chúng ta đừng có chấp vào cái ác kiến. Người nào mà bị cái ác kiến, cũng như bây giờ có người nói thế này: Trong tôi thì có Phật tánh, Cho nên dâm dục cũng có Phật tánh, cho nên mặc tình dâm dục mà có Phật tánh thì đâu có làm sao mất Phật tánh của tôi được. Do đó là cái ác kiến.Những cái đó là những cái ác kiến, cho nên vì vậy mà chế cái giới này á, phải bỏ cái ác kiến. Không được chấp nhận ác kiến.

Giới thứ 69, giới làm bè đảng với người ác kiến không bỏ.

Vì sao Phật chế giới này? Cũng khi Phật ở vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ có tăng hai gián ác kiến của A-lê-tra kiên trì không bỏ, Phật khiến tăng nêu lên tội không bỏ ác kiến bạch tứ yết ma trao tội. Lúc bấy giờ Lục quần Tỳ kheo lại cung cấp các nhu yếu, cộng đồng pháp sư, ngủ, nghỉ nói năng. Các Tỳ kheo bạch Phật. Phật nhân giới này mà kiết.

Nghĩa là họ không chịu bỏ ác kiến, mà còn kết ra một cái bầy mà nhận đó là ác kiến.Cũng như bây giờ người ta nói, tôi có Phật tánh ở trong này nè. Bây giờ uống rượu cũng không tội nè, sát sanh cũng không tội nè, giết chúng sanh cũng không tội nè, dâm dục cũng không tội nè. Vì Phật không có bao giờ... Phật thì thanh tịnh, cho nên mặc tình chúng ta cứ làm, ăn, nhậu gì đủ thứ  hết cũng không có tội gì hết. Do vì vậy đó mà phóng sanh thì rơi xuống địa ngục mà sát sanh thì được lên thiên đàng. Họ lý luận như vậy á.Đó là những cái ác kiến. Các con hiểu điều đó không?  Cho nên ở đây các con nghe những cái câu mà người ta nói không. Phóng sanh mà đọa địa ngục còn sát sanh thì được lên thiên đàng, phải không. Do những cái ác kiến đó đó mà do đó Phật mới chế cái giới này ra mà họ là thành một cái bè đảng, ai cũng nói câu đó hết, ai cũng chấp nhận câu đó hết, có một số người đông như vậy mà nhầm một cái ác kiến đó, ai cũng chấp cho cái ác kiến đó như vậy đó. Thì đức Phật mới chế ra, nếu một bè đảng mà nhầm một cái ác kiến như vậy đó, đều là phạm vào cái giới đọa địa ngục là giới thứ 69 này.

70, giới nuôi sống Sadi bị đuổi.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Bạt Nan Đà có hai đệ tử Sa di sanh ác kiến như trên. Phật khiến tăng để Sadi ấy trước chúng tăng nơi mắt thấy tai nghe, vì đó mà tác pháp tha gián, bạch tứ yết ma mà Sadi cố không bỏ, bèn khiến tăng để Sadi đứng chỗ như trước tác pháp yết ma diệt tẫn. Khi ấy Lục quần biết tăng diệt tẫn mà dụ đem về nuôi, cùng ngủ. Các Tỳ kheo bạch Phật, Phật nhân đó mà kiết giới này.

Nghĩa là có một vị Sadi bị đuổi, thì trong lúc đó đem cái giới mà của vị Sadi này bị tội đuổi đi thì trong khi chú Sadi bị đuổi, bên Lục quần Tỳ kheo này mới đem cái chú này về nuôi ở trong cái thất của mình. Do đó, nhân cái sự mà nuôi như vậy, cái người bị đuổi mà nuôi như vậy đó thì đức Phật không có chấp nhận. Như bây giờ thí dụ như các con nè, có một cái chùa riêng nè, rồi bây giờ như Hải Tâm nè, con nè, Từ Nguyện nè, rồi mỗi đứa đều có một cái chùa nè. Rồi trong khi đó đó, ở Hải Tâm con có một cái chú phạm tội, con đuổi đi. Do đó, Từ Nguyện mới thấy thương cái chú này thôi để đem về nuôi thì Phật mới chế cái giới này ra. Không có được nuôi mà cái chú mà phạm tội như vậy.Cho nên, cái chùa này đuổi thì chùa kia cũng phải đuổi à. Còn đầu này, cái chùa này đuổi á thì chùa kia nhận là thế nào.

Thầy thấy quá rõ à hổng có chỗ nào mà còn sai hết. Cái đó là một cái làm cho tăng đoàn nó càng sa đọa đó. Phải cái chùa này mà công nhận đuổi cái chú đó rồi, thì cái chú đó mà đến cái chùa khác là phải bị đuổi luôn chứ không có bao giờ chấp nhận. Thì cái đó mới là cái xây dựng Phật giáo đó. Còn cái đứa này ở cái chùa này, đứa kia ở chùa kia mà cái đệ tử chú này phạm cái tội này cái đứa này đuổi đi thì cái đứa kia đón nhận vô.Thà là mình không có chúng chứ mình đừng có nhận ba cái chú mà phá giới đó. Đó là một cái điều kiện để xây dựng Phật pháp.

Ở đây sẵn cái giới này Thầy nói, sau này các con mà có điều kiện mà các con lãnh chúng á. Các con sẽ hoàn toàn là phải nghiêm nghị, nghiêm chỉnh cái đó. Hễ ở đây đuổi thì ở kia đến xin không bao giờ được. Cho nó ra đời nó ở ngoài đời đi cho nó biết mùi vị của đời. Để rồi nó ở trong đạo mà nó phá hoại đạo thì không được.Cho nên những cái này đừng có thấy nó nhỏ nhẹ, nó khóc lóc mà thương nó. Hổng có thương, chúng ta thương là phải thương đúng. Chứ đừng có để cái tâm tình cảm của chúng ta nhỏ mọn mà chúng ta thương như vậy không được. Đừng nghĩ rằng chúng ta sẽ… nếu mà nó giảng được thì cái vị Thầy ngay từ đó đã uốn nắn được nó rồi. Nó đã đến nó học với người này thì người này người ta phải ráng uốn nắn nó để cho nó tu hành nó đến giải thoát chứ. Mà nó đã không biết được, nó không nghe được thì thôi thì đuổi nó, thì đứa kia làm sao mà uốn nắn được. Mai mốt đi ra rồi nó cũng nói này nói kia nữa. Cho nên, tốt hơn là đừng nhận.

 

Giới nghịch lời can gián lại nạp vấn Tỳ kheo.

Vì sao Phật kiết giới này? khi Phật ở tại nước Câu Diệm Dy, trong vườn Cù Xư La  Xiển Đà, Tỳ kheo phạm học xứ này Phật nhân đó mà kiết giới.

Tôi nay không học điều giới này, tức là lời nói kháng cự lại sự can gián, nói rõ phạm Ba dật đề, nói không rõ là phạm ác tác. Nghĩa là khi mà mình bị phạm một cái giới đó, mình tìm cái cách mình lý luận, nói tui chưa có học giới này cho nên tui phạm tui chưa có lỗi. Mấy ông, mấy vị không có phạm, tui chưa có học cho nên tui coi như là tui chưa có phạm.Thì như vậy là lấy cái lý do mình không học để rồi mình chối cái tội của mình. Chứ khi mà người ta truyền cái giới rồi là lần lượt mình phải học. Nhưng dù học chưa tới thì người ta nhắc cho mình biết và mình sám hối cái đó để rồi lần lượt mình sửa chứ chưa phải là người ta đuổi mình. Thế mà nói, tui chưa học, tui chưa có tội. Thì cái điều đó là cái điều tranh cãi, cái điều đó kêu là không có chịu nghe lời dạy, thì ngay đó là chúng ta đã biết cái người học trò này không có thể để ở trong Tu viện này được. Họ có nhiều cái lý lẽ để họ phá cái tội lỗi của họ.Cho nên, ở đây chúng ta phải thấy cái sự sám hối  là cái người đó phải thấy: ờ bây giờ mình chưa học nhưng vì mình lỗi cái giới này rồi. Vậy thì nhân cái chỗ này các thầy mà chỉ dạy cho mình thì mình xin nhận cái lỗi đó để từ đây về sau mình không phạm thì cái đứa đó nó dễ dạy, dễ bảo sau này nó trở thành cái người tốt được. Còn nếu mà nó cứ cãi lý mà như vậy á thì thôi thôi, chắc chắn là cho cái đứa bé này nó về với cha mẹ đi, hoặc là cái vị thầy đó đi chỗ khác đi. Chứ đừng có ở đây mà làm động mình.

Giới 72, giới khinh mắng người thuyết giới.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, chúng Tỳ kheo tập hợp một chỗ tụng chánh pháp Tỳ ni, (tụng chánh pháp Tỳ ni tức là tụng giới đó). Lục quần Tỳ kheo sợ chúng tụng luật không lợi, tụng rồi họ sẽ kể tội của mình bèn nói với các Tỳ kheo rằng: “Trưởng lão tụng các giới vụn vặt này làm gì, nếu muốn tụng thì chỉ nên tụng 4 việc và 13 việc. Ngoài ra không nên tụng hết vì tụng khiến cho người ta hoài nghi, ưu não”. Các Tỳ kheo biết họ muốn tiêu diệt chánh pháp nên liền bạch với Phật. Phật quở trách nhân đó mà kiết giới này.

Nghĩa là Lục quần Tỳ kheo thì khi nghe bảo tụng giới thì bảo tụng 4 giới đầu và 13 giới tăng tàng thôi. 4 giới Ba la di với 13 giới tăng tàng thôi còn bao nhiêu đừng có tụng. Đó, các vị này đều là  phạm những cái giới này nhiều quá rồi, nên tụng ra thì sợ người ta sẽ chỉ cái tội cho mình. Cho nên bảo cái vị Trưởng lão thôi đùng tụng, tụng ít ít thôi. Nhân cái dịp mà ngăn cản không cho các vị Tỳ kheo tụng đó thì đức Phật mới chế cái giới này để cho các vị Tỳ kheo phải thường xuyên tụng cái giới bổn. Người nào mà không tụng thì đương nhiên là bị phạm giới.

73. Giới đối rằng mới biết pháp

Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức Phật vẫn ở tại vườn Cấp Cô Độc. Trong Lục quần có một Tỳ kheo tự biết mình phạm tội nên khi thuyết giới sợ thanh tịnh, sợ Tỳ kheo cử tội bèn đến trước thanh tịnh Tỳ kheo nói: “Tôi nay mới biết pháp này, ghép từ giới kinh nửa tháng tụng một lần”. Các Tỳ kheo bạch Phật, Phật nhân đó mà kiết giới.

Nghĩa là cái vị Tỳ kheo đó cũng tìm cách chối từ là không có tội vì mình chưa có biết cái giới này là từ ở trong giới kinh mới ghép ra chứ chưa có phải là cái giới bổn này có cái giới này. Nghĩa là cái vị Tỳ kheo đó phạm cái tội nhằm vào cái giới đó ở trong cái bổn này. Nhưng mà cái giới này, do các vị mới chép ra chứ chưa phải là trong cái bổn kinh này có. Cái lối mà thêm thắt giới đó thì các Thầy Tỳ kheo trong cái thời đó lúc bấy giờ mà chế ra cái giới mới thì trái lại ở trong cái kinh giới nó chưa có cho nên vị Tỳ kheo này mới phạm vào cái lỗi đó, thì bây giờ nói: các vị mới có chép giới này ra đây, chứ còn cái giới này trước kia cái bộ kinh giới này nó chưa có. Tại vì quý vị lấy ở trong giới kinh mà chép ra. Đây rõ ràng là nói cho chúng ta biết là các vị Tỳ kheo thời xưa hay làm cái chuyện này như vậy. Cho nên cái bài này nó mới lộ tẩy các vị ra, để cho chúng ta thấy được cái chỗ mà, do cái chỗ mà chối giới ra mà không ngờ đó là cái hành động làm của quý vị rồi quý vị mới viết ra như vậy để cho chúng ta thấy rằng cái giới này mới lấy kinh mà rút ra mà thôi.

74. Giới chống trái yết ma

Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật ở tại Kì xá Quật đạo Bà la ma tử được chúng sai làm miễn tăng, phân phối tọa cụ và ẩm thực cho tăng vì lo việc cho tăng và cho tháp nên khi đàn việc thiết trai hội bố thí không rảnh đến dự. Do vậy y phục hư rách, thời gian khác có thí chủ cúng cho tăng một cái y quý giá. Tăng Bạch Nghị yết ma trao y ấy cho Malla Tử. Lục quần cũng có mặt ở đây. Sau khi đã trao y rồi, Lục quần tỳ kheo dư luận nói rằng: tăng đã tùy chỗ thân hậu mà đem y của chúng tăng cho họ. Các thầy Tỳ kheo bạch Phật, Phật quở trách Lục quần Tỳ kheo rồi nhân đó mà kiết giới này.

Nghĩa là cái giới mà chống trái yết ma, khi mà người ta làm yết ma trao tăng cho người khác rồi. Thì lục quần Tỳ kheo muốn cái y đó rồi kiếm cớ mà nói cái người mà trao y đó vì thân tình, chỗ này chỗ khác mà không có cho họ. Do đó tìm cách chống trái lại cái pháp yết ma của chư tăng vừa rồi. Chế ra cái giới này người nào mà phạm cái tội đó thì tội đọa.

Giới không gợi dục.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc. Chúng Tỳ kheo tập họp tại chỗ bàn luận pháp Tỳ ni. Lục quần Tỳ kheo vì họ tác yết ma liền từ chỗ ngồi đứng dậy, Tăng bảo ở lại họ không ở, bạch Phật. Phật kiết giới, nếu Tỳ kheo nào mà chúng tăng đoán sự chưa xong, đứng dậy bỏ đi phạm Ba dật đề. Bây giờ có Tỳ kheo bận lo việc tăng, việc pháp hay chăm sóc Tỳ kheo bệnh đều sinh nghi phạm tội. Phật dạy cho phép gởi dục nên ngài kiết lại giới này.

Đó là có những cái trường hợp phải kiết lại. Nhưng mà cái giới này thì Thầy thấy cũng tốt chứ không phải, bởi vì theo pháp yết ma thì làm cái giới này rất tốt, không có gì mà sai trái.

Giới gởi dục sau ăn năn.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật còn ở tại vườn Cấp Cô Độc, có người trong Lục quần Tỳ kheo sư phạm, sợ chúng tăng cử tội riêng, 6 người lúc nào cũng đi với nhau, không rời nhau khiến cho các Tỳ kheo không thể tác yết ma được. Sau đó các Tỳ kheo thấy Lục quần may y, liền sai người kêu đến. Lục quần trả lời: chúng tôi bận may y không thể đến được. Tăng nói: “Nếu không thể đến thì một, hai vị có thể mang dục đến”. Họ liền sai một Tỳ kheo nhận dục đến. Lúc bấy giờ chúng Tỳ kheo liền cùng một vị Tỳ kheo này tác pháp yết ma. Tỳ kheo ấy trở về nói với Lục quần, Lục quần Tỳ kheo bèn hối hận nói: “Các pháp yết ma đó chẳng phải là yết ma, yết ma không thành tôi gửi dục việc kia, chứ không phải gửi dục việc này”. Các Tỳ kheo bạch Phật, Phật nhân đó mà kiết giới.

Đó cũng là cái giới mà phá các pháp yết ma. Không có chấp nhận, các vị Lục quần này khéo léo phá các pháp yết ma ở trong giới luật của Phật.

Giới nghe trộm, tranh cãi, tìm nói người khác.

Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật vẫn còn ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục quần Tỳ kheo, các Tỳ kheo đấu tranh với nhau rồi đem đến người kia nói khiến cho tăng chưa có sự tranh, đã có tranh sự thì không chấm dứt được. Tỳ kheo bạch Phật, nhân đó mà Phật kiết giới này.

Giới nghe trộm nghĩa là mình lén mình nghe, mình nghe các giới để rồi bắt đầu mình ra mình nói cho người khác biết về cái tội như vậy, như vậy để rồi nó có sự tranh cãi nhau ở trong chúng tăng, không có sự hòa hợp nhau. Do đó mà Phật kiết giới này để cho hòa giải, để không có đem cái chuyện trộm nghe rồi ra học người này người kia, để làm cho động chúng, để làm cho bất an ở trong cái tăng đoàn. Cấm những người nghe trộm mà nói này nói kia.

Giới 78. giới chặn đánh Tỳ kheo.

Vì sao Phật kiết giới này? Nguyên do khi Phật còn ở tại vườn Cấp Cô Độc, lục quần phạm điều này. Nhân đó mà Phật kiết giới này đánh bằng đá (tức là lấy đá ném đó), cây, tay đều mắc tội đọa. Bằng phất trần phạm tội Đột cát la.

Nghĩa là đánh bằng tay bằng gậy bằng gộc á thì bị tội đọa, còn bằng phất trần tức là cây chổi nhẹ nhẹ đó thì Đột cát la. Nghĩa là nói chung là tất cả những tu sĩ không được đánh lộn nhau. Mà hễ đánh lộn với nhau thì coi như phạm tội đọa. Tội Đột cát la.

Giới giận tát tai Tỳ kheo.

Vì sao Phật kiết giới này? Duyên do lúc Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc. Lục quần Tỳ kheo dùng tay dọa thập thất quần Tỳ kheo. Nhân đó Phật kiết giới này.

Giới này tội nhẹ, nặng đồng như giới trước. Nếu người nào mà muốn đánh, đưa tay ngăn lại, hay đụng nhầm thì không tội. Nghĩa là cái giới mà dùng tay đánh hay dọa người khác thì đều là tội đọa hết.

80. giới không căn cứ hủy báng, phạm tội hữu dư.

Vì sao Phật kiết giới này?  Nguyên do đồng trên Lục quần vu khống Thất thập quần. Phật nhân đó kiết giới này, không căn cứ vu khống nói rõ, phạm tội đọa. Nói không rõ mắc tội ác tác. Nếu căn cứ nói đúng sự thật, muốn khiến cho họ hối cãi thì không phạm.

Cái giới này đặt ra để cho người ta không có vu khống nhau, nó không có phạm tội. Còn người nào mà vu khống thì mới phạm tội đọa.

81. giới quá bước vào cửa cung vua.

Vì sao Phật kiết giới này?  Khi đức Phật ở tại nước Xá Vệ, bà Mạt Lợi phu nhân nghe Phật thuyết pháp ngang nơi tòa ngồi đặng con mắt nghe con mắt pháp sạch, trở về trong cung khuyên vua tin ưa. Vua tin ưa rồi bèn cho phép các Tỳ kheo vào trong cung tự do, Ca Lưu Đà Di khất thực rồi vào trong cung. Lúc nhà vua cùng phu nhân ban ngày đang nằm ngủ. Từ xa phu nhân nhìn thấy Ca Lưu Đà đến liền đứng dậy mặc y. Vì y vương cái ghế nên rớt xuống đất, lộ hình xấu hổ, nên bà ngồi xổm liền. Ca Lưu về chùa nói với các Tỳ kheo khác. Tỳ kheo bạch Phật nhân đó Đức Phật kiết giới.

Cho nên nhà vua rộng rãi cho các vị Tỳ kheo vào trong cung vua chơi. Thế mà cái ông này ông muốn đi hồi nào ông đi. Trưa ông cũng đi, chiều ông cũng đi, tối ông cũng đi. Cho nên, tất cả những cái này nó làm sai cái luật của người tu. Người tu sĩ có thời giờ đâu mà đi chơi như vậy. Cho nên ở đây thiệt ra là những cái nó quá đáng. Cho nên chế những cái giới này nó cũng rất là quá đáng. Không có lý mà tu sĩ mà đi như vậy được hết. Thế mà cũng phải có những sự kiện để chế giới này ra, thì Thầy thấy nó bộ hết chỗ rồi, không có chỗ nữa mà đặt giới kì cục.

Giới nắm cằm của báo.

Vì sao Phật kiết giới này?  Khi Phật ở tại nước Xá Vệ, có cư sĩ đệ tử ngoại đạo từ nước Câu Tát La, trên đường đi dừng nghỉ, quên cái đãi đựng một ngàn lượng vàng. Các Tỳ kheo đi sau lượm được, đợi chủ đến giao lại. Khi giao lại người chủ nói thiếu, đến kiện với vua Ba Tư Nặc. Vua thẩm xét biết người ấy dối trá liền thu gia tài và vàng, nhập vào cửa nhà quan. Đức Phật nhân đó kiết giới rằng: Nếu Tỳ kheo cầm nắm vật báu, tự mình cầm hay dạy người khác cầm phạm tội đọa.Bấy giờ Tỳ kheo (nghe không rõ tên riêng) đi xá hội, ghé vào Kỳ Hoàn lễ Phật, bỏ đồ trang sức ngoài cửa. Khi trở về bỏ quên, không ai dám lấy của. Phật dạy cho phép được cất...

Bởi vì khi mà chúng ta có trau dồi thân hành, khẩu hành, ý hành của chúng ta trong thiện pháp, trong Thánh pháp thì nó mới ở trong cái nhân quả thiện. Nếu mà chúng ta không chịu trau dồi nó trong Thánh pháp, trong thiện pháp của chư Phật á thì nó hoàn toàn sẽ ở trong ác pháp. Nó hoàn toàn sẽ ở trong ác pháp. Tại sao chúng ta nói có lúc chúng ta cũng thiện, nhưng nhiều khi chúng ta làm thiện mà chúng ta không biết thiện, tức là nó cũng sẽ ở trong ác pháp. Bởi vì không biết thiện, cho nên do đó nó vô tình mà chúng ta làm vui lòng người … như bây giờ chúng ta không biết cái pháp đó là thiện nhưng mà chúng ta đến chúng ta an ủi người đó, hoặc là chúng ta thấy người đó chúng ta cho họ bát cơm, nhưng mà chúng ta chưa biết cái hành động của chúng ta làm như vậy là thiện vì vậy nó sẽ ở trong ác pháp.Khi đó chúng ta làm như vậy rồi chứ mai mốt người đó có vô tình gì đó. Chúng ta sẽ kể ơn, chúng ta nói, trong lúc đói gần chết tao cho mày bây giờ không biết ơn biết nghĩa gì thì từ cái mà làm thiện của chúng ta nó trở thành cái ác pháp chứ không phải là thiện pháp. Còn khi mà chúng ta biết chúng ta làm một cái điều thiện rồi, thì chắc chắn là chúng ta sẽ không nói lời nói đó đâu.

Cho nên là ở đây Thầy nói, khi làm một cái điều gì chúng ta phải biết cái điều đó thiện hay là ác. Đó là một cái điều tiên quyết của đạo Phật là phải rõ ràng. Chứ không thể làm một cách mù mờ mà không hiểu biết. Phải thông suốt được cái điều này, chứ không thể nào là không thông suốt. Muốn làm được những cái điều thiện hàng ngày như vậy đó, thì chúng ta phải như cái lý tác ý. Nhắc nhở mình thường xuyên mình mới nhớ. Chứ không khéo mình không thấm được cái lý đó, vì vậy mình chưa hẳn đã là biết ác, biết thiện.

Thí dụ như Thập thiện, họ dạy như vậy chúng ta hiểu 10 cái điều đó là 10 cái điều lành và ngược lại là 10 điều ác. Nhưng hàng ngày chúng ta vẫn làm ác à.Tại vì chúng ta chưa thấm được cái lý Thập thiện nên hở ra là chúng ta có thể làm ác được. Miệng chúng ta thì 4 cái điều kiện thiện như vậy mà thế mà mở miệng ra thì chúng ta có thể vọng ngữ hoặc là chúng ta có thể nói lời ác hoặc là chúng ta có thể chửi mắng người ta được. Đó là những cái điều mà chúng ta đã học nhưng chúng ta vẫn biết nó là thiện, biết nó là ác nhưng tới lúc đó rồi thì chúng ta chẳng biết thiện ác gì nữa. Cứ mặc tình mà thỏa mãn cái lòng ham muốn của mình, cái lòng sân hận của mình mà thả cửa mà xổ ra những cái điều kiện ác đó chứ không phải là thiện nữa.

Bởi vậy hàng ngày chúng ta phải như cái lý mà tác cái ý ra, trạch pháp ra những câu để nó xứng hợp với 10 cái thiện pháp của bậc Thánh và xa lìa, đoạn dứt 10 cái pháp ác của bậc Thánh, để rồi chúng ta diệt sạch các pháp ác của thế gian, mà các bậc Thánh đã dạy.

Do công phu trau dồi, thân hành thô lậu được an tịnh, khẩu hành thô lậu được an tịnh, ý hành thô lậu được an tịnh. Và an lạc khởi lên, hơn cả an lạc và hoan hỷ trước kia. Đó là con đường tắt thứ hai đưa đến an lạc của đạo Phật.

Ở đây là chúng ta trau dồi các thiện pháp. Nghĩa là chúng ta trau dồi bằng cái gì, bằng pháp hướng, bằng Như lý tác ý, tức là pháp ám thị hay hoặc là lối dẫn tâm của chúng ta vào thiện pháp. Và lối dẫn tâm của chúng ta để đoạn dứt các ác pháp. Có như vậy thì chúng ta hàng ngày thấm nhuần được, chứng được cái đạo lý của thiện, của đạo. Thì từ đó chúng ta mới thấy được cái thân hành, khẩu hành, ý hành của chúng ta luôn luôn nó hoàn toàn ở trong các thiện pháp không còn ở trong ác pháp nữa.

Đó là cách thức trau dồi thứ hai mà người tu sĩ đạo phật...thứ nhât là chúng ta cắt ly, xa lìa không có thân cận cái dục lạc, không có thân cận cái ác pháp. Cái thứ hai thì chúng ta trau dồi thân hành, khẩu hành, ý hành của chúng ta ở trong thiện pháp tức là ở trong Thập thiện.

Đến cái phần thứ ba, thì cái phần này rất là quan trọng. Đây là cái phần mà chúng ta được giải thoát hoàn toàn. (Mặt B)Ở đời người ta không hiểu cái điều này, cho nên người ta hay lầm lạc. Cũng như vừa rồi Thầy có nói là khi chúng ta làm một điều thiện mà chúng ta không biết, cho nên sau khi có một sự gì mà làm chúng ta hờn giận thì ngay cái điều thiện đó chúng ta sẽ đổ vỡ như là đổ xuống sông, chúng ta không cần biết gì nữa hết. Chỉ biết thỏa mãn theo ý muốn của mình. Người ta làm sai là mình cứ đổ xuống hết mà mình không thấy cái điều đó là không tốt. Đó là những cái mà chúng ta không hiểu đó.

Cho nên, sau một cái thời gian nghe được Thánh pháp Như lý tác ý, chứng đắc Chánh pháp và Tùy pháp, bấy giờ mới biết như thật.Nghĩa là, lúc bấy giờ chúng ta tu tập cái giai đoạn thứ ba này, sau một thời gian tu tập, chúng ta mới chứng được cái lý đạo. Chúng ta mới chứng được cái lý giải thoát. Do đó bây giờ chúng ta mới thấy được cái hành động của chúng ta hàng ngày. Làm cái gì, đây là thiện, chúng ta biết đây là thiện. Mà đây là không thiện, chúng ta biết đây là không thiện. Đây là có tội, chúng ta biết đây là có tội mà đây là không tội, chúng ta biết đây là không tội. Nó sáng suốt từng phút giây như vậy, tức là chúng ta đã có một sức tỉnh thức rất cao.Làm một cái hành động gì, nói ra một cái gì, nghĩ một cái gì chúng ta biết cái đó là thiện hay là không thiện chúng ta biết liền. Như vậy là chúng ta đã chứng được cái lý nó rất rõ ràng. Cho nên chúng ta không bao giờ mà bị các pháp ác nó lôi chúng ta. Không bao giờ bị dục lạc lôi chúng ta. Đó, đây là chúng ta cần phải hiểu biết cái sự tu tập nó phải trau dồi hàng ngày. Cái giai đoạn ở thứ ba này là cái kết quả sự trau dồi, chứng được cái lý đạo. Người ta gọi là chứng ngộ.

Nhờ Chánh pháp và Tùy pháp biết như vậy thấy như vậy, vô minh mới được diệt trừ, minh được sanh khởi. Nhờ thế an lạc khởi lên, hỷ khởi lên. Đó là con đường tắt thứ ba hướng đến an lạc được đức Phật đã chỉ dạy.

Như vậy là trong ba cái lộ mà tắt này thì chúng ta biết đầu tiên tóm lại chúng ta biết cái lộ thứ nhất mà chúng ta tu tập thì chúng ta cần phải xa lìa, cần phải tránh né. Không phải là tiếp mặt với cái dục lạc được, tiếp mặt với bất thiện được. Cho nên cái thứ nhất là chúng ta cần phải tránh. Vì vậy mà chúng ta cần phải độc cư, sống cái nơi nào đó một mình để nỗ lực mà thực hiện những pháp sau này.

Cái thứ hai thì chúng ta trau dồi, trau dồi rất nhiều chớ không phải có một pháp đâu. Bây giờ nói trau dồi Thập thiện, nhưng mà chúng ta còn phải trau dồi tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả của chúng ta nữa. Rồi chúng ta còn phải trau dồi các pháp nữa. Rồi chúng ta cần phải trau dồi, chúng ta cần phải tu tập những cái pháp quán để chúng ta xa lìa trên cái thân của chúng ta, tránh xa những cái tham muốn, tránh xa những cái tâm ngũ triền cái, thất kiết sử. Làm cho tất cả những cái này đều là xa lìa chúng ta hết. Và xa lìa chúng ta hết thì cái giai đoạn thứ hai này là cái giai đoạn trau dồi, tu tập dứt bỏ trong cái giai đoạn này chứ không phải nói trau dồi không có ba hành động thân, khẩu, ý của chúng ta không đâu. Nó còn phải trau dồi và nó phải quán trên thân như thế nào, vô thường, vô ngã như thế nào? Chứ không phải là trong cái giai đoạn thứ hai này đơn giản như chúng ta trau dồi ba hành động thiện pháp đó là xong đâu, chưa đâu.

Cho nên, cái giai đoạn thứ hai này nói tuy nó ngắn, nó gọn, nó là cái con đường tắt thứ hai nhưng mà sự thật không phải đơn giản đâu. Chúng ta phải tập luyện hết sức tập luyện.Do sự hết sức tập luyện đó bây giờ chúng ta mới chứng được cái lý, mới chứng ngộ được cái lý của đạo. Vì vậy mà chúng ta thấy như thật, thấy khổ như thật. Thấy những cái nguyên nhân mà tập lại làm chúng ta khổ như thật.Thấy con đường mà diệt tất cả các khổ là Niết Bàn là thật. Thấy được tám nẻo để đưa đến chúng ta giải thoát là thật. Lúc bấy giờ chúng ta thấy thật chứ không còn cái ngộ sơ sơ. Không còn cái hiểu một cách cạn cợt nữa. Mà đây là chúng ta chứng thật, từ thâm tâm của chúng ta. Do một cái thời gian tu tập ở cái lộ trình thứ hai này nó rất nhiều điều mà chúng ta cần phải thực hành. Chớ không phải nói rằng, chỉ có tạp khí lâu ngày rồi nó hết. Không phải đâu. Mà chúng ta phải tu tập từng chút từng chút nó mới có hết, nó mới có xong được.

Từng đó, nó không những riêng ở trong các pháp trau dồi bằng thiện pháp không mà còn phải trau dồi tu tập tất cả các thiền định nữa, bốn loại thiền định nữa chớ không phải chỉ có trau dồi thường thường là ở trong thiện pháp mà còn phải tu tập thiền định.

Thứ nhất là những cái định mà chúng ta tu tập đó là cái định Chánh niệm tỉnh giác định làm cho sức tỉnh thức của chúng ta càng ngày càng cao lên thì cái tri kiến giải thoát của chúng ta nó mới phát hiện ra được. Còn nếu mà sức tỉnh không có thì cái tri kiến giải thoát của chúng ta không bao giờ có thể phát hiện ra được. Nó không thể xuất ra được.Vì vậy mà cái tri kiến giải thoát không có thì đương nhiên chúng ta không thể nào mà nhìn thấy được con đường của nhân quả đi. Mà không nhìn thấy được con đường của nhân quả thì chúng ta sẽ lầm lạc và ngay đó chúng ta sẽ có sự đau khổ liền tức khắc.Còn thấy được con đường nhân quả liền, người ta vừa mắng chửi mình mình đã thấy được nhân quả, do đó tâm hồn mình bất động ngay tại liền cái đối tượng liền. Trong một cái hoàn cảnh xảy ra cho chúng ta một cái tai nạn xe hơi hay là giao thông làm chúng ta gãy tay gãy chân nhưng mà chúng ta thấy nhân quả liền, chúng ta không bao giờ mà than khóc, không bao giờ mà nghĩ đến cái thân phận của mình bị tàn tật mà khổ đau. Không bao giờ chúng ta có cái sự suy nghĩ đó. Chúng ta thấy rõ được nhân quả. Cũng như trong khi cơ thể chúng ta dang bị một cơn đau hoành hành mà chúng ta đã nhìn thấy được nhân quả thì chúng ta không có lo lắng gì cái cơn đau đó hết. Chúng ta chẳng ngại nó khi mà có thể nó chết chúng ta cũng chẳng sợ.Do đó chúng ta mới thấu suốt được cái nhân quả. Vì vậy mà nhân quả không tác động được tinh thần của chúng ta, làm cho cái cơn mà trả nghiệp nhân quả nó giảm xuống đi liền tức khắc. Chỉ có tinh thần chúng ta vững chắc, ý tứ chúng ta sẵn sàng đón nhận những cái nhân quả mà chúng ta không hề nao núng. Thì lúc bấy giờ cơ thể chúng ta vẫn giữ được cái trạng thái rất an ổn, thanh thản mà không hề bị dao động.

Cho nên khi một cái người mà...các thầy mà gặp phải cái hoàn cảnh nhân quả mà nghiệp quả cái thân của mình quá nặng, bệnh tật, khó khăn trên bước đường tu tập chẳng nề sợ hãi. Nên lấy ngay cái nhân quả đó mà thực hiện trên con đường nhân quả mà chấm dứt nhân quả thì Thầy tin rằng quý thầy sẽ vượt lên trên nhân quả mà đạt được cứu cánh giải thoát ngay đó. Chứ không phải đi tìm cái pháp nào khác hơn hết. Chỉ cần giữ vững tinh thần vững chắc, không hề nao núng trước nhân quả của chúng ta. Chắc chắn trong chúng ta có nhiều người có những cái nghiệp thân rất nặng chứ không phải là thường. Từ lúc sinh ra đã có những bẩm sinh đau khổ đó rồi. Mà bây giờ chúng ta được Phật pháp tức là chúng ta đủ duyên lấy đó để mà diệt nhân quả, lấy đó để mà diệt những cái quả khổ mà đời trước chúng ta đã gieo. Cho nên, nhờ đó mà chúng ta được chứng đạo ngay trong những cơn đau khổ của nghiệp quả của chúng ta. Chúng ta biết được nhân quả chúng ta chẳng hề nao núng trước nó. Chúng ta phải chiến thắng nó bằng mọi cách để chúng ta thực hiện. Đạo Phật giải thoát nơi tâm ta bằng con đường của nhân quả.Hiểu được như vậy chúng ta chẳng hề nao núng mà chẳng hề sợ hãi. Đó là ba cái giai đoạn chúng ta có thể tu tập.

Đến phần này, Thầy xin dạy quý thầy về cái phần mà diệt vọng tưởng. Ở đây  cái vấn đề này rất là quan trọng để mà chúng ta hiểu cho được cái vọng tưởng của chúng ta. Là cái nguyên nhân nào mà nó sanh ra cái dục, mà nguyên nhân nào nó có những cái vọng tưởng hàng ngày mà nổi lên lăng xăng, lo lắng cái này, sợ hãi cái kia mà không bao giờ dứt. Nhiều khi nó loạn tưởng nữa, chớ không phải là nghĩ ngợi riêng không đâu. Ở đây đức Phật có nêu ra những cái điều kiện cho chúng ta thấy.

Điều thứ nhứtlà con người vì hận thù, vì đánh nhau, vì thù nghịch, vì ác ý là do cái lòng tật đố, xan tham của chúng ta mà có những cái hận thù đó. Đó là cái thứ nhất. Ở đây muốn nói đến vọng tưởng, muốn nói đến sự mà sinh ra dục thì chúng ta phải thấy được cái hành động của con người hàng ngày là như thế nào. Hận thù, đánh lộn nhau, thù nghịch, ác ý với nhau mà do cái lòng tật đố, xan tham với nhau mà có những cái hành động này.

Thứ hai là do tật đố, xan tham, do ưa ghét. Có tật đố, xan tham là do cái long ưa ghét của chúng ta nó làm duyên cho nên nó tập khởi cái tật đố, xan tham đó. Nếu mà không có cái lòng ưa ghét thì nó không bao giờ có tật đố, xan tham. Ưa ghét có mặt thì xan tham có mặt. Ưa ghét diệt thì xan tham tật đố diệt. Chúng ta thấy ở đây cái phần mà thứ hai thì Phật cũng có nói cho chúng ta rõ, nếu mà ưa ghét có mặt thì xan tham có mặt mà ưa ghét diệt thì xan tham diệt. Như vậy là chúng ta phải biết, ở đây Thầy muốn nói, đạo Phật là nó có 4 cái điều kiện như Thầy đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều. Điều kiện thứ nhất là người đến với đạo Phật phải thông hiểu. Điều kiện thứ hai là chúng ta phải biết trau dồi. Nghĩa là thông hiểu rồi thì phải trau dồi. Trau dồi thì mình phải tập luyện, sửa soạn lại những cái gì mà mình còn thô tháo như hồi nãy, khẩu hành, thân hành, ý hành nó thô tháo nó mới đem đến sự bất an cho mình. Bây giờ mình phải trau dồi cho nó đừng thô tháo, thì cái thứ hai cái phần thứ hai của đạo Phật dạy chúng ta phải trau dồi thân miệng ý của chúng ta, từng hành động. Cho nên chúng ta trở thành người có ý tứ hẳn hòi, đàng hoàng trong cuộc sống.

Đó thì bây giờ chúng ta trau dồi rồi thì bắt đầu chúng ta phải có dứt bỏ. Cái gì mà chúng ta phải dứt bỏ, bởi vì nếu mà chúng ta biết cái lòng ưa ghét của chúng ta nó có mặt thì xan tham nó sẽ có mặt. Vậy thì ưa và ghét. Ưa tức là ham muốn, ưa thích, ghét tức là giận hờn, ghét bỏ, không ưa, sợ đau, sợ khổ. Cũng như bây giờ nhức nhối thì mình sợ, tức là ghét chứ gì. Mà thích ăn, thích ngủ đó là ưa chứ gì. Do đó, những cái này chúng ta cần phải dứt. Dứt như thế nào? Bây giờ nó ham ăn, thì nhất định là không cho nó ham ăn, mình phải dứt nó. Bây giờ nó ưa ngủ, thì mình phải dứt bỏ, phải làm tập luyện như thế nào để cho nó không ngủ, để cho nó ngủ có giờ có giấc chứ không phải muốn ngủ hồi nào ngủ, muốn ăn hồi nào ăn được. Cho nên giờ giấc nghiêm chỉnh trong cái ăn cái ngủ. Đó là tượng trưng cho cái sự ưa ghét của chúng ta. Mà nếu ưa ghét không có mặt thì xan tham làm sao có mặt. Còn cái ưa ghét này còn, mặc dù là  ưa ghét cái này, nhưng mà nó sẽ ưa ghét cái người khác, người nọ, người kia. Mà cái tâm mà khởi sanh ưa ghét người này, người nọ, người kia tức là tâm phải còn ưa ăn, thích ngủ rồi, không thể nào mà làm cái gì khác nữa hết.Ở chỗ này không ưa ăn thích ngủ, thì ở chỗ kia không ưa không ghét người khác. Mà không ưa không ghét người khác thì xan tham sẽ không còn có nữa. Cho nên ưa ghét mà diệt được thì xan tham sẽ diệt được. Chúng ta lấy cái này mà tu tập thì chúng ta biết cái tâm của chúng ta sẽ được diệt ở chỗ kia.

Cái thứ ba, ưa ghét do dục mà làm nhân.Đó, ưa ghét ở chỗ này là do lòng ham muốn của mình nó làm nhân. Mình có ham muốn nó mới có ưa ghét. Còn mình không ham muốn làm sao có ưa ghét. Tôi muốn ăn, tức là nó có muốn ăn nó mới ưa, nó mới thích. Cho nên vì vậy do cái ham muốn đó mà nó có cái ưa ghét. Chúng ta đi truy tìm ra thì chúng ta biết là cái dục làm nhân, dục làm tập khởi, dục khiến chúng sanh khởi, dục khiến chúng sanh hiện hữu. Nghĩa là chúng ta thấy từ cái dục mà khiến cho chúng ta có, chúng ta sanh. Tại sao có dục mà chúng ta sanh?Nếu cha mẹ không dục, không dâm dục làm sao có chúng sanh khởi. Phải không? Có dục mới có chúng sanh khởi, có dục đó mới có chúng ta hiện hữu ngày nay. Do chúng ta biết từ đó, chúng ta đã biết từ cái dục đó mà sanh ra vì vậy khi mà từ đây chúng ta theo đạo Phật thì chúng ta phải diệt trừ cái dục. Vậy thì cái dục đầu tiên chúng ta thấy là gì, ái dục. Thấy phụ nữ là cứ chạy theo nó thì hổng phải là sao, đó là chạy theo dục. Cho nên, cái bài hồi nãy đầu tiên là đừng thân cận dục, thì quý thầy thấy, vì chúng ta biết dục nó mới khiến cho chúng sanh hiện hữu.Có dục, chúng sanh mới có mặt ở trong thế gian này. Mà cái dục là cái bẩn thỉu nhất, cái dơ bẩn nhất, cái hôi thúi nhất, không phải sạch sẽ gì. Vì một người tu chúng ta phải thấy nó là bất tịnh, không thể nào mà chúng ta đến gần cái nó được. Còn những người mà không trí, những người mà không phải tu á thì họ thấy đó là thơm tho, thấy đó là khoái lạc, thấy đó là thích. Cho nên họ chui cái đầu vào trong đó, để họ hưởng cái đó. Cho nên, vì vậy họ là những người ngu. Đối với người tu phải xem thấy những cái người đó là những cái người ngu si, phàm tục mới chui cái đầu vào chỗ đó.Còn cái người mà tu hành, Thánh nhân á, người ta thấy cái đó người ta ghê gớm, người ta sợ hãi. Cái đó là con đường sanh tử. Mỗi lần sanh là mỗi lần khổ. Mỗi lần có mặt, hiện hữu ở thế gian này là bao nhiêu thứ khổ của cuộc đời chúng ta. Thế mà mọi người ngu si mới là ưa nó.

Dục ưa ghét có mặt thì ưa ghét có mặt, dục không có mặt thì ưa ghét không có mặt. Ở đây chúng ta thấy, dục mà có mặt thì ưa ghét nó có mặt mà dục không có mặt thì ưa ghét không có mặt. Cho nên, chúng ta diệt cái đó thì nó sẽ không có mặt. Mà chúng ta biết rằng, do cái dục mà khiến cho có chúng sanh khởi ra. Mà do cái dục khiến cho chúng sanh hiện hữu. Đó thì nếu mà dục không còn có nữa thì không còn chúng sanh hiện hữu. Mà dục không còn có nữa thì không có sanh chúng sanh nữa.

Bốn, dục do tầm làm nhân làm duyên, do tầm làm tập khởi, tầm khiến cho dục sanh, tầm khiến cho dục hiện hữu, tầm có mặt thì dục có mặt.Đó thì quý thầy thấy rõ. Bây giờ tầm là cái gì? Tầm là cái sự suy tư ở trong đầu óc chúng ta. Tầm là những cái vọng tưởng của chúng ta chứ cái gì. Cho nên khi mà dục...đây chúng ta nói tầm tức là có cái sự suy tư, có cái sự suy nghĩ, cái sự suy nghĩ đó gọi là tầm. Nó chưa đến cái chỗ mà nói vọng tưởng, vọng tưởng nó còn thô nữa bởi vì thuộc về tưởng rồi. Tầm nó còn nằm ở trong ý, nó chưa phải là tưởng. Cho nên khi một người nhập Sơ thiền thì người ta có tầm có tứ. Tức là có giác, có quán người ta có ý tứ ở trong đó chứ chưa phải là vọng tưởng. Vọng tưởng đây nó thuộc về tưởng.Chưa ăn mà ngồi đây tưởng ngon, chưa có hưởng lạc của thế gian chút nào mà ngồi đó tưởng. Cũng như chưa có ly dục ly bất thiện pháp mà ngồi đó mà ngồi thiền mà nghe nó khinh an, hỷ lạc, nói đó là nhập Thiền định. Đó là tưởng á, tưởng dục chứ không phải tưởng cái chánh của ly dục ly bất thiện pháp mà sanh ra cái hỷ lạc. Cho nên, chẳng biết cái đó mà tưởng ra, chưa ăn cái đó mà tưởng ra nó như vậy. Cho nên, tất cả những cái người ngồi thiền bây giờ, hễ nghe hỏi tới, nghe có khinh an, có hỷ lạc "Ờ như vậy đúng rồi, đúng Thiền định á". Thiền khỉ họ. Cái đó là cái thứ tưởng dục mà nó sinh ra, nó làm chúng ta ham thích cũng như là cái dục của thế gian vậy thôi chứ không có gì khác. Người tu thiền người ta biết được, người ta thấy cái đó người ta quá sợ. Ở trong một cái tâm thanh thản, không có một cái dục gì hết, không có làm chúng ta ham thích cái gì hết. Thì cái đó mới chính là cái thanh tịnh của thân tâm chúng ta. Mới là Thiền định chính gốc. Mới thiền định, chánh định, chánh thiền. Còn thiền định gì mà chạy theo dục lạc. Bữa ngồi có thì thích. Bữa ngồi không có thì chán. Như vậy là cái tâm phàm phu tục tử chứ đâu phải caÍ thứ ngồi thiền, cái thứ tu theo Phật để giải thoát.

Cho nên, dục do tầm làm nhân làm duyên, do tầm làm tập khởi. Do cái tầm nó tập khởi ra, do cái tầm mà khiến cho dục sinh ra. Tầm khiến dục hiện hữu. Tầm có mặt thì dục có mặt. Ở đây chúng ta thấy rõ ràng. Tầm khi mà nó có mặt thì cái dục nó mới có mặt còn tầm không có mặt thì dục không có mặt. Cho nên khi mà chúng ta nhập Nhị thiền á. Tầm tứ chúng ta diệt cho nên nó không còn tầm thiện, tầm ác gì hết. Vì vậy mà lúc bấy giờ cái nhập Nhị thiền thì vọng tưởng không còn có nữa.

Bây giờ ở đây cái phần thứ năm Phật dạy đó, tầm lấy các vọng tưởng làm nhân làm duyên, đó. Nếu mà nói đến tầm thì chúng ta phải biết rằng nó có những cái tưởng ra cái này, cái kia. Chưa thấy mà tưởng ra. Ngồi đây mà tưởng thành phố Hồ Chí Minh. Ngồi đây mà tưởng ra hình bóng một cô gái ở Hà Nội. Cái điều đó là cái điều sai hết. Đó là cái vọng tưởng đó. Bởi vì cái tầm tứ thì nó phải có đối tượng của nó thuộc ý thức thì cái này mới tầm đúng, mới tứ đúng. Còn bây giờ nó không có đối tượng, mà cái tầm đó nó lấy cái vọng tưởng nó làm duyên nó khởi. Bây giờ không có cái hình bóng đó, nó tưởng ra hình dáng đó. Thì cái tầm đó từ đó nó lấy cái vọng tưởng đó làm nhân làm duyên của nó. Lấy các vọng tưởng nó hý luận, nó lý luận nó khiến cho tầm sanh khởi cái này, cái nọ kia, nó tưởng ra. Ví dụ như bây giờ nó nghĩ ra cái này cái ki, chẳng hạn như bây giờ chúng ta muốn nghĩ ra một cái pháp nào đó, thì chúng ta cũng tưởng ra pháp đó. Rồi nhờ đó mà chúng ta lấy cái tầm đó mới lý luận ra thế này thế khác. Nó mới nói như thế này, thế khác nó cho đó là cái đúng, còn các cái khác là sai vì vậy cái người mà có những cái kiến giải, những cái tưởng giải như vậy đó thì nó cũng lấy từ cái chỗ mà tầm đó nó lấy cái vọng tưởng đó làm nhân, làm duyên để nó làm cho các pháp của nó. Chớ thật ra đó không phải là chánh pháp. Mà đó là những tà kiến, những cái tưởng kiến của nó, cho nên nó sanh ra những cái loại này nó làm cho Phật pháp sau này rất là lệch lạc.

Hầu hết là một cái số người tu thiền định hoặc là giữ tâm mình một cái thời gian yên lặng nào đó, không có chạy theo các pháp thế gian, các nghề nghiệp sống ở thế gian thì họ hay sanh ra những cái tưởng pháp như vậy để làm lệch lạc con đường tu của những người sau này mất hết. Họ đẻ ra biết bao nhiêu là cái thứ kinh sách mà toàn là cái thứ tưởng không, vọng tưởng không chớ không phải là cái thứ chánh pháp. Cho nên chúng ta bây giờ nhìn lại, cái lối đi mà vào đạo Phật thì chúng ta chẳng thấy. Nhân quả thì nói hoàn toàn là mê tín, mà cái đường đi của nhân quả đường rất là rõ ràng. Chúng ta đang sống ở trong cái lộ trình của nhân quả chi phối đời sống chúng ta hàng giờ, hàng phút. Mà chúng ta không vượt ra nhân quả mà cứ nghĩ ở đâu trên trời xanh á, làm sao mà ra khỏi cái lộ trình này được.

Do các loại vọng tưởng có mặt thì tầm có mặt. Do các loại vọng tưởng lý luận không có mặt thì tầm cũng không có mặt. Đó là chúng ta thấy, từ cái chỗ này cái tầm này nó lấy các vọng tưởng này nó làm trở thành những cái pháp tưởng. Làm chúng ta tưởng đó là cái pháp đúng, nhưng cuối cùng chí chúng ta rờ tới nó thì nó là cái bóng dáng. Bởi vì tưởng là cái bóng dáng chớ nó không thể nào cái thật được. Cho nên, cuối cùng chúng ta rờ tới nó thì nó là cái bóng dáng, mà đụng tới cái bóng dáng làm sao mà chúng ta nắm được. Nó là cái bóng mà. Cho nên, tới đó thì nó tan biến mất rồi, nó không còn có nữa.Cho nên, những cái pháp mà pháp tưởng thì khó mà chúng ta đạt được cái kết quả tu tập của chúng ta.

Sáu, người tu sĩ phải tu tập như thế nào, phải thành tựu con đường nào thích hợp để diệt trừ các loại vọng tưởng hý luận này?Nghĩa là bây giờ chúng ta mới thấy được các loại vọng tưởng hý luận này, như thế nào để diệt? Từ hôm đó tới nay Thầy giảng cái giáo án này là mục đích Thầy diệt các vọng tưởng hý luận của từ người xưa cho đến bây giờ để làm cho chúng ta lệch lạc con đường. Bây giờ mới dẫn dắt ra cái bài kinh này, mới thấy rằng đức Phật đã dạy, bây giờ chúng ta đã lạc vào con đường tưởng pháp rồi. Bây giờ chúng ta phải làm sao đây.

Đây là không phải là thứ vọng tưởng thế gian nữa đâu, mà đây là thứ vọng tưởng hý luận, vọng tưởng lý luận thế này thế khác để làm cho lệch lạc Phật pháp. Đó là làm cho mất con đường tu của chúng ta. Vậy thì chúng ta muốn phá vỡ nó phải làm sao? Người tu sĩ phải tu tập như thế nào, phải thành tựu con đường nào thích hợp để diệt trừ các loại vọng tưởng, hý luận này, lý luận này. Đó thì như vậy là chúng ta phải thực hiện như thế nào? Nếu mà Thầy mà không thực hiện, cái sức mà đúng của Phật pháp bằng cái Giới Định Tuệ của Phật thì đến ngày nay thì thử hỏi Thầy làm sao Thầy dám ăn, dám nói cái này được. Làm sao mà dám mà tiêu diệt ba cái pháp mà tưởng này được của họ. Họ đầy ắp, họ chất biết bao nhiêu là tủ kinh sách, mà cái thứ tưởng này lại đầy ắp ở trong cái đạo Phật.

Cho nên đến hôm nay mà lật ngược trở lại thì chúng ta mới thấy đó là một cái sai lệch làm cho từ bao nhiêu thế kỉ nay con người theo đạo Phật mà không chứng được đạo giải thoát. Vì không rõ được cái lộ trình nhân quả, không vượt thoát được nhân quả. Làm cho nhân quả luôn liên tục chi phối đời sống của con người mãi sanh diệt, sanh diệt mãi mà không chấm dứt được.

Muốn diệt trừ các loại vọng tưởng, hý luận, lý luận này thì chúng ta phải lưu ý có hai loại hỷ.Nghĩa là ở trong này nó có cái lý luận mà nó lý luận cái chạy theo hỷ lạc của nó cho nên chúng ta phải phân biệt cho rõ ràng. Nó có hai cái loại hỷ:  một, loại phải thân cận và hai, loại phải xa lánh. Nghĩa là nó có hai cái loại hỷ. Cái hỷ nào mà chúng ta phải thân cận, mà cái hỷ nào mà chúng ta phải xa lánh. Ưu cũng có hai loại, một loại phải thân cận, loại thứ hai thì phải xa lánh. Xả cũng có hai loại, một loại thì thân cận, một loại thì xa lánh. Vậy thì cái loại thân cận là thân cận như thế nào? Mà cái loại xa lánh là xa lánh như thế nào?

Ở đây để chúng ta diệt được những cái hý luận, cái vọng tưởng lý luận này thì chúng ta phải biết cái đúng, cái sai. Cái đúng thì chúng ta thân cận. Mà cái sai thì chúng ta xa lánh. Cho nên ở đây mình quán xét các pháp mà dù là các tổ có viết ra mà cái nào đúng thì chúng ta thân cận, mà cái nào mà không đúng thì chúng ta xa lánh, đừng có chấp nhận nó. Loại hỷ nào có thể biết được, khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm thì hỷ ấy cần phải xa lánh. Bây giờ có người tự xưng mình là Phật tánh nè, mà họ lý luận họ tranh cãi, hơn thua với thiên hạ thì cái pháp đó là mình cần phải thân cận hay xa lánh?

Một cái người mà còn ham tranh cãi hơn thua với thiên hạ thì cái đó là thiện hay là ác nè? Cho nên đức Phật đứng ở trong cái lộ trình mà nhân quả để chỉ cho chúng ta biết cái đúng cái sai. Cho nên cái này chúng ta có thân cận không? Mặc dù họ nói họ là Phật nè, họ là bản thể của vũ trụ nè, họ là như thế này, như thế khác nhưng mà họ đối xử với chúng ta họ còn hơn thua bằng từng lời nói, họ còn tìm mọi cách nói này kia nọ, nói xấu nói xa bằng cách này kia thì những cái loại mà hý luận như vậy đó họ có hay ho gì, như vậy thì chúng ta có thân cận được không? Đứng ở trong cái nhân quả thiện và ác thì chúng ta thấy những cái người mà còn tranh hơn, tranh thua còn danh còn lợi, còn ham ăn, ham ngủ thì như vậy là chúng ta có thân cận họ không? Họ có đúng không? Như vậy là chúng ta không thân cận. Đó là chúng ta phải tránh xa

Loại hỷ nào có thể biết được khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp tăng trưởng mà thiện pháp suy giảm thì hỷ ấy cần phải tránh xa.Đó Phật dạy rất là rõ ràng, dù là người ta lý luận cái gì mà mình sống gần mình thấy người ta đang chạy theo những cái dục lạc thế gian. Đang có chùa to tháp lớn, đang có tiền bạc nhiều, đang có của cải tài sản, đang có đủ thứ xe cộ thì tức là mình biết thân cận với những người này không phải là chánh pháp. Mặc dù họ thuyết pháp rất hay, họ nói thuyết hay mà đời sống của họ thể hiện qua điều đó thì chúng ta biết cái loại hỷ này là cái loại hỷ của thế gian rồi, chứ không phải loại hỷ xuất thế gian. Cái loại hỷ xuất thế gian nó không phải vậy, nó ba y một bát cà, nó mới là xuất thế gian à. Cho nên từ đó chúng ta nên xa lánh những cái hạng người này, những cái nơi này không phải là chỗ mà chúng ta tu tập được.

Ở đây Phật tiếp phần thứ hai. Loại hỷ nào có thể biết được, khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng thì hỷ ấy nên thân cận.Đó thì bắt đầu mình gần nó mình thấy bây giờ gần với ông Thầy đó ông tri túc thiểu dục nè, ông sống đúng đời sống phạm hạnh nè, ông ăn ngày một bữa, ông không còn tham dục, không còn gì hết, ông quét sạch, ông ngồi thiền nhập định, ông làm chủ được cái sống chết của ổng nè. Thì mình thấy rõ ràng à cái này là thuộc về cái loại hỷ mà giải thoát rồi. Loại hỷ ly dục ly bất thiện pháp rồi. Bây giờ dù như thế nào chúng ta cũng bám chặt ông thầy này. Ổng có đuổi chúng ta cũng không đi nữa. Quyết định là ở gần bên ổng, sống chết với ổng thôi à. Một mai thì chúng ta có gần bên người này mới có giải thoát được. Quyết định là phải sống gần cái ông này vì ông này ổng làm được như vậy là ông phải có kinh nghiệm. Còn nếu không có kinh nghiệm làm sao ổng ăn ngày một bữa nổi. Làm sao mà ổng đứng trước một cái đống dục lạc cả bao nhiêu thứ mà không cám dỗ ổng nổi thì ông này phải có những cái gì chứ không phải là cái thứ tầm thường đâu. Cho nên vì vậy phải bám riết.

Cũng như trong bài kinh Trung bộ, bài kinh Khu rừng á, đức Phật dạy chúng ta hai điều kiện. Điều kiện thứ nhứt là tìm cái chỗ ở như Thầy đã giảng rồi, cái chỗ ở nó phải như thế nào để cho tâm của chúng ta đến đó mà nó được an tịnh, nó chưa hết lậu hoặc mà đã hết lậu hoặc. Rồi chúng ta gần một vị thầy. Vị thầy đó dạy chúng ta, hướng dẫn chúng ta thì chúng ta thấy được cái đời sống giải thoát ngay liền là tâm vô lậu của chúng ta được ngay liền, tâm an tịnh được liền, giải thoát tất cả các cái dục của thế gian. Vì vậy mà dù ông thầy đó có đuổi, ở đó không có cơm ăn, nhất định cũng ở đó ăn lá cây với ông ta cũng được. Miễn là làm sao chúng ta được giải thoát.

Đó là bài kinh Khu rừng mà Phật đã dạy cho chúng ta trong kinh Trung Bộ, chúng ta rất rõ, khuyên chúng ta rất rõ. Cho nên khi mà gặp được một bậc minh sư rồi thì sống chết chúng ta phải sống với cái vị đó chứ không nên bỏ vị đó. Đó là chúng ta tìm lấy con đường giải thoát. Còn nếu mà chúng ta thấy là mình không có đủ duyên tu hành theo đạo Phật thì tốt hơn thì quý thầy đừng có theo mà trở về sống với đời sống cư sĩ, làm ra tiền mà bố thí, lợi ích cho mình lợi ích cho người, bố thí cho người khac đang gặp những sự bất hạnh trong đời sống của họ. Có phải lợi ích không? Mà mình đâu có ăn bám của ai. Còn trái lại, nếu mình quyết tâm đi tìm đời sống giải thoát hoàn toàn thì hãy bám riết những bậc minh sư đó, bám những bậc Thánh hiền đó thì may ra mình mới có thể đi tới được cái nơi giải thoát hoàn toàn.

Đó thì ở đây quý thầy thấy đức Phật phân cho chúng ta thấy rõ. Bởi vì có thiện với ác mà thôi. Mà chúng ta biết được còn nếu mà không biết thiện ác thì làm sao mà chúng ta biết được. Đó, thì nhìn thấy một cái vị mà phá giới thì tức là không phải là bậc thầy của mình rồi. Hãy tránh đi. Ông đó mà ông ăn 2,3 bữa vậy thì ổng bây giờ ông có là giảng sư, ông có bao nhiêu cấp bằng tiến sĩ đi nữa, ông có thuyết pháp rất hay đi nữa cũng chỉ là cái tưởng giải của ổng mà thôi, cũng chỉ là những cái tưởng hý luận của ông mà thôi. Cho nên cái vọng tưởng đó là những cái thứ vọng tưởng đặc biệt của mấy ông đó. Cho nên, chúng ta chẳng nên gần với mấy ông đó, mấy ông đó chẳng đem cho chúng ta có lợi lạc gì được hết. Đó thì chúng ta phải biết, càng đem cho chúng ta đến thì càng đem cho chúng ta sự đau khổ chạy theo danh lợi của thế gian chứ chẳng có gì khác.

Ở đây quý vị lưu ý: có hỷ câu hữu với tầm, mình phải lưu ý cái này. Có những cái loại hỷ nó câu hữu với tầm, nó câu hữu với tứ. Nó có hỷ câu hữu với tầm mà không câu hữu với tứ.Nghĩa là mình phân biệt được những cái loại hỷ nó câu hữu với tầm và cũng câu hữu với tứ. Nhưng có loại hỷ thì nó câu hữu với tầm mà không câu hữu với tứ. Nghĩa là nó sanh toàn là vọng tưởng, mà nó không tác ý ra. Nó cứ miên man, Phật gọi là Tùy miên. Tùy miên ở trong những cái vọng tưởng, cái vọng tưởng nó khởi ra rồi mình sống liên tục liên tục ở trong cái sự suy nghĩ đó hoài hoài, kéo dài hoài mà nó khởi cho mình những cái thích thú ở trong cái chỗ đó, mình thấy thật là tuyệt diệu. Cái đó là bị say đắm ở trong những cái vọng tưởng mà nó câu hữu với cái tầm. Còn nó câu hữu với tứ thì nó tác ý ra, rồi nó khởi ra, rồi nó tác ý ra, rồi nó khởi niệm này đến khởi niệm khác, rồi nó tầm ở trong đó, nó suy tư ở trong đó. Thì cái đó là nó câu hữu với tầm với tứ. Còn nó câu hữu với tầm không thì nó liên miên, nó say mê ở trong cái ý của nó đã tìm ra. Đó là cái loại hỷ mà nó câu hữu.

Các loại hỷ không câu hữu với tầm mà cũng không câu hữu với tứ, mà thù thắng hơn.Nghĩa là cái loại hỷ nào mà nó không câu hữu với tầm, nó không câu hữu với tứ, thì cái loại hỷ đó nó mới thù thắng hơn. Nghĩa là cái loại hỷ nào? Chỉ có cái loại hỷ mà ly dục, ly ác pháp thì nó mới không câu hữu với tầm với tứ. Cho nên nó mới là định sanh hỷ lạc. Đó thì rõ ràng chúng ta thấy đức Phật muốn nhấn mạnh ở chỗ mà cái hỷ lạc mà hơn hết là bắt đầu chúng ta đi vào cái chỗ mà định thì cái hỷ lạc đó nó mới hơn hết. Còn cái hỷ lạc ly dục ly bất thiện pháp nó chỉ khởi sự cho cái tâm thanh tịnh của chúng ta.

Đó là hai loại hỷ mà các người tu sĩ cần phải lưu ý. Đó phải phân biệt được hai cái loại hỷ, cái loại hỷ trên nó câu hữu với tầm với tứ, có khi nó câu hữu với tầm mà không câu hữu với tứ. Còn một cái loại hỷ thì nó không câu hữu với tầm cũng không câu hữu với tứ, đó là cái loại hỷ thù thắng nhứt. Thù thắng mà cái người tu sĩ và các bậc thánh nhân nên tìm cái loại hỷ đó. Đừng có để cho nó câu hữu với tầm với tứ.

Loại ưu nào có thể biết được?Ở đây, đến cái chữ ưu. Ưu là nó do cái tâm mình phiền não. Do cái tâm mình lo lắng nó gọi là ưu. Còn não là thuộc về cái thân khổ đau của chúng ta như nhức chỗ này, nhức chỗ kia, gọi là não. Còn ưu ở đây nó thuộc về tâm, nó sầu não, sầu bi ở trong lòng của mình. Nó lo lắng nó buồn khổ ở trong lòng gọi là ưu. Còn não thì nó ở ngoài, cái thân nó nhức chỗ này, nó nhức chỗ kia, nó làm chúng ta khó chịu là gọi là não. Phân biệt được hai cái chữ này thì chúng ta mới thấy được cái tâm và cái thân của chúng ta nó có những cái sự khổ, nó không có giống nhau một bên là ưu, một bên là não.

Khi tôi thân cận với ưu này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm thì ưu ấy cần phải tránh xa. Chữ ưu có nghĩa có sự lo nghĩ, lo toan ở trong đó, chữ ưu nó có sự buồn phiền, nó có sự lo toan ở trong đó. Cho nên: “khi mà chúng ta thân cận với ưu này, với sự lo lắng ở trong đầu của mình đó, thì bất thiện pháp tăng trưởng mà thiện pháp suy giảm thì ưu ấy cần phải tránh xa”. Khi mình có sự buồn phiền ở trong lòng, có cái sự mà lo lắng, sợ hãi ở trong lòng mà lúc bấy giờ bất thiện pháp tức là ác pháp nó tăng trưởng thì ngay đó mình phải diệt trừ cái ưu đó liền không có để. Mà cái thiện pháp mà tăng trưởng thì mình nuôi lớn nó lên để cái ưu đó nó sẽ hết. Cái ưu cái sầu lo nó sẽ hết.

Cho nên ở đây phải phân biệt được hai cái loại. Cái loại mà bất thiện pháp tăng trưởng mà thiện pháp suy giảm thì cái ưu đó chúng ta cần phải đoạn diệt tức là chúng ta biết đó là ác pháp không phải là thiện pháp nữa. Làm cho tâm hồn chúng ta không còn ưu nữa, không còn buồn không còn lo nữa. Không còn sợ hãi nữa.

Loại ưu nào có thể biết được khi tôi thân cận với ưu ấy bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng thì ưu ấy nên thân cận.Đó, cũng là cái lo nhưng mà cái lo mà để nó hết lo thì lúc bấy giờ, cái buồn phiền cái lo lắng ở trong tâm mà gần với thiện pháp thì cái lo lắng, cái buồn phiền đó lần lần nó sẽ giảm mất đi và nó không còn ưu nữa. Còn cái buồn phiền mà gặp cái ác pháp càng ngày càng tăng lên mà thiện pháp suy giảm á thì cái đó nó sẽ là cái ưu, cái sự buồn lòng của chúng ta càng ngày càng nhiều lên nữa, không có bao giờ nó dứt được. Cho nên ở đây Phật dạy khi mà tâm chúng ta có sự lo lắng, ưu phiền thì chúng ta phải thấy được cái ưu phiền đó nó làm cho thiện pháp tăng trưởng thì cái ưu phiền đó chúng ta hãy cố gắng mà tiếp tục triển khai nó nữa thì cái ưu phiền đó nó sẽ hết. Còn cái ưu phiền mà ác pháp nó tăng trưởng thì ngay đó chúng ta phải chấm dứt không được theo cái đó, mà cái ưu phiền của chúng ta càng lớn dần làm chúng ta đau khổ nhiều.

Ở đây quý thầy phải lưu ý: Có ưu câu hữu với tầm câu hữu với tứ. Có ưu không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ.Đó, thì cái loại ưu mà câu hữu với tầm câu hữu với tứ, mà câu hữu với tầm không mà không câu hữu với tứ thì những cái loại ưu này chúng ta không có xài nó đâu. Nghĩa là nó có tầm có tứ có suy nghĩ về cái ưu này thì chúng ta không có xài nó đâu.

Có các loại ưu không câu hữu với tầm không câu hữu với tứ. Thì cái loại ưu này thù thắng hơn. Nghĩa là chúng ta cái ưu cái lo lắng, mà nó không câu hữu với tầm với tứ thì cái ưu này là cái hỷ lạc của chúng ta, cho nên nó là thù thắng nhất. Vì cái sự mà hiểu biết này thì chúng ta biết nó là ở chỗ cái pháp nào mà nó không câu hữu với tầm với tứ không. Khi chúng ta biết nó thì chúng ta phải thực hiện cái pháp đó hàng ngày để chúng ta tu, để cho cái lòng ưu phiền của chúng ta, cái lòng ưu nó không còn có nữa. Thì như vậy là chúng ta phải thực hiện cái pháp đang ở đó.

Sau khi cái giới hành Thầy sẽ dạy cái chỗ này thì quý thầy sẽ thấy, khi đó quý thầy sẽ tập tu thì quý thầy sẽ thấy rõ.

Loại xả.

Loại xả nào có thể biết được khi tôi thân cận với xả này, bất thiện pháp tăng trưởng mà thiện pháp suy giảm thì xả ấy cần phải xa lánh. Tôi xả cái đó ra, nhưng mà tôi thân cận với xả này. Chẳng hạn bây giờ, tôi dự định là tôi bỏ cái điều này, nhưng mà cái điều tôi bỏ đó là các ác pháp nó sẽ tăng lên, nó tăng trưởng lên, nó làm cho nhiều cái sự đau khổ. Cũng như bây giờ, tôi tính tôi bỏ cái nhà này đi, tôi cất... cũng như tính bây giờ tôi bỏ cái chùa xấu này đi, tôi đập nó xuống đi, tôi sẽ cất cái chùa tốt hơn. Do đó, khi mà tôi nghĩ như vậy đó thì tức là tôi xả cái chùa nhỏ này đi, để tôi cất cái chùa lớn khác lên. Cái đó là chúng ta thấy được rõ ràng là các ác pháp tăng trưởng lên, bắt đầu nó bắt buộc tôi phải đi quyên tiền người ta, đi xin  người này, xin xỏ người kia để cất cho được cái chùa lớn hơn. Thì như vậy, đó là ác pháp tăng trưởng. Còn bây giờ tôi xả bỏ, bây giờ cái chùa này nó hư rồi mà cái chùa này nó cũng sang đẹp lắm, mà nó hư rồi, bây giờ tôi bỏ cái chùa đẹp này đi, tôi cất lại bằng cái chùa tranh, cho nên tôi xả bỏ cái chùa gạch đi, tôi cất lại cái chùa tranh. Do đó bây giờ tôi lại an ổn, vì số tiền tôi hiện giờ tôi cất cái chùa tranh nổi, mà tôi cất cái chùa gạch, chùa kiên cố thì không nổi. Do đó bây giờ tôi chỉ có 5 triệu à tôi cất cái chùa tranh được. Mà cái chùa ngói này tôi phải có 100 triệu tôi mới cất được. Do đó tôi khỏi cần phải cực khổ tôi đi xin. Cho nên tôi thấy gần cái thiện pháp, tôi thấy tăng trưởng nó làm cho tôi được giải thoát.Vì vậy mà cái chùa kiên cố cả trăm triệu bạc nó không bằng cái chùa tranh vách lá mà tôi được thảnh thơi, tôi được giải thoát, tôi không còn bận tâm lo lắng, tôi không cần phải chùi rửa, tôi không còn phải quét dọn chùa này hàng ngày, tôi trở thành nô lệ nó. Cho nên vì vậy mà tôi thấy từng cái đó mà thiện pháp tăng trưởng cho nên tôi đủ có nhiều thì giờ mà tôi tu thiền định, cuối cùng tôi được giải thoát. Cho nên tôi không bị cái chùa trói buộc tôi.

Đó là tôi thấy rõ ràng là tôi thân cận được thiện pháp mà tôi được giải thoát. Con tôi thân cận cái ác pháp thì nó tăng trưởng lên. Do cái xả này, mà cái xả này đem đến cho tôi hoàn toàn là đau khổ. Thì bắt đầu tôi không chấp nhận nó, tôi không thân cận nó nữa. Tức là không chạy theo mà đi quyên tiền người khác mà để cất cái chùa tốt. Cho nên vì vậy mà tôi không gần nó nữa, vì vậy mà bây giờ tôi thấy tôi có 5 triệu, tôi cất cái chùa tranh, tôi bỏ cái chùa gạch mà đổ vỡ này đi, tôi dẹp nó qua thành một đống gạch. Bây giờ tôi cất lại cái chùa tranh tôi ở. Tôi thấy tôi giải thoát hoàn toàn, tôi không còn bị lo nữa. Cho nên thiện pháp càng ngày càng tăng trưởng nơi tôi, làm cho tôi sung sướng và hạnh phúc.

Đó là đem một cái ví dụ để chúng ta thấy cái xả nào đúng mà cái xả nào sai. Nhiều khi chúng ta xả cái này nhưng mà chúng ta lại tích những cái khác quá cái sức của chúng ta, làm cho chúng ta đau khổ.

Loại xả nào có thể biết được khi tôi thân cận với xả này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng thì loại xả ấy nên thân cận.

Đó là Thầy đã giải thích rồi đó. Thì quý thầy thấy chúng ta có một cái đầu óc có sự suy tư mà đi trên con đường giải thoát là tri túc thiểu dục, biết đủ. Cho nên bây giờ tôi đang làm trụ trì một cái ngôi chùa lớn mà vì thiên hạ nói, ông đang làm trụ trì một cái chùa lớn mà chùa hư. Ông không chịu cất. Tôi cất chứ sao tôi lại không cất. Nhưng tôi cất với cái sự không làm đau khổ chúng sanh. Tôi không quyên tiền ai hết, bây giờ tôi có 5 triệu, tôi cất 5 triệu. Tôi cất lại cái chùa như hồi cũ thì tôi không đủ tiền cho nên tôi không cất. Vì tôi biết đó là những cái dục lạc của thế gian, cám dỗ, cái đẹp, cái tốt, cái xấu cái này kia. Nhưng đời tôi ở, tôi cất cái chùa tranh. Đệ tử tôi ở thì cái chùa tranh hư, nó cất, nó cũng đủ với cái sức nó cất chứ đâu có gì mà quá sức nó mà tôi sợ mất cái chùa? Tôi chỉ sợ mất tôi tu không được mà thôi, chứ còn cái chùa không bao giờ mất.

Ở đây các thầy phải lưu ý: có xả câu hữu với tầm câu hữu với tứ, có xả không câu hữu với tầm không câu hữu với tứ. Đó thì các Thầy thấy rằng, khi mà nó câu hữu với tầm tứ thì có sự suy tư, tính toán ở trong đó. Tính phải xin phật tử thế này thế khác thì đó là nó đưa chúng ta đến sự suy nghĩ, để đưa chúng ta đi đến cái chỗ mà không giải thoát.

Nhưng các loại xả mà không câu hữu với tầm không câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.Tại sao vậy, tại vì lúc bấy giờ chúng ta cứ ngồi thiền không, chúng ta đâu để cho cái tâm chúng ta rảnh rang mà câu hữu thứ mà đi cất chùa cất chiền đâu. Cho nên chúng ta rảnh rang không có đi lại xóm này, làng kia để mà khuyến hóa họ, để xin tiền họ để cất chùa. Nói chùa tui giờ rách nát rồi, xin quý phật tử mỗi người giúp đỡ cho tôi một ít để tôi xây dựng được cái chùa cho tốt. Tôi đi cả ba năm như vậy tôi góp, tôi mới cất được cái chùa. Thì hơn là ba năm \tôi ngồi tôi tu, tôi nhập định thì tôi làm chủ được cái sanh tử thì cái gương hạnh của tôi còn hơn là tôi cất cái chùa đó mấy lần.

Cho nên ở đây, tôi nghĩ như vậy tức là cái tâm của tôi không câu hữu với tầm với tứ. Cho nên tôi ngồi thiền tôi an ổn mà tôi tu tập cho đến khi mà tôi giải thoát hoàn toàn.

Người tu sĩ phải tu tập chứng đạt hỷ ưu xả này mới thích hợp dần dẫn đến sự diệt trừ các vọng tưởng hỷ luận. Nếu mà chúng tôi biết như vậy thì chúng tôi sẽ diệt được vọng tưởng. Thì diệt vọng tưởng là bằng cách là mình không cho chạy theo cái tầm, tứ đó. Cho nên vì vậy mà mình đâu có cần gì mà phải cất chùa to tháp lớn đâu. Một mái chùa tranh mà ở đó mình nỗ lực tu, ngồi thiền nhập định không phải quý sao. Cho nên, mình diệt hết những cái lý luận điên khùng này, những cái lý luận mà không đúng cách này. Nghĩ rằng mình phải làm Bồ tát hạnh, mình phải làm cái này lợi ích chúng sanh, phải cất cái chùa to để cho người ta đến đây. Do cái duyên đó, người ta mới đến chùa. Còn cái chùa tranh lèo tèo ai mà đến làm gì. Nhưng không ngờ, chính cái chùa tranh lại có ông Phật thật thì chừng đó người ta mới đến hơn là cái chùa kia người ta đến để người ta đi chơi đi dạo, người ta coi cái kiểu cách như là những cái gì sang đẹp của thế gian chứ có cái gì ở trong đó, có cái gì giá trị?

Còn bây giờ người ta đến cái chùa tranh mà thấy bậc chơn tu ở đó, người ta còn kính mộ, người ta còn nhìn thấy Phật pháp đang hưng thịnh ở trong cái thế gian này. Còn nhìn cái chùa mà đẹp sang, người ta thấy đó là một cái kiểu cách xây dựng đẹp đẽ chứ người ta đâu có thấy rằng ở trong đó có một ông Phật thật ở trong đó đâu. Toàn là thứ xi măng không, không có gì hết.

Đó thì ở đây qua một cái bài kinh như vậy là chúng ta đã thấy được những cái điều mà chúng ta cần phải biết để mà chúng ta hiểu để mà chúng ta tu tập những cái gì mà thân cận những cái gì mà không thân cận. Do đức Phật dạy từng ly, từng tý như vậy. Mà tại sao chúng ta không biết mà cứ khởi tâm chạy lăng xăng, đầu này đến đầu kia. Vào thất người này vào thất người kia để làm gì? Chúng ta biết được chúng ta khép mình chặt ở trong thất của mình. Ở trong thất mình nè, có phòng tắm, phòng vệ sinh riêng nè. Có cần gì mà phải chạy lăng xăng? Đó quý thầy thấy, ở đây Thầy tạo cho quý thầy một cái phương tiện sống đúng cái giới hạnh của Phật để thực hiện con đường nhân quả, làm chủ nhân quả. Mà quý thầy không đồng ý mà còn chạy lăng xăng thì còn cái chỗ nào mà còn tìm hơn được.

Đó Thầy nghĩ rằng cái cách thức mà tổ chức ở đây là nhằm để giúp cho quý thầy giải thoát được mà quý thầy không giải thoát thì đến ngày hôm nay Thầy đã ẩn bóng hoặc là Thầy không còn muốn tiếp duyên nữa thì quý thầy làm sao mà có bậc thiện hữu tri thức để giúp quý thầy trên cái đoạn đường cuối cùng của quý thầy đi?

Bây giờ Thầy xin giảng tiếp về cái phần này.

Thành tựu biệt giải thoát luật nghi giới. Nghĩa là bây giờ đó, trước khi mà mình học về giới hạnh thì mình phải qua gần hết cái giới bổn rồi thì chúng ta cũng còn không bao lâu nữa hết giới bổn, thì chúng ta phải hiểu biết được. Muốn thành tựu biệt giới giải thoát luật nghi trong luật nghi giới á, thì chúng ta phải rõ được những cái điều này thì sau này chúng ta thực hiện cái giới hành thì không có khó khăn. Như nãy giờ mà Thầy đã giảng á thì để khi mà chúng ta bước chân vào cái giới hành, chúng ta đã chuẩn bị cho mình cái nào đúng, cái nào sai. Để khi mà chúng ta trau dồi mình thì chúng ta trau dồi những cái đúng chứ không thể nào trau dồi những cái sai được. Và 37 phẩm trợ đạo là 37 cái pháp mà giới hành để chúng ta thực hiện con đường giải thoát, đi đến rốt ráo cuối cùng chấm dứt sanh tử luân hồi trong một cuộc sống của chúng ta. Nhưng dù sao nó còn rất nhiều những chi tiết mà chúng ta cần phải hiểu để chúng ta áp dụng vào những cái giới hành này để cho đạt được kết quả. Mà nếu thiếu cái sự hiểu biết thì quý thầy làm sao mà biết được.

… cứ chạy theo dục lạc, chạy theo phụ nữ hoài thì thử hỏi là quý thầy làm sao mà quý thầy trau dồi cái thân tâm của quý thầy được. Cho nên phải hiểu để chúng ta đoạn dứt, chúng ta chấm dứt.

Muốn thành tựu biệt giải thoát luật nghi giới, phải nhận thức rõ ràng. Nghĩa là chúng ta muốn mà thành tựu những cái giới hành sau này thì bắt đầu chúng ta phải nhận thức cho rõ ràng nó có những gì?

Thứ nhứtlà thân hành có hai loại. Mình phải nhận định rõ ràng bắt đầu mình mới áp dụng cái giới hành vào trong cái sự hành động này thì nó mới có hiệu quả. Còn nếu mình không có rõ thì mình không có thể hiệu quả được trong cái sự tu tập của mình. Thân hành có hai loại, một là nên thân cận, hai là nên tránh xa. Thì cái nào thân cận mà cái nào tránh xa? Bởi vậy cho nên khi mà tránh xa (...). Chúng ta lấy những cái pháp đó mà chúng ta trau dồi mình. Bởi vì có những cái pháp mà chúng ta thân cận, nó có những cái pháp mà chúng ta trau dồi thân tâm của chúng ta để chúng ta trở thành được giải thoát. Vì hãy thân cận nên thân cận thì tức là nó có được sự giải thoát. Mà nên tránh xa, tức là có ác pháp, nó có dục trong đó.

Rồi về phần hai, khẩu hành cũng có hai loại. Một nên thân cận, hai nên tránh xa.

Ba là ý hành, ở đây ý hành thì còn gọi một cái tên là tầm. Cho nên nói tầm thì hầu hết quý thầy nghe nói cái tầm là cái vọng tưởng. Nhưng mà tầm thì nó câu hữu với cái vọng tưởng, cái tưởng nó khác mà. Mình ngồi đây nó chưa có gì hết, thì mình tưởng ra cái này cái kia. Nhưng mà từ cái chỗ đó tầm nó câu hữu với tưởng, tầm nó với vọng tưởng. Cho nên tầm chúng ta phải hiểu nó là ý hành, ý hành của chúng ta nó mới có tầm.

Có hai loại, một là thân cận, hai là tránh xa. Ý hành nó cũng có hai loại, một là thân cận, hai là tránh xa. Loại thân hành nào có thể biết được, bây giờ bắt đầu đó mình cần phải tìm hiểu thân hành nào mà mình biết được "khi tôi thân cận với thân hành này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm thì thân hành ấy cần phải tránh xa". Nghĩa là đức Phật cũng đứng ở trên cái lộ trình của nhân quả để chỉ cho chúng ta biết được cái mình thân cận với cái thân hành của mình.

Khi tôi thân cận với thân hành này mà bất thiện pháp tăng trưởng, các ác pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm thì tôi phải tránh xa liền.

Hai, loại thân hành nào có thể biết được, khi tôi thân cận với thân hành này bất thiện pháp suy giảm và thiện pháp tăng trưởng thì thân hành này cần phải được thân cận.Tại sao vậy? Thí dụ như bây giờ tôi thân cận với một cái thân hành mà tôi đi tôi đạp chết con trùng, con dế thì cái thân hành đó bắt đầu tôi không có thân cận nữa. Từ đây tôi phải ý tứ, tôi đi không đạp con kiến, côn trùng.

Bây giờ cái thân hành nào mà tôi không thân cận? Tôi cầm một cái dao, tôi giết một con vật thì cái thân hành này tôi không thân cận nữa, vì nó có sự làm đau khổ.

Đó, bây giờ đó, tôi đã có sự hiểu biết như vậy cho nên khi mà cái ác pháp nó hiện ra thì tôi không thân cận mà cái thiện pháp tăng trưởng thì tôi thân cận. Bây giờ có một con vật bị gãy chân, bị rớt ở trong vũng nước đang chết đuối. Cái thân hành của tôi, tôi lấy cái bàn tay hoặc là lấy cái cái lá cây tôi vớt con kiến lên. Tôi để một con kiến mà đang gãy chân ở trên lòng bàn tay tôi, tôi lấy một cái cây nhẹ hoặc là một miếng bông gòn, tôi khơi cái chân nó, sửa nó lại, cho nó ngay thẳng trở lại, để rồi một lúc nó được đi thẳng thốn. Thì đó là tôi thân cận những cái thân hành thiện đó tôi làm cho bớt cái sự đau khổ của chúng sanh. Bởi vì con kiến gãy chân, hoặc là nó đánh lộn nhau, cái chân nó trẹo qua đi, nó không có thể nào mà nó làm nó sửa lại được. Cho nên vì vậy tôi thấy nó bị trẹo chân như vậy, vì vậy mà tôi để nó trên lòng bàn tay, tôi lấy một cái cây nhẹ, hoặc miếng bông gòn nhẹ, tôi từ từ khều cái chân nó tôi sửa cho cho nó đứng thẳng lại, từ đó nó kéo cái chân nó thẳng lại rồi, bắt đầu con kiến nó đi rất là tự nhiên bình thường. Tức là tôi thân cận những cái hành động mà làm cho chúng sanh không còn đau khổ nữa. Đó là tôi khởi được cái tâm từ, tâm Bi của chúng tôi nơi cái sự đau khổ của chúng sanh. Đó thì những cái hành động mà tôi làm như vậy, vớt một con kiến ở trong cái vũng nước lên, xoa dịu....

BĂNG SỐ 44

cán một bầy kiến ngang qua xe tôi, biết bao nhiêu con kiến chết đau khổ, do đó tôi không làm cái điều đó nữa, vì tôi không thân cận, và như vậy các cái thiện pháp càng ngày càng tăng trưởng trong tôi, lòng Từ Bi Hỉ Xả trong tôi bắt đầu phát triển rất là rộng lớn. Từ đó tôi thấy tâm tôi rất an ổn, rất là an ổn trước vạn hữu. Đó thì cái sự thân cận như vậy gọi là thân hành thân cận.

Loại khẩu hành nào có thể biết được khi tôi thân cận với khẩu hành này bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm thì khẩu hành ấy phải tránh xa. Nghĩa là khi mà tôi nói ra một cái lời nói nào thì cái lời nói đó mà ác pháp tăng trưởng thì tôi không nên nói. Cũng như bây giờ, mình nói một lời nói nào mà người ta tức giận người ta buồn phiền thì mình không nên nói lời nói đó. Mình nói người ta, người ta không có lấy trộm của mình, mình nói người ta lấy trộm của mình thì làm cho người ta đau khổ, thì tức là mình không nên nói lời nói đó. Đó là mình không thân cận cái khẩu hành đó. Đó là như vậy. Còn mình nói một lời nói mà làm cho mình vui người khác vui, làm cho người khác rất là an ổn, khuyên lơn họ, làm cho họ không có gây lộn nhau nữa, thì đó là những cái lời nói đó thì chúng tôi thân cận.

Và như vậy,chúng ta đi trên cái lộ trình nhân quả rất là rõ ràng. Phật dạy chúng ta luôn luôn lúc nào cũng thực hiện trên cái nhân quả để làm chủ nhân quả chứ đâu phải là gì khác hơn hết. Thế mà chúng ta không hiểu được, mà cứ gọi là ngồi thiền tu hành, đêm ngày tụng kinh niệm chú đêm ngày nó có nhằm nhò gì ở trong cái nhân quả đâu? Nó có thực tế ở trong cái nhân quả mà chúng ta tu hành đâu. Mà ngay đây chúng ta biết thân cận cái pháp thiện, cái thân hành, khẩu hành, ý hành của chúng ta thân cận ở cái pháp thiện nào thì đem lại cái sự lợi ích cho mình cho người xung quanh, thì cái đó là đúng, cái đó là thực tế, cái đó là giải thoát.

Cho nên đức Phật nói đạo của Phật thì đến không có thời gian, đến ngay liền có sự giải thoát liền, không có đợi thời gian. Đó thì chúng ta đã hiểu cái lời đức Phật nói như vậy quá rõ ràng. Vì vậy mà chúng ta đến mà cứ cầu kinh hoài, thì cứ hoài mà thấy gia đình mình lộn xộn hoài à. Đi tu theo Phật, mà gia đình thôi chửi lộn nhau mãi mà như vậy là theo Phật là làm sao? Có đúng không? Theo Phật, gia đình mình nó bất an, mà mình theo Phật rồi gia đình mình nó an chứ, vợ chồng có thương yêu nhau, con cái phải hiếu hạnh chứ. Sao mà đến với đạo Phật, mà con cái không hiếu mà vợ chồng cứ lộn xộn nhau hoài. Chồng nói: “Không có cho bà đi chùa nữa, bà đi chùa mấy ông thầy chùa tôi ghét quá đi. Phật gì mà cứ dạy người ta xa vợ xa chồng hoài như thế này đây”, thì phải khổ người ta không. Thì như vậy tất cả những cái đó làm cho người ta phỉ báng Phật pháp, mà chính vì quý thầy đã dạy người ta một cách rất là mê mờ. Đi chùa cúng dường này kia, trai tăng thì có lợi ích thế này thế khác. Cúng xây chùa xây tháp thì có lợi ích, làm cho gia đình người ta càng ngày càng khổ sở, vợ chồng người ta gây lộn hoài. Như vậy mà cứ đến chùa, rồi tụng kinh này tụng kinh kia để cầu an. Cuối cùng chẳng cầu an gì hết. Trái lại Phật dạy rất là rõ ràng cụ thể trên cái nhân quả chúng ta sống đúng nhân quả thì làm sao mà gia đình chúng ta có lộn xộn không an ổn. Chứ đâu phải đem tiền cúng cho nhiều mà nó được an ổn đâu. Hầu hết là có nhiều người cúng nhiều chừng nào, Thầy thấy gia đình họ cũng bất an chứ chưa phải là giải thoát được. Đó là những cái tu không đúng cách không đúng cái lời dạy của Phật cho nên đem đến cái sự hậu quả không tốt, kết quả không lành cho gia đình họ, cả họ và cả gia đình họ, con cái họ nữa.

2. Loại khẩu hành nào có thể biết được khi tôi thân cận với khẩu hành này bất thiện pháp suy vong và thiện pháp tăng trưởng thì khẩu hành đó tôi phải thân cận.Đó thì đức Phật dạy chúng ta từng chút từng li để mà chúng ta trau dồi ở trong thiện pháp, ở trong cái chỗ tu tập của chúng ta. Vì vậy mà thể hiện ngay từ cái chỗ ban đầu là chúng ta đã có sự giải thoát hoàn toàn.

1. Loại ý hành nào tầm cầu có thể biết được khi tôi thân cận bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thì loại ý hành ấy cần phải tránh xa.Tức là cái tư duy của mình, tư duy mà cái nào mà nó đem đến cái ác pháp mà nó tăng trưởng, cũng như bây giờ tôi chưa ăn trộm, mà tui nghĩ bây giờ mình phải làm cách nào để cho mình có nhiều tiền nè, thì bắt đầu mình nghĩ cách để mình ăn trộm lấy của người ta...trốn mất thì cái đó thuộc về loại suy nghĩ như vậy để rồi gọi năm mười người hai chục người đến hốt hụi, hốt được hụi rồi trốn đi mất, giựt của người ta bằng cách như vậy. Đó là cái suy nghĩ như vậy là bất thiện pháp tăng trưởng và cái thiện pháp nó suy vong. Những cái ý nghĩ như vậy đó là chúng ta không nên thân cận những cái ý đó, những cái ý  đó là ý xấu, ý ác.

2. Loại ý hành nào có thể biết được khi tôi thân cận loại ý hành bất thiện pháp suy vong, thiện pháp tăng trưởng, thì loại ý hành đó nên thân cận. Thì như vậy khi mình suy nghĩ một cái gì mà làm lợi cho mình làm lợi cho người thì nên suy nghĩ, đừng có làm cái kiểu mà cướp giật, trộm cắp hoặc là hại người thì không nên. Do những cái suy nghĩ mình dêm lại cho tốt mình tốt người, đem lại cho cả gia đình hòa thuận, an vui, thì cái suy nghĩ đó mình nên thân cận nó. Thành tựu như vậy gọi là thành tựu biệt giải thoát luậtnghi. Những cái điều này là những cái điều mình cần phải thông hiểu để rồi sau này mình còn phải trau dồi, trau dồi cái ý hành, trau dồi cái khẩu hành, trau dồi cái thân hành của mình trong các pháp 37 phẩm trợ đạo chứ không phải riêng đâu. Đây là một cái sự tập luyện. Ở đây chúng ta mới hiểu nó để mà chúng ta biết rằng cái sự thân cận, hoặc là không thân cận mà thôi, để mà tránh xa nó mà thôi. Cho nên ở đây có cái tên gọi là thành tựu như vậy gọi là thành tựu biệt giải thoát luậtnghi giới.

Học giới mà không hiểu cái này thì coi như là không có hiểu Giới luật.Học giới mà khô khan mà cứ biết giới một, giới hai, giới ba, giới bốn, như thế này như thế khác, thì đó là cách thức giới rất là khô khan, rất là tai hại cho cái sự học giới, nó làm cho chúng ta khép mình trong những cái khuôn khổ, khổ hạnh mà không có nghĩa lý gì giải thoát của đạo hết. Thì cái sự mà không có nghĩa lý cho sự giải thoát của đạo thì nó không đem đến cho cái đời sống mà tu hành của chúng ta đúng đắn.

Bây giờ thì ở đây thì chúng ta thấy rằng, trong một cái tu học của chúng ta, thì bắt đầu cái bài mà thành tựu biệt giải thoát luậtnghi giới thì ở đây chúng ta đã đi qua rồi. Vậy thì cái phần kế tiếp nữa Thầy sẽ nhắc thêm. Cái phần này để chúng ta thấy và hiểu rõ.

Lời dạy của đức Phật trong kinh tạng A Hàm, kinh tạng Nguyên Thủy đơn giản, dễ hiểu, luôn thực tế cụ thể với cuộc sống loài người như khoa học; không bay bướm, ước lệ như văn chương; không cầu kỳ như triết học; không khô khan như giáo điều; không độc đáo như công án của thiền Đông Độ; không huyền bí, mật nghĩa như Mật Tông; không cầu xin, mong ước như Tịnh Độ; không chi ly, chia chẻ như tâm lý học, như duy thức học; không giàu tưởng tượng như kinh Pháp Hoa; không hý luận như Bát Nhã; không nhỏ giọt dục lạc thế gian như giới bổn Ba la mộc xoa đề.

Nghĩa là Thầy xem coi giới bổn Ba la mộc xoa đề đó là nó nhỏ giọt dục lạc thế gian cho cái người mà giữ gìn Ba la mộc xoa đề. Đó là những cái mà chúng ta phải thấy rằng cái  kinh sách của A Hàm và  kinh sách của Nguyên Thủy nó đơn giản, nó dễ hiểu, lời nói nó mộc mạc nó thực tế, nó không cầu kỳ.

Các thầy có nghe những cái lời giảng của Hòa thượng Nhất Hạnh, thì các thầy thấy Hòa thượng dùng những danh từ, những từ rất là văn chương, rất là hiện đại để mà diễn tả những cái tu hành ở trong đạo Phật. Nhưng mà Thầy thấy nó không có mộc mạc, nó không có dễ hiểu, đơn giản. Riêng Thầy, Thầy thấy cái gì mộc mạc, nó đơn giản làm chúng ta hiểu một cách rất là dễ dàng, nó không có còn khó. Như thầy Nhất Hạnh thầy nói: chúng ta thường thường tu được cái gì đó thì chúng ta tự mãn mình. Cho nên Thầy nói rằng chúng ta đừng nên tự mãn mà giam mình trong cái ngôi nhà tự mãn. Thì cái ngôi nhà lầu tự mãn thì Ngài dùng những cái danh từ mà như vậy thì chúng ta thấy nó hơi có những cái từ nó xa vời, nó làm cho chúng ta có những sự suy nghĩ qua một cái tưởng nhiều hơn.

Cho nên ở đây chúng ta phải gần gũi tất cả những cái kinh tạng này làm chúng ta thấy nó gần với mình lắm, nó thực tế với mình lắm. Lời nói của Phật rất mộc mạc, lặp đi lặp lại lời văn nói chứ không phải là lời văn bay bướm, làm cho nó hay ho. Cho nên những cái người học giả họ thường thường họ dịch hoặc là họ viết kinh điển của Phật ra, họ bay bướm dữ lắm, họ nói nó xa vời lắm, nó không có gần gũi chúng ta. Cho nên những cái người học giả gần như là họ cách xa Phật, rất xa Phật. Họ chỉ chuộng văn chương, họ chỉ chuộng cái ngôn từ làm cho nó có cái vẻ hay ở trong những cái lời nói đó thôi. Nhưng mà nó không có gần gũi trong cái sự thực hành của chúng ta, nó làm cho chúng ta xa rời cái sự thực hành đó.

Cho nên văn dùng để diễn tả ở trong hai tạng kinh này là văn nói mộc mạc, đơn sơ nhưng ý nghĩa hàm chứa rất đầy đủ. Với thâm diệu, với một thâm diệu, với một hành trì, nghĩa là nó có một cái hành trì rất là thâm diệu khi mà chúng ta đã hiểu nó. Nghĩa là cái lời của Phật nói như cái như lý tác ý, chúng ta nghe nó rất là đơn giản nhưng mà nó rất là thâm diệu ở trong cái ý nghĩ đó, nó hàm chứa cả một cái gì sâu sắc, rất là sâu sắc. Nếu một khi mà chúng ta hiểu được cái nghĩa của như lý tác ý. Hay hoặc là một cái danh từ trong kinh A Hàm,Phật nói “hướng tâm” hay là “dẫn tâm”, thì chữ “hướng tâm” nghe nó đơn sơ thôi, dẫn tâm thôi, chữ “hướng” có nghĩa là dẫn tâm, nhưng mà chúng ta thấy cái lời nói đó nó mộc mạc là dẫn tâm cũng như dẫn đứa con nít vậy thôi. Cũng như dạy bảo đứa con nít mà thôi. Thì cái lời nói chúng ta thấy nó nghe đơn sơ và mộc mạc, nó không có cầu kỳ. Thế rồi chúng ta cứ ngay đó mà chúng ta dẫn dắt một đứa bé, chỉ nó “ờ chỗ này là sạch sẽ, con hãy ngồi xuống đây đi, đừng có ngồi chỗ dơ bẩn này” thì đứa bé nghe theo lời nó ngồi đó thì nó sạch sẽ, nó giải thoát, mà nó không nghe theo lời, nó chạy chơi nó chun ở dưới đống cát bẩn thỉu thì mình mẩy nó sẽ bị lấm lem, bị bẩn thỉu, bị bất tịnh. Cho nên ở đây chúng ta dẫn tâm cũng như là dẫn đứa bé, cho nên gọi là hướng tâm, như cái lý tác ý, như cái chân thật mà chúng ta tác cái ý ra, thật là thâm diệu vô cùng, nó trở thành một cái lực, cái oai lực, cái minh lực của nó sau này, nó vĩ đại vô cùng mà chúng ta không ngờ. Những cái điều kiện văn dùng diễn tả ở đây trong hai tạng kinh là văn nói mộc mạc, đơn sơ nhưng ý nghĩa hàm chứa rất đầy đủ và thâm diệu với một pháp hành trì rất là thực tế.

Đó thì các thầy thấy rất rõ, không phải lời Thầy nói như vậy là Thầy ca ngợi hai cái tạng kinh này đâu mà chính các thầy còn sẽ đọc và nghiên cứu lại, coi thử coi phải có không. Ngược lại, dùng cái tri kiến, những cái loại thức tưởng giải, những cái loại mà  kiến thức của học giả thế gian, thì chắc chắn sẽ cầu kỳ khó hiểu, mà còn đi đến tai hại không hiểu tường tận, không hiểu rõ tường tận cũng như trường hợp của Tỳ kheo Arista. Tỳ kheo Arista này không hiểu cái lời Phật, ông tưởng tượng một cách quá siêu xuất của ông cho nên ông không hiểu lời Phật dạy. Cho nên vì vậy mà Phật mới răn ông: “Này Arista, có thật ông khởi nên ác kiến, ác tà kiến như sau không? Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn giảng dạy, khi hiểu rõ những pháp ấy được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thì thực sự không có chướng ngại gì cả”. Đức Phật diễn tả lòng dục của mình tập hợp làm cho tâm chúng ta chướng ngại, làm cho tâm chúng ta khổ, thì ông ta nói nó tập hợp nó chẳng làm khổ gì hết, ông ta hiểu như vậy đó.  Bây giờ nó chẳng cần mà giữ nó như thế này, chẳng cần phòng hộ như thế kia, chúng ta chỉ làm sao cho nó tâm đừng dính cảnh, cảnh đừng dính tâm, thì nó đâu còn chướng ngại gì nữa. Ông nghĩ như vậy đó. Còn Phật nói, ờ bây giờ nó chướng ngại như vậy, phải phòng hộ mắt tai mũi miệng thân ý mình như vậy, phải Giới luật, phải chấp hành, phải sống độc cư như vậy. Ông nói chẳng cần gì hết, tôi chỉ giữ cái tâm tôi cho tâm đừng dính cảnh, cảnh đừng dính tâm thì tôi sẽ giải thoát. À ông nói vậy đó. Cái ý của ông ta ông muốn nói như vậy đó chứ không phải là ông nói khác đâu, nhưng mà ông nói cái kiểu là hơn Phật đó, ông là kiểu tổ rồi đó.

Cho nên ở trong cái bản mà Giới luật á, có một chỗ mà ghi lại cái chỗ vị Tỳ kheo này đó mà nói rằng về cái dâm dục, ông lôi cái dâm dục ra ông nói, thì bài kinh này, cái bài kinh mà lôi ra như vậy mà kết trong cái bộ Giới bổn như vậy, là cái người đem cái câu chuyên này ra mà kết vô đó, Thầy đọc hai cái câu chuyện này Thầy thấy quả là cái ông này chẳng hiểu cái bài kinh này là gì hết. Cho nên  vì vậy mà lôi trong Giới bổn mà thuật lại cái câu chuyện này như vậy thì chỉ là đem một cái giới dâm dục ra mà nói, để mà kết cái giới dâm dục thôi. Thì như vậy là cái ông này hiểu như vậy là sai, không đúng. Cái ông này ông hiểu một cách… Đọc cái bài kinh này Thầy hiểu ngay là người ta đọc, người ta dịch ra, người ta chỉ rằng nói đó là đức Phật nói có chướng ngại. Những cái tâm ham muốn của chúng ta nó sẽ làm chướng ngại, nó sẽ đem cái ác pháp, nó làm chúng ta đau khổ, thì ông ta nói, chẳng có chướng ngại gì hết, thì Thầy đã hiểu rằng cái tâm thâm ý của ông ta như thế nào. Ông ta sẽ nói là, tâm của mình giữ không cho dính vật, vật không cho dính tâm thì mình giải thoát, chứ khỏi cần phòng hộ khỏi cần cái gì hết, Phật chỉ nói lăng nhăng, nào là phòng hộ, nào là cách này, nào là trau rồi cái kia, nào là đừng thân cận cái này, nào là đừng thân cận cái kia. Điều đó là lăng nhăng mất công. Cho nên Phật nói cái điều đó không đúng. Vì vậy Đức Phật mới kêu ông mà mắng ông. Thì ông nói “Thật sự là vậy! Bạch Thế Tôn, như con hiểu, thật sự không có chướng ngại gì cả, tại Thế Tôn nói như vậy”.

Đó, thì ông nói thẳng với đức Phật như vậy, bài kinh hẳn hòi rõ ràng, chứ không phải là Thầy đặt điều cái chuyện này đâu. Quý thầy sẽ còn đọc lại trong cái bài kinh đó, bài kinh này, nó ở trong bộ Trung bộ chứ không phải xa lắc gì hết. “Ông thật là vô minh, ngu si, sao ông lại hiểu pháp ta kiết như vậy, thuyết giảng như vậy? Ta đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp”, nghĩa là chỉ cho những cái pháp môn đó nó làm cho chướng ngại, nó làm cho không có được giải thoát đó mà ông lại hiểu như vậy, ông hiểu như vậy là ông hiểu cái kiểu mà như vậy thì không bao giờ mà ông được giải thoát. Và những ai mà thọ dụng, chúng tự đủ bị chướng ngại, nghĩa là người nào mà cứ chấp nhận cái tâm ham muốn của chúng ta, tâm dục đó, mà chấp nhận những cái ác pháp, thì người mà thọ dụng những cái điều đó thì luôn luôn sẽ bị chướng ngại, sẽ bị khổ đau. “Ta nói như vậy đó, mà ông nói là không chướng ngại không khổ đau, thì điều ông nói như vậy là ông ngu si, ông không thấy. Ta đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Ta đã thuyết các dục được ví như khúc xương, ta đã thuyết các dục được ví như miếng thịt, được ví như bó đuốc cỏ khô, được ví như hố, hang hùm, được ví như cơn mộng, được ví như vật cho vay mượn, được ví như ăn trái cây rụng, được ví như lò thịt, được ví như gậy nhọn, ta đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Và này kẻ vô minh, ngu si kia, không những ông xuyên tạc ta vì ông đã tự chấp thủ sai lệch, ông tự phá hoại nơi ông và tạo nên nhiều tổn đức. Này kẻ ngu si kia, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho ông”.

Đó thì đức Phật kêu cái vị Tỳ kheo này đến mắng ông ta như vậy, ông hiểu như vậy, chưa chắc đã là ông đã giữ cái tâm của ông không cho vật dính vào tâm, và tâm không dính vật. Ông nói cái chỗ mà ông làm cho nó đừng dính mắc ông nói được không? Ông chẳng biết nói gì hết, ông lý luận như vậy đó. Thì thử hỏi cái đó có đúng không, không bao giờ đúng hết. Cho nên ở đây hầu hết là có một cái số người tu, người ta cứ nghĩ nhớ như vậy người ta nói: Giữ cái tâm đừng cho dính thì cần gì phải Giới luật. Tâm không dính vật, vật không dính tâm thì Giới luật để làm gì? Như vậy là một cái sai. Vì vậy cho nên ở đây Thầy muốn nêu cái bài này ra để mà chúng ta thấy rằng có những người lý luận kiểu này, cho nên chúng ta dạy Giới luật họ chẳng bao giờ họ thực hiện Giới luật, họ ăn uống phi thời, họ chạy theo những dục lạc thế gian. Họ nói thì họ nói giữ tâm không cho dính cảnh, mà cảnh không cho dính tâm, thế rồi họ uống rượu, uống bia, thử hỏi cái đó là cái dính hay cái không dính, họ ăn ngày ba bốn bữa cái đó họ dính hay không dính. Sự thật họ đang dính mà họ lý luận như vậy thì cái mà Giới luật của chúng ta họ bác bỏ đi để họ chạy theo dục lạc.

Bài kinh này là ý của Thầy muốn nêu ra để chúng ta không khéo bị những cái tà kiến đó, bị những cái chấp kiến đó mà làm chúng ta lệch lạc phá Giới luật của Phật, làm cho thân tâm chúng ta không thanh tịnh, từ đó chúng ta tu hành gì được. Cho nên gặp những cái kiến giải sai này rồi, những cái tà kiến này rồi thì cuộc đời chúng ta kể như tiêu hết. Cho nên hầu hết là một cái số người mà hiện giờ tu thiền đều là bị cái kiến chấp này, họ bị tiêu, cuộc đời họ kể như là không còn nữa, họ chỉ phí bỏ cuộc đời họ một cách rất là đau đớn. Con người sinh ra đâu phải chuyện dễ, thế mà nhét vào trong đầu mình cái tà kiến như vậy, rồi ôm mãi suốt cái đời của mình, tưởng là tâm không dính cảnh, cảnh không dính tâm, nhưng cuối cùng thì nhìn thấy cuộc sống của họ nó dính không biết là bao nhiêu là thứ dính chứ không phải là có một thứ dính không. Nhìn chung là chúng ta thấy hoàn toàn là như vậy.

“Này chư Tỳ kheo, các ông nghĩ thế nào, Tỳ kheo Arispa! Có thể khởi nên tia sáng gì trong pháp luật này không?”. Làm gì có, ông mà nói như vậy rồi thì làm gì mà ông có giữ gìn được cái Giới luật này đâu. Cho nên toàn bộ là ông sẽ bị nhiễm hết. “Bạch Thế Tôn làm sao có thể được!”. Các vị Tỳ kheo khác mới trả lời Đức Phật. “Bạch Thế Tôn làm sao có thể đượ!”. Khi mà người ta nghĩ như vậy thì làm sao mà người ta giữ gìn Giới luật được mà làm sao có tia sáng ở trong Giới luật này được.

“Này các thầy Tỳ kheo, ở đây có một số người ngu si, học pháp như kinh, ứng tụng, giải thuyết, kệ tụng, cảm hứng ngữ, như thị ngữ, bổn sanh, vị tằng hữu, pháp hương quảng. Sau khi học các pháp này họ không hiểu nghĩa những pháp ấy. Với trí tuệ những pháp ấy họ không hiểu nghĩa rõ ràng, họ học pháp chỉ vì lợi danh, để chỉ trích người khác, chỉ vì lợi danh để khoái khẩu, biện luận. Do vậy họ không đạt được mục đích giải thoát, và họ chẳng hiểu pháp hướng là gì, những pháp ấy vì hiểu sai lệch nên đưa họ đến bất hạnh đau khổ lâu dài. Vì sao vậy? Này các thầy Tỳ kheo, vì hiểu sai lệch ví như người đi bắt rắn nước, tìm rắn nước, đi khắp chỗ để tìm. Người đó thấy con rắn nước và người đó vội bắt con rắn ở lưng ở đuôi, con rắn quay đầu lại, cắn tay người đó. Do nhân này, người bị chết hay bị đau khổ gần chết. Vì sao vậy, vì bắt rắn như vậy một cách sai lệch. Người học pháp của ta cũng như vậy, không hiểu pháp và chấp thủ các pháp sai lệch”.

Đức Phật ví dụ, cũng như một cái người mà tu theo đạo Phật mà không hiểu các pháp Phật, rồi chấp những cái tà kiến như vậy, để rồi cũng ví như một cái người bắt rắn, không nắm cái đầu con răn mà lại nắm cái lưng con rắn và nắm cái đuôi con rắn, do đó cái đầu nó quay lại nó cắn, thì ông ta bị nọc độc đó mà sắp chết, và đau nhức cũng sắp chết. Do đó chỗ mà Phật ví dụ Thầy thấy rất đúng. Là hiện bây giờ những người đó mà họ chấp lầm những cái tà kiến như vậy rồi thì kể như là họ bị rắn độc rồi, nó cắn chết rồi, họ làm sao mà họ buông ra được. Chúng ta thấy rất rõ bao nhiêu những người mà chúng ta thấy họ đang nỗ lực tu hành chứ đâu phải họ không tu hành, nhưng họ dính mắc đó rồi thì họ tưởng đó là Phật pháp, tưởng là giáo pháp của Phật như cái vị Tỳ kheo Arista này, ông ta cũng như vậy, ông ta đang chấp cái sai lạc. Mà ông còn được đức Phật nhắc nhở và khuyến khích. Cho  nên sau này ông bỏ cái đó đi, ông trở về chánh pháp, ông phòng hộ sáu căn, ông tu Chánh niệm tỉnh thức, ông tu Định vô lậu rồi ông tu Định hơi thở, rồi ông tu Định sáng suốt, rồi ông tu Định hiện tại an lạc trú, ông nhập Bốn thiền, ông đạt được Tam minh. Còn nếu mà ông không nghe, ông cứ nói rằng tâm không dính cảnh, cảnh không dính tâm là giải thoát rồi thì mặc tình mà bay nhảy mặc tình mà đua đòi theo thế gian, thì chắc chắn là đời sống ông tiêu luôn chứ không bao giờ có cái ngày giải thoát được.

Trước khi mà học giới, chúng ta được học những cái điều kiện rất là cần thiết, và thỉnh thoảng Thầy sẽ xen vào những cái bài học giới có những bài kinh để mà áp dụng vào trong Giới bổn để mà chúng ta học để chúng ta thấy được cái thực của đạo Phật là như thế nào đúng và như thế nào sai. Chứ nếu mà không có những cái bài kinh này, mà cứ đọc kinh giới không thì chúng ta nghe chán lắm. Và đồng thời, ở đây không phải là Thầy dạy về giới, mà đem những bài kinh giới này tìm những cái sai mà đập nó xuống hết, để rồi chúng ta tìm lại cái gì đúng của đạo Phật, để giúp cho chúng ta có những cái Giới luật, tạo dựng cái đời sống của chúng ta ly dục ly ác pháp, để đem lại cái sự giải thoát thân tâm của chúng ta trong một cuộc sống hiện tại có giải thoát hoàn toàn chứ không phải thiếu giải thoát, chớ không phải đợi chết đi mới về cái cõi Niết bàn hay là Thiên đàng ở đâu đó nữa. Ở đây không có, hoàn toàn ở tại nơi đây, giờ phút này, ngay bây giờ mà đúng với chánh pháp của Phật là có Niết bàn ở ngay tâm hồn của chúng ta liền. Dù là thân của chúng đang bị những cái thọ nghiệp rất là nặng nhưng chúng ta vẫn thấy nó là bình thường, thì tức là chúng ta đã giải thoát, không còn làm chúng ta đau khổ nữa.

Bây giờ chúng ta tiếp tục học cái giới 82, trong 90 cái giới đọa.

Giới Nắm cầm của báu

Vì sao Phật kiết giới này?  Khi Phật ở tại nước Xá Vệ, có cư sĩ đệ tử ngoại đạo từ nước Câu-Tát-La, trên đường đi dừng nghỉ nên quên cái đãi đựng một ngàn lượng vàng. Các Tỳ kheo đi sau lượm được, đợi chủ đến giao lại. Khi giao lại, người chủ nói thiếu, đến kiện với vua Ba Tư Nặc, vua thẩm xét, biết người ấy dối trá, liền tịch thu tài sản và vàng nhập vào của nhà quan. Đức Phật nhân đó kiết giới rằng: “Nếu Tỳ kheo cầm nắm vật báu, tự mình cầm, hay dạy người khác cầm, phạm tội đọa”.

Nghĩa là của người ta rơi ngoài đường không có được lượm, không được lấy, do đó mà lượm lấy đi người ta sẽ đổ gian mình. Như vậy may là nhà vua có thông minh, mới thẩm xét được cái người bỏ cái túi bạc này dối trá,  coi như là bắt thường, kiểu là dối trá mà bắt thường các vị tu sĩ này cho nên nhà vua mới tịch thu cái của báu đó đi và đồng thời đuổi ông ta đi. Còn các vi Tỳ kheo thì không có tội gì. Nhưng dù sao đức Phật nghe vậy cũng nên chế cái giới này ra cấm các vị Tỳ kheo, thấy của người ta rơi, không được cầm nắm mà hãy tránh đi, đi đi, đừng có lấy.

Thì lúc bấy giờ, Tỳ Xá Khư Mẫu đi khóa hội, ghé vào Kỳ Hoàn lễ Phật, bỏ đồ trang sức ở ngoài cửa, khi trở về bỏ quên không ai giám lấy cất, Phật dạy cho phép được cất vật bỏ quên trong tăng già. Khi ấy các Tỳ kheo đi đường, ngủ nhờ tại phòng của người thợ vàng, ông chủ bận việc đi không kịp cất vàng, các Tỳ kheo phải bảo vệ nên cả đêm không dám ngủ. Phật dạy: “Trừ ký túc xứ để khỏi mất nên lấy cất, nếu muốn cất dùm nên phân biệt rõ hình tướng của chúng, để khi chủ đến hỏi, nếu họ trả lời đúng mới đưa, bằng không đúng như hình tướng đã biết thì nên bảo là không thấy vật như vậy. Nếu của chùa tháp để trang hoàng lấy cất không tội”.

Ở đây thật sự ra theo Thầy thiết nghĩ, người tu sĩ thấy vàng bạc thì thôi, tránh đi, của người ta mất kệ người ta, đừng có cất giữ làm cái gì hết, rồi đây nó sinh họa cho mình đó. Cho nên điều kiện là mình người tu sĩ thôi, tôi không nắm giữ tiền bạc là tôi cứ đi đi đừng có cất giữ cho ai hết, của người ta, nhân quả của người ta, còn thì người ta hưởng, mất thì người ta chịu. Chứ còn cái điều đó mà mình nắm lên thì mình rất là nguy hiểm, rất là khó. Mình không thể nào mà người ta nói sao mình là người tu sĩ cũng phải chịu hết. Còn nếu mình sợ mất của người ta thì nên đem trình cho cảnh sát nó cất nó giữ làm gì thì làm, chứ còn mình đừng có cất giữ. Do đó mà không chừng là khi mình nắm của người ta đi chưa có tới cảnh sát mà chúng lại nắm đầu mình, nói mình ăn cắp nữa, cho nên tốt hơn hết là thấy vàng bạc của báu hay tiền bạc của ai đổ ngoài đường thì thôi mau mau tránh xa, đừng có lại gần đó mà nguy hiểm cho cái đời tu sĩ của chúng ta. Muốn thanh tịnh giới thì không được gần gũi ba cái thứ vàng bạc châu báu này, nó là rắn độc.Biết đâu cái nhân quả của chúng ta đời trước như thế nào, đời nay lụi xụi là chúng ta sẽ trả nhân trả quả đó. Cho nên nhân quả chuyển chứ không phải không chuyển được. Chuyển là chúng ta đừng có mó tới nó là nó chuyển, mà mó tới nó thì đừng có mong là nó chuyển đâu, nó sẽ đưa chúng ta đến tai họa.

Cho nên theo cái giới này, giới mà nắm cầm của báu, không có được chế đi chế lại gì hết, hoàn toàn là người tu sĩ là không có được rờ mó tới nó. Rờ mó tới nó thì tai họa đến với người tu sĩ. Phải biết như vậy, thì chúng ta bất kỳ của ai bây giờ rớt ngoài đường làm gì làm. Chúng ta… nếu mà cái người đó cái nhân quả họ không mất của thì có người cất giữ giùm họ, người cư sĩ khác họ cất giữ chứ chúng ta không phải là người cất giữ tiền của họ. Vì của tiền chúng ta còn không cất giữ chúng ta xả hết, thì chúng ta còn đi cất giữ tiền cho ai. Chúng ta đâu phải làm mọi cho ai mà cất giữ tiền cho họ. Họ bỏ quên đó thì có người người khác cất giữ cho họ. Còn nếu mà cái nhân quả đời trước họ đã gieo thì giờ họ phải mất của, thì người khác lấy của họ thì họ phải trả cái nhân quả đó, có gì mà chúng ta lại căn cớ mà xen vô đó để bị nhân quả. Cho nên cái người tu sĩ chúng ta luôn luôn phải sống ở trong đôi mắt nhân quả. Do cái đôi mắt nhân quả nó làm chúng ta không có một cái khổ nào hết. Còn nếu mà chúng ta không thấy nhân quả thì chúng ta mới lầm lạc ở trong cái chỗ này mà chúng ta thấy.Còn cái giới này chế ra là tạo cho những cái nhân quả chứ đâu có phải là cái… Phải là phải khi mà cất vàng cho người chủ vàng phải coi vàng nó như thế nào để rồi khi mà người ta hỏi mình phải trả lời được. Còn không là mình trao cho người cái khác, lấy của người ta làm sao. Cho nên nó mất công mình đủ thứ hết mà cái tâm mình là cái tâm thanh tịnh, mà ở đó bây giờ cứ để ý ba cái vàng này như thế nào, vàng này có vết thẹo, vàng kia nó có chỗ này chỗ kia. Thử hỏi con người tu chúng ta, mà tâm trí nó luôn luôn nó cứ lo của cải cho người ta như vậy thì tu cái gì. Cho nên chế cái giới này là chế tầm bậy, không có đúng. Thật sự ra, Thầy nói một cái người giải thoát là phải giải thoát chứ không có còn biết cái gì thế gian nữa hết. Đó là giới thứ 82.

Giới 83. Trái thời vào làng.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở nước Xá Vệ, Bạt Năng Đà vào tụ lạc chẳng phải lúc, đánh cờ cùng với các cư sĩ. Cư sĩ bị thua, do tật đố, nên nói tu sĩ buổi mai vào thôn để khất thực, phi thời vào thôn để làm gì? Các Tỳ kheo bạch Phật, Phật kiết giới này. Nếu Tỳ kheo vào tụ lạc phi thời phạm tội đọa.

Ông này ông đi cờ bạc, trời ơi ông tu sĩ gì mà đi đánh bạc mà viết vô đây? Lẽ ra làm gì mà có cái chuyện này được. Thật ra là bày đặt, chỉ ở ngoài đời người ta mới cờ bạc, chứ ông tu sĩ ông còn ham gì mà ông đi đánh bạc, tiền ở đâu mà ông đi đánh bạc, ông có đồng xu nào đâu? Ông này ít ra ông cũng có khối ông mới vô đó ông đặt tiền đánh bạc người ta chứ? Nói thật ra cái giới gì đặt ra mà Thầy thấy nó không có cái lý do nào hết à. Khi ấy các Tỳ kheo có việc của tăng, của tháp, hoặc chăm lo bệnh nhân không dám vào. Phật dạy, có việc cần, cho phép dặn người khác, rồi vào tụ lạc. Các thầy Tỳ kheo không biết dặn ai, Phật dạy nên trở lại dặn Tỳ kheo. Nếu ở riêng một phòng nên dặn Tỳ kheo ở phòng gần. Phật kiết giới lại thêm, không thưa báo.

Sự thật ra, thì đây là cái giới không dạy chúng ta vào làng sớm khất thực thôi. Mà đem cái câu chuyện mà nói ông tu sĩ này đi vào đó đánh cờ bạc, rồi ăn người ta thì nói cái vô lý, rất vô lý. Tiền bạc không có làm sao mà cái người tu sĩ không cất giữ tiền bạc mà làm sao có tiền bạc đi đánh bạc, để rồi người ta phải nói này kia. Ờ mình có bất quá mình đi sớm quá thì mình ghé lại chỗ mấy ông ngoại đạo rồi nói chuyện đồ chơi, lý luận đồ mấy ông chơi, nói chuyện thiền đồ chơi. Hoặc là nêu lên một vài công án rồi cho mấy ông bí chơi vậy thôi, thì cái đó là có lý. Còn đằng này đâu có cái chuyện đó, thì Thầy nói nhiều cái mà đặt ra câu chuyện nó không có lý ở trong cái giới. Nhưng mà cấm vào làng sớm, bởi vì bây giờ mới 7 giờ mà xách bát đi xin thì làm sao, người ta đã nấu cơm đâu mà đi xin. Chỉ có đi dạo chơi thôi. Ở trong tịnh xá thì lo tu hành chứ đâu mà đi dạo kì vậy. Đó là cái cấm thì đó là đúng nhưng mà đặt cái cái câu chuyện ra để mà nói cái giới này thì đó là sai, không đúng.

Giới làm giường quá lượng.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật cũng ở tại nước Xá Vệ, bấy giờ, Ca Lu Đà Di dự biết Phật sẽ đi qua nơi con đường đó, nên bày giường cao tốt để nằm ngồi. Đức Phật thấy bảo các Tỳ kheo, đây là người ngu si bày giường cao tốt lớn, chỉ vì tự kỷ, Phật quở trách nhân đó mà kiết giới này.

Thật sự đây cũng là bày đặt, cái ông này là một vị tu sĩ mà ông mang giường cao ông ra giữa đường ông nằm ông đón ông Phật, ông ghẹo Phật chơi mà. Cái kiểu này ông đâu có phải là người tu, ông muốn chọc ông Phật. Thì như vậy đặt cái này vô đây làm gì? Người đệ tử đến với Phật đâu có làm cái điều mà trêu ghẹo Phật như vậy, trêu ghẹo thầy mình như vậy sao? Để ông Phật, ông chế ra không có nằm giường cao rộng lớn. Lẽ ra cái mục đích mà nằm giường cao rộng lớn này là cái tâm của thế gian cho nên Phật mới chế Thập giới Sa di đó. Chúng ta thấy rất rõ. Còn ở đây giới Tỳ kheo mà chế cái kiểu này thiệt ra vô lý à. Cái giường người Tỳ kheo đã phải ly dục ly ác pháp phải hiểu nhiều hơn cái chú Sa di chứ. Thế mà cái giới Sa di thì nói nghe nó đơn giản, nó rõ ràng, nó đúng. Ở đây mà đem cái chỗ này ra mà nói ông này đem giường cao rộng lớn. Biết bữa nay là Phật đi ngang đó mình xách cái giường cho đẹp ra, giường này làm bằng thứ loại cây gỗ đắt giá này, rồi bóng loáng này, đem cái đệm mút để lên một chồng vậy nè, rồi mình đặtđó mình nằm để ông Phật đi ngang qua đó, thế nào về ông cũng chế cái giới này ra chơi. Có phải ghẹo Phật không. Từ lâu tới giờ, ông này chắc là trong đạo Phật không có cái giới này chứ gì? Sa di vô đã có giới này rồi, mà bây giờ còn đem ghẹo Phật để Phật chế cái giới này nữa. Như vậy là cái lầm lạc, cái sai. Bởi vì mấy ông đặt giới này thiệt ra mấy ông không có hiểu gì hết à. Ở trước kia đã nói rồi, giới Sa di đã nói rồi mà bây giờ còn đem chọc ghẹo ông Phật nữa, để ông chế lần nữa chơi. Thiệt là cái chuyện làm cái trò đùa chứ không phải là cái kinh giới, là cái thực để chúng ta tu tập.

Giới 85, giới dồn bông làm nệm giường.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật còn ở nước Xá Vệ, Lục quần Tỳ kheo làm nệm giường độn bằng đâu la, cư sĩ chê bai là không có lòng từ đoạn mạng chúng sanh, giống như vua chúa, đại thần. Phật nhân đó mà kiết giới này. Đâu la miêng là lông dê, bạch dương, hoa liễu, hoa bồ lê, hoa chim bặc, bông gòn, thảo nguyên, mộc miêng, tiếp bối, hoa a ưa cu la, hoa ba cu la, hoa cu xá la, hoa gian xà, hoa ba ba xà và hoa li ma. Tất cả những cái bông này chắc có lẽ là nó mềm lắm. Nó rất mềm như bông gòn của mình vậy, cho nên mấy ông này lượm lấy những cái hoa này mà bỏ vào, cũng như mình thấy những bông mút nó bay đố, lượm lấy mấy cái sợi bông mút đó mới góp lại mới ra thành ra mà làm cái gối làm cái nệm, dồi cho nằm nó êm. Thì đó là những loại hoa mà nó có những cái cánh hoa rất là mềm mại, cho nên mấy ông này làm như vậy để mà nằm cho êm.

Thật sự ra, một người đi tu rồi còn cái gì nữa mà ở đó làm nệm êm, thôi ở ngoài đời đi, mua những cái đệm người ta làm sẵn đó mặc sức nằm chứ vô đi tu rồi mà còn làm cái chuyện đó Thầy thấy... Nhiều cái này nó đặt điều như thế này Thầy thấy không bao giờ một người tu sĩ mà chúng ta chấp nhận được hết. Một người đã quyết tu rồi thì họ không còn bao giờ mà ham nằm ở trên cái đệm êm hết, họ nằm ở chỗ nào cũng được, đơn giản để cho họ lo tu tập, vì cuộc đời tu tập đâu có rảnh rang, đâu có thời gian đâu mà lo cái chuyện ăn chuyện nằm.

Luật tăng kỳ nói: Tỳ kheo đi đường hay vào nhà cư sĩ mà các loại bông trên đây bị gió thổi bay vướng vào y áo, không phủi đi để vậy ngồi cũng phạm tội Đột cát la. Nghĩa là để những cái bông đó mà dính vào trên áo cũng là phạm tội. Thiệt ra nó lỡ nó bay vướng chứ ai muốn. Từ từ người ta về người ta giặt chứ ai để thứ đó. Đâu phải dính ở trên đó thành nệm êm sao. Chế cái giới gì mà lạ lùng vậy? Thầy cũng chả biết mà phạm cái tội nữa.

Giới làm ống đựng kim bằng xương, nanh, sừng.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở núi Kỳ xà quật, có người thợ tin ưa, vị Tỳ kheo làm ống đựng kim bằng nanh, xương, sừng cho gia sự bị nghèo thiếu, người đời chê bai làm phước mà mắc họa, đức Phật nhân đó mà kết giới. Cái ông thợ này chắc khéo lắm, lấy xương gà, xương heo, xương bò mới tiện làm những cái ống kim để mà cúng dường cho các tu sĩ. Nhưng mà cứ làm mãi cúng dường vậy tưởng đâu được phước được giàu, ai dè cuối cùng thì ông này nghèo thiếu, cho nên người ta nói làm phước mà sao mắc họa. Đó thì chúng ta cũng thấy rõ ràng là làm sai, làm không đúng cho nên nó không đem đến cái hậu quả tốt, cái kết quả tốt. Cho nên đạo Phật cái gì đúng là sẽ có kết quả mà cái gì làm sai là chịu lấy à. Dùng xương nanh sừng tự làm, hay là dạy người khác làm thành thì phạm tội đọa, không thành thì phạm tội ác tác. Nếu vì người mà làm thành hay không thành đều phạm tội Đột các la. Bốn chúng đều mắc tội Đột các la.

Ai đời một tu sĩ mà mang đôi dép bằng da trâu da bò được, ai đời một tu sĩ mà làm cái ống đựng kim bằng xương bằng sừng con vật được, không thấy sự đau khổ trong đó sao? Thì như vậy là chúng ta bây giờ có không bắt tội nữa chúng ta cũng không được dùng những thứ đó nữa được. Vậy vẫn có người chưa có biết thấy giày da, thấy những cai loại dép da đồ khoái lắm, mang dữ lắm, ham lắm chứ chưa phải là không mang đâu, tưởng nó là sang lắm cho nên đi khoe khoang cái đó, nhưng mà không ngờ đó là cái đau khổ của chúng sanh.

Giới may tọa cụ quá lượng.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật còn ở tại núi Kỳ xà quật, ngày mà đức Như Lai không đi thọ thỉnh, Ngài đi khắp các phòng xá, thấy tọa cụ của chư tăng bị nhớp, không sạch, Phật cho phép các Tỳ kheo làm vật ngăn thân, ngăn y, ngăn toạ cụ bằng nghi sư đàng, Lục quần Tỳ kheo bèn làm vừa dài vừa rộng. Nhân đó Phật kiết giới này. Bấy giờ Cu La Đà Di thân lớn không đủ để ngồi, Phật thấy vậy nên cho phép mỗi bên thêm nửa gang tay. Làm cái tọa cụ chắc là nhỏ quá, cho nên cái ông này bự quá bự ông ngồi cái không được, vì vậy cho nên Phật còn chế thêm cho ông chút nữa.

Sự thật ra thì cái người mà con người có lớn bao nhiêu nữa thì cái người nhỏ cũng có dư rồi, còn cái người lớn thì chế một lần chứ chế đâu mà chế hai ba lần, tiết kiệm thì cũng phải phải tiết kiệm cho có đúng cách của nó chứ làm sao. Thí dụ như bây giờ ở trong chúng chúng ta nè, ai là người lớn nhất nè, mập nhất nè, thì mình lấy cái lượng đó đó mình tính. Ờ bây giờ như vậy là mỗi người đều làm một cỡ như vậy hết thì đâu cần gì mà phải chế tới chế lui. Còn ở trong chúng có ông mập quá, lớn quá, ngồi chật hết cái xe cam nhông. Mà bây giờ cho làm cái miếng vải có bằng bàn tay vậy thì biểu ông ngồi thiền ông ngồi toàn đất cát không thì ông không chịu cho nên vì vậy mà phải chế trở lại. Thầy thấy cái sự mà chế đi chế lại có nhiều cái là người sau đặt ra, chứ còn không phải đâu. Ở trong giới kinh Thầy thấy đức Phật viết một lần, chứ không nói chế đi chế lại, mà rất đầy đủ ý nghĩa của giới hết, không có như giới bổn này chế đi chế lại, chế mãi chế lui, chế gì đủ thế chế, làm như ông Phật ngu si quá ngu si không sáng suốt gì hết, chế rồi phải chế tới chế lui.

Giới 88, giới may áo che ghẻ quá lượng.

Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật khi còn ở tại núi Kỳ xà quật, các Tỳ kheo bị sanh nhiều thứ ghẻ, máu mủ nhớt thân như y tọa cụ, Phật cho phép làm áo che ghẻ bằng vải thô nhiều lông, khi gỡ ra bị dính lông đau nhức, Phật cho phép dùng vải nhuyễn làm áo che ghẻ. Nếu đến nhà bạch y mời ngồi nên nói tôi bị bệnh hoạn, nếu chủ nhà nói cứ ngồi thì nên vén quần lên, lấy áo che ghẻ, che rồi mới ngồi. Lúc bấy giờ Lục quần Tỳ kheo bèn làmáo che ghẻ quá dài quá rộng, Phật nhân đó mà kiết giới.

Làm quá mấy ông này vải sồ đó quá dư à, y như là mấy ông đó là cái tiệm bán vải, nghe nói đâu cái ông làm dài ra, đâu có chuyện mà dễ như vậy. Làm người tu sĩ đi xin người ta miếng vải cũng đâu phải chuyện dễ đâu. Bây giờ thì chúng ta vải sồ nó dễ may nó dễ dệt bằng máy móc thì thấy nó nhiều như vậy, nhưng rồi một người tu sĩ chúng ta cũng phải là cái người biết tiết kiệm, bởi vì mình có làm ra tiền đâu, đi xin người ta, cho nên mình đâu có làm cái chuyện mà quá thừa như vậy. Một tấc vải chúng ta cũng còn tiết kiệm huống hồ là cái này may dài chơi như vậy thì chẳng qua là phí của đàn na thí chủ. Ở đây nhiều cái Thầy nói thiệt ra cái ý mà cái người mà đi tu không có cái… khi mà đến mà học được cái giới hạnh của đức Phật rồi thì người ta thành thiểu dục tri túc rồi, người ta đâu có phí như vậy. Thế mà hai chữ thiểu dục tri túc này nó áp dụng ở chỗ nào đâu? Mà chế lại những cái giới này như vậy? Như vậy là cái thiểu dục tri túc nó có nghĩa gì mà đặt ra cái tên nó để mà chơi. Thành ra nó có những cái sai khác.

89, giới may áo tắm mưa quá lượng.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật còn ở núi Kỳ Xà Quật, Tỳ Xá Khư Mẫu đem áo tắm đến Công Tăng Già Lam để cúng chư tăng, tăng phân chia, Phật dạy áo này không nên chia tùy Thượng tọa phú cho, nếu có đủ thì chờ kỳ sau chia tiếp. Lúc đó được cái y quý giá, tiếp tục chia, Phật dạy không nên làm như vậy, nên đưa đổi cho Thượng tọa, nếu Thượng tọa đã nhận được rồi thì nên chuyển đến Hạ tọa, nếu không đủ chia thì nên lấy y vật có thể chia cho tăng để chia cho đủ. Lục quần may nhiều áo tắm mưa vừa dài vừa rộng, đức Phật nhân đó mà kiết giới này.

Cũng lấy mấy người này ra mà nói thôi. Cư sĩ là cái bà Tỳ Xá Khư Mẫu này, là người cư sĩ người ta thường trông nom tăng chúng, người ta đem áo đem này kia, người ta cúng dường, thì như vậy có mình đủ chia màkhông có thì mình giao lại cho cái người cư sĩ đó người ta đem về, chứ làm gì mà mình cất ở trong cái chùa bằng vách lá tầm vông như thế này, mưa nó dột nó ướt cả kho thì làm sao? Mà quý thầy cứ nghĩ rằng khi mà một cái số tu sĩ 1250 vị Tỳ kheo như vậy, một vị mà cư sĩ người ta muốn cúng mà đủ cho cái số này thì ít ra cũng nhiều lần mới đủ chứ đâu phải một lần mà đủ được. Cho nên ví dụ lần này người ta cúng như vậy thì mình xin người ta, khi nào mà đủ cúng thì tôi nhận. Bây giờ mà cúng như vậy là bây giờ trong cái số 1250 vị này, mấy người mà rách y áo, còn bao nhiêu người không rách thì mình phải báo trước cho người ta, người ta đem đến cúng đủ nó đủ thì mình chia ra, cần gì mà phải… Thì thường thường là cái người cư sĩ họ muốn cúng y áo là họ phải đến trình với một vị thầy, một vị trụ trì. Bây giờ chúng tăng là bao nhiêu người, họ xin cúng mỗi người là một bộ đồ hoặc một cái y cái áo nào đó người ta xin trước và mình nhận ra cái số tu sĩ của mình là người nào mà đang rách thì mình chấp nhận cho họ nhận y áo, còn người nào mà không rách thì đâu ai chấp nhận làm gì?

Quý thầy thấy trong cái vấn để đó nó đâu nó ra đó đàng hoàng chứ đâu có phải là không biết được cái này. Cho đến khi người ta cúng dường như vậy rồi bắt đầu đem cất giữ đi. trong thời ông Phật ông đâu có bảo giữ của như vậy? Thầy thấy ông thường là du tăng khất sĩ, ông đi đến chỗ này chỗ kia, cứ một tháng hai tháng, năm ba ngày thì ông đi đến chỗ này chỗ kia, ông đâu có ngồi một chỗ đâu mà ông giữ của đó. Thành ra nếu mà cái của mà 1250 vị Tỳ kheo này các con biết cái số vải đó mà chất cho đủ mà phát cho đủ, thì phát đống đó đi thì cũng như là cái lực lượng bát giá xe tăng mà quảy thì mới có nổi chứ mà cái thứ nhỏ nhỏ ốm ốm như Thầy làm sao quảy nổi cái đống vải đó. Phải nói là cái số lượng nó quá lớn chứ đâu có ít. Vì vậy cho nên có đủ mà phát chia ra, còn bây giờ mình coi : ờ cái số chúng đó cũng như bây giờ mình đây là mười mấy người này, mà người nào rách thì thầy nhận, thì  cao lắm thì cũng hai ba người thôi, chứ đâu có lý nào hết cả đám với nhau được hết đâu. Cho nên bây giờ ở đây có mấy người rách à, thôi bây giờ cư sĩ muốn cúng dường thì cúng cho ba người hay mấy người này rách. Thì người ta về người ta may mấy bộ đồ, về đó mình phát thì mấy người kia người ta còn, người ta đâu có phân bì đâu. Thì các thầy thấy đâu đó nó ra đó chứ, đâu có lý nào màở trong cái tăng đoàn mà không biết tổ chức như vậy? Để cho người ta mang cả gói cả quảy... (đoạn này bị mất âm thanh) … cái lộ cái bộ mặt thật của họ mà chế giới ra rõ ràng.

Bởi vì họ ở sao họ phải nói vậy chứ, họ có phải du tăng khất sĩ đâu mà họ biết cái đời sống du tăng khất sĩ như thế nào đâu họ nói. Cho nên họ nói trật lất hết à. Vì vậy mà những cái họ đặt ra đây Thầy thấy nó quá là trật, không có đúng cách . Cho nên, họ sống sao họ nói như cái kiểu của họ, cho nên nó sai, rất là sai. Vì vậy màtoàn bộ cái Giới bổn đều phải có sự chỉnh đốn trở lại hết chứ không có thể để như thế này được.

Tiếc vì Thầy chưa có những cái bậc mà đồng tu chứng quả Alahán tức là đồng tu mà chứng được Thiền định, nghĩa là làm được như Thầy hết mà cỡ mười người là chúng ta kết tập hết lại kinh sách của Phật lại hết. Mười người thôi chứ thầy chưa nói là 100 người. 10 người mà đạt được, chúng ta đồng lòng hết tất cả mọi cái việc mà chúng ta đã chứng biết được, hiểu biết được, chúng ta thấy được mặt thật của ông Phật thật, vì chúng ta dùng Tam minh chúng ta thấy được mà trong 10 người chúng ta đều thấy được, đó là cái niềm tin sâu. Và đồng thời chúng ta dùng để quán xét lại kinh sách của Phật ngày xưa như thế nào. Cái thời quá khứ nó sẽ trở lại với chúng ta hết, từ đó chúng ta sẽ kết tập lại kinh sách hết, và Giới luật chúng ta cũng kết tập lại. Còn ba cái thứ này chúng ta đem đốt sạch, không có để nữa.

Hôm nay Thầy nói cái lời nói Thầy còn mãi mãi muôn đời chứ không phải bao giờ hết. Mà mấy còn mà giữ được thì nó còn hoài, và nếu không giữ được thì mai mốt những cái băng này nó sẽ mất đi thì cái lời nói này nó không còn nữa, và đồng thời cũng không còn có người thứ 2 dám nói điều này. Thầy ước ao rằng trong chúng ta có người tu chứng, làm được những cái điều mà Phật đã làm như trước kia, thì chúng ta sẽ chấn hưng và làm tốt lại Phật pháp sau này. 10 người à, chứ không cần nhiều đâu, quý thầy hãy cố gắng mà tu tập, để cùng Thầy mà làm cái việc lợi ích cho Phật pháp, và lợi ích cho chúng sanh, toàn các con người ở trên cái hành tinh này. Những lời mà Thầy nói là một cái ước vọng của Thầy rất lớn, mong các thầy tu cho được để làm lợi ích rất lớn cho loài người.

Giới 90, giới bằng vàng y của Phật.

Vì sao Phật kiết giới này? Xưa Phật ở nước Thích Xí Xậu, nơi vườn Ni Câu Lại, bấy giờ Nan đà chỉ thấp hơn Phật có 4 ngón tay. Tỳ kheo từ xa thấy tưởng là Phật đứng dậy đón, cả hai bên đều thấy xấu hổ, do đó Phật khiến Nan đà mặc y màu đen để dễ phân biệt. Bấy giờ Lục quần Tỳ kheo may y bằng hay là quá lượng y của Như Lai, các Tỳ kheo bạch Phật, Phật nhân đo mà kiết giới.

Ở trong cái câu chuyện này, ông (Nan đà) chỉ thấp hơn Phật có 4 ngón tay thôi nhưng mà chắc có lẽ là ông giống Phật lắm, cho nên là từ xa các vị Tỳ kheo thấy cái tướng của ông là (Mặt B) tưởng là đức Phật, cho nên họ đứng dậy họ đón, nhưng mà khi thấy ông đi tới, thì ra là ông Nan đà, chứ không phải là đức Phật, cho Phật nghe được cái điều này mới sau này bảo ông Nan đà đừng có mặc cái y màu vàng, mà hãy là đắp cái y màu đen để cho người ta thấy cái hình ông Nan đà, người ta phân biệt được Phật với ông Nan đà nó có khác nhau ở chỗ cái y màu đen với cái y màu vàng.

Đó thì như vậy. Nhưng mà sự thật ra Thầy thấy sao đặt cái điều này Thầy thấy ở đời sao không thấy có cái y màu đen mà Thầy thấy dường như là ở bên Nhật Bổn thì có những cái y màu trắng màu đen có lỗ trắng lỗ đen thì có, chứ còn ở Việt Nam thì chúng ta thấy nó cũng không có điều đó. Mà có y điều màu đỏ mà thôi. Màu đỏ dường như là vua chúa phong kiến lấy cái màu sơn son màthép vàng, lấy cái màu đỏ. Cho nên từ cái y hoại sắc của tu sĩ thì nó biến thành cái màu đỏ của phong kiến của Trung Quốc. Cho nên sau này Thầy thấy quý thầy hình như có mặc cái y màu đỏ. Lần lượt thì người ta cũng dần dần người ta bỏ, người ta còn mặc cái y màu vàng, nhưng cái y màu đỏ vẫn còn và có viền này kia nọ, viền kim tuyến chói lóng lánh, làm sang lắm. Những cái y đó là  của vua ban đồ đó. Thì những cái đó là những cái không đúng theo cái cách thức ăn mặc của đạo Phật, vì cái ăn mặc của đạo Phật không có làm sang trên cái bộ y áo của mình, mà đơn giản bằng những loại vải thô vải xấu, bằng những cái thứ bó thây ma, như y phấn tảo vậy. Đó là những cái hạnh của người tu.

Người tu mà mặc cái y mà sáng láng chói rực rỡ, như cái y của ông Tam tạng đó, cái ông mà đi thỉnh kinh á. Mà nói rằng cái y mà hào quang chói nhấp nhánh nhấp nhánh lên là cái vật báu đó. Thì thật sự ra mộtngười tu sĩ đã thấy cái vật báu là người ta đã tránh xa. Cho nên vì cái ông Tam tạng mà có cái vật báu cho nên ông bị nạn là phải. Bởi vì có vật báu là có tai họa. Còn cái người tu sĩ chúng ta mặc cái y này, chớ nó cũng còn tốt đó. Chúng ta lượm cái vải thây ma mặc thì chắc không ai dám rớ tới nó. Nghe nói cái y đó mà về mà đắp là chắc chắn ma nó đến nó ôm mình đó. Cho nên người ta thấy cái y phấn tảo là người ta đã hoảng sợ. Vì vậy cho nên ở đây theo Thầy thấy giữa cái câu chuyện này đặt ra như vậy, Thầy nghĩ rằng đức Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp thì ông Nan đà này cũng có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp sao? Cho nên hai người này phải giống nhau chứ vì vậy vmà ở xa thì người ta nhìn thấy ông Phật với cái ông Nan đà này giống hệt như nhau cho nên người ta mới đứng dậy chứ? Đó thì cái như vậy thì chúng ta thấy rằng từ cái chỗ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp lại có một người có như vậy nữa, thì như vậy là không có, không có cái điều đó.

GIỚI TỨ HỐI QUÁ

Bây giờ chúng ta tiếp tục là kiết giới Tứ hối quá, bốn cái giới mà hối quá này.

Tứ hối quá theo tiếng Phạn là Ba la đề xá ni, Tàu dịch là hướng bị hối, nghĩa là bốn pháp đến người khác để xin sám hối. Bốn cái pháp này mình đến với cái người khác để mình phát lồ mình xin xám hối. Tỳ kheo nào mà phạm một trong bốn tội này liền phải đến gặp Tỳ kheo khác mà phát lồ sám hối, xin được quở trách, xin được mắng chửi, xin được có cái sự rầy dạy, khuyến bảo, không được che giấu. Nghĩa là cái người mà bị phạm lỗi đó, đến xin vị đó mà rầy mắng mình hoặc là khuyến dạy mình để cho mình không có vi phạm nữa. Đó gọi là bốn cái giới hối quá.

1. Giới thọ thức ăn của ni, không phải bà con.

Vì sao Phật kiết giới này? duyên Kkhi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, gặp lúc mất mùa, khất thực khó được, Liên Hoa Sắc Tỳ kheo ni liên tiếp 3 ngày khất thực rồi đem cúng cho Tỳ kheo đến nỗi đói té xỉu bên đường, Trưởng giả ngồi xe đi qua hỏi biết sự tình bèn liền trách Tỳ kheo không biết nghĩ nhượng, bèn mời ni về nhà, giặt y cúng dường. Các Tỳ kheo bạch Phật, Phật kiết giới: Nếu Tỳ kheo vào trong thôn, tự nhận thức ăn của Tỳ kheo ni mà ăn, Tỳ kheo ấy nên đến Tỳ kheo khác nói: “Thưa đại đức! Tôi phạm pháp, đáng quở trách, làm điều chẳng dám làm. Nay đối với đại đức xin phát lời sám hối”. Đây là pháp hối quá.

Ở đây một cái câu chuyện như thế này này: Bà Liên Hoa Sắc Tỳ kheo, đi khất thực đi khất thực suốt ba ngày mà ngày nào khất thực cũng có đồ ăn hết. Đem về thì mấy ông Tỳ kheo tăng đón đường, thì bà phải trút đồ ăn của bà cho mấy ông đem về ông ních. Mà ngày nào thì mấy ông này cũng ra đón đường bà này hết, cho nên 3 ngày rồi mà bà không có ăn được hạt cơm nào hết, cứ hễ đi xin về mà gặp Tỳ kheo mà không có thì trút đồ ăn từ trong bát mình cho họ. Thầy cũng không hiểu tại sao có cái lệnh kỳ cục vậy, tại sao nó đặt ra như vậy? Để cho đến khi 3 ngày bà này bà đi xin như vậy không có hạt cơm ăn nào ăn trong bụng, bà ngất xỉu ngoài đường. Gặp cái vị màcư sĩ Trưởng giả này đi ngang qua mới hỏi thăm mới biết sự tình như vậy, thì mới đem bà này về giặt y áo rồi cho ăn cho uống này kia, bà mới trở về và vì vậy mà khi đức Phật nghe cái tin này mới đặt ra cái giới đó.

Bây giờ đó lại là cái giới là “Giới thọ thức ăn của ni không phải bà con”, cái giới đặt ra cũng còn kỳ nữa, Thầy nghĩ cũng lạ, ni này nó không phải bà con của mình thì mình không cho nhận thức ăn, như là bà Liên Hoa Sắc Tỳ kheo này. Những cái vị Tỳ kheo khác là xa lạ với bà ấy, cho nên bây giờ các vị Tỳ kheo khác mà gặp bà ấy đi khất thực mà xa lạ thì bà không có trút đồ ăn vô trong cái bát của các vị Tỳ kheo này. Nhưng mà bà là có một vị Tỳ kheo mà bà con với bà, chắc chắn vị tỳ kheo này bà cũng trút đồ ăn của bà cho cái vị Tỳ kheo đó, cho nên chế cái giới này chắc còn có cái giới nào nữa đây.

Thầy nghĩ rằng có những cái mà có thể nói rằng nó tiếp tục nó đặt điều ra như vậy, chứ đâu có lý do nào mà cái chuyện mà phi như vậy, người nào đi khất thực người ấy ăn chứ tại sao mà có cái chuyện ăn cướp của phụ nữ như vậy, cái người tu sĩ gì mà lạ lùng quá vậy. Đó thì như vậy là chúng ta thấy rõ ràng là có những cái giới nó không có đúng với cái tư cách bình đẳng của người tu hành, làm quá vua chúa à, mình chẳng cần đi khất thực cứ ngồi xung quanh cái chỗ mà của tu viện ni đi, chờ họ đi khất thực cái về, họ về gần tới nhà họ cái mình đưa cái bình bát của mình ra cái họ rót, rồi họ dô trong thất họ ở đó. Chơi cái kiểu này là mấy ông tăng ông lười biếng là mấy ông chơi kiểu đó, cái tu viện ni ở đây, bắt đầu ông ngồi trước cửa, mấy bà đi khất thực ngoài Trảng Bàng về được bao nhiêu đón lấy hết, cái chùa ni nó đói thấy bà nội luôn. Có không? Cái giới gì chế mà kỳ cục vậy Thầy chẳng biết đâu mà nói.

2. Bây giờ giới “Thọ ni chỉ bảo cho thức ăn”.

Khi đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, các Tỳ kheo cùng với Lục quần thọ trai trong nhà bạch y. Bấy giờ Lục quần ni và Lục quần Tỳ kheo đòi cơm canh, kêu nói “Mang canh đến đây”. Làm giống vô tiệm vậy, thiệt quá trời quá đất, Thầy nói ông thầy đi xin mà gọi người ta cái kiểu là  như mình vô tiệm mà gọi vậy. “Đem cơm đến cho vị kia”. Thật sự ra mình vô tiệm mình cũng ờngười ta đưa cái bản thực đơn mà để mình coi cái thực phẩm mà để mình gọi đó, rồi mình coi mình gọi, bảo nó đem ờ mình  nào canh, nào cơm, đồ chiên đồ xào gì đó, mình gọi đủ các thứ đồ ăn của mình rồi, bắt đầu ngồi chờ chứ chưa chắc gì mình gọi kỳ cục vậy. Còn ở đây, vô mà thọ trai nhà người ta mà mình gọi làm như mình vô ăn tiệm vậy đó. Thì những cái hành động này Thầy thấy sao mà họ chế ra được như vậy, chắc là lẽ mấy ông thầy này vô tiệm ngồi ăn gọi quen rồi bây giờ chế giới cũng như vậy thôi. Chứ còn mình không có làm cái điều đó mình biết đâu mình gọi, phải không? Cho nên mấy ông thầy này mà chế giới này là từng ăn tiệm cơm rồi, thế nào cũng vô đó mà gọi bồi lung tung rồi, biểu mang cái này mang cái kia ra đó. Cho nên chế cái giới này màThầy đọc tới đây thầy mắc tức cười mấy ông này là chuyên môn ăn tiệm này, ăn tiệm cơm chay chứ không có gì đâu, khiến cho các vị ngồi chặng giữa không nhận được thức ăn. Kêu cứ đi kêu đến cho mình, mấy người khách vô ngồi nãy giờ người ta chờ mà không có thức ăn, còn mình gọi lia lịa. Cho nên bồi bếp nó lật đật nó mang đến cho mình mà bỏ những người kia. Như vậy là mình thấy cái phạm hạnh của người tu là ở chỗ nào? Rõ ràng là lấy cái oai vệ của người tu mà làm cái vẻ của mình là như quan, vua chúa vậy. Vô tiệm, làm ào ào, thì cái giới này thiệt ra Thầy nói chế ra như vậy thì chắc chắn là mấy ông tăng này hồi đó dữ tợn lắm, chứ không phải là thường đâu, sống còn hơn mình bây giờ nữa, cho nên mới có những giới đó mà chế ra. Chớ không thời đức Phật thì Thầy nói chắc chắn không có mở tiệc cơm chay đâu, chỉ có đi xin thôi chứ không có vô tiệm mà ngồi ăn cái kiểu đó được.

3. Giới ở nhà học gia thọ thức ăn.

Vì sao Phật kiết giới này. Khi đức Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật, bấy giờ các Tỳ kheo thường tới nhà cư sĩ, có tin ưa nhận thực phẩm cúng dường đến nỗi gia đình nọ bị nghèo thiếu, những người ngoài ở gần thấy vậy cười chê các Tỳ kheo. Đức Phật nhân đó bảo chúng tăng, bạch nhị yết ma tác pháp học gia mà kiết giới này.

Nghĩa là mình cứ đến cái nhà nào mà mình tin ưa họ đó. Thấy người ta cúng dường mình mãi đó, mình cứ lo mình đến đó ngày nào mình cũng đến xin, xin riết người ta nghèo mạt người ta. Người ta đâu phải người ta làm để người ta cho mình. Thì cho nên Phật chế cái giới này là vì ngăn cản không có cho mình đến xin một nhà mãi, mà mình thấy cái người này họ tốt bụng mình cứ xin hoài.

Lẽ ra Thầy nói cũng có chứ không phải không. Lúc mà Thầy đi khất thực Thầy cũng có cái bụng như vây, hồi Thầy mới khất thực mà, Thầy thấy thầy đi ngang qua cái chỗ đó họ cho mình, bữa nào cũng lẽo đẽo đi ngang qua chỗ đó để cho người ta cho. Còn đi mấy chỗ khác họ không cho. Cái tâm lý của mình nó kỳ, khi thấy người ta cho mình cứ đi hoài, chừng nào mà họ không cho mình nữa mình không đi. Đó, đó là cái tâm của mình, tự nhiên mình chưa có giải thoát thì cái tâm đó nó khởi lên thì mình có thấy rõ, cho nên Thầy biết Thầy rõ lắm, chứ không phải là không biết. Vì vậy là những cái đó mình phải học mà biết tâm của mình chứ. Hồi mà Thầy ở Giác Ngộ cũng vậy, Thầy thấy bữa đó, ví dụ như quý thầy nói: Bữa nay Thầy đi khất thực, Thầy đi lại cái lò bành mỳ Thầy khất thực cho tụi này một bữa ăn bánh mỳ đã coi, Thầy nói “được được”. Rồi bữa đó cái Thầy đi, cứ đi luẩn quẩn mấy cái tiệm bánh mỳ, mấy cái lò bánh mỳ. Cai lò bánh mỳ nào mà cúng dường mình nhiều là Thầy bữa đó tính chắc chắn là mình đến đó. Đúng vậy khi Thầy đến đó, bắt đầu đi ngang qua đó thì bắt đầu nó ở trong đó nó cho người chạy ra: “Bạch thầy hôm nay chủ nhà con xin Thầy dừng lại để chủ nhà con cúng dường cho thầy”. Rồi bắt đầu nó đem ra cỡ khoản 20-30 ổ bánh mỳ, nó bảo thầy phải đưa cái tay chứ bình bát thầy làm sao nhét hết. Thầy mới lấy cái y của Thầy như vậy, Thầy đưa lên như vậy thầy đỡ ra hết bánh mỳ, chứ còn cái tay mình làm sao đựng hết. Thành ra chừng đó mình ôm bánh mỳ đi về. Đi đường thiệt ra nếu người ta biết được thì người ta cười ông thầy dữ lắm, nhưng mà tại hồi đó tại vì mình cũng tham, mình đem về cho chúng ăn mà, cho nên mình cứ ôm mình đi, trời ông thầy gì mà đi khất thực mà ôm một ôm bánh mỳ?

Thầy nói có nhiều cái mà Thầy nghĩ bây giờ mà mình học lại cái Giới luật của Phật, mình thấy mình sai quá sai. Và mình sai trong lúc đó ai biết được, những người xung quanh đó là cư sĩ không ai biết hết, chỉ thấy ông thầy đi xin về ăn thôi, về cả chùa ăn chứ không phải ông ăn một mình ăn nổi. Nhưng mà người ta thấy mình làm như vậy tốt, chứ chưa phải. Chính cái đó là cái sai, cái tham của mình đó. Tham cho một mình mình chưa đủ, mình tham cho người khác. Bổn phận của người nào phải đi khất thực mới đúng, chứ không phải đi xin cho người khác ăn. Mình làmcái đó không tốt, chứ không phải tốt đâu, mình làm cho một số tu sĩ khác lười biếng. Phải hiểu. Cho nên già rồi, Thầy nói đọc trongThánh ni, bà già rồi bảy mươi mấy tuổi rồi mà chống cây gậy lê lê đi xin. Chứ không có một vị nào đi xin đem về cho bà đó ăn thì các con đủ biết đạo Phật rất là công bằng, chứ không phải là nói rằng bà già rồi, người khác phải đem đến cho bà đâu. Tu như vậy mới thật là tu, mới có những cái hạnh của nó.

Như vậy chúng ta mới thấy rằng đạo Phật nó quý là ở cái chỗ mànó rất là bình đẳng. Còn ở đây, những cái hạnh mà Thầy vừa qua, Thầy kể cho các con để nghe cười chơi thôi, đúng là cái tâm niệm Thầy lúc đó cũng còn phàm phu lắm, chứ không phải là giải thoát đâu. Còn bây giờ thì Thầy thấy Thầy không ham nữa, bởi vì Thầy biết nó bất là tịnh rồi, mà Thầy cũng biết rằng những cái người ngồi mà không đó chờ Thầy đi khất thực về ăn là cái sai rồi. Hồi đó Thầy không biết, Thầy chỉ nghĩ mình làm điều tốt cho người ta thôi, mình làm cho người ta được no là mình có phước thôi, nhưng mà không ngờ thật sự ra thì Thầy đưa những người đó xuống địa ngục và Thầy là người bị tội, bị tội phá giới, không đúng cái hạnh của người tu.

4. Giới thứ tư, giới chỗ sợ hãi thọ thức ăn.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn Ni câu lại, bấy giờ trong thành Ni xá, các phụ nữ đến tăng già lam cúng dường, trên đường đi bị giặc nhiễu hại. Đức Phật bảo các thầy Tỳ kheo nên nói với các phụ nữ đừng ra khỏi thành, trên đường có giặc khủng bố, nếu họ đã ra khỏi thành thì nên nói dừng, đừng đến chùa, vì cớ ấy nên Phật mới kiết giới này. Nếu họ đến thọ giáo sắc, khi nghe pháp Tỳ kheo tự có thức ăn riêng, nay trao cho thì không phạm.

Nghĩa là bây giờ trên con đường đi mà đến chùa thì nó có một cái đoạn đường vắng, trộm cướp nó dữ lắm, ăn cướp nó dữ lắm. Cho nên hầu hết là cư sĩ đến chùa cúng dường thì nó rất là khó khăn, mà nếu mà đến chùa mà cúng dường rồi thì nó không có gì ăn thì trong chùa nên cho các vị cư sĩ đó ăn, Tỳ kheo nào có thức ăn riêng. Ở đây, nói sao mà thầy nghe nó lạ lùng lắm, Tỳ kheo đi xin ăn rồi thì bỏ hết không có còn cất giữ riêng, mà tại sao còn có cất giữ riêng, để khi mà có những người phụ nữ mà họ đi cúng chùa, trời tốt rồi họ không giám về, họ ở lại thì lấy thức ăn của mình riêng ra cho họ ăn? Nghĩa là như thế nào Thầy có biết sao đâu. Đó là những cái Giới luật kỳ cục quá vậy. Thầy thấy nó không đúng cái tính cách của một cái sự giải thoát của Giới luật của Phật. Tại vì, chúng ta đi khất thực ăn rồi thì bỏ hết, không còn có gì hết. Rồi bây giờ trên cái đường đi mà khó khăn như vậy, thì ít ra thì người phụ nữ họ cũng biết cái đoạn đường đó khó như vậy, thì họ đến chùa sớm rồi họ về sớm chứ sao lại kề cà ở đến tối mà không dám về? Thì như vậy là nói về những cái giới như vậy thì Thầy thấy có nhiều cái nó vô lý ở trong đó lắm.

Chúng ta sau này, chúng ta đọc lại và kiểm nghiệm coi nó đúng sai rồi chúng ta chỉnh đốn lại hết chứ không có để những cái giới mà nó vô lý. Bây giờ chúng ta đọc lướt qua chúng ta chưa có thông hiểu, muốn làm một cái điều gì chúng ta cần phải có một cái sự suy tư đúng đắn để rồi chúng ta để cây bút mà viết ra cái giới là phải nói từ ngay bây giờ, từ khi mà chúng ta cầm cây bút mà chúng ta viết cho đến về sau, mãi mãi về sau không được thay đổi cái này. Nghĩa là không được thêm bớt, cái thời gian và cái không gian nó không có bao giờ mà có thể làm mất cái pháp này được, thì chúng ta mới kê cây bút mà viết. Còn nó có sự thay đổi thì không nên viết cái đó ra.

Bây giờ thì chúng ta sắp sửa nghỉ để chúng ta ăn cơm.

MỘT TRĂM GIỚI CHÚNG HỌC

Bây giờ các con sẽ tiếp tục nghe cái giới “Một trăm giới chúng học”. Hồi sáng thì đã học hết mấy cái giới là giới đọa, hết 90 giới đọa, và đồng thời thì học bốn cái giới Tứ hối quá rồi. Bây giờ chúng ta học tới 100 giới chúng học. Tiếp tục học trong cái chương trình học hết cái giới bổn, cái nào đúng, cái nào sai, để chúng ta gạn lọc màchúng ta bỏ. Sau này có đủ cái duyên, Thầy soạn lại cái bộ giới bổn này, để mỗi cái giới là một cái pháp môn. Mỗi cái pháp môn để cho chúng sống giữ gìn và thực hiện cái sự tu tập của chúng ta, trau dồi thân tâm của chúng ta để chúng ta ly dục ly ác pháp. Chứ không phải như cái giới mà các vị Tổ viết giới này, hầu như là viết cái bản hiến chương là phải. Hay hoặc là viết cái giáo điều thì phải. Hay nói chung là viết cái pháp luật chứ không phải là viết cái bài pháp để chúng ta sống đúng ly dục ly ác pháp, để chúng ta thực hiện sự giải thoát của tâm hồn mình, để làm chủ được sinh tử luân hồi. Cho nên đọc Giới rồi chúng ta mới thấy đây là Giới của người phàm phu, của người sau này viết chứ không phải là của thời đức Phật mà dạy ra.

Bây giờ chúng ta học một trăm giới chúng học, Bách chúng học còn gọi là chúng đa học pháp, tiếng Phạn gọi là Thức Xoa Ca La Ni, nghĩa là những điều cần thực hiện, hay nói khác là cần phải học. Trong sáu pháp trước là chỉ trì và chỉ phạm. Còn pháp thứ bảy này là chỉ bản chất tác trì và tác phạm. Các vị phạm đối với pháp thứ 7 này là tội Đột cát la. Đối tượng của các điều khoản trong đây đại bộ phận là bốn oai nghi, cử chỉ cùng với những sự việc ăn uống, thuyết pháp, đi đường, tại nhà cư sĩ. Nói tổng quát đây là những điều tác thành tư cách lịch sự tao nhã của một vị Tỳ kheo. Ngoài tác phong trong sự giao tiếp với thế tục trong đây còn có nhắm đến mục đích quan trọng khác đối với đời sống tu tập của các Tỳ kheo, đó là sự hộ trì chánh niệm, là nền tảng của sự tu tập các pháp môn.

Phật ở vườn Cấp Cô Độc, Lục quần Tỳ kheo vi phạm, Phật nhân đó mà kiết giới này. 100 pháp chúng học này theo luật Tứ phần có thể được chia làm 10 nhóm như sau cần phải học.

Ở đây Thầy muốn nói về một trăm cái giới chúng học này là nói chung nó là cái oai nghi tế hạnh của một người tu sĩ, chứ không có gì khác hơn hết. Mỗi cái giới nó là nói về một cái oai nghi của mình đối xử với người cư sĩ cũng như đối xử với nhau, từ cái ăn mặc đi đứng, nói nín của chúng ta đều nằm ở trong những oai nghi này, ở trong những cái 100 giới này. Cho nên muốn chuẩn bị cho một người tu sĩ có những cái oai nghi cho xứng đáng là một cái vị tu sĩ, thì 100 giới chúng học này mà chúng ta không học là chúng ta đã thiếu khuyết những cái oai nghi đó. Nhưng ở đây chúng ta còn phải coi thử coi nó có đúng hay là không, hay là người ta đặt những cái điều đó ra, mà nó có đúng không. Cũng chẳng hạn này, như bây giờ, Thầy nói như  người ta nói một vị tu sĩ thì cần phải ba y một bát thì chúng ta phải thấy cái cuộc sống của chúng ta có thể sống ba y một bát có được hay không. Nếu được thì nó đúng, mànếu không được, thì tức là nó không đúng. Vậy thì không đúng thì chúng ta muốn tu tập để được sự giải thoát thì chúng ta phải làm sao cho nó đúng với cái hạnh thiểu dục tri túc mà nếu nó thừa hơn thì nó không phải là thiểu dục tri túc, mà nó không hơn thì đời sống chúng ta ra làm sao? Tất cả những cái này là cái mà cái người sau cần phải suy nghĩ, cần phải có trí tuệ mới có thể chỉnh đốn lại giáo pháp, chỉnh đốn lại Giới luật, để chúng ta có một cái lộ trình, có một cái đường đi, có một cái sự thực hành để đem đến sự cứu cánh cho bản thân của mình và cho mọi người. Và cũng là dựng lại Phật pháp để cho người ta thấy có cái sự kết quả thực tế và cụ thể trên con đường đi tìm sự giải thoát. Nó không có phải là một sự mơ hồ, một sự tưởng tượng, mà là một sự thực, thực là cuộc sống giải thoát của đạo Phật như vậy.

1. Nói về y phục là điều giới một và hai.

1 - Nên mặc quần Niết bàn tăng cho cân bằng. Nghĩa là cách thức mà mặc cái y hạ đó, tức là cái chăn đó thì có nhiều người thì mặc kéo một bên cao, bên thấp, cho nên ở đây, khi mà vận cái chăn thì phải cho nó bằng cái mặt như thế này, ở bên nào, ở sau, ở trước, ở bên hông đây, ở bên hông kia, nó làm rất bằng, cũng như người ta mặc cái díp như vậy, nó đều như vậy, nó không có lệch với nhau, đó là cái thứ nhất ăn mặc. Ở đây thì gọi là cái quần Niết bàn, tức là cái y hạ đó.

2 - Nên mặc ba y cho cân bằng, nghĩa là như Thầy mặc cái ba y mà nó đều đặn như thế này gọi là nó cân bằng, nó không có xốc xếch. Còn ví dụ như bây giờ nó cái vạt này nó đổ sụp xuống, nó tụt như thế này, tức là nó không có đúng cân bằng, nó không có ngay thẳng. Cho nên nó làm cho nó như vầy, nó thả như vầy, tức là nó cũng không có cân bằng, cho nên mình phải kéo nó lên, làm cho nó phải đâu nó ra đó. Còn cái áo của mình, cái ở trong này mình mặc cái y trung mà nó lại lệch qua, nó chéo qua chéo lại, nó không đúng, nó phải ngay ngắn, ở đâu nó ra đó, cho nên cái lối này là dạy cái khi mà chúng ta ăn mặc, ở đâu cho nó nghiêm túc ở đó, chứ đừng có để chệch.

Đó là hai cái phần mà mặc y ở đầu.

Cái phần thứ 2 là tác phong tại nhà cư sĩ. Từ 3 đến 25 giới.

3- Giới thứ 3 là không được vắt trái áo vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là khi mà vào nhà cư sĩ không có được vắt như cái kiểu như Thầy như thế này vắt mà phải vào nhà cư sĩ thì chúng ta phải vấn cái y nó lại, cho nó kín cả tay chân của mình lại, không có được để hở ra mà đi vào nhà cư sĩ. Còn vắt như vậy thì  nó hở cánh tay. Mà cái tay áo của Thầy đây là tại vì nó có cái áo ở trong nó có cái tay. Còn cái kia, cái y trung của họ nó để lòi cái tay này ra. Cho nên khi mình để cái tay, mình để mà vấn như thế này mình đi vào nhà cư sĩ thì không có được, không có tốt. Cho nên cái giới mà oai nghi này, khi vào nhà người cư sĩ thì không có được vắt cái y như thế này, mà phải vấn cái y, rồi chúng ta xỏ đây, chúng ta nắm đây, ở bên tay này nó phủ lại, nó kín cái tay, nó không có hở ra.

4- Bốn không được vắt trái áo vào ngồi nhà cư sĩ.

Nghĩa là mình không được vắt cái y của mình như thế này mà mình ngồi trong nhà cư sĩ. Hồi nãy không được vắt áo vào nhà cư sĩ, tức là đi vào rồi bây giờ vắt cái áo, vắt cái y như thế này mà ngồi trong nhà cư sĩ thì không có được nữa.

5- Không được áo quấn cổ vào nhà cư sĩ.

Không được lấy cái y của mình hay cái áo của mình quấn cổ, một nùi vầy mà đi vào thì không có được, nó là cũng cấm.

6- Không được quấn áo cổ, vào ngồi trong nhà cư sĩ.

Nghĩa là mình đi vào, ở ngoài đường ấy, mình đi vô mình sẵn cái y, mình vấn cái y như cái khăn này mình đi vô thì không có được. Còn bây giờ đi vô trong đó, mình quấn cái y như vậy mình trong nhà cư sĩ cũng không được.

7- Không được trùm khăn lên đầu vào nhà cư sĩ.

Có nhiều người lấy cái khăn mà đội lên đầu rồi đi vào nhà cư sĩ, thì nó không có được cho nên đức Phật cũng cấm, không cho đội khăn mà đi vào nhà cư sĩ. Để cái đầu mà chúng ta nó mát mẻ nó cạo trọc như vậy chúng ta đi vào thì nó tốt nhất, nó không có... Còn mình đội cái khăn mình che kín mít cái đầu của mình lên thì ở đây thì cái giới này cấm không có được.

8 - Cũng không được trùm khăn lên đầu mà ngồi trong nhà cư sĩ.

Mình ngồi trong nhà người ta mình trùm cái khăn lên trên đầu mình như vậy là không được. Đó là những cái mà giới cấm những cái oai nghi chúng ta làm như vậy không đúng cách, mà hầu như là người ta sợ cái đầu trọc xấu cho nên người ta hay trùm khăn người ta đậy lại người ta ngồi trong nhà cư sĩ. Mình tu hành rồi còn xấu ở chỗ nào nữa mà che mà đậy, cứ để cho người ta thấy cái đầu trọc cho nó tốt đi.

9 - Không được vừa đi vừa nhảy vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là cái cách thức mà đi đứng của chúng ta phải đằm thắm mới đi vào nhà. Chứ mình đi vào nhà người ta mà vừa chạy vừa nhảy mà vô trong nhà người ta chắc chắn người cư sĩ này họ sẽ đuổi mình ra khỏi nhà người ta. Ông thầy gì mà kỳ cục quá. Hồi nãy vừa đi vừa nhảy, kỳ cục.

10 - Không được vừa đi vừa nhảy mà vào nhà cư sĩ mà ngồi trong nhà cư sĩ.

11 - Không được ngồi xổm trong nhà cư sĩ.

Vô trong nhà cư sĩ rồi, cái ghế một của người ta vầy mà trèo lên trên ngồi, như vậy thì không có thể coi được.

12 - Không được chống nạnh vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là đi vào mà chống nạnh vậy đi vào như là người ngon vậy đó thì không có được, cũng cấm. Những cái oai nghi đó thì không có được. Chúng ta nhớ những cái hành động này là hạnh động người tu không có làm được.

13 - Không được chống nạnh vào ngồi ở trong nhà cư sĩ.

Ngồi trong nhà cư sĩ mà chống nạnh kiểu này thì ai mà coi được không. Thì ở đây cái Giới luật này nó cấm như vậy nó không có cho phép chúng ta những cái oai nghi như vậy.

14 - Không được rung mình đi vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là đi mà lúc lắc qua lại, như rắn mà uốn vậy đó thì không có đươc. Đi cái kiểu mà uốn éo đó thì không có được vào nhà cư sĩ, như vậy thì không có được.

15 - Không được rung mình ngồi ở trên ghế, ngồi ở trên ghế mà lắc qua lắc lại, ẻo qua ẻo lại, làm duyên làm dáng chứ người tu sĩ ở trong nhà người ta mà làm như thế thì không có được. Ngồi đâu thì ngồi ngay ngắn hẳn hòi, nói chuyện gì đó thì nói một chút rồi đi chứ không được ngồi mà làm cái kiểu dáng này kiểu dáng kia.

16 - Không được vung cánh tay vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là đi vào nhà cư sĩ không có được mà đánh đồng xoa như vậy, đi sai sải vào đó thì không có được.

17 - Không được vung cánh tay đi vào nhà rồi ngồi vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là, nói chung là những hành động mà cánh tay mà đi đánh đồng xoa một cách tự tại thì không có được. Phải dè dặt cẩn thận, giữ gìn cái hạnh, cái oai nghi của mình. Khi vào nhà cư sĩ thi đi nghe nó cũng như là mình đi kinh hành nhẹ nhàng, chứ không phải  đi mà quạt cái tay cũng như cái đuôi con bò vậy thì không có được, quắt qua quắt lại thì không có được.

18 - Khéo che mình kín đáo vào nhà cư sĩ.

Khi mà mình vào nhà cư sĩ, đừng có lấy cái bao bố mà trùm mình hết, hoặc là lấy cái y mình trùm kín mít hết mình vào nhà, người ta tưởng ma, tưởng quỷ, thì không có được, đừng có làm chuyện đó.

19 - Rồi ngồi trong nhà người ta cũng lấy cái y vậy trùm hết đầu cổ, trùm không ai thấy mình hết, thấy một cái bao gì hoặc thấy một cái đống gì ngồi đó thì cũng không nên làm cái điều đó nữa. Đó là những cái oai nghi không có tốt.

20 - Không được ngó trông hai bên đi vào nhà cư sĩ.

21 - Không được vào nhà cư sĩ ngó trông hai bên.

Nghĩa là vào nhà, mình nhìn tới vậy là mình nhìn tới, còn như vậy là ngó tranh ngó ảnh, ngó này ngó kia, ngó bàn ngó ghế, ngó tủ, ngó sách, ngó vở ngó đủ thứ tùm lum, ngó qua ngó lại. Vào nhà cư sĩ thấy đồ đạc ham quá ngó lia lịa, không có cái nào mà không ngó thì ở đây cái oai nghi đó không có được, khi mà vào nhà cư sĩ, thì không có được. Chỉ ngó thẳng vậy thôi chứ thấy cái gì đẹp cũng không cần ngó hết.

Rồi ngồi trong nhà cư sĩ cũng vậy không có được ngó bên đây ngó bên kia.

22 - Im lặng mà vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là mình vào nhà cư sĩ mình giữ cái sự im lặng chứ mình đừng có nói chuyện ồn náo, to tiếng là không có được.

23 - Vào ngồi nhà cư sĩ mình nên giữ cái vẻ mình im lặng, người ta hỏi một lời mình nói một lời, người ta hỏi hai lời thì mình nói hai lời, chứ không được nói ồn náo ở trong nhà người ta.

24 - Không được cười đùa đi vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là mình đến cái nhà người cư sĩ mình không được mà cười giỡn rồi mình đi vô nhà người ta.

25 - Mà cũngkhông được mà ngồi ở trong nhà người ta mà cười đùa giỡn nữa.

Đó là 25 cái giới giữ những cái oai nghi của chúng ta khi đi vào nhà cư sĩ.

Bây giờ về cái phần thứ 3: Tác phong trong sự ăn uống. Nó có từ giới thứ 26 đến 47 giới.

26 - Khi thọ thực, nên để ý đổ khỏi đổ rơi cơm canh.

Nghĩa là mình ăn uống mình đừng có để cho cơm canh đồ ăn mình rơi rớt ra ngoài. Đó là cái hạnh của người ăn uống.

27 -Lấy thức ăn vừa ngang miệng bát, đừng có lấy vun lên, có đói gì thì đói cũng lấy nó vừa bằng thôi, mình lấy vun lên mình ém xuống nữa thì coi nó kỳ lắm. Người ta nói ông thầy này tưởng ăn.

28 - Lấy canh ngang miệng bát.

Chứ đừng có múc vun lên để nó tạt đổ ra ngoài.

29 - Cơm canh cân bằng mà ăn.Đừng có lấy thứ này nhiều thứ kia nhiều, phải lấy bằng với nhau mà ăn.

30 - Lấy theo thứ lớp trong bát mà ăn,chứ đừng có moi móc ở dưới bát mình đi tìm coi đậu hũ miếng đâu mà ăn thì coi nó không được. Cho nên chừng nào ăn tới đó thì hay, chứ hồi nãy người ta trút đậu hũ ở dưới bây giờ cơm đầy bên trên hết thôi  từ từ mà ăn lần rồi nó đi xuống, còn đằng này bươi móc ở dưới, đổ tùm lum ra hết. Bởi vì bát cơm nhỏ, mà nó đã đầy rồi mà đậu hũ người ta cho ở dưới, thành ra giờ ăn cơm lạt ngồi ăn không có được cho nên cứ móc ở dưới lên ăn. Thì như vậy đi kiếm đồ ăn để ăn với cơm, thì như vậy không phải cái hạnh của người tu, cho nên không có móc mà cứ tuần tự ở trên ăn chừng nào mà  tới đó mình sẽ lấy mình ăn mà thôi. Chứ không phải như mình có dĩa, có này kia, mọi thứ đều có phần riêng ra, dễ dàng lắm. Dè một bát mà nó ở trên thì nó đổ cơm mà nó ở dưới nó cho nguyên đồ ăn ở dưới. Tới chừng mình ăn hết tới cái đồ ăn mặn chết rồi làm sao ăn được. Đó là những cái khó khăn của cái bát, dùng cái bát nó khó như vậy đó. Cho nên do đó mà chúng ta phải khéo sử dụng, nếu như nó lung bát thì chúng ta có thể móc ở dưới lên chúng ta ăn được, mà nó đầy thì thôi chịu để ăn cơm lạt ở trên cho nó lưng xuống rồi mới móc lên mới ăn được. Còn nếu không mình xới ra coi nó kỳ lắm.

30 - Lấy theo thứ lớp trong bát mà ăn.

Đây là cái giới mà dạy tức chúng ta phải lấy theo thứ lớp mà ăn chứ không được sắp.

31 - Không được moi xóc trong bát mà ăn.

32 - Nếu Tỳ kheo không bệnh, không tự vì mình mà xin cơm canh.

Nghĩa là người ta cho gì mình ăn nấy, mà mình không có bệnh thì đừng có xin canh, mà xin cơm canh mình ăn thì nó không đúng, trừ ra mình đang bị bệnh thì mình mới xin.

33 - Không được lấy cơm đậy canh lại trông mong cho được lấy canh nữa.

Nghĩa là cái ý là như thế này, cái giới 33 này có nhiều ông ưa canh lắm, thích canh lắm, cho nên lấy cơm đậy canh, xin canh thêm. Đó là cái kiểu đó đó là giới 33 cấm mình không được xin thêm, không được che đậy cái thức ăn mà mình vừa bụng để rồi mình xin thêm cái thức ăn đó nữa.

34 - Không được xem trong bát của Tỳ kheo ngồi gần.

Nghĩa là người ta ăn gì ta ăn, còn mình ăn của mình, có nhiều khi mình dòm coi ông này ông ăn cái gì, bữa nay ông đi khất thực cái gì, coi ngon hay giở, có khi mình xin ông thêm. Cái điều đó là trong lúc ăn cứ dòm trong bát người ta không, không có được.

35 - Phải để ý tưởng trong bát mà ăn.

Nghĩa là luôn luôn mình cứ đến cái bữa ăn thì mình nhìn cái đồ ăn đó mình quán nó bất tịnh, mình quán nó như thuốc để mà trị bệnh đói của mình, chứ đừng có để ý qua cái bát cơm của người khác, rồi mình sinh ra thấy người ta có chè cháo, còn mình không có chè cháo bắt đầu chảy nước miếng ra đó, không được. Về cái bữa đó cái ông Tỳ kheo đó ông đi xin một đống me. Chừng đó mình nhìn thấy đống me đó bắt đầu mình chảy nước miếng ra, thôi chết rồi. Đó là những cái điều kiên, ở đây muốn nói mình ăn mình đừng có nhìn qua bát của người ta để tránh cái chỗ mình thèm khát, thấy người ta có những cái đồ ăn mà bụng mình muốn, mình thích rồi bắt đầu mình thèm, thì như vậy là mình không có tu được.

36 - Không được nắm cơm lớn miếng mà ăn.

Nghĩa là có ông đói quá, làm một bốc cơm vậy bỏ miệng ăn ngấu nghiến cho mau no. Bởi vì hôm qua tới bữa nay chưa có ăn, cho nên đói quá, làm cho nó mau để cho nó không có đói, do đó có cái giới này cấm. Nghĩa là ngày xưa, theo trong cái thời đức Phật thì chắc chắn là ăn cơm bốc cho nên nói là đừng có nắm cơm lớn mà bỏ vào miệng ăn thì không có được.

37 - Không được há miệng lớn để, chờ cơm mà ăn.

Nghĩa là nắm lớn quá thì phải há miệng lớn, cho nên cũng cấm không có cho. Bởi vì phải nắm cái nắm cơm vừa thôi nhỏ thôi, bỏ trong miệng mình ăn.

38 - Không được ngậm cơm mà nói chuyện.

Thực sự ra một vị tu sĩ thì làm sao mà  đang ăn cơm mà nói chuyện không cho nói chuyện. Thế mà ở đây thì cũng có cái giới cấm là, nhiều khi là mấy ông này cũng vừa ăn vừa nói chuyện chứ không phải không đâu, cho nên mới có đây.

39 - Không được nắm cơm ngoài xa ném vào trong miệng.

Có nhiều người chơi ngộ lắm, vò nắm cơm như vậy, há miệng để quăng vô. Cũng như mình liệng, mình thảy lục lạc vậy mà, liệng đồng tiền cho lọt đó, mấy ổng vừa ăn mà vừa chơi vậy đó mà,đó là  những cái đó chắc có lẽ như vầy, cho nên ở đây mới chế cái giới đó cấm, cho nên không có được nắm cơm ở xa như vậy mà quăng vô miệng mình rồi mình há miệng mình táp cái cục cơm. Đó là mấy cái ông mà ngỗ nghịch mà chơi vậy đó, thật sự ra tu hành cái đó là những cái oai nghi nó không có, nhưng mà làm cái trò chơi cho thiên hạ thấy à. Tôi liệng nắm cơm nào miệng tôi bắt cũng được hết. Cái miệng tôi hay lắm, liệng qua bên đây nó cũng nhảy qua bên đây nó bắt.

40 - Ăn cơm không có được rơi đổ,nghĩa là ăn cơm không có được đổ hạt cơm này, hạt cơm kia.

41 - Không được búng má mà ăn,có nhiều người ăn theo khỉ, nhai rồi độn bên đây một cục rồi nhai đây độn bên kia một cục, lấy cái tay khỏ bên đây văng, thế rồi nhai ăn, giống như khỉ. Mấy cái ông mà khỉ thì ông hay làm việc chơi cho người ta cười chơi vậy chứ ai mà ăn cơm gì kỳ vậy, mình đâu phải khỉ. Nhưng mà điều kiện mà, ngồi ăn làm cho người ta cười rộ lên đó. Mấy ông mà hay tướng khỉ, hay làm vậy. Cho nên vì vậy mới có mà chế cái giới này ra, chắc hồi đó mầy ông này cũng không thua gì đời nay đâu.

42 - Không được nhai đồ ăn ra tiếng mà ăn.

43 - Không được ăn cơm lùa húp lớn tiếng.Nghĩa là mình húp rột rột á kêu là húp canh ấy, cho nên cấm không có được.

44 - Không được le lưỡi mà liếm món ăn, làm quá rắn mối.

45 - Không được rảy tay mà ăn.

46 - Không được nhặt cơm rơi mà ăn.

Nghĩa là cơm rớt vậy cũng không cấm cho nhặt. Theo thầy thấy, cơm đổ mình lượm mình ăn cũng được, có gì đâu mà lại cấm không biết, cái này cấm sao kỳ vậy, bộ sợ mình ăn dơ hay sao. Nghĩa là cái chỗ cơm đổ mà dơ bẩn như sàn nước đồ, thì cấm không cho lượm thì được. Chứ bên mâm cơm, mình lỡ mình rớt thì mình lượm lên mình ăn có gì đâu mà phải bỏ.

47 - Không được tay dơ cầm bát đựng thức ăn.

Cái tay ở đây khi mình ăn cơm, mình phải rửa tay, vì cái người mà tu sĩ trong thời đức Phật có cái bát mà không có muỗng thì họ ăn cơm bằng bốc. Cho nên trước khi ăn cơm là họ rửa tay hết rồi họ mới được ăn cơm.

Phần thứ tư nói về hộ bát, giới 48.

48 - Không được rửa bát, đổ bát vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là khi mình ăn cơm rồi cái bát của mình rửa thì mình coi cái chỗ nào đổ cho nó đàng hoàng, chứ không phải hắt vô trong nhà người ta. Cái bát mình ăn cơm, mình rửa, vào nhà người ta mình muốn đổ chỗ nào thì đổ, không có được. Cho nên có người không biết chỗ đổ, đổ bậy vào cái nền nhà của người ta, nó dơ bẩn.

Về cái phần thứ 5 là đại tiểu tiện, khạc nhổ. Giới này có từ giới 49 tới giới 51.

49 - Không được đại tiểu tiện hỉ nhổ trên rau cỏ tươi, trừ khi có bệnh.

Có bệnh cũng không được, có bệnh càng là tránh ở trên rau nữa, bệnh mà đi tiểu tiện ở trên đó rồi làm sao mà người ta cắt rau mà người ta ăn được. Do đó thì ở đây cái giới này thì Thầy nói trừ bệnh mới có mà nhổ mà khạc mà tiểu tiện ở trên rau thì cái điều đó không có được. Ở đây thì hoàn toàn là những cái người tu sĩ thì không có được, thứ nhất là không có được đại tiểu tiện ở trên rau, không được nhổ nước miếng hay nhổ đờm nhớt ở trên cỏ tươi và trên rau, người bệnh cũng vậy mà người mạnh cũng vậy, cấm như vậy là đúng. Trừ khi người có bệnh thì khạc nhổ đâu cũng được, người có bệnh mà cho họ khạc nhổ bậy là họ khạc tùm lum ra nữa, còn bẩn thỉu nữa, cho nên ở đây cấm hết thì mới đúng.

50 - Không được đại tiểu tiện phỉ nhổ trong dòng nước, trừ khi có bệnh.

Trừ khi có bệnh thì nhổ trong dòng nước, tới dòng nước mình nhổ ở đây, xuống kia người ta múc người ta nấu cơm thì sao? Nhất là ở sông thì chúng ta thấy cấm luôn, mấy ông này không có cho bệnh mà nhổ bậy bạ đâu, nhổ trong lon rồi này kia rồi đem chôn hay hoặc là đem đốt đi thì nó mới là sạch sẽ, đó là mới có vệ sinh.

51 - Không có được đứng tiểu tiện, trừ khi có bệnh.

Không có được, bởi vì chúng ta mặc cái chăn mà làm sao mà đứng được, ăn nói tầm bậy tầm bạ ở đây không có được. Bây giờ bệnh cũng không có được nữa, bệnh cũng phải ngồi chứ không có đứng được, cho nên cấm hết người nào cũng phải ngồi hết.

Về phần thứ sáu, tác phong mà thuyết pháp.

Từ giới 52 cho đến 59, 86, 92 cho đến 96,100.

52 - Không được thuyết pháp cho người vắt trái áo trên vai, không cung kính, trừ khi họ có bệnh.

Cũng không có được, người bệnh người gì cũng vậy không có được. khi mà họ nghe thuyết pháp họ phải áo mặc phải đàng hoàng, chứ không được mà hở vai hở cổ mà nghe thuyết pháp. Thầy không chấp nhận cái chỗ này, trừ khi họ bệnh thì họ được để hở vai hở cổ họ ngồi nghe thuyết pháp thì thầy không chấp nhận điều đó. Nghĩa là người bệnh cũng như người mạnh là phải mặc áo đàng hoàng mới nghe thuyết pháp.

53 - Không được vì người vấn áo trên cổ mà thuyết pháp, trừ khi họ bị bệnh.

Nghĩa là cái người mà họ lấy cái áo họ vấn lên trên cổ của họ mà bảo mình thuyết pháp cho họ nghe, nhất định bây giờ các con ở đây mà nghe Thầy thuyết pháp, có người nào lấy cái áo hay hoặc là cái gì mà vấn cổ đó mà ngồi nghe thuyết pháp thì thầy không thuyết pháp đâu. Đó là cái người biết thuyết pháp thì người ta không thuyết pháp. Mà cái người bệnh mà bây giờ, họ lạnh quá, rồi bây giờ họ lấy cái áo, họ vấn cổ họ thêm thì họ ngồi nghe thuyết pháp thì thầy cũng chẳng có chấp nhận nữa. Bởi vì pháp bảo chứ không phải là cái thứ thường. Mình muốn nghe nó thì mình phải nghe như thế nào để đúng cái lòng tôn kính của nó, chứ mình nghe cái kiểu mà mình coi nó thường quá thì không nên nghe.

54 - Không được vì người che trên đầu mà thuyết pháp, trừ khi họ có bệnh.

Nghĩa là che trên đầu làm sao, khi mà ngồi nghe thuyết pháp mà đội nón, đội này kia đồ đó hay hoặc là đội dù, để mà nghe thuyết pháp thì không được.

55 - Không được vì người trùm bọc trên đầu, mà thuyết pháp trừ ra họ có bệnh.

Nghĩa là cái người mà lấy khăn lấy nón này kia, trùm cái đâu họ lại, mà họ ngồi họ nghe mình thuyết pháp thì nhất định, có những người ngồi mà nghe thuyết pháp như vậy thì mình không thuyết pháp.

56 - Không được vì người chống nạnh mà thuyết pháp.

Có người nghe mình thuyết pháp mà đứng chống nạnh cũng như mà lấy con mắt mà ngó mình như vậy thì nhất định là không thuyết pháp.

57 - Không được vì người mang dép da mà thuyết pháp.

Thấy ai mà mang dép da thì mình cũng không thuyết pháp. Bởi vì người đó không đi vào trong cái thiện pháp, nó vẫn còn cái ác pháp mà mình nói thì họ chẳng có làm theo đâu.

58 - Không được vì người mang guốc gỗ mà thuyết pháp.

Ở đây sao mà guốc gỗ cũng cấm luôn, nghĩa là nói chung là phải bỏ guốc bỏ dép thì mới được, còn mang dép mang giày mà ngồi nghe thuyết pháp thì không được. Chẳng hạn như bây giờ vô rạp hát thì người ta mang giày, mang dép, mang guốc đồ đó thì ở trên làm tuồng hát đồ này kia. Còn bây giờ người ta mời mình đến một cái pháp tọa để mình thuyết pháp thì tất cả mọi người, chân trần thì minhg thuyết pháp, mà còn người mang guốc mang dép là không thuyết pháp. Có nghĩa là cái hạnh thuyết pháp đối với những người nghe thuyết pháp là phải lột trần cái chân họ ra thì mới có nghe thuyết pháp mà họ còn mang dép mang giày, thì không có được thuyết pháp cho họ nghe.

59 - Không được vì người cưỡi ngựa mà thuyết pháp.

Có những người ngồi trên ngựa mà người ta nghe mình thuyết pháp thì nhất định, ví dụ như bây giờ, ở đây là cái đạo tràng của chúng ta, Thầy đang thuyết pháp bên đây, có người ở kia, họ nghe thầy nói cái họ dừng ngựa, họ ngồi trên ngựa, họ không thèm xuống, họ ngồi trên đó họ nghe Thầy thuyết pháp, thì như vậy ngay đó Thầy không thuyết pháp nữa, để cho họ cưỡi ngựa họ đi cho rồi đi, họ làm phách quá. Phải không? Đó là cái giới mà nghe thuyết pháp mà có cái kiểu mà phách lối.

86 - Không được vì người ngồi mình đứng mà thuyết pháp.

Người ngồi thì nghe thuyết pháp, còn mình thuyết pháp thì lại đứng thì nó không được. Cho nên cái giới 86 này thì không được, bởi vì ở đây nó có nói mà, từ giới 52 nè  rồi tới 59 nè, rồi 86 nè, 92 nè rồi 96, 100 nè. Đó, không phải mấy cái giới đó nó thuộc khác à con, còn cái này nó hợp lại những cái giới này để nói về thuyết pháp không đó. Còn mấy giới kia nó nằm ở trong những cái kẽ đó là nó nói về những cái khác đó. Nhưng mà tại vì người mà chế giới này đó họ hay khen giới này giới kia. Vì vậy mà cái mà người viết ra soạn ra thì họ rút lại. Bây giờ nói viết thuyết pháp họ rút mấy cái giới này ra là … thuyết pháp. Cho nên Thầy nói cái tên vậy theo cái số thứ tự thì nó không có đúng, nhưng mà nó về một cái loại thuyết pháp. Thay vì phải đánh từ số ví dụ như bây giờ nói số 52 thì 53, 54,55 phải không, rồi tới 57, 58,59 chứ nó không phải là 80, tám mấy được. Nhưng vì nó còn cái lạc mà ngồi thuyết pháp này kia đồ đó, thì nó tới 58, còn những cái năm mấy mươi đó thì nó nói về cái giới khác rồi. Con hiểu không? cho nên nó không phải đánh theo số thứ tự. Mà bây giờ người ta đánh theo cái chỗ mà về cái thuyết pháp như thế nào đúng thế nào sai. Hiểu như vậy đó, cho nên ở đây nếu mà mình cứ tính theo mà cái số thứ tự để tính tới 100 giới chúng học thì những cái giới sau này nó thuộc về cái giới gì chứ không phải cái đó nữa. Ở đây hoàn toàn nói về thuyết pháp.

86 - Không được vì người ngồi mà mình đứng mà thuyết pháp.

Nghĩa là mình đứng mình nói pháp còn người ta ngồi người ta nghe thì nhất định là mình không làm cái điều đó.

87 - Không được vì người nằm, mình ngồi mà thuyết pháp.

Người ta nằm ngửa ra mà mình ngồi đó mình nói. Cũng như bây giờ các con nghe Thầy thuyết pháp đã rồi các con bật ra nằm xuống đó ngủ hết, mà thầy cứ nói pháp hoài thì cái chuyện đó thì Thầy thôi cũng nghỉ đi, đừng có nói. Mình thuyết riết mà người ta nghe cũng như mình ru ngủ.

88 - Không được vì người ngồi chính giữa mà mình ngồi một bên mà mình thuyết pháp.

Thay vì như Thầy ngồi giữa đây Thầy thuyết pháp. Còn bây giờ thầy ngồi chỗ Trang Thầy thuyết pháp còn các con ngồi giữa này thì cái đó là thôi cũng đừng có nên thuyết pháp. Bởi vì người ta ngồi giữa pháp tọa, còn mình ngồi một bên mình thuyết pháp, thì coi như người ta hạ mình quá độ rồi, cho nên pháp mà đem bán như vậy thì không nên. Bởi vậy những cái oai nghi tế hạnh này chúng ta phải nhớ rằng, có nhiều người họ không có biết pháp, biết cái oai nghi tế hạnh gì hết, đến cái chỗ đám ma. Rồi hai người đó mới đem ra mới nói pháp  với nhau, rồi thuyết pháp, một số người đem xúm lại ngồi nghe hai ông này nói pháp, nhưng mà 2 ông này cãi lý pháp với nhau chứ nói pháp khỉ họ, Cho nên họ xúm nghe pháp thì thật ra điều kiện đó là điều kiện sai. Trong cái đám ma của người ta chứ đâu phải là cái chỗ mình nói pháp. Rồi có cái dịp nào đó đi đám cưới cũng xúm nhau mà đem thiền ra mà nói thôi, rống họng mà cãi nhau đủ thứ. Chà! Bao nhiêu người đến ngồi nghe thiền mà trong khi đó là đám cưới nhà người ta chứ đâu phải cái chỗ thuyết thiền đâu. Các con  thấy nhiều cái nó lạ lùng lắm, nhiều cái chuyện mà có thể giữa cái đám tập hợp nào thì Thầy thấy hầu như là có những cái điều kiện mà họ thông những cái gì họ đem ra họ khoe khoang ở tại đó. Dường như là họ muốn đem thuyết pháp vậy đó, đó là những người háo danh.

Cho nên cái pháp nó không phải là cái chỗ như vậy để mà nói, thế mà thường xuyên hay xảy ra, thậm chí như trèo lên xe hơi ngồi thôi đi đi cho im đi, không, ngồi một hơi rồi hai ông ngứa mồm với nhau cái đem Phật pháp ra bàn thôi, làm rùm ở trên cái xe hơi như là cái xe hơi thuyết pháp, chạy tới đâu, thuyết pháp tới đó. Đó là những cái sai chứ không đúng, đâu phải là cái chỗ mình ngồi lên xe hơi mình thuyết pháp, thế mà cứ thuyết pháp, mặc tình mà nói pháp. Đó là những cái sai, cái oai nghi nó không đúng. Cho nên ở đây nói về thuyết pháp thì phải nói rằng cái trường hợp đó rất nhiều. Cho nên Thầy thấy hai ông cư sĩ trèo lên xe hơi, bắt đầu họ nói pháp đó. Họ nói nào thiền này thiền kia, đủ thứ hết, không có nói ít đâu, mình ngồi mình nghe thấy phát mệt mà không biết cái pháp gì mà ở trên cái xe hơi này mà thuyết.

89 - Không được vì người ngồi ở chỗ cao mà mình ngồi chỗ thấp mà thuyết pháp.

90 - Không được vì người đi ở trước mà mình đi ở sau mà thuyết pháp.

91 - Không được vì người đi kinh hành chỗ cao mà mình đi kinh hành chỗ thấp mà thuyết pháp.

BĂNG SỐ 45

96: Không được vì người cầm gậy không cung kính mà thuyết pháp.

97: Không được vì người cầm gươm mà thuyết pháp.

98: Không được vì người cầm giáo mà thuyết pháp.

Nghĩa là nói cái đó ý  như thế nào? Người ta nói: "Ông không thuyết pháp tôi chặt cái đầu ông á, tôi rút cái gươm đây ông biết á". Thì do đó chết thì chết chứ không có thuyết pháp tầm bậy à, tôi không bán pháp, tôi thà chết chứ tôi không có bán pháp cho mấy người ác như ông đâu. Đó, thì như vậy là mình mới là người mà thuyết pháp. Còn này, thấy ông ta hăm dọa, mình sợ quá, thôi để nói bậy để cho ông qua đi không ông chặt cái đầu mình á. Cho nên mình sợ quá, thấy người cầm gươm, cầm dao, cầm mác mà bảo mình thuyết pháp thì mình thuyết pháp đó là cái không đúng, mình không có phải là cái người sợ hãi như vậy mà đem cái pháp để cứu mình như vậy, không có đúng cách. Ở đây những cái giới đó tỏ ra mình cũng phải có cái uy lực của một vị pháp sư, của một vị thuyết pháp chứ không phải là lúc nào cũng sợ hãi người ta.

99: Không được vì người cầm dao mà thuyết pháp.

100: Không được vì người cầm dù che mà thuyết pháp.

Về phần thứ 7 đối với tháp và tượng Phật, cái giới từ 60 đến 85.

60: Không được ngủ nghỉ trong tháp Phật trừ ra là mình giữ gìn cái tháp đó.Nghĩa là chỗ tháp thờ Phật thì con người mình không có ngủ trong đó, trừ ra là mình là người giữ tháp thì mình có thể ngủ, còn hoàn toàn mình là người cư sĩ hoặc là mọi người không có được mà ngủ ở trong cái tháp. Cũng như bây giờ đây là cái chỗ mình thờ Phật thì cái người mà tu sĩ cũng như cái người mà cư sĩ không có được mượn cái chỗ này mà để tối để ngủ, không có được. Ngủ thì có nhà khách, có cái phòng riêng, có cái thất của mình mình ngủ,chứ không thấy: bây giờ cái chùa này trống quá - Thôi cho tôi mượn ngủ đỡ thì như vậy là nó thiếu cái oai nghi.

Bởi vì cái chỗ thờ Phật là cái chỗ trang nghiêm, mình ngủ thì không có nên bởi vì đối với con người của mình nó rất là bất tịnh mà cái chỗ thờ thì nó phải thanh tịnh. Cho nên thí dụ như cái chùa hoặc là cái tháp thờ Phật hoặc là cái nơi thờ mà Tổ thì tất cả những điều đó thì con người không có được nên ngủ ở đó mà hãy tìm cái chỗ khác ngủ chứ không được ngủ ở đó.

Nhiều khi Thầy thấy những cái dịp lễ này kia đồ đó mà ở trong các cái tu viện Phật tử đến đông đó, họ không có chỗ ngủ rồi họ cũng trải giường trải chiếu dưới cái ở chỗ thờ Phật họ ngủ la ngủ liệt ở dưới cái chỗ thờ Phật. Như trong giới luật này cấm như vậy Thầy thấy không có nên ngủ rồi, như vậy là không đúng cách. Thì qua những cái giới hạnh như vậy thì chúng ta biết rằng trong cái chỗ mà ngủ nghỉ trong chùa, trong tháp mà nơi thờ Phật thì không được ngủ, mà hầu hết là những cái này người ta không có hiểu cho nên các cư sĩ mà khi đến chùa để buổi sáng làm lễ hay gì đó rồi ở lại ngủ ở trong chùa ngủ ở chỗ thờ Phật chớ đâu mà làm sao có cái chỗ nào ngủ mà rộng như chỗ thờ Phật.

63: Không được cầm dép da vào trong tháp.

Nghĩa là những cái chất mà bằng da, bằng cái loại da thú đồ đó, hoặc là mặc cái áo mà có da lông đồ đó là cho ấm á, mà đi vào trong những cái tháp, cái nơi thờ Phật thì không có nên, nhất là mang dép da hoặc là mặc cái áo lạnh mà có những cái da của nó mà nó kết làm cái cổ áo hoặc là cái da nó mặc cho ấm thân chúng ta thì khi mà vào nơi thờ Phật tháp thì chúng ta không có nên mặc những cái đồ đó.

64: Không được mang dép da đi nhiễu quanh tháp Phật, cũng như không được mặc áo hồ cầu - tức là da con chồn mà làm cái áo lạnh đó mà chúng ta mặc đi vào những cái nơi thờ Phật vào những cái tháp thì không có được

65: Không được mang giày bố bọc gót vào tháp Phật.

Nghĩa là không có được mang giày hoặc là dép mà mình đi vào trong cái chỗ mà thờ Phật, cũng như vào chùa mình phải bỏ dép ở ngoài chứ không được mang dép đi luôn ở trong này thì không được đó là ý của cái giới 65 này.

66: Không được cầm giày bố bọc gót vào nơi tháp Phật.

Nghĩa là cái kia mang giày thì vô không có được còn cái này mình xách giày sợ để ngoài chúng lấy đi, mình xách đi vòng vòng ở trong chùa này chơi, mà xách luôn cả đôi giày mình đi luôn thì biết đâu chừng cái đôi giày nó đạp những cái bất tịnh rồi mình xách nó vào nó hôi thối ở trong cái chỗ thờ Phật cho nên cái giới này muốn cấm là mình tránh cái sự mà bất tịnh.

67: Ngồi ăn dưới tháp Phật không được xả rác làm dơ đất.

Nghĩa làm mình ngồi ở dưới cái tháp Phật mình ăn thì cũng như bây giờ mình vô đây mình ăn này. Mình ăn rồi thì mình đừng có bỏ lá bỏ cơm đồ này kia vung vãi ở đây mà mình ăn ngồi đâu mình phải dọn dẹp cho sạch sẽ đừng có để chỗ thờ Phật nó dơ bẩn.

68: Không được khiêng thây chết đi ngang qua tháp.

Nghĩa là người ta tránh khiêng cái thây mà chết đi ngang qua tháp là nó sẽ hôi thối cái nơi mà thờ Phật.

69: Không được ở dưới tháp chôn thây ma.

Nghĩa là sợ chôn thây ma cái hơi thối nó bốc nơi cái tháp đó nó bị mùi hôi thối chỗ thờ Phật không tốt.

70: Không được ở dưới tháp đốt thây ma.

Đốt cái thây ma mà ở dưới đó thì nó bay mùi khét nó làm cho cái nơi thờ Phật không có được tốt.

71: Không được ở trên, ở trước tháp đốt thây ma.

Nghĩa là ở bên đây hoặc bên kia, ở phía trên, phía dưới không được đốt thây ma. Vì đốt cái mùi hôi cái mùi khét của cái thây ma nó cháy nó làm cho hôi cái chỗ thờ Phật.

72: Không được bốn phía tháp Phật đốt thây chết để hơi hôi thối bay vào tháp.

73: Không được mang áo và giường người chết từ dưới tháp đi ngang qua từ khi giặt nhuộm xông hương.

Nghĩa là những cái áo vừa của người chết nó còn những cái bệnh tật, nó còn mùi hôi thối thì không được khiêng những cái giường mà chưa có giặt sạch sẽ mà khiêng đi ngang qua tháp nơi mà thờ Phật thì mình làm như vậy là nó thiếu những cái oai nghi không có tốt.

74: Không được dưới tháp Phật đại tiểu tiện.

 Nghĩa là ở phía dưới tháp Phật cũng không được đại tiểu tiện, bên trên cũng không được, mà bên hông bên nay cũng không được, bên kia cũng không được, tất cả mọi bên đều là không được đại tiểu tiện. Vì đại tiểu tiện nó sẽ hôi thối chỗ nơi thờ Phật, nó không tốt.

77: Không được mang ảnh tượng Phật đến chỗ đại tiểu tiện.

Nghĩa là cái hình ảnh của Phật, cái tượng Phật, cái chỗ như là phòng tiêu, phòng tiểu đó đừng có mang vô trong đó, mang vô trong đó không có được.

78: Không được ở dưới tháp Phật nhăn cành dương.

Nghĩa là không có được lấy cái tăm mà xỉa răng của mình đó, nhăn nhăn đó. Tức là vào tháp Phật thì đừng có ngậm kẹo, nhai hay hoặc là nhăn cái tăm xỉa răng, hoặc là nhai nhai hột như là hột dưa, hột bí, vừa ăn mà vừa vô tháp nó như vậy đó thì cấm, cái điều kiện mà đến tháp Phật thì cái miệng phải sạch sẽ không có được ngậm cái kẹo hoặc là nhăn cái tăm xỉa răng hoặc là nhai một cái vật gì trong miệng cấm bặt cái điều đó.

79: Không được ở trước tháp Phật nhăn cành dương.

80: Không được bốn phía tháp nhăn cành dương.

81: Không được ở dưới tháp Phật hỉ mũi, khạc nhổ.

82: Không được trước tháp Phật hỉ mũi, khạc nhổ.

83: Không được bốn phía tháp Phật hỉ mũi khạc nhổ.

84: Không được ngồi duỗi chân ở trước tháp Phật.

85: Không được để tháp nhỏ ở phòng thấp xấu, mình ở phòng cao tốt.

Về phần tác phong đi đường:

Giới 93: Không được nắm tay nhau đi giữa đường.

Nghĩa là đi hai người không được nắm tay mà đi giữa đường đi song song như vậy hoặc là đi hai người song song ở trên đường thì không được, nắm tay nhau cũng không được, đi song song cũng không được. Đó là cái giới 93.

Về phần thứ 9 việc leo cây:

Giới 94: Không được ở cây cao quá đầu người trừ khi có nhân duyên tránh ác thú hoặc là có những cái điều kiện gì đó, mình hái trái cây này kia thì nó có thể được chứ còn leo chơi ở trên đó thì không có được. Có những cái phận sự thì có thể được. Hoặc là tránh ác thú như cọp beo thì mình trèo trên cây được. Chứ còn không có khi không mà trèo lên cây chơi, giỡn thì không có được.

Về phần thứ 10 việc cầm tích trượng:

Giới 95: Không được túi đan đựng bát sâu, đầu gậy vác đi trên vai mà đi. Nghĩa là mình làm một cái túi hoặc cái bao vầy, rồi xỏ cái cây vầy, rồi mặc cái y vầy mà quảy đi cũng như là mấy cái ông nông dân mà quảy cái gì đi vậy đó thì không có được, cái vị tu sĩ không có được. Do đó người ta có một cái túi người ta bỏ ở trong cái y người ta choàng kín vậy người ta bỏ trong đó người ta bỏ đồ người ta đi, không có làm một cái cây xỏ một cái túi hay một cái bao gì đó đựng đầy đồ. Như là Thầy thấy quý thầy ở đây khi đi làm cái cây đòn gánh cụt cụt vầy, rồi sau này lấy cái bao ni lông mới dồn quần áo hoặc là mền gối gì đó một bao hay kinh sách gì đó rồi cột cái miệng, rồi xỏ vô vậy để lên quảy làm như một cái ông nông dân mà quảy cái gì đi vậy, mà thầy chùa mà quảy coi kì lắm cho nên đó là không có đúng cái oai nghi tế hạnh. Cho nên chúng ta nên lấy cái này mà Thầy thấy hầu hết là các thầy đều bị cái này, cho nên vì vậy mà ở đây có quý thầy đi như thầy Từ Minh ở đây Thầy thấy khi mà đi thầy làm một bao rồi thầy xỏ thầy quảy đi. Thầy thấy làm kì quá. Đó là không giống những cái oai nghi tế hạnh.

Cho nên sau khi chúng ta học xong 100 giới chúng học rồi, chúng ta thấy những cái oai nghi này sau này chúng ta phải cố gắng. Thí dụ như chúng ta mặc cái y này thì không nói gì là vì y này nó rộng rãi cho nên chúng ta vấn nó thì chúng ta thấy chúng ta nắm ở trên tay vầy thì nó có cái mối đây, ở bên đây nó phủ kín cái tay của chúng ta lại hết, ở trong đó chúng ta để cái túi, cái túi đó đựng cái bát hoặc là đựng cái gì ở trong này hoàn toàn như là chúng ta không có một cái vật gì hết vì thấy đi như ông sư mà thấy nó đi bùm xùm như vầy chứ còn không thấy cái vật gì ở ngoài ông ta mang hết à, không có cái vật gì ở ngoài mà xách thêm cái xách cái này kia nữa, chỉ gọn ghẽ như như ông ta nắm có cái y mà vấn nắm ở trên tay vậy thôi, không có cái vật gì nữa hết. Còn bây giờ mà thêm cái bao hoặc cái túi gì mà quảy nữa thì mặc cái y này thì quảy coi không được còn hầu hết là các con thấy là như quý thầy mặc cái áo tràng, như mọi lần cái áo tràng Thầy đi thành phố Thầy mặc ao tràng đó, Thầy thấy mấy ông mặc cái áo tràng đó mấy ông quảy ở trên vai nửa thì Thầy thấy nó cũng không có đúng cách. Cho nên do đó mà quý thầy thường thường hay làm cái túi như thế này nhỏ nhỏ vậy, nó bỏ ba y của mình mới nhét trong này hoặc là giấy tờ hoặc là những tiền bạc gì trong cái túi đó nhỏ nhỏ như vậy. Có khi mà thêu hoa sen đồ đó, làm cũng là đẹp đẽ lắm nhưng mà cái đó là cái sai chứ không đúng cho nên hầu hết là có một số phật tử cũng mua gửi về cúng dường Thầy những cái túi mà có thêu những cái bông sen, có thêu những cành hoa sen, Thầy hoàn toàn không có xài những cái đồ đó. Đi đâu thường thường, các con thấy vừa rồi Thầy đi thành phố hai lần, ba lần rồi. Đi đâu, Thầy hai bàn tay không Thầy không có mang cái túi gì theo hết, tới đâu thì mình sử dụng tới đó chứ không cần mang túi hay mang  gì hết. Đó là những cái điều kiện mà nó rảnh rang nó không có bị dính mắc ở trong cái túi đựng cái này cái kia.

8. Kiết giới thất diệt trấn

Ở đây chúng ta tiếp tục để cho nó hết những cái giới bổn để mà tiến qua cái giới hành để qua những cái giai đoạn tu tập của chúng ta còn rất nhiều. Cho nên Thầy cố gắng còn vì có mười mấy bữa nữa ráng cho hết rồi đồng thời Thầy còn nhắc lại những cái điều rất quan trọng để sau khi kết luận cái giáo án cho nó được đầy đủ và trọn vẹn cái bước đường tu tập của mình, của đạo Phật sau này.

Trong chúng tì kheo có bốn tránh sự khởi lên:

Một là ngôn tránh:là tranh cãi nhau dẫn đến các việc pháp phi pháp cho đến thuyết bất thuyết, hai bên đấu tranh nhau như thế nào. Đó là cái phần thứ nhất là cái ngôn tránh. Chúng ta tránh cái lời nói đừng có để cho nó cãi nhau thế này thế khác. Vì cãi nhau nó làm cho chúng ta có những sự bất an, khó mà tu hành cho nên chúng ta phải cố gắng tránh những cái điều này.

Hai là mích trách:xích mích nhau mà tranh chấp về sự phá giới, phá kiến, phá oai nghi cùng nhau tìm tội. Cái phần thứ hai này là mích trách, mích tức là xích mích, giận hờn với nhau rồi tranh chấp với nhau rồi mới có những cái sự mà cãi ra làm cho thù hận nhau, thì phải tránh cái điều thứ hai này.

Ba là phạm trách:tức là phạm bảytựu, tranh cãi nhau về Ba la di, Tăng tàng, Đơn đọa, Hối hóa, Thâu lăng giá, Ác tác, Ác thuyết, tất cả những sự này hầu như là trong thời mà các tổ chế giới này nó có sự tranh cãi cho nên các Ngài mới thấy: tranh cãi trong mấy cái giới này anh đặt như vậy không có được tôi không có đồng ý, anh đặt cái giới này không có đúng, anh đưa cái giới này là Tăng tàn hay là Ba la di như thế này tôi không đồng ý cho nên họ có những cái trách nhau ở trong những cái chế giới. Cho nên ở đây mà chế cái này ra là chúng ta ta biết rằng là ngày xưa các tổ làm giới ra chế giới ra, họ thường tranh với nhau, tranh cãi với nhau. Anh cho là cái pháp này nó Đăng đọa như vậy, cái pháp kia là Hối hóa như vậy, tôi thấy tôi không đồng ý, cái pháp này phải xử vậy, cái pháp kia phải xử vậy, chớ còn làm vậy không được. Còn nếu mà Phật đặt ra rồi thì mấy ông đâu có sửa chi cái này, cho nên đâu có cái pháp này gọi là phạm trách đâu. Do cái chỗ sơ suất của họ mà họ chế cái giới này ra để cho mấy người cấm cái miệng mấy người, mấy người không có cãi được. Tôi đặt ra như vậy thì mấy người phải nghe chứ có cãi, đây là cái phạm trách này, mấy người cãi tức là phạm trách. Đó là mấy ông cũng khôn khéo bịt miệng mấy cái ông kia lại để mấy ông nói rằng: anh làm cái giới này anh cho như vậy không có đúng, giới tăng tàn mà thêm cái này thì tôi thấy không được, cái này là thuộc về Ba la di chứ không phải Tăng tàn. Do đó cãi qua cãi lại cho nên ông đặt ra cái này để cấm miệng mấy ông kia không có cãi nữa.

Bốn là sự tránh:Cách xử lí của ngôn tránh, mích tránh và phạm tránh, nghĩa  sự tránh này là cách xử lí của những cái cãi cọ này để đừng có cãi cọ nữa.

Khi nào có sự tranh cãi nổi lên thì phải dùng bảy pháp này, tức là bảy nguyên nhân định luật đúng như pháp như luật như Phật sở giáo mà diệt trừ sự xáo trộn, dập tắt cả hai phía cá nhân và tập thể, pháp thất diệt tất này nên hiểu là sự phán quyết về một vụ án do tăng xử trị các trường hợp phạm luật bao trùm cả phạm vi cá nhân và phạm vi của tập thể, coi như những nguyên tác pháp chế của tòa án Phật giáo phải tuân theo để cho phù hợp với công bằng và lẽ phải. Dù chưa hề có việc thiết lập một pháp đình tôn giáo giữa tăng già, xưa nay mỗi khi có tránh sự cần dập tắt thì chư tăng mới tập hợp để phán xét chẳng khác gì một tòa án lâm thời vậy. Theo luật tạng bảy nguyên tắc diệt tránh này được quy định do bởi từng dữ kiện khác nhau, nhưng theo Trung A Hàm thì chúng được Phật quy định một lần do sự thỉnh cầu của Tôn giả A Nan. Nguyên do là Ni Kiền Tử vừa tạ thế các đệ tử của ông cả tại gia và xuất gia lập tức bị phân hóa, họ tranh chấp nhau thậm chí đi đến tình trạng ẩu đả nhau vì bất đồng quan điểm đối với các điều giáo lí mà tôn sư của họ để lại. Tin tức này đồn đến giữa các tì kheo, Tôn giả A Nan hay được lo sợ chúng tỳ kheo sau khi Đức Phật nhập diệt có thể xảy ra tình trạng như vậy nên nhân đấy mà bạch Phật. Các nguyên tác sống chung giữa các tì kheo và phảng hoặcnếu có tránh sự khởi lên phải tùy trường hợp thích đáng mà giải quyết bằng một trong bảy pháp diệt tránh. Các bộ luật đều nhắc lại những trường hợp đã dẫn từ các giới trước duyên khởi theo tường thuật chung như sau.

Thật sự thì ra ở trong kinh A Hàm Thầy có đọc ở chỗ này khi một cái vị mà lãnh đạo - ngoại đạo Ni Kiền Tử ông ta là cái vị lãnh đạo, ông chết đi do đó chúng Ni Kiền Tử đó họ mới tranh nhau thế này thế khác làm cho nó náo động. Do đó các vị tì kheo nhất là ông A Nan sợ chúng tì kheo của mình sau khi đức Phật nhập diệt đi rồi thì không có làm sao mà giải hòa được cho nên ông A Nan mới trình Phật. Phật có dạy cho mình sáu cái Lục hòa, cách thức đó mà nương theo mà hòa hợp với nhau sống, rồi đức Phật dạy cho mình cách thức để mà mình sống như thế nào để cho đúng thì đó là những cái giới kinh nó rất là đúng đắn. Chứ nó không phải là chế như là ở trong cái giới bổn này mà đọc trong bài kinh đó Thầy thấy đức Phật rõ ràng là người biết ngừa hết các sự kiện xảy ra. Các tu sĩ mới hỏi Phật thì đức Phật nói Ta đã dạy rồi, Lục hòa rồi có gì đâu mà tranh chấp nữa, do theo đó mà chúng ta hòa hợp với nhau, sáu cái hòa hợp đó là đúng rồi đau còn cái gì mà hỏi. Nhưng mà ông A Nan ông nói sợ lo lắng về sau thì Đức Phật cũng đã xác định như vậy và đồng thời mới chỉ dạy cho ông cách thức mà cư sử như thế nào.

Nhưng người sau này thì họ cũng có dựa vào những bài kinh đó mà họ không thấy Lục hòa là cái căn bản của đạo Phật rồi. Muốn hòa hợp thì mình phải sống Lục hòa rồi nghĩa là kiến hòa đồng giải. Kiến hòa đồng giải không có nghĩa lấy một cái ý kiến của mình, mình hiểu gì đó mình dạy người ta mình làm thầy cho người ta, mà mình lấy ý kiến của người ta đó mà mình làm ý kiến của mình thì nó hòa hết chứ có cái gì đâu. Còn mấy ông này, Ni Kiền Tử này họ lấy ý kiến của ông làm cha người ta mà đè người ta xuống thì người ta phải tranh chứ người ta phải cãi ông, ông nói ông đúng chứ ông làm sao ông đúng được. Còn mình chấp nhận mọi ý kiến của người ta đúng thì làm sao có sự tranh cãi. Cho nên trong Lục hòa Đức Phật đã xác định đã đủ cho các ông hòa hợp rồi các ông còn hỏi gì nữa. Các con thấy không cái Lục hòa nó đã đủ rồi, thế mà chúng ta không lấy. Các con thây không? Lục hòa đã đủ rồi thế mà chúng ta không lấy lục hòa còn đi sợ hãi, còn đi thấy cái đám này, do lấy cái chỗ này mà gặn ra chế làm bảy cái pháp Thất diệt tránh này thì Thầy thấy thì nó cũng bằng thừa chứ đâu có gì. Mà cái này đem ra xử sự nó có gì hay đâu. Đọc rồi mấy con thấy này nào là ngôn tránh, mình tránh cái sự nói qua lại tại cái ý của mình mình mới cãi chứ, ý của người ta mình chấp nhận thì làm sao có cãi mà ngôn tránh, còn mình làm sao mà mích tránh đâu, mình có gì xích mích người ta đâu, ai làm gì thì mình cứ tùy thuận theo họ thì làm gì xích mích được, sáu cái Lục hòa nó đủ rồi thì có gì mà xích mích. Rồi cái phạm tránh làm sao mà phạm tránh được nữa.

Tất cả những cái này đặt ra nó không có bằng cái Lục hòa của Đức Phật. Xem qua chúng ta thấy không bắng ông Phật, sáu cái hòa hợp từ cái thân cho đến cái ý, khẩu hòa chúng ta cho đến mà thân hòa đồng tụ như thế nào Đức Phật đã dạy chúng ta, lợi hòa đồng quân như thế nào thì còn cái gì mà ai còn tranh hơn, cái gì mình cũng chia đồng đều nhau ăn, có người nào hơn người nào đâu mà tranh. Như các con thấy lục hòa của Phật đã tuyệt diệu để làm cho cái tăng đoàn của chúng ta sống rất hòa hợp rồi, chứ phải chi Ni Kiền Tử, ông thầy đó chẳng biết chế cái lục hòa nào hết cho nên nó mới cãi cọ nhau là phải. Còn ông Phật ông đã chế cho chúng ta Lục hòa rồi mà bây giờ còn hỏi gì nữa. Đây là muốn gặn ra một cái câu này để chế ra một cái giới mà nó không đúng. Ở đây đặt phải đặt Lục hòa Thầy thấy rất là tuyệt, mà bây nhiều đó là đủ rồi còn này không lấy bảy cái giới diệt tránh này mà làm cái Thất diệt tránh này để mà làm cái chỗ mà giải quyết những cái bất đồng, bất hòa thì Thầy thấy không tuyệt bằng cái Lục hòa. Vì Lục hòa nó ngăn ngừa từ cái lúc đầu rồi nó đâu còn có tranh cãi nhau nữa.

1. Phép hiện tiền tì kheo ni dứt sự tranh cãi.

 Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại nước Xá Vệ Ca-lu-đà-di tắm chung với nhóm sáu tì kheo. Tắm xong lên bờ trước, Ca-lu-đà-di mặc nhầm y của Lục quần tì kheo mà đi. Sau đó Lục quần tì kheo lên bờ không nhìn thấy y của mình nhưng thấy y của Ca-lu-đà-di bỏ sót lại họ cho rằng tì kheo ấy đã lấy cắp, do vậy họ tác pháp yết ma diệt tận đối với tì kheo cầm nhầm về tội Ba-la-di. Khi mà Ca-lu-đà-di nhận biết đã mặc nhầm đồ người khác bèn trở lại chỗ tắm. Bấy giờ Lục quần tác pháp vừa xong bèn báo cho tì kheo cầm nhầm cho biết Ca-lu-đà-di biết rõ mình vô tội nhưng nghi ngờ về hiệu lực của yết ma mà sáu tì kheo vừa thực hiện xong. Ông đến bạch Phật hỏi Phật. Ngài tuyên bố yết ma ấy là phi pháp vì đương sự không hiện diện và nhân đó Phật kiết giới này nguyên tắc diệt sự tranh cãi bằng hiện tiền tì kheo ni, ai phát khởi lại thì phạm tội đọa.

Cái câu chuyện đặt ra nó cũng vô lí. Khi mà mấy người này cùng tắm với nhau thì ông kia ông mặc đồ lộn thì ông quay lại trả thì mấy ông đó bộ trèo lên cái bờ đó rồi tập hợp với nhau lại kiết giới liền à, làm pháp yết ma liền ở trên bờ à, không có chịu về chùa. Coi nói có vô lí không. Cho nên ông này đến thì mấy ông này kiết giới rồi, bắt ông thuộc tội phạm Ba-la-di ăn cắp đồ tôi rồi, tôi kiết giới, tôi họp yết ma, tôi kiết giới rồi. Nói cái chuyện không có không à, Thầy nói đặt sao đặt cho có chứ sao không có vậy mà viết ở trong này đặt giới luật làm gì đây, nói cái chuyện không thành không à cũng nói được. Đó, thì các con thấy đọc ra nó rõ ràng như vậy đó, rồi bắt làm sao mà chúng ta tin cái giới bổn này là giới của chúng ta được.

2. Phép nhớ nghỉ dứt sự tranh cãi.

Các con thấy những cái điều này hoàn toàn là dựa vào các pháp yết để kết tội người ta bằng cách là vô lí không chứ không phải là có hữu lí. Còn bây giờ cái pháp Lục hòa các con thấy, ban đầu mình phải hòa cái gì, thân hòa, khẩu hòa, ý hòa đủ cách hết làm sao mà có sự tranh cãi, làm sao có sự hơn thiệt. Mà đạo Phật là người có ý tứ, đâu có lí nào lên bờ nhắm mắt xách đồ người ta đi không biết, mặc vào cũng không biết, không nghe mồ hôi của người ta nữa, cái ông gì mà cái lỗ mũi gì mà không biết gì hết, bộ cái lỗ mũi bị nghẹt mũi chứ không có gì nên không có biết mùi cái áo quần của người ta. Ai mà mặc lộn mà không biết cái áo. Không lẽ cái áo của Thầy, Thầy mặc mà Thầy không biết cái áo của mấy con hay sao mà mặc vô lộn. Đâu có cái lí kì cục vậy được cho nên ở đây nói chuyện vô lí thiệt.

Vì sao Phật kiết giới này. Đức Phật ở tại thành Vương Xá, Đạo-bà-ma-la-tử bị tì kheo Từ Địa vu khống về tội Ba-la-di không căn cứ, các tỳ kheo khác thường cật vấn trưởng lão Ma-la-tử. Ông bạch Phật, Phật dạy kiết giới tác ức niệm tỳ ni, bạch tứ yết ma để sau đó không tỳ kheo nào được phép cật vấn nữa, nếu tránh sự như pháp diệt rồi sau ai phát khởi thì phạm tội đọa.

Ở đây thì mình chỉ lấy cái pháp yết mà để đè nén người ta xuống, đặng cho người ta đừng có tranh cãi nữa, mà trong khi người ta tranh cãi mình cho cái đó là đúng hay là sai, cho người ta phải có sự mà nói có đúng không, hay là vu khống người khác tội về tội gì đó. Còn đằng này làm cái pháp yết ma rồi cấm miệng người ta không có cho cãi, người nào cãi là bị tội thì quá là độc, độc tài vậy. Thầy thấy giới luật của Phật mà chế ra kiểu này là độc tài lắm không còn cái chỗ nào khác nữa. Buộc người ta phải chết là chết, chứ không có được mà cãi đó là tôi không có tội đó mà giết tôi thì không có được.

3. Phép bất si tỳ ni dứt sự tranh cãi.

Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật cũng ở thành Vương Xá, tì kheo Nan Đề si cuồng, tâm loạn phạm nhiều tội lỗi. Sau ổn định tâm thần đã hết bệnh rồi mà các tì kheo khác thường đến cật vẫn các tội đã phạm trong lúc điên cuồng. Để chấm dứt sự phiền nhiễu ấy, Phật thuyết giới này khiến tăng tác pháp bất si tì ni cho Nan Đề. Từ đó không tì kheo nào được phép nhắc nhở các việc phi pháp của Nan Đề trong lúc loạn trí, nếu sau ai phát khởi lại thì sẽ bị phạm tội đọa.

Sự thật ra một cái người mà điên khùng mà giờ người ta hết điên khùng rồi đâu có còn tội lỗi gì nữa, mà những cái người ma tu sĩ đâu ai mà nhắc cái tội của người điên đâu, có bao giờ làm cái chuyện đó đâu. Thế mà ở đây cũng đặt ra một cái điều để chế ra thì thấy nó cũng là vô lí. Một người mà tu theo đạo Phật, khi một người bạn của mình đã điên khùng đã nói bậy nói bạ, nói không đúng đó là phạm vào cái tội vọng ngữ, hoặc là có thể mà nói rằng ông vì điên khùng ông không biết mà ông phạm vào cái tội sát sanh thì những cái tội này là do sự điên khùng ông không biết, do đó sau khi ông mạnh rồi thì ai lại mà nhắc đi nhắc lại những cái điều mà ông đã làm cho nên làm cho ông buồn khổ hơn. Như vậy đâu phải là những người tu sĩ. Cho nên những cái này không thể nào mà người tu sĩ đi làm cái chuyện đó được hết. Thầy xét mình mà hiểu người khác chứ, trừ ra những người mà không tu thì mới đem cái chuyện đó mà chế nhạo người ta chơi, cười giỡn trên cái sự đau khổ của người ta, chứ còn cái người tu thì không ai làm cái điều đó hết.

4. Phép tự nói tội để dứt sự tranh cãi.

Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức Phật ở tại thành Chiêm Bà vào ngày bố tát, các tì kheo đã tập hợp đông đủ ngồi xoay quanh để nghe Phật thuyết giới, nhưng có một người phạm tội ngồi chung trong chúng nên mãi nửa đêm Phật vẫn im lặng, ngồi yên không thuyết giới. Với sau ba lần thỉnh cầu của A Nan, Ngài nói Như Lai không thuyết giới khi giữa tăng có một tì kheo không thanh tịnh. Nói xong Phật trở lại ngồi im lặng. Tôn giả Mục Kiền Liên vận dụng tha tâm thông quan sát khắp chúng khám ra một tì kheo phạm tội mà che giấu nhưng không phát lồ sám hối, tôn giả dùng sức mạnh nắm tay lôi tì kheo ấy ra khỏi chúng rồi quay trở lại bạch Phật nhân đó Phật kiết giới này nêu nguyên tắc không nên làm như vậy phải khiến cho họ tự nhận tội mới trao tội cho họ, tự nhận tội, tự nói đã phạm tội vì để sám hối và tự trách tâm mình sanh nhàm chán, mong thoát li.

Ở đây thì các con thấy câu chuyện này Thấy cũng có đọc ở trong kinh A Hàm, thì câu chuyện này cũng có, một hôm thì Đức Phật trong cái ngày mà thuyết giới để cho chư tăng nghe giới và để giữ gìn giới luật trong cái ngày 14, cái ngày mà người ta đọc kinh giới. Trong khi đó có một người mà không thanh tịnh giới. Cho nên khi mà thuyết giới mọi người thì đều im lặng chờ cho Phật nói giới thì Phật không có nói. Cứ im lặng cho đến khi ba lần ông A Nan thưa thỉnh thì Đức Phật mới nói, trong chúng có một người không thanh tịnh giới mà không chịu ra mà phát lồ cho nên Phật không thuyết giới. Do vì vậy đó mà ông Mục Kiền Liên mới dùng thần thông, mới quan sát mới thấy có một vị tì kheo phạm giới Phật không thuyết giới do đó ông mới lôi cái tay vị này ra khỏi giới đoàn rồi từ đó Phật mới thuyết Pháp.

Câu chuyện nó như vậy nhưng sự thực ra theo Thầy thấy, một cái người mà đã phạm giới trong cái ngày đó thì họ phải đứng lên họ phát lồ ra họ nói, mà họ không phát lồ nói thì ít ra có những huynh đệ chúng ta biết cái người đó phạm thì mình xin đứng lên mình nói ra để chỉ ra cho người biết cái lỗi cho họ để họ xin sám hối để họ sửa thì đâu có lí nào ngồi tới nửa đêm hoặc tới gần sáng rồi mới lôi tay ông này ra. Mới chừng đó đức Phật mới thuyết pháp, thì điều đó là một cái điều làm cho cả chúng mệt nhọc hết chứ, đâu có cái gì mà tốt đẹp đâu.

Cho nên ở đây theo Thầy thiết nghĩ, khi mà họp lại với nhau trong ngày mười bốn để đọc giới, trong khi trước khi mà đọc giới những người nào mà có tội thì người ta đến người ta xin sám hối hết rồi. Bây giờ có một người phạm tội họ giấu thì trong khi họ làm cái tội gì thì trong chúng chúng ta làm sao không biết. Chứ đâu phải đợi mà ông Mục Kiền Liên phải dùng thần thông. Thầy nói hồi sáng rồi chửi lộn thì bây giờ phải sám hối, hồi sáng chửi lộn mà bây giờ không chịu sám hối thì tức là có người phải đến trình: "bạch Đức Thế Tôn bây giờ trong chúng này có hai người hồi sáng này đang có chửi lộn với nhau vậy mà không biết ai là người phải, ai là người quấy xin Đức Phật phán xét xem người nào phải người nào có tội để người ta sám hối cho tiêu tội”. Trong lúc đó thì phải kêu hai cái vị đó lên đây, bảo hai vị lên đây, vậy thì hai cái vị đó phải nói cái sự kiện nó xảy ra như thế nào cho Phật nghe coi thì cái người này bắt đầu kêu ông A hay là ông B, Thầy A trình bày cái sự kiện hồi sáng sao, rồi bắt đầu kêu cái ông thầy B cũng trình bày cho nghe, rồi bắt đầu kêu một cái người mà đã chứng kiến cái sự kiện ấy cũng trình bày cho nghe hai ông này nói đúng hay là sai. Sau khi cái người chứng kiến trình bày thì Đức Phật xác định rằng cái ông này nói như thế này là ông này lỗi nè, ông này không có lỗi nè, do lấy cái người thứ ba này mình đã phán xét, thì việc đó mình đã xác nhận rồi thì cái người này không có lỗi thì trở về cái vị trí cũ của mình mà ngồi nghe thuyết giới, còn cái người có lỗi thì phát lồ ra sám hối đi, để mà xin để mà ăn năn sám hối cho ba nghiệp được thanh tịnh thì như vậy là xong chứ có cái gì mà phải ngồi đến nửa đêm.

Thầy nói thật ra ông Phật gì mà ông điên gì mà ông ngồi cho mệt mỏi như vậy, chúng thì ngồi từ canh một mà cũng im lặng. Rồi tới chừng mà ông A Nan nhắc ông Phật cũng làm thinh không nói gì cả, tới canh hai, canh ba cho đến gần sáng rồi Đức Phật mới nói có người phạm giới bất tịnh chừng đó ông Mục Kiền Liên lôi ra rồi thì mới bắt đầu thuyết giới. Trời! Ngồi từ đầu hôm cho tới đến gần sáng các con nghĩ mình ngồi đó chắc là Thầy ngồi riết cũng buồn ngủ, ngủ gục chứ đừng nói, chơi cái kiểu đó thì ông Phật ông cũng gục mà Thầy cũng gục luôn, chứ đừng nói chúng tăng đều ngủ gục rồi mới được nghe ông Phật ông thuyết giảng. Vô đầu hôm mà cho tới nửa đêm, tới khuya rồi tới sáng mà cứ ngồi đó mà ba lần ông A Nan thỉnh Phật như vậy thì Thầy thấy thiệt là vô lý, thiệt vô lý hết sức không có cái chỗ nào mà nói.

Ở đây thực sự ra cái chuyện đó nó xảy ra thì đọc cái bài kinh đó Thầy thấy nó không phải như vậy, Thầy phải hiểu qua một cái góc độ khác là vì  lúc bây giờ phải hiểu rằng muốn nói lên cái chỗ mà thần thông của ông Mục Kiền Liên để biểu diễn cái thần thông thì mới biết được người phạm lỗi, chứ làm gì cái sự phạm lỗi mà ở trong chúng tăng không biết được, đâu có cái chuyện đó mà xảy ra trong chúng tăng, trong chúng đông mà làm sao mà giấu được.

5. Phép tìm tội tướng để dứt sự tranh cãi.

Vì sau Phật kiết giới này? Lúc bấy giờ Phật ở tại Thích Xí Xậu, tì kheo Tượng Lực tánh ưa nghị luận cùng ngoại đạo tranh luận, khi nào đuối lý thì nói quanh nói dối trá, trước sau nói ngược lại nhau. Các tu sĩ ngoại đạo chỉ trích. Chúng tì kheo hay biết bèn hỏi Tượng Lực về sự thật. Tượng Lực chối quanh, nói dối với chư tăng, các tì kheo bạch Phật. Do đó Phật kiết giới này bảo chúng tỳ kheo bạch tứ yết ma tác pháp tìm tội tướng cho Tượng Lực, tập tăng rồi cử tội, cử tội rồi tác ức niệm, tác ức niệm rồi trao tội.

Nghĩa là trong khi cái ông này ông hay lý luận như vậy thì cái người mà tu sĩ hay lý luận bằng cách này bắng cách kia thì ông này mình thấy được thì mình cho ở bởi vì đây thuộc về cái lý luận dối quanh bên nay bên kia, thì cái người này thuộc về tội vọng ngữ rồi, khép tội Ba-la-di rồi đuổi ông ý ra rồi có đâu mà mất công lại phải nào là tác pháp yết ma, kiết giới rồi cử tội ông, rồi trao tội ông. Bằng cách chúng ta chỉ nhận ra ông này mà luôn luôn hay tranh luận với ngoại đạo, hơn thua với ông ta, mặc dù ông có hơn đi nữa cũng đuổi ông đi. Đạo Phật không có tranh luận đi nữa, thua người ta thì thua chứ không có tranh luận.

Còn cái ông mà hay tranh luận thì không phải là người tu sĩ của Đạo Phật đuổi ông ra cho rồi. Cho nên ở đây quý thầy mà cái người nào mà hay tranh luận, hay lý luận cao siêu, hay nói giọng tiên tổ hơi tổ thì Thầy tìm mọi cách Thầy cho mấy ông ý đi luôn đi chứ Thầy không có để ở đây đâu bởi vì mấy ông này thuộc về cái loại không có tu, cái loại lý luận họ chỉ dùng cái sự hiểu biết, kiến thức kiến giải của họ, họ nói bên đây, họ nói bên kia, cái miệng của họ nó méo cũng như cái vành thúng vậy nó không có ra cái gì hết. Cho nên mấy cái loại đó là mấy cái loại không phải tu, cho nên cho họ đi ra mấy cái chùa mà tranh luận, họ ở để họ tranh luận. Cho nên vì vậy mà ông ty kheo Tượng Lực này ông cũng thuộc loại đó, cũng cho ông ấy đi mấy cái chùa khác đi, cho ông về mấy cái chùa mà nó chuyên môn tranh luận, tranh cãi nó ở chứ đừng có cho ở trong những cái nơi mà thanh tịnh tu hành đúng giới hạnh.

6. Pháp nhiều người nói để dứt sự tranh cãi.

 Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật ở tại nước Xá Vệ, các tì kheo cùng nhau tranh tụng chúng tăng như pháp diệt tránh, tì kheo tranh tụng kia không chấp nhận sự diệt tránh của tăng bèn đến bạch Phật, Phật liền tập tăng quở trách các vị kia rồi bảo các tì kheo nên diệt tránh sự này bằng cách dùng nhiều người giải quyết, dùng nhiều người biết pháp nói khiến cho tâm họ chấp nhận vấn đề giải quyết. Bạch nhị yết ma, sai người hành trù. Phật kiết giới này như thế theo chính văn gọi là đa nhân ngữ diệt trách pháp. Hành trù có ba cách, một là bỏ phiếu trắng, hai là bỏ phiếu kín, ba là bỏ phiếu rỉ tai. Hành trù phi pháp có mười trường hợp: một là không biết cách rút thẻ không rõ nội dung; hai là không đứng về phía người tốt; ba là muốn cho tì kheo phi pháp chiếm đa số; bốn là biết tì kheo phi pháp nhiều cố ý giúp kẻ xấu, năm là dụng ý muốn tăng bị vỡ đồng lõa với kẻ xấu; sáu là biết tăng sẽ bị vỡ; bảy là biết yết ma phi pháp mà nắm thẻ; tám là biết chúng nắm thẻ; chín là việc không quan trọng mà nắm thẻ; mười là bất đồng quan điểm mà rút thẻ.

Tất cả những cái điều kiện trên này đều là hình thức bình bầu hay là bầu cử, hoặc là bỏ thăm hoặc là đưa tay để biểu quyết coi nhiều hay ít đó là cách thức như vậy để mà chấp nhận ở trong cái đúng cái sai đó thôi. Thầy thấy ở đây nói ra cho nó nhiều như vậy thôi chứ sự thật ra chúng ta muốn làm cho rõ thì hỏi những ý kiến người khác. Thí dụ như ở đây Thầy hỏi bây giờ Thầy nêu ra cái tội này như vậy là đáng xử như vậy có được không, ai đồng ý giơ tay lên, ai không đồng ý thì đừng đưa tay. Vậy như vậy là chúng ta bình bầu như vậy là cũng được rồi chứ cần gì mà phải làm cho nhiều công chuyện nó rắc rối thêm chứ có cái gì đâu, còn khéo mà kín nữa thì người nào cứ viết một cái tờ giấy đi, ai mà đồng ý cái người đó có tội thì ghi ở đây trong cái tờ giấy cho Thầy một cái là chữ “tội” đi, còn cái người nào mà thấy cái tội này nó không phải thì viết chữ “không tội” đi, như vậy là cứ đem vô đây, bỏ vô đây đi. Mà giờ đây là mười người thì sau khi mà so thăm lại lấy cái số đông, cái người mà không tội, cái người mà số đông chấp nhận người đó không tội thì coi như cái người đó không tội. Thì như vậy mình lấy cái chỗ mà dân chủ để mình kiểm điểm cái tội của người ta thì như vậy Thầy thấy nó cũng không công bằng đâu, nhiều khi một cái đám đông vậy chứ, nó vì nó thương ông này cho nên nó bầu như vậy, chứ sự thật ông này là cái người có tội, chứ không phải là không tội. Cho nên ở đây phải có một người có đầu óc quán xét chứ còn không có mà theo dựa cái tập thể, nhiều khi tập thể chưa chắc đã là đúng.

Thầy nói thực sự chưa chắc đã là mọi người đều có một cái trí thông minh mà đúng hết đâu, chưa chắc đâu. Cho nên cái trí thông minh của một cái người mà người ta nhìn qua người ta phán xét cái sự kiện xảy ra người ta đều có thể biết đoán chắc cái đó là cái tội đúng hay tội sai. Cho nên ở cái người mà làm cái giới luật, làm cái pháp luật đó thì người ta phải có cái đôi mắt rất là sâu sắc. Chứ nếu không có cái đôi mắt sâu sắc, chúng ta viết pháp luật, cũng chỉ là viết sau lưng của họ chứ không được chứ không phải là viết cái sự kiện mà đã đoán trước họ sẽ phạm cái tội đó.

7. Phép như cỏ mà che đất để dứt sự tranh cãi.

Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật ở tại nước Xá Vệ các tỳ kheo cãi nhau phạm nhiều giới chẳng phải pháp của Sa môn, mà cũng chẳng làm, cũng nói ra vào không chừng mực, sau đó các tỳ kheo tự nghĩ mà nói: nếu chúng ta trở lại tìm hỏi việc này do ai, do đâu, thì có thể khiến cho tránh sự càng thêm sâu nặng, trải nhiều ngày tháng, không diệt trừ đúng như pháp khiến cho tăng không được an lạc. Vì cả tập thể tăng đều phạm tội không còn tì kheo nào thanh tịnh để tác chủ thọ sám hối do đó họ bạch Phật sám hối, Phật kiết giới này và dạy rằng nên chấm dứt sự tranh cãi này như dùng cỏ che đất mà sám hối. Pháp này tập thể không ai xưng tội, tội danh, tội chủng mà sám hối như lấy cỏ che đất bùn khiến người có thể đi qua lại được không nhớp chân. Nghĩa là họ cũng hồi hộp sám hối che các điều ác trên để thiện pháp được sanh rồi sau sám hối tội đã phạm vậy nếu tránh sự đã dứt rồi sau ai phát khởi lại mắc tội đọa.

Ở cái chỗ này theo Thầy thấy như là chế ra cái giới này bây giờ ai có tạo tội phạm thì từ từ mà sám hối đi, còn bây giờ coi như là mỗi người có làm những cái điều sai trái này thì tự mình biết lấy rồi mình coi như là mình đừng có để cho ai biết hết bây giờ không có phát lồ ra nhưng mà người nào cũng tự mình sám hối nếu mình nhận thấy cái lỗi của mình. Thực sự ra Thầy thấy Thầy làm lỗi nhiều khi Thầy không biết đâu, những cái lỗi có nhiều khi mình làm không biết đâu, bởi vậy cho nên mình làm lỗi mà mình không có biết cho nên vì vậy mà mình lý luận nói rằng tôi không có lỗi, cái đó tôi chưa có phải lỗi, cái trường hợp xảy ra như vậy chứ chưa phải là tôi muốn làm cái lỗi đó đâu, tại nó xảy ra như vậy. Do cái sự mà tranh cãi, do cái sự mà mình không thấy lỗi mình thì làm sao người ta buộc lỗi mình mà mình nhận cho được mình lấy như cỏ mình rải ở trên đất bùn để cho mình đi đừng dính đất, che đậy lại như vậy, cái ví dụ đó Thầy thấy, cách xử như vậy Thầy thấy không có hay chút nào hết, mà tốt hơn hết là chúng ta từ bước đầu mà đi vào con đường mà tu tập của Phật pháp, ngay từ bước đầu chúng ta trao dồi thân tâm của chúng ta từng bước một trong những cái sống hòa hợp, lục hòa như thế nào.

Cũng như bây giờ, Thật đặt ra thành vấn đề này, như vào trong Tu viện chúng ta mà cỡ có cái tổ chức hẳn hoi, các con không bao giờ mà có vào nhà bếp nấu ăn, các con sống độc cư quý thầy này, các con không được đến nói chuyện này, đó là các con độc cư này, các con chuyên môn các con phải sống như thế nào đúng cách này, ăn ngày một bữa này, tới giờ các con ôm bát đi khất thực không được nói chuyện ai này, tới giờ ngủ thì các con đi ngủ đúng giờ đúng khắc này không được mà ngủ phi thời phi pháp này, rồi tới cái giờ các con luôn luôn sống trầm lặng một mình này không được tiếp duyên với người nào khác làm sao có cái sự kiện gì mà xảy ra đâu, làm gì có sự kiện mà mất lòng nhau đâu, đâu có nói chuyện với nhau đâu. Đó là cái thứ nhất ba cái giới mà Thầy đặt ra, cái nòng cốt của cái tu viện. Rồi kế đó ba cái đức mà chúng ta tập luyện là nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thì luôn luôn lúc nào cũng có ba cái pháp nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thì gần nhe là sáu cái pháp lục hòa của Phật rồi, cái danh từ thì nói khác, chứ ba cái đức này nó đúng là Lục hòa ở trong cái đạo Phật rồi, rất là Lục hòa, mà nó đầy đủ trọn vẹn ở trong sáu cái hòa hợp này rồi. Do như vậy làm sao mà chúng ta có cái sự gì mà tranh cãi, có cái sự gì mà phiền não. Muốn tu vào đây thì phải khép mình ở trong sáu cái kỉ luật này, sáu cái luật này, nòng cốt của tu viện này thì thử hỏi làm sao có chuyện gì nữa. Nhưng mà giờ cái hoàn cảnh của mình không có làm được cho nên các con thấy các con còn lộn xộn, rồi bây giờ các tu sĩ ở ngoài sau nam thì các con thấy có lộn xộn không. Nó lộn xộn là do mấy cái ông mà không có độc cư được đi lại thất này nói chuyện đi lại thất kia nói chuyện, chứ còn riêng mấy người mà người ta sống độc cư một trăm phần trăm người ta không đến thất ai người ta lo người ta tu hành các con thấy có ai mất lòng ai không. Thầy thấy mười người, một trăm người mà sống được như mấy người độc cư như vậy, bây giờ một ngàn người thì cái tu viện chúng ta cũng im như là thạch bàn nó không bao giờ có một tiếng động, sống đúng thì nó không bao giờ mà làm chúng ta khó khăn tu hành mà sống không đúng thì nó làm cho chúng ta khó khăn tu hành. Còn vì cái hoàn cảnh các con bên nữ các con sao. Các con phải nấu cơm mà sống, bởi vì Thầy chưa có tổ chức cho cái người nào mà ở ngoài nào mà người ta nấu cơm cho mình sống được cho nên đến đây chúng ta còn phải có những cái sơ sót đó. Nhưng mà chúng ta vì cái nhân duyên chưa đủ mà đành chúng ta phải chịu mà thôi chứ bây giờ chúng ta biết làm sao, đó thì các con thấy không. Chứ nếu mà bên nữ mà Thầy khép được mà cô Út mà hoàn toàn có những cái người khác mà lo lắng được đời sống để các con có mà cơm ăn áo mặc ngày chừng một bữa mà các con bưng bình bát các con đi khất thực mà các con biết giữ trọn được cái hạnh độc cư đó. Nếu mà các con giữ trọn hạnh độc cư thì Thầy nhìn trong cái số các con chắc còn lại ở đây cũng không có bao nhiêu người đâu, chắc chừng một hai người hết sức. Thì cũng như bên nam mà nhìn lại thì cũng đâu có người nào cũng còn một hai người à. Chứ không khéo các con sống buồn bã rồi các con sống mà tiếp duyên làm chuyện đồ các con còn vui, còn có buồn, có giận, các còn còn ấy chứ cô đơn quá thì các con cũng lại như là thầy Từ Minh với thầy Chơn Tịnh mà độc cư quá rồi chịu không nổi rồi cũng phải là xách gói đi thôi chứ không làm sao mà sống được. Đó thì  các con thấy nó đâu có đơn giản. Nếu mà chúng ta sống độc cư được, giới hạnh chúng ta giữ được thì cái Tu viện chúng ta nó im re à. Không bao giờ mà có sự không hòa hợp, nhưng cái hoàn cảnh chúng ta chưa tổ chức được.

Thầy ước ao một ngày nào đó, chúng ta còn lại chút ít chúng ta sẽ tổ chức được những cái sự tu hành của chúng ta được tốt hơn để cái bên giới nữ các con có những cái điều kiện mà tu tập cho đạt được cái kết quả tốt hơn. Còn bây giờ các con sống trong cuộc sống chung như thế này, các con làm riêng rẽ để cho một mình mình tu cho được thì chắc chắn các con cũng không có yên mà tu được đâu. Nó phải sống ở trong một cái hòa hợp chứ không thể nào muốn riêng cho mình được một cái gì được cả. Cho nên một cái guồng máy thì cái bánh xe lớn, cái bánh xe nhỏ nó đều kéo nhau hết, chạy thì nó phải chạy hết, mà nó không chạy thì nó sẽ đứng hết còn bây giờgiụt không có một cái bánh xe nó đứng chựng lại nó  không chịu chạy được thì mấy cái bánh xe kia nó có chạy được thì nó cũng cán, nó cũng cày những cái răng của bánh xe đó cũng tan nát hết không còn nữa.

Hôm nay thì Thầy sẽ kết thúc cái giới bổn vì chúng ta có học thêm nhiều thì nó cũng bây nhiêu cái điều thêm thắt của các Tổ, bởi vì trong những  cái bài kinh của Phật cái giới nó vừa là pháp môn của chúng ta tu mà cũng vừa là những cái hành động để chúng ta trau dồi thân tâm của chúng ta dẫn đến giải thoát, chứ không phải cái giới ở trong giới kinh nó là một cái giới mà cái điều luật, hay hoặc là một cái giáo điều, mà nó là cái pháp môn. Bởi vì chúng ta đọc ở trong kinh sách chúng ta thấy rất là đầy đủ giới mà oai nghi tế hạnh nó rất là đầy đủ chứ không phải thiếu, nhưng mà vì sau này người ta cứ suy tư nghĩ ra cái này cái kia để chế ra những cái oai nghi tế hạnh, nhưng mà khi chế ra đủ thứ oai nghi tế hạnh mà một cái người không phòng hộ sáu căn thì cái oai nghi tế hạnh cũng đâu có bằng cái người mà người ta phòng hộ sáu căn.

Mặt B.

Những cái pháp hành như vậy đó chúng ta thấy nó rất là oai nghi rồi. Còn bây giờ mình có đặt oai nghi một trăm giới chúng học, oai nghi thế này thế khác mà con mắt ngó láo liên thì chắc chắn là không thể nào mà gọi là oai nghi tế hạnh được hết. Giới bổn ấy thì chúng ta thấy nó chi li phần này phần kia coi nó rõ ràng nhưng mà nó không có cái hành. Cho nên nó tuy nói chúng ta nghe nó có cái hay nhưng mà cái hay đó bằng cái lý thuyết suông nó không có cái pháp hành. Còn ở trong giới kinh thì nó có cái pháp hành rõ ràng. Vì vậy bây giờ chúng ta có giải thích bao nhiêu cho đi nữa, nói bao nhiêu cho đi nữa thì nó cũng không có một cái pháp cụ thể để đưa cho chúng ta đi đến cái sự giải thoát. Vì vậy chúng ta nên tóm lược nó lại ở đây để rồi chúng ta phán xét coi cái đúng hay cái sai có đúng của Phật chế hay là không đúng của Phật chế mà thôi.

BỐN PHÁP KHÓ THỂ NHẬP

Còn về phần ngày hôm nay trước khi mà kết thúc cái Giới bổn này thì Thầy cũng nhắc nhở quý thầy nó có bốn cái pháp rất khó thể nhập. Đó là bốn cái loại định, bốn cái định.

Thế nào là bốn pháp rất khó thể nhập, phải lưu ý về phần này là cái phần mà chúng ta gọi là tu Thiền định mà chúng ta không hiểu nó thì tức là chúng ta sẽ khó mà tu tập được.

Cái phần thứ nhất là xả phần định, tức là cái định mà làm cho chúng ta xả được tất cả mọi cái, mọi pháp, thì cái định đó nó làm chúng ta xả hết các pháp, cái đó là cái phần rất là quan trọng. Cho nên ở đây chúng ta thấy như ở trong Tứ thiền, Phật có dạy chúng ta đó là xả hỉ, xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Vậy thì chúng ta biết là trong khi mà nhập Tứ thiền thì chúng ta phải xả vậy xả cái phần mà xả định này đó, chúng ta phải có cái pháp hành như thế nào, không khéo nói xả là danh từ suông thì chúng là làm sao chúng ta biết xả. Xả phải làm sao, đó là khi mà Thầy dạy về cái định hiện tại an lạc trú đó, dạy về Bốn thiền thì Thầy sẽ dạy về cái phần xả phần định đó là cái phần thứ nhất.

Cái phần thứ hai của định là chỉ phần định, cái này cũng rất quan trọng. Chỉ là ngưng lại, làm cho nó ngưng, thí dụ như bây giờ chỉ cái ngôn ngữ phải tịnh chỉ, làm cho cái làm cho cái ngôn ngữ không còn phát ra cái lời nói nữa như vậy gọi là chỉ, mà cái chỉ được như vậy gọi là chỉ phần định. Cũng như một người nhập Sơ thiền mà hay nói chuyện thì không thể nói người đó nhập Sơ thiền được, cho nên chúng ta phải tịnh chỉ cái ngôn ngữ, mà tịnh chỉ cái ngôn ngữ đó là cái phần thứ hai ở trong định, gọi là chỉ phần định.

Phải hiểu như vậy để mà chúng ta phải có cái pháp hành như thế nào để mà chỉ. Còn nếu mà không có pháp hành ấy thì chắc chắn chúng ta không có chỉ được. Thí dụ như bây giờ nếu màkhông có cái pháp hành, bảo là mà mình tịnh chỉ ngôn ngữ thì mình không nói chuyện, nhưng mà nó không có cái pháp hành. Bữa nay ráng bữa nay không nói chuyện nhưng mà nó không có pháp hành thì bữa nay không nói chuyện sángngày mai có cái duyên sự gì nó cũng bắt chúng ta nói chuyện à, hay hoặc là chúng ta sống độc cư không nỗi thì chúng ta cũng thành nói chuyện à. Cho nên vì vậy mà phải có cái pháp hành, phải có một cái kỉ luật khép chặt mình trong cái khuôn khổ đó, để buộc chúng ta không có cái duyên ra ngoài để chúng ta mới tịnh chỉ được cái ngôn ngữ.

Vậy thì chúng ta phải lấy cái pháp hành gì, do hằng ngày chúng ta phải trao dồi tu tập gì để mà chúng ta giữ cái ngôn ngữ mình không nói. Cái đó là cái quan trọng gọi là cái phần chỉ phần định. Như vậy là chúng ta phải biết. Ví dụ như ở đây Thầy lấy cái kỷ luật là bắt buộc tu sĩ ở đây phải sống độc cư, không được người này qua thất kia nói chuyện. Người nào ở thất nấy, sinh hoạt tại nơi cái thất của mình mà không được sinh hoạt ở chỗ khác. Do như vậy, bắt buộc người ta như vậy đó nên người ta mới giữ được một cái phần nhỏ ở trong cái tịnh chỉ ngôn ngữ. Đó là bắt đầu muốn vào Sơ thiền là phải có cái kỉ luật như vậy, mà phải có phải cái pháp hành để cho người ta hằng ngày người ta hành người ta mới giữ được cái ngôn ngữ, chứ không người ta ngồi người ta không nói chuyện người ta buồn quá cho nên người ta cũng tìm cách này hay tìm cách kia, vì vậy mà cuối cùng tịnh thì chỉ ngôn ngữ không được, nó lại phá cái tịnh chỉ ngôn ngữ, tức là phá cái hạnh độc cư.

Thì hôm nay Thầy muốn chỉ cho quý thầy thấy cái phần này là sau cái phần mà dạy về cái giới hành thì Thầy sẽ dạy về cái phần chỉ, cái phần định để chúng ta có những cái pháp hành, có những cái nơi mà chúng ta tu hành để giữ gìn cái khẩu hành của mình, cái ngôn ngữ của mình.

Hằng ngày chúng ta tu tập như thế nào để màchúng ta tịnh chỉ được cái ngôn ngữ chớ không chúng ta ngồi không mà cứ bảo là thanh tịnh khẩu, đừng nói chuyện, đừng nói chuyện nhưng mà cái tâm của chúng ta nó rất buồn, nó rất cô đơn, nó khó chịu. Như vậy đạo Phật đến để có sự giải thoát mà lại đến với một cáchkhổ đau như vậy, không đúng cách. Cho nên chúng ta có cái pháp hành màchúng ta không nói chuyện mà vẫn thấy an ổn, thích thú ở trong cái cảnh trầm lặng, cảnh cô đơn của mình, thì như vậy là phải có pháp, còn không có pháp thì coi như là bắt buộc chúng ta không nói chuyện, cho nên chúng ta quá khổ đau.

Đó, phải như vậy cho nên ở đây nói phần chỉ phần định, tức là nói về cái phần hành ở trong cái chỉ đó. Thì ở trong Bốn thiền thì có nhiều phần chỉ chứ không chỉ có chỉ ngôn ngữ không. Nhưng mà người mới vào tu thì chúng ta phải chỉ ngôn ngữ này, rồi đến chỉ tầm tứ này, rồi đến chỉ các trạng thái tưởng nè, rồi đến chỉ cái hơi thở các hành ở trong thân nè. Thì như vậy nó mới có thể nhập định, chứ không phải đơn giản. Phải biết cách thức chỉ như thế nào, dùng cái pháp nào để mà chỉ cho được. Thường xuyên chúng ta phải tu tập như thế nào để mà thực hiện được cái pháp chỉ chớ không phải nói chỉ rồi quán, chỉ rồi quán, chắc chắn là một ngàn đời chẳng chỉ được gì mà quán cũng chẳng được gì.

Cái thứ ba: Thắng phần định. Thì ở đây chúng ta phải có cái sự mà thấu suốt như thế nào để mà chúng ta hiểu rõ như thế nào trong từng cái sự tu tập, trong từng phút giây của chúng ta phải thông suốt cái sự thiền định của chúng ta như thế nào đúng, như thế nào sai. Một khi chúng ta ngồi đây mà chúng ta ổn định hơi thở nè, chúng ta nghe tức lói là sai rồi. Chúng ta nghe hơi mệt là sai rồi. Năm hơi thở, mười hơi thở chúng ta phải hít một hơi thở dài vô do đó để chúng ta lấy sức thì cái đó là tu sai rồi. Bởi vì đạo Phật cái sai chúng ta dễ thấy lắm, còn cái giải thoát chúng ta ngồi mà chúng ta tu tập cái hơi thở mà chúng ta nghe nó an ổn, nghe không có cái rối loạn cơ thể chúng ta gì hết, cái đó đúng. Mà có một cái trạng thái gì mà gọi là  hỉ lạc khinh an thì sai, đó là dục tưởng hỷ lạc thì trật, chúng ta cũng phải phá bỏ. Cho nên gọi là thắng phần định, nghĩa là phải thấy cho rõ các phần định. Mà trong khi chúng ta từ cái Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, mỗi phần nó đều có một trạng thái đúng thì nó làm cho chúng ta thấy giải thoát, ngay đó nó có hiện tại. Cho nên Bốn thiền gọi là hiện tại an lạc trú, nó trong hiện tại nó có cái sự an lạc của nó, mà an lạc không có nghĩa là dục lạc, chớ không phải như quý thầy nghĩ là nó có sự khinh an làm cho chúng ta thích thú trong đó gọi là an lạc, cái đó là trật. Cái an lạc của hiện tại an lạc đó nó có sự thanh tịnh vô cùng tuyệt diệu, do đó gọi là an lạc. Cho nên thắng phần định gọi là cái phần thứ ba mà khi đó một caisa vị thầy người ta dạy cho mình nhận cho đúng cái trạng thái của định. Vì vậy do mà nhận đúng đó mình mới thiện xảo an trú ở trong cái định đó, cho nó kéo dài ra thì thời gian nó có thể kéo dài, mà nó sai thì chúng ta kéo dài không được, mà nó trật thì nó làm cho cơ thể bị rối loạn, làm cho đau nhức hoặc là mệt hay là khó chịu.

Cái phần thứ tư của bốn phần định này có tên là quyết trạch phần định, nghĩa là khi mà vào ở trong cái thiền định mà nó đúng cách rồi thì chúng ta phải có sự quyết định phải đi tới chứ không thể nào mà dậm chân tại chỗ nữa. Phải hằng ngày phải tiến bộ chớ không có thể nào mà đứng một chỗ. Cho nên sự quả quyết như vậy gọi đó là chánh tinh tấn, hay gọi là tinh cần, hay là nhiệt tâm trong cái sự tu tập. Cho nên khi mà thấy đúng được phần định của chúng ta tu rồi, bây giờ Sơ thiền chúng ta thấy rõ là tâm ly dục, ly bất thiện pháp rồi, nó thanh tịnh như thế nào đó, chúng ta đã nhận đúng cái trạng thái đó rồi thì bắt đầu chúng ta tiến tới, tiến tới để màchúng ta tu tập cái gì? Tu tập chúng ta thấy rõ được trạng thái định thì chúng ta tu tập tới cái phần chỉ. Mà cái phần chỉ xong rồi thì chúng ta tới phần xả. Cho nên chúng ta liên tục tới chứ chúng ta không có dậm chân tại chỗ đó, cho nên người xưa trong thời đức Phật còn người ta tu tập thiền định vì người ta thắng phần định người ta thấy rõ và quyết trạch phần định người ta nắm vững cho nên người ta tiến trong thời gian rất nhanh, một tuần hoặc nửa tháng là người ta nhập xong bốn định.

Còn mình không có nắm được, lúc thì vầy lúc thì khác, ko có hiểu thấu được các phần định cho nên không biết cái nào đúng, cái nào sai. Bữa nay như vậy, nhày mai nó khác. Cho nên chúng ta lừng chừng không có quyết đoán được. Cho nên đến khi mà tu tập Bốn cái thiền tức là hiện tại an lạc trú, thì nhờ một vị thầy người ta quyết trạch cho mình định đó, cái trạng thái đó là đúng thì lúc bấy giờ mình phải tiến tới, mình phải nỗ lực, mình quyết định là phải nằm cho chặt ở trên đó màmình thực hiện, ngày ngày mình tiến bộ trong vòng một tuần hay là nửa tháng mình xong. Còn nếu mà mình không thấy hai cái phần định sau này thì khó mà có thể tiến tới được là vì mình không thể chỉ được mà không thể xả được.

Đó là những vấn đề rất là quan trọng cho nên sau khi dạy Bốn thiền Thầy sẽ chỉ cho các pháp hành và chỉ cho nhận cho đúng các trạng thái của định để chúng ta vào đó chúng ta biết được một cách rõ ràng. Bởi vì tên của nó là hiện tại an lạc trú cho nên nó đem đến cho chúng ta có cái sự yên ổn ở trong sự thanh tịnh đó chớ không phải chúng ta hiểu qua cái danh từ an lạc là có sự khinh an hỷ lạc ở trong đó.

Đó là Bốn cái định mà rất khó thể nhập, rất khó có nghĩa là rất khó nhận và khó làm chớ không phải dễ, nhưng mà có một vị thầy người ta có kinh nghiệm người ta dạy mình thì mình dễ dàng không có khó nữa.

BỐN PHÁP CẦN TU TẬP

Bây giờ có bốn pháp, Thế nào là có bốn pháp cần được tu tập?

Ở đây trước tiên khi mà chúng ta muốn vào được bốn cái định này thì chúng ta có bốn pháp mà chúng tacần phải tu tập. Bốn cái pháp định hồi nãy đó là bốn pháp định rất là khó nhập nhưng mà muốn cho nó nhập được thì chúng ta cần phải tu tập bốn cái pháp cần tu tập trước để rồi chúng ta sẽ nhập được cái này rất dễ.

Bốn pháp này là gì? Là bốn niệm xứ, bốn niệm xứ là thân thọ tâm pháp. Sau này Thầy sẽ dạy về Tứ niệm xứ thì Thầy sẽ dạy nó có ba hành, ba đặc tướng,hành tương, nhân tướng và đặc tướng của nó ở trên cái thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta để mà chúng ta thực hiện tứ niệm xứ cho nó rõ ràng và mỗi hành thì nó có hành ngoại, hành nội và hành ngoại và nội; và mỗi cái nhân tướng của nó thì có nhân tướng nội, nhân tướng ngoại và ngoại và nội nhân tướng; và thọ cũng vậy và tâm cũng vậy. Cho nên ở đây dạy về Tứ niệm xứ, dạy cho rõ ràng từ lý pháp đến hành pháp nó rất là nhiều, cái bài từ niệm sẽ dạy rất là nhiều, không thể nào dạy ít mà quý thầy hiểu được. Và đồng thời dạy rất nhiều mà hàng ngày chúng ta không có thời gian chúng ta tu tập ở trong Tứ niệm xứ nhưng mà thực hiện được Tứ niệm xứ rồi thì bốn cái thiền này nó rất dễ không khó với quý thầy đâu.

BỐN PHÁP CẦN THẮNG TRI

Bây giờ nó có bốn pháp nữa.

Thế nào là có bốn pháp cần được thắng tri?

Tức là cần phải hiểu cho rõ đó, thấu suốt cho rõ đó, đó là bốn Thánh đế. Như quý thầy cũng đã hiểu bốn Thánh đế là khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Thì phần này sau khi giảng về Tứ diệu đế thì Thầy sẽ nói cái lý pháp và hành pháp của nó. Nằm ở trong 37 phẩm trợ đạo, quay ở trên một cái trục của bốn đế này. Là vì bốn đế này là bốn chân lý mà không thể nào các pháp khác rời khỏi bốn chân lý này mà tu tập được. Cho nên nó là bài pháp đầu tiên, cũng là bài pháp vỡ lòng trong đạo Phật, lần đầu tiên đức Phật đã thuyết giảng bài này cho nên cái bài này đặc biệt nó là một nòng cốt trụ để cho tất cả các pháp hành chúng ta quay vào cái trục này để chúng ta tiến tới sự giải thoát. Do sau này Thầy sẽ giảng dạy cái phần này rõ hơn còn ở đây chúng ta hiểu đại khái như vậy.

BỐN PHÁP THÙ THẮNG

Còn cái phần hôm nay để mà chúng ta tu tập, để mà đi vào cái phần đầu tiên là cái phần giới hạnh của chúng ta thì cái phần này nó có bốn pháp đem đến sự thù thắng. Bốn pháp đó là gì?

Bốn cái ly. Nghĩa là bốn cách ly. Từ hồi nào đến giờ quý thầy nghe Thầy nói ly dục ly ác pháp mà ở đây thì chúng ta chia làm bốn cái phần để mà chúng ta ly. Bởi vậy chúng ta phải hiểu rõ bốn cái ly này như thế nào?

Một là ly dục- cái lòng ham muốn của mình. Luôn luôn mình phải đoạn dứt ra, vì vậy muốn ly dục thì mình phải giữ gìn mắt tai mũi miệng thân ý của mình, đứng trước các pháp không cho nó dính mắc gọi là ly dục. Nó khởi ham muốn cái gì là không được cho nó dính vào đó.

Hai là ly hữu- hữu là những cái gì có trước mặt của chúng ta, các đối tượng của chúng ta cho nên chúng ta ly ra hết, không có được dính vào trong đó gọi là ly hữu.

Ba là ly kiến, tất cả những cái kiến chấp, cái ngã chấp của chúng ta, tất cả những cái tri kiến, cái sự hiểu biết của chúng ta trong đầu, chúng ta đều phải ly ra hết, để chúng ta còn sạch hoàn toàn, chỉ còn biết một cái pháp duy nhất là của Phật nương tựa vào Phật mà tu tập mà thôi. Chứ còn chúng ta còn một cái kiến nào đó thì chắc chắn là chúng ta khó thực hiện pháp giải thoát của đạo Phật được. Cho nên ngày xưa, các vị Tỳ kheo nói, các con chỉ nương vào Phật, lời của Phật dạy chúng con làm không sai thôi, chứ còn chúng con không nương tựa vào ai nữa hết, nghĩa là ly kiến đó, cái câu nói đó là cái câu ly kiến, chỉ còn lấy Phật làm cái nơi nương tựa vững chắc cho mình, mà Phật nói như thế nào thì làm như thế nấy, ko còn cái chấp kiến, cái kiến nào nữa hết, cho nên gọi là ly kiến.

Bốn là ly vô minh.Ly vô minh tức là phải thông hiểu những gì chưa thông hiểu của Phật pháp. Muốn ly vô minh tức là chúng ta phải tìm hiểu những gì chơn chánh của đạo Phật, để hiểu nó để làm cái con đường mà tiến tới sự giải thoát, cho nên gọi là ly vô minh. Nếu mà chúng ta không chịu tìm hiểu thì vô minh chúng ta dày đặc, không thể nào chúng ta thông suốt được.

Bởi vì Phật nói các pháp đều vô thường, nếu như chúng ta không hiểu được các pháp vô thường tức là chúng ta vô minh. Mà hiểu được các pháp là vô thường, thấy rõ nó là vô thường, thấy rõ nó là khổ, thấy rõ nó là vô ngã thì do đó chúng ta thấy rõ nó, gọi là minh, còn nếu mà thấy không rõ thì không thể nào gọi là minh được mà là vô minh. Cho nên tất cả các pháp khác, các lý luận khác, 62 lập luận của ngoại đạo đều là không phải là cái minh mà là vô minh, cho nên thường bị dính mắc vào những cái kiến đó mà chấp đó là đúng, là sai, là phải, còn tất cả các pháp khác đều sai, cho nên các vị ấy đều là tu không đạt được giải thoát. Vì vậy hôm nay chúng ta, cái phần mà ly vô minh này là cái phần chúng ta phải học, phải hiểu qua những bậc Thánh, những pháp Thánh, những bậc chơn nhơn, những pháp của chơn nhơn thì chúng ta mới có phá được cái vô minh. Còn nếu chúng ta không thân cận những bậc Thánh, những pháp Thánh, những bậc chơn nhơn thì chúng ta không thể nào phá vô minh chúng ta được. Cho nên ly cái phần thứ tư này, rất là quan trọng, nếu chúng ta muốn ly dục, ly hữu, ly kiến mà chúng ta còn vô minh thì chúng ta không bao giờ ly được.

Cho nên ngay từ bắt đầu Phật đã dạy chúng ta có 4 điều kiện quan trọng.

Thứ nhất: Những gì chưa thông hiểu cần phải thông hiểu. Đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai: Những gì chưa trau dồi, cần phải trau dồi.

Cái thứ ba: Những gì chưa dứt bỏ cần phải dứt bỏ.

Cái thứ tư: Những gì tu tập, chưa tu tập cần phải tu tập.

Đó là 4 cái điều kiện mà chúng ta phải nhớ mãi trong lòng. Vì vậy mà cái vô minh này là cái điều kiện phải thông hiểu, phải thông hiểu mà thông hiểu gì? Đụng đâu cũng thông hiểu thì không đúng, mà phải tìm những bậc Thánh nhân, phải tìm những pháp Thánh, phải tìm những bậc chơn nhơn, phải tìm những pháp chơn nhơn mà hiểu thì nó mới phá được vô minh. Đó là cái điều quan trọng mà quý Thầy cần phải lưu ý, chớ không phải đụng kinh sách nào quý Thầy cũng đọc, nghe thiền nào cũng nghiền ngẫm cũng đọc, đó là cái vô minh càng chồng chất thêm vô minh, chưa hẳn đã là giải thoát được.

Cho nên chúng ta phải tìm những cái bậc Thánh hiền, tìm những cái bậc pháp Thánh, thì mình tìm những bậc Thánh những bậc chơn nhơn là những người như thế nào? Là người phải có một cái đời sống giới hạnh nghiêm túc. Còn đụng những cái người mà ăn phi thời, ngủ phi thời, chạy theo dục lạc thế gian mà nói trên mây xanh thì thử hỏi chúng ta có tin được người đó là Thánh không? Có chọn người đó làm Thầy mình không? Có muốn chọn người đó là ở gần mình không? Chắc chắn là mình phải tránh xa những cái vị đó, vì những vị này đều là những vị phạm giới, những vị phá giới luật, không có thanh tịnh thân tâm của họ. Cho nên chúng ta không có thân cận những vị đó dù...nhưng màthấy hành động sống của họ, thấy cuộc sống của họ rất là phàm phu, chạy theo ngũ dục lạc thế gian thì làm sao mà chúng ta sống như những bậc đó gọi là Thánh được.

BỐN PHÁP CẦN ĐƯỢC TU TẬP

Thế nào là bốn pháp cần được tu tập? Đây là bốn cái pháp mà chúng ta cần tu tập. Khi bắt đầu xuất gia làm một vị tu sĩ thì chúng ta cần phải tu tập bốn cái pháp, bốn tùy niệm xứ, bốn cái tùy niệm xứ. Nghĩa là theo bốn cái pháp đó, tùy đó mà mình niệm. Vậy thì:

Một là Phật tùy niệm.

Hai là Pháp tùy niệm.

Ba là Tăng tùy niệm.

Bốn là Giới tùy niệm.

Đây là bốn pháp cần được tu tập. Đó thì quý thầy nhớ bốn cái pháp này đầu tiên, chúng ta cần phải tu tập.

Phật tùy niệm là tùy theo ông Phật mà mình niệm, rồi tùy theo Pháp mà mình niệm, tùy theo Tăng mà mình niệm, tùy theo giới mà mình niệm. Bốn cái pháp này gọi là Tứ bất hoại tịnh. Nó làm cho thân tâm của chúng ta thanh tịnh, nó không còn ô trược, nó không còn uế trược nữa. Bốn pháp này còn gọi là Tứ kỉnh pháp, bốn cái pháp này còn gọi là Tín lực cái lòng tin của chúng ta. Cái lòng tin của chúng ta: Phật, Pháp, Tăng và Giới, nó tạo cho chúng ta có niềm tin chân thật, là tại sao nó tạo chúng ta có niềm tin chân thật được? Là tại vì nó mang lại kết quả giải thoát cho chúng ta trong hiện tại khi chúng ta bước chân vào Phật, Pháp, Tăng. Giới thì chúng ta thấy có sự giải thoát, có sự giải thoát chơn thật, không phải còn đợi ngày mai, ngày mốt mà ngay bây giờ, hiện tại bây giờ khi mà chúng ta chấp nhận bốn cái pháp này là chúng ta thấy có kết quả giải thoát của chúng ta liền, do đó chúng ta mới tin được. Còn nếu không kết quả thì chúng ta không bao giờ tin được, đó gọi là Tín lực.

Bốn cái pháp này: Phật, Pháp, Tăng, Giới còn gọi là Tín căn. Bốn cái căn để mà chúng ta tin tưởng, bốn cái gốc để làm cái lòng tin của chúng ta phát triển, cho nên còn gọi là tín căn. Đó, như vậy ở đây Thầy dạy cho quý thầy thấy ngũ căn, ngũ lực mà Ngũ căn, Ngũ lực thì cái Tín căn và Tín lực là những cái đầu tiên của Ngũ căn Ngũ lực. Như vậy là mới vào Tứ bất hoại tịnh thì chúng ta đã học được Ngũ căn, Ngũ lực, rồi bốn pháp kỉnh, rồi Tứ bất hoại tịnh, thì rõ ràng là chúng ta phải hiểu cho rất rõ ràng. Rồi sau này Thầy sẽ giải thích cách thức tu tập Tứ bất hoại tịnh như thế nào để tạo cho chúng ta có Tín lực, để tạo cho cái Tín căn của chúng ta càng ngày càng sáng chói ra, để làm cho cái Tín căn của chúng ta càng ngày càng lớn cái gốc mạnh lên, cái lòng tin của chúng ta càng tin sâu hơn nữa. Đó là chúng ta càng tu thì cái tín căn chúng ta càng mạnh, càng lớn lên vì nó cụ thể và rõ ràng.

Ở đây bây giờ thì dừng lại đây, để một lát nữa Thầy sẽ dạy về các cái Tứ bất hoại tịnh. Vậy thì quý Thầy sẽ tiếp tục để học, Thầy kết luận về cái phần mà huyết nghi của cái giới bổn và cái phần mà học về Tứ bất hoại tịnh thì một lúc nữa chúng ta sẽ tiếp tục trở lại.

Về cái phần mà huyết nghi của cái giới bổn, để kết luận cái giới bổn thì ở đây có hỏi và đáp.

Câu hỏi: Thuở ban sơ, Phật lập giáo luật thế nào?

Đáp:

Chư Phật ra đời đều tùy cơ duyên mà thiết lập giáo luật phép không nhất định, khi đức thế Tôn ứng hiện ra cõi Ta Bà ngũ trược ác thế này nhiều người ưa làm việc ác chẳng giữ gìn lời nói và tâm trược nhơ nặng nề, dù không hiện cảnh vẫn nhớ việc từng trải qua, phát khởi nghĩ muốn, tạo tác thân nghiệp chẳng lành, thế nên đức Như Lai lược dạy họ trong thứ lớp để ngừa, đó là khi nó chưa móng tưởng. Lại hàng Tăng Ni cần tu chữ hòa kính làm trọng nên ngài phải răn trước khi bước vào cửa đạo, nếu ai có thể như thế mà khéo giữ mình thanh tịnh, ba nghiệp trong sạch, hạnh lành từ đó phát sinh và có ngày sẽ đạt được đạo quả giải thoát, thực hiện một đời sống thánh thiện bên cạnh đức Như Lai.

Thực sự ra trong giới kinh mà đọc lại, toàn kinh của A-hàm và kinh Nguyên thủy thì chúng ta thấy rất là rõ ràng, đâu có phải đợi mà các tu sĩ phạm giới rồi mới chế. Ngài đã viết ra, Ngài đã dạy tất cả các tu sĩ trong thời đó là sơ thiện, hậu thiện và trung thiện. Chúng ta đọc lại trong cái kinh thì chúng ta thấy rất rõ. Những điều mà Ngài dạy sơ thiện, trung thiện đều toàn là giới không có gì, đâu phải đợi màcác thầy phạm giới rồi chế ra, mà trong lúc đó là những cái điều thiện để dạy cho người ta biết, tức là người ta nương vào cái thiện mà người ta giữ được thân tâm thanh tịnh giải thoát thì cái đó không phải là giới sao?

Cho nên ở đây mà nói rằng đức Phật sau này mới chế giới đó thì Thầy thấy quá là hiểu sai Phật ở chỗ này. Đợi cho đến khi mà có phạm giới rồi chế thì quá sai, Phật đã chế trước khi mà đã dạy chúng ta thấy như cái bài pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế. Chỉ cho chúng ta thấy đời là khổ do cái gì mà sanh ra khổ, thì tức là Đức Phật đã chỉ ra cho chúng ta thấy cái lòng dục của chúng ta là sinh ra khổ, tức là cái lòng dục là ác pháp chứ là cái gì. Nó mới đem đến những cái quả khổ cho chúng ta chứ gì, thì không phải biết rõ cái thiện pháp và ác pháp, thì không phải là những điều kiện để mà chúng ta dứt cái ác pháp để mà thực hiện cái sự giải thoát, thì đó là cái pháp lành sao. Cho nên ngay từ đó chúng ta đã thấy cái giới ban đầu mà Đức Phật đã dạy cho năm anh em Kiều Trần Như đó thì chúng ta thấy rất rõ ràng, không còn mà chối cãi gì được nữa. Chứ đâu có phải là đợi cho năm anh em Kiều Trần Như phạm giới rồi mới chế, mới nói pháp Tứ Diệu Đế đâu. Rõ ràng là Đức Phật đã thấy được giới luật là pháp của Phật thế nào sau khi mình thực hiện được sự giải thoát. Ngài mới nói rằng những cái pháp đó là những cái pháp màrất là kính trọng, rất là tôn trọng, từ đó Ngài mới triển dương cái giáo pháp, cái giới luật đó để mà cứu chúng sanh. Ngài mới đem cái giáo pháp đó ra, chứ đâu phải đợi các thầy tỳ kheo phạm giới rồi mới chế ra. Đó là những cái nó không đúng với cái ý của Đức Phật. Và đồng thời khi Đức Phật mà nhập diệt thì Ngài lại di chúc cái giới pháp đó là làm Thầy của chúng ta sau này. Tức là Ngài phải chỉnh đốn các Pháp đó từ khi Ngài chứng đạo. Ngài đã thấy được cái giáo pháp đónó  như thế nào, nó sẽ giúp người ta giải thoát như thế nào và vì vậy Ngài mới di chúc nó là làm Thầy của chúng ta sau này. Nếu nó chưa phải nó còn sửa tới sửa lui đó thì làm sao mà làm Thầy chúng ta được.

Hỏi: Cũng thủa ban sơ ấy hàng để tử xuất gia của Phật nổi tiếng là tăng vô sự, nghĩa là nghĩa này thế nào và ngược lại thế nào? Thử hỏi trong thời Đức Phật không phải là người tu khổ hạnh sao? Không phải là những người đó là vô sự sao? Nhưng sự thật ra lúc bây giờ Đức Phật chưa có cái pháp chân chính cho nên chưa phải là tăng vô sự, vì chưa giải thoát được cho nên chưa phải gọi là tăng vô sự. Cho nên tại sao bây giờ tất cả các số đệ tự của đức Phật mười hai năm, hoặc mười ba năm chưa chế giới mà tại sao họ được gọi là tăng vô sự. Họ đâu phải là không có giới pháp, họ có giới pháp tu tập. Cho nên khi mà nghe lời đức Phật dạy Tứ Diệu Đế thì năm anh em Kiều Trần Như đã ngộ được cái lý của pháp làm cho tâm hồn mình được giải thoát ngay đó là mình chứng được đạo quả giải thoát của Phật liền. Đó là khi mà nghe pháp thì chúng ta đã hiểu biết được rõ ràng chỉ cần buông cái này là chúng ta sẽ được giải thoát liền cái kia. Cũng như bây giờ chúng ta cần ly cái này thì chúng ta sẽ được cái sự giải thoát của cái kia, chúng ta cần ly cái dục thì chúng ta sẽ được cái sự giải thoát của cái ly dục liền tức khắc.

Đáp: Tăng chỉ là cho các bậc thánh tăng A-La-Hán vô sự là các lậu hoặc đã hết, phạm hạnh đã lập. Ngay từ khi mà năm anh em Kiều Trần Như mà nghe đức Phật thuyết cái bài pháp đầu tiên chưa phải hết lậu hoặc, còn phải một thời gian tu tập chứ đâu phải nghe rồi cái lậu hoặc hết liền cho nên dẫn nói cái câu nói là không đúng, là vì Thầy thấy cái kết luật của cái sự huyết nghi của giới luật này, thì giới bổn này, thì những cái nhà mà làm luật này, họ nói không đúng.

Như Lai thành đặng chánh giác trong mười hai năm đầu, có chỗ thì nói mười ba năm, có chỗ thì nói mười hai năm, thực ra mà mấy cái ông mà viết giới luật này họ không có định được cái thời gian như thế nào đúng, như thế nào sai. Bộ này thì nói như thế này, bộ khác thì nói như thế khác, không có hợp nhau. Nhưng mà kinh sách của Phật chúng ta thấy, cái bộ kinh A Hàm, bốn bộ kinh A Hàm và năm cái bộ kinh Nikaya chúng ta vẫn thấy nó tương đồng với nhau chứ chưa có cái sai khác mà đến nỗi quá độ như thế này.

Ngài chỉ là tăng A-La-Hán vô sự mà nói lược giới luật, giáo luật ấy. Dù người chưa chứng vô sự do học giáo luật này mà trong sạch ba nghiệp đạo nên liền chứng ngộ. Mười hai năm sau pháp hữu lậu sanh khởi trong tăng đoàn, nghĩa là nói như vậy Thầy thấy nó không có đúng cái sự thật là tại sao vậy, thậm chí tới mười hai năm mới là các vị sau này mớisanh hữu lậu. Nghĩa là trong cái thời đức Phật chưa tu thì đức Phật vẫn còn lậu hoặc chứ đâu hết, đâu có bao giờ hết, nếu mà Đức Phật hết lậu hoặc thì làm sao có vợ có con. Đó là một cái điều mà chúng ta xác định, mà các vị này dù có tu đi nữa nhưng mà trong khi đó chưa có cái chánh pháp làm sao mà hết lậu hoặc được. Nếu mà hết lậu hoặc thì các lục sư ngoại đạo trong cái thời đó đã hết lậu hoặc rồi đâu cần gì phải có Đạo Phật ra đời mới hết lậu hoặc, cho nên cái luận này cũng không đúng. Mười hai năm sau pháp hữu lậu mới sanh khởi, tới mười hai năm sau Đức Phật thành Phật rồi, người trước nớimười hai năm đó từ Đức Phật mà thành đạo, mười hai năm kế đó thì những con người đó, những con người trong thời đó không có lậu hoặc, sau mười hai năm thì tất cả những người khác nó mới sanh ra lậu hoặc nữa thì như vậy là lậu hoặc từ đâu đến. Con người là phải có lậu hoặc cho nên nói chỗ này là không đúng. Vì muốn mà chúng ta được giải thoát thì chúng ta phải diệt trừ lậu hoặc. Cho nên từ Đức Phật thấy bốn cái sự đau khổ sanh, già, bệnh, tử là khổ. Mà do sanh lão bệnh tử này là do gì mà có không phải là do lậu hoặc sao, cho nên muốn thoát khỏi những cái khổ này thì phải diệt trừ các pháp lậu hoặc. Đó thì như vậy nói như vậy tức là luận, luận như vậy là luận sai không đúng. Mười hai năm mới có các pháp lậu hoặc khởi lên do đó mới có tăng mớiphạm giới còn nếu mà không có lậu hoặc thì không có phạm giới thì như vậy là sai, đâu đúng được. Nên đức Thế Tôn mới vì đó mà tùy theo nhân duyên nặng nhẹ mà viết hai trăm năm chục giới cho tì kheo và ba trăm bốn mươi tám giới cho tì kheo ni để phân biệt danh, dũng, tánh, tướng, khai, vá, tỳ, phạm để họ hoàn thành tánh thể căn bản đáng tôn kính của nhân thiên.

Sự thật ra từ khi mà có giới bổn mà ra đời thì con người chúng ta, cái người tu sĩ đạo Phật càng ngày càng phạm giới, còn trước kia nó chưa có cái giới bổn đó, Thầy thí dụ mười hai năm từ Đức Phật thành đạo Ngài hướng dẫn số đệ tử không có giới bổn mà chỉ có giới kinh vì vậy mà người ta có pháp hành cho nên người ta hoàn toàn vô lậu vì vậy mà người ta không phạm. Sau khi có những cái giới bổn này ra thì bắt đầu người ta lại càng phạm cho đến bây giờ chúng ta thấy chưa có một ông thầy nào gọi là giới luật thanh tịnh. Giới bổn thì quá nhiều nhưng mà có làm cho người ta hạn chế, ngăn chặn những cái phạm giới đó không, không có. Càng chế giới bao nhiêu thì cái người phạm giới lại càng nhiều và nhìn lại cái người mà thanh tịnh giới thì hoàn toàn ở trong giới tu sĩ không còn thấy bóng dáng nữa.

Hỏi: Vì sao Thế Tôn chẳng chế giới thẳng từ đầu mà lại đợi có người phạm giới rồi mới chế giới?

Đáp: Đức Thế tôn mới thành chánh giác hai bộ giới pháp tăng ni đã định nhưng chỉ vì căn tánh chúng sanh chưa thuần khắp thế nên Ngài mớitùy phạm mà kiết giới. Kinh văn thù vấn nói: Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng Thế Tôn đời vị lại sẽ có người phê phán Phật, nói như vầy: nếu Đức Như Lai là nhất thuyết túy cớ sao đợi chúng sinh làm tội rồi mới chế giới. Phật bảo Văn Thù như vậy mới đúng là nhất thiết trí nếu như ta ngược chế giới trước thì người sẽ chê ta vì sao? Vì họ chẳng làm tội vì sao lại cưỡng chế.

Ở đây là lời đức Phật mâu thuẫn nó nói như vậy là Thầy thấy đức Phật rất là mâu thuẫn với đức Phật. Ngay từ vào đầu sơ thiện đức Phật đã dạy như thế nào này, không sát sanh này, không trộm cắp này, không có dâm dục này, không có vọng ngữ này, không uống rượu này không phải cái đó là giới sao. Đọc cái giới kinh chúng ta thấy ngay liền là ngay từ đầu nó đã có cái đó rồi sao lại nói là Đức Phật không chế giới trước đó là những cái sai. Cho nên ở đây chúng ta lí luận như vậy rồi bây giờ cái giới bổn này ra đời thì cũng là không sát sanh, không dâm dục, cũng không vọng ngữ cũng vô đó chứ cái gì, như vậy là trước cũng có đó chứ đâu phải không có, cho nên ở đây là cái miệng của người ta méo qua méo lại, cái lưỡi người ta nó mềm nó uốn tới uốn lui cho nên người ta muốn nói sao cũng được hết mà cứ đổ thừa ông Phật không à. Cho nên chúng ta thấy dường như ông Phật nhiều miệng nhiều lưỡi nhưng mà sự thật ông Phật không có nhiều miệng nhiều lưỡi mà tại vì người sau này gán cho ông Phật trở thành nhiều miệng nhiều lưỡi như vậy. Qua cái sự mà vấn đáp ở đây, hỏi và đáp ở đây, chúng ta thấy rõ ràng là người ta hiểu Phật pháp bằng cái kiểu đó đó.

Đây chẳng phải là nhất thiết trí họ sẽ nói rằng vì tôi không có tội lỗi Như Lai không tâm từ bi chẳng nhiêu ít, chẳng nhiếp thọ chúng sanh, như người không có con mà nói có con, giờ mấy sẽ sinh, chỉ có lời nói suông làm sao tin được. Vì sao? Vì chẳng chân thật, nếu thật thấy con thì sanh lòng tin, như thế Văn Thù những tội chưa làm thời người chẳng thấy làm sao nghịch chế giới được. Cần phải thấy tội rồi mới chế ra thì rõ ràng cái pháp này cần có tội rồi mới chế.

Bây giờ có ăn trộm ăn cướpnhà nước thấy có ăn trộm ăn cướp thì mới chế giới ra, người nào ăn trộm ăn cướp thì phạm tộichặt chân chặt tay đi, rồi mới chế ra chặt chân, chặt tay cho người ta sợ. Thì như vậy là cái người mà chế giới luật này mới chờ cho phạm tội mà chế thì như nhà nước mà chế pháp luật. Cho nên giới bổn nó nhằm vào chỗ đó mà lý luận, còn đức Phật chế giới ra tức là nói về pháp thiện để nhờ đó mà chúng ta nương vào cái pháp đó để quét sạch hết lậu hoặc, để giải thoát. Thì giới phải chế trước chớ, pháp phải đi trước chúng ta mới có pháp để tu chớ. Còn bây giờ đợi chúng ta làm sao, chúng ta không biết pháp gì hết biết đâu mà tu giải thoát. Đó, bây giờ đợi cho phạm tội rồi mới chế giới thì cũng như một quốc gia người ta chế cái pháp luật để bắt buộc dân, bây giờ nó ăn trộm cắp thì phải chế ra chặt tay chặt chân nó, nó sợ nó không dám ăn trộm ăn cắp nữa. Còn chế giới cũng như vậy thì như vậy chẳng qua là không phải có cái pháp tu rồi.

Cho nên ở đây Thầy thấy cái giới bổn là nó hoàn toàn ngược lại với giáo pháp của Phật, giới luật của Phật, nó không có đúng cách của Phật. Bởi vì cái giới luật của Phật chế ra là cái pháp thiện để người ta nương vào thiện mà người ta phá cái ác, người ta mới diệt được cái lậu hoặc, người ta mới giải thoát được. Cho nên cái pháp nó phải có trước, có trước người tu chúng ta mới tu, mới nương vào đó mói trau dồi, mớitu tập mới được giải thoát. Như vậy mới đúng là giáo pháp của Phật, giáo pháp của Phật mà đi sau như vậy là chế giới luật bắt buộc người ta bị phạm tội như thế này như thế kia người ta sợ mà người ta không dám làm. Thì như vậy cái pháp đó có phải pháp tu đâu, cái đó không phải là pháp tu mà cái đó là ức chế người ta. Người ta muốn làm cái đó mà mình cho ghép người ta thành cái tội, mình cho người tachứ người ta nói rằng tôi làm cái đó không tội mà tại ông muốn ghép tôi như vậy, cho nên chế giới như vậy là không đúng cách của đạo Phật. Đạo Phật là pháp đưa ra trước để cho người tu người ta nắm được cái pháp người ta đi đến cái sự giải thoát, người ta làm chủ được sanh lão bệnh tử. Người ta làm chủ được luân hồi, thì cái pháp đó mới chính là của Phật. Còn giới luật mà chế như vầy Thầy thấy nó không phải. Đợi chúng ta làm tội rồi mới chế ra đặng ngăn chặn chúng ta, thì như vậy cái đó là cái pháp hay là cái gì? Làm chúng ta sợ hãi mà chúng ta không phạm chớ không phải do cái chỗ đó để làm cho chúng ta được giải thoát, đó là cái sai.

Lại trong luật Thiện Kiến Phật nói: Khi chưa có hữu lậu, Như Lai kiết giới thì chúng sanh sẽ khởi ý phỉ báng rằng đệ tử Phật đều là dòng họ quý hoặc là ngôi vua.

Tại sao tất cả đệ tử của Phật trước kia, sau này, ngay cả đức Phật nó có lậu hoặc chứ đâu phải không. Do lậu hoặc đó chúng ta mới có sanh, lão, bệnh, tử. Vì vậy mà chúng ta muốn vượt thoát ra khỏi cái sanh, lão, bệnh, tử thì nó phải có pháp chớ. Chứ đâu phải là nói hồi đó không có lậu hoặc thì toàn là Thánh không sao? Thánh sao mà đi tu mà khổ hạnh như thế này như thế khác dữ vậy? Toàn là Thánh sao mà lại có người chết, có người lại bệnh, có người lại khổ sở. Vì vậy mà gọi là Thánh sao? Hình ảnh mà đức Phật đã nhìn trong bốn cửa thành đi ra không phải là nói lên bốn cái sự khổ của con người sao? Mà gọi họ lúc bấy giờ là Thánh vô lậu hết sao? Đó là cái lý luận sai chứ không phải là lý luận đúng.

Đệ tử Phật đều là dòng họ quý, hoặc là ngôi vua, bỏ cả của cải, cung điện, vợ con quyến thuộc, chẳng tiếc thân mạng. Đều là biết đủ nơi thế gian, nơi không hy cầu chi. Vì sao Cù Đàm trở đem Ba la mộc xoa đề mà buộc. Đây là vì Cù Đàm chưa khéo biết người đời, nếu kiết giới thì người đời cũng chẳng sanh tâm kính trọng.

Đó là những lý luận của những nhà làm luật đó, của những lý luận của những nhà mà làm giới bổn đó. Họ lý luận như vậy đó để họ gán ông Phật như vậy đó. Thầy thấy lý luận này là lý luận rất sai. Vì đức Phật thấy cuộc đời khổ vì cái lậu hoặc. Trước đó thì đức Phật đâu có biết lậu hoặc mà thấy khổ, con người ai cũng khổ. Nhưng đâu có ngờ đó là do lậu hoặc của chúng ta mà nó đưa đi đến những con đường nhân quả mà tạo chúng ta liên tục trong cái sự tái sanh luân hồi. Kiếp này nó chuyển qua kiếp khác mãi mãi mà không dứt. Do đó mà đức Phật mới bỏ cung vàng điện ngọc chớ đâu phải là…, nếu muốn tìm cái sự giải thoát thì phải ly bỏ cái này để đi tìm cái con đường tu tập, để đi tìm cái pháp giải thoát. Cho đến khi cuối cùng tự mình mới phát triển ra, hiểu được cái pháp như thế nào để mà giải thoát. Từ đó mới đem cái pháp mà dạy lại cho người ta. Pháp đó không phải là giới luật sao? Ở đây còn bày đặt thêm cái giới bổn để rồi phỉ báng Phật đến cái mức độ như vậy, mà luận như vậy, để kết thúc cái lời Phật dạy như vậy, Thầy thấy quá là phỉ báng Phật.

Ví như y sư chưa khéo trị bệnh, thấy người mới muốn sanh nhọt, tuy có tánh nhọt mà chưa thành tựu lớn, bèn đem ra mổ, máu tuôn lai láng, đau đớn vô cùng, lấy thuốc thoa vào, ghẻ liền hồi phục. Y sư nói ta trị bệnh cho ngươi rồi, hãy trả tiền cho ta. Người bệnh đáp, đây là y sư khùng. Nếu tôi thật bệnh mới trị cho tôi, đằng này tôi vốn không sưng mà lại mổ xẻ làm cho vết thương đau đớn quá chừng.

Đó các thầy nghe những cái luận sư họ luận như vậy đó. Nghĩa là đặt thành vấn đề nếu mà đức Phật mà chế những cái giới này trước thì như một vị thầy thuốc, mụn nhọt người ta mới có hơi nổi lên chưa có mủ máu gì hết, lấy dao mà khoét cái chỗ đó đi, làm cho người ta thành cái mụn ghẻ lớn ra, do đó coi như làm cho người ta đau khổ hơn chứ không có ích lợi gì hết. Thì thấy như vậy rõ ràng là họ lý luận như vậy. Sự thật ra cái pháp của Phật đâu phải là cái…, cũng như liều thuốc mà vì chúng sanh hiện đang bệnh, con người đang khổ. Khổ là vì? Sanh lão bệnh tử, bốn cái khổ này tất nhiên là ai cũng phải thấy là trong thời đức Phật còn trai trẻ thanh niên chưa tu cũng nhận thấy cái này rồi chớ phải chi trong thời đức Phật không có thấy cái này. Thì nói bây giờ đức Phật chưa có chế cái này ra, bây giờ sau khi đức Phật tu thành đạo rồi bắt đầu người ta mới có sanh lão bệnh tử, người ta có những cái bệnh này, do đó bây giờ đức Phật mới chế cái giới ra để trị cái bệnh này. Còn đằng này là trước đức Phật, sau đức Phật người ta luôn luôn bị bốn cái khổ này. Cho nên bây giờ đức Phật mới tìm ra cái pháp, tìm cái phương thuốc để trị bốn bệnh này. Thế mà bây giờ đem ra cái phương thuốc để trị bệnh này thì người ta lại nói chờ cho có bệnh này rồi mới trị. Hiển nhiên là bây giờ người nào cũng ở có cái thân này là cũng mang bốn cái bệnh sẵn sàng hết rồi màbây giờ chờ cho có bệnh là chờ sao.

Đó thì các thầy thấy cái lý luận của các nhà làm luật nó ngược ngạo nó nói không có đúng cái cách. Bởi vì con người mà sinh ra thì người nào cũng ở trong bốn cái loại bệnh này hết. Từ xưa đến giờ chứ không phải là Đức Phật mà mới ra đời rồi phải trải qua mười hai năm mới có cái bệnh sanh lão bệnh này đâu. Thế mà những cái phương thuốc của Đức Phật sẵn sàng có rồi. Bây giờ họ chế lại họ nói bây giờ là phải mười hai năm sau Đức Phật mới chế ra cái giới luật này để trị cái bệnh vì có người bệnh mới chế, nghĩa là cái lí do của họ nói là phạm tội này phạm tội kia. Phạm những cái giới luật đó là cái gì không phải là do cái chỗ mà tham sân si mạn nghi của họ, không phải là do cái lòng dục của họ, ham muốn củahọ phạm cái tội đó không? Bây giờ chúng ta muốn ăn hai ba bữa tức là chúng ta có cái dục trong đó chứ gì. Mà do dục nó mới sinh ra bao nhiêu thứ khổ mà do dục nó mới có sự sanh tử luân hồi. Chứ còn nếu không dục thì làm sao có cái chuyện màsanh tử luân hồi được. Thế thì quý thầy thấy họ lí luận như vậy đó để họ soạn những bộ kinh giới, họ làm như là kinh giới là hay ho gì lắm.

Hỏi: Vì sao pháp lậu khởi nhiều, khởi phần nhiều do bọn lục quần tỳ kheo và lục quần tỳ kheo ni. Ấy là họ cố tình hay là vô tăng phạm?

Họ nói tại sao mọi ông thầy khác thì không có, mọi vị tì kheo khác thì không có... Thầy nói trước cho quý thầy thấy rằng họ sẽ bào chữa cho cái bọn phá giới này họ là Bồ tát đó, nghĩa là bồ tát nghịch hạnh để làm cho Phật chế giới đó, chứ sự thực Phật không biết gì, nhờ mấy cái người này mà chế giới đó. Tức là ông Phật còn thua mấy cái vị lục quần tì kheo này nữa. Nghĩa là lục quần tỳ kheo tăng, lục quần tỳ kheo ni là những người mà làm những cái sai phạm đó để cho ông Phật thấy mà chế giới ra chứ ông Phật đâu có biết. Đọc lại giới kinh chúng ta thấy có cần lục quần tỳ kheo ni, lục quần tỳ kheo tăng đâu ông phật vẫn chế ra sơ thiện, trung thiện, hậu thiện rất rõ ràng đâu có cái nào mà không đủ, nội bây nhiêu đó mà chúng ta đã thấy được cái pháp từ những cái giới, cái giới hạnh, đến cái giới đức, đến cái giới tuệ, rồi cái giới hành, chúng ta thấy quá rõ ràng cụ thể ở trong cái từ sơ thiện, hậu thiện và trung thiện đức Phật dạy ở trong kinh Nikaya rất là cụ thể, không còn cái gì mà chúng ta có thể nói đó là cái giới luật đó mới chính là Thầy của chúng ta. Còn cái giới bổn này là cái đồ thừa nó không phải là ông thầy của chúng ta đâu.

Cho nên ở đây luận để mà làm sai lệch cái bọn mà lục quần tì kheo này với lục quần tì kheo ni này chỉ đặt điều ra mà thôi, lôi ba cái ông này ra để mà chế giới tầm bậy chứ không phải đúng theo đạo Phật. Bởi vì khi mà lục quần tỳ kheo này mà vào xuất gia theo Phật thì ngay cả cái giới sơ thiện, trung thiện, hậu thiện họ đã thực hiện thì làm sao họ còn phạm nữa, đâu phải họ là bọn lục lâm ở đâu mà họ nhào vô đây được. Muốn tu đâu phải chuyện dễ, nếu mà ngoại đạo thì phải bốn tháng hoặc là bốn năm để người ta nghiệm coi có sống được trong cái đời sống của một cái người tu không. Còn đằng này đâu phải muốn vào đó cái là vào được liền đâu. Cũng như quý thầy muốn theo Thầy cũng đâu phải được dễ đâu, bây giờ quý thầy muốn theo Thầy mà tu Thầy nói Thầy ẩn bóng, chứ đâu phải thực là Thầy ẩn bóng đâu. Thầy nói thực sự Thầy đang chọn cái người nào mà xứng đáng Thầy dẫn theo Thầy chứ còn cái người nào chưa xứng đáng là Thầy bỏ hết chứ Thầy đâu có nhận. Bởi vì mình tu là mình phải dứt khoát, màmình tu mà không dứt khoát thì thời ông Phật cũng vậy thôi. Muốn đem người ta cứu khổ người ta đâu phải đụng ai cũng nhận vô, nhận vô đó để mà làm...

Thầy tiếp chúng ở đây rất nhiều chứ không phải là ít. Do đó Thầy đã tìm hiểu tất cả mọi cái sai cái phạm cái đúng như thế nào, cái kiến chấp của họ như thế nào đủ mọi mặt hết. Thầy mới rút tỉa ra từng những cái kinh nghiệm mà Thầy thấy bây giờ phải trở lại con đường đúng của Đạo Phật không thể nào mà tùy thuận với các pháp khác mà có thể dẫn dắt họ đi vào con đường của đạo Phật được hết. Tới chừng mà kết luận với cái giáo án này Thầy sẽ nói lại trong cái quá trình mà Thầy hướng dẫn quý tu sĩ ở đây để cho quý thầy biết rằng cái công trình mà Thầy hết sức chứ không phải là tùy thuận Đại Thừa, tùy thuận Thiền Đông Độ, tùy thuận mọi vị hòa thượng hết, mà không bao giờ nói chạm ai hết chỉ luồn lách ở trong đó mà để dẫn dắt họ trở về đúng con đường của đạo Phật, thế mà không được, họ hoàn toàn có những cái kiến chấp của họ không ai chịu nghe lời Thầy hết. Do đó làm sao mà không nói thẳng ra được. Vì vậy ở đây Thầy hoàn toàn...

BĂNG SỐ 46

Bốn tháng để xem coi ông đó như thế nào, trong kinh điển của Phật nói rất rõ mà, đâu có phải muốn vô là vô đâu? Còn cái người cư sĩ hoàn toàn trong sạch, thanh tịnh đến nghe pháp rồi xin đức Phật xuất gia là ĐứcPhật chấp nhận liền tại vì ông ta không có kiến giải, không có cái kiến chấp, cho nên do đó mà đức Phật nhận liền. Còn cái loại mà ngoại đạo là có cái kiến chấp của họ rồi, họ có đầy ắp ở trong cái đầu họ thế này, thế kia rồi. Cho nên bốn tháng coi họ sống được hay không. Mà nếu sống được thì mới sống trong cái giới pháp của Phật được, mới chấp nhận, còn sống không được trong giới pháp thì mời họ ra đi liền chứ đừng có mong là cho ở trong đó.

Cho nên cái Lục quần Tỳ kheo tăng với cái Lục quần Tỳ kheo ni này ấy, là những cái bọn này làm sao mà sống được ở trong cái giáo pháp của Phật được, cái hành động mà phạm như vậy thì trong một ngày thôi cũng không được nữa chứ đừng nói chi là ở trong đó suốt đó để mà chế cả giới bổn như vậy.

Đáp:

Nhóm Lục quần Tỳ kheo tăng và ni này đều là đại quyền thị hiện tuyên thông Phật giáo, trong làm rường cột các pháp môn, ngoài làm đại hộ cho Phật giáo.

Nói dóc không! Thầy thấy hầu như là cái này nói như vậy thì cái thời gian mà từ khi có giới bổn này có phải là đại vọng ngữ không, quý thầy xem thì thấy này. Từ khi cái giới bổn này ra đời thì thử hỏi có vị thanh tịnh tăng nào không hay là tất cả toàn bộ là phạm giới hết? Tìm lại một ông tăng mà thanh tịnh giới, chúng ta có thấy không? Nhưng mà trước kia chưa có giới bổn, mười hai năm mà trở về trước đó, chúng ta thấy có những bậc Thánh tăng thanh tịnh giới. Còn trở về sau này chúng ta thấy giới bổn ra đời rồi có không mà nói rằng rường cột của Phật giáo? Rường cột cái đó kiểu là chôn Phật giáo chứ rường cột gì?

Lục quần Tỳ kheo ni, tăng - ni đều là đại quyền thị hiện tuyên thông Phật giáo.Tuyên thông cái khỉ gì, đem Phật giáo mà chôn xuống đất chứ ở đó mà tuyên thông! Trong làm rường cột các pháp môn, rường cột cái khỉ gì, phá giới luật vậy mà rường cột với ai? Ai mà nương theo mấy cái bà, mấy cái ông này được? Ngoài làm đại hộ cho Phật giáo, hộ cái gì? Thầy nói thật sự mấy ông này miệng lưỡi dữ lắm, coi như là các vị này đều là Bồ tát cho nên là hộ Phật giáo lắm, hộ riết rồi cho nên bây giờ nhìn Phật Giáo chúng ta thấy sa đọa, ông nào cũng ở chùa to, tháp lớn hết, không bao giờ ở cái nhà tranh vách lá. Ông thầy nào cũng cưỡi xe Dream, lái xe hơi chạy vù vù. Ông nào cũng ăn uống phi thời. Ông nào cũng hút thuốc cán chứ không cần phải hút thuốc lá nữa.

Đó là những cái đại bộ phận mà bây giờ chúng ta đã nhìn thấy, không phải là trong cái thời chúng ta mà trước đây cũng vậy nữa. Thậm chí còn rất tệ nữa là ông thầy còn có vợ, có con ở trong chùa sinh hoạt cũng như một cái gia đình cư sĩ, không ra gì hết. Đó là cái Giới bổn ra đời đó! Lúc nào người ta cũng đọc Giới bổn, một tháng hai lần tụng Giới bổn, thế mà nhìn ông thầy có ra cái quái ôn gì không? Vậy mà nói là Lục quần Tỳ kheo tăng và ni này đã làm rường cột, đã hộ pháp như vậy, để cho Phật giáo được trường tồn. Đó là trườn ở dưới, dưới hầm, dưới hố chứ không phải trường ở trên đâu!

Như Lai ở đời là bọn Lục quần đều làm dậy sóng trong tăng đoàn huống gì riêng tôi ngày nay. Họ đâu biết các bậc thiền xưa chính vì hậu lai mở giáo lại trở nên sai. Nghĩa là nói như thế này, ý là nói các cái vị Lục quần Tỳ kheo Tỳ kheo ni này làm cho dậy sóng ở trong tăng đoàn, để do đó bây giờ chúng ta mới có cái Giới bổn này. Còn nếu không có quậy sóng như vậy chắc chắn là chưa bao giờ có Giới bổn hết. Nhờ mấy người này mới có Giới bổn! Mà thử hỏi từ khi mà cái giới bổn này ra đời có đem lại cái gì ích lợi cho Phật giáo không? Chúng ta thấy hoàn toàn là đem lại cái số tu sĩ phạm giới không, chạy theo dục lạc không chứ không có một cái gì mà gọi là thanh tịnh toàn bộ. Thay vì ví gọi các vị này là Bồ tát hạnh đi, làm những cái hạnh nghịch đi để cho Phật nương vào đó chế giới thì bây giờ ít ra quý thầy, tất cả tăng - ni của chúng ta phải thanh tịnh giới chứ, sao lại phạm giới hết vậy? Vậy có phải là nương theo ba cái hạnh sai lầm này để mà phá giới, phạm giới đủ cách không?

Hỡi ôi! Pháp Phật đã đến hồi vận mạt như thế làm nhiều người biếng nhác, chẳng giữ nỗi giáo pháp Như Lai, trở sanh chê báng, tạo nhiều thứ nghiệp nên kinh Bách Dụ nói: Người đời chẳng biết Như Lai pháp dương vì chúng sanh mà lập nhiều phương tiện chỗ vắng khuyết bèn sanh lòng hủy báng, bắt chước điều chẳng phải ấy. Do có đó ở trong Phật pháp mất hẳn sự lành, đọa ba đường dữ. Kinh Phương Đẳng Đại Vấn nói: Đề Bà Đạt Đa khai mở bài giúp người khiến A tăng kỳ vô lượng chúng sanh an trụ căn lành, bao nhiêu cảnh giới Đề Bà Đạt Đa thật chẳng phải là chỗ Thinh văn, Duyên giác biết được. Nhóm Lục quần Tỳ kheo cũng là Đại Bồ tát, Đề Bà Đạt Đa với họ đồng hàng. Nếu ai biết công đức Đề Bà Đạt Đa, tỏ rõ không nghi, thời phải biết người ấy thật là đệ tử Phật, đặng một trong hai phần công đức Phật, đặng một mắt của Phật, đặng nửa thân của Phật. Đừng nói Đề Bà Đạt Đa là tệ ác phá hại chúng ta! Hãy biết đó tức là khéo phương tiện vậy!

Nghĩa là Đề Bà Đạt Đa toàn phá hoại cái hòa hợp tăng, chia rẽ tăng đoàn ra. Còn các Lục quần Tỳ kheo thì tạo đủ điều kiện phạm giới để cho đức Phật chế giới ra, do đó còn gọi là nào là công đức thế này thế khác. Nhưng thời gian xác minh rằng chúng ta là cái thời sau của các Ngài quá lâu, chúng ta xác minh từ cái ngày mà Đề Bà Đạt Đa phá tăng đoàn rồi các vị Lục quần Tỳ kheo tăng và ni này, nhờ đó mà chế ra giới, thì cái thời gian mà từ đó trở về chúng ta đâu có phải một thế kỷ, hai thế kỷ đâu, rất nhiều thế kỷ mà tu sĩ chúng ta ra gì, có ra gì không? Từ các bậc Hòa thượng cho đến các vị tu sĩ Sa di nhỏ chúng ta vẫn thấy hoàn toàn là không đúng chánh pháp của Phật, họ sống bừa bãi, họ sống không có đúng giới hạnh của người tu, hoàn toàn là chạy theo sống trong dục lạc. Đó là chúng ta thấy cái thời gian để xác định rằng Đề Bà Đạt Đa có phải là Bồ tát, Đại Bồ tát không? Có phải là Lục quần Tỳ kheo Đại Bồ tát không? Nếu là Đại Bồ tát đã thể hiện pháp như vậy thì đời của chúng ta đâu có phải là thiếu giới thanh tịnh? Cho nên những cái bọn phá này mà còn dùng mồm mép gọi là Đại Bồ tát thì Thầy thật sự ra Thầy làm sao mà tin được! Nhìn trong cái thời gian trải dài chúng ta đã xác định được Phật giáo ở cái tầm vóc nào rồi, cho nên những cái bọn này đâu có nghĩa là bọn Đại Bồ tát, mà đó là cái bọn danh, bọn lợi. Ngay trong đức Phật là Đề Bà Đạt Đa đã chạy theo danh lợi chứ chưa phải là Bồ tát gì cả hết. Thỏa mãn cái tâm danh lợi, cho nên mới tìm cách hại Phật để đoạt cái tăng giáo đoàn chứ đâu phải là cái người tốt? Hạng này là cái hạng rất xấu mà chính bây giờ chúng ta nhìn thấy Phật giáo chúng ta chia rẽ, mà từ cái chia rẽ này cho đến cái chia rẽ khác cũng vì cái danh, cái lợi làm mờ mắt họ do thiếu chánh pháp. Những cái pháp mà gọi là giới luật của họ, tại sao họ gọi là chánh pháp mà sao không thể sống được, họ không tu được để họ giữ thanh tịnh giới đi, mà họ lại phạm như vậy?

Hỏi: Giới pháp và nhân quả đối với Sa môn, Đại - Tiểu thừa thế nào?

Đáp:

Tự vì có ưa giới pháp nên mới ưa Sa môn. Vì giới pháp là nhân - quả của Sa môn, nếu nhân chẳng ra thì quả không do đâu mà lập. Người đời nay chẳng học giới pháp Sa môn mà xưng là Sa môn - thật lầm rất lớn lắm vậy! Hoặc có người nói tôi không vì tôi… Ôi! Nếu mình chưa thông mà muốn thông người cũng như không biết lội mà nhảy xuống biển cứu người chết chìm há không đều chìm hết sao? Hoặc nói: Tự có Đại thừa cần gì học Tiểu thừa? Thấy vậy mà chưa thấu Đại thừa nên mới nói lối đó. Như nhóm lục quần kia, vốn Đại Bồ tát sao còn bày ra hạnh Tiểu thừa? Đâu biết hộ mình, hộ người chính là bổn hoài của Bồ tát. Một việc lành nhỏ chẳng bỏ là hoằng tâm của Đại sĩ huống chi là Đại - Tiểu thông thường đều về nghĩa đế đệ nhất, trang nghiêm cái thân, muôn đức, nếu bỏ đây còn đâu nữa?

Ở đây, cái người mà viết giới này muốn hòa hợp giữa Đại thừa và Tiểu thừa. Đó, muốn hòa hợp cả hai cái pháp này lại, nhưng mà họ không xét rằng cái Đại thừa là như thế nào và cái Tiểu thừa là như thế nào? Ai đã gọi là Tiểu thừa, mà ai đã gọi là Đại thừa? Cái nào lớn và cái nào nhỏ đây? Cái nào được giải thoát và cái nào không giải thoát đây? Từ ngày có Đại thừa ra đời thì con người có giải thoát hay không? Chúng ta đặt câu hỏi để chúng ta thấy từ cái ngày mà có kinh phát triển mà gọi là Đại thừa thì đến bây giờ con người có giải thoát không? Có đúng giới luật không và có sống đúng cái phạm hạnh, giới hạnh không? Đó, thì như vậy chúng ta sẽ hiểu biết được Đại thừa và Tiểu thừa nó ở cái mức độ nào mà của người sau chúng ta đã làm ra.

Hỏi: Xét về kinh luật Đại thừa và Tiểu thừa có liên quan ra sao?

Đáp:

Xét rõ kinh luật Đại thừa di quở tâm nhỏ Thinh văn tự độ, chẳng phải các giới hành Thinh văn nghiêm trì mà là lớn - nhỏ song tu, tánhgiá điều hộ mới thuận gốc giải thoát, chẳng trái lời dạy của đứcTừ tôn, nên trên hội Bát nhã, các Bồ tát tu Bát nhã ba la mật đa phải khéo biết tu học các oai nghi giới hạnh Thinh văn, Duyên giác, Bồ tát. Nếu thấy người oai nghi chẳng xứng chúng bèn hãy lánh xa. Nếu có Sa môn giới hạnh oai nghi thì nên thân cận. Trong kinh Đại Bảo Tích nói: Bồ tát nếu nghĩ ngợi như vầy pháp này rất sâu, pháp kia chẳng sâu, pháp này là sạch, pháp kia chẳng sạch, đây là pháp của chư Phật, này là pháp Duyên giác, này là pháp Thinh văn, pháp này nên làm, pháp kia chẳng nên làm, đây là pháp sâu, đây là pháp cạn, ấy gọi là mạn tăng thượng! Lại kinh Bồ Tát Giới nói: Nếu Bồ tát thấy như vầy, nói lời như vầy, Bồ tát chẳng nên nghe, kinh pháp Thinh văn chẳng nên thọ, chẳng nên học, Bồ tát dùng pháp Thinh văn làm chi? Ấy gọi là phạm rất nhiều phạm! Nội phát triển nói: Nếu lễ Bồ tát đọc kinh Đại thừa gọi là lớn chẳng làm việc này, gọi đó là nhỏ. Tiếng gọi Đại thừa thông qua hai thứ, một là Trung quán, hai là Du già. Trung quán thì trong tục, có chân, không thể rỗng như huyễn. Du già thì ngoài, trong không có diệt điều di thức. Đấy đều là dòng thánh giáo, chỉ thị chi phí, đồng hiệp Niết Bàn, nào chân nào vị, nói nơi dứt hoặc phiền não, cứu giúp chúng sanh đâu muốn rộng sinh phân vân thêm chìm kết nữa, y theo làm thì nên bỉ ngạn, trái bỏ thì chìm cả bốn sinh, đây kia đều làm, lý không trái cãi, đã không mắt huệ, ai xét phải quấy tùy quen lâu mà tu đi, xin đừng nhọc tâm chia cắt như lời trên nói, hãy tự nghĩ lấy, chẳng cần luận nhiều khác nữa.

Ở đây cũng cái lý luận của một luật sư muốn hợp giữa Tiểu thừa và Đại thừa, cho nên bởi vì có một số người ở trong góc độ của Đại thừa thì chê Tiểu thừa là tiêu nha bại chủng, còn có những người mà ở trên cái góc độ của Tiểu thừa thì cho rằng đó là Phật giáo phát triển Bà la môn. Do cái sự mà phân chia như vậy đó, cho nên cái mà ông luật sư này ông ấy viết ra thì ông có cái ý muốn là kết hợp lại. Nhưng sự thật ra thì không thể nào mà chúng ta nghĩ rằng kết hợp lại, nó đúng thì chúng ta kết hợp, mà nó sai thì làm sao chúng ta kết hợp được? Giáo pháp của Phật còn rành rành kia mà làm sao chúng ta kết hợp với những cái chuyện mà nó không đúng? Giới luật của Phật nó còn rành rành kia mà bắt buộc chúng ta phải chấp nhận Giới bổn của họ thì làm sao mà chúng ta chấp nhận được? Vì giới luật của Phật là một cái pháp hành, còn cái Giới bổn của họ là một cái pháp luật thì hai cái này nó khác xa với nhau, làm sao mà hợp lại được?

Cho nên ở đây chúng ta hợp, chúng ta không có cái sự chia cắt ra nhưng mà chúng ta phải hợp cho đúng cách, mà hợp không đúng cách, làm cho nó lệch lạc Phật pháp, làm rất sai lệch thì từ đó cái giới hạnh và oai nghi của người tu sĩ càng hợp thì nó lại càng lệch. Vì vậy mà chúng ta nghe những cái nhà học luật người ta kêu gọi chúng ta đoàn kết lại, Tiểu thừa và Đại thừa, nhưng mà đoàn kết ở trong cái mục đích nào? Không nêu rõ cái mục đích để chúng ta đoàn kết, vì vậy mà càng đoàn kết thì chúng ta thấy lại càng phá giới, càng làm bại hoại Phật pháp ra mà không thấy gì hết, mà nói trên danh từ đoàn kết nhưng sự thực ra trong thực tế có đoàn kết được hay không? Điều đó chúng ta cần phải suy nghĩ nữa! Đó là một cái điều người ta nói, người ta mong muốn, nhưng chính bản thân cái người nói, cái người mà viết ra chưa chắc họ đã muốn đoàn kết!

Hỏi: Hạng nào mới ưa học giới?

Đáp: Hạng có hổ thẹn mới ưa học giới! Nghĩa là tự chẳng làm tội, gọi là có hổ, chẳng bảo người khác làm tội gọi là thẹn. Lại nơi các việc dữ tự hổ gọi là hổ, nơi các việc thẹn với người gọi là thẹn. Thế gian nếu không có hai pháp hổ, thẹn thì điều trái được Đại thánh Thanh văn hướng tới đường hiểm sanh tử già chết, nên Đại kinh nói: Chư Phật, Thế Tôn thường nói lời có hai pháp trắng hay là cứu giúp chúng sanh, một là hổ, hai là thẹn.

Ở đây Thầy thấy cái pháp mà đức Phật đã từng nhắc chúng ta là mình phải tu tập cái pháp hổ thẹn, mà ở đây chỉ nói hổ, thẹn. Người nào cũng có hổ, thẹn à! Mới đầu thì người ta chưa phạm lỗi đó thì người ta chưa có hổ thẹn đâu, cũng như bây giờ Thầy mới đầu khép vô thì ăn ngày một bữa, mà Thầy ăn một thời gian là Thầy chịu không nổi rồi Thầy lén Thầy ăn cắp Thầy ăn - ăn phi thời rồi thì Thầy có hổ thẹn nữa không? Cho nên cái hổ thẹn này không thể tự dưng mà có được đâu! Cho nên cái mà chúng ta đã làm quen rồi thì không có cái hổ thẹn nào mà chen vô được nữa hết. Cho nên Phật dạy chúng ta phải tu tập Tàm và Quý. Chữ Tàm có nghĩa là hổ thẹn mà chữ Quý có nghĩa là sợ hãi. Người ta ghép hai cái chữ này lại, người ta gọi Tàm - Quý là hổ - thẹn thì Thầy thấy nó không đúng! Chữ Quý là Vô úy - không có sợ hãi đó. Bởi vì khi chúng ta có sợ hãi một cái lỗi nhỏ nào đó thì chúng ta mới có xấu hổ, còn chúng ta không sợ hãi thì chúng ta không có xấu hổ đâu, chúng ta cứ làm hoài! Chẳng hạn bây giờ Thầy ăn ngày một bữa mà lát nữa Thầy thấy cái bánh, Thầy thấy nó thích quá, Thầy lén Thầy ăn đi, nhưng mà Thầy thấy không có sợ hãi cái lỗi đó đi cho nên Thầy cứ làm hoài chứ Thầy có hổ thẹn đâu? Chính Thầy sợ hãi nó Thầy mới có sự hổ thẹn! Cho nên vì vậy gọi Tàm - Quý là hai cái này ghép lại tức là là hổ thẹn và sợ hãi. Chữ Quý ở đây thường thường người ta hiểu nó qua cái nghĩa khác cho nên người ta viết cái chữ thành nó không có đúng, chữ Quý ở đây chữ u-y-uy có nghĩa là sợ hãi đó, chứ không phải chữ quờ uy quy sắc quý đâu. Cho nên ở đây Thầy thấy những người dùng danh từ như vậy là những người không hiểu, dịch ra những danh từ như vậy là không hiểu được ý của Phật. Cho nên trong kinh điển của Phật, cái pháp mà chúng ta đầu tiên vào tu tập là cái pháp đầu tiên là phải tu tập Tàm và Quý. Đó, như vậy. Cho nên ở đây Thầy khi mà nhắc đến cái điều này Thầy dạy quý thầy phải tập Tàm, Quý. Luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải tập sợ hãi trước những cái lỗi nhỏ trước tiên, do đó chúng ta mới thấy được cái sự xấu hổ và cái sự xấu hổ đó chúng ta thấy người ta không phạm, hằng ngày chúng ở đây người ta ăn ngày một bữa, còn mình thêm một cái ly nước ngọt rồi thêm một cái cục đường thì như vậy là mình phải xấu hổ, mình ăn trộm người ta, mình ăn hơn người ta tức là mình ăn trộm rồi. Cho nên mình sống ở trong chúng mình phải lợi hòa đồng quân, nghĩa là người ta ăn ra sao thì mình ăn như vậy, mà mình ăn hơn tức là mình sẽ xấu hổ rồi. Và mình thấy cái chuyện đó mà mình không xấu hổ tức là mình phạm. Đó là bước đầu vào cái sự học thì chúng ta phải học cái này. Còn ông này lấy cái chỗ xấu hổ này nói bằng cái danh từ suông chứ không có cái pháp muốn tu tập cái pháp Tàm - Quý, hằng ngày chúng ta phải đặt niệm như thế nào trước mặt để mà chúng ta thực hiện Tàm Quý, chứ đâu phải chúng ta nói là tôi xấu hổ, tôi sợ hãi mà nó có xấu hổ và sợ hãi sao? Ít ra chúng ta phải hằng ngày thấm, chúng ta phải hằng ngày tu tập cái pháp đó như thế nào để cho thấm vào tâm hồn của chúng ta luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thấy sợ hãi những cái lỗi nhỏ, vì cái vi phạm nào đó làm chúng ta xấu hổ với mọi người. Do đó chúng ta hằng nhắc nhở mình như thế nào, hằng ám thị, hằng hướng tâm như thế nào, cho nên nó mới thực hiện được Tàm - Quý, chứ đâu phải nói Tàm - Quý là có Tàm - Quý.

Quý Thầy muốn nói cái danh từ suông là nói dễ lắm, nhưng mà thực hiện đến những cái điều đó thì không phải là chuyện dễ. Bởi vậy cái gì cũng phải có pháp hành mà không có pháp hành thì chỉ là một cái danh từ suông. Ở đây thì muốn nói suông thôi chứ còn không có cái gì hết.

Thì điều trái dược Đại Thánh thanh tịnh hướng tới đường hiểm sanh già bệnh chết, nên Đại kinh nói: Chư Phật, Thế Tôn thường nói lời rằng có hai pháp trắng hay cứu giúp chúng sanh, một là Hổ, hai là Thẹn. Hổ là trong tự xấu hổ, Thẹn là ngoài phát lồ sự e thẹn với người. Lại có hai thứ trí, chẳng tạo các điều ác, hay tạo rồi sám hối. Lại có hai thứ ngu, một là làm tội, hai là che đậy.

Ở đây uốn lượn như vậy, sự thật ra thì một cái người tu tập theo đạo Phật hoặc là bước vào theo đạo Phật mà hướng dẫn đúng từ cái bắt đầu của họ thì sau này họ không có phạm lỗi gì nữa. Còn nếu mà không có hướng dẫn đúng cách cho họ theo cái giáo pháp của Phật thì bắt đầu mà vào tu, sau này dù muốn dù không đi nữa họ cũng sẽ trở thành phạm giới hết, không bao giờ mà có thể họ không phạm giới dù nhiều dù ít, dù như thế nào, cố gắng giữ như thế nào họ cũng vẫn phạm. Còn trái lại, khi mà bắt đầu vào mà nhận một chú Sa di, một vị Thầy mà vào tu với mình thì mình phải hướng dẫn họ ngay từ cái ban đầu, cái giới hạnh như thế nào, cái pháp hành như thế nào, tập luyện cái ban đầu như thế nào để từ đó họ không có vi phạm nữa. Họ không có phạm một cái giới nhỏ nữa, họ sống đúng với những cái điều kiện mà họ đã tu tập.

 “Nay Ba la mộc xoa đề, tức là cái Giới bổn đó, chẳng phải là người không hổ thẹn và không trí mà hay ưa tu học vậy, thế nên Đại - Tiểu thừa đều lập Tam học là Giới, là nói đầu, đồng tu năm phần mà ba học mở trước. Sở dĩ tu học, cái dụng ba pháp mà chứng ba cái quả, năm phần, hãy biết năm phần pháp thân, ba phần trước là nhân mà hiển đức, phần sau lấy quả mà bày ra năng”.

Ở đây, luận theo cái kiểu mà Đại thừa á, sự thật ra mà nói về Tam vô lậu học thì giới không phải là ba cái Giới bổn đâu. Thầy xác định rằng cái giới không phải là ba cái Giới bổn bởi vì giới bổn ở đây đâu có làm cho chúng ta hết lậu hoặc, mà nó khép chúng ta thèm ăn, thèm uống đủ thứ hết, nó khép chúng ta nào là thích cái này, thích cái kia. Nó hạn chế, nó gò bó chúng ta, nó làm cho cái tư tưởng của chúng ta tan nát ở trong đó hết. Cho nên, cái giới bổn nó không đúng cách! Mà giới của Phật gọi là Tam vô lậu học, tức là giới vô lậu thì khi mà chúng ta bước đầu vào học cái giới thì chúng ta có cái giới hành, cho nên từ đó tâm hồn chúng ta giải thoát hoàn toàn. Cho nên gọi là vô lậu, chứ không phải đợi chúng ta tu tới ba cái pháp này Giới - Định - Tuệ xong rồi nó mới hết lậu, không phải! Ngay vô đầu là chúng ta thực hiện ngay cái giới của Phật liền, gọi là giới vô lậu thì chúng ta có vô lậu rồi, cho nên có giải thoát rồi chứ không phải mà đòi quả này, kia, nọ như ở đây nói thì cái đó là cái không đúng, cái luận của cái người không có pháp hành, chỉ là cái lý luận của người học giả, cái người chỉ có cái học, hiểu biết rồi tưởng ra mà giảng giải thôi, bằng cái danh từ mà giải cũng không rõ cái từ nữa…

“Tận trí, chánh lập đều gọi là thân giải thoát, vô sanh trí, tỏ rõ giác chiếu gọi là tri kiến. Bồ tát gấp diệt độ người nên thân thí nhân tánh để tu sáu độ. Thinh văn do phần tự độ, di tu, ba học nên trí luận dùng độ, là pháp chúng sanh, ba học là pháp Niết bàn. Tất cả pháp môn do học mà tới, tam học chẳng tu thì Niết bàn không nẻo. Giới pháp chẳng phụng trì thì định, huệ dứt nhân, làm sao vượt qua bốn lưu mà trở lên bờ giác đấy ư?”.

Ở đây cũng là một cái luận lấy như trí luận độ hoặc là Bát nhã mà luận ở trong Tam vô lậu học này. Hầu hết những cái người viết giới luật này đều là những nhà Đại thừa, cho nên ảnh hưởng kinh sách Đại thừa rất nhiều. Cho nên họ luận như vậy thì nó không đúng với ba cái pháp Giới - Định - Tuệ của Phật. Giới - Định - Tuệ của Phật thì chúng ta phải biết cái giới của Phật đầu tiên mà chúng ta vào tu là giới Hành, giới Hạnh gọi là giới mà Định thì nó thuộc về giới Đức của một cái người, còn Tuệ nó thuộc về giới Huệ của cái người tu. Cho nên Giới - Định - Tuệ là ba cái giai đoạn của một người tu tập giới luật Phật. Nó đầy đủ ba pháp môn này gọi là ba pháp môn vô lậu thì như vậy mới đúng. Còn cái này luận ở bên này, luận ở bên kia mà nói nó là Niết bàn thì không đúng, bởi vì ba cái này nó không phải là Niết bàn. Ba cái pháp này nó hoàn toàn đưa chúng ta đến cái chỗ tâm bất động giải thoát, giải quyết cho chúng ta cái phạm hạnh, cái mục đích phạm hạnh của chúng ta chứ không phải là Giới - Định - Tuệ là Niết bàn.

Hỏi: Vì ý gì mà sắp Niết bàn, sắp nhập Niết bàn Thế Tôn ân cần lượt nói Tỳ nại gia.

Đáp: Để sau khi đức Đạo sư diệt độ cho đến thánh giáo chưa mất trở lên không khiến ngoại đạo có thể phê bình. Thế Tôn là người có đủ tất cả trí mà thế gian có diệt chẳng mở, chẳng ngăn để bọn đệ tử sẽ làm thế nào. Bởi lẽ đó nên Phật dạy: Vì ngăn ngừa lời nạn vấn ấy nên ta xét lại vị lai mà chế giới, lại còn muốn khiến các đệ tử nơi các việc không ngại, được an vui mà ở nên không cần phải nói”.

Nghĩa là đức Phật khi mà nhập Niết bàn thì di chúc chúng ta lấy giới luật làm thầy, lấy làm cái chỗ nương tựa, mà ở đây nói rằng ở đây cái người mà luận cái chỗ này thì Thầy đọc trong kinh nay không thấy cái lời mà đức Phật di chúc cái lời nói này bao giờ hết, thế mà họ làm mà họ đặt ra được cái này mà họ nói như thế này? Nghĩa là đức Phật mà sắp sửa Niết bàn, vì ngăn ngừa cái lời nạn vấn của người khác mới chế giới ra. Thầy chẳng bao giờ nghe cái câu kinh  mà di chúc cuối cùng của đức Phật có cái lời này bao giờ hết! Lại còn muốn khiến cho các đệ tử nơi các việc không có ngại, được an vui nên mới chế cái giới này ra. Sự thật ra Thầy không biết mấy cái lời nói này ở đâu mà mấy cái ông này lấy cái lời nói này trong cái kinh nào Thầy không biết mà đem đút vô chỗ này đây, ba cái kinh Đại thừa chứ cũng không có ai vô đây hết à. Cho nên vì vậy mà Thầy thấy họ đặt điều đủ thứ hết. Nó không có làm đúng cái con đường mà của Phật mà nó muốn đặt như thế nào là nó nói ông Phật nói như thế này? Những cái lời nói này làm cho chúng ta thấy sao nó xót xa vô cùng. Vì ngăn ngừa cái nạn vấn của người ta nên mới chế giới ra chứ không vì đệ tử của mình giải thoát mà chế giới! Các con thấy không, sợ người ta cật vấn, sợ người ta này kia cho nên mới chế giới. Ờ, ông là người có trí tuệ, bây giờ ông chết rồi thì ông để cái đám đệ tử của ông nó lộn xộn như thế này, nó không có giới luật, cho nên Đức Phật mới chế ra giới luật để theo đó mà nó giữ giới. Mà thử hỏi bây giờ chế ra cái đám đệ tử của ông Phật có giữ giới không? Bây giờ giới bổn nó đầy đó, có không? Như vậy là có phải cái lời di chúc đó đúng không? Đâu có đúng! Đức Phật nói giới luật ta còn là Phật pháp còn, giới luật ta mất là Phật pháp mất. Giới luật còn là ta còn, giới luật mất là ta mất. Cái lời nói đó rất đúng! Bây giờ nhìn chúng Tỳ kheo mà giữ gìn giới luật là Phật pháp còn đó, mà giới luật không còn chúng Tỳ kheo mà không giữ gìn giới luật đó thì thử hỏi nó có đúng không, có phải Phật pháp mất không? Chúng ta xét thấy lời ông Phật nói từ cách đây hai ngàn năm trăm bốn chục năm tới bây giờ cái lời nói đó không có mất chút nào, vẫn còn giá trị, còn giá trị rất lớn. Còn cái lời nói này có không? Có giá trị không. Bây giờ có ai cật vấn mấy ông thầy đâu? Mà thế mà bây giờ chúng ta phá giới mà bịt mồm, bịt miệng không cho ai nói hết, nói là đọa địa ngục vậy nên chẳng có ai dám nói hết, vì vậy cuối cùng thì bây giờ nó ra sao? Cho nên vì ngăn ngừa lời nạn vấn nên ta mới xét lại mà chế giới. Cái câu nói này có đúng không? Đâu có đúng? Nó đặt điều ra như vậy đó! Thì Thầy thấy nó phỉ báng ông Phật đến cái mức độ không thể ngờ được, với cái người sau này, họ nhiều mồm, nhiều mép đặt điều như thế nào cũng cho ông Phật nói như vậy, trong khi đức Phật xác định cho chúng ta những cái lời di chúc đó. Chắc chắn ai đọc ở trong kinh Nguyên thủy, ai cũng thấy được cái lời nói của đức Phật rất là tha thiết và chỉ cho chúng ta biết lấy giới luật mà làm hòn đảo, làm cái chỗ nương tựa vững chắc để mà chúng ta tu hành. mà chính Thầy, Thầy nương tựa cái giới luật mà Thầy thấy Thầy cũng được giải thoát đó. Cũng như bây giờ này quý thầy thấy mình ăn ngày một bữa mình có giải thoát không? Cụ thể và rất rõ ràng mà tại sao chúng ta lại không thấy được cái điều này?

Hỏi: Thế Tôn nói, nếu việc thuận, chẳng tịnh, trái với tịnh, có việc thuận tịnh, trái với chẳng tịnh, nên làm, chẳng nên làm ấy. Chưa biết lời ấy có nghĩa gì?

Đáp: Nếu có sự vật, trước kia Phật chẳng phải hứa, chẳng phải ngăn, đời nay nếu làm, người đời họ chê bai ấy là chẳng tịnh, ta chẳng nên làm, ví dụ như bên Tây Trúc, các nơi người đời sang hèn đều ăn trái cam, lá trầu, vôi trắng vật thơm lộn nhau để làm mỹ vị, các Tỳ kheo tăng - ni vì nhân duyên bệnh dùng thứ ấy để trừ hôi miệng, thầy thuốc bảo ăn thì không có lỗi. Trái lại nếu vì muốn nhuộm miệng đỏ, môi tốt mà ăn thì chẳng hợp, bị người đời chê cười, không nên dùng lại như ngày xưa. Phật không cấm hút thuốc, cấm dùng á phiện vì thời ấy không có thuốc lá, á phiện, sau này người đời bày ra để hút, người tu cũng bắt chước hút thuốc, khiến cho thế gian chê cười tại mất oai nghi, làm hại sức khỏe, làm tổn phước vì hoang phí của đàn na thí chủ, do đó ta không nên dùng.

Bây giờ thực sự ra Phật cấm không có cho uống rượu, mà cái thứ uống rượu là say sưa, là này kia, thì tất cả những cái thứ gây nghiện ngập cho chúng ta. Bởi vì ngay cả cái ăn kia mà đức Phật còn dạy chúng ta phải quán xét để mà chúng ta xả cái ăn, coi như là bất tịnh, chúng ta còn không chạy theo ham thích, huống hồ là những cái chất mà nó không có lợi ích cho bản thân của chúng ta thì chắc chắn là tuy rằng giới luật Phật không có chế cấm thuốc phiện, thuốc hút, nhưng mà chúng ta ít ra một cái người mà khi đứng trong cái giới thứ năm này chúng ta cũng biết được cái điều này là cái điều không phải cho một người tu sĩ mà sử dụng. Cho nên chúng ta đâu có để mà cho chúng ta nghiện ngập cái đó. Vì vậy chúng ta không có giới đó nhưng chúng ta vẫn lấy nó làm giới thứ năm chứ đâu cần phải chế giới thứ sáu, thứ bảy hoặc thế này kia ra nữa đâu, đâu cần phải chế ra. Nhưng mà chúng ta vẫn lấy giới thứ năm mà làm cái chỗ không có say đắm, nghiện ngập, không có trở thành những nghiệp của những cái thứ mà say đắm cho chúng ta thì nó cũng đủ rồi chứ đâu còn gì nữa?

Lại như xưa kia Phật chỉ dùng muỗng múc ăn thay cho tục lệ ăn bốc ở Ấn Độ vốn không nói đến đũa nhưng đời nay xứ ta quen dùng đũa để ăn nên Phật cũng lược giáo cho.

Nghĩa là thời ông Phật Thầy nghe là bốc ăn chứ ông Phật nào có muỗng bao giờ đâu? Thế mà bây giờ ông này ông ấy viết là Phật có muỗng ăn. Bây giờ nói Việt Nam mình có đũa ăn thôi thì cứ dùng đũa. Ông thầy này ông ấy muốn ăn đũa cho nên mới nói kiểu đó, để ăn bốc thì nó cũng không được. Con người ta sao nhiều chuyện lắm! Đó, những cái này chúng ta thấy là cái đặt điều rõ ràng! Bởi vì cái người tu của đạo Phật là mình phải ly tất cả những cái vật dụng, cho nên ví dụ như bây giờ hai bàn tay của mình rửa sạch mình bốc mình ăn vẫn tốt thôi đâu có gì đâu? Ăn rồi mình lại rửa tay đâu cần phải rửa cái muỗng? Mà có cái muỗng thì chúng ta lại mang thêm một cái vật nữa, thì do đó có đôi khi cái muỗng này là muỗng sành này, muỗng này là muỗng cây này, muỗng này là muỗng inox này, muỗng này muỗng nhôm này. Chọn cái muỗng inox đồ đẹp không hoặc là muỗng vàng, muỗng ngà nữa chứ đừng nói! Nó có một cái rồi cứ theo đó mà dính nó đó, cho nên đức Phật muốn chúng ta xả ly để mà chúng ta ly ra để giải thoát chứ không phải là một cái điều gì khác. Lại hiểu là bây giờ Phật hồi đó là còn ăn muỗng, cho nên bây giờ chúng ta quen dùng đũa, thôi thì Phật cũng lược chế cho chúng ta cũng dùng đũa được chứ đâu có sao? Thực sự ông Phật ông ấy cũng chẳng biết đũa như thế nào mà ông ấy lược chế cái này Thầy chả biết. Ông này ông thật là đặt điều. Ông này chắc cũng là giới sư Việt Nam chứ cũng không ai vô đây mới có cầm đũa, chứ còn nếu mà sư Tây phương thì phải dao, phải nĩa rồi và ổng cũng chế luôn có dao, nĩa ăn à.

Hoặc như ngày xưa Phật và chư Tăng thọ trai trải chiếu ngồi dưới đất, ngày nay phong tục ngồi bàn, ghế mới hợp thời nên Phật cũng lược chế cho để mà mình ngồi ghế mà ăn.

Trời đất! Ông Phật đâu có như vậy, hồi đó Phật chỉ tìm gốc cây, bụi cỏ nào đó ông ngồi ông ăn cho rồi. Còn bây giờ mình có bàn, ghế bây giờ mình ngồi rồi cũng chế ra cái giới đó, thôi ngồi ghế thì cũng được, ông Phật cũng cho chứ không có gì, cũng hợp, bởi vì hồi trước thì không có bàn ghế, còn bây giờ thì có bàn, ghế, chiếu rồi. Cái này cũng thật là nhiều chuyện, thiệt là nhiều chuyện! Mấy ông giới sư này họ đặt điều lắm bởi vì họ muốn sao là họ chế giới ra họ nói vậy rồi đổ thừa ông Phật à! Thế nên, rõ ràng là chữ nghĩa hẳn hòi chứ Thầy không có thêm bớt chỗ nào hết! Rõ ràng là chữ giấy trắng, mực đen đàng hoàng chứ Thầy không có nói thêm ông ta chút nào hết! Ông ấy dám chế như vậy. Bây giờ người ta dám chế như vậy thử hỏi các Tổ chúng ta cách đây sau đức Phật một trăm năm rồi mà các đại đệ tử của đức Phật chết rồi mà những cái người đó họ chạy theo dục lạc thì họ nghĩ thế nào khi mà họ đặt cái giới ấy ra? Đâu có thua gì người bây giờ. Ngay bây giờ chúng ta còn thấy mấy cái ông giới sư này họ còn dám đặt như vậy rồi thì trước kia mấy ông kia có dám không? Cũng dám như thường chứ? Hồi đó mấy ông làm được thì bây giờ tôi cũng làm được! Bây giờ tôi làm được thì hồi đó mấy ông cũng làm được! Suy cái chỗ này mà chúng ta xét ra mấy cái ông Tổ kia cũng vậy!

Cho nên không có kinh sách nào mà họ không dám thêm trong đó được hết! Ý họ muốn chạy theo dục lạc là họ thêm vô à! Họ thêm cái phần này, phần kia mà họ đâu có nói họ, họ nói Phật! Nãy giờ Thầy đọc các con nghe họ nói Phật không à chứ không có nói họ đâu! Mà chính họ viết rõ ràng! Nếu một khi mà chúng ta không có nghiên cứu kỹ ở trong cái giới kinh của Phật mà trong những cái bộ kinh A Hàm, kinh Nguyên thủy thì chắc chắn chúng ta mờ mịt ở chỗ này hết, không có biết. Bởi vì cái người mà người ta nghiên cứu kỹ người ta biết rõ ràng! Cho nên, thậm chí như từ cái bài kinh ở trong kinh Nguyên thủy cũng như kinh A Hàm, một cái bài kinh thôi mà nó có hai cái đoạn, một đoạn của chính Phật nói, một đoạn của người sau thêm vào. Cái người mà có trí, cái người mà chỉ cần nghiệm xét là đã thấy hai cái lời văn đã khác nhau rồi, là đã biết cái người sau thêm liền. Còn bây giờ chúng ta là cái người không có nghiệm xét, chúng ta đọc thấy đó là lời Phật nói toàn bộ chứ không phải đâu. Họ thêm vô, gặn ra một chút thôi là đã biết rồi, người sau đã thêm vô cái bài kinh đó. Thí dụ bài kinh đó mười trang thì họ đem một cái câu chuyện nào đó gài thêm vô cái chỗ đó có lý lắm, nhưng mà sự thật ta xét ra thì cái lý đó nó không có đúng đâu! Cho nên biết cái người sau đã kèm theo một cái đoạn đó vô đó để mà luận cho nó đi qua một cái góc độ khác để mà họ phá giới đó! Thì chúng ta biết những cái pháp đó hầu hết là không có pháp hành thì hầu hết là nhờ người đời sau thêm vô. Còn những cái pháp nào mà Phật có kèm theo những cái pháp hành thì chúng ta biết cái đó là của Phật, cũng như ví dụ như cái pháp nào mà viết ở trong cái bài kinh mà thấy Phật nói Như lý tác ý là phần nhiều là cái pháp đó là của Phật, mà không thấy có cái pháp hành nào mà chỉ nói suông suông thì không phải là của Phật đâu, coi chừng những cái bài kinh đó nói là của Phật nhưng không phải đâu! Phật luôn luôn bao giờ dạy chúng ta bao giờ cũng có cái pháp hành theo hết! Cho nên cái bài kinh nào mà chúng ta đọc thấy có pháp hành tức là của Phật, mà không có pháp hành là không phải của Phật. Bởi vì có pháp hành mới làm chúng ta chứng được cái pháp đó, mới làm cho chúng ta thâm sâu được cái pháp đó. Còn thiếu pháp hành là cái người sau thêm. Vì người sau không phải là người tu cho nên không biết hành, vì vậy chỉ có cái lý luận suông thôi, cho nên đặt ra mà nói.

Hỏi: Thế nào chỉ trì tác phạm và tác trì chỉ phạm? (Cái này Thầy đã có giảng ở phần trước rồi)

Đáp: Chỉ trì là nói về phương diện các điều ác quyết giữ gìn không có gây tội lỗi, mà tác phạm là nói về phương diện các điều ác đáng lẽ phải giữ gìn mà lại không giữ được, cho nên phải phạm tội lỗi. Tác trì là nói về phương diện các điều thiện có làm được mới gọi là giữ giới. Chỉ phạm là nói về phương diện các điều thiện, đình chỉ, không làm, nếu đình chỉ không làm là phạm giới. Ví dụ về tội trộm, nếu không làm là chỉ trì, nếu làm là tác phạm. Trái lại về hạnh bố thí, nếu mà làm là tác trì, nếu không làm là chỉ phạm. Tóm lại người chân tu phải nghiêm trì giới luật, trong khi đó hành giả nên luôn luôn quán sát mỗi hành vi hằng ngày của mình, xem xét một cách sáng suốt thế nào là trì, thế nào là phạm. Nói cách khác, khi đã thọ giới thì phải trì, nếu không trì thì bị phạm.

Họ nói cái danh từ suông không à! Họ đâu có biết trì và phạm như thế nào? Tu làm sao mà gọi là trì và tu như thế nào mà gọi là phạm? Bởi vậy, muốn không phạm thì chúng ta phải tu như thế nào, thì chúng ta phải thực hiện cái giới hành như thế nào? Hằng ngày chúng ta phải trau dồi, luyện tập như thế nào? Bảo mình quan sát, nhiều khi mình đâu có biết cái đó là thiện, cái đó là ác? Mình làm rồi mình mới biết đó là cái phạm lỗi của mình chứ hồi đó mình có biết được đâu mà gọi là quan sát? Quan sát cái gì? Cho nên hằng ngay chúng ta muốn tập như vậy thì chúng ta phải tập cái định nào? Chúng ta phải thường xuyên tập luyện cái chánh niệm tỉnh thức của chúng ta, luôn luôn phải ý tứ. Người ta nói ý tứ chứ sự thật thì có người nào có ý tứ đâu? Mà không trau dồi, luyện tập thì làm sao có ý tứ? Mà chính ý tứ đó mới gọi là chánh niệm tỉnh giác. Vì cái chánh niệm nó mới là ở trong cái giới luật của Phật, mà nó có tỉnh giác thì nó mới ở được trong chánh niệm! Cho nên hằng ngày chúng ta phải trau dồi cái pháp chánh niệm tỉnh thức, do đó chúng ta mới thấy được cái tâm giải thoát đúng ở trong cái giới hành của Phật. Nếu mà nói suông suông như vậy mấy ông hổng biết chánh niệm tỉnh thức ở ngay cái chỗ này thì mấy ông nói trì - phạm trì -phạm, cái danh từ trì, phạm của mấy ông bây giờ có nói một ngàn lần nó cũng trì cũng phạm nó cũng phạm hoài chứ nó đâu có trì được gì đâu?

Đó là nói lý mà không có cái hành thì không thể nào mà có thể nói rằng có thể đi đến cái chỗ giải thoát được.

Ta nên nhớ rằng mục đích giới luật, đức Phật muốn cho chúng đệ tử đều được thanh tịnh ba nghiệp, giác ngộ trong hiện tại và được giải thoát thành Phật ở tương lai, cho nên luật Tôn có cốt nhằm ở mục đích ấy. Phần nhiều các tôn khác thì phải hiểu rồi mới tu, còn luật Tôn trái lại chủ trương hãy vừa học vừa tu rồi lần lần sẽ hiểu, hãy giữ gìn giới luật. Ở đây nói một cách là ngược ngạo lại đạo Phật. Đức Phật đã nêu cho chúng ta biết những gì chưa thông hiểu phải thông hiểu. Còn ở đây chúng ta chẳng cần thông hiểu, mà chỉ vừa học rồi vừa tu rồi lần lần sẽ hiểu. Tu cái kiểu đó là tu mù. Như vậy là không có đúng cái đường lối của đạo Phật. Cho nên bây giờ cấm không có cho ai hiểu giới luật hết, không có cho mấy người hiểu, chừng nào mấy người thọ rồi bắt đầu mấy người mới vừa học vừa tu thì mới vừa hiểu sau. Còn bây giờ hiểu, nói bậy nói bạ, đọa địa ngục hết đó.

Đó là cái miệng của mấy ông giới luật để mấy ông ấy phạm giới cho dữ đó, cho nên mấy ông đặt ra như vậy. Cái gì mà trước khi người ta muốn học cái đó, muốn tu cái đó thì người ta phải hiểu cái đó rồi, coi đúng hay sai người ta mới tu, coi người ta giữ nổi hay không giữ nổi. Còn cái này bắt người ta vô thọ giới rồi bắt người ta học, bắt người ta cật lực tu, tu rồi mới hiểu nó thì sau khi hiểu được thì thôi thôi cái giới này chắc chết tui luôn tui  không có tu nổi đâu. Như vậy bây giờ lỡ rồi thì làm sao? Thì thôi bây giờ ở chùa rồi thì cứ việc phạm giới đi chứ có sao? Đó là cái kiểu của mấy ông ấy đó.

Hãy giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh thì tâm sẽ được tỉnh, thanh tịnh, tâm đã thanh tịnh thì trí huệ sáng suốt, chân tâm sẽ hiện bày, Phật tánh sẽ hiển lộ. Nói láo, thiệt là nói láo. Nếu mà giữ giới như vậy, mình ăn ngày một bữa, Phật tánh nó hiện ra thì ngồi đống đống đây hết rồi, phải không? Các thầy thấy mấy người ăn ngày ba bữa thì nó không hiện ra, còn bây giờ chúng ta ăn ngày một bữa thì nó phải hiện chứ? Mà Thầy có thấy ông Phật nào hiện đâu? Rõ ràng là chẳng có hiện ông nào hết. Vậy mà dám nói là thanh tịnh, giữ giới rồi thanh tịnh. Giữ giới nó tức tối gần chết chứ ở đó. Người ta ăn ngày ba bữa, mình ăn ngày một bữa, không có được ăn thêm cái gì hết, nó tức bụng ở trong này gần chết, sung sướng gì lắm sao? Bởi vậy cho nên phải giữ giới như thế nào để mà thấy được cái sự giải thoát đó thì mới là thanh tịnh. Còn đằng này bảo mình cứ cố gắng giữ đi, giữ đi cho nó thanh tịnh, thanh khỉ họ. Người ăn ngày ba bữa mà người ta ngồi đó nhai me, mình chảy nước miếng đay mà biểu thanh tịnh, thanh cái gì? Cái chuyện mấy ông nói là mấy ông nói, chứ mấy ông không biết cách tu nên mới nói, mấy ông nói bậy.

Những kẻ học rộng, biết nhiều mà không giữ giới cũng chẳng khác gì ngọn đèn trước gió, có thể sáng lắm nhưng cũng rất dễ bị tắt. Bởi vì khi mà người ta học hiểu nhiều người ta mới biết được cái chỗ đó có thể người ta chấp nhận cái giới đó hay không. Còn nếu mà không cho người ta biết làm sao người ta chấp nhận được? Con người sống bằng trí mà? Ít ra trước khi người ta muốn theo tôn giáo nào người ta phải hiểu tôn giáo đó, không hiểu rồi nhảy vào tu, tu bậy tu bạ, tu tới chừng nó điên khùng, ma nhập vào đó, chạy điên chạy khùng, lột quần áo chạy ra ngoài chợ, nhảy xuống sông tự tử rồi chừng đó ai nói cái gì? Cho nên tu mà tu ngu như vậy ai mà tu? Cho nên ít ra người ta phải hiểu. Ở đây nói mình, nói kẻ nào học rộng, hiểu nhiều mà không giữ giới. Tôi hiểu nhiều tôi mới thấy cái giới đó nó có lợi ích cho tôi tôi mới giữ, mà tôi thấy nó không có lợi ích thì tôi không giữ, tôi không có theo thì như vậy tôi phải hiểu chứ. Còn ông ông biểu tôi không có học, cứ vô đó nhắm mắt mà giữ, giữ cho thật thanh tịnh rồi Phật tánh nó ngồi ở đó cho, nó thanh tịnh cho, cái chuyện đó là ông gạt tôi đấy chứ ông nói đúng đâu.

Cái đó là nói không đúng sự thật, nó không cụ thể, cái đó là nói gạt người khác. Đó là cái lối lý luận của các nhà mà viết luận. Họ lý luận cái kiểu đó là lý luận gạt người khác. Tôi hiểu biết rồi tôi mới thực hiện được cái điều mà tôi hiểu biết đó, nó mới làm cho tôi thanh tịnh, nó mới làm cho tôi giải thoát, nó mới thấy được Phật. Còn cái này ông biểu gộp như vậy là ông đã dạy sai.

Trái lại, kẻ học ít, biết sơ sơ thôi mà giữ giới một cách chân thành thì cũng như ngọn đèn có ống khói, khi mới thắp còn lu mờ nhưng không tắt mà càng cháy lâu lại càng sáng tỏ hơn. Nói láo, hết sức nói láo! Bây giờ tôi học sơ sơ, tôi biết sơ sơ thôi, tôi cứ giữ giới luật, nhiều khi tôi ăn lén, ăn lút hoặc là tôi làm cái chuyện dâm dục tầm bậy, tới chừng đó công an bắt ra rõ ràng là mấy ông này hết ráo rồi chứ không ai hết. Bởi vì học sơ sơ mà, cho nên đâu có biết rõ đâu? Cho nên phạm giới đâu có nghĩ đó là tôi phạm mà cứ bảo là phải giữ cho kỹ, giữ cho kỹ. Nhưng mà cái lòng ham muốn của tôi chưa có diệt được thì làm sao mà tôi giữ kỹ được? Cho nên mấy ông trói buộc tôi sao được? Cho nên cuối cùng tôi phạm mà mấy ông lại càng nói đó là như cái ngọn đèn mà có cái ống khói mà chụp thì gió nó không có dao động mà nó càng sáng tỏ, không có sáng cái thứ gì được đâu! Mấy ông luận như vậy chứ nó không bao giờ có cái điều đó được.

Ở đời chúng ta thường thấy phần nhiều những người có căn trí lanh lợi, hiểu nhanh, biết lẹ, nhưng vì hay ỷ lại vào sức mình, không chịu đặt mình vào khuôn phép, kỷ luật nên cuối cùng chẳng thu hoạch được kết quả gì tốt đẹp. Thầy hỏi một cái giới luật mà có giới hành thì làm gì mà người ta hành cái pháp hành đó, làm gì mà người ta phạm giới? Còn mấy ông đặt ra cái pháp luật như thế này, không có cái pháp hành thì mấy ông gò bó tôi, ép tôi, nén tâm tôi tới cái mức độ này mà cái tâm tôi ham muốn thế này mà bắt buộc cứ lấy cái giới này mà cứ đè tôi thì làm sao mà tôi chịu nổi? Cho nên tôi phải phạm thôi chứ? Cho nên nói, ờ càng học nhiều, càng biết nhiều này kia thì cái kết quả nó chẳng có tốt đẹp gì hết, đó là mấy ông luận như vậy. Trái lại những kẻ có căn trí tầm thường, hay chậm lụt, lại dễ thành công trên đường đời cũng như trên đường đạo.

Những đệ tử của Phật có ai có một địa vị xã hội hạ tiện và căn trí thấp kém như Ngài Upali thế mà Ngài Upali đã trở thành một bậc hiền thánh, một vị quan trọng trong thập đại đệ tử của Phật chỉ vì Ngài nghiêm trì giới luật đệ nhất. Chúng ta đây địa vị xã hội và căn trí chắc chắn không kém Ngài Upali lẽ nào chúng ta không thu hoạch thành quả tốt đẹp như Ngài? Nếu chúng ta cũng tập nghiêm trì giới luật như Ngài. Ngài Upali nghiêm trì giới luật bằng cách nào? Ông này không có nói ra! Nếu mà không có cái pháp hành, cái giới hành của Phật thì…

(Hết mặt A)

Vì vậy mà ông có nhiều cái hạnh, giữ gìn đúng những cái giới luật là khi ông hành, ông dùng những cái giới hành mà ông thực hiện từ cái sơ thiện, đến cái trung thiện và hậu thiện là những cái pháp giới hạnh,… chuyên môn về cái sở trường đó. Vì vậy mà những cái khác ông đều thuộc về sở đoản. Do như vậy, qua những cái hành động sống của ông, qua cái sự nghiêm chỉnh của cái giới hạnh của ông cho nên đức Phật gọi ông là đệ nhất trì giới. Người khác thì người ta đệ nhất là cái sở trường của người ta, còn ông chỉ sở trường ở cái phần này chứ đâu phải ông là toàn bộ hết. Cho nên ở đây là cái phần từ khi mà ông bắt đầu tu là ông phải thực hiện những cái giới hành, do những cái giới hành đem đến sự cứu cánh giải thoát cho ông, cho nên ông thích thú vào những cái hành động đó. Những cái oai nghi, tế hạnh của một cái người tu sĩ như vậy cho nên ông mới được gọi là nghiêm trì giới hạnh đệ nhất của đạo Phật, của đức Phật, là đệ của Ngài. Nhưng mà lấy cái sự cùng đinh, lấy cái sự mà hạ liệt của xã hội mà ghép vào đây thì Thầy thấy không đúng! Đâu có phải ông Ubali ông ngu như vậy, mặc dù cái giới của ông phải nói rằng người ta cho rằng cái giới của ông là cái giai cấp của xã hội của ông là nó có thể thậm tệ đi  nữa, nhưng mà cái sự thông minh vẫn phải có chứ? Đâu có lý một người mà không thông minh? Do đó mà so sánh ông ấy với chúng ta thì ông ấy là người u tối, còn chúng ta là người thông minh hơn ông mà chúng ta không giữ gìn giới luật được, còn ông ấy u tối, ông ngu si, ông trì độn nên ông ấy giữ gìn được. Cái này luận để mà nói xấu ông ấy thôi!

Thầy thấy nói ông Bàn Đặc thì Thầy còn tin chứ nói ông Ubali mà như vậy thì Thầy không tin bao giờ hết! Phải nói là cái vị Tỳ kheo nào mà có thể u tối, mà cái vị Tỳ kheo nào mà không thể nói là u tối được, thì ở đây không thể nào nói. Mà cái ông Ubali đâu phải là cái giai cấp cùng đinh, ông chỉ là một người thợ chứ chưa phải như là ông Ca Chiên Diên. Ông Ca Chiên Diên mới là giai cấp cùng đinh, ông ấy là người hốt phân, còn ở đây đâu có giai cấp mà như vậy đâu? Thế mà người ta lại lấy ông Ubali ra mà nói chỗ này thì chẳng qua là cái ông này chẳng hiểu cái đám đệ tử của đức Phật là như thế nào hết, các bậc Thánh tăng như thế nào hết, nói không có hiểu rõ. Bởi vì khi mà nghiên cứu về Phật giáo thì các bậc Thánh tăng, cái người nào ở trong giai cấp nào chúng ta đều hiểu biết, và cái độ thông minh của họ như thế nào chúng ta biết, thời gian họ đến họ tu với Phật bao lâu, họ làm những gì, chúng ta nghiên cứu về những bậc Thánh tăng. Bởi vì chúng ta là những người mà nương vào ba cái Tam bảo mà chúng ta tu Phật - Pháp - Tăng, mà Phật thì chúng ta đã không nói rồi, Pháp thì chúng ta đã biết rồi, mà Tăng thì không phải là tăng trong thời chúng ta mà phải là những bậc Thánh tăng trong thời đức Phật. Vì vậy cho nên những đệ tử của đức Phật là những nơi mà chúng ta lấy những cái gương hạnh tu tập đó mà chúng ta làm cái gương hạnh tu tập cho chính mình. Vì vậy mà chúng ta không nghiên cứu những cái bậc Thánh tăng này thì chúng ta còn thiếu khuyết! Một vị tu sĩ Phật giáo mà nói ra cái điều này, Thầy nghĩ rằng cái ông mà viết cái giới luật này chẳng hiểu các bậc Thánh tăng như thế nào! Như vậy là ông ấy quy theo ai? Ông ấy quy theo các vị Thánh tăng trong thời hiện tại của chúng ta, các bậc Tôn túc Hòa thượng của chúng ta bây giờ, những ông phạm giới, những ông phá giới thì thử hỏi làm sao chúng ta theo mấy ông đó được, chúng ta nương vào cái ông tăng đó được, mặc dù bây giờ ông ấy ở trong hàng giáo phẩm nào đi nữa chúng ta cũng vẫn thấy cái sự phá giới của ông ấy thì chúng ta không thể nương ông ấy được! Vì vậy cho nên chúng ta phải luôn nương vào cái hàng Thánh tăng là những đệ tử của đức Phật ngày xưa. Cho nên chúng ta không nghiên cứu như ông Xá Lợi Phất này, ông Mục Kiền Liên này, ông La Hầu La này, ông Upali này, ông Ca Chiên Diên này… Tất cả những cái bậc Thánh tăng đó chúng ta đều phải nghiên cứu coi qua những cái hạnh của các ông ấy tu như thế nào, để từ đó chúng ta rút tỉa những cái hạnh đó mà chúng ta thực hiện cho cái đời tu hành của mình, gọi là mình quy y Tăng. Chứ còn quy y Tăng là nương vào tăng bây giờ là nương làm sao được?

Nói như vậy là chúng ta đã thấy được cái cách thức và chúng ta đã hiểu biết được qua cái quyết nghi của cái giới bổn mà cái nhà mà soạn ra giới bổn đã có những cái luận, cái luận sai, cái luận không đúng. Cho nên ở đây khi mà đã đọc lại cái quyết nghi này rồi Thầy kết luận tất cả giới bổn, một ngày nào đó chúng ta có đủ duyên mà quý thầy ít ra cũng phải mười người tu đạt được giải thoát, tâm bất động giải thoát, mục đích phạm hạnh chúng ta đã đạt được, sanh - tử của chúng ta đã chấm dứt, ngày đó chúng ta sẽ hội họp, lậplại cái giới bổn, không có để cái giới bổn này được đối với đạo Phật nữa! Chúng ta hiện giờ đang tu hành thì chúng ta lấy cái giới kinh mà làm Thầy cho chúng ta đang tu chứ không phải cái loại giới bổn này vì cái giới bổn này không phải là Thầy của chúng ta mà là do người sau viết lại, dám bịa đặt thế này, thế khác, đủ cách, đủ loại ở trong này, thêm - bớt ở trong này, cho nên chúng ta chẳng bao giờ chấp nhận cái giới bổn này! Mà chúng ta chấp nhận cái giới kinh mà chúng ta đã đọc ở trong kinh A Hàm, ở trong kinh Nikaya, kinh Nguyên thủy. Đó là chúng ta chấp nhận những cái giới ở trong đó, chúng ta lấy cái giới ở trong đó để làm cái pháp hành cho chúng ta, để làm cái giới hành chúng ta thực hiện cái đời tu hành của chúng ta.

Còn toàn bộ những cái giới bổn mà chúng ta đã học rồi chúng ta để đó, một ngày nào đó chúng ta thực hiện được sự giải thoát tâm bất động hoàn toàn, phạm hạnh của chúng ta đạt được thì chừng đó chúng ta sẽ họp lại năm người, mười người mà chúng ta đã có cái sự giải thoát như nhau thì chúng ta họp lại, chúng ta làm lại, xây dựng lại cái giới bổn này cho người sau có cái đường lối tu tập rất rõ ràng, không có để cho người sau mất lối như thế này được!

Đó là cái nhiệm vụ và trọng trách của quý thầy khi quý thầy biết được, mà theo Thầy tu hành thì quý thầy thấy được cái trọng trách của mình không hề nhỏ. Vì nhìn qua cái tạng giới bây giờ mà nằm trong Phật giáo thì chúng ta thấy điều đó là cái điều sai, rất sai! Không thể nào đem cái giới mà này áp dụng cho đời sống tu hành của người tu sĩ trong cái con người ở trên thế gian này được. Vì cái giới này là cái pháp luật, là cái sự gò bó, không có cái giới hành cụ thể và rõ ràng. Cho nên chúng ta để đó, chúng ta chưa có nói tới nó, một ngày nào đó khi mà quý thầy đã tu hành xong, chúng ta sẽ họp lại, làm lại một cuộc, coi là một cuộc cách mạng cho cái giới bổn này, không có để mà cái này nó còn dính dấp trong đạo Phật nữa.

Thầy xác định và quyết định cái điều này, nếu mà Phật pháp còn đủ duyên thì quý thầy trong một sớm một chiều quý thầy thực hiện được thì chúng ta sẽ làm lại được tất cả những cái này, dựng lại những gì của Phật giáo mà người ta đã ném xuống, người ta không còn để cho nó một chút gì là hơi ấm của Phật giáo. Bây giờ chúng ta hãy cố gắng và cố gắng trên bước đường tu tập chúng ta hơn, còn chúng ta nói nhiều mà chúng ta không làm được thì cái nói nhiều đó cũng chẳng ích lợi gì cho cuộc đời của chúng ta.

GIỚI HÀNH

Chúng ta đã kết luận cái giới bổn qua cái lời mà Thầy đã nói xong thì sau khi học xong giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề bây giờ quý thầy tiếp tục học giới hành, bắt đầu chúng ta chuyển qua giới hành liền. Đây là những cái điều mà rất quan trọng cho cái giai đoạn cuối cùng cho giáo án này, đây là cái giới hành của chúng ta.

Vậy giới hành là gì? Giới như quý thầy đã được học là pháp thiện, là pháp lành. Giới là thiện pháp, hành là trau dồi, tu tập, rèn luyện. Giới hành là trau dồi, rèn luyện, tu tập thân - tâm mình trong thiện pháp. Đó, Thầy giải thích như vậy để chúng ta biết rằng giới luật không phải là một cái giáo điều khô khan, cằn cỗi đâu, mà đây là một cái pháp thiện để chúng ta trau dồi thân tâm của chúng ta trở thành sống trong thiện pháp hoàn toàn để được giải thoát cho mình và cho người chứ không phải chỉ riêng có mình không đâu.

Như vậy là quý thầy đã hiểu biết khi mà học qua cái giới hành thì phải hiểu cái nghĩa của nó.

Trước khi trau dồi thân, tâm trong pháp hành, các thầy phải trau dồi cách thức ăn, uống đúng cách thiện pháp mà trong kinh Jivaka Phật đã dạy. Khi mà chúng ta muốn trau dồi cái giới hành thì đầu tiên là chúng ta phải trau dồi cái cách thức ăn, uống của chúng ta như thế nào cho đúng. Tại sao phải trau dồi nó, bởi vì ở trong đạo Phật của chúng ta qua cái ăn uống chưa có đúng cách, hầu hết tu sĩ của chúng ta ăn uống chưa có đúng cách, ăn uống phi thời này. Thậm chí có những nhà sư gọi là ăn uống không phi thời mà lại là uống sữa, uống bơ, uống này kia, chỉ ăn một bữa mà còn ăn thịt, ăn cá nữa thì cái đó chúng ta đem bài kinh này ra chúng ta mổ xẻ coi xem ông Phật dạy như thế nào mà cái giới tu sĩ hiện giờ họ lại ăn uống như vậy mà họ lại cho đó là đúng Phật pháp? Cho nên trước khi mà hành động giới hành thì chúng ta phải hiểu được cái này để chúng ta tu tập cái giới hành về cái ăn, uống của chúng ta đã.

Cư sĩ Jivaka hỏi: “Bạch Thế Tôn! Con nghe người ta nói như sau, vì Sa môn Gotama mà họ giết hại các sinh vật và Sa môn Gotama tuy biết thế mà vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình và được làm cho mình ăn. Bạch Thế Tôn, những người ấy nói như vậy có đúng lời Thế Tôn không? Họ không xuyên tạc Thế Tôn, họ nói như vậy là sự thật?”

Đó là vị cư sĩ đó hỏi đức Phật như vậy thì đức Phật trả lời: “Này Jivaka! Những ai nói như vậy là nói không đúng lời của ta, họ xuyên tạc ta, nói không như thật!”. Nghĩa là đức Phật xác định để cho chúng ta biết rằng họ nói như vậy là nói không có đúng lời của Phật nói.

“Này Jivaka! Ta nói trong ba trường hợp thịt không được thọ dụng nếu thấy, nghe và nghi”. Đó, thì Đức Phật xác định cho chúng ta thấy rằng khi mà chúng ta thấy, nghe và nghi thì chúng ta không được thọ dụng!

“Này Jivaka! Ta nói trong ba trường hợp thịt được thọ dụng không thấy, không nghe và không nghi”.Đó, thì đức Phật nói như vậy thì chúng ta thấy bây giờ chúng ta thọ dụng thịt mà không thấy, không nghe, không nghi. Nghĩa là bây giờ có một cái mâm cơm để mà người ta cúng dường cho Phật, trong khi Phật không thấy có thịt thì tức là Phật ăn, nghĩa là bây giờ ở trong cái đĩa đồ ăn này mà không thấy có miếng thịt heo, không thấy có con cá hoặc con vật mà chết ở trong đó thì tức là đức Phật ăn liền, còn có thấy miếng thịt, còn có thấy con cá nằm, còn có thấy có cái đùi gà, còn có thấy một cái cục sườn ram thì nhất định là không ăn. Tại vì thấy làm sao ăn? Cho nên không thấy thì ăn mà thấy thì không ăn! Đó là đức Phật chỉ cho chúng ta thấy cái chỗ mà chúng ta thọ cái thịt mà không thấy.

Bây giờ không nghe, bây giờ trong cái đĩa đồ ăn này thịt, cá gì họ bằm nát ra rồi họ làm thành chả họ chiên thành chả cũng như cái bánh vậy đó, thì lúc bấy giờ đó nghe người ta nói lúc nãy họ bằm cá thái lát ra rồi bây giờ họ chiên ra thành chả đó, Phật đừng có ăn, Phật mà ăn đó thì toàn thịt chúng sinh ở trong đó. Nghe như vậy là đức Phật cũng không ăn nữa. Đã nghe người ta nói ở trong đó có thịt mà, có chúng sinh chết ở trong đó mà, đâu có ăn. Đó là nghe không ăn!

Bây giờ, trong khi đức Phật không nghe, không thấy rồi cầm một cái bánh lên hoặc là lấy tay bốc cái món đồ ăn đó lên, bỏ vào trong miệng nghe nó tanh cá quá thì đức Phật nghi cái này có cá rồi, không được ăn, do đó đức Phật không ăn cá! Bị ngửi mùi tanh, bây giờ ngửi mùi bò, ở đây có thịt bò rồi nhất định là không ăn! Bây giờ nghe thấy nó có mùi thịt heo, nghe mùi thịt gà, do đó nghe mùi gà, mùi heo Đức Phật không ăn, bởi vì nghe tức là khi mà kê cái mũi mình ngửi lên là mình đã nghi cái đó là có thịt gà, cái đó là có thịt heo, cái đó là có thịt bò, nhất định là Phật không ăn! Bởi vì nghi, mà nghi là không ăn. Cho nên, dù trong đó không có đi nữa, người ta làm không có đi nữa mà nghi thì cũng không ăn!

Ví dụ như bây giờ có người họ lấy đậu hũ, họ làm như thế nào đó nó giống những mắm bằm lắm, chúng ta ăn thấy nghe cái mùi nó y như mắm vậy, mà khi kê lên vậy chúng ta nghe cái mùi tanh tanh hôi hôi giống mắm thì nhất định là không ăn. Tại vì chúng ta nghi ở trong đó là có mắm ở trong đó, có cá chết ở trong đó nên không ăn. Đó là chúng ta nghe cái mùi tanh rồi nên chúng ta không ăn, chúng ta biết là có cá hay con vật chết ở trong đó, mặc dù là đậu hũ họ ủ cho thối để làm đó, nhưng chúng ta đã nghi rồi thì chúng ta không ăn!

Cho nên do những cái điều kiện này, tuy rằng nói cái danh từ nghe thì nó dễ thấy, thấy - nghe và nghi nó dễ dàng lắm, nhưng mà sự thật thì nó quá là sâu sắc khi mà đức Phật viết ra cái giới này, cái bài kinh này tức là muốn nói nên cái giới luật rất là nghiêm chỉnh cho cái sự mà thọ thực thịt chúng sanh. Nếu mà một người biết pháp tu thì người ta nghe những cái lời nói này người ta mới thấy được cái thâm ý của đức Phật sâu xa vô cùng.

“Ở đây, này Jivaka, Tỳ kheo ấy dựa vào một làng, hay một thị trấn, vị ấy luôn luôn biến mãn một phương với tâm có lòng Từ và an trú tâm Từ đó ở đó. Phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư cũng vậy, Từ tâm của vị ấy biến mãn khắp cùng thế giới trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên giới. Vị ấy luôn luôn biến mãn với tâm câu hữu với Từ quảng đại vô biên, không hận, không sân và an trú với lòng thương yêu chúng sanh rộng lớn vô bờ bến”.

Chúng ta thấy ở đây đức Phật nói về cái vấn đề mình ăn là thấy, nghe, không nghi ở đó rồi, mà bây giờ đức Phật lại đem một cái bài này nói: Này Jivaka, khi một vị Tỳ kheo mà ở một làng hay một thị trấn nào đó và khi bây giờ được sự cúng dường một cái món ăn đó thì cái người đó đã luôn luôn người ta đã tu tập cái lực từ - bi - hỷ - xả của người ta, người ta đã thực hiện cái lòng Từ biến mãn khắp mười phương rồi thì cọng cỏ người ta cũng không đạp cho nó héo nữa thì thử hỏi làm sao người ta có thể bỏ cái miếng thịt trong miệng mà người ta ăn được? Ý đức Phật muốn nói như vậy! Vì vậy cho nên bây giờ cái tâm Từ của họ đã biến mãn khắp cùng như vậy rồi thì cái lòng thương yêu rộng lớn đối với chúng sanh vô bờ bến như vậy thì một người cư sĩ hay con của người cư sĩ đến vị Tỳ kheo ấy mà mời rằng ngày mai mà thọ trai thì đức Phật hỏi Jivaka vậy thì khi vị Tỳ kheo đó nhận lời mời như vậy mà khi đến khất thực ăn cái bữa ăn đó thì người đó cái tâm Từ có không? Họ luôn luôn họ phải sống ở trong cái tâm Từ biến mãn khắp cùng, thì như vậy là trước khi ăn của cái người cư sĩ hay con của người cư sĩ mà cúng dường thì họ còn mê cái thức ăn đó không? Dù cái thức ăn đó ngon họ có mê không? Nếu mà thức ăn đó bằng thịt, cá, làm cho ngon thật ngon họ có mê không?

Ở đây, Thầy sẽ đọc lại: “Một người cư sĩ hay con của người cư sĩ đến Tỳ kheo ấy mời ngày mai thọ trai, và này Jivaka, vị Tỳ kheo ấy nhận lời khi vị ấy thọ dụng các món ăn khất thực ấy với tâm không tham trước, không tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai hại, ý thức rõ sự xuất ly…” Đó, khi ăn mà người ta thấy rõ sự tham đắm của chúng ta có không. Như vậy không tham đắm là thấy cái vật đó bằng thịt chứ có ham không? Không có ham đâu! Còn bây giờ chúng ta tham đắm ăn rồi thì thấy miếng thịt chúng ta nói đây là miếng đậu hũ đó, ăn đi, chứ đừng nói, mình cứ nói nó là đậu hũ mình cứ ăn đi chứ mình đừng có nói thịt, mình nói thịt mình không dám ăn? Cho nên nói nó là đậu hũ đi. Mình nghe cái mùi thịt heo mình nói không phải đâu, cái mùi này là mùi đậu hũ đó, mình gạt mình ở trong đó để mình ăn cho đã cái miệng, tức là còn tham đắm đó! Cho nên, do cái tâm tham của mình mà mình không có xuất ly ra khỏi cái này!

“Này Jivaka, ông nghĩ thế nào, Tỳ kheo kia trong thời gian thọ thực, ông ấy có nghĩ đến tự làm khổ mình hay nghĩ đến làm khổ chúng sanh, hay nghĩ đến làm khổ cả hai?” Đó, thì các thầy thấy, khi mà ăn cái miếng ăn  (...) nghĩa là một cái vị Tỳ kheo đó khi mà họ thọ thực như vậy đó họ có nghĩ rằng họ sẽ làm khổ họ hoặc làm khổ chúng sanh không hoặc là làm khổ cả hai? Cho nên ở đây, họ nghĩ một người tu sĩ bây giờ ăn một cái miếng thịt này, mình nuôi vào cái thân mạng của mình là cái chánh mạng hay tà mạng? Trong khi họ học Bát chánh đạo không lẽ nào họ lại không thông suốt cái điều này? Bởi vì nuôi cái chánh mạng thì làm sao mà nuôi thịt cá ở trong thân này được? Cho nên đây là hại mình rồi! Mình ăn cái món ăn này là thịt, cá rồi thì mình hại cái thân của mình rồi! Cho nên đó là làm khổ mình rồi Vì vậy mà khi mình nhét trong miệng cái món ăn tức là làm khổ chúng sinh rồi! Chúng sanh phải có chết mình mới có ăn chứ? Cho nên, do như vậy mà câu nói này chúng ta thấy, hiểu qua cái bài kinh rất rõ ràng! “Này Jivaka, ông nghĩ thế nào, Tỳ kheo kia trong thời gian thọ thực, ông ấy có nghĩ đến tự làm khổ mình hay nghĩ đến làm khổ chúng sanh, hay nghĩ đến làm khổ mình, khổ cả hai?”.

Cái câu nói này Thầy thấy quá là tuyệt diệu, không có còn chỗ nào mà một người mà ăn thịt chúng sanh mà nuốt cho trôi hết! cái Câu này Phật dạy nghĩa là ăn chay trên ăn chay! Tại sao vậy? Tại vì ông Phật ông ấy không dạy chúng ta ăn chay, vì ăn chay nó giống như Bà la môn, giống như kiểu Đại thừa. Vậy giống kiểu Đại thừa như thế nào? Thầy nói cho quý thầy thấy rõ, người ta ăn chay mà người ta làm đùi gà như thế này, lấy đậu hũ, lấy củ sả mà đút vô làm cái đùi gà, ngồi đó tưởng ra cái đùi gà mà ăn, mà thực sự ra toàn là ăn đậu xanh với đậu hũ không, không có gì hết. Làm đồ chay mà làm như là thịt heo vậy đó. Đó, thì cái đó là cái ăn chay của Đại thừa. Còn cái ăn chay mà của ông Phật là ăn chay trên ăn chay do tâm từ của chúng ta thực hiện ở trên biến mãn đó. Vì vậy mà ở trong cái thực phẩm của chúng ta ăn là chúng ta luôn luôn có cái tâm Từ nằm ở trên đó hết!

Cho nên ở đây, rõ ràng là ăn không thấy, không nghe, không nghi, vậy mà có một số nhà sư ăn thịt, ăn cá, ăn thịt chúng sanh mà vẫn an nhiên mà nói thịt họ làm ở đâu, tôi đâu có nghe,  tiếng heo la tôi đâu có thấy? Cho nên ở đây bây giờ người ta đem cúng dường là tôi cứ ăn, chứ tôi đâu có nghe con vật kêu đâu? Mà tôi đâu có cầm dao tôi giết nó đâu? Ai giết chứ tôi đâu có giết? Người ta làm đâu ở nhà chứ đâu phải tôi làm? Cho nên tôi cứ ăn! Cho nên thịt không thấy, không nghe, không nghi… Bây giờ tôi muốn ăn thì bây giờ dù tôi có nghi tôi cũng không thèm nghi làm chi nữa để mà tôi ăn cho thích cái khẩu của tôi. Cho nên, do đó mà một cái giới tu sĩ của chúng ta lầm lạc và lầm lạc, đến vì vậy mà cuối cùng họ có thể cầm gươm, cầm súng họ giết lẫn nhau được, họ giết con người được! Ăn thịt chúng sanh được như vậy thì họ có sá gì mà  không giết được con người? Cho nên chúng ta thấy rõ ràng là Phật giáo Nam tông cầm súng giết người một cách rất rõ ràng! Mà họ diệt chủng họ chứ chưa phải là diệt ai đâu! Chứ không phải là diệt nước khác chúng ta cũng không nói đâu, mà họ diệt dân tộc họ! Mà đó là Quốc giáo ở cái nước đó gọi là Phật giáo, Phật giáo là quốc giáo của họ mà họ còn làm như vậy đó, thì chúng ta thấy cái việc truyền giáo đó có đúng là của Phật giáo không?

Cho nên ngay cái bài kinh này đã xác định là những cái người này chưa phải là cái người đúng là Phật giáo, tà giáo xen vào trong đó mà họ tự gọi họ là Phật giáo Nguyên thủy. Họ nguyên cái gì, họ đi lạc đường nào đâu chứ đâu phải Phật giáo ở trong đó? Cho nên càng đụng tới, Thầy càng thấy cái sai lệch của Phật giáo bao nhiêu, thì Thầy muốn dựng nó lại bấy nhiêu thì lại Thầy lại thấy rằng chúng sinh quá mê muội, đi lạc lầm con đường của đạo Phật.Từ cái pháp thiện của Phật đi đến cái pháp ác mà không thấy rằng mình sống trong cái ác mà không thấy.

Đó, thì hôm nay các thầy nghe được cái bài kinh này mới thấy được cái lời Phật dạy quá rõ ràng chứ gì?

Cho nên vị cư sĩ này mới thưa: “Thưa không, bạch Thế Tôn”, làm sao có thể  Nghĩa là khi mà như vậy thì làm sao mà có cái tâm ác ở trong đó được?

“Này Jivaka, Tỳ kheo kia trong thời gian thọ dụng các món ăn, không có lỗi lầm”.Nghĩa là bây giờ thọ dụng các món ăn đó họ có còn thấy có tội không? Họ đã có cái sự không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ chúng sanh, mà không làm khổ cả hai thì khi họ ăn như vậy bây giờ một cái mâm cơm này toàn là thịt cá không thì họ ăn như thế nào các thầy có biết không? Họ ăn cơm không, ăn cơm với muối không họ không thèm ăn ba cái đồ ăn đó đâu! Thì như vậy họ có lỗi không? Họ ăn xong rồi họ đi về họ có lỗi không? Còn mình, ngồi thấy ba cái thịt cá làm đồ coi bộ ngon quá, làm hủ tíu, cháo lòng này kia, lòng nó bỏ trên đó đầy quá, trời ơi ngon quá! Thôi ních đi cho nó đã đi! Khi mà ních rồi thì nó có lỗi lầm không? Lỗi lầm chứ sao không lỗi lầm?

Còn khi một vị Tỳ kheo khi người ta đã biến mãn tâm Từ Bi của người ta rồi thì người ta đâu có ăn được? Còn mình cắn cái đầu gà vậy mà nhai ngón ngáo cho được rồi nhả một đống xương mà không thấy cái tâm từ của mình ở chỗ nào hết. Thử hỏi mấy ông sư có không? Cho nên hòa thượng Huệ Hưng nói với Thầy đến mấy cái chỗ của sư Nam tông, trời ơi cái sát khí của họ ăn thịt chúng sanh, chúng ta thấy xương đống đống, thấy ghê gớm! Đúng vậy! Họ ăn gà, ăn vịt, ăn thịt heo, ăn sườn, họ bỏ sườn heo đống đống đây chứ đâu có phải ít đâu? Cho nên Hòa thượng nói với Thầy đến mấy cái chỗ mấy ông Tiểu thừa, mấy ổng nguyên thủy, trời ơi! Thôi thôi, vô cái chùa của ổng là mình nghe cá, nghe thịt hôi rồi chịu không có nổi! Đó là những bằng chứng cụ thể! Chúng ta là những người ăn chay mà chúng ta đến chùa mấy ông đó là chúng ta không có chịu nổi cái mùi cá, mùi mắm của mấy ông đó! Cái y, cái áo của mấy ông đó nghe nó tanh mắm, tanh cá hôi rình à. Tại chúng ta không có chịu ngồi gần bên chứ ngồi gần bên chúng ta nghe thấy hết chứ không có trật chỗ nào, nhất là cái tâm chúng ta tịnh thì chúng ta nghe rất rõ những cái mùi hôi đó. Còn cái tâm chúng ta chưa thanh tịnh, tại vì cái tâm chúng ta nó lộn xộn ở trong này, nó còn nghĩ này kia mặc dù chúng ta đã ăn chay nhiều năm nhưng mà cái tâm chúng ta nó chưa an tịnh, chúng ta chưa có nghe được cái mùi hôi của họ. Họ ăn bò chúng ta nghe bò, họ ăn chó chúng ta nghe chó, họ ăn gà chúng ta nghe gà, họ ăn vịt chúng ta nghe vịt, ăn cá chúng ta nghe tanh cá. Khi nào cái tâm quý vị thanh tịnh rồi, quý vị ngồi gần người nào ăn cái gì quý vị biết liền, cái mùi mồ hôi của người đó toát ra chúng ta biết liền. Ăn tỏi chúng ta cũng biết cái mùi tỏi liền, ăn hành chúng ta cũng biết nữa, ăn rau diếp chúng ta cũng biết nữa. Cái thứ đó là những cái thứ hôi, cho nên khi ăn rồi nó ra mồ hôi là hôi. Mà cái người đã thanh tịnh tâm rồi người ta nghe cái mùi đó người ta biết liền. Còn cái người mà không thanh tịnh tâm, bởi vì cái tâm của chúng ta nó chưa có an cho nên nó làm cho chúng ta không có lắng được cái mùi đó.

“Thưa không, bạch Thế Tôn”. Đây là cái vị cư sĩ nói. “Thưa không, bạch Thế Tôn, cao thượng thay, an trú với lòng Từ, thương xót chúng sanh như loài thực tế, thưa Thế Tôn, xin Thế Tôn diện kiến thân chứng cho con hiểu ở điểm này. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn an trú lòng từ vô bờ bến”. Nghĩa là cái vị cư sĩ Jivaka này nói với đức Phật chứng nhận cho người đã là thấy được cái lòng Từ của đức Phật vô bờ bến, một vị tu sĩ thọ thực như vậy là không có cái tâm từ nào vô bờ bến hơn được hết. Nghĩa là ăn với cái tâm Từ như vậy, trước các món ăn dù có ngon đi chăng nữa cũng không tham đắm đâu, cho nên ăn cơm lạt hoặc là không ăn nữa. Đó là người ta ăn như vậy không bao giờ có lỗi lầm, vì vậy mà những lời mà vị cư sĩ này trước kia hỏi Phật đó là những cái lời phỉ báng Phật, nói sai cái ý của Phật, không có đúng!

“Này Jivaka, cái gọi là tham, là sân, là si, thấy được Như Lai loại trừ, chặt đến tận gốc, làm cho như thân cây Tha La, khiến cho không thể tái sanh được, không thể tái sanh khởi trong tương lai. Này Jivaka, nếu như vậy là ý nghĩ ông muốn nói, thời ta đồng ý với ông”. Nghĩa là đức Phật nói cái tâm tham, sân, si mình không còn có nữa thì làm sao mình thích cái món ăn ngon này. Các con hiểu điều đó chứ? Tại sao đức Phật nói mình ăn chay này kia mà đức Phật nói tại vì cái ý muốn nói với chúng ta là lòng Từ của chúng ta đối xử với chúng sanh như vậy, tại vì cái tâm tham, sân, si của chúng ta hết rồi, Phật hết rồi, cho nên vì vậy bây giờ trước cái món ăn này, dù là có ngon cách gì đi nữa cũng không cám dỗ được đức Phật. Bởi vì tham nó không còn. Các thầy hiểu chỗ đó không? Cho nên cái bài kinh rất là giá trị. Cho nên bước đầu vào mà chúng ta đọc đến cái bài kinh này thì chúng ta không phải thuộc cái loại Đại thừa Bà la môn mà ăn chay đâu, mà chúng ta phải biết rằng ăn cái món ăn của chúng ta là ăn ở trên cái tâm Từ Bi của chúng ta, tâm Từ Bi của chúng ta bao giờ cũng phủ trùm tràn đầy thế giới chúng sanh hết. Chúng ta phải hiểu được cái bài kinh như vậy vì vậy mà chúng ta mới thấy được chúng ta thanh tịnh được thân tâm, nuôi được cái chánh mạng của chúng ta chứ? Còn không khéo mà không thấy được như vậy thì chúng ta nuôi tà mạng mất rồi! Ăn mà còn chế ra đùi gà, ăn mà còn chế ra đồ mặn, nào là chế ra y như là đồ mặn thì thôi để đồ mặn ăn cho rồi đi còn bày đặt cái thứ này ra chi? Cho nên, bên những nhà Đại thừa, có nhiều cái bữa đi thọ trai Thầy thấy họ làm đồ chay thật, nhưng mà họ bày ra những cái món chay này kia. Vô tiệm cơm chay cũng vậy, kêu họ đem cái dĩa thịt, họ đem cái dĩa y như là thịt heo mà họ làm bằng bột không à. Họ cũng nhuộm nào là da heo, nào mỡ rồi nào nạc, họ làm tùm lum ra. Thật sự là thôi, dẹp cái đó đi! Thấy nó như vậy mà còn nuốt được thì nuốt làm sao được? Vậy mà người ta ngồi đó người ta nuốt, gọi là ăn chay! Phật nói thấy là không ăn mà, mặc dù thấy cái đó là không thật đi nữa mà thấy là miếng thịt con heo,  con gà là nhất định không nuốt được.

Còn các con biết không, người ta lấy mỳ căn, người ta xé xé ra giống như là thịt gà mà xé vậy, người ta trộn ba cái rau răm vô người ta nói làm gỏi gì đó. Trời đất! Thực sự mình ăn chay, đừng có làm cái điều đó! Làm như là xé thịt gà mà trộn gỏi vậy đó! Thiệt là những cái người đời họ ham ăn thịt chúng sanh, rồi bây giờ ăn chay rồi không dám nín, bây giờ mới làm ra những cái đó để làm những cái ảo giác chứ gì? Chính chúng ta nuốt vô cổ của chúng ta, cái ngon ở miệng chúng ta là cái ảo giác thực phẩm rồi. Nó đâu có thật? Nó là thứ bất tịnh, nó là những món ăn bất tịnh cho chúng ta. Cho nên hằng ngày chúng ta đặt những cái thực phẩm trước mặt chúng ta tu là vì chúng ta quán xét bất tịnh cho nên chúng ta không còn chấp nữa. Còn quý thầy không chịu đặt cái niệm bất tịnh, cái thực phẩm bất tịnh thì quý thầy nay thèm cái này, mai thèm cái kia, mốt muốn ăn cái kia, cái nọ, đều là chúng ta thiếu tu tập. Nếu mà chúng ta tu tập cái Định Vô Lậu mà đặt cái niệm đó trước mặt, hằng ngày thực phẩm đến với chúng ta chúng ta không thèm đâu. Chúng ta coi nó như là một cái món thuốc để cứu cái bệnh đói của chúng ta. Đúng là Phật đã dạy chúng ta tu tập như vậy đó! Nhưng vì chúng ta không biết pháp hành cho nên bây giờ đến cái ngày giờ này chúng ta vẫn thèm, vẫn ăn, vẫn khát, muốn ăn cái này, muốn ăn cái kia. Hầu hết là quý thầy, các Hòa thượng đều là bây giờ đang sống trong cảnh đó, cho nên khi mà biết các vị kia nào là bệnh thế này thế khác, ung thư đủ thứ cũng đều là nuốt ba cái đồ độc, cái ảo giác ngon ngọt vào trong cổ họ chứ gì. Làm đồ ăn bỏ ba cái bột ngọt đầy ở trong đó, nuốt cho ngon cái miệng chút mà cuối cùng để mang cái thân rất là khổ sở. Hầu hết là các bậc Hòa thượng, các bậc Tôn túc của chúng ta chứ ai. Ông nào cũng méo miệng, nhăn răng hết khi mà sắp sửa chết. Thầy nói đây, các thầy cứ để mắt mà nhìn coi có không? Tại sao mà chúng ta tu hành mà bây giờ tay chân chúng ta run run thế này, như giò gà vậy? Có phải chúng ta nuốt ba cái đồ độc không bây giờ gân nó mới giật, chứ nếu chúng ta không nuốt ba cái đồ độc thì làm sao mà giật chân, giật tay như vậy? Bởi vì cái miệng háu ăn cho ngon mà tạo cho cái thân chúng ta tội biết bao nhiêu. Người ta không có thấy được! Bởi vậy đức Phật nói dục là khổ, ham nó là khổ mà không thấy, ly nó ra đi, tại sao không ly? Cho nên vì vậy không ly thì làm sao nhập được sơ thiền? Cho nên không thể nhập được sơ thiền, nội cái ăn thôi của chúng ta làm sao mà nhập sơ thiền không

“Này Jivaka, người nào vì Như Lai hay đệ tử của Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân”.Đó, người nào mà vì Như Lai, vì đệ tử của Như Lai mà giết vật để cúng dường thì đó gọi là phi công đức. Ta thấy bài kinh này rất rõ ràng. Phật nói đừng có giết hại chúng sanh mà đem cúng dường được phước đâu. Người nào mà làm cái điều đó là phi công đức đó! Nó có năm cái nguyên nhân, năm cái nguyên nhân nào, thế nào? Năm cái điều kiện mà xảy ra, một cái người đó mà tạo cái điều ác đó.

Cái nguyên nhân thứ nhất là:“Khi người ấy nói như sau: - Hãy đi và dắt con thú này đến. Đó là nguyên nhân ác thứ nhất, người ấy chất chứa nhiều phi công đức.” Ờ, lúc bấy giờ mình muốn làm thịt một con vật chứ gì, vậy thì phải bắt con gà, trói chân nó lại. Lúc bấy giờ bắt con gà, trói chân nó lại thì nó có đau không? Đau chứ! Nó đang đi như vậy mà bây giờ chúng ta làm như vậy. Cho nên Phật nói là “Hãy đi và dắt con thú này đến chỗ đó”. Bây giờ chúng ta làm thịt con bò hay con heo tức là chúng ta phải cột cổ nó, lôi nó đi chứ gì? Thì đó là cái phi công đức, tức là cái nguyên nhân ác thứ nhất, nó là cái phi công đức thứ nhất.

Cái thứ hai là“Con thú ấy đã bị dắt đi, vì bị kéo, lôi nơi cổ nên nó cảm thọ bao nhiêu đau khổ, nhức nhối. Đó là nguyên nhân ác thứ hai, người ấy chất chứa nhiều phi công đức”. Không có công đức gì hết, nghĩa là bây giờ chúng ta muốn làm thịt con bò để đãi Phật và đệ tử của Phật chứ gì, bây giờ bắt đầu phải nắm cái dây cột cổ con bò lôi đi, lôi lại cái chỗ mà chúng ta đập nó chết rồi mới cạo lông nó được. Do đó, khi mà lôi con vật thì thử hỏi các thầy thấy con vật có đau không? Đó là Phật nói cái phi công đức thứ nhất. Đó, nó có công đức gì không? Phi là đâu có công đức gì đâu, mà nó là sự chất chứa những cái ác, nhiều cái phi công đức chứ không phải là một!

Phần thứ ba:“Khi người ấy nói hãy đi và giết con thú này, đó là nguyên nhân ác thứ ba, người ấy chất chứa nhiều phi công đức”. Như vậy là bây giờ dẫn con thú ấy đi rồi bây giờ mới đâm vào cổ con thú ấy cho chết, cho máu nó ra đi rồi mới làm thịt nó đi, thì đó là cái phi công đức, cái ác thứ ba, nhiều cái phi công đức, không có công đức gì hết!

Thứ tư:“Khi con thú ấy bị giết, cảm thọ đau khổ, đây là nguyên nhân ác thứ tư, người ấy chất chứa nhiều phi công đức”. Nghĩa là, làm cái hành động đó là chất chứa nhiều cái phi công đức. Nghĩa là đem cúng dường cho Phật hay cúng dường cho chư tăng đệ tử của Phật thì cái người đó đương nhiên là không có công đức gì hết, mà lại còn chứa nhiều cái ác nữa.

Cái thứ năm:“Khi người ấy cúng dường Như Lai hay đệ tử của Như Lai một cách phi pháp như vậy, đó là nguyên nhân ác thứ năm, người ấy chất chứa nhiều phi công đức”. Đó, các thầy đã thấy chỗ này chưa?

Bài kinh này rõ ràng là ở trong kinh Trung Bộ, rất là rõ ràng, Phật dạy rất rõ ràng, không phải là Thầy đặt ra. Để khi có dịp quý thầy sẽ nghiên cứu lại bài kinh này. Ở đây, toàn bộ những cái kinh điển của giáo lý của đức Phật, Thầy đã thấy được cái pháp hành và cái pháp mà dạy từ cái ăn chay, từ cái mà chúng ta tu Tứ vô lượng tâm Từ - Bi - Hỷ - Xả, ngay từ cái chỗ chúng ta ăn, đức Phật đã dạy cái này thì Thầy thấy thật là tuyệt vời vì đem lại cho chúng ta có được cái lòng thương yêu rất là rộng lớn và cái người nào mà làm sai.

Cho nên cái hàng Phật tử mà hằng ngày họ đem cúng dường, họ sớt bát cho quý sư, cho các vị sư bên Nguyên thủy, hằng ngày họ làm thịt, làm cá, họ giết hại như vậy. Đọc trong cái bài kinh này thì có phước báo không? Không có phước báo gì hết! Như vậy là hoài công của họ đến với đạo Phật! Hằng ngày phải tốn mồ hôi, nước mắt mà như là bỏ cái hạt giống ở trên cái vùng đất dầu ấy, làm sao mà lên được? Các con thấy không? Các thầy thấy rất rõ cái bài kinh này nói phi công đức, là năm cái điều kiện mà đưa đến cái miếng ăn cúng dường Phật rồi thì nó không có công đức gì ở đó hết, hoàn toàn là tội ác và phải chịu tội ác thôi, không bao giờ mà có thể chạy trốn đâu khỏi cái tội ác đó!

“Này Jivaka, người nào vì Như Lai hay đệ tử của Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy sẽ chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân này”.

Bây giờ đó thì các thầy thấy bài kinh nói tới đây là nó sẽ chấm dứt đó, nhưng mà cái người mà được nghe bài kinh này họ tán thán và cơ ngợi Phật hết sức và hết sức và Thầy đọc đến cái chỗ này Thầy thấy đúng là cái người tu Tứ vô lượng tâm đúng cách. Vì đạo Phật có Tứ vô lượng tâm Từ - Bi - Hỷ - Xả, thế mà thực hiện thiếu cái Từ - Bi - Hỷ - Xả đó và Phật có một cái nẻo là Chánh mạng, nuôi cái thân mạng của chúng ta chân chánh thì không thể nào mà đem những cái thực phẩm ác mà nuôi thân mạng của chúng ta được.

Đó, chúng ta thấy qua cái bài này, đây là kết luận của cái bài kinh do vị cư sĩ Jivaka này tán thán. “Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, các Tỳ kheo thật sự thọ dụng các món ăn không có khuyết phạm. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng”. Đó là kết luận của cái bài kinh đó.

Như vậy thì quý thầy thấy rất rõ ràng là khi các vị Tỳ kheo thọ cái món ăn đó, không bao giờ có cái khuyết phạm trong cái tội lỗi nào hết. Nghĩa là người ta để thịt cá dẫy đầy nhất định là không ăn, không ăn là không ăn. Mình ăn những cái vật gì mà không có làm cho chánh mạng của chúng ta trở thành tà mạng, còn không nhất định là chúng ta không ăn. Còn Cái gì chúng ta ăn mà nuôi được cái chánh mạng thì chúng ta ăn. Cho nên, thực sự khi đọc qua bài kinh này, Thầy nghe nói trong cái thời đức Phật người ta cho thịt, cho này kia, chắc chắn là đức Phật không có mang về đó, bây giờ cái ngày đó Phật nhịn đói chứ không phải là Phật trả cho cái người cư sĩ đó liền đâu. Nếu bỏ vào thì Phật vẫn cứ mang vào bát, nhưng đến khi mà Phật đến cái chỗ để thọ thực mà thấy toàn là thịt của chúng sanh thì Phật bỏ ra ngoài đất trắng, cũng không bao giờ bỏ lên cỏ, bởi vì lòng Từ của đức Phật không bao giờ làm cho một cái lá cỏ héo mà, cho nên Phật bỏ ở trên mặt đất trắng đó để rồi ai ăn hay con vật gì ăn, mặc tình, chứ đức Phật không bao giờ thọ dụng cái đó để nuôi cái chánh mạng của mình đâu!

Đó, qua cái bài kinh này, chúng ta thấy được cái điều kiện tiên quyết đầu tiên để cho chúng ta thấy từ cái ăn uống của chúng ta mà hầu hết là quý thầy đã sai, nhất là bên Nguyên thủy gọi là tu theo gốc của đạo Phật mà cái ăn uống này họ luận theo cái kiểu của họ và thường lẻo mép để lợi dụng cái thịt của chúng sanh mà ăn, cho nên ông sư nào cũng mập ú bằng cái thịt, xương, máu của chúng sanh hết! Cho nên cuối cùng ông nào cũng chẳng ra ông nào hết! Thậm chí là mấy ông ấy cũng nói là thiền định, trong cái thời mạt pháp này chẳng có ai nhập định được hết, đó là cái gạt người ta. Nếu người ta tu đúng chánh pháp của Phật, ly dục, ly ác pháp, người ta tu Tứ vô lượng tâm thì không bao giờ nuôi cái tà mạng thì cái thiền định của Phật đâu phải là chuyện khó khăn. Thầy nói đâu có phải là chuyện khó, tại vì chúng ta tu không đúng cách cho nên nó khó, chứ còn tu đúng cách thì nó không phải khó đâu.

Bây giờ chúng ta tiếp tục, qua cái bài kinh này, Thầy nhắc lại, đây là cái bài kinh Jivaka số 55 trang 71, tạng kinh Việt Nam, kinh Trung Bộ tập 2. Đó, Thầy nói như vậy là quý thầy sau này cứ ngay cái số đó lật ra cái bài kinh đó thì rõ ràng chứ không có một cái gì khác hơn nữa hết.

Phần giới hành chúng ta chia làm bốn giai đoạn tu tập, nghĩa là trong khi mà chúng ta tiến tới để mà tu tập giới hành thì chúng ta phải hiểu biết nó có bốn giai đoạn để chúng ta tu tập.

Một là thông hiểu những gì cần phải thông hiểu, cũng như Phật đã dạy đó, chúng ta phải thông hiểu, thông hiểu rồi mới tu tập chứ đâu phải như là giới bổn mà hồi nãy mấy ông sư đó nói mình không cần hiểu biết, chỉ cần thọ rồi mình cố gắng mình giữ nó đừng cho phạm thôi. Sự thật là nếu không thông hiểu thì làm sao mà người ta không phạm? Cho nên đó là cái lối lý luận của học giả chứ không phải là cái lối lý luận của Phật pháp được. Cho nên ở đây, đúng là chúng ta phải thông hiểu những gì cần phải thông hiểu. Lúc này chúng ta phải học, hiểu cho rõ, biết cho rõ tất cả những gì chúng ta sẽ thực hành, sau này không còn bị mọi tà kiến, kiến chấp mang đầy ắp trong đầu của chúng ta. Nghĩa là bây giờ chúng ta phải hiểu cho rõ ràng, chứ không khéo thì trong đầu óc của chúng ta bây giờ, một con người làm sao chúng ta không có cái hiểu biết và cái hiểu biết đó là cái tà kiến, cái kiến chấp của chúng ta ở trong đầu rất nhiều. Từ ngày Thầy đọc lại trong kinh Nguyên thủy, kinh A Hàm thì tất cả những gì của kinh Đại thừa nó còn đầy ắp ở trong cái đầu của Thầy. Cho nên nhiều khi Thầy phải đứng ở trong cái kiến chấp đó mà Thầy luận bằng cách này, bằng cách kia mà Thầy phải đọc cả cái kinh Nguyên thủy nữa chứ không phải không đâu! Thầy nói cái này còn thấp, cái này còn nói theo cái kiểu phàm phu tục tử, nhưng cuối cùng Thầy xét thấy không phải là phàm phu tục tử làm được cái chuyện này đâu. Đó là cái bước đầu cho người tu phải tập luyện như vậy mới đúng cách, cho nên từ đó những cái kiến chấp, những cái tri kiến học tập của Đại thừa và thiền Đông độ, Thầy mới được quét sạch ra khỏi cái đầu của Thầy, còn không thì cái thứ đó là làm cho đầy ắp cái đầu của Thầy, nhất là Trung quán luận của Ngài Long Thọ, nó làm cho Thầy cũng đầy ngập ở trong đó, cho nên bao giờ mở ra Thầy cũng đem Bát nhã với Trung quán luận Thầy quét bên đây, Thầy quét bên kia, nhiều khi Thầy đập cả kinh Nguyên thủy nữa, Thầy đập xuống hết nhưng cuối cùng Thầy thấy điều đó là cái điều già hàm, lẻo mép của mấy ông già này chứ không phải. Chính là cái từ đức Phật dạy chúng ta phòng hộ sáu căn, chúng ta đi đến cái chánh niệm tỉnh thức làm cho chúng ta thấy rõ ràng con đường giải thoát, chúng ta bước vô là có giải thoát, còn mấy ông này chỉ có miệng nói chứ chẳng có giải thoát gì được hết. Cho nên cuối cùng Thầy mới quét ba cái tri kiến, tà kiến ở trong đầu đó nó mới sạch chứ nếu không Thầy cũng dính đầy ắp ở trong đấy hết.

Cho nên hồi đầu, mở ra cái gì cũng là Phật tánh, cũng là Bát nhã, cũng này kia không, cái gì cũng là huyễn giả hết, chỉ cần mình không dính mắc nó là được. Nói như vậy là cái pháp hành không có gì hết. Cho nên, cuối cùng dính mắc vẫn hoàn dính mắc.

Ở đây, chúng ta là những người với đầy ắp những tà kiến, những cái kiến chấp ở trong đầu, những cái tà kiến kiến chấp này nó rất độc, nó rất độc chứ không phải nó không độc đâu, nó dính vô đầu chúng ta mà buông nó ra cũng không phải dễ đâu, nó phải có một cái trí tuệ sáng suốt là khi chúng ta phải hành cho được cái gì rồi thì chúng ta mới tin, mới phá nó được! Còn nếu mà chúng ta không có hành được, chúng ta khó phá lắm! Nghĩa là bây giờ mà quý thầy tu chưa tới đâu, những kiến chấp về thiền Đông Độ hoặc là Đại thừa mà quý thầy đã được các vị Tổ mớm cho quý thầy đã hiểu được nghĩa lý của nó rồi và quý thầy chưa có tu giải thoát được thì quý thầy khó mà giải trừ được những cái tà kiến, kiến chấp đó lắm! Khó lắm! Khi nào mà quý thầy tu và đã giải thoát được rồi, quý thầy làm chủ được rồi thì chừng đó quý thầy mới thấy đó là sai chứ còn bây giờ quý thầy vẫn thấy đó là đúng. Cho nên có nhiều người người ta cứ luận để mà hòa hợp, hòa hợp, đó là những cái người ta không bỏ được cái kiến chấp đó, cái tà kiến đó. Người ta muốn hòa hợp giữa Đại thừa và Tiểu thừa là cái kiến chấp của Đại thừa người ta không bỏ được, người ta thấy đó còn đúng là vì những cái người này họ tu chưa có tới đâu hết, cho nên họ chưa có biết cái giải thoát là ở chỗ nào, cho nên họ thấy đó là còn đúng, cho nên họ bỏ cái kiến chấp của Đại thừa và thiền Đông Độ họ bỏ không được. Họ cứ cho rằng mấy ông tổ đó là còn đúng chứ không có sai đâu. Nhưng mà sự thật cái làm được hay không làm được, bây giờ chúng ta tu tập chúng ta làm được rồi chúng ta mới thấy được cách nói của mấy ông đó là sai. Còn khi mà chúng ta chưa làm được thì chúng ta vẫn còn dính đó chứ chưa dám bỏ nó ra đâu!

“Những tà kiến, kiến chấp này rất độc ác, phần nhiều là do pháp tưởng sanh ra của các loại kinh ngoại đạo rồi đầu óc ngu si của chúng ta mê mờ, không rõ, cứ cho rằng chúng ta hiểu là đúng, nên không chịu bỏ, không chịu sửa sai. Do thế tu theo đạo Phật mà lại tu theo tà giáo ngoại đạo, nên cuối cùng luôn luôn phạm giới luật của đạo Phật, đức hạnh không bao giờ có. Đức hạnh của người tu sĩ chẳng ra gì, nhìn ra thì chẳng giống ai, đời thì chẳng ra đời mà đạo thì chẳng ra đạo. Chẳng làm chủ được sinh tử mà cứ ngỡ tưởng là có thể làm chủ được sanh tử, mà cứ tưởng rằng mình có thể nhập vào bản thể chơn như, Phật tánh là sẽ chấm dứt được sinh tử - luân hồi”. Cứ nghĩ rằng mình nhập vào đó là mình có thể làm chủ được liền, làm chủ được sanh tử - luân hồi. Nhưng mà cái nói nhập ấy thực ra là nhập như thế nào thì họ chẳng biết cái cách thức nào mà nhập hết. Rồi bắt đầu họ tưởng ra như vậy, để rồi họ nghĩ ra những cách hão huyền của họ, họ tự gạt họ rồi gạt người khác nữa. “Phật tánh do tưởng nhận ra mà tâm tham, sân, si chẳng lìa được, ngũ triền cái che khuất, thất kiết sử trói buộc mà chẳng thấy, lại bảo rằng đó là tạp khí chưa hết chưa hết, Bồ tát còn tạp khí huống hồ là chúng ta”.

Đó là những cái lý luận của họ đó! Nếu mà họ làm chủ được thì tâm tham, sân, si của họ đâu còn? Ngũ triền cái đâu còn? Thất kiết sử đâu còn trói buộc họ? Thế mà bây gờ họ đã thấy Phật tánh họ, nhận ra Phật tánh họ bằng cái tưởng của họ thôi, cho nên tâm tham, sân, si của họ vẫn còn, triền cái vẫn còn, kiết sử vẫn còn thế mà họ luôn luôn có tham, có sân, có si thì họ lại bào chữa cho họ rằng đó là tạp khí. Họ lại bảo rằng đó là cái thói quen của họ lâu đời rồi, bây giờ có thấy Phật tánh thì cái thói quen đó vẫn chưa hết, phải chờ một thời gian nữa. Không biết phải chờ bao đời nó mới hết? Thầy cũng chẳng hiểu! Nhưng mà bây giờ họ bảo chờ đi, chờ đi, chờ một thời gian nữa thì cái tạp khí nó sẽ hết. Bây giờ mình thấy Phật rồi, một thời gian sau cái tạp khí nó mới hết. Nhưng mà sự thật, đó là cái lý luận của họ để che đậy cái sự không có pháp hành, cho nên họ còn lập luận Bồ tát còn tạp khí huống hồ là chúng ta. Họ lấy cái lý luận là Bồ tát còn cái sân, si, còn chúng ta còn cái sân, si thì chúng ta đâu có đáng kể gì, cho nên cứ cố gắng mà giữ gìn cái Phật tánh đó đi rồi chúng ta sẽ hết. Nhưng mà cuối cùng thì như thế nào? Hằng ngày cứ đắm nhiễm, cứ đắm nhiễm ở trên dục lạc thì thử hỏi tham, sân, si càng nuôi lớn ra chứ có gì đâu mà gọi là giải thoát?

“Thật đáng thương cho những người này, bỏ hết tất cả cuộc đời, không làm lợi ích cho mình, cho người mà chỉ ôm ảo ảnh để rồi đọa ở trong Tam đồ khổ, luân hồi mãi mãi mà không biết”. Họ tưởng là đời này họ làm sư, đời sau họ cũng là tổ nữa, đời kế nữa họ cũng làm tổ nữa, họ tính họ nghĩ rằng họ làm hoài như vậy để họ đi vào trong sinh tử mà độ chúng sanh. Họ cho rằng đời nay chỉ có mình họ là độ chúng sanh thôi, còn hoàn toàn không có ai là có đủ khả năng độ chúng sanh. Thật là tham đắm đến cái mức độ mà Thầy không thể tưởng tượng được! Cho nên họ nói rằng Bồ tát luôn luôn đi vào trong sanh tử vì cái lợi hoằng hóa vì cái lợi ích cho chúng sanh lớn cho nên mới thích đi vô, đi ra sanh tử, cho nên họ chẳng sợ sanh tử. Thật ra họ có làm chủ sanh tử đâu mà họ không có đi vô, đi ra sanh tử?

Đời sống xuất gia của tu sĩ hiện giờ chỉ có y áo và chiếc đầu cạo trọc, sinh hoạt tôn giáo, còn tâm của quý vị thì luôn luôn sống trong dục lạc thế gian. Nghĩa là nhìn cái giới tu sĩ của chúng ta hiện giờ họ chỉ có được bộ y áo với chiếc đầu trọc mà thôi. Còn cái sinh hoạt tôn giáo thì cúng bái, lễ lạt này kia là thuyết giảng người vậy thôi, còn cái tâm của họ là sống trong cái dục lạc thế gian y như người thế gian, không khác chút nào hết. Lời nói này quý thầy cứ xét xem có đúng không? Cho nên giới luật đều vi phạm hết, lỗi nhỏ cũng phạm, lỗi lớn cũng phạm, không có lỗi nào mà họ chừa hết! Đời sống phạm hạnh của một tu sĩ chẳng còn có nữa, nhìn qua cái đời sống phạm hạnh của người tu sĩ không còn có nữa.

Đây, chúng ta nghe Ratthapàla bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, như con được hiểu, lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đình, sống theo dục lạc, thật không dễ gì thực hiện phạm hạnh”. Nghĩa là cái đời sống của người thế gian là người ta sống ở trong cái dục lạc, làm sao mình sống ở trong cái đời sống thế gian mà mình sống cái đời phạm hạnh được? Đó là cái vị cư sĩ này mới trình lại đức Phật. Thực sự là sống trong cái gia đình mình không thể nào sống cái đời sống phạm hạnh như những người tu sĩ được. “Hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc, con muốn bạch đức Thế Tôn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, từ bỏ dục lạc thế gian, sống không nhà cửa. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con xuất gia dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, cho con thọ Đại giới”. Đó, bây giờ cái ông cư sĩ này ông ấy xin đức Phật, ông ấy thấy rằng cái đời sống mà ở trong gia đình không có thể nào mà ly.../…

BĂNG SỐ 47

...Giới hẳn hoi, đàng hoàng mà sống ở trong dục lạc còn hơn ở người  người thế gian thì đâu có trắng bạch như vỏ óc được thì làm sao mà có giải thoát.

Đó là vị cư sỹ này đã xác định cho chúng ta thấy rằng: con đường của đạo Phật phải khác không thể nào giống con đường của thế gian được. Thế mà đạo chẳng ra đạo, đời chẳng ra đời thì quý vị làm sao giải thoát được?

Sau khi được cha mẹ cho đi tu và được Phật chấp nhận xuất gia, chẳng bao lâu Tôn giả chứng quả A-la-hán. Chứng quả xong Tôn giả xin Phật trở về thăm cha mẹ, khi về đến nhà Tôn giả không được sự tiếp đãi mà còn nhận những lời sỉ nhục, tôn giả chỉ nhận được bát cháo thiu của người đầy tớ, nhờ thế mà phụ thân Tôn giả mới đến gặp Tôn giả mời ngài về nhà.

-- Này con thân yêu Ratthapala, có phải con ăn cháo thiu ngày hôm qua không? Con phải về nhà cửa của con đi.

Khi mà cái người con đi tu rồi thì khi về gặp cha mẹ người đó có mừng rỡ không? Họ rất thản nhiên, qua cái hình ảnh của một cái vị cư sĩ này chúng ta thấy này, lâu ngày ba năm sau theo Phật, cho nên lúc bấy giờ tu hành cho đến ba năm sau vị này tu chứng quả A-la-hán rồi mới xin Phật , Phật thấy rằng đúng là cho về được, cho về thăm. Nhưng mà vị này về thăm thì từ khi mà xin đi tu thì gia đình không có cho, cho nên ông này nằm vạ đòi thế này thế khác, cuối cùng thì cha mẹ bằng lòng cho đi là vì thương đứa con một của mình mà thôi chứ không muốn cho nó đi tu, cho nên khi mà về thấy ông này ở ngoài cửa thập thò đó, đi ngang qua cái cửa mà để khất thực xin đó, thì ổng ở trong nhà ổng chửi như thế này:

“Cũng ba cái thằng đầu trọc này nè mà nó làm cho con tao ba năm rồi mà không có thấy nó về”.

Ông chửi như vậy đó. Cho nên đó là ông nói ông về nhà ông là ông bị sỉ nhục là chỗ đó, bị chửi ba cái thằng đầu trọc đó, do đó vì vậy mà ông bị sỉ nhục đó. Vì vậy đó, sau khi đó thì ông đi qua thì có cái đứa đầy tớ trong cái nhà của cha ổng đó mới đem bát cháo thiu mà đem đổ đi, ăn không hết đổ đi thì ông mới kêu cái người đầy tớ đó: “Bà chị ơi ! bà đem đổ cái này vào trong bát tôi đi”, thì cái bà này bà thấy cái vị này này thôi bây giờ trút trong đó đi cái đi về, nhưng mà bà này đến gặp cái vị tu sĩ này thì mới nhận ra là ông chủ nhỏ của mình, cho nên bà ta mới đổ bát cháo vào rồi mới chạy về báo cho ở gia đình hay. Nhưng mà không ngờ khi chạy về báo thì ông ở đây ổng ăn cái bát cháo thiu rồi, cho nên ông cha mới mời , gọi đứa con về, nhưng mà đến mời về thì ông này ông đã ăn xong rồi cho nên ông cha mới hỏi này:

- “Này con thân yêu, có phải con ăn cháo thiu ngày hôm qua không? Con phải về nhà cửa của con đi”.

- “Thưa gia chủ - ông ta không còn gọi cha mình là cha nữa mà ông gọi là thưa gia chủ, coi như là cái người bố thí thôi, coi như cái người cư sĩ thôi, “Thưa gia chủ thôi vừa rồi. Hôm nay tôi đã ăn xong rồi”. Nghĩa là bây giờ có mời gì ông cũng chẳng có thèm trở về đó nữa.

- “Vậy này con thân yêu hãy nhận lời ngày mai đến dùng cơm”, Tôn giả im lặng nhận lời.

Người cha về đến nhà lấy vàng bạc châu báu chất thành đống gọi các người vợ cũ của Tôn giả trang điểm làm cho thật đẹp để mà quyến rũ cho ông ta ở lại, thấy của cải, vàng bạc, thấy vợ đẹp thì ông ta chắc chắn là không có đi nữa. Đúng giờ thọ trai, Tôn giả đến nhà của phụ thân ngồi xuống nơi chỗ đã soạn sẵn. Rồi người cha của Tôn giả trình bày đống vàng và của báu:

- “Này con đây là tiền của cha mẹ, đây là tiền của của bố, đây là tiền của của ông bà tổ tiên, tất cả tiền bạc này là tiền bạc của con. Cha mẹ chỉ vì có mình con mà thôi, nay con đi tu tiền bạc này bỏ cho ai? Con hãy về mà thọ hưởng tài vật và làm việc phúc đức bố thí cho người khác đi”.

Ông cha ông dụ người con như vậy, thì Tôn giả trả lời:

- “Thưa gia chủ, nếu gia chủ làm theo lời nói của tôi, gia chủ hãy đem vàng bạc châu báu này cho vào các cỗ xe, chở ra sông Hằng mà đem đổ xuống dưới đi”.Đó, ông bảo ông cha biểu đem đổ hết của cải này đi. “Vì sao vậy? Này gia chủ vì do của báu này mà làm sầu, bi, ưu, khổ sẽ đến với gia chủ”.

Lúc bấy này những người vợ cũ của Tôn giả người thì ôm chân kẻ thì nắm tay Tôn giả mà nói:

- “Vì thiên nữ nào mà phu quân sống phạm hạnh, hãy bảo cho chúng em biết”,

- “Này các bà chị (ông gọi vợ ông bằng bà chị) không phải vì thiên nữ nào mà chúng tôi sống phạm hạnh”.

Mấy người vợ nghe ông nói tôi không phải vì thiên nữ nào mà tôi sống đời sống phạm hạnh này đâu. Đó, ông trả lời như vậy đó, thì mấy người vợ ông kêu:

- “Trời đất ơi, phu quân đối với chúng em gọi chúng em là bà chị, còn cái chỗ nào để nói nữa”.

Tôn giả nói với phụ thân:

- “Thưa gia chủ, nếu gia chủ muốn bố thí đồ ăn thì hãy bố thí đi chớ có làm phiền chúng tôi nữa”.

Sau khi thọ thực xong tôn giả nói kệ rồi ra đi.

Đó thì các con thấy cái tình cảm gia đình của người ta không còn cái riêng tư nhỏ hẹp nữa, mà cái lòng Từ của người ta đối xử với mọi người bình đẳng như nhau, đó mới chân thật là giải thoát. Còn bây giờ chúng ta lâu lâu ba năm mà về gia đình mừng rỡ chạy ra nắm chân nắm tay rồi an ủi thế này thế khác, điều đó làm chúng ta càng dính mắc ở trong cái sợi dây, cái mạng lưới của tình cảm thương ghét làm chúng ta khó mà giải thoát được. Cho nên khi mà người mà theo đức Phật tu hành rồi thì khi người đó mà đạt quả A-la-hán rồi thì Đức Phật mới cho về nhà chứ không cho về nhà bậy, mà cái người nào lén về nhà là bị cám dỗ hết.

Cho nên sự thật ra khi mà đi tu rồi theo một vị thầy mà thật sự ra thì đời nay rất khó, rất khó. Theo Thầy rồi mà Thầy không bao giờ muốn cho họ rời khỏi Thầy, Thầy muốn làm sao họ sống một bên Thầy, độc cư với Thầy. Sống cho đến khi mà tu chứng rồi thì chừng đó Thầy mới cho ra, còn chưa chứng mà Thầy cho ra trong cái khi mà đang cố gắng để tu tập, cái tâm nó còn yếu khi ra cái tình cảm ở ngoài đời nó cám dỗ và những vật chất ngoài đời nó cám dỗ vô cùng lận. Cho nên khi mà tu hành rồi thì chúng ta biết được từng cái giai đoạn bắt đầu vô và đến cái khi đạt được thì chúng ta mới rời khỏi Thầy. Nếu không mà rời ngang rời ngửa đi chơi chỗ này chỗ kia rồi thì cái người tu sĩ đó kể là hư rồi, không bao giờ mà còn tu được nữa hết.Thật sự là nó khó như vậy chứ không phải là cái chuyện đơn giản đâu.

Cho nên chúng ta nghĩ rằng chúng ta vào tu rồi mà chúng ta còn đi chơi chỗ này chỗ kia thì cái người đó hết tu rồi. Muốn vào tu thì phải chọn một bậc thầy xong rồi, giới hạnh nghiêm túc rồi, đến đó thấy có pháp hành, có lý pháp, có cái hành pháp hẳn hòi bắt đầu chúng ta chấp nhận khép mình ở trong khuôn khổ, theo với Thầy tận cùng năm năm mười năm, chừng nào xong rồi Thầy cho phép thì chúng ta mới rời khỏi Thầy. Còn đằng này chưa gì trong vòng chừng nửa năm hoặc là một năm xin thầy đi chơi một vòng hoặc là về thăm cha mẹ ...thì chết hết. Thầy thấy rất là khó.

Cho nên ở đây Thầy nhắc lại cho quý thầy đến những cái giới hạnh này là những điều mà Thầy dặn bảo rất là kỹ lưỡng. Khi mà không có Thầy thì phải lấy những cái giới luật, những cái giới mà Thầy đã giảng làm cái điều kiện mà trói chặt mình, ở trong cái khu vực nào là quyết chết ở trong khu vực đó, năm năm mười năm đạt được thì mới rời khỏi cái khu vực đó, mà không đạt được thì nhất định thì không ra khỏi khu vực đó. Tạo thành một cái giới đàn, giới tràng cho nó vững chắc như vậy thì may ra chúng ta mới có tu hành tới nơi tới chốn.

Bởi vì mười năm mà Thầy quyết định ở trong am thất, thậm chí như ở trong khoảng thời gian thì các con biết là cái thời gian năm 71 mà Thầy về ẩn bóng mà Thầy tu, thì năm 75 chiến tranh nó tàn khốc chứ đâu phải, khắp đất nước chúng ta mà, nhất là miền Nam, bom đạn như thế này mà Thầy quyết định là không rời thất, Thầy ngồi đó mà bom đạn nó ào ào, máy bay trực thăng nó bắn rốc két, các thầy nghĩ nghĩa là người nào cũng phải chui vào hầm trốn hết à, mà Thầy thì ngồi thiền sừng sững, chết bỏ nhất định là chết bỏ. Đó, như vậy là chúng ta mới thấy được cái gan dạ của cái người tu hành, chứ còn nếu không chúng ta phải rời thất mà bỏ chạy chứ còn không làm sao hết. Cho nên tất cả xóm người ta đều tản cư hết riêng Thầy ngồi trong thất Thầy tu. Cho nên lúc bây giờ đó quân đội quốc gia tấn công vô nó thấy Thầy nó hoảng hồn hết, nói “ Thầy không nằm xuống, máy bay như vậy, súng đạn như vậy mà Thầy ngồi đó à?”. Quý thầy không thấy là ngồi trong góc có tượng Phật, tượng Phật của Thầy ở đằng trước đó, ở trong thất Thầy Thầy để tượng Phật lớn như vậy đó, Thầy ngồi dưới tượng Phật Thầy nói chết là chết dưới tượng Phật, cái tượng Phật nát thì Thầy nát, còn tượng Phật không nát thì Thầy không nát. Mà nó bắn xung quanh tất cả những cái nhà xung quanh, Thầy nói nhà gần gần vậy, cũng như mấy cái thất này cái nhà đó cháy, lửa cháy phừng phừng hết mà cái nhà Thầy ngồi không có cháy. Nên các con biết mà trực thăng bắn rốc-két xuống, bởi vì xung quanh hàng rào vậy mà Cách mạng họ đào hầm đào hố nó nằm dưới nó mục kích iđó mà nó bắn quân đội của quốc gia kia mà. Thành ra hai bên nó chiến đấu dữ lắm, thành ra do đó mà Thầy cứ nằm đó, cả gia đình mẹ Thầy, em Thầy cũng chạy trốn hết à, đâu có dám ở đó nữa, chạy ra cái vùng mà không có giặc. Còn khi mà nghe đào hầm rồi thì họ rút đi hết, dân rút đi hết. Chỉ còn Thầy nói: Bây giờ mình đã hô nhập thất rồi là quyết định mình chết bỏ chứ không có đi, bỏ thất là không được nên nhất định Thầy ngồi Thầy chết, mà không chết đâu các con. Thầy biết chết là chết rồi chứ không phải không đâu bởi bom đạn như vậy mà, Thầy nói nhà cửa người ta cháy sạch, thậm chí như nhà Thầy có cái mái, nó bắn như thế nào mà cả cái mái bay luôn ra ngoài đó mà sao nó không cháy nhà chứ cháy nhà là Thầy cũng chết luôn.

Thầy nói cái oai lực của cái người tu thực sự là cái giới hạnh thật là vĩ đại, cho nên mỗi một người đệ tử mà rời khỏi Thầy, Thầy nói giới hạnh là sẽ cứu các thầy, chính Thầy biết rằng cái giới hạnh cứu Thầy ở trong những cái trận chiến như vậy đó. Cho nên thay vì mấy người lính mà họ tấn công vô được rồi đó, bắt đầu xe tăng thiết giáp nó vô tấn công được thì những cái thằng lính vô họ than “Trời sao ông thầy ông ngồi tu ngu quá trời vậy? Chết mà còn không sợ”. Thầy nói chết ở đâu mà chết, tôi ngồi đây chết gì, mà nó không bắt Thầy nó không có gìhết, rồi nó đi ngang thôi nó bỏ Thầy ở đó luôn. Thì các con thấy cái giới luật rất... Thầy nói cái oai lực của giới luật nó kinh khủng lắm chứ không phải thường đâu. Thầy chỉ nghĩ là mình giới luật thì mình không chết không sợ gì hết, cọp không sợ, súng đạn cũng không, cuối cùng Thầy đạt được kết quả.

Đó thì trên cái bước đường tu hành Thầy nhắc các con khi rời xa khỏi Thầy thì ăn phải đúng cách, oai nghi tế hạnh phải đúng, đi phải nhìn xuống đất thì những cái oai nghi tế hạnh đó không ai làm, đừng có nói rằng tôi phải sống vì cái ông thầy này, họ ăn như vậy tôi phải theo họ ăn như vậy tức là mình bị phá giới. Mặc họ, họ giết chúng ta giết, nhất định là chúng ta ăn một bữa, họ thù chúng ta thù kệ họ, nhưng sau này họ trở thành đệ tử của mình, chứ còn mình theo họ tức là ma đã dẫn mình rồi, mình tùy theo họ, sợ họ có quyền có thế họ hại mình chứ gì. Do đó mình ăn ba bữa theo họ họ mời mình ăn thêm cái gì đó, uống nước gì đó, thì mình cũng tùy cho nó vui lòng nhau đó, gọi là tùy thuận đó, kiểu đó kiểu phá giới của mình. Và vì vậy mình mất giới rồi, thì những người khác họ coi rẻ mình lắm. Và từ đó họ không phục mình nữa, còn mình hẳn hòi giữ gìn giới hạnh đàng hoàng, ăn đúng không phi thời. Giới hạnh của mình đi ra nhìn xuống đất, ai nói gì thì mặc họ, ai nói mình làm bộ làm dáng làm gì. Kệ. Mình chẳng cần thiết.

Thôi đến đây thì quý thầy sẽ nghỉ ăn cơm.

Giờ thầy sẽ trả lời, ở đây thì cô An Tịnh có hỏi Thầy trong sự tu tập, qua cái sự thưa hỏi trong tập nhật ký thời khóa, Thầy thấy có những cái điều kiện rất đáng lưu ý, ở đây Thầy xin đọc lại một đoạn này:

“Bạch Thầy còn về Định niệm hơi thở, Thầy dạy con tập xuất nhập theo hơi thở, con tu tập đầu tiên con thở bình thường là 30 hơi thở, sau con tác ý Hãy thở nhẹ và chậm từ 10 đến 15 phút thì con lại tác ý thở lại bình thường 20 hơi thở rồi xả ra thư giãn, một lúc sau con đứng dậy đi kinh hành và cứ như thế con tu tập hơi thở rất chậm, nhẹ và có sự an ổn thân tâm. Về xuất nhập với hơi thở con cũng đã thuần thục. Như vậy con tu tập có đúng không thưa thầy? Bạch Thầy! Còn về Định niệm hơi thở con cứ tiếp tục thở hơi thở chậm nhẹ 5 giây, mãi đến khi không tầm không tứ để tự các hành nó ngưng hay con còn phải làm gì nữa xin thầy dạy cho con để con tiếp tục tu tập?”

Ở đây về cái phần mà cô An Tịnh hỏi thì tập mà xuất nhập theo cái hơi thở mà con trình ở đây là rất đúng, là vì chúng ta vào thì chúng ta thở hơi thở bình thường. Vì cái hơi thở mà từ lâu chúng ta tập như hằng ngày chúng ta sống đó là chúng ta vào cái hơi thở bình thường. Rồi bắt đầu từ cái hơi thở bình thường đó chúng ta mới điều khiển, chúng ta mới hướng tâm nhắc hơi thở chậm và nhẹ thì bắt đầu nó thở chậm và nhẹ xuống và chúng ta ở trong cái hơi thở chậm và nhẹ đó khoảng độ 10 đến 15 phút.

Ví dụ như bây giờ con cho vào tu 15 phút thì khi bắt đầu mà vào tu thì con sẽ tu khoảng thời gian đầu là 30 hơi thở bình thường, hoặc là có thể con tu 5 phút hơi thở bình thường. Rồi bắt đầu từ cái hơi thở bình thường đó con mới hướng tâm nhắc nó hơi thở chậm và nhẹ, thì trong cái thời gian mà hơi thở chậm và nhẹ cho đến cái mức độ nào đó thì con thấy nó không còn cái sức mà có thể chậm và nhẹ nữa được, thì con sẽ ở tại cái dạng chậm nhẹ của hơi thở đó thì lúc bấy giờ nó sẽ kéo dài. Trước kia mình thở hơi thở bình thường là 5 phút, bây giờ có thể là 10phút hay 15 phút của hơi thở chậm nhẹ.

Đó là cái thời gian mà có thể quy định cho con tu trong thời gian đó và sau cái thời gian mà thở chậm nhẹ như vậy đó thì bắt đầu con sẽ trở ra cái hơi thở bình thường thì khoảng độ 5 phút rồi mới xả nghỉ. Thì cộng lại như bây giờ là nếu mà cái hơi thở bình thường lúc đầu vào 5 phút rồi xả ra cũng trở về cái hơi thở bình thường là 5 phút, tức là 10 phút hơi thở bình thường, kế đó khoảng thời gian ở trong hơi thở chậm và nhẹ nó khoảng 10 hoặc là 15 phút, thì như vậy tổng cộng là 20 phút hoặc là 25 phút, nhưng mà cái khoảng thời gian của hơi thở chậm và nhẹ đó thì 10 hoặc 15 phút, thì quyết định chọn lấy 10 hay 15 phút cái nào cho ra chứ không thể bữa nay 10 phút, lát nữa 15 phút hoặc là hôm nay 10 phút nhày mai 15 phút là không được, mà phải chọn lấy bây giờ 10 phút là 10 phút còn cái kia vô 5 phút rồi xả ra 5 phút, rồi xả ra đi kinh hành. Còn ở trong hơi thở chậm và nhẹ đó 10 phút thì cứ tu tập 10 phút để rồi trong cái khoảng thời gian 10 phút đó chúng ta nghiệm xét xem cái thời gian 10 phút đó chúng ta có hoàn toàn diệt tầm tứ được hay không, còn có vọng tưởng còn tác ý hay không. Nếu mà nó không có một niệm vọng tưởng nào hết, hoàn toàn không có ở trong 10 phút cái hơi thở chậm và nhẹ đó thì lúc bấy giờ chúng ta có thể tăng lên.

Ví dụ như cái thời gian dài tăng lên đặng cho đến khi chúng ta dùng pháp hướng để cho nó tịnh chỉ cái hơi thở nó chậm và nhẹ nữa, đi tới nữa chứ không thể ở đó mà nó ngưng các hành hết được đâu, nó chưa đâu. Cái chỗ mà nó chậm nhẹ ở cái chỗ mới mình từ cái hơi thở bình thường mà đi đến cái chỗ mà hơi thở chậm nhẹ khoảng 10 phút thì nó chưa ngưng đâu. Vì vậy mà chúng ta không thể hướng tâm cho nó ngưng được mà chúng ta còn phải tiếp tục cho nó xem tầm tứ có hết không, nếu cái tầm tứ nó hết thì bắt đầu chúng ta ở trong cái khoảng 10 phút đó, chúng ta có thể tăng lên 5 phút nữa hoặc là tăng lên 10 phút nữa. Nghĩa là bây giờ chúng ta chọn lấy 30 phút, đầu là 5 phút sau xả ra cũng trở về 5 phút hơi thở bình thường thì đoạn giữa nó phải có khoảng thời gian là 20 phút, bây giờ mới có 10 phút à. Con hiểu không? Bây giờ chúng ta có lấy thời gian là 20 phút, trong 20 phút này chúng ta nằm ở trên cái dạng này để mà chúng ta có thể điều khiển cái hơi thở bằng cái pháp hướng cho nó chậm và nhẹ hay hoặc là nó ngưng. Hay hoặc là chúng ta dụng cái này để mà chúng ta tu tập, để chúng ta tỉnh thức ở trong cái giấc ngủ mà chúng ta không còn mộng mị chiêm bao để chúng ta xả 18 loại tưởng, các con hiểu không?

Bây giờ từ cái chỗ hơi thở bình thường, chúng ta lấy cái căn bản của hơi thở bình thường chúng ta cho rằng 5 phút đầu và 5 phút sau chúng ta thấy rằng mình thở hơi thở bình thường không có một cái tầm, tứ thì nó có nhưng mà tầm bây giờ nó không có tức là vọng tưởng nó không có xen vào trong đó được, 5 phút hơi thở bình thường. Và cái khoảng mà hơi thở chậm và nhẹ đó 10 phút hoặc là 20 phút, các con lưu ý phần này, trong khoảng này cái thời gian này 10 phút hay 20 phút thì khoảng này là nó đủ cái thời gian để mà chúng ta hướng tâm nằm trên cái sự yên lặng không tầm tứ này, chúng ta hướng tâm chúng ta nhắc nó tịnh chỉ hoặc là nó chậm và nhẹ nữa, hơi thở chậm và nhẹ để từ đó chúng ta sai bảo, điều khiển cho cái hơi thở nó đi dần. Nhưng mà khi đó chúng ta phải nằm ở trên cái hơi thở này và cái sự yên lặng của cái hơi thở này để mà chúng ta dùng cái pháp hướng để cho nó chậm và nhẹ nữa đặng chúng ta phá toàn bộ 18 cái loại tưởng.

Vì vậy mà lúc bấy giờ chúng ta tập khi nằm ngủ thì chúng ta tập tỉnh thức ở trong khi ngủ để cho luôn luôn lúc nào chúng ta cũng không có ngủ, vì vậy mà không ngủ tức là không mộng mị, mà không mộng mị tức là chúng ta đã xả các trạng thái tưởng. Cho nên khi mà chúng ta hướng tâm để cho các hành ngưng, hơi thở ngưng để nhập Tứ thiền thì đương nhiên là chúng ta hết mộng hết chiêm bao. Chứ còn chiêm bao tức là còn trạng thái tưởng thì chúng ta không có thể nào mà hướng tâm để ngưng các hành và hơi thở được đâu. Bởi vì cái người nằm ngủ mà còn chiêm bao tức là chưa tỉnh thức, mà nằm ngủ không chiêm bao tức là người đó ngủ mà không ngủ đó tức là tỉnh thức, mà tỉnh thức được rồi thì mới xả được hỷ, mà xả được hỷ mới chỉ nhập được Tam thiền thôi. Và nhờ xả hết mộng rồi thì đương nhiên cái trường hợp đó tương đương với Tam thiền và vì vậy mà từ chỗ Tam thiền đó chúng ta nương vào hơi thở này mà chúng ta hướng nó cho nên đến khi đó cái hơi thở nó ngưng nghỉ, các hành ở trong thân và hơi thở nó ngưng nghỉ thì chúng ta nhập Tứ thiền, các con hiểu không?

Nhưng mà chúng ta chỉ có 20 phút thôi, từ 5 phút hơi thở đầu bình thường và xả ra thì 5 hơi thở xả ra thì có 10 phút rồi, hơi thở bình thường tức là cái hơi thở của Sơ thiền. Và đồng thời khi mà cái hơi thở bình thường hiện giờ là chậm nhẹ là cái khoảng đó là khoảng hơi thở của Nhị thiền, các con hiểu chưa?

Vì vậy mà cái khoảng hơi thở Nhị thiền chậm nhẹ trong cái khoảng này thì chúng ta lại tịnh chỉ các mộng tưởng, tức là chúng ta không còn cái chiêm bao nữa, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức khi chúng ta nằm như thế này mà chúng ta vẫn biết hơi thở ra vào, thân của chúng ta không còn nghe thấy âm thanh gì hết hoàn toàn không ngủ mà chúng ta rất tỉnh. Thì lúc bấy giờ chúng ta đã biết được rằng chúng ta đã ly hỷ hết rồi, mà ly hỷ hết thì chúng ta tương đương, mặc dù cái hơi thở chậm nhẹ này không phải là cần phải chậm nhẹ nữa, cũng như bây giờ cái hơi thở của con chậm nhẹ khoảng độ 5 giây hoặc là 6 giây, phải hông? mà cái độ nhẹ của nó gần như con không cảm giác hơi thở nó được, nhưng con vẫn biết hơi thở chứ không phải không biết. Do đó thì có thể con phá được cái mộng cái chiêm bao thì lúc bấy giờ cái hỷ của con sẽ xả được, mà con xả được thì lúc bây giờ ở cái trạng thái khoảng độ 20 phút đó đó con có thể hướng tâm nó tịnh chỉ các hành, nó tịnh chỉ hơi thở nó ngưng thì con sẽ nhập được Tứ thiền. Nên đâu có cần con phải nhập Nhị thiền hay Tam thiền làm gì, nhưng mà ở cái dạng đó con vẫn biết được con sẽ xả được cái hỷ hoặc là con diệt tầm tứ, con diệt tầm tứ là con ở trong hơi thở đó con thấy trong khoảng hơi thở đó con thấy hoàn toàn là không có tác ý này, không có tầm không có vọng tưởng này, nó chỉ có 10 phút thôi hoặc 20 phút thôi đâu có gì nhiều đâu. Cho nên do đó mà con sẽ tiền tới cái chỗ mà có thể làm chủ được sự sống chết rất là dễ dàng.

Nhưng dù sao Thầy cũng nhắc lại là chúng ta phải cố gắng tu tập cái Định Vô lậu, cái định Chánh niệm tỉnh thức, tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ nữa. Những cái phần này là phần rất quan trọng để chúng ta xả cho hết những cái hỷ đó là 18 loại hỷ, mà 18 loại hỷ thì chúng ta mới vượt qua được Tam thiền, chúng ta mới nhập Tam thiền, chúng ta mới vượt qua nó chúng ta nhập Tứ thiền, còn chiêm bao còn mộng mị thì không thể nào mà nhập Tứ thiền được.

Thì hôm nay Thầy trả lời cho con, nhớ kỹ chưa? Về tập như vậy chứ đâu có tăng thêm làm gì, tăng thêm rồi vọng tưởng tùm lum hết, tầm tứ không, tăng thêm cho nó mất công phải không?

Rồi bắt đầu hỏi lại, nghĩa là trong khi mà con dùng cái pháp hướng thì nó là tác ý ra thì nó chưa phải là đúng với cái chỗ mà diệt tầm tứ, cho nên trong khi con thử trong cái thời gian mà thử để xem có thể đi tới cái chỗ dạng nào ở trong bốn cái mức thiền định này, xem thử xem mình có ở trong hơi thở này mình có phải là nhập được Sơ thiền hay không? Bởi vì Sơ thiền thì diệt tầm tứ mà giờ con cứ nằm đó con tác ý hoài à thì tầm nó không có mà cứ tác ý hoài thì như vậy là con chỉ ở trong cái dạng của Sơ thiền chứ đâu phải là Nhị thiền được.

Cho nên bây giờ con về cái hơi thở bình thường con thở, rồi bắt đầu trong vòng 5 phút con mới hướng tâm con nhắc cái hơi thở chậm và nhẹ thì đó là cái hướng tâm tức là con còn tác ý đó. Cho nên lúc bây giờ đó con mới thử mình không tác ý  thử xem cái trạng thái yên lặng này nó như thế nào. Do đó con thấy rõ ràng là cái tâm của con biết cái hơi thở ra và hơi thở vào nhưng mà con không khởi nghĩ một cái gì hết mà không tác ý ra. Thì khoảng độ 10 phút hay là 20 phút con thấy hoàn toàn là không có gì hết tức là không có pháp hướng chứ gì, như vậy là con đã đạt được cái Nhị thiền rồi. Nếu mà con cứ tác ý hoài thì tức là dù cái hơi thở chậm của con đi nữa nó không có hơi thở bình thường nhưng vẫn còn tác ý đó thì nó có một cái định là Vô tầm mà hữu tứ. Thầy có dạy rồi mà, có cái định nó không có tầm nhưng nó còn tứ tức là dùng cái pháp hướng mà tác ý ra đó là nó không tầm nhưng nó có tứ tức nó chưa phải là Nhị thiền vì Nhị thiền tầm tứ nó phải diệt. Cho nên mình muốn thử coi coi cái tâm của mình có còn tầm tứ không, thì do đó mình mới xả cái pháp hướng đi, mình mới xem xét suốt cái thời gian 5 phút 10 phút 20 phút đó mình thấy hoàn toàn không có thì như vậy là mình biết rằng cái giai đoạn của cái Nhị thiền mình có thể đạt được rồi. Chứ mình không cần nhập nó ở trong đó đâu, mình chỉ còn nương cái đối tượng của hơi thở mà, chứ phải chi mình xả hơi thở sao mình nhập Nhị thiền, nhưng mà mình thấy rằng không có tác ý không có tầm ở trong đó không có tứ ở trong đó thì mình biết rằng mình đã nhập Nhị thiền. Mặc dù là còn cái đối tượng của hơi thở tức là còn nhất niệm nhưng mình vẫn biết được cái tâm của mình. Do vì vậy đó thì mình không có cần mà nhập Nhị thiền, nhưng mình biết là ở cái trạng thái thanh tịnh yên lặng không tầm tứ này là cái trạng thái của Nhị thiền, vì vậy mà lấy cái trạng thái đó, để nằm đó để mà hướng tâm để phá đi cái...làm cho cái tâm của mình nó tĩnh để mà nó phá các loại tưởng nó làm cho chúng ta không có chiêm bao nữa, hết sạch chiêm bao, cho nên khi ngủ nó như thức nó không còn ngủ nữa. Do vì vậy đó mà chúng ta mới tiến tới nhập Tam thiền mới được. Cho nên vì vậy mà Tam thiền thì không có cần mà phải coi còn vọng tưởng hay tầm tứ nữa. Vì Tam thiền hoàn toàn là nó không có tứ không có tầm, phải hông? Nhưng mà trong lúc này trên con đường đi thì chúng ta phải dùng pháp hướng cho nên nó phải có tứ, nhưng mà chúng ta muốn bỏ hồi nào thì nó cũng dễ dàng thôi, bởi vì mình hướng tâm mình làm chủ mình hướng mà, chứ có phải từ đâu mà nó tự tác ý ra đâu, con hiểu chưa?

Cho nên bây giờ mình biết được thì mình hướng tâm mình nhắc để giúp cho cái tâm của mình nó tỉnh thức để cho nó ngủ mà nó tỉnh, nó không có bị mê nó không bị chiêm bao. Do nó hết sạch chiêm bao rồi ngày này qua ngày khác nó nằm ngủ mà không có chiêm bao nữa thì biết là nó đã ly tất cả các hỷ hết rồi, mà ly các hỷ thì tương đương là chúng ta đã nhập Tam thiền, hiểu chưa? Chứ bây giờ cái Nhị thiền thì con phải coi tầm và tứ, con phải biết là không tầm không tứ thì nó mới nhập Nhị thiền mà đến cái trạng thái của Tam thiền thì con thấy rằng ngày này qua ngày khác con nằm ngủ mà con không có thấy chiêm bao thì con biết rằng con đã nhập Tam thiền. Phải không? Bây giờ các con bình thường này các con cứ nằm ngủ mà các con không bị chiêm bao thì các con đã nhập Tam thiền rồi đó, mặc dù các con không nhập Tam thiền nhưng mà cái trạng thái con người các con không chiêm bao là trạng thái của Tam thiền, các con hiểu chưa? Rồi bây giờ đó, các con biết là mình đã ở trong cái Tam thiền rồi thì bắt đầu các con sẽ tiếp tục để mình tịnh chỉ các hành hơi thở cho nó ngưng để cho mình nhập Tứ thiền, các con hiểu chưa?

Cho nên bởi vì vậy các con mới tu tập, bây giờ con ở trong 10 phút này, các con thấy còn có tứ hay còn tầm thì nó chưa xong cho nên là tăng lên là con chết rồi đó. Tăng lên là không làm chủ nổi đâu. Cho nên ở cái thời gian ngắn này mình tập rồi mình xét xem có được không, được thì mình mới tăng lên cho đúng 20 phút thôi không được tăng nhiều, tăng lên 1 giờ 2 giờ làm gì, chỉ giữ chỗ này mà tu cho sạch như co Út bảo là tu làm sao cho nó đừng có vọng tưởng đừng có tầm tứ mình mới tăng, chứ vội tăng quá rồi cái bắt đầu nó tầm tứ nó tác động ở trong đó tùm lum ra thì con tu con dậm chân tại chỗ mất đi. Thay vì cái thời gian bây giờ ở đó con cho cái tập nhật ký thời khóa con ghi là 10phút đến 15 phút phải không? Nhưng bây giờ Thầy lấy cho con là 10 phút thôi, sau khi 10 phút con xác nghiệm được thì con tăng lên 20 phút là căng chứ không được tăng thêm nữa, và ở trong 20 phút này đủ sức có thể mà chúng ta phá được cái mộng tưởng cái chiêm bao, mà phá được mộng tưởng thì tiếp tục chúng ta mới phá được các hành, cho hơi thở nó ngưng. Nó phải đi lần lượt chứ còn chiêm bao mà con đòi mà phá các hành thì cũng không được đâu, Tam thiền chưa được mà đòi Tứ thiền thì sao được, nhảy lớp đâu có được, nhảy lớp học không nổi đâu! Hiểu chưa?

Rồi giờ các con còn hỏi gì nữa không?

Mấy con nghe đây, bởi vì không có thể nào mà các con cứ nương vào cái hơi thở để hít vào thở ra mà gọi là ngủ mà nó hết chiêm bao đâu, không phải đâu. Các con lưu ý cái phần này. Cái phần mà ngủ không chiêm bao đó là do các con tu cái định Chánh niệm tỉnh thức, hằng ngày các con đi kinh hành hoặc làm công chuyện gì đó thì các con luôn luôn giữ cái tâm mình tỉnh thức ở trong các hành động của mình, đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai là các con tu cái Định Sáng suốt hay cái Định chói sáng đó, cái định đó nó làm cho các con giữ được cái tâm thanh thản, cái tâm vô sự, nó làm cho các con luôn luôn lúc nào cũng tỉnh thức ở trong đó. Đó là cái thứ nhất là Định Chánh niệm tỉnh thức rồi chứ gì, cái thứ hai là cái Định Sáng suốt nó làm cho các con luôn luôn giữ được cái tâm thanh thản của mình liên tục, tức là phải tỉnh nó mới liên tục được. Đó là hai cái định và cái cuối cùng thì các con lại dùng cái hơi thở trước cái giờ đi ngủ, ví dụ bây giờ 10 giờ các con đi ngủ thì các con phải dành nó ra 5 phút đầu tiên để mà tập luyện cái tâm của các con. Bây giờ các con đặt cái niệm hơi thở trước mặt này, các con nằm xuống vầy các con đặt cái niệm hơi thở các con nhắc cái tâm, ám thị cái tâm các con trước này, bây giờ cái tâm chưa phải là lúc đi ngủ mặc dù là 10 giờ đi ngủ, nhưng trước khi đi ngủ phải có 5 phút tỉnh thức ở trong giấc ngủ, con nằm xuống bắt đầu hít thở 5 phút, cái tâm phải biết hơi thở ra tôi biết tôi thở ra, hơi thở vào tôi biết tôi thở vô và con nhắc nó như vậy cho đến khi đúng 5 phút rồi con mới xả ra con không nhắc nữa. Bây giờ cái thân và cái tâm ngủ đi, không có được nương hơi thở nữa phải hít thở 5 phút hơi thở rồi ngủ, bắt đầu con hít hơi thở 1 hơi thở 2, hơi thở thứ 3 thứ 4 con thở nhẹ dần dần rồi con ngủ.

Đó là con tập con làm chủ cái ngủ và đồng thời con tập con tỉnh thức ở trong giấc ngủ, rồi lần lượt con tăng dần lên, tăng dần lên, con bảo bây giờ cái thân này này nằm ngủ thì cái tâm phải biết cái hơi thở ra vô chứ không được ngủ, con nhắc  vậy con biết cái hơi thở ra vô, mà cái thân thì nó cứ ngáy khò khò nó ngủ. Như vậy là con đã không…, Bởi vì cái tâm mà nó tỉnh thức ở trong đó thì nó không có chiêm bao, mà cái thân này nó ngủ thì đâu có chiêm bao được các con hiểu chưa? Cái thân này nó ngủ thì tại sao con biết là nó ngủ, tại vì cái thân nó ngủ nó không nghe tiếng động, mà cái tâm thì nó chuyên nhất ởtrong hơi thở, cho nên mình nằm đây mình ngủ…, ông Phật ông nằm đây ông ngủ suốt đêm, ông nói ông ngủ mà ông không có ngủ, ông tỉnh ở trong cái hơi thở của ổng, cho nên ông thức dậy thì ông ngồi thiền mà không thì ông đi kinh hành. Còn mình nằm xuống cái thì quên mất, quên mất hơi cái chiêm bao rồi thấy tùm lum đủ thứ hết. Chợt giật mình thức dậy thì mới biết nó là chiêm bao, nhưng mà hầu hết là chúng ta phải tập nó mới được.

Thì như nãy thầy nói là tập Chánh niệm tỉnh thức, thứ hai là Định Sáng suốt, thứ ba là tập cho nó ngủ mà tỉnh thức ở trong đó, có 3 cái điều kiện tập. Chứ không phải bậy giờ cứ tập hơi thở không như các con Định niệm hơi thở rồi như vậy nó tỉnh thức là không được đâu, như vậy là nó thiếu chứ không đủ đâu, nhớ chưa?

Nhớ thì mỗi đêm vậy trước khi ngủ phải dành ra cho nó 5 phút để cho nó tập ngủ trong tỉnh thức cái đã, bắt đầu là cái thân này nằm ngủ đi, mà cái tâm thì nó biết hơi thở nha, 5 phút à mà sau 5 phút rồi ta cho luôn cả thân và tâm ngủ luôn, cho quên luôn, cứ như vậy tập riết nó rồi  lần lượt tăng dần tăng dần lên. Tới khi đó cho bây giờ cái thân bắt đầu ngủ đi, ngủ tới 2 giờ rồi thức dậy nha, còn cái tâm thì phải biết cái hơi thở, cho đến chừng 2 giờ thì ta dậy thì dậy đi không có ngủ nữa. Đó là mình tự tập luyện để mình sai nó mà. Vì vậy cho nên bây giờ mình dùng cái pháp hướng, tại sao con bây giờ con nằm xuống con dễ ngủ lắm, từ hồi 7 giờ cho đến10h mình đã tu tập mình đi kinh hành mình đã mỏi mệt rồi nên nằm xuống nó dễ ngủ. Do vì vậy đó cho nên khi mà nằm xuống thì mình phải hướng hơi thở ra tôi biết tôi thở ra, hơi thở vô tôi biết tôi thở vô, mình nhắc nó như vậy rồi chừng thở 2-3 hơi thở cái mình nhắc nó nữa. Chứ không nhắc nữa nó ngủ luôn à nó không biết hơi thở ra vô nữa, nó đi theo hơi thở rồi nó đi luôn nó không cần biết gì nữa, cho nên phải nhớ nhắc cho đến khi đúng 5 phút rồi mới bắt đầu mới nhắc thôi bây giờ cái thân và cái tâm ngủ đi cho phép ngủ đi, chứ giờ tao không bắt mày tập trung trong hơi thở nữa, do đó cho nó thở chừng 5 - 3 hơi thở cái nó ngủ, mà ngủ rất ngon không hề chiêm bao nữa đâu. Đó thì tập như vậy thì các con sẽ làm chủ được cái ngủ, nhớ chưa?

Bởi vì trong cái Định Vô lậu nó không phải là cái Định Sáng suốt mà nó cũng không phải là định Chánh niệm tỉnh thức, cái định Chánh niệm tỉnh thức với cái Định Sáng suốt thì nó trợ giúp cho cái Định Vô lậu để nó phóng ra cái tri kiến mà nó phá cái lậu hoặc, nó làm cho cái tâm chúng ta không còn tham sân si nữa, nó không còn ngũ triền cái, nó không còn thất kiết sử nữa, cho nên cái tâm được an ổn trước mọi cái ác pháp mà nó không bị lôi cuốn nó bị làm say đắm. Cho nên do vì vậy mà cái Định Vô lậu nó không phải, cái Định Vô lậu là cái định quét sạch cái tâm phiền não, cái tâm đau khổ của chúng ta. Còn cái Định Sáng suốt, cái Định Chánh niệm tỉnh giác định và cái tập ngủ tỉnh thức ở trong cái giấc ngủ đó là để chúng ta có cái sức tỉnh thức để mà chúng ta phóng ra những cái tri kiến giải thoát của chúng ta để phá đi cái lậu hoặc. Cho nên mấy cái định này nó chỉ trợ giúp cho cái Định Vô lậu chứ không phải là cái Định Vô lậu trợ giúp cho cái này, con hiểu chưa?

Còn cái Định Vô lậu thì nó trợ giúp cho cái Định hiện tại an lạc trú các con hiểu chứ? Bởi vì cái Định Vô lậu nó quét sạch lậu hoặc, nó làm cho cái tâm chúng ta ly dục ly ác pháp, phải không, nên nó mới nhập được Sơ thiền, vì vậy cái Định Vô lậu thì nó trợ giúp cho chúng ta nhập cái Định hiện tại an lạc trú, tức là nhập bốn thiền, từ Sơ thiền đến Tứ thiền. Mà cái Định Chánh niệm tỉnh thức và Định Sáng suốt với cái tập mà tỉnh thức ở trong giấc ngủ ấy thì nó chỉ trợ giúp cho cái Định Vô lậu, các con hiểu chưa? Chứ nó không có trợ giúp cho cái Định mà hiện tại an lạc trú mà nó trợ giúp cho cái Định Vô lậu là để quét sạch cái lậu hoặc làm cho  cái tâm ly dục ly ác pháp đạt được để mà đi vào trong cái định hiện tại an lạc trú, các con nhớ không?

Và khi mà tại sao chúng ta lại tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ? Là vì chúng ta tập cái tỉnh thức ở trong giấc ngủ để chúng ta biết được lúc bấy giờ chúng ta tu tập cái Định hiện tại an lạc trú đó nó ở trong cái Tam thiền hay là ở trong cái dạng nào đây để chúng ta đi tới cái mà chúng ta tịnh chỉ các hành để mà chúng ta nhập Tứ thiền? Chúng ta thấy không còn mộng, mà không còn mộng thì chúng ta mới biết rằng mình đã hết chiêm bao, do đó mình mới biết rằng các loại tưởng mình đã vượt qua được rồi, còn mình còn chiêm bao tức là mình còn tưởng, còn mộng tưởng là còn chiêm bao, mà còn chiêm bao tức là còn dục tưởng nó chưa sạch. Cho nên chúng ta biết là còn chiêm bao là chúng ta chưa nhập Tam thiền, mà bây giờ tỉnh thức suốt đêm vậy con nằm mà con thấy cái thân ngủ mà nó ngáy khò khò nó không hay biết cái gì hết mà cái tâm con luôn luôn biết hơi thở ra vô, thì như vậy là con biết con hết chiêm bao rồi, mà con hết chiêm bao rồi thì như vậy là con biết là con đã ở trong cái trạng thái của một người nhập Tam thiền. Vì vậy bây giờ con mới biết mình ở Tam thiền rồi mình đi tới nữa là mình phải nhập Tứ thiền chứ, không lẽ bây giờ mình chưa biết mình ở Tam thiền thì sao mình nhập Tứ thiền được phải không? Mình biết mình được ở Tam thiền rồi thì bắt đầu mình mới hướng tâm mình nhắc cái hơi thở cho nó ngưng, các hành ở trong thân phải ngưng thì lúc bây giờ nó mới ngưng để chúng ta nhập Tứ thiền. Còn giờ con còn chiêm bao con bảo nó ngưng thì làm sao nó ngưng, con còn một cấp bậc quá xa thì làm sao nó nhảy tới nó ngưng hơi thở được, phải không? Cho nên vì vậy mà mình tập cái ngủ mà tỉnh thức đó để cho mình xác định được các mức của mình có hết cái tưởng hay không, có xả hết cái hỷ, các loại hỷ của tưởng hay không. Mà nếu mình xả được hỷ rồi thì tức là mình đã nhập Tam thiền, mình nhập được Tam thiền thì mình bước tới nữa là Tứ thiền, các con hiểu chưa?

Nó cụ thể nó rõ ràng chứ đâu phải là mơ hồ đâu, cái nào nó ra cái nấy, còn bây giờ các con biết làm sao mà mình nhập được Tam thiền, mình biết làm sao mình đang ở chỗ cái mức nào để mình nhập Tam thiền đây? Thì ít ra mình phải nhập Nhị thiền, mà khi trong cái thời gian mà 10 phút này con dùng hơi thở chậm nhẹ hơn hơi thở bình thường rồi, thì biết là hơi thở chậm nhẹ này thì nó phải ở trong Nhị thiền chứ gì, mà bây giờ có biết hết tầm tứ chưa? mà nó chưa hết tầm tứ tức là chưa Nhị thiền. Cho nên bây giờ hết tầm tứ mà bây giờ con cứ tác ý hoài nó không có tầm mà tác ý hoài nó còn tứ thì nó đâu là Nhị thiền nên con phải xả cái tác ý ra, phải không? Con xả cái tác ý ra thì bắt đầu con thấy luôn luôn liên tục với cái tâm của con với cái hơi thở ra vô nằm trên cái tụ điểm im phăng phắc không có một tầm tứ nào hết, mặc dù biết nó còn hơi thở nhưng vẫn biết nó là Nhị thiền, diệt tầm tứ rồi.

Vì vậy cho nên bây giờ con mới tập đến tỉnh thức ở trong cái giấc ngủ, còn nếu mà Nhị thiền chưa được con tập tỉnh thức trong giấc ngủ thì tập sao nổi, con hiểu chưa?

Làm sao mà con tỉnh thức nổi ở trong giấc ngủ, bởi Nhị thiền là tầm tứ chưa diệt mà bây giờ con tập Tam thiền là tập sao được, làm sao ly được cái giấc mộng của con được. Cho nên phải biết cái trình độ của mình ở chỗ mức độ nào để tập cho nó tới. Cũng như bây giờ con học lớp 1 được rồi conmới lên lớp 2, còn đằng này lớp 1 con chưa xong mà con nhảy lên lớp 2 con tập thì chuyện đó đâu có được, hiểu chưa?

Cho nên khi đó chỉ ở trong vòng 10 phút 20 phút là chúng ta đã xét chúng ta được ở cái định nào và bây giờ chúng ta tiến tới để tu tập cái định nào. Cũng như bây giờ muốn nhập Tam thiền thì phải tu tập trong cái tỉnh thức ở trong giấc ngủ, thân ngủ mà tâm nó vẫn biết vẫn tỉnh táo thì biết rằng chúng ta sẽ nhập Tam thiền được. Còn bây giờ chúng ta ở trong cái dạng của Sơ thiền mà chúng ta biết được cái tâm chúng ta có được ở Nhị thiền hay không là chúng ta phải xem coi thử coi là nó còn tác ý hay không, phải không? Cho nên cái tầm nó không còn tứ không còn thì biết là nó ở trong cái Nhị thiền, thì bây giờ chúng ta đi tới Tam thiền. Còn giờ ở trong cái dạng của Sơ thiền mà tầm tứ nó còn hay hoặc là tứ còn mà tầm hết, thì đây là nó còn ở trong cái định vô tầm mà hữu tứ, thì như vậy là chưa được, chưa phải Nhị thiền cho nên còn ở Sơ thiền. Vì vậy mà cố gắng phải ly dục ly bất thiện pháp nữa, phải tu tập cái Định Vô lậu để quét sạch cái này ra hết thì tức là mới trọn vẹn được cái chỗ ly dục ly bất thiện pháp, để cho mình có Sơ thiền. Mà khi Sơ thiền được rồi thì cái Nhị thiền mới được, các con hiểu chưa? Chứ bây giờ các con chưa ly này mà các con vội cho nó diêt tầm tứ để mà nhào vô Nhị thiền thì không bao giờ được hết, nó vẫn còn vọng tưởng lai rai, chưa hết đâu. Đó các con hiểu chỗ đó không? Đó là cái chắc chắn là con đường tu tập thực sự suy xét chắc chắn là phải như vậy.

Thường thường là các con tu cái định mà để phá cái si là cái Định Chánh niệm tỉnh giác định, tu ở trong các hành động cho nên cái buồn ngủ ns sẽ không đến với các con được, phần nhiều mà các con thấy rằng khi mình nằm xuống cái mình ngủ, hoặc là mình ngồi ghế chơi mình giữ tâm thanh thản hơi nó lặng ngủ đó là cái niệm si nó vẫn còn chứ chưa hết đâu. Cho nên vì vậy đó mà thường xuyên cái người mới tu thì thường chúng ta nên đi kinh hành, đi kinh hành để tập cái tỉnh thức ở trong cái hành động hằng ngày, hoặc làm công việc gì mọi ngày, chúng ta làm cái gì chúng ta liên tục ở trong cái hành động, vì cái hành động đó nó sẽ phá cái si. Và không phải là cái niệm si nó phá…, phần nhiều là chúng ta ngồi không hay nó hay có cái buồn ngủ mà chúng ta làm công việc nó ít có buồn ngủ. Do đó chúng ta nên làm công việc mà chúng ta tập tỉnh thức ở trong công việc đó cho nên cái niệm si lần lượt nó sẽ không còn có nữa, cái niệm buồn ngủ nó không còn có nữa.

Đây là mới cái giai đoạn phá hôn trầm triền miên thôi, tức là cái người mới tu là phải phá cái đó, thì cái giờ giấc của cái người tu đó phải nghiêm chỉnh chứ không thể nào là giờ mình buồn ngủ mình ngủ giờ này thì mình nói để cho khỏe rồi mình tu, như vậy là không được, tu như vậy là sai. Bây giờ thí dụ như các con mới tu từ 7 giờ cho đến 9 giờ thì phải đúng 9 giờ mới được đi ngủ rồi 2 giờ dậy cho đến 5 giờ sáng đi ngủ, giờ nào nó phải ra giờ nấy chứ không có được mà giờ này trước giờ kia sao bữa nay thì ngủ trước, bữa mai thì ngủ trễ thì không có được! Giờ giấc phải nghiêm chỉnh để làm gì? Để cho cái mặt mà buồn ngủ nó lòi ra, cái mặt mà nó ngu si mới lòi ra, và lòi ra thì chúng ta mới tập đi kinh hành,trong khi ban đêm chúng ta cũng phải đi nữa, đi chừng nào mà hết cái giờ đó rồi chúng ta mới vô ngủ và đồng thời khi vô ngủ thì nó không được ngủ đâu, nó nằm đó thôi chứ không ngủ đâu. Vì vậy mà chúng ta phải tập để hướng tâm để dạy cho nó ngủ, nó ngủ cho đúng giờ đúng khắc, một thời gian sau nó mới đúng giờ đúng khắc được. Ví dụ như dậy nó dậy mà ngủ thì nó ngủ. Còn mới đầu nó ngủ trật giờ trật khắc hết, nó không đúng, cho nên nếu một người tu đúng thì giờ khắc người ta ngủ rất đúng không có sai nữa, còn cái người mà tu từ lâu đến giờ mà không có giữ gìn giờ giấc nghiêm chỉnh thì bây giờ vẫn còn ngủ lộn xộn nữa chưa đúng giờ đâu.

Đó ây giờ cái người hiện giờ trong Tu viện chúng ta đó mà giờ giấc mà ngủ đúng hết, đúng nhất, giờ nào ra giờ nấy đúng hết thì chỉ có Mật Hạnh thôi. Chứ còn có nhiều người ngủ trước ngủ sau. Thay vì bây giờ còn có 10 phút nữa thì nó buồn ngủ rồi, thôi gần 10 giờ rồi thôi bây giờ đi ngủ trước chút không sao đâu. Như vậy cũng sai nữa, bởi vì giờ giấc nghiêm chỉnh, kim chỉ đúng 10 giờ hẳn hòi là đi ngủ, chứ còn 3 phút chưa đúng là vẫn phải đi kinh hành chứ không thể bây giờ buồn ngủ quá rồi thôi có 3 phút chắc không sao đâu vào ngủ, cũng không được, phải cương quyết và nghị lực như vậy đó thì chúng ta mới có thể làm chủ được cái ngủ cái si mê của chúng ta.

Cho nên Thầy nói bây giờ ví dụ như muốn ngủ hồi nào đúng giờ là ngủ mà không đúng giờ là không ngủ, thì cái người đó đã luyện tập trong một thời gian rất là thuần thục ít ra phải 2-3 năm mới được như vậy, không tầm thường đâu, cho nên các con thấy không phải đơn giản đâu, cái sự gì cũng phải luyện tập nó mới thành cái chủ động hết, còn không luyện tập thì không chủ động. Thầy biết ở trong chúng người nào ra sao Thầy biết hết, người nào mà luyện được cái gì thì họ luyện tập cái đó, họ đạt được cái đó họ rất mừng cái đó. Nhưng mà cái phần khác họ còn thiếu khuyết chứ chưa phải là thành tựu, như vậy chúng ta cái phần nào mà còn thiếu khuyết thì chúng ta bổ túc thêm cho chúng ta toàn diện được làm chủ hết thì cái đó là cái tốt của chúng ta. Cho nên được cái phần nào thì chúng ta tu, còn mấy con mà tu cứ lừng chừng giờ giấc không nghiêm chỉnh rồi thì sau này nó sẽ không nghiêm chỉnh được, khó lắm chứ không phải dễ đâu, coi vậy chứ giờ giấc rất khó.

Thầy nói như thế này này: cái tâm chúng ta khôn lắm, tới cái giờ mà nó thức dậy cái chuông để đầu giường của mình nó nghe reo thì nó vẫn bóp cái chuông đồng hồ cho nó tắt đi để cho nó ngủ thêm chứ chưa chắc là nó đã thức dậy đâu, nó chưa chịu đâu, nó khó lắm chứ không phải dễ, cho nên chúng ta phải hàng phục nó dữ lắm. Sau khi giờ giấc nghiêm chỉnh rồi thì cái sự tập luyện để phá cái buồn ngủ đó thì chúng ta phải tập trên cái Chánh niệm tỉnh giác, chúng ta tập rất nhiều, siêng năng hằng ngày chúng ta tập để mà phá. Cũng như bây giờ thay vì cái giờ trưa này chúng ta quyết định không ngủ, thì chúng ta phải làm cái công việc gì chứ chúng ta ngồi bậy bạ hơi là nó ngủ đó, không có thể nằm mà nói mình thức được đâu. Có bữa thì thức có bữa nó ngủ, nó không chủ động được cho nên chúng ta nhất quyết phải tập là phải tập. Bây giờ nói trưa không ngủ thì hoàn hoàn là trưa nào chúng ta cũng phải tìm mọi cách chúng ta đi kinh hành hoặc là làm cái gì đó rồi chúng ta tu tập cái Chánh niệm tỉnh thức ở trong đó, lần lượt chúng ta phá cái hôn trầm mới sạch, cái thùy miên hôn trầm mới sạch, và khi sạch rồi thì nó không có tái diễn nữa. Chứ không phải cột chân cột cẳng treo giò chúng ta lên để cho nó đừng ngủ, không phải đâu, đừng có làm cái chuyện là chuyện sai không có đúng, mà nên nỗ lực tu tập ở trong cái Chánh niệm tỉnh thức thì mới phá được cái hôn trầm. Và khi phá được hôn trầm rồi thì nó sẽ được tỉnh thức, nhưng cái thời gian mà chúng ta còn ngủ chứ chưa phải hết ngủ, cái tâm chúng ta còn mê chứ chưa hết mê vì nó còn 18 cái loại tưởng cho nên chúng ta phải tập, tập cho cái tâm nó tỉnh thức, ở trong khi cái thân nó ngủ mà nó vẫn thức liên tục ở trong cái hơi thở mà nó không có mê mờ nữa cho nên nó mới là nhập tới Tam thiền mới được.

(Tu sinh hỏi không nghe rõ).

À, nó còn cái mờ mờ của con thì không được, nghĩa là con nằm ở trên cái ghế này mà con thấy mờ mờ, mặc dù nó chưa thật là nó đi vào trong cái hôn trầm, hoặc là cái thùy miên nhưng mà nó còn lờ mờ là.. (đoạn này Tu sinh hỏi không nghe rõ).

À cái đó thì con nuôi nó đó, kêu là kiểu nuôi đó, không có được mà nuôi cái kiểu đó. Bởi vì thí dụ như bây giờ vừa nhắc nó tỉnh một chút rồi bắt đầu nó mơ mơ trở lại rồi nhắc nó nữa, cái đó không được, cái đó là nuôi cái lười biếng, chứ không phải là gì. Bắt đầu từ đó phải đứng dậy khỏi ghế liền tức khắc, thấy nó có mơ mơ, mình ngồi mà nó rất tỉnh thì ngồi, mà nó có mơ mơ mà nhắc nó tỉnh chút rồi mơ mơ lại thì không có được đâu. Cái này đó là mình nuôi lớn cái… thay vì ngủ thì nó chưa hẳn ngủ mà lại sinh ra cái lười biếng đó, cái mơ mơ là cái lười biếng. Cho nên lúc bây giờ cứ đi kinh hành, đi kinh hành cho thật tỉnh, tỉnh thì tỉnh mà không tỉnh thì thôi chứ không được mà lúc tỉnh lúc mê, thành ra con tập cái kiểu đó nó trở vào một cái trạng thái gọi là hôn tịch, hôn tịch tức là nó mê mờ rồi nó tỉnh, rồi nó tỉnh rồi nó mê, có lúc nó tỉnh có lúc nó mê. Cái đó là không được. Tập như vậy là bị lọt vào trong cái vô kí hôn trầm, nó không đúng rồi.

Cho nên phải phá bỏ cái đó liền, phải đi kinh hành. Thứ nhất là chúng ta phải đi kinh hành, đi kinh hành cho đến khi mà ngồi lại, bây giờ 30 phút ngồi lại mà chúng ta giữ cái tâm thanh thản liên tục mà nó tỉnh táo nó không có bị mơ mơ chút nào hết thì nó mới được, còn nó mơ là không được, nó mơ là lát hơi nữa là nó lặn xuống nó chiêm bao liền, không có được.

Cho nên những cái đó là coi chừng tưởng là mình có thể giữ nó tỉnh, nhưng mà cuối cùng con tu không bao giờ tỉnh được. Thời gian hoài mà không tỉnh đâu, thay vì cứ đi kinh hành cho nó thật tỉnh đi, 30 phút con đi kinh hành cứ thế nó tỉnh, mà bây giờ vô tới hết 30 phút rồi vô nằm ngủ thì cứ ngủ.

Mặt B

À, cái đó là con dùng cái định thì nó không buồn ngủ là phải rồi, con ngồi chơi mà nó buồn ngủ là cái giờ đó chưa phải ngủ, mà con ngồi chỉ là xả nghỉ thì cái đó là phải đi kinh hành thôi, ngồi mà lơ mơ lơ mơ thì đó không phải là tỉnh đâu. Tức là phải biết cái đó là cái sai không đúng thì phải bỏ cái đó đừng có tu cái đó, tưởng là mình ngồi chơi mình giữ nó vậy nó có lơ ma lơ mơ như vậy, không phải đâu. Từ cái định Hiện tại an lạc trú con ngồi vô rất tỉnh không có lơ mơ này, đến cái định Vô lậu con ngồi đặt niệm con quán xét cái lậu hoặc nó cũng không có lờ mờ này, mà bây giờ xả ra nghỉ giờ này chưa phải giờ ngủ, xả ra nghỉ mà không chịu tỉnh thì tức là phải đi kinh hành thôi chứ không nói chuyện ngồi đó mà mơ mơ được.

Đó là phải dẹp thôi, chứ không khéo ngồi đây nó sinh lười biếng đó, mà nó sinh ra lờ mờ lờ mờ nữa, cái tâm không tỉnh. Cho nên nhiều khi chúng ta lại phí bỏ cái thời gian đáng quý này, các con lưu ý. Thay vì trong cái thời gian kia chúng ta các địnhthì thấy nó tỉnh mà đến cái thời gian xả nghỉ lại không tỉnh, cho nên lúc bấy giờ chúng ta lại dùng cái định Chánh niệm tỉnh giác định chúng ta đi kinh hành, chúng ta phải quán sát ở dưới chân của mình để cho cái thời gian suốt 3 tiếng đồng hồ chúng ta tu tập trong một buổi hay hoặc là trong một đêm mà chúng ta tu thì luôn liên tục trong cái thời gian đó chúng ta không mất cái sức tỉnh của chúng ta. Bởi cái tỉnh là đầu tiên, tỉnh giác là đầu tiên mà. Còn cái định gì thì kệ chúng ta không biết nhưng mà còn cái sức tỉnh chúng ta phải đạt được, suốt 3 tiếng chúng ta phải tỉnh, không được mờ mờ, không được mê mê, không được lơ mơ trong đó. Thì như vậy cái kết quả của chúng ta sẽ vĩ đại sau này.

Còn bây giờ mấy con nghe trong cái định Vô lậu đó thì khi đặt cái niệm gì khi mà khoanh chân ngồi kiết già, cho nên ở đây là trong cái thời của đức Phật bảo chúng ta khi mà tu một cái thiền định nào đó thì chúng ta phải chuyên nhất một cái nơi nó phải thanh tịnh, tức là chúng ta phải chọn một cái nơi để chúng ta ngồi yên lặng thì bắt đầu mấy con đã có một cái thất yên tịnh rồi thì bắt đầu mấy con phải ngồi kiết già, rồi mới đặt cái niệm đó ở trước mặt của mình rồi các con trạch pháp ra những cái câu mà để mình quán xét xem nó Vô lậu để xả danh, xả lợi, xả thương, xả ghét, xả phiền  não đau khổ tất cả  mọi cái đều xả ra hết. Do đó mình suy tư mình quán xét tất cả các… để xả cho sạch như  vậy vốn cho mục đích lậu hoặc nó hết tức là chúng ta ly dục ly ác pháp, các con hiểu không?

Và cái điều kiện mà con trình bày cho Thầy thấy thì về trạch pháp cũng như về cái điều kiện con tu thì đúng chứ không có sai, nhưng mà có cái điều kiện là thời gian tu của pháp định này cho đến cái pháp định khác nó phải cho nó rõ ràng ra. Ví dụ như con tu cái định Vô lậu xong rồi con phải xả nghỉ một thời gian kế đó con mới tu tập cái định Chánh niệm tỉnh thức. Trừ ra khi nào chúng ta đang bị hôn trầm đang bị buồn ngủ thì chúng ta phải tu tập cái định Chánh niệm tỉnh giác định liên tục không được rời cái định Chánh niệm tỉnh giác. Còn tất cả các định khác như định Hiện tại an lạc trú về hơi thở, cũng như định Vô lậu, hoặc là Định Sáng suốt giữ tâm thanh thản tâm vô sự thì những cái định đó thì chúng ta tu có cái thời gian nhất định trong mấy phút hay là bao nhiêu giây đó rồi chúng ta xả nghỉ. Bởi vì khi chúng ta tập trung mà chúng ta gom tâm tu như vậy thì nó rất mệt cho nên phải nghỉ nó cách ra. Chứ còn con tu cái định này vừa rồi bắt đầu con tu cái Chánh niệm tỉnh thức định con đi kinh hành rồi quán xét nữa thì nó lộn xộn lắm á, con phải phân biệt cho rõ, vừa đi mà vừa suy nghĩ thì nó lại trật cái pháp môn rồi.Thường thường chúng ta hay đi chúng ta cũng suy nghĩ lắm chứ đâu phải không, cho nên mói mình suy nghĩ như vậy mình tu cái Định Vô lậu trong khi đi nó cũng phóng ra những cái tri kiến suy nghĩ lắm, nhưng chúng ta tu như vậy nó không có đúng cách. Bởi vì cái định Chánh niệm tỉnh thức nó buộc chúng ta phải tỉnh thức ở trong cái hành động chứ không có ở trong cái quán được chỉ có Định mà Vô lậu thì mới dùng cái pháp quán mà thôi, pháp quán và pháp hướng. Còn cái kia nó tỉnh thức ở trong cái hành động rồi nó dùng cái pháp hướng chứ không dùng pháp quán.

Cho nên nó có sai một chút là các con phải thấy được cái chỗ mình tu ở thời gian nào, cái định nào nó ra cái định ấy, bây giờ con ngồi Hiện tại an lạc trú này con nhiếp tâm trong hơi thở thì con phải khéo léo ở trong cái hơi thở cho nó một cách rất là rõ ràng và cụ thể ở trong cái hơi thở của mình, biết từng chút của nó.

Cho nên trong kinh điển của Phật thì có dạy trong cái bài lát nữa các con sẽ nghe, Thầy có phân biệt nó có 4 cái định mà chúng ta khi tu một cái định nào đó thì chúng ta phải rõ ràng cái định đó. Thầy có giảng cái đó để rồi bây giờ giảng lại thì nó thu vào trong băng lại bị lầm đi, lát nữa các con sẽ nghe.

Bây giờ như vậy là con trạch pháp ra những cái câu mà định Vô lậu như vậy là đúng rồi, nhưng cái thời gian mà phân định để tu các cái định thì phải khéo léo hơn một chút định nào nó ra định ấy, hiểu chưa? Thì như vậy là nó đúng cách rồi và mỗi lần mà con tu như vậy là con thấy cái tâm con càng ngày càng có giải thoát, con càng thấy càng ngày càng xả ra, phải không? Vì vậy mà từ hôm mà Thầy giảng cái giáo án này hầu hết là các con đã hiểu được cái định Vô lậu, các con mà tu tập siêng năng mà tu cái định Vô lậu mà quán xét đúng trạch pháp ra thì các con xả tâm rất nhiều, làm cho các con không còn thấy có cái mạng lưới mà ràng buộc của thế gian, của những người thân của mình hoặc là tiền tài danh lợi của thế gian nó trói buộc các con như hồi trước được nữa đâu, nó giảm bớt rất nhiều. Đó là cái sự giải thoát mà các con phải chứng nghiệm tự bản thân của các con.

Hôm trước Thầy có dạy các con thế nào là một pháp, nhưng hôm nay thì Thầy nhắc lại về cái vấn đề này để cho các con biết thế nào là một pháp.

Cái pháp mà đầu tiên chúng ta biết rằng đó là  thứ nhất là ăn, thứ hai là hành. Nghe nhắc đến ăn thì ai cũng ngạc nhiên hết, pháp gì kỳ cục mà chỉ có dạy ăn không à rồi dạy hành thôi không à.

Tất cả ở đây các con để ý:

A - Tất cả các loài hữu tình do các món ăn mà được an trú, cái con vật nào mình là mọi người, người nào cũng phải ăn uống mới có thể an trú mới sống được chứ còn không ăn uống thì chắc chắn là không thể nào mà sống nổi đâu phải không? Cho nên ăn là một cái pháp mà rất là quan trọng chứ không phải là không quan trọng đâu.

B - Tất cả các loài hữu tình do các hành mà an trú, có con vật nào mà không có hoạt động đâu, cái thân nó cũng rung động nó cũng hô hấp, tim cũng đập hết, không có con vật nào mà không có rung động và cái thân của chúng ta nhúc nhích đi tới đi lui rồi này kia đều là động hết.

Cho nên phải nhìn chung là các loài hữu tình thì từ cái ăn từ cái hành mà nó là loài động vật. Như vậy thì chúng ta biết là hai cái pháp này nó rất là quan trọng. Vậy thì bây giờ chúng ta hành như thế nào để mà được giải thoát? Bởi vì chúng ta biết vì hành mà các loài hữu tình nó có hành, mà vì ăn mà các loài hữu tình phải ăn, cho nên ăn như thế nào để mà được giải thoát và ăn như thế nào mà không giải thoát. Đó, bây giờ chúng ta ăn mà chúng ta còn thèm ăn thì có giải thoát không? Đâu có thể giải thoát. Ăn mà không thèm, ăn chỉ coi như là thứ thuốc, ăn để sống thôi đó thì cái đó mới giải thoát.

Cho nên ở đây có một pháp rất là quan trọng cho nên chúng ta thấy về cái ăn rất là quan trọng. Vì vậy hàng ngày chúng ta ăn có một bữa mà không thèm ăn, ăn để sống cho nên chúng ta thấy cái ăn đối với cái loài hữu tình con vật cho đến con người hiện giờ trên thế gian này người ta quá chú trọng đến cái ăn, cho nên người ta tranh với nhau vì cái ăn. Còn chúng ta là người tu sĩ chúng ta dẹp phắt đi cái ăn, ăn chỉ để sống chứ không có còn quan trọng nữa. Đó là cái thứ nhứt mà chúng ta phải tu tập, phải hiểu biết mà tu tập.

Cái thứ hai về hành thì chúng ta phải biết là hành nó có 3 chỗ hành: thân hành, ý hành, khẩu hành, nhưng mà thân hành như thế nào mà để đem lại sự giải thoát? Đời người ta hành không có giải thoát đâu, người ta đánh lộn nhau vỡ đầu chảy máu thì làm sao gọi là giải thoát. Cho nên ở đây chúng ta hành như thế nào để mà giải thoát? Hành tức là chúng ta có 3 chỗ hành, cái thân của chúng ta đừng có làm khổ mình khổ người, cái hành động đừng có làm khổ mình khổ người gọi là hành. Cái miệng chúng ta hành thì đừng có nói lời nói mà làm khổ mình khổ người đó là hành. Cái ý chúng ta khởi nghĩ thì đừng có khởi nghĩ cái hành động của ý làm khổ mình khổ người. Thì như vậy chúng ta phải biết cái hành nó quan trọng đến mức nào, cái ăn chỉ có một mà hành tới ba chỗ lận.

Đó thì chúng ta biết có một pháp rất là quan trọng đó là pháp ăn và pháp hành. Vậy từ đây về sau ta phải cẩn thận trong những cái hành, trong những cái ăn uống.

Thì đó là những cái pháp mà Thầy nhắc nhở cho các con thấy.

Và đồng thời trong những bài trước Thầy dạy có 2 pháp. Vậy thì 2 pháp như thế nào đây?

1. Danh và sắc.

Những cái pháp này theo Thầy thiết nghĩ các con phải hiểu: Danh là cái gì? Sắc là cái gì? Mà ở trong Thập nhị nhân duyên đó, Phật có dạy: Danh sắc tức là cái bào thai của con người, tức là thân và tâm của chúng ta. Sắc là cái thân  mà danh là cái tâm của chúng ta. Cho nên do có danh sắc mà có sự đau khổ cho chúng ta. Vì vậy chúng ta phải hiểu danh sắc nó có phải là bản ngã của chúng ta không? Có phải là cái vật thường còn không? Hay là vô thường? Có phải là thứ không khổ không? Cho nên chúng ta phải hiểu hai cái pháp này: cái danh và cái sắc.

Cái thứ 2 là,

2. Vô minh và Hữu.

Vô minh là như thế nào? Vô minh là mê mờ, không thấy mà trong Thập nhị nhân duyên chúng ta thấy có cái duyên Vô minh và có cái duyên Hữu. Do Vô minh mới sinh Hành, Hành mới sinh Thức, Thức mới sinh Danh Sắc. Chúng ta thấy rõ không, mà có Hữu thì nó mới có Sanh, có Hữu nó mới có Thủ, có Thủ mới có Sanh, có Sanh nó mới có Bệnh tử ưu bi.

Do đó ở đây thì đức Phật ghép hai cái danh từ Vô minh và Hữu. Vì Vô minh như thế nào? Muốn mà phá từ Vô minh này thì chúng ta phải tìm hiểu những gì mà chúng ta chưa hiểu. Chúng ta phải thông hiểu những gì chúng ta chưa thông hiểu. Và khi chúng ta thông hiểu, chúng ta phá vỡ cái Vô minh liền. Cũng như bây giờ Phật nói: Thân thọ tâm pháp của chúng ta là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã. Bây giờ chúng ta tìm hiểu coi nó vô thường chỗ nào? Nó khổ chỗ nào? Nó vô ngã chỗ nào? Phải không? Do chúng ta hiểu như vậy thì chúng ta sẽ không còn Vô minh. Mà không còn Vô minh thì tức là Minh chứ gì? Và khi mà Vô minh nó hết rồi thì cái Hữu có không? Hễ cái Vô minh nó hết rồi, nó Minh rồi thì cái Hữu nó không có nữa đâu. Cho nên nhà cửa của cải tài sản chúng ta đều bỏ sạch hết. Mà cái Vô minh có thì cái Hữu nó có. Bởi vì cái Vô minh nó lầm chấp. Cái bàn này là thật này, cái thân này là thật này. Cái thân này là ngã này, cái tâm này là ngã này. Cho nên nó chấp cái này, cho nên vật nào cũng có hết, nó có tùm lum ra hết. Cho nên nó mới Hữu. Vì vậy mà Phật ghép hai cái danh từ này lại để chỉ cho Vô minh và Hữu. Hễ có Vô minh thì phải có Hữu. Mà không có Vô minh thì không có Hữu. Minh thì chúng ta xả hết, xả hết trắng bạch như vỏ ốc, như một đời sống xuất gia ba y, một bát. Đó thì các con thấy cái chỗ mà Phật ghép từ cái danh từ như vậy để mà chúng ta phá vỡ nó.

Cái thứ 3,

3. Hữu kiến và Vô hữu kiến.

Ở đây đức Phật dạy Hữu kiến tức là có cái kiến, tức là có cái sự suy nghĩ, có cái sự hiểu biết. Mà có cái sự hiểu biết tức là chúng ta có cái Sở tri chấp. Chúng ta chấp cái kiến đó, chấp cái đó. Như bây giờ từ tới giờ nghe người ta nói: Ờ bây giờ có Phật tánh, ở trong thân của chúng ta có Phật tánh, vậy thì ngộ cái Phật tánh đó mà chúng ta ngộ là chúng ta làm Phật, cho nên người ta nói kiến tánh thành Phật. Do đó mình cũng chấp kiến tánh thành Phật. Vì vậy người ta chỉ cái tánh đó là như thế nào, bây giờ mình nhận ra cái tánh đó. Nhưng mà nhận ra cái tánh đó thành Phật rồi nhưng mà cuối cùng thì cái tâm tham sân si chúng ta vẫn còn. Vì vậy mà chúng ta nói: Ủa sao ông Phật bây giờ mình nhận ra rồi mà ông còn tham sân si như vậy? Ai chửi ông cũng giận dữ vậy. Như vậy là ông Phật này thiệt hay giả đây? Cho nên từ đó có cái sự suy nghĩ phá cái Vô minh này đi thì cái kiến chấp đó, cái Hữu kiến đó chúng ta bị bẻ gãy đi. Còn nếu mà chúng ta không có sự suy nghĩ, chúng ta cứ ngỡ rằng ở trong thân của chúng ta là có Phật tánh nè, cái vật này là thường hằng này, nó thường lạc ngã tịnh nè, nó ở trong đó nó thanh tịnh nó thường an lạc ở trong đó, thì do đó chúng ta sẽ bị cái chấp kiến đó và nó làm cho chúng ta mê mờ mà không thấy đó là cái chấp ngã, chấp kiến của chúng ta. Từ đó chúng ta chết điêu chết đứng ở trong đó mà tưởng là mình sẽ đạt được cái đó là mình giải thoát nhưng cuối cùng lại không giải thoát. Ở đây phải thấy rằng, cái Hữu kiến này rất là nguy hiểm.

Vô hữu kiến. Mà khi đã hiểu ra như vậy thì chúng ta xả bỏ đi, thì chúng ta hoàn toàn là không có gì hết. Bởi vậy đến với đạo Phật chúng ta thấy cái gì cũng bỏ hết cho nên chúng ta đâu có gì đâu. Thậm chí như nói Niết Bàn đức Phật cũng nói đâu có cái gì mà Niết Bàn. À bây giờ chúng ta chỉ biết rằng: cái thân của chúng ta, cái đời nay của chúng ta, bây giờ chúng ta làm chủ được như vậy thì chúng ta biết rằng chúng ta chỉ có một kiếp này thôi và kiếp sau chúng ta không có nữa, nghĩa là không tái sanh nữa thôi. Chúng ta chỉ biết như vậy thôi, chứ chúng ta không thấy có Niết Bàn hoặc là có Phật tánh hoặc là có cái gì nữa hết. Bởi vì còn có một cái gì đó tức là còn có cái chấp kiến, tức là còn cái Hữu kiến.

Cho nên ở đây hai pháp ở chỗ này: Hữu kiến và Vô hữu kiến. Nếu mà có Hữu kiến thì không thể nào mà Vô hữu kiến được. Mà Vô hữu kiến tức là Hữu kiến không có, đó phải hiểu. Cho nên phá cái này thì cái kia nó sẽ đạt mà phá cái kia thì cái nọ nó sẽ có. Một cái người mà có kiến chấp rồi thì làm sao gọi là Vô hữu kiến được, các con hiểu điều đó. Cho nên ở đây thì chúng ta phải hiểu hầu hết là các con mang đầy ắp trong đầu mình những cái kiến chấp kinh sách này, kinh sách kia, cho nên tất cả những cái này là cái khó phá nhất, khó phá lắm. Nếu mà không có những cái sự đập phá của Thầy thì chắc chắn các con còn đầy ắp bao nhiêu là cái kiến chấp chứ không phải là không.

À các con nghe từ hồi nào tới giờ, Thầy không có dám động chạm ai hết, nhưng bây giờ Thầy thành lập cái Giáo án xây dựng lại con đường của đạo Phật, đập phá tất cả những cái đó xuống hết thì bắt đầu mới phá được cái kiến chấp của các con. Chứ còn nếu mà Thầy không đập thì cái kiến chấp của con chưa đâu, các con còn nói Phật tánh rõ ràng lắm, còn nói kinh này kinh kia dữ lắm chứ chưa phải đâu, còn nói trí Bát nhã là vô ngại rồi tất cả những cái Bát nhã đó nó sẽ phá đi cái tất cả những cái điên đảo, mộng tưởng, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cách Niết Bàn. Nó phá đi tất cả mọi cái, thành tựu được một cái giả thoát hoàn toàn là cái trí tuệ Bát nhã. Nhưng mà các con cứ kiến chấp những cái đó, nhưng mà cái đó nó cao vời vời, mà sự thật đó cao vời vời của cái tưởng chứ không phải là cái cao gì hết. Cho nên không được cái phá thì các con sẽ ở trong cái Hữu kiến chớ không bao giờ mà Vô hữu kiến được.

4. Vô tàm và Vô quý

Ở đây thì chúng ta cái phần thứ tư này, thì Phật dạy tới nó có hai cái pháp, tức là Vô tàm và Vô quý. Cái người mà không biết xấu hổ và không biết sợ hãi thì cái người đó không thể nào mà theo con đường của đạo Phật mà tu được. Cho nên muốn mà tu cho có tầm và uý, tức là có xấu hổ và có sợ hãi thì chúng ta mới răn chừa những điều ác mà chúng ta mới ngăn chặn nó được. Còn nếu mà làm điều ác mà chúng ta không thấy sợ hãi, tội lỗi mà không thấy nó xấu hổ thì chúng ta cứ mãi làm mà chúng ta không có lo, không có gì hết. Thì do đó cái Vô tàm – vô quý này là cái tâm của phàm phu, là cái tâm của con người ác, họ không có biết xấu hổ, họ không có biết sợ hãi những tội lỗi của họ do nhân quả đưa đến cho họ gánh vác.

5. Tàm và quý.

Thứ 5 là Tàm và quý. Tàm nghĩa là xấu hổ, quý là sợ hãi. Nghĩa là cái người mà có xấu hổ có sợ hãi thì con đường của đạo Phật dễ dàng tu tập, mà thường thường là người ta nói xấu hổ, nói sợ hãi. Nhưng sự thật ra, thì mới đầu chúng ta chưa biết thì chúng ta còn sợ nhưng mà sau đã quen rồi thì chúng ta không sợ. Cũng như bây giờ, thí dụ như các con ở đâu xa lạ mới đến cái Tu viện này, nghe nói kỷ luật như vậy thì mới đầu các con còn khúm núm, còn giữ gìn giữ lắm, nhưng mà sau thời gian ở lâu quen rồi thì các con không có thấy sợ nữa và từ đó các con cũng không sợ hãi kỷ luật ở đây nữa. Nghe nói vậy chứ còn bây giờ thật sự ra các con muốn nói chuyện nhau là các con cứ lén nhau nói chuyện, thì như vậy là cái độc cư ở đây đặt ra thành vấn đề là các con không còn sợ hãi, và các con cũng không biết rằng cái đó là cái xấu hổ của mình khi mình tiếp duyên, mình nói chuyện lén lút như vậy đó là mình không còn xấu hổ. Như vậy là cái Tàm quý của các con chưa có. Cho nên ở đây mình muốn được Tàm quý là mình phải có sự tu tập và rèn luyện nó mới có Tàm quý, chứ không phải khi không mà người ta có Tàm quý. Đó, đó là cái chỗ mà nói đến cái chỗ mà tu tập để chúng ta giữ gìn những cái giới luật, cái kỷ luật cho được thì chúng ta phải tập Tàm và quý.

6. Ác ngôn và ác hữu.

Ác ngôn là cái lời nói dữ, cái lời nói ác, cái lời nói mà người ta đau khổ. Còn ác hữu là cái người bạn ác, cái người mà xúi chúng ta nói lời nói ác, cái người mà xúi chúng ta làm hành động ác, cái người mà xúi chúng ta nói lời ác hoặc là ý nghĩ ác, đó là người ác hữu, người bạn ác.

7. Thiện ngôn và thiện hữu.

Cái lời nói lành, cái lời nói mà làm cho người ta không khổ, mình không khổ thì đó là thiện ngôn. Và Thiện hữu là cái người bạn lành. Cho nên ở đây chúng ta ở gần cái người bạn lành thì chúng ta sẽ có những lời nói tốt, cái lời nói lành, cái lời nói không có hung dữ. Còn nếu mà chúng ta ở gần những cái người bạn ác thì chúng ta sẽ có những cái lời ác ngôn, có những lời nói hung dữ, có những lời nói ác không có những cái lời nói thiện được. Đó là hai cái pháp nó đối chiếu với nhau để chúng ta chọn lấy một trong những cái pháp này.

8. Nhập tội thiện xảo và xuất tội thiện xảo.

Đó bây giờ nhập tội thiện xảo, nghĩa là cái người mà muốn làm cái tội thì họ cũng khéo léo họ làm để mà họ tránh cho người ta chỉ trích họ bằng cách này, bằng cách kia. Cho nên khi mà họ làm cái tội gọi là nhập tội thiện xảo. Khi mà họ... ở trong này Phật dạy xuất tội thiện xảo, khi mà chúng ta làm một cái điều gì thì làm cái điều đó, thí dụ như bây giờ chúng ta làm một cái điều ác thì chúng ta cũng rất khéo léo làm cái việc ác, chứ không phải chúng ta vụng về đâu. Còn bây giờ mà chúng ta làm một cái điều mà không có điều ác thì chúng ta cũng phải khéo léo mới không có làm cái điều ác, cóđiều thiện mới được, thì cái điều ác cũng phải có sự khéo léo mà làm. Thí dụ như bây giờ chúng ta muốn lấy của người ta, ít ra chúng ta cũng phải nghĩ cách này cách kia, chứ không khéo đâu phải dễ đâu, cho nên đó là một cái điều ác. Hoặc là chúng ta muốn nói sao cho người khác tin rằng chúng ta cho người đó, nói xấu người đó mà cho người khác tin thì chúng ta cũng phải thiện xảo để nói làm sao cho người ta tin rằng cái người đó xấu như vậy, cho nên nó cũng là cái thiện xảo để làm cái điều ác. Còn bây giờ trong cái thiện xảo để mà chúng ta làm cái điều thiện, muốn làm cái điều thiện thì chúng ta cũng phải có một cái thiện xảo để mà làm cái điều thiện, chứ không phải là thiếu cái thiện xảo mà làm cái điều thiện được. Cho nên muốn tâm mình được ly dục, ly bất thiện pháp thì nó phải có cái thiện xảo, nó mới có ly, mà không có thiện xảo thì không có ly. Cho nên ở đây muốn làm cái tội thì chúng ta cũng có những cái khéo mà làm cái tội kêu là gian hùng. Còn bây giờ mà muốn không có tội thì tức là chúng ta cũng phải khéo mà sử dụng, trau dồi cái tâm của mình để cho nó không có tội.

Đó là những cái thiện pháp và ác pháp mà trong đó nó đều là có sự thiện xảo ở trong đó.

9. Giới thiện xảo và tác ý thiện xảo.

Ở đây chúng ta thấy sử dụng cái giới hành. Khi mà sử dụng cái giới hành tức là cái pháp nào đó để tu cho chúng ta được giải thoát ở trong cái pháp thiện thì chúng ta cũng phải khéo léo chứ không phải là vụng về mà chúng ta tu tập được. Cũng như bây giờ chúng ta dùng cái pháp hướng mà cái pháp hướng đó lúc bấy giờ chúng ta hướng như thế nào để cho nó đúng, để mà cho nó được hiệu quả. Hầu hết là chúng ta không khéo léo cho nên chúng ta dùng pháp hướng mà không có hiệu quả. Cũng như bây giờ thí dụ như cô Huệ Ân bị nhức cái đầu này, cô khéo léo như thế nào đó, cô nhắc cái nó hết nhức đầu. Còn mình cũng nghe nói vậy, tại sao mình cũng đau cái tay mình cũng nhắc hoài mà nó không hết? Tức là không khéo léo, không thiện xảo đó, tức là không hiệu quả đó. Đó như vậy đó. Cho nên ở đây Phật nói tác ý thiện xảo, khi tác ý cái điều gì ra thì nó phải khéo léo tác ý cho đúng cách. Cũng như tên thằng A mà mình gọi nó thằng B thì thằng A nó đâu có biết nó đâu là thằng Bcho nên nó làm sao nó nghe được? Đó là mình không thiện xảo, không khéo tác ý.

Đó thì trong cái vấn đề mà tu tập tới đây là những cái điều kiện mà chúng ta sắp sửa vào trong cái pháp hành, vào trong cái giới hành. Cho nên chúng ta phải tập những cái thiện xảo cho đúng cách. Cũng như bây giờ hồi nãy là cô Diệu Hảo trình bày cho Thầy thấy thì cái thiện xảo của cô Diệu Hảo thì thiếu thiện xảo. Nhưng mà cái trình bày về pháp tu thì rất đúng, không có sai nhưng mà cái thiện xảo để cho trong cái thời gian mà hành trì thì thiếu thiện xảo. Đó phải nhận ra cái chỗ đó, chứ nếu mà không nhận ra cái chỗ thiện xảo thì tức là chúng ta sẽ tu tập lu bù. Cũng như cô Minh Cảnh mà trình bày cho Thầy tu cái định, tu ngồi giữ cái tâm thanh thản để cho phá cái tâm hôn trầm của mình thì cái đó là không có thiện xảo rồi, cho nên vì vậy mà nó đưa dần đi đến cái chỗ nó tỉnh tỉnh mê mê, nó không có...bởi vì cứ ngồi nghỉ, thôi thì bây giờ mình ngồi nghỉ mình giữ được mức nào hay mức nấy, không ngờ cứ lát chợt nó tỉnh rồi lát nó mê xuống rồi lát nó chợt tỉnh, như vậy là sai. Bởi vì cái thời gian này là cái thời gian chúng ta phải tỉnh táo hoàn toàn xả nghỉ cũng như lúc mà chúng ta đang ở trong cái định Hiện tại an lạc trú hay Vô lậu. Nó phải tỉnh như vậy, tỉnh như trong lúc chúng ta quán xét mà bây giờ ngồi không có quán không có gì hết mà vẫn phải tỉnh như vậy thì như vậy mới đúng. Mà muốn được vậy thì làm sao bây giờ? Không thể ngồi không vậy được? Cho nên phải đi kinh hành. Vì vậy mà chúng ta phải nương vào cái hành động Chánh niệm tỉnh thức, nó mới có sự tỉnh được như vậy. Sau khi nó tỉnh đến cái mức độ nó rồi thì bắt đầu chúng ta ngồi xả ra, nó tỉnh rất tỉnh, nó khỏi cần phải trong cái hành động thì biết lúc bấy giờ là chúng ta mới nên ngồi. Còn bây giờ mà muốn ngồi nghỉ thì cái điều đó là cái điều chết chứ không phải điều sống, vì vậy mà thiếu thiện xảo.

10. Xứ thiện xảo, duyên khởi thiện xảo.

Xứ thiện xảo là như thế nào? Xứ thiện xảo là cái gì đây? À chúng ta thấy nè. Bây giờ chúng ta tu Tứ Niệm Xứ nè, thì cái Xứ thiện xảo là cái thân chúng ta đang tu nè. Lấy cái thân mà tu nè, thì vậy giờ thân hành, hoặc là thân hành nội hoặc là thân hành ngoại, hay là đang ở trong cái nhân tướng hành, hay hoặc là cái đặc tướng hành. Cái nhân tưướng hành cũng là cái thân. Bây giờ ở trên thân quán thân nè mà quán cái hành tướng hoặc là quán nhân tướng hoặc là quán cái đặc tướng nè. Nếu mà quán cái đặc tướng nè thì cái xứ, cái thân của chúng ta là cái xứ mà phải thiện xảo ở trên cái đặc tướng của nó, mà bây giờ quán về cái hành tướng của nó thì ở trên cái thân của chúng ta là cái xứ nè thì phải thiện xảo ở trên cái hành tướng của nó chứ không phải ở trên nhân tướng của nó được hoặc là ở trên đặc tướng của nó được. Các con hiểu điều đó.

Cho nên ở đây chúng ta phải phân tích cho rõ ràng để khi mà chúng ta tu cái định nào thì nó phải ra cái định nấy. Nếu mà bây giờ ở trên hành tướng mà nơi cái thân của chúng ta, tức là cái thân chúng ta đang đi, đang hành. Cho nên vì vậy mà chúng ta tu ở trên hành tướng đó, cho nên trên thân quán ngoại thân là do cái hành động ngoại tu trên cái hành động. Còn bây giờ trên thân quán nhân tướng của cái thân thì cái thân có hành không? Thì nhân tướng tức là nó nằm cái cục thịt nó nằm như vậy rồi quán như thế nào đây? Quán bất tịnh hay quán như thế nào để cho nó ly tham, ly sân, ly si ra, thì đó là tu về nhân tướng. Cho nên mỗi một cái mà Tứ niệm xứ, Thầy nói nó rất là nhiều cái chuyện mà chúng ta cần phải tu, tu ở trong cái hành tướng, tu ở trong nhân tướng, tu ở trong cái đặc tướng của nó. Nó rất khó chứ không phải dễ. Nhưng mà chúng ta biết được thì chúng ta mới có thiện xảo ở trong cái chỗ đó mà chúng ta rõ được từng chút chúng ta tu, thấy được kết quả rất lớn cho chúng ta. Như vậy gọi là Xứ thiện xảo. Lấy cái thân của chúng ta mà ngay hành tướng, đặc tướng, nhân tướng mà chúng ta tu tập thì cái đó gọi là thiện xảo.

Duyên khởi thiện xảo.Bây giờ chúng ta dùng một cái pháp để mà tác ý ra để khởi ra một cái gì đó, để làm cho chúng ta tự chủ được cái điều kiện đó, gọi là duyên khởi thiện xảo. Nghĩa là như cái lý tác ý nào đó thì chúng ta khởi ra cái đó để mà thiện xảo, để làm cho chúng ta đạt được cái kết quả đó. Như bây giờ chúng ta bảo hơi thở phải ngưng nhưng mà lúc bấy giờ cái tâm của chúng ta bây giờ trên nhân tướng hoặc trên hành tướng nè, nếu là trên nhân tướng hoặc đặc tướng thì chúng ta nằm ở trên cái đặc tướng của nó là bây giờ nó ở trong cái trạng thái gì? Cái trạng thái gì chúng ta mới khởi sự thiện xảo cho nó ngưng cái hơi thở thì nó mới ngưng. Mà bây giờ chúng ta không nắm cái đặc tướng nó, không nắm được cái nhân tướng nó hoặc không nắm được cái hành tướng nó mà bảo nó ngưng thì nó không ngưng, các con phải hiểu được điều đó.

Cho nên đến cái lý hành rồi thì cái giới hành, cái pháp hành rồi nó phải nắm từng chút rất là tỷ mỉ để mà chúng ta tiến bước ở trên con đường tu tập, cho nên chúng ta ra lệnh là nó ngưng liền là tại vì chúng ta nắm biết được cái trạng thái đó là bảo nó sẽ ngưng. Bây giờ mình không nằm ở trên trạng thái đó trong cái nhân tướng hoặc cái đặc tướng hay cái hành tướng đó, mình không nằm được ở đó mà mình bảo cứ ngưng ngưng làm sao nó ngưng, các con hiểu được không? Mình phải biết được cái trạng thái chỗ đó bảo nó ngưng là nó ngưng, mà cái chỗ này mình chưa có nằm được, mình chưa có bám được cái tụ điểm này mà mình bảo ngưng ngưng làm sao được? Cho nên các con tu, bảo đừng có nghe đừng có nghe, cái lỗ tai các con nó đang chạy ngoài chợ mà bảo nó đừng có nghe thì nó ở ngoài chợ làm sao nó nghe nó đâu ở đây, cho nên khi đó các con phải biết rằng cái lỗ tai nó đang ở chỗ này nè. Cho nên bắt đầu nó ở chỗ cái điểm này nè thì các con bảo nó đừng có nghe thì nó không nghe. Còn bây giờ nó đi chợ ngoài kia nó chưa có về mà bảo nó đừng có nghe thì nó cứ nghe ngoài kia, ba cái thằng hát Sơn Đông ngoài kia đánh trống nó mê ngoài kia nó đâu có về, nó cứ nghe trống ở ngoài thôi, thì do đó kêu sao được, con hiểu điều đó không? Cho nên nó đi chợ ngoài đó rồi thì bây giờ ở đây có réo nó nó cũng đâu có nghe. Đó vì vậy nói sao cái lỗ tai cứ nghe hoài, không có hết nghe, tại vì nó đang đi nghe trống Sơn Đông ở ngoài.

Đó Thầy nói như vậy để chúng ta biết được cái con đường tu phải thiện xảo, vì vậy mới vô chỗ này các con thấy hai pháp mà cứ thiện xảo, thiện xảo không. Mà trong cái thiện xảo của đạo Phật không phải tự nhiên mà vào định được mà cả một cái vấn đề khi nằm tại tụ điểm nào đó, khi nằm ở trên trạng thái tâm nào đó là biết cái đó nó thuộc về đặc tướng, nhân tướng, hành tướng của nó như thế nào, chừng đó chúng ta ra lệnh là nó ngưng. Nó phải đúng của nó chứ còn các con chưa biết đúng, các con cứ bảo đi, bảo tới già, tới râu mọc như vậy nó cũng không ngưng chứ đừng nói, bảo hết hơi nó cũng không thèm ngưng.

Đó, nói như vậy thì các con sẽ lần lượt các con tu tập tới cái khi mà Thầy dạy 4 cái định ở trong băng Thầy đã dạy rồi, thì phải nắm cho vững cái đó rồi các con mới biết được.

12. Chơn trực và tàm quý.

Chơn trực tức là thẳng thắn, phải nhìn cho thật thẳng ở trong những cái điều kiện tu tập của mình, bây giờ cái thiện là thiện mà cái ác là ác, chứ không có được nói: Ờ cái này vừa thiện vừa ác đâu, không phải đâu, theo kiểu mà lý luận của Bát nhã: sắc tức thị không, không tức thị sắc, không có kiểu đó được đâu. Cái kiểu đó là kiểu gạt kêu là người ta đó thì không có được, mà cái kiểu này nó thiện là thiện nó ác là ác, chứ không phải là nói là sát sanh là bồ đề đó đâu, không được đâu, hay là phóng sanh là giải thoát mà sát sanh là bồ đề thì cái chuyện đó là cái chuyện lý luận của họ, chứ còn ở đây không có được. Ở đây cái gì thẳng thắn là phải nói thẳng, đây là pháp ác là ác, đây là pháp thiện là thiện, chứ không phải nói: sắc tức thị không, không tức thị sắc, thì không có vậy được.

Tàm quý nghĩa là thẳng thắn thì cái mà ác thì chúng ta phải xấu hổ, mà cái thiện thì chúng ta vui mừng chúng ta không xấu hổ ở trong cái việc làm của chúng ta, không có sợ hãi những cái lỗi lầm đó.

13. Kham nhẫn và nhu hòa.

Khi mà chúng ta tu tập cái kham nhẫn, nhẫn nhục được mọi mặt thì chúng ta phải tập được cái tâm trạng của chúng ta phải nhu hòa đối với mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh. Thì hai cái pháp này nó phải ghép chung lại. Nhẫn nhục mà trong lòng cứ hậm hực hậm hực hoài thì cái nhẫn nhục đó không phải là nhẫn nhục đâu, mà cái nhẫn nhục đó chỉ nén tâm mà chịu đựng. Còn cái nhẫn nhục mà thực sự mà kham nhẫn thì chúng ta phải có mặt nhu hòa, phải có cái lời nói nhu hòa, phải có những cử chỉ nhu hòa, chứ không phải là ở ngoài làm cái vẻ nhẫn nhục mà bên trong tức tối muốn đập người ta thì không thể được.

14. lời nói nhu thuận và tiếp đón thân tình.

Nghĩa là khi mà kham nhẫn được và nhu hòa được rồi thì cái lời nói phải tỏ ra rất là nhu thuần chứ không thể nào mà nói cộc cằn, mà nói giật một giật hai, nói như là chấm muối ớt trong đầu người ta thì không có được, mà phải nói nhỏ nhẹ, ôn tồn, nhã nhặn, mà thấy người ta còn giận hờn còn đau khổ thì mình phải dùng cái lời nói còn nhỏ nhẹ hơn nữa và mình tiếp đón họ rất là thân tình chứ không có những đối đãi một cách gay gắt, khó khăn, khó chịu. Cho nên một người tu theo đạo Phật là phải tập hết sức lực tập chứ không phải là nói đơn giản được.

15. Vô hại và Từ ái.

Nghĩa là luôn luôn lúc nào cũng không có làm hại ai hết, nghĩa là không làm khổ một người nào hết. Luôn luôn lúc nào cũng bao giờ có thương yêu họ, từ ái là thương yêu họ không bao giờ mà bỏ một người nào hết, dù người đó là người thù, người đó là người có thể làm cho chúng ta khổ đau, và có thể giết chúng ta nhưng chúng ta vẫn từ ái với họ cũng không làm hại họ tức là Vô hại và Từ ái.

16. Thất niệm và Bất chánh tri.

Thất niệm là mất cái niệm, tức là không còn cái niệm chân chính nữa cho nên từ đó cái tri kiến cái hiểu biết chân chánh của chúng ta nó không còn có nữa, cho nên chúng ta luôn luôn đừng bao giờ giữ thất niệm. Chẳng hạn bây giờ chúng ta đặt cái niệm, cái niệm đó nó phải quán cho tận cùng rốt ráo rồi thì chúng ta mới mất niệm. Cũng như bây giờ mình đặt cái niệm hơi thở mà một lúc có vọng tưởng vào thì mình có thất niệm không? Cái đó là thất niệm rồi đó. Một lúc có cái hôn trầm xen vào thì lúc bấy giờ nó thất niệm rồi đó, bởi vì nó quên mất đi rồi thì đó thất niệm. Thì như vậy là không còn cái chánh tri kiến nữa, cho nên Bất chánh tri rồi, nó không còn sáng suốt nữa, nó mờ mịt rồi. Vì vậy cho nên lúc bây giờ cái người tu luôn luôn không được thất niệm, phải ở trong Chánh niệm.

17.  Chánh niệm tỉnh giác.

Vì vậy mà luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải  giữ tâm tỉnh giác để lúc nào cái Chánh niệm của chúng ta cũng phải hiện tiền. không được mất cái Chánh niệm.

18. Các căn không được chế ngự và ăn uống không được tiết độ.

Ở đây một cái người tu hành mà các căn không chế ngự, mà ăn uống không tiết độ thì không bao giờ mà thực hiện con đường của Đạo Phật được. Nghĩa là các căn chúng ta phải chế ngự nó, con mắt thấy vật gì thì phải chế ngự cho nó đừng có nhìn nhiều. Chẳng hạn bây giờ chế ngự nó là khi chúng ta đi trên con đường này chúng ta nhìn xuống tức là chúng ta chế ngự đôi mắt của chúng ta không có cho nó nhìn qua nhìn lại, cho nên nó không thấy vật gì xung quanh tức là gọi là chế ngự. Còn chúng ta mà nhìn ngó bên này bên kia bên nọ rồi rảo cái lỗ tai nghe người ta ca hát nữa thì cái đó là không có đúng cách. Cho nên đó là phải, cái người mà không chế ngự thì về cái ăn uống họ thì không bao giờ tiết độ, còn cái người màchế ngự được các căn thì cái ăn uống sẽ tiết độ. Thí dụ như bây giờ chúng ta ăn ngày một bữa tức là chúng ta có chế ngự cái thân và tâm của chúng ta trong cái ham muốn của chúng ta, do đó chúng ta mới ăn uống ngày một bữa mới được gọi là có chế ngự. Còn nếu không chế ngự thì bây giờ chúng ta sẽ ăn lén, mặc dù trưa chúng ta ăn nhưng mà chiều hay tối chúng ta sẽ ăn lén cái này hoặc uống sữa cái kia. Điều đó là chúng ta chưa có tiết độ đúng cách thức ăn uống, cho nên nếu chế ngự được thì do đó chúng ta sẽ ăn một ngày một bữa mà không bao giờ ăn phi thời. Đó thì ở đây Phật dạy rất rõ ràng để chúng ta biết rằng sự chế ngự nó kèm theo cái sự tiết độ ở trong ăn uống của chúng ta.

19. Các căn được chế ngự và ăn uống thì được tiết độ.

Nghĩa là sáu căn của chúng ta được chế ngự thì ăn uống sẽ tiết độ nó sẽ không phạm phải những cái giới cấm.

20. Tư duy lực và tu tập lực.

Bây giờ các con đem một cái niệm, trạch pháp ra một cái niệm rồi các con suy tư - gọi là tư duy đó, thì cái sự tư duy trong một lần nó chưa có lực đâu, tư duy hai lần ba lần năm lần mười lần một trăm lần thì nó sẽ trở thành cái lực của tư duy. Khi mà các con đặt quán cái thân bất tịnh, quán cái thân vô thường thì ngay đó cái luồng tri kiến giải thoát nó phóng ra liền rất mạnh, nó làm cho cái lực của các con thấy tất cả những cái lậu hoặc quét sạch ra rất là mạnh. Do một thời gian tu tập hoặc là 6 tháng, 1 năm thì cái lực nó sẽ thực hiện rất là mạnh. Do đó nói rằng tư duy lực, cái lực suy tư của chúng ta nó sẽ trở thành một cái lực, nếu mà người nào mà siêng năng thìnó mới có cái lực đó, còn người nào mà không siêng năng thì nó không có cái lực đó đâu. Đó là cái thứ nhứt.

Hằng ngày chúng ta tu tập đều là chúng ta tư duy ở trên cái định Vô lậu, thì do đó nó sẽ trở thành một cái lực mà tới cái ngày nào đó chúng ta thấy cái lực rất rõ ràng. Khi có một cái gì mà đến đối tượng nó thì tâm chúng ta giải thoát hoàn toàn không còn tham sân si ở trong cái đối tượng đó nữa thì mới biết đó là cái lực tư duy của chúng ta, mà cái lực tư duy của chúng ta là cái gì? Là cái pháp quán, pháp quán tức là cái định Vô lậu. Bởi vì khi đặt cái niệm trước mặt của chúng ta để quán xét thì đó là chúng ta phải tư duy rồi.

Cho nên ở đây thì Phật gọi là tư duy lực và tu tập lực, nghĩa là do cái sự tu tập như vậy đó nó mới tao thành một cái lực mà cái lực này gọi là tư duy lực. Có những cái tên như vậy để chúng ta biết rằng bây giờ chúng ta ngồi chúng ta thấy chưaó gì hết, nhưng mà một ngày nào đó chúng ta sẽ thấy nó đã thấm nhuần cái lý của nó chân thật, vô thường, khổ, không, vô ngã thì chúng ta biết được là bây giờ mình không giận ai nữa hết, ai chửi gì mình không giận, biết được tư duy lực nó đã có rồi, nó đã có ở trong cái pháp quán rồi. Đó, niệm lực và định lực thì niệm lực ở đây thì như Thầy đã nói khi mà chúng ta tạo thành một cái tụ điểm để cho cái tâm của chúng ta nằm yên ở trên đó, từ cái trạng thái yên lặng đó nó đi đến cái trạng thái vắng lặng  vì vậy mà chúng ta vào định nó mới được gọi là có cái niệm lực. Khi mà có cái niêm lực rồi thì lúc bấy giờ chúng ta nằm yên ở trên một cái niệm đó thì cái niệm đó nó phi mất đi nó chỉ còn có trạng thái của định gọi là định lực. Lúc bấy giờ chúng ta chỉ cần ra lệnh hướng tâm nhắc một cái thì cái sức định lực đó nó vi diệu vô cùng, nó làm cho chúng ta muốn nhập định bao lâu thì nó sẽ nhập định bấy lâu.

Cũng như bây giờ Thầy có một cái niệm lực của Thầy tức là cái tụ điểm, bắt đầu Thầy nằm ở trên cái tụ điểm, Thầy năm chặt ở trên cái tụ điểm của Thầy, sáu căn Thầy khép chặt nó, Thầy mới ra lệnh rằng bây giờ phải nhập Tứ thiền 7 ngày đêm, đúng 3 giờ hôm nay ngày thứ 7 là xuất định. Thầy ra lệnh như vậy, bắt đầu từ đó cái hơi thở Thầy nó chuyển động rồi đếnnó ngưng, Thầy nhập vào Tứ thiền 7 ngày đêm, bắt đầu tới 3 giờ chiều ngày thứ 7 đó nó mới xuất định. Thì các con thấy đó là cái định lực, cái sức định lực mà Thầy đã ra lệnh nó làm theo nó không cãi lời Thầy.

Còn cái chỗ mà thầy nằm yên lặng để cho nó tạo thành một cái lực thì đó là cái niệm lực, các con hiểu chưa? Có hiểu như vậy thì cái mà Thầy dạy nó không có đi đến cái chỗ mà các con bị lầm lạc, cho nên các con tu sơ sơ mà không thấy cái niệm lực là cái quan trọng mà dường như Thầy đã nói với các con nhiều lần: nếu mà chúng ta có một cái điểm tựa thì chúng ta sẽ bẩy vũ trụ, và cái niệm lực mà chúng ta có đó đó là chúng ta sẽ bẩy được cái vũ trụ. Và đức Phật đã xác định cái niệm lực là cái gì? Là Tứ niệm xứ. Bốn cái chỗ mà chúng ta tu tập trở thành một cái niệm lực đó là thân thọ tâm pháp của chúng ta. Mình phải xác định cho được cái chỗ mà đức Phật đã dạy, chứ không phải là niệm lực không có, nó có! Nó có là nó tạo thành một cái tụ điểm từ nơi thân của chúng ta mà chúng ta có được một cái định lực vi diệu để có thể bẩy được cả cái vũ trụ này, làm chủ được sự sống chết của chúng ta là bẩy được cái vũ trụ đó.

22.  Chỉ và quán,ở đây chỉ và quán Thầy đã giảng rồi!

23. Chỉ tướng và tinh cần tướng.

Chỉ tướng tức là cái trạng thái ngưng, cái trạng thái ngưng chỉ là nó ngưng mà, cái trạng thái ngưng. Nếu mà chúng ta không thấy được cái tướng ngưng này, cũng như bây giờ bảo hơi thở ngưng mà chúng ta không có nhận ra hơi thở ngưng thì tức là sai. Chúng ta phải thấy được rõ cái trạng thái lúc bấy giờ nó ngưnglà như thế nào. Cũng như bây giờ nói ngôn ngữ tịnh chỉ thì cái ngôn ngữ lời nói chúng ta hoàn toàn không có nói nữa, miệng chúng ta không còn lép nhép nữa, thì như vậy mới gọi là chỉ tướng của cái ngôn ngữ. Còn bây giờ nói: Tầm tứ tịnh chỉ, tức là cái chỉ tướng của tầm tứ, tức là bây giờ không có tác ý ra mà không có khởi một cái niệm gì ra, thì đó mới gọi là tịnh chỉ tầm tứ, tức là chỉ tướng của nó. Và trong lúc mà cái tướng chỉ nó được như vậy đó thì tinh cần tướng. Nghĩa là lúc bấy giờ cái tâm của chúng ta luôn liên tục nó ở trong cái chỗ trạng thái đó liên tục, cho nên nó rất là siêng năng ở trong đó gọi là tinh cần tướng, cái tướng siêng năng tức là nó luôn luôn liên tục nó ở trong đó, cho nên gọi là tinh cần tướng.

24. Tinh cần và không dao động.

Nghĩa là khi mà có một sự tinh cần ở trong một cái tướng chỉ như vậy thì cái tâm chúng ta bao giờ chúng ta cũng phải nhận ra là nó không bao giờ nó có một cái dao động nào ở trong đó hết, nghĩa là không thấy nó có hỷ lạc, khinh an nó làm cho chúng ta thích thú dao động bằng cách này, bằng cách kia. Hoặc có cái thọ làm chúng ta dao động cái này đau cái kia nhức, không phải, không có đâu vì nếu mà có thì nó không phải là chỗ tinh cần nữa mà là cái chỗ sai rồi, nó không có tướng tịnh chỉ nữa đâu, đó là cái trật rồi. Cho nên ở đây những cái lời dạy này, các con để ý lưu ý mà nghe, mà nhận xét qua cái chỗ tu hành. Bởi vì ở đây là cái trạng thái tâm của các con mà chứ đâu phải của Thầy. Thầy chỉ nói ra để các con nhận xét được cái chỗ đó mà các con đi cho nó đúng, chứ còn ai mà đi cho mình được, bởi vì chỗ này là chỗ độc bộ, độc hành để đi đến cái chỗ làm chủ sanh tử của mình thì mình phải hiểu và mình phải đi cho nó đúng cách, chớ còn sai một chút các con sẽ đi không tới đâu.

25. Giới thành tựu và kiến thành tựu.

Ở đây chữ Kiến ở đây là Tuệ đó, chứ không phải kiến là kiến chấp đâu. Giới thành tựu là khi mà cái giới luật, tức là những cái điều giới mà Phật dạy cho chúng ta nó đem đến sự giải thoát cho chúng ta, như bây giờ không sát sanh nè, không làm điều ác nè, không nói láo nè, không vọng ngữ nè, không tà dâm nè, không dâm dục nè. Tất cả những cái này nó mà thành tựu được thì ngay đó là cái trí tuệ chúng ta phải có sự hiểu biết, chớ không phải là nó không ngơ đâu, nó có cái sự hiểu biết. Bởi vì Giới ở đâu thì Trí tuệ ở đó. Mà Giới thanh tịnh thì Trí tuệ thanh tịnh. Mà Trí tuệ thanh tịnh là Giới nó thanh tịnh. Trước kia Thầy có dạy cho các con rồi mà, giới thiệu về giới Thầy đã nói cái đó rất nhiều rồi mà. Cho nên ở đây nhắc lại chữ kiến thanh tịnh tức là Trí tuệ thanh tịnh, chớ không phải, kiến thành tựu giới thành tựu thì kiến thành tựu tức là Trí tuệ thành tựu chứ không phải như hồi nãy chỗ kiến là kiến chấp, kiến giải đâu, không phải, chỗ kiến này tức là cái Trí tuệ.

26. Giới suy khuyết và kiến suy khuyết.

Nghĩa là khi mà cái Giới chúng ta đã phạm thì cái Trí tuệ chúng ta nó không sáng suốt nữa rồi, nó lại thiếu cái Trí tuệ rồi. Cho nên ở đây Giới mà không đúng thì trí tuệ người đó không có, mà người đó có trí tuệ thì luôn luôn bao giờ cũng sống đúng Giới hạnh. Bây giờ nhìn các thầy của chúng ta, nhìn các Hòa thượng của chúng ta hỏi họ có trí tuệ không? Họ thuyết giảng cho chúng ta thấy ai cũng ngon hết mà nhìn thấy họ ăn uống phi thời, họ sống cách bừa bãi như vậy, phá giới luật như vậy, thử hỏi họ là con người có Trí tuệ không? Bởi vì Trí tuệ là phải nằm ở trong cái Giới luật, làm cho họ được giải thoát, làm cho họ ly dục ly ác pháp. Còn đằng này họ đâu có ly dục, mà họ không ly dục thì tức là cái sự hiểu biết của họ là cái tri thức tầm thường của thế gian, cái tri thức đó gọi là Vô minh, chạy theo cái sự tham đắm của thế gian, ham ăn, ham ngủ, ham nhà cao cửa tốt, ham đồ đạc cho nhiều thì đó là những cái người không phải là Trí tuệ của Giới luật mà Giới luật ở đâu thì Trí tuệ ở đó. Cho nên Trí tuệ ở đâu thì sự giải thoát ở đó và Giới luật phải nghiêm chỉnh ở đó. Cho nên chúng ta dễ nhận xét qua cái người tu rất là rõ ràng là vì Giới thanh tịnh, Giới thanh tịnh thì Kiến phải thanh tịnh. Đó, mà Giới suy khuyết thì Kiến nó sẽ suy khuyết, tức là giới suy khuyết thì Trí tuệ suy khuyết, mà Giới thanh tịnh thì Kiến thanh tịnh hay là trí tuệ thanh tịnh. Kiến thanh tịnh thì tinh cần, tri kiến thanh tịnh. Nghĩa là cái Giới mà thanh tịnh thì cái trí thanh tịnh, mà cái trí thanh tịnh thì ở đó có cái sự siêng năng tu tập của chúng ta càng lúc càng siêng năng. Còn nếu mà cái kiến mà cái Trí tuệ không thanh tịnh thì cái sự tinh tấn nó không bao giờ có tinh tấn nữa. Chúng ta chỉ tu xìu xìu chơi chơi cho qua ngày vậy thôi để hướng dục lạc chứ còn không có cái sự thanh tịnh nữa.

29. Dao động đối với các pháp bị dao động và tinh cần của người bị dao động.

Nghĩa là cái người mà tâm bị dao động rồi, bị phạm giới rồi thì luôn luôn lúc nào họ cũng sống ở trong những cái phạm giới và cái tâm luôn luôn dao động. Coi vậy chứ các bậc tôn túc Hòa thượng chúng ta luôn luôn lúc nào mấy ông cũng sợ hùm họp hết. Nghĩa là thấy một người mà tu tập giới hạnh, ăn ngày một bữa là họ đã lo trong bụng họ lắm rồi. Mặc dù là họ tìm cách họ nói này nói kia, họ ngăn cản chứ sự thật ra họ rất lo sợ cái người mà giới hạnh đúng, họ rất sợ. Bởi vì họ là người cũng biết được đọc kinh sách, họ cũng hiểu được kinh sách của Phật dạy như thế nào, không có ăn uống phi thời, mà thấy quý thầy mà ăn uống đúng pháp không phi thời mà họ phi thời là họ thấy xấu hổ rồi. Mặc dù là họ không nói ra nhưng mà họ thấy họ cũng gượng gạo đối với cái người mà giữ gìn giới hạnh. Cho nên ở đây khi mà tâm họ dao động thì cái sự tinh cần của họ cũng luôn luôn bị dao động theo đó hết.

Cho nên hiện bây giờ dù họ có làm cái hàng giáo phẩm gì đi nữa, tâm họ vẫn luôn luôn nơm nớp sợ hãi. Nghe ở đâu có những bậc chơn tu là họ quá sợ. Cho nên họ tuy rằng họ không có làm được một cái gì hại ai nhưng họ vẫn lo sợ nơm nớp ở trong lòng của họ. Vì họ biết rằng cái mà họ đang sống đây nó chưa phải là đúng, cho nên họ phải sợ, mặc dù họ là những bậc có thể nói rằng là bậc tôn túc rất lớn nhưng mà họ luôn luôn nơm nớp lo sợ.

Còn chúng ta là những người chúng nhỏ thôi, giới luật chúng ta nghiêm túc chúng ta chẳng hề sợ ai hết, chẳng sợ người nào hết. Nghĩa là không sợ ông lớn, mà cũng không sợ ông nhỏ vì Giới luật là sự hộ trì. Lát nữa các con nghe băng Thầy thuật lại, khi mà Thầy giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, Thầy chẳng hề sợ bom đạn. Nghĩa là tất cả những cái thất của ThầyThầy ngồi trong khi đó bom đạn nó vây xung quanh vậy: pháo nè, máy bay nè, bắn, bỏ bom, đủ thứ hết... nhà cửa là xung quanh cháy hết, Thầy ngồi đây, chốc ngốc Thầy ngồi Thầy tu chốc ngốc Thầy không sợ gì hết. Đó thì các con thấy giới luật nó hộ trì như vậy, cho nên mỗi người mà đi ra khỏi đây Thầy nhắc nhủ họ là phải giữ gìn giới hạnh nghiêm chỉnh, có giới hạnh mới bảo trì hỗ trợ họ trên bước đường đi mà được an ổn. Đó là những điều mà Thầy đã chứng nghiệm được giới luật của Phật, nó nghiêm chỉnh. Người mà giữ gìn Giới luật nó sẽ có sự hộ trì rất là lớn.

30. Không tri túc với các pháp thiện và không thối thất trong sự tinh cần.

 Ba mươi này, không tri túc với các pháp thiện nghĩa là mình đừng có hiểu, mình đừng có biết đủ với các pháp thiện mà các pháp thiện cứ càng ngày mình càng tu nhiều là càng tốt chứ đừng có: ờ tui làm bố thí vậy thôi, tui giữ vậy là đủ rồi, thôi tui không có giữ thiện nữa, nhiêu đây là đủ rồi. Đừng có tự mãn ở trong cái hành động thiện của chúng ta bây giờ đủ đâu, nó còn phải thiện nữa, thiện cho đến khi nào mà chúng ta giải thoát. Ở cái câu 10 này, chúng ta đừng có tri túc ở trong các pháp thiện mà chúng ta hiện làm được, mà chúng ta phải làm nhiều các pháp thiện nữa để cho đến khi giải thoát hoàn toàn. Và cũng đừng có thối thất ở trong cái sự tinh cần đối với các pháp thiện. Nghĩa là chúng ta phải siêng năng thực hành tăng trưởng các pháp thiện, càng ngày càng lớn lên. Mà các pháp thiện đây là gì? Là giới luật của Phật đó, chúng ta phải thường siêng năng, tinh cần nó để mà tu tập.

31. Minh và giải thoát.

Minh tức là thấu rõ được cái lý chơn của Pháp, giải thoát của Phật. Cho nên vì vậy có Minh là có giải thoát.

32. Tận trí và Vô sinh trí.

Hễ Lậu tận trí mà có thì cái vô sinh trí nó phải có. Đó là cái điều hiển nhiên không thể nào mà chối cãi được.

BĂNG SỐ 48

[…] chớ không còn cái trí dính mắc nữa, gọi là Vô sinh trí. Thế thì ở đây có 32 cái điều kiện của hai pháp mà đối đãi nhau để trên bước đường mà chúng ta sắp sửa tu tập về cái Giới hành thì chúng ta phải nắm rõ cái điều này. Nhớ phải nhớ kỹ, phải làm, phải thực hiện trong 32 cái pháp đối đãi này thì chúng ta mới thực hiện được các Giới hành sau này.

Tỳ kheo đầu tiên đáng được kính nể và đáng được tán thán hơn, vì sao vậy? Vì như vậy rõ, vì như vậy sẽ đưa đến Tỳ kheo ấy trong một thời gian lâu ngày ít dục, biết đủ, khổ hạnh để nuôi dưỡng, tinh cần, tinh tấn.

Nghĩa là như thế nào? Khi mà chúng ta hiểu 32 cái pháp này rồi ấy, thì chúng ta giữ gìn điều kiện tu tập đúng thì cái người tu sĩ đó được kính nể và được tán thán. Còn nếu mà chúng ta không biết giữ gìn, thì càng ngày chúng ta càng phạm giới, và càng phạm giới thì lâu ngày cái tâm của chúng ta sẽ không còn thiểu dục tri túc nữa, và nó chạy theo dục lạc chứ nó không còn biết đủ nữa. Cho nên dần dần nó sẽ đưa chúng ta đến cái ngả sa đọa ở trong thế gian chứ không có được giải thoát. Vì như vậy sẽ đưa đến Tỳ kheo ấy một thời gian lâu dài, lâu ngày, nghĩa là chúng ta giữ gìn như vậy trong một thời gian rất là lâu, do đó chúng ta mới có ít dục, biết đủ, nghĩa là thiểu dục tri túc. Rồi chúng ta sẽ thấy dễ dàng ở trong cái sự khổ hạnh, dễ nuôi dưỡng, tinh cần, tinh tấn. Nghĩa là luôn luôn chúng ta có sự siêng năng, hàng ngày càng siêng năng hơn, chứ không phải còn nếu chúng ta không giữ gìn được, không hiểu thấu cái lý hành, cái giới hành này mà theo 32 cái điều kiện đã nêu ở trên này ấy thì chúng ta khó mà thực hiện được thiểu dục tri túc, khó mà thực hiện được những cái khổ hạnh.

Do vậy, Này các thầy Tỳ kheo, hãy là người thừa tự pháp của ta, đừng là người thừa tự tài vật của ta.

 Nghĩa là cái lời nói này ấy, đức Phật khuyên chúng ta hãy thừa tự các pháp hành của Phật, như thầy đã giảng ở trên, 32 cái điều kiện này là do chúng ta thừa tự các pháp này chứ đừng thừa tự cái ăn, cái ngủ đừng thừa tự những cáitài vật củacải tài sản mà lần lượt chúng ta xa đi các pháp tu hành của chúng ta.

Hãy nghe bài kệ Phật đã dạy chúng Tỳ kheo trong thời đức Phật khi mà Ngài dạy về thừa tự các Pháp, khuyên các vị Tỳ kheo thừa tự các Pháp, không nên thừa tự cái ăn cái ngủ. Ở đây Ngài có một bài kệ để nhắc nhở các vị Tỳ kheo:

“Phàm khổ gì hiện hữu,

Tất cả duyên thức ăn,

Do đoạn diệt thức ăn,

Khổ không còn hiện hữu”.

Như các Thầy thấy, mọi cái nỗi khổ của con người mà đang hiện hữu ở trong cuộc sống của họ thì không phải do thức ăn, do tranh giành thức ăn, do chà đạp lên nhau vì cái miếng sống của thức ăn, trong đó của cuộc sống sao? Cho nên cái nỗi khổ hiện hữu của họ đều phải thấy là docáithức ăn là nhiều nhất. Người ta khổ cũng vì đói, vì khát, vì ăn, vì không có. Người có tiền có bạc thì lại thích ăn ngon, ăn cái này cái kia, cho bổ, cho dưỡng, cho này kia để sống lâu, để trường thọ. Nhưng sự thật ra có ai sống lâu trường thọ trong cái ăn bao giờ không? Càng ăn nhiều thì lại càng sinh dục, càng sinh dục thì lại sinh chạy tứ tung, phóng tâm, phóng dật làm cho cái cuộc đời điên đảo, đảo điên luôn luôn lúc nào cũng thấy cái khổ kề bên, không có một cái phút an vui, giải thoát.

Đời người vì lầm chấp cho ăn là phải đầy đủ dưỡng chất, bổ dưỡng thì cơ thể sẽ mạnh khỏe, sống lâu. Sự thật thì điều này không thể xác định được, chắc chắn nếu tất cảnhững người giàu có như vua chúa, như các trưởng giả, các nhà giàu có nhất ở trên thế gian này, nếu mà nói rằng do ăn đầy đủ dưỡng chất bổ khỏe thì những người này họ sẽ bổ khỏe hơn ai hết, và nếu mà nói về ăn đầy đủ dưỡng chất thì cơ thể nó sẽ được sống lâu thì những người này đã được sống lâu. Nhưng mà đó cũng là một cái lý luận của cái loài người để mà chạy theo cái dục lạc, nhất là cái dục lạc về cái ăn. Cho nên họ càng nuôi lớn cái dục lạc ăn thì họ càng sanh ra nhiều cái dục lạc khác nữa, và càng nhiều dục lạc khác nữa thì đời của họ quá là khổ đau mà không có ai hay biết.

Chúng ta cứ xét thấy những người giàu có và những hàng vua chúa thì biết rằng họ cũng không sống dai và họ cũng không hạnh phúc khi mà họ ăn được đầy đủ những dưỡng chấtgọi là bổ dưỡng. Đó là một cái cái lý luận của những người vô minh, ngu si, tham ănchứkhông phải cái người trí tuệ. Ăn đủ sống ngày một bữa, ai cho ngon ăn ngon, ai cho dở ăn dở, chẳng đòi hỏi gì cả, đó là cái hạnh của một người tu sĩ, cái hạnh buông xả cái ăn, cái hạnh buông xả cái cuộc đời đầy đau khổ chính vì cái ăn như bài kệ đã đọc ở trên.

Người tu sĩ Phật giáo chỉ một lòng quyết tâm ra khỏi nhà sanh tử mới là vui mừng, mới thoát khỏi nạn làm người, đau khổ của kiếp người. Bởi vậy, chúng ta nên thừa tự các Pháp của Phật, theo các Pháp của Phật đã dạy, sống cho đúng các hạnh, trau dồi thân tâm mình cho đúng các Pháp mà Phật đã từng nhắc đi nhắc lại chúng ta nhiều lần. Nhờ đó chúng ta mới thoát ra khỏi cái cảnh khổ của cuộc đời đầy ô trược, đầy đau khổ.

Bởi vậy, hiện giờ chúng ta đang trau dồi pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh - một pháp môn đầu tiên trong 37 phẩm trợ đạo. Pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh là một pháp môn gây tạo cho chúng ta một niềm tin sâu sắc đối với Phật, Pháp, Tăng và Giới. Nếu chúng ta không thực hiện Tứ Bất Hoại Tịnh thì chúng ta khó có một niềm tin sâu ở Phật Pháp.

Hiện là chúng ta trao dồi cái Tứ Bất Hoại Tịnh ấy, là chúng ta phải chọn cáithực tế của sự tu tập của chúng ta trong cái cuộc đời của chúng ta. Không khéo chúng ta không chọn kỹ thì chúng ta nghĩ rằng mình sẽ tìm lấy cái sự giải thoát nào ngoài cái vấn đề vô thường, khổ, vô ngã của cuộc đời mình thì không đúng cách. Cho nên ở đây chúng ta nên nghe lại câu chuyện của nhà vua và tôn giả Ratthapàla để chúng ta chọn lấy cho mình con đường tu tập đúng đắn mà đem hết cuộc đời của mình vào con đường này để quyết tâm giải thoát, làm chủ sự sanh tử luân hồi như các vị Thánh tăng trong thời đức Phật ngày xưa. Họ cũng đều là những con người biết chọn con đường đúng, không thể nào mà con đường sai được. Và chúng ta hôm nay cũng vậy, để chúng ta nghe lại câu chuyện này để chúng ta thấy những người xưa họ chọn như thế nào mà họ đi vào con đường của đạo Phật.  

Nhà vua  Koravya đến gặp tôn giả Ratthapàla:

- Thưa tôn giả, tôn giả đã biết , đã thấy gì, hay đã nghe gì, mà xuất gia từ bỏ gia đình, sống không nhà cửa?

Nghĩa là bỏ sạch hết, mà sống còn ba y một bát như vậy là phải hiểu gì, nghe gì mới bỏ được như vậy. Chứ nếu mà không nghe, không hiểu được gì mà bỏ như vậy thì cuộc đời của tôn giả, cuộc đời quá vất vả quá khổ sở như vậy mà tìm, để tìm theo con đường tu hành đó nó đem sự ích lợi gì mà bây giờ thấy cái thân của tôn giả hoàn toàn không có gia đình, không có cha mẹ anh em gì hết, mà không có của cải tài sản gì hết, không có nhà cửa gì hết. Còn có một thân một mình trơ trọi như vậy, tại sao mà lại vứt bỏ được như vậy là phải thấy, phải hiểu cái gì. Cho nên nhà vua muốn hỏi tôn giả Ratthapàlanhư vậy.

- Thưa đại vương, có bốn sự thuyết giáo chánh pháp được Thế Tôn giảng dạy. Do đó, tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy mà tôi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không nhà cửa. Thế nào là bốn?

Bây giờ ông nóiông được nghe đức Phật thuyết cho ông bốn cái điều kiện. Mà do hiểu biết bốn cái điều kiện này, cho nên về nhà ông bỏ nhà bỏ cửa, bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ tất cả những vật, những tài sản, vật lớn, vật nhỏ gì, bỏ cả nghề nghiệp, bỏ hết, sống không nhà cửa,còn có ba y một bát, một thân trơ trọi của mình. Bốn cái điều kiện đó ông được nghe cho nên ông dứt bỏ. Vậy thì bốn cái điều kiện đó như thế nào?

Một, thế giới là vô thường, đi đến hoại diệt.Đó là cái thứ nhất, đức Phật đã thuyết giảng cho ông biết rằng các Pháp ở trong thế gian này, cái thế giới này, nó có nhưng nó là vô thường, nó thay đổi từng phút từng giây ở trong đó, và nó đi đến cái chỗ hoại diệt, cái chỗ mất mát, cái chỗ không còn thường hằng nữa. Đó thì, cái thứ nhất đó, đức Phật chỉ cho chúng ta biết vạn pháp, cả cái thế giới chúng ta đang có hiện hữu đều là vô thường, nay nó như vầy, mai nó thay đổi, nó không có vĩnh viễn. Vì vậy hôm nay chúng ta  có thân này, ngày mai nó sẽ già sẽ yếu, rồi sẽ hoại diệt đi, sẽ mất đi. Do đó, cái thứ nhất làm cho tôi phải cảnh giác, tôi phải thấy cái thế giới này nó không có trường tồn được, cho nên tôi mới bỏ tôi đi.

Cái thứ hai, thế giời là vô hộ, vô chủ. Nghĩa là tất cả  những vạn pháp ởtrong thế gian này, nó không có bảo vệ được mình mà mình cũng không giữ được nó, cho nên  nó vô hộ, vô chủ. Mình không có giữ được mà nó không có chủ, vì vậy mình cũng không bảo vệ được nó, mà nó cũng không bảo vệ được mình. Cho nên thế giới, các pháp ở trong thế gian này coi như vô hộ, vô chủ.

Ba, cái thế giới là vô sở hữu. Cái thế giớinày không có vật gì là sở hữu cùa mình được hết, thậm chí như cái thân và cái tâm của mình, ngay bây giờ mình có cái thân này, nó cũng không là vật sở hữu của mình được. Nó muốn chết hồi nào nó chết, nó muốn sống hồi nào nó sống. Nó muốn đau là đau, muốn bệnh là bệnh chứ mình cũng không làm sao mà làm chủ nó được hết, cho nên nó không phải là vật của mình. Do vì vậy đó,  mà khi mà hiểu biết được như vậy, cho nên tôi mới bỏ tất cả hết,thậm chí cái thân này tôi cũng bỏ luôn, tôi không còn tiếc. Cho nên vì vậy mà tôi sống ba y một bát mà tôi thấy thản nhiên mà không có gì hết, không có tiếc nữa.

Thứ tư, thế giới là thiếu thốn, là khao khát, nô lệ cho tham ái. Cái thế gian này, các pháp, luôn luôn nó thiếu thốn, nó không có bao giờ mà nó đủ, mà nó luôn luôn có sự khao khát, luôn luôn nó nô lệ cho tham ái, cho tất cả mọi vật mọi pháp. Mọi vật, mọi cái đều là nó nô lệ cho cái sự ham muốn của mình, cho nên nó không có cái gì mà làm cho chúng ta thấy thích thú an vui được ở trong đó.

Bây giờ đó, Ngài mới giải thích cho nhà vua nghe cái thứ nhất như thế nào mà gọi là vô thường, đi đến hoại diệt.

Thế nào là vô thường, đi đến hoại diệt?  Đó, thì bắt đầu Ngài đặt ra câu hỏi để chỉ cho nhà vua thấy cái sự vô thường đi đến hoại diệt:

- Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Khi Ngài còn 20 tuổi,hay 25 tuổi, Ngài có thiện nghệ về voi, thiện nghệ về ngựa, thiện nghệ về xe, thiện nghệ về cung, thiện nghệ về kiếm, bắp vế mạnh và cánh tay mạnh, có khả năng và thiện nghệ trong nghề đánh giặc?

Thì nhà vua nói:

- Đúng vậy, khi ta còn trẻ, 20, 25 tuổi ấy thì ta rất là mạnh khỏe, không có thiếu sức khỏe đâu.

Cho nên nhà vua chấp nhận liền, đúng vậy. Rồi tôn giả lại hỏi tiếp:

- Còn bây giờ đại vương yếu rồi, sức khỏe kém dần, hiện giờ 80 tuổi, đã gần mệnh chung rồi.

- Đúng vậy.

Nhà vua cũng xác nhận như vậy. Bây giờ thì già yếu rồi, không còn như thời trai trẻ nữa. Như vậy thì quý thầy thấy như thế nào? Có phải là đúng không? Lúc chúng ta còn thanh niên, chúng ta còn trẻ, sức khỏe còn nhiều, chúng ta làm chúng ta không có biết mỏi mệt. Còn bây giờ làm một chút xíu là chúng ta thấy mỏi mệt, cơ thể nghe nó không có khỏe được. Đó ví dụ như Thầy bây giờ đó, cơ thể của mình nó cũng lần lượt suy yếu không phải hàng ngày còn khỏenhư cách đây mười bảy, mười tám năm nó còn khỏe mạnh, còn bây giờ càng ngày càng thấy nó suy yếu dần. Nói ra, giảng ra một chút là thấy mệt nhọc trong cơ thể rất nhiều. Ráng chứ còn không khéo thì chúng ta cũng không thể nào mà giảng nổi toàn bộ cái giáo án này. Cho nên ở đây thì quý thầy thấy rằng cái sức khỏe nó theo dần với thời gian năm tháng, mà nó vô thường, nó không có giữ mãi cái sức khỏe đó nơi thân của chúng ta nữa. Biết như vậy thì chúng ta biết thế gian này vô thường rồi và cơ thể chúng ta đi đến chỗ hoại diệt rồi, chắc chắn Thầy cũng một ngày nào đó cũng trở về với lòng đất, đất thì trả cho đất, nước trả cho nước, lửa trả cho lửa, gió trả cho gió, không còn mang cái thân này của mình nữa.

Biết như vậy thì chúng ta như thế nào?

Do biết như vậy thì chúng ta bỏ hết mà chúng ta không còn tiếc, còn nếu chúng ta không biết như vậy, chúng ta chưa hiểu như vậy, chúng ta tiếc. Nhưng mà tiếc chúng ta có giữ được không, chắc chắn là quý thầy xét lại cái thân của quý thầy coi, nhìn lại thân những thầy trẻ tuổi, rồi những thầy mà lớn tuổi, rồi những người mà già yếu bây giờ là cỡ 50, 60 thì quý thầy thấy có còn sức khỏe như mình như lúc mà quý thầy còn trẻ không? Chắcchắn là quý thầy phải có sự suy ngẫm đó. Và có sự suy ngẫm đó thì chúng ta thấy như thế nào? Có phải là vô thường không? Và đi đến hoại diệt không? Chúng ta thấy đã biết bao người đi đến hoại diệt, đã chết, đã mạng chung, đã không còn giữ được cái thân này thường hằng, không còn giữ nó nữa. Và khi chết rồi chúng ta biết họ đi về đâu không? Chắc chắn mờ mịt chẳng biết ai đi về đâu, mất tiêu luôn.

Đó là cái thế giới vô thường, đi đến hoại diệt, như vậy có đúng không? Nhà  vua xác nhận đúng.

- Thế nào là vô hộ, vô chủ, như thế nào?

Đây là câu hỏi thứ hai để chúng ta suy ngẫm lại cuộc đời chúng ta mà chúng ta buông xuống, chúng ta tìm thấy con đường giải thoát cho thoát ra khỏi thế giới vô thường, hoại diệt này. Cái thế giới mà vô hộ, vô chủ này, như thế nào?

- Thưa Đại vương, khi Đại vương thọ một chứng bệnh đau thống khổ, lúc bấy giờ thân hữu quen biết, dù là bà con huyết thống của Đại vương có đứng xung quanh đều lấy mắt ngó hay là họ chịu đau thế cho Đại vương?

Đó như vậy là chúng ta thấy nó vô hộ, vô chủ có đúng không? Bây giờ mình đâu có bảo hộ được nó, cho nên bây giờ thân mình đau bệnh này, có người nào mà đau thế mình được không? Không. Chỉ lấy con mắt ngó thôi.

Vô chủ nghĩa là bây giờ nó đau mình cũng không làm sao được hết, mình biểu nó đâu có chủ. Bởi vậy cái thế giới này nó vô hộ, vô chủ thực sự, không làm sao mà có thể người khác có thể bảo hộ mình. Hoặc làngười kháclàm chủ được nó, bảo nó không đau không đớn nữa. Hoàn toàn là đau là chịu đau chứ không thể nào làm sao được.

- Làm sao chịu đau thế được!- nhà vua  trả lời, làm sao chịu đau thế được. Do vậy thế giới là vô hộ, vô chủ, không chịu đau thế cho người khác được như vậy thế giới là vô hộ, vô chủ.

Vì thế tôi đã được hiểu như vậy, tôi đã được nghe Phật thuyết như vậy, cho nên tôi bỏ cuộc đời. Mặc dù cuộc đời của tôi sống con một mà tôi vẫn bỏ của cải tài sản của ông bà của cha mẹ, tôi để lại tất cả hết. Là bởi vì tôi đã hiểu nó vô hộ, vô chủ. Dù có đống vàng đó nó cũng không chịu đau cho tôi được. Dù có vợ có con, có cha có mẹ cũng không đau thế cho tôi được. Thậm chí như tôi chết cũng không ai chết thế cho tôi được, cho nên gọi là vô hộ, vô chủ.

Câu thứ ba:

- Thế giới là vô sở hữu cần phải ra đi, từ bỏ tất cả. Câu thứ ba, nghĩa là như thế nào?

- Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Đối với 5 món dục lạc thế gian này chỉ có mình Đại vương hưởng thụ đầy đủ, còn những người khác không được hưởng thụ như Đại vương. Khi Đại vương chết đi theo nghiệp, thì của cải tài sản của Đại vương, người khác sẽ thhưởng. Đó là thế gian vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả.

À, bây giờ chúng ta có làm tiền bạc của cải cho lắm đi nữa, chết rồi chúng ta có mang theo được cái nào không, mà nói gọi là của cải chúng ta được? Cho nên nó vô sở hữu. Nếu nói sở hữu thì chúng ta phải mang theo, chúng ta phải sử dụng, chúng ta phải xài nó được chứ. Đằng này chết rồi, chúng ta bỏ sạch, không có lấy được một cái gì đem theo xài hết. Cả thậm chí như cả vợ con cũng không mang theo được nữa.

Cho nên ngày xưa có những vua chúa, họ chết đi họ bắt vợ họ phải chết theo họ. Nhưng mà chết theo họ để làm gì? Có nghĩalígì đâu, họ tưởng chết theo họ để hầu hạ họ bằng cách này, bằng cách khác, để cho vợ họ không có, không có lấy ông này lấy ông khác, chỉ có mình ổng mà thôi. Nhưng mà khi giết bà vợ đó rồi, thì cũng như ổng, cũng là đất phải hoàn đất, nước phải hoàn với nước, lửa phải hoàn với lửa, gió phải hoàn với gió, đâu còn cái gì nữa gọi là sở hữu của mình đâu. Thế mà người ta lầm tưởng, làm những việc đó là mang theo sở hữu của mình. Chôn theo vàng bạc, thậm chí hiện giờ người ta quật những cái mồ của các vị vua chúa lên, người ta thấy vàng bạc châu báu ở trong đó, chưa có mất một cái chút nào hết. Như vậy là chôn theo mà có xài được không? Đâu có xài được, đâu có tiêu được, do đó chỉ chẳng qua là tiếc mà chôn theo vô ích, không có gì hết. Cho nên ở đây chúng ta thấy rằng vô sở hữu, thế giới này là vô sở hữu.

Vì vậy hiểu được như vậy thì chúng ta còn ham thế giới này không, còn có ham tiền bạc không, còn có ham chùa cao tháp lớn không, còn có ham tất cả những cái gì mà sang đẹp ở thế gian này không? Không, chúng ta thấy nó vô sở hữu quá. Cho nên chúng ta bỏ hết đi, bỏ hết đi mà tìm con đường chấm dứt sanh tử luân hồi. Vợ con, tất cả mọi người không phải sở hữu của chúng ta đâu, mà là nhân quả vay trả, chứ không có gì khác hơn hết.

Đó, chúng ta đã hiểu được như vậy thì chúng ta phải cố gắng mà nỗ lực mà lìa xa cái thế gian này, thế giới này, nỗ lực cho tận cùng để chúng ta đạt được cái mức giải thoát hoàn toàn.

Đó, tới bây giờ là câu thứ tư:

- Thế nào là thế giới thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái?

- Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Bây giờ trong nước Đại vương rất phồn thịnh, nhưng Đại vương vẫn muốn cai trị tất cả các nước lân bangkhác, bắt họ phải phục tùng mình. Chính vì vậy thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái. Và tôi sau khi biết, sau khi thấy, sau khi nghe những lời dạy này, tôi đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Thử hỏi quý thầy thấy cái chỗ mà thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái đúng không? Chúng ta bây giờ chúng ta làm có tiền nhiều, nhưng mà chúng ta có thấy đủ không? Làm nữa, làm nữa, chất đống nữa, rồi chúng ta trở thành những nhà độc tài nhất thế giới mà chúng ta vẫn còn thấy thiếu, chưa phải là thấy đủ đâu. Ờ cho nên ở đây rõ ràng là chúng ta nô lệ cho tham ái rồi, không có, không có bao giờ dứt. Người ta nói cái tâm của thiên hạ là cái túi không đáy. Có 1 đồng chúng ta muốn 2 đồng, có 2 đồng chúng ta muốn 10 đồng, có 10 đồng chúng ta muốn 100 đồng, cứ muốn chồng lên, chồng lên, chứ không bao giờ muốn ... Hôm nay chúng ta có được cái nhà tranh thì chúng ta muốn nhà ngói, có nhà ngói thì chúng ta muốn nhà tường, muốn nhà tường thì chúng ta muốn nhà lầu. Cứ thế mà chúng ta tăng mãi. Hôm nay chúng ta có cái xe đạp thì chúng ta lại muốn cái xe gắn máy, có xe gắn máy rồi thì chúng ta lại muốn cái khác hơn nữa, rồi cho đến xe hơi, thậm chí trực thăng, máy bay gì chúng ta cũng muốn hết. Cái lòng của con người ta mà thiếu thốn, nó không bao giờ mà nó đầy đủ, nó đủ, nó khao khát cho nên nó luôn luôn nô lệ cho tham ái.

Đúng vậy, mà cứ chạy theo sự thiếu thốn đó, nô lệ cho tham ái đó thì thử hỏi cuộc đời của quý vị có khổ không? Khổ vô cùng khổ. Thế rồi chúng ta nên bỏ đi, bỏ đi, hiểu được như vậy, mà cái người gan dạ, hiểu được như vậy, bỏ đi thì có phải là tôn giả Ratthapala không? Ông ta đã hiểu rõ, cho nên từng đó ông từ bỏ. Như hôm trước, chúng ta đã nghe đó, rồi khi mà ông tu hành ông về thăm nhà rồi gia đình ông, cha mẹ ông đem một đống vàng đổ ra giữa nhà, bảo đây là của cải của ổng, ông ấy không về ông sống hưởng thụ và ông đem cái của cải này đi mà làm phước, làm từ thiện đi còn tốt hơn là đi tu, và đồng thời đem những bà vợ trang sức cho đẹp để cuối cùng ông chẳng có chấp nhận điều gì. Ông biểu ông già của ổng đó, nên chất ba cái vàng bạc này đem xuống sông Hằng mà đổ đi. Đó, bảo đem đổ đi. Thì quý thầy thấy như thế nào? Đó là ông thấy vàng bạc là cái đau khổ. Rồi vợ con của ông thì ông thấy hoàn toàn như là người xa lạ, làm như không có thân tình gì đối với ông nữa hết. Từ trước kia đó là vợ ông, bây giờ ông xem như là người xung quanh ổng, không có nghĩa lý gì đối với ông nữa hết. Cho nên cuối cùng thì ông nói với cha ông: Thôi, hãy bố thí cho ông ấy thực phẩm đi, ông ăn rồi ông đi, đừng có làm phiền ông nữa. Do đó, sau khi ông thọ thực xong rồi, ông ôm bình bát ông đi mà không nhận một chút vàng, một chút bạc, một chút cái gì hết. Tất cả những tình cảm mà gia đình đối với ông, ông đều phủi sạch xuống hết, không gì mà trói buộc ông ấy được.

Đó như vậy người ta tu hành như vậy. Cho đến khi mà nhà vua đến gặp ông thì ông lại giải thích do ông hiểu bốn cái điều kiện này: Thế giới là vô thường, là hoại diệt; thế giới là vô sở hữu; thế giới là vô hộ, vô chủ; thế giới là khao khát, thiếu thốn, nô lệ cho tham ái. Cho nên ông hiểu được như vậy khi đức Phật thuyết giảng đến đây thì ông hoàn toàn ông xa lìa cái thế giới này, xa lìa cái cuộc sống của thế gian rồi, ông dẹp qua hết.

Còn chúng ta nghe rồi, chúng ta có xa lìa được không, hay là còn thương, còn nhớ, còn tiếc, còn của, còn nhà, còn cửa, còn này kia?

Để rồi sẽ xem quý thầy có dứt bỏ được không, có thấy nó là đúng sự thật không? Ở đây bốn cái điều kiện này chúng ta thấy sự thật đau lòng. Con người sinh ra để rồi chúng ta sống trong bốn cái điều kiện này, lầm tưởng nó là thật sự nhưng không ngờ nó là sự đau khổ vô cùng cho kiếp người. Mà cái tâm tham vọng của chúng ta, cái tâm tham ái của chúng ta không bao giờ dứt, thiếu thốn và khao khát mãi mãi, biến chúng ta trở thành con người nô lệ cho vật chất, cho tiền bạc, cho của cải, cho tài sản.

Tôn giả Ratthapala giảng xong cho nhà vua và đọc kệ rồi Ngài trở về Tịnh xá.

À ở đây thầy không có đọc những cái bài kệ, nhưng mà Ngài có đọc cái bài kệ cho nhà vua nghe, nhưng chúng ta không có thì giờ đểmàđọccác bài kệ. Những bài kệ thấm thía lắm, nhưng Thầy nghĩ rằng hôm nay chúng ta còn thời gian quá ngắn. Nếu mà giảng những bài kệ này thì nó đòi hỏi thời gian quá nhiều. Vậy mà chúng ta lướt qua để chúng ta hiểu đại khái, tìm lấy một con đường chân thật để chúng ta đi vào sự tu hành giải thoát mà thôi. Hiểu để tu, nghe nhiều khi làm động tâm. Hiểu nhiều trở thành sở tri chướng, làm cho tâm ta khó tu. Chúng ta biết được cái gì thì chúng ta nỗ lực tu cái đó để chúng ta được giải thoát khỏi bốn cái điều kiện của thế giới này.  

À, bây giờ chúng ta tiếp tục rồi chúng ta học.

Khi học Giới bổn xong, quý thầy đã biết ba cái giới đầu tiên là Tam quy Phật - Pháp - Tăng. Đây là ba giới gốc, doba nơigiới gốcnày mà sinh ra 5 giới, 5 pháp hay nói cho đúng là sinh ra muôn giới.

Vậy chúng ta đã thọ Tam quy, đã thọ ba giới này, chúng ta phải tu tập như thế nào? Đạo Phật có vạch cho chúng ta tám cái nẻo giải thoát. Nghĩa là trong Tứ diệu đế, thì Đạo đế đức Phật có dạy cho chúng ta tám cái nẻo để chúng ta tu hành đến giải thoát. Thì tám cái nẻo đó gọi là gì? Ờ, tám cái nẻo đó gọi là Bát chánh đạo:

Một là Chánh kiến

Hai là Chánh tư duy

Ba là Chánh ngữ

Bốn là Chánh nghiệp

Năm là Chánh mạng

Sáu là Chánh tinh tấn

Bảy là Chánh niệm

Tám là Chánh định.

Vậy bây giờ quý thầy hãy tu nẻo thứ nhất là Chánh kiến với ba giới đầu tiên, đó là Phật, hai là Pháp, ba là Tăng. Mình phải tu ba cái giới đầu tiên.

Vậy lấy pháp gì tu với ba giới này? Vậy quý thầy lấy giới hành Tứ Bất Hoại Tịnh, còn gọi là Tứ Kỉnh Pháp, còn gọi là Tứ Tín Lực. Đó, chúng ta lấy Tứ Bất Hoại Tịnh mà chúng ta tu hành với ba cái Giới này. Bởi vì thuộc về Giới hành, mình phải lấy Giới, mà mình phải lấy pháp mà hành nó thì nó sẽ đem đến cái sự giải thoát cho thân tâm của mình ngay liền. Đó, vì vậy chúng ta mới gọi là Giới hành. Vì biết nó Giới hành thì chúng ta sẽ tu tập.

Như vậy là chúng ta sẽ thấy trong cái bước đầumà chúng ta tu tập đó thì chúng ta thấy rõ ràng Tứ Bất Hoại Tịnh còn có một cái tên là Tứ Kỉnh Pháp, còn có cái tên là Tín Lực. Như vậy là Tứ Bất Hoại Tịnh này chúng ta còn thấy nó có những cái tên là Tứ Kỉnh Pháp, Tứ Tín Lực.

Vậy thì Ngũ căn, Ngũ lực như thế nào? Ở đây nó còn gọi là Tín lực. Tín lực là cái niềm tin đầu tiên. Chúng ta tin gì đây? Tin Phật, Pháp, Tăng. Vậy thì Tín căn là ở chỗ nào? Phật, Pháp, Tăng là nơi chúng ta tạo một lòng tin của chúng ta, tạo cái căn để chúng ta tin nơi đó, cho nên Phật, Pháp, Tăng là Tín căn, mà Tứ Bất Hoại Tịnh là Tín lực, cái lòng tin của chúng ta nơi căn gốc đó, làm cho chúng ta bất hoại, không có hoại diệt thân tâm thanh tịnh của chúng ta, cho nên gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh - bốn pháp làm cho thân tâm chúng ta không hoại cái sự thanh tịnh.

Hiểu được như vậy thì bắt đầu chúng ta tu tập, mới có thể tốt được.

Phật Pháp Tăng là Tam quy, là ba giới đầu tiên trong đạo Phật, là ba căn lành, ba nơi làm cho chúng ta tin tưởng của tất cả tu sĩ sau này. Nghĩa là ba cái nơi đó mà người nào dựa vào ba Tín căn này tu tập sẽ làm cho vị tu sĩ đầy đủ, trọn vẹn niềm tin. Bởi vì mình tin ai hơn tin Phật, tin ai hơn tin Pháp, tin ai hơn là tin Tăng. Tại sao vậy? Vì Phật là một người đã thể hiện sự giải thoát, đã ra được sinh tử luân hồi, đã chấm dứt sinh tử luân hồi. Còn Pháp là những lời Phật đã dạy, làm cho người ta nương vào, tùy theo Pháp đó mà người ta sống được giải thoát, ra khỏi sinh tử luân hồi, người ta làm chủ được sống chết. Còn Tăng là những người theo Phật, đã nương vào Phật, vào Pháp mà thành tựu những oai nghi tế hạnh, vàcó những kinh nghiệm tu tập cho nên chúng ta thấy rất rõ ràng. Vì vậy mà niềm tin chúng ta đặt nơi đó, cho nên chúng ta không bị hoại diệt lòng thanh tịnh của chúng ta. Nơi đó là nơi mà lòng chúng ta tin tưởng, nơi đó là ba căn làm cho chúng ta tin. Vì vậy mà gọi là Tín căn. Mà tất cả tu sĩ đạo Phật đều phải nương theo đây mà tu tập thì mới có đủ Tín căn, mới có đủ Tín lực mà thực hiện con đường của đạo Phật sau này. Cho nên nói về Ngũ căn, Ngũ lực thì Ngũ căn chúng ta thấy rằng Tín căn là đầu tiên rồi nói về Ngũ lực thìTín lực là đầu tiên. Mà đầu tiên thì nó ở đâu? Nó ở chỗ Phật Pháp Tăng chớ không phải ở chỗ khác được. Vì chỗ khác thì nó không thể nào có lòng tin.

Người cư sĩ sau khi thọ xong Tam quy cũng như người xuất gia thì vị thầy dạy họ niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Bắt đầu mới vô thì dạy người ta niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Khi mà thọ Tam Quy rồi, tức là chúng ta biết Phật Pháp Tăng rồi, thì bây giờ hàng ngày chúng ta phải niệm Phật, niệm Pháp, niệm  Tăng.

Thường là các bậc thầy dạy họ niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng bằng miệng, bằng ý, bằng danh danh hiệu suông. Cho nên họ dạy như thế nào: Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật hoặc là Nam mô A di đà Phật. Đó là họ dạy bằng miệng,  bằng ý niệm v.v… Hay hoặc là người ta dạy bằng một câu mà để niệm câu đó chẳng hạn như: Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn... Người ta dạy mình niệm câu đó là mình niệm Phật. Thì như vậy nó không có nghĩa đâu, không có nghĩa mà nó cũng không có giải thoát đâu. Cho nên hầu hết là người ta niệm: Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nhiều người niệm mà cho đến giờ này tham sân si phiền não họ vẫn còn. Họ niệm Nam mô A di đà Phật, họ ăn chay nhưng mà họ vẫn ham muốn cái này cái kia, cái nọ chứ chưa phải họ dứt bỏ hết. Cho nên họ còn đau khổ, còn làm nô lệ cho những vật chất, cho những tham ái của họ.

Còn chúng ta niệm Phật như thế nào để mà chúng ta hết tham ái, chúng ta diệt trừ thế gian vô thường, hoại diệt này? Đó là chúng ta phải niệm cho đúng cách. Nếu mà chúng ta niệm không đúng cách, thì chắc chắn mà niệm theo kiểu họ dạy niệm như vậy thì ngàn đời chúng ta cũng chẳngđược ra khỏi giải thoát đâu.

Mà đạo Phật nói khi chúng ta bắt đầu tu là phải có kết quả ngay liền, không phải có thời gian chờ đợi. Thế mà chúng ta niệm Phật nay từ 5 năm, 10 năm rồi mà nhìn lại chúng ta có giải thoát hoàn toàn không? Không, chúng ta còn trang trí thêm, làm vẻ đẹp thêm, phạm thêm giới. Ông thầy nào, vị hòa thượng nào cũng đeo cả xâu chuỗi ở trên ngực, ở trên cổ, làm quá là các cô  gái về nhà chồng đeo hột, chuỗi hạt, chuỗi ngọc à. Những điều kiện ấy chúng ta xem quý ông thầy quá đẹp, trang điểm quá đẹp, nhưng mà cuối cùng tưởng là những xâu chuỗi niệm Phật đó đưa ông đến giải thoát, ai ngờ đâu là ông phá giới, làm cho mình trở thành những con người trang điểm đẹp đẽ mà sai đi giới luật của Phật. Phật cấm không cho chúng ta đeo vòng hoa, đeo chuỗi hạt, thế mà quý thầy bây giờ đeo vòng hoa chuỗi hạt. Đi đến nơi nào đóđông người, có làm lễ  gì thì hầu hết là các bậc lớn đều có chuỗi hạt đeo cổ, rồi có chuỗi hạt ở trên tay, tay có chuỗi hạt nhỏ, cổ có  chuỗi hạt dài, mỗi chuỗi hạt đều là chọn lấy những hạt rất bóng, rất đẹp chớ không phải tầm thường. Mỗi chuỗi hạt đều có giá trị tiền bạc rất lớn, những ông thầy nào sang thì chuỗi hạt đó đều có số tiền rất là vĩ đại chứ không thường. Thậm chí như họ có thể từ chuỗi hạt của họ có thể họ tìm những cái hạt trân châu, những hạt ngọc họ làm những cái chuỗi hạt đó.

Đó là cái trang trí cho một vị tu sĩ không đúng cách mà bằng pháp niệm Phật, thấy họ hay lần chuỗi để niệm Phật, nhưng cuối cùng thì chẳng phải là đúng theo con đường của Phật dạy, vì Phật dạy đâu có lấy miệng, lấy ý mà niệm.

Mà Phật dạy như thế nào?Phật dạy chúng ta lấy bốn chỗ niệm: Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm. Vì thế người ta lại lấy câu niệm Phật. Còn niệm Pháp, thí dụ như đối với người tu đúng thì người ta lấy Tứ Niệm Xứ để mà niệm. Thì người ta lại không lấy bốn chỗ đó để mà niệm, người ta lấy miệng, ý để mà niệm. Cho nên vì vậy như Phật thì người ta niệm được hồng danh của Phật: Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nhưng mà đến Pháp thì họ niệm sao? Pháp thì đâu có cái tên gì dài dòng đâu, cho nên họ nói niệm Pháp, rồi niệm Tăng thì đâu họ có niệm gì đâu, không lẽ họ nói: Nam mô Mục Kiền Liên, Nam mô Xá Lợi Phất sao? Cho nên họ nói: Nam mô Tăng. Vì vậy mà có nhiều chỗ dạy: Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng. Cho nên hầu hết bây giờ chúng ta gặp nhau: Mô Phật. Đó là chúng ta chào nhau bằng câu đó. Đó coi như là chúng ta niệm Phật đó. Niệm như vậy có nghĩa gì? Niệm như vậy chẳng qua là đầu môi xã giao nhau chứ đâu có ích lợi gì cho sự giải thoát cho chính mình. Họ chẳng biết làm sao niệm, thường họ niệm như thế này: Nam mô Phật, nam mô Pháp, Nam mô Tăng. Rồi họ học Giới thì họ: Nam mô Giới. Chứ họ chẳng biết gì khác hơn hết. Họ niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới như vậy thì chúng ta thử nghĩ xem họ niệm như vậy cả năm cả đời hay là cả suốt đời họ thì họ có thấy sự giải thoát chưa? Chưa. Niệm Phật mà niệm cái miệng như vậy thì làm sao có giải thoát được, mà niệm Pháp như vậy làm sao có giải thoát được, niệm Tăng như vậy làm sao có giải thoát được. Họ niệm cái danh từ chứ không phải niệm là cái hànhđộng sống của họ hàng ngày ở trên Phật, Pháp, Tăng. Cho nên cái niệm này là cái niệm sai, không đúng.

Thật là buồn cười, họ không biết pháp hành nên niệm Phật kiểu niệm điên, niệm khùng, chẳng bao giờ có được giải thoát. Họ niệm kiểu đó là niệm điên niệm khùng, họ chẳng hiểu pháp hành, cho nên họ niệm tầm bậy, tầm bạ, nó không có giải thoát được cho họ mà chỉ là hình tướng họ niệm Phật mà thôi, chớ không có giải thoát được thân tâm của họ. Họ không ra được ba điều kiện, bốn điều kiện mà đã được nêu lên trên thế giới là vô thường, là hoại diệt, họ không có ra được khỏi đó.

Trong kinh sách Phật dạy có bốn chỗ niệm, gọi là Tứ Niệm Xứ. Bốn chỗ niệm đó là gì: một là thân, hai là thọ, ba là tâm, bốn là pháp. Vậy thân niệm Phật là niệm làm sao? Nói cái thân niệm Phật thì mình niệm làm sao đây? Đó là cái mà người ta đặt câu hỏi để người ta thấy chỗ lấy cái thân mà niệm Phật thì phải niệm như thế nào cho nó được. Bởi vì Phật dạy thân, thọ, tâm, pháp lấy bốn chỗ này để niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng hoặc là niệm Giới. Thế rồi chúng ta phải làm sao đây? Niệm như thế nào?

Chúng ta đã thọ Tam quy tức là nương tựa Phật, Pháp, Tăng rồi. Vậy nương tựa Phật, Pháp, Tăng là nương tựa như thế nào? Chữ nương tựa ở đây không có nghĩa là nhờ vả mà phải hiểu là sống đúng như Phật đã sống. Mình không có nhờ vả bởi vì nương tựa vào người khác, nhờ vả người ta mình làm biếng mình không làm, người ta có gì người ta cho mình ăn hoặc là giúp đỡ mình, mình ở không mình ăn cái đó là nhờ vả. Còn ở đây nương tựa không có nghĩa là nhờ vả, mà nương tựa có nghĩa là mình sống đúng như Phật sống, sống đúng như các Pháp dạy, sống đúng như chư Tăng sống, thì đó gọi là nương tựa. Chữ nương tựa ở đây là quy y, mà quy y là trở về nương tựa, mà nương tựa tức là sống đúng với những người đó họ đã sống. Thì như vậy là chúng ta đã thấy, đã hiểu được cái chỗ thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta phải nương tựa vào Phật, Pháp, Tăng để mà sống.

Vậy thì nương tựa như thế nào để mà sống?

Một là thân niệm Phật.

Vậy thân niệm Phật là thân phải sống giống như Phật, sống giống như thân Phật. Phật sống như thế nào thì chúng ta phải sống đúng thân tâm như thế nấy gọi là thân niệm Phật, chớ không phải niệm Phật là nó đọc danh từ suông là Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đâu. Cho nên thân ông Phật sống như thế nào thì thân chúng ta niệm Phật, thân chúng ta phải sống như vậy.

Vậy thân Phật sống như thế nào?

1. Thân Phật thường hay phòng hộ sáu căn.Phật đi ra Phật có nhìn bên đây, nhìn bên kia không? Phật có ngó láo liêng không? Phật đi Phật nhìn xuống đất, giữ gìn sáu căn của mình, không có ngó qua ngó lại. Cho nên vì vậy mà thân chúng ta niệm Phật thì phải bắt chước, phải sống như vậy, cũng ngó xuống phòng hộ sáu căn. Phật đi không ngó qua ngó lại, chỉ nhìn xuống đất quan sát từng bước đi của mìnhđểtránh vô tình làm đau khổ chúng sanh dưới đất. Đó thì rất rõ ràng. Vậy thân ta niệm Phật thì thân ta cũng phải phòng hộ sáu căn, mắt nhìn xuống đất, không nhìn qua nhìn lại, luôn luôn ý tứ từng bước đi tránh không làm đau khổ chúng sanh và giết hại chúng sanh.Hành động sống như vậy gọi là thân niệm Phật. Hành động thân chúng ta làm giống như thân Phật vậy gọi là thân niệm Phật.

2. Thân Phật thường đi ăn xin, thân ta niệm Phật thì thân ta cũng phải đi ăn xin như Phật. Nghĩa là Phật đi ăn xin thì mình niệm Phật mình cũng phải đi ăn xin như Phật, thân mình cũng vậy. Còn đằng này Phật đi ăn xin mà mình không ăn xin, mình đi làm nghề này nghề khác mình sống, như vậy mình có giống Phật không? Niệm Phật phải giống Phật chớ. Thân niệm Phật phải giống Phật. Vậy mà thân niệm Phật lại không giống Phật.

3.Thân Phật thường hay ngồi thiền, thân ta niệm Phật thì thân ta cũng thường hay ngồi thiền.

4.Thân Phật thường đi kinh hành, thân ta niệm Phật thì thân ta cũng thường đi kinh hành.

5.Thân Phật không giết hại chúng sanh, thân ta niệm Phật thì thân ta cũng không giết hại chúng sanh.

6.Thân Phật không làm khổ mình khổ người, thân ta niệm Phật thì cũng vậy, không làm khổ mình khổ người.

7.Thân Phật không lấy trộm của ai, thân ta niệm Phật cũng vậy, không lấy trộm của ai.

8.Thân Phật không làm điều dâm dục, thân ta niệm Phật cũng vậy, không bao giờ làm điều dâm dục.

9.Thân Phật không ăn uống phi thời, thân ta niệm Phật cũng vậy, không ăn uống phi thời.

10.Thân Phật ít ngủ, không hôn trầm thùy miên, thân ta niệm Phật cũng vậy, phải ít ngủ, không hôn trầm thùy miên.

11.Thân Phật không nằm giường cao rộng lớn, thân ta niệm Phật cũng vậy, không nằm giường cao rộng lớn.

12.Thân Phật không trang sức vòng hoa, chuỗi hạt, thân ta niệm Phật cũng vậy, không trang sức vòng hoa, chuỗi hạt.

13.Thân Phật không cất giữ tiền bạc của báu, thân ta niệm Phật cũng vậy, không cất giữ tiền bạc của báu.

14.Thân Phật nằm nghiêng theo kiểu kiết tường, thân ta niệm Phật cũng phải nằm nghiêng theo kiểu kiết tường.

15.Thân Phật thường hay đặt niệm trước mặt, ngủ mà rất tỉnh thức nên không mộng mị chiêm bao, thân ta niệm Phật cũng vậy, thường đặt niệm hơi thở trước mặt, tỉnh thức không mộng mị chiêm bao.

Đó là ở đây quý thầy thấy Thầy tóm lược trở lại để chúng ta thấy thân Phật như thế nào thì thân ta niệm Phật cũng phải giốngPhật như thế nấy.

Bây giờ cái phần thứ hai, hồinãy cái phần thứ nhất là thân niệm Phật, bây giờ phần thứ hai là thọ niệm Phật, bởi vì chúng ta có bốn chỗ niệm mà, bây giờ chúng ta mới có thân niệm Phật à, chưa đủ. Bây giờ chúng ta có thọ niệm Phật.

Thọ niệm Phật như thế nào?

Phật đã làm chủ được ba trạng thái thọ:

- Một là thọ lạc,

- Hai là thọ khổ,

- Ba là thọ bất lạc bất khổ.

Bây giờ chúng ta hiểu được ba cái thọ như vậy thì Phật…

… ưa thích cái lạc, cũng không như mình, cũng không ca ngợi, cũng không cầu mong, cũng không ước muốn, cũng không tưởng nhớ. Do thế thọ lạc niệm Phật không tác dụng và lôi cuốn được, không làm đam mê, không làm say đắm Phật. Vì thế thọ đến đi như không có mặt, thọ có mà không có.

Chúng ta thấy rõ ràng, cũng như bây giờ thọ lạc mình ăn nó ngon, mình thấy cái thọ lạc nó ngon, mình thích, mình ca ngợi cái này ngon quá. Mình cầu mong ước muốn cho còn có ăn nữa, tưởng nhớ nó nữa, còn Phật ăn ngon dở thế nào cũng chẳng cần thiết hết. Cho nên đối với Phật, cái thọ nó không có ăn thua nhằm nhò gì, nó không say đắm, nó không lôi cuốn đức Phật được. Cho nên chúng ta lấy thọ mà niệm Phật thì cái thọ của chúng ta nó cũng giống như vậy, phải không? Cho nên chúng ta ăn ngon, chúng ta có cảm giác nằm êm ấm, cảm giác khoái lạc này kia, chúng ta chẳng thích điều đó. Đó là thọ lạc mà, mà thọ lạc đối với Phật thì Phật đâu có chấp nhận nó, đâu có ham mê nó, đâu có bị nó lôi cuốn. Ta tu hành theo Phật cũng như vậy, đối với lạc ta chẳng ham thích nó. Còn chúng ta nghe thọ lạc thế này thế kia chúng ta thích, ăn ngon, uống nước ngọt, rượu rồi mê, hút thuốc rồi khoái. Tất cả cái này, chúng ta chạy theo cái lạc. Trái lại, đối với Phật, chúng ta là người tu Tứ Bất Hoại Tịnh, theo ba Tam quy này thì Phật hoàn toàn không có thọ lạc lôi cuốn. Tâm ta, cái thọ của chúng ta mà niệm Phật thì không bị cái lạc lôi cuốn chúng ta được.

Ta Lấy thọ lạc niệm Phật, ta phải giống như Phật, không ưa thích, không vui mừng, không khen ngợi, không cầu mong, không ước muốn, không tưởng nhớ, nhờ thế thọ của ta không tác đụng được ta, không lôi cuốn, không làm  cho ta đắm mê.Muốn được vậy, ta phải tu tập như thế nào? Ta phải dùng các pháp trạch như thế nào để cho cái thọ mà nó niệm Phật, nó không có bị khổ đau.

Vậy thì nãy giờ Thầy đã tóm lược mà chưa có pháp hành. Nãy giờ Thầy tóm lược cho chúng ta từ cái thân niệm Phật cho đến cái thọ niệm Phật, rồi tới những cái khác mà chúng ta phải thấy rằng khi mà chúng ta chưa có pháp hành mà chỉ nói suông thôi thì đó là lý pháp, chứ chưa phải là hành pháp. Mà bây giờ ở đây chúng ta phải kê ra chúngta phải có pháp hành liền. Chứ nếu mà nói như vậy không ấy thì chúng ta chỉ nói cái lý mà không có cái hành. Vậy thì bắt đầu chúng ta trở lại vị trí là Thân niệm Phật, rồi từng đó chúng ta mới đi tới là Thọ niệm Phật, rồi Tâm niệm Phật, rồi Pháp niệm Phật như thế nào để cho có pháp hành kèm theo. Chứ nếu chúng ta cứ lý pháp mà nói như vậy, không có pháp hành thì chúng ta lấy gì chúng ta tu. Biết cái gì mà chúng tathânniệm Phật được đây? Mình nóinhư vậy chứ sống được như Phật đâu phải dễ. Đâu có phải chuyện dễ đâu, cho nên phải pháp hành. Mà pháp hành, tức là Giới hành của chúng ta.

Bây giờ trở lại vấn đề thứ nhất là thân niệm Phật.

Vậy thì Thân niệm Phật như thế nào?

À, Giới hành Hộ trì sáu căn.Như hồi nãy Thầy có nói giới thiệu rồi đó, chúng ta phải hộ trì sáu căn chúng ta trước. Bắt đầu người tu sĩ muốn thân hành niệm Phật thì phải chọn nơi tâm chuyên nhất cảnh. Mình muốn tu tập mà, mình muốn hành cái pháp chứ không phải muốn nghe cái lý suông không. Muốn nghe cái lý suông không thì cần gì mình phải chọn cái cảnh. Cho nên trước tiên mình muốn hành cái pháp này, mình muốn trau dồi cái thân tâm mình, sống cái thân của mình như Phật, giống như Phật thì mình phải chọn một cái cảnh, một cái nơi, tâm chuyên nhất cảnh. Vậy thì tâm chuyên nhất cảnh như thế nào? Này, quý thầy, quý thầy phải lựa chọn một chỗ an trú thanh vắng. Mình tu hành là luôn luôn phải tìm chỗ thanh vắng à, chứ không thể nào mà thiếu chỗ thanh vắng mà chúng ta tu tập được.Chúng ta phải nhớ như vậy thì chúng ta mới có thể thực hiện được. À, một khu rừng, một gốc cây, một ngọn núi, một bãi tha ma, một hang đá, một sơn lâm giữa trời không mông quạnh, một đống rơm, một chòi lá, bên ghềnh suối, đó là nơi lý tưởng để chúng ta thân hành niệm Phật.

Nghĩa là lấy cái thân của chúng ta mà niệm Phật đó. Chúng ta phải chọn cái nơi đó, gọi là chọn cảnh gọi là tâm chuyên nhất cảnh, cái tâm của mình nó muốn tu hành được thì tức là cái cảnh nó phải hợp. Mà cái cảnh nó không hợp, như mình sống trong gia đình, vợ con này kia rồi đủ thứ, anh em dòng họ của mình, thử hỏi mình tu được cái này không, mình trau dồi được không, chắc chắn là không được đâu. Cho nên chúng ta phải chọn một cái nơi nó yên tịnh, thanh vắng, rồi chứng đó chúng ta mới nỗ lực mà trau dồi cái thân của mình thì mới sống đúng như Phật được.

Vậy thì đầu tiên chúng ta thân Phật thì phòng hộ sáu căn. Vậy thì bây giờ mình cũng muốn phòng hộ sáu căn của mình như Phật để cho mình cũng đi mà ngó nhìn xuống, mình cũng như Phật thì mình phải làm sao, mình phải tập như thế nào, mình phải hướng tâm mình nhắc như thế nào để cho mình đạt được? Đó là cái hành động của chúng ta gọi là Pháp hành, hay là Giới hành.

Vậy thì phòng hộ sáu căn như thế nào?

A. Loại sắc nào do mắt phân biệt,đây bây giờ đó, đây là giải thích thêm để chúng ta thấy: loại sắc nào do mắt phân biệt khi thân ta, khi ta thân cận mà bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm thì loại sắc do mắt phân biệt đó thì ta nên tránh xa.Nghĩa là bây giờ, một cái vật gì có hình tướng, có sắc tướng mà khi mà chúng ta thân cận nó, chúng ta ở gần nó, như máy móc, cái này cái nọ cái kia, tất cả mọi cái mà trước mặt Thầy đây, từ cái ca, từ cuộn băng, từ cái đồng hồ, tất cả mọi vật trước mặt Thầy đây, đó là sắc đó. Mà khi mà Thầy thân cận, thì bất thiện pháp nó tăng trưởng mà các thiện pháp nó suy giảm. Tại sao vậy? Tại vì bây giờ có những vật này thì có những người họ thèm muốn, họ sẽ tìm cách trộm cắp lấy, thì như vậy là ác pháp hay thiện pháp? Rồi bây giờ Thầy mất các vật này đi, tâm Thầy có buồn không? À như vậy là có buồn, có phiền não. À, hoặc là có người họ họ lỡ làm hư đi, tức giận lên, như vậy là ác pháp nó tăng trưởng. Những vật này gần gũi, thân cận Thầy, ác pháp nó tăng trưởng và thiện pháp nó làm cho Thầy suy giảm đi. Như vậy Thầy có thân cận nó không. Cho nên vì vậy mà khi suy nghĩ như vậy thì muốn phòng hộ sáu căn của chúng ta, lúc bấy giờ con mắt mà thấy mọi vật thì chúng ta phải thấy thân cận nó mà thiện pháp tăng trưởng thì chúng ta thân cận, mà thiện pháp không tăng trưởng, ác pháp tăng trưởng thì chúng ta xa lìa nó đi.

Chẳng hạn quý thầy sau mùa an cư kiết hạ này, quý thầy về lãnh cái chùa, do đó quý thầy lỡ làm trụ trì, vậy mà làm công chuyện này công chuyện kia đủ loại hết, do đó các pháp ác nó đến, nào là chuyện phải xử phạt, nào là chuyện phải lo xây dựng chùa chiền, tất cả  mọi cái này, rồi phải đi kêu gọi Phật tử đóng góp đủ thứ hết, đủ loại hết. Như vậy các thầy thấy đó là ác pháp hay là thiện pháp? Nó có giải thoát được cho quý thầy không, hay là quý thầy chịu đau khổ ở trong các pháp đó? Ờ, như vậy là quý thầy thấy rõ đó là ác pháp, thì cho nên tăng trưởng thì chúng ta không nên thân cận, vậy là nên giao chùa cho họ, họ làm gì đó làm. Tại vì đó là bất thiện pháp rồi, chứ không phải là ác pháp.   

B. Loại sắc nào do sắc phân biệtkhi ta thân cận bất thiện pháp suy giảm mà thiện pháp tăng trưởng.À như vậy như thế nào? Bây giờ chúng ta bỏ hết, bỏ hết, chúng ta chỉ còn ...(mất tiếng) thì các thầy có thấy thiện pháp tăng trưởng không? Nó tăng trưởng rất nhiều, nó làm cho chúng ta thấy nó không còn thấy bận tâm lo lắng, không còn sợ hãi, không còn sợ trộm cướp, không còn gì hết. Như vậy là chúng ta thấy an ổn không? Quá an ổn cho nên thiện pháp tăng trưởng. Làm chúng ta không còn mất mát gì hết, chúng ta thấy an vui, ngủ rất yên mà không sợ cái gì hết. Cũng như bây giờ chúng ta các cái pháp này, các cái sắc này nó làm chúng ta quá lo lắng. Cũng như bây giờ quý thầy giữ một cái chùa mà cái chùa để cho người ta phá hoặc là người ta vô người ta rinh Phật, người ta rinh mấy cái chuông đồng hết rồi thì quý thầy thấy có khổ không? Khổ quá! Khổ quá! Cho nên mình làm trụ trì mà để mất như vậy phật tử họ đến họ nói này nói kia chịu không nổi rồi. Đó không phải là ác pháp sao? Ở trong chùa lại có cái tượng bằng vàng nữa, cái ông Phật Thích Ca bằng vàng mà cở độ chừng 3 ký lô mà để ngồi trong ngóc đó thì chắc chắn là không thể nào mà chúng không lấy được hết. Cho nên phải đem ông Phật này dấu ở trong rương hoặc đem… chứ không dám để trên bàn Phật thờ đâu. Như vậy là phải sợ sệt đủ thứ hết. Cho nên những cái pháp đó là pháp gì? Pháp ác. Cho nên vì vậy thôi đem cái ông Phật này ra cái tiệm thợ kim hoàn nào đó làm ơn ông chẻ nó ra ông nấu nó ra làm đồ nữ trang bán đi chứ để tui ông chùa cực quá đi. Tui giữ ông cũng mệt tui đó.

Đó như vậy là chúng ta xa lìa các ác pháp, các sắc pháp đó. Nó không thể là những thiện pháp được cho nên dù là ông Phật đẹp tốt nhất chúng ta cũng rất sợ hãi. Cho nên chúng ta nghe ở những cái nơi chùa mà có những cái ông Phật bằng những cái loại quý giá, bằng những ngọc, bằng những vàng bạc châu báu, bằng những loại quý thì hầu như cái ông thầy ở đó ông quá lo lắng, hở ra là sợ người ta rinh ông Phật đó mất đi. Cho nên ở đây Thầy nói ở trên cái tượng Phật thôi mà người ta chỉ gắn cái hột xoàn ở giữa cái trán của ông Phật thôi mà ông Phật để đó người ta cũng lo nữa. Cái hột xoàn quá lớn rồi, nó chói sáng ra, nó nhiều màu sắc nó chói sáng ra, do đó người tacũng cạycái đó người ta lấy nó ra. Vì vậy hầu hết trong những chùa mà có những ông Phật bằng những vật báu là cái tai họa lớn cho ông thầy đó chứ không phải sung sướng gì. Còn cái chùa mà bằng tranh, bằng vách, bằng lá ông thầy ngủ ngon lắm, không có lo gì hết. Mà tượng Phật bằng đất thì chắc không ai rinh đâu. Cho nên càng sung sướng chúng ta bằng mấy. Còn trái lại, cái chùa càng sang càng đẹp nào là gạch ốp lát rồi này kia coi chừng chúng ta cứ tối ngày phải chùi rửa, không có chùi rửa thiên hạ họ lại nói này nói kia, ông thầy ở dơ quá trời, cái chùa mà gạch ốp lát như vầy mà ông không chùi rửa. Người ta nói này nói kia mình khổ lắm. Cho nên cái chùa mà nền đất thì khỏe lắm, không có cực khổ gì nhiều. Do đó là thiện pháp chứ không phải ác pháp. Còn tất cả những cái sang đẹp của thế gian nó cũng không phải vĩnh viễn mà trường tồn nhưng nó làm cho chúng ta phải khổ sở với nó tức là ác pháp.

C.Loại tiếng nào do tai phân biệt,đó như vậy là bây giờ chúng ta thấy hồi nãy chúng ta nói là sắc, do những sắc nào bây giờ là những tiếng nào mà nó đem đến cho chúng ta những cái thiện pháp mà tăng trưởng và ác pháp mà suy giảm thì cái tiếng đó chúng ta nên. Cũng như bây giờ quý thầy nghe cái âm thanh thầy thuyết giảng mà đem đến cái lòng thiện, đem đến cái sự tu tập của quý thầy thì cái tiếng đó là cái tiếng tốt. Còn cái tiếng mà nghe nó rỉ ra rỉ rả làm cho chúng ta nghe nó thương vay khóc mướn, làm cho chúng ta đau sầu khổ muộn, nghe nó thương nhớ cái này thương nhớ cái kia thì quý vị cái tiếng đó nó có tốt không? Nó không có tốt. Những cái tiếng mà chửi lộn, mà đánh mắng nó không tốt đâu. Cho nên vì vậy mà chúng ta nên xa lìa các ác pháp đó. Mà hãy gần gũi với những âm thanh mà dạy đúng chánh pháp để chúng ta ly tất cả những thế giới vô thường, hoại diệt này. Ly tất cả cái thế giới mà vô hộ vô chủ này, ly tất cả cái thế giới tham ái này, khao khát này không bao giờ cùng tận thì chúng ta phải ly nó ra. Tức là chúng ta phải chọn lấynhững cáitiếng nào đúng mà tiếng nào sai.

D.Rồi đến cái loại hương nào do mũi mà phân biệt,cái hương nào mà là cái hương giải thoát, còn cái hương nào là cái hương làm cho chúng ta đam mê, chúng ta nghe mùi hoa, mùi này kia, mê quá, thơm quá. Sự thật nó làm cho chúng ta đam mê. Sự thật cái mùi hương đạo đức, mùi hương nhân quả thì cái mùi hương đó nó làm cho chúng ta giải thoát. Mùi hương đó nó đi ngược gió, nó đi bốn phương được. Còn cái mùi hương của các loài hoa nó chỉ đi theo cái chiều gió xuống thôi, nó không có thể đi ngược gió trở lên. Còn mùi hương của đạo đức nhân quả nó sẽ đi ngược gió, nó là những mùi hương rất tốt. Cho nên chúng ta nên chọn lấy những mùi hương tốt, nó sinh ra thiện pháp, nó làm cho chúng ta không làm những hành động ác, do đó chúng ta nên chọn lấy những mùi hương tốt đó.

E. Loại vị nào do lưỡi phân biệt.Ở đây những loại vị mà phân biệt ngon, dở, ngọt bùi của thế gian thì loại vị đó là loại vị bất tịnh, ảo giác, chúng ta hãy xa lìa đi, còn cái loại vị mà ly dục li bất thiện pháp, nó sinh ra hỷ lạc của ly dục ly bất thiện pháp thì chúng ta hãy chọn cái đó đi. Như vậy thì ở trong bốn thiền thì ta thấy từ cái thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư nó do chúng ta ly những cái vị mà thế gian, nó làm chúng ta ly ra hết, do đó chúng ta mới thọ hưởng được những cái vị mà xuất thế gian, những vị đó nó làm chúng ta liên tục mãi mãi có cái sự kéo dài mãi, cái sự hỉ lạc của nó mãi. Còn cái loại vị mà hiện giờ chúng ta đang thọ hưởng của thế gian thì bỏ vô miệng thì thấy ngon, còn nuốt vô cổ thì hết ngon rồi, nó chỉ chớp mắt à, nhai nhai cóchút nuốt vô cái sạch, không còn thấy ngọt nữa. Thì loại vị đó chúng ta nên lìa nó đi, bỏ nó đi.

F. Loại xúc chạm nào mà do thân phân biệt.Ví dụ như loại xúc chạm gây sự cảm xúc khoái lạc cái này cái kia gây sự êm ấm như nệm mút, như chăn lông, như cái này kia làm chúng ta thấy êm ấm thân của chúng ta bằng cách này, bằng cách kia thì từ đó chúng ta phải xa lìa nó đi. Đó là những cái nó cám dỗ, nó quyến rũ chúng ta tham áimà không bao giờ hết được. Do đó chúng ta hãy tìm lại những sự xúc chạm bằng cái tâm thanh tịnh của chúng ta, bằng cái thân thanh tịnh của chúng ta đang ở trong cái sự thiền định thì xúc chạm đó là xúc chạm làm chúng ta bất động, bất dao động, thì lúc bấy giờ đó là những cái pháp mà chúng ta cần phải đi theo cái  đường đó mà các thiện pháp tăng trưởng, các ác pháp suy giảm.

G. Loại pháp nào do ý phân biệt.Khi thân ta thân cận, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm thì loại pháp ấy nên xa lánh.Bây giờ có những lời dạy mà cái lời dạy đó đem cho chúng ta đến cái ác pháp tức là chúng ta không đến. Cũng như bây giờ người ta nói giờ cái câu nói đó là rất hay nhưng mà chúng ta gần gũi nó, chúng ta thường hay lấy câu đó hoặc lấy cái ý đó mà chúng ta tranh cãi với thiên hạ cho mình hơn thua thiên hạ thì cái đó có phải là pháp đúng không? Không phải là pháp đúng đâu. Pháp đó nó sinh ra ác pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm. Còn pháp nào mà chúng ta biết nhẫn, biết nhịn, biết nhường người ta, người ta muốn tranh luận thì thôi mình làm thinh, chẳng hơn tranh luận gì với ai thì những pháp đó là những pháp làm cho mình được giải thoát và người khác cũng không thù hận mình. Vì vậy cho nên những cái pháp như vậy thì chúng ta thân cận để cho tâm của chúng ta được giải thoát và người khác được giải thoát. Cho nên khi mà đến gần với người nào mà họ muốn tranh hơn tranh thua với mình thì mình luônluônnhẫn nhịn họ, không nên tranh hơn tranh thua họ. Những pháp đó là phápmà thiện pháp tăng trưởng. Chúng ta biết tu tập như vậy thì đó là những pháp đúng. Còn những pháp mà róng họng mà tranh nhau hơn thua thì đó là những pháp không đúng. Như vậy là ác pháp nó tăng trưởng, thiện pháp nó suy giảm.

Giới hạnh hộ trì các căn như thế nào?

Bây giờ thì chúng ta đã học qua cái phòng hộ 6 căn rồi thì bây giờ tới cái giới hành nó hộ trì các căn của chúng ta như thế nào?

Khi tìm được nơi yên tĩnh, vắng vẻ ta ngồi kiết già, thẳng lưng, đặt niệm phòng hộ sáu căn trước mắt, ta dùng trạch pháp, chọn lấy một câu rồi dùng câu đó làm pháp hướng như lý tác ý:

Câu thứ nhất:“Phật đi không ngó qua ngó lại, chỉ nhìn xuống đất quan sát từng bước đi của mình để tránh vô tình làm đau khổ chúng sinh. Thân ta niệm Phật phải thực hiện đi giống như Phật”.

Đó là mình dùng cái pháp hướng này để mình nhắc mỗi lần mình bước đi mình nhắc trước. Tức là câu thứ nhất đó, câu thứ nhất là pháp hướng đó, đây là pháp hành của chúng ta rồi. Cho nên trước khi mà chúng ta đi hoặc là chúng ta đặt một cái niệm phòng hộ 6 căn rồi chúng ta ngồi thẳng lưng, kiết già để chúng ta nhắc như vậy để sau khi mà chúng ta bước đi là chúng ta nhớ liền, chúng ta không quên. Cho nên khi mà chúng ta bước đi thì cái thân hành của chúng ta nó nhìn xuống. Mắt chúng ta nhìn xuống, nó giữ gìn 6 căn của chúng ta mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta, không ngó qua ngó lại, không nhìn lên nhìn xuống, tập trung ở dưới bước chân của chúng ta đi mà hàng ngày chúng ta phải đặt niệm trong những buổi yên tĩnh chúng ta ngồi chúng ta đặt niệm chúng ta dùng pháp hướng chúng ta nhắc tâm mình, cho đến khi mà thân chúng ta bước đi là chúng ta đã nhớ liền hoặc là chúng ta không nhớ thì chúng ta lại dùng pháp hướng đó nhắc một lần nữa rồi chúng ta lại bước đi cho nên những câu này thì quý thầy phải thuộc lòng mà phải nhớ thuộc để thành ra một cái trạch pháp để nhắc chúng ta.

Ở đây thầy xin nhắc lại câu này: “Phật đi không ngó qua ngó lại, chỉ nhìn xuống đất quan sát từng bước đi của mình để tránh vô tình làm đau khổ chúng sinh. Thân ta niệm Phật cũng vậy, phải thực hiện đi giống như Phật”.

Đó là mình nhớ câu nói đó. Đó là khi ngồi thì mình đặt niệm câu này trước mặt, dùng trạch pháp này mà nhắc mình, đó là cái pháp để phòng hộ 6 căn của chúng ta, khi bước đi, khi làm những việc gì thì chúng ta cũng nhớ để làm những việc đó.

Câu thứ 2:

Sáu căn tiếp xúc với 6 trần dính mắc các pháp, tạo biết bao nhiêu điều khổ cho kiếp người. Thân ta niệm Phật thì phải giống như thân Phật, phòng hộ 6 căn đi, đứng, nằm, ngồi, ý tứ từng hành động, nhẹ nhàng, thanh thản, không mong cầu, không ước muốn. Chỉ biết khoan thai bước đi mà thôi”.

Đó là câu thứ 2 để chúng ta hướng tâm nhắc nó. Ví dụ như bây giờ chúng ta ngồi kiết già, lưng thẳng chúng ta nhắc câu thứ nhất để cho mỗi ngày chúng ta lam cho thân tâm chúng ta thấm nhuần cái chỗ mà thân hành, cái chỗ mà hộ niệm 6 căn của chúng ta.

Tiếp tục câu thứ 2 chúng ta nhắc lại lần nữa.

Câu thứ 3:

“Thong thả mà đi, thanh thản mà đi, mắt nhìn xuống bước đi, tai lắng nghe bước đi, không nhìn ngó đôi bên”.

Đó là chúng ta nhắc nó, chúng ta hướng tâm chúng ta nhắc cái thân của chúng ta để cho giống Phật đó, để làm y như Phật đó. Đây là pháp hành đó chứ không phải gì, cái chuyện siêng năng tập thì quý thầy đạt được kết quả đó mà quý thầy không siêng năng thì quý thầy chịu lấy, ở đây Thầy trạch pháp sẵn ra câu này để giúp cho quý thầy tu tập mang được kết quả tốt là phòng hộ được 6 căn của mình không dính mắc 6 trần.

Câu thứ 4:

“Các pháp xung quanh ta là vô thường, là khổ, là tai hại, ta hãy nhìn và nghe từng bước đi của ta”.

Nghĩa là bây giờ mình ngó bên đây, bên kia, pháp này pháp kia nó đều dính vào trong mắt của chúng ta, nó dính vào lỗ tai chúng ta thì nó làm cho chúng ta khổ. Mà nó toàn là các pháp đều là vô thường hết. Các sắc pháp, các tướng của nó đều là vô thường hết. Tại sao chúng ta lại nhìn nó làm gì? Cho nên chúng ta hãy nhìn cái bước đi của chúng ta mà nghe và nhìn bước đi của chúng ta, từng bước đi của chúng ta, do đó chúng ta có cần để ý chúng nữa không? Mà không cần để ý chúng thì tức là chúng ta đã phòng hộ 6 căn của chúng ta chứ gì? Đó là câu trạch pháp thứ tư.

Các thầy nhớ chưa? Nhớ kỹ như vậy, khi mà chúng ta không có đi thì chúng ta ngồi chúng ta cũng nhắc cái tâm của mình, hướng tâm là nhắc tâm của mình. Hàng ngày nhắc như vậy tức là chúng ta sẽ thấm nhuần được sự phòng hộ 6 căn. Mà phòng hộ được 6 căn tức là chúng ta đã thoát ra khỏi biết bao nhiêu pháp, nó luôn luôn trói buộc, dính mắc ở trong tâm ta. Cho nên muốn phòng hộ được 6 căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của mình không dính các pháp thì phải hàng ngày siêng năng mà tu tập, tinh tấn mà tu tập chứ không thể biếng trễ mà được. Muốn giải thoát mà, muốn ra khỏi sinh tử luân hồi mà, muốn thoát ra 4 cảnh giới thế giới vô thường, nó hoại diệt này mà, nó vô chủ, vô hộ này, nó vô sở hữu này, nó tham đắm, nó không bao giờ cùng. Muốn ra khỏi nó mà những pháp đầu tiên này chúng ta không tu tập thì chúng ta tu tập pháp nào giờ. Mà không phòng hộ nó thì làm sao chúng ta không dính mắc. Cho nên phải nhắc đi nhắc lại để thấm nhuần được. Vì vậy mà chúng ta đã phòng hộ được 6 căn, mà 6 căn không dính mắc thì chúng ta sẽ thấy được sự giải thoát của chúng ta tức thời, ngay đây, nó không còn phải đợi một cái thời gian nào nữa hết.

Nghĩa là tu tập đúng cách thì quý thầy không thấy cái thời gian nó mất đâu.

Câu thứ 5:

“Các pháp luôn luôn có sự lôi cuốn, cám dỗ, thu hút, dễ khiến ta dính mắc khả hỷ, khả lạc, khả ái. Tâm ta phải bất động trước các pháp. Mắt ta nhìn xuống, tai nghe tiếng bước chân đi”.

Đó, mình phải trạch cái pháp ra để thấy rằng, các cái pháp xung quanh chúng ta nó dễ cám dỗ, nó thu hút mình lắm. Cho nên vì vậy mình phải nhìn xuống cái bước đi của mình, vì nó làm cho chúng ta thấy thích lắm. Khả ái, khả lạc, khả hỷ, nó làm chúng ta thích thú, đắm mê lắm cho nên tâm ta phải bất động trước các pháp đó. Mắt ta phải nhìn xuống, tai ta phải nghe tiếng bước chân chúng ta đi, đừng có nghe những tiếng ở bên ngoài, đừng có thấy những cái sắc ở bên ngoài. Đó là pháp hướng nhắc cho chúng ta, hộ trì, giữ gìn, phòng hộ 6 căn của chúng ta.

Đó là những câu pháp hướng mà quý thầy cần phải thuộc để hàng ngày đặt niệm trước mặt mà quý thầy nhớ chứ nếu quý thầy không nhớ thì không có pháp để quý thầy tu đâu. Nhớ kỹ như vậy thì quý thầy mới thấy càng ngày thì quý thầy mới thấy được thế gian này vô thường, các pháp là vô thường, là khổ.

Câu thứ 6:

“Các pháp thế gian vô thường, khổ, vô ngã, có nhiều tai ương, có nhiều nguy hiểm, ta phải buông xuống hết, không để 6 căn dính mắc 6 trần”.

Đó là một câu để nhắc chúng ta, để chúng ta xả xuống, không để cho nó dính mắc với chúng ta. Chúng ta nhìn các pháp thế gian là khổ, là vô ngã, nó có nhiều tai ương, nó nguy hiểm lắm.

Ví dụ như bây giờ quý thầy thấy, mình không có tiền chứ mình có tiền rồi thì nó sẽ xảy ra những tai họa cho mình. Mình không có chùa to, mình không có tháp lớn thì nó chưa có tai họa cho mình đâu. Mà mình có chùa to tháp lớn nó có những sự kiện tai họa đến cho mình, nó xảy ra chuyện này chuyện kia. Phật tử thì kiện thưa đầu này đầu kia, còn cái chùa lá không ai mà tranh dành hết. Còn cái chùa tốt người ta tranh giành qua lại. Mình làm ông thầy ở giữa, trời, xử không có được, nói gì họ cũng không nghe hết. Đó quý thầy thấy. Đây mình là những người tu sĩ, mình cứ lấy ở trong cái chùa mình dễ hiểu hơn hết. Còn ở ngoài đời thì biết bao nhiêu những chuyện khác nó nguy hiểm lắm, nó tai họa lắm. Do đó mình lấy những câu này để mình nhắc nhở mình để mình xa lìa nó.

Câu thứ 7:

“Sáu căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý phải tập trung dưới bước đi không được phóng dật theo 6 trần, sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp”.

Đó là câu thứ 7, 6 căn tức là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta phải tập trung dưới bước đi, không được phóng dật theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nghĩa là không được ngó qua ngó lại ở bên ngoài tức là không chạy theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nữa.

Đó là nhắc nhở chúng ta đừng có để mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta mà luôn luôn nó phải tập trung dưới bước đi, nó không cho nó phóng dật ra ngoài. Mình cứ nhắc nhở như vậy thì may ra mới phòng hộ được nó.

Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học.

Các thầy phải nhớ rằng, những pháp hướng này,phải nhớ cho kỹ và hàng ngày phải siêng năng mà tu tập trong khi buổi tối chúng ta không phải ngồi mà hít thở hơi thở không mà nhiều khi chúng ta phải dành cái thời gian mà chúng ta dùng cái pháp hướng này nhắc đi nhắc lại cái tâm chúng ta rất nhiều để phòng hộ 6 căn của chúng ta tu tập. Nếu không khéo thì quý thầy sẽ không đạt được kết quả tốt của nó đâu. Đầu tiên bao giờ bước vào đạo Phật chúng ta cũng phải nhớ rằng là chúng ta phải phòng hộ 6 căn giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Vốn cái tâm của mình nó dễ dính mắc với 6 trần, thân tâm của mình nó dễ dính mắc lắm, cho nên vì vậy mà hở một chút chút nào nó cũng dính mắc mà ngay bước đầu chúng ta không phòng hộ nó thì chúng ta khó thể nào có thể đạt được sự giải thoát được. Cho nên muốn tu tập Thiền định của đạo Phật thì sự phòng hộ là sự kiên quyết đầu tiên. Cho nên chúng ta lấy 3 cái giới đầu tiên là Phật, Pháp, Tăng là lấy những gương hạnh giải thoát mà chúng ta lấy đó mà chúng ta nương vào để mà chúng ta sống một cuộc sống cho đúng cách. Mà muốn sống đúng cách như vậy thì pháp hướng phòng hộ này là phải siêng năng mà chuyên cần tu tập. Nếu không siêng năng, chuyên cần tu tập như vậy thì chắc chắn quý thầy sẽ khó mà đạt được.

Những lời mà Thầy tâm huyết hôm nay Thầy nói, đến cái giai đoạn mà giới hành này là rất quan trọng vì chúng ta sống trong thiện pháp mà không có pháp hành thì không thể nào chúng ta sống được. Nói chúng ta phòng hộ sáu căn mà chúng ta không có pháp hành thì chúng ta chỉ giữ nó có một lúc thôi, chúng ta đi nhìn nó xuống đất có 1 lúc thôi mà không bao giờ chúng ta có thể giữ gìn nó mãi được. Còn hàng ngày chúng ta siêng năng, chuyên cần pháp hướng nhắc tâm chúng ta mãi như vậy nó thấm cái lý thì khi đi ra tự nó đã phải nhìn xuống đất, nó đã thấy được cái thế gian này, cái thế giới này là vô thường, là khổ, là hoại diệt cho nên nó chẳng còn ham muốn một cái vật gì nữa hết. Do sự nhắc này nó làm cho chúng ta giữ gìn thân tâm của chúng ta, mắt tai mũi miệng của chúng ta rất là thanh tịnh. Nó không còn bị đắm nhiễm nữa.

Đó, nhớ như vậy thì quý thầy phải siêng năng, phải siêng năng hết sức mà tu tập vì rồi đây Thầy cũng không còn nhắc nhở quý thầy nữa, do vì vậy mà chỉ còn quý thầy lấy cái bài này mà nghe những lời nhắc nhở của Thầy ở trong băng, lời của Thầy nói ở trong băng nhắc nhở vẫn còn. Nhưng trực tiếp mà như ngày hôm nay, một vị thầy bằng xương bằng thịt mà nhắc nhở quý thầy thì chắc chắn là không còn nữa, chỉ còn lời của Thầy ghi ở trong băng này nhắc nhở quý thầy mà thôi. Dù bất kỳ ở đâu lời nói này vẫn còn, nhưng các thầy sẽ không thấy Thầy nữa. Do như vậy cho nên các thầy phải nhớ kỹ, phải nỗ lực, phải siêng năng, những lời này là những lời tâm huyết, là những lời kinh nghiệm trên bản thân tu tập của Thầy mà Thầy nói ra để cho quý thầy biết mà chính đức phật dạy chúng ta trong kinh điển của Phật cũng là những lời mà Thầy biết rằng những lời tâm huyết của Phật.

Phật nói như lý tác ý, như cái lý giải thoát đó mà chúng ta nhắc nhở, chúng ta tác ý thì chúng ta mới phòng hộ được 6 căn, như cái lý mà tác ý chúng ta mới nhập được định, như cái lý mà tác ý chúng ta mới thực hiện được các cái oai lực, đại oai lực, đại thần lực, đại minh lực. Còn không có như lý tác ý làm sao có được cái đại thần lực, đại oai lực, đại minh lực được. Nên cái như lý tác ý này là cái pháp tuyệt vời quý thầy phải nhớ kỹ đừng có để quên, hàng ngày trau dồi thân tâm của mình liên tục, không được gián đoạn, lúc nào chúng ta cũng phải cần mẫn. Vì con đường sinh tử không thể chờ quý thầy đâu. Nó đến là nó đến chứ không thể nào nói nó hoãn lại cho quý thầy một giây lát được. Cho nên phải siêng năng khi chúng ta còn một chút hơi mà chúng ta phải nỗ lực thực hiện chứ đừng có để tới chừng mà giờ co tay giật chân rồi thì tu không kịp nữa đâu. Nhớ như vậy thì quý thầy mới có thể thực hiện được con đường này.

Trên đây là trạch pháp để phòng hộ 6 căn, nhờ giới hành phòng hộ 6 căn nên oai nghi chánh hạnh của người tu sĩ hiện lên rất rõ nét và xét về quả tu từ bắt đầu vào đạo đã được dạy thân niệm Phật là pháp phòng hộ 6 căn đầu tiên này thì ngay đây trong hiện tại vị tu sĩ ấy cảm thấy mình không còn dính mắc 6 trần nên tâm lúc nào cũng quay hướng vào trong và nhận ra có một trạng thái ly dục ly ác pháp qua sự hành trì này.

Đó quý thầy thấy chưa? Khi mà quý thầy phòng hộ được 6 căn thì ngay đó quý thầy đã thấy được một trạng thái tâm của quý thầy là ly dục ly ác pháp. Phòng hộ thôi, chưa tu gì hết, chưa có một cái gì cả hết, chỉ giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình thôi mà đã ly dục ly ác pháp rồi. Mà ly dục ly ác pháp rồi nó có một cái gì để chứng minh cho chúng ta biết? Nó có một sự giải thoát thực sự, tâm hồn của chúng ta thanh tịnh, thanh thản, làm chúng ta có một niềm hân hoan. Hân hoan đây không có nghĩa là vui theo thế gian mà hân hoan đây là làm cho chúng ta trở thành một người vô sự, vô sự hoàn toàn đối với các pháp thế gian này, vô sự hoàn toàn không còn dính mắc ở trong các pháp thế gian này. Cho nên gọi là vô sự với một tâm hồn vô sự.

Quý thầy chỉ mới tu có bao nhiêu đó thôi mà cũng đủ quý thầy đã được ly dục ly ác pháp rồi còn đòi hỏi gì nữa. Nếu quý thầy siêng năng tu tập, kết quả này càng ngày càng sâu hơn, ly dục ly ác pháp quý thầy càng tiến tới và quý thầy sẽ nhập Sơ Thiền rồi Nhị thiền, rồi Tam thiền, rồi Tứ thiền, rồi làm chủ sự sống chết của thân này, rồi kết quả của nó quý thầy sẽ chấm dứt được luân hồi tái sinh.

Bởi vậy phật pháp kết quả hiện tại không có thời gian. Nghĩa là đạo Phật đã dạy chúng ta tu đúng thì chúng ta không có thời gian mà gọi là phải 5 ngày, 10 ngày mà ngay trong hiện tại là có giải thoát. Tại sao vậy? Tại vì lúc bấy giờ quý thầy chỉ dùng pháp hướng nhắc tâm mình, có gò bó thân tâm mình đâu, có làm cho nó mệt mỏi đâu, có ức chế nó chỗ nào đâu cho nên nó đâu có gì mà rối loạn cơ thể mà quý thầy thấy nhức cái vai, đau cái lưng, tức cái ngực. Đâu có cái gì. Ở đây quý thầy chỉ phải nhắc nó phòng hộ 6 căn, khi đi phải nhẹ nhàng, khoan thai, thư thả không có gì hết, làm sao quý thầy có trạng thái gì khổ đau trong thân đâu, làm sao có những cái gì mà dính mắc trong tâm của quý thầy đâu mà làm cho quý thầy phải giận hờn, buồn phiền, đau khổ?

Cho nên ngay khi phòng hộ 6 căn là quý thầy đã thấy được sự giải thoát thực sự của nó rồi. Ngay khi ngồi thẳng lưng kiết già cũng đâu phải ngồi cho đến khi mà hai chân quý thầy tê, đau nhức khổ sở để rồi quý thầy nói sao tôi ngồi thiền đau nhức. Đâu có ai bảo quý thầy ngồi dữ vậy, quý thầy ngồi trong 5 phút, 10 phút quý thầy đặt cái niệm trước mặt của quý thầy rồi quý thầy dùng pháp hướng mà nhắc cái tâm phòng hộ 6 căn của mình chứ đâu có bắt quý thầy ngồi 1 giờ, 2 giờ, 3 giờ để quý thầy chịu đau chịu khổ với cái thân của quý thầy đâu mà quý thầy nói rằng là khổ là sở? Đạo Phật dạy cho quý thầy ngồi có sự an lạc của ngồi, đi có sự an lạc của đi. Đó là sự giải thoát. Cho nên vì vậy mà quý thầy dùng pháp hướng để nhắc tâm mình thấm nhuần được đạo lý, được giải thoát của nó.

Cho nên quý thầy tu hành mà nghe bất an trong thân và tâm của quý thầy đó là quý thầy tu sai pháp của Phật, đó là pháp của ngoại đạo cho nên làm thân của quý thầy nhọc nhằn, khổ sở, mệt mỏi, hôn trầm, thùy miên, vô ký đó là quý thầy tu sai. Còn quý thầy tu đúng thì không hôn trầm thùy miên mệt nhọc gì cả, lúc nào cũng thấy giải thoát an vui và tỉnh táo rất là tỉnh táo. Đây là mới bước đầu của pháp vào tu phòng hộ 6 căn thì quý thầy đã thấy quá rõ ràng sự giải thoát cụ thể, không thể nào mà chối cãi được.

Điều này chứng minh hùng hồn không thể phủ nhận được. Do thế mới gọi là Tứ bất hoại tịnh, là Tín lực, nghĩa là sức lực của niềm tin mạnh mẽ. Nghĩa là khi chúng ta vào thực hiện phòng hộ 6 căn rồi thì chúng ta tin rằng đúng là chúng ta giải thoát thật sự rồi. Từ chỗ kết quả đó lòng tin của chúng ta mới mạnh mẽ vì gọi là tín lực. Tín lực là lòng tin mạnh mẽ, mà có giải thoát, có kết quả giải thoát, có sự an lạc, có sự thích thú ở trong sự tu tập đó, có sự thanh tịnh ở trong tu tập đó thì chúng ta mới có lòng tin, mà lòng tin đó làm sao mà chúng ta rời với Phật được, rời được pháp, rời được tăng được. Cho nên lòng tin đó gọi là Tín lực. Cho nên Tứ bất hoại tịnh nó làm cho thân tâm thanh tịnh mà trở thành một lòng tin rất mạnh. Đó là sức lực tin tưởng mạnh mẽ của chúng ta.

Phần thứ hai: Thân Phật thường đi ăn xin.

Đó, bây giờ tới cái thân Phật thường đi ăn xin đó thì chúng ta phải tu như thế nào để mà chúng ta sống đúng như Phật. Thân ta niệm Phật cũng vậy. Bây giờ mình lấy thân mình niệm Phật mà cho nên bây giờ thân Phật thì hay đi xin, đi khất thực, đi xin ăn thì thân ta niệm Phật cũng vậy. Không làm tất cả mọi nghề nghiệp, chỉ lấy nghề đi xin làm chánh nghiệp mà nuôi chánh mạng mà thôi. Đó chúng ta lấy cái nghề đó mà chúng ta quyết tâm tu hành nghĩa là chúng ta khéo léo tổ chức như thế nào mà chúng ta hàng ngày có một bữa cơm đi xin ăn mà thôi. Thật khéo léo, khéo léo chứ còn hiện giờ mà chúng ta không khéo léo mà mang bình bát đi ra xóm xin thì không khéo léo. Cái đó là vụng về, nó không phải như đất nước Ấn Độ, cũng phải như đất nước mà có Phật giáo Nam Tông, người ta có sẵn sàng những người Phật tử cúng dường. Còn ở đây chúng ta phải khéo léo, khéo léo để cho tự người ta gom cho mình cái gì mình ăn cái nấy. Cũng như ở đây Thầy khéo léo tổ chức cho quý thầy, quý thầy chỉ đến giờ người ta cho gì thì mình ra mình nhận cái thực phẩm đó mình ăn một ngày một bữa. Ở bên phái nữ người ta cực khổ người ta nấu nướng cái gì đó, người ta cho mình cái gì đó mình chẳng biết, tới giờ đó ăn mình chỉ nhận thôi. Đó là khéo léo để khất thực. Còn nếu mình chịu vụng, mình chấp nhận để đi khất thực bằng cách như thời đức Phật thì đất nước chúng ta chưa cho phép. Do đó chúng ta không khéo léo. Mà không khéo léo thì dân tộc chúng ta sau chiến tranh thì có kẻ nghèo, người giàu. Người giàu thì cho chúng ta không nói gì nhưng người nghèo mà hiểu Phật pháp thì họ phải nhịn bụng để cúng dường cho chúng ta bát cơm thì họ lại nghèo khổ nữa thì chúng ta đâu nỡ tâm làm cái điều đó. Vì vậy chúng ta phải thấy và chấp nhận như thế nào để chúng ta đi xin ăn mà không làm khổ người khác, không làm nghèo người khác. Do vì vậy mà chúng ta khéo tổ chức.

Chẳng hạn bây giờ muốn đi xin, sống như Phật thì phải tổ chức những người cư sĩ họ có tiền bạc, họ vì Phật pháp mà họ hộ trì cho chúng ta tu tập, 1 người hay 5 người, 3 người bây giờ các vị hợp lại, các vị mở một câu lạc bộ hoặc là một tiệm cơm chay ở tại đâu đó, rồi chúng tôi sẽ ở gần đó, mỗi ngày chúng tôi chỉ đến xin 1 bữa cơm thôi, quý vị cho ăn cái gì thì chúng tôi ăn cái nấy, chúng tôi không đòi hỏi gì hết. Do đó các cư sĩ đó họ sẵn sàng họ giúp đỡ mình rồi tới đúng giờ, 11h hay 10h mình ôm bát mình đến đó mình xin một bữa cơm rồi mình trở về cái khu rừng, cái vị trí tu hành của mình, mình thọ thực rồi mình tu hành. Tức là đời sống của chúng ta chỉ lấy cái nghề đó thôi mà nó không làm cho ai đau khổ hết mà nó không làm cho xã hội nghèo đói nữa và hình ảnh đi khất thực như vậy, tổ chứ như vậy là đúng cách, đúng xã hội, đúng thời điểm. Còn nếu không tổ chức được như vậy mà ôm bình bát đi lang thang xin thì không được. Chúng ta làm như vậy sai. Chúng ta phải hiểu như thế này thì chúng ta mới có được cái khéo léo mà có tổ chức để chúng ta thực hiện được cái nghề đi xin để nuôi chánh mạng của chúng ta.

Bây giờ thân Phật thường đi xin ăn, vậy thì chúng ta cũng muốn cho mình được đi xin ăn như vậy thì chúng ta cũng phải dùng cái pháp hướng để nhắc nhở. Nhiều khi chúng ta đi xin mà chúng ta còn ngại ngùng, còn này kia nọ, nó chưa thấm nhuần thì chúng ta cũng khó mà có thể. Vậy muốn đi xin chúng ta phải thường ngày chúng ta ngồi chúng ta tu như thế nào để mà chúng ta dạn dĩ để mà chúng ta đi xin một cách rất tự nhiên.

Câu 1:Hàng ngày ta nên đặt niệm đi xin trước mắt, dùng pháp hướng.Bây giờ mình đặt cái niệm đi xin trước mắt mình ngồi kiết già hẳn hòi, mình muốn cái hành động của mình giống như Phật đi xin ăn đó thì mình phải đặt cái niệm đi xin trước mặt của mình rồi mình dùng cái pháp hướng, mình hướng như thế nào đây?

“Đi xin là một nghề chân chính, người tu hành ta phải đi xin như thế nào không làm khổ mình khổ người”.

Đó, mình đặt cái câu hỏi, cái câu pháp hướng để mình hướng tâm cho đúng cách. Bây giờ mình muốn đi xin thì mình nói, đi xin là một nghề chân chính mà từ xưa đến giờ đức Phật đã chấp nhận cái nghề đó để nuôi chánh mạng của mình không đòi hỏi cái ngon, cái dở, không có đòi hỏi bằng cái này cái kia. Do cái dục lạc về cái ăn nó tạo cho chúng ta khó mà có thể giải thoát được cho nên chỉ có thể đi xin nó mới tạo cho chúng ta xa lìa được cái dục lạc của cái ăn. Vì vậy mà đi xin như thế nào mà không làm khổ mình, khổ người để chúng ta đặt cái niệm đó như thế nào để chúng ta quán xét, khi đặt cái niệm đi xin trước mặt rồi đem pháp hướng này ra đặt ở trước mặt rồi chúng ta dùng cái pháp quán mà chúng ta suy xét. Bây giờ mình ngồi tu đây mà mình muốn trở thành một cái người đi xin ăn như thế nào là hợp lý, đi xin như thế nào mà không hợp lý, đi xin như thế nào mà không làm khổ mình khổ người? Nó như vậy mình mới đặt ra một cái pháp như vậy. Bắt đầu mình đặt ra như vậy mình trạch pháp này ra mình nhắc mình rồi rồi bắt đầu mình ngồi yên, mình ngồi yên rồi nó bắt đầu nó suy tư, bây giờ mình phải tổ chức như thế nào đây để cho đời sống tu hành của mình đi xin mà nó có cái phong cách của đi xin này, mà nó không làm khổ ai hết. Vậy thì bây giờ mình có mấy người phật tử thương mình, giúp mình tu hành nè. Bây giờ tôi chỉ xin quý vị giúp đỡ tôi tu hành 5 năm hay 10 năm, tôi sẽ ở trong thất tôi tu hành 3 năm, quý vị mỗi ngày giúp đỡ cho chúng tôi, cho chúng tôi một bữa ăn thôi. Quý vị nấu sao chúng tôi ăn cũng được vậy, chúng tôi không đòi ngon đòi dở gì hết. Nghĩa là tới cái giờ đó chúng tôi sẽ bưng cái bát đến với quý vị rồi quý vị vui lòng giờ đó quý vị nấu cơm cho cả gia đình rồi thì quý vị nấu thêm cho chúng tôi một ít, một bữa cơm thôi, rồi hàng ngày chúng tôi đến đây chúng tôi xin quý vị thì quý vị giúp đỡ cho chúng tôi. Và mình biết rõ ràng người cư sĩ này họ không phải là người nghèo, họ không phải là người đói mà họ là người làm ăn có tiền bạc cho nên họ chỉ nuôi thêm mình họ không đến nỗi mà họ khổ, do đó chúng ta xin họ. Vì vậy mà họ bằng lòng giúp đỡ chúng ta rồi bắt đầu từ đó chúng ta trở thành một người đi xin ăn đúng cách do đó đặt cái niệm này ra rồi chúng ta đi tìm người nào giúp đỡ cho chúng mình để mình thực hiện cái chánh nghiệp, nghề nghiệp chân chính của người tu sĩ.

Đây là cái câu mà Thầy muốn nhắc nhở quý thầy để sau khi quý thầy rời khỏi Thầy mà không được nương tựa nơi thầy nữa mà quý thầy muốn tu hành đúng chánh pháp. Thứ nhất là quý thầy đã phòng hộ 6 căn của mình, cái thứ hai là quý thầy phải tổ chức như thế nào để cho mình đi xin ăn chứ không tôi trồng ruộng, trồng lúa, trồng khoai, trồng củ rồi tôi tự làm cái này cái kia rồi tôi tự lấy cái đó tôi nấu cơm tôi ăn, tôi cất cái thất ra rồi xung quanh tôi trồng một đám thanh long rồi tôi lấy tiền đó tôi mua gạo hoặc để dành tôi ăn suốt năm tôi tu. Không được đâu. Quý thầy đừng có làm cái điều đó. Điều đó là điều sai.

Quý thầy phải tính như thế nào để hàng ngày có người người ta tự nấu người ta cho quý thầy ăn thôi, rồi người ta nấu ngon nấu dở mặc người ta, quý thầy chẳng biết miễn là mình ăn bữa đó mình no bụng chứ còn quý thầy đừng có để tiền để bạc hoặc thế này kia khác rồi quý thầy tự sắm lấy đồ ăn đồ uống của quý thầy thì cái đó là cái chết của quý thầy, càng lúc quý thầy sẽ càng xa lìa phật pháp đó. Đó không phải là chánh nghiệp nữa đâu. Hoặc là quý thầy về làm một đám ruộng, lấy lúa 5 chục, 10 chục giạ lúa mình để dành cứ hàng ngày mình nấu cơm mình ăn với muối cũng được, chỉ có gạo ăn được rồi thì do đó quý thầy cũng tiêu, không có bao giờ quý thầy giải thoát được đâu. Cho nên quý thầy tổ chức là mình đi xin nó mới diệt cái ngã của quý thầy chứ quý thầy có một bồ lúa mà quý thầy ngồi ăn cái ngã của quý thầy nó càng lớn, nó không có giải thoát được.

Đó là những cái mà thầy đặt ở đây để cho quý thầy thấy rằng khi bắt đầu chúng ta lấy cái thân mà niệm Phật mà đi ăn xin thì thân ta cũng phải đi ăn xin như vậy đó. Thì cái ăn xin của chúng ta bây giờ nó phải có một sự tổ chức hẳn hòi, có sự làm cho đúng cách chứ không phải là đi ăn xin như thời đức Phật được. Vì đức Phật ngày xưa là tại vì ở Ấn Độ nó đã quen, cái phong tục nó quen rồi nên người ta quen, người ta cho những người tu hành, ăn xin như vậy.

Còn ở đây mình không có được như vậy đâu. Cho nên quý thầy phải tự tổ chức, đừng có tránh làm cái nghề này nghề kia hoặc là về mình cất cái thất ở trong cái vườn cây chôm chôm hay sầu riêng hay măng cụt gì đó, tới cái mùa mình đi hái mình bán mình để dành một số tiền rồi do đó mình ở trong khu vườn đó mình ăn mình tu hoặc là mình trồng một đám dừa, do đó hàng ngày cứ lôi dừa mang đi bán lấy tiền mang đi bán về mua gạo ăn thì quý thầy làm như thế này, tu riết như thế này chắc có lẽ quý thầy thành dừa hết. Kêu là thành dừa chứ không phải là thành Phật được đâu. Cho nên làm cái gì nó sẽ thú hướng cái đó, nó sẽ thành cái đó, nó không có kết quả được cho nên ở đây đừng có nghĩ một cái việc gì, một cái nghề gì mà quý thầy làm hết.

Cho nên người ta nói rằng mình ăn không ngồi rồi. Không phải đâu. Tôi không phải ăn không ngồi rồi đâu. Hàng ngày tôi nỗ lực tôi thực sự tôi giải thoát, thân tâm tôi không có phút nào mà tôi ngồi không được, còn quý vị ngồi không nên quý vị mới đi làm nghề này, nghề kia chứ còn tôi không có thì giờ mà tôi ngồi không được. Cho nên cái mà chúng ta tu chúng ta phải biết rằng những cái pháp trạch pháp ra như thế này nó không còn cái thì giờ mà chúng ta đi trồng đi tỉa, đi nhổ cỏ, đi trồng rau trồng cải.

Còn quý thầy nói thôi bây giờ người ta cho cơm mình bây giờ mình đi trồng bí trồng bầu hay gì đó đặng mình hái mình luộc để mình ăn phụ thêm cũng đỡ đi. Do đó quý thầy đừng có làm cái điều đó đâu. Người ta cho cơm với muối ăn cơm với muối chứ đừng có nghĩ rằng ừ tôi ra tôi hái nắm rau lang vô tôi luộc tôi ăn với nó thì cũng đỡ hơn không có rau thì chắc bệnh. Nhất định bệnh chết chứ nhất định không có trồng rau chứ đừng nói chuyện. Phải hiểu rằng đi xin ăn mà mình còn chấp hành một cái không đi xin ăn mà lại còn cái của mình có mình hái ra mình ăn thì cái chuyện đó không được.

Ví dụ trong thất của quý vị có một cây cam hay cây bưởi hoặc cây nhãn hoặc cái gì mà có trái. Cái người mà người ta thường cúng dường cho quý vị gạo, đồ ăn, đồ này kia cơm hàng ngày cho quý vị thì khi cây đó có trái thì quý vị đừng hái mà ăn, đừng có hái mà đem bán để dành tiền nữa, những điều đó là cái sai. Cho nên vì vậy quý vị kêu cái người cư sĩ mà hằng cúng dường cho quý vị. Ở đây bây giờ chỗ tôi ở có một cây mận, cây nhãn, hoặc cây xoài gì đó bây giờ có trái, xin nhờ cư sĩ bán cái này đi coi ai không có giúp đỡ họ hoặc là cư sĩ hàng ngày đã giúp đỡ cho tôi cái bữa ăn như vậy thì những cái này tôi không có ăn phi thời được, tôi không có lấy cái trái cây này mà tôi ăn phi thời hay quý thầy nói là tôi không ăn phi thời nhưng bây giờ xài của mình chín, thôi để hái 5-10 trái trưa mình ăn cơm rồi bắt đầu để 5-10 trái mình ăn thêm nữa. Cái đó cũng sai. Tất cả những cái này đều do cái tâm tham dục của mình ra hết.

Cho nên bây giờ cái cây đó là của mình, của trong thất của mình nhưng mà quý thầy đừng có lấy cái trái cây đó mà quý thầy bỏ thêm vào trong cái bữa ăn của mình, người ta cho mình cái gì đó mình ăn. Thầy không thấy ông Phật mà ở trong cái vườn xoài mà lượm xoài để ăn thêm đâu, điều đó không có…..

BĂNG SỐ 49

Quý thầy có thấy các thiện pháp tăng trưởng không? À, nó tăng trưởng rất nhiều, nó làm cho chúng ta thấy không còn bận tâm lo lắng, không còn sợ hãi, không còn sợ trộm cướp, không còn gì hết. Như vậy là chúng ta thấy an ổn không? Quá an ổn cho nên thiện pháp tăng trưởng, làm cho chúng ta không còn mất mát gì hết, chúng ta thấy an vui, ngủ rất yên mà không sợ cái gì hết.

Còn bây giờ chúng ta các pháp này, các sắc pháp này nó làm cho chúng ta quá lo lắng. Cũng như bây giờ quý thầy giữ một cái chùa, mà cái chùa để cho người ta phá hoặc là người ta vô người ta rinh Phật, người ta rinh các chuông đồng hết rồi, quý thầy thấy có khổ không? Khổ quá, khổ quá, cho nên mình làm trụ trì mà để mất như vậy Phật tử họ đến họ nói này nói kia là chịu không nổi rồi, đó không phải là ác pháp không? Ở trong chùa lại có cái tượng bằng vàng nữa, cái ông Phật Thích Ca bằng vàng mà cở độ chừng ba ký lô à, mà để ngồi trong góc đó là chắc chắn là không thế nào mà chúng không lấy được hết. Cho nên phải đem ông Phật này giấu ở trong rương hoặc đem chứ không dám để trên bàn Phật thờ đâu. Như vậy là phải sợ sệt đủ thứ hết, cho nên do đó những pháp đó là những pháp gì? Pháp ác. Cho nên vì vậy, thôi đem cái ông Phật này ra tiệm kim hoàn nào đó, làm ơn ông chẻ nó ra, ông nấu ra làm đồ nữ trang bán đi, chứ để tui ở trong chùa cực quá đi, tui giữ ổng cũng mệt tui.

Đó như vậy chúng ta đã xa lìa các ác pháp, các sắc pháp đó, nó không là những thiện pháp được. Cho nên dù là ông Phật đẹp tốt nhất chúng ta cũng rất sợ hãi. Cho nên chúng ta nghe ở những nơi chùa mà có những ông Phật bằng những loại quý giá, bằng những ngọc, bằng những vàng bạc châu báu, bằng những loại mà quý, thì hầu như ông thầy ở đó quá lo lắng, hở ra là sợ người ta rinh ông Phật đó mất đi.

Cho nên ở đây Thầy nói chỉ ở trên cái tượng Phật thôi, mà người ta chỉ gắn hột xoàn ở giữa cái trán của ông Phật thôi, mà ông Phật để đó người ta cũng lo nữa, cái hột xoàn quá lớn rồi, nói chói sáng ra, nó nhiều màu sắc nó chói sáng ra. Thì do đó người ta cũng cạy cái đó ra mà người ta lấy nữa. Vì vậy mà hầu hết là trong những cái chùa mà có những ông Phật mà bằng những vật báu là cái tai họa lớn cho ông thầy đó, chứ không phải sung sướng gì hết. Còn cái chùa bằng tranh, bằng vách, bằng lá ông thầy ngủ ngon lắm không lo gì hết. Mà tượng Phật bằng đất thì chắc không ai rinh đâu. Cho nên, càng sung sướng chúng ta bằng mấy.

Còn trái lại mà cái chùa nó càng sang càng đẹp, nào là gạch ốp lát đồ này kia coi chừng chúng ta cứ tối ngày phải chùi rửa, không có chùi rửa thiên hạ họ nói này nói kia ông thầy gì ở dơ quá trời, cái chùa mà gạch ốp lát dày bóng như vậy mà ông không chùi rửa, người ta nói này nói kia mình khổ lắm.

Cho nên cái chùa mà nền đất thì khỏe lắm, không có cực khổ gì nhiều. Do đó, là cái thiện pháp, nó không phải là ác pháp. Còn tất cả những cái sang đẹp của thế gian nó cũng không phải là vĩnh viễn, mà trường tồn nhưng nó làm cho chúng ta phải khổ sở với nó tức là ác pháp.

À, “Lại tiếng nào do tai phân biệt”, như vậy bây giờ chúng ta thấy hồi nãy là sắc, lại các sắc nào. Bây giờ do tiếng nào mà nó đem đến cho chúng ta những cái thiện pháp mà tăng trưởng và ác pháp mà suy giảm thì cái tiếng đó thì chúng ta nên tăng trưởng.Cũng như bây giờ quý thầy nghe cái âm thanh Thầy thuyết giảng mà đem đến lòng thiện, đem đến sự tu tập của quý thầy thì cái tiếng đó là tiếng tốt. Còn cái tiếng mà nghe nó rỉ ra, rỉ rả làm cho chúng ta nghe nó thương vay khóc mướn, làm cho chúng ta đau sầu khổ muộn, nghe nó thương nhớ cái này, thương nhớ cái kia thì những tiếng đó nó có tốt không? Nó không có tốt, những cái tiếng mà chửi lộn đánh mắng cũng không tốt đâu. Cho nên vì vậy, chúng ta nên xa lìa những cái âm thanh đó. Mà hãy gần gũi với những cái âm thanh mà dạy đúng chánh pháp để chúng ta ly tất cả những thế giới vô thường hoại diệt này, ly tất cả các thế giới vô hội, vô chủ này, ly tất cả các thế giới mà tham ái này, khao khát này không bao giờ cùng tận, chúng ta phải ly nó ra. Tức là chúng ta phải chọn lấy những cái tiếng nào đúng mà những tiếng nào sai.

Rồi đến “Cái loại hương nào do mũi mà phân biệt”, cái hương nào mà là hương giải thoát, cái hương nào làm cho chúng ta đam mê. Chúng ta nghe mùi hoa, mùi này kia, mê quá, thơm quá. Sự thật nó làm cho chúng ta đam mê. Cái mùi hương đạo đức, cái mùi hương nhân quả, là cái mùi hương đó nó làm cho chúng ta giải thoát, giải thoát. Cái mùi hương đó nó đi ngược gió, nó đi bốn phương được. Còn cái mùi hương mà của loài hoa nó chỉ đi theo cái chiều gió xuống thôi, nó không có thể đi ngược gió trở lên. Còn cái mùi hương của đạo đức nhân quả nó sẽ đi ngược gió nó là những mùi hương rất tốt. Cho nên chúng ta nên chọn lấy những mùi hương tốt nó sanh ra thiện pháp, nó làm cho chúng ta không làm những hành động ác. Do đó chúng ta nên chọn lấy những mùi hương tốt đó.

À, “Cái loại vị nào do lưỡi phân biệt”. Ở đây những cái loại vị mà phân biệt ngon dở, ngọt bùi của thế gian là cái loại vị đó là loại vị bất tịnh, ảo giác, chúng ta hãy xa lìa đi, còn có loại vị mà ly dục ly bất thiện pháp nó sanh ra những cái hỷ lạc của cái ly dục ly bất thiện pháp thì chúng ta hãy chọn cái đó đi. Như vậy thì, ở trong bốn thiền chúng ta thấy, từ cái thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư nó do chúng ta ly những cái vị, cái vị mà thế gian nó làm cho chúng ta ly ra hết, do đó chúng ta mới thọ hưởng được những cái vị mà xuất thế gian, cái vị đó nó làm cho chúng ta liên tục, mãi mãi, có kéo dài mãi cái sự hỷ lạc của nó mãi. Còn cái loại vị mà hiện bây giờ chúng ta đang thọ hưởng của thế gian, thì bỏ vô miệng thì thấy ngon, mà nuốt vô cổ thì hết ngon rồi, nó chỉ chớp mắt à, nhai nhai có một chút cái rồi nuốt vô cái sạch không còn thấy ngọt nữa. Cái loại vị đó chúng ta nên lìa nó, đi bỏ nó đi.

Năm, Cái loại xúc chạm nào mà do thân phân biệt”, cái loại xúc chạm thí dụ như xúc chạm gây cái sự cảm xúc khoái lạc cái này cái kia, gây sự êm ấm như nệm mút, như là chăn lông, như cái này kia làm chúng ta thấy êm ấm thân của chúng ta bằng cách này hay cách kia. Thì từ đó chúng ta phải xa lìa nó đi. Đó là những cái nó cám dỗ, nó quyến rủ chúng ta khao khát mà không bao giờ hết được. Do đó chúng ta hãy tìm lại những sự xúc chạm bằng cái tâm thanh tịnh của chúng ta, bằng cái thân thanh tịnh của chúng ta đang ở trong những cái sự thiền định thì sự xúc chạm đó là cái xúc chạm làm chúng ta làm tâm chúng ta bất động, bất dao động. Lúc bấy giờ đó là những cái pháp chúng ta cần phải đi theo cái đường đó mà các thiện pháp tăng trưởng và ác pháp nó suy giảm.

Sáu, “Loại pháp nào do ý phân biệt, khi thân ta thân cận bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thì loại pháp ấy nên xa lánh”. À, bây giờ có những cái lời dạy, mà cái lời dạy đó nó đem cho chúng ta đến cái ác pháp thì tức là chúng ta không đến. Cũng như bây giờ, người ta nói bây giờ câu nói đó là rất hay, nhưng mà chúng ta gần gũi với nó, chúng ta thường hay lấy câu đó hay hoặc là lấy ý đó mà chúng ta tranh cải thiên hạ cho mình hơn thua thiên hạ thì cái đó có phải là pháp đúng không? Không phải pháp đúng đâu. Pháp đó nó sanh ra ác pháp tăng trưởng, mà thiện pháp suy giảm còn cái pháp nào mà chúng ta biết nhẫn, biết nhịn, biết nhường người ta, người ta muốn tranh luận thì thôi mình làm thinh chẳng hơn tranh luận gì ai. Những cái pháp đó là những cái pháp để cho mình được giải thoát và người khác cũng không thù hận mình. Vì vậy cho nên khi mà những cái pháp như vậy thì chúng ta thân cận, chúng ta để cho cái tâm của chúng ta được giải thoát và người khác cũng giải thoát. Cho nên khi mà đến gần với người nào mà họ muốn tranh hơn tranh thua với mình thì mình luôn luôn nhẫn nhịn họ, không có tranh hơn tranh thua họ, những cái pháp đó là những cái pháp mà thiện pháp tăng trưởng.

Vì vậy mà chúng ta biết tu tập như vậy thì đó là những cái pháp đúng, còn những cái pháp mà rống họng mà tranh nhau hơn thua thì những cái pháp đó là những cái pháp không đúng. Như vậy là ác pháp nó tăng trưởng mà thiện pháp nó suy giảm.

Giới hạnh hộ trì các căn như thế nào?À bây giờ đó thì chúng ta đã học qua cái phòng hộ sáu căn rồi, sáu căn rồi thì bây giờ tới cái Giới hành nó hộ trì các căn của chúng ta như thế nào? Khi tìm được nơi yên tĩnh vắng vẻ ta Ngồi kiết già thẳng lưng, đặt niệm phòng hộ sáu căn trước mắt, ta dùng trạch pháp chọn lấy một câu rồi dùng câu đó làm pháp hướng như cái lý tác ý.

À, Phật đi không ngó qua ngó lại, đây là câu pháp hướng đây:

“Phật đi không ngó qua ngó lại chỉ nhìn xuống đất, quan sát từng bước đi của mình để tránh vô tình làm đau khổ chúng sanh. Thân ta niệm Phật phải thực hiện đi giống như Phật”.

Đó là mình dùng cái pháp hướng này để mình nhắc, mỗi lần khi mình bước đi thì mình nhắc trước. Tức là câu thứ nhất đó, câu thứ nhất mà pháp hướng, đây là pháp hành của chúng ta rồi. Cho nên trước khi mà chúng ta đi hoặc là chúng ta đặt một cái niệm phòng hộ sáu căn. Chúng ta ngồi thẳng lưng kiết già rồi chúng ta nhắc, nhắc như vậy để sau khi mà chúng ta bước đi là chúng ta nhớ liền, chúng ta không quên. Cho nên khi mà chúng ta bước đi thì cái thân hành của chúng ta nó không làm, nó nhìn xuống, mắt của chúng ta nhìn xuống, nó giữ gìn sáu căn của chúng ta, mắt tai mủi miệng thân ý của chúng ta không ngó qua ngó lại, không nhìn lên nhìn xuống, tập trung ở dưới bước chân chúng ta đi. Mà hằng ngày, chúng ta phải đặt niệm, trong những cái buổi yên tịnh, chúng ta ngồi, chúng ta đặt niệm, chúng ta dùng cái pháp hướng chúng ta nhắc tâm mình. Cho đến khi thân chúng ta bước đi là chúng ta đã nhớ liền. Hoặc là chúng ta không nhớ thì chúng ta lại dùng pháp hướng nó nhắc một lần nữa rồi chúng ta lại bước đi. Cho nên những câu này thì quý thầy phải thuộc lòng, phải nhớ để thuộc thành ra một trạch pháp để nhắc chúng ta. Ở đây Thầy xin nhắc lại câu này:

“Phật đi không ngó qua ngó lại chỉ nhìn xuống đất quan sát từng bước đi của mình để tránh vô tình làm đau khổ chúng sanh. Thân ta niệm Phật cũng vậy, phải thực hiện đi giống như Phật”.

Đó là mình phải nhớ câu nói đó, đó là khi ngồi thì mình đặt cái niệm này trước mặt, dùng trạch pháp này mà nhắc mình. Đó là các pháp để phòng hộ sáu căn của chúng ta. Khi bước đi, khi làm những việc gì thì chúng ta cũng nhớ những cái điều đó.

Câu thứ hai:

“Sáu căn tiếp xúc sáu trần dính mắc các pháp tạo biết bao nhiêu điều khổ cho kiếp người. Thân ta niệm Phật thì phải giống như thân Phật phòng hộ sáu căn đi đứng nằm ngồi, ý tứ từng hành động nhẹ nhàng, thanh thản, không mong cầu, không ước muốn, chỉ biết khoan thai bước đi mà thôi”.

Đó là câu thứ hai để mà chúng ta hướng tâm nhắc nó. Thí dụ như bây giờ, chúng ta ngồi kiết già, lưng thẳng chúng ta nhắc câu thứ nhất để cho mỗi ngày chúng ta làm cho thân tâm chúng ta thấm nhuần cái chỗ mà thân hành, cái chỗ mà hộ trì sáu căn của chúng ta. Câu thứ hai, tiếp tục câu thứ hai chúng ta nhắc lại lần nữa.

Và câu thứ ba, đây là câu thứ ba:

“Thong thả mà đi, thanh thản mà đi, mắt nhìn xuống bước đi, tai lắng nghe bước đi, không nhìn ngó đôi bên”.

Đó là chúng ta nhắc nó, chúng ta hướng tâm chúng ta nhắc nó, nhắc cái thân của chúng ta để cho giống Phật đó, để làm y như Phật đó. Đó thì quý thầy đây là pháp hành đó chứ không phải là một cái chuyện, siêng năng tập thì quý thầy sẽ đạt được kết quả đó, mà quý thầy không siêng năng thì quý thầy chịu lấy. Ở đây Thầy trạch pháp ra sẵn những câu này để giúp cho quý thầy tu tập mang được kết quả tốt là phòng hộ được sáu căn của mình không dính mắc sáu trần.

Câu thứ tư:

“Các pháp xung quanh ta là vô thường, là khổ, là tai hại, ta hãy nhìn và nghe từng bước đi của ta.”

Nghĩa là bây giờ mình ngó bên đây bên kia, pháp này pháp kia, nó đều dính vào trong mắt của chúng ta, nó dính vào lỗ tai của chúng ta, thì nó làm cho chúng ta khổ, mà nó là toàn là các pháp đều là vô thường hết, các sắc pháp, các sắc tướng đều là vô thường hết. Tại sao chúng ta lại nhìn nó làm gì, cho nên chúng ta hãy nhìn bước đi của chúng ta, mà nghe và nhìn bước đi của chúng ta, từng bước đi của chúng ta. Thì do đó, chúng ta có cần để ý chúng không? Mà không cần để ý chúng, thì tức là chúng ta đã phòng hộ sáu căn của chúng ta chứ gì. Đó là câu trạch pháp thứ tư. Các thầy nhớ chưa?

Nhớ kỹ như vậy, khi mà chúng ta không có đi thì chúng ta ngồi, chúng ta cũng nhắc cái tâm của mình, hướng tâm và nhắc tâm của mình, hằng ngày nhắc như vậy tức là chúng ta sẽ thấm nhuần được sự phòng hộ sáu căn. Mà phòng hộ được sáu căn tức là chúng ta đã thoát khỏi biết bao nhiêu pháp, nó luôn luôn nó trói buộc, nó dính mắc trong tâm ta. Cho nên muốn mà phòng hộ được sáu căn mắt tai mũi miệng thân ý của mình không dính các pháp, thì phải hằng ngày siêng năng mà tu tập, tinh tấn mà tu tập, chớ không thể biếng trể mà có thể, mà được. Muốn giải thoát mà, muốn ra khỏi sanh tử luân hồi mà, muốn thoát ra bốn cái cảnh giới, thế giới, nó vô thường, nó hoại diệt này mà, nó vô chủ, nó vô hộ này, nó vô sở hữu này, nó tham đắm, nó không bao giờ cùng. Mà muốn ra khỏi nó, thì những cái pháp đầu tiên này mà chúng ta không tu tập thì chúng ta tu tập pháp nào giờ. Mà không phòng hộ nó thì làm sao chúng ta không dính mắc. Cho nên phải nhắc đi, nhắc lại để thấm nhuần được. Vì vậy mà chúng ta đã phòng hộ được sáu căn, mà sáu căn không dính mắc thì chúng ta sẽ thấy được sự giải thoát của chúng ta tức thời, ngay đây, nó không còn phải đợi một cái thời gian nào nữa. Nghĩa là tu tập đúng cách thì quý thầy thấy cái thời gian nó không mất đâu.

Năm, câu thứ năm:

“Các pháp luôn luôn có sự cảm dỗ, thu hút, dễ khiến ta dính mắc khả hỷ, khả lạc, khả ái. Tâm ta phải bất động trước các pháp, mắt ta nhìn xuống, tai nghe tiếng bước chân đi ”.

Đó, mình phải trạch các pháp ra để thấy rằng các pháp ra, để thấy các sắc pháp xung quanh của chúng mình nó dể cám dỗ, thu hút mình lắm. Cho nên vì vậy đó, mình phải nhìn xuống bước đi của mình, vì nó làm cho chúng ta thấy thích lắm, khả ái, khả lạc, khả hỷ, nó làm cho chúng ta thích thú, đắm mê lắm. Cho nên, tâm ta phải bất động trước các pháp đó, mắt ta phải nhìn xuống, tai ta phải nghe cái tiếng bước chân chúng ta đi, đừng có nghe cái tiếng ở bên ngoài, đừng có thấy những cái sắc ở bên ngoài. Đó là cái pháp hướng nhắc cho chúng ta hộ trì, giữ gìn phòng hộ sáu căn của chúng ta.

Đó là những câu pháp hướng, mà quý thầy cần phải thuộc, để hằng ngày đặt niệm trước mặt, mà quý thầy nhớ. Chứ nếu mà quý thầy không nhớ thì quý thầy không có pháp để quý thầy tu đâu. Nhớ kỹ như vậy thì quý thầy mới thấy càng ngày quý thầy mới thấy được thế gian này vô thường, các pháp là vô thường, là khổ.

Câu sáu:

“Các pháp thế gian vô thường, khổ, vô ngã, có nhiều tai ương, có nhiều nguy hiểm ta phải buông xuống hết, không để sáu căn dính mắc sáu trần.”

Đó là một cái câu để nhắc cho chúng ta, để mà chúng ta xả xuống không có để cho nó dính mắc đến chúng ta. Chúng ta nhìn các pháp thế gian là khổ, là vô ngã, nó có nhiều tai ương, nó nguy hiểm lắm.

Thí dụ như bây giờ, các thầy thấy mình không có tiền, chớ mình mà có tiền rồi thì nó sẽ có xảy ra những tai họa cho mình. Mình không có chùa to, mình không có tháp lớn thì nó chưa có tai họa đâu. Còn mình có chùa to, tháp lớn nó có những sự kiện tai họa đến cho mình, xảy ra chuyện này chuyện kia, Phật tử thì kiện thưa đầu này đầu kia. Còn cái chùa lá hổng ai tranh giành hết. Còn cái chùa tốt thì người ta tranh giành qua lại, mình làm ông Thầy ở giữa. Trời! Xử không có được, nói gì họ cũng không nghe hết. Đó thì quý thầy thấy đây là mình là những người tu sĩ, mình cứ lấy trong cái chùa của mình, mình dễ hiểu hơn hết. Còn ở ngoài đời còn thì những bao nhiêu thứ chuyện khác, nó nguy hiểm lắm, nó tai họa. Do đó, mình lấy những câu này để mình nhắc nhở mình, để mình xa lìa nó.

Bảy:

“Sáu căn mắt – tai – mũi - miệng – thân - ý phải tập trung dưới bước đi, không được phóng dật theo sáu trần sắc – thinh – hương - vị - xúc - pháp”

Đó là cái câu thứ bảy, sáu căn tức là mắt – tai – mũi - miệng – thân - ý của chúng ta phải tập trung với bước đi, không được phóng dật sắc-thinh – hương - vị - xúc - pháp. Nghĩa là không được ngó qua ngó lại ở bên ngoài, tức là không chạy theo sắc – thinh – hương - vị - xúc - pháp nữa.

Đó là nhắc nhở chúng ta đừng có để mắt tai mũi miệng thân ý của chúng ta mà luôn luôn nó phải tập trung dưới bước đi, không cho nó phóng dật ra ngoài, nhắc nhở như vậy thì may ra mới phòng hộ được nó.

Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học.

Các thầy phải nhớ rằng những cái pháp hướng này, phải nhớ cho kỹ và hằng ngày phải siêng năng mà tu tập. Trong khi mà buổi tối chúng ta không phải ngồi mà hít thở hơi thở không, mà nhiều khi chúng ta phải dành những cái thời gian, mà chúng ta dùng pháp hướng này nhắc đi nhắc lại cái tâm chúng ta rất nhiều để phòng hộ sáu căn của chúng ta tu tập. Chứ không khéo thì quý thầy sẽ không có đạt được kết quả tốt của nó đâu. Đầu tiên là bao giờ mà bước vào đạo Phật thì chúng ta cũng phải nhớ rằng là chúng ta phải phòng hộ sáu căn, giữ gìn mắt tai mũi miệng của mình. Bởi vì vốn cái tâm của mình nó dễ dính mắc với sáu trần lắm! Thân tâm của mình nó dễ dính mắc, cho nên vì vậy hở chút chút nào nó cũng dính mắc. Mà ngay bước đầu chúng ta không phòng hộ nó thì chúng ta khó mà có thể đạt được giải thoát được.

Cho nên muốn mà tu tập thiền định của đạo Phật, thì cái sự phòng hộ là cái điều kiện tiên quyết đầu tiên. Cho nên ở đây chúng ta lấy ba cái giới đầu tiên là Phật – Pháp - Tăng, là lấy những gương hạnh giải thoát, mà chúng ta lấy đó mà chúng ta nương vào để mà chúng ta sống một cuộc sống cho đúng cách, đúng cách. Mà muốn sống đúng cách như vậy, thì cái pháp hướng phòng hộ này là phải phải siêng năng, chuyên cần tu tập. Mà nếu không siêng năng, chuyên cần tu tập thì chắc chắn quý thầy sẽ khó mà đạt được.

Những lời mà Thầy tâm huyết hôm nay Thầy nói đến giai đoạn giới hành này là rất quan trọng, vì chúng ta sống trong thiện pháp mà không có cái pháp hành thì không thể nào mà chúng ta sống được. Nói chúng ta phòng hộ sáu căn mà chúng ta không có pháp hành, thì chúng ta chỉ giữ nó có một lúc thôi, chúng ta đi nhìn xuống đất chỉ một lúc thôi, mà không bao giờ chúng ta có thể mà, có thể mà giữ gìn nó mãi được. Còn hằng ngày chúng ta mà chuyên cần, siêng năng, siêng năng mà chuyên cần pháp hướng nhắc tâm chúng ta mãi như vậy nó thấm cái lý. Khi đi ra, tự nó, nó đã nhìn xuống đất, nó không còn nhìn. Nó đã thấy được thế gian này, thế giới này là vô thường, là khổ, là hoại diệt. Cho nên nó chẳng còn ham muốn cái vật gì nữa hết. Do cái sự nhắc này, nó làm cho chúng ta giữ gìn thân tâm của chúng ta, mắt tai mũi miệng của chúng ta rất là thanh tịnh, nó không còn bị đắm nhiễm nữa.

Nhớ như vậy thì quý thầy mới siêng năng, phải siêng năng hết sức mà tu tập, vì rồi đây Thầy cũng không còn nhắc nhở quý thầy nữa. Do vì vậy, thì chỉ còn quý thầy lấy những cái bài này, mà nghe những cái lời của Thầy nhắc nhở ở trong băng, lời của Thầy nói ở trong băng vẫn còn nhắc nhở vẫn còn, nhưng trực tiếp mà như ngày hôm nay, một vị Thầy bằng xương bằng thịt mà nhắc nhở quý thầy thì chắc chắn là không còn nữa. Chỉ còn cái lời của Thầy ghi ở trong băng này, nhắc nhở quý thầy mà thôi. Dù bất kỳ ở đâu, lời nói này vẫn còn, nhưng các Thầy sẽ không thấy Thầy nữa. Do vì vậy, cho nên các thầy phải nhớ kỹ, phải nổ lực, phải siêng năng những cái lời này, là những cái lời tâm huyết, là những cái lời kinh nghiệm trên bản thân tu tập của Thầy, mà Thầy nói ra để cho quý thầy biết, mà chính đức Phật dạy chúng ta ở trong kinh điển của Phật, cũng là những lời mà Thầy biết là những lời tâm huyết của Phật.

Phật nói Như Lý Tác Ý, như cái lý giải thoát đó mà chúng ta nhắc nhở, chúng ta tác ý thì chúng ta mới phòng hộ được sáu căn; như cái lý mà tác ý thì chúng ta mới nhập được định; như cái lý mà chúng ta tác ý, chúng ta mới thực hiện các cái oai lực, đại thần lực, đại oai lực, đại minh lực mới được. Còn không có Như Lý Tác Ý làm sao có được những cái đại thần lực, đại oai lực, đại minh lực được. Nên cái Như Lý Tác Ý này là cái pháp tuyệt vời. Quý thầy phải nhớ kỹ, đừng có để quên, mà hằng ngày phải trau dồi thân tâm của mình liên tục, không được gián đoạn, lúc nào chúng ta cũng cần mẫn, vì con đường sanh tử không thể chờ quý thầy đâu, nó đến là nó đến, chớ không thể nào mà nói nó phải hoãn lại cho quý thầy một giây lát được. Cho nên phải siêng năng khi chúng ta còn một chút hơi, thì chúng ta sẽ nổ lực thực hiện chứ đừng có để tới chừng giờ co tay, giật chân rồi thì tu không có kịp nữa đâu. Nhớ như vậy thì quý thầy mới có thể thực hiện được con đường này.

Trên đây là trạch pháp để phòng hộ sáu căn, nhờ Giới hành phòng hộ sáu căn nên oai nghi chánh hạnh của người tu sĩ hiện lên rất rõ nét và xét về quả tu từ bắt đầu vào đạo đã được dạy thân niệm Phật là pháp phòng hộ sáu căn đầu tiên này. Thì ngay đây trong hiện tại, vị tu sĩ ấy cảm thấy mình không còn dính mắc sáu trần. Nên tâm lúc nào cũng quay hướng vào trong và nhận ra có một trạng thái ly dục ly ác pháp, qua sự hành trì này.

Đó quý thầy thấy chưa? Khi mà quý thầy phòng hộ được sáu căn thì ngay đó quý thầy đã thấy được trạng thái tâm của quý thầy ly dục ly ác pháp. Phòng hộ thôi, chưa tu gì hết, chưa có cái gì cả hết, chỉ giữ gìn mắt tay mũi miệng thân ý của mình thôi mà đã ly dục ly ác pháp rồi. Mà ly dục ly ác áp rồi nó có một cái gì mà để chứng minh cho chúng ta biết, nó có một cái sự giải thoát thật sự, tâm hồn chúng ta thanh tịnh, thanh thản trước mọi pháp, làm cho chúng ta có một cái niềm hân hoan. Hân hoan đây không có nghĩa là vui theo thế gian mà hân hoan đây là làm cho chúng ta trở thành một người vô sự. Vô sự hoàn toàn đối với các pháp thế gian này, vô sự hoàn toàn không còn dính mắc ở trong các pháp thế gian này, cho nên gọi là vô sự với một tâm hồn vô sự.

Quý thầy chỉ mới tu có bấy nhiêu đó thôi mà cũng đủ quý thầy đã được ly dục ly ác pháp rồi, còn đòi hỏi gì nữa. Nếu quý thầy siêng năng tu tập, kết quả này càng ngày càng sâu hơn, ly dục ly ác pháp càng ngày càng tiến tới và quý thầy sẽ nhập Sơ thiền, rồi Nhị thiền, rồi Tam thiền, rồi Tứ thiền, rồi làm chủ sự sống chết của thân này, rồi kết quả của nó quý thầy sẽ chấm dứt được luân hồi tái sanh.

Bởi vậy, Phật pháp kết quả hiện tại, không có thời gian, nghĩa là đạo Phật đã dạy chúng ta khi tu đúng, thì chúng ta không có thời gian mà gọi là phải năm ngày, mười ngày, mà ngay trong hiện tại là có giải thoát. Tại sao vậy? Tại vì lúc bấy giờ quý thầy chỉ dùng pháp hướng nhắc tâm mình có gò bó thân tâm mình đâu, có làm cho nó mệt mỏi đâu, có ức chế nó chỗ nào đâu. Cho nên nó đâu có gì mà rối loại cơ thể của quý thầy mà thấy nhức cái vai, đau cái lưng, tức cái ngực, đâu có cái gì. Ở đây quý thầy chỉ nhắc nó phòng hộ sáu căn, khi đi phải nhẹ nhàng, khoan thai, thư thả không có gì hết, làm sao quý thầy có trạng thái gì mà khổ đau trong thân đâu, làm sao có những cái gì mà dích mắc trong tâm của quý thầy đâu mà làm cho quý thầy phải giận hờn, buồn phiền, đau khổ. Cho nên ngay khi phòng hộ sáu căn là quý thầy đã thấy được cái sự giải thoát thật sự của nó rồi. Ngay khi ngồi thẳng lưng kiết già, cũng đâu phải ngồi cho đến khi mà hai chân quý thầy tê, đau nhức, khổ sở để rồi quý thầy nói sau tôi ngồi thiền đau nhức. Đâu ai bảo quý thầy ngồi dữ vậy, quý thầy ngồi trong năm phút, mười phút, quý thầy đặt cái niệm trước mặt của quý thầy, rồi quý thầy dùng pháp hướng nhắc cái tâm phòng hộ sáu căn của mình. Chớ đâu có bắt quý thầy ngồi một giờ, hai giờ, ba giờ để quý thầy chịu đau, chịu khổ với cái thân của quý thầy đâu mà quý thầy nói rằng là khổ là sở. Đạo Phật dạy cho quý thầy ngồi trong sự an lạc của ngồi, đi của sự an lạc của đi, đó là sự giải thoát. Cho nên vì vậy, mà quý thầy dùng pháp hướng để nhắc tâm mình thấm nhuần được đạo lý, được giải thoát của nó.

Cho nên quý thầy tu hành mà nghe bất an trong thân và tâm của quý thầy, đó là quý thầy tu sai pháp của Phật, tu đó là pháp của ngoại đạo cho nên làm thân của quý thầy nhọc nhằn, khổ sở, mệt mỏi, hôn trầm, thùy miên, vô ký, đó là quý thầy tu sai. Còn quý thầy tu đúng thì không hôn trầm thùy miên mệt nhọc gì cả. Lúc nào cũng thấy giải thoát an vui và tỉnh táo rất là tỉnh táo.

Đây là mới bước đầu vào quý thầy đã tu pháp phòng hộ sáu căn, thì quý thầy đã thấy quá rõ ràng sự giải thoát cụ thể không thể nào mà chối cãi được. Điều này chứng minh hùng hồn, không thể phủ nhận được, do thế mới gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh, là Tín lực nghĩa là sức lực, sức lực của niềm tin mạnh mẽ. Nghĩa là khi mà chúng ta vào mà thực hiện sự phòng hộ sáu căn rồi, thì chúng ta tin rằng đúng là chúng ta đã giải thoát thật sự rồi. Từ cái chỗ mà kết quả đó, cái lòng tin của chúng ta nó mạnh mẻ vì gọi là Tín lực. Tín lực là cái lòng tin mạnh mẽ mà có giải thoát, có kết quả giải thoát, có sự an lạc, có sự thích thú ở trong sự tu tập đó, có sự thanh tịnh ở trong sự tập đó, thì chúng ta mới có lòng tin. Mà cái lòng tin đó làm sao mà chúng ta rời được Đức Phật được, rời được Pháp, rời được Tăng được. Cho nên lòng tin đó gọi là Tín lực. Đó quý thầy thấy rất rõ, cho nên Tứ Bất Hoại Tịnh nó làm cho thân tâm chúng ta thanh tịnh mà trở thành một cái lòng tin rất là mạnh, đó là cái sức lực tin tưởng mạnh mẽ của chúng ta.

Cái phần thứ hai, thân Phật thường đi ăn xin. Đó bây giờ tới cái thân Phật mà đi ăn xin đó, thì chúng ta phải tu như thế nào, để mà chúng ta sống đúng như Phật. Thân ta niệm Phật cũng vậy, cũng vậy bây giờ mình lấy thân mà niệm Phật mà. Do đó bây giờ, thân Phật thì đi hay đi xin, đi khất thực đi xin ăn, thì thân ta niệm Phật cũng vậy, không làm tất cả mọi nghề nghiệp, chỉ lấy nghề đi xin làm chánh nghiệp mà nuôi chánh mạng mà thôi. Đó chúng ta lấy cái nghề đó mà chúng ta quyết tâm tu hành. Nghĩa là chúng ta khéo léo tổ chức như thế nào, mà chúng ta hằng ngày có một bữa cơm đi xin ăn mà thôi. Khéo léo, khéo léo, chớ còn hiện giờ mà chúng ta không khéo léo, mà mang bình bát đi ra xóm xin đó, thì không khéo léo, đó là vụng về. Nó không phải như đất nước Ấn Độ, cũng không phải như đất nước mà của Phật giáo Nam Tông, người ta có sẵn sàng những người Phật tử cúng dường. Còn ở đây chúng ta phải khéo léo, khéo léo để cho tự người ta nấu cơm, người ta cho mình cái gì đó thì mình ăn cái nấy.

Cũng như ở đây, Thầy khéo léo tổ chức cho quý thầy, quý thầy chỉ đến giờ là người ta cho gì đó, mình ra mình nhận thực phẩm đó mình ăn một ngày một bữa. Còn ở bên phái nữ người ta cực khổ, người ta nấu nướng cái gì đó, người ta cho mình cái gì đó, mình chẳng biết, tới giờ ăn đó mình chỉ nhận ăn, đó là khéo léo để khất thực. Còn nếu mà mình chịu vụng, và mình chấp nhận cái đi khất thực bằng cách mà như thời đức Phật thì đất nước chúng ta chưa cho phép, do đó, chúng ta không khéo léo. Mà không khéo léo, thì dân tộc chúng ta sau chiến tranh thì có người nghèo, kẻ giàu, người giàu thì cho chúng ta không nói gì, nhưng người nghèo mà hiểu Phật pháp, họ phải nhịn bụng để cho chúng ta, cúng dường cho chúng ta bát cơm, thì họ lại nghèo khổ nữa, thì chúng ta đâu nỡ tâm làm cái điều đó. Đó cho nên vì vậy, chúng ta phải thấy và chấp nhận như thế nào để mà chúng ta đi xin ăn mà không làm khổ người khác, không làm nghèo người khác. Do vì vậy, mà chúng ta khéo tổ chức.

Chẳng hạn nào như bây giờ, thí dụ như bây giờ muốn đi xin sống như Phật, thì mình phải tổ chức những người cư sĩ họ có tiền bạc, họ vì Phật pháp mà hộ trì cho chúng ta tu tập, một người, hay năm người, ba người. Bây giờ, các vị họp lại, các vị mở câu lạc bộ, hoặc là một cái tiệm cơm chay ở tại đâu đó. Rồi chúng tôi sẽ ở gần đó, một số tu sĩ của chúng tôi ở gần đó. Mỗi ngày chúng tôi chỉ đến xin một bữa cơm thôi, quý vị cho ăn cái gì thì chúng tôi ăn cái nấy, chúng tôi không đòi hỏi gì hết. Do đó, các cư sĩ đó, họ sẵn sàng họ giúp đỡ mình. Rồi tới đúng giờ là mười một giờ hay là mười giờ, mình ôm bát, mình đến đó mình xin một bữa cơm rồi mình trở về khu rừng, hay vị trí tu hành của mình, mình thọ thực rồi mình tu hành. Có như vậy thôi, tức là đời sống của chúng ta chỉ lấy cái nghề đó thôi. Mà nó không làm cho ai đau khổ hết, nó không làm cho cái xã hội nghèo đói nữa. Và cái hình ảnh mà đi khất thực như vậy, mà tổ chức như vậy, là tổ chức đúng cách, đúng xã hội, đúng cái thời điểm. Còn nếu mà không tổ chức được như vậy, mà ôm bình bát đi lang thang xin thì không được, chúng ta làm như vậy sai.

Chúng ta phải hiểu được những cái này, mà chúng ta mới có cái khéo léo, mà tổ chức để chúng ta thực hiện được cái nghề đi xin, cái nghề đi xin để nuôi chánh mạng của chúng ta.

Bây giờ đó, thân Phật thường đi xin ăn, vậy thì chúng ta cũng muốn cho mình được đi xin ăn như vậy, thì chúng ta cũng phải dùng cái pháp hướng để nhắc nhở. Chứ nhiều khi chúng ta đi xin mà chúng ta còn ngại ngùng, còn này kia nọ, nó chưa thấm nhuần thì chúng ta cũng khó mà có thể đi xin được. Vậy muốn đi xin đó, thì chúng ta phải thường ngày, chúng ta phải ngồi chúng ta tu như thế nào để mà chúng ta dạn dĩ, để mà chúng ta đi xin một cách rất tự nhiên.

Câu 1:Hằng ngày ta nên đặt niệm đi xin trước mắt, dùng pháp hướng. Bây giờ, mình đặt cái niệm đi xin trước mắt mình ngồi kiết già hẳn hòi. Muốn hành động mà giống cái hành động của Phật đi xin ăn đó thì mình phải đặt cái niệm đi xin trước mặt của mình, rồi mình dùng cái pháp hướng, mình hướng như thế nào đây:

“Đi xin là một nghề chân chánh, người tu hành ta phải đi xin như thế nào không làm khổ mình, khổ người”.

Đó mình đặt cái câu hỏi, cái câu pháp hướng để cho mình hướng tâm cho đúng cách. À bây giờ đó, mình muốn đi xin, thì mình nói:“Đi xin là một nghề chân chánh mà từ xưa đến giờ Đức Phật đã chấp nhận cái nghề đó để nuôi cái chánh mạng của mình, không có đòi hỏi cái ngon cái dỡ, không có đòi hỏi bằng cái này cái kia do cái dục lạc về cái ăn nó tạo ra cho chúng ta khó mà có thể giải thoát được”.

Cho nên chỉ có đi xin, nó mới có thể tạo chúng ta xa lìa được dục lạc của cái ăn. Vì vậy mà đi xin như thế nào mà không làm khổ mình, khổ người. Nghĩa là đi xin như thế nào không làm khổ mình, khổ người. Để chúng ta đặt cái niệm đó như thế nào. Như vậy là để gì, để chúng ta có sự quán xét, khi mình đặt cái niệm đi xin trước mặt, rồi đem pháp hướng này ra đặt ở trước mặt đó, rồi chúng ta dùng cái pháp quán mà chúng ta suy xét. Bây giờ mình ngồi tu đây mà muốn trở thành một cái người đi xin ăn, mà xin ăn như thế nào mà hợp lý, mà không hợp lý, đi xin như thế nào mà không làm khổ mình, khổ người.

Đó, như vậy mình mới đặt ra một cái pháp như vậy, bắt đầu mình đặt ra như vậy, mình trạch pháp này ra, mình nhắc mình rồi, bắt đầu mình ngồi yên. Ngồi yên thì nó bắt đầu nó suy tư, bây giờ mình phải tổ chức như thế nào đây, để cho cái đời sống tu hành của mình nè, đi xin nè, mà nó có phong cách của đi xin nè, mà nó không làm khổ ai hết. Vậy thì bây giờ mình có mấy người Phật tử thương mình, giúp mình tu hành nè. Bây giờ tôi chỉ xin nhờ quý vị giúp đỡ tôi tu hành nè năm năm hay là mười năm, tôi sẽ ở trong thất tôi tu hành ba năm nè, quý vị mỗi ngày giúp đỡ cho chúng tôi, cho chúng tôi một bữa ăn thôi, quý vị nấu sau chúng tôi ăn cũng được vậy, chúng tôi không đòi ngon đòi dỡ gì hết. Nghĩa là tới giờ đó, chúng tôi sẽ bưng cái bát đến cái nhà của quý vị, thì quý vị vui lòng giờ đó là quý vị nấu cơm cho cả gia đình rồi thì quý vị nấu thêm cho chúng tôi được một ít, một bữa cơm thôi, rồi hằng ngày chúng tôi đến đây, chúng tôi xin quý vị, thì quý vị giúp đỡ cho chúng tôi. Và mình biết rõ ràng là người cư sĩ này, họ không phải là người nghèo, họ không phải là người đói, mà họ là người làm ăn có tiền bạc, cho nên họ chỉ nuôi thêm mình, họ không đến nổi là họ khổ, do đó chúng tôi xin họ. Vì vậy, họ đã bằng lòng giúp đỡ chúng ta rồi, thì bắt đầu từ đó chúng ta đã trở thành người đi xin ăn đúng cách. Cho nên đặt cái niệm này ra, rồi chúng ta đi tìm cái người nào giúp đỡ cho chúng mình để mình thực hiện cái chánh nghiệp, cái nghề nghiệp chơn chánh của người tu sĩ. Đây là cái câu mà Thầy muốn nhắc nhở quý thầy, để sau khi quý thầy rời khỏi Thầy, mà không được nương tựa nơi Thầy nữa, mà quý thầy muốn tu hành đúng chánh pháp.

Cái thứ nhất là quý thầy đã phòng hộ sáu căn của mình. Cái thứ hai là quý thầy phải tổ chức như thế nào để cho mình đi xin ăn, chứ không phải là về tôi trồng ruộng, trồng lúa, trồng khoai, trồng củ rồi tôi làm cái này cái kia rồi tôi tự lấy cái đó tôi nấu cơm tôi ăn, tôi cất cái thất ra, rồi xung quanh đó tôi trồng đám thanh long, tôi mới lấy tiền đó tôi mua gạo để dành tôi ăn suốt năm tôi tu. Không được đâu, quý thầy đừng có làm cái điều đó, cái điều đó là điều sai. Quý thầy phải tính một cái như thế nào, để hằng ngày có cái người tự người ta nấu người ta cho quý thầy ăn thôi. Rồi người ta nấu ngon nấu dỡ mặc người ta, quý thầy chẳng biết, miễn là mình ăn bữa đó mình no bụng thôi, chớ còn quý thầy đừng có để tiền, để bạc hoặc thế này thế khác, quý thầy tự sắm lấy đồ ăn, đồ uống cho quý thầy, cái đó là cái chết của quý thầy, càng lúc là các thầy sẽ xa lìa Phật pháp đó. Đó không phải là chánh nghiệp nữa đâu. Hoặc là quý thầy về làm một đám ruộng, lấy lúa năm chục, mười chục dạ lúa để dành cứ hằng ngày mình nấu cơm mình ăn với muối cũng được, có gạo ăn được rồi, do đó quý thầy cũng tiêu, không có bao giờ mà quý thầy mà có thể giải thoát được. Cho nên quý thầy phải tổ chức là mình đi xin, đi xin kìa nó mới diệt cái ngã của quý thầy, chứ quý thầy có bồ lúa mà quý thầy ngồi ăn thì cái ngã của quý thầy nó càng lớn, nó không có giải thoát được đâu.

Đó là những cái mà Thầy đặt ở đây để cho quý thầy thấy rằng khi bắt đầu mà chúng ta lấy cái thân mà niệm Phật mà đi ăn xin, thì thân ta cũng phải đi ăn xin như vậy. Thì cái ăn xin của chúng ta bây giờ nó phải có sự tổ chức hẳn hòi, có sự làm cho đúng cách chứ không phải là đi ăn xin thời đức Phật được. Vì Đức Phật ngày xưa là tại vì ở Ấn Độ nó đã quen, cái phong tục nó quen rồi, cho nên người ta quen, người ta cho những cái người mà tu hành ăn xin như vậy. Còn ở đây mình không có được như vậy đâu, cho nên quý thầy phải tự tổ chức, đừng có tránh, đừng có làm cái nghề này nghề kia hoặc là về mình cất cái thất ở trong vườn cây chôm chôm, hay sầu riêng hay là mãng cụt gì đó, tới cái mùa đó mình đi hái trái cây đó mình bán, mình để dành số tiền, rồi do đó, mình ở trong khu vườn đó, mình ăn, mình ăn, mình tu. Hay hoặc là trồng một đám dừa, do đó hằng ngày cứ lôi dừa đem đi bán lấy tiền mua gạo ăn, thì quý thầy làm riết cái này thành ra quý thầy tu riết chắc lẽ là quý thầy thành dừa hết, kêu là thành dừa chứ cũng không phải là thành Phật được đâu. Cho nên làm cái gì là nó sẽ thú hướng cái đó sẽ thành cái đó, nó không có kết quả được. Cho nên ở đây, đừng có nghĩ mà một cái việc gì, một nghề gì mà quý thầy làm hết. Cho nên người ta nói mình ăn không ngồi rồi. Không phải đâu, tôi không phải ăn không ngồi rồi đâu, hằng ngày tôi nổ lực, tôi thật sự tôi giải thoát, thân tâm tôi không có phút nào mà tôi ngồi không được.

Còn quý vị có thể mà ngồi không quý vị mới đi làm nghề này trồng trỉa đồ chứ còn tôi không có thì giờ mà tôi ngồi không được. Cho nên cái mà chúng ta tu, chúng ta mới biết những cái pháp trạch pháp ra, như thế này nó không còn thì giờ mà chúng ta đi trồng, đi trỉa, đi nhổ cỏ, đi trồng rau, trồng cải. Còn quý thầy nói thôi bây giờ người ta cho cơm mình, bây giờ mình cũng trồng bí, trồng bầu hay gì đó để mình hái, để mình luộc, để mình ăn phụ thêm, nó cũng đỡ đi, do đó quý thầy đừng có làm điều đó đâu. Người ta cho cơm với muối thì mình ăn cơm với muối, chứ đừng có nghĩ rằng tôi ra tôi hái nấm rau lang vô tôi luộc, tôi ăn nó cũng đỡ hơn, không có rau chắc bệnh. Nhứt định bệnh chết chứ nhất định không trồng cọng rau nữa, chứ đừng nói chuyện.

Phải hiểu được như vậy, đi xin ăn mà. Mà mình còn chấp hành một cái không đi xin ăn mà lại còn cái của mình có, mình hái mình ăn thì cái chuyện đó không được.

Thí dụ như chẳng hạn trong cái thất của quý vị có một cây cam, cây bưởi hoặc là cây nhãn hoặc cây gì mà có trái, cái người mà người ta thường cúng dường cho quý vị gạo, đồ ăn, đồ này kia, cơm hằng ngày cho quý vị đó, thì khi cây đó có trái thì quý vị đừng có hái mà ăn, đừng có hái mà đem bán để dành tiền nữa, những điều đó là cái sai. Cho nên vì vậy, quý vị kêu cái người cư sĩ mà hằng cúng dường cho quý vị đó, ở đây bây giờ chỗ tôi ở đó có một cây mận, một cây nhãn hoặc là cây xoài gì đó mà có trái xin nhờ cư sĩ bán cái này đi, coi ai không có giúp đỡ họ, hoặc là cư sĩ hằng ngày đã giúp đỡ cho tôi cái bữa ăn như vậy, những cái này tôi không có ăn phi thời được. Tôi không có lấy trái cây này mà tôi ăn phi thời. Hay hoặc là quý thầy nói tôi không ăn phi thời nhưng bây giờ xoài của mình chín thôi để hái năm, mười trái trưa mình ăn cơm rồi cái bắt đầu để năm mười trái mình ăn thêm nữa, cái đó cũng sai nữa. Tất cả những cái này đều là do cái tâm tham dục của mình ra hết. Cho nên bây giờ cái cây đó là của mình, của trong thất của mình, nhưng mà quý thầy đừng có lấy cái trái cây đó mà quý thầy bỏ thêm vào trong bữa ăn của mình, người ta cho cái gì đó mình ăn. Thầy không thấy ông Phật mà ở trong vườn xoài, mà lượm xoài để ăn thêm đâu, không có đâu. Thường thường đức Phật ở trong những vườn xoài, người ta tu hành, trong khi đi khất thực về, rồi ngồi ở dưới bóng xoài ăn, ờ bây giờ có trái xoài chín thôi để mình hái trái xoài đó mình ăn thêm đi, không có bao giờ mà nghe nói. Có người ta cho mình ăn cái gì thì ăn, chớ không bao giờ hái trái cây. Còn mình nhiều khi có trái cây rồi bắt đầu đó, bây giờ mình cũng ăn trưa, mình đâu có ăn phi thời đâu, ờ bây giờ thôi tốt hơn là mình hái mấy cái trái xoài này để mình ăn thêm, hay hoặc là có vài cây mãng cầu, hôm nay nó chín rồi để hái đây, trưa đây cái mình xin cơm về để bắt đầu đó, mình để mấy trái này ra mình ăn phụ. Không, cái này không phải của người ta cho mình, mà chính của mình, nhưng mà mình không có được quyền hưởng cái điều đó, nó làm cho mình chạy theo cái dục lạc, thích ăn cái này cái nọ. Cho nên mình kêu những người cư sĩ mà họ từng mà cúng dường mình, từng sớt bát cho mình đó, giao họ những cây này, mặc dù là mình ở cái thất của mình có những cây xung quanh đó nó có trái thì mình giao lại họ, họ bán, họ buôn, họ ăn, họ làm gì họ làm. Rồi họ cho mình thì mình ăn, còn họ không cho thì thôi. Nghĩa là tới bữa ăn đó họ có cho mình trái mãng cầu hoặc là trái xoài thì mình ăn cơm, rồi mình ăn, còn họ không cho thì thôi.

Như vậy là mình giữ đúng cái hạnh đi xin đó. Chớ còn không khéo mình nói đi xin chớ hình thức mình còn giữ cái vật gì của mình đó thì mình ăn thì cái đó nó không đúng. Các thầy nhớ kỹ, chúng ta tổ chức đi xin phải đúng đi xin. Người ta cho mình ăn cái gì thì mình ăn cái nấy, chứ không có thể mà ăn hơn cái chỗ mà mình đi xin được. Còn nếu mà thấy trong nhà mình có rồi mình muốn ăn cái gì mình ăn thì nó không phải, mình chạy theo dục lạc rồi, nó chưa ly đâu. Đó là các thầy phải nhớ những cái điều mà bắt đầu vào cái thân mà đi xin như thân Phật thì phải làm cho đúng cách, đúng cách. Ngày xưa, đức Phật thì đi xin từ nhà này đến nhà khác, còn mình bây giờ mình tổ chức có một cái nhà của cư sĩ giúp đỡ cho mình, hằng ngày mình đến mình xin, người ta có thể nuôi mình một năm cho đến ba năm hay hoặc là mười năm trong cái sự tu tập của mình. Rồi sau khi năm năm, mười năm mình tu xong, mà người ta không giúp đỡ được mình, thì mình nên đi chỗ khác và mình đi tìm những người khác để cho mình xin, mình xin ăn cho đúng cách.

Câu thứ hai:

“Chỉ có đi xin ăn mới giải thoát được sự ăn uống, ta phải chấp nhận nghề đi xin.”

Đó là câu trạch pháp để chúng ta có sự quyết tâm, không có thêm ăn thừa, ăn bớt ở chỗ mà chúng ta ăn. Như vậy là câu thứ hai: “Chỉ có đi xin mới giải thoát được sự ăn uống”, chỉ có mình đi xin, mình mới được giải thoát, còn bây giờ mình có trái xoài, trái bưởi, trái mít của mình lấy ra ăn phụ thêm, thì như vậy có phải là của mình, mình ăn mà, chớ mình đâu có ăn trộm ăn cắp của ai, nhưng chính chỗ đó mình vẫn chạy theo dục lạc rồi, nó không đúng rồi. “Ta phải chấp nhận nghề đi xin” tức là pháp hướng mình nhắc nó.

Câu 3:

“Đi xin ăn không có quyền đòi hỏi món ngon vật lạ, vì thế chúng ta ly dục ly ác pháp thế gian”.

Đó là câu thứ ba trạch pháp ra đê nhắc cho chúng ta biết rằng cái nghề đi xin đó, nó làm cho chúng ta ly dục ly bất thiện pháp.

Câu 4:

“Đi xin ăn là một pháp môn ly dục ly ác pháp, tất cả ly dục ly ác pháp tốt nhất, ta hãy chấp nhận đời sống đi xin”.

Đó là câu thứ bốn, hằng ngày chúng ta đặt niệm tu tập như vậy, mặc dù bây giờ chưa làm được, nhưng nó giúp ta lìa xa những sự thọ dụng thực phẩm hằng ngày mà chúng ta đang có. Nghĩa là, hằng ngày bây giờ chúng ta chưa đi xin, nhưng mà chúng ta vẫn thấy, như quý thầy ở đây đương nhiên là quý thầy xem như mình đã đi xin ở nhà bếp, đi xin ở đằng trước của người khác cho mình ăn. Cho nên, mình đã chấp nhận được cái nghề đi xin của mình rồi và đồng thời thì mình luôn luôn, mình luôn luôn, mình phải nhớ là cố gắng mình thực hiện cho bằng được cái nghề đi xin này. Chứ nếu mà không thực hiện cái nghề đi xin này, thì chắc chắn là Chánh nghiệp của mình không có. Mà chánh nghiệp không có thì chắc chắn là mình không bao giờ mình giữ Giới luật của Phật nghiêm chỉnh được, mà mình không có bao giờ mình thực hiện được sự giải thoát của mình.

Cái ăn coi vậy chứ khó lắm quý thầy, không đơn giản đâu, một chút là nó sẽ bị nhiễm đó, một chút nó là nó sẽ luận đó, nó làm cho chúng ta dễ say mê ở trong dục lạc của nó. Cho nên chúng ta phải sáng suốt, phải cẩn thận, phải nổ lực, phải suy tư, phải quán xét để thực hiện đời sống đúng cách là chúng ta đi xin ăn cho nó được rốt ráo, cho được giải thoát. Bởi vì muốn giải thoát như Phật thì phải làm sao giống như Phật, phải làm sao tính như thế nào, suy tư như thế nào, tư duy như thế nào để đời sống chúng ta thực hiện đúng những oai nghi tế hạnh của một đức Phật.

Ba: Thân Phật thường hay ngồi thiền.

À, bây giờ chúng ta thấy ông Phật thì ổng hay ngồi thiền, rồi thường đi kinh hành, chứ đâu có mà nằm ngủ buông xuôi đâu. Thân ta niệm Phật cũng thường hay ngồi thiền như vậy. Nghĩa là bây giờ cái thân của mình niệm Phật thì mình cũng phải bắt chước, cũng phải sống như Phật, như thân Phật, cũng ngồi thiền như vậy.

Một: Ngồi kiết già, lưng thẳng đứng, đặt niệm trước mặt. Đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai: Là tu định Vô lậu. Tức là chúng ta phải đặt cái niệm như đặt niệm thân, như niệm thực phẩm để mà tu cái định Vô lậu quán xét nó vô thường, khổ, không, vô ngã như thế nào. Quán từ trên xuống dưới coi nó bất tịnh như thế nào, coi nó hôi thúi như thế nào, coi nó như thế nào. Đó là chúng tu định Vô lậu.

Ba: Tu định chói sáng, giữ gìn cái tâm của mình như thế nào để cho nó sáng suốt, để cho nó thanh thản, để cho nó tự nhiên. Đó là tu định Sáng suốt.

Bốn: Tu định Niệm hơi thở. Chúng ta thường tu định niệm hơi thở

Năm: Tu định Hiện tại an lạc trú.

Sáu: Tu Tứ Niệm Xứ.

Chúng ta, thường thường Phật đặt niệm trước mặt của mình là do chỗ ngồi thẳng lưng kiết già rồi tu định này, định kia, định nó, tất cả các loại định cho đến, thậm chí như tu Tứ Niệm Xứ Phật cũng đặt niệm ở trước mặt của mình, cũng ngồi kiết già rồi tu Tứ Niệm Xứ. Ở đây tất cả các loại định, quý thầy đã có sự tu tập rồi, cho nên Thầy không có nhắc lại như định Vô lậu nè, định Sáng suốt nè, định Hiện tại, Định hơi thở nè, định Hiện tại an lạc trú.

Bây giờ Thầy nhắc thêm cái định thứ sáu này là tu Tứ Niệm Xứ để cho quý thầy đại khái, nhưng sau này Thầy sẽ dạy rõ về Tứ Niệm Xứ phải tu như thế nào, mà cái định này bây giờ chỉ nói Đức Phật phải ngồi thiền tu Tứ Niệm Xứ, thì Thầy cũng nói sơ để quý thầy biết thôi, sau này dạy về Tứ Niệm Xứ thì tức là dạy rõ hơn để quý thầy biết cách thức tu tập Tứ Niệm Xứ.

Ở đây đức Phật đặt niệm Tứ Niệm Xứ thì đức Phật quán thân trên thân nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Nghĩa là không còn tham muốn, không còn phiền não ở đời nữa. Nhờ sống quán thân trên nội thân được chánh định và chánh an tịnh, do đó tri kiến giải thoát được sanh khởi đối với các thân khác, ngoài tự thân thọ tâm pháp cũng quán như vậy. Nghĩa là người tu Tứ Niệm Xứ thì trên thân quán thân luôn lúc nào cũng tập cho nó tỉnh giác, nó ở trong chánh niệm để nó khắc phục, chế ngự lòng tham muốn, cái lòng ưu phiền, cái lòng giận hờn, cái lòng si mê của mình để cho mình không có còn tham muốn, si mê nữa, mình không còn giận hờn nữa. Nhờ sống quán thân trên nội thân như vậy thì Chánh định nó mới được và cái sự an tịnh, Chánh an tịnh nó mới có. Do đó tri kiến giải thoát nó được sanh khởi. Vậy mà lúc nào chúng ta ở trên thân quán thân thì chúng ta thấy rõ là thân bất tịnh, thấy rõ là thân vô thường, thấy rõ là thân khổ, thấy rõ là thân nó không có mà do duyên hợp mà thành. Tất cả những tri kiến giải thoát mà sanh khởi thì chúng ta thấy rất rõ rồi thấy xong thân mình, rồi thấy thân người, thấy mọi thân cũng đều như vậy. Và chúng ta tiếp tục thọ, tâm, pháp chúng ta cũng quán như vậy. Cũng như trên thọ quán thọ, trên tâm quán tâm, trên pháp quán pháp rồi chúng ta cũng quán xét.

À, thân chúng ta đã quán trên thân rồi, bây giờ bắt đầu chúng ta quán thọ, quán tâm, quán pháp cũng như hồi nãy chúng ta ở trên thân quán thân như vậy. Mỗi loại định đều có trạch pháp dùng để hướng tâm, dùng để tịnh chỉ, dùng để quán xét, dùng để chế ngự, dùng để ly, dùng để từ bỏ, dùng để đứt đoạn, dùng để an trú. Đó thì, ở đây quý thầy thấy rằng khi mà tu Tứ Niệm Xứ thì chúng ta bắt đầu từ thân rồi tới thọ tâm pháp, nhưng luôn luôn lúc nào chúng ta cũng dùng trạch pháp hết. Dùng trạch pháp để chúng ta dùng những cái câu để mà hướng tâm, hướng tâm chúng ta để làm gì? Dùng để tịnh chỉ, dùng để cho nó ngưng, dùng để dứt đoạn. Rồi dùng pháp hướng để làm gì? Để nhắc chúng ta rồi quán xét, tức là chúng ta quán, suy tư để tìm ra những cái chưa hiểu, để thấu rõ những cái mà chưa thông rõ. Đó là chúng ta quán xét. Dùng để chế ngự, dùng để mà chúng ta chế ngự cái lòng ham muốn của chúng ta, chế ngự tham ưu của chúng ta, giữ vững cái tâm không có cho nó khởi lên những sân hận, những cái hận thù, phiền não, cái đau khổ nữa. Dùng để ly, dùng để lìa ra tất cả những cái mà nó không cần thiết, những cái làm cho chúng ta đau khổ, dùng để từ bỏ, để dứt đoạn, dùng để an trú và chúng ta dùng cái pháp hướng để chúng ta an trú, có khi thì dùng để dứt đoạn, có khi dùng để từ bỏ. Cho nên tất cả những cái này, khi mà chúng ta ở trên Tứ Niệm Xứ, chúng ta cũng đều là dùng những cái pháp, pháp hướng đó nó dùng để chúng ta quán xét, dùng để chúng ta ly, dùng để chúng ta từ bỏ, dùng để chúng ta dứt đoạn, dùng để chúng ta an trú được ở trong những cái tâm thanh thản, cái tâm giải thoát. Lúc bây giờ chúng ta an trú được ở trong những cái tâm thanh tịnh.

Đó thì quý thầy thấy một cái pháp mà chúng ta đã hiểu biết mà tu tập thì nó mang đến kết quả rất lớn, chúng ta muốn làm sao thì nó sẽ làm y như vậy, nó có kết quả giải thoát rất cụ thể, rõ ràng.

Số bốn:

Thân Phật thường đi kinh hành, thân ta niệm Phật cũng vậy phải thường đi kinh hành như Phật.

À, bây giờ ở đây quý thầy nghe nói đi kinh hành, từ lâu quý thầy cũng biết đi kinh hành nhưng Thầy xem thấy sự đi kinh hành của quý thầy nó chưa đúng cách, nhưng mà hầu hết quý thầy không có hỏi. Cho nên do đó hôm nay vì giảng trạch cái này cho nên Thầy mới giảng ra cái này để cho quý thầy biết đi kinh hành như thế nào đúng, mà đi kinh hành như thế nào sai. Lúc nào đi kinh hành bằng một trạng thái gì, mà lúc nào đi kinh hành bằng những trạng thái gì. Quý thầy chưa có hiểu lúc nào mà phải đi kinh hành, mà đi kinh hành lúc đó để làm gì?

À, bây giờ thứ nhất đó, là thân ta niệm Phật thì Phật cũng thường hay đi kinh hành nhưng tiếng chung gọi là đi kinh hành như vậy, nhưng trong kinh hành đó nó có nhiều cái: người ta đi kinh hành để phá hôn trầm, buồn ngủ nó khác, người đi kinh hành sau khi ngồi tu mỏi mệt bằng cách ức chế tâm, bằng cách chế ngự tâm mình thế này thế khác nó mỏi mệt thì cái người đó đi kinh hành thư giản nó khác, nó không phải giống như cái người đi kinh hành đi kinh hành thường hoặc là đi kinh hành trong chánh niệm tỉnh thức hay hoặc là đi kinh hành trong sự hôn trầm, thùy miên. Quý thầy không biết cứ nghe đi kinh hành là cứ đi kinh hành thôi, chứ cũng chẳng biết phân biệt cái đi kinh hành nào, tu tập cái nào cho đúng cách, mà Thầy chưa có nghe người nào hỏi Thầy hết. Do không hỏi nhưng mà cho đến khi Thầy giảng thì Thầy phải giảng trạch cho quý thầy hiểu. Nó khó là khó ở chỗ tu sao cho đúng, đi kinh hành sao cho đúng đây.

Cho nên ở đây, thứ nhất đó chúng ta phải tu tập đi kinh hành thư giản, đi kinh hành thư giản là làm cho tâm của chúng ta nó trở về, nó không còn mệt nhọc, nó trở về nó không còn sự khổ, không còn có sự mà khó khăn, không có sự mệt nhọc, không có sự lười biếng trong thân của chúng ta nữa.

Khi đã tu tập mệt nhọc, ta trạch pháp một câu dùng làm pháp hướng để nhắc tâm mình:

“Ta đi kinh hành thư giản thân tâm, thân tâm phải thanh thản, nhẹ nhàng, vô sự không được ức chế tâm, không được ghìm tâm, không được tập trung tâm, mà hãy vô sự, tự nhiên như người nhàn du.”

Đó là chúng ta phải nhắc cái câu đó để mà chúng ta thư giản cái thân tâm của chúng ta khi chúng ta bước đi, mà tâm của chúng ta không có tập trung mạnh ở dưới bàn chân của chúng ta đâu. Phải nhớ, đi kinh hành có lúc chúng ta phải tập trung dữ lắm, tập trung để làm gì? Chúng ta phải hiểu được ý nghĩa của nó chứ! Còn nếu quý thầy lúc nào cũng khơi khơi, khơi khơi đi kinh hành, đi mà thiếu điều muốn té, buồn ngũ muốn té mà cũng đi kinh hành kiểu đó thì làm sao mà tu được. Không biết, cho nên đi kinh hành mà thư giản thì chúng ta phải đặt cái pháp hướng, đặt cái pháp hướng để mà nhắc cái tâm của mình. Vậy thì Thầy nhắc lại cái câu này, để quý thầy thấy rằng khi đi kinh hành mà thư giản thân tâm chúng ta sau cái thời chúng ta tu định Vô lậu, chúng ta ngồi chúng ta quán xét phá cái tâm lậu hoặc của mình. Rồi bắt đầu chúng ta ngồi tu định Hiện tại an lạc trú, chúng ta nương vào hơi thở, sau 30 phút, một giờ chúng ta có cái sự mỏi mệt, à có cái sự mỏi mệt thì chúng ta bắt đầu chúng ta đi kinh hành để thư giản sự mỏi mệt đó. Thì như vậy là phải như thế nào, vậy thì chúng ta phải nhắc cái tâm chứ không khéo nó quen thói tập trung của nó trong hơi thở, đi mà cứ hít thở, hít thở, hít thở hoài thì nó còn mỏi mệt hơn là chúng ta không đi nữa. Đó, còn hễ ngồi lại nó mệt quá rồi bắt đầu quý thầy mới ngồi lim dim, lim dim, ngủ gật ở trong đó nữa. Khi xả nghỉ chúng ta mới thấy rất sợ hãi, nó đâu có tỉnh táo được. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta đi kinh hành để thư giản, để làm cho tâm chúng ta tỉnh táo, mà nó thanh thản, nó nhẹ nhàng, nó không phiền não. Do như vậy lúc nào chúng ta biết lúc đó chúng ta đi kinh hành cái đúng cái sai, chớ không khéo là chúng ta không có biết được.

Vậy thì chúng ta phải dùng pháp hướng đây:

“Ta đi kinh hành thư giản thân tâm (nghĩa là bây giờ mình đi kinh hành thư giản thân tâm mình nhắc đó). Thân tâm ta phải thanh thản, nhẹ nhàng, vô sự, không được ghìm tâm, ức chế tâm, không được tập trung tâm mà hãy vô sự, tự nhiên như người nhàn du.”

Đó, chúng ta nhắc như vậy đó, nhắc như vậy rồi chúng ta bước đi, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thanh thản, nhẹ nhàng không bị ức chế tâm mình ở sự tập trung của bước đi hoặc là của hơi thở. Đó là cái thư nhất, quý thầy có hiểu chưa?

Bây giờ đến phần thứ hai: Đi kinh hành tu tập Chánh niệm tỉnh giác hay là tỉnh thức.

Bây giờ đi kinh hành này tu tập Chánh niệm tỉnh giác đây, nó khác hơn cái kia chớ, nó làm sao mà giống như cái kia được. Ta trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng:

“Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành.”

Đó, là bây giờ mình đi kinh hành để Chánh niệm tỉnh thức là mình phải đi nhắc, cứ mình đi chừng khoảng độ, chừng khoảng 3 thước, 5 thước gì đó hay 10 thước mình nhắc một lần:

“Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”

Rồi bắt đầu mình lại đi, rồi mình tập trung ở bước chân của mình, rất tỉnh táo ở bước chân đi của mình. Do đó, mình lại nhắc nữa:

“Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”,

Thường xuyên mình cứ nhắc như vậy để biết mình đi mà nó không quên tức là Chánh niệm tỉnh giác ở trong cái bước đi kinh hành của mình. Còn hồi nãy thì như thế nào? Đi thanh thản, nhẹ nhàng chớ không phải Chánh niệm tỉnh giác, làm cho tâm, thân tâm của mình nó thư giản, nó không còn mệt nhọc nữa. Quý thầy phải hiểu chỗ đi kinh hành chứ, cái gì đi kinh hành cho đúng cách thì chúng ta sẽ thấy con người chúng ta sẽ có giải thoát, có an lạc, có an ổn cho thân tâm mới đúng cách. Còn nếu mà không đúng cách thì quý vị đã sai. Cho nên khi đi kinh hành mà tu Chánh niệm tỉnh thức thì quý vị phải nhắc, phải thường xuyên nhắc:

“Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”,

Rồi một chút nữa thì chúng ta sẽ nhắc nữa:

“Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”.

Đó, nhắc hoài, nhắc cho đến khi mà chúng ta đi hết giờ rồi chúng ta trở vào chúng ta ngồi nghỉ, thì đó là đi kinh hành Chánh niệm tỉnh thức.

À, bây giờ đi, à câu thứ hai của trạch pháp mà đi kinh hành, đi kinh hành mà chánh niệm tỉnh thức, hồi nãy câu:

“Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”

đó. Bây giờ câu kế nữa:

“Ta đi kinh hành, ta phải tỉnh thức mỗi bước chân ta đi”.

Đó là mình nhắc nó nữa đó, thay vì bây giờ mình nhắc cái câu thứ nhất mình đi từ đây ra ngoài kia, bắt đầu mình nhắc:

“Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”,

Rồi bây giờ mình nhắc nó câu kế nữa, mình đi một hơi mình nhắc câu kế nữa:

“Ta đi kinh hành, ta phải tỉnh thức mỗi bước chân ta đi”,

Đó nhắc cho nó đặng nó tỉnh thức mỗi bước chân ta đi, không có quên, không có nhớ đó, rồi một lát nữa mình đi đến một đoạn nữa mình nhắc:

“Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”,

Đó, rồi mình đi lúc nữa mình lại nhắc:

“Ta đi kinh hành, ta phải thức tỉnh mỗi bước chân ta đi”.

Đó, như vậy là chúng ta dùng hai cái câu này mà làm hai pháp hướng để tu tập Chánh niệm tỉnh thức. Đó, thì như vậy là đi kinh hành mà tu tập chánh niệm tỉnh thức.

Ba, ĐI KINH HÀNH TRAU DỒI LÒNG TỪ.

Ở đây là đi kinh hành mà trau dồi lòng từ đây. Đó, quý thầy thấy một, hai, ba rồi đó, cái thứ ba này là đi kinh hành trau dồi lòng từ đây. Ta trạch pháp câu này để dùng pháp hướng mà nhắc tâm ta. Đây là câu pháp hướng để đi kinh hành mà trau dồi lòng từ:

“Dưới chân ta bước đi có nhiều côn trùng nhỏ nhít, ta hãy thương yêu chúng nên phải ý tứ từng bước đi, tránh không làm đau khổ và chết chóc chúng sanh”.

Đó là chúng ta dùng cái câu pháp hướng này, bắt đầu chúng ta đi, chúng ta nhìn ở dưới đường chúng ta đi, chúng ta tránh không có đạp chúng sanh đó. Đó là cái câu pháp hướng đi kinh hành trau dồi lòng từ. Chúng ta phải phân biệt được cái pháp nào mà chúng ta đi kinh hành nào là ở trong cái vị trí nào chứ! Còn bây giờ chúng ta đi kinh hành ở trong Chánh niệm tỉnh thức mà chúng ta lại tu tập trau dồi lòng từ thì nó cũng tỉnh thức nhưng mà nó ở trong lòng từ thì nó chưa hẳn là ở Chánh niệm tỉnh thức, phải biết rõ như vậy. Cho nên những cái này đều giúp cho chúng ta được tỉnh thức hết, nhưng cuối cùng thì cái kinh hành mà thư giản làm cho thân tâm chúng ta bớt mỏi mệt, bớt nhọc nhằn thì nó cũng làm giúp cho sức tỉnh thức của chúng ta ở trên mức độ cao mà lại thư giản được thân tâm không mệt mỏi.

Số bốn: ĐI KINH HÀNH PHÁ HÔN TRẦM.

Ở đây là đi kinh hành để phá hôn trầm đây, chứ không phải là đi kinh hành nào nó cũng phá hôn trầm hết đâu, mà đi kinh hành phá hôn trầm thì nó phải có cái câu như thế nào để mà chúng ta trạch pháp ra mà chúng ta phá hôn trầm. Đi kinh hành phá hôn trầm, thùy miên, cho nên có nhiều người nói tôi đi mà sao mà cứ hôn trầm cũng còn hoài nó chưa hết, là tại vì chúng ta chưa có biết cách đi kinh hành phá hôn trầm thùy miên như thế nào. Vì vậy, mà chúng ta phải trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng, mình nhắc tâm chúng ta. À, bây giờ chúng ta dùng pháp hướng nó như thế nào:

“Tâm phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo”,

Đó chúng ta nhắc nó bởi vì bây giờ nó lờ mờ, lờ mờ, nó lừ đừ, lừ đừ, nó muốn ngủ rồi, cho nên do đó mà chúng ta phải nhắc nó trước:

“Tâm phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo, không có được lừ đừ nữa”.

Đó là chúng ta nhắc như vậy, mà nhưng mà nhắc là nhắc chứ nó chưa có nghe đâu, cho nên lúc bấy giờ chúng ta muốn đi kinh hành chưa phải là chúng ta bước đi một cách tự nhiên được đâu. Do đó, muốn bắt đầu mà đi kinh hành để cho nó, để cho phá được hôn trầm thì bắt đầu chúng ta chạy lúp xúp, chạy bộ đó chạy lúp xúp hoặc là chạy một chỗ hoặc là chúng ta chạy đường dài, chạy một chỗ chúng ta cứ chạy nhảy lên nhảy xuống, chạy lúp xúp, lúp xúp như vậy đó. Nghĩa là chạy chừng nào mà chúng ta thấy đổ mồ hôi thôi, thì chúng ta dừng lại, thì lúc bây giờ mới tỉnh, cái thân của chúng ta mới tỉnh, cái tâm của chúng ta mới tỉnh, chứ bây giờ nó lừ đừ, lừ đừ muốn ngủ, chỉ còn nước mà chúng ta chạy, chạy lúp xúp, lúp xúp như vậy đó thì nó mới tỉnh. Đó là trước khi mà chúng ta muốn đi kinh hành để mà phá hôn trầm, thì chúng ta phải vận động cái cơ thể của chúng ta và cái tâm của chúng ta cho nó tỉnh thức. Nhưng mà trước khi mà chạy lúp xúp như vậy thì chúng ta phải nhắc:

“Tâm phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo, không được buồn ngủ nữa”,

Ra lệnh nó như vậy, rồi bắt đầu chúng ta mới chạy, chạy bộ, chạy bộ lúp xúp, hai chân kéo lên, nghĩa là chân kéo lên cao chớ đừng có mà chạy sợ nó mỏi chân, cũng như mà mấy người mà chạy đá banh, mà họ chạy theo kiểu tập luyện mà chân họ kéo lên cao đó rồi thả xuống rất mạnh, chạy một chỗ hay chạy đường dài. Nghĩa là chúng ta đứng một chỗ chúng ta chạy lên, chạy xuống như thế này để một hơi mồ hôi nó đổ ra rồi thì chúng ta tỉnh lại liền. Tắm xong, nghĩa là sau khi mà mồ hôi chảy ra rồi, chúng ta đi tắm, đi tắm rồi bắt đầu chúng ta vô chúng ta đi kinh hành thì chúng ta nhắc:

“Thân tâm phải tỉnh thức trong bước đi rõ ràng”,

Đó chúng ta nhắc nó, bây giờ tỉnh rồi đó, nó không còn buồn ngủ nữa, nhưng mà coi chừng con ma buồn ngủ nó không phải nhường chúng ta đâu, nó cũng có thể chụp cổ chúng ta nữa. Cho nên chúng ta đi kinh hành bây giờ nó giảm bớt cái cường độ hôn trầm, thùy miên của chúng ta nhiều rồi, do vì vậy bây giờ chúng ta mới đi kinh hành mà hướng tâm nhắc:

“Thân tâm phải tỉnh thức trong bước đi rõ ràng”.

Đó, nếu còn hơi buồn ngủ thì ra lệnh:

“Chân mặt bước, chân trái bước”,

Mình cứ ra lệnh: “Chân mặt bước” thì mình cứ bước; “Chân trái bước” thì mình bước, mình cứ ra lệnh liên tục mà ra lệnh một cách rất là: dùng cái lực tinh thần của mình nhắc nó, để làm cho mình càng lúc càng tỉnh hơn. Đó là cách thức đi kinh hành để mà phá, để mà phá cái buồn ngủ, cái hôn trầm của chúng ta.

Đó, quý thầy nhớ chưa? Bởi vậy, nếu mà không có cái kinh hành như vậy thì chúng ta khó mà phá cái hôn trầm, thùy miên của chúng ta lắm! Khó lắm! Cho nên có nhiều người nói tôi bị hôn trầm, tôi ngồi lại tôi hít thở một hơi thở dài cái nó hết, nhưng mà hít thở một hơi thở dài cái nó hết rồi một lát nó cũng trở lại à, mà mình hít hoài năm, mười hơi thở mình hoài thì mệt, do đó nó cũng đuối sức mình đi. Do vì vậy mà nó lại làm cho rối loạn cơ thể mình thêm mà nó cũng chưa hết buồn ngủ.

Trái lại, thì quý thầy biết cách khéo léo đi kinh hành như thế này thì nó sẽ hết buồn ngủ, và vì vậy mà chúng ta vượt qua cái giờ của nó đi, mà vượt qua cái giờ của nó thì nó sẽ tỉnh táo lắm. Còn quý thầy lấy kinh, lấy sách đồ đọc đó thì chẳng qua là mượn nó để mà làm cho nó tỉnh táo nhưng rồi quý thầy không có kinh sách đọc nữa thì quý thầy cũng sẽ, cũng sẽ bị nó đánh gục nữa, cũng sẽ bị hôn trầm đánh gục nữa. Còn ở đây, quý thầy đần cho nó, bắt nó phải chạy, bắt nó phải thế này thế khác làm riết nó, nó hoảng, nó sợ. Còn mình ngồi không, mình im im để đầu óc mình sử dụng cái trí của mình duyên theo những câu kinh, tiếng sách đó thì nó cũng tỉnh, nhưng mà nó tỉnh nhưng cơ thể nó chưa hẳn đã là tỉnh táo đâu. Vậy cho nên, khi đó thì nó cũng vẫn còn có những cái điều kiện chưa có tỉnh táo cả thân và tâm.

Còn cái này, chúng ta dùng pháp hướng, rồi cả đó dùng pháp hướng để cho tâm tỉnh, rồi cả dùng cái thân động để cho thân tỉnh, cả hai cái này nó đều giúp cho tỉnh hết. Còn mình ngồi yên cái tâm của mình nó hoạt động, nó đọc kinh sách thì nó hoạt động còn cái thân của mình thì đâu hoạt động, cho nên nó vẫn còn cái trạng thái, trạng thái yên lặng của thân, do đó nó tuy rằng cái tâm nó tỉnh, cái thân nó cũng theo đó mà nó tỉnh nhưng mà nó chưa hẳn, nó có sự mà tập luyện chưa phá hẳn của cái thân. Còn chúng ta tập luyện như vậy là nó vừa phá hẳn cái thân mà cũng vừa phá hẳn cái tâm làm cho tỉnh, rất tỉnh. Sau đó nó mới sạch cái hôn trầm, thùy miên.

Còn có người dạy chúng ta bị hôn trầm, thùy miên thì treo chân, treo giò lên, ngồi suốt đêm để coi có hôn trầm, thùy miên đến rồi từng đó nó sẽ hết đi. Sự thật ra nó không phải, chúng ta đừng nên hành hạ thân của chúng ta quá khổ, mà chúng ta hãy tập cho nó có những vận động như vậy, rồi nó sẽ làm cho chúng ta hết đi, hết hôn trầm thùy miên và phá đi, rồi lần lượt chúng ta còn tu tập những cái sức tỉnh thức ở trong giấc ngủ nữa. Chúng ta nương vào hơi thở để tập cho nó lần lượt chúng ta sẽ phá sạch ra hết, hoàn toàn là chúng ta sẽ làm chủ được sức tỉnh thức của chúng ta.

Đó thì bây giờ cái phần thứ năm: Thân Phật không làm hại chúng sanh, thường thương xót chúng sanh. Nghĩa là, cái thân của Phật là không bao giờ làm cho chúng sanh đau khổ, từ cây cỏ Đức Phật cũng không có đạp cho nó héo úa nữa. Thường thường là thân Phật luôn luôn bao giờ cũng làm cho chúng sanh, thương sót chúng sanh chứ không bao giờ làm cho con vật nào đau khổ hết. “Thì thân ta niệm Phật cũng vậy” nghĩa là thân của mình niệm Phật cũng luôn luôn không có làm cho chúng sanh đau khổ, mà cũng luôn luôn cũng phải là biết thương xót chúng sanh, cho nên mình niệm Phật thì tức là mình phải bắt chước y như Phật, Phật làm cái gì thì mình làm cái nấy. Cho nên ở đây, mình trạch pháp cái câu này ra để thường nhắc tâm của mình để cho mình không có làm đau khổ chúng sanh:

“Thân ta niệm Phật phải giống thân Phật, bắt đầu từ đây về sau không làm hại chúng sanh, không ăn thịt chúng sanh, hằng ngày phải thương xót chúng sanh như con mình”.

Đó là câu trạch pháp nhắc, bây giờ chúng ta còn ăn thịt chúng sanh, nhưng mà khi nhắc mãi, nhắc riết rồi chúng ta thầm nhuần rồi, chúng ta thấy hết muốn ăn thịt chúng sanh rồi, vì không thể nào mà mình thân mình niệm Phật như thân Phật mà thân Phật thì không ăn thịt chúng sanh, Phật thì ăn thực phẩm thực vật biến mãn tâm từ của mình khắp cùng đối với tất cả chúng sanh thì thân của mình, mình niệm Phật thì mình cũng phải làm y như vậy, chớ tại sao là thân của mình lại ăn thịt chúng sanh, làm đau khổ chúng sanh. Cho nên do cái câu trạch pháp này làm cho hằng ngày, hằng ngày thấm nhuần thân tâm của chúng ta thấu suốt được cái lý mà không làm đau khổ chúng sanh, cho nên từng đó chúng ta không còn muốn ăn thịt chúng sanh nữa và không còn muốn ăn thịt chúng sanh nữa thì chúng ta thấy mình đã thoát ra được cái nghiệp khổ, cái nghiệp đau khổ của chúng sanh, mình thoát ra được cái nghiệp đau khổ của chúng sanh. Từ đây, cả gia đình của quý vị đều là ăn rau cải, tương dưa mà không cần ăn thịt chúng sanh nữa. Thịt chúng sanh có ngon gì cũng là có cái sự đau khổ, có cái tội ác ở trong đó, nó không phải thiện. Cho nên từng cái câu trạch pháp này để giúp cho quý vị thân niệm Phật đã trở thành như thân Phật, đã trở thành lòng thương xót chúng sanh.

À, câu sáu: Thân niệm Phật không làm khổ chúng sanh, thân ta niệm Phật cũng không được làm khổ ai hết.

Trạch pháp câu này dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Thân ta niệm Phật từ đây về sau ai có chửi mắng, mạ lị, mình không được chửi mắng lại, không được giận hờn, thù oán họ, phải thương yêu họ, hết sức thương yêu họ vì họ là người đã thọ khổ, vì họ sân hận”.

Đó thì bắt đầu chúng ta trạch pháp câu này ra để chúng ta tu, thân chúng ta niệm Phật, thân Phật không có sân hận, không có thù oán ai thì thân mình cũng như vậy, không có sân hận, không có thù oán người khác. Cho nên mình nhớ, mình nhắc, mình ám thị, mình nhắc mình hoài thì do đó mình không còn sân hận, thù oán ai hết, mình không còn ghét ai hết. Cho thậm chí người ta chửi mình, người ta mạ lị mình, người ta mắng mỏ mình, người ta sỉ nhục mình, mình hoàn toàn mình không còn có đau khổ nữa. Nghĩa là mình không có giận hờn, mình được giải thoát, đó là mình đã niệm Phật, thân mình niệm Phật, thân mình đã được giải thoát.

Đó thì, quý thầy thấy mỗi cái mà chúng ta niệm Phật, nó đều đem đến cái sự giải thoát thật sự cho thân mình, chớ không phải là thiếu cái sự giải thoát. Nhớ những cái câu trạch pháp này, quý thầy sẽ hằng đêm, hằng ngày ngồi lại thì quý thầy nhắc cái câu đó để cho chúng ta hằng ngày, hằng đêm thấm nhuần được cái lý này mà đứng trước các pháp người ta mắng chửi mình, người ta mạ lị mình, người ta sỉ nhục mình, mình không có hờn giận họ nữa. Bởi vì cái câu này nó thầm nhuần vào tâm hồn của mình, cho nên bây giờ nghe người ta mắng mình, người ta chửi mình, sỉ nhục mình thì mình vẫn thản nhiên, mình không có buồn giận ai hết, mà mình biết họ đang khổ và sống trong nhân quả.

À, câu bảy: Thân Phật không bao giờ lấy trộm của ai, thân ta niệm Phật cũng vậy không bao giờ lấy trộm của ai.

Trạch pháp câu này dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý hằng ngày:

“Người mất của đau khổ, thân ta niệm Phật giống như thân Phật, há mà ta lấy của người không cho để làm cho người đau khổ”.

Đó mình trạch pháp câu này ra để nhắc mình, mình không bao giờ lấy của dù vật lớn, vật nhỏ mình không lấy của ai hết, vì lấy của người, người mất của làm cho người ta khổ sở, người ta mất của, người ta tiếc, người ta khổ. Cho nên, thân mình niệm Phật, Phật không bao giờ lấy trộm của ai hết, của không cho nhất định là không lấy. Do vì vậy, ta niệm Phật, thân ta niệm Phật, ta cũng như vậy không lấy của ai hết, hoàn toàn là vật lớn, vật nhỏ, trái cây, cục đường gì cũng không trộm, không cắp của ai hết, nghĩa là hoàn toàn.

À, câu số tám: Thân Phật đã tuyệt đường dâm dục, thân ta niệm Phật cũng vậy, ta cũng phải tuyệt đường dâm dục, vì con đường dâm dục là con đường tái sinh luân hồi, con đường đau khổ, là con đường bất tịnh.

Cho nên chúng ta biết như vậy, Phật thì tuyệt đường dâm dục, cho nên từ khi mà đi tu cho đến khi về gia đình thì hoàn toàn đức Phật không bao giờ mà gần gũi cái người vợ thân yêu của mình nữa, coi như là xa lạ, không có còn mà cái gần gũi nữa. Thân Phật đã tuyệt đường dâm dục, nên thân Phật thanh tịnh, trong sáng, thân ta niệm Phật cũng vậy, phải tuyệt đường dâm dục để cho thân tâm ta được thanh tịnh mới có hy vọng nhập được thiền định, làm chủ được sanh tử, luân hồi. Ta nên trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở thân tâm ta sống đúng thanh tịnh, tuyệt trừ dâm dục:

“Thân ta niệm Phật phải tránh xa đường dâm dục, xem dâm dục là hôi thối, dơ bẩn hãy xa lìa như xa lìa hầm phẩn”.

Đó là cái câu trạch pháp của chúng ta, nhắc nhở chúng ta để chúng ta hằng ngày chúng ta sợ hãi trước cái sự dâm dục. Bây giờ Thầy nhắc lại câu này:

“Thân ta niệm Phật phải tránh xa đường dâm dục, xem dâm dục là thứ hôi thối, dơ bẩn, hãy xa lìa như xa lìa hầm phẩn”.

Đó, chúng ta phải tránh xa nó đi chứ đừng có ham thích nó, nó là con đường sanh tử làm cho con người khổ đau, mọi người đều nơi đó mà sanh ra, mà chịu khổ đau từ người này đến người khác, từ tổ tiên ông bà của chúng ta sanh chúng ta ra cho đến bây giờ con cháu của chúng ta cũng đều thọ lấy những sự khổ đau này không bao giờ dứt. Cho nên, chúng ta phải xa lánh nó như xa lánh cái nơi dơ bẩn nhất, cái nơi hầm hố nhất, cái nơi mà khổ đau nhất.

Chín: Thân Phật không ăn uống phi thời, thân ta niệm Phật cũng vậy phải ăn uống, phải ăn uốngkhông phi thời.

Trạch pháp câu này dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý nhắc nhở thân tâm ta:

“Món ăn là bất tịnh, hôi thối, không có gì ngon dở, chỉ là một ảo giác của dục lạc tầm thường vị giác mà thôi, ta hãy thấu suốt lý bất tịnh của thực phẩm mà xa lìa, từ bỏ xem ăn uống là thứ thuốc trị bệnh đói mà thôi”.

Đó là chúng ta trạch pháp câu này ra để hằng ngày chúng ta ngồi thiền, chúng ta nhắc nhở đặt cái câu này trước để rồi chúng ta có thì ăn, mà không có thì thôi, không thèm, không khát nữa. Có như vậy thì chúng ta mới thấy được sự giải thoát của mình, còn nếu không được vậy thì khó mà có thể giải thoát được.

Câu mười: Thân Phật thường tỉnh thức không ngủ, không bao giờ có hôn trầm, thùy miên, thân ta niệm Phật cũng vậy phải thường tu tập tỉnh thức trong giấc ngủ.

Muốn được vậy ta phải dùng trạch pháp câu này, dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Thân ngủ đi, tâm tỉnh thức trong hơi thở, không được quên”.

Đó, chúng ta nhắc nó đó, bắt đầu chúng ta nằm xuống hen, chúng ta nhắc, nằm xuống ngủ chúng ta nhắc:

“Thân ngủ đi, tâm tỉnh thức trong hơi thở, không được quên nha”.

Nhắc nó như vậy để cho mình thở ra, thở vô luôn luôn nó biết mà cái thân này nó ngủ. Có như vậy là chúng ta mới thấy rằng tập đúng như Phật, Phật nằm kiết tường, rồi Phật đặt cái hơi thở trước mặt, rồi Phật cũng nhắc nó như vậy, rồi Phật nằm đó suốt đêm coi như cái thân ngủ mà cái tâm Phật không ngủ. Mình cũng bắt chước làm như vậy, bởi vì thân ông Phật làm sao thì mình niệm Phật thì mình cũng phải, thân mình cũng phải làm vậy để cho nó giống. Cho nên ở đây câu pháp hướng nghe ngắn, gọn mà nó rất đầy đủ ý nghĩa.

À, Thầy nhắc lại:

“Thân ngủ đi (mình ra lệnh nó đây: thân ngủ đi, bảo cái thân nó ngủ đi),tâm tỉnh thức ở trong hơi thở, không được quên nha”.

Mình nhắc nó như vậy thì cái tâm mình nó luôn luôn biết hơi thở ra vô, khi nằm xuống ta đặt niệm trước mắt, thường hướng tâm như vậy tu tập từ từ cho đến khi thân ngủ mà tâm tỉnh thức.

Đó là chúng ta tu tập tỉnh thức như vậy đó. Hồi nãy chúng ta tỉnh thức trong những hành động đi đứng nằm ngồi, bây giờ chúng ta tỉnh thức ở trong khi ngủ nữa.

À, số mười một: Thân Phật không nằm giường cao, rộng lớn, thường ở chòi tranh, vách lá, giường tre, trên tảng đá hoặc trên đất.

Đức Phật thì, thân của đức Phật thì không có chấp nhận mà nằm ở trên cái giường cao, rộng lớn, cho nên Phật chế giới ra không cho mình nằm giường cao rộng lớn thì chắc chắn ông Phật cũng không bao giờ mà chấp nhận nằm giường cao, rộng lớn đâu, thân ta niệm Phật cũng vậy không nằm giường cao rộng lớn gỗ quý, bất kỳ nằm chỗ nào cũng được, miễn là ở chỗ ấy không có sang đẹp để tránh khỏi thân đắm nhiễm.

Trạch pháp câu này ta dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý để nhắc nhở tâm ta xa lìa những nơi sang đẹp, êm ái của dục lạc thế gian:

“Thân nằm trên giường cao, rộng lớn êm ấm là tâm dễ đắm nhiễm sanh dục lạc ưa mến, ta phải xa lìa không được béng mãng tới”.

Đó, mình dùng cái câu pháp hướng đó mình nhắc để cho cái tâm mình đừng có, đừng có ham thích nằm giường cao rộng lớn, nằm mền niệm êm, nằm những cái cảm giác làm cho thích thú như kiểu thế gian nó sanh ra cái tâm không giải thoát, cái tâm không ly dục, ly ác pháp.

Câu mười hai: Thân Phật không trang sức vòng hoa, chuỗi hạt, thân ta niệm Phật cũng vậy không trang sức vòng hoa, chuỗi hạt.

Trạch pháp câu này dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý nhắc nhở thân ta:

“Thân là vô thường, thân là bất tịnh hôi thúi, nay còn mai mất có gì tốt đẹp mà trang sức vòng hoa, chuỗi hạt, ta hãy từ bỏ, xa lìa nó đi”.

Đó, đây là cái câu pháp hướng để nhắc cho chúng ta xa lìa cái thân mà trang sức của chúng ta. Niệm Phật thì chúng ta phải xa lìa sự làm đẹp, làm tốt, làm cho nó thơm tho nhưng cái thân là cái thân vô thường, là cái thân bất tịnh đâu có thơm tho gì hết.

Câu mười ba: Thân Phật không cất giữ tiền bạc, của báu, thân ta niệm Phật cũng vậy không cất giữ tiền bạc, của báu.

Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở tâm ta Như Lý Tác Ý:

“Tiền bạc, của báu là rắn độc sẽ giết chết chúng ta, sẽ làm chúng ta đau khổ”.

Đó là cái câu mà chúng ta trạch ra để chúng ta thấy tiền bạc, của báu là những thứ độc, những thứ mà có thể làm cho chúng ta đau khổ. Cho nên chúng ta xa lìa nó đi, đừng có nghĩa rằng chúng ta muốn cái này, muốn cái kia tức là chúng ta nô lệ cho nó, còn chúng ta không có thì chúng ta đâu bị nó sai khiến cho nên chúng ta giải thoát, còn có gì chúng ta khởi muốn là chúng ta bị nó hết.

Đó là những cái câu mà nhắc cho chúng ta để chúng ta cảnh giác, để chúng ta thấm nhuần, để chúng ta đừng có bị tiền bạc sai mình nữa.

Câu hai: “Tiền bạc, của báu là vật nguy hiểm nếu ta cất giữ nó, ta sẽ trở thành nô lệ, đầy tớ trung thành cho nó”.

Nghĩa là tiền bạc, của báu rất là nguy hiểm, nó là ông chủ của mình, nếu mình cất giữ nó, nó sai mình thế này, thế khác, biến mình trở thành cái tên nô lệ trung thành cho nó. Cho nên vì vậy đó, nó như vậy, chứ nó có quyền lực lắm mà chúng ta không ngờ được, cho nên nó là ông chủ của chúng ta đó. Bây giờ, chúng ta muốn mình không có trở thành nô lệ, tên nô lệ, tên đầy tớ nó thì chúng ta hãy ném nó đi xuống dưới sông, xuống biển hết đi thì nó không còn sai mình được nữa, nó không còn trở thành ông chủ của mình nữa. Đó, cho nên cái câu mà trạch pháp này, chúng ta nhớ câu trạch pháp này:

“Tiền bạc, của báu là vật nguy hiểm lắm, là ông chủ nếu chúng ta cất giữ nó, chúng ta sẽ trở thành một tên nô lệ, tên đầy tớ trung thành cho nó”.

Vì vậy, mà chúng ta nhớ nhắc những câu này để rồi chúng ta sẽ không còn mà thích thú cất giữ tiền bạc nữa.

Câu số mười bốn: Thân Phật nằm nghiêng theo kiểu kiết tường, thân ta niệm Phật cũng nằm theo kiểu kiết tường như Phật.

Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở:

“Thân ta hằng ngày cũng nên nằm kiết tường để dễ tâm tỉnh thức không bị mê muội, dễ đặt niệm hơi thở nhiếp tâm tỉnh thức trong lúc ngủ không bị chiêm bao”.

Đó thì, chúng ta biết rằng khi mà nằm kiết tường, nằm ngửa, nằm như thế này, thế khác thì nó dễ mê muội lắm mà nằm kiết tường thì nó ít mê muội, và nằm kiết tường mà lại đặt niệm, đặt niệm cái hơi thở của chúng ta ở trước thì chúng ta phá được cái chiêm bao, chúng ta làm chủ được cái giấc ngủ của chúng ta nữa. Cho nên cái, đặt cái câu này, đặt cái câu mà pháp trạch này để chúng ta dùng làm cái pháp hướng đó, nhắc nhở chúng ta thì quý thầy sẽ đọc lại cái câu này:

“Nằm kiết tường, tâm dễ tỉnh thức, không bị mê muội dễ đặt niệm hơi thở nhiếp tâm tỉnh thức trong lúc ngủ không bị chiêm bao”.

Đó là cái nhắc nhở chúng ta luôn luôn phải nằm ở trong kiểu kiết tường, luôn luôn phải đặt cái niệm hơi thở, nhiếp phục cái tâm mình, không cho nó chiêm bao, nhớ cái câu này là nhắc cho chúng ta, để chúng ta luôn luôn chúng ta nằm kiết tường, chúng ta phải đặt niệm hơi thở để làm chủ giấc ngủ, để làm chủ giấc ngủ, để phá cái chiêm bao, chiêm mị của chúng ta.

Đó thuộc về loại phần thân niệm Phật, đến đây là cái phần thân niệm Phật đã hết rồi, bây giờ tới cái thọ niệm Phật, chúng ta nghỉ một chút.

À, bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học của chúng ta, tức là bây giờ tới THỌ NIỆM PHẬT.

Hồi nãy là chúng ta đã học thân niệm Phật, bây giờ chúng ta lại THỌ NIỆM PHẬT. Bởi vì thân thọ tâm pháp, thân đã niệm Phật rồi thì bắt đầu bây giờ tới THỌ NIỆM PHẬT.

Thọ niệm Phật như thế nào? Thân Phật đã làm chủ được ba trạng thái của thọ:

1. Là Thọ lạc

2. Là Thọ khổ

3. Là Thọ bất lạc bất khổ

Đối với ba thọ:

Một: Phật thọ lạc không làm tâm Phật ưa thích, không vui mừng, không ca ngợi, không cầu mong, không ước muốn, không tưởng nhớ. Thọ ta niệm Phật cũng vậy giống như Phật không ưa thích, không vui mừng, không ca ngợi, không cầu mong, không ước muốn, không tưởng nhớ, nhờ thế thọ ta không tác dụng được, không lôi cuốn được, không làm cho ta đắm đuối mê mờ. Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý.

Ở đây chúng ta thấy rằng đức Phật đã xác định cho chúng ta biết rằng cái thân của chúng ta có ba cái Thọ: Thọ lạc, Thọ khổ và Thọ bất lạc bất khổ. Và ở trong ba cái Thọ này đức Phật không có chấp nhận cái Thọ nào hết, Thọ lạc đức Phật cũng không thích, mà Thọ khổ đức Phật cũng không sợ, mà Thọ bất lạc bất khổ đức Phật cũng không cho nó là Niết bàn cứu cánh, toàn là cái thứ thế gian phàm tục mấy cái Thọ này đức Phật xem như là nó không cám dỗ được đức Phật. Do đó bây giờ chúng ta lấy cái Thọ mà niệm Phật, thì Phật cái Thọ của Phật như thế nào thì cái Thọ của chúng ta như phải thế nấy, cho nên chúng ta phải tập nó như vậy.

Nhưng mà muốn nói như vậy nhưng mà không có pháp tu, không có pháp hành thì làm sao mà chúng ta đạt được như vậy được. Cho nên chúng ta phải có pháp hành để cho chúng ta hằng ngày nhờ cái pháp hành đó, nhờ có giới hành đó mà chúng ta thấm được cái lý, cái lý của nó. Cho nên chúng ta hoàn toàn là chúng ta mới không có đắm đuối theo Thọ lạc, không có sợ hãi theo Thọ khổ, không có, không có ham thích theo Thọ bất lạc bất khổ.

À Thọ lạc, bây giờ chúng ta trạch pháp cái câu này ra, để mà chúng ta dùng pháp hướng đây:

“Thọ lạc là vô thường khi có sanh ra khả ái, khả hỷ, khả lạc nhưng chỉ chốc thời không được lâu dài, vì thế thọ là nguy hiểm, là tai họa, là khổ đau ta phải đoạn dứt, không được ham thích, say đắm, không được để chúng lôi cuốn, không được để tâm ta sa ngã theo chúng”.

Đó là câu trạch pháp mà chúng ta nhắc nhở và chúng ta cũng phải hiểu rõ, chúng ta cũng hiểu rõ nó là vô thường, tại sao nó vô thường? Chúng ta quán xét, bởi vì chúng ta khi mà trạch pháp câu này ra thì chúng ta phải có một cái sự hiểu biết của nó để chúng ta thấu suốt được. Nó vô thường như thế nào, thân của chúng ta bây giờ nó đang có cái sự thích thú, an ổn hoặc là chúng ta đang ăn món ăn đó ngon, đó là nó có cái cảm giác thích. Vậy là bây giờ khi nuốt hết món ăn đó rồi thì nó mất đi, nó không còn nữa, như vậy là nó có thường không? Tức là vô thường. Cũng như thân ta bây giờ nó không có bệnh đau nè, nó nghe nó an ổn nè, lát nữa là cái nó nhức đầu, như vậy nó có thường không, nó là vô thường. Cho nên nó sanh ra, khi mà Thọ lạc nó sanh ra thì chúng ta thích lắm cho nên nó gọi là khả ái, khả hỷ, khả lạc nhưng mà nó chỉ có một chút là nó hết liền, cũng như có người đi xa về gặp mình vui có một chút, mai mốt đâu có vui nữa, đâu có vui hoài đâu, vui có bữa đó thôi, vui có hồi nãy đó thôi, còn bây giờ hết vui rồi. Tức là cái vui đó nó không có kéo dài mãi, cho nên nó vô thường lúc sanh ra rồi lúc mất, nó vô thường. Vì thế chúng ta hiểu biết được cái thọ của thế gian, thọ của thân mình đều là hoàn toàn là vô thường. Mà nó nguy hiểm khi mà cầu mong được thọ đó nó trải qua nhiều cái sự kiện nó xảy ra.

Ví dụ như trước khi mà có người thân mà đi xa thì bây giờ về gặp nhau mừng, trong khi trước khi đó khi có duyên gì mà người đó đi xa thì chúng ta có buồn tủi không, có thương nhớ không? Thương nhớ, buồn tủi rồi bây giờ mới lâu ngày mới trở về gặp nhau mới có vui mừng, cho nên bây giờ mà vui mừng nhớ trước kia cái ngày mà chia tay ra đi không biết còn sống hay chết luôn luôn lúc nào cũng sầu khổ. Rõ ràng là cái Thọ lạc của nó đem đến cái niềm vui thì phải có sự khổ rồi, cũng như có sự vui rồi sẽ đến cái sự khổ. Cho nên chúng ta phải thấy nó là nguy hiểm, là tai họa, là khổ đau, do biết nó là nguy hiểm, tai họa, khổ đau đó cho nên chúng ta phải đoạn dứt, không có ham thích theo nó, không có say mê theo nó, không có vui theo cái kiểu mà như vậy được vì vui đó rồi khổ đó. Cho nên chúng ta không có để cái Thọ lạc đó làm cho tâm ta sa ngã.

Do đó vì vậy cái câu mà trạch pháp này là chúng ta hiểu rõ như vậy, cho nên chúng ta nhắc như vậy thì chúng ta không còn say đắm nữa. Chứ còn không khéo là chúng ta dễ say đắm lắm, dễ bị sa ngã nó cám dỗ, cái Thọ lạc này nó cám dỗ chúng ta dữ lắm, cái Thọ khổ thì chúng ta sợ đó, nhưng mà cái Thọ lạc này là chúng ta không sợ đâu, mà người ta ham lắm, vì thế gian mà người ta sống được tại vì có Thọ lạc này mà người ta thích sống nè, cũng như một người sắp chết rồi mà vẫn thấy có cái giọt mật mà ngon họ vẫn thích, họ muốn chết rồi đó, họ sắp chết rồi đó mà họ vẫn còn thấy cái ngon của thế gian là họ còn thích ăn, thích nếm chứ chưa phải họ muốn bỏ đâu. Cho nên vì vậy mà chúng ta biết rằng cái Thọ lạc nó đem đến cho chúng ta khổ lắm chứ không phải là sung sướng gì, nó chỉ là chốc thời, nó chỉ là chớp mắt, mà nó đem đến cho chúng ta nhiều cái khổ sau này.

Hai:Phật Thọ khổ, Phật không sợ hãi nghĩa là gặp khổ như là đau nhức bệnh tật thì đức Phật không có sợ hãi, còn chúng ta mà đau nhức này kia nọ thì chúng ta sợ lắm, sợ chết, sợ khổ, sợ nhức, đủ thứ lo lắng buồn rầu, ăn không được nữa, ngủ không được nữa. Nghe cái thân đau nhức chỗ nào đó, chúng ta thôi quá khổ, còn ông Phật thì mặc nó, mà ổng chẳng hề sợ hãi cái gì hết, cho nên Phật không có sợ hãi cái thọ khổ, cũng không chán ghét nó, mà cũng không lo lắng, không buồn rầu, không ưu não và luôn luôn Phật bất động trước các Thọ khổ, nghĩa là trước các thọ khổ. Cho nên Phật nói cái sức tận cùng chịu đau của cái thân của chúng ta, chịu đau cái sức tận cùng của thân chúng ta mà Đức Phật vẫn thản nhiên, vẫn thản nhiên mà không để cho tâm mình dao động thì nó có sự mát lạnh ở sức chịu đựng, sức chịu khổ, tận cùng của sức chịu khổ của cái thân chúng ta.

Đó thì như vậy là chúng ta đã thấy biết rằng Phật không có sợ cái Thọ khổ, Phật không có lo lắng, không có buồn rầu cái thọ khổ. Như ai có thân này cũng đau, cũng nhức, cũng tai nạn này tai nạn khác nhưng mà đối với Phật, thì Phật rất thản nhiên, đối với ta mà chúng ta gặp thọ khổ thì chúng ta sợ hãi, chúng ta không có dám, chúng ta lo lắng, buồn rầu trái lại Phật buồn rầu, không có lo lắng gì hết, tại vì nhân quả thì phải có Thọ khổ thôi, thọ khổ thì mặc nó chứ đâu phải vì mình mà mình sợ nó. Cho nên khi quý thầy thấy quý thầy có những thọ, thọ khổ đó, mà quý thầy có những bệnh tật thì quý thầy cứ lo lắng cái bệnh tật mình như thế này, thế khác, tức là quý thầy đã bị cái Thọ lôi cuốn quý thầy rồi, làm cho quý thầy bất an, tâm quý thầy dao động. Còn bằng không mà nếu quý thầy chẳng có sợ hãi, quý thầy đặt cái niệm Thọ trước mặt, thì quý thầy mới câu hữu với Sắc thọ hoặc Thức thọ hoặc Hành thọ hoặc Tưởng thọ quý thầy câu hữu, quý thầy đặt nó trước mặt của mình, quý thầy quán xét, quý thầy tư duy, quý thầy đặt nó xuống, quý thầy chẳng rung động trước Thọ khổ của quý thầy, quý thầy làm chủ được Thọ khổ. Cho nên quý thầy vượt thoát ra nó, mà thân nghiệp của quý thầy cũng sẽ hết.

Cho nên hầu hết là một số quý thầy tu hành trước Thọ khổ của quý thầy, trước bệnh tật của quý thầy tức là trước nghiệp thân của quý thầy quá đau khổ tức là Thọ khổ đó, quý thầy lo lắng thế này thế khác nghĩ rằng thân mình phải mạnh mới tu được, đau ốm thì tu không được bây giờ cứ thế này thế khác, cứ lo lắng sợ hãi như vậy đó thì chẳng tu gì được hết. Trái lại đặt cái niệm thọ khổ đó trước mặt của mình, rồi dùng cái trí, tri kiến giải thoát quán xét tư duy đập nó xuống, phá toang nó ra, nó không còn có nữa, như vậy là quý thầy sẽ thấy cái nghiệp thân của quý thầy giải thoát hoàn toàn, nó không còn làm cho quý thầy đau khổ.

Ta lấy thọ niệm Phật cũng vậy, giống như Phật phải gan dạ, phải kiên trì, phải đầy đủ nghị lực, phải dũng cảm, phải chiến đấu với thọ không sợ hãi, không chán ghét, không lo lắng, không buồn rầu, không ưu não luôn luôn giữ tâm bất động các thọ khổ.

Ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý để giữ tâm bất động trước Thọ khổ. Đó, khi mà một cái người mà tu theo đạo Phật đó, thì chúng ta phải thấy cái Thọ khổ. Nếu mà chúng ta không có hiểu thấu được Thọ khổ đó, khi gặp cái thân nghiệp của chúng ta, nó mang cái thân từ khi mà sanh ra cho đến khi mà chúng ta chết có nhiều người mang cái thân có cái nghiệp nó đau từ nhỏ chí lớn, mà nếu mà không có cái chỗ mà tu tập, không có được cái định mà tu tập để quét sạch nó thì chắc chắn là quý thầy tới khi chết mà quý thầy cũng chưa hết cái nỗi khổ của cái Thọ của mình. Còn biết như vậy thì chúng ta sẽ tu tập đúng cách, cái phần này sau khi mà giảng xong cái giáo án này xong, thì thầy dành riêng cho những người mà có thân nghiệp nặng một cái bài pháp để giúp cho họ đặt cái niệm, đặt cái niệm thọ mà tu cái định Vô lậu để quét sạch cái niệm thọ, phá đi những cái nhân quả của đời trước của họ mang cái thân ra đã có cái bệnh, để giúp cho họ thoát ra cho khỏi những cái nghiệp thân đó, bằng những cái pháp có những ý nghĩ của Phật pháp để giải thoát họ ra khỏi cái đó.

Chúng ta phải dùng cái câu này để mà trạch pháp để tu, để mà sống đúng như cái thọ của Phật, thọ khổ, chúng ta phải thấy nè:

“Thọ khổ không từ đâu đến, không từ đâu đi toàn là do duyên ác mà có Thọ khổ, do quả ác mà kết trái mà có Thọ khổ, ta cứ giữ tâm bất động, Thọ đến Thọ đi mặc thọ, chẳng tác dụng ta được, do thế Thọ sẽ tịnh chỉ hoàn toàn”.

Như vậy các thầy sẽ dùng cái câu trạch pháp này, mà khi gặp cái thân quý vị đau bệnh thì qúy vị đặt cái câu này, quý vị nhắc cái tâm của quý vị:

“Thọ khổ không từ đâu đến (nó không phải ở ngoài nó đến thân ta đâu, mà nó cũng không từ đâu nó đi hoàn toàn là do duyên hợp mà thành mà), cho nên toàn là do duyên ác mà có thọ khổ, do quả ác mà kết trái mà có thọ khổ, ta cứ giữ tâm bất động, Thọ đến thọ đi mặc Thọ chẳng tác dụng được tâm ta, do thế Thọ sẽ tịnh chỉ hoàn toàn”.

Đó, phải hiểu được như vậy thì chúng ta mới tịnh chỉ được các thọ, có như vậy thì chúng ta mới làm chủ được cái thọ của chúng ta, còn nếu không thì chúng ta yếu đuối đây rồi chúng ta sẽ bị thọ làm cho chúng ta bò càng, bò niểng, sợ hãi. Đó thì như vậy là cái câu trạch pháp này quý thầy phải nhớ kỹ để thường nhắc nó.

Câu thứ hai: “Thọ là vô thường, không có ngã, ta chẳng hề sợ hãi và nao núng. Thọ khổ hãy đi đi”

Đó, là câu thứ hai chúng ta đuổi nó đi đi, bây giờ mày nhức cái đầu thì hãy đi đi đừng có ở đây, mày là vô thường, lúc mày có, lúc mày không, tại sao hôm qua mày không có nhức đầu, hôm nay mày nhức đầu, mày hãy đi đi, mày không phải là cái ngã. Cho nên vì vậy đó cái câu pháp hướng này để giúp cho chúng ta đánh đuổi cái thọ, cái nhức đầu của chúng ta. Thầy nhắc lại câu hai:

“Thọ là vô thường, không có ngã, ta chẳng hề sợ hãi và nao núng. Thọ khổ hãy đi đi”

Đó là chúng ta đuổi nó đi.

Câu ba: “Thọ khổ là vô chủ, không phải của ta, không phải của ai hết, của nhân quả duyên hợp, vậy Thọ hãy đi đi”.

Nó là do duyên hợp của nhân quả mà, do ngũ uẩn duyên hợp của chúng ta mà, bây giờ nó có Thọ nhức cái đầu hoặc đau cái bụng đây, nó không phải của chúng ta, nó bây giờ nó đi cầu không được nó nhức nhối đây, nó đều là cũng cái nhân quả thôi cho nên đi đi, chứ đừng có ở đây.

BĂNG SỐ 50

Câu hai:“Thọ là vô thường, không có ngã, ta không hề sợ hãi và nao núng. Thọ khổ hãy đi đi”

Câu ba: “Thọ khổ là vô chủ, không phải của ta, không phải của ai hết, của nhân quả duyên hợp. Vậy thọ hãy đi đi”.

Đó là câu thứ ba, chúng ta cũng đuổi nó, không có cho nó. Cho nên chúng ta thường thường là lúc tuổi chúng ta già, chúng ta yếu dễ có thọ lắm. Cho nên lúc nào chúng ta cũng dùng những cái pháp hướng này đuổi nó đi: nhức đầu, nhức chân, nhức tay, nhức khớp xương, hoặc cái gì tất cả chúng ta cũng đuổi nó đi. Nó là cái tụi vô thường, cái tụi mà nó do cái nhân quả duyên hợp mà nó thành, nó tạo ra bây giờ chúng ta cảm giác thấy cái thọ khổ chứ không phải là ai mà cảm giác thấy thọ khổ này hết, tại thọ là thọ như vậy. Cho nên chúng ta phải mạnh dạn mà đập đầu, đuổi nó đi không cho nó ở lại.

Câu bốn: “Thọ khổ không phải trong ta, không phải ngoài ta, thọ là duyên hợp của nhân quả mà có, không phải của ta, không phải của ai. Vậy thọ khổ hãy đi đi đừng có ở đây, đừng có làm khổ ta”.

Chúng ta đuổi nó đi đi, khi nào mà chúng ta bị cái gì mà khổ trong thân của chúng ta, cái cảm thọ của chúng ta thì chúng ta phải hoàn toàn là xách đầu nó, đập nó xuống, đuổi nó đi, không có được để cho nó bén mãng vào cái thân của chúng ta, vào cái chỗ nào mà đối với chúng ta, để cho tâm chúng ta bất động hoàn toàn, an ổn hoàn toàn.Đó là cái phần thọ khổ mà đến đây đã hết, vậy thì ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục học thọ bất lạc, bất khổ. Bây giờ chấm dứt.

THỌ BẤT LẠC, BẤT THỌ KHỔ

Bây giờ, chúng ta sẽ tiếp tục học cái thọ thứ ba là cái Thọ bất lạc bất thọ khổ. Bất lạc bất thọ khổ đó là một cứu cánh, một Niết bàn mà cái người xưa trong cái thời đức Phật có Lục sư ngoại đạo, họ cũng cho cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ là Niết bàn, là cứu cánh. Ngày nay, cũng có một số người chấp nhận cái chỗ bất lạc bất thọ khổ này là cái chỗ chẳng niệm thiện, niệm ác, là cái chỗ ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, là cái chỗ da mỏng, da dày đều rất sạch, bản thể của vũ trụ. Thật ra thì cái chỗ này mà không có thọ khổ của các pháp của thế gian, nhưng nó là một trạng thái của một cái ý thức, cái tâm thức của con người, nó không có phải là cái chỗ cứu cánh giải thoát.Vì cái chỗ này, tuy rằng bất lạc bất thọ khổ, nhưng khi mà có một cái điều kiện lạc hoặc khổ thì ngay đó cái tâm của con người ở trong cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ này thì liền dao động.

Thí dụ như có một điều kiện gì xảy đến làm cho họ vui mừng thì ngay đó cái bất lạc bất thọ khổ này liền mất đi để nhường lại cho cái thọ lạc đó; còn nếu có một cái trạng thái gì đau khổ, nhức nhối hoặc là giận hờn thì ngay cái thọ bất lạc bất thọ khổ này nó cũng mất đi, nó nhường lại cho cái thọ khổ đó. Do đó, cái thọ bất lạc bất thọ khổ này không phải là cái chỗ cứu cánh.

Còn cái chỗ cứu cánh, nó không phải ở trong chỗ cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ, mà ở chỗ trạng thái là cái tâm nó không có dao động, nó bất động. Khi có một cái trạng thái lạc thì cũng không cám dỗ được nó, nó cũng bất động mà khi có cái trạng thái khổ thì nó cũng bất động, nó không bị duyên theo thọ lạc và thọ khổ. Còn cái trạng thái mà bất lạc bất thọ khổ này thì luôn luôn nó bị duyên theo, hễ cái lạc thì nó chạy theo cái lạc mất cái bất lạc bất thọ khổ, mà cái thọ khổ đến thì nó cũng bị giao động theo, nó không có giữ được cái thọ bất lạc bất thọ khổ này. Cho nên đối với Phật thì Phật không có chấp nhận cái chỗ này là cái cứu cánh, là cái Niết bàn, là cái bản thể của vũ trụ. Mà chính đạo Phật chấp nhận là trước mọi cái hoàn cảnh, mọi cái sự khó khăn, mọi cái lạc, cái thọ khổ mà cái tâm không dao động, thì chính cái chỗ đó mới là Niết bàn, mới là cứu cánh của con người tu theo đạo Phật.

Thân Phật thọ bất lạc bất khổ Phật cho đó là một trạng thái còn phàm phu, không phải là cứu cánh, Phật không chấp nhận. Ở đây, quý thầy phải hiểu ngay chỗ thọ lạc mà chẳng sanh ưa thích, ham mê tức là tâm bất động trước thọ lạc đó là phạm hạnh, mục tiêu của phạm hạnh. Ngay chỗ thọ khổ mà chẳng sanh tâm sợ hãi, dao động đó là phạm hạnh, là mục tiêu của phạm hạnh, là giải thoát của đạo Phật.

Đó thì, như vậy thì quý thầy thấy rất rõ cái chỗ bất lạc bất thọ khổ này chỉ là một trạng thái bình thường của một người không lạc, không khổ chớ không phải tâm bất động, tâm vẫn còn dao động, tâm vẫn còn chạy theo lạc hoặc là sợ hãi trước cái thọ khổ. Ngay cái chỗ mà thọ bất lạc bất khổ mà sanh ưa thích, thấy cái trạng thái nó bất thọ lạc bất thọ khổ này tưởng là giải thoát, rồi sanh cái tâm ưa thích cho nó là cứu cánh, là Niết bàn thì đó là một cái tâm chấp trước, tâm chấp trước như vậy là nó dính mắc vào cái chỗ chấp trước đó, cho cái trạng thái đó là cái cứu cánh của mình, đó là dính vào cái chỗ chấp trước. Dao động nên chẳng phải là phạm hạnh cứu cánh, vì cái chỗ này nó dễ bị dao động, vì còn chấp trước nó cho nên có một cái gì thì nó dễ bị dao động; còn cái kiến chấp đó, cho nó là cứu cánh thì tức là nó sẽ bị dao động ở chỗ đó.

Thọ ta niệm Phật, chỗ bất lạc bất thọ khổ này ta vẫn thản nhiên, không để tâm dao động, cũng không chấp trước thì đó là phạm hạnh, là mục tiêu của phạm hạnh, thì đó là tâm bất động giải thoát của mọi con người và chính chỗ đó là chỗ của đạo Phật chấp nhận cái phạm hạnh giải thoát của người tu theo đạoPhật. Chớ không phải chỗ mà bất lạc bất thọ khổ này, mà coi chỗ bất động, bất động tâm. Ta trạch pháp câu này dùng pháp hướng dẫn tâm Như Lý Tác Ý để mà xả cái trạng thái tâm bất thọ lạc, bất thọ khổ này, ta trạch pháp như thế này:

“Thọ bất lạc bất khổ không phải là cứu cánh Niết bàn, nó là một trạng thái không lạc, không khổ của phàm phu, vì thế chưa phải là cứu cánh, nên ta hãy từ bỏ, buông xuống không được chấp trước nó, không được trụ ở nó mà phải bỏ đi, nó hãy đi đi đừng có ở trong ta nữa, đừng ở trong cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ này ở trong ta nữa”.

Đó là cái câu trạch pháp Thầy xin đọc lại:

“Thọ bất lạc bất khổ không phải là cứu cánh Niết bàn, ta hãy từ bỏ, buông xuống, không được trụ ở trạng thái này nữa”.

Đó là cái câu mà chúng ta hướng và nhắc tâm chúng ta hằng ngày để chúng ta đừng có chấp cái thọ mà bất lạc bất khổ này.

TÂM NIỆM PHẬT

Bây giờ chúng ta tiếp tục tâm niệm Phật:

Một:Tâm Phật không có ham muốn, tâm ta niệm Phật cũng vậy không có ham muốn các pháp thế gian. Đối với các pháp thế gian thì đức Phật đã xả bỏ hết, không còn để một cái pháp nào trong tâm đức Phật chấp nhận, cho nên Ngài bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con xinh mà Ngài ra đi tìm con đường giải thoát, cho nên Ngài không còn ham muốn cái gì cả hết, chỉ còn có cái tìm lấy cái sự giải thoát sinh lão bệnh tử. Cho nên tâm ta niệm Phật thì ta cũng phải như Phật vậy, không có ham muốn gì hết, bỏ xuống hết giống như Phật, mà muốn giống được như Phật vậy thì ta nên trạch pháp cái câu này, dùng làm cái pháp hướng như cái lý mà tác ý:

“Các pháp thế gian là vô thường, là khổ, ta không nên tham muốn nó mà phải từ bỏ, xa lánh nó, đừng có bén mảng đến những cái pháp thế gian, nó là khổ”.

Đó là chúng ta dùng cái câu pháp hướng như vậy. Thầy xin nhắc lại để chúng ta nhớ lại câu pháp hướng cho rõ:

“Các pháp thế gian là pháp vô thường, là khổ, ta không nên tham muốn, hãy từ bỏ, hãy xa lánh cái lòng tham muốn đó đi”.

Câu hai:Tâm Phật không tham đắm một vật gì ở trong cái thế gian, thì tâm ta niệm Phật cũng vậy không tham đắm một vật gì ở trong thế gian.Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này để dùng làm cái pháp hướng nhắc nhở tâm như cái lý mà tác ý:

“Các pháp thế gian có sự cám dỗ và sự lôi cuốn, ta không nên tham đắm, vì tham đắm là khổ và làm hại nguy đến bản thân ta”.

Tâm Phật không sân, tâm ta niệm Phật cũng vậy không sân hận đối với một ai.Ta nên trạch pháp câu này để thường nhắc nhở tâm ta như cái lý giải thoát mà ta tác ý ra:

“Sân hận là pháp khổ đau, làm cho mình khổ mà còn khiến cho người khác khổ, ta hãy dứt bỏ không được sân hận với dù bất cứ với một ai hết”.

Đó thì, quý thầy phải nhớ là lúc nào mình cũng như cái lý này mà tác cái ý ra để nhắc nhở cái tâm của mình không có còn cái sân hận,vì sân hận là một pháp rất là ác, nó làm cho khổ mình và khổ người. Người mà lấy tâm niệm Phật thì không để cho tâm mình sân hận.

Câu hai: “Sân hận là cái pháp ác, một cái pháp rất ác, phải dứt bỏ ngay, không được lưu lại ở trong tâm ta một chút nào.”

Muốn được như vậy đó, thì hằng ngày lúc nào, rảnh rang chúng ta cũng phải như cái lý mà tác ý nó, để vạch mặt nó, cho biết nó là cái pháp rất ác mà chúng ta cố gắng để mà xa lìa nó.

Câu bốn: Tâm Phật thì không có nghi ngờ, tâm ta niệm Phật cũng vậy, không nghi ngờ ai cả, vì nghi ngờ là một tánh xấu ác làm cho tâm ta bất an, làm cho ta nghi kỵ đối với người khác, không có thân tình, làm cho người khác cũng đau khổ.Muốn được vậy, ta trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng, hằng ngày như cái lý mà tác ý ra để dứt bỏ cái tâm nghi.

Câu pháp hướng đây:

“Nghi là một ác pháp làm khổ mình, khổ người, từ đây ta phải dứt bỏ, ta phải từ giã, lìa xa tất cả những gì mà nghi nan, nghi ngờ người khác. Cái lòng nghi hãy đi đi, đừng ở trong ta nữa”.

Khi mà ta trạch cái pháp câu này rồi thì chúng ta cứ nhớ nhắc vì cái tâm nghi kỵ, vì cái tâm mà nghi ngờ thấy cái người nào mà hơi có cái vẻ mà sanh nghi đó thì làm chúng ta phải bận tâm, hết sức bận tâm, là phải nhìn ngó họ, phải xem xét họ, rồi theo dõi họ bằng cách này, bằng cách kia, cho nên ta rất bận tâm. Vì vậy nó làm cho chúng ta rất khổ, rồi cái người khác mà nhận ra được mình mà ta theo dõi họ như vậy đó thì họ sanh ra ghét và không ưa mình. Cho nên đối với ta đó thì phải hiểu rõ cái tâm nghi đã làm cho mình rất khổ là phải cứ theo dõi người khác, phải để ý người khác, rồi người khác mà hiểu được mình theo dõi họ như vậy thì họ sanh ra ghét, họ sanh ra thù hận, rồi họ đâm ra tìm cách nói xấu mình hoặc là họ tìm cách này, cách khác để hại mình.

Vì thế, mà chúng ta muốn cho, cho cái tâm nghi này nó không có ở trong mình nữa thì hằng ngày chúng ta phải trạch những cái câu mà hồi nãy Thầy đã dạy ở trên đó, thường phải nhắc cho nó. Cho nên ai làm gì thì chúng ta chẳng để ý, chẳng nghi ngờ ai hết, ai làm ác thì họ chịu lấy, ai làm thiện thì họ nhờ, chớ chúng ta chẳng nghi họ là trộm cắp, nghi họ nói xấu mình, nghi họ thế này, thế kia. Vì cái nghi đó nó làm cho chúng ta rất khổ tâm và cứ phải để ý người khác nó rất mệt, cho nên chúng ta biết nó là tạo cho chúng ta khổ thì chúng ta hãy lấy câu đó mà lấy cái tâm mà niệm Phật để mà diệt trừ cái tâm nghi, vì ông Phật, tâm Phật không bao giờ có nghi ngờ ai hết và mình lấy tâm mình niệm Phật đó thì mình cũng xả bỏ, cũng diệt trừ, cũng dứt đoạn cái tâm nghi, đừng có để nó trong lòng. Có như vậy được thì chúng ta mới có được an vui, mới có được hạnh phúc.

Bây giờ về cái phần năm là:Tâm Phật không tị hiềm, tâm ta niệm Phật cũng vậy, không có tị hiềm ai hết. Tị hiềm là một cái tánh xấu ác làm khổ mình, khổ người, ta hãy dứt bỏ, xa lánh, từ khước, viễn ly đừng để nó bén mãng ở trong tâm ta.

Thì chúng tacũng phải hiểu cái tâm mà tị hiềm: tỵ là mình ganh tỵ; hiềm là mình hiềm hận. Ganh tỵ là mình thấy người ta hơn mình, hơn mình thì mình sanh cái lòng ganh tỵ mình không muốn họ hơn mình, thấy họ giàu hơn mình thì mình sanh cái lòng ganh tỵ với họ, không có muốn cho họ hơn mình; thấy họ học giỏi hơn mình, mình cũng sanh cái lòng ganh tỵ không có muốn ai học giỏi hơn mình; thấy họ có cái lòng mà hơi mà tu giỏi hơn mình thì mình cũng đâm ra ghét họ, rồi mình tìm cách nói xấu hoặc phá họ không có để cho họ yên ổn tu hành. Từ đó chúng ta thấy cái lòng tị hiềm nó tạo cho chúng ta nhiều cái, nhiều cái tánh xấu, cái tánh ác ở trong đó, nó làm cho mình bất an và người khác cũng không an. Do cái tánh đó như vậy nó làm cho mình càng ngày càng lui chớ không có tiến ở trên con đường tu tập. Do biết thấy được cái lòng tị hiềm là cái lòng quá xấu như vậy đó, thì chúng ta phải cố gắng lấy cái tâm của mình mà niệm Phật, cũng giống như Phật không có tị hiềm ai nữa hết, bỏ xuống. Vì ai hơn thì mình mừng, ai tu tốt thì mình mừng, ai làm giàu thì mình mừng, mình mừng mình vui theo, mình hoan hỷ với họ chứ mình không có ganh ghét họ, mình không có nói xấu họ bằng cách này hoặc bằng cách khác.Cho nên cái lòng tị hiềm là cái lòng rất là tệ hại do vì vậy mà chúng ta phải cố gắng mà xa lánh nó, từ giã nó, từ khước nó.

Muốn được vậy ta hãy trạch pháp câu này dùng pháp hướng chặt đứt, chặt đứt nó, chặt đứt cái lòng tị hiềm, thường thì hằng ngày chúng ta ngồi thẳng lưng kiết già đặt cái niệm tị hiềm trước mắt rồi đặt cái pháp hướng, rồi chúng ta dùng cái pháp quán, chúng ta suy tư cái lòng tị hiềm của mình nó đưa mình đến những cái nỗi khổ nào, mình ganh ghét họ như thế nào, mình thấy họ hơn mình, mình ganh ghét họ làm sao? Rồi nó làm cho mình khổ đau như thế nào, thì mình quán xét cho thấu suốt được cái lòng tị hiềm của mình, từng đó mình thấy nó đem đến bao nhiêu sự khổ đau cho chính mình. Rồi cũng từng hiểu biết như vậy đó, rồi mình mới dùng cái pháp hướng một cái câu để mình trạch ra, để mình đuổi nó đi, mình đừng cho nó ở trong tâm của mình nữa, mình xem nó như một cái vật đồ bỏ, mình không để nó nữa. Cho nên cái câu trạch pháp này quý thầy nhớ mà ghi chép.

Ngày xưa khi mà Đề Bà Đạt Đa thấy đức Phật có một giáo đoàn được cái uy tín, các cái nhà vua đều rất kính nể đức Phật, thì ông sanh ra cái tâm tị hiềm, do đó ông tìm mọi cách chia cái giáo đoàn của Phật ra, rồi ông đặt ra những cái giới luật cho nó có cái vẻ sống hay hơn Phật, sống khổ hạnh hơn Phật để làm cho hơn Phật. Và đồng thời thì ông quyến dụ được một nhà vua A Xà Thế, nhờ cái nhà vua A Xà Thế đó, họ cúng dường và hổ trợ ông, cho nên ông lợi dụng cái lòng tin của một nhà vua rồi ông tìm mọi cách để mà hại Phật. Đó là cái lòng tị hiềm của con người ghê gớm, ông lăn đá làm cho Phật phải chảy máu, ông dùng voi say để mà giết Phật, ông dùng mọi cách để mà hại Phật. Đó là cái lòng tị hiềm, cái lòng ganh ghét; cái lòng tị hiềm của con người ghê gớm lắm.

Cho nên ở đây một cái người mà tu theo đạo Phật thì chúng ta biết rằng đức Phật ngày xưa không có bao giờ mà có tị hiềm. Đối với lục sư ngoại đạo, dù là người ta tu như thế nào thì đức Phật cũng không có chỉ trích, chê bai người ta hết, tức là không có lòng tị hiềm người ta. Ờ, mà đôi khi đến hỏi Phật, những cái ngoại đạo đôi khi đến hỏi Phật như một cái vị mà khổ hạnh tu theo hạnh của con bò và một vị mà tu theo cái hạnh của một con chó mà đến hỏi Phật, hỏi đến ba lần, Phật nói đừng hỏi ta, nghĩa là nếu mà ta nói ra thì các ngươi sẽ khổ sở và nghĩ rằng ta là tị hiềm với ngươi hoặc là ta sẽ nói xấu mấy ngươi nhưng mà ta nói là một cái sự thật, cho nên đừng có hỏi, thôi thôi đừng có hỏi ta. Cho nên hầu hết là Phật từ chối nhưng các vị đó, có ý muốn hỏi Phật như mình tu những cái hạnh như vậy đó là sau này mình sẽ thú hướng, sẽ sinh đi về đâu, sẽ được làm cái gì? Thì đức Phật buộc lòng mà nói ra một cái sự thật thì chớ không phải là cái lòng tị hiềm muốn bài bác cái pháp của người ta, muốn nói xấu cái pháp người ta. Nhưng tại vì cái pháp đó nó sẽ đưa người ta đi đến cái chỗ không giải thoát.

Cũng như bây giờ đó quý thầy cũng thấy rằng khi mà Thầy hiểu biết được các pháp hiện bây giờ mà người ta đang gọi là Phật pháp mà người ta tu đó, người ta cứ ngỡ tưởng nó sẽ là đưa họ đi đến giải thoát, nhưng mà Thầy hiểu rằng nó sẽ không có đi đến giải thoát. Cho nên từ lâu Thầy cứ nghĩ rằng mình sẽ núp sau lưng Hòa thượng đó, để mình giúp đỡ cho những người tu đúng theo cái đường lối của đạo Phật, để cho họ đạt được sự cứu cánh giải thoát. Nhưng không có đủ cái nhân duyên mà mình làm như vậy. Vì vậy bây giờ mà Thầy nói thẳng ra là những cái điều, cái pháp mà người ta tu đó nó không có đưa họ đi đến cứu cánh giải thoát, mà nó đưa đi đến cái chỗ sai lệch, nó làm cho họ uổng cái cuộc đời vì họ đang sống ở trong cái dục lạc của thế gian thì làm sao họ ly được dục, ly ác pháp được. Cho nên Thầy nói ra không phải có nghĩa là ganh tỵ với họ trên cái danh lợi, mà nói ra để biết được cái đúng, cái sai của đạo Phật để giúp cho họ sáng suốt mà họ thấy được cái đường đi, cái cách thức tu tập để họ được giải thoát. Ai tu cũng muốn được giải thoát, nhưng cuối cùng thì uổng phí một cuộc đời cho đến ngày cuối cùng thì khi mà bỏ thân này phải chịu đau khổ dằn vặt vô cùng vô tận. Nhìn trước cái sự đau khổ đó là một vị tu sĩ Thầy nhìn các vị tu sĩ mà đau khổ như vậy thì Thầy đâu có nỡ tâm.

Cho nên nói ra không có nghĩa là tị hiềm với họ, ganh ghét với họ mà nói bài bác họ, mà nói ra để biết đâu là cái sự thật, đâu là cái pháp đúng của Phật, đâu là cái pháp không đúng của Phật, để giúp cho người ta tu hành. Cũng như đức Phật nói ra cho hai vị mà khổ hạnh tu theo hạnh của một con bò, một con chó thì hỏi đức Phật vậy chứ tu như vậy thì sẽ được như thế nào, thú hướng được như thế nào? Thì đức Phật nói bây giờ mình sống giống như mình ngủ, mình nằm, mình ăn, mình làm giống như một con chó, thì sau khi mình chết đi thì mình cũng thành con chó; rồi mình sống, mình đi, mình ăn, mình nằm, mình ngủ cũng như con bò thì mình sẽ chết đi thì mình cũng giống như con bò.

Đó là một cái sự hiển nhiên, đó là những cái hạnh mà tưởng là làm cái hạnh đó thì mình sẽ được sanh cõi trời, mình được sanh vào cõi sung sướng hơn, nhưng mà không ngờ thì nó lại là đi vào trong một cái hướng nó quá là đau khổ. Cho nên hai cái người này nghe xong thì khóc, khóc lên thì đức Phật nói tại các ngươi hỏi chứ ta không có bao giờ ta muốn nói cái điều này, ta đâu có muốn nói cái điều này. Tại vì các ngươi hỏi, vì vậy mà ta thấy như thế nào, hiểu như thế nào thì ta nói như thế nấy để cho các ngươi biết mà các ngươi sửa lại cho nó đúng. Cũng như bây giờ mình làm một cái điều thiện thì nó sẽ đến những thứ hướng nó thiện, mà mình làm một điều ác thì thứ hướng mình nó sẽ đi vào cái cảnh ác, cảnh khổ. Đó là cái hướng của mình. Một cái cây thì nó nghiêng về cái hướng nào thì cái bóng nó phải ngã về hướng nấy chớ làm sao mà ngã hướng khác được. Đó là như vậy.

Cho nên ở đây nói cái chỗ này ra thì không phải là cái lòng tị hiềm mà là cái lòng tốt, cái lòng tốt của Phật. Còn như Đề Bà Đạt Đa đó là tị hiềm tìm mọi cách để mà hại Phật, để mà giết Phật, để cho mình đạt được cái uy tín, mình làm hơn Phật.

Cũng như Thầy thì các thầy biết rằng Thầy chỉ cần ẩn một bên sau lưng của Hòa thượng để giúp cho Hòa thượng chấn hưng thiền Phật giáo và thiền Việt Nam, Thiền Trúc Lâm, để giúp cho những người tu hành được cái làm chủ được sinh tử một cách rất là tự tại, để nói lên được cái đường lối và cái sự mà trùng hưng, chấn hưng Phật giáo của hòa thượng, của Thiền tông Việt Nam như của Hòa thượng để cho nó làm sáng tỏ con đường mà Phật giáo Việt Nam do cái công của Hòa thượng. Còn riêng Thầy thì Thầy cũng chẳng cần cho ai biết Thầy là một cái người gì hết, Thầy chỉ là đệ tử của Hòa thượng, Thầy chỉ giúp Hòa thượng mà thôi.

Đó, quý thầy thấy cái tâm niệm của Thầy như vậy thì có phải là nói lên cái giáo án này là chỉ cái xấu của người ta không, có lòng tị hiềm với người ta không? Tị hiềm người ta để làm gì? Khi mà nói lên để cho người ta biết điều này, điều kia thì Thầy đã từ giã danh và lợi để đi vào một cái nơi xa vắng, yên tịnh để ẩn bóng rồi, còn đâu danh, còn đâu lợi nữa, còn đâu có cái sự cung kính cúng dường, còn đâu có sự mà đón tiếp rầm rộ của mọi người.

À, đó thì quý thầy hiểu như vậy mới biết rằng cái người mà lấy tâm niệm Phật đó thì đâu có còn cái tâm tị hiềm mà là cái tâm thương yêu, cái tâm muốn cho mọi người hiểu rõ được Phật pháp mà tu theo Phật pháp để được giải thoát hoàn toàn.

À, bây giờ chúng ta trạch thêm một cái câu nữa, một cái pháp hướng nữa để thường xuyên nhắc nhở vì cái lòng tị hiềm rất là ác. Như Đề Bà Đạt Đa chúng ta cũng thấy rất là ác, tìm mọi cách mà hại Phật, thì chúng ta biết rằng cái tâm tị hiềm của mình nếu có thì chắc chắn rằng mình cũng tìm mọi cách, nếu là mình không có đủ sức hại người thì mình cũng tìm cách nói xấu người. Hầu hết là con người phàm phu mà ghét người, tị hiềm người khác thì tìm cách nói xấu người khác, hạ người ta bằng cách nói xấu người khác, làm những cái điều rất là tệ ác. Cho nên ở đây chúng ta phải trạch pháp những cái câu để mà chúng ta nhắc nhở cái tâm của mình để xa lìa cái tâm tị hiềm, để chúng ta lấy tâm niệm Phật thì không bao giờ còn cái tâm tị hiềm ở trong tâm ta nữa. À, mà muốn được vậy thì chúng ta phải trạch pháp ra, trạch pháp ra:

“Tị hiềm là mộttâm rất ác, nó luôn luôn tìm cách để hại người, tìm cách để nói xấu người. Nhưng cũng chính nó đã làm khổ cho ta và cũng đưa ta đến vào những thú hướng để đọa vào ác đạo, để sanh làm ác thú hoặc là những kẻ hung dữ mà không phải ở trong một kiếp này mà nó nhiều kiếp, nhiều đời. Rõ biết như vậy đó, ta phải luôn luôn cảnh giác và từ giã, xa lìa, viễn ly cái tâm tị hiềm, không để cho nó ở trong tâm ta nữa”.

Và khi mà trạch cái câu này rồi thì hằng đêm, hằng ngày chúng ta phải nhắc vì cái tâm tị hiềm rất độc, nó hại người mà nó hại mình sanh vào ở trong cái cõi địa ngục, nó sanh ra làm những con vật ác độc. Cho nên do vì vậy đó mà chúng ta phải cảnh giác và phải siêng năng tu tập để cho nó thấm nhuần cái lời này, cái câu này, để cho nó thấm nhuần cái lý này mà tâm ta không bao giờ tị hiềm, không bao giờ mà tranh hơn thua ai hết, không bao giờ mà nghĩ người khác mà làm khổ người khác. Do cái chỗ tu tập đó thì chúng ta mới được giải thoát.

Tị hiềm còn mình là người tu và đệ tử của Phật thì mình phải dứt bỏ nó như chiếc giày rách, coi nó như cái đồ bỏ không còn xài được nữa. Thì như vậy đó, hằng ngày chúng ta thường nhắc tâm của mình ném bỏ như ném bỏ chiếc giày rách. Vì vậy một ngày nào đó tri kiến giải thoát của chúng ta nương vào cái trạch pháp này mà nó phóng ra cái tri kiến giải thoát nó thấu suốt được lý tị hiềm đưa đến cho mình khổ, mình khắc khổ như thế nào. Từ đó nó quét sạch cái lậu hoặc ở trong tâm của chúng ta bằng cái Định Vô Lậu.

Ở đây thì chúng ta mới có thân, thọ niệm Phật rồi bây giờ mới có tâm niệm Phật. Nhưng mà nó là những cái pháp đầu tiên mà chúng ta tu tập, tu tập bằng những cái pháp hướng để sau đó chúng ta có những cái pháp quán, do từ cái pháp hướng này mà nó sanh ra những cái pháp quán rất là tuyệt vời. Nếu chúng ta chuyên tâm tu hành trí tuệ chúng ta càng ngày càng thông minh chứ không phải là thiếu thông minh, không phải nhai lại cái bã mía của người khác mà nhai đi, nhai lại, có một số hiểu biết đó mà chính cái tri kiến giải thoát của chúng ta nhờ những cái pháp hướng này mà nó phát triển ra, nó sẽ có những cái mà người ta không ngờ được.

Cũng như bây giờ hôm nay mà các con đã thấy Thầy nói ra bằng những kinh nghiệm bản thân của Thầy, bằng những cái trí tuệ tri kiến giải thoát của Thầy, chứ không có vay mượn ở trong kinh sách của những người khác, ở trong kinh sách nói ra, mà chính do mình được giải thoát như thế nào thì mình sẽ nói ra theo cái sự giải thoát của mình như vậy. Do đó là cái chỗ đó gọi là Tri kiến giải thoát. Cái chỗ sai, chỗ đúng mà tu được hay là tu không được mình nói ra qua cái sự của mình chứ không phải vay mượn của kẻ khác nói lại bằng cái của người khác. Cho nên do cái sự hiểu biết của các con bây giờ đó cũng là cái hiểu biết của người khác chớ không phải là cái hiểu biết của các con. Tại sao trong cái thời gian tu hành suốt năm năm, mười năm nay mà các con không có kinh nghiệm nào của mình để nói ra mà cứ nói cái kinh nghiệm của kẻ khác, thì như vậy mình chẳng có gì hết. Mình tu mình chẳng biết gì hết.Chứ đâu phải các con không tu, nhưng mà tu tại sao mình không phát triển được cái tri kiến của mình để mình nói những cái pháp hành của mình ra mà bây giờ cứ nghe người ta nói pháp hành của người ta không, còn riêng mình mình không biết cái gì hết. Tức là mình không phát triển được cái, mình không khai triển và triển khai được cái trí tuệ của mình, cho nên mình không thấy được cái pháp hành của mình đúng đắn, để đưa cho mình đi đến giải thoát.

Bây giờ Thầy dạy cái gì thì các con cứ theo Thầy mà nói thôi, hoàn toàn các con không có cái gì mới của các con hết. Mà bây giờ các con biết khai triển nó, đặt cái pháp hướng này khai triển nó, thì từng đó các con có những cái trí tuệ của mình, cái trí tuệ vô sư của mình, nó có những cái thông hiểu của nó, nó có những kinh nghiệm riêng của nó, nó nói ra nó làm cho người ta thấy à như vậy là đúng của người này chứ không phải là của người khác được. Đó thì như vậy các con thấy ở đây cái mục đích là triển khai cái trí tuệ, cái thông minh của các con ra bằng những cái pháp hướng này chứ không phải bằng nhai lại cái bã mía của người khác.

Sáu: Tâm Phật không ngã mạn. À, tâm ta niệm Phật cũng không bao giờ có ngã mạn, cống cao, kiêu căng, tự đắc vì cống cao, kiêu căng, tự đắc là tánh xấu và ác. Muốn xa lìa tánh ngã mạn, kiêu căng, tự đắc ta phải trạch pháp câu này dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý để luôn nhắc nhở và diệt trừ tánh này:

“Ngã mạn, cống cao là một trong năm pháp ác của Ngũ triền cái, ta phải dứt bỏ tánh này. Vì cuộc sống con người do nhân quả hợp lập thành, nên có người xấu, kẻ tốt, người sang, kẻ hèn chứ đâu phải ta hơn ai. Ta như mọi người, bình đẳng như mọi người, chỉ có kẻ ngu si mới không thấy nhân quả, cho mình hơn người. Sự thật chẳng ai hơn ai.”

Nghĩa là chúng ta sống trong cái nhân quả có người thông minh, có người ngu tối; rồi cái người thông minh cho minh là tự đắc, tự cao, ngã mạn nhưng sự thật đó là trong cái dòng nhân quả. À, bây giờ cái người này ngu, nhưng kiếp này người ta ngu kiếp sau người ta còn ngu không? Còn mình bây giờ kiếp này mình thông minh, mình là: nào là ông tiến sĩ, nào là bác học nè, mình thông minh, mình giỏi nè, mình đọc qua mình thuộc liền nè, nhưng mà kiếp sau mình có được như vậy nữa không? Bây giờ thì mình cống cao, ngã mạn, mình coi người ta không ra gì hết, nhưng mà không ngờ đó là cái nhân quả.

Cũng như bây giờ mình có được cái nhan sắc đẹp đẽ thấy một người mặt rỗ, rồi mủi tẹt, rồi môi họ thì hô, miệng họ hô mình cười mình nói họ, mình coi họ là thường này kia, mình cho là mình là ngon, là đẹp, là tốt còn họ là xấu, thì mình đâu biết đó là cái nhân quả của người ta phải trả, còn mình được cái nhân quả nào đó mà mình bây giờ được cái tướng nó tốt một chút thôi, mình hơn họ ở chỗ nào, có phải là mình có hơn cái gì đâu mà chỉ đó là nhân quả mà thôi, có gì đâu mà mình phải cống cao, ngã mạn. Cũng như bây giờ mình thấy sao mình học hay, mình đọc cái mình thuộc, còn người đó đọc hoài mà không thuộc, đó cũng là nhân quả.

Cho nên cái nẻo đi của nhân quả mà chúng ta không hiểu biết, do đó mà chúng ta sanh ra ngã mạn, cống cao. Còn nếu mà chúng ta hiểu biết cái nhân quả thì chúng ta chẳng qua là chúng ta thấy mình bị chi phối ở trong nhân quả chứ mình chẳng có hơn ai hết, là con người của mình với một con vật hiện giờ là một con kiến đang bò trên mặt nền nhà này. À, chúng ta thấy chúng ta là con người, còn con kiến là con kiến, nó nhỏ mọn, nó không đáng, nó không bằng mình chút nào. Thì ngay cả mình thấy con kiến, con kiến với mình, mình thấy mình hơn con kiến thì đó là ngã mạn, cống cao. Mà mình đâu biết rằng cái đó là cái nhân quả, vì được những phước nào đó mà mình làm người, còn người ta thiếu những cái phước nào đó mà người ta làm con kiến, côn trùng. Mình phải thấy cái nhân quả, cho nên mình đối với con kiến mình có hơn nào con kiến nữa đâu, do cái sự nhân quả mà thấu suốt như vậy đó thì chúng ta đâu có nỡ mà coi thường một con kiến mà giết nó mà không biết thương.

Đó, như vậy là cái đường đi của nhân quả hầu hết là các con chưa có thông suốt, chưa có thấy rõ, cho nên chúng ta chưa có giải thoát được tâm mình. Cũng như tại sao mà có người lại thương mình, lo lắng cho mình thế này thế khác, họ hy sinh cả đời họ cho mình, nhưng cũng có người làm cho mình mãi mãi khổ đau, nhưng cũng có người chửi mắng mình, cũng có người thì làm thế này, thế khác, thế mà mình không thấy nhân quả. Cứ theo nhân quả đó mà sanh ra buồn khổ, giận hờn rồi tạo thêm những nhân quả mới, làm cho cái đời của mình càng lúc càng đi vào cái sự khổ đau. Còn người ta thấy nhân quả người ta ngồi, người ta nghe trong cái nghịch của nhân quả thì người ta nghe cũng giải thoát, mà người ta nghe cái thuận của nhân quả người ta cũng không thích thú, còn mình nghe cái thuận thì thôi mê man lắm, thích lắm; mà nghe cái nghịch của nhân quả thì thôi khóc lóc sướt mướt, không có ai mà chịu nổi.

Đó cho nên ở đây Thầy thường dạy các con cái nhân quả mà không thấy cái nhân quả, muốn nói đến cái tâm mà Phật không có ngã mạn, tức là nói đến cái sự tâm bình đẳng, không có thấy hơn thua người khác, cho nên nó không có ngã mạn.Cho nên ông Phật nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”, câu nói đó rất là bình đẳng, người nào cũng sẽ tu làm Phật được hết, mà tất cả chúng sanh chứ không phải là chỉ có loài người chúng ta không. Bởi vì luật nhân quả bữa nay chúng ta mang thân kiến, ngày mai chúng ta mang thân người, bữa nay chúng ta mang thân người, ngày mai chúng ta mang thân chúng sanh có sai khác chút nào đâu.

Cũng như bây giờ, trước mặt đây các con ngồi đây, trước mặt Thầy mọi người đều là người, nhưng mà khi mà bỏ thân này rồi, chắc chắn các con còn làm người được không hay hoặc làm côn trùng, con dế, con kiến. Khó lắm, bởi vậy Phật nói được thân người là khó nhưng các con cứ nghĩ rằng mình mất thân này rồi mình cũng sẽ được thân người nữa. Cho nên vì vậy hễ hơi hơi, mình thấy mình có một chút gì hơn người, hơi hơi thì ngã mạn cống cao, tu chưa có ra gì, chỉ được hơi hơi là đã thấy có cái sự cống cao ngã mạn rồi. À, bây giờ mình nghe Thầy khen mình tu khá, bổng dưng bữa nào Thầy khen người khác là thấy mình ganh tỵ rồi, mình chịu không nổi được rồi, mình muốn luôn luôn lúc nào cũng có mình mình là hơn thôi, còn nếu mà khen ai nữa là mình không chịu. Thì do đó cũng là cái tâm ngã mạn, cống cao chỉ muốn mình, tự mình mà thôi. Ờ, thí dụ như Thầy khen một người nào đó khéo tay, khéo tu càng ngày càng tiến bộ, ờ thì lúc bây giờ mình hiu hiu, mình thấy hơn mọi người rồi đó là ngã mạn rồi, còn bắt đầu khen cái người nào khác hôm nay tu hơn rồi bắt đầu sanh cái tâm, nghe rồi không chịu trong người của mình khó rồi, không ưa rồi, thấy cái người đó mà hơn mình rồi thì mình không có chấp nhận rồi, thì như vậy tự mình đã là có cái ngã mạn. Mà mình tu từ nào đến giờ thì cái ngã mạn của mình mình có xả chưa, mình chưa xả, thì vì vậy cho nên mình dùng cái trạch pháp cái câu để cho mình nhắc mình, nhắc đi, nhắc lại.

Thầy xin nhắc lại cái câu đó để cho các con nhớ mà ghi lại để mà nhắc, để mà phá cái tâm đó. Vì chúng ta là vốn con người từ cái nhân quả sanh ra, chết đi thì chúng ta cũng trở về cái nhân quả, thế mà chúng ta không thấy được đường đi của nhân quả mà cứ nuôi ngã mạn của mình, cống cao của mình luôn luôn lúc nào cũng nuôi nó ở trong lòng. Xả nó đi, bỏ nó đi, đừng có nuôi lớn nó nữa, chúng ta chẳng ra gì hết, tất cả mọi người đều là bình đẳng như nhau, người ta chửi mình, người ta mắng mình là nhân quả chứ đâu phải gì hết, cho nên chúng ta biết được nhân quả thì chúng ta chẳng có buồn khổ gì cả hết.

Đây là cái câu trạch pháp đây:

“Ngã mạn, cống cao là một trong năm pháp ác của Ngũ triền cái, ta phải dứt bỏ tánh này. Vì cuộc sống con người do nhân quả lập thành, nên có người xấu, kẻ tốt, người sang, kẻ hèn chứ đâu phải ta hơn ai, ta như mọi người, bình đẳng như mọi người. Chỉ có kẻ ngu si mới không thấy nhân quả cho mình hơn người, sự thật chẳng ai hơn ai cả.”

Đó là cái câu như vậy để trạch pháp nhắc cho chúng ta biết, chúng ta phải sống trong nhân quả chứ đừng có tự cao, tự đại, kiêu căng, ngã mạn của mình nữa. Đó là câu thứ sáu. Tâm ta niệm Phật mà phá vỡ tâm ngã mạn.

Câu thứ bảy: Tâm Phật không khoe khoang, tâm ta niệm Phật cũng vậy phải giống như Phật không khoe khoang, khoe khoang là bản chất của ngã mạn, kiêu căng. Mọi pháp trên thế gian này đều do nhân quả chi phối diễn biến kẻ hơn, người kém, kẻ hay người giỏi đều do nhân quả, không có ai hơn ai cả, có cái gì mà phải khoe khoang.

Muốn dứt bỏ tánh khoe khoang ta trạch pháp câu này để hằng ngày Như Lý Tác Ý. Đây là cái câu trạch pháp để hằng ngày chúng ta tu tập đây:

“Khoe khoang là tánh xấu ác làm cho người khác tủi thân, buồn khổ. Ta hãy dứt trừ, xa lìa không bao giờ còn cái tánh khoe khoang nữa”.

Thí dụ như bây giờ đó mình được cái vật gì, cái quần áo hoặc là cái thứ gì tốt đẹp thì mình đem mình khoe người khác tôi được cái này, thì cái người khác người ta không được, người ta cũng ham muốn như vậy, làm cho người ta buồn tủi, người ta nghĩ rằng cái thân mình nghèo làm sao mình có được cái vật này. Thí dụ các con giờ có được chiếc nhẫn hột xoàn, bây giờ các con đem khoe: ờ ba tôi mới cho tôi được chiếc nhẫn hột xoàn, coi hột xoàn rất là đẹp. Thì cái người kia họ nghèo họ thấy họ buồn tủi,họ thấy họ cũng muốn cái vật đó chớ nhưng mà làm gì họ có được cho nên họ tủi thân họ, họ khổ sở. Cho nên chúng ta đừng có khoe khoang cái vật gì của chúng ta, nhưng mà  cái khoe khoang đó có cái tai hại, rất là tai hại.

Thầy nhớ trong khi trong cái bộ Tây Du, trong cái lúc mà Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh thì được Đức Phật Quan Âm cho cái y có hào quang chiếu sáng. Cho nên trong khi mà đến cái ngôi chùa của người ta, thầy trò của Tam Tạng đến cái chùa đó mà ở ngủ, thì Tôn Hành Giả thấy mấy cái y của mấy ông thầy này đều là xấu không có bằng cái y thầy của mình, anh ta mới xách ra khoe đây cái y của thầy tui nè, mấy ông coi nè hào quang chiếu sáng, còn cái y của mấy ông như đồ bỏ mà mấy ông nói mấy ông tốt, tốt bằng khỉ gì của tôi, thầy tôi có cái y này còn đẹp hơn của mấy ông nhiều. Do đó ổng khoe cái y của thầy ổng tốt quá, thì cái ông thầy mà trụ trì ở trong chùa đó ổng thấy cái y của ông Tam Tạng trời ơi, từ bấy giờ mình có cả trăm cái y mà đâu có được như cái y này, y này tốt quá, y này là thứ vô giá rồi. Cho nên ổng mới hỏi xin Tam Tạng để về, ổng vô trong phòng ổng xem cái y này ổng thích quá, ổng mới trải ra cái y, không ngờ là có một con quỷ ở đâu gần bên cái hang đó ở bên chùa, nó lại nhìn thấy cái y này nó cũng động lòng tham nó, cho nên nó vô đó, nó hóa gió nó hốt cái y này nó đi. Ông thầy này cũng tham, tính mình lấy cái y này mình đốt cái phòng của ông Tam Tạng với ba thầy trò của ông Tam Tạng cho tiêu đi để mình lấy cái y. Có vật, các con thấy có đồ quý nguy hiểm không? Mà tại vì mình khoe đồ quý của mình ra, cho nên bị chúng thiếu điều giết mình, cho nên cái đêm đó thay vì con quỷ nó đến nó lấy cái y mất đi, rồi cái ông thầy tưởng rằng cái y mình còn để trong phòng của mình, rồi mới bàn tính với đám đệ tử tối nay mình đốt cho chết thầy trò Tam Tạng mình lấy cái y cho rồi. Nhưng mà khi đốt rồi thì Tôn Hành Giả ổng mới ngồi đó, ổng lên trên cao ổng ngồi, ổng thổi gió cho cháy sạch cái chùa, tại mấy thằng này nó tham thổi cho chết đi cho rồi. Không ngờ thổi cháy cái chùa nhưng mà cái y thì cũng lấy mất rồi. À, cuối cùng thì mấy ông thầy trò này chạy vô kiếm cái y thì cái y cũng không còn, mà cái chùa thì cháy tiêu, mà con quỷ ở bên đó nó lấy cái y mất, còn Tôn Hành Giả làm cho chùa của người ta tiêu rồi, khoe khoang của làm chùa người ta tiêu rồi, thì cái y mình thì chúng cũng lấy tiêu rồi. Thành ra bây giờ cũng đã mất cho nên thầy trò bây giờ cũng mới đi tìm yêu để lấy cái y lại, vất vả và cực khổ, ngu hông? Chúng ta phải biết rằng cái khoe khoang nó không có hay ho gì hết, mà chúng ta phải nói rằng đây là cái nhân quả, chúng ta có được cũng là do cái nhân quả mà thôi mà không có cũng là do nhân quả có gì mà tủi thân mà phải khóc, mà phải đòi.

Đó, muốn được vậy thì chúng ta phải dùng cái câu trạch pháp này để chúng ta, tâm chúng ta nó còn yếu lắm, hở có gì là mừng vui là khoe à, khoe ra, mình làm cái gì được hay là mình cũng khoe ra, mình tu được giỏi một chút là mình cũng khoe ra. Thí dụ như mấy con ngồi được năm tiếng, mười tiếng đồng hồ cũng nói ra, nói ra cho người ta thấy mình ngồi được năm bảy tiếng cho mình hay hơn họ chơi, đó là cũng khoe ra, cái đó là những cái chúng ta không có nên nói gì hết. Tất cả những cái mà tu tập là phải dè dặt, cẩn thận mà muốn được vậy thì hằng ngày chúng ta phải trạch pháp mà nhắc đi nhắc lại để chừng đó chúng ta bỏ đi, chừng đó chúng ta mới dẹp sạch hết đi, nó không còn nữa.

Đó, ở đây là cái phần mà thứ tám:Tâm Phật không phẩn nộ, tâm ta phải giống như Phật không có phẩn nộ, phẩn nộ là một cơn giận dữ có thể giết người mà chẳng hề sợ ai hết. Phẩn nộ giống như một con thú dữ hung ác, người có tánh hay phẩn nộ, thú hướng phẩn nộ sẽ sanh ra ác thú, ác cầm, những loài độc dữ. Người phẩn nộ không thể sanh cõi trời được, không thể làm người được, chỉ có sanh vào ác thú và địa ngục mà thôi.

Nghĩa là, khi cái người mà có cái tâm phẩn nộ là cái thú hướng đó họ không thể nào sanh cõi trời được mà cõi người được. Hiện giờ chúng ta là con người mà mỗi lần mà chúng ta sân, mà phẩn nộ dữ tợn đó, cái người mà sân dữ tợn đó là cái người đó chúng ta phải biết rằng thú hướng của họ sẽ sanh vào những cái loài vật hung dữ, những loài vật dữ chứ không phải là loài hiền được. Do đó thì chúng ta biết rằng cái phẩn nộ là cái rất là tệ ác, là cái hướng không có tốt cho cái đời sống mà của chúng ta.

Muốn cho ta không có tánh phẩn nộ, ta phải trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý, đây là cái trạch pháp cái câu đó ra, để chúng ta hằng ngày tu tập cho cái tánh phẩn nộ chúng ta không còn nữa. Do đó chúng ta mới có thú hướng, cái hướng khác tốt hơn, để không cái hành động mà phẩn nộ đó nó sẽ đưa chúng ta đi vào cái chỗ mà sanh trở lại loài thú dữ hoặc là loài độc dữ hoặc là ở địa ngục khổ đau.

Đây là cái pháp hướng:

“Phẩn nộ là tánh hung ác làm khổ mình, khổ người. Ta hãy dứt bỏ, tránh xa, từ khước, từ đây về sau ta không còn cái tánh phẩn nộ nữa.”

Đó là mình hướng tâm, nhắc nó như vậy để từ đây về sau mình giữ gìn cái tâm của mình không có phẩn nộ nữa và không có phẩn nộ nữa thì tâm ta mới niệm Phật, mới giống như Phật được. Còn nếu mà còn phẩn nộ mà tâm ta mà niệm Phật thì chắc chắn là không giống Phật. Cho nên muốn mà tâm mình niệm Phật giống Phật như ở trong Tứ Bất Hoại Tịnh lấy cái giới Phật, giới mà tu tập thì phải làm sao giống như Phật, phải làm sao mà tâm của mình y như tâm Phật. Mà muốn được vậy thì hằng ngày phải trau dồi, phải rèn luyện, phải tu tập bằng những cái pháp hướng nhắc tâm mình tới lui bỏ những cái tật xấu, cái pháp ác mà trong tâm mình đã sẵn chứa, đã quen đi nhiều đời, nhiều kiếp do nhân quả đã huân tập trong nhiều đời, nhiều kiếp. Cho nên bây giờ nó trở thành một cái tánh phẩn nộ rất là dữ tợn. Vì vậy mà muốn bỏ nó cũng không phải trong một ngày, một tháng mà hết, mà phải siêng năng, cần mẫn từ năm này đến năm khác, ngày nào chúng ta cũng dùng cái pháp hướng này đặt trước mặt rồi nhắc tâm mình tới lui để dứt bỏ nó, không còn được để mang ở trong tâm nữa.Thì như vậy một ngày nào đó chúng ta sẽ không còn phẩn nộ nữa và không còn phẩn nộ nữa tức là chúng ta hướng về cái hướng thiện, cái hướng tốt, tâm chúng mình sẽ không phẩn nộ nữa, là tâm mình sẽ giống như Phật rồi, mà giống như Phật thì cái thú hướng đó là mình sẽ thành Phật, mình sẽ như là ông Phật không có khác nữa, đó là cái hướng mà chúng ta tu tập tốt.

Đến đây thì Thầy sẽ dừng lại, ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục học Tứ Bất Hoại Tịnh về cái phần mà tâm chúng ta niệm Phật, thân thọ Tâm rồi tới pháp niệm Phật nữa. Khi nào mà hết cái tâm niệm Phật rồi thì mới tới cái Pháp niệm Phật, chúng ta dùng Pháp niệm Phật bởi vì Phật dạy chúng ta có bốn chỗ niệm thân thọ tâm pháp. Bốn cái chỗ này mà bây giờ chúng ta mới có tu được cái thân, cái thọ rồi cái tâm nhưng mà cái tâm chưa hết, nó còn tu nữa, nó còn nhiều cách nữa để tu cho hết cái tâm niệm Phật rồi mới tới pháp niệm Phật. Khi hết pháp niệm Phật rồi thì Thầy sẽ dạy tiếp tục các con sẽ tu Tứ Chánh Cần, Tứ Chánh Cần dường như Thầy đã có dạy rồi và đồng thời nếu mà đã học rồi thì chúng ta sẽ tu Tứ Niệm Xứ. Mà hễ tu Tứ Niệm Xứ xong rồi thì Thầy sẽ dạy các con tu Tứ thiền, từ Sơ thiền đến bốn thiền, đến thiền thứ tư, mà hễ tu rồi cái đó thì chúng ta sẽ tiếp tục tu tới Tứ Như Ý Túc. À, Thầy còn dạy quá nhiều mà mỗi cái bài như bữa nay mà Thầy giảng mà cái Tứ Bất Hoại Tịnh mà chúng ta tu mới có Thân - Thọ - Tâm - Pháp niệm Phật à. Rồi còn mà, rồi chúng ta phải còn thân thọ tâm pháp niệm pháp, nhiều quá phải không các con, rồi thân thọ tâm pháp mà niệm tăng nữa. Mà bây giờ thân thọ tâm pháp mà niệm Phật, mới có tâm niệm Phật à, còn pháp niệm Phật nữa, rồi mới tới thân thọ tâm pháp niệm pháp, thân thọ tâm pháp niệm tăng. Như vậy là trong còn có từ đây cho tới hết hạ còn có mấy ngày chắc chắn là chúng ta sợ không đủ, phải không? Không có đủ! Mà nếu không đủ thì làm sao chúng ta biết tới Tứ Niệm Xứ, Tứ Niệm Xứ còn nhiều lắm, Tứ Niệm Xứ rất là nhiều. Rồi Tứ Thiền phải dạy cặn kẻ cách thức như thế nào để nhập Sơ thiền, hơi thở ở chỗ nào, rồi xả như thế nào có tầm diệt tứ, không tầm không tứ như thế nào, rồi cho đến nhập Nhị thiền, Tam thiền những cách thức như thế nào? Nó còn quá nhiều, đâu có ít được. Rồi Tứ Như Ý Túc dạy các con để mà tu tập, để mà thị hiện những cái oai lực, cái thần thông nữa, chứ không lẽ mà chúng ta tu khơi khơi không đâu, chúng ta còn tập nữa. Như vậy là sợ cái thời gian chúng ta không đủ mà học không có hết các pháp, đến đây Thầy ngưng lại để rồi các con còn nghe lại cái băng buổi sáng và đồng thời thì cũng còn thưa hỏi Thầy một vài điều cần thiết ở trên cái sự tu tập hằng ngày của các con nữa.

À, bây giờ để Thầy tiếp tục Thầy nói, trong những năm tháng mà Thầy ở một mình ở trên Hòn Sơn, Thầy tu tập trên Hòn Sơn tức là Thầy rèn luyện mình trong những cái sống những cái nơi hoang vu, vắng vẻ. Mà ở Hòn Sơn, hầu hết là những người mà ở Hòn Sơn thì họ gọi trên cái đỉnh Hòn Sơn đó là cái Ma Thiên Lãnh, cái đỉnh núi đó gọi là Ma Thiên Lãnh, cái đỉnh hòn đó họ gọi là Ma Thiên Lãnh. Thế mà Thầy đã chấp nhận lên cái nơi mà gọi là Ma Thiên Lãnh để ở trên đó một bóng, một hình mà tu hành, trong cái thời gian mà Thầy đã rèn luyện mình cái tâm vô úy, không biết sợ hãi một cái gì. Nghĩa là có rèn luyện mình, có giữ gìn mình như thế nào, mình mới không sợ. Còn hiện giờ mấy con luôn luôn lúc nào cũng sợ hãi, tại sao vậy? Tại sao Thầy biết sợ hãi, mà tại sao Thầy lại không sợ hãi mà mọi người khác lại sợ hãi? Có người lên ở trong hai bữa, ba bữa là phải xuống cái Ma Thiên Lãnh, không dám ở trên đó, còn Thầy ở suốt gần cả năm trời mà không có sợ một chút gì hết, tại sao vậy? Tại vì một con người mà giữ gìn giới luật của Phật nghiêm chỉnh, chẳng bao hề mà có sợ hãi cái gì cả hết, tại sao vậy?Tại vì giới luật của Phật nó rất là vi diệu. Theo Thầy biết đời sống của một người mà tu theo đạo Phật mà nghiêm chỉnh thì không bao giờ có sợ chết, sợ sống gì cả hết. Bởi vì chính nó đã hướng dẫn cho chúng ta “ba y một bát”, đời sống chúng ta bỏ hết rồi, cuộc sống chúng ta không còn gì nữa rồi cho nên chúng ta không còn sợ một cái gì nữa hết. Cho nên Thầy ở trên Hòn Sơn đã rèn luyện mình sống đúng giới hạnh của Phật, Thầy chẳng bao giờ sợ một con chim biển, nó nhiều con chim biển chớ không phải một con chim biển, mà loại chim biển nó rất lớn, nó lớn cũng bằng con chó và lớn hơn nữa, nó ngồi cao như thế này, bự lắm người ta gọi là chim đại bàng. Thế mà nửa đêm nó bay vào nó đáp ở tại hòn, người nào mà nhát gan là phải sợ hãi, tiếng hét của nó, tiếng kêu của nó như là tiếng hét của một con vật gì dữ tợn. Thế mà Thầy vẫn thản nhiên khi sống chung với chúng ở trên đỉnh Hòn Sơn như là bạn bè thân thuộc thì các con biết do cái giới hạnh như thế nào.

Vừa rồi hồi sáng Thầy có nói trên bước đường tu tập của Thầy, do cái giới hạnh của Thầy trong khi mà Thầy về Trảng Bàng đây mà Thầy nhập thất tu. Thì trong cái thời gian mà chiến tranh chưa có kết thúc, tức là từ năm 71 đến 75 thì các con biết chiến tranh nó rất là dữ tợn. Thế mà giữa một cái khu xóm mà Thầy ở, người ta nửa đêm thì cách mạng về đào hố, đào hầm toàn ở trong xóm đó kêu là đào hố, đào hầm nằm toàn ở trong xóm đó, nghĩa là ngoài rào đều đào hầm hết, quân đội của cách mạng nằm đầy hết, cho nên người ta nghe đào hầm là bắt đầu họ rút họ đi hết, dân ở đó rút đi hết. Thầy thì quyết tâm là nhập thất là không rời khỏi thất, mẹ Thầy với em Thầy cũng phải rút đi, còn riêng Thầy thì ngồi đó mà tu tập. Vậy mà khi mà vừa sáng ra thì trận chiến nổ lên thì hai bên đánh với nhau súng đạn kinh khủng, nào là máy bay, nào là pháo dồn dập xung quanh tất cả cái thất của Thầy ở, nhà cửa họ cháy, lửa lên ngùn ngụt, Thầy thì an nhiên ngồi đó mà giữ tâm tu tập của mình không hề chút sợ hãi. Thầy nghĩ rằng một người mà giữ gìn giới hạnh của Phật thì chắc chắn là giới luật sẽ hộ trì, không sợ. Các con thấy trong vấn đề vĩ đại thật. Và cuối cùng thì chiến cuộc nó đi qua và những đoàn xe tăng của quân đội quốc gia lúc bấy giờ đi đến, hầu hết là cái số lính mà đi bộ thấy Thầy ngồi trong chong ngóc ở trong thất mà ngồi tu, thì họ bảo Thầy sao mà ngu, mà dại quá vậy. Súng bắn súng đạn như vậy, máy bay bắn như vậy mà Thầy cứ ngồi đó không sợ, rồi nó nói gì nói mặc nó Thầy ngồi tu thì ngồi tu. Cái tượng Phật mà ở trước chùa mà hằng ngày mấy con ở trước mà con tu, cái tượng Phật đó Thầy đặt ngồi ở dưới đất với Thầy, cái tượng để ở trên cái tòa sen ngồi dưới đất như vậy, Thầy thì ngồi dưới đất như vậy, Thầy trải cái tấm chiếu Thầy ngồi dưới đất Thầy tu. Nghĩa là cái tượng Phật đó với Thầy chỉ một cái gian phòng nhỏ hơn cái khu này có chút vầy thế mà Thầy ngồi đó, rồi những người lính họ đi vào họ thấy họ la lối, họ nói Thầy không biết chết không biết sống gì hết, súng đạn như vậy. Thầy mặc họ nói gì nói, Thầy cứ ngồi làm thinh tu thôi, rồi họ bỏ đi luôn luôn và cuối cùng thì nhà cửa thiên hạ cháy sạch mà chỗ thất Thầy không cháy.

Đó thì các con thấy cái oai lực không phải là ai che chở Thầy hết, mà Thầy biết rằng cái người mà tu giới luật nghiêm chỉnh là sẽ có sự hộ trì đến mức độ đó không ngờ được, các con biết những cái máy bay trực thăng mà nó bắn rốc két nó bắn cái ào ào ào, bắn đâu cháy nhà đó hết. Mà Thầy nói trúc tre ngoài hàng rào nó bắn trúc nó ngã rạp xuống hết, bởi vì dưới đó là hố của cách mạng nó nằm ở dưới đó mà, nó bắn rạp hết, rồi nó bỏ bom, rồi pháo nó dập kinh khủng, thế mà Thầy vẫn an nhiên với một thân của mình bằng xương, bằng thịt như thế này đủ sức can đảm mà không hề sợ chết. Còn các con thì Thầy thấy các con chắc lúc bấy giờ cũng chạy cũng kêu là hỏng cẳng đó, chứ đừng có nói là dám ngồi đó. Còn Thầy thì thản nhiên chết mà chết ở trên sự tu hành vì mình đã phát nguyện là không rời thất, quyết định là không rời thất. Các con thấy cái sự mà vô úy của Thầy đến cái mức độ xem cái thân mạng này nó nhỏ như lông hồng, như sợi chỉ mành treo chuông. Nhưng đáng thương mẹ Thầy với em Thầy nhìn thấy cái khu vực mà bị bắn phá và nhà cửa cháy, họ ở xa họ nhìn họ khóc lóc, họ đau khổ, còn riêng Thầy rất vững tâm không có gì hết, nhưng cuối cùng thì Thầy không có chết.

Cho nên một cái lần sau, lần cuối cùng mà giải phóng thì mẹ Thầy với em Thầy không có nỡ để Thầy ở trong đó nữa. Cho nên mới tìm mọi cách mà để mời Thầy ra khỏi thất, chứ còn cái lần trước Thầy hoàn toàn là Thầy không đi, hoàn toàn Thầy không đi. Thầy thấy rõ ràng là cái oai lực của giới hạnh rất là vĩ đại, cho nên cuộc đời tu hành Thầy nói cái người mà tu như Thầy rồi thì bất kỳ ở đâu cũng no cơm ấm áo hết, không bao giờ đói. Thậm chí như thế này nè các con thấy. Khi ở trên Hòn Sơn mà mỗi lần leo lên, leo xuống để xin được một số gạo mà sống, xin gạo thì rất dễ nhưng mà vác lên thì các con biết vác gạo mà lên núi ăn thì đâu có phải chuyện dễ, nó nhọc nhằn, nó khó lắm. Cho nên thậm chí như vậy đó mà Thầy cũng tự sống một mình bằng lá cây, bằng những cây rau mà Thầy trồng ở trên núi mà Thầy trồng Thầy sống, Thầy không bao giờ mà thèm xuống xin gạo nữa, ở trên đó mà sống. Còn các con mà vắng gạo thì chắc chắn là không chịu nổi rồi.

Cho nên ở đây, theo Thầy nghĩ tùy cái duyên của các con bất kỳ ở đâu mà các con tổ chức được cái cách thức mà đi khất thực sống, đừng có lo nấu nướng, đừng có lo gì hết. À, người nào mà người ta giúp đỡ cho các con được cái phần mà ăn uống bằng cách là các con chỉ xin người ta được, thì các con sẽ tu hành tốt mà thôi. Cho nên hiện giờ đó nó cái phần của cô Út là cổ chọn cái người như thế nào phù hợp với cổ, các con thấy cổ đâu có thèm học những cái gì của Thầy đâu, cổ đâu có thèm nghe những cái gì của Thầy đâu. Nhưng mà cổ tu đó, cổ tìm cái đường giải thoát của chính cổ đó. Cổ biết được đại khái là Phật pháp là phải nhân quả như thế nào cổ hiểu như vậy, rồi cổ nỗ lực cỗ tu. Cổ tu làm sao cổ cũng mong cho cổ được giải thoát, cổ mong cho cổ cũng ra khỏi con đường sanh tử của cuộc đời này. Cổ đã hiểu được cuộc đời là khổ rồi chứ không phải là cổ không hiểu đâu. Nhưng mà cổ không có chịu mà đi nhẫm lại cái lối của người khác, mà cổ đi lại cái lối của cổ. Cổ nói cái đời này đâu phải cái đời của ông Phật mà đi xin được, mình phải tự mình làm sao mà mình thắng được cái ăn, cái ngủ của mình, mình tu như thế nào mà mình không có đi xin đi xỏ ai hết, mình phải tự làm lấy sống bằng cách nào.  Đó là một sáng kiến của cổ, Thầy không nghĩ rằng cái điều đó là cổ có thể làm được hay không. Nhưng mà Thầy tin rằng cái người mà cương quyết cũng như Thầy cương quyết trong cái niềm tu hành của Thầy do giới luật mà Thầy nỗ lực thực hiện, Thầy không sợ một cái sự chết chóc nào hết, không sợ cả cái đói khát nữa. Cho nên Thầy trèo trên núi Thầy ngồi Thầy cũng chẳng ngán, rồi trước bom đạn Thầy cũng chẳng ngán mà Thầy thấy cô Út bây giờ, cô Út cũng nghĩ cách cổ mà nỗ lực qua cái cách của cô thì nếu mà các con người nào mà nương theo cổ được, chắc chắn Thầy tin rằng cái sự hướng dẫn của cổ cũng đưa đến các con giải thoát. Bởi vì cổ tìm cách như thế nào để mà cổ thực hiện ở trong cái đường ly dục ly ác pháp, cổ cũng biết được điều đó rất rõ. Bởi vì nói chung là cổ đại khái là cổ nắm được cái yếu lý của đạo Phật chớ không phải cổ không nắm được, nhưng mà cổ muốn cái đường đi bây giờ cái thời đại của cổ không phải là thời đại của đức Phật, cho nên cô phải vạch ra một cái lối làm sao cho nó phù hợp trong cái thời đại của mình mà mình cũng được giải thoát, mình cũng có thiền định, cũng làm chủ được sự sanh tử như thường. Còn bây giờ mà mình cứ nhẩm lại cái lối của đức Phật, mình đi mà mình đi xin như vậy thiệt là quá khó, không phải dễ.

Cho nên cổ nói các con là đứa nào theo cổ là cũng phải làm hết, già cũng phải làm theo già, mà trẻ cũng phải làm theo trẻ. Có không, cổ nói vậy không? À, như vậy là cổ có cái riêng của cổ chớ không phải là cái chung đâu. À nhưng mà cái riêng của cổ, nghĩa là cổ không phải là nói như vậy để mà đời sống của chúng ta vì chạy lo làm sống để mà phục vụ cho cái sống đâu, mà phục vụ như thế nào cho cái đời sống của chúng ta tu được giải thoát, chúng ta cũng làm chủ sanh tử, cũng không còn đắm mê, cũng không còn đắm đuối ở trong cái danh, cái lợi, cái ăn ngon, cái mặc đẹp nữa mà cũng giải thoát ra được. Thì Thầy thấy những cái người mà có những cái sáng kiến mà làm nên cái cuộc đời của mình thì những người đó ít lắm, hầu hết là chúng ta phải nhẫm lại cái lối của người khác. À thậm chí như đức Phật đâu có dạy chúng ta ăn rau, ăn cỏ mà trên cái hoàn cảnh khó khăn của Thầy ở trên Hòn Sơn buộc lòng Thầy cũng phải tạo cách thức ăn rau, ăn cỏ mà sống chứ không cần ăn cơm. Các con hiểu điều đó chưa? Thì cái hoàn cảnh của cô Út hiện giờ, cổ cũng nghĩ cách làm sao mà chúng ta cũng phải thực hiện được những cái mà đức Phật thực hiện được giải thoát mà không phải sống như đức Phật. Đó thì cũng như Thầy ở trên Hòn Sơn mà Thầy tu, Thầy ăn bằng, sau đó Thầy bỏ cơm, bỏ gạo, Thầy ăn bằng lá cây, Thầy ăn bằng những cái rau mà Thầy trồng ở dưới cái mương nước để mà lấy cái đó hằng ngày sống thôi.

Ở đây thì, những cái đó là những cái môi trường chúng ta phải tự tạo lấy cho cuộc sống tu hành, vì đời chúng ta không còn nữa, bỏ hết rồi không còn gì nữa thì chúng ta phải tạo lấy một cái lối giải thoát cho chính của mình. Còn bây giờ mà ôm bình bát mà ra đi xin, mà làm sao đi xin được, đất nước chúng ta quá khó, phải không các con thấy điều đó khó lắm mà đã tổ chức, Thầy đã từng tổ chức như thế nào các con biết không? Thầy chỉ xin mấy người cư sĩ thôi. Bây giờ quý vị chỉ cần mà lập cho Thầy một cái tiệm cơm chay thôi, à tiệm cơm chay đó là quý vị sẽ mướn cái người mà người ta vô người ta bán ở đó. Thì hằng ngày người ta bán thì lấy cái số tiền mà những người ăn cơm chay ở tiệm đó trả cái công cho những người nấu cơm, còn riêng quý vị chỉ bỏ một, bây giờ có một trăm người tu, chỉ giúp đỡ cho mỗi một người tu một buổi, một ngày vậy đó là một bữa cơm thôi, à bao nhiêu cơm gạo đó thôi. Thầy ví dụ như bây giờ một trăm người, mỗi một cái ngày ăn như vậy đó là một trăm người nó tốn là năm triệu thì mỗi, mỗi ngày một tháng là năm triệu thì mỗi ngày nó bao nhiêu như vậy, thì quý vị giao cái số tiền đó cho một tháng cho cái người đó ở đó mà người ta lo nấu cơm, để rồi quý vị đến đó, người ta xin cơm ở đó cho người ta ăn ngày một bữa như vậy đó, là giao cho người ta năm triệu rồi người ta chi ra người ta nấu một tháng, rồi tháng sau trả người ta năm triệu nữa rồi người ta cứ lo như vậy đó, là tạo cho cái thế là chúng ta ở trong một khu vực rừng núi hay một nơi nào yên ổn đó, tới giờ đó chúng ta ôm bát đến chúng ta xin. Cũng như bây giờ Thầy tạo cho quý thầy được thấy rõ, các con ở trước các con nấu cơm, các con để ở tại cái chỗ cơm đó, sáng đúng giờ là quý thầy ra đó lấy cơm chứ quý thầy không có bận tâm gì lo cơm nước, các con cho ăn gì đó thì ăn, dở cũng ăn mà ngon cũng ăn.

Cho nên vì vậy, mà gần đây thì các con sẽ thấy thí dụ như một người đau, người bệnh cũng như người mạnh cái gì mình ăn được mình ăn. Cũng như Thầy Chí Thiện về đây thầy bệnh, do đó thì đệ tử của Thầy thì quá lo cho Thầy thấy cô Út cho ăn toàn là măng không, cho nên vì vậy mới làm cái này, cái kia để nhờ các con đem ra. Như vậy là sai rồi, sai cái luật đi khất thực rồi. Bây giờ mình bệnh mà mình còn đi được, mình còn mạnh khỏe như người khác chứ chưa phải là mình nằm một chỗ, phải không? Cho nên người ta vẫn đi xin cái đó người ta ăn, thì mình cũng đi xin cái đó mình ăn, cái đó mình ăn không được thì mình ăn cơm với muối, ăn cơm với cái khác chứ đâu làm riêng được, mình làm riêng rồi quý thầy kia người ta nói sao. Ông này cũng còn thấy đi được mà, ông đâu có nằm liệt đâu mà bây giờ ông ăn hơn mình như vậy, ông ăn còn ngon hơn mình như vậy, thì như vậy ông này lợi dưỡng quá rồi, như vậy là nó mất cái giới luật của Phật đi. Cho nên vì vậy mà những cái điều kiện mà học trò của thầy Chí Thiện đã làm cái đó nó sai cái quy luật của người đi khất thực ở đây rồi. Trừ ra cái người đó bệnh đi không được và do đó ăn uống không được thì ở đây các vị tỳ kheo ở đây, các thầy ở đây người ta mới đến nhà bếp, người ta mới xin chẳng hạn như Thầy bây giờ Thầy xin, bây giờ thầy Chí Thiện, thầy ăn không được, cái bữa hôm nay thầy ăn không được thầy muốn xin được cháo hoặc là được canh hoặc là được sữa để cho thầy uống để mà thầy uống thuốc để mà thầy trị bệnh. Thì như vậy là Thầy phải trực tiếp hay là một vị tăng nào ở trong khu vực này đến họ trực tiếp ở ngoài các con mà họ xin, thì như vậy đúng. Còn cái này, ở ngoài đó mình làm để mình đưa vô nữa, thì cái đó trật, phục vụ cho ông thầy của mình, còn bao nhiêu ông Thầy khác bệnh có ai phục vụ không? Các con thấy bất bình đẳng phải không? Cho nên đó là cái sai. Vì vậy mà vừa rồi đó, đệ tử của thầy Chí Thiện có đến xin sám hối Thầy, những cái đó là cái sai. Nhưng mà nếu mà không có giữ gìn, mà cái căng thẳng như vậy thì cái Tu viện của chúng ta nó không có kỷ luật mất rồi. Các con biết những cái sai đó nó có nhiều cái sai lắm và vì vậy mà cái người mà tổ chức rất là khó, giữ gìn được cái kỷ luật rất là khó chứ không phải dễ. Cho nên mọi người đều có những cái ý muốn riêng mà mỗi cái ý muốn đó là các con sẽ thấy nó dẫn dắt đến cái chỗ sai lệch của đạo Phật dữ lắm, nó làm cho chúng ta mất cái hạnh, giới hạnh của người tu, cho nên rất khó.

À bây giờ thì Thầy nói như thế này các con thấy nè, nếu mà các con muốn mà sống đây với cô Út, vì sau này là cô Út, cô phải lo tất cả những cái đời sống, những cái quyền sống ở trong này của các con hết rồi, và cái sức của cô Út như thế nào thì các con phải hợp sức với cô Út mà sống. Chứ còn Thầy đi rồi, chắc chắn là Phật tử họ không đến đây đâu, nghĩa là còn Thầy thì họ đến họ cúng dường rồi đó, chứ còn Thầy không còn thì chắc chắn là họ sẽ không đến nữa. Thường thường Thầy biết như vậy mà, họ cúng dường cho Thầy chứ họ không cúng dường cho ai hết à, có Thầy thì coi như là cái cây bồ đề nó tỏa ra nhành lá đó, cho nên không bao giờ mà các con đói. Mà bây giờ không có Thầy mà đói thì các con cũng phải chịu đói chứ mà xin họ cũng không được đâu. Nhưng mà các con bây giờ có Thầy thì các con đói Thầy chỉ nói, Thầy chỉ viết bức thơ, Thầy chỉ gọi điện thoại, Thầy xin bây giờ mấy con Thầy ở trên này có một số chúng hai chục hay ba chục người đang thiếu gạo ăn, đang thiếu thực phẩm xin mấy con về giúp đỡ Thầy số gạo, hay là đồ ăn thì họ kéo xe hơi về cho Thầy ăn không hết đâu, nhưng mà đủ ăn thì thôi Thầy không gọi, nhưng mà không đủ ăn Thầy gọi cái có liền.

Đó là cái cội bồ đề luôn luôn bao giờ nó cũng đầy đủ, các con nghe cái bài kinh mà Thầy đã có nói cái chỗ đó cơm ăn, áo mặc đầy đủ mà có một vị thầy hướng dẫn cho mình tu hành tâm chưa Vô lậu được Vô lậu, tâm chưa An tịnh được An tịnh chứ gì? Thì nơi đó thì có được cơm ăn áo mặc đầy đủ có được pháp tu hành như vậy thì bây giờ đuổi cũng không đi, phải không, có nhớ không? À rồi bây giờ đó, nếu mà ở chỗ đó có một vị Thầy mà dạy cho mình tâm chưa vô lậu được vô lậu, tâm chưa an tịnh bây giờ được an tịnh mà chỗ đó cơm ăn, áo mặc rất là khó khăn, cực khổ, xin rất là khó. Nhưng mà cũng đuổi cũng không đi nữa, cũng bám ở đó nữa, mặc dù đây là khó đó nhưng mà cũng bám ở đó nữa. Cái kia thì có thể dễ dàng thì chắc chắn đuổi cũng không đi nữa, bám luôn nữa. Nhưng mà bây giờ đó thì Thầy đi rồi, phải không? Thầy không có ở đây nữa rồi, thì cơm ăn, áo mặc sẽ thiếu rồi, nhưng mà cái pháp Thầy còn để đây, phải không? Các con tu thì được, nhưng mà các con không khéo rồi đói bụng nhăn răng rồi tu cũng không vô nó mới chết.

(Phật tử hỏi, âm thanh nhỏ không nghe được).

À, thì bởi vậy cho nên cô Út nói vậy các con hiểu không? Là vì, bởi vì khi mà các con học theo Thầy thì bắt đầu phải đi khất thực rồi, phải sống theo đúng gương hạnh của Phật, còn cô Út thì cô nghĩ khác, là vì các con phải làm dù người già, người yếu gì cũng phải làm hết để mà sống, chứ không thể bây giờ mình đi xin ai, cổ đã nghĩ rằng Thầy đi rồi thì khó mà xin người khác. Cho nên cổ không thể nào mà làm mà nuôi một lần mà rất đông được, cho nên vì vậy mà cổ nói như vậy để cho các con hiểu là bây giờ đó thứ nhất là mình hiểu được pháp của Thầy, mình tạo được cái chỗ tốt chỗ nào mà yên ổn, là vì mình phải có sống mới tu được, không có sống thì không tu được. Do đó, được pháp để cho mình tâm chưa vô lậu được vô lậu, tâm chưa được an tịnh bây giờ nó được an tịnh. Do đó nắm cho vững cái pháp rồi phải tạo cái môi trường như Thầy nhắc nhở mà, tạo sao mà mình sống, mình đi khất thực mà mình sống cho được, đừng có để cho mình nấu nướng ăn.

Bởi vì ở đây trước mặt của Minh Cảnh nè, cô đã từng ở núi, cô đã từng nấu cơm ăn nhưng mà thời gian không phải là ngắn đâu, cô ở núi rất lâu chứ không phải ngắn, nhưng mà tới bây giờ cô có giữ cái hạnh đó, tu như vậy nấu ăn như vậy cô có giải thoát được không? Hay là cô còn đi hái mãng cầu, hái đu đủ bán để gởi tiền mua gạo, phải không? Mình tu như vậy riết rồi, đó thì bởi vậy, Thầy mới nói khi mình nấu thì đâu có dễ. Bởi vậy, khi mà hồi Thầy dạy đó, Thầy dạy cái thân mình niệm Phật, mà thân Phật đi khất thực thì thân mình phải đi khất thực, thân mình đã đi khất thực rồi thì ở cái nơi vị trí của mình có cây ổi, cây xoài, cây mít hoặc là cây nhãn có trái, vậy thì lúc bây giờ như thế nào? À, bây giờ mình đi xin ăn rồi người ta cho mình cái bữa đó có được cơm ăn rồi, bắt đầu về hái mấy trái xoài này để dú (cho nó chín), trưa nay mình cũng ăn cho nó thêm mấy trái xoài nữa. Thì Thầy ở đây Thầy nói cái điều này chưa từng mà thấy ông Phật nói rằng ổng ở trong cái vườn xoài mà ông đi xin cơm rồi, ông nhìn trên cây xoài ổng thấy nay có mấy trái xoài chín thôi mình hái xuống đặng mình thọ thực rồi mình ăn luôn mấy trái xoài này nữa. Thầy chưa từng nghe cái điều đó. Cho nên ở đây một cái người muốn đi khất thực mà đúng cái pháp hạnh của Phật mà xin ăn mà sống đó, thì có những cái cây trái mà có xung quanh chỗ nhà chúng ta ở, mà nó có trái rồi, nó già, nó chín rồi thì kêu cái người cư sĩ mà họ đã từng cúng dường cho mình hằng ngày có một bữa cơm ăn đó, xin họ đến hái những trái xoài đó, bố thí hoặc là cho ai hoặc là họ bán họ làm gì thì họ làm tự bụng, chứ còn mình không có quyền hái cái trái đó ăn, mà mình chỉ có quyền đi xin người ta có cho mình, bữa nay thí dụ người ta cho cơm, người ta cho thêm mình trái xoài mình về mình ăn trái xoài đó. Còn không cho thì thôi, đừng có nói trái xoài này ở thất tôi, tôi trèo lên tôi hái để một cái giỏ đó tôi dú lần lượt nó chín cái trưa bữa nào tôi cũng ăn mười trái, hai chục trái cho đã đó thì không có được.

Cái kiểu đó mà đi xin kiểu đó mà còn để thêm số trái xoài hay hoặc nay trước thất tôi có trồng thử hai ba cây đu đủ giờ trái quá trời, thôi để bữa nào tôi cũng đem trái đu đủ tôi ăn, tôi không có ăn phi thời, tôi ăn đúng ngọ nhưng mà mấy trái đu đủ này là tại trước nhà tôi, tôi hái để tôi ăn thì như vậy là cũng không được nữa. Cái này không có phải làm cái chuyện đó đúng, cái chuyện này có đu đủ thì giao cho mấy cái người cư sĩ họ thường cúng dường mình trong cái cuộc sống của mình, giao cho họ hái họ làm gì thì làm. Riêng tôi, tôi chẳng hề hấn mà hái một trái cây nào mà tôi ăn, khi mà người ta cho tôi cái gì tôi ăn cái nấy, mình thêm coi chừng nó lại sai mình sống trong cảnh dục nữa. À, bằng chứng ở đây Thầy nói như cô Minh Cảnh, cô đã từng sống, cô biết là khi có trái nó đòi ăn thêm đó chứ không phải là không ăn thêm, rồi bán, rồi buôn, rồi mua sắm cái này kia, nó đủ thứ hết nó chạy theo dục lạc. Cho nên cái hạnh của người tu mà đi khất thực là cái hạnh giải thoát, cái hạnh ly dục ly bất thiện pháp. Còn mình mà thêm như vậy là mình không có ly, mà mình thêm dục chứ không ly, thêm ăn thêm uống là thêm dục, cho nên nó khó là khó chỗ đó.

Các con cho nên vì vậy mà khi nói cái thân mà niệm Phật là Phật đi khất thực, cái thân Phật đi khất thực, cái thân mình cũng đi khất thực. Thì cái khó là khó ở chỗ này, phải thông suốt phải hiểu, nếu mà không dạy rành cái chỗ này, sau đó thì các con không có hiểu, rồi tưởng đâu là xung quanh nhà mình có nhãn, có ổi, có đu đủ hoặc là có thơm có này kia đó thì mình cứ hái hết thôi. Chuyện đó thì thôi cũng như là không đi xin rồi, thôi trồng thêm lúa gạo đi cho ăn cho nó đủ hết đi chứ cần gì đi xin cho nó cực, phải không?

Cho nên các con nhớ là khi nào giữ gìn được cái chánh nghiệp đúng thì không làm một cái gì, không hái một trái cây gì hết thì mới vậy. Còn cô Út cổ thấy điều đó cổ hiểu mình làm như vậy đó đâu có được, đâu có được nghĩa là mình ở đâu cũng có cây trái mà cái vấn đề này không phải là cái chuyện đó được, phải làm sao cho nó phù hợp với trong cái hoàn cảnh của mình để mình tu tập. Thì cái này để chờ cái điều kiện mà cô Út tổ chức theo cái kiểu sống của cổ tu hành như thế nào thì các con sẽ thấy rằng những pháp mà Thầy dạy về những cái pháp hành này nó phải phù hợp với cái cuộc sống, mà cái cuộc sống nó không phải, cái cuộc sống mà Thầy nói đây là mình bắt chước theo cuộc sống của Phật, nhưng mà hoàn cảnh cái thời đại của mình nó không có phù hợp với đức Phật hồi nào được. Nghĩa là cái thời đại của đức Phật khác, rồi đất nước của đức Phật khác, đất nước của mình khác, cho nên hai cái này nó rất khó cho chúng ta trong giai đoạn tu tập.

Vậy thì tùy ở các con mà các con có thể biết cách như thế nào để nó phù hợp mà trên cái bước đường thực hiện giáo pháp của Phật để đi đến cái chỗ giải thoát, không khéo rồi đây, rồi do đó mà mình lại lầm lạc thế này, thế khác rồi cuối cùng thì nó động tâm mà nó không có tu tập được gì hết. Chẳng hạn như bây giờ các con thấy cái lối tổ chức của cô Út nó như thế này mà các con sống cái kiểu như đi xin ăn đó như quý thầy ở trong này. Thì Thầy hỏi như quý thầy, Thầy hỏi như thế này nè: bây giờ đó mình ngồi đây mình tu hành mà người ta ở đằng trước người ta nửa đêm bốn năm giờ mà người ta thức dậy người ta nấu cơm cho mình ăn, mà trong khi người ta đâu phải là những người cư sĩ mà người ta là những người tu, mọi người ở trước người ta cũng là người tu chứ, người ta cũng muốn giải thoát chứ, tại sao bắt người ta nấu cơm cho mình ăn, như vậy là mình tu mình có giải thoát cho họ được không? Mà nếu không được đó thì quý thầy đừng có mỗi bữa đi ra trước mà xin cơm vô đây ăn. Nếu mình tu cho người ta giải thoát được thì người ta nấu cơm cho mình thì mình tu cho người ta giải thoát. Còn đằng này mình tu giải thoát cho mình chứ không phải là tu giải thoát cho người ta. Thì vậy mình phải làm sao chớ còn không khéo quý thầy cứ nghĩ rằng mình ngon, mình sướng, mọi cô ở đằng trước họ lo nấu cơm cho mình nhưng cuối cùng mình tu hành mình giải thoát mình làm Phật còn họ hoàn toàn là làm chúng sanh thì cái này là như thế nào? Nó không công bằng chút nào hết, cho nên chúng ta phải nghĩ như thế nào?

Bởi vì cái người cư sĩ người ta không có tu, người ta làm công quả hoặc là người ta làm cái chuyện đó để người ta sống, thì bắt đầu có cái lợi lạc nào đó cho họ sống. Do vì vậy mà họ mới hằng ngày mới nấu cơm cho mình ăn, mình tu hành, họ làm họ dùng cái nghề đó. Vì vậy thí dụ chẳng hạn như bây giờ mình bỏ ra năm triệu mỗi tháng cho năm chục người đi, năm chục người sống đi. À, bây giờ đó thì mình nếu mà họ nấu cơm cho mình không thì họ lấy cái gì mà họ sống họ nuôi vợ nuôi con họ, cho nên vì vậy đó mình trả lương cho họ thêm là thay vì mình đưa năm triệu thì mình đưa họ mười triệu để cho họ có năm triệu họ nuôi vợ, nuôi con họ, thì như vậy là họ sẽ làm việc, như vậy mình đâu có lợi dụng họ. Còn bây giờ mấy con ở đằng trước mấy con, nấu cơm có trả tiền lương cho mấy con không? Mà quý thầy cứ ở đằng sau cứ bữa trưa nào cũng xách đít của mình ra bưng cơm về ăn hết, mà rốt cuộc rồi quý thầy làm Phật còn mấy con thì làm chúng sanh hoài, mà hổng có đồng lương nào hết, thì như vậy có công bình trong xã hội này không? Không có công bình! Cho nên chúng ta phải tổ chức như thế nào để công bình, cho phù hợp với cái lý của sự tu hành của mình, phải không? Như vậy mới đúng chứ, các con thấy chưa?

À, cuối cùng thì tại sao mà Thầy không còn nương tựa ở một cái chỗ để mà dẫn dắt các con đi tới nơi tới chốn. Tại vì các con thường thường là hơi từ lâu tới giờ theo Thầy hiểu là các con thường là cứ nghĩ rằng nương tựa vào Thầy để mà tu tập. Cho nên hầu như là không có chịu nổ lực rốt ráo để bây giờ khi Thầy tuyên bố ẩn bóng thì các con mới vội vàng, lật đật, rồi từ đó các con mới tự lực để tìm lấy cái cách thức để cho mình trong cuộc sống cũng như trong cuộc tu hành của mình vậy. Từng đó các con mới chịu động não, mới chịu khai triển ra những cái gì mà các con chưa có, làm biếng, chưa có triển khai. À cho nên từ nào tới giờ, bây giờ về đây sống thì nhờ Thầy nè, thì trong cái sự sống của mình tất cả mọi cái đều là nhờ Thầy hết, phải không? Do vì vậy mà các con thấy mình cứ ở trong thất mình lo mình tu thôi không có tính, người nào cũng vậy ai cũng muốn cái sung sướng mà chỉ quyết cho mình tu thôi, chứ không nghĩ gì đến cho cái người khác. Trong khi người cư sĩ họ làm ở ngoài, họ làm ra đồng bạc rất là vất vả, họ cực khổ lắm, mà vì mình tu hành, họ nghĩ rằng cái sự tu hành của mình quá khổ sở, các con cũng biết rằng mình phải thức đêm, thức khuya tu hành chứ đâu phải là ngủ thẳng chân, thẳng cẳng đâu, họ cũng vì chỗ đó mà họ cúng dường mình. Nhưng mà mình, mình biết là mình có tu tới nơi tới chốn chưa? Cho nên hằng ngày mình cũng còn lơ đểnh, chưa có phải thật sự. Vì vậy mà khi mà Thầy ẩn bóng rồi thì các con mới chịu động não mà khai triển ra, còn các con không thì Thầy vẽ sao thì các con cứ làm vậy thôi, nhiều khi còn làm trật và làm theo ý muốn của mình nữa.

Cho nên cuối cùng Thầy nói hầu hết là mình có một số con mà nó không có chịu làm ăn, nó ỷ vào ông cha giàu của nó, nó cứ ở không nó ăn à, nó không chịu làm. Bây giờ ông cha chết rồi thì bắt đầu buộc lòng tụi nó mới nhảy ra làm nó sống. Thì như vậy là không biết chừng mà Thầy ẩn bóng đây mà trong số các con mới có những người tu mới giải thoát được. Chứ còn nếu mà nó cứ nương tựa kiểu này hoài cho đến khi mà tới già, tới chết các con không tới đâu.

Cho nên trong cái thời đức Phật người ta nương tựa pháp của Phật, người ta nương vào cái hạnh của Phật mà người ta không có nương tựa vào cái sống của Phật, tại sao người ta không nưa tựa vào cái sống của Phật? Các con thấy rõ phải không? Ông Phật ổng cho cái bình bát đi xin được thì ăn không xin được thì đói chịu chứ đâu có nương tựa Phật được, ông Phật ổng đâu có lo cơm, lo nước. Còn Thầy thì lo cơm, lo nước thì các con cứ ngồi khoanh chân đó mà lo. Cho nên cô Út nói đúng, tại vì các con không có chịu nghĩ đến cái chuyện sống của các con để thực hiện cái sống. Còn thời ông Phật đó thì ông chỉ nương vào cái tin vào ông và tin vào cái Pháp mà thực hiện giải thoát, còn về cái ăn, cái sống thì của mọi người, ai đến với ông thì bao nhiêu cũng được hết, trăm ngàn người cũng được, ông không có lo cái đời sống đâu. Ông cũng sáng sớm ông cũng mang bình bát ông đi xin, có thì ông cũng ăn, không có thì ông cũng chịu đói cũng như ai vậy. Thì tất cả các đệ tử của ông, một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ kheo này cũng đều là y như vậy, xin được thì xin mà không xin được thì đói chứ không nói bây giờ con đói quá bữa nay Phật xin Phật trút cho con ăn đi thì không có bao giờ có chuyện đó. Phải không?

Các con thấy đâu có chuyện đó đâu, đâu có phải là chơi cái kiểu như quý vị tỳ kheo mà ngồi ở hàng rào đó mà rình chờ cho bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo đi xin về cứ nhảy ra cái bà kia phải trút vô bát của ông, ông xách về ông ăn. Mấy ông tăng hồi trước khôn lắm, bởi vì không biết trong cái pháp giới mà giới bổn mà nói về vấn đề đó thì Thầy cũng không có nghĩ rằng Phật pháp là như vậy. Nói bên ni họ đi khất thực, bởi vì trong cái mùa hạn hán thì họ đi khất thực để mà sống, thì mấy ông tăng này lười biếng lắm, mấy ông ngồi núp núp ở trong hàng rào, chờ cho mấy cái bà này rời ra khỏi khu vực của bà đi xin, xin về mà coi bộ đầy bát thì mấy ông bước ra giả đò cũng ôm bát đi ngay lại, thì mấy bà này thấy cái bát của mấy ông tăng là trống rổng không có gì hết, thôi chịu khó trút, trút riết rồi mấy ông lấy hết cơm lấy gạo của mấy bà này hết. Trong khi mấy ông khỏi cần đi xin xa, chỉ ngồi núp ở trong hàng rào à thấy mấy bả ôm bát về đầy là mấy ông đi ra lấy ăn hết. Đó thì do cái chỗ đó Thầy thấy nó bất bình đẳng chỗ đó, thậm chí như bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo, bà đều ba ngày đêm, ba ngày như vậy đều khất thực, mấy ông tăng sớt lấy hết cho nên bà đói, bà khổ sở, không đi nổi nữa. Vì vậy mà một vị trưởng giả mới thấy như vậy, mới đưa bà về rồi cho ăn, cho uống rồi bà khỏe, rồi mới hỏi nguyên do, rồi cái ông này mới đến trình với Phật, Phật mới chế cái giới ra để cho mấy ông tăng đừng có chơi cái kiểu mà ăn trên.

Đó, thì có những câu chuyện như vậy, cho nên ở đây Thầy muốn nói lại cho các con thấy rằng trên cái bước đường tu tập của chúng ta không phải giống như thời đức Phật, đức Phật không có lo kinh tế cho ai hết, còn riêng bây giờ mấy con đói, chắc chắn là Thầy không để cho mấy con đói được, mà cái đức của Thầy nó có thể rộng rãi là Thầy có thể xin người ta, một lời nói của Thầy xin hàng vạn cái số gạo, cái số thóc mà để chúng ta sống rất dễ dàng. Nhưng mà thời đức Phật, các con thấy đức Phật đâu phải là không có uy tín, đức Phật xin cả vua chúa dễ dàng lắm, nhưng tại sao ông Phật không xin để mà ăn cho nó sung sướng, lại ông Phật lại để cho mọi người đi xin?

Đó, đó là những cái nguyên nhân mà Thầy đọc ở trong kinh sách Thầy thấy rõ ràng vấn đề này. Cho nên ở đây Thầy ẩn bóng để cho các con phải tự mình suy ngẫm lấy cuộc sống tu hành của mình, giải quyết được cuộc sống đúng hạnh của Phật, là giải quyết được phân nữa cái đường đi tu rồi đó. Mà giải quyết không được cuộc sống thì các con lại nhầm trên cuộc sống của thế tục thì các con không có tu giải thoát được. Như cô Cảnh, cô về ở trên núi Long Hải cô tu, cô cũng quyết vào núi tu, nhưng mà giải quyết cuộc sống không được. Cho nên cô bị kẹt ở trong cái cuộc sống, rồi bắt đầu chạy theo cái dục lạc của ăn, của đời sống của con người rồi. Mặc dù ở trong cái chòi lá ở trên núi có gì hơn, rồi bây giờ cô lại trồng đu đủ, rồi mãng cầu rồi hằng ngày có người đến mua bán đu đủ, mãng cầu. Tất cả bây giờ trở thành cái chợ buôn bán của cô ở trên đó rồi, cô lập cái chợ chòm hõm ở trển, có không? Như vậy rốt cuộc rồi cô Cảnh lập cái chợ ở trên, mai mốt đây thuế nó vô nó thâu.

Đó, trên cái bước đường tu tập, không khéo rồi chúng ta lại lập quán, lập tiệm hết rồi, cho nên ở đây làm sao mà chúng ta phải tổ chức như thế nào và cái người mà có thể tổ chức cuộc sống mới đó, Thầy mới nói đó là có cô Út chứ không còn ai làm cái điều này đâu. Nhưng mà các con nên nhớ rằng đó là vấn đề mới mẻ, vấn đề khó khăn, không phải là vấn đề dễ, chứ không phải đơn giản đâu. Vì vậy mà sau cái mùa hạ an cư này rồi thì các con tự liệu lấy, mỗi đứa điều tự liệu lấy. Pháp của Thầy trao đã đầy đủ hết rồi. Như vậy là khi sống với cô Út đó, là phải sống với cái sự như thế nào để mà chúng ta tạo được cái cuộc sống của chúng ta không còn ở trong cuộc sống thế gian mà. Còn nếu mà mình còn ở trong cuộc sống thế gian thì như cô Minh Cảnh ngày nào đó tưởng là về núi mà tu hành, nhưng cuối cùng thì cái đời sống nó không ly được cái đời sống thế gian thì đời sống của chúng ta kéo dài thêm cái thời gian nữa mà không đi đến đâu được.

Thì như vậy là các con đã hiểu được cái chỗ mà tu tập của Phật pháp nó khó, khó nhất là khó về cái đời sống, chớ không phải là khó cái gì hết. Cái đời sống mà giải quyết được thì sự tu tập rất dễ dàng, không còn khó. Mà giải quyết đúng cách, chứ còn giải quyết mà không đúng cách. Bây giờ chúng ta có tiền, có bạc để đó chúng ta cứ bỏ ra để ăn mà sống mà tu thì cũng không tới đâu được hết. Cái đó nó còn bị sai ở trong cái chỗ tiền bạc nữa, thì nó cũng không đúng cách của người tu, làm sao mà như là thời đức Phật đi xin ăn đó, đừng có biết ngày mai là chúng ta ăn cái gì, ai cho cái gì ăn cái nấy. Đó mới là giải thoát.

Thầy sẽ đọc cái bức thư của cô Cảnh gởi Thầy trình bày cái sự tu tập của cô để xem coi có đúng hay là không? Cái chỗ nào đúng thì Thầy cho đúng, mà chỗ nào sai Thầy cho sai thì để biết mà sửa lại. Đó, trước khi đọc Thầy nhắc lại cái cuộc sống của chúng ta với cái sự tu tập nó phải phù hợp, mà nếu nó không phù hợp thì chúng ta cũng khó tu lắm. Cũng như bây giờ quý thầy sống thì thấy nó hiện giờ các con đâu thấy quý thầy đâu có làm cái gì đâu, ở đây không có cày ruộng, không có cuốc đất gì toàn bộ, mà đúng giờ thì ra có cơm hết, ai nấu cơm đâu không biết, đúng rõ ràng là như cái thời của đức Phật đi xin rồi. Nhưng mà các con thấy quý thầy có ngậm cái miệng của mình lại không? Khoái lắm mà, ăn cũng sung sướng có người nấu mà, tới giờ là no rồi mà, đâu có cần gì phải không? Do đó bây giờ cứ rủ nhau mà nói chuyện ông này gặp ông kia, nói chuyện cho đã thì như vậy có tu được không? Bởi vì vậy cho nên khi mà vắng Thầy rồi lúc bây giờ mà ngồi một mình mới nhớ; hồi đó Thầy dạy buổi độc cư không chịu độc cư, có cơm ăn sẵn quá có người nấu cơm sẵn quá, bỏ trong miệng sẵn quá chỉ cần có cái nuốt không mà còn muốn làm biếng không chịu nuốt nữa. Rõ ràng là quý thầy bây giờ cơm bỏ trong miệng rồi mà không chịu nuốt, có không? Chịu nuốt mà sao lại còn nói chuyện, nói chuyện đó là không chịu nuốt cơm, mà không chịu nuốt cơm là chắc chắn là mấy ông muốn tiêu rồi. Nghĩa là cái người mà bệnh mà không ăn cơm được thì cái người đó sắp chết rồi, còn ăn được chút ít thì chắc chắn là còn cứu được, còn quý thầy hiện giờ Thầy thấy là hầu hết có số quý thầy kể như là cơm đút trong miệng họ không chịu nuốt, chắc chắn là họ sắp tiêu rồi.

Tại sao Thầy biết là họ sắp tiêu? Nghĩa là họ có tu theo Thầy bây giờ, tới móc cái mũi của họ như là con cá trào móc đi nữa thì nó cũng chưa có thành nữa. Tại vì thích nói chuyện là không thành thôi. Đó, là cái hiển nhiên, cho nên ở đây các con đừng có tưởng rằng mình đi khất thực rồi mình ăn rồi mình thành Phật được đâu, nhưng mà nó phải phù hợp như thế nào, sống đúng như thế nào đúng pháp, như thế nào thì nó mới có thể, mới có thể giải thoát được, khó lắm chứ không phải dễ.

“Kính bạch Thầy!

Con xin trình bày về bốn loại Định mà con đang tu tập, Định nào con tu đúng, Định nào con tu chưa đúng, xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con tu cho đúng để không phí bỏ thời gian? Trước con kính trình về Định Vô lậu: đầu vô ngồi kiết già con quan sát cái sắc thân vô thường này do đất, nước, gió, lửa hợp thành, con phân tích ra đất cũng vô thường, nước cũng vô thường, gió cũng vô thường, lửa cũng vô thường, bốn đại hợp thành sắc thân vô thường, thì thọ cũng từ nơi sắc thân vô thường mà có, thì thọ không thể thường được mà là pháp hoại diệt vô thường”

Ở đây thì theo Thầy thấy về cái Định vô lậu mà con đã quán cái Định như vậy thì nó phải cố gắng quán hơn nữa. Vì ở đây là cái sắc thân của chúng ta là bốn đại, đất nước gió lửa thì con quán tạm như vậy cũng đủ nhưng mà phải còn quán sâu, quán hơn nữa để mà thấy rõ bốn đại này như thế nào, hòa hợp như thế nào, kết hợp như thế nào, câu hữu lại như thế nào? Thí dụ như đất nước câu hữu với, đất câu hữu với nước, nước câu hữu với hỏa, hỏa đại; hỏa đại nó câu hữu với phong đại như thế nào mà nó trở thành cái thân của chúng ta. Rồi nó tan hoại như thế nào nó không câu hữu với nhau, nó tan hoại như thế nào? Do đó chúng ta suy tư tìm hiểu, cái mà suy tư tìm hiểu đó gọi là tri kiến giải thoát. À, đó là cái phần đó để cho chúng ta thâm sâu hơn về cái sắc thân, rồi bây giờ đến cái thọ, bởi vì ở trong thân của chúng ta, thân ngũ uẩn đó, thì nó có sắc thọ tưởng hành thức, thì bây giờ các sắc nó câu hữu với cái thọ, nó kết hợp lại cho nên chúng ta có cái thân này ai đánh chúng ta nghe đau, thì cái đau đó mà cảm biết cái đau đó là cái thọ. Vậy thì khi mà không có ai đánh thì cái sắc của chúng ta không có cái thọ, mà khi có đánh hay có con kiến, có con vật gì cắn mà chúng ta đau thì đó là có cái thọ. Vậy thì cái thọ nó kết với cái sắc, các sắc thân của chúng ta cho nên gọi là sắc thọ. À, mà bây giờ chúng ta biết được cái đau cái nhức đó, cho nên cái sắc thọ thức nó kết hợp ba cái lại, cho nên gọi là sắc thọ thức. Các con hiểu không?

Ở đây có cái dịp mà Thầy dạy để cho các con lấy cái thọ, rồi biết cái thọ nó câu hữu với cái sắc, nó câu hữu với cái thức, nó câu hữu với cái hành, nó câu hữu với cái tưởng, nó làm ra như thế nào cho chúng ta thấy cái tâm của chúng ta nó luôn luôn nó dao động, nó không có được yên ổn, nó không được giải thoát. Do đó chúng ta rất sợ hãi trước cái thọ. À những cái buổi mà thuyết giảng như vậy đó, để giúp cho các con đứng trước cái đau đớn của cái thân cho đến khi mà cái thân mạng, cái sinh mạng của các con chịu đựng cái thọ đau khổ đến tận cùng mà các con vẫn giữ cái tâm bất động, làm cho các cái câu hữu của sắc thọ tưởng hành thức này nó không làm cho các con dao động được, thì cái thọ đó nó sẽ không tác động được, thì tất cả đều trở thành mát lạnh của sự giải thoát tâm hồn của các con.

À đây tiếp tục như vậy là con còn phải quán xét hơn nữa, còn phải tu tập hơn nữa nó mới được.Từ cái sắc đến cái thọ cho tới cái thức, con đều quan sát như vậy quan sát...

BĂNG SỐ 51

Con cũng quan sát từ tóc đến mắt, tai, mũi, miệng, lưỡi, cổ, họng, tim, gan, bao tử, thận, mật, ruột già, ruột non. Đều quan sát như trên, đều là vô thường, các pháp hoại diệt cho đến tham, sân, si cũng từ nơi sắc thân vô thường mà có.

Ở đây, con về cái sự mà quán này, thì con hơi có cái sự lộn xộn, nghĩa là bây giờ các con phải quán như thế nào để đúng. Bây giờ mình quán từ cái tóc, mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình từ trên xuống đến chân và từ chân trở lên trên. Tức là mình quán nó bất tịnh hoặc là mình quán nó vô thường, phân biệt cho nó rõ ràng. Nếu là mình quán nó vô thường, thì tức là mình quán bây giờ như tóc của mình, mình phải quán từng phần. Tóc bây giờ còn nhỏ thì tóc nó đen nó vô thường, bây giờ nó bạc là nó vô thường, nó thay đổi. Phải không? Hồi nhỏ thì tóc nó dài, nó rậm, bây giờ nó thưa, cái đầu gần sói hết, tóc rụng gần hết. Cho nên đó là nó vô thường, quán vô thường từng phần, con nói nó vô thường mà con không có nói ra được cái vô thường của nó, cái thay đổi của nó thì nó không có thấu rõ được cái vô thường. Nói con mắt của mình là vô thường thì con phải quán nó, trước là con mắt hồi còn nhỏ thì sáng suốt, nó không có mờ, bây giờ thì con mắt nó mờ. Hồi nhỏ thì đó đen, bóng, mà bây giờ thì nó trắng bạc, nó vàng đi nó không còn như trước. Do cái sự trắng bạc, vàng đi đó là cái sự vô thường. Nếu mà con nói như vậy là không phải...

 (câu hỏi của tu sĩ).

À không phải, Thầy muốn nói đây để cho con quán từng phần. Từ cái tóc như thế nào là vô thường, từ cái mũi, cái tai, cái lưỡi của mình vô thường như thế nào? Từ cái cổ, cái họng như thế nào là vô thường? Tim, gan, phèo, phổi, mật, ruột già, ruột non, như thế nào là vô thường? Do đó con phải quán. Như vậy, tức là đặt ra cái niệm rồi con phải suy xét nó, con sẽ tìm thấy vô thường.

Còn nếu mà con quán nó là bất tịnh, thì nó hôi nó thối như thế nào, thế nào thì nó lại cái phần khác nữa. Cho nên ở đâu nó ra cái phần nấy cho nó rõ ràng. Ở đây Thầy chỉ hướng dẫn thêm để cho thấy các pháp mà nó là vô thường thì phải thấy cho rõ cái sự vô thường của nó. Chứ mình dùng cái chữ vô thường mà mình không thấy từ cái tóc nó bạc, từ cái tóc nó đen nhánh cho đến nó bạc. Thì như vậy mình chỉ nói cái vô thường là cái vay mượn mà không thấy thật của vô thường của nó, sự thay đổi của nó.

Chỉ vì vô minh mà không cảm nhận lấy sự thương ghét, hơn thua, ham muốn, ở đây con nói luôn cả tham sân si. À, cho nên ở đây không phải, về cái phần mà tham sân si thì nó không phải là cái xác thân của con mà nó là các pháp.Muốn được như vậy thì tức là phải quán cái phần mà tâm của mình tham sân si mạn nghi, tức là ngũ triền cái.

Chỉ vì vô minh mà cảm nhận lấy sự thương ghét, ở đây con nói thuộc về cái tâm. Quán cái thân thì mình quán cho rõ. Cho nên phân biệt nó rõ phần nào thì cho nó rõ ra phần nấy, quán về tâm là tâm mà quán về thân là thân, quán về xác thân của mình. Quán về tâm tức là quán về thọ, quán về tưởng, quán về hành, quán về thức.

À cái phần nào con phải quán, quán như vậy về cái định vô lậu thì cái phần nào nó ra cái phần nấy để chúng ta phá sạch các lậu hoặc. Con nhớ kỹ cho rõ ràng. Nhưng cuối cùng là ảo giác giả tạo, con đặt niệm trước mặt là thọ vô thường, con gọi 6 căn bám vào niệm thọ vô thường trước mắt đừng để thất niệm.

Ở đây thì theo Thầy thấy con gọi 6 cái căn mà bám chặt vào một cái tụ điểm, để cho nó nằm yên ở trên cái tụ điểm đó mà nó không hướng ra 6 trần, nó không dính mắc 6 trần. Còn bây giờ con quán 6 căn này như là mắt tai mũi miệng hồi nãy đó, là con thấy cái sự thay đổi vô thường của nó. Như mắt hồi nhỏ thì xanh, lớn lên thì vàng và bạc, mờ không thấy rõ nữa, thì đó là vô thường của nó.

Còn về cái phần mà con nói ở đây là bảo cho nó bám chặt vào cái niệm thọ, niệm thọ nếu nó bám chặt vào niệm thọ sao được. Bởi vì luôn luôn, thí dụ như cái ý thức mà nó bám vào cái thọ, thì cái thọ là cái thân của con, cái chỗ nào đau nhức nó mới sanh ra cái thọ nó câu hữu với cái sắc, nó làm cho con khổ sở như cái đầu nhức, thì bây giờ con bảo nó bám vào cái đầu để con biết nó nhức thì nó nhức chết còn gì. Cho nên cái này không có được, mà bảo 6 căn phải bám vào cái tụ điểm, đừng có bám vào cái chỗ đau nhức của cái xác thân của con, ngay chỗ đó nó sẽ không còn đau nữa. Thì như vậy, con sẽ phá đi cái thọ của con, không còn làm cho con đau đớn trước cái thọ và cái niệm đó luôn luôn, 6 cái thức của con, 6 cái căn của con nó nằm chặt ở trên chỗ cái niệm, nó làm cho cái tâm con không duyên qua cái thọ, nó không còn làm cho con khổ nữa.

Con quan sát từng phần, con ngồi một giờ tu Định vô lậu, trong đầu óc không có một niệm gì xen vào, rất sáng suốt. Không phải, cái chỗ này con lộn. Khi mà con tu cái Định vô lậu thì luôn luôn có một tri kiến giải thoát, hoàn toàn nó theo những cái niệm mà của con đã đặt trước mắt nó, nó thấy từ cái niệm này đến cái niệm kia, nó vô thường như thế nào của cái thân của con, thì như vậy trong đầu óc của con không thể nào mà không có niệm, nó phải có một cái sự suy tư đó, nó có dòng tư tưởng liên tục, chứ không thể nào mà con như thế này.

Con quan sát từng phần, con ngồi một giờ tu định vô lậu, trong đầu óc không có một niệm gì xem vô, không được. Có nghĩa là bây giờ, ở đây con nói con không có cái niệm khác xen vô, bởi vì khi mà con dùng cái trí tuệ con nó quan sát thì cái niệm đó là cái động của tâm con rồi, chứ không phải ở trong cái đầu óc của con là cái tịnh, con hiểu không? Bây giờ cái tịnh nó trống rỗng, nó không có cái niệm, cho nên vì vậy nó không có xen vô. Ở đây đọc thì người ta hiểu rằng, trong cái đầu của con lúc bấy giờ, con đang quan sát cái thân của con là vô thường, thì tức là cái dòng tư tưởng, cái tri kiến giải thoát của con nó thuộc cái dòng, nó đi theo các pháp nó vô thường, phải không. Cho nên cái niệm khác không thể xen vô được, không có niệm gì xen vô được thì nó đúng. Nhưng mà đây là một cái dòng của tư tưởng thì nó có cái niệm nào khác hơn thì cái niệm này. Đó là cái thứ nhất, cái sai thứ nhất của con.

Nếu mà cái đầu óc của con bây giờ nó hoàn toàn nó không có niệm thì bây giờ nói không có niệm nó xen vô thì mới được, thì nó đúng. Còn cái rất sáng suốt và tỉnh thức, nó bây giờ nó đi theo một cái dòng tư tưởng của nó để quan sát cái thân của nó là vô thường thì nó đi theo cái dòng của nó không có còn một cái niệm gì mà làm cho nó quên cái đó được. Đó là cái phép quán, cái thiền quán, nó làm cho con phá đi cái thân vô thường mà không dính mắc, chớ không phải con khéo lầm ở chỗ này, là vì cái đầu óc nó rỗng rang, nó không có một cái niệm gì xen vô mà đây nó đang có cái niệm, cho nên làm sao có cái niệm xen vô được. Hãy phân biệt ở chỗ này.

(tu sinh hỏi Thầy)

Không phải, con phải phân biệt như thế này, khi mà có một cái niệm mà cái niệm của mình đưa ra một cái dòng tư tưởng niệm, thì không có cái niệm nào xen vô được, phải không? Cho nên nó không niệm. Còn bây giờ trong cái đầu óc chúng ta ngồi đây mà giữ cái tâm nó không có một cái niệm nào hết, hoàn toàn nó thanh thản, hoàn toàn nó không có niệm thì đây là nó ở trong nhất niệm, nó hoàn toàn ở trong cái tâm thanh tịnh không có niệm, nó vô niệm. Thì bây giờ cái niệm gì không xen vô thì chúng ta biết là chúng ta đang ở trong một cái nhất niệm thanh tịnh của tâm. Cho nên không có cái niệm nào xen vô, mà cái niệm nào xen vô đó thì gọi là cái vọng tưởng. Còn bây giờ trong tâm của chúng ta đang có một cái niệm, chớ không phải là cái tâm, nó niệm từ cái tóc tai mắt mũi miệng nó, nó suy tư ra, cho nên lúc bây giờ không thể nào mà có một cái niệm khác xen vô, nghĩa là không làm sao…, vì đó là cái niệm rồi, mà cái niệm khác không thể được, không có cái niệm nữa. Còn cái này là nó vô niệm, cho nên vì vậy mà cái niệm khác dễ xen vô. Con phân biệt rõ không?

Cái niệm mà bây giờ nó đang có cái niệm thì nó sẽ không có cái niệm thứ hai nữa được. Cũng như đức Phật ví dụ “Một bậc A La Hán chỉ ra đời, chỉ có một bậc A La Hán, không thể đồng thời có hai bậc A La Hán được”. Thì chúng ta nói rằng trong đầu chúng ta có một cái niệm thì không thể có một cái niệm khác được, trừ ra trong đầu chúng ta không có niệm thì nó mới có xen vô cái niệm khác, hiểu vậy chưa? Còn bây giờ nó có niệm thì không thể nào có cái niệm khác được vì trong đầu chúng ta luôn luôn lúc nào nó có cái niệm, mà cái niệm đó là chúng ta điều khiển, chủ động cái niệm đó nó khởi ra, chứ không phải để cho nó tự động nó khởi ra. Vì nó tự động nó khởi ra, đó là cái niệm vọng tưởng. Còn bây giờ mình điều khiển cái niệm đó, vì vậy cái niệm đó gọi là thiền quán hoặc là Định niệm vô lậu. Chúng ta dùng cái niệm để quan sát, để thấu suốt cái lý lậu hoặc để mà chúng ta dẹp cái lậu hoặc đi, đó là cái niệm, cho nên khi đã có cái niệm thì không còn cái niệm thứ hai được nữa. Các con hiểu không?

Cho nên trong đầu óc của chúng ta, khi nào mà nó không có niệm thì mới gọi là có cái niệm khác xen vô hoặc là không có niệm khác xen vô. Còn bây giờ nó đã có niệm thì không thể nào có cái niệm thứ hai nữa, cho nên không thể nào nói có cái niệm thứ hai mà xen vô được.

Thì tự thấy được toàn thân là vô thường, đó là cái niệm quán xét vô thường, cho nên mới thấy nó toàn là vô thường. Từ dòng máu lưu thông toàn cơ thể đều là vô thường, nó hằng sanh diệt, hằng diễn biến, hằng thay đổi không ngưng nghỉ, thấy từ cọng tóc, từ lỗ chân lông, từ các tế bào, thớ thịt đều sanh diệt vô thường. Nhưng ở đây con dùng một cái số từ, cái số từ để chỉ cho sự vô thường, chứ chưa phải chỉ cái hành tướng, cái trạng thái vô thường của các pháp của thân con. Cho nên con chỉ suông suông cũng như là một người mà biết cái lý mà không có cái hình tướng để thấy sự vô thường.

Thầy muốn nói, mình muốn nói lên cái danh từ đó để chỉ thấy sự vô thường cho nó rõ ràng, thì bây giờ cái dòng máu ở trong thân của chúng ta vô thường, lúc thì đỏ, lúc thì đen, đó là sự thay đổi vô thường; lúc thì nhiều lúc thì ít, đó là sự vô thường. Cho nên khi mà nó nhiều thì nó lại căng đầu chúng ta lên, khi mà nó ít nó làm chúng ta giảm xuống như thế này thế khác, thì đó gọi là vô thường. Còn nói về cái sự vô thường của cái tóc của chúng ta thì đen, trắng thì đó là sự vô thường. Những cái hình ảnh mà trạng thái nó thay đổi, còn con nói cái danh từ không “nó là vô thường” thế này thế khác mà không diễn tả được cái trạng thái vô thường, cho nên nó không thấm được cái lý, con hiểu chưa?

Cho nên, kh, ông phảiThầy muốn nói đây, thà là con nói ít, bây giờ con chỉ quan sát cái tóc con vô thường thì con nhớ hồi nhỏ, tóc mình dài và đen mượt, rất là đẹp, bây giờ già rồi, bạc trắng rồi mà thưa mà rụng. Đây là tóc vô thường. Bấy nhiêu đủ để thấy chúng ta nó vô thường mà nó rõ nét phải không? Còn bây giờ mình nói vô thường mà mình không diễn tả được cái sự trạng thái vô thường của nó thì mình không thấm sâu được cái vô thường đó, cho nên mình nói suông, rồi đây rồi nó sẽ không thấy vô thường, phải không các con? Dùng cái danh từ nói vô thường thì cũng như Thầy nói bây giờ thân của tôi làvô thường, khổ, không, vô ngã.Nhưng mà tôi nói danh từ như vậy, nhưng mà tôi chưa biết nó vô thường. Nhưng mà tui nói cái thân tôi vô thường, tôi nhớ lại hồi nhỏ của tôi, lúc mà tôi 20 - 25 tuổi thì sức tôi khỏe, tôi có thể làm nó không biết mệt, thuyết giảng nó không mệt. Còn bây giờ tôi đã 60 tuổi, gần 70 tuổi, nói trong một cái thời pháp như thế này, tôi thở hết muốn ra hơi, do đó tôi thấy cái thân tôi nó kém rồi, do đó tôi biết nó là vô thường. Hồi nhỏ thì mặt tôi nó thẳng, nó không có da nhăn, nó không có cái xấu xí, những cái trên mặt của tôi. Còn bây giờ thì già, da nhăn rồi răng rụng thế này kia thì đó là cái sự vô thường của thân tôi. Con hiểu cái đó. Quán vô thường là phải quán như vậy để cho mình thấy thật vô thường để cuối cùng mình mới không có chấp cái thân của mình là cái ngã của mình nữa. Mình thấy nó là vật vô thường, nó làm cho mình rất khổ và mỗi lần vô thường vậy nó xảy ra như thế nào? Từ nhỏ, từ cái sức khỏe tôi dần dần mất đi, nó trải qua bao nhiêu lần bệnh đau. Mỗi lần bệnh đau vậy nó làm cho thân của chúng tôi kém cái sức khỏe xuống dần dần. Cho đến bây giờ nhiều lần đau, mà cho đến bây giờ tôi thấy sức khỏe tôi gần như là kiệt quệ, làm cái gì nặng tôi thở quá nhiều. Đó là sự vô thường của thân tôi.

Đó con thấy không, mình cũng quán vô thường mà quán đúng cách thì nó thấm được cái lý, mà thấm được cái lý cho nên mình không chấp cái thân mình là ngã nữa, mình chấp cái thân là của mình nữa. Ở đây là có những cái phần mà có thể rằng con phải thấu suốt để không khéo mình dùng một cái danh từ, mình chỉ nó vô thường, nó thế này kia để mình nhai đi nhai lại vô thường mà trở thành mình không thấy được cái tướng vô thường của nó. Đó, thấy đúng như thật là vô thường, cho nên cái đau nhức khó chịu biến mất, xả ra có sự an lạc. Đó, bây giờ con ngồi thiền thì con thấy đau, xả ra thì an lạc thì con quán cái thọ vô thường, con đặt cái niệm thọ. Cho nên dưới đây, con nói chung chung là từ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, con gộp chung ở  chỗ này con nói chung, chứ lẽ ra con viết bài này con phải nói: à bây giờ con quán cái sắc, từ cái sắc đó con phải quán từ tóc, tai, mũi, miệng. Cũng như cái bài kệ của vị ni mà người ta quán tóc của mình, rồi tới cái mặt cái mũi của mình lần lượt người ta quán như vậy, để mà thấy được cái tướng vô thường của nó. Đó là Thầy có nêu lên những cái gương hạnh của những người mà tu cái Định vô lậu đó, quán vô thường.

Hỏi: Thấy đúng như thật là vô thường, cho nên cái đau nhức khó chịu biến mất, xả ra có sự an lạc. Thưa Thầy nhận thấy như vậy có phải là tri kiến giải thoát hay không?

Đáp: Chưa đúng đâu. Tri kiến giải thoát nó lột sạch ra tất cả những cái gì gọi là vô thường, nó thấu suốt rất là thấu suốt, cho nên từ đó nó nhìn cái thân của nó nó ghê gớm lắm, hễ nhìn bất tịnh là nó ghê gớm vô cùng, mà nhìn tất cả những sự thay đổi của cái thân, nó thấy được cái đường đi nước bước của nhân quả chi phối từng phút giây rất rõ ràng. Vì lúc bấy giờ, cái người mà quán được cái Vô lậu, thấy được cái thân vô thường thì người ta thấy được đường đi của Nhân quả, thấy rất rõ ràng. Do vì cái sự quán xét mà thấu suốt như vậy đó, nó làm cho trí tuệ giải thoát của chúng ta, còn ở đây con quán như vậy chỉ là một cái số từ để mà nói lên cái sự vô thường của nó, thế nhưng mà sự thật không thấy cái hình ảnh vô thường.

Thầy muốn nhắc ở đây là nhắc chung cho các con, lấy cái bài của cô Minh Cảnh để làm chung cho cái bài học của các con để tu cái định Vô lậu, làm chúng ta diệt sạch các lậu hoặc của chúng ta.

Hỏi: Con vẫn tiếp tục tu Định Vô lậu, cho đến khi chứng đạt được tâm bất động mới thôi hay sao, kính mong Thầy chỉ dạy thêm và tiếp tục?

Đáp: À, bây giờ con tu cái Định Vô lậu này, con thấy là nó đã vô lậu thì như thế nào? Tức là ly dục, ly bất thiện pháp. Con thấy tới bữa ăn con không thích ăn đâu, con không thèm cái món ăn nào nữa hết. Con thấy là con ly được cái tâm ham muốn ăn rồi, con thấy mọi vật xung quanh con, thậm chí như cái lời dạy trong băng của Thầy con cũng không ham thích nữa, con chỉ còn biết tu biết giải thoát mà thôi. Hiểu được cái gì làm cái nấy chứ không muốn nghe nữa, bởi vì nghe nhiều khi nó còn gợi cho chúng ta những lời ham thích ở đó, nó còn chưa ly được dục đâu. Cho nên ở đây Thầy nói là một lẽ, lời Thầy dạy thì các con đúng cái pháp nhưng mà khi mà cái người tu cái Định Vô lậu rồi, họ không còn thích nghe gì hết, họ chỉ muốn âm thầm sống trong trầm lặng để giải thoát tâm hồn của họ, chứ họ không bao giờ họ mà có thể còn nghe, thích nghe băng nghe này nghe kia hoặc là còn thích pháp này, pháp kia. Họ biết cái gì tu được, cái gì không tu được là họ nỗ lực cái đó họ tu chứ họ không thích nữa. Hoàn toàn họ buông xuống hết, họ không còn một vật gì, hoàn toàn chỉ con hai bàn tay trắng mà thôi.

Đó thì như vậy là cái Định Vô lậu đã sạch mà cái định vô lậu giúp để chúng ta ly dục, ly ác pháp để chúng ta nhập được Sơ thiền. Cái Định Vô lậu tu để chúng ta nhập được Sơ thiền vàtừ cái chỗ Sơ thiền đó mà chúng ta tiến vào để chúng ta nương vào hơi thở để chúng ta đi tới cái chỗ mà chúng ta nhập Tứ thiền, làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta. Đó như vậy là mới xong. Còn bây giờ chúng ta còn thấy dính mắc một chút nào đó, tối mà chúng ta nằm ngủ, chúng ta còn thấy chưa tỉnh thức thì tức là Vô lậu chúng ta chưa hết. Tại sao vậy? Tại vì nằm ngủ, cái thân ngủ mà cái tâm chúng ta luôn luôn biết hơi thở thì tức là tỉnh thức trong hơi thở. Vì vậy mà cái người tu thiền mà theo đạo Phật mà tâm ly dục ly ác pháp rồi, thì họ rất tỉnh thức, họ rất tỉnh thức thì họ không ham ngủ, họ không ham ngủ thì không bao giờ có chiêm bao mà không bao giờ mệt nhọc. Còn bây giờ chúng ta không ngủ một đêm là chúng ta đã mệt nhọc, đã muốn bệnh rồi thì như vậy là chúng ta chưa tỉnh thức. Do mà tu cái Định Vô lậu này thì nó chứng minh cho cái sự mà đạt, thành. Mà hết tu cái Vô lậu thì lúc bấy giờ chúng ta hoàn toàn là phải ly dục ly ác pháp, hoàn toàn là phải không có mộng mị, chiêm bao, phải thức tỉnh suốt trong đêm trong ngày, ngủ mà như không ngủ. Đó như vậy là cái Định Vô lậu chúng ta đã đạt được.

Hỏi: Con tu Định Vô lậu trước để quét sạch cái đau nhức, khó chịu rồi sau đó con mới tu định niệm hơi thở có chất lượng?

 

Đáp: Đúng vậy, cái Định Vô Lậu, nó vừa phá cái thọ, nó quét sạch cái thọ làm cho cái tâm của con trước cái thọ đau khổ mà nó không dao động, không có nghĩa là cái Định Vô Lậu nó làm cho con hết đau khổ, nó vẫn đau khổ nhưng tâm của con không dao động trước đau khổ của cái thọ.Con hiểu chưa? Không phải cái Định Vô Lậu nó làm cho con như một liều thuốc tê mà chấm dứt cái sự đau khổ, nó không phải làm cho con hết đau khổ, nó có đau khổ nhưng vì tâm của con Vô lậu, cho nên trước cái Thọ đau khổ đó, con không có dao động tâm con, con không sợ hãi, mặc nó đau là nó đau, kệ nó, con chỉ biết giữ cái tâm con nằm chặt ở trên một cái tụ điểm, nằm chặt ở trên một cái đối tượng của 6 cái thức mà thôi. Đó là nó đau là mặc đau.

Rồi sau đó con mới tu Định niệm hơi thở, tu Định niệm hơi thở mới đầu vô con tu hơi thở bình thường khoảng 5 phút, bắt đầu hướng tâm thở hơi thở chậm nhẹ, 6 căn bám nhẹ vào tụ điểm và từ từ vận dụng hơi thở chậm nhẹ hơn nữa. Có hơi thở nhẹ và chậm như không thấy hơi thở mà vẫn vận dụng 6 căn bám chặt tụ điểm, tai con còn nghe âm thanh quá rõ, cho nên con gọi nhĩ thức câu hữu với thân thức bám chặt tụ điểm thì bắt đầu nhĩ thức mới bám vào tụ điểm.

Thưa Thầy hiện giờ con nên phá âm thanh trước rồi sau mới tịnh chỉ hơi thở sau, hay là hướng tâm tác ý đồng một lượt mà phá âm thanh và tịnh chỉ hơi thở?

Đáp: Không phải. Bây giờ con không nên phá hơi thở mà nương hơi thở, nằm ở trên hơi thở chậm và nhẹ rồi bắt đầu mới phá âm thanh trên hơi thở đó, rồi sau đó mới tịnh chỉ hơi thở để mà phá thọ. Nghĩa là phá thọ sau khi phá âm thanh. Đó thì nương vào cái hơi thở để mà tịnh chỉ hơi thở cho ngưng nghỉ để nhập tứ thiền, thì đó là phá thọ. Còn bây giờ nằm ở trên cái hơi thở, thở biết hơi thở ra, hơi thở vô, nhưng luôn luôn lúc nào cũng kêu gọi cái nhĩ thức phải tập trung, phải nằm chặt ở trên tụ điểm và luôn luôn lúc nào cũng không được nghe âm thanh bên ngoài. Phải nghe cái hơi thở, phải nghe cái tụ điểm, không được nghe ra ngoài. Thì dùng cái pháp hướng mà nhắc như vậy thì cái nhĩ thức nó mới bám chặt trên cái tụ điểm, nó mới không nghe ra ngoài, từ đó con mới phá được âm thanh, còn không khéo thì con cứ nghe âm thanh mà âm thanh thì nó dễ lôi cuốn cái thọ, nó câu hữu với cái thọ, nó làm cho cái thọ tác động cái thân, làm cho cái thân bị thọ, mà cái thân mà bị thọ rồi thì cái thân nó tác động cái ý thức và cái ý thức nó bị chao động, cái tâm của con nó chao động theo cái thọ. Cho nên ngồi đau quá chịu không nổi phải xả ra phải lôi chân xuống thì cái đó nó sẽ làm cho con mất định, mất cái định đi. Cho nên, muốn mà được cái định là phải phá âm thanh trước, âm thanh nó không câu hữu với cái thọ, cái thọ nó không câu hữu với cái thức, cái thức nó không câu hữu với cái tâm, thì cái tâm con nó bất động, nó yên lặng ở trong trạng thái định. Nhớ chưa? Từ bắt đầu tu như thế nào mà tập luyện như thế nào để phá âm thanh trước.

Tu định Chánh niệm tỉnh giác, con tu trong mọi hành động và lúc nào cũng kèm theo tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả và hướng tâm gọi ý thức hãy sống trong hiện tại, Chánh niệm tỉnh giác, khi ăn uống, nói, nín đại tiểu tiện, luôn luôn phải tỉnh giác. Tỉnh giác ở đây thì các con sẽ nghe lại lời dạy trong băng của Thầy thì mới thấu rõ cái Chánh niệm tỉnh giác. Chánh niệm tỉnh giác nó có nhiều cách thức tu, mà nó phải lợi dụng ở trong cái hành động đi kinh hành như thế nào, lợi dụng trong cái hành động làm hằng ngày chúng ta tu cái Chánh niệm tỉnh giác, thì tất cả mọi hành động hằng ngày thì chúng ta đều phải tu cái Chánh niệm tỉnh giác. Nhưng mà tu cái Chánh niệm tỉnh giác thì chúng ta phải tu nhiều, tu nhiều hơn. Và lúc nào chúng ta cũng thực hiện tu cái Chánh niệm tỉnh giác để cho cái sức tỉnh cho đến khi mà chúng ta phải tu cái thức tỉnh của chúng ta ở trên cái hơi thở để chúng ta ngủ mà không ngủ. Cái đó là cái cuối cùng mà các con phải tu tập để chúng ta phá 18 cái loại tưởng và đồng thời chúng ta phá cái mộng tưởng, không còn chiêm bao nữa, luôn luôn tỉnh giác.

Hỏi:Dưới đây con xin Thầy chỉ dạy cho con cách thức tu Định Sáng suốt cho đúng?

Đáp: Định Sáng suốt có nghĩa là, khi chúng ta thực hiện cái Định Vô lậu mà xong thì ngồi lại thì cái tâm nó sáng suốt, cho nên chúng ta giữ cái tâm nó thanh thản, cái tâm yên lặng, cái tâm vô sự, tức là cái pháp môn thư giãn làm cho thân tâm chúng ta trở về trạng thái an ổn nhất không có mệt nhọc, không đau khổ. Chứ không phải ngồi mà tập trung trong cái sáng suốt, trong cái vô sự, trong cái thanh thản thì nó sai. Cái người mà tu Định sáng suốt, Định thanh thản này là cái người thư giãn cả thân tâm chúng ta cho nó trở về trạng thái an ổn, nó không bị mệt nhọc, không bị rối loạn. Vì như vậy nó không phải là Định sáng suốt này là cái định mà tập trung làm cho nó mệt thêm, thì không phải là sáng suốt nữa.  

Hỏi: Muốn tu tập buổi khuya, ngồi ghế bình thường mà tỉnh táo không bị buồn ngủ, xin Thầy chỉ dạy cho con biết tu đúng cả 4 loại Định, không chênh lệch?

Đáp: Bốn loại Định đó, thì cái định mà Chánh niệm tỉnh giác định phải tu nhiều, cái Định vô lậu thì phải tu ít hơn cái định Chánh niệm tỉnh giác, Định hơi thở, Định hiện tại an lạc trú thì tu rất ít, một ngày thì tu có 1 lần hoặc 2 lần thôi, còn hoàn toàn tất cả các loại định kia phải tu nhiều. Và đồng thời trong mỗi loại định, như Định hiện tại an lạc trú này, định Chánh niệm tỉnh giác này, Định vô lậu này, mỗi cái loại định như vậy đó, sau khi tu rồi thì chúng ta nên thư giãn cái thân tâm chúng ta bằng cái Định sáng suốt. Nghĩa là cái Định sáng suốt xen kẽ vào để thư giãn nó, làm cho thân tâm chúng ta trở về cái sự an ổn và bình thường, phục hồi lại cái mệt nhọc của chúng ta, rồi chúng ta tiếp tục tu các định khác thì rất dễ dàng và sáng suốt hơn. Cho nên nó mới có cái tên là Định sáng suốt, là làm cho chúng ta khỏe khoắn ở trong người trở lại mà tu tập cái khác, coi như là, sau một thời gian làm việc mệt thì chúng ta được nghỉ ngơi đó. Cái Định sáng suốt có nghĩa là cái định để nghỉ ngơi, chứ không có gì hết.

Hỏi: Thưa Thầy, từ ngày Thầy dạy giáo án đến giờ tâm con xả sạch, tâm con an ổn, ngày một bữa không còn thấy đói gì cả, không bao giờ nghĩ đến chuyện ăn uống hay thèm khát gì hết, cứ đến giờ là đi ăn. Thân thanh tịnh, tâm dục tự nó mất tiêu không bao giờ hay, con thương mà chẳng ghét ai cả, thích thú sống độc cư, sống trầm lặng, không nghĩ đến làm việc gì hết, nhưng bổn phận phải làm. Không muốn đến chỗ đông người ồn ào, bất đắc dĩ ra nghe băng và ra ăn cơm. Thường hướng tâm ám thị phải sống trong thiện pháp, đến ngủ, ngủ ít khi có chiêm bao. Hằng ngày con sống như vậy, có phải là Sơ thiền không?

Đáp: Không phải đâu. Tất cả những cái này không phải là Sơ thiền, mà là cái cuộc sống của con, nhiều khi mình cứ nghĩ tưởng là mình sống như vậy là đúng nhưng sự thật sai. Cái hoàn cảnh hiện giờ, cái trí tuệ của người tu rất sáng suốt, chúng ta nhận được cái hoàn cảnh của chúng ta, không phải sống như vậy đúng. À, bởi vì các con tưởng mình sống như vậy là mình giải thoát, nhưng mình nhìn xung quanh mọi người, họ đang khổ sở với mình, mà mình cứ thun thút ở trong thất, mình tưởng là vậy sống đúng. Phải chi trong cái thời đức Phật, người ta đi xin ăn, người nào cũng xin ăn, thì ông Phật cũng xin ăn mà các vị tỳ kheo khác cũng đi xin ăn, thì mình sống luôn luôn ở trong cái độc cư, ở trong thất mình tu như vậy là đúng.

(mất tiếng)

Vừa rồi Thầy có trả lời cho bên nữ cô Minh Cảnh có hỏi về cái vấn đề tu tập, nhưng Thầy thấy rằng, hầu như đó cũng là cái sai, cái sai đây cũng là cái sai chung cho tất cả chúng chứ không phải riêng cho một người, cho nên cái sai này hầu như người ta trạch cái pháp ra, cái câu ra dùng nó làm pháp hướng, mà cái pháp hướng nó khác và cái pháp quán nó khác, hai cái pháp này nó khác. Khi chúng ta quán mà chúng ta lại quán chung chung, nó không có đúng cái tánh cách của cái sự quán xét, nó không thành cái hiện trạng của một cái sự quán, mà nó trở thành một cái danh từ suông. Hầu hết là những người tu hành trong cái thời đại này thì đứng trên cái chữ nghĩa mà nói suông mà thôi. Thí dụ, chúng ta nói cái thân này là vô thường, khổ, vô ngã thì người ta nói suông cái danh từ như vậy chứ người ta đâu thấy được cái trạng thái vô thường, khổ, vô ngã như thế nào? À, cho nên muốn mà được thấy cái trạng thái vô thường, khổ, vô ngã đó thì chúng ta phải có sự quán xét và suy tư cho nên gọi là quán pháp. Còn đằng này thì quán chung chung như làm biếng, không có chịu suy tư, sợ động não nó mỏi mệt. Cho nên cứ vay mượn đờm dãi của người khác mà nhai đi nhai lại gọi là quán vô thường, khổ, vô ngã thì Thầy thấy cái chuyện quán đó thì bây giờ suốt ngàn năm đi nữa quý vị tu cái Định vô lậu nó cũng không hết lậu hoặc đâu.

Do cái chỗ sai đó mà Thầy quá mất cái thì giờ rất nhiều cho cái giáo án này, vì sự thật ra cái tu hành chúng ta phải hiểu khi nào mà chúng ta phải quán, khi nào mà chúng ta phải hướng. Khi nào mà nó đã quán xong rồi, chúng ta thấu triệt rồi thì chúng ta mới dùng pháp hướng để đoạn dứt, chặt đứt nó đi, lìa bỏ nó đi, từ giã nó đi.Cái pháp hướng là cái pháp để mà đoạn dứt, pháp hướng là cái pháp ra lệnh để cho tâm chúng ta nó không còn bám dính cái đó nữa. Còn cái pháp quán là cái pháp phải thông suốt, phải thông hiểu. Cho nên, Phật nói đầu tiên mà cái người vào đạo Phật “ Những gì chưa thông hiểu phải thông hiểu”. Mà bây giờ mình nghe cái danh từ suông mình chưa có rõ, chưa có rõ được cái trạng thái. Cũng như bây giờ nó hôn trầm, thùy miên thì ai nói danh từ đó cũng được nhưng mà không có biết hôn trầm thùy miên nó ra sao? Cái trạng thái hôn trầm, thùy miên đó nó làm cơ thể chúng ta mỏi mệt, lười biếng, nhã nhợt, nó làm cho chúng ta bần thần không có tỉnh táo, thì cái đó nó gọi là hôn trầm, thùy miên. Còn bây giờ chúng ta nói hôn trầm, thùy miên suông không thì không hiểu gì hết, cái người khác người ta không hiểu.

Mình muốn nói được cái đó thì mình phải diễn tả ra được, phải suy tư ra được, phải quán xét ra được, phải có cái trạng thái hôn trầm, thùy miên mới biết được nó. Còn nếu mà không có thông rõ như vậy thì chúng ta tu hoài nó cũng vô ích. Bởi vì tu nó khó, khó là cái chỗ thông hiểu, phải thông hiểu. Cho nên cái vấn đề quan trọng của đạo Phật thì như quý thầy cũng đã thấy rằng cái vấn đề nó rất rõ là phải thông hiểu. Mà không thông hiểu thì không có làm sao mà tu được hết, mà cứ vay mượn, vay mượn cái đờm dãi, nước miếng của người ta mà nhai đi nhai lại hoài thì nó không có ích lợi gì; mà mình phải thông hiểu, mình quán tức là làm cho cái tri kiến của mình nó thông suốt. Rồi cái tri kiến của mình tự nó phóng ra những cái sự hiểu biết đó, nó làm cho mình thấu rõ được cái pháp đó nó như thế nào đúng và như thế nào sai?

Đó là những điều kiện mà Thầy giảng hôm nay. Đâu có phải trong một cái Định vô lậu mà quý thầy đã sai thì cái Định hiện tại an lạc trú về hơi thở thì quý thầy còn sai biết là bao nhiêu nữa. Cho nên Thầy nhắc nhở rồi cái Định sáng suốt Thầy nghe quý thầy cũng chẳng trình bày cho Thầy cái đúng, cái sai trong sự tu hành, mà nhìn vào cái sống của quý thầy thì biết quý thầy tu chẳng tới đâu hết. Tại sao vậy? Tại vì trong ba tháng này xét ra cái người nào tu được, tu không Thầy đã biết. Mà người nào tu không được mà tu như thế nào mà không được, tu như thế nào là được Thầy đều biết. Tại sao vậy? Tại nhìn thấy qua cái sự sống trầm lặng của người đó biết được người đó sẽ tu được, mà cái người mà sống phóng dật, tâm chạy theo luận bàn cái này, nói chuyện kia thì những người đó không tu được gì hết.

Thì nhìn lại ở đây chúng ta thấy được mấy người mà sống trầm lặng, đã là đi tu rồi thì chúng ta phải quyết tâm, phải giữ gìn không cho phóng dật. Rồi đây thì quý thầy sẽ thấy rằng tâm Phật không phóng dật, tâm ta niệm Phật cũng không phóng dật vì phóng dật là một pháp rất ác,rất độc, nó nối tiếp sự sanh tử luân hồi chúng ta mãi mãi là do cái tâm phóng dật. Mà muốn cho nó đừng phóng dật, thì chúng ta phải làm sao? Đó là một cái điều kiện mà rất khó, cho nên ở đây chúng ta nhìn lại chúng, nhìn lại một số quý thầy thì chúng ta thấy cái người mà không phóng dật là được mấy người. Đó, mà sống trầm lặng, sống độc cư, sống cô đơn, sống một mình người đó mới không phóng dật. Bởi vì, cái tướng không phóng dật thì cái tâm lần lượt nó sẽ nguội lạnh và nó sẽ không phóng dật. Mà cái tướng mà không giữ được thì cái tâm không thể nào mà giữ nó được hết. Mới đầu chúng ta giữ được cái thân của chúng ta không phóng dật, sau lần lần cái tâm nó theo đó nó không phóng dật. Còn nếu mà cái thân mà chúng ta không giữ nó được đó, thì nó phóng ra nó chạy tứ tung binh tàn thì cái tâm chúng ta ngồi lại, cái tâm của chúng ta nó còn nhiều hơn nữa, hết chuyện này tới chuyện khác, nó như một cái chợ ở trong đó vậy.

Đó thì hôm nay Thầy nói như vậy để rồi chúng ta tiếp tục học cái Tứ Bất Hoại Tịnh.

Mới bắt đầu vào học Tứ Bất Hoại Tịnh mà chúng ta đã thấy thời gian quá dài là vì gần hai ngày học rồi mà chưa hết một pháp này, rồi quý thầy còn học biết bao nhiêu thứ khác nữa chứ đâu phải ít, đâu có đơn giản. Cho nên ở đây có một số quý thầy cũng xin Thầy để tóm lược lại những cái điều mà quan trọng để cho quý thầy nắm cho vững những cái điều quan trọng đó để mà tu tập, đây Thầy xin đọc một cái bức thư gởi cho Thầy, có một vị thầy gởi cho Thầy một bức thư:

“Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch Thầy!

Hôm nay, chúng con trong đại chúng xin cung kính, thành tâm có lời thỉnh nguyện:

Kính thưa Thầy!

Thời gian còn quá ngắn, giáo án còn dài, sức khỏe của Thầy lại kém, chúng con cầu mong ngưỡng vọng Thầy từ bi hoan hỷ dành thời gian còn lại giảng cho chúng con về phần căn bản then chốt, cốt lõi của Tứ Thiền và Tam Minh để chúng con nắm được phần quan trọng này. Sau khi qua hạ vì chúng con không còn đầy đủ duyên lành, may mắn để tiếp tục theo Thầy để tu học, để lấy đó làm phương châm trên bước đường tu đạo, để cầu thoát ly sanh tử sau này. Cúi xin Thầy từ bi hoan hỷ chấp nhận hứa khả cho chúng con, đồng thời Thầy hoan hỷ cho chúng con được nghe những lời thỉnh nguyện của Thầy với Hòa Thượng Trúc Lâm mà không được Hòa Thượng chấp nhận trợ duyên cộng tác với Thầy để mở cửa, xiển dương con đường thiền giải thoát cho con người ở trong hiện tại,mà Thầy đã khổ công nhập thất tu hành suốt mười năm không nói một lời, sống trong cô đơn, trầm lặng đã khám phá thực hiện thành công kết quả chiến thắng dành lại quyền sanh tử sống chết của kiếp con người mà hiện nay trên thế giới này chưa có ai làm được.

Hôm nay chúng con đầy đủ duyên lành từ ngoài Bắc và ở trong Nam tụ hội về đây cũng là phước duyên lành của chúng con dung bồi từ quá khứ. Cho nên hôm nay chúng con được nghe lần đầu cũng như lần cuối những lời quý báu này, lợi ích cho chúng con nói riêng, nói chung cho tất cả người sau. Đó là những lời tha thiết, chân thành của chúng con cúi mong Thầy từ bi, hoan hỷ chấp nhận cho chúng con.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”

“Sẵn dịp Thầy cho chúng con được nghe dự thảo của Thầy thành lập Trung tâm Khu an dưỡng ở Phước Hải. Có lý do gì khó khăn hay không mà Thầy lại không tiến hành mà lại bỏ dỡ. Đó là những gì mà chúng con muốn biết những việc làm của Thầy tốt đạo, đẹp đời, là phương châm của Phật giáo hiện nay, cũng là nhân duyên chấn hưng Phật giáo lợi ích cho chúng sanh, nhân loại. Với hoài bão và tâm nguyện của Thầy từ khi ra thất luôn luôn tâm nguyện canh cánh nỗi lòng và sự tồn vong của Phật giáo của hiện tại và tương lai, cho đến hôm nay mà hoài bão của Thầy vẫn chưa thực hiện được. Mà hôm nay Thầy lại ra đi ẩn bóng để lại cho chúng con một nỗi niềm thương nhớ, một bậc Thầy khả kính làm gương hạnh cho chúng con trên bước đường tu học.”

À, qua hai bức thư mà thỉnh cầu:

Thứ nhất là về cái phần giảng về bốn thiền và cái Tam minh. Sự thật ra thì cái căn bản nhất của cái bốn thiền là cái sống, là tu tập Định vô lậu, để làm gì? Để cho cái tâm nó ly dục, ly ác pháp, đó là cái căn bản nhấtchớ không phải là cái hơi thở để mà chúng ta vào thiền định.Khi cái tâm mà chúng ta thanh tịnh được rồi thì cái thời gian mà tu tập cái Định vô lậu chúng ta thường dùng cái pháp hướng. Nếu không có pháp hướng thì chúng ta khó mà đoạn dứt được cái tâm ham muốn của chúng ta. Các cái duyên ở bên ngoài dễ lôi cuốn chúng ta, chẳng hạn như cái tâm phóng dật đó là một. Nếu không hằng ngày, không rèn luyện cái pháp hướng mà diệt cái tâm phóng dật đó, thì như vậy chúng ta đã thấy được cái pháp Tứ Bất Hoại Tịnh, mà nếu mà chúng ta không tu tập thì chúng ta không thấy được cái tâm phóng dật là cái tâm rất là khó và vi tế, rất là vi tế.

Chúng ta nghĩ rằng mình không có ham muốn như cái người thế gian, tức là không phóng dật. Nhưng ở trong tâm của chúng ta thật sự là cái gốc phóng dật vẫn còn là chúng ta biết rằng có chứ không phải không. Tại vì chúng ta xả chưa hết mà, mà chưa hết thì tức là còn phóng giật. Dù là một cái bát đi, một vị sư đó có ba y một bát không, dù cái bát mà chưa có bỏ được, còn tiếc nó nghe một vị khácgõ cái bát sợ bể thì ngay đó còn cái tâm phóng dật, chưa có dừng lại, nó khó như vậy.

Cho nên khi bắt đầu mà chúng ta tu Tứ Bất Hoại Tịnh đó, là cái điều kiện tiên quyết đầu tiên là chúng ta tu tập như thế nào để chúng ta có một cái niềm tin, cái niềm tin đó đối với Phật. Cho nên Tứ Bất Hoại Tịnh đó,nó giúp cho chúng ta có một niềm tin đó, đó là những cái cơ bản của thiền định. Chứ không phải thiền định của đạo Phật bằng cách ngay đó mà dạy cho quý thầy bằng cách này, bằng cách kia là thiền định đâu, nó không phải đâu. Nếu mà sự thật ra đây Thầy giảng cái bài về bốn thiền rất là rõ ràng, cụ thể. Nhưng mà cái căn bản nó không có, không có ngay từ cái lúc đầu đó thì bốn thiền và những cái danh từ mà diễn tả cách thức mà nương hơi thở thế này cách khác, thì quý thầy không làm sao quý thầy bước vào được hết.Biết nó như vậy nhưng mà cái tâm của mình còn phóng dật, chưa ly dục, chưa ly ác pháp thì chắc chắn là không bao giờ mà có thể đi vào được bốn cái định này. Rồi quý thầy thấy khi mà yêu cầu Thầy dạy Tam minh, nếu muốn dạy Tam Minh không phải đơn giản như chúng ta nhập Tứ thiền rồi, từ đó chúng ta có Tam Minh đâu. Mà Thầy còn phải dạy Tứ Như Ý Túc, bởi vì khi mà nhập Tứ thiền mà muốn hướng dẫn mà tâm đến Tam minh đó thì nó phải có Đại Thần Lực. Mà có Đại Thần Lực thì chúng ta mới có đủ cái sức của nó, đủ cái sức của nó mà điều khiển, ra lệnh mà điều khiển, chứ nó không còn có cái sự vận dụng của một cái người mà đang vận dụng cơ bắp nữa, mà chỉ còn có cái ra lệnh mà thôi. Mà như vậy là Thần lực chớ không thể nào là cái sức lực của chúng ta nữa, mà đây gọi là Thần lực, cái lực vô hình gọi là Thần lực. Mà cái thần lực này nó do cái pháp hướng mà ngay từ lúc đầu mà chúng ta ly dục ly ác pháp được, tu cái Định vô lậu chúng ta phải rèn luyện nó hết sức ở trong cái pháp định vô lậu, chứ không phải là khi mà vào hơi thở thì chúng ta luyện tập nó thì chẳng nhằm nhò gì, chẳng kết quả gì hết.

Đó là những cái cơ bản, nếu mà ngay từ Tứ thiền mà dạy hướng Tam Minh thì chắc chắn là quý thầy sẽ không bao giờ mà có thể hướng đến Tam Minh vì con đường này Thầy đã đi qua Thầy biết rất rõ. Tại sao vậy? Tại vì khi mà chúng ta nhập được Tứ thiền rồi thì cái đầu tiên mà chúng ta biết được, làm chủ được là cái chúng ta ra lệnh là hơi thở ngưng nghỉ các hành trong thân chúng ta. Chúng ta thấy nó có cái Thần lực như vậy đó thì chúng ta biết. Bắt đầu bây giờ chúng ta như thế nào? Nếu mà hơi thở ngưng như vậy, tức là chúng ta đã nhập định, mà đã nhập định thì như vậy gọi là Định Như Ý Túc, quý thầy thấy chưa nó trong Tứ Như Ý Túc, cái Định Như Ý Túc, thì tức là bây giờ chúng ta thực hiện cái muốn của chúng ta hiện giờ muốn như thế nào? Muốn mình phải nhập định, muốn cho hơi thở ngưng, muốn cho nhập được tứ thiền thì cái muốn đó nó phải thực hiện qua cái lực, cái thần lực của nó, nó bảo hơi thở ngưng thì nó ngưng, nó bảo các hành về hơi thở phải ngưng thì các hành ở trong thân của chúng ta về hơi thở ngưng. Đó là cái mà gọi là Định Như Ý Túc và bây giờ nó thường hay bị bung ra và bị âm thanh tác động, bị thọ. Chúng ta bảo âm thanh hoàn toàn không được tác động vào tâm của chúng ta vào cái định này nữa, thì từ đó âm thanh không tác động. Thì như vậy gọi là Định Như Ý Túc, an trú như ý của mình trong đó gọi là Định Như Ý Túc. Và khi mà Định Như Ý Túc được như vậy đó thì chúng ta, nó có cái sự siêng năng, rất là siêng năng mà siêng năng như ý túc, chúng ta muốn nhập bao lâu nó cũng được hết, nó không có làm cho chúng ta lười biếng cho nên gọi là Tinh Tấn Như Ý Túc.

Đó quý thầy thấy khi mà đến chỗ này rồi chúng ta phải thực hiện Tứ Như Ý Túc trước đã, rồi sau đó chúng ta mới thực hiện, mà muốn được vậy thì chúng ta phải lần lượt từ cái chỗ nào, bắt đầu bây giờ, đây là cái định như ý túc rồi, thì bắt đầu bây giờ mình muốn kéo dài cái thời gian mà nhập định này thì nó là Tinh Tấn Như Ý Túc. Quý thầy phải hiểu ở đây Thầy giảng đơn sơ, chứ còn sự thật ra mà để dạy cho nó thì cách thức thì chúng ta phải như thế nào để tập luyện khi mà ở trong cái trạng thái của định đó. Mà bây giờ chúng ta chưa biết nó như thế nào thì Thầy nói cũng như là chẳng qua là lý thuyết suông mà chơi, chứ nó cũng không có cái nghĩa lý gì. Nhưng mà vì cái giáo án thì phải nói cho hết, chứ sự thật ra nói để mà nói, chứ cái người mà tu tới đây mà khi mà tâm chúng ta chưa có được vô lậu mà chúng ta thực hiện nó thì chẳng bao giờ mà chúng ta nếm được cái mùi vị của bốn thiền. Nó không phải khó nhưng mà khó là từ khi chúng ta bước vào đầu mà Giới luật không nghiêm chỉnh, đời sống không độc cư, không trầm lặng đó, thì chắc chắn là chúng ta chẳng nếm được cái mùi vị này.

Mười năm trong thất Thầy chẳng hề có một lời nói, không phải là sống độc cư trầm lặng một mình sao? Ai dám làm điều này không? Chắc chắn khó có người làm được điều này lắm! Nhưng mà Thầy đã làm được điều này. Vì vậy mà Thầy thấy rất là rõ ràng và cụ thể. Đâu phải trong một năm, hai năm mà có thể mười năm, hai chục năm nếu mà chưa thành tựu vẫn phải sống độc cư suốt đời chúng ta, chứ còn chưa nói rằng trong mười năm. Mà đây mười năm là thành tựu thì Thầy mới ra thất. Còn cỡ mà nó chưa thành tựu thì chắc chắn còn kéo dài năm năm nữa, hay là mười năm nữa không chừng. Vậy mà nguyện trọn đời là khi nào mà thành đạo thì mới ra khỏi thất, còn không đạt được cái sự làm chủ sanh tử thì Thầy không ra khỏi thất. Chừng nào mà Thầy ra lệnh rằng cái hơi thở ngưng và các hành ngưng thì chừng đó là Thầy mới ra khỏi thất chứ bây giờ chưa ra khỏi thất, chưa có bao giờ, chưa làm chủ được cái này thì không ra khỏi thất.

Nhưng mà khi mà đã làm chủ được có thần lực như vậy rồi thì không lý nào mà Thầy không đi đến những cái điều mà quan trọng mà trong Tứ Như Ý Túc. À, bây giờ thí dụ như Thầy đang ngồi đây Thầy bảo rằng, không lẽ bây giờ Thầy nhập vào cái định đó, Thầy bảo cái đồng hồ này phải hiện một cái nữa cho Thầy, thì ngay đó Thầy ra lệnh thì nó có một cái nữa nó nằm bên đó, hai cái hoàn toàn,  hai cái rõ ràng. Ai lấy xài cũng được hết, trừ ra Thầy bảo hai cái này trở lại một thì nó trở lại một, thì như vậy gọi là Dục Như Ý Túc. Muốn cái gì được cái nấy, phải không? Như bây giờ, Thầy nói tấm gạch tàu này là một miếng vàng thì nó bắt đầu nó là một cục vàng hẳn hòi đàng hoàng, bây giờ đang ra chợ, đem tới đâu thợ kim hoàn nào đục ra cũng làm đồ trang sức y như là vàng như vậy. Nhưng mà Thầy bảo cái cục vàng đó phải hồi lại là cục gạch tàu thì nó trở lại là cục gạch tàu. Cái lệnh của Thầy ra làm sao thì nó y như vậy gọi là Dục như ý túc. Các thầy thấy chưa? Rồi bây giờ khi mà Dục Như Ý Túc được rồi thì phải Tuệ Như Ý Túc, cái trí tuệ của Thầy muốn như thế nào thì nó phải theo như thế ấy. Cho nên từng đó Thầy mới từ cái chỗ mà Tuệ Như Ý Túc Thầy đã phát hiện được rồi thì bắt đầu Thầy mới nói bây giờ đó phải thực hiện Túc Mạng Minh, minh là cái trí tuệ của mình mà. Cho nên bảo nó một cái là ngay đó là chúng ta biết được nhiều đời, nhiều kiếp liền tức khắc. Đó quý thầy thấy rất rõ không? Cho nên ở đây chúng ta phải thực hiện Tứ Như Ý Túc. Như vậy là chúng ta đã biết rằng Tuệ Như Ý Túc.

Bởi vì có bốn Như Ý Túc như thế nào thì Dục Như Ý Túc là đầu tiên rồi Định Như Ý Túc, rồi Tinh Tấn Như Ý Túc rồi mới Tuệ Như Ý Túc. Thì bốn cái này đều phải được giảng rất là kỹ, khi mà chúng ta nhập tứ thiền rồi thì cái mà đầu tiên của chúng ta là như thế nào? Chẳng hạn bây giờ mình bảo hơi thở mình ngưng, nhưng nó ngưng có một chút à,nó không có chịu ngưng lâu đâu. Thì như vậy nó chỉ có Thần lực có một chút xíu à. Thời gian này chúng ta phải tu như thế nào để cho nó ngưng, một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, rồi đến thời gian dài ra, đâu có phải là chuyện dễ, lực của chúng ta mới tu tập, cái Thần lực chúng ta mới tu tập nó còn nhỏ, nó đâu bằng cái người tu 10 năm. Còn nếu mà chúng ta tu 20 năm, cái Thần lực của chúng ta còn dữ tợn hơn nữa, bởi vì hằng ngày chúng ta trui, rèn luyện mình trên cái pháp hướng thì Thần lực nó càng ngày càng vĩ đại hơn. Chớ không phải như mấy ông thầy mà ngồi tu mà tập trung cái tâm, tư tưởng trên cái đầu của chúng ta để làm cho nó quay cuồng ở trên đó, nó rối loạn thần kinh, nó tiêu luôn, chứ không phải dễ. Ở đây chúng ta đâu có tu tập cái gì đâu, chúng ta đâu có đụng tới cái thân của chúng ta mà nhăn mặt hoặc là cắn chặt răng hoặc là gồng mình lên để mà gom tâm mình bằng cách này bằng cách kia. Cho nên nó đâu có rối loạn cơ thể chúng ta, chúng ta chỉ nhẹ nhàng khi mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu chúng ta chỉ nhẹ nhàng.

Ví dụ như bây giờ, cái tâm phóng dật là một cái pháp ác, làm cho thân tâm chúng ta luôn luôn tái sanh luân hồi, sanh tử, đau khổ. Vậy thì cái tâm phóng dật này phải lìa đi không được ở đây nữa. Bình thường, mình nhắc như vậy thôi, chứ mình đâu có bảo nó làm sao được, mình đâu có lôi nó được, như mình sống ở trong cái hạnh độc cư đó thì tức là mình ly nó rồi, tức là mình lìa nó rồi. Nhờ cái thân mình chịu khép mình trong cái khuôn khổ độc cư, trầm lặng đó thì nó đã ly đó, cho nên mình nhờ đó mà mình không phóng dật. Nhưng mà cái tâm của chúng ta nó vẫn còn phóng dật chứ chưa hết. Cho nên chúng ta hằng ngày phải nhắc: à cái tâm phóng dật phải dứt đi, không có được, vì phóng dật là đau khổ, nối tiếp cho ngọn đuốc sinh tử luân hồi, làm cho đời người tiếp tiếp nối nhau mà khổ ở trên 6 nẻo luân hồi. Cho nên mình thường nhắc nó, cứ nhắc đi nhắc lại đuổi nó đi hoài, đuổi riết nó, mình sống đúng hạnh mình đuổi riết thì nó phải hết trong tâm. Còn mình sống mình tiếp giao với dục lạc, mình phóng tâm mình chạy theo nào là rượu chè, hút thuốc, nào là xem video, tivi rồi xem ca hát, rồi nhảy nhót, nhảy đầm, đăng-xê gì đủ loại, thì thử hỏi cái cách thức đó thì làm sao mà chúng ta bảo cái tâm phóng dật đừng có phóng dật không? Hàng ngày chúng ta muốn ăn cái này, muốn ăn cái kia, muốn ngủ hồi nào ngủ, muốn thức hồi nào thức, thì bảo đừng phóng dật thì nó làm sao nó không phóng dật. Mình đã sống phóng dật mà mình bảo nó đừng phóng dật là làm sao? Còn mình sống mình khép mình ở trong cái khuôn khổ, không phóng dật và đồng thời mình nhắc cái tâm của mình riết nó sẽ hết phóng dật. Quý thầy có nghĩ điều đó không? Nếu quý thầy nghĩ điều đó là cái sống của quý thầy phải đi trước, đó là cái cơ bản để chúng ta thực hiện thiền định.

Cho nên cái giáo án thì lần lượt Thầy sẽ dạy hết, mà dạy hết là một cái điều cũng rất nguy hiểm cho cái người sau. Tại sao vậy? Tại vì nó có sẵn hết, người ta chỉ lợi dụng nó để mà bán pháp, bán Phật mà sống, chứ không phải để thực hiện sự giải thoát.Họ hiểu biết rồi, họ hiểu cách hành trì rồi, họ ra họ nói dóc, chứ sự thật ra họ chạy theo dục lạc, họ chạy theo danh lợi, họ lấy cái hiểu biết đó họ nói như họ là Thánh vậy đó.

Như từ lâu tới giờ quý thầy thấy trong kinh sách không có nói những cái hành trì, những cái pháp hành, Phật có nói những cái danh từ rất là cô đọng lại, chúng ta khó được hiểu, như Phật nói: “Như lý tác ý là pháp hướng tâm”. Nhưng bây giờ Thầy triển khai ra những cái pháp này, nó trở thành những trạch pháp, như Phật dạy là Trạch pháp giác chi này, rồi Niệm giác chi này, Khinh an giác chi này. Thầy triển khai ra những cái này nó trở thành những cái pháp tu, trở thành cái pháp hành của chúng ta rất rõ. Và từ đó nếu cái người mà quyết tâm tu, thì chắc chắn là phải được, còn cái người mà quyết mượn nó để buôn Phật bán pháp thì chắc chắn cái số này rất lớn chứ không phải ít.Đó, người ta cứ ngỡ rằng mình hiểu như vậy là mình giải thoát, nhưng sự thật ra họ chưa làm chủ, họ chưa làm cái gì được hết nhưng mà họ mượn cái chỗ mà Thầy nói đây, họ sẽ nói ra tùm lum đủ thứ hết.

Nhưng cuối cùng thì cuộc đời họ cũng chỉ trôi lăn ở trong lục đạo. Chỉ gạt được cái người mà người ta chưa có nghe được giáo án này. Chớ còn những người mà được nghe rồi, được hiểu rồi thì ông cũng nói ở trong cái này thôi, chứ ông đâu có nói cái chuyện gì khác của ông đâu. Nhưng trên bước đường tu tập chúng ta có nhiều kinh nghiệm của chúng ta lắm, chứ nó không phải như ở chỗ Thầy nói. Thầy nói đây là một cái phần rút tỉa từ những ưu khuyết điểm của quý thầy, rồi đến những cái ưu trong cái sự tu tập của Thầy so sánh để rồi mới lấy ra cái pháp hành cụ thể, để giúp cho quý thầy sau này. Rồi quý thầy sẽ tu, quý thầy có những cái kinh nghiệm của quý thầy nữa. Nhưng kinh nghiệm đó nó không xa lìa cái cốt lõi của Phật pháp, nó không trật. Cho nên ở đây thì Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy, con đường mà chúng ta còn đang học và còn đang hiểu, con đường cho đúng đạo Phật cái đã. Mà muốn học hiểu đúng Đạo Phật thì chúng ta phải đi từng bước, chứ không thể nào mà đùng cái chúng ta hiểu.

Quý thầy thì muốn hiểu bây giờ phải nhập từ Sơ thiền phải như thế nào, trạng thái? Lần lượt quý thầy sẽ được nghe Thầy diễn tả tất cả những cái này. Nhưng tu hành được hay không là do quyền của quý thầy chứ không phải là của Thầy nữa, Thầy chỉ làm hết bổn phận của mình dựng lại những cái giáo lý của đức Phật và qua những kinh nghiệm của Thầy, qua những cái lời của Phật dạy quá là cô đọng làm cho người ta không có hiểu cái pháp hành và cũng chính vì vậy mà đạo Phật tới ngày nay người ta mới không triển khai nổi. Chỉ có những người mà hành thì người ta mới triển khai nổi. Còn những người mà không hành, mà lý thuyết không thôi thì không triển khai được. Mà Thầy hôm nay đã phá vỡ cái này.

Thật là đối với Phật Thầy cũng có một cái tội, lẽ ra ông Phật ngày xưa thì ông phải khai triển cái này rất rõ, nhưng ông chỉ ngầm để mà ông đến với các đệ tử của mình, để chỉ cái pháp hành đó mà thôi, chớ không có nói ở trong kinh sách. Và các ngài thuật trở lại như ông A-Nan thuật lại, cái dạy riêng cho từng người để mà nhập được cái định thì không có nói cho mọi người nghe những pháp hành đó. Tại sao vậy? Như đức Phật thể hiện thần thông đến với ông Mục Kiền Liên thì chỉ nói à ông nhập cái Sơ thiền nó không được do cái tâm ông như thế này thế khác hoặc là ông bị hôn trầm, thùy miên, vô ký thì ông Phật đến để giúp cho ông ta phá đi. Có 5 cái điều kiện phá hôn trầm, thùy miên. Rồi đến cái khi mà ông nhập Sơ thiền không được, hoặc là nhập Nhị thiền không được, luôn luôn cái tâm ông bị dao động ở trong đó thì đức Phật đến nhắc ông phải im lặng như Thánh, trụ như Thánh, nói những danh từ như vậy thôi. Nhưng mà ngoài những cái danh từ đó, chắc chắn là đức Phật có kê tai nói với ông Mục Kiền Liên “Ông phải như thế này nè, ông nằm ở chỗ đó”. Cho nên mình phải xét thấy khi mà nó có những cái định. Tại sao từ cái khoảng từ Sơ thiền cho tới Nhị thiền, nó có những cái định khác nữa, chứ đâu thể nào mà nói Sơ thiền, Nhị thiền không.Nó có cái định, cái định mà Sơ thiền thì nó có Tầm, có Tứ, rồi tiếp đó thì cái định thì nó vô Tầm mà nó hữu Tứ. Chúng ta phải tu tập như thế nào? Vậy thì cái mà có Tứ này là cái Tứ gì đây? Ông Phật không nói, cho nên người ta không biết mà cái vô Tầm mà có Tứ này là cái gì? Còn Sơ thiền thì mới ly dục, ly ác pháp thôi. Cho nên nó còn Tầm còn Tứ, nhưng mà ở trong Tầm Tứ thiện. Bây giờ muốn đi đến Nhị thiền thì diệt Tầm Tứ, mà diệt Tầm Tứ thì không thể ngay một lúc mà chúng ta diệt được. Cho nên vì vậy chúng ta phải rõ được cái chỗ mà muốn vô Tầm mà còn Tứ, nó là một cái định để mà chuyển qua một cái định diệt Tầm Tứ.

Đó thì quý thầy thấy rất rõ, mà muốn chuyển qua như vậy là gì, nếu không phải pháp hướng trong đó thì ông Phật không kê tai nói nhỏ với ông Mục Kiền Liên thì chắc chắn bây giờ chúng ta biết được không? Nói định vô Tầm mà hữu Tứ thì chắc chắn ai nói cũng được. Nhưng mà chúng ta biết làm sao đây là hữu Tứ đây? Chưa ai biết hết. Hữu Tứ là như thế nào? Nếu không phải là Như lý tác ý ra lúc bấy giờ thì làm sao mà diệt Tầm được. Bởi vì Tầm Tứ, trong cái Nhị thiền nó có Tầm Tứ rồi, phải không? Nhưng mà nó sống ở trong ly dục, ly ác pháp thì nó phải có Tầm Tứ thiện rồi. Nhưng bây giờ muốn diệt Tầm, không phải ngồi ức chế tâm đâu. Các thầy phải nhớ, các thầy ngồi mà ức chế tâm là các thầy dùng hơi thở, các thầy tập trung, các thầy gom, các thầy gồng mặt, gồng mình lên cho nó căng thần kinh lên, thì cái điều đó là điều sai rồi. Cho nên Phật nói ở đây vô Tầm mà hữu Tứ, cho nên có bảo mình gồng mình không? Quý thầy phải hiểu rõ cái điều này, vô Tầm mà hữu Tứ thì cái Tứ nó còn tức là Tác ý nó còn chứ gì? Mà Tác ý còn tức là pháp hướng chứ gì? Cho nên chúng ta thí dụ như bây giờ chúng ta muốn cái tâm của mình diệt Tầm Tứ thì chúng ta phải giữ cái đối tượng của nó là cái niệm. Nhưng mà bây giờ mình chưa có biết cái niệm nào, tức là trong Tứ niệm xứ mình chưa có học thì ngay Tứ thiền mình dạy mình có biết cái niệm nào, nó ở chỗ nào đâu? Bây giờ nó ở thọ hoặc là ở thân, ở tâm của mình hay ở pháp. Bởi vì nó có 4 cái chỗ để mà chúng ta thực hiện cái Niệm, vậy thì nó ở chỗ nào đây mà để thực hiện cái niệm đó đây? Cho nên vì vậy chúng ta phải học Tứ niệm xứ để chúng ta biết cái niệm đối tượng của nó để mà chúng ta tác ý. Vậy thì khi mà chúng ta trạch pháp ra nó phải có đúng ở trên cái đối tượng cái niệm của nó để mà chúng ta dùng cái đó, đối tượng đó để mà chúng ta tác ý để mà chúng ta diệt Tầm. Cho nên nói vô Tầm mà hữu Tứ, phải không? Cho nên bây giờ chúng ta tu 5 phút, 10 phút hay 30 phút, thì cái lúc bây giờ nó không có Tầm mà nó còn Tứ. Rồi bắt đầu bây giờ muốn diệt Tầm Tứ thì bây giờ Tầm nó đã hết rồi, thì cái Tứ phải diệt như thế nào? Không tác ý nữa, mà không tác ý nữa thì cái gì mà chúng ta phải xả nó đi để cho nó không tác ý? Thì tức là cái niệm. Vậy thì cái niệm nào mà xả được? Bây giờ chúng ta niệm Phật, chúng ta xả được không? Xả gì mà nó ngồi nó cứ niệm ở trong đầu nó hoài, thì làm sao xả được? Đó là những cái mà khi chúng ta học Tứ niệm xứ thì chúng ta mới thấy rõ cái điều này. Nhưng mà Thầy thấy cái thời gian mà chúng ta dạy đến đây thì chúng ta thấy nó còn nhiều cái sự học.

Bây giờ chúng ta, Thầy nói Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy rõ này: Nếu mà chúng ta không học 5 cái Căn, tức là ngũ Căn, ngũ Căn tức là 5 cái gốc, 5 cái gốc để cho nó thực hiện được con đường Thiền định này, thì chúng ta không biết cái gốc ở đâu mà chúng ta tu, thì làm sao mà có cái sự này được? Thì 5 cái gốc đó như thế nào? Tín căn này, Tấn căn này, Niệm căn này, Định căn này, Tuệ căn này, cái gốc ở đó nó sinh ra Tuệ này, cái gốc nó ở đó nó sinh ra cái Định này, cái gốc nó ở đó nó sinh ra cái Niệm này, cái gốc nó ở đó nó sinh ra cái sự siêng năng này, tức là Tấn căn đó, cái gốc nó ở đó nó sinh ra cái lòng tin của chúng ta này. Chúng ta phải biết 5 cái Căn này. Mà 5 cái Căn này thì chúng ta phải tu tập mà làm sao cho có 5 cái Lực, gọi là ngũ Lực.

Cho nên có nhiều người người ta Thầy nói Niệm lực, họ nói chỉ có Thầy đặt thôi chứ làm gì Phật pháp có cái Lực. Đó là những người chẳng hiểu Phật pháp. Phật có 5 Lực chứ đâu phải 1 Lực. Ví dụ Thầy nhắc cho quý thầy thấy nè, nào là: Tín lực này, rồi Tấn lực, rồi Niệm lực này, rồi Định lực này, rồi Huệ lực này. Nó phải đủ 5 cái Lực của nó, nó mới gọi là Phật pháp. Mà 5 cái Lực này nó hợp lại, nó gọi là Thần lực.

Đó, thì như vậy chúng ta mới thấy con đường tu. Mà bây giờ bắt đầu Thầy dạy Tứ bất hoại tịnh này, xong rồi Thầy sẽ dạy cho quý thầy thấy được ngũ Căn như thế nào, rồi ngũ Lực như thế nào? Thì cái thời gian mà dạy ngũ Căn, ngũ Lực quý thầy thấy đâu có phải là thời gian ngắn được, chắc gì mà trong cái thời gian 5 đến 10 ngày nay mà nó hết được, nó còn nhiều quá. Và đồng thời Tứ niệm xứ thì quý thầy thấy, bốn cái chỗ mà để chúng ta đặt cái Niệm, lúc nào mà chúng ta tu cái Định gì mà chúng ta đặt cái Niệm gì ở trên cái xứ sở nào cho nó đúng cái xứ đó chứ? Nếu mà trật cái xứ đó thì chúng ta tu bậy rồi.Bây giờ cái đầu đang nhức mà cứ nói cái thân bất tịnh, cái thân vô thường, cái thân như thế này thế khác, thì ăn thua nhằm nhò gì khi cái đầu, cái thân của chúng ta đang bệnh.

Cũng như có nhiều vị ở đây đang bệnh đau, đang nhức nhối, đang khổ sở mà cứ ngồi quán cái thân như thế này, ngồi hít thở, thử hỏi chịu nổi không? Đó là tu sai, tu ở trong những cái nào mà nó đang thể hiện. Bây giờ cái tâm chúng ta tỉnh táo này chúng ta sẽ tu cái gì này? Bây giờ chúng ta cái tâm nó mờ mịt, nó thiếu tỉnh thức này thì chúng ta tu cái gì nè? Chúng ta tu từng cái tâm Niệm của chúng ta mà. Bởi vậy Phật nói tâm có tham biết tham, tâm có tỉnh biết tỉnh, tâm có sân biết sân, tâm không sân biết không sân, tâm không tham biết không tham. Mỗi tâm niệm của chúng ta đều biết và trong khi đó chúng ta sẽ tu cái gì? Bây giờ tâm có tham thì chúng ta biết, chúng ta tu cái gì, mà tâm không tham thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì? Tâm có tỉnh thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì? Mà tâm không tỉnh thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì? Vì vậy nó mới có kết quả. Còn bây giờ tâm mình không tỉnh mà mình cứ ngồi mình hít thở thì làm sao mình tỉnh? Chỉ có ngủ luôn chứ ở đó mà tỉnh.

Thầy muốn nói như vậy để chúng ta học rất là kỹ mọi cái pháp hành của Phật để biết từng tâm niệm của chúng ta, chúng ta mới thực hiện được, chứ không khéo chúng ta làm sao thực hiện được? Quá khó khăn.

Cho nên ở đây Thầy xin nhắc lại trong cái điều kiện mà thầy Thiện Thiền muốn hỏi là để thấy được cái sự việc trải qua cái thời gian của Thầy muốn chấn hưng lại Phật pháp, muốn nương vào Hoà Thượng, giúp Hoà Thượng để xây dựng lại Phật pháp, vì Thầy là một người tu, không còn có chấp danh chấp lợi, không còn có muốn mình là bậc Thầy ai hết, chỉ muốn núp sau lưng Hoà Thượng để mà giúp Hoà Thượng xây dựng lại cái ngôi nhà Phật giáo như ở trong băng Thầy đã nói. Ở trong băng của Thầy đã được nói ra rất là rõ ràng. Nếu một ngày gần đây Thầy sẽ đọc lại những lời đó mà trước đây 3 năm Thầy đã có giảng cái lời nói đó. Tức là trong hai cuộn băng đó, cái cuộn thứ nhất là Phật Môn Bảo Huấn. Thầy muốn khuyên quý thầy là trở về với cái sự chơn chánh của đạo Phật, đừng có lợi dụng cái chiếc áo Tôn giáo mà làm lệch đi con đường của đạo Phật. Đó là cái cuộn băng thứ nhất. Cái cuộn băng thứ hai là Thầy muốn so sánh giữa cái Thiền Đông Độ và cái thiền của bốn Thiền của Phật để cho Hoà Thượng thấy cái đúng, cái sai, để cho Hoà Thượng hiểu được Thầy, rồi thầy trò hiểu nhau, Thầy sẽ núp sau lưng Hoà Thượng mà cố gắng đào tạo tìm lấy một số người quyết tâm tu hành giải thoát. Sau khi mà đào tạo được cái số người này rồi thì đương nhiên là đệ tử Hoà Thượng chứ không phải là đệ tử của Thầy, họ chỉ là huynh đệ của Thầy mà thôi. Để cuối cùng thì người ta nhìn thấy Phật giáo của Việt Nam do Hoà Thượng đã chấn hưng lại, có người tu chứng làm chủ sanh tử như vậy như vậy, kết quả như vậy. Riêng Thầy thì âm thầm rồi Thầy thị tịch khi mà đã có những người mà Thầy đã hướng dẫn được thì Thầy thị tịch. Thầy ra đi, không để lại một vết tích nào, công lao nào của Thầy đối với con người, đối với Phật giáo ở trong thế gian này. Nhưng cuối cùng thì không được, cho nên buộc lòng Thầy phải nói lên cái Giáo án này để cho mọi người sau này hiểu biết được con đường của đạo Phật, nó không phải như người ta đang tu tập hiện bây giờ nhu người ta đang hiểu Phật giáo bây giờ.

Trước tiên, Thầy xin thuật lại khi mà tu xong làm chủ được cái sự sanh tử, sự sống chết rồi thì Thầy trở về thăm Hoà Thượng ở trên Chơn Không. Thì lúc bấy giờ trong cái bài mà thỉnh nguyện thì Thầy có nhắc lại một cái phần đó. Để cho quý thầy hiểu rõ hơn thì Thầy sẽ đọc lại cái bài thỉnh nguyện này để cho quý thầy thấy rõ. Cái bài này cách đây 7 năm, năm đó là năm 1990, ngày 26 tháng 03 năm 1990. Còn cái ngày mà âm lịch, thì đó là ngày 3 tháng 02 âm lịch, năm Canh Ngọ, Thầy về Thường Chiếu, Thầy thỉnh nguyện cái bài này, trong khi cái Tu viện Chơn Lạc, Hoà Thượng Thanh Từ đã giao cho Thầy cái khu đất đó để xây dựng cái Tu Viện Chơn Lạc đó, thì lúc bấy giờ nó có những cái duyên rất là khó khăn mà chính bây giờ Trung Tâm An dưỡng ra đời cũng muốn xây dựng ở trên khu đất đó, để mà thực hiện cái hoài bão đem cái đạo đức của Phật giáo đến với mọi con người, làm cho con người giải thoát từ bàn tay của họ, từ khối óc của họ. Họ làm điều thiện, họ đem lại sự hạnh phúc đó cho họ, họ làm điều ác thì họ phải mang lấy hậu quả khổ đau của chính họ. Vì biết rõ đường đi nhân quả cho nên Thầy có cái hoài bão đó.

À, đây Thầy sẽ đọc lại cái bài thỉnh nguyện mà cách đây 7 năm, chứ không phải mới đây đâu. Đây quý Thầy nghe cái bài thỉnh nguyện:

“Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Con tỳ-kheo Thích Thông Lạc, hôm nay có duyên sự xin đầu thành đảnh lễ tác bạch sám hối.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Từ ngày con về Chơn Không học thiền với Thầy, con đã ngộ những gì và tu tập như thế nào?

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Trong ba tháng hạ năm ấy, năm 1970. Con đã nghe Thầy giảng kinh Kim Cang đến câu: “Bồ tát độ chúng sanh trong bốn loài mà không thấy mình độ, độ hết chúng sanh thì thành Phật”. Thầy giảng câu này cho chúng con nghe, đó là vọng tưởng, độ hết chúng sanh tức là hết vọng tưởng, hết vọng tưởng tức là thành Phật.

Lại nữa, cũng Kinh đó Thầy giảng câu: “Hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc và quá khứ tâm bất khả đắc”. Con ngộ câu này: “Tâm quá khứ và vị lai là vọng tưởng, tâm hiện tại là tác ý”. Ngộ hai câu kinh này con đặt trọn niềm tin ở Thầy là một Thiền sư đắc đạo mới hiểu được như vậy.

Quét hết vọng tưởng, dùng tác ý để thành Phật, bấy giờ tâm con đều buông xuống hết. Con không còn tha thiết cái ăn, cái ngủ, cái mặc. Dẹp sạch, cả ngủ nghỉ con cũng không còn ham thích nữa. Con không còn ham học hay tìm hiểu về Kinh sách nữa. Con từ khước dịch thuật khi Thầy giao cho con một tập kinh trong bộ Đại Tạng, con từ giã tất cả những gì của thế gian, quyết lòng thực hiện cho bằng được.

Trong chúng chỉ có mười huynh đệ cùng nhau tu học, con thường tìm cách xa bạn bè, tránh nói chuyện tào lao, nghị luận, tìm nơi vắng vẻ, năng nổ tu hành.

Con tự nghĩ người xưa chỉ ngộ một câu rồi dẹp tất cả, tìm lấy con đường giải thoát cho mình như ngài Đại Mai ngộ câu “Tức tâm, tức Phật”, rời Mã Tổ đến núi Đại Mai nỗ lực tu hành. Lục Tổ Huệ Năng ngộ câu: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, từ giã mẹ già đến chùa Quỳnh Mai nỗ lực thực hiện, quét sạch vọng tưởng trong lao tác, chẳng học tập gì hết. Ngài Dược Sơn ngộ câu “Nhướng mày, chớp mắt, không nhướng mày, chớp mắt”, ba năm không làm một điều gì hết, da mỏng da dày đều hết sạch”. Bởi vậy ngộ là để tu chứ không phải để tìm văn trích cú, hiểu biết nhiều, kiến giải sâu. Ngộ là để thực hiện sự làm chủ thân tâm mình ra khỏi nhà sanh tử luân hồi.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Suốt mười năm trong thất con quét sạch vọng tưởng, dùng tác ý. Đầu tiên con được Thầy dạy pháp môn Tri Vọng; biết vọng liền buông. Nhờ pháp môn này con đã dẹp gần hết vọng tưởng, nhưng thật chưa sạch. Năm cuối cùng con dùng pháp hơi thở nhiếp sạch, nhiếp mạnh, hoàn toàn ức chế được tâm mình. Con thành tựu dùng Tác ý kéo dài thời gian này bảy ngày đêm liên tục không biết đói khát.

Tiếp tục suốt hai tháng con không còn nghe, thấy, biết gì bên ngoài và không còn cảm giác đau nhức, nóng lạnh khó chịu. Duy nhất con không mất tâm thức của con, rất tỉnh táo.

Rồi một hôm ngón chân con đụng vào bàn Phật, hơi thở con bắt đầu thở trở lại. Biến cố xảy ra trong con, toàn thân con có sự thay đổi. Con có cảm giác như toàn thân con nhẹ nhàng thanh thản. Các công án, các tắc ở trong Bích Nham Lục con đều hiểu rõ. Con thấy các Tổ tu như thế nào chứng, tu như thế nào không chứng? Con biết sạch! Cũng như hiện giờ Thầy và con là một hay là hai con cũng đều biết. Con đã có trí tuệ và có thiền định. Thầy nói con, con đều đáp đúng như ý của Thầy, không bao giờ con đáp sai ý Thầy. Thầy lấy kinh Lăng Già ấn chứng cho con. Sau này con có về trình thầy hai lần nữa. Những trạng thái trong định, Thầy đều cho rằng tất cả những điều mà con nhập định là đúng.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Khi về trình Thầy lần đầu tiên, biết duyên mình chưa đủ với chúng sanh, con khéo léo xin Thầy ra đi. Trước là để niềm tin cho chúng thấy sự Nhập định và làm chủ sự sống chết của con, để họ theo Thầy tu tập và con sẽ ghi lại những kinh nghiệm để lại cho Thầy. Nhưng Thầy yêu cầu con ở lại giúp Thầy chấn hưng thiền Lý, Trần. Do sự yêu cầu này con ở lại đem hết sức mình giúp Thầy giữ gìn con đường Thiền Tông phát triển lâu dài.

Mười năm làm Phật sự đã qua, con gặp nhiều cay đắng cam go và thử thách vô vàn. Con chẳng sờn lòng, miễn Thầy trò hiểu nhau như lời Thầy đã dạy con: “Chẳng sợ ngại gì, chỉ Thầy trò hiểu nhau là hơn hết”, con tin ở lời này.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Con chẳng tự xưng mình chứng quả A-La-Hán, nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Khi gặp thầy đắc pháp ở Thường Chiếu, Thầy có giảng nói về trạng thái của Sơ thiền cho đến Tứ thiền, con đáp lại lời Thầy: “giống thì có giống, nhưng có chỗ không giống”. Cũng như là Tứ Không, Diệt Tận Định, chẳng có ai trực tiếp dạy con nhập các thiền, các định này. Nên làm sao dám xác định nhập các thiền các định. Chỉ dò theo trạng thái lúc nhập, lúc nhiếp tâm nhập định, phỏng chừng theo kiến giải chữ nghĩa trong kinh điển mà nói ra. Đó là kiến thức chứ không phải thiền định.

Và con cũng chẳng bao giờ tự khoe mình có thần thông phép lạ xuất hồn, nói Túc mạng minh. Thế mà người ta đồn đại, nhất là từ ngày thầy Thông Huyễn (Chân Quang) trú tại Chơn Như, sự đồn đại ấy càng ngày càng nhiều.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Sự hiểu biết của Trí tuệ học hỏi làm sao hiểu được Kinh điển, nội tâm tu hành của kẻ khác. Thầy Thông Huyễn là một người thông minh, có trí nhớ đặc biệt và có học thức. Nhưng kiến giải qua sự hiểu biết của trí thế gian thì bảo sao không xây dựng trên ảo tưởng huyền thoại, và đó cũng là sở trường của thầy Thông Huyễn.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Hôm nay nhân duyên làm Phật sự của con không đủ, nên xin Thầy và đại chúng chứng minh, kể từ ngày nay con sẽ không chỉ dạy kinh nghiệm này cho ai nữa. Nó là một thứ thiền ngoại đạo như lời Thầy đã dạy. Đất nước này, thời điểm này, Thầy là người có công chấn hưng lại Thiền Tông Việt Nam. Con là đệ tử của Thầy, trợ giúp Thầy, vô tình đã làm Thầy buồn. Vậy con xin sám hối Thầy và đại chúng. Từ nay về sau con không làm phiền lòng Thầy nữa. Mỗi tháng con sẽ về xin thỉnh nguyện sám hối một lần để có những lỗi lầm nhờ Thầy và đại chúng chỉ dạy cho, để được con làm tròn bổn phận là người đệ tử biết ơn sâu dày.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Ơn nghĩa Thầy khai ngộ con thấu suốt được lý giải thoát sanh tử, làm sao con quên được. Lời khích lệ năm xưa còn văng vẳng bên tai “Phật pháp còn mãi thế gian là còn người tu chứng”. Những lời này ghi khắc mãi trong tâm con. Ngày nay, con đã làm chủ được thân tâm, bản ngã đã tiêu mòn, danh lợi đã sạch, sanh tử đã tự tại là nhờ ơn đức của Thầy. Ơn đức này sánh dường trời biển, hơn cả công sinh thành dưỡng dục của mẹ cha. Biết lấy chi so sánh được. Một lần nữa con cúi xin Thầy mở lượng từ bi lân mẫn cho con sám hối. Từ đây về sau con sẽ làm Thầy vui lòng để đền đáp ơn sâu dày trong muôn một.

Sau cùng con xin phép Thầy, khi Thầy ra đi con sẽ cùng Thầy, cùng với Thầy ra đi nếu chẳng còn ai theo con tu học nữa. Khi con ra đi, con không lưu lại dấu vết gì, nếu lưu lại con tự nghĩ là một việc làm bất nghĩa.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Bài thỉnh nguyện sám hối này ngày 30 tháng 2 năm Canh Ngọ, tức ngày 26 tháng 3 năm 1990 tại Thiền viện Thường Chiếu.

Đó là cái bài mà Thầy đã thỉnh nguyện để xin sám hối qua cái vấn đề mà Thiền viện Chơn Lạc đã có cái sự làm cho rối loạn ở cả cái Tu Viện Thường Chiếu. Hầu hết là tu sĩ lúc bấy giờ xin đăng ký ra ngoài đó, làm náo loạn. Cho nên đó là cái  sự rất là đau lòng, mà quý Thầy không thấy rằng cái sự đang chuyển tiếp để mà Thầy âm thầm giúp cho Hoà Thượng. Nhưng quý thầy nghe đến cái sự làm chủ sanh tử thì quá ham. Cho nên từ đó quý thầy không thấy rằng do chính quý thầy đã tạo những cái điều kiện này, vì vậy mà Tu Viện Chơn Lạc bị đổ vỡ. Khi đó nó có cái sự làm cho Thường Chiếu nó vắng vẻ đi, làm cho Thường Chiếu không còn người nữa đi, thì lúc bấy giờ Hoà Thượng làm sao đây, nghĩ gì đây? Quý thầy không thấy điều đó, người nào cũng đăng ký ra Chơn Lạc hết. Nhất là những thầy mà cao thủ, những thầy mà hiện bây giờ gọi là cấp lãnh đạo. Trừ ra những thầy mà đang giữ gìn rường mối của Thiền Viện Thường Chiếu thì không nói, còn những thầy trẻ trẻ tuổi nhỏ sau này mà bây gờ là nòng cốt của các Thiền viện đó thì các Thầy đều xin đi hết, đi theo Thầy ra ngoài đó.

Cho nên do đó mà cái duyên nó không đủ, buộc lòng Thầy phải về xin sám hối cái bài thỉnh nguyện này thì quý thầy thấy đã cách đây 7 năm. Do đó nó sẽ không đem đến một cái kết quả, thay vì cái lần đầu tiên khi Thầy về, Thầy trình bày như trong cái lời thỉnh nguyện này thì nếu mà Hoà Thượng đã nhận được cái điều kiện đầu tiên thì Thầy xin nhập diệt. Và trước khi nhập diệt Thầy cũng xin Hoà Thượng Thầy sẽ nhập định 7 ngày đêm ở tại Chơn Không để cho tất cả tăng ni đệ tử mà đang theo Hoà Thượng tu hành chứng kiến được cái sự nhập định. Và vì vậy, họ thấy được cái sự tự tại và cái mà Như ý túc, Định như ý túc, nghĩa là muốn như thế nào là đạt được như thế nấy. Đó gọi là thực hiện cái định. Và sau khi mà nhập định 7 ngày đêm, Thầy xuất Định ra, và trong khi có đủ mặt chúng ở đó, Thầy sẽ từ giã thầy và đại chúng và nhập diệt, bỏ thân tại đó. Và sau đó Thầy xin Hoà Thượng thiêu xác thân của Thầy rồi đem đổ xuống biển, đừng xây tháp xây gì hết. Coi như hoàn toàn không còn cái vật gì mà để lại. Thầy chỉ còn lưu lại cái tài liệu cho Hoà Thượng, mà theo cái tài liệu đó mà hướng dẫn người ta từ cái Giới luật của Phật, phải sống như thế nào để giữ giới hạnh và tu tập những cái thiền định như thế nào để mà làm chủ được, nhập được định mà làm chủ được sống chết như vậy, một cách rất tự tại như vậy?

Đó là cái điều kiện mà Thầy đã muốn giúp Hoà Thượng. Ngay từ khi mà mình thành tựu 10 năm ở trong thất, thì Thầy thấy không còn- đối với Thầy danh lợi không còn nữa, mà Thầy chỉ còn có tình nghĩa Thầy trò để mà giúp nhau, để mà xây dựng lại Phật pháp đem lại Thiền Tông mà thôi. Mà lấy bản thân của Thầy, lấy kinh nghiệm của Thầy để làm cái đó cho mọi người sáng suốt được Phật pháp, làm cho người ta thấy được Phật pháp.

Nhưng rồi Hoà Thượng lại không có cái ý đó, mà lại muốn Thầy ở lại để cho có một người đệ tử một bên thầy mà giúp đỡ. Từ đó khi mà Thầy về thì Hoà Thượng có nhắc “Trong cái chuyến về này thì Thông Lạc hãy ghé thăm các Chiếu”. Nhưng mà Thầy không có ghé thăm, Thầy đi về luôn. Do đó thì khi Hoà Thượng hỏi lại, Thầy có về thăm không? Thì trong các Chiếu nói không có, Thầy Thông Lạc không có về. Cho nên Hoà Thượng nói quý thầy cử mỗi thầy ở mỗi cái Chiếu đại diện về thỉnh Thầy thì Thầy mới về, chứ còn không thể nào mà Thầy về đâu. Do đó thì có một cái chuyến xe, mà mỗi Chiếu đều có một vị đại diện về đây để Thỉnh thầy. Sau khi được thỉnh thì Thầy mới về thăm Thường Chiếu và các Chiếu.

Sau chuyến thăm đó thì có nhiều cái tư tưởng chống đối, rồi cũng có nhiều tư tưởng kê là ganh tị đó. Thầy nói rõ ra là hầu hết là cái người mà phàm phu thì họ chưa thấy. Như vậy Thầy đã hiểu biết cái tâm trạng đó, cho nên đến đó hỏi Thầy, Thầy chỉ nói qua loa, không bao giờ mà nói lộ ra một cái gì mà gọi là cái kinh nghiệm tu hành của mình. Tại sao vậy? Tại vì người ta không có tin mình, mà người ta có lòng ganh tị. Tại sao Thầy được Hoà Thượng cho rằng Thầy tu chứng như thế này, thế khác. Do đó, từ đó khi chuyến thăm về rồi thì Thầy đã thấy nảy nở ở trong tâm huynh đệ của mình có những cái sự chống đối chứ chưa phải họ quyết tìm con đường giải thoát. Cho nên khi mà về thăm, khi Thầy tu xong Thầy về thăm, Thầy cũng đã hiểu được tâm của chúng sanh rồi, cho nên Thầy chỉ muốn làm cái niềm tin cho họ đối với Hoà Thượng hơn là ở Thầy. Còn Thầy mà ở lại mà giúp Hoà Thượng thì chẳng qua là một sự tranh chấp mà thôi. Họ đâu có muốn Thầy về mà làm Thầy của họ đâu? Cho nên vì vậy đó, họ muốn họ bao giờ cũng phải có một cái sự điều khiển hoặc là được Hoà Thượng giao cái sự điều khiển đó chứ không phải giao cho Thầy. Cho nên Thầy thấy điều đó là một cái điều khó. Nhưng lần lượt thì Thầy không thể nào mà sống ở trong các Chiếu với Hoà Thượng để giúp đỡ các huynh đệ được là do cái tâm đó.

Vì vậy sau này Hoà Thượng giao cho Thầy cái khu đất ở Phước Hải được người Phật tử cúng dường, rồi Hoà Thượng đặt cho nó cái tên là Chơn Lạc để lấy cái tên của nó. Do đó mới giao khu đất, giao khu đất thì Thầy ra Thầy cất những cái thất nhỏ nhỏ như ở đây mình vậy, cũng bằng tầm vông trúc tre vậy. Mỗi thầy đều đăng ký xin một cái thất, ở trong khu rừng núi mà vùng biển như vậy thì có khí hậu rất tốt. Cho nên quý thầy ai cũng thích, nhất là những thầy mà có cơ thể bị bệnh tật thì thích ở cái vùng đó để cơ thể khỏe hơn. Cho nên họ đều đăng ký đi hết, vì vậy mà Thường Chiếu dường như trống. Do vì vậy mà có một sự xảy ra không hay. Từ đó coi như Hoà Thượng không có chú ý đến cái vấn đề của tu viện Chơn Lạc nữa, và Hoà Thượng thường thường cứ nhắc “Bây giờ Hoà Thượng Huệ Hưng thì đang yêu cầu Thông Lạc thì Thông Lạc giúp đỡ Hoà Thượng Huệ Hưng một tay đi”. À, đẩy Thầy qua một bên góc độ.

Mà Hoà Thượng Huệ Hưng là một người chỉ có biết Thầy chứ Thầy chưa phải là một đệ tử của Thầy Huệ Hưng, cho nên Thầy làm sao mà Thầy giúp cho Hoà Thượng Huệ Hưng. Nhưng Hoà Thượng Huệ Hưng là người có sự đối đãi với người tu hành rất lịch sự, rất là tốt. Hoà Thượng không có thấy cái ngã của mình là Hoà Thương, là một vị lãnh đạo tăng cả nước, coi như là Hoà Thượng đứng ở trong mặt Giáo hội thì Hoà Thượng coi như là Trưởng Ban Tăng Sự, coi Tăng Ni trong cả nước lận mà, chứ đâu phải là ít. Hoà Thượng muốn cấp giấy cấp tờ gì cho Tăng Ni đều là quyền của Hoà Thượng hết. Thế mà Hoà Thượng hạ mình đến mà mời Thầy. Thì thậm chí đến đây, Hoà Thượng có ý rằng, những công phu tu hành của Thầy như vậy đó, chỉ có Thầy mới có thể giúp cho Phật giáo sống lại được mà thôi. Cho nên qua cái ý đó và đồng thời Hoà Thượng có muốn xây dựng cái Tu Viện chuyên tu ở Tùng Lâm nơi mà của Hoà Thượng Thiện Hòa để lại đó, để mời Thầy về đó, để mà giúp.

Nhưng mà Thầy thấy quý Thầy ở Tùng Lâm cũng như quý Thầy ở Ấn Quang họ cũng chẳng có tâm tha thiết với cái sự đó đâu. Họ chỉ nhắm vào cái phần sống về danh, về lợi hơn là cái chỗ mà tu hành giải thoát. Cho nên cái ý của Hoà Thượng là một lẽ. Khi mà Hoà Thượng tịch rồi thì kể như cái ý đó nó cũng không đi đến đâu. Nhưng mà Thầy thì Thầy không phải nhắm vào cái chỗ đó, mà Thầy nhắm vào Hoà Thượng để giúp cho Hoà Thượng (Thanh Từ). Vì một ngày đi nữa cũng là Thầy của mình, làm sao cho cái con đường thiền của thầy của mình sống mãi. Đó là mình đền đáp ơn Thầy mình. Nếu mình không nhận Thầy của mình thôi, mà đã nhận Thầy của mình thì mình phải làm sao cho xứng đáng là người đệ tử.

Như các thầy đã nghe cái lời thỉnh nguyện của Thầy, dù như thế nào đi nữa tình của Thầy với Hoà Thượng không bao giờ mà có thể ai ngăn cản được. Ai làm gì thì làm nhưng mà tâm của Thầy đối với Hoà Thượng vẫn là một bậc Thầy đáng kính, khả kính của Thầy. Luôn luôn Thầy kính trọng, không bao giờ mà Thầy coi Hoà Thượng dạy Thiền như thế nào thì Hoà Thượng có quyền dạy. Nhưng mà Thầy chỉ cần có những cái kinh nghiệm giúp thêm Hoà Thượng cần, chứ không bao giờ mà Thầy nói Hoà Thượng như thế này, thế khác. Nhưng có nhiều người họ lại lấy những cái lời của Thầy dạy đúng đắn, mà họ lại nói rằng Thầy bài bác Hoà Thượng thì cái điều đó là họ hiểu như thế nào Thầy cũng chẳng hiểu.

Như quý Thầy thấy, Thầy đem cái Thiền Đông Độ, Thầy so sánh với cái bốn Thiền của Phật là mục đích Thầy muốn cho Hoà Thượng nhận xét được, cái nào mà thực hiện được, cái nào mà không thực hiện được. Có như vậy để giúp Hoà Thượng có những sáng kiến. Từ đó Hoà Thượng đi dần dần. Cũng như một bức thư của Thượng Toạ Nhất Hạnh gửi cho Hoà Thượng, nhắc Hoà Thượng như thế này “Chúng ta hãy trở về với cái con đường nguyên thủy”. Có nhắc Hoà Thượng cái điều đó mà. Các con có thấy bức tâm thư của Thượng Toạ Nhất Hạnh nhắc Hoà Thượng Thanh Từ “Hoà Thượng hãy trở về với con đường nguyên thủy”.

Đúng vậy! Sự thật ra những cái điều mà Thầy nêu lên trong cái lời băng đó là muốn cho Hoà Thượng trở về với Phật giáo chơn chánh, để giúp cho một số người đang theo Hoà Thượng đạt được cái kết quả. Sự thật nó là sự thật, không thể nào mà sai. Nhưng không kết quả. Lần thứ nhất không kết quả. Lần thứ hai Thiền Viện Chơn Lạc không kết quả. Lần thứ ba, hai cuộn băng ra đời, nhằm mục đích để mà âm thầm giúp cho Thiền viện Trúc Lâm. Nhưng lần trở về Thầy đưa cái dự thảo phương án Trung Tâm An Dưỡng, xin Hoà Thượng đứng ở trong đó để giúp đỡ cho con làm công việc này. Hoà Thượng nói Hoà Thượng chỉ lo dạy Thiền tu học thôi, chứ không làm công việc xã hội.

Sự thật ra cái hình thức thì phải nhìn cái Trung tâm An dưỡng từ thiện, nó là công việc từ thiện xã hội thật sự đó. Nhưng mà bên trong nó lại lồng vào một cái đạo đức của đạo Phật rất là lớn, và lợi ích rất lớn cho con người. Nó không nhắm vào một cái số mà tu Thiền để mà giải thoát sinh tử tầm thường, mà nó nhắm vào tất cả mọi người có mặt ở trên hành tinh này. Để đem lại cái đạo đức Nhân quả, để mọi người thông suốt nó, thì xã hội này rất là trật tự, an ninh, không bao giờ mà có ai làm cái tội ác nữa hết. Đó là cái Trung Tâm An Dưỡng ra đời là nhằm cái mục đích đó. Nhưng mà lại một lần nữa, lại không được Hoà Thượng chấp nhận. Như quý thầy cũng đã biết, không được chấp nhận. Do đó, bây giờ đứng ở trong một cái vấn đề làm việc lớn này mà nhân sự của Thầy không có, đệ tử của Thầy cũng chẳng có, thì bây giờ Thầy còn làm cái gì hơn? Rồi cái khu đất đó thì để cho cây cỏ mọc chứ làm gì hơn? Bây giờ còn ai hơn nữa?

Cho nên vì vậy mà gần đây Thầy có ý nghĩ, Thầy chỉ di chúc lại cho những mầm non của tổ quốc, cho những mầm non sau này. Cái Dự thảo phương án này sẽ có những đứa bé mới sanh, cũng như đã sanh 5-7 tuổi, những người này đều là những người có trí tuệ, có thông minh đang học hỏi rất giỏi, nghĩa là rất thông minh. Chúng nó đang được cha mẹ cho sang ngoại quốc học vì được học rất giỏi, học giỏi hơn cả trong nước, rất là giỏi. Nghĩa là được tuyển chọn, được cấp học bổng hẳn hòi đàng hoàng. Thầy di chúc lại, giao lại cho những đứa bé này. Sau này nó sẽ thay Thầy tuyên hoá. Học xong nó trở về, nó phục vụ cho dân tộc, cho đất nước thì nó sẽ làm những công việc này. Đó là những mầm non tương lai của Phật giáo và cũng là mầm non tương lai của đất nước này. Nó sẽ đem lại cái đạo đức cho dân tộc này. Còn Thầy thì già rồi và đồng thời thì cũng không có đủ duyên hợp tác với Giáo hội cũng như với Hoà Thượng thì Thầy đâu có làm được gì nữa hơn? Cho nên Thầy thấy đúng lúc là 3 cái giai đoạn mà mình cố gắng để giúp cho đời tu hành đạt được sự kết quả, làm cho Phật pháp sống lại thì 3 cái giai đoạn đó không đạt.

Rồi bây giờ về cái phần mà đem cái đạo đức Nhân quả để dạy con người, thì cũng chẳng thành, thì còn bây giờ làm cái gì? Thì còn bây giờ còn những giờ phút này ẩn bóng để chờ cho những đệ tử của mình tu tập cho xong mà thôi. Còn nếu không, mà không có những người đệ tử đang theo Thầy tu tập thì chắc chắn là Thầy đã nhập diệt. Chứ mang cái thân này, các con thấy ngày ngày nó mệt mỏi, mỗi một lần ho, mỗi một lần bệnh, một lần nhức đầu, mỗi một lần là một cái nghiệp, thọ cái khổ, bỏ nó đi cho rồi, có gì mà tiếc nó đâu. Ăn thì các thầy thấy là ngày một bữa, có gì mà phải ngon, mà phải béo bở đâu nữa, mà lại ham. Người ta ở đời người ta còn ăn ngon, ngủ ngon, người ta còn chạy theo cái này, cái kia, còn Thầy còn cái gì nữa mà ham. Cho nên đối với Thầy đã hết rồi. Chỉ còn buôngmà thôi.

Nhưng đáng thương cho mấy con, đi theo Thầy lỡ dở, cho nên không lẽ mà Thầy bỏ các con. Cho nên Thầy ẩn bóng, ẩn bóng để theo dõi trên cái sự tu tập của các con, cho đến khi nào các con thành tựu, thì lúc bấy giờ Thầy sẽ ra đi vĩnh viễn. Đó là cái nguyện vọng của Thầy.

Chứ bây giờ Thầy đâu có còn mong mà để Thầy núp sau lưng Hoà Thượng để giúp cho Hoà Thượng nữa. Hết rồi, ba lần, mà ba lần là quá sức rồi. Các con chưa từng nghĩ thầy Chơn Tịnh thường thường đưa Thầy về Thường Chiếu, phải nửa đêm, mà thầy trò chiều thì phải đi về thành phố ngủ. Muốn ra 7-8 giờ thì ở Thường Chiếu người ta sám hối rồi, người ta thỉnh nguyện rồi thì mình phải ra cho đúng giờ, chứ phải đâu phải. Cho nên cả thầy trò phải đi 4-5 giờ phải thức dậy đi, từ thành phố thức dậy đi ra ngoài đó, rồi sám hối rồi trở về, chứ không phải ở ngoài đó. Bởi vì khó khăn lắm chứ không phải dễ. Cực khổ lắm chứ không phải dễ. Thế mà mỗi tháng đều là Thầy về sám hối như vậy, chứ không phải không có. Nhưng cuối cùng thì Hoà Thượng cũng nói rằng “Ở xa xôi quá cứ về như vậy thì rất là vất vả, thôi từ cái ngày mà hiểu biết được rồi thì ở tại chỗ đừng có về nữa, rất cực khổ”.

Đó là Hoà Thượng nói với Thầy như vậy. Cho nên Thầy không có về sám hối nữa. Để mà làm cho cái tình hòa hảo giữa huynh đệ cũng như giữa Thầy, nhưng họ rất là áy náy là vì họ không biết Thầy là cái hạng người nào, như thế nào mà luôn luôn hạ mình đến mức độ, hạ, không có tưởng tượng được. Thầy Chơn Tịnh mà đi theo Thầy đó, thầy nói thầy không chịu nổi được cái lối hạ mình của Thầy. Với huynh đệ cũng vậy, mà với thầy Viện chủ cũng vậy. Thầy tu hành như vậy mà Thầy hạ mình đến mức. Thậm chí như thế này này, khi mà đến mà xin sám hối đó, mà Hoà Thượng ở bên Linh Chiếu, Thầy phải đi qua bên Linh Chiếu, qua bên Linh Chiếu gặp Hoà Thượng rồi, thì Hoà Thượng ngoe ngẩy, Hoà Thượng bỏ đi về không nói một lời nào. Thầy vẫn đi theo sau Hoà Thượng, để chứng tỏ một cái tình người của một người đệ tử rất là hạ mình, biết tôn trọng Thầy mình, chứ không phải như quý Thầy đâu. Nói hơi nặng lời là quý thầy bỏ đi liền à. Còn Thầy không có đâu. Hoà Thượng ngoe ngẩy, chống cái gậy khi mà Thầy qua bên Linh Chiếu gặp Hoà Thượng rồi, thì Hoà Thượng ngoe ngẩy không nói một lời nào nữa, ngoe ngẩy đi về. Hất hủi một cách rất là hất hủi, chứ không phải không. Thầy nói nhắc lại đây, các con chưa có từng thấy đâu. Thầy Chơn Tịnh đi sau Thầy “Thầy chịu đựng nổi chứ con chịu đựng không nổi, chịu không có nổi”. Thầy nói “Đã là Thầy của mình là ông cha của mình rồi, tại sao lại là mình chịu không nổi”?

Đó là những cái hành động, rồi những khi mà Hoà Thượng tìm mọi cách tránh né không gặp Thầy, Thầy vẫn bền bỉ ngồi chờ đợi, ngồi chờ đợi có những khi mà mưa dầm tầm tã. Có những khi chờ đợi để gặp Hoà Thượng xin một lời sám hối rồi trở về thì có thể nói rằng từ 5giờ 6 giờ, có thể 7 giờ mà vẫn còn ở Thường Chiếu. Mà gặp Hoà Thượng được rồi thì lúc bấy giờ Thầy với Thầy Chơn Tịnh mới về trong đêm tối, không ở lại Thường Chiếu. Bởi vì mình biết, ở lại Thường Chiếu thì chẳng có một sự đối xử nào nghĩa tình với mình cả. Thì các con biết thì lúc bấy giờ nó không phải là một cái đơn giản. Nhưng mà Thầy vẫn giữ là người đệ tử rất là biết trọng ơn Thầy. Nhưng mà Thầy nhìn hết những người đệ tử của Thầy, khó mà tìm được cái người đệ tử mà đối xử với Thầy như Thầy đối với Hoà Thượng. Khó lắm, khó có lắm, khó bền bỉ. Cho nên hôm nay Thầy nhắc lại để cho các con thấy rằng, cái người mà có tình nghĩa, mà có tình nghĩa thầy trò, Thầy thấy mình nó đã diệt mòn

BĂNG SỐ 52

Nó đã diệt mòn đi với cái sự tu tập Thiền định của Thầy, cho nên Thầy thấy mình chẳng ra gì hết, mình là một con ‘số không’ ở trong cái thế gian này, không có gì hết. Bởi vì sự giải thoát là giải thoát, không nghĩa giải thoát là bản ngã, mình làm chủ được sanh tử, không có nghĩa là mình hơn ai hết, đối với Thầy thì Thầy thấy mình không hơn ai hết, cho nên đối với Hoà Thượng Thầy vẫn thấy là một bậc Thầy khả kính, Thầy không thấy hơn Hoà Thượng chút nào hết. Thầy chỉ thấy rằng mình là người đệ tử phải làm sao giúp Thầy đền đáp ơn Thầy là đủ rồi. Còn toàn bộ Thầy  như là không có.

Hôm nay quý thầy đã được nghe lời thỉnh nguyện của Thầy cách đây đã 7- 8 năm, mà may là còn, nhưng cái lời mà ghi lại trong băng, trong những cái máy mà đem theo ghi thì các thầy biết là cái phương tiện rất là tệ. Lúc bấy giờ trong cái bữa mà thu lời thỉnh nguyện này, mà bây giờ Thầy ghi lại đây, chứ không phải mà hồi đó mà còn ghi như thế này đâu. Thầy ghi rồi bây giờ Thầy bỏ đâu Thầy cũng chẳng biết cái bài mà Thầy thỉnh nguyện ở Thường Chiếu. Thì thầy Chơn Thông bây giờ đã đi xa để mà tu học theo Nguyên Thuỷ rồi đó. Thì Thầy đã mang theo 1 cái máy, cái máy nhỏ như thế này, thầy lén thầy mới xin quý thầy cho chui vào mà quý thầy không cho là không cho, chui vào để kê lại chỗ mà Thầy thỉnh nguyện với Hoà Thượng để mà thu mà không cho là không cho. Cho nên, do vì vậy đó mà trong khi đó thì cái chú ngồi sau, chú có cái máy nhỏ, chú bảo thầy bây giờ Thầy thỉnh nguyện thì xin Thầy treo ở cổ này nè, rồi Thầy nói đây nó thâu vô, cho nên bây giờ biết đâu chừng thầy Chơn Thông xin không được rồi làm sao? Nó căng như vậy các con biết, không bao giờ họ để lưu lại cái lời nói của Thầy ở đâu hết. Họ không bao giờ cho. Cho nên Chơn Thông đem máy vô thu không có được, do đó quý thầy bảo để ở ngoài muốn thu ngồi ngoài mà thu.

Làm sao mà con thấy, bây giờ Thầy ngồi ở đây với Hoà Thượng, Hoà Thượng ngồi đầu đây thì tất cả chúng ngồi dài đây, mà thầy Chơn Thông thì ngồi kia làm sao thu? Phải không? Vậy các con thấy làm sao thu, mà cái máy nhỏ chứ đâu phải máy lớn, thành ra làm sao thu được, chỉ có ngồi sát đây thì may ra để vậy thì mới thu vô được chứ, mà nó còn không được rõ nữa, chứ đừng nói. Cho nên vì vậy chú sau chú mới cho Thầy mượn cái máy, chú bảo Thầy thôi giờ Thầy đeo cổ đi, không chắc gì Chơn Thông thu không được đâu. Thầy nhớ Thầy bấm chứ Thầy không bấm thì nó cũng không chạy.

Mà lúc bấy giờ trước khi mà xin thỉnh nguyện, trong khi mà ra giữa chúng mà Thầy quỳ xuống Thầy xin thỉnh nguyện, trước khi mà ra Thầy đã bấm máy trước rồi, Thầy ngồi đó, tới cái chỗ mà Thầy xin sám hối đó, thì tới phiên Thầy, thì Thầy đã thò tay Thầy bấm cái nút rồi, nó chạy rè rè ở cổ Thầy cũng lâu lắm rồi Thầy mới ra, chứ không phải là mau được. Do đó Thầy chỉ thu lại, bây giờ là nghe lại cuộn băng đó nó rè rè rè rè đó, nó không rõ là cái chỗ này nhưng mà nhờ đó mà bây giờ còn ghi lại, chứ không bây giờ Thầy cũng chẳng đâu mà nhớ được mà ghi nữa chứ đừng có nói. Còn hồi đó thì viết ra một cái bài để mà Thầy đọc lên cái lời thỉnh nguyện của mình nó có mạch lạc hẳn hòi rõ ràng, chứ không phải nói miệng suông được, mà nó rất gian khổ như vậy. Bây giờ nó còn này. Còn một cái bài thỉnh nguyện thứ hai nữa coi như là không có thu được. Như vậy đó, thì các con biết nó còn có cái bài thỉnh nguyện thứ 2 nữa chứ không phải. Ở đây là cái bài thứ nhất, còn cái bài thứ 2 nữa.

Thì các con biết làm Phật sự nó có nhiều cái gian khổ lắm, nó không đơn giản, nó phải trên thuận dưới hoà, nó phải hoà hợp với nhau, nó không hoà hợp thì không bao giờ làm được chuyện gì hết. Bây giờ Thầy nói cái Giáo án này ra là mục đích làm sáng tỏ lại Phật pháp, làm lại những cái gì mà Phật Pháp người ta không hiểu thôi. Không phải trách quý thầy hiện giờ là phạm giới phá giới đâu mà quý thầy chỉ không hiểu mà thôi, chứ thầy nghĩ rằng quý thầy hiểu thì chắc không có đến nỗi nào.

Thì hôm nay nói về cái vấn đề này, thì hôm nào Thầy sẽ có dịp Thầy sẽ đọc lại cái dự thảo phương án cái Trung tâm an dưỡng, cái mục đích mà đưa lên để xin phép Nhà nước là phải nói có lý hẳn hòi đàng hoàng, chứ không phải là đơn giản đâu. Cách thức đó như thế nào và tổ chức như thế nào và kinh phí như thế nào mà hợp lý thì Nhà nước mới chấp nhận. Bởi vì nó là cái phương án Trung tâm an dưỡng, do đó nó phải hợp lý mình mới trình cho Nhà nước rồi cái Kinh phí mà để chi cho cái phương án này nó ở đâu mà có, chứ không phải đơn giản đâu. Người ta sẽ còn hỏi mình tất cả mọi mặt, sau đó người ta mới chấp nhận cấp giấy tờ cho mình, chứ đâu phải mình lập lên đó rồi nó không có đồng xu nào trong đó, chỉ cất mấy cái số nhà đó, rồi bắt đầu nhận vô bỏ đói người ta hết sao? Cho nên nó phải có cái nguồn kinh phí nào, cho nên nó không có đơn giản đâu.

Vì vậy mà các thầy thấy từ cái chỗ mà muốn tổ chức được như vậy đó để cho thực hiện được cái hoài bão của một người tu sĩ mà đi khất thực, thì cái Trung tâm an dưỡng phải có khu an dưỡng trung tâm. Tăng và Ni nữa, chứ không phải tăng không mà không phải ni không. Tại sao vậy? Thầy muốn tổ chức lại cái đời sống của người tu sĩ là ‘ba y một bát’, đi xin. Thì trong cái Trung tâm này nó có một cái nơi để nấu cơm, để cung cấp cho mọi người về an dưỡng. Thì trong khi đó họ sẽ nấu cơm giúp đỡ cho chúng ta tu hành mỗi ngày một bữa cho đúng giờ thì chúng ta đến câu lạc bộ hoặc là cái nơi mà người ta nấu cơm đó người ta sẽ xới bát cho mình. Thì mình sẽ thực hiện cái đời sống ba y một bát, đi khất thực rất là đúng mà không có phạm vào một cái lỗi. Ngay cả đất nước của chúng ta nó không có lỗi thời chút nào hết, chúng ta chẳng biết tiền bạc, chẳng biết gì hết. Ai cúng dường thì đem cúng vào cái nơi nào đó, chứ còn chỗ chúng ta tu hành thì chúng ta không nhận cúng dường mà chỉ nhận thức ăn mà thôi, nhận một ngày một bữa ăn thôi, không nhận tiền bạc.

Đó là cái Thầy muốn tổ chức như vậy, để quý thầy thấy rằng Thầy có những cái việc làm rất là sáng suốt chứ không phải không, tổ chức ngay để mà chúng ta có một đời sống khất thực, mà khất thực không có làm cho người khác nghèo. Mà chỉ có người giàu, Phật tử giàu người ta bỏ vào, người ta cúng dường cho mình, rồi người ta nấu cơm cho mình ăn ngay tại chỗ đó mà hàng trăm người có thể sống rất dễ dàng mà không có lo, mà không có một cái chùa to tháp lớn gì. Chúng ta ở toàn là những cái chòi tranh vách lá  làm bằng tầm vông, vách tre như thế này. Nghĩa là khu vực an dưỡng không phải là cái chùa cho nên chúng ta đâu có cất cái chùa y như thật. Chúng ta chỉ có một cái nhà tròn hoặc cái nhà mát để chúng ta được những cái ngày mà tập họp lại được nghe Thầy thuyết giảng nói về cái sự tu tập, nói những cái bài pháp cho các thầy nghe tu tập thôi. Đó là cái nhà rộng cũng như cái Thiền đường của chúng ta như thế này thôi, đủ rồi. Còn tất cả những chúng thì hoàn toàn ở những cái chòi tranh vách lá, người cái người cái không có ở chung nhau.

Đó là cách thức tổ chức của Thầy, cái Khu an dưỡng của chúng ta (..). Mà ở đó không thờ ông Phật nào hết, ở đó chỉ chuyên tu thôi chứ không có thờ tượng ông Phật nào hết. Mặc dù chúng ta là một người tu theo Phật giáo phải có tượng Phật, nhưng ở đây chúng ta đâu có quyền, chúng ta là người an dưỡng, nghỉ ngơi tu tập chứ không phải chúng ta ở đây cất cái chùa mà thờ Phật. Nếu chúng ta thờ Phật tức là sai đi cái chỗ chúng ta, mà chính thờ Phật không đúng. Theo Thầy thấy Phật ở trong tâm của mình, mình tưởng nhớ Phật, hàng ngày mình sống đúng những cái gì mà Phật đã sống thì đó là Phật ngay trước mặt mình rồi, còn đi đâu mà thờ cái tượng. Cái tượng nó có giống không, chắc chắn là không giống đâu.

Như vậy Thầy đã nghĩ cái điều nghĩ này cho nên cái đời sống của tu sĩ hiện bây giờ nó giống như đức Phật ngày xưa. Đức Phật ngày xưa đâu có thờ ông Phật, phải không các con thấy đúng không? Chúng ta cũng không thờ, nhưng hằng ngày chúng ta sống đúng giới hạnh tức là ông Phật ngay tại chỗ giới hạnh đó. Chỗ hạnh sống của chúng ta là ông Phật chứ không phải tìm chỗ khác. Do đó chúng ta càng muốn cho ông Phật sống, càng thờ ông Phật tại khu đó thì tức là cái hạnh sống của chúng ta phải toả ra những cái mùi hương của giải thoát của Đạo Phật thì chính là ông Phật ở đó rồi. Không phải đi tìm ông Phật xi măng, ông Phật đồng, hoặc là bằng vàng thờ, thì cái đó là cái hình thức của những người còn mê tín, chứ không phải của người tu hành giải thoát, đó là cái chân chính.

Còn bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục giáo án, tiếp tục để tu, để học

Thầy xin trả lời chung qua những ý kiến mà qua 2 bức thư của thầy Thiện Thiền. Trong cái bức thư đó thì Thấy rằng con đường của đạo Phật chúng ta phải đi từ căn bản nhất là Thầy yêu cầu cái căn bản. Thì trong cái căn bản đó không phải là ngay liền mà dạy Tứ thiền hoặc là Tam minh được mà phải có cái lộ trình của nó rất rõ. Nếu mà khơi khơi mà cắt ngang như vậy thì những cái giáo án của chúng ta nó không có thành một cái khung được. Như bây giờ chúng ta thuyết giảng bây giờ bỏ những cái khoản kia đi, bây giờ chúng ta bắt đầu vô cái tứ thiền đi, chúng ta bắt đầu sơ thiền đi thì nó không thành một vấn đề của một cái giáo án nữa, mà nó thành ra một cái đoạn mà có thể nói rằng một cái đoạn văn hoặc là cái pháp nói về thiền đó thôi. Như vậy là chỉ có dạy riêng chứ không thể nào mà nó gộp chung ở trong giáo án này được. Không thể nào mà thu chung ở trong cái giáo án này được. Thí dụ như bây giờ muốn dạy riêng, còn mấy ngày nữa thì quý Thầy xin: à bây giờ còn mấy ngày nữa chúng con muốn học riêng, còn về phần giáo án thì để sau này Thầy có thể Thầy giảng tiếp như thế nào thì sau này, còn bây giờ chúng con muốn học tứ thiền. Ờ thì như vậy Thầy sẽ dạy riêng, hoàn toàn Thầy sẽ dẹp cái giáo án này ra, Thầy không dạy nữa, do đó Thầy chỉ dạy cái phần của tứ thiền rồi tam minh thôi. Thầy không dạy Tứ như ý túc mà Thầy nói tam minh, phải ở trong chỗ nào để mà hướng tam minh thôi. Thì quý Thầy nắm được tu được thì được mà không tu được thì cái đó là cái phần của quý thầy, còn Thầy thì nói hết những cái điều kiện mà ở chỗ đó để mà thực hiện, thì Thầy nói cái đó rất rõ. Quý thầy làm được mà không làm được thì quý thầy chịu lấy, chứ còn Thầy biết rằng cái lộ trình của nó phải đi từ cái dễ đến cái khó.

Cũng như bây giờ các thầy muốn biết cái bài vở ở trên lớp đại học nó như thế nào nhưng mà cái trình độ chưa biết, chưa có hiểu được cái trạng thái đó, cũng như bây giờ mình chưa có ly dục, tâm mình còn dục thì mình chưa biết cái ly dục như thế nào mà gọi là có hỷ lạc do ly dục sanh thì các thầy chưa biết, mà chưa biết mà đòi hỏi tới cái cao nữa thì chắc chắn quý thầy chỉ còn ngồi ngó thôi chứ không biết. Mà đây là Thầy dạy nó cô đọng lại một cái pháp, mà pháp của Phật nó dường như là nó có móc chuyền với nhau, cái pháp này nó móc với cái pháp kia, nó liên tục với nhau.Cho nên 37 phẩm trợ đạo nó phải có cái móc chìm chứ không phải cái pháp nào nó độc lập nó riêng được.Cho nên cái đầu tiên mà chúng ta tu cái Định vô lậu được thì ngay đó thì định bốn thiền cũng như cái tam minh nó dễ dàng. Mà cái vô lậu không được thì bây giờ bốn thiền với tam minh cũng chẳng qua để đó là chúng ta ngó cũng như là cái tài liệu mà thôi chứ không có gì hết. Bây giờ Thầy nói, dạy rất kỹ, ai thấy nói tứ thiền thì người ta cũng thấy rằng đúng rất đúng, rất hay đó. Nhưng mà thực hành thì quý thầy thực hành không vô, Thầy chắc chắn là không vô. Cho nên ở đây khi mà chúng ta hiểu được cái giáo án này rồi thì chúng ta biết bước đường chúng ta phải tập cái gì trước, tập cái gì sau. Bây giờ quý thầy cứ nghĩ rằng mình phải nắm cho được cái thiền định đó để cho mình tu, không có chắc quý thầy tu được đâu.

Bởi vì con đường của đạo Phật nó thuộc về toàn diện của nó. Toàn bộ của nó là Giới luật, là giới luật toàn bộ, từ đầu chí đuôi đều là Giới luật. Nó có một then chì nó móc với nhau từ cái này nó móc với cái kia nó không thể rời nhau được. Cái đời sống của tu sĩ nó móc nối những cái thiền định, những cái thần thông của nó móc chuyền với nhau hết. Nếu mà đời sống không hợp thì cái móc chuyền này nó bị gãy ngay rồi, nó không còn. Cho nên bây giờ chúng ta lấy nội cái thiền của Phật, bốn thiền tu thôi, còn hoàn toàn cái kia không cần, giới luật không cần, thì chúng ta chẳng đạt được đâu. Thầy biết cái này mà, mười năm trong thất Thấy biết mà. Nếu mà không có một cái Giới luật, không có sống đúng cái hạnh độc cư, không có sống đúng ly dục ly ác pháp thì không bao giờ nếm được cái mùi vị của tứ thiền, cũng không bao giờ thấy được tam minh.

Cho nên quý thầy mất thì giờ lâu là tại vì quý thầy cứ nhắm thiền định mà quý thầy không nhắm đến cái đức hạnh, cái giới luật. Chớ mà nhắm được cái giới luật đức hạnh thì quý thầy sẽ đi mau lắm và cái thời gian rút ngắn chậm hơn nữa, thời gian rất nhanh.

Cho nên Thầy sẽ cố gắng trong thời gian này Thầy sẽ dạy cho các thầy Tứ thiền cho kịp chứ không thể nào mà không có học Tứ thiền đâu. Và đồng thời có thể nói rằng khi mà dạy tứ thiền được thì Thầy cũng cố gắng Thầy dạy Tứ như ý túc để chuyển qua Tam minh cho nó có cái đường lối kích thước của nó đi rất dễ dàng. Bởi vì không có tu Tứ như ý túc thì không có làm sao mà biết cái pháp mà đi tới Tam minh được.Phải thực hiện hàng ngày tu tập như thế nào để trao dồi cái pháp hướng pháp tùy như thế nào để mà thực hiện được tứ như ý túc như Thầy nói. Cho nên cái người mà đi trước rồi thì người ta biết được cái lộ trình, còn các thầy chưa đi trước cho nên các thầy nói  khơi khơi. Nói chung mình chưa có đạt được lớp 1 mà muốn nhảy lên Đại học mình ngồi để nghe coi thử mấy ông thầy, mấy ông giảng sư trên này dạy làm sao thì chắc chắn là ngồi đó ngóng. Thiệt ra thì chắc chắn là quý thầy cũng chỉ dùng những cái từ đó nói thiền đạo chơi, nghe chơi thôi chứ còn thực ra nó không có, quý thầy hiểu cái gì mà biết. Bây giờ đem ra thì các thầy cũng à bây giờ nhập sơ thiền, cũng nói theo cái lời mà Thầy dạy, nói như két vậy chứ làm thì làm không được đâu. Chính cái cuộc sống mình chưa sống được thiền nó đâu có được như vậy, cho nên cái kết quả nó phải theo cái cuộc sống. Mà mình là người quyết tu theo đạo Phật thì phải lấy cái cuộc sống để mà làm cái điều kiện để mà tiên quyết để đi hành, chớ còn cái ham muốn như vậy Thầy thấy đó cũng là cái ham muốn sai, nó không đúng.

Trước khi học tu Tứ bất hoại tịnh, quý thầy nghe lời dạy này của đức Phật để suy nghĩ cuộc sống và mọi pháp sinh diệt trong thế gian này như thế nào. Đây là bài pháp của đức Phật để dạy cho chúng ta biết, trước khi chúng ta tu Tứ bất hoại tịnh, cái pháp mà làm chúng ta tin Phật, Pháp, Tăng như thế nào để cho nó tròn đầy. Tức là chúng ta phải hiểu được cái lý của các pháp của đời sống của con người như thế nào mà chúng ta không thể nào thực hiện được cái Tứ bất hoại tịnh. Thầy sẽ đọc bài pháp mà người ta đã hỏi đức Phật:

‘Bạch Đức Thế Tôn có cái gì mà không có thực ở ngoài có thể gây lo âu phiền muộn cho mình?’.

Nghĩa là cái người này họ hỏi đức Phật có cái gì mà nó ở bên ngoài của mình mà nó làm cho mình lo âu phiền muộn, phiền muộn nhất. Thì đức Phật trả lời:

Có thể có, này các thầy tỳ kheo, ở đây chúng ta nghĩ rằng “ Cái này chắc chắn là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi nữa. Cái này chắc chắn nó có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái này”.Nghĩa là cái người đó họ nghĩ như thế này “cái này là của tôi”. Cũng như bây giờ Thầy ví dụ như cha mẹ của mình, mình nói là cha mẹ của mình đi. Bây giờ rủi mà cha mẹ mình chết thì như thế nào. Bởi vì cha mẹ của mình mà, cho nên khi cha mẹ mình chết thì mình có buồn không. Cho nên đức Phật nói, khi mà mình nhận thấy các pháp đó ở ngoài mình chứ đâu phải ở trong thân mình mà chính mình nhận nó là của mình thì tức là mình sẽ có sầu muộn.Người đó có sầu muộn, than vãn khóc lóc, nóng ngực đi đến bất tỉnh. Phải sầu khổ như vậy. Này các thầy Tỳ kheo như vậy có cái không thực ở ngoài có thể gây lo âu phiền não cho chúng ta”.

Bây giờ cha mẹ mình có phải là thực không, thế mà mình chấp là cha mẹ mình là thực. Do đó tức là mình có cái sự phiền não, cái sự khi mà cha mẹ mình mất đi mình có cái sự phiền não đâu khổ. Cho nên đó là những pháp bên ngoài tượng trưng, lấy một cái ví dụ như cha mẹ mình, chứ còn bao nhiêu cái làm mình phiền não: như ví dụ cái đồng hồ này, như ví dụ cuốn tập này, cuốn băng này nó mất đi nó cũng làm cho mình đi tìm kiếm hoặc thế này thế khác. Đó không phải là làm cho mình phiền não sao? Đó là tất cả những cái pháp ở bên ngoài chứ không phải pháp ở trong thân mình đâu mà nó cũng làm cho mình phiền não. Như vậy theo đạo Phật mình đã hiểu như vậy thì mình hãy buông xả nó xuống đi. Nó là những cái pháp làm cho mình đau khổ, làm cho mình muốn chết đi, làm cho mình sầu muộn đi nó sung sướng gì đâu? Những pháp đó chúng ta phải bỏ nó xuống đi, phải dẹp nó đi, chứ nếu mà chúng ta không dẹp được thì chắc chắn là chúng ta sầu khổ đau buồn.

“Bạch Đức Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở ngoài có thể gây lo âu phiền muộn?”.

Nghĩa là cái người hỏi đức Phật có thể có cái gì không thực có ở ngoài mà có thể gây lo âu phiền muộn cho mình, nghĩa là bên ngoài nó không có cái thực có mà nó có thể gây lo âu phiền muộn cho mình?

Có thể có. Này các thầy Tỳ kheo, có người nghĩ như sau “Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi nữa, cái gì chắc chắn có thể là của tôi chắc chắn tôi không được cái ấy thì người đó sầu muộn, than vãng, khóc lóc, đấm ngực đi đến chỗ bất tỉnh”.

Nghĩa là có những cái vật ở bên ngoài mà cái người đó mới đầu họ không có biết họ nhận cái vật bên ngoài đó, như cha mẹ của mình là của mình đi hoặc là những vật nhà cửa đều là của mình đi. À, bây giờ họ đã hiểu biết rồi, họ đã hiểu biết tất cả những cái đó không phải là những cái vật của mình đâu. Không có phải những cái vật đó là của mình cho nên nó sẽ bị hoại diệt, nó sẽ bị mất mát, nó sẽ bị tiêu mòn đi, nó sẽ bị hao mất đi...nó sẽ không còn cái đó là mình giữ được nó đâu. Do đó, như cha mẹ của mình bây giờ chết do đó mình có buồn không, nếu mình biết rằng cái đó không phải là của mình, mình không có giữ được nó, nó không là vật thường hằng thì như vậy là mình có buồn không? Nếu mình hiểu được như vậy khi cha mẹ chết mình có buồn không? Không buồn, bởi vì mình thấy đó không phải là vật của mình, là cha mẹ của mình mà đó là nhân quả.

Bởi vì Thầy muốn dạy cho các thầy thấy đi vào con đường mà tu theo đạo Phật chúng ta không phải là cái người vong ơn bội nghĩa với cha mẹ, chúng ta biết công ơn sanh thành của người. Nhưng vì cái tâm niệm chúng ta đừng dính mắc nó là cái không thật, để rồi khi cha mẹ chết mình sầu muộn mà mình phải cứu lấy mình. Mình biết như vậy là cái không thật, mình không thể nào mà chết thay thế cho cha mẹ mình được, mình cũng không thể nào gánh vác cho cha mẹ mình được. Do vì vậy đó màkhi cha mẹ mình chết mình không có buồn nữa, mình biết là cái đó không phải thật là của mình mà do nhân quả, do cái chỗ này thì mình mới thấy được cái cách thức tu tập của mình, mới giải thoát được.

Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thật ở trong có thể gây lo âu phiền muộn chăng?

À, đức Phật nói, có thể có, bây giờ nó ở ngoài, tất cả các pháp ở bên ngoài, bây giờ nhắm vào bên trong của mình thì nó có cái gì đây? Cái người này hỏi đức Phật.

“Có thể có ở đây này các thầy Tỳ kheo có người có tà kiến chấp thủ, đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ có cái này thường còn, thường hằng, thường trú...không hoại diệt”. Đó là mình có những cái tà kiến, có những chấp kiến của mình mình cho nó là đúng, cho cái kia sai. Mình cho những cái đó là cái đúng của mình và chấp nhận cái đó là cái đúng của mình. Vì vậy, cho nên đó là những cái mà khi cái này nó không thoả mãn cho mình thì mình đâm ra mình buồn, đâm ra mình đau khổ, đâm ra mình tức tối. Đó, mình đòi hỏi những cái mà nó chưa phải  đúng thì đó là những cái tà kiến của mình chứ chưa phải là cái chánh kiến. Vì cái chánh kiến thì bắt đầu mình phải thông suốt nó, vì đó là những cái ở trong tâm của mình mà, những cái đòi hỏi, ham muốn của mình đều nằm ở trong tâm của mình. Do đó những cái đó nó làm cho mình đau khổ, làm cho mình phiền não. À, tôi sẽ nghĩ như thế nào, người này nghe Như Lai, hay đệ tử của Như Lai thuyết pháp loại trừ tất cả những cái kiến sử này, cái cố chấp này, cái thiên kiến này được một bậc thầy, được Phật và đệ tử của Phật thuyết pháp cho họ nghe đó là những cái tà kiến, cái kiết sứ đó, cái cố chấp đó, cái thiên chấp đó, cái thiên kiến đó, cái tuỳ miên, cái miên man ở trong đó, cái sự đòi hỏi ham muốn của mình cái điều đó. Mà khi được Phật và các đệ tử của ngài chỉ rõ cho mình biết cái đó nó không đúng thì từ đó mình phá vỡ cái tà kiến, cái kiến chấp đó đi thì cái tâm của mình nó sẽ được thoải mái và dễ chịu. Cho nên nó tịnh chỉ mọi hành động, sự từ bỏ mọi sinh y, sự diệt trừ khát ái đưa đến ly tham đoạn diệt, Niết bàn. Cái người đó khi mà được nghe như vậy, cái người đó nếu mà hiểu được thì họ sẽ thấy rằng mình hoàn toàn được giải thoát, hoàn toàn ly được những cái tà kiến, cái kiến xứ đó.

Còn cái người đó mà không hiểu thì họ lại nghĩ rằng cái lời của Phật và các đệ tử của ngài nói như vậy là mình đoạn diệt hết những cái tà kiến, những cái kiến xứ, những cái thiên chấp này, thì mình đoạn diệt nó hết rồi thì tới chừng đó mình ly hết cái lòng ham muốn của mình rồi, mình đoạn diệt rồi thì bắt đầu nó mất tiêu luôn, mình cũng không còn có nữa, thì đó là đoạn mất hết rồi còn gì. Người đó có thể nghĩ như sau:

chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại, người đó nghĩ như vậy rồi đau khổ, rồi sầu muộn, rồi than vãn, rồi đấm ngực đi đến chỗ bất tỉnh. Này các thầy Tỳ kheo, có cái không thực có ở trong ta có thể gây cho ta phiền muộn.

Nếu mà chúng ta bị cái kiến chấp rồi chúng ta không thoả mãn được những cái đó, rồi chúng ta nghe cái lời của đức Phật dạy rồi ta đoạn trừ cái đó đi, người đó lại khởi một cái nghĩ, nếu mà đoạn trừ thì mất hết rồi còn gì? Mình phải chấp có cái gì chứ để không nó mất hết chứ. Cũng như bây giờ nói cha mẹ của mình mà bảo mình bỏ đi, thì như vậy đức Phật dạy như vậy thì mình bất hiếu thì sao? Mình không thương cha mẹ thì còn thương ai, cha mẹ chết mà không khóc thì như vậy là sao? Đức Phật muốn nói  đây không có nghĩa là bỏ cha mẹ mà đây là bỏ cái tâm nức nở, cái tâm mà than khóc, mà trước cái sinh tử luân hồi của mọi người thì chắc chắn ai cũng phải đi vào con đường đó hết. Thì như vậy là mình không khổ, chứ không có nghĩa là bỏ cha mẹ, không có nghĩa là bỏ cho ông chết đói đi hay hoặc là để cho ông chết đi, đâu có nghĩa như vậy. Đó là những cái tà kiến, cái kiến xứ mình chấp sai làm cho mình khổ sở, làm cho mình khổ tâm. Còn mình hiểu đúng những cái lời của Phật dạy thì mình không có khổ và mình thấy mình hết phiền muộn.

- Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở trong, không gây lo âu phiền muộn.

- Có thể có, Này các thầy Tỳ kheo có người không có tà kiến như sau: nghĩa là những người mà không có những cái tà kiến, cái kiến chấp, cái thiên chấp của họ, cho nên họ dễ giải thoát lắm, họ mới nhìn thấy đây là thế giới, đây là tự ngả. Sau khi chết, tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này mãi mãi.Những cái người đó có những cái tà kiến như vậy họ nghĩ như vậy, nhưng mà khi nghe Như Lai và đệ tử của Như Lai nói rồi thì họ không còn dính mắc cái đó nữa, họ buông xuống.

Cũng như quý thầy yêu cầu Thầy giảng thì Thầy cũng lần lượt Thầy sẽ giảng cho quý thầy nghe hết chứ đâu phải là không giảng. Nhưng mà trên cái bước đường mà giảng cái bộ giáo án nó phải đi tuần tự để chúng ta xây dựng lại một cái đường lối không riêng một người nào, không riêng gì một người nào hết mà đây là dựng lại một nền Phật Pháp. Thì công việc của quý thầy mà hôm nay ngồi nghe được là phước báu của quý thầy được nghe cái đường đi của đạo Phật chứ không phải quý thầy muốn ngay liền quý thầy học một cái pháp thiền nào đó để về mà tu. Thì cái ham muốn đó là cái ham muốn sai, nó không đúng.

Quý thầy phải hiểu được cái chỗ đó, cho nên nó đưa đến cái chỗ bất mãn của quý thầy, nó làm cho quý thầy không toại nguyện theo ý của quý thầy.Nhưng mà Thầy làm sao khi mà Thầy là người dựng lại cái đường đi của đạo Phật cho nó đúng cách để cho người sau, không riêng gì quý thầy hiện diện có mặt ở đây, mà còn biết bao nhiêu người đang mong đợi nó. Và cái nhiệm vụ của quý thầy là nghe không phải để giải thoát liền bây giờ. Để nghe rồi còn phải suy tư, còn phải chín chắn, còn phải giải quyết, còn phải lo lắng như thế nào để sắp xếp một đời sống của mình như thế nào để đi được trên con đường này. Thì đó là cái vấn đề quan trọng của quý thầy. À, quý thầy phải hiểu, còn nếu mà quý thầy đòi hỏi trên cái quý thầy cấp thời thì tức là quý thầy không thấy được cái vấn đề, mà cái giai đoạn cuối cùng mà Thầy nói ra cái lời này. Nếu mà Thầy thấy rằng không có đủ duyên độ chúng sanh thì Thầy chẳng làm mích lòng ai hết, thì Thầy giảng chi cái này làm gì? Quý thầy trong mùa hạ này họ có vấn riêng gì với Thầy thì các thầy dạy muốn tu thiền như thế nào thì Thầy dạy thiền như thế ấy mà thôi, muốn tu hơi thở trật thì dạy sửa lại thôi. Rồi các thầy cũng chẳng hiểu Phật Pháp ra làm sao hết, thì mặc quý thầy. Rồi sau ba tháng hạ này, quý thầy trở về chùa quý thầy hoặc về trụ xứ của quý thầy, hiểu được cái gì đó hiểu. Bây giờ đến đây quý thầy muốn dạy về tu hơi thở thì dạy về hơi thở, tu cái gì đó thì dạy cái đấy. Quý thầy trật chúng thì Thầy sửa lại cho cái đúng thôi, còn trong ba tháng này quý thầy tu đến đâu thì mặc, Thầy không có trách nhiệm.

Còn đây Thầy dựng lại cái Giáo án này tức là Thầy có một cái trách nhiệm với quý thầy từ bước thấp đến bước cao. Cho nên Thầy mới đem cái sức của mình ra trong những ngày quá ngắn ngủi, mà đem hết tàn lực của mình ra để xây dựng, để cho quý thầy thấy rõ con đường đi của Phật Pháp và để cho quý thầy có đủ cái duyên mà sau này quý thầy đem cái giáo án này ra để phổ cập lợi ích cho mọi người.

Còn riêng Thầy thì kể như từ ngày ra cái Giáo án này rồi thì Thầy ẩn bóng rồi,  thì cái chuyện danh chuyện lợi Thầy còn làm nữa không, Thầy còn đi thuyết giảng nữa không, Thầy còn ai nữa mà Thầy nói, Thầy còn độ ai nữa không? Cuộc đời Thầy sống như chết rồi không còn gì nữa hết. Thầy đã nói rõ ràng mà, những lời này coi như là những lời di chúc. Ngày xưa, đức Phật di chúc cho các ngài để tự lấy Giới luật mà làm thầy, còn Thầy để lại cái Giáo án này là để lại cái lời di chúc của Phật, tức là Giới Luật của Phật, nói như vậy rồi thôi. Bổn phận của Thầy coi như là làm xong cái Giáo án này, là cái trách nhiệm của Thầy coi như độ chúng sanh là xong, còn ai tu được, không tu được là phước báo của họ chứ không phải của Thầy nữa, Thầy hết nhiệm vụ.

Thế thì ở đây chúng ta phải thấy được những cái pháp ở bên ngoài nó làm cho tâm chúng ta đau khổ, rồi những cái pháp ở trong do nó làm cho chúng ta đau khổ. Thì quý thầy đã nhận ra qua quý thầy giống như ý kiến của quý thầy đưa lên, nó là cái ý kiến làm cho nó không có đúng với cái Giáo án của Thầy, làm cho nó gián đoạn cái Giáo án mất đi. Tới đây, thay vì Thầy phải dạy nó đi từng bậc, từng bậc của cái pháp của Phật, 37 phẩm trợ đạo. Trước kia Thầy đã dạy các thầy thấy rằng Tứ vô lượng tâm - Từ bi hỷ xả, rồi đến Tứ chánh cần, thì bắt đầu bây giờ là Tứ bất hoại tịnh, rồi đây rồi sẽ học Ngũ căn, rồi Ngũ lực, rồi bắt đầu mới học tuần tự tới trạch pháp Thất giác chi, rồi lần lượt mới tới Tứ niệm xứ, rồi mới Tứ thiền, rồi bắt đầu mới dạy Tứ như ý túc, rồi mới Tam minh. Thì trong cái điều kiện đó thì bắt đầu Thầy xen vào Bát chánh đạo, tức là từ Chánh kiến như thế nào, Chánh tư duy như thế nào, để lần lượt để khai triển tám cái nẻo này ra trong những cái pháp tu này. Thì trong khi đó Thầy sẽ xen vào bốn Chân lý từ cái Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

Như hồi nãy giờ đây là Thầy xen cái Khổ, Tập rồi này, các pháp bên ngoài làm chúng ta Khổ tức là khổ tập rồi chứ gì? Đó là cái Chân lý. Cha mẹ mình chết làm sao mình không khổ. Mà bây giờ cha mẹ chết mình vẫn thấy đó là nhân quả cho nên mình vẫn không buồn mà cũng không vui.Lo hết bổn phận của một người con đối với cha mẹ là hiếu hạnh, chứ không phải ngồi khóc than mẹ tôi chết hay cha tôi chết đó là cái lòng hiếu của mình đâu?Như vậy đạo Phật muốn cho chúng ta thoát ra khỏi cái tâm dày vò đau khổ cho vui. Mà mình phải thấy, hiểu biết cho nó rõ ràng, như vậy là Thầy đã dạy. Đã dạy gì, đã dạy Khổ đế, phải không. Phải dạy khổ đế. Rồi cái tư tưởng cái kiến chấp của mình bằng cái này hoặc bằng cái kia mà mình không có thoả mãn được mình mình sanh ra buồn khổ. Thì cái này chính là cái chỗ mà chúng ta biết rằng đó là những cái pháp ở bên trong của mình mà mình cũng sanh ra đau khổ đó. Cho nên đó là những cái mà đức Phật đã nêu ra cái Khổ đế. Cái Khổ đế ở bên ngoài, chúng ta thấy các pháp ở bên ngoài làm cho chúng ta khổ, rồi cái khổ đế ở bên trong ta nó có những cái pháp làm chúng ta đau khổ. Do cái chỗ này mà Thầy đã giảng Khổ Tập Diệt Đạo. Như vậy là bốn cái Chân lý mà Phật đã dạy chúng ta. Rồi từng những cái mà chúng ta tu tập tám cái nẻo thì lần lượt nó đều diễn tả ở trên bốn cái pháp này hết, không có chỗ nào sai. Như vậy quý thầy đã thấy được cái điều mà Thầy đã dạy, như vậy thì quý thầy sẽ được từ nội tâm của chúng ta, không có các pháp ở trong tâm chúng ta mà làm chúng ta khổ, mà không có các pháp ở bên ngoài mà làm chúng ta khổ. Thì tức là chúng ta ly dục ly ác pháp rồi. À, quý thầy thấy rõ, mà ly dục ly ác pháp rồi thì chúng ta sẽ sống như Phật rồi. Cho nên Tứ bất hoại tịnh chúng ta sẽ thành tựu được rất dễ, mà nếu mà chưa ly dục ly ác pháp mà muốn tâm mình giống như Phật thì chắc chắn là rất khó chứ không phải dễ, nói là một lẽ mà không đơn giản được. Vì vậy mà hàng ngày chúng ta phải dùng pháp hành như thế nào để thực hiện cho được Tứ bất hoại tịnh.

Bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục học Tứ bất hoại tịnh.Ở đây chúng ta học Khổ đế rồi đó, khổ đế - các pháp bên ngoài làm chúng ta khổ. Bây giờ các pháp ở trong làm cho chúng ta khổ, chúng ta thấy rất rõ. Do chỗ mà chúng ta thân cận được những cái bậc Thánh hiền, những cái bậc Chân nhơn, học các pháp của Thánh hiền, các pháp của Chân nhơn do đó các pháp bên ngoài không làm cho chúng ta khổ, các pháp bên trong cũng không làm cho chúng ta khổ. Do đó chúng ta đã quét sạch, chúng ta đã y như Phật. Vậy thì y như Phật thì như thế nào? Chúng ta đã học cái tâm thứ 8 rồi, bây giờ chúng ta tiếp tục học cái tâm thứ 9.

Tâm thứ 9,Tâm Phật không hiềm hận.

À đây quý thầy sẽ nghe, cái tâm của ông Phật không hiềm hận, vậy tâm ta niệm Phật thì cũng vậy, cũng giống như Phật không bao giờ hiềm hận, nghĩa là không có bao giờ mà hận thù ai hết. Hiềm hận tức là hận thù và hiềm nghi. Hận thù và hiềm nghi là pháp ác, pháp làm cho khổ mình, khổ người. Mà muốn tâm niệm Phật không còn hiềm hận, hiềm hận ai ta phải trạch pháp để dùng pháp hướng Như lý tác ý:

“Hiềm hận và hận thù nghi kị là pháp ác, làm đau khổ mình, đau khổ người, ta phải từ bỏ đoạn dứt không bao giờ có tâm hiềm hận ai hết’.

Nghĩa là hàng ngày mình trạch pháp cái câu này ra mình nhắc cái tâm của mình đừng có hiềm hận. Mặc dù bây giờ mình đâu có hiềm hận ai nhưng mình cũng thường nhắc nó, và mình nhắc nó thì mình sẽ không hiềm hận. Đó thì Thầy nhắc để quý thầy thấy được cái chỗ đó mà hàng ngày mình chưa có hiềm hận ai hết nhưng mình phải nhắc cái tâm của mình. Bởi vì nhiều khi nó tới rồi mình hiềm hận chừng đó nó đã làm cho chúng ta khổ rồi. Bây giờ nó không có, chúng ta nghĩ là mình không có đâu. Sự thật ra mình còn tâm phàm phu mà, mỗi mỗi cái nó đều có thể xảy ra cho mình mà. Cho nên mình muốn mình niệm Phật, tâm mình niệm Phật thì phải giống Phật. Mà muốn giống Phật thì mình phải chuẩn bị, phải ngăn ngừa trước những cái pháp để cho tâm chúng ta đủ một cái lực khi mà gặp cái đối tượng mà làm cho cái đối tượng hiềm hận thì chúng ta thấy mình không có, rồi mình nói rằng tôi đâu có đâu.

 

Thứ 10,Tâm Phật không giả dối. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, cũng giống như Phật, không giả dối, không lường gạt, không bịp bợm ai, luôn luôn thành thật, biết sao nói vậy, biết sao làm vậy.Muốn cho tâm ta niệm Phật không giả dối, ta phải trạch pháp câu này, dùng làm pháp hướng, như lý tác ý:

Giả dối, lường gạt, bịp người là một pháp cực ác, làm khổ mình và trạo hối, làm khổ người vì bị lường gạt, vì thế ta phải xa lìa, từ bỏ, luôn luôn ngay thẳng, chân thật”.

Đó là cái câu pháp hướng chúng ta cần phải nhắc đi nhắc lại trong tâm của mình, nhiều khi bây giờ mình thấy mình không giả dối, nhưng mà sự thực ra nó có cái trường hợp  mình không thể nào cầm giữ được cái tâm không giả dối. Mà lúc bấy giờ chúng ta không thường ám thị, không thường nhắc mình thì tới chừng đó mình không thể nào mà cầm giữ nó được, kìm giữ nó được cho nên chúng ta sẽ trở thành giả dối.

Đây Thầy nhắc lại  “giả dối, lường gạt, bịp người là một pháp cực ác, làm khổ mình, vì trạo hối”, nghĩa là mình lường gạt người ta rồi cái lương tâm của mình nó cắn rứt, do đó mình cứ hối hận, mà làm khổ người vì lường gạt người. Vì thế ta phải xa lìa, từ bỏ, luôn luôn ngay thẳng chơn thật. Cứ nhắc mình như vậy để đến khi gặp đối tượng thì chúng ta kịp thời đối phó, kịp thời tâm chúng ta không còn giả dối nữa.

Mười một, Tâm Phật không tật đố. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, giống như Phật, không tật đố ai hết. Tật đố là lòng ganh tỵ nhỏ nhen, ích kỷ, thường hay làm khổ mình. Nghĩa là cái tâm tật đố nó đem lại cái khổ mình chứ không phải khổ ai hết. Nếu người có tâm tật đố là người đã tự làm khổ mình, hết sức tàn nhẫn đối với mình. Nghĩa là mình có tâm tật đố, mình ganh ghét người ta, mình không ưa người ta, mình thế này thế khác, thì tức là mình sẽ đem lại cái sự tàn nhẫn đối với mình, mình làm khổ mình, rất là khổ mình. Cái tật đố là cái pháp nó đem đến cho đối tượng, cái người mà có tâm tật đố đó, thì cái người đó phải thọ lãnh cái rất là khổ. Nó không làm khổ ai hết, mà ngầm ngầm mình ganh tỵ người khác thì tự mình mình đã làm khổ lấy mình. Cho nên tâm Phật không bao giờ mà tật đố. Đối với Đề Bà Đạt Đa thì ngài nói như vậy thôi chứ ngài cũng không ghét Đề Bà Đạt Đa, không tật đố Đề Bà Đạt Đa. Nhưng đối với Đề Bà Đạt Đa luôn luôn tật đố với đức Phật cho nên tìm mọi cách lợi dụng nhà vua tin yêu mình, bằng cách này, bằng cách khác để hại Phật. Đó là cái tâm tật đố làm cho Đề Bà Đạt Đa rất là khổ. Còn riêng đức Phật thì tự tại, vui vẻ để trả những cái nghiệp đó mà thôi.

Muốn cho tâm niệm Phật giống Phật, không có tật đố, ta phải trạch pháp câu này, dùng làm pháp hướng để nhắc nhở tâm mình và hàng ngày Như lý tác ý:

Tật đố là lòng ganh tỵ ích kỷ nhỏ mọn xấu xa đê tiện, khiến cho tâm ta đau khổ phiền não. Ta phải dứt trừ, từ bỏ đối với bất cứ một ai để cứu mình ra khỏi biển khổ của tâm tật đố xấu xa đê tiện hèn hạ. Từ đây phải dứt bỏ, dứt bỏ đi”.

Nghĩa là cuối cùng chúng ta nhấn rất mạnh cái điều này để không... Thấy người ta hơn mình một chút là đã tật đố với người ta rồi, đó là những cái xấu. Do đó vì vậy mà chúng ta hãy cố gắng tu tập cái này để mà ai tu tốt hơn mình thì mình mừng, mình hoan hỷ theo cái người tu tốt chứ mình không có thấy mình ganh ghét.

Mười hai, Tâm Phật không gian lận. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, cũng giống như Phật không gian lận. Gian lận là một tánh tham lam, gian xảo cực ác, đã lường, gạt biết bao nhiêu người, đã làm khổ biết bao nhiêu người. Muốn cho tâm ta không xan lẫn thì ta phải trạch pháp câu này, dùng pháp hướng Như lý tác ý để đoạn dứt tâm xan lận, tệ hại, xấu xa hèn hạ đó:

Gian lận là tâm tham lam, gian xảo đê tiện hèn hạ, làm khổ người, tàn nhẫn, nhất là đệ tử của Phật ta phải nỗ lực dứt bỏ, từ khướt, xa lìa, ném bỏ như chiếc dẻ rách”. Nghĩa là ném bỏ nó như một chiếc dẻ rách. Phải thấy rằng cái tâm xan lận là cái tâm quá tệ, cho nên chúng ta cứ nhắc nhở hàng ngày, mình ném quăng nó như là ném quăng một chiếc dẻ rách vậy.

Mười ba, Tâm Phật không phản bội.Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không phản bội. Phản bội là một pháp môn rất ác, phản bội làm hại biết bao nhiêu người đau khổ. Phản bội là tánh hèn nhác ích kỷ nhỏ mọn, chỉ nghĩ đến cá nhân mình, phản bội để mưu cầu sự sống ca nhân, phản bội để mưu cầu lợi danh của mình, phản bội là những kẻ bán dân bán nước, phản bội là những người bán tôn giáo, biến tôn giáo thành nghề sống của mình, phản bội biến Phật giáo thành Thần giáo, làm mọi người lạc hậu mê tín. Phản bội Phật giáo là những kẻ phá Giới luật của đạo Phật, ngang nhiên giữa ban ngày ăn uống phi thời, ăn thịt chúng sanh, sống theo dục lạc thường tình thế gian. Đó là những kẻ phản bội Phật giáo. Phật giáo chỉ sống ‘ba y một bát’, ăn xin. Còn những kẻ phè phỡn trong nhung lụa gấm vóc, hưởng dục lạc thế gian là những kẻ phản bội lại Phật giáo, bán đứng Phật giáo cho Ma vương, họ lường gạt Phật tử bằng mọi hình thức để móc tiền Phật tử, lợi dưỡng cá nhân của mình. Họ lợi dụng những danh từ “từ thiện” bằng cách này, bằng cách khác. Họ giống như những tay địa chủ giàu có trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Họ ăn trên ngồi trước trên danh và lợi của mọi người, mà Pháp luật không bắt tội họ được. Họ là những kẻ phản bội Phật giáo, làm ngược lại đời sống của Đức Phật, làm ngược lại Đạo giải thoát của Đức Phật. Họ phản bội lại Giáo lý của Đạo Phật. Họ làm Giáo lý của Đạo Phật đảo lộn khiến cho mọi người mờ mịt, mê man, không biết đâu là Chánh pháp của Phật, đâu là tà pháp của ngoại đạo.

Phật giáo ngày nay mà ra nông nổi này là do một số đệ tử Phật đã phản bội lại Phật giáo. Nhưng chúng ta không thể kết án họ, vì họ là những người u mê, không biết, chỉ đi theo gót của người xưa, liếm gót của người xưa, nhai lại đờm giãi của người xưa. Họ chỉ nghĩ rằng người xưa “xưa bày thì nay làm” hoặc là “Tổ Tổ truyền nhau”, chỉ lấy những cái lời như vậy để cho họ làm theo những cái gì mà nó phản lại Phật giáo, phản bội lại Phật giáo.

Họ cho rằng xưa bày nay làm hà, tôi chẳng biết gì hết, hồi nào các thầy các tổ làm sao bây giờ dạy tôi tôi làm vậy, tôi không có làm khác các thầy các tổ được. Phật giáo bây giờ nó vậy thì tôi làm vậy à, chứ tôi không có làm sai. Tổ Tổ truyền nhau như thế nào thì bây giờ tôi cứ theo tổ tổ tôi tu tập, tôi làm như vậy. Tổ có vợ con thì tôi cũng có vợ con, mấy người nói gì nói, tôi chẳng có nghe đâu. Những cái đó gọi là phản bội lại Phật giáo.

Bởi vì mình phải nhìn cái gương hạnh của Phật và chúng đệ tử của Phật ngày xưa, và nhìn lại các Tổ của mình thì mình thấy nó có xa quá xa. Do đó chúng ta không nên trách những người này mà chúng ta nghĩ đến những người sai lạc xưa kia rồi để bây giờ chúng ta đang sai lạc. Rồi bây giờ chúng ta cố chấp cái kiến chấp đó mà chúng ta không chịu buông ra mà cứ sống mãi như vậy gọi là phản bội lại Phật giáo. Không phải họ là những người không hiểu Phật pháp vì giáo pháp của đức Phật còn để lại rõ ràng, nhưng họ vì ngũ dục lạc thế gian mà làm mờ mắt họ.

Nghĩa là bây giờ các thầy biết rõ họ biết Giới luật của Phật là không ăn uống phi thời, không cất giữ tiền bạc, không xây chùa to tháp lớn nè, mà họ cứ mãi họ làm thì không phải là họ không biết Phật pháp. Giáo lý giới luật của Phật rất rõ ràng, cụ thể như vậy. Hàng ngày mà chúng ta có những tạng kinh như tạng kinh Việt Nam bây giờ đã in ra như vậy thì chúng ta đã thấy rất rõ rồi, từ cái tạng kinh A Hàm, bốn bộ kinh A Hàm và đến tạng kinh Nikaya, đều là quá rõ ràng không còn cái chỗ nào sai nữa. Thế mà họ vẫn ngang nhiên họ sống ở trong cái dục lạc rồi họ chỉ nói Tổ Tổ truyền nhau xưa bày nay làm thôi, chứ còn họ chẳng biết cái suy nghĩ này. Cho nên họ phi đi những cái Giáo lý chơn thật của Phật đi, họ chẳng còn biết mà họ ở trên cái dục lạc nó mờ mắt họ, cho nên họ chẳng còn biết cái gì nữa hết. Đó, như vậy họ chỉ nghĩ cái đời sống họ phè phỡn là sung sướng ở dục lạc này thôi.

Hôm nay thì chúng ta thấy rất rõ những cái điều này, vì thế đó là những người phản bội lại Phật giáo. Đâu phải là kinh sách của Phật không có, thì chúng ta cũng cho họ rằng không hiểu. Đằng này kinh sách của Phật có, mà thậm chí Thầy nói mà những người dạy kinh sách Phật đó cho những người khác, cho những người hậu sinh này nghe những cái Giáo lý đó mà họ vẫn sống không có đúng lời Phật dạy đó. Thì như vậy là họ như thế nào, đâu phải là không hiểu, họ hiểu mà họ cố phạm chứ không phải là không hiểu. Họ hiểu mà họ phản bội lại Phật giáo chứ không phải là họ không hiểu. Dục lạc thế gian làm mờ mắt họ, làm tối đen đầu óc của họ, họ mượn chiếc áo tu và chiếc đầu của tu sĩ để sống trong lợi dưỡng danh lợi của thế gian và còn được mọi người kính phục lạy lễ nữa. Chẳng khác nào như vua chúa, họ làm những Đại vương, tiểu vương. Đâu đâu chúng ta cũng gặp, ông nào cũng ở trong cung hoàng, điện ngọc, tức là chùa to tháp lớn đó. Họ tu hành chẳng ra gì, giới luật chẳng nghiêm túc gì mà chùa cất lên thì hằng hằng tỷ bạc. Họ tu hành chẳng ra gì, giới luật không có gì, không có giới nào mà họ không phạm. Thế mà khi họ chết nằm xuống xây tháp vĩ đại, đồ sộ như lăng nhà vua, tiền của ở đâu mà họ xây dựng đồ sộ như vậy? Cả mồ hôi nước mắt của bao nhiêu tín đồ Phật giáo. Một ngôi chùa vĩ đại người ta ca ngợi là Kim cổ kỳ quan thế giới, là một thời đại đau khổ nhất của dân tộc đó. Nhà vua Phật giáo độc tài này bắt dân chúng sưu cao thuế nặng, để làm công trình vĩ đại này. Biết bao nhiêu xương máu của người dân nước này đã tô đắp lên những kỳ quan, những bức tường vĩ đại. Đi ngược lại thời gian ta sẽ nghe tiếng ca thán tận trời xanh lúc bấy giờ. Là người dân hiền lành, làm sao kêu gọi thấu trời.

Nghĩa là bây giờ chúng ta, ai mà có đến thăm ở cái Chùa vàng, chùa bạc, cái  đền Ancót mà ở trên đất nước Campuchia chưa? Chúng ta thấy cái công trình vĩ đại mà người ta gọi là Kỳ quan thế giới đó. Cái gì mà vĩ đại, mà gọi là kỳ quan thế giới thì chúng ta biết rằng cái khổ đau của bao nhiêu người ở trong cái đất nước đó. Họ đâu có bắt người dân Việt Nam qua đắp cái chùa đó được, họ phải bắt dân họ chứ. Bắt họ phải nộp vàng, nộp bạc, rồi tiền rồi thuế này kia, rồi phải đi dân công, phải đập đá, phải đào đá mới xây lên được chứ, bao nhiêu người mới bật lên cục đá vĩ đại như vậy mới xây được cái đền đấy chứ? Nếu ai có đến thăm mới thấy được cái công trình của những người dân ở lúc đó bấy giờ. Nhà vua độc tài họ ra lệnh, nếu mà người nào mà không làm thì họ giết, bắt bỏ tù. Ai cũng sợ chết hết thành ra phải đem xương đem máu mà xây dựng lên một ngôi chùa vĩ đại.

Đạo Phật như vậy, giáo lý của đức Phật như vậy làm sao mà nhìn được những cái điều kiện đó được. Còn bây giờ chúng ta nhìn cái chùa mà có hàng tỷ bạc cất lên, đẹp đẽ vô cùng thì chúng ta nhìn biết bao nhiêu là cái mồ hôi nước mắt của người ta mà góp lại để mà xây dựng nó không, biết bao nhiêu sự đau khổ ở trong đó. Một người mà tu chân chánh người ta không thể nào mà người ta ngồi đó ngó được. Vậy mà có người nói: Ông thầy này ngon thiệt chớ, ổng có uy tín ổng mới cất nổi chứ. Còn nếu mà cái hạn thường thường thì làm sao cất cho nổi, chỉ cất tầm vông cốt tre thôi chứ làm gì mà cất được. Đó là họ sẽ nghĩ, so sánh được mà. Cái người giàu có mới cất được cái nhà tường chứ, còn người nghèo thì cất nhà tranh thôi chứ làm sao cất được nhà tường. Họ so sánh cái kiểu đó. Nhưng một người tu sĩ Phật giáo của chúng ta thì không thể nào mà so sánh điều đó được. Thì chúng ta nhìn thấy cái đồ sộ vĩ đại đó là cái đau khổ. Mà lúc bấy giờ ở thời điểm đó, chúng ta đi ngược lại cái thời gian thì cái lời của những người dân hiền lành đó họ kêu Trời. Họ làm sao họ sống được ở trong cái lúc thời bấy giờ, cho nên tiếng kêu gọi họ làm sao cho thấu trời. Vậy mà cái ngôi chùa đó gọi là thờ Phật. Nhưng chẳng biết làm sao.

Cho nên nói Phật pháp nó suy đồi, nó suy đồi khi mà thấy những ngôi chùa vĩ đại mọc lên càng nhiều thì nó suy đồi. Nó suy đồi là như thế nào? Là không có những bậc chơn tu, là không có những người giới hạnh nghiêm túc. Nó phản ảnh được cái sự tu hành và cái sự không tu hành rất rõ ràng qua cái hình ảnh. Các ông đem những giáo lý vụn vặt gạt người cúng dường xây chùa tháp, tô đắp tượng vàng là được phước báu vô lượng. Lời nói này đã lường gạt biết bao nhiêu người. Vì tâm tham lam ham muốn được nhiều phước báo của mọi người, nên họ đâu tiếc rẽ tiền bạc cúng dường. Vì vậy quý thầy thấy nè, người ta lường gạt họ bằng những cái danh từ rất là bịp bợm.

À, bây giờ các cư sĩ mọi người đều đóng góp để xây chùa tháp, họ đúc tượng vàng hay chuông đồng này kia thì được phước báo vô lượng. Đời nay thì nó không được chứ đời sau sanh lên thì  làm vua chúa hoặc là giàu sang đầy đủ đó, cố gắng đi, bỏ hết đi. Bây giờ mình bỏ cúng dường đi, xây được cái chùa thì sau này thì coi như cái phước báo của quý vị hưởng hết, quý vị hãy ráng cố gắng đi. Cái lời nói đó làm cho người ta- cái tâm tham của người ta mà, người ta muốn được phước báo mà. Bây giờ mình bỏ một đồng hà, ngày mai mình làm vua mình có trăm triệu đồng, không phải sướng sao? Không phải là nghe cái phước báo này ai hổng tham. Mà bây giờ nói chung mọi người, người nào cũng có tâm tham hết hà, mà nghe cái chuyện đó là ai hổng ham. Cho nên đó là lường bịp, cái lời lừa bịp người ta, để rồi người ta bỏ công bỏ sức ra.

Cũng như bây giờ mấy người hổng có tiền mấy người vô đẩy đất đi, đắp nền đi, hoặc là lăn đá đi, phụ đi, cái công đức này bữa sau thì mình sẽ sanh lên những cái nhà giàu sang, phước báo này kia nọ đầy đủ, không có thiếu. Trời ơi, cái ông ổng nai lưng ổng làm công quả thiếu điều tới chừng đó ổng bệnh đau hổng ăn hổng ai cho thang thuốc hết, bởi vì ổng đẩy đá quá nặng. Một hôm ổng ráng ổng đẩy đá làm công quả cho được trời Phật, cho được chùa phù hộ ổng. Cho nên cuối cùng ông đẩy cục đá nặng quá trẹo xương sống ổng về ổng nằm cả tháng ở bệnh viện. Trời đất ơi, đau đó ai chịu. Có phải là ổng vì tham. Tham để mình bỏ cái công ra mình làm để cho được cái phước báo lớn. Vì mình cất chùa mà, mình đem cái công lao của mình ra mình làm công quả mà, cho nên nó được cái phước báo. Vì vậy ông ta cứ nghĩ phước báo, không ngờ cụp xương sống ông ta, ông ta nằm liệt giường mấy tháng trời, mà rồi về đó thì nhà cửa không có tiền bạc khan hiếm, vợ con nghèo nheo nhóc gần chết. Không thấy ơn ông thầy chùa mà ổng cho mình băng nữa, thấy không. Coi mấy ông chùa, ổng cất cái chùa giàu chứ chưa chắc đẩy đá mà được hưởng cái gì.

Cho nên Thầy nhớ hồi ở trên Chơn Không, trong khi ở trên đó đâu có phải ngồi tu không đâu, cũng phải có lao động chứ. Lao động như thế nào, đâu có phải lao động mà làm ra gạo cơm ăn. Thì bây giờ phải lao động cất những cái thất. Mà đất mà ở trên núi, các thầy cứ nghĩ xuôi xuôi gì, làm sao mà làm cái nền được. Ôi thôi quý thầy phải xeo đá, mà đất đá thì nó có cục đá lớn cục đá nhỏ như thế này. Lớn quá thì phải kêu mấy ông thợ đá chẻ ra nhỏ rồi mấy ông mới xúm nhau một cây mà nạy cho nó lăn xuống dưới cái bìa thấp đó. Rồi ở trên này đất cứ đùa xuống, đùa xuống cho làm được cái nền, rồi cái nền mới xây được cái thất hoặc là xây thêm được cái chùa hay cái gì đó. Cứ làm ra làm ra, mà đất ở trên núi thì các thầy nghĩ cứ làm cho được bằng diện tích như cái Trai đường của mình là công lao không phải chuyện dễ đâu. Cho nên có ông đẩy ráng đẩy, làm công quả cho dữ tợn để đẩy cho dữ cho nên có ông cụp xương sống. Hết làm, nằm đó thôi, vì rung rinh là cái xương sống đau quá chịu không nổi rồi. Bởi vì ráng đẩy quá nặng, bởi vì đá mà. Các thầy cứ nghĩ đá là không có bao giờ nó nhẹ đâu. Mà ráng đẩy làm cho được thì cuối cùng được cái này thì mình thọ lấy cái bệnh. Cho nên ông thầy này chẳng còn ngồi thiền ngồi gì hết. Cuối cùng thì hễ sau này mà khi làm gì nặng, nó bớt vậy chứ khi làm nặng thì nó ẹo trở lại. Cho nên cuối cùng thì ông mang cái tật luôn. Mà sao Thầy không thấy ông Phật hay là chùa phù hộ ổng chút nào hết không biết. Để ổng khổ cái đời ổng quá trời. Có phải là vì công quả để được phước báu hay là vì công quả đó để thọ lấy cái quả khổ. Nhưng trước mặt Thầy đã thấy cái quả khổ cho ông ta, còn sau này không biết cái quả đó nó có được hay không? Hay là như hạt giống mà bỏ trên đường đất mà không đúng cách cho nên hạt giống đó nó sẽ không còn nảy hoa quả để đem lại cái lợi ích cho cái người hưởng.

Cho nên chúng ta phải sáng suốt, phải trí tuệ, làm một cái việc gì nó phải đúng giáo lý của đức Phật, cái lời dạy của đức Phật phải ở trong thiện pháp chứ không được để cho người ta lường gạt mình. Những lời này thì quý Phật tử phải suy nghĩ, quý thầy phải suy ngẫm. Chúng ta là những con người không nên lường gạt người khác mà phải làm đúng, nếu chúng ta không tu thì thôi mà đã tu thì quyết tu cho đúng để mà chúng ta xin một hạt cơm của người khác, xứng đáng để mà thọ dụng hạt cơm người khác. Còn tu không đúng thì cái hạt cơm người khác nó là cái nợ cho chúng ta nhiều đời nhiều kiếp mà phải trả chứ không phải nói rằng chúng ta ngồi không đây mà chúng ta làm chùa, cất chùa hoặc là ngồi thiền sơ sơ đây là nó hết nợ đâu? Quý vị chưa chấm dứt được sinh tử luân hồi thì cái nợ này nó còn mãi mãi trong đời của quý vị, chứ quý vị đừng nghĩ rằng ăn rồi nuốt rồi qua khỏi cổ là tiêu rồi đâu, nó không có đâu. Cái mồ hôi nước mắt, cái nhân quả của người ta thì nó không bao giờ tiêu tan được đâu, dù là một hạt cơm. Quý vị mà đem cái sức mồ hôi của mình mà nuôi mình thì nó không nợ ai, còn nếu quý vị mà không đem mồ hôi nước mắt của mình nuôi mình mà nhờ hạt cơm của kẻ khác thì coi chừng mà giải thoát không được đó thì đời đời kiếp kiếp của quý vị không thể thoát được đâu. Bây giờ chúng ta ngồi không ăn đó, nhưng mà chúng ta không khéo đi đến nơi cuối cùng giải thoát, chấm dứt được luân hồi thì chắc chắn quý thầy sẽ tiêu à.

Phải nhớ kỹ như vậy mà đừng có tưởng rằng sung sướng đâu. Giới luật của Phật, nhân quả của Phật nó còn ràng ràng để chỉ cho chúng ta biết cái đường nhân quả, biết cái nợ vay của chúng ta nó dứt hay là không dứt.

À, đó là Thầy muốn nói vì cái tâm tham lam của Phật tử, của những người khác mà mê muội mới nghe cái lời lường gạt này, lại còn kêu gọi những người khác nữa. Nghĩa là cái người Phật tử đó họ đã nghe cái lời lường gạt đó họ tưởng đó là cái phước của họ rồi. Họ cũng bỏ tiền ra rồi họ cũng nghe ông thầy bảo bây giờ Phật tử có quen với ai, cứ kêu gọi họ đi, mọi người đóng góp nữa, mọi người đóng góp càng nhiều càng tốt để cho chùa cất được tốt thì công lao của quý vị, nhất là cái công của cô hay của thầy, của cư sĩ lớn lắm đó, bữa sau nữa phước dữ lắm, chư Phật gia hộ cho quý vị lớn lắm. Cho nên hầu hết là quý thầy thấy có một người cư sĩ khéo miệng lường gạt người ta thôi mà bao nhiêu người khác đóng góp vô, có không? Thầy nói thật sự một cái người mà khéo miệng khéo mồm họ đi rỉ tai người này người kia một hơi thì năm bảy chục người, năm bảy chục gia đình họ đóng góp lại một người một cắt cắt thấy cũng nhiều rồi. Có cái người khéo léo thôi, mà cái người đó là con chim mồi của quý thầy đó, chứ đâu phải là người nào họ cũng đem đến họ cúng mình đâu? Có người đi quyến rũ họ chứ không phải không đâu, họ khéo lắm chứ không phải là không có đâu, mà ông thầy ổng chỉ nuôi dưỡng chừng năm bảy người mà có cái tài mà móc nối mà khéo léo như vậy đó thì cái chùa ổng cất rất dễ. Thậm chí ở Việt Nam đây nè mà có người Phật tử của họ ở đây mà móc được cái người Phật tử ở ngoại quốc. Nói với bà ta bên đó, bà có uy tín bà nói với Phật tử bên đó đóng góp cất cái chùa cho tốt thì bà được phước báo lớn nhất, còn mấy người kia thì nhỏ hơn. Do đó cái ông này, cái bà này nghe như vậy là mình la không chứ có gì đâu. Mình chỉ la không mà cái phước của mình ngon thôi. Mai mốt đây rồi con của mình làm chủ tịch, vì mình làm cái này thì con mình lên làm chủ tịch được rồi. Cho nên bà nỗ lực bà đi làm những cái công chuyện này. Nhưng cuối cùng thì đó là cái mánh khoé để lường gạt mà thôi.

Ông Phật ổng đâu có cho cất chùa. Như các thầy thấy khi mà một vị tỳ kheo mà bị- cái thất bằng cây lá mà bị người ta rút đi rồi, cái vị này mới nói:  à cây lá thì bị họ rút chứ nếu đắp gạch lên, làm cái thất của mình ở chắc chắn là không ai rút nữa. Nhưng mà đắp lên, xây được cái thất của mình bằng gạch bằng đất rồi thì đức Phật sai các vị tỳ kheo đập bỏ hết. Ngay cả những câu chuyện ở trong thời đức Phật như vậy rồi, chứng minh rõ ràng đức Phật đâu có cho chúng ta sống ở trong cái nhà bằng gạch chắc chắn đâu. Chúng ta chỉ sống tạm bợ bữa nay ở đây, mai đi ở chỗ khác, có gì đâu mà phải xây cất kiên cố như vậy?

Đó là những cái, vì vậy mà Thầy nghĩ rằng ngày nay mà chúng ta trở lại đất Phật, chúng ta thấy còn những khu rừng hoang vu mà không có gì hết, mà vì vua chúa muốn giữ lại cái di tích lịch sử đó mới xây cất cái chỗ này chỗ kia để làm lại cái di tích của Phật. Mà ngày đức Phật còn ở tại đó thì chắc chắn toàn là cái chòi tre với vông chứ không bao giờ có một cái nhà bằng gạch bằng ngói gì hết. Thậm chí mà khi nhà vua đi cất cho những vị  tỳ kheo toàn là chòi lá không, không phải là ý kiến của ông Phật sao? Chẳng lẽ vua chúa mà ổng cất cho quý vị như vậy sao? Các con hiểu điều đó, cho nên hầu hết trong cái thời đức Phật sống đều là ở chòi tranh vách lá, do đó nó không dính mắc các đệ tử của Phật.

Ở đây chúng ta muốn nói vấn đề là cái chỗ phản bội, mà cái tâm phản bội là cái tâm rất xấu, một người mà phản dân phản nước, tức là phản bội lại dân nước. Trong cái thời mà chiến tranh chúng ta thấy có người bán dân bán nước chứ đâu phải. Vì cái cá nhân, vì cái lợi dưỡng của họ. Còn những người bắt buộc thì chúng ta không nói, vì cái hoàn cảnh của họ bị bắt buộc.

Đó là một điều kiện mà chúng ta thấy rằng cái người tu chúng ta, nhiều khi chúng ta phản bội lại Phật giáo.

Những người Phật tử làm mối lái kêu gọi các người Phật tử khác cúng dường bằng cách này bằng cách khác. Riêng đời sống của họ càng ngày càng không thấy phước ở đâu, mà thấy những cái tai hoạ xảy đến cho những người này, mà không thể lường được những cái tai họa đó. Thầy có biết được một cái người Phật tử đó, Thầy không nêu cái tên họ ra đây, nhưng mà Thầy biết được cái người Phật tử đó họ thường hay kêu gọi Phật tử chỗ này chỗ kia để đóng góp, để mà xây chùa, hoặc làm này cái kia gọi là Phật sự đó. Cái người Phật tử này cũng lanh lợi lắm, họ cũng mồm mép lắm, kêu gọi người này người kia, làm cho người nào mà nghe bà ta nói thì cũng rất là thích thú để mà cúng dường hết chứ không có người nào mà từ chối cúng dường. Do đó thì cuối cùng thì Thầy đã quan sát được cái gia đình của cái người mà làm công việc này. Bà ta chẳng có ăn có uống gì trong cái đồng điếu nào ở trong cái sự kêu gọi cúng dường hết, chỉ làm xong rồi kêu gọi được bao nhiêu tiền thì giao cho ông thầy hết, chứ không bao giờ bà có cất một đồng riêng gì hết. Nhưng cuối cùng thì Thầy thấy con bà hết đứa này đau đến đứa kia đau, hết đứa nọ rồi gia đình xảy ra hết chuyện này rồi gia đình xảy ra chuyện đến chuyện khác, cuối cùng tới bà rồi bà cũng đau muốn chết bà luôn. Mà bà làm phước mà sao mà, làm phước cho chùa cất chùa tốt tháp này kia đẹp mà sao bà lại thọ lấy cái khổ quá như vậy? Rồi cuối cùng còn lại những đứa con khác thì đứa như thế này, đứa như thế khác nó không đúng là những cái con người tốt trong xã hội này hết.

Đó là những cái mà Thầy thấy trước mặt của Thầy, thậm chí Thầy thấy thiệt là ngao ngán. Tại sao người ta làm những cái chuyện phước mà quý thầy nói là phước báo lớn, thế mà người ta cố gắng người ta làm giúp cho quý thầy mà tại sao cái phước đó không đến cho người ta mà đến cái tai hoạ cho người ta, hay là những cái tai hoạ ở đời nào mà bây giờ họ lại chịu? Điều này là một cái điều suy luận để mà biện hộ, họ làm được những cái điều mà lợi ích cho Phật pháp như vậy gọi là phước lợi ích rất lớn như vậy, họ chuyển tất cả những nhân quả của họ được, tại sao họ chuyển không nổi. Tức là những cái việc làm của họ chưa phải là lợi ích lớn, chưa phải là đúng cái lợi ích. Cho nên do đó họ phải chịu lấy những cái hậu quả của họ đã làm vì đó là cái hậu quả của sự lừa bịp người khác mà họ lại là những người bị sự lừa bịp của người khác nữa. Chính do đó họ kêu gọi những người khác lừa bịp những người khác bằng những cái lời nói mà của các ông thầy đó đã nói cho họ như vậy. Nên cuối cùng thì họ phải chịu lấy những cái hậu quả cho cá nhân họ rất là nhiều. Còn những cái người khác thì ta không kêu gọi ai hết, chỉ đến kêu gọi người ta đóng 5 ngàn, 10 ngàn, 100 hay 200 trăm ngàn rồi thôi, người ta không cần kêu ai thì người ta ít có tội hơn. Còn bà này bả đóng 100 hay 200 trăm ngàn rồi để lo mà cất chùa rồi mà bả còn kêu thêm những người khác phụ vô cất chùa nữa, kêu mười người, hai chục người, trăm người, ngàn người, kêu đóng góp vô.

Cũng như ví dụ như bây giờ ở trên một chuyến xe mà đi quảy hội ở Chùa Bà, khi về đây, thì mọi người ta đâu có chuẩn bị là người ta cúng dường cho chùa mình đâu. Nhưng có cái bà hoặc ông cư sĩ nào đó bắt đầu đến đây, thì cái thoả mãn ông ta là muốn đến đây được nghe thầy thuyết pháp, ông ta xin. Còn mấy người kia họ đi chơi thôi chứ họ đâu mà nghĩ điều đó đâu, do đó ông xin thầy thuyết pháp. Ở đây Thầy nói đây là cái sự thật mà, sau đó thì được Thầy chấp nhận thầy thuyết pháp qua cái điều kiện ông ta hỏi. Hỏi như thế nào đó thầy thuyết pháp ông ta nghe thấy hứng chí quá, hay quá, cho nên bây giờ một mình ông thì có 5 ngàn bạc làm sao cúng coi được. Cho nên mới bắt đầu ông ra ngoài ông rỉ bà con mình đến đây, cái chùa người ta vậy vậy, bây giờ nhìn chùa người ta bằng tầm vông cốt tre không, mấy chùa kia giàu, thôi mấy bà bỏ khá khá đi cúng dường cho ta đi. Lợi dụng cái chỗ tầm vông cốt tre thì chỉ để người ta bỏ tiền nhiều hơn. Do đó người bỏ ra 5 ngàn, mười ngàn, 20 ngàn, mà trên cái xe đò đó khoản độ chừng 60 người hay 100 người đi thì bắt đầu bây giờ nó thành một số tiền quá nhiều. Cho nên do đó có nhiều người họ động lòng họ thấy cái chùa bằng tầm vông trúc tre này nhìn nghèo quá, nhìn cái thất ông thầy ổng nghèo quá. Thôi bà ta còn bao nhiêu tiền, thôi bây giờ mình đi về rồi, chớ mình đâu còn đi chơi nữa, bao nhiêu tôi dốc hết tôi cúng dường cho ông thầy. Bởi vì cúng dường được như vậy là được phước, cho nên họ cứ nghĩ như vậy là được phước, cho nên họ dốc hết họ đi về. Trời ơi về  chồng hỏi, bà đi bà mang tiền hết đi giờ còn đồng nào không? Nói tôi cúng dường hết rồi, trời ơi ngày mai không có cơm ăn bà mang bà đi cúng hết chắc chết tui rồi.

Đó là những cái khổ mà mình không thấy, mà hồi đó cái ông kia tha thiết nói nghe cũng có lý, thôi mình bỏ hết. Nhưng mà sự thật ra mình phải thấy được cái khổ của gia đình của mình.

Thầy nói những cái ví dụ đó, vì cái làm đó nhưng nếu mà nơi đó mà chuyên tu đúng cách thì nó cũng được phước báo, mà nơi đó giới hạnh không nghiêm túc mà mình cũng bị người ta gọi cúng dường như vậy thì nó chẳng phước báo gì cho mình mà  đem đến sự đau khổ cho mình.

Phản bội là một pháp rất ác, nhất là những người tu theo đạo Phật mà phản bội lại Phật giáo, phá kinh sách Phật, thêm thắt đủ điều, viết bậy bạ, không đúng giáo pháp của Phật, như các thầy thấy họ viết Giới bổn không?Họ thêm cái này thêm cái kia, như vậy làm sao mà đúng được cái giới bổn. Sống phá giới luật, viết dịch sai lệch, hoặc thêm, hoặc bớt không đúng giới luật của Phật để lại cho đời sau, không biết đâu là Chánh pháp của Phật, đâu là tà pháp của ngoại đạo. Quý thầy thấy bây giờ kinh sách mình đọc, chẳng biết cái đâu hết, nhiều khi lại cấm không cho chúng ta chỉ, phê bình người tu sĩ sai đúng về phạm giới nữa, cấm người nào nói đọa địa ngục làm cho chúng ta thấy biết mà ngao ngán quá không dám nói. Nói ra là đọa địa ngục đó cho nên cũng không ai dám nói hết. Vì vậy mà các ông thầy mừng, mừng cho đến khi mấy ổng lái xe chạy mà cảnh sát thổi rét rét còn không muốn dừng nữa.

Đó là quý thầy thấy không, đến mức độ như vậy đó cảnh sát cũng lắc đầu, nó cũng sợ luôn mấy ông nầy. Và làm cho đời sau bỏ đời tu hành mà không đi tới đâu được. Nghĩa là người ta vào tu, ai mới bước chân vào tu người ta cũng quyết đi tìm con đường giải thoát hết, nhưng mà lần lượt lần lượt cái đời của người ta nó biến thành cái đời sống mang hình thức của đạo, mà lại đời sống lại là đời sống của thế gian. Người mà biết suy ngẫm một chút người ta biết đau khổ lắm. Nghĩa là quý thầy hôm nay mặc chiếc áo đạo như Thầy, đầu tròn như thế này, quý thầy xấu hổ lắm, chúng ta nếu mà biết được chúng ta thấy đau lòng lắm, xấu hổ lắm. Làm sao cho mình được giải thoát, làm sao cho mình đã đi tu rồi không thể đi tìm cuộc sống một cách hèn hạ ở trong chiếc áo tôn giáo đâu, không thể nào ăn bòn ăn rút của người Phật tử đâu. Chúng ta có sức khỏe, có nghề nghiệp, có những cái việc làm, chúng ta có tiền chứ đâu phải chúng ta là những người không làm ra tiền sao. Thế mà chúng ta ngồi đó mà bòn rút từng đồng từng cắt của Phật tử, nhất là bòn rút của phái nữ. Mấy ông cư sĩ chứ khó ăn của mấy ông lắm đó. Chứ mấy bà nói ngọt ngọt, nói cái gì mà mê tín là mấy bà mê lắm, bỏ tiền ra hết của. Cho nên hầu hết là đi chùa, hầu hết là Thầy nói thực sự nhìn chung đi cư sĩ nam ít lắm mà cư sĩ nữ đầy hết à. Mấy bà nói mấy ông không đi thôi để tôi đi cho, mấy bà giành mấy ông đi hết. Cho nên mấy ông mà đi thì ít có khi cúng dường mấy ông thầy lắm mà mấy bà đi thì bao nhiêu cũng tuôn ra hết. Cho nên vì vậy  mà chùa phần nhiều chúng ta thấy là Phật tử nữ, Phật tử nam ít lắm, một vài người, không có nhiều.

À, đời chẳng ra đời, mà đạo chẳng ra đạo, rất uổng phí cho tất cả những tu sĩ của Phật giáo hiện tại trên cái thế gian này. Nghĩa là chúng ta nói tất cả tu sĩ trên thế gian này không chỉ riêng đất nước Việt Nam, tất cả mọi đất nước trên thế gian này, trên hành tinh này. Người mà theo đạo Phật bây giờ chẳng biết đường nào mà đi hết, chẳng biết cái lối nào mà giải thoát cho họ, họ sống theo cái kiểu mà nửa đời nửa đạo, nó hổng ra gì hết. Dục lạc thì cũng tham mà tham không trọn, mà đạo thì muốn tu giải thoát mà giải thoát cũng không đầy. Cho nên từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc đều là phải thấy hình thức của tu sĩ là phản bội lại Phật giáo. Cái lối sống của họ là họ phản bội lại cái giáo lý của đức Phật, cái giới luật của đức Phật. Cho nên chúng ta thấy chúng ta biết là họ phản bội lại Phật pháp.

Họ sống trái ngược với những người tu sĩ Phật giáo ngày xưa. Nghĩa là những Thánh tăng ngày xưa, chúng ta thấy gương hạnh của các ngài, bây giờ tu sĩ của chúng ta trái ngược trở lại chứ không giống chút nào hết. Bây giờ chúng ta tìm lại những cái điều mà chúng ta cần phải tìm hiểu đó thì chúng ta mới thấy rõ ràng, nếu không phản bội lại Phật giáo ta phải mạnh dạn thẳng tay. Nếu bây giờ chúng ta tìm lại những cái đúng cái sai của Phật giáo thì chúng ta phải mạnh dạn, thẳng tay, chỉ thẳng mặt, không có nể nang không có vị tình một người nào. Bởi vì đạo Phật là đạo Phật còn không phải đạo Phật thì đừng có mạo danh là Đạo Phật được. Cho nên chúng ta phải mạnh dạn, chẳng sợ một ai hết, cứ nói thẳng, người nào mà phá giới, phạm giới, sống không đúng đời sống phạm hạnh của tu sĩ của Đạo Phật thì chúng ta chỉ thẳng để cho họ sửa sai, để cho họ tránh không có làm cái điều tội ác nữa. Phải giúp cho họ thoát ra khỏi những cái điều mà họ đã mê mờ, đã lầm lạc. Mặc dù họ có tìm mọi cách giết chúng ta chúng ta cũng thẳng thắng nói.

Cũng như ngày xưa, ông Galile, người ta bảo ông, chỉ cần ông nói là trái đất vuông là người ta sẽ không giết ông. Thì một nhà khoa học như vậy, người ta vẫn gang dạ trước một cái đám đông như vậy, người ta sắp hành hình ông ta, mà ông nói quả quả đất tròn thì ông nói tròn chứ sao lại bắt ông nói vuông. Cũng như bây giờ Giới luật của Phật, phạm hạnh của người tu sĩ như vậy, bảo chúng ta phải nói sai làm sao chúng ta nói được, chúng ta phải thẳng thắn. Thà là chúng ta chết, chứ chúng ta không bao giờ phản bội lại Phật Giáo. Còn chúng ta sợ chết chúng ta nói thế này thế khác, để mà phạm giới, phá phạm hạnh của Phật thì tức là chúng ta là những người phản bội lại Phật giáo. Cho nên chúng ta không phản lại cái sự thật mà chúng ta lại phải nói đúng sự thật. Dù có chết, sự thật vẫn là sự thật. Một nhà khoa học kia người ta còn không sợ chết người ta còn dám nói cái lời nói đó. Trước một cái Giáo hội đông đảo như vậy người ta đem ra xử cái ông này. Người ta bảo ông chỉ cần nói một lời nói giữa quần chúng đông đảo như thế này là cái trái đất này vuông thì chúng tôi sẽ không bao giờ mà làm hại ông, mà còn ca ngợi ông nữa, mà ông nói tròn là không được. Thì trái đất tròn thì phải nói tròn chứ sao lại nói vuông. Thì tức là thà chết chứ không bao giờ nói sai cái sự thật. Chúng ta là những người tu sĩ Phật giáo cũng vậy, thà chết chứ không bao giờ nói sai, nói phản bội lại Phật giáo được.

Vậy thì hôm nay Thầy muốn nhắc nhở quý thầy qua cái chỗ mà chúng ta phải sống với cái tâm Phật không phản bội và chúng ta cũng phải là người tu sĩ của đạo Phật phải thực hiện cái tâm không phản bội. Mà phản bội đây với ai, phản bội Phật giáo, phản bội Giáo lý của nhà Phật. Phản bội với người khác mà chúng ta không phản bội với Phật giáo, phản bội với Phật giáo tức là chúng ta không phản bội với người nào.

Đó thì những cái điều mà chúng ta cần phải tu học, chúng ta cần phải hiểu.

Để họ tránh làm điều tội ác gạt người bán Phật bán pháp, chạy theo lối sống phong kiến Vua chúa, chùa tháp to lớn. Đó là chúng ta dựng lại Phật giáo, làm tốt lại Phật giáo, thì mới mong có những bậc chơn tu của Phật giáo xuất hiện, còn hiện giờ Phật giáo mất phạm hạnh như thế này thì các bậc chơn tu thiện đức của Phật giáo làm sao họ còn được, họ phải ẩn bóng mãi mãi. Cũng như bây giờ Thầy là một cái người mà tu hành có những kinh nghiệm có thể hướng dẫn người khác mà bây giờ mà Phật giáo như thế này thì làm sao không ẩn bóng được, còn độ ai được nữa, nói ra có ai nghe được nữa. Bây giờ một số quý thầy đang nghe Thầy, chắc gì quý thầy đã nghe lời Thầy nói, chưa chắc đã là tin cái lời Thầy. Cho nên tuy là nói là nói một lẽ, chưa chắc dục lạc cám dỗ ghê gớm, làm gì mà quý thầy sống được những cái lời nói của Thầy đâu, cho nên quý thầy cũng có những cái kiến chấp và lý luận. Thầy nói là một lẽ, ai mà sống được. Mà sống không được như vậy thì Phật giáo làm gì mà có người tu hành giải thoát được đâu? Đó là những cái lý luận của quý thầy để bào chữa những cái sai lệch, cái lợi dưỡng của chính tâm mình mà không thể nào mà mình thoát ra được.

Câu 1, trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như lý tác ý:

“Phản bội là một pháp cực ác, nhất là người đệ tử của Phật, phản bội lại giáo lý của Phật thì còn tệ hại hơn là súc sanh. Tội phản bội ấy phải đọa địa ngục vô lượng kiếp. Ta phải dứt trừ, xa lìa tâm phản bội ấy, hành động phản bội ấy, cuộc sống phản bội ấy”.

Nghĩa là mình nhìn thấy được cái sự phản bội của Phật giáo của các tu sĩ hiện giờ thì bắt đầu mình dùng cái câu pháp hướng này, mình không thể nào, mình phải lìa cái tâm phản bội ấy, cái hành động phản bội ấy, cái cuộc sống phản bội ấy. Hằng ngày mình sống mà ăn uống phi thời đó là mình sống phản bội lại Phật giáo. Hằng ngày các hành động mình thô tháo bằng cách kêu gọi Phật tử này nọ kia góp đóng tiền bạc hoặc là sống trong nhung lụa, trong đầy đủ thì đó là hành động phản bội lại Phật giáo. Cái tâm ham muốn của mình, cái tâm không ly các ác pháp thì cái đó là phản lại Phật giáo. Đó là, cái câu này để chúng ta trạch ra để mà diệt trừ cái tâm ham muốn của mình, cái tâm  phản bội. Thầy xin nhắc lại: phản bội là pháp cực ác nhất, là người đệ tử của Phật, phản bội lại giáo lý của Phật, thì còn tệ hơn là loài súc sanh. Tội phản bội ấy phải đọa địa ngục vô lượng kiếp, ta phải dứt trừ, phải xa lìa tâm phản bội ấy, hành động phản bội ấy, cuộc sống phản bội ấy.Đó là câu thứ nhất.

Câu thứ hai:

Một tu sĩ Phật giáo mà sống phá giới luật, sống không đúng phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo là phản bội lại Phật giáo, mọi người biết được, hiểu được sẽ khinh chê, không còn cung kính và cúng dường nữa. Vậy chúng ta là tu sĩ Phật giáo là phải sống đúng giới hạnh, không phản bội lại Phật giáo, luôn luôn phải xa lìa tâm phản bội ấy. Đó là câu thứ hai.

Mười bốn: Tâm Phật không ngoan cố. À, bây giờ tâm Phật thì không ngoan cố, có cái gì thì ông không có cố chấp, ông xả ra. Còn nếu mà không thì cứ cố chấp hoài trong tâm của ta, đó là đem lại cái sự đau khổ.

Ở đây chúng ta lấy cái tâm niệm Phật thì cái tâm của chúng ta cũng không được ngoan cố. Tâm ta niệm Phật cũng vậy không ngoan cố, ngoan cố là một tánh cố chấp biết sai mà không chịu sửa, biết tội mà không chịu chừa, khăng khăng giữ đến cùng, không chịu từ bỏ kiến chấp sai lệch. Giới hạnh - sống phi phạm hạnh của mình, khi người khác nhắc nhở đến mình còn đặt câu hỏi này câu hỏi khác. Khi mà có người ta dạy cho mình, người ta chỉ cho mình - đó là cái sự ngoan cố của mình. Mình chấp cái chỗ mà mình sống phá giới luật, sống không có phạm hạnh thì người ta chỉ người ta nhắc nhở mình thì mình còn đặt câu hỏi này câu hỏi khác. “Ông ta có phải là Phật không, hay là Bồ tát A La Hán không mà nói như vậy, mà dám chỉ vạch như vậy - lỗi của tu sĩ hiện giờ”. Đó là, những cái câu này là những câu mà Thầy lặp lại, có những người khi nghe cái lời dạy của Thầy trong cái “Phật môn bảo huấn”. Cuộn băng thuyết là Thầy chỉ cho những tu sĩ hiện giờ là sống như vậy không có đúng cái phạm hạnh, sống chạy theo những cái dục lạc, thì có một vài thầy họ đặt câu hỏi như này: Ông ta (chỉ Thầy) có phải Phật không, Ông ta có phải là Bồ tát, Alahán không mà dám nói như vậy? Dám chỉ trích những cái lỗi của tu sĩ bây giờ như vậy? À, người ta đặt câu hỏi như vậy. Sự thật thì quý thầy thấy rằng, trên vấn đề ngày xưa mà có một vị tỳ kheo mà sai, phạm lỗi thì vị cư sĩ đó họ chỉ trích, họ phê bình thì cái đó có cần phải là Phật không? Còn bây giờ quý thầy nhan nhãn sai mà nói quý thầy sai thì quý thầy nói có phải Phật không mà nói như vậy? Quý thầy thấy cái sự luận điệu của họ như vậy. Chỉ có ông Phật nói thì họ mới nghe thôi, bây giờ không phải ông Phật nói thì ai nói họ cũng chẳng nghe, ý họ muốn nói như vậy đó.

Ngày xưa trong thời đức Phật, những cư sĩ có phải là Phật, Bồ tát , A La Hán đâu, họ luôn luôn thấy tu sĩ, các vị tỳ kheo sai lầm, đều chỉ trích những cái sự sai lầm ấy để cho các thầy tỳ kheo sửa lại. Còn bây giờ thì quý thầy rất là ngoan cố, bây giờ mới thấy cái chỗ mà các thầy nói như vậy thật ngoan cố. Mình không thấy cái lỗi của mình phạm giới, phi phạm hạnh như vậy. Mà bây giờ người ta nói thì mình không sửa thôi mình làm thinh đi. Còn cái này còn ngoan cố để bào chữa mà; ông ta có phải là Phật, Bồ tát không mà dám nói vậy. Đó, các thầy thấy cái lời họ nói như vậy thì các thầy nghĩ như thế nào? Họ rất ngoan cố đó, đã phạm giới, không sửa mà còn hỏi Phật, Bồ tát, A La Hán. Nếu quý vị biết họ là Phật, Bồ tát, A La Hán thì quý vị còn có được gặp họ chăng? Nếu mà ổng, cái ông đó mà ổng nói ổng là Phật, Bồ tát, A La Hán thì khi mà biết họ là Phật, Bồ tát, A La Hán mà nói mình rồi thì quý vị có còn gặp được ổng nữa không?

 

Bởi vậy, ngoan cố là một pháp rất cực ác, khiến cho người ta cố chấp không chịu buông xả để đời đời kiếp đọa ở địa ngục, nợ nần của đàn na thí chủ biết bao giờ mà trả cho hết.Quý thầy có thấy chăng, những vị tu sĩ ngoan cố không chịu sửa sai, sống không đúng phạm hạnh, để giờ phút chết lâm chung để lại một thảm trạng đau lòng cho những người đệ tử cũng như những người tu sĩ sau này. Đó cũng là một sự cảnh báo của những người tu phạm giới, phá giới, phi phạm hạnh, những người tu sĩ ngoan cố, chẳng bao giờ để ý thầy tổ mình, họ để lại những gương xấu đau lòng. Mắt họ đã nhìn thấy cái thảm trạng này, tai họ đã nghe những cái cực hình này của những bậc thầy của họ mà họ không có chịu sửa đổi.

Khi đã thông hiểu được Phật pháp, gần gũi các bậc giới đức sống đời phạm hạnh, ta hãy noi gương theo họ, xả tâm ngoan cố, chấp hành giới luật, sống đúng đời sống phạm hạnh là ta đã thắp sáng lại ngọn đèn của Phật pháp, làm sống lại Phật pháp. Chùa to tháp lớn chúng ta dẹp qua một bên, để thực hiện đời sống trắng bạch như vỏ ốc, giải thoát hoàn toàn những sợi dây ràng buộc, thương ghét và đoạn dứt những dục lạc thế gian, để thanh thản tiến bước đến mục tiêu giải thoát sanh tử luân hồi hoàn toàn. Nghĩa là chúng ta phải cất chùa to tháp lớn, dẹp sạch đi để cho họ đi tham quan đi, đừng có thèm ở trong đó nữa. Bây giờ đi cất cái chòi tranh vách lá nào đó ở trong cái khu rừng hoặc chỗ nào yên tịnh, nơi đó để chúng ta thực hiện thiền định, giữ gìn giới hạnh, sống đúng phạm hạnh của Phật để ly dục ly ác pháp, thực hiện Định vô lậu, xả hết tâm lậu hoặc, thực hiện bốn Thiền để làm chủ sống chết. Đó là những cái điều mà hiện giờ Thầy thành thật khuyên quý thầy ai có chùa to tháp lớn dẹp hết đi, không có còn kêu gọi Phật tử đóng góp để xây dựng nữa. Chùa quá nhiều rồi, xây quá nhiều rồi, tiền bạc đổ xuống đây quá nhiều rồi, bao nhiêu mồ hôi nước mắt của quý vị đổ quá nhiều. Thì quý thầy không nên mà giữ gìn nó nữa, bỏ hết xuống đi để chúng ta tìm lấy cái sự giải thoát. Vậy ta trạch pháp câu này để thường nhắc tâm ta hướng đến Như lý tác ý:

“Ngoan cố là một pháp cực ác khiến cho ta khó buông xả, khiến cho ta sống phá giới, sống phi phạm hạnh, sống theo dục lạc thế gian và không chịu buông bỏ, ta phải đoạn dứt, ta phải từ bỏ nó. Ngoan cố hãy đi đi, đi để cho ta sống đúng đời sống phạm hạnh, sống không phạm giới, sống ly dục ly ác pháp. Một lần nữa ngoan cố hãy đi đi, đừng có ở đây, không được ở đây, không được bén mảng với chúng ta nữa, đi đi”.

Đó là chúng ta ra lệnh đuổi cái tâm ngoan cố, không khéo ngoan cố nó cứ dính hoài trong tâm chúng ta nó không chịu buông ra. Ví dụ như mình muốn cái gì đó mà mình không có thoả mãn được nó thì mình phải dùng cái pháp hướng này, mình tu tập mình đuổi nó đi, chứ không khéo nó đòi hỏi nó không được thì nó sẽ thành ra cái tâm nó làm chúng ta khổ đau. Do vì vậy mà chúng ta phải dùng cái pháp hướng này. Thì chúng ta biết đó là những cái pháp mà nó là cái pháp ác nó làm cho chúng ta rất khổ sở, làm cho tâm chúng ta không được vui vẻ, làm cho tâm chúng ta rất là đau khổ, cho nên chúng ta phải xả nó đi, phải quét sạch nó ra đi, để lần lượt chúng ta đi vào thẳng con đường giải thoát. Từ đó chúng ta phải nỗ lực, từng mỗi cái mỗi cái mà Phật đã dạy chúng ta trong này là những điều mà chúng ta cần phải tu tập, hết sức tu tập mỗi tuần, chứ còn nếu mà chúng ta không tu tập thì chắc chắn chúng ta sẽ không đạt được.

Mười lăm - Tâm Phật không nông nổi.

Bây giờ chúng ta, từng cái phần nhỏ phần nhỏ để mà chúng ta lấy cái tâm mà niệm Phật chúng ta phải biết từng cái phần này để mà dùng cái pháp hướng để mà chúng ta thực hiện ở trong cái sự tu tập của mình. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không nông nổi. Nông nỗi là nông cạn, hời hợt, thiếu cân nhắc suy nghĩ trước khi hành động, đó là một tánh tình bộp chộp. Bởi vậy Phật dạy chúng ta ý tứ, tư duy khi muốn làm một điều gì, hầu hết là quý vị quý thầy ở đây phải có suy nghĩ kĩ lưỡng, phải tư duy cân nhắc để rồi khi làm nó không có bị thất bại. Còn nếu mà quý thầy nông nỗi bộp chộp thì quý thầy sẽ gặp những thất bại khi mà làm những công việc gì.Cũng như quý vị tu hành mà quý vị không có suy nghĩ kĩ khi mà cái pháp hành đó đúng cái thời điểm đó hay là không đúng thời điểm đó. Cho nên quý vị nông nổi lắm, nghe nói hay là cứ lo tu chứ còn chưa biết, chúng ta phải suy nghĩ cái đó nó phải ở trong chỗ nào, lúc nào, chỗ nào, thời nào, cái điểm nào mà chúng ta tu cái tâm này.

Từ ngày Thầy dạy các thầy tu tập năm loại định, có năm loại định:

1- Định niệm hơi thở,

2- Chánh niệm tỉnh giác định,

3- Định sáng suốt,

4 - Định vô lậu,

5- Hiện tại an lạc trú định.

Mỗi loại định tu đều có khác nhau, thế mà quý thầy đã nông nổi không chịu suy tư tu tập như thế nào cho đúng, quán như thế nào cho đúng, hướng như thế nào cho đúng. Đến khi Thầy hiểu được là quý thầy đã tu sai. Quán Vô lậu mà quý thầy cứ kê ra một chữ hoặc là một số chữ nghĩa nào đó để rồi quý thầy cứ nhẩm đi nhẩm lại cái số chữ đó mà nó không thành ra một cái chỗ Vô lậu của nó. Đó là quý thầy sai, tức là quý thầy có cái sự lười biếng ở trong cái sự quán Vô lậu. Quý thầy quán như vậy thì biết bao giờ cho hết lậu hoặc, nghĩa là quý thầy đem ra một số từ Thầy ví dụ như “ vô thường, khổ không, vô ngã “ rồi quý thầy cứ đem cái thân mình đặt ra thân vô thường, khổ không, vô ngã. Rồi cứ quán hoài như vậy, đọc hoài như vậy cũng như là niệm Phật như vậy thì thử hỏi cái quán này nó có nhằm nhò gì cho cái sự tu tập của quý thầy đâu. Bởi vậy Thầy mới sợ quý thầy không hiểu mới nêu lên những cái gương của các Thánh Tăng, của các  Ni, trong cái thời trước để lấy đó mà chúng ta tự suy tư tìm cái vô thường cái khổ nó như thế nào để mà tu tập.

Muốn cho quý thầy tự mình khai triển được cái trí tuệ vô sư, cái tri kiến giải thoát, chớ đâu có muốn cho quý thầy nhẩm đi cái đờm dãi đó hoài, làm sao cho nó vô lậu được. Rồi đến cái định Chánh niệm tỉnh thức định, không biết như thế nào, có đúng hay không, cho đến Định sáng suốt, chẳng ai thưa hỏi gì cả, chắc chắn là không có tu. Theo Thầy nghĩ mà, nếu tu thì chắc các thầy sẽ có cái sai cái đúng chứ, làm sao mà không thấy trình gì hết, đâu lẽ dạy như vậy mà quý thầy tu cái đúng liền đâu? Cho nên quý thầy không có trình bày cho Thầy biết, vậy mà Thầy nghĩ rằng cái sự tu của quý thầy chưa hẳn đã là đúng. Định hiện tại an lạc trú thì người trình hơi thở như thế này, kẻ trình hơi thở như thế khác, tu thì có tu, nhưng tu đúng cách thì như thế nào đúng. Hầu hết quý thầy không rõ. Cho nên nhìn quý thầy sống thì biết quý thầy tu đúng tu sai. Nghĩa là nhìn cuộc sống của quý thầy hiện mà đang ở trong tu viện này, cái lối sống của quý thầy thì biết quý thầy đã ở trong năm cái định này có tu đúng tu sai Thầy biết, chứ Thầy không có cần mà theo dõi hơi thở của quý vị. Thấy cái lối sống là biết được cái sự tu của quý thầy. Nếu một người mà tu đúng thì họ phải như thế nào, mà tu sai thì họ phải như thế nào?

Đó thì quý thầy biết được cái điều đó, nếu một bậc thầy người ta có kinh nghiệm, người ta thấy cái lối sống người ta biết cái thiền định nó đúng, người ta thấy cái lối sống nó không đúng thì tức là cái thiền định đó tu sai.

Thời gian của Thầy nó không cho phép nữa, còn ngắn quá mà làm việc nhiều quá. Bởi vậy lấy tâm niệm Phật thì quý thầy không được nông nổi, mà quý thầy muốn tu một cái định nào phải suy nghĩ cho kĩ xét xem có đúng chưa rồi mới thực hành, khi thực hành còn phải xem coi có kết quả hay không, hay có những trạng thái gì xảy ra, những trạng thái đó đúng hay sai, phải thưa hỏi lại, nếu không thực hỏi, lỡ có gì, sửa rất là khó khăn. Câu này quý thầy phải trạch pháp để dùng pháp hướng như lý tác ý:

Tánh nông nổi là một tánh bộp chộp, rất xấu, thường đưa người ta đến thất bại trong mọi việc làm cũng như trong sự tu hành. Từ đây làm việc gì hay tu tập ta thường nhắc nhở không được hời hợt nông cạn, suy tính cho kĩ lưỡng rồi mới hành. Tánh nông nổi phải đi không được ở nơi ta nữa, nông nổi việc gì cũng thất bại, hãy đi đi đừng ở đây nữa”.

Nghĩa là mình nhắc mình đuổi như vậy, cho nên mỗi lần nhớ nó thì mình muốn làm việc gì, mình muốn tu gì thì mình suy nghĩ rất kĩ rồi mình mới làm. Chứ còn mình không suy nghĩ tới nó thì mình bộp chộp lắm, ngay đó mình lo mình tu à, không có chịu suy nghĩ cái đó đúng hay sai. Cho nên từng những cái pháp như vậy, từng những cái điều kiện rất là quý báu mà chúng ta cần phải theo dõi cần phải hiểu để mà học.

Đó là những cái cơ bản, căn bản mà chúng ta đi vào thiền định. Nó là những cái pháp mà cần lúc nào chúng ta cũng tạo thành cái niềm tin bất diệt ở trong lòng của chúng ta đối với Phật. Bởi vì tâm Phật như vậy mà tâm ta không có đúng như vậy thì tức là chúng ta quy  y Phật làm gì? Quy y Phật phải là nương theo Phật, phải sống như Phật mà bây giờ nó còn khác Phật thì chúng ta phải nỗ lực làm sao cho giống Phật, như vậy gọi là niệm Phật. Còn nếu mình không theo Phật thì thôi, thì mình muốn niệm cái gì cũng được, còn mình đã theo Phật thì mình phải niệm Phật bằng cách đúng của Phật. Tại sao theo Phật lại không làm đúng, mà làm đúng như vậy thì có giải thoát không? Mà có giải thoát rồi thì quý thầy thấy như thế nào? Tin không? Tin chứ, nếu không có kết quả làm sao ai tin, mà đã có kết quả là phải tin. Cho nên, từng cái tánh nhỏ mọn, như là nông nổi, như là phản bội mà chúng ta nghe danh từ nó thì thường, nhưng mà đến rồi chúng ta mới thấy hành động của chúng ta, sự diễn biến của Thầy để cho quý thầy thấy rõ sự diễn biến đó là những hành động phản bội, những hành động nông nỗi của chúng ta cho nên đưa dần chúng ta đến chỗ sai lệch.

Ngày mai chúng ta sẽ học buổi thứ mười, tâm ta không phóng dật. Bây giờ chúng ta dừng lại.

Trước khi học tâm Phật không phóng dật, Thầy xin đọc lại một cái bài kệ của một vị Thánh tăng để giúp cho chúng ta trên đường tu tập tâm không phóng dật.

Ngài Khitaka, sau khi chứng quả A La Hán, thường thường là ngài dùng kệ khuyến khích các bạn đồng tu của mình. Qua cái bài kệ này, chúng ta nghe để mà chúng ta cố gắng giữ tâm mình không phóng dật như tâm Phật vậy:

“Tâm ái như tảng đá,

Đứng vững không dao động”

Cái tâm mà ham muốn của mình, mình tập luyện nó như là một cái cục đá, luôn luôn nó vững vàng trước các cái pháp làm cho nó bị dao động thì chúng ta cố gắng giữ không dao động. Và do nó không dao động thì cái tâm chúng ta không phóng dật ra ngoài, vì vậy mà chúng ta sẽ thoát ra những cái khổ đau do các vật, các hoàn cảnh, các sự kiện nó lôi cuốn nó làm cho chúng ta khổ sở trong cái cuộc sống của chúng ta hàng ngày.

“Hỡi vật khả ái kia,

Tâm ta không tham ái”

Nghĩa là tất cả mọi cái đối tượng của ngũ dục lạc ấy, thì nó gợi lên những cái khả ái, khả lạc, khả hỷ dễ làm cho tâm chúng ta dễ bị say đắm, dễ bị ham mê. Do vì vậy đó mà chúng ta phải giữ gìn cái tâm của mình không có cho tham ái. Cho nên Ngài mới nhắc ‘hỡi vật khả ái kia, tâm ta không tham ái’. Thì như vậy, giữ cái tâm của mình như vậy nó không có ham muốn thì các vật kia nó không cám dỗ được và do đó mình mới giữ tâm mình nó mới vững vàng như cái tảng đá.

“Đối vật dễ dao động,

Tâm ta không dao động”

Trước các vật, trước các pháp, tâm nó dễ bị dao động lắm nhưng người tu hành thì phải đầy đủ cái nghị lực, đầy đủ cái can đảm không có để cái tâm chúng ta bị dao động theo các cái vật nó cám dỗ nó lôi cuốn mình.

“Tâm ai tu tập vậy,

Từ đâu khổ sẽ đến”

Nếu mà chúng ta giữ gìn tâm được như vậy đó, cái tâm mà không phóng dật theo vật được như vậy thì làm sao có khổ đến với tâm ai? Đó là cái bài kệ của ngài khuyến khích ta tu hành để cho cái tâm của chúng ta không phóng dật. Cho nên trước khi mà học về tâm Phật không phóng dật thì chúng ta phải lấy cái bài kệ này để rèn luyện, để thực tập cho chính tâm mình nó không phóng dật. Đây Thầy đọc lại cả bài kệ:

“Tâm ai như tảng đá,

Đứng vững không dao động,

Hỡi vật khả ái kia,

Tâm ta không tham ái,

Đối vật dễ dao động,

Tâm ta không dao động,

Tâm ai tu tập vậy,

Từ đâu khổ sẽ đến”.

BĂNG SỐ 53

Sống gần gũi họ, bởi vì cái đời sống của họ là cái đời sống nó đúng cái giới hạnh, họ không có chạy theo cái dục lạc và những cái người đó họ mới có những cái pháp họ tu và họ tu như thế nào mà họ được như thế đó. Và vì vậy mà mình đến những người đó mà mình học cái pháp của họ, mình nương vào những hành động đó. Cho nên là ở đây Phật dạy chúng ta mà muốn cho cái tâm mình không phóng dật thì mình phải thân cận, thân cận là mình phải sống gần gũi với bậc đó, rồi mình học những cái pháp của họ, của những bậc Thánh đó. Họđã tu tập nó, họ học những cái pháp để hiểu những cái pháp làm sao mà  họ sống được như vậy.

Ví dụ như giờ Thầy ăn ngày một bữa, Thầy sống như thế nào mà Thầy ăn được một bửa và Thầy sống như thế nào mà Thầy không ngủ, Thầy sống như thế nào mà Thầy nhập được thiền định, Thầy sống như thế nào mà Thầy không có giết hại chúng sanh? Do đó mà các con được thân cận những bậc đó thì các con sẽ học hỏi được những cái pháp và nương tựa cái gương hạnh của các bậc đó thì các con sẽ thấy mình giải thoát hoàn toàn.

Và vì vậy mà đức Phật bảo mình phải thân cận những bậc thánh, mình nương tựa vào những bậc thánh và đồng thời những bậc chơn nhân. Bậc chơn nhân không phải là những bậc thánh đâu. Bậc Thánh là những người mà họ sống y như những người phàm phu họ sống gần ở bên những người khác nhưng mà cái lối sống của họ nó không phải sống ở trên cái xa hoa, cái cuộc sống mà dục lạc của thế gian. Mà đời sống của họ nó là đời sống thánh thiện, cái đời sống giải thoát. Còn những bậc chơn nhân thì họ ở trong rừng trong núi, họ ở những cái nơi mà túp lều tranh, hang đá, là những cái bậc chơn nhân.Và nếu mà mình được gặp những cái bậc đó nữa thì nó quý biết là bao nhiêu vì mình sống cái đời sống mình bỏ hết cái cuộc đời, mình không còn sống ở trong cái xã hội này nữa. Coi như là mình tách lìa ra cái xã hội để mình thực hiện con đường tu tập của mình đến rốt ráo. Và từ cái mà mình rốt ráo rồi thì mình mới trở về mình sống cái đời sống thánh thiện.Mà đời sống thánh thiện để cho mình làm gương cho người khác, để cho mọi người người ta nương vào cái gương hạnh của mình. Và cái lời nói của người khác nó ở gần bên mọi người, đó là những bậc thánh.

Cho nên thí dụ như trong thời gian mà Thầy đang ở trong thất Thầy tu mà các con được sống ở gần bên những cái bậc mà họ đang ngồi ở trong thất mà tu hành mà những cái giới hạnh, những việc làm của họ rất là nghiêm túc lắm, đó là những bậc chơn nhân. Còn những cái người mà đang sống như Thầy hiện giờ mà đang sống gần bên quý thầy đó, đang sống gần bên các con để dạy các con, rồi lấy gương hạnh mình để làm gương cho các con soi để mà các con tu tập đó thì đó là những bậc Thánh. Do đó những cái đời sống của họ nó khác lạ hơn cái đời sống thường tình của thế gian. Thay vì đời sống thường tình của thế gian thì người ta nằm giường cao rộng lớn còn cái đời sống của những bậc Thánh thì người ta nằm giường tre, hoặc người ta nằm trên đất hoặc người ta nằm trên đá. Đó là những cái đời sống có thánh thiện. Người ta không còn dính mắc với vật chất nhưng người ta sống ở trong với mọi người nhưng người ta không tách lìa mọi người, người ta không tách lìa thế gian mà người ta sống ở trong cái thế gian, người ta đem cái gương hạnh sống đó mà người ta hướng dẫn cho người khác để cho người khác buông xả, để cho người khác không khổ.

Cũng như bây giờ có một người làm ăn đổ nợ đổ nần họ khổ sở hết sức mà bây giờ không biết cách thức nào mà giải quyết được thì họ gần gũi các bậc Thánh thì họ bạch thầy: Con gặp những trường hợp làm ăn như vậy, bây giờ khó khăn vậy, bây giờ làm sao con thoát ra khỏi cảnh khổ. Thì gặp cái vị đó, thì cái vị đó sẽ chỉ cách thức cho họ thấy cái đường đi nhân quả, nhân quả của chính bản thân người đó và người đó thấy được đường đi nhân quả thì họ giải quyết ở trong cái nhân quả, cho nên đem lại cái cuộc sống của họ không còn nợ nần, không còn khổ đau nữa. Từ lâu họ lầm chấp rằng mình vì cái vấn đề làm ăn như thế này, bây giờ lỡ người ta biết được cái điều kiện mình như thế này rồi họ cười họ chê mình như thế này, thế khác, cho nên mình khó sống ở trong xã hội này quá. Nhưng mà gặp bậc Thánh nó không sợ cười chê đâu, mà cái khổ tâm nhất là cái nợ nần, rồi cái lời cái vay nợ của người ta, tiền lời của mình mỗi ngày cứ mỗi chồng lên, rồi càng ngày lún sâu lún sâu riết rồi mình phải chết, nhiều khi rồi mình phải đi ở tù nữa là khác. Còn bây giờ, ngay bây giờ mình còn một cái phần nào đó, mình giải quyết cho tất cả cái nhân quả này đi, mình trả sạch cái nợ đi, mình trả sạch cái nợ đi thì từng đó mình bây giờ còn một đồng thì mình ăn một đồng, một cắc mình ăn một cắc. Lúc bây giờ tâm hồn mình thanh thản, đó là mình giải quyết nhân quả. Còn nếu mà để cái nhân quả này càng ngày nó càng lún sâu hơn nữa thì chỉ còn có nước mà đi ở tù hoặc là chết, tự tử chứ không thể nào mà sống được hết.

Đó là gặp những bậc Thánh người ta chỉ đường đi nhân quả rồi mình sáng ra, mình thấy: ờ mình hồi đó mình cứ sợ người ta cười chê mình, cho nên vì vậy mình cứ vay vốn, vay thêm, vay thêm bỏ vô để mình đi tiến tới cái chỗ mà tìm cái danh giả, cái hư giả mà cuối cùng mình càng lún sâu, càng chết. Cho nên gặp được những bậc mà chơn tu, những bậc Thánh hiền thì người ta chỉ cho mình cái nhân quả, để rồi từ đó mình thấy bây giờ bán nhà bán cửa, bán tất cả những cái gì đó trả cho hết cái nợ để không còn cái lời nữa, cuối cùng mình giải quyết được cuộc sống. Bây giờ còn ở trong túp lều nhưng mà mình thanh thản, cái khả năng, cái tài của mình nó vẫn còn, từ cái chỗ mình trở về với hai bàn tay không để rồi mình vươn lên thì trong một năm, hai năm mình sẽ giàu có trở lại bằng cách là mình không vay nợ ai nữa hết. Còn bây giờ hồi nào tới giờ mình không hiểu cho nên mình cứ ngỡ tưởng mình cứ vay tiền, vay nợ người ta để bỏ vô để làm nhưng mà cuối cùng làm mà chúng ăn hết mình không có đồng nào hết. Càng ngày mình càng khổ.

Vừa rồi có một người Phật tử đến gặp Thầy, cũng ở trong cái trường hợp mà Thầy đang giảng hôm qua cho các con chứ đâu ai, nhưng vì trong cái nỗi khổ của họ nên họ mong ước gặp Thầy để mà giải quyết cho sự khổ của họ. Chính cái người Phật tử này mới thưa hỏi, Thầy chỉ dạy cho họ cách thức, đường đi nhân quả của chính bản thân của họ, họ đã từ cái ngày mà gieo cái nhân quả đó. Bây giờ khi mà nhận ra được lời nói của Thầy rồi thì họ xin hứa với Thầy là họ về họ bán sạch họ giải quyết để tâm hồn họ được giải thoát, để họ trả hết tất cả cái nợ, không còn cái nợ (cái lời đó), tức là sạch đi, dứt được sự khổ đau của cuộc đời. Đó thì các con thấy.

Nếu mà gặp người khác thì họ bảo bây giờ phải vô chùa lạy Phật, cầu Quan Âm, tụng kinh Pháp Hoa cho nhiều đi rồi đức Phật Quan Âm phù hộ. Rồi cuối cùng cứ vay nợ đổ vô đây thì cái người Phật tử này riết riết chắc là có thể nói là đi vào tự tử chết chứ không sống nổi. Bởi vì càng ngày cái lời nó càng đổ vô mà mình làm thì người ta ăn chứ mình không có ăn mà riết rồi mình chết. Còn Thầy dạy thì họ chấm dứt ngay liền, nhân quả đoạn dứt liền, chuyển liền, đời sống họ thanh thản. Rồi bắt đầu cái tài, cái khả năng của họ có họ sẽ vươn lên làm lại một cuộc đời mới mẻ và thánh thiện hơn, không nợ nần ai hết.

Đó thì các con thấy trong cái vấn đề mà gặp bậc chơn nhân và bậc Thánh nó lợi ích rất lớn. Còn cuộc đời mà các con không gặp bậc chơn nhân, bậc Thánh thì cuộc đời tu hành của các con cũng phí mà thôi. Bởi vì cái gương hạnh không có sống đúng giới hạnh, không có sống đúng thánh thiện nè, rồi pháp môn họ tu không có đúng nữa rồi làm sao các con đi tới được. Cho nên các con thấy này, như hồi nào tới giờ người ta dạy các con niệm Phật phải không? Các con biết rất rõ ai cũng biết niệm Phật hết, đúng không? Thế mà bây giờ niệm Phật các con có thấy giải thoát chưa? Chưa có người nào mà giải thoát hết. Mà bây giờ ngay Thầy dạy các con nè, lấy thân niệm Phật nè, mà các con thấy bao giờ có người ta dạy các con thân niệm Phật đâu. Chưa từng. Mới chỉ nghe lời Thầy dạy lấy thân mà niệm Phật, lấy Tâm mà niệm Phật, lấy Thọ mà niệm Phật, lấy các Pháp mà niệm Phật. Đây là lần đầu tiên ở trong cuộc đời mà theo Đạo Phật các con mới nghe. Mà phải không? Các con thấy cái điều đó có không? Nhưng mà các con lấy thân niệm Phật nè, lấy thọ niệm Phật nè, lấy tâm niệm Phật nè, lấy các pháp niệm Phật nè, các con thấy giải thoát ngay liền tức khắc. Có không, các con thấy không. Đầu tiên các con vô quy y Tam bảo nè, là nương tựa vào ba ngôi Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng thì người ta dạy các con niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chứ gì. Các con nói niệm Phật là nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng. Rồi gặp nhau chào hỏi cũng nam mô Phật, mà cuối cùng rồi không giải thoát gì hết, đụng nhau có khi nảy lửa nhau rồi cải lộn nhau nữa chứ đừng nói, làm ăn thì cũng hơn cũng thua chứ chưa chắc là nhường nhau. Đó thì niệm Phật mà niệm kiểu đó có giải thoát không? Còn ở đây Thầy dạy các con niệm Phật có giải thoát hoàn toàn. Nếu mà các con nghe lời Thầy dạy đúng, dùng pháp hướng trạch ra những cái pháp để nó áp dụng đúng cách thì các con sẽ thấy thân tâm của các con thậm chí như cái thọ của các con đau nhức đến cái mức độ cuối cùng các con vẫn thấy thản nhiên, thấy giải thoát hoàn toàn không có sự đau khổ nữa.

Ở đây thì cái phóng dật là một cái điều rất khó, không phải dễ cho nên muốn mà không có tâm phóng dật thì các con phải gần các bậc Thánh hiền, bậc chơn nhân. Do những cái hành động sống của họ, do những cái pháp của họ tu hành thì các con sẽ được giải thoát. Cho nên hàng ngày các con phải tu tập và trau dồi những cái pháp của những bậc chơn nhân, có như vậy tâm các con mới không phóng dật.

Ngày xưa đức Phật thấy tất cả chúng sanh đau khổ, lăn lộn ở trong sanh tử luân hồi là vì không xa lìa được dục tâm phóng dật cho nên Ngài xót thương mà nói cái bài kệ. Đức Phật thấy chúng sanh do cái tâm phóng dật của mình mà không có làm sao dứt được cho nên Ngài mới nói cái bài kệ để cho chúng ta hiểu qua cái bài kệ này để mà chúng ta ngăn ngừa cái tâm phóng dật của mình.

Đây cái bài kệ như thế này :

                                       Khó thấy được vô ngã

                                       Không dễ thấy sự thật

                                       Với người có hiểu biết

          Xa lìa tâm phóng dật

                                       Vị ấy đã thấy rõ

          Đâu còn có vật gì

Nghĩa là nó đâu còn dính vật gì đâu, mình không phóng dật thì đâu còn dính vật gì đâu . Đây bây giờ Thầy đọc bài kệ qua rồi Thầy giải thích cho thấy.

Khó thấy được vô ngã- nghĩa là các pháp đều là vô ngã, không có cái ngã thật. Nhưng mà mình cứ thấy à cái đồng hồ, có cái đồng hồ rồi làm sao mà nói là vô ngã thật. Nhưng mà đâu ngờ rằng cái đồng hồ này nó bây giờ nó có, đem lửa đốt nó rồi còn không. Nếu mà nó thật thì nó đâu có cháy, phải không?  Nó không thật cho nên nó có rồi nó phải hoại diệt, nó đâu có thường hằng được. Cho nên bây giờ thấy nó chạy vậy chứ mai mốt cái nó hư nó đứng đó thì còn có nước quăng đống rác ai thèm nữa. Các con thấy không, cái máy này bây giờ nó đang chạy tốt như vậy mai mốt nó hết chạy, sữa không được nữa thì quăng đống rác chứ còn ai mà thèm nữa, để làm chi trong nhà cho chật. Cho nên nó có không, nó có ngã không? Cho nên nó thật sự là vô ngã cho nên nó thường có sự... Bây giờ nó mới rồi lần lượt nó cũ rồi nó hư hoại đi.

Cũng như cái thân mình, mình nói nó thường, thường sao được. Thường sao mà hồi nhỏ thì nó mạnh khỏe, bây giờ nó già yếu, bây giờ nó ho hoài nó muốn chết rồi, bây giờ cái sức khỏe nó càng gầy rồi, nó không biết nó đi ngày nào rồi vậy mà sao nói nó là thường, là ngã được. Thật sự là nó vô ngã. Cho nên tuy rằng nói là khó thấy được vô ngã. Mình thấy mọi vật nó điều có thật, tại sao nói mình vô ngã? Ông Phật ông nói nghe thấy lạ nhưng thật sự là nó vô thường chứ đâu có thường đâu, phải không. Khi mà vì vậy, vì các vật nó có thật nhưng mà trong cái bản chất của nó không có thường tồn được, nó không có vĩnh viễn được cho nên Phật nói vô ngã. Nhưng mà thấm được cái lý vô ngã đó thì chúng ta phải tu cái Định vô lậu, nó thấm được cái lý vô lậu nó chứng được cái lý vô ngã. Cho nên lúc bây giờ chúng ta đâu còn thương, ghét, giận hờn ai đâu vì đâu có cái gì mà thường còn, các pháp đều là vô thường vô ngã.

Không dễ gì thấy sự thật-  nghĩa là khó mà nhìn được cái sự thật của mọi vật, của thân tâm của mình, của các pháp xung quanh. Cái bàn cái ghế, tất cả mọi cái này đều nói là không có thì không thể nào mà chúng ta có thể thấy được nhưng mà sự thật nó không có. Trước kia nó đâu phải là cái bàn như thế này, nó toàn là những bột nhựa, do đó người ta đưa vào máy móc rồi người ta đổ nó vào cái khuôn rồi nó thành cái bàn nó mới có. Chứ hồi đó là những hột nhựa, do cái sự kết hợp nhau từ những cái này đến những cái khác nó mới trở thành một cái bàn chứ đâu phải khi không mà có được cái bàn. Chúng ta có cái tập giấy này từ những cái cây, cái vỏ, từ những cái cọng lau, cọng sậy người ta cho vô những máy xay cho nhuyễn rồi người ta chế nước cho nó nhão, nó thành một cái chất bột rồi do đó người ta mới chế vào những chất hóa học như thế nào nó làm cho chất bột đó trắng đi rồi người ta đổ lên khuôn mới cán thành cuốn giấy như thế này, bây giờ nó mới có giấy. Thì bao nhiêu cái vấn đề hợp chất nó lại nó mới thành cái tờ giấy cho chúng ta. Thế mà chúng ta thấy tờ giấy chúng ta nói khó. Nó do duyên hợp mà nó có nhưng mà khi duyên hợp nó hết rồi nó tan thì có cái gì là còn có nữa. Cho nênnhìn nó thấy mà sự thật như vậy mà thấm nhuần được cái sự thật như vậy thì chúng ta phải có một quá trình tập luyện về cái Định vô lậu, còn nếu mà chúng ta không chịu khó tập luyện thì cái gì nó cũng thật hết, thật hết. Cho nên hở ra chút gì thì chúng ta cũng thương, cũng ghét, cũng khóc, cũng giận, cũng hờn, cũng phiền não ở trong lòng đủ mọi cách.

Với người có hiểu biết, như các con thấy, cái người mà hiểu biết thì người ta thấy vật gì người ta cũng không có để cái tâm người ta dính mắc nó, không phóng theo cái dục đó. Cho nên nó không dính mắc, mà không dính mắc thì người ta thấy thanh thản, người ta thấy không có bận rộn, người ta thấy không có lo lắng nữa.

Vị  ấy đã thấy rõ,thấy rõ cái sự thật các pháp của thế gian là vô thường, nó vô ngã, nó luôn đeo đẳng đến cái sự đau khổ cho kiếp con người. Cho nên có nhiều người người ta hiểu Phật pháp rồi, người ta buông sạch xuống hết. Còn bây giờ mình hiểu hiểu chứ mình thấy nó còn thật mà, nó đâu có phải là vô ngã, nó đâu phải vô thường, nói nó khổ chứ đâu phải khổ. Mình lấy cái bát múc nước mình uống thì nghe nó cực hơn mình lấy cái ca chứ gì. Cho nên mình thấy cái ca này xinh đẹp, còn cái bát của mình nó nặng nề mà nó bằng đất, nó đâu có bằng cái này. Do cái sự so sánh đó, mà mình thấy cái bát đất với cái này, hai cái dù có tốt, có xấu đi nữa, nó cũng là vô thường. Ngày hôm nay nó còn mới thì nó vậy, ngày mai nó cũ rồi, còn cái gì là tốt đẹp nữa đâu. Thân chúng ta còn không giữ được, thời trai trẻ để cho nó già còm, mặt nhăn, da nó nhăn nheo như thế này, còn gì nữa. Như các con còn trẻ, sao các con không ráng giữ nó trai trẻ hoài đi, trẻ đẹp hoài đi để cho bây giờ như mấy cô lớn lớn nhăn hết rồi, còn cái gì. Nếu mà nó thường thì thôi ráng mà giữ cho nó thường, cho nó đẹp hoài đi, cho nó trẻ hoài đi, cho nó khỏe đi. Không có một người nào mà giữ được hết, thì như vậy thì chắc chắn là có sự hoại diệt, có sự vô thường thật ở trong đó.

Cho nên do đó thì chúng ta phải chuẩn bị, đừng có phóng tâm mà chạy theo mọi vật mà lầm, mà không thật rõ nó. Cho nên chúng ta vứt đi, bỏ đi, đừng có ham vật gì hết, thậm chí như tất cả cái lòng thương yêu của chúng ta  đối với con cái, đối với mọi người, chúng ta thấy nó cũng là không thật đâu, phải buông nó xuống hết đi, buông nó xuống, để rồi chúng ta tìm một cái lối giải thoát cho chính bản thân của mình, ra khỏi cái sự đau khổ của cuộc đời này.

Đối với con người phóng dật là một pháp rất ác. Đối với chúng ta cái tâm phóng dật nó rất ác, nó trói buộc khiến cho người này ở kiếp này sang đến kiếp khác, nghĩa là nó trói buộc chúng ta ở kiếp này đến kiếp khác vì cái tâm phóng dật đó mà nó lôi chúng ta trở thành những cái nghiệp, trở thành những nhân quả. Cho nên kiếp này đến kiếp khác mà chúng ta không có lìa ra được.

Phật không phóng dật nên Phật ra khỏi sanh tử luân hồi. Ta còn phóng dật làm sao ta ra khỏi sanh tử luân hồi được.Nghĩa là còn một cái vật nhỏ, còn một cái điều kiện nhỏ như Thầy nói, cái bọc ni lông mà không bỏ được thì đó cũng gọi là cái tâm phóng dật, còn dính cái vật đó. Mình cứ nghĩ rằng thôi để dành đó, mai mốt có gì đó mình bỏ hay hoặc là mấy cô ngoài này để cái bọc này bữa nào mình ra mình hái đọt lang hoặc là đọt rau, rau gì đó, rau trai đem vô cho cô Út có cái bọc này đựng dễ. Cứ nhét, để dành để dành đó. Do đó cũng chưa phải là chúng ta bỏ. Nghĩ là nó tiện đó, nhưng sự thật ra chúng ta phải dẹp hết đi, đừng có nghĩ ở trong này người ta có nghĩ gì thì người ta lo người ta nghĩ người ta ra người ta hái đem rổ, đem rá gì đó, còn không thì thôi, còn mình thôi dẹp hết đi.

Nghe nói vậy đó rồi cô Út cô giận lắm đó, phải không? Bởi vì kiểu Thầy dạy đó là cái kiểu nghĩa là buông xuôi. Còn cô Út thì cô lo cái đời sống, mà chơi kiểu đó thì chết rồi, lấy cái gì đâu mà luộc mà ăn đây, đâu có lẽ mà ăn cơm không được. Cho nên ít ra cũng phải có đọt lang hoặc là có rau gì mà ăn mới được, mà mấy cô làm như vậy là quá đỡ rồi. Bây giờ Thầy dạy cái kiểu này thì thôi chết. (...) Ờ rồi lấy gì mà bỏ nhãn, ba con dơi ăn hết rồi.

Ở đây Thầy nói cho các con nghe, là nói đây là nói cái người giải thoát, còn mình chưa phải trong cái hoàn cảnh giải thoát nhưng mình tập dần để tới giải thoát chớ. Chứ lý đâu mà các con nghe nói rồi bắt đầu các con bỏ không ăn được không? Thầy thì bây giờ Thầy bỏ không ăn được chứ các con chắc hông được. Thì như vậy là các con chưa làm được thì thôi, khoan khoan, để cô Út cô rầy là phải. Thầy thì dạy một điều mà cô Út thì dạy một ngả. Hai người không giống nhau ở chỗ nào. Đúng vậy. Cô Út thì thực tế mà Thầy thì nói về con đường giải thoát là như Phật mà. Thành ra Thầy đi tới thành Phật. Còn cô Út thì bây giờ phải sống rồi mới lần mới đi tới thành Phật chứ kiểu như Thầy dạy, kiểu này chắc là tiêu luôn. Bây giờ chưa làm Phật được mà hông chịu ăn, hông chịu làm nữa thì thôi chắc chết.

Ta còn phóng dật thì làm sao ta thoát khỏi sanh tử luân hồi được.Biết tâm phóng dật là tâm rất là nguy hiểm và tai hại rất lớn cho đời người. Ta nên trạch pháp câu này, dùng làm pháp hướng như lý tác ý, hàng ngày tu tập và trau dồi thân tâm ta. Đây là cái câu pháp hướng đây:

Phóng dật là một pháp môn rất ác nối tiếp sự đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác không bao giờ dứt. Là tu sĩ phật giáo ta phải thấy rõ, quyết tâm dũng cảm, gan dạ, kiên trì dứt bỏ tâm phóng dật, từ giã, từ khước, xa lìa tâm phóng dật. Phóng dật là tai họa là nguy hiểm, hãy đi đi đừng ở trong ta nữa.

Đó các con thấy cái câu pháp hướng chưa? Ngay liền mà chỉ cho nó biết cái sự khổ đau, cái sự dính mắc của nó, để rồi chúng ta chỉ mặt nó: Mày là tai họa, là nguy hiểm, hãy đi đi, đừng ở trong ta nữa.

Mấy con phải nhớ cái câu pháp hướng này, khi mà hàng ngày mà chúng ta trong cái giờ ngồi thiền trước giờ mà tu cái định hiện tại an lạc trú hơi thở thì chúng ta cũng đặt cái pháp hướng này nhắc nó, rồi đuổi nó đi, đừng để nó ở gần bên mình nữa, rồi bắt đầu mình mới hít thở mình tu định hiện tại an lạc trú. Các con nhớ cái giờ nào có thể trước khi mình bước đi, mình đi kinh hành để mình tu cái chánh niệm tỉnh thức thì mình cũng đặt cái câu này trước.Bởi vì mình biết nó là cái tai hại, cái nguy hiểm cho đời mình, vì vậy mà nó dễ phóng dật, nó phóng tâm mình chạy theo thứ này chạy theo thứ khác. Cho nên do đó mình phải đuổi nó đi được một lần rồi mình mới tu cái định.

Đó là mình dùng cái pháp hướng để mình đuổi nó để mình sống tâm mình như tâm Phật không phóng dật. Luôn lúc nào mình nhắc nhở nó như vậy là nó thấy vật gì nó cũng không dính mắc hết.

Ngược với tâm phóng dật là tâm sống trầm lặng, sống độc cư, sống một mình. Thì cái tâm phóng dật thì nó làm cho mình ồn ào, mình chạy theo vui vẻ nói chuyện này kia. Còn cái tâm ngược lại với cái tâm phóng dật là cái tâm sống trầm lặng, cái tâm sống độc cư, sống một mình.

Nhìn vào cuộc sống tu hành của quý vị thì biết ai là người phóng dật, mà ai là người không phóng dật, ai là người mà trôi lăn ở trong sinh tử luân hổi, ai là người chấm dứt sinh tử luân hồi, ai là người có thần lực, ai là nguời không thiền định, ai là người có thiền định. Nhìn lối tu hành của họ thì biết rõ, tại sao vậy? Tại vì nhìn vào cái tâm phóng dật của họ, cái người mà phóng dật thì không bao giờ họ có thiền định và không có thần lực gì hết. Mà người không phóng dật họ sống trầm lặng, họ sống độc cư, họ sống không nói chuyện, họ sống một mình họ luôn luôn lúc nào họ cũng giữ tâm lặng lẽ của họ thì qua cái lối sống của họ thì biết liền. Bởi vì nhìn vào cái thất của các con thấy cái này nhiều thì biết là cái tâm phóng dật chưa hết. Mà nhìn vào cái thất càng ngày càng thấy trống ra, càng ngày càng thấy bớt ra chỉ còn có bộ đồ mặc không thì kiểu này là kiểu sống hết phóng dật rồi. Mà hết phóng dật rồi thì cái người này phải có đủ thần lực rồi và cái người này họ có thiền định rồi, và cái người này họ có những cái lối sống nó không giống như thế gian nữa, thì nhìn vào đó mình biết rồi. Còn nhìn vào cái số chúng họ thích nói chuyện này chuyện nọ chuyện kia, qua lại nói chuyện thì biết rằng những cái người này họ còn tâm phóng dật đó, nó chưa hết.

Ai phóng dật tu hành chẳng có gì, ai không phóng dật tu hành có nhiều kết quả tốt, thiền định gì họ cũng đạt được. Nghĩa là cái người mà tâm mà phóng dật thì họ tu hành hoài mà chẳng có ra gì hết, còn cái người mà tâm không phóng dật thì họ tu hành càng ngày càng có những cái kết quả càng tốt. Đưa đến cái kết quả đó làm cho họ cảm thấy thích thú ở trên quãng đường tu tập của họ.

Cho nên đây là cái phần mà tâm chúng ta niệm Phật. Lấy tâm chúng ta niệm Phật, mà tâm Phật thì không phóng dật do đó chúng ta niệm Phật cũng giữ gìn tâm không phóng dật. Mà tâm không phóng dật thì kết quả càng ngày càng đi đến ở chỗ từ giới luật đến thiền định, đến thần lực, đến đại oai thần, đại oai lực, đều là chúng ta có được đầy đủ cái thần lực đó trên bước đường tu tập giải thoát và chấm dứt sự  sanh tử luân hồi.

Đó thì đến đây là cái phần mà Tâm niệm Phật đã hết, và chúng ta sẽ tiếp tục. Bây giờ hồi nãy là chúng ta có Thân – Thọ – Tâm niệm Phật rồi. Giờ đến Pháp niệm Phật chứ gì?

PHÁP NIỆM PHẬT

Bây giờ Thầy sẽ lược về phần Pháp niệm Phật rồi sau đó chúng ta sẽ có cái pháp hành để mà lấy pháp niệm Phật. Trước khi chúng ta hiểu rồi thì chúng ta còn phải biết pháp niệm Phật là sao? Đây mới là cái khó mà quý thầy, không có các con thì cũng không làm sao mà hiểu được cái pháp niệm Phật. Thân, thọ thấy hiểu rồi, tâm thì niệm Phật được rồi, giờ thì pháp niệm Phật nghe thấy lạ lùng. Cái này mới gọi là khó chứ, pháp làm sao niệm, ở đâu mà niệm được đây? Mà pháp thì vạn pháp, cái bàn cái tủ cái ghế làm sao nó niệm Phật được. Vậy mà nó niệm được mới giỏi đó.

Đây các con sẽ nghe, pháp niệm Phật, vậy pháp nghĩa là gì?Trước tiên mình nghe pháp niệm Phật, thường thường pháp ở đây mình hiểu đầu tiên là những lời của Phật dạy gọi là pháp phải không? Rồi sau đó các pháp thế gian, rồi các pháp xuất thế gian. Một lời nói là pháp, một hành động làm là pháp, một cái bàn là pháp, một cái vật này đều là pháp, một cái nhà đều là pháp, một cái hành động gì chúng ta làm đều là các pháp hết. Mà cái pháp nó chỉ chung cho tất cả mọi vật cho nên tất cả mọi hành động, tất cả mọi lời nói đều là pháp. Còn ở đây pháp này là cái gì mà nó niệm Phật đây?Chúng ta phải hiểu cái nghĩa của nó chứ không khéo chúng ta không hiểu là chúng ta cũng nghĩ rằng cái lời nói của Phật là pháp còn ngoài ra cái vấn đề đó không phải là pháp thì chúng ta đã hiểu sai.

Vậy pháp nghĩa là gì? Pháp khôngchỉ cho lời dạy của đức Phật mà pháp ở đây chỉ phải hiểu là pháp giới. Phải hiểu nó là pháp giới chứ không phải pháp là lời nói, là cái bài kinh. Thí dụ như nói Tứ diệu đế hoặc Tứ chánh cần đó là cái pháp, Phật nói cái pháp. Còn cái pháp này là pháp giới.

Pháp giới là gì?Một cái sắc tướng, bây giờ như các con đang ngồi trước mặt Thầy đây mỗi người có một cái sắc tướng, mà sắc tướng đó là mỗi người có một cái thân tứ đại, thì mỗi cái thân tứ đại đó gọi là sắc tướng. Các con nói ra một cái lời nói, một cái âm thanh, người thì âm thanh này, người thì âm thanh khác. Hoặc là con chim con vật nào nó phát ra cái âm thanh thì âm thanh đó gọi là pháp. Rồi một cái hoàn cảnh xảy đến, hoàn cảnh đó là một pháp. Một cái đối tượng xảy đến, một cái sự việc xảy đến thì cái đó là một pháp, một pháp dần dần đều gọi là pháp.Đây là pháp giới, pháp giới nghĩa là cả thế gian này, vạn hữu, vũ trụ của chúng ta đều là pháp hết. Vậy thì cái pháp niệm Phật là như thế nào? Cái pháp niệm Phật là niệm như thế nào?

Bây giờ chúng ta thấy nè, thân Phật là một cái pháp, đối với cái thân Phật cũng là một cái pháp. Lời nói của Phật cũng là cái pháp, ý nghĩ của Phật cũng là cái pháp, tất cả mọi hành động gì của Phật đều là pháp hết. Vậy toàn thân Phật khẩu hành, ý hành, thân hành tất cả đều là thiện pháp. À bắt đầu bây giờ mình xét qua ông Phật, những cái hành động nhữngcái gì của ông Phật biến ra hành động hết đều phải là thiện pháp. Nếu là ác pháp làm khổ người ta thì sao gọi là ông Phật được. Cho nên Phật làm, Phật nói, từ cái cử chỉ đi đứng nằm ngồi của Phật đều hoàn toàn là ở trong thiện pháp hết. Cho nên cái pháp của Phật là cái pháp thiện, không thể nào là cái pháp ác được. Vậy các pháp niệm Phật thì phải là pháp lành, cho nên bây giờ mình lấy các pháp ác cho nó niệm Phật thì nó phải lành thì mới gọi là niệm Phật chứ còn nếu nói nó pháp ác thì nó có niệm Phật được không? Cũng như cái hành động, cái miệng ông Phật, ông có chửi ai không? Cái pháp mà không chửi ai thì ông khuyên lơn người ta, an ủi người ta cho người ta vui vẻ thì cái pháp đấy là pháp lành. Cho nên khi các pháp niệm Phật thì nó cũng làm những điều lành chứ không thể làm cái điều ác được.

Đây Thầy cho cái ví dụ, người trí thì nghe cái ví dụ thì dễ hiểu hơn còn bây giờ nói thì các con khó hiểu, cho nên ở đây dạy các pháp niệm Phật thì phải là pháp lành. Lấy cái pháp nào, cái bàn, cái ghế cái này cái kia niệm Phật thì nó lành.

Giờ Thầy ví dụ này, bây giờ cuốn tập này có người nói nó là cuốn tập của tôi. Cái cuốn tập này là cái pháp cho nên mình là cái người mà lấy pháp niệm Phật rồi thì mình có tranh cuốn tập này của tôi nữa không?Phải không, người ta muốn thì mình cho đi, vậy có ai tranh cãi đâu vì vậy mà nó lành không. Còn giật cái này là của tôi, chị nhận bậy rồi, cái này là sai, chị muốn giật của tôi sao được, hai người đánh lộn thì đó là pháp ác rồi. Còn cái này khi mà các pháp niệm Phật đã nói niệm Phật rồi thì nó phải lành, người ta muốn thì cho người ta chứ sao lại muốn giật lại. Các con hiểu điều đó chưa, cho nên pháp niệm Phật thì nó thiện quá mà, mà biết như vậy thì ai muốn gì mình cứ cho hết. Phải không, cái bọc ở trong nhà mình mình đựng rau mình cũng cho luôn thì đâu có ai cãi. Đó là cái tốt nhất bởi vì trên bước đường tu theo Phật rồi, mình hiểu các pháp đều là vô thường hết. Cho nên ai muốn gì vui lòng  mình cho hết. Ví như cái bát ăn cơm của mình, ai có muốn thì mình cũng cho luôn đâu có gì, ngày mai thì đâu có gì lá cây rừng thì có nhiều cái lá dầu lớn như vậy nè. Phải không, các con thấy Thầy bây giờ  có cái bát Thầy mang đi ăn cơm, mang đi khất thực ăn cơm nhưng ngày mai đi ra đường họ nói thấy cái bát của Thầy đẹp quá con muốn xin làm kỉ niệm. Được rồi được rồi cứ lấy đi. Thầy giờ lấy cái gì đi xin cơm đây? Vô trong rừng Thầy mới bẻ, kéo cái nhánh cây dầu xuống. Các con biết cây dầu không, cái lá bự vậy nè, Thầy mới lấy năm bảy cái lá như vậy Thầy kết nó lại Thầy chầm cái bồ đòan trời nắng Thầy đội lên đầu. Tới chỗ khất thực Thầy để đó rồi Thầy xin cơm Thầy bỏ vô đây thì Thầy đem về Thầy ăn có gì đâu phải có mang bát. Cái người tu bao giờ cũng có trí tuệ hết, rồi người ta có xin cái đó nữa mình cho cái đó nữa rồi mình về trong rừng mình hái cái lá khác mình làm nữa, làm sao hết lá rừng. Phải không, cái  đời sống tu hành chẳng có gì là của mình hết,ai muốn cái gì mình cho hết cho nên gọi là pháp niệm Phật.

Còn bây giờ các con thấy cái này tốt quá tôi làm sao tôi cho anh được. Vậy đâm ra nó chưa niệm Phật, pháp này chưa tốt, thấy không. Ông Phật thì ổng xả hết mà cho nên cái mà đối với pháp niệm Phật là phải có tâm các con hiểu chứ? Cho nên bây giờ cái y này có người muốn mà Thầy nói không có cái y này Thầy làm sao. Như vậy là cái pháp này chưa niệm Phật được. Phải không, niệm Phật thì phải cho người ta chứ. Cho nên các con thấy ai muốn Thầy cho hết rồi bắt đầu thì mình lấy những cái vật mà người ta thấy xấu quá người ta không muốn nữa thì chắc chắn người ta không ai xin,  lấy cái y rách mà đắp lên chắc không ai xin, lấy vải tha ma mà người ta bỏ chắc người ta sợ quá người ta đâu có xin. Mấy cái này người ta còn xin, mấy cái này người ta muốn để làm kỉ niệm. Thầy nhớ có người còn lấy đôi dép Thầy cất để dành để làm kỉ niệm để mai mốt Thầy có chết đi họ lấy cái đó họ thờ.

Bởi vậy cho nên tất cả những cái pháp mà niệm Phật nó là pháp lành, bây giờ các con hiểu pháp niệm Phật rồi chứ gì? Chứ hồi nào không khéo các con không hiểu pháp niệm Phật đâu. Bởi vì niệm Phật như vậy cái pháp niệm Phật nó làm cho tâm hồn mình giải thoát dữ lắm, nó không còn cái gì là cái của mình hết.

Ví dụ có một người thân bị chết, mà bây giờ đó, tức là đứng trước cái pháp tử biệt sanh ly của một cái người chết đó. Bây giờ mình thấy cái người thân của mình, cha mẹ mình chết mình đứng trước cái người chết đó mình thấy mình buồn khổ, tâm mình khởi buồn khổ thì cái pháp tử biệt sanh ly mà mình buồn khổ thì pháp đó pháp thiện pháp hay ác pháp? Pháp ác các con, nó khổ là pháp ác chứ sao. Mà bây giờ mình vui cười nó thiện không? Đâu thiện con, vui cười nó cũng ác, bởi vì thương nó cũng khổ phải không, mà vui cười nó cũng khổ. Cho nên mình chẳng buồn khổ, mình chẳng buồn chẳng khóc mà cũng chẳng vui. Chết thì đó là nhân quả, các pháp nó vô thường thì cha mẹ phải chết thôi. Vậy mà các con thấy không khi đứng trước cái mất mát của mình như cha mẹ mình chết đi mà mình không phải là vô tình mà mình biết đó là nhân quả, đó là tứ đại, các pháp đều là có cái sự vô thường như vậy cho nên tâm mình nó không phải vui. Vui thì nó cũng là ác pháp mà buồn khổ thì nó là pháp ác cho nên hai cái này bởi vì trong cái vui nó sẽ có cái buồn, nó đối đãi mà . Thì tức là các con vui tức là các con không thương cha mẹ. Ông bà hồi đó đối xử với tôi quá tệ cho nên ổng chết là tôi mừng, thấy không. Nhưng mà các con cười tức là các con vui, hồi đó cha mẹ của mình đối với mình như thế nào đó nên  bây giờ mình vui lắm thì đó cũng là pháp ác rồi. Đâu có đúng, cho nên mình không vui bởi vì trước cái sự sinh tử luân hồi của mỗi người ai cũng giống như ai cho nên mình không khổ trước cái chỗ mất mát đó mà mình cũng không vui trước cái chỗ mất mát đó. Đó là cái tâm thanh thản của mình. Các con thấy không? Đó là cái thiện pháp, đúng là lành, thấy cái pháp lành chứ còn không khéo mình nói tui buồn tui vui là hai cái pháp đối đãi. Nó đối đãi thì nó có buồn có vui thì nó có những nhân quả của nó chứ. Còn nếu mà không buồn không vui thì đâu có thiện đâu có ác đâu mà có quả nên mình không có còn...

Vì vậy mà trong đạo Phật trước cái mất mát đó người ta không có khóc mà người ta cũng không có cười mà người ra rất thản thiên vì người ta đã biết được nhân quả. Cho nên các pháp niệm Phật đều là thản nhiên. Cho nên nó bất lạc, bất thọ khổ mà, thản nhiên ở trong cảnh đó. Nếu quý vị buồn tức là pháp ác, nếu quý vị không buồn tức là pháp thiện, không buồn mà không vui thì nó pháp thiện, chứ vui nữa là không được. Vậy pháp thiện tức là pháp niệm Phật, cái tâm mà thanh thản trước cái sự mất mát. Đó là mình đang ở trong cái pháp niệm Phật, pháp đó nó đang niệm Phật, nó mới giữ được cái tâm của mình lúc bấy giờ.

Nếu quý vị bị người ta mắng chửi đó là quý vị gặp pháp ác, nghĩa là mình gặp pháp ác. Nhưng quý vị dùng pháp đó niệm Phật thì pháp đó có tức giận nữa không? Nếu mình thấy người ta chửi mình, bây giờ mình gặp các pháp ác rồi đây, mình lấy cái pháp này cho nó niệm Phật đi. Thì trong khi nó niệm Phật thì tâm mình có chửi người ta không? Các con thấy không? Bây giờ mình gặp pháp ác mà, là pháp bắt ác pháp nó phải niệm Phật. Bởi vì cái pháp đó nó đến với mình, người ta chửi mình chứ người ta chửi người khác sao bắt cái pháp của người ta niệm Phật được sao. Phải không? Bây giờ người ta chửi mình chó nè. Như vậy là mình gặp pháp ác rồi. Tôi sẽ lấy pháp ác này bắt nó niệm Phật. Do đó cái tâm của mình bắt nó niệm Phật, nó có chửi không? Ông Phật, ông đâu có giận. Phải không? Còn các con không bắt cái pháp niệm Phật cho nên các con xùng lên: Mày chết đó nghen, mày chửi tao chó, mày cũng phải trâu. Phải không? Các con thấy điều đó không? Đó là các con không lấy pháp mà niệm Phật. Còn Thầy ở đây lấy pháp niệm Phật, cho nên tâm Thầy không giận. Phải không? Như vậy là Thầy biết tu, tức là Thầy biết lấy pháp niệm Phật. Có đúng không? Phải đúng chớ. Lúc bây giờ chúng ta biết lấy pháp niệm Phật mà. Ông Phật thì đâu có giận. Vậy thì pháp này nó có ác đi thì tâm chúng ta biết lấy nó niệm Phật, thì tức là nó phải thiện liền. Vì vậy mà cái bà này hay cái ông kia chửi mình, nó chửi sao mà như chửi cục cây, không biết gì hết. Tại vì pháp ông đem lại tui, tui bắt nó niệm Phật hết rồi. Cho nên giờ nó đâu có giận. Thôi ông về chứ ông chửi một hơi nữa tui bắt nó niệm Phật hết đó là tiêu ông luôn. Cuối cùng không ai làm gì mình được hết mà mình giải thoát hơn, phải không các con thấy không?

Đó là mình biết lấy pháp mà niệm Phật. Thầy nói đơn giản vậy phải không? Cho nên các con, nhiều khi các con không biết lấy pháp mà niệm Phật mà trái lại. Thí dụ như bữa đó, cô Út rầy rà mắng Thầy luôn, Thầy lấy pháp Thầy niệm Phật: Trời ơi như vậy mà tâm Thầy ngồi như cục đất, còn Đào thì cái mặt sụ sụ xuống. Có không? Thầy nói thật mà. Tại vì không biết lấy Pháp niệm Phật còn Thầy biết lấy pháp niệm Phật. Cho nên Thầy biết lấy 4 chỗ niệm Phật mà Thầy giải thoát, còn các con chẳng biết niệm Phật nên không giải thoát. Có không? Thầy nói thật mà. Ở đây bằng chứng cụ thể mà. Cho nên các con thấyrõ ràng. Bởi vì cái người tu người ta có pháp rồi mà pháp của bậc Thánh, bậc chơn nhơn rồi thì làm sao mà người ta khổ được? Người ta như cục đất rồi. Còn các con không có pháp cho nên cái miệng méo xèo, con mắt đổ nước mắt đó, không có giải thoát được.

Ở đây Thầy dạy cụ thể quá mà, pháp hay quá mà, tại các con không chịu tu thôi, chứ chịu tu là giải thoát từng phút, từng giây. Cho nên đạo Phật nói: đạo Phật không có thời gian đến để thấy được sự giải thoát của nó.

À bây giờ các con lần lần mới hiểu pháp niệm Phật rồi chứ gì? Hay quá phải không? Nếu không tức giận thì đó là pháp niệm Phật, còn tức giận thì pháp đó không niệm Phật. Phải không, thấy rõ không?

Nếu quý vị bị nhức đầu, đau nhức khó chịu, quý vị gặp pháp thọ này rồi. Cái đầu mình đang nhức tức là mình biết cái pháp nhức rồi, cái pháp thọ ở đây nó nhức nè. Cũng như mấy con, trời ơi cái vai tui đau quá, tui đau khớp xương nhức quá, như vậy kiếm thuốc mà uống đi, như vậy là các con bị pháp đó mà quên không lấy nó niệm Phật mất rồi, chứ còn lấy nó niệm Phật thì đâu có đau. Phải không? Các con nhớ, ở đây Thầy đi từng bậc từng bậc để các con thấy dùng pháp niệm Phật để cho nó thấy nó giải thoát mà. Bởi vì biết niệm Phật là giải thoát hết.

Nếu quý vị bị nhức đầu, đau đớn khó chịu, quý vị gặp pháp thọ này, lấy đó mà niệm Phật thì pháp đó không còn lo sợ đau đớn, thống khổ nữa đối với quý vị, nếu mà quý vị biết dùng cái pháp đó thì tức là bắt nó niệm Phật thì nó niệm Phật thì nó sẽ hết đau nhức. Tại sao vậy? Tại vì có lần đức Phật nói như thế này nè: Khi mà chúng ta gặp cái thọ đau nhức mà đến cái sức mà chịu đựng tận cùng của sinh mạng của chúng ta mà tâm chúng ta bất động thì nó sẽ mát lành.Phải không? Bây giờ mình bắt nó niệm Phật thì nó mát lạnh chứ có gì đâu, bởi vì ông Phật ông mát lạnh chứ đâu có nhức đầu đâu. Đó cho nên chúng ta thấy do bắt cái pháp đó mà nó niệm Phật, bắt cái pháp thọ khổ này nó niệm Phật thì mình cũng sẽ hết đau khổ.

Bởi vậy các pháp đến với quý vị mà quý vị biết lấy đó niệm Phật thì tâm của quý vị có kết quả giải thoát ngay liền. Đó thì quý vị thấy cái chỗ mà tu tập của Phật pháp nó thực tế và cụ thể mà đây là chúng ta mới lấy, đầu tiên là lấy thân thọ tâm pháp của chúng ta mà niệm phật. Phải không? Lấy thân thọ tâm pháp mà niệm Phật, Thầy vừa dạy rồi, rồi bắt đầu từ đây về sau chúng ta lấy thân thọ tâm pháp mà niệm Pháp. Phải không? Rồi từ đây về sau chúng ta lấy thân thọ tâm pháp của chúng ta để niệm Tăng.

Bây giờ để kết luận cái chỗ này, cái chỗ mà lấy thân thọ tâm pháp của chúng ta mà niệm Phật. Vậy thì còn những pháp hành của lấy pháp mà niệm Phật thì tiếp tục ngày mai, ngày tới Thầy sẽ dạy các con về pháp hành lấy pháp mà niệm Phật. Chứ còn pháp hành, nãy giờ Thầy chỉ giải thích cho các con hiểu chứ các con có pháp hành chưa? Các con mới hiểu à mà chưa có pháp hành phải không? Mới có hiểu sơ sơ thôi. Vậy thì Thầy sẽ dạy cho các con cách thức mà cái pháp hành lấy pháp mà niệm Phật. Còn hồi nãy lấy tâm mà niệm Phật, lấy thọ niệm Phật. Lấy thân niệm Phật nó có pháp hành kèm theo rồi phải không? Ở đây thì Thầy mới tổng quát cho hiểu. Bởi vì pháp niệm Phật nó khó hiểu, phải giải thích cho các con hiểu đã. Rồi khi hiểu rồi bắt đầu mới dạy cho các con: Ờ mỗi cái pháp mà nó đến thì mình phải trạch pháp nó như thế nào để mình áp dụng nó như thế nào. Cũng như người biết áp dụng rồi thì người ta biết lấy cái pháp liền người ta áp dụng liền qua một cái trạch pháp người ta, ngay có đối tượng người ta mắng mình thì ngay đó mình trạch cái pháp đó ra mình nhắc: Ờ bây giờ phải lấy cái pháp này niệm Phật liền, đừng có để cái tâm mình động, phải bất động, do đó cái bắt đầu mình nghe người ta chửi mà cái tâm mình bất động. Bởi vì mình bắt cái pháp của họ nó vô niệm Phật rồi. Bởi vì mình lấy cái pháp của người ta mình đem vô cho nó niệm Phật rồi thì do đó cái tâm mình bất động giải thoát. Nó ly hết tất cả cái các pháp ác ra rồi, nó không còn ở trong tâm mình.

Vậy thì Thầy sẽ tiếp tục ngày khác Thầy sẽ dạy các con về cái hành pháp, cái giới hành của cái pháp mà các pháp niệm Phật để các con học được những pháp này để cho nó trọn ở trong cái vấn đề tu tập của mình là lấy thân thọ tâm pháp mà niệm Phật. Rồi sau đó thì các con sẽ học đến mà lấy thân thọ tâm pháp mà niệm Pháp, lấy thân thọ tâm pháp mà niệm Tăng.

Đây mới bước đầu vô mà các con đã thấy nó có những cái đặc biệt, những cái vi diệu của con đường tu tập của nó.

Bây giờ Thầy sẽ kết cái phần kết này để cho thấy rằng đức Phật cũng đã xác định cho chúng ta biết rằng, cái pháp Tứ bất hoại tịnh, như Thầy đã nói đã dạy cho các con biết nó còn có những cái tên mà Thầy đã nói ra cho các con biết, còn gọi là cái tên Tứkỉnhpháp, tức là cái pháp mà cung kính mà nơi Phật Pháp Tăng, tức là ba ngôi Tam bảo mà người ta gọi là quy y Tam Bảo đó. Thì mình biết cái tứ bất hoại tịnh này, nó còn gọi là tứ pháp kính, 4 cái pháp kính. Vậy thì 4 cái pháp kính này mà cái người mà biết cách tu hành thì ngay cái đời sống chúng ta đã giải thoát được cái tâm của mình, không còn đau khổ nữa, không cần tu nhiều pháp đâu, tu bao nhiêu đây thì chúng ta cũng đã thấy chấm dứt được sanh tử luân hồi.

Ở đây Phật kết luận, tứ pháp kính là gì? Là Thánh đế, là Thánh đệ tử, sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn thì người ấy trải qua cái thời gian mà tu tập, nếu mà người đó thật sự tu tập rồi thì thấy được kết quả của nó, người đó có thể tự tuyên bố về mình như sau. Sau một thời gian tu tập cái pháp mà tứ bất hoại tịnh này, người đó sẽ tuyên bố cho chúng ta biết rằng. Ở đây Phật nói người đó mà thực hiện thì họ sẽ tuyên bố như thế nào. Họ sẽ tuyên bố cái pháp họ tu hành, nó như thế này: Đối với ta sẽ không còn ở địa ngục nữa, nghĩa là bây giờ mình có lúc nào mình hờn giận đâu các con. Phải không? Mình đâu có lúc nào mình buồn khổ nữa đâu các con. Bởi vì thân thọ tâm pháp của mình hoàn toàn nó niệm Phật hết thì nó giải thoát hoàn toàn, nó đâu còn địa ngục nữa. Cho nên Phật nói đối với ta, không còn địa ngục nữa, sẽ không còn có tái sanh cõi bàng sanh, ngạ quỷ, đọa sứ ác thú nữa. Nghĩa là tất cả khi mà cái người mà tu cái pháp này thì coi như là không có địa ngục đối với họ, không có sanh vào cõi bàng sanh, không có cái cõi ngã quỷ, đọa sứ đau khổ ác thú nữa. Nghĩa là họ không bao giờ sanh trở thành ác thú nữa. Tâm họ nó quá thiện rồi, nó đâu còn gì nữa đâu mà nó trở thành những cái cõi ác đâu. Đó là cái tuyên bố đầu tiên của họ. Ta đã chứng quả, nghĩa là con đường đi chưa đến tới cái đích nhưng mà dự lưu, thì chúng ta đã dự vào cái phần Thánh, nghĩa là ta đã chứng vào dự vào cái phần trở thành những bậc Thánh chứ không phải là còn những phàm phu tục tử nữa. Nhất định không đọa ác đạo, sẽ đạt được chánh giác. Nghĩa là ngay từ cái chỗ mà tu cái tứ bất hoại tịnh này, chúng ta sẽ tuyên bố rằng chúng ta sẽ đạt được chánh giác, nghĩa là trở thành những bậc giải thoát hoàn toàn, chấm dứt sanh tử luân hồi. Chứ không phải là còn…, thấy biết rất rõ ràng.

Thôi bây giờ Thầy nói thật sự, các con cứ nghiệm xét đi, nếu mà các con nãy giờ nghe Thầy giảng như vậy mà các con sống đúng như vậy, từ pháp niệm Phật nè, từ thọ niệm Phật nè, từ tâm niệm Phật như vậy nè, từ thân niệm Phật như vậy, các con thấy lòng các con có bao giờ mà buồn khổ không? Có cảnh giới nào mà lôi các con được không? Phải không? Như vậy còn cái cảnh địa ngục, còn ác thú còn cái ngạ quỷ ở chỗ nào trong những cái vấn đề hiện tại này nữa. Cho nên các con ngay cả pháp đó là các con đã thành Chánh giác rồi, thành bậc chánh giác rồi. Cho nên ở đây người ta còn khiêm tốn, Phật còn khiêm tốn: sẽ thành chánh giác. Cái tâm mà giải thoát như vậy là cái tâm ly dục ly ác pháp rồi. Mà ly dục ly ác pháp rồi thì cái sự mà sử dụng để cho các con nhập Tứ thiền, để làm chủ sanh tử thì nó bao lâu, chớp mắt mà thôi, đâu còn lâu nữa.

Nhưng các con thấy cái pháp Thầy dạy từ lâu chưa từng ai dạy các con niệm Phật kiểu này, mà hôm nay có Thầy dạy các con niệm Phật kiểu này. Thầy nói một năm mà các con niệm kiểu này đi rồi các con sẽ thấy các con sẽ thành ông Phật chứ đừng nói. Phải không? Các con sẽ tu đi. Đừng có tu cái gì khác hết mà hồi nào tới giờ các con niệm Phật bao lâu không? Nhất là cô Quang Tịnh niệm Phật giữ lắm nè. Phải không? Con niệm Phật giữ lắm mà bây giờ chưa có hết phiền não trong bụng, còn người ta dạy niệm Phật thì mau hết liền.

(tu sinh nói, không nghe rõ)

Ờ thì con thấy nè: lấy thân niệm Phật.

Thôi bây giờ con sẽ nghe băng lại, đó thì con sẽ niệm. Lấy thân niệm Phật nè, lấy tâm niệm Phật nè, lấy thọ niệm Phật nè, lấy các pháp niệm Phật như Thầy giảng rồi đó, các con nghe rồi, rồi nó ở đâu nó có trạch pháp ở đó, để mà các con lấy đó mà các con nhắc tâm mình hàng ngày để tới khi gặp đụng nó thì các con biết sử dụng liền, thì ngay lúc bấy giờ địa ngục không có ở dưới tâm các con nữa. Như vậy là niệm Phật theo cái kiểu mà Nam Mô A Di Đà Phật tới bây giờ thì chưa giải thoát mà Thầy dạy như vậy nếu một năm mà chuyên cần thì chắc các con niệm Phật mau giải thoát lắm. Đúng không? Phải ráng đi chớ? Nghe hay thì phải làm chớ? Hay mà không làm thì ai làm cho? Bởi vì Phật nói phải tự thắp đuốc lên mà đi, chứ không thể nào mà người khác thắp đuốc cho mình được.

Như vậy là các con đã hiểu biết được rồi thì phải cố gắng thêm lên cho cái sự tu tập của các con có tiến bộ hơn. Và đồng thời hôm nay thì có một người bên nam có gửi cho Thầy một bức thư nhân dịp vì không có thời gian và Thầy cũng góp ý thêm với các con có những ý kiến. Bởi vì ở đây qua cái sự giảng dạy của Thầy và qua cái tâm nguyện của Thầy thì mọi thầy cũng có góp những ý kiến. Có người thì, sau các con sẽ nghe băng, có người góp ý kiến với Thầy là ngày tháng gần hết rồi, xin Thầy dạy cho biết Tứ thiền và Tam minh để chúng con nắm cho vững cái đó mà tu hành cho nó nhanh chóng, chớ còn thời gian nó không còn lâu nữa mà mỗi Pháp thì cái thời gian dài quá, nhất là cái pháp hành thì nó còn nhiều nữa. Do vì vậy Thầy sẽ trả lời ở trong đó, còn ở đây là cái góp ý rất là to lớn ở trong bước đường vì lợi ích chúng sanh, vì cái sự giải thoát cho mọi người, vì cái hạnh phúc cho mọi người ở trên thế gian này thì vị thầy này có góp ý kiến với Thầy  như thế này:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Con được nghe Thầy giảng dạy, được biết nguyện vọng to lớn của Thầy cứu độ chúng sanh với ước vọng lập Trung tâm an dưỡng, từ thiện xã hội. Khuya rồi sau khi đi kinh hành con dừng lại và nhớ đến những phương trình mà Thầy vạch ra, con tự nghĩ nếu Thầy không làm thì ai làm được cho đất nước, cho xã hội mình. Con tư duy và bỗng có một ý kiến sáng lên trong tâm con, con xin trình bày cho Thầy nghe, nếu có gì sơ sót cúi xin Thầy lượng thứ cho.

Kính bạch Thầy, với hoàn cảnh đất nước và xã hội hiện thời không có người đủ gương hạnh để dìu dắt quần chúng làm điều thiện, tránh điều ác nên việc cần thiết là phải đào tạo một số người có khả năng hiểu biết giáo lý Phật pháp, đạo đức nhân quả, đầy đủ giới hạnh nghiêm túc. Sau khi được Thầy huấn luyện hai, ba năm Thầy cho về địa phương, ở trong chùa hoặc cất cốc riêng. Việc sống và tùy duyên, tùy hoàn cảnh để đi hoằng hóa Phật pháp theo chương trình Thầy dạy, từ gương hạnh Thầy dạy quý vị này sẽ làm gương hạnh tại địa phương, hòa đồng với dân chúng.

Hai, gương hạnh này sẽ thu hút được lòng tín ngưỡng của nhiều người họ có thể hướng dẫn thêm nhiều người bước dần về đạo.

Ba, còn một việc quan trọng mà con muốn nói đây là quý vị đó sẽ đến các viện dưỡng lão, cô nhi viện, bệnh viện, trại cùi, trường học, nhà thương, câu lạc bộ, cán bộ hưu trí để hòa nhập và phổ biến đường lối đạo đức nhân quả.

Như vậy Thầy sẽ có vô số Trung Tâm an dưỡng, sẽ có một Trung tâm an dưỡng to lớn của xứ Việt Nam và có thể lan truyền đến nhiều nước khác mà Thầy không tốn kém tiền bạc xây dựng nuôi dưỡng mà sự thành công sẽ to lớn và dễ dàng hơn. Nên con kính đề nghị xin Thầy tổ chức Tu viện với chương trình đào tạo 2 loại Tăng Ni: Tăng Ni thể nhập và Tăng Ni thể hiện. Các vị Tăng Ni thể nhập chuyên tu để làm gương hạnh là trụ cốt của đạo Phật. Còn các vị Tăng ni thể hiện sẽ phục vụ một thời gian sau đó có thể trở về Tu viện để tiếp tục tu giải thoát, chỉ cần một thời gian tư tưởng đạo đức nhân quả sẽ lan rộng thấm nhuần lần lần trong dân chúng, người dân chỉ biết làm việc thiện, nước Việt nam sẽ là cõi cực lạc.

Kính bạch Thầy, với ý nghĩ thô thiển của con với tâm lành con có ý như vậy, nếu có gì sơ sót, kính xin Thầy miễn thứ cho.

Kính Bạch Thầy!

Đó là cái lời gợi ý và góp ý với Thầy. Thầy thấy cái điều này thì nó cũng rất là hay nhưng các con biết rằng, làm một cái việc gì nó cũng phải có nhân sự, cái nhân sự đó là phải đào tạo nhưng mà cái giáo trình mà đạo đức nhân quả thì mặc dù từ lâu Thầy có dạy nhân quả nhưng cái giáo trình đó chưa được biết. Và đồng thời cái giáo án mà về phật pháp từ thấp đến cao từ dễ đến khó thì hiện bây giờ nó chưa có cái giáo án nữa. Cho nên người ta chưa biết con đường của đạo Phật thế nào đúng mà thế nào sai. Bây giờ cái giáo án mới ra đời nè, rồi lần lượt cái giáo trình mà của đạo đức nhân quả thì Thầy mới lần lượt. Có một mình Thầy mà làm mọi mặt thì các con hiểu như trong băng Thầy đã nói. Trong cái cuộc đời mà tu hành xong rồi, cách đây 17 năm, khi mà tu xong rồi thì Thầy trở về thăm Hòa Thượng. Cái đầu tiên trước nhất là Thầy về thăm Hòa Thượng, trình lại cho Hòa Thượng biết rằng Thầy tu hành như thế đó, kết quả làm chủ được sự sống chết như vậy và đồng thời thì Thầy xin Hòa Thượng nhập Niết bàn. Nếu mà Hòa Thượng đồng ý trong lúc đó thì Thầy sẽ xin Hòa Thượng 7 ngày đêm Thầy sẽ nhập định ở tại Tu Viện Chơn Không và cái ngày mà xuất định ra, Thầy sẽ xin xả bỏ cái thân này trong một sự tu tập của mình để làm niềm tin chung cho tất cả chúng, cho tất cả Phật tử hầu như những người này đang theo Hòa Thượng tu hành, người ta thấy rằng trên con đường tu tập có một bậc ngồi thiền suốt 7 ngày đêm bất động. Đó là làm cái gương cho người ta thấy rất cụ thể. Bởi vì Thầy về tại Tu Viện Chơn Không, bây giờ tức là gương hạnh đó làm sao ai mà lại không đến xem. Phải không? Cái thứ 2 là cái ngày mà cuối cùng Thầy ra định, xuất định ra đó, ngày đó là cái ngày Thầy xả bỏ thân này, Thầy nhập diệt, bằng cách tự tại hẳn hòi đàng hoàng, muốn đi hồi nào đi. Như vậy sau khi Thầy ra đi rồi thì Thầy để lại cho Hòa Thượng cái tài liệu, cái kinh nghiệm tu hành đó, Hòa Thượng sẽ nghiên cứu mà dạy chúng. Từ đó Thầy hoàn toàn là không có danh lợi, Thầy từ giã Thầy ra đi rồi nhưng mà Thầy để lại kinh nghiệm đó để cho Hòa Thượng độ người ta, dạy người ta tu hành, để người ta cũng được kết quả được làm chủ như Thầy chứ không phải không.

Đó là cái vai trò thứ nhất. Mà trong cái lời thỉnh nguyện sắp sửa các con sẽ nghe, Thầy đã có nhắc lại trong cái lời thỉnh nguyện đó. Cái phần thứ nhất thì nó không đạt được kết quả, Hòa Thượng yêu cầu Thầy ở lại để giúp Hòa Thượng chấn hưng Thiền Tông chứ không cho Thầy nhập diệt. Cho nên cái điều kiện thứ nhất là không thành rồi.

Đến cái điều kiện thứ 2 là sau khi mà Thầy được Hòa thượng giao cho một khu đất ở Phước Hải, Thầy nhận cái khu đất đó, rồi Thầy tổ chức ở khu đất đó. Thì lúc bấy giờ thì coi như quý thầy ở Thường Chiếu đăng ký ra ngoài đó ở ngoài đó hết, làm cho Thường Chiếu náo động. Lúc bây giờ coi như là, thấy cái sự náo động ở Thường Chiếu như vậy là nó đã tan vỡ cái vai trò thứ 2 rồi. Lẽ ra quý thầy tuần tự, Thầy chọn người nào thì ra đó. Đây, các thầy đều ào ào đăng ký xin ra đó hết, bỏ Thường Chiếu hết, trắng bóc à. Lúc bấy giờ nó rất là náo loạn, làm cho trong Thường Chiếu rất là khó khăn. Cho nên Thầy cũng gặp cái khó khăn đó, vậy mà có cái lời thỉnh nguyện sám hối đó là những điều kiện khó khăn đó là do quý thầy ham tu chứ không phải gì, muốn theo cái cách thức tu hành của Thầy để làm chủ sanh tử chứ không phải gì. Cho nên xin ra đó hết. Đó là cái khó khăn thứ 2.

Đến cái khó khăn thứ 3. Là sau khi ra thất ở đây 3 năm, nhập thất ở đây, Thầy mới soạn ra 2 cái cuộn băng. Cái cuộn thứ nhất là Phật Môn Bảo Huấn, các con được nghe rồi chớ? Cuộn thứ 2 là Trở Về Với đức Phật, so sánh giữ 2 loại thiền: Thiền Đông Độ và bốn thiền của Phật để cho Hòa Thượng nghiệm xét cái đó, để cuối cùng Thầy chỉ cần Hòa Thượng muốn hỏi Thầy: Tại sao mà so sánh 2 cái thiền như vậy, giải thích cho Hòa Thượng nghe? Thầy chỉ cần giải thích cho Hòa Thượng như thế nào để cho thầy trò nắm cho vững cách thức kinh nghiệm tu tập này. Thì đồng thời ngay tại Trúc Lâm đó thì Hòa Thượng vẫn giảng dạy họ như thường nhưng mà trong đó Thầy chọn những người mà đã quyết tu tìm đến cái sự giải thoát. Đâu phải cái số đó là nhiều được? Năm, sáu người là hết sức rồi chứ gì? Do đó Thầy chọn 5-6 người đó. Do đó Thầy xin Hòa Thượng cho họ ở trong cái khu vực riêng biệt và Thầy về Trúc Lâm Thầy ở một bên với các vị đó mà Thầy dẫn dắt các vị đó, đào tạo họ trong 5 năm hay 3 năm hoàn toàn họ tu xong, thì đó là người nòng cốt của tu viện Trúc Lâm. Từ đó thì Thầy coi như là Thầy xong cái nhiệm vụ giúp Hòa Thượng rồi. Thầy đã nói ở trong băng mà, Thầy chỉ làm cái viên gạch để cho Hòa Thượng xây lại cái tòa nhà của Phật giáo mà. Thì đó là Thầy muốn làm cái viên gạch, không có để cho người ta biết tai tiếng mình là người như thế nào hết. Chứ không phải Thầy dạy như bây giờ đâu, mà Thầy chỉ âm thầm ở đó để mà Thầy độ cho những người mà làm được. Để từ đó người ta thấy con đường thiền tông của Hòa Thượng có những người tu làm chủ được sanh tử, rồi những người mà muốn được như vậy thì sống đúng giới hạnh của Phật qua cái sự hướng dẫn của Thầy. Còn những người nào mà chưa sống được, ăn ngày 3 - 4 bữa thì cứ sống, Hòa Thượng giảng kinh, thuyết giảng cho họ sống thường thường để chọn lấy những người mà đi sâu vào. Và đồng thời những người đó họ còn làm việc từ thiện hoặc này kia trong xã hội thì tốt thôi.

Nhưng mà 3 lần không đạt được, 3 lần không đạt được. Cho nên cuối cùng Thầy phải viết cái giáo án này ra để dựng lại những cái gì của Phật pháp, để làm sáng tỏ. Chớ nếu mà những người này mà được hướng dẫn mà tu xong rồi thì lần lượt người ta cũng đã biết cái đường nào đúng, cái đường nào sai rồi. Cho nên những cái gì lần lượt rồi họ sẽ bỏ đi mà âm thầm nó không có bị chống đối. Phải không? Nó âm thầm trong đó, nó đâu có chống đối, người ta thấy đúng là người ta cứ theo, người ta thấy người giữ gìn giới hạnh, ăn ngày bữa, sống tu hành mà có kết quả. Còn những người ăn 3 bữa, không kết quả,tự nó bỏ ra hết. Các con hiểu cái điều đó. Mà không có nghe nói: Ờ bây giờ chống cái này nè, người ăn 2 bữa người ăn 3 bữa. Như bây giờ có cái giáo án của Thầy Thầy đập sạch xuống hết, thì không phải người ta điên cái đầu người ta không, người ta tự ái người ta chịu nổi không? Đâu có chịu nổi, phải không? Nếu mà dựng lại Phật pháp mà không chỉ cái sai của họ thì người ta cứ hướng dẫn, người ta nói người ta đúng không hà. Còn mình vạch ra như vậy người ta mới thấy được cái sai cái đúng.

Do đó bất đắc dĩ mà đến cái giai đoạn cuối cùng này, Thầy nói không phải là Thầy sợ ai mà Thầy trốn, mà Thầy ẩn bóng để làm một cái gương để may ra đủ cái duyên mà người ta hướng đúng cái đường lối mà Thầy đã vạch ra cho họ đã nghe. Thì cái việc đúng mà họ đã theo tu như vậy thì cái con đường mà của Thiện Huệ vạch ra, mà trong giáo án mà Thầy đã dạy thì các con thấy rất rõ 2 cái lộ trình.

Cái lộ trình tứ nhất, là cái lộ trình của một người cư sĩ, tức là thể nhập, thì cái người này phải thực hiện cái đạo đức nhân quả chứ gì?Đem cái nhân quả này dạy cho mọi người trên thế gian này, trên cái hành tinh này, thì một cái hành động thiện thì người ta chấp nhận người ta làm mà hành động ác thì người ta không làm, người ta biết đó là ác. Nhưng bây giờ cái giáo trình mà nhân quả đã viết ra thì người ta sẽ học cái giáo trình này người ta biết cái hành động đó là hành động ác, hành động đó là hành động thiện người ta biết. Mà hành động ác người ta không làm, người ta không làm thì tức là người ta đem lại cái kết quả tốt cho họ, cái đời sống giải thoát cho họ thì ai lại không ham cái giải thoát, ai lại muốn mang cái khổ đến cho mình. Các con hiểu điều đó. Cho nên do đó cái người mà thể nhập ở trong con người thì đó là những người cư sĩ chứ không phải là người tu sĩ.

Cho nên cái lộ trình thứ nhất mà Thầy nói đó là cái lộ trình chiếc áo cư sĩ hoàn toàn họ đem cái đạo đức giải thoát này dạy. Rồi trong các trường học được đem cái đạo đức này dạy cho các em mầm non của Tổ quốc, đều là trang bị cho nó một cái đạo đức, đạo đức nhân quả. Vì vậy mà nó lớn lên không bao giờ mà nó có thể giết người được, không có thể nó làm một cái điều ác, không bao giờ nó có thể lấy trộm hay cướp giật của ai được hết, hoàn toàn nó thấy những điều đó là điều không đúng, điều xấu. Còn bây giờ mình không dạy nó cái đạo đức nhân quả, nó biết cái gì đâu là thiện, biết cái gì đâu là ác. Cho nên từ những người này cho đến những người khác đều là phải học đạo đức nhân quả, đó là cái bổn phận và trách nhiệm đầu tiên mà Thầy mới có ý định mà xây dựng cái Trung Tâm An Dưỡng từ thiện để đem cái này.

Nhưng mà bây giờ Thầy đã di chúc lại, Thầy ủy thác lại cái này cho những cháu còn trẻ tuổi, có đứa thì mới sanh, có đứa  thì 5-6 tuổi, có đứa thì 10 tuổi mười mấy tuổi, có đứa còn đang đi học. Tất cả những người này đều là những người thông minh, những đứa con thông minh của Tổ quốc, những đứa con có cái khả năng giỏi và có đủ duyên phước cha mẹ có thể cho đi học ở các trường Đại học ở ngoại quốc. Để làm gì? Để sau này nó đem về, nó trở thành những cái đứa nhân tài của Tổ quốc, thì nó đem cái đạo đức đó mà nó truyền cho đất nước của chúng ta, nó truyền cho tất cả những người dân của chúng ta.

Bởi vì nó là những người thí dụ như nó lãnh đạo đất nước thì tức là nó phải có những quyền hành của nó, nó mới ban hành ra, bây giờ đem những cái đạo đức nhân quả này mà Thầy đã muốn, đã dạy cho gia đình nó từ lúc bé cho đến bây giờ. Nó đã được những cái đạo đức đó, nó đã học được những đạo đức nhân quả đó, nó đã thấm nhuần, nó trở thành những đứa con rất là ngoan ở trong gia đình, những đứa học trò rất giỏi ở trong gia đình. Cho nên nó toàn là những đứa giỏi, giỏi cả nước chứ không phải giỏi trong sơ sơ đâu. Nhưng mà phải nói rằng đó là những cái di chúc của Thầy, để tuổi trẻ sau này nó sẽ mang cái đạo đức này, nó trở thành những môn học cho tất cả những người dân ở trong Đất nước. Thì đó là cái hoài bão, cái ước vọng của Thầy. Nhưng ở đây Thiện Huệ thấy rằng chúng ta cần phải tiếp tục ở trên con đường này sớm chừng nào tốt chừng nấy cho nhân loại.

Nhưng các con là phần bên nữ, các con cũng có thể là những người mà có thể là những nhân vật, những người mà có thể đem lại những cái đạo đức nhân quả cho mọi người, chớ không phải không. Nhưng mà các con thấy từ cái ngày mà các con về đây, các con chuyên tâm để tu thiền định để mà giải thoát chứ các con đâu có nghĩ rằng nhân quả. Cho nên bây giờ mà nói mà mở cái lớp đào tạo 2 năm 3 năm về đạo đức nhân quả. Cái đạo đức nhân quả đó, nếu mà muốn mở nó thì phải có cái giáo trình của nó, chứ còn nếu mở nó mà không có giáo trình thì làm sao, cũng từ lâu tới giờ các con thấy Thầy dạy nó có cái giáo án nào mà dạy về tu theo đạo Phật không? Chưa có đâu. Các con về các con tu hơi thở Thầy dạy hơi thở, các con tu cái gì thì nương theo cái đó mà dạy mà dẫn dắt các con, chứ chưa có đặt ra một cái vấn đề gì hết. Mà Thầy chỉ có đặt kỷ luật ra là: ăn, ngủ rồi độc cư. Rồi bắt đầu đó là nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thôi, người nào mà không chấp nhận được thì chịu thôi, chứ chưa có cái giáo án nào hết, bây giờ mới viết ra cái giáo án.

Viết ra cái giáo án thì vạch ra 2 cái lộ trình để cho các con thấy rõ, cái nào đúng, cái nào sai, có vậy thôi. Chứ chưa có dám nói gì hết. Nhiều khi Thầy giảng Thầy thấy những cái sai trên cái bước đường giảng, kinh sách nó để lại những cái sai quá sai,bắt buộc Thầy đập những kinh sách đó đi thì nó đụng chạm với quý thầy, các bậc tôn túc quá nhiều. Cho nên hầu hết cái số băng của chúng ta, sau khi chia nó làm 2 phần. Cái phần mà xây dựng Phật pháp thì chúng ta được cho người khác nghe. Còn cái phần mà đập phá những cái sai của Phật pháp thì chúng ta chưa cho nghe. Tại sao vậy? Tại vì nghe, thì bây giờ họ đang sống như vậy thì chột bụng, chột dạ họ quá đi. Bởi vì họ đang sống kiểu đó thì ai lại chịu nổi được. Cái lời nói mà Thầy đập thiệt, đập tan nát đi, Thầy bảo họ hôi bò, hôi heo không à. Phải không? Họ tức quá đi. Chớ phải chi nói vừa vừa đi, Thầy nói quá nặng đi. Cho nên không có thể nào mà chúng ta nghe cái đập phá.

Nhưng mà sau khi mà cái xây dựng, họ được nghe, họ chấp nhận đúng. Chừng này nghe cái đập phá thì họ không chột bụng nữa. Còn bây giờ đương không vậy mà nghe nói họ hôi này hôi kia thì họ tức quá. Chê họ thúi này thúi kia, họ giận quá rồi, họ không có chịu đựng nổi. Cho nên ở đây chúng ta phân biệt cái số băng của chúng ta ra thì nó có những cái số băng xây dựng. Như các con nghe Thầy dạy, như Pháp niệm Phật, thì đó là xây dựng lại cái pháp niệm Phật mà không nói cái niệm Phật của người khác sai nhưng mà đem lại cái ích lợi của pháp niệm Phật. Cũng như Thầy nói tu Tứ vô lượng tâm, tu tập cái tâm từ mà bằng cái sức tỉnh thức của các con thì các con thấy cái đó là thực tế. Cho nên nó mang lại cái kết quả của sự tu tập. Vì vậy các con thấy những cái mà Thầy dạy, cái đó gọi là xây dựng lại. Dựng lại những cái Phật pháp mà họ đã quên cái pháp hành đi, họ không hiểu cách thức tu tập, cho nên nó không có đem đến cái sự giải thoát cho họ. Vì vậy mà bây giờ thấy: ờ dạy như vậy hay quá rồi, niệm Phật kiểu này là giải thoát ngon quá rồi, họ thấy xây dựng ngon quá rồi. Nhưng mà tới chừng mình cho nghe những cuộn băng đập xuống thì rõ ràng tại họ sống tầm bậy không đúng giới luật cho nên họ hôi gà, hôi bò, hôi heo rồi tùm lum thì họ không buồn nữa. Đúng là ổng dạy hay quá mà bây giờ ổng nói mình vậy là đúng. Bây giờ hồi nào tới giờ mình đâu có tưởng mình hôi, ai dè ông nói bây giờ mình mới nhìn lại thiệt cái mình mình hôi heo thiệt. Tại vì làm thịt heo phải hôi chứ sao? Thì bắt đầu mấy ổng mới nhận ra được. Còn bây giờ đùng cái vừa xây dựng mà vừa đập phá thì không được đâu. Cho nên sau những cuộn băng, lời giảng của Thầy thì tức là Thầy kiểm tra lại hết, Thầy mới soạn lại hết thì như vậy là sau này...

Đó là những chương trình sau những cái ngày mà ra hạ rồi thì các con về thăm nhà, hoặc là người nào về tạo chỗ tu hành thì cứ về. Còn riêng Thầy thì Thầy cũng đi tìm cái nơi nào mà yên ổn nhất để rồi Thầy mới ngồi lại Thầy soạn tiếp tục cái chương trình mà giáo án này và đồng thời Thầy cũng sẽ nhuận lạicái số băng này cho đàng hoàng rồi Thầy sẽ gửi về cho cô Út. Đồng thời, Thầy soạn luôn cái giáo án, cái giáo trình của đạo đức nhân quả để giúp. Bây giờ để con chuẩn bị như vậy.

Đó là những cái điều mà Thầy bàn với các con. Cho nên trong cái vấn đề mà sẽ sau này mà có đủ cái duyên thì khi mà cái giáo trình mà đạo đức nhân quả ra đời thì cõ lẽ là có những cái lớp mà của các Thầy sau này như Chơn Huệ hoặc là như Minh Tông bắt đầu sẽ dạy đạo Phật, không phải vô ngay dạy mà thiền đâu. Không phải dạy các con tu thiền đâu mà bắt đầu dạy đạo đức nhân quả, tức là cái lộ trình thứ nhất của người cư sĩ để chuẩn bị cho họ, họ phải học nhân quả.

Bây giờ nói về nhân quả các con có biết nhân quả là như thế nào đâu, chỉ nói nhân quả: Ờ thiện thì nó đem đến cái phước mà ác thì nó như vậy. Cái nhân quả không có đơn giản đâu. Chẳng hạn như con làm một cái hành động thiện đó mà hành động thiện đó nó sẽ đem đến cái quả gì, các con sẽ không hiểu. Bây giờ người ta nhức cái đầu này, các con đem viên thuốc cảm cho họ uống nè, cơn nhức đầu của họ giảm đi, giảm bớt nhức đầu đi, thì cái quả sau này khi mà giúp cái viên thuốc đó, cái quả sau này đem đến cái quả gì cho con. Chứ không phải là con đem cái viên thuốc cho người ta uống nhức đầu, rồi sau này con có lúa gạo, có cơm ăn đâu. Không phải cái điều đó. Hoặc là con đem viên thuốc cảm cho người ta uống cho giảm bớt cái nhức đầu đó nó đem lại cái quả cho con là sau này con lại có nhà cao cửa rộng hay làm quan làm vua, không phải. Cái hành động thiện đó nó sẽ đem cái quả thiện của nó trực tiếp vào cái chỗ đó chứ không phải cái khác được.

Cho nên đường đi nhân quả mà thông suốt thì chúng ta mới biết được cái hành quả.Ví dụ như bây giờ mình đem một bát cơm cho người khác thì ngày mai mình không có thiếu cơm ăn, mình đem một cái áo hay hoặc là vải mình cho người khác thì ngày mai hoặc là một lát nữa mình không có áo thì mình sẽ có người ban áo cho mình. Hoặc là cái phước đến mình làm ra cái áo mặc của mình rất nhiều, không có thiếu. Mình làm cái gì thì có cái đấy. Cũng như bây giờ mình đem cho họ viên thuốc thì thay vì hôm nay mình bị nhức đầu nhưng mà mình không có điên gì mà mình đi tắm trong lúc đổ mồ hôi như vậy. Mình không có nhức đầu, mình không có uống thuốc, vì người ta uống thuốc cho mình rồi, các con hiểu không. Thay vì mọi lần thì như thế này, mình đang đổ mồ hôi như thế này mình chạy vô nhà tắm mình mình tắm liền, vô cái mình bị cảm liền. Nhưng đằng này khi mà cho người ta viên thuốc rồi thì bửa nay nó có cái chuyện gì đó cho nên trong lúc đổ mồ hôi thì mình lại ngồi nói chuyện với người ta mà quên đi cái chuyện tắm của mình đi, do đó qua cái cơn có thể mình bị cảm làm cho mình nhức đầu. Chớ không phải là cho người ta viên thuốc rồi nó đem đến cái quả khác cho mình được. Nó cũng đem đến cho cái quả của mình là cái cơn đau nhức đầu đó, nhân nào thì quả đấy chứ. Cho nên mình phải hiểu biết như vậy, thành ra cái hành động của mình làm cái gì đó mình biết được cái quả đó. Mình biết được cái quả đó cho nên mình sáng suốt trong cái chỗ đó vì vậy mà cái đường nhân quả mình không lầm. Mà mình không lầm thì tức là mình đâu có bị nhân quả chi phối mình được, cho nên mình giải thoát chứ gì. Vì vậy mà hằng ngày mình đem lại cái phước do chính hành động của cái hiểu biết của mình trong cái nhân quả.

Nhưng ai là người viết nhân quả để nói được cái hành động nhân đó, quả đó mà cho nó đúng thì người đó phải thông chứ không thông làm sao viết được. Cũng như trong kinh nhân quả mà mấy người Trung Hoa họ viết bảo rằng đem tiền bạc để cho người ta sơn son thép Phật hoặc là đúc tượng Phật, hoặc cất chùa thì sẽ được làm quan, làm này kia. Bà con xúm với nhau muốn được làm quan mới đem tiền bạc cất chùa, cất riết rồi không thấy làm vua làm quan gì hết mà gần như là đem tiền bạc của mình đem riết rồi lo làm ăn một cách gian xảo ở trong đó. Thì cuối cùng tưởng rằng cất chùa to thì sau này được làm quan không ngờ lại quan bắt mình bỏ tù.

Cái nhân đó là cái nhân nó ngược ngạo như vậy thành ra cái người viết nhân quả đó không đúng. Mà thậm chí người ta nghe thấy nhân quả là người ta nghĩ là phải đi xuống địa ngục cho nên có cái cuốn Hồi Hương Nhân Quả mà cái con thấy đó. Các con đọc cuốn Hồi Hương Nhân Quả  đi xuống địa ngục ở dưới, như vậy viết nhân quả kiểu đó là viết mê tín mất rồi. Một nhà nho bị bắt lộn bị diêm vương lên lôi linh hồn lộn ổng đem xuống dưới đi dạo dạo chơi mấy bữa cho về, cái kiểu đó thiệt là nói dốc không à.

Cho nên ở đây Thầy nói để cho các con thấy rằng trong cái sự tu tập của mình là cái thực, bởi nhân quả nó là cái thực, chúng ta sống trong nhân quả, sanh ra từ nhân quả chết đi ở trong nhân quả cho nên nó cái thực không thể nào là cái mơ hồ được. Vậy mà cái người viết ra bộ sách nhân quả, con có đọc cái cuốn nhân quả của thầy Thông Uyển viết chứ? Nhưng mà nó còn trong cái tưởng quá nhiều, phải không. Nghe thì nó hay hay nhưng mà sự thật ra nó đâu có phải vạch cái đường đi nhân quả như vậy. Thầy có nói với thầy Thông Uyển không thể viết luật về nhân quả như vậy được mà phải viết sửa lại.Ở đây còn viết trong cái tưởng chứ chưa phải là viết thực của cái nhân quả. Thực nhân quả sắt trái ớt cho người ta trái ớt thì mai mốt mình cũng ăn lại trái ớt chứ không thể nào ăn trái chanh được hoặc là ăn trái cam được đâu, trái ớt cay thì mình cũng phải cay thôi, mà trái cam ngọt thì mình cũng phải ngọt thôi. Nó không thể nào khác được cho nên gọi là nhân quả. Hiểu như vậy thì chúng ta mới thấy cái người viết nhân quả không phải là cái người không hiểu viết được, muốn viết nhân quả hồi nào là viết được.

Bởi vì nhân quả nó ba cái thời gian lận, hiện giờ mà thấy cái người đó ở trong cái quả của họ như thế nào thì người ta biết quá khứ của họ đã làm cái điều ác gì rồi. Rồi bây giờ thấy trong hiện tại họ đang sống đó người ta biết tương lai của người đó họ sẽ ở trong cái cảnh giới nào người ta biết được. Do người ta nhìn cái hiện tại nhưng chưa đủ mà còn phải thông suốt cái đường đi lối về của nhân quả nó mới trọn vẹn được. Trong kinh nhân quả của Phật dạy thì nó đứng ở hiện tại mà nó suy ra cái quá khứ, nó đứng ở trong hiện tại mà nó suy ra cái vị lai. Còn chúng ta ở đây thì chúng ta không phải như vậy mà bằng cái đôi mắt thực tế của nhân quả, đường đi lối về của nhân quả. Ờ, vị này làm cái chuyện đó thì phải đem đến cái quả đó, mà vị kia làm cái chuyện đó phải đến cái quả đó. Cái nhân đó thì cái quả đó, dạy cho người ta thấy. Bây giờ anh làm cái chuyện này anh sẽ được cái này, anh làm cái chuyện kia anh sẽ được cái kia, anh làm cái chuyện nọ anh được cái nọ. Anh làm cái quả báo ác này thì anh sẽ thọ lấy cái ác này, nó không sai chút nào thì người ta mới tin nhân quả, mình nói trật người ta không tin. Chẳng hạn bây giờ người ta làm chuyện đó mà nó được cái quả khác thì người ta đâu tin. Người ta làm cái điều ác đó mà nó xảy ra điều ác khác thì người ta đọc kinh nhân quả người ta đâu tin được. Cho nên phải nói cho đúng chứ nói sai là rất khó, không phải dễ. Cho nên nói đâu nó phải có kết quả đúng y như vậy thì cái nhân quả đó nó mới là cái bài học xác thực, khó lắm chứ không phải chuyện dễ đâu. Các con đừng tưởng mà viết nhân quả, Thầy viết giáo án này thì dễ lắm mà viết nhân quả không phải dễ đâu. Nó còn phải cần có trí tuệ suy xét nó đúng hay là không mới dám kê cái bút lên mà viết cái điều đó chứ không phải viết bừa được. Nói làm sao mà cho nó thực tế và cụ thể để người ta tin cái nhân quả chứ mình nói bừa thì cái đạo đức nhân quả này ai tin, chỉ gạt người ta thôi chứ đâu có phải dễ đâu.

Cho nên trên cái vấn đề làm việc viết giáo trình của nhân quả không phải là cái chuyện của người tầm thường được, mà cũng không phải chuyện của người không có cái khả năng đó mà làm được. Phải hết sức thận trọng, mỗi một nhân quả nói ra phải hết sức thận trọng chứ không phải muốn nói bậy nói bạ gì nói đâu, khó lắm chứ không phải dễ. Làm cho cái nhân quả sống trong cái đời sống của người ta được để người ta hành được cái nhân quả để đem lại cái lợi ích là một cái nhiệm vụ và trọng trách rất lớn. Mình phải nói sao cho thực chứ đừng có nói láo ở trong đó không được, chứ không phải thường đâu. Các con đừng tưởng nghe nói viết nhân quả đâu phải dễ đâu, như Thông Huyễn viết kiểu đó là thời gian sau cuốn đó người ta chỉ đọc hồi đó thôi chứ ít hôm năm, mười năm sau người ta để nó trong nhà bếp chứ người ta không thèm đọc nữa. Bởi vì nó tưởng thôi nó đâu có đúng sự thật đâu.

Đến đây bây giờ các con tiếp tục nghe băng.

Trước khi tiếp tục bài học giáo án lấy pháp niệm Phật. Chúng ta đã học lấy thân niệm Phật, lấy thọ niệm Phật, lấy tâm niệm Phật rồi bây giờ lấy pháp niệm Phật. Nhưng trước khi học lấy pháp niệm Phật thì Thầy trả lời cho thầy Thiện Thuận có hỏi Thầy trong cái vấn đề mà tu tập. Và Thầy thấy cái vấn đề này cũng rất là quan trọng nên Thầy cũng thu vào băng để coi như là rút tỉa từ những kinh nghiệm để chúng ta tu đừng có sai lệch.

Đây là thầy Thiện Thuận hỏi Thầy:

Bạch Thầy, cho con xin hỏi thêm về cách phá âm thanh, nếu ám thị bằng câu trạch pháp như trên thì con phải ám thị ra lệnh lúc ngồi thiền khi còn ở hơi thở năm giây hay mười giây hoặc hai mươi giây hay là ám thị cùng một lúc với ra lệnh cho các hành ngưng và hơi thở ngưng, xin Thầy chỉ thêm. Đó là một cái điều rất là quan trọng mà hầu hết là cái số người dùng cái pháp hướng khi mà nó chưa đúng cách mà ở trên chỗ đó mà hướng tâm bảo nó ngưng hơi thở hoặc là bảo nó phá âm thanh thế này thế khác mà chưa đúng cái trạng thái. Khi mà chúng ta ở trong cái mức định nào đó thì chúng ta mới phá được cái âm thanh hoặc là phá cái thọ.Còn chưa ở trong những cái định mà chúng ta vội hướng tâm phá âm thanh thì coi như là một cái người bình thường như vậy mà bảo âm thanh đừng có nghe chắc chắn là muôn đời nó vẫn nghe chứ không bao giờ nó hết nghe được.

Cho nên ở đây thầy Thiện Thuận hỏi khi mà ngồi thiền thì còn ở trong hơi thở năm giây hoặc là mười giây hoặc là hai mươi giây. Nghĩa là cái hơi thở bình thường là năm giây rồi bây giờ thở chậm ở trong mười giây hoặc là đến hai mươi giây rồi mới ám thị hoặc cùng một lúc mình ám thị. Nghĩa là mới vào mình tréo chân lên mình ám thị nó nhắc nó đừng nghe âm thanh hoặc các hành phải ngưng đồng thời một lượt. Như vậy thì ở đây Thầy sẽ trả lời. Và khi xả ra bằng những câu nào? Lúc xả ra thì ám thị như thế nào? Đó là những điều rất là quan trọng. Và kế thầy Thiện Thuận có báo cáo trạng thái đang tu của mình:

Bạch Thầy con dùng câu pháp hướng phá âm thanh của Thầy chỉ kết quả qua những lần đau rát chân, nay đã không còn đau nữa mà âm thanh vẫn còn nghe không giảm tí nào. Và hiện giờ ngồi thiền thì chân nó cứ bung ra hoài, vừa kéo chân lên xong con mới ám thị chưa được nửa câu thì chân đã bung ra rồi, xin Thầy chỉ thêm cho biết.

Đó là những điều kiện rất là quan trọng khi mà chúng ta biết dùng cái pháp hướng, nếu mà không biết dùng cái pháp hướng thì chúng ta không có làm sao mà chúng ta nó có cái hiệu quả của pháp hướng được, nó phải đúng cái trạng thái nào. Muốn dùng pháp hướng phá âm thanh, khi nào xét thấy sáu thức bám chặt và nằm yên trên cái tụ điểm. Đó, bây giờ Thầy nói muốn phá âm thanh bên ngoài cho đừng có nghe đó thì lúc bấy giờ chúng ta phải nhận xét sáu cái thức. Trước tiên mà chúng ta kéo chân lên ngồi thì chắc chắn chúng ta phải điều cái thân rồi, điều cái thân cho vững vàng, coi ở đâu cho nó vững, ngồi rất là vững vàng rồi tới điều cái tâm. Điều cái tâm tức là điều sáu cái thức cho nó nằm yên trên một cái điểm. Lúc bấy giờ sáu cái thức nó đã bám chặt nó nằm yên trên một tụ điểm thì nó có một trạng thái yên lặng, nó yên lặng trong thân và ngoài thân.

Quý thầy lưu ý cái phần này rất là quan trọng, nếu mà khi chưa có sự yên lặng mà vội hướng, mới kéo chân lên mà vội hướng thì nó không có kết quả đâu. Mà cái hơi thở chúng ta thở còn ở năm giây thì tức là chúng ta còn ở trong cái dạng hơi thở bình thường. Bây giờ chúng ta ở trong cái định nào, khi bắt đầu chúng ta đã ly dục, ly ác pháp được thì chúng ta biết rằng chúng ta có một cái tâm thanh thản, và cái tâm thanh thản đó chính là cái tâm ly dục ly ác pháp. Luôn luôn chúng ta có tầm tứ nhưng tầm tứ đó nó đều là thiện pháp chứ không phải là ác pháp nữa. Bởi vì chúng ta ly dục ly ác pháp rồi thì nó đâu còn là ác pháp nữa cho nên hoàn toàn cái tầm tứ đó đều là thiện. Nhưng chúng ta phải tiến tới một cái giai đoạn nữa là thay vì cái hơi thở của chúng ta ba giây hay năm giây trong cái bình thường của cái trạng thái thanh thản của sơ thiền. Thì đó là chúng ta biết rằng chúng ta đã ly dục ly ác pháp rồi thì biết cái tâm thanh thảnh đó là cái tâm đang ở trong trạng thái của sơ thiền.

Nhưng không có nghĩa là chúng ta đang ở trong cái trạng thái sơ thiền này mà phá âm thanh được. Cho nên ở trạng thái như là cái hơi thở mà ba giây hay năm giây này mà chúng ta thở hướng tâm bảo cái âm thanh không nghe, bảo nhĩ thức đừng có nghe âm thanh nữa thì chắc chắn không thể kết quả đâu. Do đó chúng ta phải thở chậm và nhẹ để chúng diệt cái tầm, còn cái tứ. Diệt cái tầm còn cái tứ đó là một cái định chứ không phải, bởi vì cái sơ thiền cái tầm tứ nó có. Nhưng bây giờ chúng ta mới diệt cái tầm mà chúng ta còn cái tứ. Như Minh Tông đã nói: Diệt cái tầm còn cái tứ là luôn luôn lúc nào mình cũng phải có cái pháp hướng mình nhắc cái tầm của mình, chớ không phải là hướng phá âm thanh. Mà hướng để cho cái tứ của mình nó tác ý ra mà cái tầm nó hoàn toàn không có nữa. Còn bây giờ mình tầm tứ đã diệt hết rồi. Nếu mà cái không tầm không tứ diệt hết rồi không còn gì nữa mà cái hơi thở đó nó khoảng năm giây, mười giây hoặc hai mươi giây mà đến khi đó chúng ta không còn nhận ra hơi thở vì hơi thở quá nhẹ. Nhưng thời gian hơi thở thì nó khoảng là mười giây, hai mươi giây hoặc năm giây, nhưng hơi thở chúng ta lúc bây giờ chúng ta không thấy hơi thở, tức là không còn cái niệm của hơi thở nữa.

Do đó mà chúng ta biết tầm tứ đã diệt. Tức là chúng ta đã nhập nhị thiền. Nhưng chúng ta đâu có ở trong cái trạng thái của nhị thiền vì vậy mà chúng ta giữ cái hơi thở, chúng ta còn biết hơi thở ra và hơi thở vô. Do đó chúng ta nằm trên cái hơi thở ra vô đó. Nhưng chúng ta biết rằng có cái niệm không phải là nhị thiền nhưng có cái niệm nằm ở trên cái lộ trình đó mà chúng ta ở cái trạng thái đó để chúng ta phá các loại thược tưởng. Vì ở cái trạng thái của nhị thiền thì bước sang qua tam thiền là nó có những cái trạng thái tưởng xảy ra như hào quang ánh sáng hoặc là thân bay bổng hoặc là thân cảm giác khinh an hỷ lạc hoặc là những trạng thái này trạng thái kia xảy đến trong cái tâm và thân chúng ta lúc bây giờ. Bởi vì tầm tứ diệt đương nhiên chúng ta xem như là một cái người đang ngủ, chúng ta xem như cái thân của chúng ta đang ngủ. Vì thế mà cái giấc chiêm bao nó sẽ thực hiện, nhưng ở đây giấc chiêm bao nó không phải là cái người nằm ngủ mà mộng chiêm bao mà đây là do chúng ta tu tập mà chúng ta diệt tầm tứ. Cho nên ý thức của chúng ta nó phải ngưng, nó ngưng vì vậy mà nó không có tầm có tứ, mà không có tầm tứ thì cái tưởng thức nó phải thể hiện. Cho nên vì vậy mà cái đoạn đường này chúng ta phải bám cái hơi thở, chứ mất hơi thở thì những cái trạng thái của tưởng nó sẽ xuất hiện, thì nó giống như một người đang mộng, đang chiêm bao.

Biết rõ như vậy thì chúng ta muốn phá âm thanh thì nó phải phá ở chỗ nào? Hiện bây giờ chúng ta chưa phá được âm thanh mà chúng ta đang phá các loại tưởng. Chúng ta biết rằng chúng ta phải phá các loại tưởng, vì vậy mà nằm ở trên cái hơi thở mà diệt tầm tứ này, nó không có tầm tứ này thì nó có một trạng thái yên lặng chứ nó chưa phải là vắng lặng. Do nằm ở trên cái trạng thái yên lặng này thì 6 cái thức của chúng ta phải bám chặt trên cái tụ điểm, không được cho nó di chuyển chỗ này đến chỗ khác, nó phải nằm yên lặng ở đó và nó phải thấy cái hơi thở từ cái chỗ tụ điểm đó xuất phát cái hơi thở ra và cũng từ cái tụ điểm xuất phát hơi thở vô. Chứ không phải thấy hơi thở hoài đi vô mũi, rồi cũng từ ở trong mũi này thấy cái hơi thở đi ra và cái biết của chúng ta bám tại nhân trung đây biết hơi thở đi ra, đi vô như vậy. Không phải. Cái đó là cái sai của quý thầy. Cái mà quý thầy phải nhận ra từ cái tụ điểm đó, nó phải thấy cái hơi thở nó xuất phát, nếu hít vô thì thấy hơi thở từ cái chỗ nhân trung đó nó có hơi thở nó xuất phát nó đi vô trong cái lỗ mũi của quý thầy, nó đi vô ở trong cơ thể của quý thầy và cũng từ khi quý thầy thở ra, nó không phải ở trong phổi của quý thầy thở ra mà quý thầy phải thấy từ cái tụ điểm đó nó đang có hơi thở thở ra, chứ không phải là từ trong mà thở ra. Vì vậy mà 6 cái thức của quý thầy mới bám chặt trên cái tụ điểm đó, nó mới nằm yên lặng ở trên đó được.

Và vì vậy mà nó sẽ không xảy ra cho quý thầy một trạng thái hỷ lạc, khinh an hoặc cảm giác nặng của thân ở chỗ này hay chỗ khác hoặc nhức đầu hoặc nặng đầu hay hoặc là có nhiều cái mà có thể xảy đến cho quý thầy. Hễ càng đi xa hơn thì nó có những thần thông đặc biệt của nó hơn, nó càng đi sâu hơn trong cái kéo dài cái thời gian dài ra. Ở trong cái trạng thái này thì quý thầy luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác hướng tâm ám thị phá các tưởng, chứ không phải phá âm thanh. Chừng nào mà quý thầy thấy cái sức tỉnh của mình, ngủ mà không còn chiêm bao nữa thì bây giờ quý thầy phá âm thanh mới có kết quả. Và khi nào mà chúng ta muốn nhập được tam thiền thì phải ly hỷ toàn bộ không còn cái trạng thái xảy ra cho cái tâm ta vui mừng nữa. Thì lúc bây giờ chúng ta mới ở trên cái chỗ mà trạng thái yên lặng của hơi thở của Tam thiền này mới phá âm thanh và phá thọ. Cho nên Phật gọi là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, cái chỗ này là cái chỗ buông hết, buông sạch hết tất cả những âm thanh, sắc tướng, tất cả những cái thọ, cái đau đớn, tất cả mọi cái đều là buông xuống hết.

Nhưng buông xuống thì chúng ta phải nương như thế nào? Phải ở trên cái hơi thở của Tam thiền chứ không phải ở trên hơi thở của Nhị thiền. Và ở trên cái hơi thở của Tam thiền thì quý thầy cái đầu tiên mà quý thầy nhận ra được mình có ly được các hỉ chưa, mà ly được các hỉ thì chiêm bao của quý thầy đã hết rồi. Cho nên quý thầy nằm ngủ mà suốt đêm mà thân thì ngủ ngáy mà tâm thì biết hơi thở ra vô không có mê. Còn nếu mà quý thầy còn chút chiêm bao thì hãy cố gắng tu tập cái tỉnh thức ở trong giấc ngủ. Để cho cái tâm nó tỉnh, nó không mê, thì nó mới không chiêm bao, mà nó không chiêm bao thì các thầy mới ly các trạng thái hỉ mà ly các trạng thái hỉ được thì đương nhiên cái hơi thở của quý thầy đang dừng thì tức là nó đang ở trong Tam thiền. Chỉ cần mất hơi thở là quý thầy đã nhập tam thiền. Mà còn hơi thở tức là còn cái niệm thì đó là còn cái đường đi để chúng ta tiến tới Tứ thiền, quý thầy hiểu như vậy.

Do như vậy là chúng ta phải giữ cái tâm của mình ở cái chỗ cái trạng thái của hơi thở và cái trạng thái yên lặng, cái nơi của Tam thiền đó thì mới hướng tâm phá âm thanh. Thì lúc bấy giờ cái pháp hướng của quý thầy nó có hiệu quả, nó làm cho quý thầy không còn nghe âm thanh bên ngoài nữa. Chớ còn hơi thở của quý thầy đang ở Nhị thiền, mới diệt tầm tứ mà chiêm bao của quý thầy còn mà quý thầy vội phá âm thanh thì phá chưa được đâu. Bởi vì những trạng thái tưởng mà quý thầy chưa có ly thì làm sao mà quý thầy đi tới nữa được, đâu có tiến tới nữa được, cho nên rất là khó. Cho nên xét cuối cùng, do cái chỗ mà quý thầy biết được cái cấp độ yên lặng của nó, cái yên lặng của nhị thiền, nó không giống như cái yên lặng của trạng thái của tam thiền.

Do mà phân biệt được cái chỗ này, khi mà 6 cái thức nằm yên trên cái trạng thái của Nhị thiền mà bám chặt cái tụ điểm của Nhị thiền thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ hướng tâm ám thị để mà phá cái gì? Tức là chúng ta phá cái hỉ. Vì vậy mà tiếp tục ở trên cái bước đường tu tập này thì trong khi sắp sửa ngủ thì quý thầy phải tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ. Đặt cái niệm hơi thở trước mặt của mình, rồi biết hơi thở ra biết hơi thở vô, để giữ tâm mình cho đến 5 phút - 10 phút rồi mới bắt đầu cho nó ngủ, sau đó chúng ta tăng dần tăng dần cho đến khi chúng ta nằm ngủ hoàn toàn nó tỉnh thức cái tâm thì tỉnh thức mà cái thân thì nó ngủ. Lúc bây giờ chúng ta đã biết chúng ta đã vượt qua các trạng thái hỉ rồi cho nên bây giờ ngủ mà nó không có mê vẫn biết được cái hơi thở. Do đó gọi là đặt niệm hơi thở tỉnh thức ở trong giấc ngủ. Vì vậy mà chúng ta không có mệt nhọc không có mất ngủ mà chúng ta rất là tỉnh táo, và cái sức tỉnh rất là cao. Và vì vậy mà khi đi đến mức độ yên lặng của Tam thiền thì cái sức tỉnh nó phải hơn cái sức tỉnh thức ở Nhị thiền.

Quý thầy hiểu cái điều đó, do đó khi mà muốn phá âm thanh thì quý Thầy phải đến cái trạng thái Tam thiền tức là cái sự yên lặng của Tam thiền rồi mới hướng tâm mới phá âm thanh để chúng ta phá sạch xả lạc xả khổ, xả niệm thanh tịnh đó, thì lúc bây giờ cái tâm của chúng ta nó vắng lặng. Khi mà xả hết rồi không còn nghe âm thanh không còn cái thọ mà tác động ở trong thân của chúng ta, không còn một cái cảm giác nào, nó chỉ còn một cái trạng thái của không gian và thời gian bây giờ nó rất là vắng lặng.

Đó quý thầy nhớ kỹ, nó vắng lặng tức là trạng thái của định Tứ thiền. Thầy muốn nói dùng cái danh từ như vậy nhưng mà khi quý thầy đã nhập đến đó thì quý thầy sẽ biết được cái trạng thái vắng lặng. Cũng như Minh Tông nó nói rằng con đã nhận ra được cái trạng thái của Tứ thiền tức là trong khi đó nó có nhận ra cái trạng thái vắng lặng, lúc bây giờ không nghe âm thanh nào mà tác động vào nhưng nó không lâu nó còn bung ra. Cho nên giữ để mà an trú, thiện xảo mà an trú kéo dài cái trạng thái vắng lặng đó thì nó không được, nó không được kéo dài lâu, cho nên thấy được cái bóng dáng của tứ thiền nhưng chưa ở được trong đó.

Vì vậy mà chúng ta biết được như vậy nhưng vì chúng ta thấy được bóng dáng vắng lặng đó nhưng vì chúng ta chưa phá, chưa có trọn vẹn mà chúng ta nhập Tam thiền. Giấc mộng chúng ta còn, chiêm bao chúng ta còn, hỷ chúng ta chưa ly hết cho nên do đó chúng ta chỉ thấy được bóng dáng của Tứ thiền chứ chúng ta chưa nhập được vào nó. Có được một chút thôi, chúng ta mới thấy được trạng thái vắng lặng.

Thầy nói khi mà nhập Tứ thiền thì nó vắng lặng, cả cái không gian vũ trụ này nó không còn có một tiếng động nào hết và cả cái thọ chúng ta nó không còn có cái ngứa ngáy hoặc là mỏi mệt, hoặc là nhức chỗ này đau chỗ kia nữa. Nó không tác động được chúng ta chỗ nào hết, như vậy mới gọi là cái trạng thái của Tứ thiền.

Nhưng muốn biết được cái chỗ chúng ta dùng pháp hướng có hiệu quả hay không là phải đúng cái trạng thái yên lặng, cái mực độ nào mà dùng pháp hướng để phá âm thanh, mà dùng pháp hướng để phá thọ, phá các loại tưởng. Thì bây giờ một cái người mà chưa có diệt tầm được mà cũng muốn phá âm thanh thì Thầy thấy tầm chưa hết mà làm sao phá âm thanh. Cho nên bây giờ chúng ta muốn diệt cái tầm, muốn cho hết cái tầm tức là đừng có cho vọng tưởng đó thì chúng ta phải hướng tâm, bắt buộc cái ý thức của chúng ta nó phải luôn luôn, nó phải tác ý ra, như một cái lý tác ý ra “ý thức phải bám chặt hơi thở”. Cứ một lát lâu lâu mình lại nhắc “ý thức nhớ bám chặt vào hơi thở, không có được quên”. Do đó chúng ta nhắc nó vậy rồi chúng ta giữ cái trạng thái tâm của chúng ta kéo dài ra chừng một phút hai phút nó không có một cái tầm gì hết, do đó chúng ta tiếp tục tác ý ra nữa.

Cứ như vậy thì chúng ta nhập được một cái định, cái định đó gọi là vô tầm và hữu tứ. Đó, chúng ta đi từ từ rồi sau đó thì chúng ta mới xả, khi mà chúng ta xả hết cái pháp hướng ra mà chúng ta thấy cái tầm nó không có tác động được, nó không có khởi ra được thì chúng ta đã biết rằng tầm tứ chúng ta đã diệt được. Do đó lúc bấy giờ chúng ta chỉ cần hướng một lần chúng ta nhắc tứ không còn tác động ta nữa, không cần dùng pháp hướng đó nữa mà chúng ta chỉ cần nhắc hơi thở chậm, nhẹ hoặc hơi thở phải nhẹ xuống nữa. Đừng có, cái ý thức không có được nhận cái hơi thở nữa cho nên cái hơi thở mất đi. Lúc bấy giờ nó không còn cái đối tượng của hơi thở  thì cái ý của chúng ta nó mất cái đối tượng mà nó không tầm không tác ý ra thì lúc bây giờ tầm tứ đã diệt. Do đó chúng ta nhập cái định diệt tầm diệt tứ, tức là tương đương với Nhị thiền.

Bây giờ cái trạng thái yên lặng ở đó chúng ta đã biết nó như thế nào rồi, chúng ta vô đó chúng ta biết chỗ nào rồi, nhưng mà chúng ta trở ra hơi thở để biết hơi thở chứ còn để mất hơi thở thì tức là mất đối tượng, tức là nhất tâm mới hợp định. Còn cái tâm của chúng ta đối với cái niệm thì làm sao gọi là định. Cho nên vì vậy chúng ta phải ra cái niệm, nhờ cái niệm hơi thở ra và hơi thở vô chúng ta mới ly được các cái trạng thái hỷ mà chúng ta nhập tam thiền. Chứ nếu mà không có hơi thở thì chúng ta cứ nằm ở trong nhị thiền thì nếu mà chúng ta khéo léo mà an trú cho nó nằm đó một ngày hai ngày thì nó cũng Nhị thiền chứ không phải Tam thiền được. Đó quý Thầy hiểu cho nên quý thầy lấy cái lộ trình hơi thở cho nên trong cái bài kinh Phật nói nếu muốn nhập Sơ thiền thì chúng ta cũng nương vào hơi thở ra hơi thở vô để mà chúng ta khéo tác ý nó thì chúng ta nhập cái Sơ thiền. Mà đến cái Nhị thiền chúng ta cũng nương cái hơi thở ra và hơi thở vô khéo tác ý nó thì chúng ta sẽ nhập nhị thiền. Mà đến Tam thiền cũng vậy, đến Tứ thiền cũng vậy mà cho đến diệt thọ tưởng định thì đức Phật cũng bảo chúng ta nương vào hơi thở mà để hơi thở ra hơi thở vô khéo tác ý nó để mà chúng ta nhập được cái thọ tưởng định. Đức Phật dạy chúng ta qua cái bài pháp rất là tuyệt vời, lộ trình hơi thở chúng ta rất là hay để mà chúng ta sử dụng nó đi hết quãng đường nhập định này cụ thể và rõ ràng. Và cái hơi thở càng chậm và nhẹ thì nó mới tới cái mức độ nó ngưng được, chứ bây giờ hơi thở còn ba giây, năm giây như vầy làm sao ngưng được.

Đó, chúng ta thấy quá cụ thể. Do vì vậy mà trả lời cho thầy Thiện Thuận thì nhớ là cái trạng thái tâm của chúng ta phải nằm yên trên một tụ điểm. Vì vậy mà trải qua quá trình tu về thiền định này, bốn thiền này thì phải tạo cho nó có một cái tụ điểm. Cái tụ điểm tức là một cái cọc cũng như là chúng ta đóng một cái cọc rất là cứng, chắc do đó chúng ta mới cột sáu cái thức, xem như sáu cái thức của chúng ta là sáu con vật. Sáu con vật cột chặt ở trong cái cột đó mà nó không có lôi, nhổ được cái cọc thì sáu con vật nó quay một hơi thì nó sẽ nằm tại đó hà.Còn nếu mà nó lôi cây cọc nó văng qua bên đây văng qua bên kia  thì mặc tình con nào nó lôi chạy vùng hết thì như vậy chúng ta chẳng có cái chỗ nào mà chúng ta nằm yên được. Cho nên ở đây chúng ta nói cái tụ điểm nhưng sự thật đó là một cái cọc để chúng ta cột sáu cái thức của chúng ta nằm ở trên đó. Vì vậy mà người tu là phải có một cái tụ điểm, mà nếu không có cái tụ điểm như một người mà cột sáu con vật mà không có cái cọc thì không thể nào mà cột được đâu. Sáu con vật của chúng ta  con nào nó cũng lôi theo nó hết. Bây giờ thí dụ như con mắt thì nó lôi theo hình ảnh, mà cái lỗ tai thì nó lôi theo âm thanh. Tất cả mọi cái nó lôi theo nó chứ nó không có chịu đi chung một hướng đâu. Cho nên vì vậy mà chúng ta phải cột chặt nó. Đó là cái tụ điểm, nếu không có tụ điểm thì không làm sao quý thầy có thể phá âm thanh.

BĂNG SỐ 54

Làm sao mà phá âm thanh, mà phá tưởng được và diệt tác ý được, phá không được đâu.

Lúc bấy giờ dùng pháp hướng cũng phải thiện xảo. Nếu không, nghĩa là khi mà chúng ta nằm đúng ở trên cái vị trí của sự yên lặng của thân, của nội thân của trong thân và ngoài thân rồi, chúng ta biết được cái trạng thái đó rồi, thì bây giờ chúng ta dùng cái pháp hướng phải thiện xảo, khéo léo. Nếu mà quý vị tác ý thô quá là nó cũng làm mất cái trạng thái yên lặng của quý vị trong lúc đó rồi. Mà quý vị sợ quá không dám hướng tâm cho nó mạnh thì nó lại không có đủ cái sức để cho đủ cái lực tinh thần của quý vị thì nó cũng chẳng có phá được. Cho nên phải thiện xảo, khéo léo biết cái mức độ nào mà có thể phá được, hướng tâm ra, nhẹ nhàng như thế nào mà không bị sốc sự yên lặng, cái trạng thái yên lặng của chúng ta nằm ở đó, phải khéo léo lắm. Cho nên Phật nói thiện xảo an trú ở trong định, vì thế mà nó không bung ra, âm thanh không phá được mà trạng thái yên lặng của thân và tâm lại mất. Nghĩa là mình hướng tâm, mình nhắc cái câu đó, cái pháp hướng đó mà nó lại quá động, nó làm cho cái âm thanh không phá mà cái trạng thái yên lặng của định nó lại cũng không có được, nó lại mất cái trạng thái yên lặng đó đi. Và ngay đó, cái tụ điểm 6 thức cũng bung ra. Nghĩa là lúc bấy giờ, khi mình xúc động, mình hướng tâm quá mạnh đi thì 6 cái thức nó không còn nằm tại cái tụ điểm. Do đó mình bắt đầu thấy nó như chạy bên đây, nó chạy bên kia, nó ở chỗ khác. Bởi vậy phải thiện xảo, khéo léo dùng pháp hướng phá âm thanh mới có kết quả. Tức là trong cái lúc mà dùng cái pháp hướng đó, trạch cái pháp ra, nó cũng phải đúng tên, đúng họ của nó nữa. Chứ nếu mà mình dùng sai tên, sai họ thì mình có gọi, mình hướng đi nữa, nó cũng chẳng biết được đâu mà nó vâng lời mình. Cho nên dùng pháp hướng phải đúng cách và dùng pháp hướng nó phải có cái thực của nó, phải suy nghĩ cái kinh nghiệm của mình như thế nào, trạch cái pháp đó ra cho nó đúng, để làm một cái câu, để mà nhắc nó trở thành cái lực thì như vậy nó mới có kết quả.

Lưu ý khi tréo chân lên ngồi kiết già, thân ngồi kiết già, lưng thẳng và đợi cho toàn thân yên tĩnh. Nghĩa là khi mà tréo chân lên rồi không có nghĩa là vừa tréo chân lên được chút là mình lo hít thở rồi mình điều khiển, mình ám thị thế này thế kia. Không phải. Cái người tu là phải cẩn thận và ý tứ, hết sức ý tứ. Hầu hết chúng ta không phải là người tu vội vàng hoặc là nông nổi mà cái người tu chúng ta ngồi tréo chân lên hẳn hòi, đàng hoàng, thân ngồi rất vững vàng và nghe cái trạng thái của thân toàn bộ đang bắt đầu yên lặng, bắt đầu yên lặng của toàn bộ cái thân, không nghe nó còn cấn hoặc là khó chịu chỗ này hay là khó chịu chỗ kia hay hoặc là còn cảm giác nực, hoặc còn cảm giác lạnh hay hoặc là còn cảm giác tức lói chỗ này, chỗ kia hoặc là còn cảm giác mỏi tay, mỏi chân ở khớp tay khớp chân thì đừng có vội mà hướng tâm cái gì cả hết để cho tuần tự khi mà tréo chân rồi, để cho toàn cái thân chúng ta nó trở về với cái trạng thái yên lặng của sự yên lặng của nó. Thì lúc bấy giờ khi mà cái thân nó đã yên lặng rồi thì chúng ta mới điều khiển cho 6 cái thức của chúng ta nó nằm yên ở trên chỗ cái tụ điểm của nó, để cho tâm nó được yên lặng theo.

Đó quý thầy nhớ những điều kiện chúng ta lần lượt chúng ta điều khiển cái phần thân trước, rồi cái phần tâm kế, chứ đừng có vội vàng thân tâm làm một lượt, rồi cứ lo hít thở để cho đừng có vọng tưởng. Không phải. Ở đây thân phải yên lặng, tức là thân phải định và tâm nó phải định, chớ không phải vội vàng để cho hết vọng tưởng, mà đây cả cái trạng thái thân yên lặng trong cái sự yên lặng của nó. Cho nên lưu ý khi tréo chân lên, ngồi kiết già, thân ngồi kiết già, lưng thẳng và đợi cho toàn thân yên tĩnh, nghĩa là không còn một cảm giác nào khó chịu trong thân thì mới dùng pháp hướng nhắc 6 thức nằm yên và bám chặt vào tụ điểm. Mà nếu nó gom tại đó, thì chúng ta thấy nó nằm chặt tại đó rồi thì chúng ta mới nương cái hơi thở ra và hơi thở vào nhẹ nhàng cho đến khi toàn 6 thức đã nằm yên lặng. Nghĩa là bây giờ chúng ta thấy từ cái tụ điểm đó, nó xuất phát hơi thở ra và xuất phát từ cái hơi thở vô và chúng ta biết rằng sáu cái thức đó đang nằm yên ở trên cái chỗ hơi thở ra và hơi thở vô đó. Thì lúc bấy giờ toàn thể thân tâm ta hiện ra một cái trạng thái rất là yên lặng và rõ ràng. Nghĩa là khi mà chúng ta không còn cái vận dụng của các cơ để mà chúng ta hít vô thở ra đâu, để tự nó chúng ta quan sát thấy nó ra vô. Nó ra vô rất là tự nhiên, mà từ cái chỗ tụ điểm đó hơi thở nó ra và cũng chính từ tụ điểm đó hơi thở nó vô. Và vì vậy đó mà chúng ta biết rằng 6 cái thức nó đang nằm yên lặng ở trên cái chỗ đó. Do đó chúng ta mới thấy được cái trạng thái toàn bộ chỉ nội tâm và ngoại cảnh. Tức là hoàn toàn những cái trạng thái mà nội tâm và ngoại cảnh của chúng ta đều là đạt ở trên cái tụ điểm đó, nó không còn bị động nữa. Nghĩa là 6 cái thức của chúng ta chịu nằm yên ở trên đó rồi thì cái ngoại cảnh không có tác động của 6 cái thức của chúng ta được và cái thân của chúng ta nó cũng đang yên lặng ở trên cái chỗ yên lặng của toàn thân, nó không còn có gì nữa. Thì bây giờ mới tác ý như thế nào để không bị động, không bị động cái sự yên lặng nội tâm của chúng ta. Cho nên bây giờ chúng ta tác ý như thế nào để lúc bây giờ chúng ta đã biết cái sự yên lặng đó của nội tâm của chúng ta và ngoại cảnh nó không còn tác động nữa. Vì vậy lúc bấy giờ chúng ta ở trong đó mà chúng ta tác ý xúc động ra thì coi chừng nó sẽ mất cái sự yên lặng đó đi, vì vậy mà chúng ta thoáng nhẹ nhàng mà chúng ta tác ý. Có một sự tác ý rất thoáng nhẹ nhàng. Và như vậy nó không mất cái lực của pháp hướng, mà không mất cái lực của pháp hướng thì nó làm cho hiệu quả của cái câu pháp hướng của chúng ta muốn mà đạt gì thì nó sẽ đạt được. Và mỗi lần hướng dường như cái tâm của chúng ta, ví dụ như muốn phá âm thanh cái tâm của chúng ta cứ mỗi lần nhắc ra thì chúng ta lại nghe cái âm thanh bên ngoài nó không còn nghe nữa. Chứ không phải là nhắc 5 - 10 lần mà vẫn còn nghe. Mà rõ ràng là chúng ta vừa nhắc mà nó không xúc động cái trạng thái yên lặng đó thì ngay đó cái âm thanh vắng xuống liền. Bây giờ chúng ta đương nghe một tiếng máy xịch xịch thì bắt đầu ta chúng ta nhắc, chúng ta hướng rất nhẹ, đừng để xúc động cái âm thanh, cái trạng thái của chúng ta đang yên lặng đó, thì lúc bấy giờ vừa thoáng chúng ta nhắc qua cái ý chúng ta thì dường như tất cả 6 cái thức của chúng ta, nhất là cái nhĩ thức nó lại nằm yên xuống hơn nữa, nó làm như nó lặng sâu xuống nữa, nó không còn nghe ở bên ngoài.

Đó là cái kết quả mà chúng ta đã biết được nằm yên ở trên cái trạng thái yên lặng đó thì nó lại càng yên lặng hơn nữa, thấy nó đi sâu hơn nữa, nó làm cho nó lặng sâu hơn nữa. Cái âm thanh đó đang lớn thì chúng ta nghe nó dường như một cái tiếng xa văng vẳng chứ không còn lớn nữa. Và đồng thời chúng ta để kéo dài cái thời gian văng vẳng đó thì chúng ta lại nhẹ nhàng thoáng qua nhắc cái tác ý, nhắc cái tâm của mình một lần nữa thì lúc bấy giờ cái âm thanh vắng luôn, không nghe nữa. Thì như vậy chính là chúng ta nằm ở trên cái tụ điểm mà chúng ta hướng tâm để cho cái âm thanh nó phá đi. Hoặc bây giờ chúng ta đang bị cái chân nó đau hoặc nhức nhưng chúng ta đừng để cái tâm chúng ta dao động ở chỗ đau nhức đó mà chúng ta hãy nằm chặt ở trên cái tụ điểm, rồi chúng ta có cái cảm giác biết nó đang đau nhưng mà không phải đau luôn đâu. Bởi vì khi mà cái tâm nằm trên đó thì cảm giác đau nó rất là thường. Còn cái tâm mà chúng ta nhảy xuống mà nằm chỗ nó đau đó thì chúng ta thấy chịu không nổi. Cho nên chúng ta bám cho chặt cái tụ điểm thì chúng ta hướng cái thọ phải đi đi, không có được ở đây và cái thân thức phải bám cho chặt cái tụ điểm, bám cho chặt cái hơi thở, bám cho chặt cái tụ điểm thì ngay đó ra lệnh nó vậy thì bắt đầu chúng ta nghe dường như toàn thân không có nghe cảm giác gì nữa hết thì lúc bấy giờ cái pháp của chúng ta hiệu quả, rất là hiệu quả. Chỉ chúng ta nhắc 1 lần, 2 lần ở trên cái trạng thái yên lặng đó là cái kết quả ngay liền. Cũng như bây giờ cái đầu Thầy nhức nè, Thầy chỉ cần lặng cái tâm của mình ở trên cái trạng thái yên lặng đó, bắt đầu Thầy nhắc cái đầu không có được nhức nữa. Cái thọ phải đi đi thì ngay đó Thầy hoàn toàn nghe cái đầu không có nhức là tại vì Thầy nằm đúng cái vị trí 6 cái thức của Thầy, thân cái thức của Thầy nó phải nằm cách lìa cái sự đau khổ của cái thọ của Thầy, cho nên nó không có bám ở trong cái thọ đó, cho nên nó không còn thấy đau nữa.

Đó là như vậy là cái chỗ mà tu tập phải biết được cái trạng thái của tâm của mình, lúc bấy giờ mình phải giữ gìn nó như thế nào, mặc dù trong cái sự yên lặng đó nó chỉ 5 phút hay 10 phút rồi nó bung ra nhưng mà chúng ta dùng pháp hướng, chúng ta có thể kéo dài từ 10 phút 20 phút nghĩa là khéo thiện xảo an trú trong đó. Phật nói mà nếu mà chúng ta không khéo thiện xảo an trú thì nó sẽ bị bung ra, cho nên Phật nói thiện xảo nhập định nè, thiện xảo an trú trong định nè, thiện xảo sống trong cảnh giới định nè. Phật dặn chúng ta như vậy, cho nên vì vậy mà cái thiện xảo đó là cái mà chúng ta đừng có làm động, bởi vì định mà động thì làm sao gọi là định. Mà bây giờ chúng ta tác ý ra là nó động mất rồi, thế mà quý thầy phải hiểu được cái chỗ khéo tác ý đó thì quý thầy sẽ đạt được kết quả.

Cho nên Thầy dạy thì đúng nhưng mà khi các thầy áp dụng vào thì lại rất quá thô, cho nên sao thấy thời gian nó không có hiệu quả của kết quả. Phá âm thanh không phải dễ đâu rất là khó bởi vì đó là cái ngoại cảnh. Người ta nói có đạt nhân mà khó đạt cảnh, đạt được ở trong thân của mình chứ cái cảnh ở ngoài khó đạt.

Làm cho ngoại cảnh trở nên yên lặng, nếu không thiện xảo thì ngoại cảnh khó yên lặng. Đừng vội vàng vừa tréo chân lên là hướng tâm liền là không kết quả, mà hướng tâm liên tục cũng không kết quả, hướng tâm thưa quá cũng không kết quả.Đó quý thầy thấy rằng trên cái bước đường tu tập của quý thầy, nếu mà quý thầy cứ hướng tâm hoài thì không kết quả đâu, khi mà hướng tâm rồi thì chúng ta lại nằm yên ở trên đó nhưng mà để lâu quá thì lại mất cái hướng đi thì do đó nó lại xen vào những cái trạng thái khác, mất cái trạng thái yên lặng của quý thầy nó bung ra đi. Thì khi mà nó bung ra rồi thì quý thầy lại hướng tâm thì nó mất cái trạng thái yên lặng rồi thì pháp hướng nó đâu có hiệu quả. Cho nên thưa quá thì cũng không được mà nhặt quá thì cũng không kết quả. Cho nên ở đây cái pháp hướng là phải biết đang nằm ở trên cái trạng thái còn yên lặng thì hướng có kết quả, mà khi đã bị một cái gì bung ra rồi thì phải gom nó trở lại, cho nó nằm yên lặng rồi thì hướng nó mới có kết quả. Và đồng thời khi mà cho nó yên lặng như vậy mà để kéo dài cái sự yên lặng đó thì phải cái thời gian như thế nào, mà phải có pháp hướng liên tục, mà hướng khéo léo thiện xảo như thế nào để không mất cái trạng thái yên lặng đó. Đó là phải khéo hết sức khéo, chớ dụng thì mất định ngay liền.

Đừng vội vàng vừa tréo chân lên là hướng tâm liền là không kết quả, mà hướng tâm liên tục cũng không kết quả, nhắc hoài nhắc hoài cũng không kết quả đâu. mà hướng tâm thưa quá cũng không kết quả.

Thiện xảo như thế nào mà mỗi lần hướng tâm mà rất hiệu nghiệm, âm thanh giảm và không còn nghe nữa, toàn là trong thân và ngoại thân vắng lặng, có nghĩa là không gian và thời gian cô đọng lại, vắng lặng phủ trùm. Đó chúng ta hướng mà chúng ta thấy được cái sự vắng vẻ, cái sự vắng lặng nó phủ trùm xuống cả toàn thân của mình, coi như cả vũ trụ đó.

Một:chọn pháp hướng cho đúng cách.

Hai: là hướng đúng ở trạng thái đang yên lặng.

Ba:là khoảng cách thời gian hướng phải đúng, không thưa mà cũng không nhặt, tùy ở trạng thái yên lặng của thân tâm lúc 6 thức nằm yên tại tụ điểm.

Bốn:khi xả ra phải biết cách, hướng đúng cách, đúng pháp, đúng thời gian. Lúc bây giờ đó, Thầy nhắc nhở đó, số 4 này khi mà xả thiền ra thì phải biết cách, hướng đúng cách, đúng pháp, đúng thời gian. Nghĩa là cái trạng thái chúng ta xả ra thì nó phải ở trong trạng thái hơi thở chậm nhẹ đó biết nó ở mức độ nào: Tam thiền, Nhị thiền hay Tứ thiền. Lúc bây giờ chúng ta phải hướng pháp đúng cái pháp của nó ở chỗ đó, để cho nó lần nó đi ra. Rồi bây giờ tới cái thời gian của nó, cho đến khi mà nó trở về bình thường, nó xả sạch ra chớ không khéo thì chúng ta xả ra không sạch thì nằm xuống nghỉ hoặc là ngồi nghe nó còn cái trạng thái lân lân lân lân ở trong tâm hồn chúng ta. Điều đó là điều chúng ta sai đó, xả chưa đúng đó.

Năm:Phải nhận xét thân tâm xả ra. Xả ra có về trạng thái bình thường chưa. Nghĩa là có còn khinh an, nó còn lân lân, nó còn ngờ ngờ như dợn sóng thì xả ra chưa sạch đâu. Phải xả trở lại cho thật đúng chứ còn xả như vậy thì sau này chúng ta sẽ bị rối loạn cơ thể. Nằm xuống mà như...khi mà xả ra rồi mà nằm nghỉ mà thấy cái thân nó như bồng bềnh, nó như là mình ở trên chiếc ghe chiếc tàu mà sóng đưa lên đưa xuống vậy, thấy cái thân nó như dậy sóng thì cái đó là cái sai rồi đó. Đó là xả chưa hết ở trong cái trạng thái. Mà chính hồi mà lúc ở trong cái trạng thái yên lặng đó đã bị dồi sóng rồi là cái này đã ở trong cái trạng thái của tưởng rồi. Cái đó là trật nữa rồi. Thì cho nên chúng ta phải phá liền chứ không có được để. Cho nên để tới khi xả ra mà còn dồi sóng dồi sóng thì không được.

Sáu: Xả ra thân tâm có mệt hay không. Nếu mệt nhọc đó là tu sai rồi. Nếu xả ra mà thấy quá mệt hoặc là hơi mệt thì cái đó là trật. Người tu thiền xả ra là nó rất an ổn, rất tỉnh thức, tỉnh táo, rất khỏe người không có bị mệt nhọc. Cũng như bây giờ Thầy thuyết giảng Thầy nói nhiều thì Thầy mệt. Chứ còn Thầy ngồi thiền thì Thầy xả ra Thầy không bao giờ nó có ngứa cổ hoặc nghe nó mệt nhọc, hoàn toàn nghe cơ thể rất là khỏe. Đó là những cái mà chúng ta xả ra chúng ta đều lưu ý ở cái thân của chúng ta nó có những cái sai mà chúng ta mang nó mà chúng ta tu thì chúng ta sẽ đi đến cái chỗ có thể là nó trở thành bệnh tật của cái thân sau này, mà không đạt được thiền định đúng cách đâu.

Đến đây Thầy xin chấm dứt cái bài trả lời cho thầy Thuận, có những cái gì mà sai cần phải hỏi ở trong lúc này. Bởi gì cái thời gian nó còn ngắn lắm phải hỏi Thầy. Và đồng thời Thầy thấy rằng tiếp tục cái thời gian mà giảng cho hết cái giáo án này thì chúng ta không làm hết kịp. Vì vậy mà chúng ta lần lượt để sau này. Còn bây giờ cái quan trọng là Thầy sẽ soạn cho cái chương trình ngắn gọn để cho quý thầy khi mà 3 tháng hạ này trở về nắm được cái bản đó biết à bây giờ mình tu cái gì trước, tu cái gì sau. Còn cái giáo án này nó nói linh tinh đủ thứ hết, nghe thì có hay đó nhưng mà sự thật quý thầy chưa biết cái gì mà tu hết đâu. Nghe nó thì như vậy nhưng bây giờ Thầy dự định soạn cho quý thầy cái bản tóm tắt. Bây giờ một người mà mới tu là phải tu cái gì, tập cái gì trước cái gì sau. Rồi tu lâu rồi, bây giờ tu tới cái định nào phải tập cái gì, cái gì.Thầy soạn xong rồi Thầy đem cho cô Út photo về Thầy cho mỗi người một bản theo đó mà về mà tu tập. Chớ còn theo cái giáo án mà Thầy viết đây thì lần lượt Thầy sẽ dạy các cái giới hành, toàn bộ hết cái giới hành nhập từ Bốn thiền, Tứ như ý túc rồi cho đến Tam minh, rồi Tứ niệm xứ như thế nào Thầy giảng hết những cái pháp hành của nó như thế nào cho nó hết.

Bây giờ thì chúng ta đang tu, đang học tu trên cái pháp Tứ bất hoại tịnh. Mà Tứ bất hoại tịnh thì như hồi nãy Thầy đã nói chúng ta mới có học Thân niệm Phật, rồi Thọ niệm Phật, rồi Tâm niệm Phật, bây giờ mới có học Pháp niệm Phật. Rồi chúng ta còn phải Thân – Thọ - Tâm - Pháp để niệm Pháp, rồi Thân – Thọ - Tâm - Pháp để niệm Tăng, rồi Thân – Thọ - Tâm - Pháp để niệm Giới. Quá nhiều. Đây là mới có bước đầu vào Tứ bất hoại tịnh mà chúng ta Thân – Thọ - Tâm - Pháp mới có niệm Phật mà đã là quá nhiều rồi. Cái pháp hành của chúng ta quá nhiều chứ không ít.

Bây giờ tiếp tục quý thầy sẽ học cái bài pháp là tiếp tục trong cái Tứ bất hoại tịnh này thì chúng ta học tiếp là Pháp niệm Phật. Như Thầy đã giảng đại khái cho bên phái nữ xong rồi thì sau này các Thầy sẽ nghe lại pháp niệm Phật như thế nào. Còn bây giờ là đến cái giai đoạn là chúng ta thực hành chớ không phải là còn giới thiệu nữa, mà đây là cái thực hành của chúng ta.

Vậy pháp niệm Phật.

1. Pháp tham dục

Vậy thì có cái pháp tham dục. Vậy thì pháp tham dục nó đến với chúng ta thì niệm Phật như thế nào. Bây giờ có cái lòng ham muốn nào đó, ví dụ có người đem cho Thầy một cái vật gì đó, Thầy khởi tâm Thầy ham muốn cái đó. Thì đó là cái pháp nó đến với Thầy nó làm cho cái tâm Thầy khả hỷ, khả ái, khả lạc nó đi, thích thú nó đi. Như vậy thì chúng ta nên đem cái pháp đó bắt buộc nó phải niệm Phật. Vì Phật không bao giờ có tham dục, tham ái một cái vật gì hết cho nên chúng ta bắt cái pháp đó phải niệm Phật. Khi một pháp đến khiến cho tâm ta khởi nên tham muốn, ta liền lấy pháp đó niệm Phật. Phật thì không còn tham muốn, lấy pháp niệm Phật thì pháp đó vô tham.Nghĩa là Phật không tham muốn mà thấy cái pháp đó thì ông Phật có nhận không, có khả hỷ khả lạc không. Cho nên đó là vô tham. Vì vậy mà chúng ta lấy các pháp bắt nó phải niệm Phật. Và khi niệm Phật vậy thì chúng ta biết rằng nó vô tham. Và như vậy thì chúng ta còn tham nữa không? Chắc chắn là chúng ta sẽ không tham. Muốn được như vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở tâm ta như cái lý mà tác ý.

Đó bây giờ chúng ta dùng cái pháp hướng để chúng ta tu tập. Khi mà gặp cái pháp tham nó đến, pháp tham dục nó đến nó làm chúng ta đam mê, nó làm chúng ta thích thú, làm chúng ta khả ái khả hỷ khả lạc nó đi. Do đó thì chúng ta phải thường xuyên hằng ngày chúng ta phải dùng cái pháp hướng nhắc nhở tâm mình để cho khi có cái pháp đến đó thì đương nhiên là cái pháp đó là niệm Phật rồi. Cho nên vì vậy mà chúng ta giải thoát được cái pháp tham, cái pháp ham muốn.

“Đây là pháp tham dục, tham dục là một pháp ác khiến cho mình khổ người khác khổ. Vì vậy chúng ta phải đoạn dứt pháp này, xa lìa pháp này trong tâm ta và pháp tham dục này phải rời khỏi tâm ta, phải đi đi đừng ở trong tâm ta nữa”.

Nghĩa là chúng ta phải dùng cái pháp hướng này chúng ta thường xuyên trước khi ngủ, trong những khi mà ngồi thiền, trước khi đi kinh hành thì chúng ta nhắc tâm mình một lần để sau khi có cái pháp tham nào đến thì chúng ta đuổi nó đi được liền. Ngay đó nó không còn cám dỗ lôi cuốn chúng ta được, cái tâm ham muốn chúng ta được nữa. Cho nên vì vậy mà chúng ta hãy dùng cái câu pháp này mà chúng ta đuổi nó đi không có để cho nó trong tâm chúng ta nữa.

Đây Thầy nhắc lại:

“Đây là cái pháp tham dục, tham dục là một pháp ác khiến cho mình khổ người khác khổ vậy ta phải đoạn dứt pháp này, xa lìa pháp này trong tâm ta. Và pháp tham dục này phải rời khỏi tâm ta, phải đi đi đừng ở trong tâm ta nữa”.

Đó là mình dùng cái pháp hướng mình đuổi nó đi, mình không có để cái tâm tham muốn của mình luôn luôn nó ở trong đó. Do đó chúng ta mới ly dục ly ác pháp được. Vì vậy mà bắt cái pháp tham muốn này nó phải niệm Phật. Do nó niệm Phật nó mới không tham muốn, không niệm Phật thì đụng pháp nào nó cũng khởi tham muốn hết. Đó là cái pháp thứ nhất.

Bây giờ là cái pháp thứ 2.

Pháp thứ hai là tham ái,tức là tham sắc dục đó.

Khi một pháp nào đến với tâm ta khiến cho tâm ta khởi lên tham ái. Tham ái là con đường sanh tử luân hồi, mà còn sanh tử luân hồi là còn nhiều đau khổ. Đó là một pháp ác, ta lấy pháp này bắt buộc nó niệm Phật. Các pháp đều đến với Phật không thể nào khởi lên tham ái được. Nghĩa là lấy các pháp mà niệm Phật thì Phật là một cái người đã diệt cái tham ái rồi, không còn cái tham ái nữa. Cho nên bắt nó mà niệm Phật thì chắc chắn là nó không khởi lên được cái tham ái. Do như vậy khi mà có cái pháp tham ái đến thì chúng ta lấy nó mà bắt nó niệm Phật. Vậy ta lấy pháp này niệm Phật chắc chắn tâm ta sẽ không khởi lên tâm tham ái. Muốn vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở tâm mình hàng ngày như cái lý tác ý:

“Pháp tham ái là một pháp cực ác nó mang đến cho con người muôn vàn sự đau khổ sau này. Ta phải dứt và viễn ly pháp ác này. Tham ái hãy đi đi đừng ở trong tâm ta nữa. Từ đây về sau pháp tham ái này phải dứt trừ nơi tâm ta vĩnh viễn”.

 Đó là mình đặt cái pháp hướng mình nhắc nhở tâm mình một khi mà có một cái pháp ái. Muốn nói cái pháp ái đây là một cái hình ảnh của một cô gái, của một phái nữ. Nó gợi cho chúng ta sanh ra cái pháp ái trong tâm chúng ta. Do đó cái pháp đó là pháp ái. Vì vậy khi mà gặp nó như vậy thì chúng ta bắt nó niệm Phật. Mà bắt nó niệm Phật thì chúng ta biết là ông Phật không còn cái ái. Vì vậy cái tâm ái của chúng ta sẽ ngay từ đó sẽ diệt đi. Vì vậy cái pháp mà niệm Phật nó làm cho cái tâm của chúng ta trở thành nguội lạnh mà không còn đắm đuối không còn khởi lên những cái tham ái nữa

3. Pháp tham ưu

Khi một pháp đến với tâm ta khởi lên tham ưu khiến ta buồn rầu, đau khổ ta liền lấy pháp đó niệm Phật. Khi pháp đó niệm Phật thì tham ưu không khởi lên vì Phật không còn tham ưu. Muốn pháp ấy niệm Phật, không có khởi lên tham ưu ta nên trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng như lý tác ý:

“Pháp tham ưu là pháp đem đến cho ta những tham muốn, bất toại nguyện nên ta sanh tâm sầu khổ, ưu bi. Nó là một pháp ác không phải là pháp thiện. Lấy pháp ác niệm Phật biến pháp ác thành pháp thiện. Vậy từ đây pháp tham ưu sẽ trở thành pháp không tham ưu. Và ta luôn luôn cảnh giác pháp tham ưu xa lìa, từ khước, đoạn dứt pháp tham ưu trong tâm ta”.

Đó là câu trạch pháp để nhắc tâm ta xa lìa cái pháp tham ưu. Tức là lấy pháp niệm Phật để rồi chúng ta nương vào chỗ ông Phật đó, các pháp đó mà chúng ta được cái tâm được giải thoát không còn tham ưu nữa.

4. Pháp tham ăn

Pháp tham ăn. Có một người Phật tử mang đến cúng dường cho ta một cái bánh rất là ngon và thơm khiến ta nhìn thấy ưa thích liền ta sanh tâm hoan hỷ vui mừng với chiếc bánh này. Đó là một pháp ác để khiến cho ta tham ăn. Bất kỳ món ăn khất thực nào đến với Phật, Phật không sanh tâm ưa thích. Vì thế ta lấy pháp này mà niệm Phật. Khi mình có cái tâm mà khởi lên tham đắm trong ăn uống, trong những cái món thực phẩm ăn uống  thì ngay đó ta mới lấy cái pháp tham ăn này mà niệm Phật. Phật có tham ăn không. Nếu mà nó niệm Phật thì tức là không có tham ăn nữa, mà không còn ưa thích cái tham ăn nữa. Ăn để sống chứ không phải còn ưa thích nó. Thì tâm ta không ưa thích thì ngay liền chúng ta đem cái pháp đó mà chúng ta niệm Phật thì ngay cái gương hạnh của đức Phật thì nó làm chúng ta tỉnh thức, làm chúng ta không còn ưa thích cái ăn ngon đó nữa, cái bánh đó nữa. Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này, dùng pháp này làm pháp hướng như lý tác ý:

“Pháp tham ăn là pháp chạy theo dục lạc thế gian khiến ta phải chịu thọ khổ trong biển sanh tử luân hồi. Đó là một pháp ác, ta phải viễn ly, từ giả, đoạn dứt. Thấy tất cả các thực phẩm, ăn uống là thứ thuốc trị bệnh đói. Các pháp thực phẩm là pháp bất tịnh, hôi thúc, bẩn thỉu, ghê tởm như đống rác thúi, như đóng phẩn hôi, nuốt vô khỏi cổ là không còn khả hỷ khả lạc khả ái nữa. Chỉ toàn là một thứ ảo giác gạt người ngu si, mới tham mới ham thích cái ăn của thực phẩm. Từ đây ta phải xa lìa, không chạy theo cái ưa thích ăn ngon nữa, giống như Phật”.

Đó, thì chúng ta dùng cái pháp hướng này chúng ta để nhắc, để trước khi cái thực phẩm nó dễ cám dỗ chúng ta lắm, nó làm chúng ta ưa thích nó, làm chúng ta thích nó. Do vì vậy đó mà chúng ta nỗ lực hằng ngày chúng ta dùng cái pháp hướng này nhắc tâm mình để đến khi mà chúng ta thấy nó thật sự là bất tịnh, thật sự là nó không còn phải là quý báu ngon ngọt đối với chúng ta nữa. Thì lúc bây giờ chúng ta mới xa lìa được cái ăn uống mà đến giờ ăn thì chúng ta thấy như đó là cái sự bắt buộc để nuôi cái bệnh đói của chúng ta mà thôi chứ chúng ta không có thích ăn. Còn nếu mà chúng ta không có chịu hướng tâm mà nhắc nhở như vậy thì khó mà chúng ta có thể xa lìa được cái ăn uống của chúng ta. Thấy nó là nó mắc thèm, thấy nó là nó chảy nước miếng rồi. Do vì vậy đó mà chúng ta phải nỗ lực mà tu tập cái pháp để chúng ta tránh cái tham ăn này.

Muốn được vậy sau này mà khi chúng ta tu những cái Định vô lậu thì chúng ta cũng phải đặt cái niệm thực phẩm ăn uống trước mặt để chúng ta quán xét suy tư để thấy nó là bất tịnh, thấy nó là ảo giác. Cái ngon của nó là cái dục lạc của nó là cái ảo giác gạt chúng ta làm cho những người ngu, vô minh mới ham thích còn những người trí người ta biết nó người ta không còn thích nữa đâu, người ta không có bị nó gạt nữa đâu. Cho nên người ta ăn cơm với muối mà người ta vẫn thấy rằng nó khỏe hơn là ăn những đồ chiên đồ xào hoặc là ăn những cái món ngon. Càng ngon miệng bao nhiêu thì nó gây cái tai hại, cái độc ở trong thân chúng ta bấy nhiêu. Cho nên từ đó mà chúng ta xa lìa được cái ăn uống của chúng ta.

Cái pháp mà thực phẩm về cái pháp mà tham ăn này nó rất khó chứ không phải dễ. Nói là một lẽ nhưng mà nếu mà chuyên tu, quyết tâm tu, thường xuyên đặt niệm bất tịnh thực phẩm trước mặt thì chúng ta mới xa lìa được nó. Thường xuyên mà hướng tâm để mà tác ý đoạn dứt nó thì chúng ta mới được an ổn trước các pháp của thực phẩm đến với cái tâm của chúng ta mới là được thản nhiên. Chứ không khéo thấy cái nó thèm liền, thấy cái nó muốn ăn liền, thấy cái nó muốn thích liền hà chứ không phải không. Lâu ngày không có ăn kẹo ăn bánh thì bắt đầu thấy kẹo bánh chè đã thấy thích rồi. Lâu ngày mà không có ăn cái món ăn mà mình ưa thích, như có người thì ưa sữa đặc mà lâu ngày không có ăn nó thì nay thấy sữa bắt thèm. Đó là chúng ta còn ở trong cái ảo giác của cái ăn uống chứ chưa phải là ra khỏi.

 Mà muốn được vậy thì hằng ngày chúng ta phải tu tập này mà đặt cái niệm để mà chúng ta tu cái Định vô lậu để quán xét cái tri kiến giải thoát của chúng ta, thấu suốt được cái món ăn là bất tịnh, cái món ăn là bẩn thỉu thì chúng ta mới dứt được cái tâm tham đắm đó chứ còn không khéo thì chúng ta rất là tham đắm.

Và đây, cái pháp tham ăn này bắt nó phải niệm Phật vì ông Phật không có tham ăn, không có thích cái ăn uống, không có chạy theo cái dục lạc của ăn uống, không có bị cái ảo giác lường gạt. Cho nên bắt cái pháp này mà niệm Phật thì chắc chắn cái pháp này nó sẽ đối xử với chúng ta rất là tốt trên con đường tu tập. Lấy pháp mà niệm Phật thì nó trở thành cái pháp không còn lường gạt chúng ta được nữa.

5. Pháp tham mặc

Ở đây tham ăn rồi bây giờ tới tham mặc. Có một người Phật tử may cho mình một bộ 3 y với vải nhập màu vàng óng ánh. Nhìn thấy bộ y là sanh tâm ưa thích ngay. Biết tâm mình đang dao động trước pháp y ta hiểu ngay đó là một pháp đưa đến đau khổ và mất phạm hạnh. Ta liền lấy pháp đó mà niệm Phật. Trong đời sống của đức Phật biết bao nhiêu Phật tử cúng dường pháp y rất là tốt đẹp nhưng Ngài nhận cho vui lòng Phật tử và cúng dường lại cho các vị tỳ kheo khác. Khi lấy pháp này mà niệm Phật ta không còn sanh tâm ưa thích nữa. Ưa thích cái y tốt y xấu nữa, miễn là mặc ấm thân và kín thân chứ không còn thấy nó là óng ánh màu vàng rất là tốt đẹp, không còn có ham thích nó nữa. Muốn được như vậy thì chúng ta hằng ngày chúng ta phải trạch pháp một cái câu để chúng ta dùng làm pháp hướng như cái lý mà chúng ta tác ý ra.

Thầy nhắc lại về cái pháp y này nó cũng làm cho các thầy mê mệt nó lắm. Trong cái câu chuyện của Tây Du Ký thì có một cái vị đó có cái tủ y rất nhiều nhưng mà thấy cái y của ông Tam Tạng óng ánh sáng có hào quang lên thì ông ta lại thích thú. Cho nên muốn xin ông Tam Tạng đem về cái phòng của mình để chiêm ngưỡng nó. Nhưng không ngờ ông cũng có ý định là muốn cướp lấy cái y đó, không ngờ là con quỷ ở bên hông chùa, ở trong cái hang đá bên hông chùa nó lại thấy cái y nó lại còn tham hơn nữa, cho nên nó hóa gió nó hốt cái y đi mất. Còn ông ta tưởng là cái y mình còn để trong phòng. Đêm nay tính đốt thầy trò Tam Tạng cho chết đi để lấy cái y. Các thầy thấy đó là những cái nó gợi cho chúng ta nhiều là cái pháp ác đến như vậy đó. Cuối cùng thì chùa ông thầy này tiêu mất và cái y cũng chẳng còn.

Đó thì ở đây chúng ta thấy rõ ràng là cái pháp y nó cái pháp mà mặc này, tham mặc này nó cũng là cái điều quan trọng lắm, quan trọng cho cái người tu lắm. Nó sẽ làm cho chúng ta mất cái phạm hạnh đi. Thí dụ như một cái người mà mặc cái bộ đồ mà rách rưới mà chấp vá mà sạch sẽ, với một cái người tu sĩ như vậy thì người ta rất là kính trọng, người ta thấy đó là cái phạm hạnh không có xài phí. Còn một  cái người mà mặc y sáng chói rực rỡ đeo chuỗi đeo này kia ngồi trên cái pháp tòa thì người ta thấy rằng cái vị thầy đó chưa có phạm hạnh, người ta không có quý trọng.

Còn một vị thầy ăn mặc rách rưới lang thang, không có dá díu mà lại bẩn thỉu không giặt thì cái hạng này thuộc về cái loại hạng ăn xin thực sự chứ không phải là một vị thầy. Phải phân biệt được. Có nhiều người nói tui ăn mặc rách rưới lang thang, không cần giặt dịa gì hết, áo quần hôi rình thì nói là Phật thì cái đó là không đúng đâu. Ông Phật thì bao giờ cũng phải sạch sẽ, cũng phải đàng hoàng, ăn mặc thì mặc dù là y vải thô, vá díu nhưng nó vẫn là sạch sẽ, vẫn là đàng hoàng, hẳn hoài, oai nghi tế hạnh đàng hoàng. Còn những vị thầy mà cũng chấp nhận là ăn mặc rách rưới nhưng lại bẩn thỉu, xốc xếch nó không có đúng oai nghi. Thì những vị thầy đó chỉ là những người mạo danh đạo Phật, không đúng oai nghi của Phật.

Cho nên nhìn qua phạm hạnh của người tu, cách thức ăn mặc thì chúng ta cũng nhận xét được bậc chơn tu hay là bậc giả tu. Có nhiều người giả làm nghèo, làm ra cái hạnh khổ hạnh nhưng mà cái khổ hạnh đó lại là không đúng cái khổ hạnh, cái hạnh của người tu sĩ đạo Phật thì chúng ta vẫn nhận ra được. Và cái người mà lợi dưỡng, sang cả trong cái ăn mặc của một vị tu sĩ thì chúng ta biết đó cũng không phải là cái người tu mà người chạy theo dục lạc qua cái hình thức của tôn giáo mà thôi.

Thì ở đây chúng ta nên trạch pháp cái câu này ra để chúng ta phá cái tâm tham đắm quần áo y áo của chúng ta:

“Pháp tham mặc là một pháp xấu ác, làm mất phạm hạnh của người tu. Người ngoài nhìn vào chê cười phỉ báng Phật pháp. Và nếu còn sanh ưa thích mặc đẹp, mặc y áo tốt đẹp đó là ta chưa ly dục ly ác pháp được thì làm sao mà chúng ta dự vào dòng Thánh được”.

Nghĩa là cái người mà còn ưa ăn mặc tốt đẹp, còn ưa ăn mặc những sang cả, còn ưa ăn mặc những y phục, y cho đẹp thì cái người đó phải nhìn thấy cái hình ảnh của người tu sĩ đó là họ chưa có ly dục - ly ác pháp. Mà chưa ly dục ly ác pháp thì cái người tu sĩ đó chưa có dự vào dòng Thánh đâu. Mà chưa được dự vào dòng Thánh thì thử hỏi cuộc đời của họ làm sao chấm dứt được sanh tử luân hồi. Cho nên nhìn cái chỗ ăn mặc thì chúng ta đã biết được cái vị thầy đó, cái người tu đó có dự vào dòng Thánh hay không. Tức là qua cái ăn mặc chúng ta đã nhận biết rồi. Chứ đừng nghĩ rằng chúng ta ăn mặc như bồ tát Văn Thù, như bồ tát Phổ Hiền, Đại Thế Chí hay Quan Âm. Nào là ăn mặc quá, những cái hình ảnh đó nào là ăn mặc trang điểm vòng hoa đủ thứ, đủ loại như vậy là Bồ tát. Thực sự hình ảnh đó nó không đúng là hình ảnh của một người tu sĩ phạm hạnh của đạo Phật. Hình ảnh đó là hình ảnh không giải thoát. Nó không có giải thoát, nó không có ly dục ly ác pháp. Mà không ly dục ly ác pháp thì không bao giờ mà gọi là có thiền định gì được hết. Cái hình ảnh mà chúng ta thấy những cái tượng của các bậc bồ tát đó thì không có cái sự giải thoát, không có cái sự mà ly tất cả cái ham muốn.

“Biết vậy ta phải lìa xa pháp tham mặc, từ giã viễn ly sống đúng đời sống phạm hạnh để ly dục ly ác pháp cho trọn vẹn. Pháp y tốt y xấu phải viễn ly, nơi đây ta không chấp nhận ác pháp này”.

Nghĩa là có người thì muốn tỏ ra mình ăn mặc y xấu thì cái người này cũng bị chấp vào cái y xấu rồi. Hiện bây giờ chúng ta có cái y chúng ta mặc từ cái tốt, từ cái mới của nó cho tới nó cũ nó rách thì chúng ta cứ giữ để cho đến khi không xài được thì thôi. Có nhiều người cái y đương tốt như thế này họ đem họ vá bên đây bên kia một miếng họ làm như là, họ nói là làm cho hoại sắc cái y đi, làm cho nó trở thành xấu đi. Thì cái người này cũng bị chấp cái y xấu đó. Cho nên Thầy thấy có nhiều thầy cái áo nó chưa phải đúng là vá mà họ cũng vá bậy vá bạ làm cho họ là người kêu là khổ hạnh, là người giữ đúng những cái phạm hạnh. Đó là những cái sai.

Bây giờ có người cúng dường mình, mình y áo mình rách hết rồi mình nhận cái y đó thì lẽ đương nhiên thì phải mới rồi. Thì mới thì mình mặc một năm hai năm ba năm thì nó phải cũ. Nó cũ nó rách thì mặc tình mà vá mà mặc. Sợ tới chừng đó thì mình đem mình ném đi, mình bỏ đi, thì cái đó là không đúng cách. Cho nên ở đây cái pháp mà y tốt hay y xấu chúng ta đều xa lìa cái tâm đó đi mà chúng ta hãy giữ cho đúng cái cách của người tu. Bây giờ nó đã rách hết thì người khác cúng dường cho mình cái y mới thì mình cứ nhận cái y mới mình mặc. Chớ không phải nói giờ tui mặc cái y rách như thế này thì ai cũng khen tui là cái người phạm hạnh đàng hoàng. Mà bây giờ mặc cái y mới như thế này thì mất cái phạm hạnh. Không. Cái phạm hạnh là do ở tâm của mình còn cái y mình xài nó không phải là cái phạm hạnh. Bầy giờ cái y mình chưa ra gì hết mình thấy hơi cũ cũ mình quăng đi tìm cái y mới để làm cho nó có vẻ đẹp bóng láng nữa thì cái đó là cái sai.

Thì ở đây Thầy muốn nói trên cái ăn mặc của một vị tu sĩ để ta thấy cái pháp y mà nó đến nó không lường gạt chúng ta được, mà nó không làm cho chúng ta sai lệch cái phạm hạnh của người tu. Vì thế mà chúng ta phải biết để mà thực hiện ở trên cái chỗ mà ăn mặc của chúng ta cho đúng cái phạm hạnh của cái người tu. Vì vậy lúc cái pháp y mà đến thì bắt buộc nó phải niệm Phật. Nó niệm Phật như thế nào để chúng ta quán xét lại cái hình ảnh của đức Phật. Ngày xưa đức Phật dùng cái y phấn tảo, Ngài lượm những cái dẻ rách dẻ thây ma Ngài kết lại. Sau đó người ta cúng Phật cái y thì Ngài trao cái y lại. Thấy ông Ca Diếp thích cái y đó cho nên Ngài trao cái y đó cho Ngài Ca Diếp cái y đó. Ngài cũng chấp nhận cái y mới Ngài mặc. Tuần tự cho đến cái y mà cũ thì Ngài cũng chấp vá lại ngài mặc chứ Ngài đâu có mà ném bỏ bậy bỏ bạ đâu. Hoặc là có những cái y khác mà người ta cúng mà thấy cái này nục nục thôi cho ông A Nan đi. Ông A Nan ổng nói ổng không có nhận những cái y gì của đức Phật cúng dường mà. Thì như vậy là chúng ta đã thấy rõ trong cái đời của đức Phật thì cũng nhận cái y mới. Rồi bắt đầu từ cái y mới đó lần lần nó cũ đi thì chúng ta cũng vậy. Chứ đâu phải là chúng ta tạo cho nó để cho nó cũ hoài, chúng ta lúc nào cũng mặc cái y cũ không. Cái đó là cái không đúng cách là tại vì chúng ta muốn chấp nhận cái y xấu. Y xấu mà để cứ mặc y xấu đó là cái tướng của chúng ta để mà chúng ta nói đó là cái phạm hạnh của chúng ta. Không phải đâu. Đôi khi thí dụ như Thầy có cái y đó rách thì bây giờ Thầy làm cái tấm để bây giờ trải cái chỗ nằm Thầy. Thì bây giờ Thầy có cái y mới này Thầy mặc vô thì mắc mớ gì Thầy lại xé nó ra rồi vá nó lại. Thì như vậy là có phải ngu không. Như vậy là chúng ta chấp cái tướng xấu mà bỏ cái tướng tu của mình, phạm hạnh của mình. Như vậy là mình cũng lầm rồi không có đúng cách của cái người mà tu, mình cũng bị pháp đó nó lôi cuốn mình bằng cách này bằng cách khác. Cho nên ở đây Thầy nói pháp y tốt, y xấu chúng ta cũng phải xa lìa nó chứ không khéo thì chúng ta bị chấp vào cái pháp ác này. Nó làm cho chúng ta lệch lạc cái phạm hạnh.

6. Pháp tham tiền

Bây giờ tham tiền. Khi có người Phật tử đến cúng dường ta tiền bạc ta liền lấy pháp này bắt nó niệm Phật. Nghĩa là có người đem đến để bao thơ cúng dường không biết bao nhiêu 100, 200 ngàn, 300 ngàn hay 500 ngàn hay 1 triệu bạc đi thì bắt đầu mình là người tu sĩ rồi thì mình lấy cái pháp này bắt nó niệm Phật. Vậy thì mình hỏi cái pháp tham tiền này nó niệm Phật nó có còn tham nữa không. Ông Phật có cất tiền không? Như vậy là không cất tiền. Vậy là mình đệ tử của Phật mình có cất tiền không. Cái pháp này nó đến đây nó gẹo gan mình đây, nó làm cho mình ham nó đây. Vậy thì bây giờ đem cái pháp này mình niệm Phật, thì ông Phật chắc ổng hổng nhận đâu. Mà ổng không nhận thì mình có nhận không. Chắc chắn là mình đem cái pháp này mình niệm Phật. Phật không nhận thì mình phải làm đúng theo ông Phật thì mình cũng chẳng nhận cái pháp này. Cho nên khi mà người Phật tử họ cúng dường rồi thì mình sẽ trả lời với họ như thế nào?Tôi sẽ nhận cái lòng của Phật tử cúng dường vì giới luật của Phật cấm chúng tôi không có nhận tiền. Chỉ nhận thực phẩm mà trong mỗi một ngày ăn một bửa thôi chứ không có để dành. Xin Phật tử hãy cất lại số tiền này mà gửi nuôi cho trẻ mồ côi hoặc những người bất hạnh ở trong xã hội, giúp dùm tôi cái điều này. Thì như vậy là mình gửi cái số tiền đó cho Phật tử.

Thì như vậy là cái pháp đó nó đã niệm Phật đó. Cái pháp tham tiền đó nó niệm Phật. Cho nên nó niệm Phật thì nó trả lại cái chủ cũ của nó mà nó không bị dính mắc. Vì thế cho nên mình không bị dính mắc trong cái pháp tiền, pháp cất tiền.

Từ ngày tu hành theo đạo cho tới khi viên tịch Ngài không cất giữ một đồng một xu nào trong mình cả. Nghĩa là ông Phật ổng bỏ ổng đi tu rồi cho đến bây giờ thì ổng đi xin ăn chứ ổng không có cất tiền bạc chỗ nào hết. Người chỉ đi xin thực phẩm ăn mà sống, tiền bạc đến với Người thì Người xem như là rắn độc. Một hôm đức Phật và ông A Nan đi ngang qua một cái đồng ruộng. Ông A Nan nhìn thấy dưới cái lỗ dựa bên bờ ruộng có một cái hũ vàng bèn gọi Phật lại nhìn. Khi đức Phật nhìn thấy cái hũ vàng thì mới bảo ông A Nan: Này A Nan, nó là rắn độc ta hãy đi tránh nó đi. Rồi thầy trò vội vàng mà rời xa cái chỗ hũ vàng ấy. Thì ngay đó Phật đã thấy cái hũ vàng, cho nó là rắn độc rồi. Và người mà người ta cầm tiền người ta cúng dường mình tức là người ta đem rắn độc cho cắn mấy ông thầy này chết chơi đó. Thế mà mấy ông thầy lại không có sợ rắn cho nên thấy tiền, thấy bao thơ mà để để mấy ổng vội ôm vô mình hết. Trời ơi rắn độc mà mấy ổng ôm trong mình thì thử hỏi các thầy nghĩ sao, nó hổng cắn mấy ổng sao. Cho nên Thầy thấy ông nào cũng bị nọc độc hết trơn, không có ông nào mà tránh khỏi nọc độc rắn này. Chính ông Phật đã xác định mà nó sẽ cắn chết mấy ông thầy này hết.

Đúng vậy, bây giờ nó cắn mấy ổng tiêu hết rồi. Cho nên cái tiền bạc mà của Phật tử mà cúng dường đó là Phật tử đã đem rắn độc đến cho chúng ta. Vì hầu hết là Phật tử, những người mà họ làm ra tiền bạc đó là những thứ rắn độc cho nên họ luôn luôn bị nô lệ trên tiền bạc, họ bị sai sử ở trên tiền bạc hết. Họ muốn ăn tức là cái tiền bạc nó sai họ muốn ăn cái này, muốn ăn cái kia. Nó sai đủ thứ hết cho nên họ phải chạy rất là khổ. Và họ làm ra tiền bạc cũng rất là khổ chứ không phải dễ. Còn chúng ta là những người tu rồi, nhìn nó là chúng ta đã biết nó là rắn độc. Chính đức Phật đã nhắc nhở chúng ta như vậy.

Lấy pháp tham tiền này mà niệm Phật thì pháp này không cám dỗ được ta nữa và ta tránh xa.Và xin Phật tử hãy lấy những cái tiền bạc này làm cái công việc từ thiện xã hội, có nhiều người bất hạnh ở trong cái thế gian này. Do thế ta tránh xa pháp ác, ta không còn nô lệ cho tiền bạc trong cái ăn cái mặc và xây chùa to tháp lớn nữa. Ta làm chủ được tâm ta còn những kẻ khác thì không làm chủ được tâm cho nên biến họ trở thành tên nô lệ trung thành của tiền bạc. Và tiền bạc sai họ làm việc này việc khác.

Muốn mà làm chủ được tiền bạc thì phải mạnh dạn từ khước tiền bạc. Vì thế mà ta nên trạch pháp cái câu này. Phải nhắc nhở tâm mình luôn luôn tác ý nó ra:

“Pháp mà tham tiền bạc là rắn độc, là ông chủ độc tài đầy gian ác. Ta hãy tránh xa, từ bỏ, từ khước, không bao giờ nhận tiền bạc của ai hết. Tiền bạc hãy đi đi ta không nhận ngươi đâu, ngươi hãy đi đi cho khỏi nơi tâm ta”. 

Đó là mình phải dùng cái pháp mình đuổi tiền bạc nó đi. Vì mình bắt nó niệm Phật, thì Phật thấy nó như rắn thì bắt đầu bây giờ mình cũng thấy nó như rắn cho nên mình đuổi nó đi, còn nó không đi thì mình tránh đi đừng có ở đó. Cho nên Phật tử bỏ đó thôi mình cũng tránh đi, có nhiều người thì bỏ đó sợ không biết người khác vô lại ôm nó đi, cho nên cứ đi mà cứ ngó chừng. Cho nên sợ rắn mà còn tiếc rắn thì cái đó không phải đâu. Cho nên ở đây mình bỏ đi đừng có ôm nó cắn ráng chịu. Còn cái này Phật tử họ cúng dường họ không dám lấy. Họ cúng cho quý thầy rồi thì họ không dám lấy, thôi họ bỏ đó. Thì ông thầy ổng cũng không có dám lấy, ổng cũng sợ nó lắm nhưng mà ổng cũng tiếc, sợ mất. Cho nên ổng cứ đi lát ổng ngó, đi cho đến khi mà ổng gặp chú thị giả. Ra ngoài đó mày ôm ba cái đó đi đi chứ mày để đó nó mất đi. Thì như vậy mình cũng đi luồn cửa sau rồi, mình thấy như vậy là sợ rắn chớ mà mất rắn thì cũng uổng cho nên thấy con rắn cũng đẹp. Cho nên đó là những cái sai mà chúng ta coi chừng nó có thể nó thu hút và cám dỗ về cái tiền bạc dữ lắm đó. Mà hầu hết là chúng ta thấy tu sĩ của mình đều bị nó nuốt trọng hết rồi. Nó cắn nọc độc nó thấm hết rồi.

Cho nên bây giờ do mình thấy như vậy thì mình phải phòng ngừa cho mình. Một người mà quyết tu rồi thì chúng ta đừng có rớ tới nó, đừng có động tới nó. Chúng ta không có rớ đến nó, không có động tới nó thì nó không sai chúng ta được gì hết. Nghĩa là chúng ta muốn ăn mà mình không tiền làm sao ăn, đâu có được. Cho nên từ đó chúng ta cũng không muốn ăn. Bây giờ muốn mặc đẹp mà chúng ta không tiền làm sao mặc đẹp. Cho nên chúng ta lại được giải thoát hết, cuối cùng thì chúng ta khỏe re. Còn trái lại những người mà có tiền, quý thầy mà có tiền bỏ túi rồi coi chừng nó sai quý thầy tầm bậy đó. Tiền nhiều là nó sai quý thầy cất chùa, mà tiền khá khá nó sai quý thầy mua sắm chiếc dream chạy bậy xe nó đụng mà chết đó. Nó đều là rắn độc mà, nó hại quý thầy dữ lắm.

Cho nên ở đây khi mà chúng ta hiểu được như vậy thì chúng ta chỉ ờ bây giờ mình không có tiền mình đi ra ngoài kia, à mình đi đường từ đây xuống đến thành phố. Mình ra đứng ngoài đường thấy cái xe mà đi ngang qua mình ra đón xin nó ngừng lại, mình xin cho quá dang đi về thành phố. Nó cho thì mình đi, nó không cho thì mình đi xe khác, cứ vậy mà đứng mà chờ. Mình là người tu sĩ mình đâu có vội vàng xuống thành phố để làm cái gì gấp. Cho nên từ từ mình đi, thủng thẳng có xe nào nó hảo tâm được, nó cho mình được thì mình lên mình đi, mà nó không cho thì mình đứng mình đợi, rốt cuộc rồi nó cũng có cái xe mà nó cho mình đi. Nó thấy sao ông thầy này đứng hoài từ sáng cho tới chiều mà chưa đi được, thầy này chắc bộ không có tiền thiệt thôi cho ổng đi cái cho rồi. Thì cuối cùng mình cũng đi.

Cho nên trên cuộc đời mà đi khất thực, lúc mà Thầy đi từ chỗ này đến chỗ khác Thầy đón xe Thầy xin quá dang là vậy. Thậm chí như có cái người mà lái cái xe Honda đi ngang qua, Thầy đón họ cho Thầy quá dang đi đến đoạn nào đó thì cái người đó nói con đi chưa tới đó nhưng mà con có thể đưa Thầy đi một đoạn đường từ đây đến đó được. Thì cái người đó họ cũng nhận mình họ cũng đưa mình được một đoạn. Thầy thấy cũng dễ thôi không có gì khó. Chẳng lẽ ông thầy như thế này mà bóp cổ họ lấy xe sao họ hổng cho. Chớ còn mà lơ mơ mấy chú thanh niên ra đón họ không chở đâu.

Đó là những cái tiền bạc nó rất nguy hiểm và vì vậy mà trong giới luật của Phật cũng như giới kinh và giới bổn đều có dạy chúng ta là đừng có cất giữ tiền bạc vì nó nguy hiểm lắm và nó đưa đến cái tai hại cho cái đời sống của cái người tu sĩ mất đi những cái phạm hạnh.

Cho nên ở đây chúng ta lấy cái pháp tham tiền này chúng ta bắt nó niệm Phật. Để làm gì, để cho nó đừng có tham nữa. Do đó nó nhờ cái pháp mà niệm Phật như vậy đó thì nó hết tham. Chớ còn nó không niệm Phật nó tham dữ lắm. Hầu hết là quý thầy không có lấy pháp mà niệm Phật cho nên đụng pháp nó dính quý thầy tất cả hết. Còn ở đây Thầy khôn hơn cho nên Thầy lấy Thân – Thọ - Tâm – Pháp niệm Phật hết.

Chúng ta thấy từ cái chỗ mà tu hành của chúng ta mà chúng ta biết tu Tứ bất hoại tịnh là dùng Phật pháp, bốn cái chỗ mà chúng ta tu. Lấy Thân – Thọ - Tâm – Pháp niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Cho nên bây giờ tất cả các pháp, cái pháp nào ở trong thế gian này mà sảy ra. Bởi vì cái pháp gì thì chúng ta cũng lôi đầu nó niệm Phật được hết. Cho nên chúng ta biết nó mà cái pháp nào mà lôi đến niệm Phật thì cái pháp đó đều là giải thoát hết. Do vì vậy mà đến cái chỗ mà lấy pháp mà niệm Phật chúng ta thấy nó tuyệt vời. Biết lấy cái pháp mà niệm Phật. còn nếu mà chúng ta không biết lấy cái pháp mà niệm Phật thì ngay đó cái tâm chúng ta bị dính liền, dính mắc liền cái tâm phàm phu của chúng ta bị dính mắc liền, không thể nào mà chúng ta giải thoát ra được. Cho nên lấy pháp niệm Phật nó hóa giải được cái tâm của chúng ta. Từ đó mà khi một cái gì nó xảy đến cho chúng ta.

Như bây giờ có một người khác mắng mình chửi mình. Ờ thì các thầy thấy khi người ta mắng mình thì rõ ràng đó là cái pháp ác rồi chứ gì, bắt cái, đem những cái ngôn ngữ mắng mình mình bắt nó niệm Phật đi. Thì khi bắt nó niệm Phật như vậy ông Phật đâu có giận. Thì khi mà các pháp nó niệm Phật như vậy thì tâm mình cũng đâu có giận. Nó đã biết niệm Phật rồi, nó đã  quy y Phật rồi, tức là nó niệm Phật, tức là nó phải sống theo đúng ông Phật cho nên cái pháp đó nó trở thành là pháp thiện, cho nên chúng ta không có giận hờn nữa. Chớ không khéo người ta mắng mình mình tức mình chửi người ta lại đó. Thì do đó, cái pháp đó nó trở thành cái pháp ác luôn mà nó không có thiện. Cho nên khi mà có người mà đến họ chửi mình mắng mình chó hay trâu đi, họ chửi mình đồ ngu đi thì bắt đầu lấy cái pháp đồ ngu này niệm Phật đi, lấy cái pháp chó này cho nó niệm Phật đi thì chó nó cũng thành Phật được chứ không phải không. Cho nên bắt nó niệm Phật vì cuối cùng cái pháp niệm Phật nó bắt cái tâm mình nó không thành chó, phải không. Do đó mình không có giận nữa. Nó niệm Phật thì nó thành Phật rồi nó đâu có thành chó nữa mà nó giận. Cho nên cuối cùng thì mình giải thoát.

Cho nên ở đây Thầy nói đến cái chỗ hồi nãy, hồi đầu mình học mình lấy cái thân mình niệm Phật. Cái thân Phật sao thì cái thân mình niệm Phật nó phải giống vậy. Đó là hai cái đó, các con thấy nó rõ ràng. Bây giờ đến cái thọ. Trước cái thọ đức Phật tâm đâu có dao động cho nên bắt cái thọ nó niệm Phật thì cái tâm mình nó cũng không có dao động, cho nên mình cũng được giải thoát. Cho nên bây giờ mình bắt cái tâm của mình niệm Phật, thì cái tâm của mình, cái tâm mình với cái tâm Phật nó phải như, giống như thế nào. Cho nên nó thoát, nó cũng không có đau khổ. Bây giờ mình bắt các pháp. Các pháp nó đang, mình sống ở trong bao vây ở trong các pháp, cái pháp thiện pháp ác đủ pháp hết nó bao vây mình. Cho nên hễ cái pháp nào ra mình lôi đầu nó vô niệm Phật quy y Phật hết. Cuối cùng thì pháp nào cũng giải thoát hết. Bị nó có nhờ ông Phật nó giải thoát cho nên mình biết lấy cái chỗ Tam quy này làm cái gốc cho nên mình lôi nó vô niệm Phật hết. Vì vậy mà cuối cùng cái tâm mình giải thoát. À, phải không. Cho nên mình ly dục ly ác pháp rất là rõ ràng và cụ thể, cho nên mình được hoàn toàn giải thoát. Đó các con thấy chưa.

Cho nên vì vậy Thầy dạy không phải lấy miệng mà niệm Phật mà lấy ý niệm Phật, mà lấy các pháp mà niệm Phật. Các con hiểu chưa? Nó có niệm không. Bởi vì ông Phật ổng đâu có pháp gì đến tâm ổng đâu có động cho nên pháp nào đến ổng cũng giải thoát hết. Vì vậy mà mình bắt nó niệm Phật tâm mình cũng trở nên bất động, nó cũng giải thoát hết. Cho nên ở đây từ cái tham y rồi từ cái tham tiền cho đến mà tham ăn rồi cho đến mà tham ưu tham ái cho đến mà tham dục. Tất cả những cái này đều bắt nó niệm Phật trước hết.

Đây là Thầy kê ra một cái số để chúng ta biết các pháp chứ nó vô lượng pháp lận mà. Nó vô lượng pháp chứ đâu phải ít pháp, nó nhiều pháp lắm, biết nó sảy đến cho mình cái pháp nào đâu. Nhưng mà hễ cái pháp nào đến là mình cứ lôi nó niệm Phật. Thiện mình cũng bắt nó niệm Phật mà ác cũng niệm Phật luôn. Hễ cái thằng lành nó niệm Phật dễ hơn mà thằng ác thì nó niệm Phật khó hơn nhưng mà bắt nó phải quy y Phật hết, cho nó niệm hết. Vô đó mình lấy ông Phật trước cho nó niệm, sau đó mình bắt nó mình cũng lấy thân thọ tâm pháp niệm Pháp. Bị vì pháp là những cái cũng như bây giờ cái Pháp của Phật thì Tứ niệm xứ nè, rồi Tứ thiền nè, rồi Tứ chánh cần nè, rồi Tứ như ý túc nè, tất cả những cái pháp đó đều là mình lôi đầu các pháp vô niệm hết. Thân mình cũng niệm, tâm mình cũng niệm, thọ mình cũng niệm do đó mình tùy theo các pháp đó mình cũng giải thoát.

Đó là bắt đầu thân thọ tâm pháp niệm pháp, rồi thân thọ tâm pháp niệm tăng.

Tới niệm tăng Thầy kê ra những cái hạnh mà của những vị thánh tăng ngày xưa. Như ông Xá Lợi Phất ổng tu như thế nào, cái hạnh ổng tu làm sao, ông Mục Kiền Liên tu như thế nào. Do đó mình phải lấy cái thân mình phải tu, phải giống như các bậc thánh tăng đó. Rồi cái tâm của mình phải tu như thế nào để giống các bậc thánh tăng đó. Rồi cái thọ của mình như thế nào để đối với các vị thánh tăng đó. Rồi các pháp mà niệm tăng thì phải niệm như thế nào. Thì qua đó thì mình hoàn toàn là mình nội như Tứ bất hoại tịnh mà mình tu xong là mình thấy giải thoát, cũng thành tựu chứ đừng nói tu gì nhiều, nó cũng đầy đủ hết rồi.

Cho nên từ đó chúng ta mới thấy cái lòng tin của chúng ta đối với đạo Phật tuyệt vời không bao giờ mà chúng ta thối tâm cho nên gọi là tín lực. Mà tín lực là Tứ bất hoại tịnh phải không. Mà Tứ bất hoại tịnh là bắt các pháp, thân thọ tâm pháp niệm Phật hết, do đó là giải thoát hoàn toàn. Đó chúng ta tu chúng ta thấy cái kết quả càng ngày càng lúc càng rõ ràng và đem đến cho chúng ta thấy cái sự giải thoát rất là rõ.

Vậy thì Thầy dạy các con một pháp thôi mà các con nỗ lực tu là các con cũng tới giải thoát hoàn toàn rồi chứ chưa nói là giảng hết các pháp của Phật đâu. Nội mà lấy thân thọ tâm pháp mà niệm Phật là đã thấy kết quả rồi. Mà lấy thân thọ tâm pháp giải thích các pháp. Cái pháp như thế nào mà lấy cái thân của mình mà tùy theo cái pháp, cho nên Phật nói tùy pháp. Tùy pháp là sống nương theo cái pháp cho nên do đó mình lấy cái thân của mình để niệm pháp, lấy cái tâm của mình để niệm pháp, lấy cái thọ của mình để niệm pháp, lấy các pháp để niệm pháp.

Thì như vậy thì chúng ta biết được cái Tứ bất hoại tịnh nó vi diệu và nó rất là siêu ở trong cái tu tập. Mà chỉ có Tam quy – ba cái giới mà chúng ta đã thọ: Phật, pháp, tăng và đồng thời cái giới bổn mà chúng ta đã học thì chúng ta nêu lên những cái đó để mà chúng ta niệm nó thì như vậy chúng ta làm sao không giải thoát.

Hôm nay thì quý thầy đã thấy cái đầu tiên mà Thầy dạy quá cụ thể rồi. Bây giờ tới Pháp. Nghe nói pháp niệm Phật thì người ta không biết làm sao đây. Cái pháp làm sao niệm. Nhưng bây giờ thì quý thầy đã biết pháp niệm Phật rồi. Đó, cho nên pháp niệm Phật tức là pháp đến với mình, mà cái pháp đã niệm Phật thì cái pháp nó không còn chướng ngại ở trong tâm của mình nữa. Nó làm cho cái tâm mình không còn dao động. Vì lấy cái pháp đó buộc nó phải niệm Phật, cái pháp đến với Phật Phật không có dao động thì đến với mình mình cũng không giao động, cho nên mình giải thoát.

Thì hôm nay các thầy đã hiểu được pháp niệm Phật rồi, đã hiểu thân niệm Phật, đã hiểu thọ niệm Phật, đã hiểu tam niệm Phật, bây giờ hiểu tới cái pháp niệm Phật rồi.

Cái pháp mà thứ 6 là pháp tham tiền niệm Phật, bây giờ cái pháp tham ngủ niệm Phật.

7. Pháp tham ngủ

Bây giờ tới cái pháp tham ngủ, coi vậy chứ nó không phải dễ đâu. Pháp tham ngủ là một pháp ngu si, mê muội, lười biếng khi gặp pháp nơi thân ta. Bây giờ cái pháp đó nó đến, nó đến nó làm cho mình lười biếng buồn ngủ, gục tới gục lui đi đứng thiếu điều muốn té muốn ngủ trong bụng mình rồi, đó là cái pháp nó đến đó. Vì vậy mình lôi cái đầu nó đi niệm Phật đi cho nó sáng ra chứ còn không khéo. Rồi đây quý thầy lôi cái pháp niệm Phật chứ không phải lôi cái đầu của mình niệm Phật hoặc là mình đến mình lạy Phật lia lịa cho nó hết đâu. Không phải đâu. Đây quí thầy nghe chúng ta lôi nó đi niệm Phật đây.

Ta lấy nó mà niệm Phật, ngày đêm Phật tỉnh thức. Bởi vì mình muốn cái pháp nó niệm Phật thì mình phải xét cái ông Phật coi có phải có buồn ngủ không. À, mình xem ông Phật có buồn ngủ không, ổng có bị hôn trầm, ổng có gật tới gật lui không. Chắc chắn là ông Phật không có chơi cái chuyện đó rồi. Như vậy thì chúng ta mới lôi nó đi niệm Phật nó mới được. Ngày đêm Phật tỉnh thức không bao giờ có như kẻ phàm phu. Do thế mà bắt cái pháp này niệm Phật ta phải đi kinh hành như Phật. Mình thấy trong cái đời sống của đức Phật là ông Phật ổng đi kinh hành nhiềuchứ đâu phải ổng đi kinh hành ít. Đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai phải tập tỉnh thức như Phật.Mình phải tập như thế nào mà Phật đã dạy mình tu tỉnh thức thì do đó nó mới tỉnh chứ còn mình không tu tập tỉnh thức thì làm sao cho mình tỉnh được. Do đó mình phải tập như Phật. Ta phải tập tỉnh thức trong giấc ngủ. Bởi vì mình thấy ông Phật ổng nằm kiết tường nè, ổng ngủ cái ổng đặt cái niệm trước mặt ổng nằm đó. Cái tâm biết cái niệm rõ ràng và đồng thời cái thân ổng ngủ queo đó hà, mà cái tâm ổng hoàn toàn tỉnh thức đó. Cho nên cuối cùng thì hết nửa đêm thì ổng dậy ổng bắt đầu ngồi thiền hoặc đi kinh hành. Hoàn toàn ông Phật, cái hành động mà mình sống mình thấy ổng Phật rõ ràng ổng không có ngủ gà ngủ gật, hổng có ham ngủ như mình.

Đó là những cái mà mình đã thấy rất rõ ràng rồi. Thì mình phải bắt cái pháp buồn ngủ này nó phải niệm Phật. Mà bắt cái pháp buồn ngủ này nó niệm Phật thì tức là chúng ta phải tu tỉnh thức nè, chúng ta phải đi kinh hành nhiều nè như Phật nè, chúng ta phải nằm kiết tường nè rồi tu tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ nè. Như Thầy đã dạy thì như vậy là mình mới bắt nó niệm Phật được. Chứ còn nếu mình không có tu tập như vậy làm sao mình bắt nó niệm Phật được. Cho nên mình cứ buồn ngủ, cứ lừ đừ, cứ lười biếng thì như vậy là càng lúc càng mê muội không có bao giờ mà tỉnh thức được.

Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở tâm mình như lý tác ý. Như Thầy đã dạy cho quý thầy đó, khi mà chúng ta tu tỉnh thức thì chúng ta phải dùng cái pháp hướng tỉnh thức như thế nào, đi kinh hành mà tỉnh thức. Khi mà chúng ta dùng Tứ vô lượng tâm, dùng tâm từ mà chúng ta tu hành. Ở trên cái tỉnh thức bằng cái tâm từ thì chúng ta đi nhìn để tránh không đạp loài côn trùng, đó là cũng tu tỉnh thức đó. Nhưng mà chúng ta đi kinh hành để mà chúng ta thư giãn thì nó lại khác. Nó tỉnh thức ở trong cái thư giãn nó lại khác. Chớ mà nếu chúng ta tu cái tỉnh thức ở trong cái hành động mà áp dụng qua cái thư giãn thì nó lại sai. Cũng như chúng ta tu cái tỉnh thức ở trong cái Tứ vô lượng tâm, cái tâm từ để mà nhìn xuống chân mà đi mà tránh không có đạp loài côn trùng giết hại chúng thì nó lại khác hơn là tỉnh thức chánh niệm trong hành động của chúng ta làm hằng ngày.

Cho nên mỗi mỗi nó đều có một cái riêng biệt riêng mà quý thầy hằng ngày muốn tu tập cho đúng thì phải hỏi cho kỹ từng hành động đó để mà mỗi khi chúng ta tu cái nào nó có cái nấy. Nó đem đến cái kết quả của sự tu tập đó. Rồi tỉnh thức ở trong giấc ngủ, khi nằm xuống phải đặt cái niệm như thế nào để mà tỉnh thức ở trong giấc ngủ thì quý thầy phải hỏi cách thức cho rõ rồi quý thầy tập luyện nó mới đạt được như vậy nó mới phá được cái pháp hôn trầm, cái pháp thùy miên này, cái pháp si mê này. Vì vậy cho nên ở đây chúng ta trạch cái pháp để mà chúng ta nhắc nhở mình để cho mình phá đi cái pháp tham ngủ:

“Pháp tham ngủ là cái pháp vô minh, si mê. Người đệ tử của Phật phải quyết tâm xa lìa pháp này vĩnh viễn, từ khước và chiến thắng pháp này không để ở trong thân tâm ta nữa. Pháp tham ngủ là một pháp cực ác với người tu sĩ của đạo Phật. Từ đây pháp này hãy đi đi không được ở trong tâm ta nữa. Pháp tham ngủ phải lìa xa thân tâm ta, phải đi đi không được ở đây”.

Chúng ta dùng cái pháp hướng mà nhắc nhở như vậy. Để làm gì? Chưa chắc chúng ta dùng như vậy đã là đủ đâu. Cho nên khi nhắc như vậy để làm cho chúng ta tìm mọi cách để mà phá nó. Bằng cách là chúng ta đi kinh hành, bằng cách là chúng ta phải chạy một chỗ. Tức là chúng ta chạy cái chân chúng ta giở lên giở xuống cho nó cao như Thầy đã giảng như vậy để cho quý thầy phá cho thật sạch. Từ đó quý thầy giữ gìn giờ giấc nghiêm chỉnh giờ nào ra giờ nấy thì cái buồn ngủ này nó sẽ mất đi. Còn nếu mà giờ giấc mà nó không nghiêm chỉnh thì muôn đời quý thầy cũng không bao giờ phá được cái hôn trầm buồn ngủ này được đâu. Cho nên giờ nào ra giờ nấy thì nó mới phá sạch mà giờ này nó lộn qua giờ kia, nó trật qua 5 phút 10 phút thì quý thầy cũng không phá sạch nó đâu.

Đó là cái chỗ mà quý thầy cần phải tu tập cho nó đúng cách. Chứ còn nếu mà không đúng cách thì cái pháp mà ngu si, cái pháp mà mê ngủ này khó mà quý thầy thắng lắm. Cho nên muốn nó lôi cái pháp này mà niệm Phật chúng ta phải quán xét lại cái thân Phật, quán xét lại coi ông Phật có tỉnh táo hay không. Mà ông Phật luôn luôn tỉnh táo như vậy thì chúng ta phải noi theo cái gương của ông Phật mà chúng ta phải tu tập, phải, rèn luyện mình. Tức là chúng ta bắt cái pháp ham ngủ của chúng ta nó niệm Phật đó.

Các thầy hiểu chứ? Nghĩa là bây giờ mình coi cái gương hạnh của ông Phật sao ổng lại không có ham ngủ mà mình bây giờ lại có cái pháp ham ngủ này. Cho nên mà bắt cái pháp này mà nó niệm Phật thì bắt buộc nó phải sống, nó làm đúng cách như ông Phật. Thì tức là nó đã niệm Phật, cái pháp ham ngủ nó niệm Phật. Mà nó niệm Phật thì tức là nó sẽ không ham ngủ nữa.

Đó thì như vậy là lấy pháp mà niệm Phật, cho nên ở trong tâm chúng ta có cái pháp gì thì chúng ta mau mau lấy cái pháp đó mà niệm Phật. Mà niệm Phật thì tức là phải theo gương hạnh của ông Phật. Vì vậy mà cuối cùng thì chúng ta mới thắng được các cái pháp đó.

8. Pháp tham danh

Cái pháp này là cái pháp tham danh. Danh là một pháp khiến cho người ta ham mê thích thú, hãnh diện. Dù ít dù nhiều con người dễ bị pháp danh lôi cuốn và cám dỗ khiến cho họ lạc mất đường tu hành giải thoát, trở lại đắm chìm trong biển khổ sanh tử luân hồi mà họ không hay biết.

Nghĩa là chúng ta phải thấy rõ ràng là cái pháp danh này rất là độc. Thường thường người ta hay chạy theo cái danh lắm chứ không phải không đâu. Hầu hết tu sĩ hiện giờ đang sống trong biển danh lợi, họ là những người đáng thương cho cái kiếp sống tu hành của họ. Gặp ngay pháp danh họ đều quỵ ngã trên đó. Nghĩa là bây giờ chúng ta là những người tu sĩ, bắt đầu đi học có cấp bằng cử nhân nè, rồi bắt đầu có cấp bằng tiến sĩ nè, đó là những cái danh làm chúng ta cứ mê mệt ở trên đó. Rồi lấy cái cấp bằng đó giảng dạy người ta, để tên cái tác phẩm nào đó thì đây là tiến sĩ gì đủ thứ hết. Để cái danh để cho người ta thấy mình có cái ngon lành hiểu biết như vậy đó. Tất cả những cái đó là chúng ta đã quỵ ngã ở trên cái danh đó mà không thấy con đường giải thoát của mình. Rồi lấy cái chỗ kiến giải, chỗ học thức của mình ở trên cái danh đó đem ra dạy người ta, trong khi đó mình chẳng ra ôn gì hết, giải thoát chẳng ra cái thứ gì hết. Mà cuối cùng thì cứ dạy người ta như thế này như thế khác. Thì thử hỏi cái đó là cái giả danh của họ, nó đưa họ đến con đường mà sanh tử luân hồi mãi mãi mà không bao giờ dứt.

Gặp pháp này ta bắt nó niệm Phật liền. Nghĩa là khi mà chúng ta mới có học trường cơ bản Phật học thì chúng ta dự định để lên Vạn Hạnh để mà học để mà thi cử nhân thì bắt đầu đó là cái danh rồi đó. Chúng ta hãy dẹp nó xuống đi, đập nó xuống đi, bắt nó niệm Phật đi. Thì do đó nó mới dứt đi chứ còn không khéo nó chạy nữa, nó chạy rồi đây nó đi qua Ấn Độ để nó học lấy tiến sĩ nữa. Nó chưa có ở Việt Nam đủ đâu, nó còn đi nữa. Nếu mà có đủ duyên thì nó chạy tới bển nữa. Nó chạy tới bển có phải là nó chạy tới đó để giải thoát đâu. Nó chạy tới bển nó mang cấp bằng tiến sĩ để về nó lòe thiên hạ chơi chứ có mà làm cái thứ gì. Nó cũng đau nó rên cũng hì hì rồi nó cũng đủ thứ khổ của nó chứ nó đâu có cái gì giải thoát. Cho nên ở đây thực sự ra ở đây thật sự nó là cái danh. Cái danh đó nó làm cho biết bao nhiêu người chết.

Gặp pháp này ta bắt nó niệm Phật. Phật thì danh lợi đã xả hết, đã thắng hết rồi. Nên khi pháp này niệm Phật thì tâm Phật bất động trước nó, do thế tâm ta cũng bất động không bị pháp danh xỏ mũi. Nghĩa là chúng ta, khi mà chúng ta biết nó rồi thì cái danh nó không xỏ mũi chúng ta được, nó không dắt chúng ta được. Vì thế thấy nó mà ta đã từ khước, ta đã từ giã không có sống gần nó.

Bây giờ chúng ta thấy như thế này nè, bây giờ chúng ta thấy rất rõ gần đây thì cũng thấy rất rõ có một số người Phật tử người ta đến gặp Thầy, người ta mới Thầy. Người ta nói con xin Thầy là con sẽ xin phép tắc cho Thầy để mà Thầy đi tham quan ở bên Mỹ, bên Pháp, hoặc là Úc để cho Thầy đi từ nước này đến nước khác. Và Thầy chịu khó Thầy đi thăm Phật tử Việt Nam của mình ở trên các nước đó rồi Thầy sẽ giảng cho họ về Bốn thiền hoặc là về Tứ như ý túc vì hầu như là họ muốn nghe những cái điều này lắm nhưng mà  không có người nào giảng như Thầy hết. Chúng con hoàn toàn hết tiền bạc hao tốn gì chúng con chịu hết cho Thầy, miễn Thầy bằng lòng là chúng con lo giấy tờ tất cả mọi điều kiện thủ tục, chỉ có tới ngày đó là chúng con tới rước Thầy đi thôi. Cái đó có phải là cái danh không, cái danh rất lớn chứ không phải ít đâu.

Gần đây thì Phật tử miền bắc, ở Hà Nội thì cũng có tâm thành cầu khẩn Thầy về thăm Hà Nội một chuyến nhưng Thầy cũng từ khước. Người ta đã tha thiết đối với Thầy rất nhiều Thầy vẫn từ khước. Đó là Thầy thấy đó là những cái danh, nhưng mà cái danh đó không có phải làm cho Thầy giải thoát đâu, Thầy không bao giờ mà chấp nhận, đón nhận cái điều đó đâu. Đây là Thầy nói đây, trước mặt quý Phật tử miền Bắc, quý thầy ở miền Bắc quý thầy biết rằng quý thầy có cái tâm tha thiết mời Thầy về đó thăm. Và cái sự hao tốn tất cả mọi cái đều quý vị đều đài thọ hết, cả Phật tử miền Bắc đều là đài thọ, họ chỉ chờ đón Thầy ở trên phi trường hoặc là ở trên xe bước xuống là họ đã đón rước Thầy hẳn hoài đàng hoàng nhưng Thầy vẫn từ chối. Vì đó là tạo cho mình cái danh. Xưa đức Phật từng dạy cái vị tỳ kheo, quý thầy khi nào mà có danh có lợi, có sự cung kính thì quý thầy hãy ẩn bóng đi. Đức Phật đã dạy như vậy. Cho nên Thầy thấy trong cái thời gian gần đây thì có một số Phật tử người Hoa cũng như là người việt kiều Việt Nam mình ở ngoại quốc họ về đây thăm Thầy. Và sau khi được thăm Thầy, được xin Thầy những cái bài pháp, được hỏi qua những cái về thiền định được Thầy trả lời và đồng thời họ chấp nhận qua những cái thực tế và cụ thể ở trên cái bước đường mà dạy đạo rất là rõ ràng. Cho nên họ sẵn sàng mời Thầy để đi qua Mỹ, qua Pháp, qua Úc hoặc là qua các nước ở trên thế giới này. Nhưng mà Thầy vẫn từ chối hà, Thầy nói Thầy chưa có đủ duyên đâu. Quý Phật tử có lòng như vậy thì Thầy rất là biết ơn nhưng đối với Thầy thì bây giờ tuổi già sức yếu rồi, Thầy không có còn muốn đi đâu nữa hết. Nghĩa là Thầy chỉ muốn ở đây dẫn dắt một vài người, người ta tu hành cho được đó là một cái điều quý của Thầy thôi. Làm sao cho người ta tu cho có kết quả được làm chủ sự sanh tử luân hồi trong cái sức thiền định của mình muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống. Đó là cái điều ước vọng của Thầy. Chứ còn cái mà đi sang Mỹ để mà diễn thuyết mà giảng Bốn thiền, Tứ như ý túc đồ thì chắc chắn là Thầy chưa có đủ duyên. Chừng nào có đủ duyên Thầy sẽ hứa còn bây giờ Thầy không có đủ duyên.

Cũng như gần đây Phật tử miền bắc mời Thầy về ngoài đó Thầy cũng vậy, Thầy cũng nói chưa có đủ duyên. Bây giờ là lúc Thầy ẩn bóng rồi, chờ có đủ duyên Thầy mới đến Thầy thăm chứ còn bây giờ Thầy chưa có đủ duyên nên Thầy không có thăm. Nhưng mà Thầy nhớ lời Phật dạy thì khi một người tu sĩ có danh có lợi, có cái sự cung kính đảnh lễ thì hãy ẩn bóng.

Cho nên Thầy thấy lúc này là cái lúc nó đã đủ cái duyên mà có thể người ta cung kính, người ta cúng dường mình, người ta đảnh lễ mình. Mà nếu mà mình đi ra mình nói, mình giải thuyết về các pháp thiền định mà từ Sơ thiền cho đến Bốn thiền, cách thức mà từ lâu người ta chưa từng bao giờ nghe mà bây giờ người ta nghe như vậy thì người ta quá thích thú rồi. Mà quá thích thú thì danh của mình nó quá lớn và lợi chắc chắn là một chuyến đi mà ở các nước ở ngoại quốc mà về mà khi nghe Thầy mà nói về thiền - Bốn thiền, dạy họ về Bốn thiền cách thức tu tập như vậy và nói về Tứ như ý túc. Thường thường hầu hết là chưa từng ai dạy về Tứ như ý túc mà Thầy đã dám dạy về Tứ như ý túc. Thì quý thầy đã hiểu biết khi mà giảng dạy như vậy rồi khi mà Thầy trở về nước chắc chắn là Thầy phải gởi máy bay nó chở tiền về. Bởi vì họ cúng dường Thầy cũng nhiều lắm chứ không phải ít đâu. Nhưng mà Thầy thấy đó là lợi. Nhưng mà lợi để làm gì đây, để làm gì. Có phải Thầy về cất chùa hay hoặc là Thầy để về Thầy làm việc từ thiện xã hội. Nếu làm việc từ thiện xã hội thì Thầy cũng nói đó là cái sự an ủi một phần nhỏ chớ không phải là làm một cái việc lớn. Tại sao vậy?

Tại gì cái nhân quả của cái con người đã tạo ác thì họ phải thọ lấy cái quả khổ đó.Mà Thầy đem cái chỗ danh lợi này mà Thầy đem về để xoa dịu cái sự đau khổ của họ trong nhân quả của họ thì lại làm họ khổ thêm chứ chưa chắc đã là hết. Mà nếu muốn cho họ được hết cái sự đau khổ. Muốn cho hết cái sự đau khổ, cái nỗi bất hạnh trong xã hội này thì chỉ có đem cái đạo đức nhân quả dạy họ mà thôi. Rồi tự bàn tay của họ, tự cái đầu óc của họ họ làm một cái điều thiện thì họ mang đến cái sự hạnh phúc cho họ. Chứ còn bây giờ mà đem tiền cho họ cũng như là làm cho họ thêm cái nợ chứ đâu có bao giờ họ hết thì tức là họ sẽ còn khổ nữa, chứ không bao giờ hết.

Bởi vì do nhân quả họ mà họ phải gặt hái những cái đau khổ đó. Mà bây giờ muốn cho họ thoát khỏi cái sự đó chỉ có đem cái đạo đức nhân quả dạy cho họ. Họ biết đường đi của đạo đức nhân quả họ không làm cái điều ác nữa thì tự nhiên họ sẽ hết khổ. Chớ không bao giờ mà ai đem tiền bạc đó cho họ hết khổ. Và khi Thầy mang tiền bạc về làm như vậy thì cái danh của Thầy trong đất nước này là một nhà từ thiện, đại từ thiện, phải không? Có gì hơn. Cái danh từ đó lại là còn làm cho Thầy mang một cái danh nữa, nó cũng chẳng có cái hay ho gì hết.

Cho nên Thầy nghĩ rằng cái Trung tâm an dưỡng từ thiện ra đời không có nghĩa là biến, trở thành một cái nhà từ thiện, đại từ thiện. Mà cái trung tâm an dưỡng ra đời cái mục đích của nó là đem vào để cho người ta được nghỉ ngơi tại trung tâm đó mà đem cái đạo đức nhân quả mà dạy cho họ để làm cho tự bàn tay của họ họ giải cứu được cái đời sống của họ, họ được  hạnh phúc an vui, làm cho xã hội có trật tự an ninh không còn tham lam trộm cắp, không còn làm cái điều ác. Thì cái đó là cái mục đích chứ không phải biến Thầy trở thành một cái người mà đại từ thiện. Các thầy hiểu như vậy mới biết. Nếu mà đại từ thiện thì Thầy chỉ cần đi sang ngoại quốc như thế này, đem Bốn thiền mà Thầy giảng thì ai lại không thấy được cái điều đó. Và nếu mà cái điều kiện thuận tiện nữa, muốn làm tiền ra nữa, muốn danh hơn nữa, cao hơn nữa thì Thầy chỉ cần nhập định cho ở ngoại quốc người ta đem máy móc người ta đo Thầy thì thấy lúc bây giờ Thầy chẳng có thở chẳng có gì hết, cơ thể Thầy không hoạt động thì họ đã tuyên bố rầm rộ trên thế gian này thì ở ngoại quốc không những người Việt mình cúng dường mà cả những người bản xứ ở tại nước đó họ cũng đem đến cúng dường. Họ thấy Thầy như là Phật rồi. Thì như vậy thì bao nhiêu tiền mà Thầy đổ Thầy nuôi dân Việt Nam có được không. Nhưng mà Thầy thấy điều đó làm cho khổ dân Việt Nam mình thêm. Nợ nần của mấy người đó còn hơn nữa, cho nên Thầy chẳng có làm cái điều đó.

Vì vậy mà Thầy từ giã từ khước trên vấn đề đó. Thì các thầy biết rằng bây giờ Thầy đã giảng thiền giảng đạo mà quý thầy đã nghe nó thực tế và cụ thể. Không còn ai mà giảng hơn cái chỗ này nữa. Không phải Thầy tự ca ngợi về mình. Mà bằng chứng là quý thầy đã trực tiếp nghe lời Thầy giảng về Bốn thiền và Thầy chưa giảng về Tứ như ý túc. Thầy giảng về tứ như ý túc Thầy sẽ nói cái trạng thái nào mà quý thầy muốn nó như thế nào đạt được ý muốn đó thì quý thầy mới thấy là thực tế của đạo Phật đâu phải là cái chuyện tầm thường mà nói chuyện thường mà lý giải ở trong cái chữ nghĩa được mà đây là cả một công trình, cả một sự tu tập chứ đâu phải là cái chuyện thường được.

Cho nên ở đây các thầy thấy đi đến cái chỗ mà pháp, cái pháp mà tham danh này. Lấy Thầy để cho quý thầy thấy rằng Thầy không bao giờ tham danh. Ba lần núp sau lưng Hòa thượng để xây dựng Phật pháp, để làm cho sáng tỏ Phật pháp lên, ba lần ẩn bóng không để cho ai biết tên tuổi mình. Thế mà ba lần không được, đành phải chịu.

Hôm nay Thầy còn gì mà Thầy ham danh nữa mà Thầy ở đây. Cho nên khi mà Giáo án Thầy viết ra rồi thì đừng hòng có người nào tìm gặp Thầy được. Thầy sẽ ra đi vĩnh viễn. Và từng đó còn đủ duyên thì quý Thầy còn gặp Thầy trong một vài năm, hết duyên rồi thì Thầy chỉ nhập diệt trong rừng trong núi, ai biết Thầy là ai. Cho nên đối với Thầy thì danh, lợi, sự cung kính Thầy trả lại cho tất cả mọi người hết. Thầy chỉ là một con người bình thường như bao nhiêu con người khác không có còn chấp danh chấp lợi nữa, sống an vui với đời sống của một người làm hết cái bổn phận của mình. Trong một cái thời điểm của mình, trong cái thời đại Phật giáo của mình làm hết bổn phận của mình không vì danh vì lợi. Chỉ muốn mình trở thành một viên đá một viên gạch để mà xây dựng lại cái nhà của Phật giáo, để làm cho cái nhà Phật giáo được tốt đẹp và sáng sủa hơn. Hôm nay cái giáo án ra đời cũng là mục đích đó mà thôi.

Đó thì Thầy nói để cho quý thầy thấy rõ, và cái sự từ giã không đi về thăm Hà Nội cũng vậy. Thầy cũng biết rằng Thầy cũng chưa từng bao giờ đến Hà Nội lần nào, Thầy cũng biết rằng những phong cảnh hữu tình, núi non ở đó rất là đẹp, nơi lý tưởng cho những người tu hành nhưng Thầy cũng từ giã không bao giờ về thăm là tại vì Thầy không đón danh đón lợi nữa.

Lời dạy này có một giá trị rất lớn đối với đạo Phật. Nếu toàn cả tu sĩ của đạo Phật ẩn bóng tránh danh lợi thì đạo Phật ngày nay biết bao nhiêu người làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi. Và đạo Phật sáng chói huy hoàng hơn tất cả các tôn giáo khác trên hành tinh này. Người tu sĩ đạo Phật dám từ giã danh lợi, đối với đời sống thiểu dục tri túc thì không có một tu sĩ tôn giáo nào hơn được, giải thoát hơn được. Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng như lý tác ý:

“Pháp tham danh là một pháp cực ác cám dỗ tu sĩ xa lìa phạm hạnh, xa lìa con đường giải thoát. Pháp này dẫn dắt những tu sĩ háo danh háo lợi đi dần xuống địa ngục thọ biết bao tai ương khổ não từ đời này sang đời khác. Những tu sĩ hiện tại đang phá hủy giáo pháp và giới luật của đức Phật. Họ đang xuống dốc theo đà dục lạc thế gian. Biết vậy ta hãy ngăn ngừa nó và tận diệt nó để không dính mắc nơi tâm ta, để ta thật sự đi trên con đường giải thoát của đạo Phật. Pháp tham danh hãy đi đi không được ngự trị nơi tâm ta, hãy đi đi xa lìa những vị tu hành phạm hạnh”.

Đó là cái câu trạch pháp để mà cuối cùng ta đuổi nó đi đừng có để mà chúng ta dính mắc vào những cái danh của nó.

9. Pháp tham lợi

Bây giờ chúng ta học tới cái pháp thứ chín là pháp tham lợi. Danh rồi lợi, bây giờ nó tham lợi. Lợi là một pháp cực ác cám dỗ tất cả mọi người, làm mờ mắt những kẻ trí.Cái lợi nó làm cho người trí cũng mờ mắt đi. Có người vừa gặp lợi mặc dù là lợi đó rất nhỏ nhưng vẫn bị cuốn hút theo. Có người lại lợi lớn, có người lại bị lợi lớn hơn mới cám dỗ được. Nghĩa là có người gặp cái lợi lớn hơn thì cám dỗ, mà cái lợi nhỏ thì không cám dỗ họ được. Cho nên một ông quan thanh liêm ở cái lợi nhỏ nhưng gặp cái lợi lớn thì ông ta hết thanh liêm. Cho nên ở đây chúng ta nói bây giờ người ta cúng dường tiền mình ít thì mình vẫn giữ được cái hạnh của mình tu. Nhưng mà họ cúng dường mình 1 tỷ 2 tỷ lúc bây giờ ông thầy đó cũng chịu hết nỗi rồi cho nên ổng cũng mất cái phạm hạnh ổng luôn. Vì vậy mà chúng ta phải giữ trọn dù ít dù nhiều. Một đồng chúng ta cũng hổng vi phạm mà cho đến hàng tỷ bạc chúng ta cũng hổng cất. Như vậy là chúng ta mới giữ trọn được cái phạm hạnh của người tu.

Có người ngồi ở trên đống vàng mà ăn ngủ thì không yên. Thế mà họ luôn luôn mãi mãi không có chịu rời bỏ cái đóng vàng đó. Cho đến khi mà họ bị tù tội, họ bị giết đi, bị trộm cướp giết đi thì chừng đó hỡi ơi thì không còn nữa. Đó là chúng ta đã thấy được cái sự lợi đã làm cho người ta quá khổ đau.

Người tu sĩ đạo Phật thì phải cảnh giác khi thấy pháp lợi đến thì bắt nó niệm Phật liền.Nghĩa là khi thấy cái pháp mà lợi đến rồi thì bắt nó phải niệm Phật, không có để nó không niệm Phật. Mà nó niệm Phật thì ông Phật ổng không có bao giờ mà ổng ham lợi. Cho nên bắt cái pháp mà niệm Phật thì cái pháp đó hoàn toàn nó không dính mắc vào ông Phật.

Muốn ngay liền tâm ta không bị lợi cám dỗ thì ta phải trạch pháp cái câu này dùng để cái pháp hướng mà tâm nhắc nhở như lý cái tác ý:

“Cái pháp mà tham lợi nó là pháp ác, nó khiến cho người tu mất phạm hạnh, khiến cho người tu phá giới, nó khiến cho người tu sĩ xa lìa con đường giải thoát, khiến cho người tu phải xa cách Phật.Vì thế gặp pháp lợi này thì ta hãy mạnh dạn đoạn dứt, xa lìa từ khước, không chấp nhận, cho nó ở ngoài ta đừng cho nó ở trong ta. Ta luôn luôn lấy hạnh thiểu dục tri túc mà làm đầu. Có cái pháp lợi đến ta hãy đuổi nó đi”.

Nghĩa là tiền bạc hay hoặc là vàng bạc châu báu thì đừng có đụng đến nó mà hãy đuổi nó đi cho khỏi, không có được mà để trong thất của mình mà phải ném cho nó ra khỏi thất của mình.

Pháp lợi độc ác kia ngươi hãy đi đi, ta không chấp nhận ngươi, ngươi phải lìa nơi tu hành của ta, đừng có ở đây nữa, đi đi”.

Đó là những câu cuối cùng mình phải nói cho mạnh và nhờ cái thần lực của mình cho nên cái vàng bạc châu báu, những cái lợi này nó không làm cho chúng ta mờ con mắt được. Chớ không khéo nó dễ làm cho chúng ta mờ con mắt. Danh với lợi rất là khó chớ không phải dễ đâu.

Vì vậy cho nên cuối cùng bây giờ Thầy bỏ hết tất cả, đối với Thầy bỏ hết tất cả. Đi vào rừng thì ăn lá cây, đến đâu thì xin đến đó, không mang theo một đồng một xu nào cả. Nghĩa là thời đại tuy rằng khó khất thực nhưng Thầy vẫn mang bình bát đi xin ăn. Có xin được thì ăn mà không xin được thì vào trong rừng hái một nắm lá cây gì đó để mà sống qua ngày. Cũng tạm qua một ngày đó là được rồi. Thêm một ngày thì chúng ta phải vất vả thêm một ngày chớ không có gì mà phá cái phạm hạnh, phá cái sự tu tập của chúng ta được. Chúng ta không có vì vất vả khổ sở đó mà phải bỏ tiền cất đem theo để rồi đói mà mua ăn thì cái đó là phàm phu tục tử chứ chưa phải là một bậc ẩn bóng, một vị tu hành.

Cho nên đến đây quý thầy phải thấy là cái sự tu hành của một người tu phải vĩ đại, phải gan dạ, phải đủ nghị lực để sống một đời sống đúng là phạm hạnh của nó.

10. Pháp tham sân

Pháp tham sân là một pháp rất ác nó làm cho tâm ta đau khổ, người cũng đau khổ. Pháp tham sân là cái pháp hung dữ.Khi ta gặp pháp này phải bắt nó niệm Phật. Bởi vậy trong đời đức Phật, Ngài bị người khác mắng Ngài cười nói: Thiên hạ đem bánh cho mình mình có nhận hay không nhận. Nếu không nhận thì họ sẽ mang về nhà họ.Do thế mà pháp đến với Phật như là nước đổ lá sen.

Các thầy thấy khi mà có người mắng Phật, Phật mới nói như thế này. Họ mạ nhục mắng ta thì ta nhận thì ta nói lại họ, mà ta không nhận thì họ mắng đã họ cũng mang hết cái này về nhà họ. Cũng như cái người mà cho bánh; mà cho bánh mình không nhận thì họ phải đem về, chớ họ không nhận họ đem đổ sao cho nên cuối cùng thì họ đem về. Do cái hiểu biết của Phật như vậy thì cái pháp sân đến với Phật có sân không. Không Phật không có sân đâu.

Cho nên vì vậy mà chúng ta bắt cái pháp sân này nó niệm Phật, và niệm Phật như vậy thì cái tâm ta có sân không, không. Ông Phật ổng hiểu như vậy rồi. Thì mình đã biết như vậy rồi thì ông Phật không sân thì mình lấy tâm lấy thân mình niệm Phật thì mình đã không sân. Vậy thì cái pháp này đã đến với mình thì mình phải làm sao. Lôi nó niệm Phật thì làm sao tâm mình sân được. Cho nên bắt cái pháp sân này nó niệm Phật do vậy đó mà mình cũng không có sân.

Biết vậy ta hãy lấy pháp sân mà niệm Phật, chắc chắn tâm ta vững như thạch bàn tám gió không lay chuyển. Muốn được vậy ta hãy trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng như lý tác ý:

“Pháp sân là một pháp rất ác, làm cho khổ mình khổ người. Người tu sĩ đạo Phật có tâm sân thì mất hết oai nghi tế hạnh từ bi, không còn xứng đáng là người tu sĩ của đạo Phật nữa, không còn sống đúng phạm hạnh của đạo Phật”. Vậy pháp sân niệm Phật thì không còn sân nữa. Nghĩa là lấy cái pháp sân mà niệm Phật thì cái pháp sân đó nó không còn sân nữa. “Và pháp sân hãy đi đi đừng ở đây với người tu hành- tu hành đạo từ bi. Pháp sân hãy đi đi, đi cho khỏi nơi đây đừng ở đây nữa”. Nghĩa là luôn luôn mình cứ hướng tâm mình nhắc như vậy. Cho nên đến khi mà gặp nó thì lôi đầu nó mà niệm Phật, từng đó chúng ta có đủ cái lực mà từng đó chúng ta thắng lại cái tâm phiền não, tâm sân của mình. Cho nên biến mình trở thành như cục đất không còn giận hờn, không còn phiền não nữa. Hằng ngày ta tu tập như vậy thì đó là pháp sân niệm Phật với tâm ta được an vui giải thoát.

Đó thì quý thầy thấy là chúng ta lấy pháp mà chúng ta bắt nó niệm Phật để cho tâm mình luôn luôn được giải thoát. Do chỗ mà chúng ta biết lấy thân thọ tâm pháp mà niệm Phật thì chúng ta sẽ giải thoát hoàn toàn. Và cũng vì thế mà chúng ta ly dục ly ác pháp làm cho chúng ta không còn khổ đau nữa.

11. Pháp tham hận

Kế là 11. Pháp tham hận.

Đây là hận thù đó. Kỳ tới Thầy sẽ giảng tiếp tục cho hết cái pháp niệm Phật. Thì nó cũng không còn bao nhiêu. Và đồng thời Thầy sẽ viết lại cái bảng tóm lược lại bắt đầu tu hành như thế nào cho đến khi nhập được các thiền định như thế nào, gọn ngắn chừng 5, 10 trang để rồi Thầy sẽ photo gửi cho quý thầy để khi quý thầy trong hạ này sẽ mang cái bảng đó về mà theo đó mà tu tập. Còn về cái phần giáo án này thì Thầy tiếp tục Thầy sẽ soạn và Thầy sẽ giảng cho đến khi mà hoàn mãn cái giáo án và đồng thời Thầy sẽ giảng tiếp tục cái giáo trình đạo đức nhân quả để giúp cho con người ở thế gian này biết cái đường lối mà thực hiện các thiện pháp dứt trừ các ác pháp để đem lại cái hạnh phúc chung cho con người ở trên hành tinh này. Đó là cái điều mà Thầy làm trong những ngày Thầy ẩn bóng.

Sau khi làm xong rồi thì Thầy sẽ tiếp tục Thầy nhập cái diệt thọ tưởng định, hoặc 1 năm cho đến 3 năm hay là 5 năm tùy theo khả năng của Thầy và cái môi trường của Thầy ở tại nơi đâu thì Thầy sẽ thực hiện cái thời gian mà nhập cái diệt thọ tưởng định để rút tỉa những cái kinh nghiệm này để sau khi mà xuất cái định này ra thì Thầy sẽ giảng tiếp tục cái  diệt thọ tưởng định cuối cùng để cho người ta biết cách thức. Sau này tất cả những gì mà của Phật dạy từ bốn  thiền cho tới diệt thọ tưởng định thì coi như là không có còn mà thiếu cái kinh nghiệm tu tập.

Nghĩa là Thầy để lại tất cả những cái kinh nghiệm này làm cho Phật pháp. Người ta đến với Phật pháp là người ta có những cái kinh nghiệm người ta biết tu tập, nó không mất. Đó là cái bổn phận của Thầy. Và đồng thời quý thầy tiếp tục trên con đường tu tập thì quý thầy sẽ có những kinh nghiệm của quý thầy và sau này thì quý thầy sẽ bổ túc thêm những kinh nghiệm của mình từ Bốn thiền cho đến nhập Diệt thọ tưởng định. Và Thầy mong rằng các thầy cũng sẽ đi trên con đường như Thầy.

Thầy đến đây Thầy chấm dứt và quý thầy sẽ được nghe tiếp tục trong cái bài này.

Bây giờ bắt đầu buổi chiều nay, thì Thầy sẽ tiếp tục Thầy trả lời.  Nhưng mà trước khi tiếp tục trả lời câu hỏi của mấy con thì Thầy sẽ giảng tiếp về cái phần buổi sáng là sau khi mà cái trách nhiệm của Thầy soạn cái giáo án đường lối của đạo Phật xong và cái Giáo trình đạo đức nhân quả cho cái người đời để biết cái thiện cái ác mà tu tập. Thì đương nhiên trong cái thời gian mà ẩn bóng thì Thầy sẽ tìm cái nơi yên ổn nhất để mà nhập cái diệt thọ tưởng định. Có thể trong 1 năm hoặc 2 năm, 3 năm cho đến 5 năm hoặc 10 năm Thầy mới xuất cái định ra. Và khi mà xuất cái định ra thì ở bên ngoài thì các con đã tu tập có nhiều người đã có thể nhập Tứ thiền, cũng có nhiều người đã có Tam minh, đã có những cái sức làm chủ được sanh tử và đóng góp vào cái tòa nhà của Phật giáo, có thêm những cái kinh nghiệm của mấy con tu hành ở trong đó nữa chứ không riêng gì có một mình Thầy. Và những cái kinh nghiệm đó là những viên gạch mà chúng ta xây dựng lại cái tòa nhà của Phật giáo làm cho nó càng ngày càng được tốt đẹp và hưng thịnh và sáng suốt hơn. Vì vậy mà mỗi một người tu sĩ của đạo Phật mà giữ gìn giới hạnh nghiêm túc để tu tập thì chúng ta có những cái phần đóng góp rất lớn cho cái đại gia đình của Phật giáo của chúng ta, làm cho nó càng ngày càng phong phú, càng ngày càng có nhiều kinh nghiệm tu hành.

BĂNG SỐ 55

Vì vậy mà mỗi một người tu sĩ của đạo Phật mà giữ gìn giới hạnh nghiêm túc để tu tập thì chúng ta có những cái phần đóng góp rất lớn cho cái đại gia đình của Phật giáo của chúng ta. Làm cho nó càng ngày càng phong phú, càng ngày càng có nhiều cái kinh nghiệm tu hành, chứ không phải đóng góp như theo con đường của Thiền Tông cũng như là Đại Thừa. Đóng góp cái kiến giải, đóng góp những tưởng pháp làm cho càng lúc thì con đường tu theo đạo Phật thì càng lúc Giới luật nó càng bị phá Giới luật, cái phạm hạnh thì người tu sĩ nó càng lúc càng mất đi. Và con đường Thiền định mà gọi là từ Sơ thiền tới Tứ thiền đó thì chẳng có còn cái kinh nghiệm nào mà biết tu tập nữa hết. Thậm chí như nói đến Tứ Như Ý Túc, thì người ta cũng chẳng biết như thế nào gọi là Như Ý Túc.

Do đó, Thầy thiết nghĩ rằng, cái sự đóng góp mà sự tu hành của các con sau này cũng như quý thầy đều là có sự đóng góp rất lớn cho cái đại gia đình của Phật giáo là khi chúng ta biết rõ con đường đi này. Biết rõ cái cách thức giữ gìn giới hạnh và tu tập Thiền định thì cái sự đóng góp của các con cũng như là quý thầy sẽ làm giàu cho Phật giáo. Cái bước đường tu tập cho cái người sau sẽ dễ dàng hơn. Và cũng là cái sự đóng góp cho cái đường đi đạo đức của nhân quả càng lúc càng rõ nét hơn để cho mọi người, người ta chấp nhận cái nhân quả là một cái bằng chứng cụ thể nhân nào quả nấy mà không có sai. Đó là những cái điều mà Thầy mong ước ở sau này của các con cũng như quý thầy.

Về phần hôm nay hiện giờ thì Thầy trả lời qua cái sự tu tập của các con có cái sai và cái đúng. Cho nên ở đây trước tiên cái tập này là của Từ Đức gởi Thầy rất lâu. Là vì bận công việc cho nên Từ Đức không có ở nhà phải đi về dưới quê, rồi nuôi một đứa con bệnh. Do đó hôm nay được trở về. Vì vậy nhân cái dịp Thầy cũng trả lời chung cho các con để mà biết cách thức tu tập.

Về phần hơi thở khi xả thì phải cho thật sạch, nghĩa là phải trở về với trạng thái của hơi thở bình thường. Đó thì các con lưu ý khi mà chúng ta thở chậm, thở nhẹ như thế nào không biết, nhưng mà khi mà chúng ta muốn xả ra nghỉ, thì chúng ta phải thở trở lại cái hơi thở bình thường. Cho trở về cái trạng thái rất là bình thường, rồi chúng ta mới xả ra đi kinh hành hoặc là ngồi nghỉ. Chứ đừng có xả chưa được bình thường mà ngồi nghỉ thì không tốt. Khi xả ra đi kinh hành là lúc này đi kinh hành thư giãn, không được tập trung vào đâu hết, như một cái người đi mà vô sự. Các thầy các con nên lưu ý về cái đi kinh hành đó, thì nó có nhiều cái điều kiện mà đi kinh hành. Nếu mà đi kinh hành mà tu Chánh niệm tỉnh thức thì nó khác, mà đi kinh hành mà tu cái Tứ Vô Lượng Tâm thì nó khác, mà đi kinh hành mà phá cái hôn trầm thì nó khác, mà đi kinh hành mà thư giãn thân tâm của chúng ta đang mệt mỏi qua một thời gian mà công phu tu tập, nó có cái sự mệt mỏi mà đi kinh hành để thư giãn thì nó lại có cái khác. Cho nên, đừng nghĩ rằng đi kinh hành cái nào cũng giống cái nào thì cái đó là chúng ta hiểu chưa có rành. Nếu mà hiểu rành thì chúng ta không thể nào mà đi kinh hành với cái không hiểu biết mà phải hiểu biết rất rõ.

Nếu sau thời gian mà chúng ta nhiếp tâm trong hơi thở hoặc là tu cái Định Vô lậu đó mà chúng ta xuống đi kinh hành đó thì đi kinh hành đó gọi là đi kinh hành thư giãn. Cho nên tâm không có còn tập trung vào chỗ nào hết, nghĩa là không còn có tập trung vào cái bước chân đi mà đi như cái người vô sự, đi như một cái người thanh thản, không có một cái gì ở trong tâm của mình hết. Khi mà chúng ta đi kinh hành thì chúng ta cũng đã biết rằng đi kinh hành thư giãn nó khác hơn là đi kinh hành mà tu tập các loại định khác. Khi thấy thân tâm thư giãn rất là bình thường thì chúng ta ngồi lại tu thì có cái cảm giác lâng lâng đó, đó là chúng ta xả chưa sạch. Ở đây mà muốn xả cho thật sạch thì từ cái hơi thở bình thường mà chúng ta đi vào cái hơi thở chậm và nhẹ, rồi từ đó chúng ta cũng trở lại cái hơi thở bình thường. Xả cho thật bình thường thì chúng ta nghe tất cả trong thân của chúng ta không có một cái trạng thái gì đặc biệt lạ lùng hết mà nó trở về dưới cái dạng rất bình thường thì lúc bấy giờ chúng ta đi kinh hành. Đi kinh hành tức là thư giãn lại, hồi nãy chúng ta ngồi gò bó, chân tay chúng ta gò bó lại một chỗ đó, bây giờ chúng ta đi cho nó giãn gân ra, cho nó thư giãn ra hết. Khi mà thấy nó thư giãn ra mà chúng ta ngồi lại mà không nghe một cái cảm giác gì nó lâng lâng nhẹ nhàng hoặc gì đó, thì nó là đúng. Mà nó còn cái sự mà lâng lâng nhẹ nhàng gì đó thì biết là xả chưa sạch thì phải xả cho thật sạch, đừng để cái trạng thái say say như gợn sóng. Nó làm như mình say say, như gợn sóng nó làm cho cái thân của mình nghe nó hồi hộp hay bồng bềnh bồng bềnh gì đó thì như vậy là nó chưa được. Cho nên chúng ta xả nó ra cho hết.

Đặt niệm để tu Định Vô lậu, ví dụ đặt cái niệm thân quán xét cái sự vô thường của cái thân thì nên suy tư tìm hiểu sự vô thường của cái thân. Nghĩa là mình đặt cái niệm thân mà vô thường, từ cái chữ thân rồi cái chữ vô thường, thì nó là hai cái danh từ như mình suy nghĩ cái thân nó vô thường là nó thay đổi như thế nào? Từ cái lúc nào nó như thể nào để nhận ra được cái sự thay đổi vô thường đó bằng một cái thực chứ không phải bằng một cái danh từ vô thường, hoặc là bằng cái thân vô thường mà những cái từ như vậy, mà phải nhìn thấy cái hình ảnh mình diễn tả ra mình nhìn thấy. Như bây giờ nói mình quan sát mình thấy cái mặt của mình hồi mà mình còn trẻ nhỏ thì cái mặt của mình nó không có cái nếp nhăn, bây giờ mình lớn tuổi mình già thì cái mặt mình có cái nếp nhăn, rồi cái da của mình thì nó không phải như hồi trẻ nhỏ nó bóng nó láng, còn cái da của người già thì nóchùn, nó nhăn, nó nhăn nhỏ nhỏ, nó làm cho cái mặt nó không có được thẳng.

Đó là cái hình ảnh của sự vô thường, cũng như tóc mình hồi còn nhỏ thì nó đen, tóc nó mọc rậm, còn bây giờ thì nó bạc, nó rụng, nó thưa, nó cằn cỗi, cái cộng tóc nó khô khan, nó không có như cái cộng tóc của hồi tuổi trẻ. Đó là mình nhìn qua cái sự như vậy đó để mà quán xét như vậy đó thì mình thấy nó là cái sự vô thường. Còn nếu mình nói chữ vô thường, cái thân vô thường mà không xét tóc tai mặt mũi da này của mình, thân của mình, rồi sức khỏe suy yếu của mình, mình không có nói ra được cái sự mà suy yếu đó, thì đương nhiên là mình chỉ dùng cái danh từ không, thì như vậy là cái định mà tu cái Định Vô lậu đó, thì không bao giờ mà nó đạt được cái Vô Lậu, mà nó chỉ là một số cái từ mà để cho mình nói cái vô thường của nó mà thôi.

À, con nên quán xét cái tuổi còn trẻ đến bây giờ tuổi già sự vô thường nó thay đổi như thế nào, rồi tóc, rồi mắt. Như hồi nhỏ thì mắt nó sáng, nhìn cái gì cũng khỏi đeo kính hết, còn bây giờ mắt nó mờ, tóc nó bạc; mũi thì hồi đó nó khác; còn da bây giờ nó khác hồi đó nó khác; răng hồi đó thì nó trắng mà nó đều không như bây giờ nó rụng rồi nó thưa nó đủ cách rồi nó lên chân, nó làm cái răng xíu xáo. Rồi tới cái đi, chân hồi đó đi thì nghe nó vững vàng, còn bây giờ đi nghe nó muốn té. Tất cả những cái hành động của tuổi trẻ, rồi cái hành động của tuổi già nó như thế nào? Lúc già như thế nào mà lúc trẻ như thế nào?

Đó là mình đặt ra cái dàn bài để từ đó mình mới có sự suy tư để mình thấy cái sự vô thường của nó. Có quán xét và so sánh như vậy con mới thấy rõ thân vô thường. Khi thấy rõ thân vô thường con trạch pháp một câu dùng làm pháp hướngNhư lý tác ý. Khi mình thấy rõ cái thân vô thường rồi thì kế đó mình mới trạch ra một cái câu để dùng làm cái pháp hướng để mình nhắc nó, để cho cái tâm của mình từ đây nhận ra được cái sự vô thường đó mà mình không có chấp đó là cái ngã của mình. Đây Thầy có nêu thử cái câu pháp hướng để cho con làm cái pháp hướng. Quả đúng thật là cái thân vô thường vì mình quán xét nó rồi đó, bây giờ mình mới đặt ra cái câu:

“Quả đúng thật là cái thân vô thường, nên cái sự vô thường này đã đưa con người đến chỗ khổ đau muôn vàn. Vì thế ta biết rõ thân không phải là của ta, không phải là bản ngã của ta. Từ đây về sau ta đừng dại dột lầm chấp ngã là của ta nữa. Ai có chửi mắng mạ nhục thân này ta không được giận hờn thù oán họ.”

Đó là mình đã thấy nó là vô thường, không phải là của mình nữa, nó không phải cái ngã của mình nữa, thì ai có chửi mắng ai có mạ nhục thì mình không có giận hờn, không có phiền não nữa. Tức là mình trạch cái câu đó ra để từ đó nó trở thành Vô Lậu. Cho nên mình không tham, không sân, không si, không lo cho cái thân của mình nữa.

Đó là cái câu pháp hướng Thầy chỉ làm cái mẫu để cho sau này các con tự theo đó mà đặt ra và sau khi mình dùng cái pháp quán, mình quán thấy nó vô thường rồi, mình mới đặt ra cái câu trạch pháp để theo cái câu đó hàng ngày mình nhắc để mình phá cái tâm tham sân si mạn nghi của mình, mình phá năm cái triền cái hoặc là thất kiết sử hoặc là ngũ kiết sử cho nó sạch.

Đó là cái phần Thầy trả lời cho Từ Đức, con theo đó mà con quán xét cái thân vô thường, rồi cái thực phẩm vô thường, rồi tất cả những cái gì mà thương yêu, đều là các pháp ở trong thế gian đều là vô thường tất cả hết. Để rồi từ đó chúng ta đập vỡ phá vỡ, chúng ta sẽ được giải thoát hoàn toàn, tức là chúng ta ly dục, ly ác pháp hoàn toàn.

Còn về phần Minh Cảnh. Ở đây thì Minh Cảnh có xin Thầy đừng có thu băng về cái phần này. Thầy xin trả lời vì cái trọng trách và cũng là cái nhiệm vụ để xây dựng lại cái đường lối tu tập của đạo Phật, thì suốt cái thời gian rất dài mà Thầy đem cái chịu cực khổ rất nhiều hầu lại để dẫn dắt một số người tu tập như Minh Cảnh cũng đã về đây từ lúc đầu, rồi kế đó ra ngoài Long Hải ở, rồi sau nay mới về đây tiếp tục trở lại con đường tu tập. Thì trải qua biết bao nhiêu là tu sĩ về đây tu tập cho đến cái ngày hôm nay, Thầy thấy rằng cuối cùng thì nhìn chung lại thì Thầy đã chịu cực khổ rất nhiều, nhưng chỉ đào tạo bây giờ thì coi như là tạm được hai người, nhưng chưa phải là hoàn chỉnh cho lắm. Còn phải trải qua một cái thời gian tu tập nữa mới có đạt được cái sự giải thoát hoàn toàn. Còn bây giờ thì kể như là phải khuyến khích cho những người này họ tiếp tục trên con đường tu tập nữa. Nghĩa là họ còn phải trải qua vài ba năm nữa mà phải chuyên cần và siêng năng thì những người này thì chắc chắn họ sẽ không có xa Thầy được nửa bước. Nghĩa là bây giờ cái giai đoạn của họ là luôn luôn lúc nào cũng phải gần Thầy. Còn riêng các con thì hiện giờ có xa Thầy thì cũng chưa có đến nỗi nào, nhưng họ là những người đang đi gần tới cái chỗ cuối cùng thì không thể nào những người này xa Thầy. Nhưng cái số này chỉ có một hai người chứ không thể hơn được cho nên vì vậy mà Thầy đi tìm một cái nơi nào đó mà Thầy ẩn bóng thì chắc chắn là Thầy phải đưa những cái người này họ phải đến đó để mà gần gũi bên Thầy để giúp đỡ cho họ, cho đến khi họ hoàn toàn giải thoát được sanh tử làm chủ được luân hồi. Và đồng thời khi họ tu xong rồi thì họ là cái người còn trẻ tuổi còn sức khỏe thì họ thay Thầy để tiếp nối cái ngọn đuốc, thắp lại cái ngọn đuốc của Phật pháp. Còn riêng Thầy lúc bấy giờ là lúc ẩn bóng thật sự, còn các con hiện bây giờ thì tìm được những cái nơi yên ổn mà tu tập thì lúc nào gặp khó khăn thì chắc chắn là cũng có sự thị hiện bằng cái sự giao cảm, bằng cái tư tưởng, hoặc là bằng cái trí tuệ, hoặc là thị hiện ngay ở cái nơi các con đang tu tập đó bằng da bằng thịt bằng con người bằng xương bằng thịt đến ngay lúc đó mà để trợ giúp. Đó là tùy duyên chứ không thể mà hứa trước được. Nhưng vẫn là người nào mà vẫn là nỗ lực tu hành thì chắc chắn là sẽ có Thầy thị hiện đến đó để mà trợ giúp. Nhưng trên cái bước đường tu tập thì Thầy còn cái nhiệm vụ, đó là soạn cái Giáo án cho hết những cái giới hành, vì cái giới hành như các con đã biết Thầy mới có giảng lấy thân mà niệm Phật, rồi mới học được cái bài kế đó là lấy thọ mà niệm Phật, rồi mới lấy tâm mà niệm Phật. Hồi sáng này Thầy mới tiếp tục dạy là lấy pháp niệm Phật. Vừa rồi Thầy có giới thiệu với mấy con lấy pháp niệm Phật như thế nào thì Thầy đã giới thiệu rồi. Nhưng mà hồi sáng này Thầy đi vào cái chi tiết là lấy từng cái pháp mà niệm Phật. Rồi có những cái câu trạch pháp ra dùng làm cái pháp hướng để nhắc nhở cái tâm mình để cho thấm nhuần được cái tâm mình để các pháp khi mà đến với mình đến với tâm mình thì mình sẽ không bị các pháp lôi cuốn, hoặc là các pháp ác sẽ làm cho mình trở thành sự đau khổ nơi tâm hồn của mình. Do mình bắt các pháp đều là đứng ở trong vị trí niệm Phật, vì vậy mà tâm mình nó được giải thoát.

Do học cái bài Tứ Vô Lượng mà hồi sáng Thầy cũng dạy chưa hết, nghĩa là lấy pháp niệm Phật mà dạy chưa hết. Bởi vì có khách rồi Thầy phải nghỉ trước 30 phút để tiếp khách rồi mới ăn cơm, cho nên nó không có cái thời gian để giảng cho hết. Mà hôm nay thì như các con đã biết rằng bữa nay là mùng 8 rồi mà tới 14 là sẽ ra hạ mà trong khoảng thời gian này cho tới ngày cái ngày 14 giải hạ đó thì Thầy phải soạn tạm cho các con là đại khái tóm lược lại cách thức tu tập từ cái dễ cho đến cái khó, sơ lược. Thí dụ như một người mới tu phải tu như thế nào, và cái người tu bước một được rồi đến bước hai như thế nào, và tu các định gì định gì? Do đó soạn tóm tắt lại, để rồi nhờ cô Út đem ra phô tô lại 10 bản, 20 bản mà phát ra cho mỗi người một bản. Và khi mà phát cho mỗi người một bản rồi thì trong cái khoảng thời gian này, ngày nay là mùng 8 mà cho tới 14 thì Thầy tập trung làm cái bản này chớ đâu còn cái ngày nào mà dạy các con được nữa. Các con thấy chưa? Nó đâu còn cái thời giờ, do đó khi mà các con đã giải hạ ra thì các con được cái bản đó theo bản tóm lược đó để các con tu tập. Các con đã được nghe lời giảng dạy của Thầy rồi, thì đâu có đi vào những cái chi tiết làm gì? Thầy nhắc cho các con phải tu tập cái gì, cái gì vậy thôi để cho các con theo đó để mà nương mà tu tập.

Vì nếu mà Thầy không có lo soạn cái bản tóm lược này thì các con học mênh mông quá rồi cũng không biết đâu là cái tu trước cái tu sau nữa. Nó cũng làm cho các con bị rối loạn nữa. Cho nên buộc lòng thì Thầy phải dừng lại đây rồi qua cái hạ rồi thì trong lúc đó Thầy tiếp tục soạn cái giáo án này để giảng cái pháp hành cho nó hết. Bởi vì cái giai đoạn này, về cái pháp hành này rất là quan trọng, bởi vì cái hành động để mà tu cho đạt được cái sự giải thoát mà đây chỉ mới chỉ có nói rằng Tứ Bất Hoại Tịnh, rồi các con thấy mình phải còn học Ngũ Căn, Ngũ Lực, rồi Thất Bồ Đề, rồi Tứ Niệm Xứ, rồi Bốn Thiền, rồi Tứ Diệu Đế, rồi Tứ Như Ý Túc rồi Tam Minh. Quá nhiều những cái đó đều là những cái pháp hành hết, cái đó gọi là giới hành đó. Tất cả 37 phẩm trợ đạo của Phật. Mà bây giờ mình mới đầu tiên các con học cái gì đầu, mình vô cái lộ trình thứ hai mà Thầy giảng cho người cư sĩ thì các con đã học Tứ Vô Lượng Tâm, tâm Từ tâm Bi tâm Hỷ tâm Xả rồi. Rồi các con học Tứ Chánh Cần tức là các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, còn các pháp ác đã sanh thì đoạn diệt, các pháp thiện chưa sanh thì phải cho sanh, mà đã sanh thì tăng trưởng. Đó là Tứ Chánh Cần. Lấy Thập thiện mà làm chuẩn để diệt Thập ác, đó là những cái mà các con học về Thập thiện. Thì tất cả những cái đó là đã học rồi nhưng mà bây giờ mới có tới Tứ Bất Hoại Tịnh, rồi bắt đầu nó càng tiếp tục nữa, thì Thầy thấy cái vấn mà phát hành này còn nhiều lắm. Mà càng đi thì nó càng thực tế và cụ thể và nó càng nói lên được cái sự thực hành của đạo Phật rất là sâu sắc và rất là kĩ cho một cái người tu tập, không thể nào thiếu những cái pháp này.

Hồi nào tới giờ chúng ta học thì coi như là cái lí pháp thì nhiều mà cái hành pháp thì nó ít, còn bây giờ toàn bộ là hành pháp.Vì vậy mà qua Tứ Bất Hoại Tịnh mà các con thấy vào thì Thầy chỉ giới thiệu cái lí pháp thôi, rồi sau đó thì cái pháp hành nó liên tục. Lúc nào cũng có ám thị, lúc nào cũng có hướng tâm, rồi lúc nào cũng có trạch pháp. Rồi tới đây phải dạy các con phải thực hiện cái niệm Giác Chi tức là muốn mà cái niệm mà chân chính, thì mình phải tư duy như thế nào để thực hiện cái niệm chân chính. Để thực hiện cho nó ở trong cái pháp quán như thế nào? Để rồi mình trạch pháp ra cho nó đúng. Đó là mình tu tập cái niệm Giác Chi. Rồi tu tập cái trạch pháp Giác Chi, trạch làm sao mà cho đúng cái lý của nó để làm cái pháp hướng.

Đó thì tất cả những cái này thì các con phải được trui luyện để mà tập, chứ nếu không mà các con đặt đại hoặc suy nghĩ đại thì nó không có đúng cái cách, cái pháp hướng thì các con hướng nó không có hiệu quả. Mà nó có nhiều cái khó như vậy cho nên Thầy chỉ làm cho các con Thầy chỉ nêu lên những cái pháp hướng cho nó tượng trưng, rồi từ đó các con theo các đặc tướng của riêng của mỗi người của mình mà các con sẽ đặt ra cái pháp hướng cho đúng với cái tâm cái tướng của mình. Để rồi mình dùng nó mình tu tập thì cái lợi ích đó nó rất lớn cho chính bản thân cho mình. Và cái thời gian nó không còn kéo dài nữa cho nên vì vậy thì khi mà ẩn bóng đó, thì chắc chắn Thầy cố gắng Thầy sẽ soạn cho hết. Cuối cùng rồi thì Thầy mới được nghỉ ngơi. Nhưng mà dù sao đi hôm rày cơ thể Thầy rất là mệt nhọc vì nó đã rất là hao hơi rất nhiều, cho nên Thầy có lẽ là qua cái hạ này Thầy cũng nghỉ chừng 5 đến 10 hôm. Rồi bắt đầu khỏe trở lại Thầy sẽ làm việc trở lại liên tục trong vòng một tháng hoặc nửa tháng là nó sẽ xong cái Giáo án. Xong cái Giáo án rồi thì Thầy sẽ nhuận lại các cái băng từ đầu mà Thầy đã thuyết giảng, nó có những cái sự sơ suất ở trong đó. Và Thầy sẽ nghe lại hết, rồi Thầy kiểm tra lại hết coi nó chỗ nào thiếu mà chỗ nào đủ, từ đó Thầy sẽ bổ túc thêm cho đầy đủ. Có những chỗ nào mà cần phải thêm thì Thầy thêm, có những chỗ nào cần phải bớt thì Thầy bớt ra để không nó thừa thì cũng không lợi mà nó thiếu thì nó lại làm cho cái con đường Giáo án tu tập của chúng ta thiếu. Cho nên Thầy còn làm việc rất nhiều trong một cái giai đoạn kế nữa.

Đến đây thì cô Minh Cảnh có muốn Thầy nghỉ xả hơi cho nó khỏe rồi sau đó Thầy khỏe rồi Thầy tiếp tục làm thì cái điều này là Thầy cũng có suy nghĩ. Và đồng thời thì trong cái vấn đề mà lo lắng cho Phật pháp thì cái nhiệm vụ của người tu thì chắc chắn là phải lo rồi. Nhưng mà cái nhân duyên của chúng sanh có đủ hay không? Chứ còn nếu mà không đủ thì dù mình có lo gì thì cũng không được. Còn nó đủ thì chắc chắn là mình lo nó cũng không khó đâu. Rồi nó sẽ có đủ cái duyên nó đưa đến, có những người mà hỗ trợ và giúp đỡ cái duyên nó đến. Nếu học pháp mà đủ duyên tốt và chúng sanh có đủ nhân duyên thì có người họ giúp đỡ mình liền. Như từ cái in ấn hoặc là tất cả những cái Giáo án của Thầy nó được trở thành văn, trở thành sách đi, trở thành kinh đi, thì nó cũng đều là có những cái tốt.

Và bây giờ cũng như là hôm nay thì cũng như là cái buổi mà Thầy giảng, sau bắt đầu Giáo án thì đây cũng là cái buổi giảng có thể về cái phần mà chưa phải là kết thúc cái Giáo án,nhưng mà hôm nay Thầy cũng có nhắc nhở với mấy con là hiện giờ đó, các con đứa nào mà có thể hợp với cô Út thì ở lại bám lấy cô Út mà tu tập, chịu khó thì chắc chắn là... Tuy vậy chứ cô Út cũng tận tình giúp đỡ các con lắm. Dù sao đi nữa cũng phải hướng đến cái sự tổ chức để mà chúng ta tu hành cho đến chỗ rốt ráo mà thôi. Còn đứa nào mà thấy rằng chưa có hợp, thì nên tạo cái nơi mà yên tịnh cho mình tu hành, chứ khi mà không hợp mình ở, mình tu cũng khó tu lắm. Nó phải có cái sự hợp, bởi vậy Thầy mới dạy các con nhẫn nhục tùy thuận bằng lòng. Suốt cái thời gian mà mình tu tập được cái này thì mình sẽ nhẫn nhục, mình tùy thuận, mình bằng lòng mình sống để mình tu tập, mình chẳng còn tìm cái gì hơn, thì cái đó là dễ. Còn nếu mà thấy cái đặc tướng của mình nó không có phù hợp thì ép mình để mà sống, thì nó gượng ép nó làm cho mình động tâm thêm. Nó không có hợp. Còn thấy hợp thì mình sống với cô Út để rồi từ đó cô Út sẽ tổ chức, cổ cũng biết tu cổ cũng hiểu biết được trong cái thời gian tu tập như thế nào mà sẽ đạt được thiền định, tu tập như thế nào mà quét sạch các lậu hoặc, thì cổ cũng từ cái chỗ hiểu biết đó mà cổ giúp cho mình đi từng cái giai đoạn.

Chứ còn cái tâm của mình nó chưa hết lậu hoặc mà mình cứ vội mình tu cái thiền định thì cô biết rằng mình muốn như vậy để rồi mình khép chân vô trong thất mình ngồi yên tu, chắc chắn cái việc đó mình làm không được đâu. Và vì vậy mà cổ không có đồng ý trên cái vấn đề đó mà cổ la cổ rầy mấy con là cái vì vậy. Cho nên ở đây, cuối cùng hôm nay là bài giảng cuối cùng đó, thì Thầy khuyên các con phải chọn cái vị trí ở cho yên, đứa nào cũng phải ở cho yên hết, cái vị trí nào cho nó yên. Đừng có nay ở chỗ này, rồi mai đi ở chỗ khác, hoặc là nay chùa này mai chùa khác, thì chắc chắn là nó không tới đâu hết. Bất kì chỗ nào mình chọn cho được mình ở yên một chỗ đi. Chẳng hạn bây giờ mình không có ở đây, thì mình chọn cái chỗ nào đó mình cứ ở cái chỗ đó nhập thất mình tu đi. Thì cái sự yên ổn mà ở một chỗ mà tu, thì có điều kiện nó dễ là khi Thầy xuất hiện nó dễ, còn bữa nay các con ở đây mai các con ở chỗ kia thì các con khó mà gặp Thầy lắm. Các con hiểu không? Bây giờ mà các con bất kì ở chỗ nào thì các con ở yên đi, cứ lo chuyên tu ở yên một chỗ đi, thì cái điều đó là cái điều mà Thầy có thể về Thầy thăm thì rất dễ. Khi về thăm đó là có những cái kinh nghiệm để mà trợ giúp cho các con suốt cái quá trình thời gian mà tu tập đó. Nó có cái sai, cái đúng thì các con dễ đi. Bởi vì cái sai của mình tu, cái thời gian sai mình biết rất rõ, khi mà được Thầy nhắc nhở thì các con biết rất rõ. Mà phải ở yên, chứ còn các con ở mà không yên, cứ lăng xăng mà chạy hoài nó không có lập được cái hạnh độc cư thì chắc chắn là khó lắm, nó không thể nào.

Bởi vì cái không độc cư thì bữa nay mình ở cái chỗ này mai mình ở chỗ khác, rồi mình ở một thời gian 5 tháng 3 tháng mình thấy nó không hợp mình đi nữa, thì cứ đi hoài như vậy thì khó mà có thể Thầy giúp đỡ được. Còn nếu mà các con thấy chỗ nào mà chết sống ở lì một chỗ đó, thì có thể giúp đỡ được.

Đó, cái đó là Thầy khuyên các con nên chọn lấy cái vị trí ở cho yên một chỗ, cái chỗ nào mình thấy phù hợp thích hợp mình cứ ở miết cái chỗ đó đi. Rồi đói khát gì cũng thôi kệ, miễn là yên một chỗ thì dễ dàng. Đó là những cái phần mà Thầy khuyên các con.

Do vì vậy đó sau cái thời gian mà Thầy ẩn bóng Thầy đi rồi, thì ở đây chỉ còn có mình cô Út thì cổ chẳng qua là cổ cũng nuôi với một cái số ít người thôi, chứ cổ nuôi nhiều thì chắc chắn là Phật tử họ cũng không có cung cấp, không có cúng dường nhiều. Cho nên sức cổ thì cổ cũng nuôi không được đông đâu. Do vì vậy đó thì cổ cũng lo nếu mà nuôi không được đông mà ở đông mà bắt đi ra làm để mà kiếm cơm ăn thì chẳng tu gì được hết. Cổ làm là làm trong cái giai đoạn đầu thôi, để cho mình có lao tác, để cho mình tu tập những cái Định Vô Lậu. Chứ còn tới cái giai đoạn tu mà để làm chủ được cái sống chết, thì chắc chắn là cái người nào cũng phải là nhập thất 100% rồi, không có còn mà bước ra khỏi cổng. Và tới cái giai đoạn đó thì tức là nó phải tổ chức như thế nào để thành tựu được cái chỗ sống cho đúng đắn như vậy, chứ không phải là thiếu cái sự mà sắp xếp như vậy, thì chúng ta tu cũng không được.

Nhưng bây giờ mà cho các con vào trong thất mà ngồi tu thì nó cũng chẳng nhập Tứ thiền gì được hết. Bởi vì cái tâm Vô Lậu nó chưa hết mà không lo tu tập ở ngoài để xả, mà cứ vô thất ngồi tu không thì nó chỉ nén tâm, rồi cái tâm Vô Lậu nó không có quét sạch được.

Cho nên trong những cái chung đụng nhau, sống chung nhau mà có cái lao tác, nó có cái sự đụng chạm mà sự đụng chạm đó để trắc nghiệm được cái tâm của mình coi nó hết lậu hoặc hay không? Mà thật sự nó hết rồi thì bắt đầu mà xét được cái người đó mà hết rồi, cho họ vào thất để mà thực hiện cái thiền định thì họ thực hiện rất nhanh, rất mau không còn lâu nữa. Chỉ có thời gian ngắn mà họ sẽ đạt được những kết quả rất tốt cho cái sự tu tập của họ.

Thì hôm nay Thầy nói như vậy để các con chuẩn bị cho mình, vì còn cái thời gian không có lâu nữa. Có người thì phải về sắp xếp gia đình, con cái hay hoặc này kia cho nó ổn, rồi mới tìm cái vị trí cho yên để mà lỗ lực tu hành theo cái giáo án của Thầy. Hoặc là có người lo sắp xếp gia đình rồi trở lên đây sống với cô Út, chịu ở trên cái sự mà điều khiển của cô Út. Cô chỉ như thế nào mình làm theo như thế ấy. Và đồng thời sẽ lỗ lực và có những cái thời gian chờ đợi để quét cho sạch cái tâm lậu hoặc của mình trong một năm hay nửa năm nữa hoặc là hai năm nữa, để rồi đi vào trong con đường thiền định kế tiếp mà chúng ta phải thực hiện Bốn thiền và phải nói rằng phải thực hiện luôn cả Tam Minh nữa.

À, Thầy có nói với Minh Tông là chúng ta tu đến đây không có nghĩa là chúng ta làm chủ cái thân tâm của chúng ta đâu, mà chúng ta còn phải thực hiện Tứ Như Ý Túc. Nghĩa là sau khi mà cái thân định, cái thân của chúng ta đã ngưng hơi thở rồi, thì từ đó mà Thầy sẽ dạy cho cách thức mà tu tập Tứ Như Ý Túc. Nghĩa là chúng ta muốn như thế nào thì cái thân của chúng ta sẽ làm như thế nấy, không có còn mà chống lại cái ý của chúng ta được, nghĩa là chúng ta muốn làm sao là nó làm như vậy. Cho nên Tứ Như Ý Túc thì các con thấy, cái Dục như ý túc là muốn như thế nào thì làm được như thế nấy. Rồi Thiền định Như ý túc, Thiền định Như ý túc là cái gì? Là chúng ta muốn nhập định hồi nào là nhập định à. Chúng ta bảo ví dụ như bây giờ như Thầy này là Thiền định Như ý túc này, Thầy bảo cái hơi thở ngưng và các hành ở trong thân phải ngưng thì đó là bắt đầu nó ngưng liền, gọi là Thiền định Như ý túc. Đấy các con thấy không? Mà Tinh tấn như ý túc là Thầy luôn lúc nào nó cũng có cái sự siêng năng ở trong đó, muốn làm gì làm được nó hết; cho nên cái siêng năng đó vẫn phải có, cho nên gọi là Tinh tấn như ý túc. Còn cái tuệ mà Thầy muốn cái tuệ của Thầy như thế nào thì nó cũng phải phát hiện ra như thế ấy. Thí dụ cái tuệ Như ý túc là như thế nào? À, bây giờ Thầy soạn tới cái bài này nói về pháp niệm Phật, bây giờ lấy cái pháp niệm Phật là niệm sao đây? Thầy chỉ đặt câu hỏi vậy. Bắt đầu Thầy nói: à, bây giờ cái tuệ phải phát triển ra, lấy các pháp niệm Phật phải niệm như thế nào, phải phát triển ra ngay liền. Thầy nói như vậy bắt đầu Thầy giữ cái tâm yên lặng như thế này, bắt đầu cái trí tuệ Thầy nó phán xét ra liền. Do đó Thầy biết, à bây giờ lấy cái pháp niệm Phật là cái pháp nào? Bây giờ người ta chửi mình, lấy cái lời mắng chửi của họ đó, chửi mình đó, bắt cái lời này đem lại niệm Phật đi. Thì bắt đầu họ chửi mình thì nó niệm Phật rồi thì nó đâu có còn gì mà nó giận, cho nên bắt cái pháp đó niệm Phật, thì do đó cái tâm của Thầy nó không còn giận ai nữa. Các con thấy phải hiểu, cho nên lấy pháp mà niệm Phật mà. À, Phật dạy thân, thọ, tâm, pháp niệm Phật thì bây giờ mình học tới pháp niệm Phật mà từ lâu đến giờ có ai dạy điều này đâu. Thầy cũng đâu có biết, cho nên Thầy nói, bây giờ cái tuệ là phải phán xét coi lấy cái pháp niệm Phật này là niệm làm sao? À, thì bắt đầu trong đầu của Thầy nó nảy ra, bây giờ phải lấy nó bắt nó vô niệm Phật. Ông Phật thì người ta chửi Ông Ông không có giận, vậy thì lấy cái pháp này mà niệm Phật. Phật thì Ông không giận thì cũng như lấy cái pháp này mà niệm ở cái tâm của mình, cho nên cái tâm mình nó cũng không có giận. À, cho nên các con thấy không? Vì vậy mà mình phải trạch pháp nhắc ra, bắt cái pháp này niệm Phật, nó làm cho cái tâm mình nó không còn dính mắc và tham đắm nữa.

Đó thì mỗi cái như vậy gọi là Như ý túc. Như ý túc, Tuệ Như ý túc. Cái tuệ của mình, mình muốn như thế nào thì nó phát triển như thế ấy, cũng như các con ngồi đây, các con quán Vô lậu này, các con bảo này, cái tri kiến giải thoát phóng ra để xem coi cái thân này vô thường như thế nào? Ngồi hoài mà nó không phóng ra nổi, giờ hổng biết nó làm sao vô thường? Cái tóc nó đã bạc trên đầu rồi mà nó cũng không biết làm sao nó bạc nữa? Thì như vậy là các con có thấy nó phóng được không? Như vậy nó không có phóng, phải không? Còn như Thầy bảo cái nó phóng liền, à nó biết từ chân đến đầu như thế nào thế nào? Tức là cái tuệ nó phóng ra, đó là Tuệ Như ý túc. Cho nên bốn cái Như ý túc đó, Dục như ý túc là muốn sao nó làm vậy. Rồi cái Định như ý túc này, mình muốn nhập Định sao nó nhập vậy. À rồi cái Tinh tấn như ý túc này, thì cái sự siêng năng của mình, mình muốn siêng năng sao nó siêng năng như vậy, nó không có lười biếng nữa. Rồi bây giờ đến Tuệ như ý túc, cho nên nó đủ bốn Tứ Như Ý Túc.

Đó thì các con thấy khi một người mà đủ bốn Như ý túc rồi thì người ta làm cái việc gì thì người ta sử dụng cái việc làm đó. Cho nên Thầy mà soạn mà viết cái Giáo án này, thì sử dụng cái Tuệ Như ý túc mình rất nhiều. Có nhiều cái đâu có ai mà biết trước được cái này, nhưng mà khi đó mình phải sử dụng cái Tuệ Như ý túc. Cho nên nghe nói Tứ Như Ý Túc thì hầu như người ta nói cái này khó mà có ai biết được hết, nhưng mà Thầy thấy có khó gì đâu, chỉ cần cái thân mình nó định, cái tâm mình nó định là mình dễ dàng phát triển ra được à. Các con cố gắng nó không định các con lấy dây cột thì nó định rồi, trói nó cứng nó đừng nhúc nhích thì nó định chứ gì? Còn mình để nó nhúc nhích hoài nó định cái gì, nó làm sao nó định. À, bây giờ trái tim nó đập, ta lấy cái dây trói trái tim cho nó đừng đập, thì nó không đập thì nó không nhúc nhích thì cái thân nó định chứ gì? Bây giờ mình trói không được nhưng mà rồi mình cố gắng mình trói nó đi. À, thì như vậy các con thấy không? Mình muốn cho nó định thì lấy dây cột, cột riết thôi, nó đứng lại nó định, mà nó định được thì mình sai nó sao cũng được hết, phải không?

Thầy cũng do cái chỗ mà trói nó được rồi bây giờ nó mới định được, bây giờ mới sai nó làm được cái chuyện này. Chớ cở mà trói nó không được thì đâu có làm được cái chuyện này. Bây giờ muốn nghỉ nó làm sao đây, nó Như lý tác ý tác làm sao đây, nó đâu có ra được. Còn bây giờ Thầy bảo cái Tuệ Như ý túc như cái lý tác ý thì làm sao đây, mày phải nói ra cho tao biết, tao làm sao tao biết được? Mình dạy nó vậy cái bắt đầu ở trong nó nói: à, Tuệ Như ý túc là nó như thế này thế này thế này. À, Thầy phải làm như vậy như vậy đó thì đúng, nó biểu Thầy làm như vậy, cho nên Thầy làm cái nó đúng quá rồi. Các con làm đúng cái pháp tu. Đó là tại vì Thầy sai được cái trí tuệ của mình, bắt buộc nó làm việc.

À, bây giờ Thầy trả cái tập này cho Minh Cảnh. Rồi bắt đầu bây giờ các con nghe băng, Thầy nghỉ một chút.

Khi mà chúng ta muốn có một cái trí tuệ mà ở trong kinh sách Phật thường gọi là cái Đại Minh Lực, Đại Oai Lực, rồi Đại Thần Lực và cái Đại Minh Lực. Nhưng nếu mà muốn cho có cái Đại Minh Lực, thì chúng ta phải có cái Đại Thần Lực, mà Đại Thần Lực tức là cái sức Thiền định, phải thân định ở trên tâm và tâm định ở trên thânthì lúc bấy giờ mới có cái Đại Minh Lực. À, Đại Minh Lực tức là Tuệ lực chứ không phả gì khác hết. Như vậy, thí dụ như hồi ở đoạn băng cũ Thầy có nói là khi mình muốn viết một cái bài để mình quan sát cái bài đó nó có cái pháp hành như thế nào? Thì lúc bây giờ chúng ta phải giữ cái thân và tâm của chúng ta ở trên cái yên lặng của một cái Định. Mà trong cái Định đó chúng ta có cái quyết định là chúng ta sẽ ở trong cái Định đó chúng ta tìm cái trí tuệ, cái Đại Minh lực. Thì lúc bấy giờ cái trí tuệ chúng ta nó phát triển ra. Thì nó biết rằng cái pháp đó phải sử dụng cái hành như thế nào, áp dụng vào cái đời sống như thế nào để mà chúng ta thực hiện được tuỳ theo cái pháp đó mà chúng ta sống cho đúng theo cái pháp đó được cái giải thoát, làm chủ được sanh tử luân hồi. Cái vấn đề đó là cái vấn đề của cái người mà có Thiền định. Còn cái người mà chưa có Thiền định thì dù chúng ta muốn phóng cái tri kiến giải thoát đó chúng ta cũng phóng không được, mà phóng ra cái đại Minh lực đó cũng không được. Chỉ có những cái người mà người ta đã có một cái sức Thiền định, nghĩa là Tứ Như ý túc đó. Mà trong cái phần mà Tứ Như ý túc thì Định Như ý túc, nghĩa là người ta muốn Định như thế nào là người ta Định liền. Còn mình muốn định, ngồi thiền mà nhập định thì nó không phải đơn giản đâu, bởi vì nó chưa có Tứ Như ý túc. Còn cái người mà đã có Định Như Ý Túc, tức là người ta có cái sức định mà muốn lúc nào cũng được, nghĩa là muốn trong cái thời gian ngắn hoặc là dài tuỳ theo cái người đó.

Cho nên thí dụ cái người đó mà người ta đủ cái sức mà Định Như Ý Túc rồi, thì người ta bắt cái thân và cái tâm nó phải Định trên nhau, rồi chừng đó người ta mới dùng cái Tuệ lực, cái Đại Minh Lực, thì cái Đại Minh lực nó sẽ phát hiện ra, tức là cái Tuệ lực nó sẽ phát hiện ra. Mà nó phát hiện ra thì nó nhìn qua cái Giáo pháp của Phật đó, nó thấy rõ được cái pháp hành, cái pháp hành rất là rõ ràng và cụ thể. Từ đó nó sắp xếp lại cái thứ tự phải tu cái nào trước, phải tu cái nào sau. Cũng như, từ lâu đến giờ người ta chưa có dạy bốn cái chỗ niệm Phật mà hôm nay Thầy dạy cho bốn cái chỗ niệm Phật này, thì tức là Thầy phải trải qua một cái Đại Thần lực, tức là phải ở trong cái sức yên lặng của thân và tâm của mình rồi từ đó mới phát triển ra, mới thấy à như vậy Phật dạy có bốn cái chỗ niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới, như vậy gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh. À, cái danh từ Tứ Bất Hoại Tịnh từ lâu thì người ta chỉ hiểu qua cái danh từ chứ người ta chưa có hiểu qua cái pháp hành.

Hôm nay chúng ta đã học tới cái giai đoạn là chúng ta lấy Pháp mà niệm Phật, do vì vậy mà Thầy mới nói rằng, khi một cái người mà có thân định trên tâm mà tâm định trên thân thì chúng ta mới thực hiện Tứ Như ý túc được. Mà khi thực hiện được Tứ Như ý túc thì chúng ta phát triển được cái Tuệ lực, cái Tuệ lực của chúng ta. Mà phát triển được cái Tuệ lực của chúng ta thì những cái Pháp hành nào ở trong cái Giáo lý của đạo Phật thì chúng ta đều thông suốt hết, không có cái Pháp hành nào mà chúng ta không thông suốt. Mặc dù ở trong kinh của Phật chỉ đơn giản nói một vài chữ, nhưng chúng ta đã hiểu được cái Pháp hành đó nó sẽ ở cái mức độ nào và phải tu tập và quán xét như thế nào để nó thực hiện qua cái Pháp hành.

À, ở đây một lúc nữa Thầy sẽ trở lại cái Pháp hành thứ 11, tức là pháp Tham hận, còn bây giờ thì Thầy sẽ trả lời cho quý thầy qua cái chỗ thưa hỏi của thầy Thiện Thuận:

Hỏi:

Kính bạch Thầy, xin Thầy hoan hỷ hướng dẫn dạy cho chúng con vài câu trạch pháp để hướng tâm xả các loại Tưởng?

Đáp:

Ở đây thì Thầy đã từng dạy qua cái bài mà “Tẩu hoả nhập ma”. Vừa rồi Thầy có phân tích cho quý thầy thấy đó, nó có 16 cái loại Tưởng chứ không phải là 6 loại Tưởng. Nhưng hôm nay trên bước đường mà chúng ta tu tập, thường thường là chúng ta gặp sáu cái loại tưởng. Vì vậy mà khi cái người tu nhập được Nhị thiền, diệt được tầm tứ rồi, mà tiến bước ở trên con đường này để nhập tới Tam thiền, thì cái quãng đường này để mà nhập được Tam thiền thì sáu cái loại Tưởng này thường hay xuất hiện, do sáu cái loại Tưởng này xuất hiện làm cho cái người tu khó mà nhập được Tam thiền. Thường là rơi vào trong các loại tưởng này. Vì vậy mà thầy Thiện Thuận xin Thầy cho một cái câu pháp hướng để loại trừ, xả các cái loại Tưởng đó. Do Thầy thấy cái câu hỏi thích nghi, hợp thời, giúp cho những người tu Thiền sau này. Vì vậy mà Thầy ghi lại cho những cái Pháp hướng này.

1. Sắc tưởng

Sắc tưởng thì như là hào quang, ảnh Phật và các hình ảnh Tổ, cũng như là các cảnh giới núi non rừng rú hoặc là hang động mà chúng ta ở đây mà chúng ta ngồi thiền mà chúng ta thấy hiện ra những cảnh giới đó hoặc là thấy cảnh cõi trời Đâu Xuất, hoặc là thấy cảnh Cực Lạc, hoặc là thấy Đức Phật Di Đà, hoặc là thấy hào quang ánh sáng hoặc thấy hoa sen...v.v. À, tất cả những cái Sắc tướng đó mà trong khi chúng ta ngồi đây mà chúng ta thấy được những cái hình ảnh đó, thì đó gọi là Sắc tưởng.

“Sắc tưởng là hình ảnh của ảo giác thể hiện ra không phải là chánh pháp, phải đi đi, đừng ở trong ta, đừng ngự trị trong khi ta đang luyện tập tu thiền”.

Đó là cái câu Pháp hướng thứ nhất để chúng ta đuổi cái Sắc tưởng ra khỏi cái nơi mà chúng ta tu tập, nhưng khi mà chúng ta đuổi nó đi như vậy đó, thì chúng ta phải hướng tâm:“Sáu cái Thức phải bám chặt vào tụ điểm, ôm chặt hơi thở, không được tách lìa ra, không được theo sắc tướng đó”.Thì mình phải hướng tâm nhắc nó. Mặc dù là nhắc Sắc tưởng phải đuổi đi mà cũng phải nhắc tâm mình - sáu thức phải bám chặt tụ điểm, ôm chặt chứ không khéo sáu thức của mình nó sẽ duyên theo cái Sắc tưởng mà nó cho đó là đúng, rồi chừng đó chúng ta sẽ lạc vào tà thiền chứ không có chánh đạo được. Và cũng vì thế mà hầu hết số người mà tu thiền định gặp những cái nơi này, gặp những cái Sắc tưởng này họ cho đó là cảnh giới mà họ đã đạt được, rồi họ sẽ rơi vào cái cảnh giới ma chứ không phải là nhập được mà Tam Thiền.

2. Thinh tưởng

Về cái phần thứ hai gọi là Thinh tưởng, là âm thanh do ảo giác sanh ra không phải là chánh pháp mà là tà pháp. Ta đừng lưu ý đến âm thanh ấy, đây là câu ám thị đây:

“Thanh tưởng là một loại âm thanh do tưởng uẩn sanh ra, nó là loại ma khiến ta mất Chánh định, hãy đi đi.  Tâm không được chú ý đến nó, hãy bám chặt tụ điểm và hơi thở”.

Đó là cái câu ám thị để chúng ta nhắc để mà chúng ta bám cho chặt cái hơi thở để mà lìa xa cái âm thanh đó. À, hầu hết là có một số quý sư như nhà sư Ajahn Chah đã nghe âm thanh nổ ở trong đầu của mình và nghe những cái trạng thái mà thay đổi ở trong thân tâm của mình rút vào và nhả ra. Đó là những cái trạng thái thuộc về Thinh tưởng cũng như là những cái trạng thái đó gọi là Xúc tưởng mà Ngài tưởng đó là cái chỗ nhập định của Ngài. Cho nên cuối cùng thay vì Ngài tu theo bốn Thiền của Phật thì Ngài phải nhập Tam Thiền, Tứ Thiền. Đằng này ngài tới đó Ngài tưởng ngài đã thành tựu được Đạo, cho nên Ngài mới đem ra Ngài quán đi, Ngài dùng cái quán đi. Và Ngài dạy người ta ở trên cái cuốn sách “Mặt hồ tĩnh lặng” đó. Thì Ngài dạy người ta tu Thiền để tự nhiên mà vào mà trong khi Phật dạy chúng ta:Phảithiện xảo mà nhập Định, mà thiện xảo an trú trong Định, thiện xảo sống trong Định, rồi thiện xảo xuất Định, chứ không phải để tự nhiên mà vào.Cho nên qua những cái bài mà Ngài dạy ở trong cái cuốn sách của Ngài và cái hồi ký tu hành của Ngài thì đương nhiên là Ngài chỉ mới có ở trong cái chỗ là diệt tầm tứ, chưa được đi qua cái lộ trình của Tam thiền mà Ngài đã cho rằng mình đã nhập được Thiền định.

Cho nên đó là cái sai của người sau, không thấy được cái lộ trình của Bốn Thiền nó rõ ràng và cụ thể. Cho nên cứ tưởng rằng mình đã đạt được. Vì vậy có một nhà sư ở bên Miến Điện, Ngài tu nương vào cái hơi thở, thấy cái bụng mình phình lên xẹp xuống rồi cứ theo đó mà nhắc phình lên xẹp xuống. Thế rồi sau thời gian nhiếp tâm ức chế vọng tưởng bằng cách mà dùng cái hơi thở như vậy rồi Ngài sanh ra một cái pháp gọi là ‘Minh sát tuệ’, để rồi từ đó hướng dẫn người sau này cũng chẳng ai biết Thiền định của Phật như thế nào đúng, như thế nào sai?

Bởi vì ngay từ lúc đầu mà chúng ta tu hành để ly dục ly ác pháp thì chúng ta đã dùng những cái Pháp quán, chúng ta đã suy tư thấu triệt để dùng những cái tri kiến và đến cái tri kiến giải thoát để phá dỡ Ngũ triền cái và Thất kiết sử, đặt xuống tất cả để cho lậu hoặc không còn nữa. Do thế chúng ta mới ly dục, ly ác pháp mà chúng ta mới nhập được Sơ Thiền.

Chứ không phải đợi khi mà có Định rồi thì bắt đầu từ cái chỗ hết tầm tứ rồi thì mới dùng cái pháp quán, điều đó là cái sai của đạo Phật.

Ngay từ lúc đầu chúng ta đã thân cận bậc Thánh, thân cận các pháp Thánh, thân cận các bậc Chơn nhơn, thân cận các Pháp chơn nhơn, do đó chúng ta có một cái tri kiến chúng ta hiểu biết cái pháp của chơn nhơn, cái pháp của bậc thánh như thế nào? Chừng đó mà chúng ta mới đem những cái Pháp này ra để chúng ta quán trạch về cái Thân – Thọ - Tâm - Pháp của mình, thân ngũ uẩn của mình, tất cả các Pháp ở trong thế gian này vô thường, khổ, không, vô ngã như thế nào? Từ đó chúng ta phát triển thêm cái tri kiến giải thoát của chúng ta, làm chúng ta thấu suốt được cái lý vô thường vô ngã của nó, cái lý mà khổ của nó rất là sự thật, không còn sai nữa. Do đó mà chúng ta mới phá dỡ cái lậu hoặc của tâm của mình. Chừng đó chúng ta mới thấy rằng cái con đường mà quán xét không phải đợi chúng ta diệt tầm tứ ức chế tâm mình hết vọng tưởng rồi mới là quán xét, không phải điều đó đâu.

Cho nên một cái nhà Thiền học ở Trung Hoa, ngài Thiên Thai, ngài mới đẻ ra cái pháp môn “Lục diệu pháp môn”. Ngài mới nghĩ rằng Sổ, Tuỳ, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh. Nghĩa là Ngài phải sổ tức để mà ức chế cái tâm của Ngài rồi bắt đầu Ngài nương theo hơi thở để mà chỉ tầm và tứ. Do đó Ngài được chỉ, từ cái chỗ chỉ đó Ngài mời quán ra, do đó Ngài cũng đi sai.

Vì do cái sự ức chế tâm mà quán ra thì chúng ta sẽ trở thành, cái ức chế tâm đó nó sẽ trở thành cái Pháp tưởng và cái Pháp tưởng quán ra tưởng là mình xong. Không ngờ ngay từ lúc đầu mà cái vị tu sĩ của đạo Phật, đức Phật đã bảo đi ra cái đồng mã xem cái thây ma sình hôi thối rồi mới trở về đặt cái niệm thây ma đó trước mặt rồi tưởng ra, quán cái thây ma đó để mà lật bề trái của cái thân của chúng ta. Cái thân và cái tâm của chúng ta xem nó là bất tịnh thật sự như vậy. Như vậy làm cho chúng ta mới xa lìa cái ngã, làm chúng ta mới không còn chấp cái thân này là thật, cho nên chúng ta mới xả bỏ nó đi, làm cho Lậu Hoặc chúng ta mới quét sạch.

Chứ đâu phải là Phật dạy chúng ta phải ức chế tâm cho hết vọng tưởng rồi, chỉ rồi bắt đầu mới quán, thì như vậy các ngài mới đẻ ra cái Thiền minh sát tuệ này thì đúng. Nhưng mà bây giờ đẻ ra như vậy là chúng ta đã thấy lệch lạc cái con đường của Phật pháp rồi. Và thiền sư của Trung Hoa - ngài Thiên Thai cũng đã đi làm lệch lạc mất cái con đường của đạo Phật rồi, không đúng.

Ngay từ lúc đầu Thầy sẽ dạy cho quý thầy tu phải đặt cái niệm để mà quán, từ cái Tỉnh thức để cho quý vị đặt cái niệm nó mơi sáng suốt ra. Nó làm cho quý vị phá đi từng cái mảnh nhỏ của lậu hoặc ở trong thân tâm của quý vị. Từ đó quý vị mới có ly dục ly ác pháp. Cho nên tâm quý vị mới được thanh thản, mới được vô sự. Tiến tới thì quý vị mới tịnh chỉ tầm tứ, mới nhập Nhị Thiền. Ở đây thì chưa có gì thì quý vị cứ lo tịnh chỉ tầm tứ để nhập Nhị thiền mà trong khi Sơ thiền thì ê chề. Nhìn cuộc sống của quý vị thì chạy theo dục lạc ăn uống, một ngày hai ba bữa, ngủ nghỉ thì không đúng giờ giấc. Còn tham ăn tham ngủ, còn tham Chùa to Tháp lớn. Thì thử hỏi quý vị làm sao mà ly dục ly ác pháp được, mà gọi là ức chế tâm mình để rồi minh sát ra để làm cho sự giải thoát. Thì như vậy là đi ngược lại con đường giải thoát của đạo Phật mất rồi, đâu có đúng cái hạnh của đạo Phật.

Cho nên nhìn chung, Phật giáo trên thế giới bây giờ không có ai chứng đạt được sự giải thoát thực sự là tại vì sống không đúng cách, sống không đúng cách của giới hạnh của Phật, của giới đức của Phật. Cho nên cái người tu nó đã lệch mất, vì vậy mà con đường giải thoát nó cũng bị chôn vùi.

Do cái sự Thinh tưởng này mà người ta tưởng mình đã chứng Đạo, do ngồi Thiền nghe âm thanh, nghe trong đầu có tiếng nổ, nghe cả vũ trụ này như tan tành. Tất cả những cái sự thay đổi trong thân của chúng ta trong thân của chúng ta như là vừa rồi như thầy Thiện Thuận có nói là nó sôi lụp bụp ở trong thân, nó sôi lụp bụp như vậy, tất cả những cái điều này hoàn toàn thuộc về Thinh tưởng.

Khi mà chúng ta nghe có những cái tiếng động mà trong thân của chúng ta xảy ra điều này, thế kia thì chúng ta biết nó là Thinh tưởng. Khi ngồi thiền nhiếp tâm không còn vọng tưởng mà lại nghe cái tiếng động ve ve trong tai chúng ta, hoặc nghe tiếng đức Phật Quán Thế Âm dạy pháp chúng ta phải tu như thế này, phải phản văn tự tánh như thế kia, thì cái này toàn là cái loại ma, không phải thật là Quan Âm hay là Tổ hay là ai dạy chúng ta hết, đó toàn là Thinh tưởng, do cái Tưởng, cái Thinh tưởng của chúng ta mà phát ra âm thanh đó mà thôi, chúng ta hãy dẹp đi.

Có nhiều người họ lại còn dùng cái Pháp tưởng họ ngồi im lặng rồi họ đặt một cái câu kinh nào đó mà họ không hiểu, họ mới tự hỏi vậy câu kinh này cái nghĩa như thế nào? Rồi họ ngồi im lặng đó, bắt đầu từ ở trong cái Pháp tưởng xuất hiện ra, do đó họ hiểu được cái lý của câu này hoặc là Công án của câu đó. Do đó họ nói rằng họ đã ngộ và có một cái trí tuệ. Đây là cái trí tuệ ma, cái trí tuệ của Pháp tưởng, chứ không phải là của cái người mà có trí tuệ thật của đạo Phật.

Đó thì gặp cái trường hợp mà Thinh tưởng đó, thì quý thầy dùng cái pháp này mà đuổi nó đi, tống cổ cho nó ra khỏi, đừng có theo nghe âm thanh đó mà ngồi đó mà hưởng cái âm thanh đó thì nó sai. Đừng có cho âm thanh đó là đúng mà đó là cái loại ma mà chúng ta cần phải vượt qua. Vì vậy mà Phật gọi là “ly hỷ mà trú xả”. Bây giờ chúng ta trú xả là trú ở đâu? Tức là chúng ta phải trú ở cái hơi thở của chúng ta để mà bám chặt đó để mà vượt qua tất cả những cái trạng thái mà trạng thái xảy ra của sáu cái loại Tưởng này. Nó làm cho mỗi trạng thái đến, nó làm cho chúng ta có cái tâm vui mừng ở trong đó. Vì có những cái sự vui mừng đó, cho nên Phật gọi là ly hỷ, ly cái trạng thái mừng đó, tức là Sắc Thinh Hương Vị Xúc Pháp đó, chứ không phải ly cái mừng mà ly cái trạng thái Tưởng đó, cái trạng thái nó làm cho chúng ta có cái niềm vui mừng ở trong đó. Cho nên đức Phật gọi là ly hỷ mà nhập Tam thiền. Đó, mà ly hết cái trạng thái này thì chúng ta đã nhập Tam thiền. Còn nếu mà ly chưa hết thì chưa có nhập Tam thiền. Cho đến khi mà chúng ta ly, ly đến cái mức cuối cùng mà chúng ta không còn chiêm bao nữa thì như vậy đó là chúng ta mới trọn vẹn mà nhập Tam thiền. Còn một người tu sĩ mà còn chiêm bao thì đừng có mong mà rớ tới Tam thiền.

3. Hương tưởng

À, Bây giờ chúng ta tiếp tục tới cái Hương tưởng. Hương tưởng là một cái loại mùi thơm của Tưởng uẩn sanh ra, nó không phải là chơn pháp, toàn là tà pháp. Người tu sĩ cần phải đề cao cảnh giác và dùng Pháp hướng, để mà tiêu diệt nó, để mà dứt trừ nó. Một cái người ngồi thiền ở xung quanh chúng ta không có cái mùi thơm, không có một cái bông hoa nào hết, bỗng nhiên nghe cái mùi thơm phảng phất, rồi chúng ta nói: à, như vậy thì mình nói chắc có lẽ là có Chư thiên rồi, có Phật xuống chứng rồi, cho nên mình ngồi thiền không có vọng tưởng đây chắc là có trời Phật có Chư thiên xuống chứng minh rồi đó. Cho nên cái mùi thơm này là mùi thơm của Chư thiên đây, do cái chỗ đó là cái chỗ bị ma gạt chúng ta rồi. Cho nên nghe cái mùi thơm mà ở đây không có hoa, không có bông, không có nước hoa, không có gì hết mà lại có mùi thơm này, thì chúng ta biết đó là cái Hương tưởng.

Cho nên chúng ta cảnh giác, từ đó chúng ta bám chặt cái tụ điểm hơn và nương vào cái hơi thở mạnh hơn để không cho cái tâm của chúng ta duyên qua cái mùi thơm đó. Vì cái mùi hương đó nó sẽ tác động làm cho tâm chúng ta duyên theo nó, mà làm cho chúng ta mất Định đi, do vì vậy mà nó dẫn chúng ta đi vào một cái Định của Tưởng, không còn là ở trong cái Định chơn thật của cái Định mà chúng ta đang tu tập. Đây là cái câu trạch pháp:

“Hương tưởng là mùi thơm của ảo tưởng sanh ra khiến tâm ta mất chánh định, hương tưởng hãy đi đi, tâm không được chú ý theo nó, hãy bám chặt vào tụ điểm và hơi thở, nhất là tỷ thức (lỗ mũi) phải nằm yên lặng, không có được nghe cái mùi hương đó nữa”.

Chúng ta phải hướng tâm mà nhắc nó và đồng thời cũng kêu gọi cái tỷ thức của chúng ta phải nằm cho yên ở trên cái tụ điểm, và đồng thời khi mà chúng ta hướng tâm như vậy mà không nghe cái mùi hương nữa, tức là chúng ta đã chiến thắng được cái loại ma đó rồi.

Đó, như vậy là chúng ta đã thành tựu được, đuổi được cái loại ma này, còn nếu không thì chúng ta bị nó dẫn chúng ta đi, nó xỏ mũi chúng ta đi.

4. Vị tưởng

Thứ tư là Vị tưởng, là do một vị ngon ngọt xuất hiện nơi vị căn của chúng ta, đây là một loại ảo giác tà pháp, không phải là chánh pháp, ta hãy xa lìa, không nên lưu ý nó.

Có nhiều người nói tôi ngồi thiền bắt đầu sao tôi ra nước miếng (nước bọt) mà nuốt vào sao nghe nó ngọt, nó ngọn như nước Cam lồ vậy. Có lẽ là hôm nay ta tu nó sanh ra Cam lồ rồi. Nuốt ba cái thứ này vô chắc có lẽ nó trường thọ đó, cho nên ráng mà nuốt nước miếng, nuốt riết cho nên cái bụng chang bang ra, mà cuối cùng thì nó chẳng phải là cam lồ gì hết, mà ba cái Vị tưởng mà nó xuất hiện. Cho nên cái vị này ngồi riết, ngồi riết rồi nuốt ba cái nước miếng dơ bẩn đó mà đầy bụng của mình, tưởng là ngon, nhưng mà cuối cùng thì bị cái ma cái Vị tưởng này nó đã gạt lướt.

Cho nên cuối thì cũng có nhiều người về đây nói với Thầy, sau cái thời gian mà con ngồi con tụng kinh Pháp Hoa, sao lại có lúc nước miếng ở trong con, con nuốt sao nghe nó ngọt quá chừng. Như vậy là trong kinh Pháp Hoa nói là Cam Lồ đã xuất hiện rồi, người mà tụng kinh Pháp Hoa đến cái mức mà cái nước miếng ngọt. Đó là cái người đó sắp sửa được sanh về cái cõi trời hoặc là cái cõi Phật nào đó chứ không phải là còn thường nữa. Đó là những cái vị mà người ta đã tụng kinh Pháp Hoa mà người ta đã có những cái kết quả đó. Còn gặp Thầy thì cái loại này là cái loại ma, nó gạt người ta chứ chưa có thực sự là được sanh lên cõi nào hết. Cho nên cuối cùng thì những vị này, khi mà bỏ thân họ, Thầy thấy dường như họ cũng quá đau khổ, không có cái sự giải thoát nào, cũng không có sự làm chủ nào cho cái sự tưởng tượng của họ như vậy.

Cho nên ở đây chúng ta phải dùng cái câu pháp hướng này để mà trị cái Vị tưởng:

“Vị tưởng là một ảo giác sanh ra ngon ngọt nơi lưỡi khiến cho chúng ta thích thú, ưa mến, khiến cho ta mất Thiền định. Vì thế Vị tưởng hãy đi đi, tâm ta không được lưu ý đến nó nữa. Hãy bám chặt tụ điểm và hơi thở, không được lơ lỏng theo Vị tưởng”.

Đó là chúng ta phải ra lệnh và cấm sáu thức của chúng ta phải bám cho chặt, không có được theo cái chỗ đó nữa. Mặc dù bây giờ nước miếng chúng ta đang tiết ra cái mùi ngon ngọt như thế nào chúng ta cũng chẳng lưu ý đến nó nữa. Đó là cái phần mà chúng ta diệt cái Vị tưởng. Đó là cái phần thứ tư.

5. Xúc tưởng

Xúc tưởng là phần thứ năm, là một cảm giác khinh an hỷ lạc, khiến ta thích thú ưa mến và khiến ta mất Định. Xúc tưởng là một loại tà pháp gây mê thích say đắm cho người tọa thiền. Cho nên cái người mà gặp cái trạng thái hỷ lạc hay khinh an thì họ thường là nhúc nhích thân, họ động hoặc là ngước ngước lên như này, hoặc là họ động cúi cúi xuống như này. Mỗi lần mà có cái hành động ngước lên hay cúi xuống như vậy đó, họ nghe cái trạng thái nó làm cho thích thú họ. Tức là một cái người tu thiền mà gọi là ly dục mà sanh hỷ lạc thì không có nghĩa là có một cái trạng thái nào thích thú nào ở trong đó hết thì mới gọi là ly dục. Còn cái này nó làm cho chúng ta thích thú, làm chúng ta thấy nó sảng khoái, êm ả, làm chúng ta rất là ham thích. Mỗi lần ngồi thiền mà có những cái trạng thái đó thì chúng ta nói khoái thiệt, ngồi thiền như vậy là thích thiệt. Vậy thì thôi đi ra tiệm kia ăn hủ tiếu đi cho nó còn thích hơn, còn sướng hơn là ngồi thiền. Ngồi thiền chi cho đau chân mà đi tìm cái chuyện cực khổ như vậy.

Cho nên ở đây Thầy nói thực sự ở thế gian người ta cũng có những cái dục lạc như vậy. Mà bây giờ ngồi thiền mà cứ đi tìm cái đó, thì cái người này thiệt là chưa có biết cái chỗ mà ly dục, ly ác pháp để mà chúng ta có một cái trạng thái do ly dục sanh cái hỷ lạc. Cái hỷ lạc của những bậc Thánh, của những bậc chơn nhân thì nó đâu phải là cái hỷ lạc của cái phàm phu tục tử như vậy. Ngồi đó mà gục gù gục gù cũng như con cu mà gáyđể mà thưởng thức những cái an lạc đó thì có thấm nhò gì với cái chuyện mà ở đời người ta chạy theo cái dục lạc thế gian đâu. Người ta uống cái ly rượu người ta cũng gật gù, người ta hút cái điếu thuốc người ta cũng gật gù, người ta kéo một cái điếu thuốc phiện người ta cũng gật gù người ta cũng sảng khoái người ta, thì mình ngồi thiền cũng gật gù gật gù thì thử hỏi có phải giống như vậy không?

Cho nên có một nhà sư viết ở trong một cái bài báo làm cái người ngồi thiền cũng như là một cái người mà hút thuốc phiện, nó cũng là sảng khoải như vậy hết, thiền nó cũng thích thú như vậy. Thiệt ra đó là cái thứ thiền dục lạc, cái thiền tà chứ đâu phải cái thiền của Phật. Thiền của Phật thì phải ly tất cả những trạng thái làm chúng ta thích thú đó chứ. Thế mà vị Thiền sư đó cũng gọi là Thiền, thì thật ra cả thế giới đăng cái bài báo đó mà Việt Nam chúng ta cũng trích dịch ra mà đăng trong cái báo Giác Ngộ. Thầy đọc Thầy thấy mắc tức cười, cái chuyện mấy ông thiệt là chưa biết thiền định, cho nên ông này đạp cứt thì ông nào ông nấy cũng đạp theo thối cả đám hết mà không thấy thối.

Đó là cái sai, mà cái sai của người này dẫn dắt tới người kia cũng là cái sai, tưởng đâu là ngồi thiền cũng như hút thuốc á phiện vậy đó. Khoái như vậy đó, lâng lâng cũng như đi vào cõi tiên như vậy đó, thì cái đó là cái tầm bậy. Ở đây là bị cái Xúc tưởng hỷ lạc sanh ra những cái trạng thái điên khùng đó cho nên tưởng đâu là đúng. Ai ngờ đâu chỉ ức chế tâm không vọng tưởng rồi bắt đầu từ đó nó sanh ra những cái trạng thái điên khùng đó. Chạy theo những cái tâm ham muốn phàm phu tục tử chứ đâu phải là thiền của những bậc Thánh.

Cho nên ở đây chúng ta nên làm cái câu pháp hướng này để mà chúng ta đuổi cái Xúc tưởng này ra khỏi cái tâm chúng ta để chúng ta tiến tới con đường nhập Tam thiền:

“Xúc tưởng là một loại hỷ lạc ma, ta hãy đuổi nó đi ra khỏi tâm ta, xúc tưởng hãy đi đi ta không chấp nhận ngươi. Ta phải bám chặt tụ điểm và hơi thở đoạn dứt chúng tức khắc, không được theo trạng thái này nữa”.

Đó thì chúng ta phải dùng pháp hướng đó và nhắc cái tâm của chúng ta. Thỉnh thoảng chúng ta còn nghe cái cảm giác hỷ lạc, cái thân chúng ta còn hơi rung động theo cái kiểu gật gù cũng như người hút thuốc phiện cũng như cái thằng uống rượu mà nó gật gù gật gù cái kiểu nó thấy thích thú đó, thì chúng ta cũng nên chấm dứt cái đó đi. Còn không thì đứng dậy mà đi kinh hành chứ đừng có ở đó mà thưởng thức theo cái kiểu thế gian đó.

6. Pháp tưởng

Sáu là Pháp tưởng.Đây là cái Pháp mà hầu hết là thiên hạ vỗ ngực xưng tên tưởng mình là tiểu ngộ, đại ngộ đây, đó là cái Pháp tưởng đây. Pháp tưởng là một cái loại tà pháp do tưởng giải tạo ra, người ngu si mê muội cho đó là trí tuệ phát triển, nên ngộ lần lần những câu kinh tưởng, những câu công án của thiền Đông độ. Họ cho sự hiểu biết đó là tiểu ngộ, khi nào họ ngộ hết những công án là họ cho đó là triệt ngộ. Không ngờ họ bị Pháp tưởng lường gạt, biến họ thành ma hí luận trong đạo Phật.

Bởi vì những cái này đều là họ dùng những công án họ hỏi tới hỏi lui họ hét họ la như Lâm Tế chẳng hạn. Họ bị cái ma hí luận của họ rồi, bởi vì Phật nói đó là cái thứ hí luận nói cái này nói cái kia làm như là Trời là Phật vậy đó. Coi như người ta không hiểu, biết cái ý mình muốn gì hết. Chứ sự thật ra cái điều đó là cái điều hí luận ở trong cái đạo Phật, đức Phật đã chỉ cho chúng ta biết. Cái điều đó là cái điều giả dối gạt người chứ không phải thật là cái chỗ Phật pháp. Cái chỗ Phật pháp phải đơn giản, cụ thể, thực tế; biết áp dụng vào là có sự giải thoát ở nơi thân tâm của người ta.Chứ đâu phải hí luận trên trời mây xanh đó, mà để la, để hét, để đập, để bằng những cái lời mắng đó để mà nói những ý gì sâu xa ở trong đó, gọi là Phật, gọi là pháp, gọi là Thánh gì ở trong đó. Đó là những cái lí luận của những kẻ hí luận chơi, chứ không phải là cái chỗ giải thoát.

À, thuyết giảng mơ hồ, đời sống thì phá phạm hạnh, phạm Giới luật, họ thì họ nói triệt ngộ, họ nói công án này công án kia. Họ thầy trò đối đáp nhau như là, coi như là không có cần mà phải dùng cái trí suy nghĩ. Người này nói người kia đáp, kẻ hỏi đông người đáp tây, kẻ hỏi bắc người đáp nam. Nó không ăn nhập vào đích mà thế mà họ cười họ nói đó là ngộ đạo. Bảo họ xách cái thùng thì họ xách cái rổ, gọi là vô phân biệt. Tất cả những cái này, nhìn vào cái đời sống của họ thì họ hí luận cái kiểu làm cái trò cười cho thiên hạ như vậy. Thế mà cái phạm hạnh của họ thì phạm giới luật, ngày thì ăn phi thời, tối thì ngủ ngáy khò khò chẳng có lo gì là giải thoát. Sống thì ở trên nhung lụa, sang cả như những nhà giàu có, thì nhìn cái cuộc sống của họ qua cái hí luận của họ thì chúng ta đã biết họ thuộc cái loại có giải thoát hay là không giải thoát. Ăn, uống, ngủ nghỉ, danh lợi, sắc họ không có bỏ một cái thứ nào hết trong năm thứ dục lạc của thế gian.

Pháp tưởng là thứ pháp tà ác, độc hại đã lường gạt người mà còn lường gạt chính bản thân của người ngộ Pháp tưởng. Nghĩa là chính cái người ngộ Pháp tưởng đó, tưởng mình là Thánh rồi, tưởng mình là Phật rồi tưởng mình thấy Phật tánh được rồi, tức là kiến tánh thành Phật được rồi. Nhưng mà cuối cùng thì thật sự ra họ chẳng có làm chủ được cái sống chết của họ chút nào được hết. Cho nên đến giờ phút ra đi thì ngài Thường Chiếu, Ngài cũng đã nói: “Ta chết như người thường chứ không thể nào mà như người khác được”.Ngài Pháp Loa khi sắp sửa chết Ngài rên hừ hừ hừ, ngài Huyền Quang mới hỏi: “Sao Hòa Thượng lại rên vậy? ” Thì Ngài biết nói làm sao cho đỡ mắc cỡ đây, nói: “Gió thổi qua khe trúc”. Gió thổi qua khe trúc là tại gió thổi qua cái bụi trúc, hai cây trúc nó nghiến nhau nó kêu chứ ông đâu có đau. Không đau mà rên à? Không có thọ, không tưởng mà rên được sao? Cái điều đó là cái điều che mặt người ta, lấy vải thưa che mắt Thánh. Chứ nếu mà không thọ thì ai làm sao rên, còn ông có thọ ông mới rên chứ, còn gió thổi qua cái bụi trúc làm sao có thọ ở trong đó. Mà hai cây trúc nó cọ nó kêu két két, thì ông cũng nói giống như ông rên cũng giống như là hai cây trúc kêu như vậy. Thì đó là ông che mặt người ta chứ, đâu có thực. Cho nên làm chủ được thì nói làm chủ, không làm chủ được thì nói không làm chủ, đừng có gạt người sau, để bịt con mắt người ngu chứ còn người trí thì không thể nào gạt được. Đó là những cái hình ảnh mà các Tổ Sư gọi là ngộ, mà cuối cùng trong cuộc đời của họ rất là đau khổ.

Pháp tưởng là một tà pháp, ở đây là câu trạch pháp đây:

“Pháp tưởng là một tà pháp không phải trí tuệ chơn thật của người tu sĩ chơn chánh. Nó là một loại ma hí luận, tranh chấp hơn thua cao thấp. Phải xa lìa nó, không chấp nhận nó. Pháp tưởng hãy đi đi, ta không tin ngươi là trí tuệ của đạo Phật. Ngươi hãy đi đi.”

Đó là chúng ta hãy đuổi nó đi, nó không phải trí tuệ của đạo Phật đâu. Cho nên cái người mà đã ngộ cái lí thiền, đã thấy Phật tánh luôn luôn họ gặp với nhau họ rống cái họng họ lên, họ nổi cái gân cổ họ lên họ cãi với nhau, họ tranh hơn tranh thua với nhau, không có chịu thua ai hết. Họ thậm chí như thấy cái người giữ Giới luật họ nói là cố chấp, họ còn chê bai người ta nữa. Nhưng mà họ có sống được không? Họ chưa ăn một bữa được, họ thấy người ta ăn một bữa họ nói cái đó là chấp giới. Rồi có nghe người ta nói cái người đó nhập được Định, làm chủ được cái sống chết nhập Tứ thiền tịnh chỉ được hơi thở, thì họ bảo rằng sở đắc. Người ta tu hành vô sở đắc còn cái thứ tu sở đắc đó mà ra cái gì.

Đó là những cái người ta khinh bỉ, khi một kẻ mà người ta làm được, mình chưa làm được thì mình lại, do là mình khinh bỉ. Cũng như cái ngài Hoàng Bá đi với một vị tu sĩ, khi vị tu sĩ đó đi ở trên mặt nước đi qua sông. Khi qua sông rồi thì vị đó mới quay lại kêu Hoàng Bá: “Anh hãy đi qua bên đây với tôi”.  Ông này đâu có dám lội xuống, lội xuống uống nước chết sao, cho nên nói: “Tôi biết anh mà đi được trên (mặt nước) tôi chặt chân anh rồi.”  Thì ông này quay lại ông cười mũi mà ông khen một cách rất là mỉa mai: “Thiệt là, anh là pháp khí Đại Thừa chứ Tiểu Thừa thì chắc chắn là tụi tôi phải đi ở trên nước được. Còn anh là pháp khí Đại Thừa không dám thọt chân xuống, sợ thọt chân xuống uống nước.”

Đó rõ ràng mà, cái câu chuyện này thật sự chứ đâu phải không. Ông đâu dám thọt chân xuống, sợ nó lút xuống dưới uống nước chết đi. Cho nên mới nói tôi biết anh bước vậy tôi chặt chân anh hồi nãy rồi. Ông này mới nói: “Thiệt là anh pháp khí Đại Thừa chớ còn người thường thì hông có dám vậy đâu”.  Đúng vậy đó, thật sự là mình tu chẳng ra gì hết, nói cái họng của mình thật là pháp khí Đại Thừa, khí đó thật là khí ở trên mây xanh chứ không phải khí ở dưới đất.

Đó là hôm nay Thầy nói như vậy để chúng ta biết những cái Pháp tưởng nó nguy hiểm lắm, mà cái người nào mà lọt trong cái vòng này, rống cái họng mà tranh với nhau dữ lắm chứ không phải thường đâu. Còn chúng ta là những người tu theo Phật phải tránh những cái hí luận này, ai có nói hơn nói thua gì, thì thôi chắp tay, tôi thua chứ tôi không có hơn đâu, tôi ráng mà tôi giải thoát cái tâm của tôi đây mà còn không được. Cho nên có lần Thầy về Thường Chiếu, các thầy bảo Thầy thị hiện thần thông Thầy nói:“Tôi tu hơi thở chưa xong ở đó thần thông gì? Hơi thở tôi nhiếp còn chưa hết, ở đó mà thần thông cái khỉ gì mà thần thông. Bởi vì tôi thua mấy ông hết rồi, tôi chỉ có nương hơi thở thôi, còn mấy ông thì hí luận quá trời rồi”. Thành ra, do đó mà Thầy chịu thua quý thầy hết. Vậy mà không có hí luận với ai hết.

Đó là một con đường tu tập, do vì vậy mà quý thầy phải sáng suốt để lìa xa sáu cái loại Tưởng này. Sau khi mà dạy đến tất cả những cái loại Tưởng khác Thầy sẽ nhắc nhở, vì thời gian chúng ta không còn có nhiều, cho nên chúng ta phải ráng mà cố gắng để học cho nó hết cái giới hành. Cái giới hành là 37 phẩm trở đạo và từ một pháp cho đến mười pháp, từ mười pháp cho đến trăm pháp mà Phật đã dạy chúng ta phải tu tập phải trau dồi phải dứt bỏ, phải tác chứng những cái pháp đó. Nó quá nhiều pháp. Cho nên đến đây mà chúng ta lấy thân mà niệm pháp đó, tức là lấy thân sống tùy nương theo pháp để sống đúng, nó không phải đơn giản đâu.

À, bắt đầu bây giờ chúng ta lấy pháp mà niệm Phật đây.

11. Pháp tham hận

Cái pháp niệm Phật thứ 11,là pháp Tham hận. Hận là lòng căm giận oán hờn sâu sắc đối với kẻ đã làm hại mình. Hận là giận hoài không nguôi, ôm ấp trong người, thấy cái người hại mình, sanh ra căm tức và oán ghét, thấy không muốn nói chuyện, không muốn gần họ. Hận là một pháp rất ác khiến cho người ôm hận phải triền miên, phải tùy miên là liên tục ở trong lòng của mình luôn luôn nó không có lúc nào có khoảnhkhắc nào màchúng ta an vui được mà tìm mọi cách mà để hại người đó cho được, giết người đó cho được, phải rửa hận mới được, mới thấy được an vui, chứ còn không thì nó còn tùy miên ở trong đó, nó kéo dài dài cái hận hoài ở trong lòng, đau khổ mãi mãi trong tâm, không nhớ thì thôi mà nhớ đến thì căm tức vô cùng. Nghĩa là lăm lăm chờ cái ngày nào đó mà rửa hận, nghĩa là hận nước thù nhà. Hận nước là bây giờ thí dụ đất nước của mình bị ngoại xâm nó cướp đi, nó đè đầu cưỡi cổ từng người dân của mình đi. Cho nên đó là mình hận nước. Còn thù nhà là giặc nó vô nó bắt gia đình, vợ con mình hoặc là cha mẹ mình, nó đem nó bắn nó giết đi. Đó là thù nhà. Do thù nhà này tôi mới đi đánh giặc, tôi mới đuổi giặc nó ra khỏi nước. Thì từ cái chỗ cái duyên đó mà có thể chữ “thù” này nó nằm ở chỗ cái cá nhân của mình, giúp người nào đó làm hại mình. Cho nên, từ đó cái tâm của mình nó luôn luôn ôm ấp cái sự trả thù, cái sự hận thù, cái sự căm tức nó không bao giờ rời. Cho nên cái pháp này mà nó đến với chúng ta, nó làm khổ chúng ta vô cùng, nó không bao giờ rời chúng ta khỏi nửa bước nữa.

Khi pháp hận này đến với tâm ta, ta phải lấy pháp này niệm Phật, pháp này gặp Phật thì tan vỡ ngay liền. Vì tâm Phật không bao giờ có hận thù ai. Hiểu biết như vậy tâm ta không còn hận ai hết và xả sạch. Đó là chúng ta bắt cái pháp mà hận ở trong tâm của mình đó, bắt nó niệm Phật. Thì chúng ta đã biết ông Phật thì không bao giờ mà hận thù, thậm chí như Đề Bà Đạt Đa đã nhiều lần tìm cách hại Phật, nhưng mà Phật cũng không bao gời hận thù ông ta chút nào hết. Muốn được vậy chúng ta phải trạch pháp câu này, dùng làm pháp hướng Như lý tác ý:

“Hận thù là một pháp cực ác, khiến tâm ta luôn luôn bất an và căm ghét. Ta phải từ dã, viễn li, dứt bỏ không được mang nó ở trong lòng, trong tâm ta.Lòng hận hãy đi đi, hãy xa lìa nơi tâm ta vĩnh viễn.”

Đó là chúng ta làm pháp hướng rồi dùng cái lực của tinh thần đuổi nó đi, để từ cái chỗ mà chúng ta có những cái hận ở trong lòng của chúng ta, thì chúng ta đuổi nó ra khỏi cái lòng của chúng ta. Chứ không để cho nó ở trong lòng của chúng ta.

12. Pháp tham thù

Số 12 pháp Tham thù,đây là pháp thù. Thù là một lòng căm ghét sâu sắc đối với kẻ đã từng gây hại lớn cho mình, kèm theo ý muốn nung nấu bất kể, đó phải chịu sự trừng phạt tương ứng. Bởi vậy pháp thù đến với tâm ta khiến cho ta ăn ngủ không ngon, ngày đêm trằn trọc thân tâm chẳng an, tâm hồn rầu rầu buồn bã. Khi gặp pháp này ta bắt nó niệm Phật, pháp này đến với Phật, tâm Phật bất động không căm ghét thù oán ai cả. Vì các pháp đến mà niệm Phật, thì pháp nào nó cũng trở thành pháp lành. Cho nên chúng ta biết lấy pháp mà niệm Phật, làm cho tâm của chúng ta theo đó mà nương, thì tâm của chúng ta rất an. Vì trước khi lấy các pháp mà niệm Phật, thì chúng ta đã có lấy tâm niệm Phật rồi. Cho nên chúng ta biết cái tâm của chúng ta sẽ an ổn trước các pháp khi nó đã đến với chúng ta. Vì thế lấy pháp này mà niệm Phật thì tâm ta cũng không căm ghét ai, thù oán ai. Ta sống thanh thản nhẹ nhàng, an vui lúc nào cũng với lòng từ ban rải khắp cùng mọi loài, mọi chúng sanh. Mọi muôn phương, không thù, không hận, không oán, không ghét. Đó mới gọi là người tu sĩ theo đạo từ bi. Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như lý tác ý:

“Thù là một pháp cực ác khiến cho tâm ta bất an, khổ sở vô cùng, lúc nào cũng tìm cách trả thù, đầu óc tối tăm không còn sáng suốt phân biệt đâu thiện, đâu ác, đâu chơn, đâu giả, do thế tâm càng khổ sở hơn. Thù là một pháp ác, hãy đi đi ra khỏi nơi tâm ta, đi đi không được ở nơi đây nữa”.

Đó là cái pháp hướng, trước tiên chúng ta hướng để nhắc rõ được cái lí của nó, sau đó chúng ta đuổi nó, không được cho nó ngự trị ở trong tâm mình, để mãi mãi ôm ấp sự đau khổ cho mình.

13. Pháp thương

Đó là hận thù rồi, bây giờ tới cái pháp thương,pháp thương này còn khổ nữa. Pháp hận thù chứ coi vậy nó không khổ, chứ pháp thương này lải rải vậy, chứ nó làm chúng ta khổ rất nhiều.

Pháp thương là một pháp cực ác khiến cho người ta thương nhớ khóc thương khóc than, có thể đi đến chỗ chết. Như một người mẹ mất con, người mẹ khóc suốt ngày này sang ngày khác, không còn muốn ăn uống gì hết. Người con mất cha mẹ cũng vậy, cũng khóc từ ngày này sang ngày khác. Pháp thương đến với loài người không kẻ nào không khổ sở. Pháp thương còn độc hại hơn là pháp sân, pháp hận, pháp thù. Pháp này đến với loài người từ già chí trẻ, ai ai cũng bị nó lôi xuống địa ngục sầu khổ. Khi chúng ta cách xa những người thân, thì pháp thương khởi dậy, làm cho tâm ta bất an ngay trong tâm hồn.

Pháp thương rất độc ác nó độc hơn tất cả các pháp khác, nó diệt trừ tâm hồn con người nhanh hơn tất cả các pháp khác.Khi gặp pháp này bắt nó niệm Phật ngay, vì đức Phật ngày xưa xa vua cha vợ con và những người thân của mình, sáu năm trời khổ hạnh trong rừng già, Ngài chẳng hề thương nhớ đến gia đình của mình. Ngài chẳng hề để tâm đến gia đình của mình, Ngài chẳng bao giờ nhớ đến cha già, vợ yếu, con thơ nay đã ra sao. Cho đến khi chứng đạo quả viên thành đầu tiên Ngài cũng lo nghĩ đến chúng sanh, không biết có đủ duyên theo Pháp của mình mà tu hành không? Rồi Ngài tìm người trao Pháp, Ngài nhớ đến hai vị thầy của mình, nhưng hai vị này vừa qua phần. Rồi Ngài nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh đó là năm anh em Kiều Trần Như ở vườn Nai, Ngài nghĩ xong liền đến đó độ năm người này. Sau đó Ngài tiếp độ những người khác mà chẳng hề nói Ngài trở về thăm vua cha và vợ con. Cho đến khi vua cha được tin Ngài thành Chánh giác, đang độ người tu hành, thì vua cho nhiều đoàn sứ giả đến thỉnh Ngài về, Ngài cũng chẳng về và độ tất cả các đoàn sứ giả tu hành. Mãi sau cùng, đức vua mới phái một đoàn nữa đến và căn dặn đoàn sứ giả đến rồi phải trở về báo lại cho nhà vua biết. Đoàn sứ giả cuối cùng đến thỉnh Phật, Ngài mới hứa khả trở về thăm và chờ đủ duyên tu hành của triều đình, lúc bấy giờ Ngài mới trở về. Do thế chúng ta mới thấy được lòng thương nhớ nhỏ mọn ích kỉ con người thân ruột thịt của Đức Phật không còn nữa. Lòng thương ấy bây giờ bao la rộng lớn, không phải còn thương vợ, thương con, thương cha, thương mẹ, thương anh em ruột thịt, mà thương tất cả không phân biệt sang hèn nghèo đói, không phân biệt giai cấp nào hết, bình đẳng mà thương tất cả mọi người.

Đó thì quý thầy thấy rõ như ông Phật khi mà chứng đạo, thay vì chúng ta chứng đạo xong thì lo nghĩ về thân già của mình như thế nào? Cũng như một người học trò mà đậu xong rồi, thì mình về mình thăm gia đình của mình chứ gì? Thăm nhà, thăm cha, thăm mẹ, thăm vợ con mình chứ gì? Đằng này không, ông Phật tu xong rồi chứng đạo rồi, thì tìm người để mà dạy người ta chứ không có nghĩ về thăm vợ thăm con. Ông này chắc bộ Ông không còn tình cảm gì hết. Ông này chắc Ông tu riết, nên cái tình cảm Ông tiêu hết rồi. Nhưng sự thật ra từ khi bắt đầu đi, cho đến khi mà thành đạo, thì chúng ta cũng chẳng thấy trong kinh nào mà đức Phật nhớ lại vợ con hoặc cha mẹ mình hết. Trong khi khổ hạnh trong rừng gần chết, thay vì những phút gần chết, thì người ta lại nhớ đến gia đình dữ lắm. Nhưng mà lúc mà đức Phật ăn khổ hạnh đến cái mức độ mà ngồi không nổi nữa, lúc bấy giờ mệt nhọc đến cái mức độ vậy đó, mà Ngài cũng vẫn không thấy nghe nói Ngài nhớ lại cha mẹ hoặc này kia. Nhớ lại hồi đó, nếu mình mà vầy thì mẹ mình hoặc vợ con hoặc cha mẹ hoặc những người phải bồng ẵm, phải lo cơm lo nước này kia. Những cái kỷ niệm đó chắc chắn nó phải trở về với Ông ta. Nhưng mà trái lại, Ông nằm đó mà Ông không nhớ ai hết. Có lẽ là lúc bấy giờ Ông như cái ngọn cây rồi chứ còn gì nữa. Nhưng mà sự thật đó là cái hình ảnh để giải thoát hoàn toàn. Nếu mà còn một chút xíu nào mà dính mắc tình cảm của chúng ta đối với gia đình, đối với những người thân đó, chắc chắn là chúng ta khó mà có thể giải thoát.

Chúng ta phải hiểu được ý nghĩ của những bài kinh mà nói đến cái đời sống của đức Phật, tức là nói đến cái đời sống của chúng ta sau này sẽ tu tập, phải dứt trừ tận gốc như vậy. Cho nên Đức Phật nói: “Sanh đã tận thì phạm hạnh mới xong”. Sanh đã tận là tức là những gì chúng ta từng nương tựa, cha mẹ anh em vợ con của cải tài sản, nó đã tận, tức là đoạn tận được rồi, thì cái phạm hạnh của người tu mới xong. Đó là những câu nói mà Phật thường nhắc nhở trong kinh.

Bây giờ quý thầy nghe lại cái ông A Na Luật, ông này cũng là một cái tay cũng dữ tợn lắm chứ không phải thường. Ông cũng bỏ cha bỏ mẹ cũng không cần thương nhớ nữa gì hết cả. Đây là những gương hạnh mà chúng ta nghe qua cái bài kệ của ông, rồi chúng ta thấy được cái sự tu tập, mà ngay từ cái chỗ mà dứt cái lòng thương yêu này, cái pháp thương yêu này bắt nó niệm Phật, thì chúng ta phải bắt nó niệm như thế nào đúng. Nếu không theo những cái gương hạnh này, thì chúng ta khó mà dứt được cái lòng thương yêu của chúng ta lắm.

À, hãy nghe ông A Na Luật thuật lại cái đời tu của mình:

Bỏ cha mẹ, bà con,

Bỏ anh em, chị em,

Bỏ năm dục trưởng dưỡng,

A-na-luật tu thiền.

À, bây giờ đó, ông theo Phật rồi đó, thì ông dứt bỏ cha mẹ bà con bỏ hết, anh em ruột thịt gì bỏ hết. Mà năm cái thứ mà dục lạc, ông A Na Luật này ngày xưa, ông cũng dục lạc giữ lắm, chứ không phải là cái tay thường đâu. Mà bây giờ ông dẹp hết năm cái thứ dục lạc này, thì A Na Luật tu thiền.

Ông thì ông thích sống ca nhạc đàn ca sướng hát, cho nên ông thường thường liên hệ với các người ca nhạc.

Sống hệ lụy múa, ca,

Dạy với tiếng xập xỏa,

Sống vậy không đạt được,

Cảnh giới đạo thanh tịnh,

Vì rằng ta ưa thích,

Trong giới vực của Ma.

Nghĩa là trong từ tiếng nhạc tiếng ca đó, bây giờ ông nghĩ ra nó là cái thế giới của ma, chứ không phải là của những người tu nữa.

“Do sống vậy không được,

Cảnh giới Đạo thanh tịnh.”

Vì cuộc sống mà hay ca hát hay này kia, đó là cái thế giới của ma, không thể nào là cảnh giới của đạo thanh tịnh được.

“Ta vượt qua tất cả,

Ưa thích lời Phật dạy,

Vượt khỏi mọi bộc lưu,

A Na Luật tu thiền”.

Đó thì ở đây ông phải vượt qua, vượt qua tức là vứt bỏ đó, vứt bỏ tất cả, chỉ có lấy cái lời của Phật dạy. Cũng như bây giờ quý thầy đã quy y Tam bảo rồi, thì ba ngôi Tam bảo này là Phật Pháp Tăng rồi, thì chúng ta phải tuần tự chúng ta phải dứt tất cả hết, phải vượt qua tất cả hết những cái gì mà trói buộc từ cái tình cảm thương yêu của anh, em, cha, mẹ dòng họ, cho đến tài sản, của cải, sự nghiệp. Đều là phải vượt qua cho khỏi hết, dứt hết, hoàn toàn là dứt hết, thì như vậy mới gọi là A Na Luật tu thiền.

“Sắc thanh hương vị xúc,

Hấp dẫn rất ưa thích,

Ta vượt qua tất cả,

A Na Luật tu thiền”.

À bây giờ chúng ta nghe nói mình tu thiền, mà mình cũng vẫn chạy theo sắc thanh hương vị xúc pháp, thì thử hỏi mình còn cái gì gọi là tu thiền? Cho nên mình biết nó hấp dẫn biết nó lôi cuốn. Cũng như giờ ăn, chưa tới giờ ăn mà mình đói bụng rồi, mình thích ăn chè, bây giờ cũng còn thích. Như vậy là vượt qua chưa? Chưa có vượt qua. Cho nên ở đây thì nếu mình là người tu thiền, thì mình phải vượt qua ba cái sở thích này đi, ba cái ham thích này đi, thì mình vượt qua, thì mới gọi là A Na Luật tu thiền.

“Đi khất thực trở về,

Độc cư vị ẩn sĩ,

Tìm vải từ đống rác,

A Na Luật đạt được,

Không còn các Lậu Hoặc.”

Đó, thì các thầy thấy bây giờ chúng ta chưa có vị nào mà tìm cái rẻ rách ở đống rác mà làm cái y mà đắp đâu. Ông đâu phải cái người nghèo, thế mà khi đi rồi đó, khi mà đi tu rồi thì ông vứt bỏ hết, đi tìm vải ở đống rác lên, rồi đắp lại, vá kết lại làm cái áo cái y của mình mặc mà thôi. Cho nên ở cái bài kệ này:

“Đi khất thực trở về,

Độc cư vị ẩn sĩ”.

Coi như Ngài sống một mình, không có nói chuyện với ai hết. Ẩn sĩ là một cái người mà ẩn bóng, không có để cho ai thấy, trừ ra tới cái giờ mà người ta đi xin mà thôi. Rồi bây giờ Ngài làm sao Ngài đi tìm những cái vải mà người ta bỏ từ đống rác, người ta quăng, người ta bỏ đó, về Ngài mới kết thành cái y của mình để mặc chứ không còn. Do đó cái Lậu hoặc mới sạch, còn nếu mà mình còn cái vải tốt, cái y như Thầy đây, chưa chắc đã là bỏ đâu. Cho nên còn những cái thấy mình mặc cái áo này móc khóa vậy chưa tốt rồi, để tìm cái áo khác cho nó đẹp hơn, thì đó là hoặc mình còn chứ chưa hết. Còn ở đây thì ông đã đạt được, cho nên các cái Lậu Hoặc của ông mới sạch hết. Đó thì qua cái bài kệ mà chúng ta thấy từng cái hành động nhỏ để nói cái Lậu Hoặc của chúng ta còn hay là hết. Tức là nói chúng ta có ly dục, ly ác pháp được hay không?

“Ẩn sĩ thu lượm lấy,

Giặt nhuộm và đắp mặc,

Các vải từ đống rác,

Sáng suốt A Na Luật,

Không còn các Lậu Hoặc.”

Cũng từ mà lượm những cái đồ bỏ đi đó, để trở thành những cái vật dụng hằng ngày của mình, cho nên cái Lậu Hoặc của mình hết. Vậy cho nên mình mới thấy rằng mình là bậc ẩn sĩ, một cái người mới đúng là cái người tu. Còn chúng ta còn ở trong cái sự tu tập mà cung kính, có cái sự mà cúng dường, có cái sự này, sự kia đó, thì như vậy là cái Lậu hoặc của chúng ta chưa sạch đâu, chưa hết đâu.

Cho nên qua những cái gương hạnh này, sau khi lấy thân thọ tâm pháp mà niệm Tăng đó, thì Thầy nêu lên các hành động, các cái gương hạnh của các bậc Thánh tăng trong thời đức Phật, chúng ta theo đó mà chúng ta lấy thân thọ tâm pháp mà niệm Tăng, chúng ta cũng sẽ sống theo những cái gương hạnh đó.

Cũng như bây giờ, qua cái bài này là chúng ta xa lìa cái lòng thương mà bỏ cái lòng thương, rồi bỏ tất cả những cái thương của thương cải thương này kia. Qua cái hành động của ông A Na Luật này để mà chúng ta dẹp cái lòng thương của chúng ta đi. Bởi vì, bây giờ mình còn mới một cái vật gì, tức là còn thương cái vật đó chứ không phải mà cái lòng thương nó rất là vi tế. Chứ không phải là mình không nhớ cha nhớ mẹ mình là không thương đâu. Mình còn nhớ những cái vật kỉ niệm hồi đó đó ai tặng mình, một con bồ nào nó tặng mình, bây giờ mình con cất giữ đó, thì coi chừng cái chuyện đó mình còn thương chứ không phải mình dứt thương đâu. Tất cả những cái chuyện nhỏ nhỏ chớ mà nó còn ghi lại ở trong đầu chúng ta những kỉ niệm mà chúng ta không quăng ném nó đi, thì tức là chúng ta chưa hết Lậu hoặc đâu. Mà muốn được như vậy thì chúng ta phải nương theo các gương hạnh của các bậc Thánh tăng này, để mà chúng ta xa lìa cái lòng thương của chúng ta. Thương vật, thương người, thương tất cả cái gì mà ở trong cuộc đời chúng ta hãy vứt bỏ hết. Đó bây giờ thì ông đi lượm cái đồ bỏ để làm lại cuộc sống của mình.

“Nhiều dục không biết đủ,

Ưa giao du tháo động,

Những pháp này có mặt,

Thuộc tà ác uế nhiễm”.

Nghĩ là, nếu mà chúng ta chưa có biết đủ, còn cái này cái kia, thì đó là còn nhiều dục chứ chưa phải hết. Còn bây giờ chúng ta đi lượm từng cái vải rách, từng cái vải xấu xa mà làm cái áo chúng ta mặc hàng ngày thì chúng ta chẳng còn gì nữa hết, thì Lậu hoặc chúng ta sẽ không còn. Còn bây giờ chúng ta còn cái tốt, còn cái này kia coi chừng Lậu hoặc chúng ta chưa hết đâu.

Cho nên chúng ta phải sống hợp, sống đúng cái đời sống mà phạm hạnh, thì chúng ta mới quét sạch được các cái Lậu hoặc. Còn nếu mà chúng ta sống không đúng phạm hạnh đó, còn áo quần, xê xua, đẹp, xấu thì coi chừng Lậu hoặc chúng ta còn tràn đầy trong đó. Khó mà đi đến ly dục, ly ác pháp mà đi đến giải thoát được.

Cho nên ở đây còn nhiều dục thì chưa biết đủ thì do vì vậy mà tâm chúng ta ưa giao du tháo động. Ưa giao du là lại người này nói chuyện, người kia nói chuyện, tìm bạn tìm bè tìm này kia đó, thích lại chỗ này, chỗ kia là những người mà chưa chịu sống độc cư đó. Ưa tìm bạn, rồi tìm nơi này nơi kia, để ngao du sơn thuỷ đồ đó, thì tất cả những cái này là không bao giờ cái người đó đi đến con đường giải thoát được.

Những Pháp này có mặtthì thật là tà ác, uế nhiễm, nó là những cái tà pháp thuộc về những cái tà pháp ác, nó làm cho tâm chúng ta dễ uế nhiễm. Thí dụ như bữa nay chúng ta nói chuyện với nhau thì ngày mai chúng ta cũng thích nói chuyện nữa, rồi ngày kia cũng thích nói chuyện nữa. Không bao giờ mà cái thích hết nói chuyện đó mà dứt được đâu. Chỉ bữa nay chúng ta dứt được, thì ngày mai chúng ta dứt được. Ngày nay chúng ta không giao du, thì ngày mai chúng ta không giao du, bữa nay giao du được thì bữa mai tiếp tục giao du nữa. Và cứ như vậy tiếp diễn mãi thì đến khi chết chúng ta cũng hai bàn tay trắng, bị các pháp tà này nó đã uế nhiễm tâm chúng ta.

“Chánh niệm và ít dục,

Biết đủ không não loạn,

Thích viễn li hân hoan,

Thường tinh cần, tinh tấn”

Đó thì ở đây chúng ta luôn luôn phải ở trong cái niệm chân chánh là cái niệm mà mình luôn luôn lúc nào mình cũng thấy vừa đủ và thấy an vui cho tâm hồn của mình. Không có cái niệm nào mà làm cho mình đau khổ, thương nhớ hoặc là giận hờn hoặc là ham thích nữa. Luôn luôn mình thấy trước mọi hoàn cảnh, trước cái cuộc sống của mình, mình thấy nó đủ rồi, không có thấy thiếu cái gì hết. Mặc dù là nhìn vào mình đang không có cơm ăn đó, nhưng mà mình biết đây cũng đủ rồi. Biết đây là cái nhân quả đủ của mình rồi, thì không có cần mà thấy nó thiếu, nó đói nữa.

Do vì vậy đó, mà mình thấy rất là an ổn của tâm của chúng ta, và mình thích sống cái cuộc đời sống viễn ly, nghĩa là lìa xa bạn bè, lìa xa những vật dụng, lìa xa tất cả những cái điều trói buộc, lìa xa tất cả những người thân yêu của mình. Đó là mình thích cái đời sống viễn ly. Bởi vì mình không thích cái đời sống viễn ly đó, thì nó sẽ đưa mình đến những cái trói buộc này đến trói buộc khác, nó làm cho chúng ta khó mà giải thoát được, nó làm cho chúng ta não loạn hết trong đầu óc của chúng ta và làm cho chúng ta không biết đủ.

Cho nên khi mà chúng ta thích viễn ly, thì chúng ta phải siêng năng, tinh tấn, thường chúng ta phải sống cái hạnh viễn ly. Viễn ly, tức là xa lìa hết những cái vật chất trên thế gian này, xa lìa tất cả những cái tình cảm, xa lìa những cái pháp ác. Tránh hết, tránh hết, chỉ cần sống cô đơn một mình trong một khu yên tĩnh rừng hoang vắng như ông Mục Kiền Liên chẳng hạn. Mặc dù ông với ông Xá Lợi Phất là đôi bạn rất thân tình, nhưng khi hiểu được Phật pháp, ông lìa người bạn thân của ông, chứ không còn có tối ngày mà cặp với nhau, như đôi uyên ương mà chuyện này hết, rồi tới chuyện kia đâu. Hai ông này thật sự là đôi uyên ương, đi đâu đều là có cặp nhau đó, nhưng mà đến khi ngộ pháp rồi thì ông này đến khu rừng hoang vắng ở riêng một mình mình, thực hiện Thiền định. Cho nên, chỉ có ông Phật đến với ông Mục Kiền Liên mà thôi, chứ không bao giờ mà ông Xá Lợi Phất mà có cái tâm mà bén mảng đến khu rừng đó bao giờ. Cho đến khi ông Mục Kiền Liên thực hiện có đệ nhất thần thông rồi, thì ông mới về hầu Phật, để giúp Phật chấn chỉnh Tăng đàn. Để giúp Phật hướng dẫn cái Giáo đoàn trên bước đường du tăng khất sỉ.

“Những pháp này có mặt,

Thuần thiện Bồ Đề phần,

Vị ấy không Lậu hoặc,

Bậc Đại sư nói vậy”

Nghĩa là những cái pháp viễn ly mà nó có mặt đó, thì đó là đem chúng ta đi đến cái chỗ giải thoát hoàn toàn. Bồ đề là giải thoát đó, nó thuần thiện, nó giúp cho chúng ta. Còn cái pháp mà viễn ly mà không có đó, thì nó là những pháp uế nhiễm, nó làm cho chúng ta đắm nhiễm hết ở trong cái tà pháp. Cho nên ở đây cái pháp viễn ly là cái pháp rất cần thiết cho chúng ta. Người nào muốn đi vào cái con đường của đạo Phật mà thiếu sự viễn ly này đó, thì chắc chắn là chúng ta không bao giờ có thể giải thoát bằng con đường này hết. Cho nên chúng ta phải viễn ly, viễn ly những sự giàu sang đẹp đẽ, viễn ly những tình cảm, viễn ly những chùa to tháp lớn, viễn ly Phật tử, vì những Phật tử họ cũng trói buộc chúng ta dữ lắm chứ đừng nói Phật tử để chúng ta độ họ, coi chừng độ họ không độ được, chứ họ độ mình đó. Họ độ tiền độ độ bạc, độ riết, họ lôi mình đi sắm xe cúp, xe honda chạy tùm lum hết đó. Đó là họ độ ăn, độ uống, độ đủ thứ hết. Những cái thứ gì mà ở trên cái thế gian này có, họ cũng độ cho mình hết. Độ riết, rồi ông thầy cái bụng chang bang như cái trống, chứ cũng chẳng ra gì hết.

Cho nên ở đây, Thầy nói thật sự, chúng ta cần phải tránh xa Phật tử. Vì tại sao vậy? Sợ Phật tử nó độ mình, chứ mình không có độ Phật tử đâu. Nếu mình độ Phật tử, thì hằng ngày Phật tử sẽ ăn một bữa giống mình. Còn cái này, ngày họ ăn ba bữa, rồi cũng độ riết mình cũng ăn ngày ba bữa giống họ, chứ chưa chắc ngày ăn một bữa được. Cho nên cần phải tránh những người Phật tử.Mình hơi nhức đầu thế là họ xách bao nhiêu thứ thuốc, bảo uống cái này, uống cái kia. Uống riết là phạm thuốc thì mình cũng chết luôn chứ đừng nói chuyện mà không chết. Cho nên Phật tử nó độ mình riết thì chắc chắn tiêu mình luôn.  

Nhớ kĩ như vậy là quý thầy coi chừng cảnh giác với người Phật tử đó. Họ thương mình chứ không phải ghét, mà họ thương theo kiểu dục lạc thế gian, chứ không phải họ thương mình để mà giúp cho mình giải thoát đâu. Còn ngày xưa đức Phật, các thầy biết rằng người ta chỉ đi xin thôi, người ta cho được cái gì ăn cái đấy, chứ không có mà Phật tử cung cấp mà hộ trì một cách như bây giờ đâu.

BĂNG SỐ 56

Một cách như bây giờ đâu, mà cái sự từ chối của đức Phật cũng rất khéo léo, khi mà cúng dường sai là đức Phật không có chấp nhận. Còn bây giờ các thầy thấy, họ có cúng dường sai chúng ta cũng ngửa tay lấy. Họ có để năm trăm, một ngàn hay một triệu bạc, xin cúng dường thầy thì mình cũng thò tay lấy liền. Hồi đó ông Phật có sao, bỏ trong bát ông mà một đồng ông cũng ném ra ngoài nữa. Thôi, mấy bà đừng có bỏ cái kiểu này không có được, xách về đi; cho tui đồ ăn thì cho chứ đừng có cho tiền như thế này thì không được. Đó là những cái hạnh của một người tu.

Còn mình bây giờ mình khắc phục mình không có nỗi, cho nên mình xa xa họ ra đi chứ không họ làm biếng lắm. Họ đi mua bánh mì họ bỏ vô cho mình thì nó cực, nó nặng, còn bỏ trong túi chừng vài ba tờ giấy năm chục ngàn thì dễ lắm, ném vô trong cái bình bát ông thầy năm chục ngàn thì thấy Ông mua một đống bánh mì rồi chứ gì, còn mình ôm một đống bánh mì bỏ vô thì thấy quá cực, để cho ông đi mua ông ăn cho đã cái miệng ông. Thì rõ ràng là Phật tử nó lôi mình đi theo cái cuộc đời của nó, chứ không phải là để cho mình giải thoát.

“Tùy theo ta nghĩ gì,

Ngài thuyết rõ tất cả,

Phật không ưa hí luận,

Ngài dạy không hí luận”.

Nghĩa là cái Pháp mà của Phật dạy thì tùy theo cái nghĩ, tùy theo cái chỗ tu hành của mình mà Phật dạy rất rõ. Ngài không có ưa cái lối mà luận cái này luận cái kia, mà chỉ dạy cho chúng ta tu hành. Cũng như ở đây Thầy dạy cho quý thầy tu, chứ không có nói cái lý luận cái cao xa, cái lời nói thuyết giảng cho hay mà nói cái lời nói rất thực. Cũng như nghe cái lời giảng của Thầy là thực chứ không phải là cái lời nói nó cao siêu, nó có những cái từ làm cho chúng ta thấy nó hay ho bằng cách là như thế này hoặc bằng cách như thế khác. Đó là những lời hí luận, còn cái lời mà dạy người ta để cho người ta thực hiện ở trong cái đời sống người ta, để người ta được giải thoát, người ta được cứu người ta ra khỏi sự đau khổ. Thì Thầy cũng bắt chước ông Phật, cũng làm đúng như vậy, không có dạy cái hí luận mà dạy cái lời chân thật để đi vào cái sự hành, cho được giải thoát.

“Ngộ pháp ta hoan hỷ,

Trú trong giới pháp Ngài,

Ba minh chứng đạt được,

Lời Phật dạy làm xong”.

Nghĩa là ngộ cái Pháp mà của Phật dạy rồi thì lòng ta rất là sung sướng. Cũng như Thầy dạy cho các thầy phải hành cái Pháp như thế này, thế khác. Ví dụ như bây giờ tu Tứ vô lượng tâm, thì tu Tâm từ mình như thế nào, rồi tu Chánh niệm tỉnh thức như thế nào, rồi tu Chánh niệm tỉnh thức ở trong những oai nghi như thế nào? Dạy tất cả những cái này mà quý thầy mà nỗ lực được thì sau này quý thầy sẽ chứng được Tam minh. Cho nên trú trong giáo pháp, những cái lời mà Thầy dạy đó mà quý thầy trú vào đó mà quý thầy hằng ngày thực hiện, thì Ba minh chứng đạt không khó, không bao giờ mà quý thầy không chứng đạt được Ba minh.

Suốt năm mươi lăm năm,

Ta không bao giờ nằm,

Cái ông này tới 55 năm mà không bao giờ ông nằm; không biết là ông ngồi hay ông làm sao Thầy cũng chẳng biết.

Trong hai mươi lăm năm,

Ðoạn dứt được ngủ nghỉ.

Nghĩa là 25 năm thì ông mới là tu tập dứt cái ngủ nghỉ. Nghĩa là ông nằm ông đặt niệm được tỉnh thức như Phật. Đó, thì cái ông này ông có trình bày lại cái chỗ này. Hai mươi lăm năm ông tu tập ông mới dứt được cái ngủ nghỉ. Nghĩa là ông nằm lại, cái thân này ngủ mà cái tâm nó tỉnh thức ở trong cái niệm, chứ không còn ngủ nữa. Mà 25 năm tu tập, mà suốt 55 năm mà ông không có bao giờ ông nằm, mà có 25 năm thì ông mới dứt được cái ngủ nghỉ. Có lẽ là ông này chuyên môn là ngủ ngồi rồi. Ông Phật thì không có dạy ngủ ngồi mà ông chuyên môn ngủ ngồi.

“Không thở vô thở ra,

Chỗ như vậy trú tâm.”

Chỗ này là chỗ ông nói chỗ mà không có thở vô thở ra là cái chỗ mà ông trú tâm. Như vậy là luôn lúc nào, chắc có lẽ là suốt cái thời gian mà 50 năm này không có nằm, là ông đã nhập cái Định Tứ thiền. Là chỗ cái hơi thở mà không có thở vô thở ra, tức là hơi thở ngưng nghỉ, mà hơi thở ngưng nghỉ tức là nhập Tứ thiền. Cho nên ở đây ông nói Tứ thiền mà kiểu mà ông nói như vậy. Thì nếu mà cái người mà không có biết thì chắc chắn là chưa biết ông này nhập Tứ thiền mà ông suốt - tối là bao giờ ông cũng nhập vô Tứ thiền ông nằm trong cái chỗ, ông trú trong cái chỗ mà không có thở vô, thở ra. Rõ ràng là cái trạng thái Tứ thiền là chỗ không thở vô thở ra rồi. Như vậy là luôn luôn lúc nào 55 năm này là hoàn toàn là đêm nào ông cũng nhập vô đó hết. Sáng ra thì ông đi chơi bình thường như người ta đi khất thực đồ như vậy. Mà tối về ai ngủ thì ngủ, ông chẳng ngủ gì hết, ông nhập vô Tứ thiền, ông ngồi chốc ngốc đó suốt đêm. Rõ ràng như vậy, mà ông nhắc lại có 25 năm ông phá được cái ngủ nghỉ của ông, tức là ông không có chiêm bao. Và từ suốt 55 năm này, ông không bao giờ ông nằm nữa, là lúc nào cho tới khi mà ông chết là luôn lúc nào ông cũng nhập Tứ thiền. Qua cái gương hạnh của ông này, khi mà ông nhập được, ông phá được cái ngủ nghỉ, tức là ông phá được cái chiêm bao của ông rồi. Bắt đầu từ đó ông đi vào Tứ thiền, ở cái chỗ mà hơi thở không có thở vô thở ra nữa, thì ông luôn luôn ông nhập vào Tứ thiền. Và như vậy là suốt 55 năm ông luôn luôn là lúc nào ông cũng nhập vào Tứ thiền. Tối ai ngồi tu gì tu chứ ông nhập vô Tứ thiền, ông ngồi chốc ngốc đó thôi. Cho nên ông không có nằm.

“Không tham dục tịch tịnh,

Chỗ ấy mắc Niết bàn.”

Nghĩa là bây giờ cái tâm của ông, ông nhập Tứ thiền như vậy. Rõ ràng là suốt đêm ông ngồi ông nhập Tứ thiền như vậy, hoàn toàn chỗ mà hơi thở không có thở vô, thở ra. Và ông quán xét cái tâm của ông thì tham dục nó không còn có nữa, nó rất là tịch tịnh. Chỗ ấy là mắc Niết bàn, chỗ đó là cái chỗ Niết bàn rồi. Cho nên ông thấy rất rõ ràng, đối với cái Định thì ông đã nhập Tứ thiền mà suốt 55 năm, nghĩa là ông không có nằm mà ông cứ ngồi nhập định Tứ thiền như vậy. Và cái chỗ mà tâm của ông, thì ông thấy tham dục nó không còn nữa, cái lòng ham muốn nó đã sạch rồi, nó không còn có nữa cho nên nó tịch tịnh. Cho nên ông biết đó là cái chỗ Niết bàn của ông rồi, cái chỗ mà ông trở về rồi, cái chỗ đó là không có bao giờ có tái sanh luân hồi nữa được. Qua cái bài kệ này, chúng ta thấy rất rõ ràng và cụ thể.

“Với tâm không dao động,

Sống cảm thọ cuối cùng,

Như ngọn lửa diệt tắt,

Tâm ta được giải thoát”.

Nghĩa là bây giờ đối với ông thì ông thấy rõ ràng, với cái tâm của ông không có bao giờ dao động với một cái đối tượng, cái Pháp nào cả. Thậm chí như cái cảm thọ của ông mà cuối cùng mà đến với ông thì cái tâm cũng chẳng dao động nữa, cho nên nó trở thành là mát lạnh. Như cái ngọn lửa diệt tắt rồi, như cái ngọn lửa đã tắt rồi, không có còn nữa. Cho nên tâm ta được giải thoát. Ông thấy hoàn toàn là ông đã giải thoát hoàn toàn, không còn có một cái chút gì mà không giải thoát nữa.

“Nay chứng những Pháp này,

Là những Pháp cuối cùng,

Những cảm giác cuối cùng,

Của bậc đại Mâu ni,

Sẽ không còn Pháp khác,

Bậc Chánh giác nói vậy”.

Nghĩa là cái chỗ mà ông đã thấy, đã đạt được, đã cảm giác được như vậy, thì đức Phật đã nói đây là cái Pháp cuối cùng, không còn cái Pháp nào khác hơn cái chỗ Pháp này nữa.

Đó là cái chỗ mà của ông A Na Luật, sau những cái bài kệ mà ông đã nói lên cái chỗ tu hành của ông mà Thầy thấy tuyệt vời. Nghĩa là ông chẳng có bận tâm gì đối với chúng hết. Cho nên vì vậy ban ngày đi khất thực, rồi lượm dẻ rách đóng rác mặc chơi vậy thôi, chứ chẳng có cần ham muốn gì nữa hết. Tối thì nhập Tứ thiền, ngồi cái chỗ mà không hơi thở ra hơi thở vô chơi vậy. Cho nên Thầy nói khỏe quá khỏe. Còn Thầy ở đây thì đâu có dám chơi cái kiểu đó, chơi kiểu đó thì ở ngoài các thất của mấy con nói chuyện rầm rầm thì làm sao đâu biết đâu, phải không? Đâu có yên ổn được; rồi có người nào mà tu bậy tu bạ rồi điên khùng rồi làm sao? Cho nên không có dám. Còn ông này ông đâu có chúng, có ông Phật kia mà. Mọi Tỳ kheo thì có ông Phật ông lo, chứ mình thì cứ ở trong Tứ thiền này chơi ngon thôi, không có còn lo.

Thầy mà được mà có quý thầy nào mà tu khá được mà lo cho chúng được, thì Thầy cũng nhập cái Định như ông này chơi. Cứ tối mình thập Tứ thiền vô đó, mình nằm đó mình ngủ khỏe thôi, an ổn nhất, sướng thôi, mà thân không đau không bệnh. Bởi cái Tứ thiền nó lạ lùng lắm, nó phục hồi cái cơ thể của mình dữ lắm. Còn cái thân của mình mà giữ cái sức tĩnh thức của mình để cho nó phục hồi lại, nhưng nó vẫn suy yếu, suy yếu. Còn ở trong đó, cái chỗ mà không thiện không ác, cái chỗ nó không nhân quả rồi, nó giữ cái thân của mình, nó không có hoại diệt một cách rất là đau khổ qua cái nghiệp thọ của mình nữa. Vô thường nó thay đổi, nó thay đổi tức là nó cằn cỗi lần lần, nó làm cho chúng ta có những cái trạng thái của bệnh sau này. Còn trái lại khi nhập Tứ thiền, tế bào trong thân của mình nó không có cằn cỗi được. Bởi vì ban ngày thì nó có sự thay đổi đó, bởi vì mình còn hoạt động thì có sự thay đổi. Nhưng ban đêm mình nhập vào Tứ thiền nó không hoạt động nữa, cho nên vì vậy mà nó không thay đổi nữa. Cho nên coi như là một ngày một đêm, thì ban ngày nó hoạt động có chút thôi, mà hoạt động với cái tâm nó không có lo lắng, không có bị phiền não gì hết , thì nó cũng không có rối loạn cơ thể nhiều. Mà ban đêm lại bắt đầu nó nghỉ, nó không hoạt động nữa. Do đó cái định Tứ thiền là nó không có hoạt động. Cho nên cơ thể của ông này, Thầy nói thật sự nó khỏe, không bao giờ mà nói Ông A – Na - Luật mà có bệnh đâu. Đến cái ngày mà ông chết rồi, khỏe re chứ không có khổ đau đâu. Đó là cái hạnh phúc nhất của cái người tu thiền định mà theo đạo Phật.

Bây giờ chúng ta tiếp tục.

Muốn chuyển biến cái lòng mà thương nhỏ hẹp này, ta hãy trạch pháp dùng làm pháp hướng, Như lý tác ý pháp thương là một pháp rất khổ cho loài người. Vậy ta phải chuyển biến pháp thương này rộng lớn như tâm từ bi của Tứ vô lượng tâm. Nghe cái pháp trạch:

“Lòng thương yêu nhỏ hẹp khiến ta nhiều đau khổ, vậy từ đây ta phải thương yêu tất cả chúng sanh như cha mẹ, anh em, chị em ruột thịt của ta, như chồng vợ, con cái và con cháu. Ta đối với những người thân cũng như những người không thân, bình đẳng như nhau, không được xem người này hơn người kia, không được xem người kia kém người nọ. Phải luôn luôn xót thương chúng sanh như con ta vậy”.

Nghĩa là cái tâm nó phải thương yêu bình đẳng thì chúng ta không còn khổ nữa, mà thương yêu trong cái nhỏ mọn thì chúng ta sẽ có sự đau khổ. Đó là cái pháp thương mà bắt nó niệm Phật, thì chúng ta phải thực hiện đúng như cái tâm Phật. Và đồng thời chúng ta hiểu biết nó qua những cái bài kệ của ông A Na Luật mà ông nói lên cái sự vứt bỏ của ông, để đoạn dứt cái lòng thương yêu. Cho nên chúng ta cũng bắt chước qua những cái điều này. Vì ban đêm mà chúng ta nằm mà chúng ta ngủ. Khi tỉnh thức thì chúng ta - nếu một cái người mà đã đạt được Định thì người ta nằm người ta tỉnh thức, người ta đặt niệm trước mặt. Còn cái người mà người ta có Định như ông A Na Luật thì ông không có chơi kiểu đó nữa. Ông vô Tứ thiền ông nằm trong đó thì chẳng có ai mà vô quấy rầy ông nữa hết trơn, cho nên ông chẳng thương nhớ ai nữa hết. Cuối cùng thì cái pháp thương nó không có xen vô đó được, cho nên ông giải thoát hoàn toàn. Vì vậy mà chúng ta cố gắng nỗ lực nhập cho được Tứ thiền, làm như kiểu ông này thì cái pháp thương, pháp ghét, pháp giận, pháp hờn gì nó cũng không vô đó được hết. Cho nên khỏi cần bắt nó niệm Phật mà chúng ta cũng giải thoát.

14. Pháp ghét

Bây giờ tới pháp ghét, thương rồi tới ghét.

Số 14, pháp ghétlà pháp đối đãi với pháp thương, thương thì cũng khổ, mà ghét thì cũng khổ. Do thế, Pháp ghét là pháp làm khổ người làm khổ mình. Người tu sĩ đạo Phật khi gặp pháp này bắt nó niệm Phật liền. Pháp thương thì biến nó thành từ bi, mà pháp ghét thì bắt nó niệm Phật biến nó thành pháp hỷ và pháp xả. Quý thầy thấy rõ chưa, nếu mà cái pháp thương thì chúng ta bắt nó trở thành tâm từ bi, mà nó thương rộng lớn ra, nó không có thương hẹp nữa. Còn gặp cái pháp ghét, thì biến nó, bắt nó niệm Phật, thì biến cái pháp ghét nó ra cái pháp hỷ và pháp xả. Bởi vì ghét thì chỉ có nước hỷ với xả nó mới hết chứ còn ghét mà không hỷ không xả, thì nó không hết. Do đó chúng ta dùng Tứ vô lượng tâm thì cái thương thì chúng ta lấy hai cái pháp từ với bi, mà chúng ta chuyển hóa. Còn ghét thì chúng ta lấy hai pháp cuối là hỷ và xả mà chuyển hóa nó. Do thế không còn ghét nữa, mà lại hoan hỷ với người mình ghét, và xả hết tất cả những hành động độc ác của kẻ mà mình ghét. Vì xả hết thì không còn ghét họ nữa. Do thế tâm ta được giải thoát, không thương cũng không ghét. Muốn được vậy ta phải dùng pháp hướng, trạch pháp câu này, Như lý tác ý:

“Pháp ghét là một pháp cực ác khiến cho tâm ta đau khổ và người khác đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác”.

Cái ghét nó làm cho cái nhân quả nó di chuyền từ kiếp này sang kiếp khác, mà cái ghét nó không có dứt hết. Nó cứ liên tục từ đời này đến đời khác. Mà ngay bây giờ mà chúng ta không dứt, thì nó sẽ nối tiếp trong cái nhân quả nó đi mãi mãi. Bởi vì, sau này Thầy dạy về nhân quả, Thầy sẽ nói về cái pháp thương và pháp ghét nó sẽ đi trên cái lộ trình mà nó không có chịu dứt. Nếu mà cứ tiếp tục mãi cái thương thì nó tạo ra cái nhân quả, trong cái nhân quả nó có cái ác và cái thiện. Và cái thương, cái ghét nó cứ nối tiếp nhau. Và đời này nó tiếp tới cái đời khác, chứ nó không bao giờ mà nó dứt ngay. Mà ngay từ bây giờ mà chúng ta biết dứt được cái thương, thì ngay đó nó sẽ dứt nó không còn nối tiếp nhau nữa, nó không còn nợ nần nhau nữa. Cũng như cái pháp ghét vậy, nó cũng như vậy. Cho nên nó liên tục ở  trong cái nhân quả để mà vay trả trả vay, mãi trong cái đời này đến đời khác, kiếp này đến kiếp khác.

Khi mà giảng về cái nhân quả Thầy sẽ giảng lại cái pháp thương, pháp ghét này nhiều. Còn ở đây chúng ta bắt nó niệm Phật, tức là Tứ bất hoại tịnh. Thì pháp niệm Phật, thì chúng ta biến cho nó trở thành tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả, để nó trở thành những cái Pháp cứu kính nơi tâm hồn của chúng ta.

Như vậy là chúng ta phải biết cách bắt nó mà niệm Phật để nó chuyển biến, nó trở thành các pháp tốt, để nó không còn các pháp xấu nữa.

“Pháp ghét phải đi đi. Tâm ta luôn luôn phải đề cao cảnh giác, không được ghét ai hết, dù kẻ đó có giết chết ta ta cũng không được ghét”.

Đến đây là chấm dứt cái thân, thọ, tâm và pháp niệm Phật. Nghĩa là chúng ta đã học được một cái bài đầu là lấy thân, thọ, tâm, pháp niệm Phật. Cho nên cái bài thứ 14 này, là cái pháp ghét này, để biến cho nó trở thành cái pháp hỷ và pháp xả. Thì đó là bắt cái Pháp nó niệm Phật, là thân, thọ, tâm, pháp niệm Phật, đến đây là chấm dứt rồi. Và chấm dứt rồi, thì chúng ta phải biết rằng còn biết bao nhiêu Pháp để niệm Phật, chứ không phải chỉ có 14 cái Pháp mà Thầy kê ra. Mà Thầy kê ra 14 cái Pháp là tượng trưng cho vạn pháp ở trong thế gian này khi đến với tâm ta, dù là pháp thiện, dù là pháp ác, thì chúng ta cũng vẫn bắt nó niệm Phật, chứ không phải chỉ có 14 pháp này không. Do vì vậy mà chúng ta phải hiểu chứ không phải là tượng trưng. Nếu mà Thầy kê ra hàng trăm hàng vạn pháp, thì chỉ còn có cái nước mà không bao giờ mà cùng tận này, thì chúng ta ngồi nghe nó cũng thành nhảm đi. Cho nên chúng ta tượng trưng cho một số pháp. Rồi từ đó các Pháp mà đến với chúng ta, là lôi đầu nó vô niệm Phật liền, không có được để nó ở ngoài, để chuyển biến nó trở thành những cái pháp thiện, những cái pháp làm cho con đường tu hành của chúng ta được giải thoát mà không có bị sự cản trở và cách biệt, làm cho con đường chúng ta tu tập chướng ngại, bất toại nguyện. Chúng ta sẽ khó khăn ở trên bước đường tu tập.

Do đến đây, thì quý thầy lấy 14 cái Pháp này là tượng trưng mà thôi. Cũng như tất cả những cái thân, thọ, tâm của chúng ta niệm Phật, cũng tượng trưng cho một số để mà lấy đó mà niệm Phật, chứ không phải bấy nhiêu đó là đủ. Cho nên tùy trường hợp xảy đến là chúng ta phải thấy ngay liền, sáng suốt phải nhận ngay liền. Biết đó là pháp, biết đó là tâm, biết đó là thọ, biết đó là thân, thì chúng ta bắt ngay nó liền, niệm Phật liền, để được sự giải thoát cứu cánh nơi thân tâm của chúng ta.

THÂN – THỌ - TÂM – PHÁP NIỆM PHÁP

Bây giờ chúng ta tiếp tục và trau dồi thân, thọ, tâm, pháp. Thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta để mà niệm Pháp. Bây giờ niệm Phật rồi, mình lấy thân, thọ, tâm, pháp niệm Phật rồi, thì bây giờ phải lấy thân, thọ, tâm, pháp mà niệm Pháp. Rồi sau này chúng ta mới lấy thân, thọ, tâm, pháp mà niệm Tăng. Rồi sau này chúng ta lại lấy thân, thọ, tâm, pháp mà niệm Giới. Bắt đầu bây giờ chúng ta mới qua được một cái giai đoạn thứ nhất. Còn giai đoạn thứ hai là lấy thân, thọ, tâm, pháp mà niệm Pháp. Vậy pháp là gì?

Hồi nãy Pháp ở đây mà chúng ta lấy các pháp là các cái đối tượng, các cái hoàn cảnh, các cái sự kiện xảy ra, đó là Pháp. Còn Pháp ở đây, là tam quy của chúng ta là Phật, Pháp, Tăng. Vậy cái Pháp ở đây để mà chúng ta ở đây niệm thì nó là cái Pháp gì? Cái Pháp gì đây?

Pháp là những lời Phật đã dạy.Đó là cái lời của Phật dạy cho nên gọi là Pháp. Cái Giới luật của Phật đã dạy đó gọi là Pháp. Cho nên Pháp là những lời Phật đã dạy cho chúng ta tu tập, làm chủ được sanh tử, chấm dứt được luân hồi. Vậy tất cả Pháp đó là gì? Đó là 37 Phẩm trợ đạo. Tức là 37 Pháp môn tu tập, đưa con người từ phàm phu đến bậc thánh, chấm dứt đau khổ, sanh tử và luân hồi. 37 Phẩm này, 37 Pháp này còn gọi là 37 Giới hành. Vì có Giới hành ta tu tập mới không phạm giới. Nếu không có 37 Giới hành này, thì người tu sĩ đạo Phật là hoàn toàn sẽ không giữ Giới luật của Phật được. Nghĩa là không có 37 Phẩm trợ đạo này, mà làm cái Giới hành thì cái người tu sĩ của đạo Phật kê ra một số Giới luật mà như vậy đó, tức là từ 250 Giới, cho đến 348 Giới, thì chắc chắn không có một tu sĩ nào mà không phạm Giới. Nếu không có 37 Pháp hành này, Giới hành này, thì chắc chắn là người nào cũng phạm giới hết, không có người nào là không phạm giới. Và giới luật của Phật chỉ là một giáo điều như các tôn giáo khác. Bởi vì nếu mà không có 37 Phẩm trợ đạo này, làm Giới hành, thì cái Giới luật của Phật nó sẽ trở thành một cái giáo điều như các tôn giáo khác. Bởi vì cái giáo điều của các tôn giáo khác nó không có cái giới hành, cho nên nó đưa ra một cái kỷ luật, buộc người ta phải giữ gìn như vậy. Để đạt, để sống được như vậy, là mới có sự cứu cánh, mới có cái sự cảm hóa được các vị trời mà có thể đến cái ngày mình chết họ sẽ rước mình về cõi trời. Do những cái giáo điều đó là khép chặt cái người vào trong cái khuôn khổ đó, thì mới được ông trời hoặc được những đấng vạn năng mới cứu mình ra, đưa mình lên cái cõi mà hạnh phúc hơn là cõi thế gian này. Đó là những cái giáo điều là như vậy. Còn ở đây thì Phật không có như vậy, không có phải là ai cứu mình mà chỉ có 37 cái Giới hành này, nó sẽ làm chúng ta sống đúng cái phạm hạnh, không phạm một cái giới nào mà Phật đã nêu lên mà chúng ta đã thấy.

Đó thì nó có khác hơn người ta. Mà nếu mà không có 37 cái giới hành này, thì cái Giới luật của Phật nó sẽ trở thành cái Pháp luật của một quốc gia. Nó sẽ biến cái giới luật đó của đạo Phật nó sẽ trở thành một cái bản hiến chương của một cái nước, chứ không còn phải còn là cái pháp môn, giới luật để mà chúng ta thực hiện cái đời sống phạm hạnh giải thoát.

Cho nên cái Giới luật của Phật mà nếu mà không có 37 cái Giới hành này, thì nó trở thành khô khan, cằn cỗi, và chúng ta không bao giờ có thể đi vào con đường của đạo Phật mà tu được. Do thế mà ngày nay Phật giáo đã suy vi tận cùng. Phật giáo chỉ còn là hình thức và danh từ Phật giáo suông, còn nhìn vào thực sự bên trong thì nó nát bét, nó suy đồi tận gốc lận. Cái người tu sĩ thì không còn biết cái lối tu hành, để đến cứu cánh giải thoát. Thực là đáng đau buồn cho Phật giáo trong cái thời điểm này. Rồi đây tiếp tục kế tiếp bao nhiêu thế hệ sai lầm khác. Cứ người trước đi sai, thì người sau cũng dẫm theo sai. Càng đi thì càng lại xuống dốc không bao giờ đi lên được.

Nghĩa là chúng ta đã thấy từ cái khi mà các bậc Thánh tăng trong cái thời của Đức Phật, khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, thì các Ngài đã thị tịch mất đi rồi, thì cái Giới hạnh nó không còn cái người mà nêu lên được, thì sau này các vị Tổ, các vị tu học theo đạo Phật thì họ lần lượt họ phá giới, họ sống không có đúng cái giới hạnh của Phật nữa. Cho nên họ chế ra những cái loại giới mà làm cho lệch lạc, mất cái lối của đạo Phật đi. Rồi họ viết ra những kinh sách làm cho lệch, rồi cứ từ cái thế hệ này, cho đến thế hệ kia, cứ thấy kinh sách đó cho đó rằng là của Phật. Rồi họ cứ tu tập ở theo đó. Nhưng cuối cùng thì nhìn vào tu sĩ hiện giờ mà chúng ta thấy trước mặt chúng ta, đều là sống ở trong dục lạc của thế gian. Sống ở trong một cái nơi sống của họ toàn là cái đời thì nó chẳng ra đời, mà đạo thì chẳng ra đạo, nó không ra cái gì hết. Cho nên nhìn thấy như vậy là chúng ta biết rằng, cái Giới luật của họ, họ bị phạm, vì họ chưa có biết cái pháp hành để cho họ thực hiện cái giới luật. Do đó họ đi dần đến cái chỗ sai lệch này, đến cái chỗ sai lệch khác. Từ cái chỗ họ đi, thì họ kéo theo một số người đi với họ. Cho nên cái sai này đến cái sai khác, mãi mãi mà không cùng tận. Rồi đây thế hệ này cho đến thế hệ sau, mà nếu còn người theo đạo Phật, thì vẫn còn sai như vậy mãi, chứ không bao giờ hết.

Vì thế 37 Phẩm trợ đạo đức Phật còn dạy chúng ta ngoài 37 Phẩm trợ đạo này mà đức Phật còn dạy chúng ta thêm nhiều Pháp chứ không phải là có 37 Phẩm trợ đạo này không. Chúng ta thấy từ một pháp cho đến mười pháp, Thầy đã giảng cho quý thầy nghe rồi mà. Từ một pháp cho đến mười pháp phải như thế nào? Rồi cần phải tu tập, cần phải trau dồi, cần phải tác chứng, cần phải biến tri, cần phải thắng pháp như thế nào? Mỗi Pháp đều là phải làm như thế nào? Rồi từ mười pháp cho đến trăm pháp Thầy chưa giảng. Thầy mới giảng cho quý thầy từ một đến mười. Rồi từ ba cho đến mười, rồi từ hai cho đến mười, thì quý thầy mới có học tới đó. Thầy chưa giảng từ bốn cho đến mười, từ bốn pháp cho đến mười, Thầy chưa giảng. Rồi từ mười cho đến trăm pháp, Thầy cũng chưa giảng. Rất là nhiều pháp.

Ở đây muốn nói rằng lấy thân của chúng ta mà niệm Pháp, tức là tùy nơi cái pháp đó thì chúng ta phải biết các Pháp cho nó rõ ràng, rồi chúng ta mới theo cái pháp đó mà cái thân nó sống theo cái pháp đó. Đừng có làm trái lại cái pháp mà Phật đã dạy, thì tức là chúng ta sẽ có sự giải thoát thật sự ở trong thân tâm của chúng ta.

Đó thì, ngoài 37 Phẩm trợ đạo, đức Phật còn dạy từ một pháp đến mười pháp cần phải tu tập, cần phải trao dồi. Từ mười pháp đến trăm pháp cần phải tu tập, cần phải trao dồi và năm loại thiền định. Thì quý thầy thấy không, nội những cái pháp đó nó như vậy rồi mà đức Phật còn dạy cho chúng ta năm loại thiền định nữa chứ đâu có phải nói 37 Phẩm trợ đạo đó. Từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền đó là xong đâu, đâu phải? Còn năm loại thiền định nữa. Vậy thì năm loại thiền định thì như thế nào? Bởi vì Thầy tổng kê ra đây cho các thầy thấy. Cái số mà pháp của Phật dạy chúng ta rất nhiều chứ không phải ít.

Cho nên nếu mà chúng ta lấy thân, thọ, tâm, pháp mà niệm Pháp, phải hiểu các pháp nào mà Phật dạy. Cho nên đây là các pháp Phật đây.

-        Một là Định Niệm hơi thở;

-        Hai là Định Vô lậu;

-        Ba là Định Chói sáng (định Sáng suốt);

-        Bốn là Định Chánh niệm tỉnh thức (định Chánh niệm tỉnh giác);

-        Năm là Định Hiện tại an lạc trú.

Đó là năm cái loại Định. Rồi đức Phật còn dạy gì nữa? Dạy ta phòng hộ sáu căn mà Phật còn gọi là thánh phòng hộ sáu căn đó. Dạy ta cách thức ăn, ngủ, nghỉ, nghĩa là Đức Phật dạy mình ăn uống như thế nào này? Rồi ngủ nghỉ như thế nào này?  Đầu hôm ngủ làm sao? Khuya thức nửa đêm như thế nào? Rồi khuya phải dậy làm sao? Đức Phật dạy rất kỹ đó là những Pháp. Rồi dạy thân ta hành niệm gọi là Thân hành niệm. Đọc lại cái bài mà Thân hành niệm chúng ta thấy Phật dạy rất kỹ từ trong cái hành động cái thân của chúng ta như thế nào? Đó là những cái pháp mà chúng ta cần phải có hiểu.

Như vậy là Thầy kê ra ở đây, rồi sau này mà dạy về 37 Phẩm trợ đạo này, tức là 37 cái pháp hành này, cái giới hành này. Thì tức là tới cái chỗ nào đó Thầy sẽ dạy cái chỗ đó rất kỹ ra để cho quý thầy thấy rằng khi chúng ta hành ra thì phải cái thân hành ở chỗ nào? Cái đặc tướng của thân hành; cái ý hành; cái khẩu hành; rồi cái khẩu hành nội; cái khẩu hành ngoại; rồi cái thân hành nội; thân hành ngoại của mình. Cho nên dạy ta rất kỹ là Thân hành niệm, rồi còn dạy ta đặt niệm trước mặt. Cách thức đặt niệm thế nào? Rồi còn dạy ta dùng tưởng quán bất tịnh, dùng cái pháp tưởng để mà quán. Tất cả những cái này Phật dạy rất đầy đủ ở trong kinh, không có chỗ nào thiếu. Rồi còn dạy ta tịnh chỉ các hành ở trong thân. Tịnh chỉ các hành ở trong thân để chúng ta thực hiện được bốn Thiền và cái Diệt thọ tưởng định, nhập Sơ thiền thì phải tịnh chỉ cái gì? Nhị thiền tịnh chỉ cái gì? Tam thiền tịnh chỉ cái gì? Tứ thiền tịnh chỉ cái gì? Phật dạy rất kỹ, đó là những cái pháp. Rồi dạy ta pháp hướng để tu tập theo như cái lý mà tác ý ra. Hướng như thế nào để dẫn tâm chúng ta vào đúng cái vị trí của cái pháp đó để mà chúng ta đạt được cái kết quả như cái ý muốn của mình. Đó là dạy chúng ta những cái pháp hướng. Dạy ta dẫn tâm đến cái chỗ Tam minh, còn cái pháp hướng dạy chúng ta như thế nào để mà chúng ta tác ý ra cho đúng. Rồi dạy chúng ta dẫn tâm đến Tam minh như thế nào? Thì trong khi dạy về Tam minh, Thầy mới dạy về cách thức dẫn tâm. Chứ không phải là ở trong Định đó rồi chúng ta nghĩ cái trạng thái của Định đó nó như thế nào? Biết nó như thế nào đâu mà gọi là dẫn tâm?

Cho nên do vì vậy mà phải có cái sự hướng dẫn cụ thể để cho chúng ta biết được, lúc bây giờ chúng ta dẫn tâm đến Tam minh như thế nào? Rồi dạy ta dùng hơi thở, tịnh chỉ ý hành nhập Diệt thọ tưởng định. Đức Phật lại còn dạy mình dùng cái hơi thở, thay vì bây giờ nhập Tứ thiền hơi thở ngưng rồi. Vậy mà Ông còn bảo mình phải lấy cái hơi thở để rồi mình sẽ tịnh chỉ thọ và tưởng. Tức là ý hành đó, để mà nhậpdiệt thọ tưởng định. Rồi dạy ta thiện xảo nhập định Vô tướng, dạy cách thức chúng ta phải thiện xảo nhập vào cái Định Vô tướng nữa. Thì những cái này làm sao là không phải là những cái Pháp, cho nên nêu ra tất cả những cái pháp này để chúng ta biết.

Sau này Thầy dạy cho các thầy biết cách thức mà chúng ta tu tập, để mà chúng ta nhập vào các cái Định Vô tướng. Dùng danh từ thiện xảo. Thiện xảo như thế nào? Có ai mà giải thích ra được. Chỉ có những người người ta có hành trì, người ta mới biết được cái thiện xảo đó. Dạy ta bất động trước các pháp, trước cái sức chịu đựng của toàn thân trong cái thọ.Nghĩa là cái thọ chúng ta đến nỗi như thế nào đó, mà nó đau khổ đến như thế nào đó, mà cái sức chịu đựng của thân chúng ta đến cái mức cuối cùng của nó, để rồi dạy cho chúng ta phải giữ cái tâm bất động ta thế nào? Để rồi cái thọ nó không làm cho chúng ta đau khổ, mà nó trở thành cái sự mát lạnh ở trong thân tâm của chúng ta.Đó là Thầy nói những cái bí quyết, là những cái hành pháp, những cái giới hành mà chúng ta không thể nào mà bỏ qua những cái điều này được, mà cần phải có cái sự hiểu biết rất rõ, biết hành rất cụ thể, thì chúng ta mới thấy được cái sự làm chủ của đạo Phật cụ thể và rõ ràng.

Ở trên đây Thầy kể sơ lược các pháp mà Phật đã dạy, để cho chúng ta thấu rõ. Khi rõ thấu các pháp rồi, thì dạy ta phải dùng pháp mà sống, mà trú, mà trau dồi hay là vứt bỏ. Phải làm đúng y như pháp, phải sống đúng y như pháp, phải trau dồi đúng y như pháp, phải tu tập y như pháp. Đó là tất cả những cái mà các pháp nó đã nêu lên rồi, thì bắt đầu chúng ta xem cái pháp nào bảo chúng ta vứt bỏ, thì chúng ta vứt bỏ, cái pháp nào bảo chúng ta sống đúng thì chúng ta phải sống đúng, các pháp nào bảo chúng ta trau dồi thì chúng ta phải trau dồi, mà các pháp nào bảo chúng ta tu tập, thì chúng ta tu tập. Chứ không được pháp này tu lộn xộn qua pháp khác, thì không được. Pháp nào phải làm theo đúng các pháp đó, thì như vậy là chúng ta sẽ có sự giải thoát, chứ không phải chung chung đâu.

Những điều làm đúng như vậy Phật gọi là tùy pháp. Tức là những cái điều mà chúng ta làm, sống đúng như các pháp mà Phật đã dạy ra đó, thì đức Phật gọi tắt nó là tùy pháp hay là nương pháp. Nghĩa là mình theo cái pháp đó gọi là tùy, mình sống đúng cái pháp đó gọi là tùy, mình nương mình dựa vào cái pháp đó để cho mình không có làm sai nó, gọi là tùy pháp. Khi mà hiểu biết như vậy đó, là ta tu Tứ bất hoại tịnh. Ta tu cái pháp Tứ bất hoại tịnh đầu tiên. Lấy các cái pháp đó, mà chúng ta bắt nó niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

THÂN NIỆM PHÁP

Bây giờ đến cái giai đoạn lấy cái thân mà niệm Pháp. Lấy cái thân chúng ta mà niệm Pháp. Bây giờ chúng ta đã hiểu các pháp rồi, thì bắt đầu chúng ta phải lấy cái thân của mình mà niệm pháp. Vậy thân niệm pháp như thế nào? Nghĩa là pháp dạy về thân hành như thế nào, thì ta phải tu tập đúng như thế nấy, thì gọi là lấy thân mà niệm Pháp. Hay còn gọi là lấy thân mà tùy pháp, cũng còn có nghĩa là lấy thân mà nương tựa pháp.

Đó, thì chúng ta phải hiểu khi mà chúng ta lấy cái thân mà chúng ta niệm pháp thì chúng ta phải hiểu nó là lấy thân tùy với cái pháp, lấy thân sống với cái pháp, nương tựa vào cái pháp đó. Đó là chúng ta đã lấy cái thân mình niệm pháp đó. Như vậy là chúng ta mới thấy cái chỗ mà giải thoát, lấy cái thân của chúng ta mà niệm pháp đó, thì cái thân nó sống đúng y như pháp, nó không có trật. Mà không có trật, thì chúng ta có sự giải thoát hoàn toàn, đến thì ngay có liền.

Ví dụ Phật bảo xả, đời sống thế gian vui ít khổ nhiều, không phóng khoáng như hư không, và bị biết bao nhiêu dây thương, ghét trói buộc. Còn đời sống xuất thế gian thì phóng khoáng như hư không, không bị trói buộc, đời sống thiểu dục tri túc, giải thoát Niết bàn hoàn toàn. Đức Phật nói à, bây giờ là Phật dạy phải buông xả, buông xả thì các pháp đó mình buông xả như thế nào? Thì Phật phân biệt cho chúng ta thấy cái đời sống thế gian thì nó trói buộc, nó nhiều sự khổ đau. Còn cái đời sống xuất thế gian thì nó phóng khoáng như hư không, nó không còn bị trói buộc. Chỉ có sống tri túc thiểu dục là chúng ta đã thấy được Niết bàn ngay liền.

Đó, cái lời nói như vậy mà bây giờ chúng ta bỏ được gia đình, vợ con, bỏ được của cải, tài sản lớn tài sản nhỏ bỏ hết, chúng ta đi vào một cái lối gọi là đời sống xuất thế gian. Thì như vậy đó gọi là xả. Mà cái pháp bảo xả mà chúng ta không chịu xả, mà chúng ta cứ sống với vợ, với con, với cha, với mẹ, với anh em, thì ông Phật bảo xả mà mình không xả thì thôi, cái chuyện đó là rồi. Bây giờ có muốn tu Phật thì chẳng qua cứ lạy Phật cho xói cái đầu đó thôi, chứ rụng hết tóc, chứ chẳng có rụng cái tâm chút nào đâu. Cho nên tóc thì rụng hết, lạy tối ngày thì nó rụng đó, nó bạc đầu đó, nhưng mà cái tâm giải thoát thì nó không có bạc đâu, và nó không có rụng đâu, nó vẫn còn đó.

Mà nếu Phật dạy cái pháp là phải xả, thì bây giờ chúng ta xả là chúng ta bỏ nó ra đi, chúng ta đừng có chấp nó nữa, đừng có dính nó nữa. Thì lúc bây giờ, chúng ta trở về cái đời sống xuất thế. Mà cái đời sống xuất thế, thì phóng khoáng như hư không, trắng bạch như vỏ ốc không còn cái gì mà trói buộc chúng ta nữa.

Do đó thì phải biết không có nghĩa là bây giờ chúng ta nghe nói vậy rồi về nạt nộ vợ con. Mày là tội báo, nhà này là oan gia.Tụi bây là báo tao này, cho nên tao bị sanh tử luân hồi dài dài. Về chửi vợ chửi con cho đã, kiểu đó không phải đâu. Ông Phật nói mình sắp xếp như thế nào, để cho cái cuộc sống của mình, bởi vì cái nhân quả của mình mà mình về đó mình chửi vợ chửi con tại tụi bây mà báo tao trôi lăn trong sanh tử. Đâu phải vậy. Nếu mà hồi đó mình không có tâm ham muốn đó, thì làm sao mình cưới vợ, rồi làm sao đẻ con. Mình không có tâm ham muốn làm giàu, làm có, thì làm sao bây giờ mà có nhà có cửa. Mà giờ nói nó là tội báo, oan gia. Tại mình hết chứ sao lại đổ thừa người ta. Cho nên cái đó cũng là cái sai.

Cho nên ở đây về mình phải suy nghĩ nhân quả nghiệp báo phải trả, phải làm sao mà giải quyết cái đời sống của mình cho ổn thỏa, cho nó yên ổn; rồi vợ con nó cũng được an vui và đồng thời cũng hướng dẫn cho nó hướng về cái đạo pháp để cho nó được thoát ra khỏi cái thân phận làm con người nhiều đau khổ, nhiều trói buộc. Mỗi lần một chút chút, cả vợ con đều hướng về đạo Phật giải thoát toàn bộ. Thì trong lúc đó, mình là bổn phận cái người cha ở trong gia đình, thì làm sao cho vợ con, con cái của mình đều là hướng đến Phật pháp. Đừng có để cho nó trôi lăn ở trong những cái dục lạc của thế gian, mà nó sanh ra cái đau khổ vô cùng vô tận. Đó gọi là mình giải quyết cho gia đình của mình, chứ không phải về để mình điểm mặt vợ, điểm mặt con, mình nói đó là tội báo, oan gia. Thì cái điều đó Phật không có dạy đâu. Mà chính chúng ta phải về độ hết cả gia đình của mình đi theo con đường tu hành. Rồi mình ráng, mình nỗ lực để cho mình tu tập, mình làm gương tốt, mình làm gương hạnh tốt, để mình độ cho vợ, cho con, cho tất cả mọi người và những bà con thân thuộc anh em của mình đều hướng về Phật pháp tu giải thoát.

À, muốn được như vậy đó, thì theo Thầy nghĩ rằng, chúng ta phải sáng suốt và cẩn thận. Đó là chúng ta tùy theo cái pháp buông xả mà Phật đã dạy. Cho nên chúng ta còn một cái đời sống xuất gia mà thôi.

Ngài Bhaddiya, Ngài theo Phật tu hành chứng quả A-La-Hán. Mỗi khi ngài hưởng lạc giải thoát, lạc Niết bàn trong lúc ở trong rừng, hoặc ở dưới gốc cây, Ngài thốt lên lời nói: “Ôi hạnh phúc thay làm sao, ôi hạnh phúc làm sao!”. Nghĩa là luôn luôn Ngài, khi mà Ngài nghĩ đến trong cái lúc mà Ngài làm vua, Ngài đang cai trị trong một cái nước thì Ngài thấy sao mà nó khổ sở quá. Còn từ ngày mà tu theo Phật rồi, Ngài sống ở trong rừng, ngồi dưới gốc cây mà Ngài thấy sao mà nó ly tất cả những cái dục này, nó đem lại cái hạnh phúc vô cùng tuyệt vời. Cho nên Ngài thường thốt lên những cái lời nói đó. Do đó đức Phật đi kinh hành ngang qua nghe Ngài thốt ra lời nói đó, thì đức Phật hỏi Ngài:

- Tại sao mà Ngài lại thốt lên cái lời nói như vậy?

Thì Ngài trả lời:

- Thưa Thế Tôn! Nếu con có trị vì quốc độ, làm được, dù được bảo vệ chặt chẽ của hàng ngàn quân lính, con vẫn thấy sợ hãi và hốt hoảng.

Nghĩa là, bây giờ con là một vị vua đi, con trị vì ở trong cái nước đó đi, được quân lính, được các tướng sĩ bảo vệ che chở con, nhưng con vẫn thấy con sợ hãi, hốt hoảng à. Nó không có yên như bây giờ, như thế này đâu. Nhưng nay con đã bỏ hết tất cả rồi, cho nên con ở trong cái trạng thái sợ hãi này không còn nữa. Cho nên con thấy tuyệt vời, không có thể nào mà được như vậy. Dù là con ăn mặc sang cả, ngồi ở trên ngai vàng, sung sướng đầy đủ có người hầu kẻ hạ nhưng tâm con luôn luôn lo sợ à. Nó không bao giờ mà hết cái sợ hãi đó. Luôn luôn lúc nào nó cũng nơm nớp lo lắng cái điều này, lo lắng điều kia.

À, bây giờ thì các con thấy, các con là những người cư sĩ đi. Các con thấy bây giờ ngồi đây mà các con phải nghĩ, à bây giờ làm sao cho có cơm ăn, áo mặc cho vợ con. Thì tức là cái tâm mình có giải thoát được không? Còn cái ông này ông đi tu rồi, bắt đầu ông ngồi, ông không có lo đói lo no gì hết. Trời hạnh phúc quá trời, thật là ly dục thật là sung sướng thật chứ. Rõ ràng là: “Ôi hạnh phúc làm sao!”. Trời ơi, chỉ có cái người tu mới được vậy thôi, chứ còn cái người thế gian, thì làm sao được. Họ hở lúc nào cũng phải lo lắng ở trong đầu hết à. Thế mà mấy ông thầy chùa đi tu rồi, các thầy nghĩ sao không? Đây, bây giờ các thầy mới nghĩ, nào cái chùa này chùa kia. Cái đầu quý thầy cũng tùm lum ở trong đó hết. Còn ông này, ông có nghĩ cất cái chòi không? Ông không có nghĩ cất cái chòi nữa. Ông ngồi dưới gốc cây, chứ ông đâu có nghĩ cất cái chòi. Ông ở trong rừng này, ông ngồi dưới gốc cây ở trong cái rừng này, rồi ông ngồi ông: “Ôi, hạnh phúc thay!”, rồi ông nói “ Ôi, hạnh phúc làm sao!”. Thì rõ ràng, còn mình mắc cái chùa mình đâu có ôi hạnh phúc được. Bởi vì cái chùa bữa nay thấy nó chỗ này còn xấu phải lo làm. Không có tiền thì kêu Phật tử họ đóng góp. Trời ơi, cái kiểu này nó còn hơn ở ngoài thế gian nữa. Rồi bữa nay có cái đám ma nào đó, đến nhờ thầy đi đến cầu siêu giùm, viết sớ viết điệp. Trời ơi, ông lo cái chuyện này hoài. Chắc kiểu này là mình độ đám ma riết, chắc chắn là không biết ai có độ mình được không?

Cho nên tất cả những cái này, điều kiện, từ cái chỗ nhìn cuộc đời thế gian của các con như vậy, vợ con, nhà cửa, của cải, tài sản trói buộc. Chỗ này là cái ông vua ông tu hành này, mà ông thấy được cái chỗ mà buông xả cái ngai vàng, của báu của ông rồi; vợ, bao nhiêu cung phi mỹ nữ của ông buông hết rồi. Bây giờ ông thấy hạnh phúc quá chừng rồi. Còn mình là ngu si thật. Mình không phải vua này, mà mình cứ ngồi đó, mình cứ đi lo con, lo vợ, thì chắc chắn là có hạnh phúc không?

Rồi bây giờ mình làm ông thầy chùa, mà cứ ngồi đó mà lo viết sớ, viết điệp để cầu an, cầu siêu, làm tuần làm tự cho thiên hạ hoài. Chắc chắn là mình làm tôi tớ, làm đầy tớ cho ba cái người cư sĩ. Họ đến chùa mình nườm nượp. Họ bỏ ra họ xây cái chùa này, họ làm cái thất kia cho mình đẹp một chút ở. Họ sai mình thôi tứ sự. Ông thầy chùa gì mà bị người ta sai còn hơn cái đầy tớ nữa, ở đó mà làm ông thầy chùa. Có sung sướng gì không? Các thầy cứ nghĩ cái bổn phận của mình coi có sung sướng gì không? Thế mà bây giờ cứ hở hở ra chút gì, cũng như Thầy bây giờ ngồi đây thuyết pháp, lát nữa có Phật tử họ đến phải ra tiếp họ. Họ bỏ ra có năm đồng, mười đồng hay trăm hay triệu bạc, họ bắt mình nói thôi gần khan cổ họng mình. Về xem có tu thứ gì không? Bán họ mà họ có tu không? Làm những cái chuyện mất công. Cho nên Thầy mới nói ẩn bóng là khỏe, đâu có ai lại cầu Thầy được, cho nên Thầy giải thoát hoàn toàn. Đem pháp dạy thiên hạ mà thiên hạ không có tu. Thầy nói cho mỏi họng, mấy con cứ nói chuyện không, Thầy còn mệt Thầy nữa. Phải không? Cho nên phải chi là mấy con mà nỗ lực tu hành, giữ gìn giới luật nghiêm túc Thầy còn ráng róng cái họng lên mà gọi là con sư tử, gọi là tiếng rống tiếng sư tử, gầm lên cho mấy con nghe. Đằng này gầm riết thiếu điều Thầy muốn đứt hơi, mà rồi ai chẳng ra nấy hết. Thôi, gầm làm chi nữa. Thôi, rốt cuộc thôi để mình làm cái thằng câm đi cho rồi, cho khỏe hơn. Cho nên ẩn bóng là câm mất rồi. Phải không? Không có còn nói nữa.

Cho nên cứu mình, mà mình thấy cứu thiên hạ cứu không nổi rồi. Sao mà họ nặng như cái gánh đá vậy, gánh không có nỗi họ. Cho nên thôi, mình đừng có gánh nữa, bỏ xuống đi. Để cho họ ra sao đó ra, chìm xuống đáy nước cho họ ráng chịu. Thôi, ớn rồi. Phải không các con? Còn xách các con, xách lên xách hoài xách không nỗi. Cho nên tự các con mà muốn lên thì thời may Thầy đứng ở trên Thầy nói: à, thằng này nó muốn trồi lên, thôi mình lôi nó lên. Còn cái thằng này nó muốn chìm mình dận nó xuống luôn dưới cho rồi cho nó khỏe. Chứ mình cứ nói hoài mệt quá, phải không?

Đời tu hành là vậy đó. Hễ người nào muốn chìm mình nhận xuống luôn, xuống địa ngục luôn cho nó ớn. Còn cái thằng nào muốn trồi lên thì mình thấy, à thằng này muốn sống rồi cho nó trồi lên, nó đưa cái tay thì mình nắm kéo. Còn về cái bác hà tiện mà, có hai xu mà bác không chịu bỏ ra. Bác chỉ nói thôi thà chết thôi. Thì kệ, cho nó chết luôn đi. Thì tức cái người hà tiện cho nó chết luôn.

Cho nên ở đây Thầy cũng như vậy. Cho nên Thầy thấy cuối cùng qua cái thời gian mệt mỏi quá rồi. Thôi thì mình tìm cái cách mình ẩn bóng đi. Chờ coi có cái người nào mà đưa tay lên, thì mình nắm mình lôi, còn cái người nào không chịu đưa tay lên thì thôi. Cũng như bây giờ Thầy là cái người ngồi trên cái bờ rồi, phải không? Cái hồ nước này, cái bờ này, bao nhiêu mấy con thì đang hụp lặn dưới đó. Mà thằng nào muốn sống thì lôi lên, mà thằng nào muốn chết thì để cho nó chết ở dưới luôn. Chứ bây giờ cứ lôi lên mà nó không chịu lôi, mà nó cứ trì Thầy. Các con thấy Thầy khan cổ, là nó trì Thầy xuống đó, phải không? Cho nên Thầy không có dại gì để cho nó trì nữa đâu. Trong mấy ngày nay cứ ráng mà chịu đựng để mà gồng cái lưng lôi nó lên, coi có lôi được đứa nào không. Mà nếu không được thì thôi, thả nó xuống luôn ở dưới cho rồi.

Cho nên khi mà Ngài thấy được cái chỗ giải thoát như vậy. Do đó Ngài mới rất là hạnh phúc. Cho nên Ngài mới có cái bài kệ như thế này. Thật sự qua những cái gương hạnh này, chúng ta đều học đến đây. Thì chúng ta học Phật, pháp, tăng mà. Chúng ta phải theo các cái hạnh của những bậc thánh tăng nhiều lắm, và rất nhiều cái hạnh để chúng ta noi gương mà chúng ta tu hành.

Xưa ta ngồi cỗ voi,

(nghĩa là cưỡi voi đi đánh giặc đó).

May mặc đồ cẩm bào,

(nghĩa là ăn mặc đồ cẩm bào đó).

Ăn gạo thật thơm ngon,

Với món ăn khéo nấu,

Được bảo vệ chặt chẽ,

Tâm vẫn thấy sợ hãi,

Tâm luôn luôn bất an.

Nghĩa là lúc bấy giờ ông thí dụ, ông đi ra thì ngồi ở trên cổ voi, ai thấy cũng kinh khủng. Mặc thì áo cẩm bào, ăn thì gạo thơm thật thơm, với cái món ăn thì khéo nấu, quân lính thì bảo vệ chặt chẽ. Nhưng tâm ngồi trên cổ voi chứ sợ lắm, sợ con voi nó hất xuống cái cũng nát xương. Cho nên ông cũng quá sợ. Tuy rằng là làm oai ngồi, chứ cũng run. Tâm luôn luôn thì bất an, không có an ổn. Rồi bây giờ ông theo đạo Phật.

Nay theo Phật tu hành,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư không chấp thủ,

Là con của Đức Phật.

Nay Ông theo Phật Ông tu hành rồi. Bây giờ ăn đồ ăn không có được mà nấu khéo như hồi trước nữa. Ai muốn cho gì đó cho, cho nên nó vui đồ ăn đặt bát. Người ta đặt trong cái bát mình cái gì thì mình ăn cái đấy, chứ không có thấy mình buồn nữa.

“Thiền tư không chấp thủ”. Ở đây chữ “thiền tư” chúng ta phải hiểu được là cái Định Vô lậu đó quý thầy. Bởi vì “tư” đây là tư duy, suy tư, nghĩ tưởng, quán xét, cho nên luôn lúc nào ông không có dính mắc vào cái đối tượng nào hết. Cho nên ông xả được cái tâm của mình, trở thành cái tâm Vô lậu đó. Cho nên:

Thiền tư không chấp thủ

Là con của Đức Phật”.

Nghĩa là ở đây Thầy muốn nhắc lại cái bài kệ này quý thầy phải nhớ, cái đầu tiên của chúng ta theo đạo Phật, là chúng ta phải xả cái tâm của mình.  Phải ly dục ly ác pháp đó, là phải toàn triệt sống đúng những cái giới hạnh của Phật. Không được vi phạm cái giới hạnh của Phật.Cho nên luôn luôn chúng ta phải có một sự quán xét. Quán xét để mà chúng ta thấy được cái chỗ mà giới hạnh của Phật, làm chúng ta không có bị khắc khổ, không có bị khó khăn, không có bị khổ sở. Tại sao vậy? Bây giờ chúng ta ăn ngày một bữa, mà chúng ta không chịu suy tư, nó giải thoát hay không giải thoát. Coi chừng chúng ta sẽ thấy nó là ăn một bữa rất khổ đó. Chứ còn chúng ta mà suy tư là về thực phẩm bất tịnh, về thực phẩm như thế này thế khác. Rồi chúng ta suy tư về cái ăn trong một buổi như vậy. Chiều chúng ta thấy cũng quen rồi, sáng chúng ta thấy cũng quen rồi, không còn mệt nhọc, không còn đói khổ nữa. Thật sự là mình có giải thoát rồi, thật sự mình có hạnh phúc rồi. Thì như vậy là mình không dính mắc ở trong cái ăn rồi. Rồi tất cả các pháp khác nữa, do cái sự suy tư, thiền tư này, nó giúp cho chúng ta xả được toàn bộ cái tâm của ta, tức là Vô lậu đó.

Hôm nay Thầy nói như vậy đủ biết thiền tư này, nó giúp cho chúng ta xả được toàn bộ cái tâm của chúng ta, tức là Vô lậu đó. Hôm nay Thầy nói như vậy đủ biết qua cái bài kệ này, bước đầu vào đạo Phật, thì chúng ta vui nhận cái đồ ăn mà của cái người khác cho rồi, đặt bát.

Áo lượm rác kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật.

Nghĩa là bây giờ mà vào theo đức Phật rồi, thì bắt đầu chúng ta nhận cái đồ ăn, cái đồ ăn thiệt là như cái đồ bỏ. Nếu mà ông vua mà đi ăn cái đồ ăn mà của họ cho như vậy, thì kể như là cái đồ bỏ rồi, ăn uống không có được đâu. Thế mà ông chấp nhận rồi đó. Thì bắt đầu bây giờ thay vì ông là nhà vua, thì tức là ông đi, tức là ở triều vua phải may y áo ông là phải sang đẹp, phải là đồ chắc tốt rồi. Nhưng đằng này không, ông lại đi lượm ở ngoài đống rác những cái “kiên trì lượm”. Nghĩa là bữa nay lượm nó chưa đủ cái y đâu. Mà mai mốt đi lượm cái đống rác ở thành phố Hồ Chí Minh đó, trời ơi nó nhiều lắm. Nào là vải chùi đít con họ này, nào là vải quần áo mà rách rưới của vợ con họ mặc nó rách nát rồi, nó quăng ra cái đống rác. Thầy nói khi mà đến cái đống rác của thành phố Hồ Chí Minh, nó đủ thứ vải hết, nghĩa là vải đen có, vải trắng có, vải vàng có, vải bông, vải màu đủ loại, nó đổ mà nó dơ bẩn kinh khủng lắm. Thấy cái đống rác là nó hôi thối không tưởng kể nổi. Thế mà, ông ta phải kiên trì lắm, đi lượm từng chút từng chút để kết lại thành một cái áo để mà mặc. Là một nhà vua đó, mà bây giờ đi tu rồi, phải chấp nhận đi lượm từng cái vải rách ở cái đống rác, để mà làm cái áo của mình. Chứ chưa có cái áo mặc mà tốt lành đâu.

Rồi hằng ngày thì “vui với đồ ăn đặt bát. Thiền tư không chấp trước”. Mỗi lần mà đi lượm rác mà kiên trì như vậy đó, thì nó có những cái tâm tư nổi lên, nổi lên nhớ lại trong lúc giàu sang của mình khi làm vua nó đâu có thiếu, đâu có thiếu vải mặc, đâu có thiếu áo như thế này. Tốt hơn thôi mình chỉ cần viết cái bức thư về cho gia đình hay, cho quan quân hay, là nó đem y áo của mình đầy đủ, chứ có gì mà phải đi lượm làm gì cho nó cực. Nhưng ông kiên trì. Ở đây chúng ta nghe cái bài kệ, “Áo lượm rác kiên trì”. Muốn có cái áo mặc, cái y như thế này, kiên trì lượm từng chút từng chút để kết lại.

Đó, thì như vậy là phải có sự suy tư để mà phá cái chấp đó chứ không khéo chúng ta thấy cực khổ quá, không kiên trì. Thì chúng ta chỉ cần viết bức thư gửi về là y áo chúng ta đầy đủ, đâu phải cực khổ như vậy. Chúng ta cũng vậy, nếu mà điều kiện áo quần chúng ta mà hơi có bộ rách rưới rồi đó, bắt đầu để gửi về Hà Nội hay gửi đâu đó, xin Phật tử cúng dường cho một mớ đi, cho mặc cho đã đi, chứ ở đây đi lượm cái này, thôi thôi quá cực. Đó là chúng ta thiếu kiên trì ở cái chỗ tu tập của chúng ta. Mà thiếu thiền tư, vì vậy mà chúng ta bị chấp trước.

“Thường khất thực kiên trì”. Tại sao mà đi khất thực kiên trì? À, Thầy nói cái sự khất thực để cho quý thầy biết, Thầy có khất thực Thầy biết. Có khi đi vô xóm, họ, con nít với người lớn họ xử chó cắn mình. Nó không có cho mà nó xử chó, nó dí (đuổi) mình. Trời ơi, nhiều khi nó không có cho, đi suốt cả buổi, họ không có cho gì hết. Nó buồn bực lắm, nó đói mà nó lại buồn bực. Thấy nó bất mãn lắm. Nếu mà thực sự mà không kiên trì, thì khó mà thực hành cái Pháp. Còn có bữa thì họ cho nhiều mình vui lắm. Nhưng mà vui nó cũng trật. Bởi vì, Thầy nói, khi mà ở thành phố mà Thầy đi khất thực. Họ đưa đồ về chùa Giác Ngộ, kéo bằng xe lôi. Thầy có nói rồi, phải không các con? Thế là lúc bây giờ nó hăng lắm, nó muốn đi khất thực lắm. Nhưng khi mà đi khất thực người ta không cho mà xách cái bát không thì hết muốn đi nữa rồi. Từ đó nó thoái chí ghê gớm lắm.

Cho nên ở đây ông này nói là Thầy có cái tâm trạng đó, Thầy hiểu được tâm trạng của ông ta. Cho nên ông nói “thường khất thực kiên trì”. Khất thực kiên trì là gì? Khi người ta cho nhiều thì mừng đó, tham đi lắm, mà khi người ta không cho rồi, thì lúc bây giờ mình mới biết là hết muốn đi khất thực rồi. Nhất là mình có cái Chùa, có cơm gạo ăn rồi thì không có còn muốn đi khất thực chút nào hết. Thôi ở chùa nấu ăn khỏe hơn, đi sao mà cực khổ quá. Mà nhiều khi họ lại nói nặng nói nhẹ mình nữa. Thậm chí như các con thấy như ông Phật ông đi khất thực về, Ông mang bình bát không về. Cái ông nông dân ông nhìn vô bình bát, “trời ơi, ông không cày ruộng như tôi để sống, ông đi làm gì mà chẳng đói?”. Phải không? Nói cái câu nói đó thiệt là mình hết muốn đi khất thực, rụng rời rồi. Không lẽ mình tay chân như vậy, mình đi xin người ta không cho, mà người ta còn cười mình nữa. Nhiều cái cách thức họ chửi mắng mình lắm. Đi khất thực họ nóimấy thằng trọc làm biếng, không về làm ăn, xách bát chừng này cứ ra ra xin xin. Ai nấu cơm cho mấy ông, đi đi, đừng ở đây. Trời ơi nó nhục nhã ghê gớm lắm chứ. Thật sự mà, Thầy nói thực sự mà.

Còn một lúc Thầy đi xuống dưới Mỹ Luân Thầy ở, Thầy đi vô xóm khất thực, đi ở ngoài đường xóm này. Đi thôi, Thầy nói cả năm cây số, mười cây số vậy, mà mới có một cái nhà, họ đem họ cho mình một bát cơm. Bao nhiêu nhà đi ngang, họ không thèm ngó tới nữa. Có người đi ngang họ lại còn trề môi họ cười nữa, trời! Thấy mấy cái đó nó bất mãn lắm, nó không muốn đi khất thực chút nào hết. Còn mình đi ra chợ, các con biết không? Đi ra chợ thì họ cho toàn là bánh mì không à. Họ nhét ba cái bánh mì, ăn cái thứ gì được. Rồi có khi họ mua xôi họ nhét ở trong bát đó, nó không có gạo có cơm gì cả. Thành ra bữa này, bữa khác, nó đủ cách hết. Cho nên đừng có nghĩ khất thực là ngon lành lắm đâu. Nó phải có tổ chức như thế nào.

Thiệt ra thì người ta thấy một vị mà mới vào tu, mà đi khất thực họ ít có cúng dường lắm. Như đức Phật kia mà người ta còn không cúng dường, huống hồ là người tu sĩ mà chưa ai biết mặt. Cho nên khó có thể mà đi xin lắm, chứ không phải dễ đâu. Vì vậy mà Thầy thấy trong cuộc đời mà tu hành, nếu mà chấp nhận làm cái nghề đi xin đó, mà để sống tu hành, nó mới thực là diệt cái ngã của chúng ta. Ông Phật, mình mới thấy cái tâm vô ngã của ông thực sự. Chứ còn cái uy danh và cái đức độ của ông Phật mà cái bác nông dân cày ruộng mà ông còn nói cái lời nói đó thì đủ thấy rằng nếu mà chúng ta mà có cái ngã một chút xíu thôi, thì chúng ta cũng thấy ghét cái ông này nữa. Ông chẳng ra gì hết. Cày ruộng mà cũng làm phách. Phải không? Các con hiểu cái lời nói mà ngay đó cái ngã của mình có liền. Còn ông Phật thì không đâu. Thì chúng ta thấy cái hạnh khất thực nó phải kiên trì lắm, chứ còn nếu mà không có kiên trì thì chúng ta khó mà có thể hành cái hạnh khất thực.

“vui đồ ăn mà đặt bát”. Nó không phải là chuyện dễ đâu. Thầy nói thật sự có khi họ cho cơm mà họ không cho muối. Thật sự họ đặt bát, cái đồ ăn đặt bát mà về ăn cơm, mà ăn cơm lạt thì các con nghĩ sao? Mà mình là một khất sĩ thì không có được cất muối. Chứ đâu phải như mấy ông mà chế giới của Phật, chế giới rồi bảo những cái giới nhỏ bỏ. Ông thêm cái giới là cất muối để dành ăn. Đó là mấy cái ông sau này chế giới đặt điều ra. Không có được cất muối, cho nên người ta cho gì, mình ăn đấy. Vì vậy mà người ta cho cơm, bây giờ không cho muối, rồi bây giờ mình làm sao bây giờ? Đem về thì cũng ăn cơm lạt chứ làm sao bây giờ. Mà thử hỏi quý thầy nghĩ, nó không có muối thì mình ăn làm sao được, nó rất khó.

Cho nên Thầy nói nếu mà gặp những trường hợp như vậy, thì chỉ còn có nước lấy cái muỗng mà cạy cái họng mình ra, rồi đổ cơm vô, lấy nước đổ vô, nó chạy ở trong rồi thôi. Chứ nuốt nhai không có nuốt nổi đâu. Khó lắm chứ không phải dễ, con người của mình coi vậy, chứ nó khó lắm không phải dễ. Chỉ có biết ăn sống là làm cách thức đó mà sống thôi, chứ không còn cách nào. Còn không thì chế cứ nuốt đại nuốt đại vô chứ, chẳng còn biết ngon. Bởi vì, chẳng hạn như bây giờ bỏ cơm vô trong miệng rồi chế nước vô, trộn trạo, trộn trạo cái rồi nuốt, cũng như là mình nuốt thuốc vậy đó, y như vậy đó. Một lúc cái bắt đầu cái bụng mình nó no lên rồi thôi, là mình nghỉ ăn. Chứ còn không thì khó mà có thể vui với đồ ăn khất thực lắm, khó lắm chứ không phải dễ. Cái tâm của mình mà lúc bây giờ Thầy chưa có phải là giải thoát. Thiệt nó bỉ thử ở trong cái lòng nó tức giận lắm. Chẳng lẽ mình như vậy mà không có ăn, đi xin mà cho bữa này bữa khác. Muốn điên, muốn chết được, chứ đâu có sống được.

Cho nên khi mà Thầy lên Hòn Sơn Thầy ở cũng vậy. Cho nên Thầy bực nhất là cái trèo, ở trên núi mà xuống núi, nó quá vất vả. Mang chừng năm ký gạo hay mười ký gạo mà lên trên đó, lên trên núi để dành mà nấu ăn thì trong vòng một tuần lễ, mười ngày thì nó hết sạch. Mà ăn nhín nhín, chứ chưa dám ăn nhiều. Mà thế mà nó hết sạch, thì phải trèo xuống núi. Mà mỗi lần trèo xuống núi mang lên nó nặng nề, nó cực gần chết, chứ đâu có sướng gì. Mà khoái ở trên núi chứ, mới độc, ­ở dưới thì nó khỏe hơn. Mà đằng này muốn trèo lên núi chơi, ngồi trên đầu thiên hạ. Tức là mình muốn làm Phật đó. Cho nên do cái chỗ mà muốn làm Phật, cho nên phải cực dữ lắm, chứ không phải sung sướng đâu. Vì vậy mà Thầy nói mình muốn làm Phật, thì mình phải ăn lá cây. Do đó bắt đầu Thầy xuống ông chủ Hòn Thầy xin lần lần, thì sau đó Thầy không thèm xin nữa, Thầy không xuống nữa. Thầy ở trên Thầy tập Thầy ăn lá cây riết, rồi Thầy ăn, Thầy trồng ba cái rau xà lách son, Thầy bỏ trồng theo cái mương vậy, Thầy lấy đó mà sống, riết rồi Thầy sống được bằng rau, rồi bằng lá cây được rồi, Thầy chẳng cần xin ông nữa, chẳng cần phải xin nước tương nữa. Rồi cuối cùng Thầy cũng chẳng cần xin thuốc rét thuốc gì nữa hết. Cuối cùng Thầy ở trên Thầy tu cho đã, Thầy chẳng thèm xuống nữa. Ba bốn tháng sau Thầy xuống núi, là Thầy đi về luôn, chứ Thầy không cần ở trên đó nữa. Thầy biết là ăn lá rừng sống được rồi. Cho nên sau cái thời gian tập luyện thì mình thấy cái gì, cái cơ thể của mình nó cũng phù hợp, nhưng mình làm nặng không được.

Do cái chỗ mà từng sống ở trên những cái khó khăn như vậy đó, Thầy mới biết được tâm niệm của mình đi khất thực. Rồi biết được ăn đồ ăn mà khất thực như thế nào? Thì cái ông này mà viết ra cái bài kệ này, Thầy đọc sao nó có cái cảm tưởng giống như Thầy quá độ. Cho nên ông thường nhắc, ông từ cái kiên trì mà đi lượm từng cái áo rách, từng miếng vải, lượm để mà kiên trì mà kết lại. Rồi từng cái đi khất thực cũng kiên trì để mà khất thực. Thầy biết giống cái bụng mình quá. Hồi đó mình, thiệt ra mình bỏ dỡ. Cho nên Thầy đi khất thực thời gian sau Thầy bỏ. Thầy đâu có khất thực được nữa. Thầy biết nếu mà Thầy kiên trì như ông, thì chắc chắn là Thầy thành Phật lâu rồi, chứ đâu phải mới đây đâu. Nhưng mà Thầy không có kiên trì nỗi, cho nên Thầy bỏ cái hạnh khất thực.

Mặc ba y kiên trì, ba cái y như thế này mà kiên trì, thì quý thầy nghĩ đâu có phải là chuyện dễ đâu. Có bữa nó ở truồng như nhộng. Chẳng hạn như bây giờ Thầy mặc như thế này tới chiều mà Thầy giảng, mồ hôi mồ hám vậy, thì đâu có mặc được nữa. Có nước là chui ở trong hang, cái này đem đi giặt đi chứ gì. Còn không Thầy phải quấn lá cây Thầy đi, chứ Thầy còn cái gì nữa mà Thầy mặc. Ba y chứ đâu còn cái gì khác hơn nữa. Đâu có phải như mấy ông Đại thừa, còn ôm một đống như gì, gọi là ba y của ông. Còn cái này mình là nguyên thủy, cái gốc của Phật, rồi thì mình còn cái bát với 3 cái này thôi. Đâu có còn cái gì nữa. Cái y hạ là cái quần, mà cái y trung là cái áo này, còn cái y thượng là cái choàng Thầy ở ngoài, đủ rồi. Mà bây giờ bắt đầu Thầy thuyết giảng như thế này, hoặc là Thầy đi từ đây xuống thành phố mà Thầy đi bộ, thử hỏi ba cái đồ này nó có ướt không, ướt đẫm hết rồi. Mà mặc nữa nó rít cũng như cái con chuột, thì làm sao mà mặc cho được, phải không? Cho nên bắt buộc Thầy phải bỏ, bắt buộc Thầy phải bỏ cái bộ y này. Mà bỏ bộ y này mà đi giặt nó, thì chắc chắn là Thầy phải ở truồng rồi. Nghĩa là có cách chui vô trong hang chờ nó khô, rồi mới mặt vô được thôi. Cho nên, nếu mà không kiên trì, chắc chắn chúng ta không sống được ba y đâu. Thế nào cũng phải sắm thêm bộ nữa à. Phải không các con? Phải thấy cái điều này chứ. Thực ra Thầy nói nếu mà không kiên trì, ông này ông có cái sống đó rồi, ông biết rồi, cho nên ông viết cái bài kệ, Thầy cũng hiểu tâm trạng này lắm rồi.

Cho nên có lần Thầy nói, không thế nào được. Thế nào, sau này Thầy cũng chế giới ra. Không có mặc ba y, mà phải có một cái y thượng và hai cái bộ đồ ngắn. Tức là có hai cái y trung và hai cái y hạ. Thì như vậy cái đời sống chúng ta mới được. Chứ còn nếu mà không, cứ thế này thì chắc chắn là không có nổi rồi. Ông Phật ông sống làm sao, chứ sống cái kiểu mình thì chắc không thấu rồi. Thầy nghĩ như vậy mà. Đúng là Thầy có trình bày cái này với quý thầy một lần. Cho nên Thầy nói Phật chế kiểu này sống không nổi rồi. Nhưng mà Thầy thấy thật sự, qua hai cái bài kệ ông này thiệt là đúng. Chúng ta phải kiên trì lắm, chúng ta phải sống có lúc như con nhộng, nhưng có lúc phải lấy lá cây mà quấn xung quanh mình, để giữ cho kín thân của mình, thì lúc bây giờ mới thay cái bộ đồ này đem giặt mới được. Khó lắm chứ các thầy tưởng. Thiểu dục tri túc là một cái đời sống giải thoát của đạo Phật, chứ không phải là cái người tầm thường mà có thể sống được. Rất khó.

Mặc ba y kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư không chấp trước.

Tại sao cứ mỗi lần cái vị này đọc lên hai cái câu như vậy, thì phải có thiền tư theo đó? Các thầy thấy phải hiểu chứ. Khi chúng ta không mà quán xét, không có thông suốt được đó, thì chúng ta bị chấp trước liền tức khắc. Chúng ta phải bỏ dỡ những cái hạnh này liền tức khắc, không thể nào mà chúng ta sống được hết. Cho nên qua cái bài kệ này, Thầy thấy rất tuyệt vời. Đối với một người mà quyết tâm tu giải thoát, thì không thể nào mà không học cái bài kệ của Ngài. Không có học cái lòng kiên trì vĩ đại này, thì không thể nào mà sống được cái đời sống phạm hạnh của đức Phật.

Đi từng nhà kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật.


Đi từng nhà kiên trì, nghĩa là trên con đường này, từ đây mình đi chừng năm nhà mười nhà là đủ ăn, rồi mình đi về chứ gì? À, không, họ không có bỏ đâu. Trời ơi, kiên trì phải đi hoài, đi hoài, đi chừng nào mà có được cái bát cơm rồi mới quay về. Chứ không khéo mà không kiên trì, thì mình đi chút thôi trở về cho rồi. Về Tịnh xá đây, bắt mấy bà Phật tử mà nấu cơm ăn sướng hơn. Kiểu này đi mỏi chân thấy mẹ. Đó là nó thiếu cái kiên trì là mình không thể nào mà đi được từng nhà đâu. Chứ không phải đi từng nhà mà dễ đâu. Cho nên, nhiều khi mình đi ra một chút, bị chúng xịt chó là thấy hết muốn đi rồi, muốn trở về. Không biết đi tới nữa, họ có gài bẫy họ đập mình thấy bà luôn. Nó nhiều cái suy tư ở trong đầu óc, làm cho mình nó thiếu kiên trì. Đi khất thực là nó khó như vậy đó. Cho nên ở đây, qua cái bài kệ này, Thầy thấy Ngài tu tập, Ngài có những cái sự kiên trì ở trong cái chỗ tu tập. Cũng như bây giờ Thầy nói như thế này. Đến đây thì Ngài nói:

Ăn một bữa kiên trì,

Vui đồ ăn khất thực,

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật.

Ăn một bữa kiên trì.Nếu quý vị mà về đây mà không có kỷ luật mà như ở đây, thì quý vị sẽ không ăn uống được đâu. Rồi bắt đầu quý vị rời khỏi nơi đây, chưa chắc quý vị đã ăn ngày một bữa như đây đâu. Tức là quý vị thiếu kiên trì chứ gì? Về nhà quý vị “Hồi ở trong đó ba tháng tui quất có một bữa, về đây thấy ba bữa, tôi khoái quá nhảy lên tôi ăn ngày ba bữa cho nó đã”. Chắc chắn là quý vị sẽ bị rớt ngay từ khi mà quý vị rời khỏi đây. Thì quý vị về cái ăn uống của quý vị sẽ thiếu kiên trì rồi. Tức là quý vị sẽ bị cám dỗ ngay liền. Mới về ở nhà vợ, hoặc con cái mình nói, “bữa nay ba về rồi, làm cái gì cho ngon ba ăn đi. Hoặc là ông mới về đó, làm một ly sữa cho ông uống cho khỏe. Ở trong chắc chắn là ông ăn chay địa lắm, chứ không phải không đâu”. Bắt đầu cám dỗ riết ông rớt, không bao giờ mà có thể ông không dính được đâu.

Cho nên Thầy nói thật sự, cái sự thật mà ăn một bữa, mà đã được giải thoát rồi, về nhất định người ta nhét vô trong miệng mình thêm một chút, thì nhất định không ăn là không ăn. Một ly nước ngọt cũng không thèm uống nữa. Tao đã ăn một bữa được rồi, thì tao đã giải thoát được ba bữa kia rồi, thì tụi bây đừng có mong mà dụ dỗ tao nữa. Tụi bây là cái đám ma vương này, đừng có bày đặt đồ ăn cho nó ngon để mà cám dỗ tao. Tao không có thèm đâu. Đói chết bỏ, chứ nhất định là ăn ngày một bữa là tao đã được giải thoát rồi, tao thấy rõ rồi.

Do đó là cái sự kiên trì của mình dữ lắm, mình mới về nhà mình mới giữ được. Chứ Thầy thấy hầu hết là quý thầy về đây tu, bắt buộc ăn một bữa, nhưng mà đi ra ngoài kia, vô trong kia có cái người Phật tử mà họ làm cái ly sữa như vậy này: Thầy uống ly sữa này cho nó khỏe, nốc liền, không có bao giờ mà khỏi uống. Khoái lắm mà. Đi ra một chút là thấy kể như giới luật là vi phạm, phi thời ngay tức khắc à. Không có phạm cái này, phạm cái ăn uống rất là rõ rệt.

Cho nên trong những cái bài mà nói như vậy. Tức là trong cái sự ăn uống chúng ta kiên trì dữ lắm, đừng có phạm nó. Đến đó người ta nói này kia, thầy cứ chấp giới chấp luật hoài. Quý thầy, người ta ai cũng vậy hết, còn thầy thì cứ vậy à. Thầy cứ uống đi, có sao con chịu cho. Có ai mà chịu cho mình? Mình đọa địa ngục thì mình biết chứ ai chịu. Nhưng mà họ nói cho qua, để cho mình nuốt cho được. Nhưng mà nuốt rồi sao, họ cười chứ bộ họ khen mình lắm. Ông thầy này, ông cũng khoái uống dữ lắm. Thầy nói thật sự đó. Còn mình không uống, ông thầy này khó, chứ coi bộ ông là người tu hành đàng hoàng đó. Phải không? Các con thấy mình đúng đắn thì họ sẽ ca ngợi mình, mà mình theo cái kiểu mà họ cám dỗ mình, thì mình sẽ bị họ chê mình, không có trật đâu.

Ăn trong bát kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật.

À, bây giờ quý thầy ở đây quý thầy người nào cũng có cái bát ăn hết, nhưng mà về nhà ăn cái bát khó quá. Húp canh gì mà kê cái bát húp cũng khó cực. Tốt hơn làm cái chén vậy dễ ăn, đũa dài gắp dễ. Ăn như trong chùa nó khó ăn quá. Đó, cho nên ở đây ông ta nói đúng đó. Ăn trong cái bát, mình phải xem thấy thật sự là mình kiên trì mới ăn được cái bát, chứ không phải là cái chuyện mà ăn ở trong cái bát là dễ đâu, không phải dễ đâu. Gắp cái gì cũng bỏ trong cái bát, rồi từ từ mình mới múc mình ăn, hoặc cái này cái kia.

Đó là một cái sự kiên trì của mình lắm. Rồi mình thấy nó thoải mái, dễ chịu hơn là về cầm cái bát cơm, cái chén hay cái tô gì này, xới cơm vô cái múc ăn, nó dễ, nó gọn, nó nhỏ, nó vừa cái miệng, mình ăn nó mau mà nó dễ nữa. Còn cái bát gì mà khó ăn quá. Nó làm sao cho mình, nhưng mà mình giữ gìn đúng cái hạnh của mình là ăn trong bát kiên trì.

Đó, những cái lời dạy này, Thầy thấy đều là có thấm thía lắm. Bây giờ các thầy, ở đây ăn trong bát với Thầy đó, nhưng mà khi về rồi, thì lấy cái chén nhỏ cho tôi ở trong, tôi trút xuống. Cái bát nó còn lớn hơn cái tô của mình ở nhà, cho nên bây giờ thôi bỏ đi. Cho tôi cái chén nhỏ tôi ăn cho nó gọn. Thật sự ra, có nhiều người nói, ăn cái bát là tại hồi xưa không có, còn bây giờ chén đũa thiếu gì, cứ lấy chén đũa mà ăn chứ thiếu gì. Sự thật ra nhiều cái vật dụng, nó làm cho chúng ta bị chìm đắm ở trong đó.

Cho nên ở đây “Thiền tư không chấp trước”. Nếu mà chúng ta không quán xét rõ được cái điều này, thì chúng ta dễ bị những cái vật chất đó lôi cuốn chúng ta trong cái ăn uống đó, trong cái vật đó; từ cái bát cho đến cái chén, từ đôi đũa này kia, nó làm cho chúng ta phải dính mắc hết. Thậm chí chúng ta là người muốn giải thoát, chúng ta phải tập ngay từ ăn bóc nữa, không cần muỗng nữa. Bởi vì có cái bát không chúng ta cũng khỏi khua cái bát kêu rổn rẻn rổn rẻn. Cái muỗng ở trong nó khua chứ gì, phải không? Còn bây giờ cái bát không, thì nó không khua. Cho nên hoàn toàn là không có bị dính mắc một cái vật gì hết. Hai bàn tay chúng ta ăn chúng ta rửa sạch. Lúc bây giờ chúng ta chỉ bốc mà ăn chứ khỏi cần gì. Đâu phải là người Ấn Độ họ mới bốc. Người Việt Nam cũng bốc được, nhưng mà người Việt Nam bốc để giải thoát, chứ đâu phải bốc như người Ấn Độ. Còn nhiều người Ấn Độ bốc mà không giải thoát sao. Đâu có phải chuyện như vậy. Cho nên, ở đây chúng ta đừng có nghĩ rằng mình ăn bốc mà đây là tìm cái đường lối giải thoát cho chúng ta. Chúng ta có cái gì chúng ta sử dụng cái đấy. Một con vật, nó có sắm đũa, sắm bát, sắm muỗng không? Nó cũng vẫn ăn được như thường. Trời sinh sao có gì mình sống, mình bỏ hết, để cho mình giải thoát hoàn toàn. Còn cái thân này mình còn bỏ, còn chấp cái gì nữa, ở đây mà thêm bát, thêm đũa, thêm nĩa, cho nó rườm rà, cho nó cực. Làm quá kiểu vua chúa.

Cho nên muốn giải thoát là chúng ta phải bỏ xả hết, để mà chúng ta trở về với sự giải thoát. Ăn uống chỉ tạm thời để mà nuôi cái con bệnh, con bệnh đói của thân chúng ta thôi, chứ đâu phải là thứ mà vĩnh viễn. Đâu phải là một cái thứ để mà chúng ta chấp nó để mà chúng ta nuôi nó để mà vĩnh viễn.

Đó thì quý thầy thấy cả một cái vấn đề phải kiên trì mới ăn được ở trong bát. Rồi bây giờ ông nói thêm cái gì đây?

“Không ăn thêm kiên trì”,nhiều khi chúng ta ăn rồi, nhưng mà thấy có người rọi lên cái gì đó, nó ngon quá thôi ráng ăn thêm. Cho nên trong giới bổn, các ông có chế ra muốn ăn thêm, phải nhờ cái người chưa ăn đó, họ ăn dùm cho một miếng, rồi bắt đầu mình ăn thêm được, không có phạm giới. Thiệt là mấy ông này muốn ăn thêm rồi chế tầm bậy ra đó. Đó là đọc lại kinh giới Thầy mắc tức cười. Cái chuyện đó là cái chuyện không có phải. Cho nên khi mà mình muốn, thấy mình ăn thêm cái điều đó, tức là còn cái tâm tham dục. Cho nên mình kiên trì, nhất định là không ăn thêm.

Vì đồ ăn mà đặt bát,

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật

Sống ở trong rừng kiên trì,

Vui theo đồ ăn đặt bát,

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật.

Sống trong rừng không phải đơn giản đâu. Cho nên, Thầy có một thời gian mà Thầy ở trên Hòn Sơn, Thầy ở trong rừng, ở trong hang, mà Thầy vẫn sống. Đâu có phải là chuyện mà người nhát gan, mà ở trên đó được. Người mà sợ hãi thì không ở trong rừng được đâu. Khó lắm chứ không phải dễ. Nhưng mà trong rừng núi mới là chỗ lý tưởng cho sự tu hành của chúng ta, chứ không phải là ở cái đồng bằng như thế này là lý tưởng cho chúng ta đâu.

Đến đây chúng ta nghỉ để mà ăn cơm. Rồi tiếp tục buổi chiều Thầy sẽ giảng tiếp theo cái bài này.

Hồi sáng Thầy đã giảng sống ở trong rừng phải kiên trì. Cho nên Thầy có thuật lại trong cái thời gian mà Thầy ở trên Hòn Sơn, mà Thầy sống ở trong rừng một mình để tu tập. Thiệt ra thì nếu mà không kiên trì, thì cũng không có sống nổi ở trong rừng. Cho nên cái bài kệ đó, thì nó đã qua rồi.

Bây giờ:

Ngồi ở dưới gốc cây mà kiên trì.

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật.

Đây là cái bài kệ của ông A Na Luật, ông đã từng theo Đức Phật tu tập, và ông đã nói lên cái bài kệ này.

Ngồi dưới gốc cây kiên trì, một cái người mà sống ở dưới gốc cây, một cái tàn cây như thế này, nó không nhà, không cửa mà sống như vậy đó, mà luôn ngày này qua ngày khác, nó phải có cái sự kiên trì ở cái sự tu tập đó. Và vui với cái đồ ăn mà khất thực, đây không phải là cái bài kệ của ông A Na Luật, mà là cái bài kệ của Ngài Bhaddiya. Ngài làmột vị hoàng tử và làm vua trong một nước. Sau khi theo Phật tu, Ngài xả bỏ hết. Rồi Ngài chỉ sống với những cái đồ ăn mà đi xin. Thì Ngài cũng phải kiên trì ở trong những cái đồ ăn đó. Rồi Ngài cũng phải kiên trì ở trong hằng ngày mà đi khất thực. Ngài cũng phải kiên trì sống ở trong những cái gốc cây, rồi kiên trì sống ở trong cái khu rừng. Mỗi mỗi cái, Ngài đều có cái sự sống kiên trì như vậy. Tại sao mà Ngài lại phải sống kiên trì? Vì Ngài sống với một cái đời sống của một vị vua rất là đầy đủ và sung sướng, làm cho Ngài nếu mà không kiên trì thì Ngài sẽ bỏ cuộc. Và bây giờ những món ăn mà đi xin, nó không phải là những món ăn mà được các người mà hầu hạ mà nấu nướng cho nó thích khẩu, cho nó vừa miệng. Mà người ta cho cái gì thì ăn cái nấy. Ở trước kia, những bài kệ trước của Ngài, Thầy đã có nhắc lại vấn đề này. Cho nên luôn luôn lúc nào thì Ngài cũng phải sống ở trong cái sự thiền quán, tức là thiền tư, Ngài suy tư Ngài quán xét. Vì vậy mà Ngài mới chấp trì được cái hạnh sống đó, để mà Ngài thực hiện được cái sự giải thoát.

Cho nên:

Ngồi gốc cây kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật.


Nếu mà mình muốn trở thành một đức Phật giải thoát, là con của đức Phật. Thì luôn luôn mình phải sống có cái sự kiên trì, chịu đựng ở trong sự tu tập của mình. Vì vậy mà muốn được kiên trì mà sống được như vậy, thì phải có một cái sự suy tư thấu đáo. Nó làm cho chúng ta không còn chấp trước những cái mà chúng ta chạy theo những cái ảo giác sung sướng, hạnh phúc giả tạo của thế gian.

Đó là sống dưới gốc cây. Còn bây giờ tới cái bài kệ bốn câu này thì Ngài lại sống ở ngoài trời.

Sống ngoài trời kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật.

Thì bây giờ chúng ta nghĩ coi mình sống ở ngoài trời, khi mà có thể nắng gió, không có bóng cây, không có một cái gì mà che nắng. Thì chắc chắn là chúng ta thấy rất khó, rất khó mà kiên trì sống được như vậy. Cho nên nếu không khéo thì chúng ta lại bỏ cuộc trong cái bước đường tu tập. Vui thì với cái đồ ăn mà người ta cho chứ không có chê dỡ chê ngon hay chê hư chê thối gì hết. Miễn ăn để mà sống mà thôi. Do vì vậy đó thì Ngài phải luôn luôn sống ở trong cái thiền tư. Tức là Ngài quán xét từng cái hành động sống của mình. Sống ngoài trời mà tâm nó không còn thấy buồn bã. Nó không còn thấy mình trơ trọi hay thế này thế khác, hoặc là mình cô đơn thế này thế khác, hoặc là mình thiếu hụt thế này thế khác. Luôn luôn thấy biết đủ. Cho nên Ngài vui sống với cái cuộc sống tu hành. Cho nên Ngài mới xứng đáng là con của đức Phật.

Bây giờ, trên bước đường tu hành có lúc thì sống dưới gốc cây, có lúc thì sống ở trong rừng, có lúc thì sống ngoài trời. Nhưng cũng có lúc sống ở nghĩa địa.

Trú nghĩa địa kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật.

Bây giờ Ngài sống ở nghĩa địa. Thì các con thấy mình sống chắc một bữa ở trong cái đồng mã, thì chúng ta đã thấy hết muốn ở rồi. Thế mà ngày này qua ngày khác nếu còn đang trụ ở đồng mã, thì Ngài sẽ ở đó mãi. Rồi có những thây ma, có những cái đám ma người ta mới chôn. Vì vậy đó mà nếu mà chúng ta không có gan dạ thì chắc chắn khó mà có thể ở trong cái đồng mã đó được. Ban đêm thì thanh vắng, nhìn đâu đâu những cái thay ma, những cái gò mã. Những cái mã dày đặc ở trong cái khu đất đó, làm chúng ta thấy nó lạnh lùng, làm chúng ta thấy nó buồn bã vô cùng. Thế mà Ngài kiên trì, Ngài vẫn sống được. Và Ngài sống được là Ngài nhờ gì? Tức là Ngài nhờ thiền quán, tức là tu cái định Vô lậu, Ngài quán xét cho nên Ngài không chấp trước một cái gì hết. Vì vậy mà Ngài mới xứng đáng là con của đức Phật.

Tùy xứ trú kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật.

Tùy cái xứ, cái trụ xứ đó nó khó hay dễ, nó được đầy đủ hay là thiếu hụt. Cái trụ xứ nào Ngài cũng tùy được hết. Ngài ở đâu Ngài cũng thấy được an vui hết. Chứ Ngài không thấy ở chỗ này sao động quá, ở chỗ này sao ồn quá, ở chỗ này không có núi rừng, ở chỗ này sao mà thiên hạ ca hát đàn địch tối ngày. Ngài không có than phiền gì hết. Tùy cái trụ xứ đó mà Ngài kiên trì mà ở, mà nỗ lực thực hiện cái thiền tư, tức là cái thiền quán để cho mình quán xét, không còn chấp trước một cái đối tượng nào hết. Từ đó thì Ngài mới giải thoát được hoàn toàn, mới xứng đáng là con của Phật.

Cho nên cái câu kệ này, thì chứng minh rằng chúng ta nhiều khi cái tâm của chúng ta còn cái chướng, nó không có tùy xứ. Đến cái xứ này thì mong cái xứ khác, đến cái xứ khác thì mong cái xứ khác nữa. Rồi trong tâm cứ nghĩ lo đi tìm cái nơi nào mà yên tịnh và thanh vắng nhất thì mới tu hành được, còn cái cảnh động như thế này thì tu hành không được. Khi Ngài ở cái trú xứ nào thì Ngài cũng kiên trì để mà thực hiện cái thiền tư để mà quán xét, để mà không chấp trước, không bị dính mắc cái cảnh đó, để làm cho mình khó khăn tu hành.

Nghĩa là Ngài dùng cái bài kệ này, Ngài sống gần với người này người kia, thường gần sống những người kiên trì. Mình sống với những người này người kia thì mình phải có tu tập kiên trì. Họ khen mình cũng được mà chê mình cũng được. Mà bằng cách này bằng cách khác đủ loại, thì mình vẫn kiên trì cái lời nói, cái hoàn cảnh, cái sự kiện mà xảy ra mình vẫn kiên trì được. Luôn luôn mình:

Vui với đồ ăn khất thực,

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật.

Sống gần người kiên trì,nghĩa là gần bất cứ người nào, thì mình cũng vẫn giữ được cái sự kiên trì của mình. Vui với những cái đồ ăn mà người ta đặt bát, mình thiền tư, mình không chấp trước. Do đó luôn luôn lúc nào cái thiền quán thì Ngài cứ đặt trước mặt của mình. Nỗ lực tu để tâm mình không bị dính mắc cái lời khen, tiếng chê hoặc là thế này thế khác. Đó là cái sự tu tập của Ngài. Chúng ta lấy đó mà có thể bắt chước Ngài để mà dùng cái thiền quán, thiền tư hoặc là Định Vô lậu, để mà chúng ta đừng có dính mắc.

Ham muốn ít kiên trì, nghĩa là mình tập luyện cái sự ít muốn của mình cho nó kiên trì. Chứ còn cái muốn của mình, thì cái ham muốn mình nó muốn nhiều lắm. Thấy cái chút gì mình cũng thấy mình thiếu hết à, mình không có thấy mình đủ. Cho nên mình tập cái ham muốn ít đi. Mình kiên trì, bây giờ nó có cái gì, thì mình bỏ lần, bỏ lần để cho mình ít muốn đi, thì nó mới là được. Cho nên muốn mà làm cho mình tập được cái tánh mà ít muốn, thì mình phải kiên trì tập luyện, xả lần xả lần xuống để cho cái tâm tánh ít muốn lại. Chứ không nó muốn gì, mà cái gì nó cũng muốn hết. Luôn luôn mình “Vui với đồ ăn đặt bát. Thiền tư không chấp trước”, tức là luôn luôn mình nhớ để cho mình thực hiện cái thiền Định Vô lậu. Mình quán xét để cho mình đừng có chấp trước, sao mình thiếu cái này, mình thiếu cái kia. Do đó vì mình chưa ít muốn cho nên mình thấy mình thiếu. Còn mình muốn ít rồi thì mình không thấy mình thiếu gì nữa hết. Mà muốn được vậy thì mình phải quán xét, mình suy tư, đời không còn có gì nữa hết. Cho nên do đó mình không chấp trước một cái gì.

Bây giờ tới một cái giai đoạn nữa là “Sống biết đủ kiên trì”, nghĩa là mình biết bây giờ có cái gì là mình biết đủ cái đấy à, mình không có muốn thêm nữa. Mà cái đó cũng là sự kiên trì của mình. Chớ không biết kiên trì thì chắc chắn mình chưa sống biết đủ đâu.

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật.

Nghĩa là luôn luôn lúc nào mình cũng phải có cái sự quán xét suy tư, để cho mình phá cái chấp dính mắc của mình. Từ đó mình mới sống cái biết đủ mới được. Còn không khéo thì mình không biết đủ.

Rồi đến một bài kệ nữa thì Ngài lại dạy:

Hạnh viễn ly kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật.

Bây giờ đó mình phải tập sống cái hạnh viễn ly. Ly các pháp, ly cái này ly cái nọ, ly tất cả mọi cái hết. Chớ không có để cho nó dính mắc ở trong cái tâm của mình. Mọi vật đều bỏ xuống hết. Do vì vậy đó mà mình thực hiện cái hạnh viễn ly mới được. Còn nếu mình mà không thực hiện cái hạnh viễn ly, thì mình khó mà có thể giải thoát. Hay nó còn nhiều vật dụng, còn cái này kia thì tức là mình khó mà giải thoát được. Mình chỉ sống làm sao cho nó đủ vọn vẹn ở trong cái đời sống của mình. Rày đây mai đó, không nhà không cửa, sống cái người mà không gia đình, không nhà cửa, không tài sản của cải thì mới thấy cái tâm hồn mà thảnh thơi.

Các con sẽ nghe lại cái cuộn băng mà Thầy đã nhắc. Có một vị thường xuyên vị ở trong khu rừng, hoặc là ở nơi đâu đó ngồi dưới gốc cây, vị đó nghĩ sao mà hạnh phúc quá như thế này. Cứ lâu lâu Ngài lại thốt lên cái lời nói, sao mà người tu hành hạnh phúc đến cái mức độ này. Thì cũng là cái ông này, ông là một vị vua, ông sống rất là đủ ngũ dục lạc. Nhưng mà ông thấy là khi làm vua, ông còn sợ hãi lo lắng mọi thứ. Mà trái lại khi theo Phật xuất gia rồi bây giờ mới thấy thật sự rằng, khi mà viễn ly, xa xôi những cái vật dụng của thế gian, những vật chất rồi, thì ông mới thấy đây là một cái sự giải thoát chân thật, đây không còn khổ đau nữa. Cho nên thỉnh thoảng ông thốt lên lời nói. Và đức Phật đi kinh hành ngang qua nghe ông thốt lên như vậy, đức Phật mới hỏi. Thì ông là cái người giữ cái hạnh viễn ly, rất là kiên trì trong cái hạnh viễn ly, cho nên mới đem lại cái sự hạnh phúc đó cho chính bản thân ông. Chúng ta thấy đó, và đây cũng là một cái bài kệ nhắc nhở chúng ta, để sống cái đời viễn ly. Chúng ta buông xuống, buông xuống hết, để mà viễn ly, để không còn một cái gì nữa. Chứ nếu mà còn một chút, thì chắc chắn là chúng ta khó mà giải thoát được.

Bài kệ kế là nhắc nhở cho chúng ta thêm là “Không giao du kiên trì”,nghĩa là chúng ta kiên trì không có giao du với ai hết, không có chơi với người nào hết. “Vui với đồ ăn đặt bát”, nghĩa là người ta cho mình cái gì mình ăn cái nấy, mình vui vẻ với cái đồ đó.

Thiền tư không chấp trước,

Là con của đức Phật.

Cho nên sống nếu mà mình không giao du với ai, thì nó là một cái sự kiên trì chứ không khéo thì cũng nay nói chuyện người này, mai nói chuyện với người kia. Nó sanh ra nhiều thứ phiền não và đau khổ vô cùng. Mà ở đây Thầy thường nhắc nhở các con nên sống độc cư, không nên nói chuyện với ai hết. Mình sống cái chỗ nào, mình mong sống một mình mình trầm lặng trong cái sự cô đơn, để thực hiện cái nội tâm của mình đi sâu vào thiền định. Đó là những cái hạnh, những cái điều kiện mà cần tu thì qua những cái bài kệ này, đều là nhắc nhở chúng ta hết.

Cho nên khi mà các con hiểu được, ráng mà nêu những cái hạnh này, mà lập thành một cuộc sống của mình. Sống không giao du với ai hết.Đó là một cái bài kệ để dạy chúng ta muốn mà sống không giao du, thì phải suy tư, phải quán xét rất là thấu đáo, để không còn dính mắc nữa.

Đến cái bài kệ nữa:

Sống siêng năng kiên trì. Cái sự siêng năng mà kiên trì đó, là mình phải siêng năng chứ không thể nào thiếu sự siêng năng mà được. Ví dụ như bây giờ mình không giao du với ai, mình kiên trì nhưng mình thiếu siêng năng thì ít hôm thì mình có cái sự không giao du đó trong vòng nửa tháng hoặc một tháng à. Còn sau đó thì bắt đầu giao du tùm lum ra hết, thì như vậy là mình chỉ có siêng năng trong có mấy ngày à. Cho nên cái sự siêng năng này nó phải luôn luôn. Cũng như mình sống cái hạnh viễn ly thì nó phải siêng năng viễn ly mãi mãi từ năm đến năm khác, cho đến cả suốt cuộc đời của mình. Chứ có khi mình sống viễn ly, mình không giao du, nhưng mà mình siêng năng chỉ có một tháng hai tháng, một ngày hai ngày à. Tôi siêng năng dữ lắm, tôi siêng năng có một ngày tôi tịnh khẩu, tôi không nói chuyện, tôi độc cư không giao du ai hết, có một ngày à. Còn ngày hôm sau thì mình nói chuyện tùm lum ra hết. Thì cái đó là thiếu siêng năng. Siêng năng mà như vậy thì mình phải siêng năng mãi, hoài cho đến suốt cuộc đời của mình thì mình mới thấy được cái sự giải thoát. Thì cái bài kệ dạy, tuy rằng bốn câu kệ, nhưng nó đầy đủ cái ý nghĩ. Nếu mà chúng ta thiếu siêng năng trong một cái hạnh nào đó, thì cái sự thiếu siêng năng đó, nó sẽ làm cái hạnh đó nó sẽ bị mất đi, nó không còn ở với chúng ta nữa.

Đến bài kệ này nữa, thì Ngài dạy:

Từ bỏ bát quý giá bằng vàng, bằng nhựa quý.

Ta lấy bát bằng đất,

Đây quán đảnh thứ hai.

Nghĩa là Ngài luôn, cả cái vật dụng mà hằng ngày của Ngài đó. Là cái bát mà thường thường là cái bát bằng vàng, bằng loại nhựa quý, mới làm cái bát để đựng đồ ăn. Giờ mình bỏ hết rồi. Bây giờ còn cái y, mà trong cái y của Ngài, Ngài đi lượm. Thay vì Ngài là nhà vua mà đi tu, thì chắc chắn y áo của Ngài chắc chắn phải là những đồ tốt rồi. Nhưng không, Ngài bỏ hết, Ngài không có nhận một cái gì, mà của thần dân hoặc là của Ngài, để mà sắm cho Ngài một bộ y áo, để cho Ngài đi tu cho đẹp đẽ, không. Ngài đi ra ngoài cái đống rác Ngài lượm, mà Ngài rất kiên trì Ngài lượm từng miếng vải, Ngài về cấu kết lại thành một cái y Ngài đắp trên người của Ngài. Phải lượm rồi Ngài giặt sạch sẽ, rồi Ngài mới kết lại để thành cái y. Chứ Ngài không có ỷ rằng mình vua chúa rồi mua hàng, mua vải tốt, để mà làm cái y cho mình rồi đi tu, không phải. Ngài cũng không ở đây, cho nên Ngài cũng nói, Ngài từ bỏ cái bát quý giá bằng vàng, bằng nhựa quý, Ngài bỏ hết. Ngài chỉ nhận có cái bát bằng đất, Ngài dùng mà thôi. Và Ngài không có bị dính mắc ở trong cái bát đất đó nữa. Cho nên cuối cùng, thì đó là cái quán đảnh thứ hai của đời tu sĩ của Ngài.

Thì các con thấy một vị tu sĩ đâu còn gì tài sản, chỉ còn có cái bát ăn cơm không. Thế mà người ta còn không chấp nhận đó là cái bát vàng, cái bát nhựa quý, cái bát ngọc, cái bát bằng ngà, cái loại quý. Thế mà hôm nay chúng ta thấy những người tu sĩ mà ôm cái bình bát đi xin, hầu như họ cũng lo cái bát của họ dữ lắm. Họ không còn gì hết, mà họ cũng nghĩ đến cái bát của họ. Đối với chúng ta, thì như Thầy vừa nói, nếu cái bát đó nó có bể (vỡ) đi thì chúng ta lấy lá cây rừng chúng ta chầm lại cái bồ đoàn, thì chúng ta cũng dùng nó làm cái bát, để đi xin ăn cũng được rồi. Đâu cần gì cái bát nhựa, bát đất, cái bát vàng quý báu, mà nó làm cho chúng ta bị dính mắc. Đó là cái người tu sĩ của đạo Phật chúng ta xả hết. Cuộc đời thân chúng ta còn không giữ được, huống hồ là cái bát mà giữ làm gì. Cho nên chúng ta cũng buông xuống, buông xuống hết.

Dòng thành cao bảo vệ,

Vọng lâu cửa kiên cố,

Với lính tay cầm gươm,

Ta đã sống sợ hãi.

Nghĩa là tuy rằng trước khi mà chưa đi tu, thì Ngài ở trong một cái dòng thành cao, có sự bảo vệ, có Vọng lâu, tức là có cái lầu cao để nhìn. Bốn cửa rất là kiên cố, lính thì cầm gươm súng hầu hạ canh gác đầy đủ. Thế mà ta ở trên một cái lầu đó, ta cũng vẫn thấy sợ hãi. Ông nói ông thấy cũng luôn luôn nơm nớp sợ hãi ở trong lòng à. Không có bao giờ, mặc dù có lính tráng, có người hầu kẻ hạ như vậy, mà vẫn sợ. Mà ở trong cái vòng thành rất là bảo vệ mà vẫn sợ. Còn trái lại bây giờ sống một thân một mình ở đồng mã, ở rừng sâu, ở bụi cây, ở gốc cây, thế mà giải thoát, không có khổ sở nữa, không có sợ hãi nữa.

Nay theo Phật tu hành,

Bỏ run sợ kinh hãi,

Thiền tư vào rừng sâu,

Là con của đức Phật.

Nay theo Phật tu hành rồi, thì cái rung sợ đó, kinh hãi đó không còn nữa. Nhờ cái thiền tư mà ở trong rừng sâu vẫn thấy an vui, vẫn thấy yên ổn mà không có khổ đau. Thì ở đây, thì các con thấy rằng, bỏ cái giàu sang của vua chúa, bỏ cái sự hầu hạ, bảo vệ mà trong lúc đó tâm hồn luôn luôn sợ. Trái lại chúng ta bỏ sạch hết, thì tâm hồn chúng ta không còn sợ hãi gì nữa. Khi mà chúng ta còn có một cái gì mà sợ hãi đó, thì tức là chúng ta chưa bỏ, còn dính một cái gì đó, chúng ta sợ. Còn nếu mà chúng ta không còn sợ nữa, thì đâu còn gì mà sợ. Cho nên thậm chí như Thầy nói, như cái thân ngũ uẩn của chúng mình là giai không. Thường chúng ta tụng kinh Bát Nhã đó, “hành thâm Bát Nhã ba la mật, đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Thì chúng ta biết rằng ngũ uẩn, cái thân ngũ uẩn của mình nó không có gì, nó là không. Thế mà chúng ta còn dính mắc một cái gì, đối với thân ngũ uẩn này, thì chúng ta phải còn sợ hãi, còn lo lắng, còn sợ hãi. Còn trái lại, một cái người mà không có thấy cái thân ngũ uẩn mình là, một cái đáng cho chúng ta chấp nó nữa, thì chúng ta xả nó hết rồi. Thì chúng ta còn cái gì nữa mà sợ, phải lo lắng, phải kinh hãi, phải sợ hãi. Cho nên mọi vật đến là nhân quả. Cái gì đến thì mình cứ giải quyết nhân quả mà thôi, có gì mà phải sợ nó.Ở đây có gì mà sợ danh sợ lợi, có gì mà phải ngại đó mà sợ hãi. Chúng ta là những người tu sĩ của đạo Phật. Chúng ta biết nhân quả rõ ràng, thông suốt đường đi nhân quả rõ ràng. Nhân thì phải có quả, mà quả thì phải trả, chứ làm sao mà trốn tránh ở đâu. Cho nên vui mà đón, vui mà trả, chứ không có trốn tránh đi đâu, không có sợ hãi. Cho nên tâm lúc nào cũng an vui, cũng thanh thản. Vì vậy mà chúng ta là người tu sĩ đạo Phật, thậm chí cái thân của chúng ta còn xả rồi, thì vật gì ở trong thân của chúng ta, vật gì ngoài thân của chúng ta, còn nữa mà chúng ta tiếc. Chúng ta đâu có còn tiếc gì nữa. Cho nên Ngài nói bài kệ cuối cùng.

An trú trong giới uẩn,

Chánh niệm tu tuệ quán,

Thứ lớp ta đạt được,

Mọi kiết sử ta đoạn dứt.

Đó thì quý con thấy chưa? An trú trong giới uẩn. Các cái giới của Phật dạy, cái giới của thân của chúng ta. Cái giới uẩn, thân ngũ uẩn của chúng ta, nó là vô thường, khổ vô ngã. Chúng ta còn chỗ nào mà dính mắc nó được, cho nên chúng ta đâu còn sợ hãi nó. Do đó, chánh niệm luôn luôn ở trong cái tuệ quán của chúng ta, suy tư của chúng ta. Chúng ta không thấy cái thân này là cái ngã, không thấy những vật xung quanh chúng ta từ cái y, từ cái ăn, từ cái mặc, từ cái bát của chúng ta là cái vật để mà cần dùng hằng ngày chúng ta là quý, làthường hằng. Nó bể chúng ta chẳng buồn, nó rách chúng ta cũng chăng lo. Mặc nó, nó như thế nào, thì chúng ta tùy tiện chấp vá lại mà mặc, chứ chúng ta cũng chẳng vì nó mà chạy đầu này chạy đầu kia để xin xỏ, để cho mình có y mới, áo mới, hay cho có bát mới. Hoặc là cái thân này đau đớn, mà chúng ta lại sợ hãi. Bằng cách này, bằng cách khác, mặc nó. Nhân thì có quả, quả thì có nhân, có gì mà chúng ta phải lo lắng nó. Nó hết quả, hết nhân thì nó hết bịnh hết đau. Còn nhân còn quả, thì nó đau, nó bệnh thì mặc nó, mắc mớ gì, can dự gì, cái người tu hành mà mình cứ lo nó. Nay nhức chân, mai nhức lưng, bữa kia thì nhức đầu, bửa nọ thì đau bụng. Mặc tình nó, nó là ngũ uẩn, thì nó làm cái gì thì nó làm, mặc nó, nó có liên hệ gì với mình đâu. Mình là giải thoát, mình đứng ngoài cái vòng rào của ngũ uẩn, chứ đâu phải trong cái vòng rào ngũ uẩn mà sợ.Còn các con chưa có thấy được hiểu biết như vậy, cho nên lúc nào các con cũng bị ngũ uẩn bao vây, làm cho các con thấy đau khổ, nhức chỗ này, nhức chỗ kia. Rồi nghĩ rằng mình chết rồi, không tu được. Có cái thân này là khó, mà được cái thân này là không phải dễ, mà bây giờ không khéo không nuôi dưỡng, không ăn uống cho đầy đủ đây, rồi nó chết. Mặc nó, nó có chết được nó chết, nó sống được nó sống, ăn thua gì với mình. Nó có nhân, có quả, thì tức là nó có cái thời gian sống và chết đó, phải có nhất định cái nhân quả của nó. Muốn bây giờ cho đừng đau cũng khó mà muốn được, vì nhân quả đã sẵn rồi. Muốn cho nó đừng chết, mà bây giờ cái nhân quả nó chết, thì chúng ta cũng muốn đâu được. Nó chết mặc nó, nó sống mặc nó, miễn hiện giờ mà chúng ta còn thở được, là chúng ta phải sống giải thoát. Tâm chúng ta bất động trước các sự việc của nó, thì như vậy, thì nó đâu có làm sao chi phối được cái tâm hồn của mình. Nó làm sao dao động được mình. Cho nên Ngài nói:

An trú trong giới uẩn,

Chánh niệm tu tuệ quán,

Thứ lớp ta đạt được,

Mọi kiết sử đoạn dứt.

Các kiết sử, tức là các sợi dây mà trói buộc đó, chúng ta đều đứt hết rồi, thương ghét giận hờn, tất cả mọi cái. Lát nữa thì các con nghe Thầy lấy Pháp mà tu hành, pháp thương, pháp ghét, pháp thù, pháp hận đều bắt nó niệm Phật hết. Cho nên nó niệm riết thì mình không có giận hờn, không có thương ai nữa hết. Mà không có giận hờn thương ghét, thì cái tâm hồn của mình nó giải thoát. Vì vậy mà cái bài kệ này để nói lên cái chỗ mà chúng ta lấy các pháp mà niệm Phật, để tâm của chúng ta dứt ra khỏi sự đau khổ của thế gian. Muốn được vậy, thì phải siêng năng mà tu tập cái thiền tư - cái thiền mà Định Vô lậu, để hằng ngày mà chúng ta thấu suốt được cái lý vô thường, khổ, không, vô ngã của các pháp, làm chúng ta được giải thoát.

Đó là một số bài kệ của một vị, một nhà vua mà đã đi tu theo Phật, mà bỏ hết tất cả những sự nghiệp vua chúa của mình. Đó là ngài Bhaddiya. Ngài thực sự quyết tâm theo Phật, để mà thực hiện con đường tu tập. Ở đây có một cái bài kệ. Đây là những bài kệ của một vị vua mà đã theo Phật tên là Bhaddiya. Ngài lấy thân mà niệm Pháp. Lấy cái thân của Ngài mà niệm các Pháp, cho nên Ngài mới thực hiện và Ngài nói lên những cái bài kệ này. Pháp dạy như thế nào là thân Ngài sống như thế ấy, và Ngài kiên trì ở trong cái thân mà niệm các Pháp. Cho nên pháp của Phật dạy là viễn ly, thì Ngài viễn ly. Pháp của Phật dạy Ngài từ bỏ của quý báu, thì ngài từ bỏ. Pháp của Phật dạy Ngài siêng năng, thì Ngài siêng năng. Pháp của Phật dạy Ngài ít giao du, không giao du, thì Ngài không giao du. Dạy Ngài viễn ly, thì Ngài viễn ly. Dạy Ngài biết sống đủ, thì Ngài biết đủ. Dạy Ngài ít muốn, thì Ngài ít muốn, dạy Ngài tùy cái xứ nào thì cũng...

BĂNG SỐ 57

Dạy Ngài ít muốn thì Ngài ít muốn. Dạy Ngài tùy cái xứ nào thì cũng kiên trì ở trong cái xứ đó. Dạy Ngài ở nghĩa địa thì Ngài cũng tùy cái pháp ở nghĩa địa. Dạy Ngài sống ngoài trời thì Ngài vui mà sống ngoài trời. Dạy Ngài ngồi gốc cây thì Ngài vui mà sống ở dưới gốc cây. Dạy Ngài sống trong rừng thì Ngài sống trong rừng. Dạy Ngài không ăn thêm thì Ngài không ăn thêm. Dạy Ngài ăn trong bát thì Ngài ăn luôn ở trong bát.

Cũng như bây giờ Thầy nhắc lại, ở đây thì các con còn ăn ở trong cái chén, chưa ăn bát. Nhưng tập ăn bát được rồi, rồi các con luôn luôn lúc nào cũng giữ gìn ăn ở trong cái bát. Coi vậy chứ cái đời sống của chúng ta rất khó. Khi mà ăn cái bát rồi về thấy đũa chén, những cái muỗng nĩa mà chúng ta thường dùng trong cái thói quen. Bây giờ về ngay đó thì chúng ta đớp lấy cái chén mà chúng ta ăn thì thấy nó thoái mái vô cùng. Còn ăn trong cái bát rất là khó khăn, rất là khó. Nhưng cái bát nó nói lên được cái buông xả của chúng ta. Chỉ còn có một vật dụng đựng mà thôi chứ không còn có cái chi ly những cái này cái khác nữa. Cho nên thậm chí như đức Phật ngày xưa mà ăn bóc mà không có muỗng. Không phải có nghĩa là người Ấn Độ là ăn bóc đâu. Cũng có những người Ấn Độ họ cũng có muỗng có nĩa, có này kia họ ăn. Nhưng chúng ta thấy rằng phần nhiều là cái người tu sĩ người ta bỏ hết. Người ta ăn bốc là dùng hai bàn tay người ta có người ta sống.

Đó là Ngài lấy cái thân của Ngài mà Ngài sống đúng như pháp đã dạy.

Dưới đây là một bài kệ của một vị thiên nhân thấy một cư sĩ mà vị cư sĩ đó được nghe Phật pháp mà bỏ gia đình bỏ không được, bỏ của cải tài sản bỏ không được. Cho nên vị thiên nhân này mới đọc lên cái bài kệ mà nhắc cái vị này.

Dưới đây là bài kệ một thiên nhân nhắc nhở Ngài Ysi Đi Nhan. Khi Ngài đã được nghe bậc đạo sư thuyết giảng rồi thì Ngài ngộ được cái lý. Cái lý là các dục là vô thường. Ngài ngộ được nhưng mà Ngài không có dứt khoát được cái đời sống thế gian. Tức là Ngài không bỏ vợ bỏ con bỏ của cải tài sản được. Cho đến khi một vị thiên nhân đến mới đọc cái bài kệ. Thầy xin đọc lại cái bài kệ để chúng ta thấy rằng suốt cuộc đời chúng ta, các con thì có người đã xuất gia rồi nhưng mà cái tâm của chúng ta vẫn còn ở trong thế gian chứ chưa có bỏ ra được. Ở đây vị thiên nhân đó dùng cái bài kệ để nhắc nhở cái vị cư sĩ này đã ngộ được cái lý các dục là vô thường nhưng bỏ không được.

Đây cái vị thiên nhân nói:

“Ta thấy người cư sĩ,

Tùy pháp với lời nói,

Các dục là vô thường,

Chúng ưa thích luyến ái,

Châu báu và vàng bạc,

Chúng đón chờ vợ con”.

Nghĩa là sáu cái câu kệ này thì vị thiên nhân đó mới nói như thế này. Ta thấy ông là cư sĩ đó. Ông có hiểu cái lời, ông có trì cái pháp và cái lời nói của Phật thật. Ông có biết là các dục là vô thường thật nhưng ta thấy ông vẫn còn luyến ái với gia đình, với vợ con. Châu báu và vàng bạc thì ông cũng chẳng có bỏ được. Thường là ông vui vẻ đón chờ vợ con chứ chưa có biết nó là vô thường. Cho nên ông nói các dục là vô thường nhưng mà thấy cuộc sống của ông luôn luôn nó ở trong các dục mà chưa thoát ra.

“Thật sự chúng không biết,

Thoát như thật là gì,

Dầu chúng có tuyên bố,

Các dục là vô thường,

Chúng không có sức mạnh,

Để cắt đứt tham ái,

Do vậy chúng luyến tiếc,

Vợ con và tài sản”.

Đó là cái bài kệ, tám cái câu kệ sau để nhắc cho thêm rõ. Chúng ở đây chỉ cho các vị cư sĩ. Hầu hết được nghe Phật thuyết giảng biết các pháp, hiểu được các pháp, ngộ được các pháp dục là vô thường, các pháp là vô thường, thân là vô thường, thọ là vô thường. Cũng như bây giờ nói vô thường thì quý vị ai cũng nói được hết. Nhưng mà chúng sanh, các vị cư sĩ, các vị không có đủ sức mạnh để dứt các tham ái đó đi, dứt bỏ những cái đối tượng tham ái đó đi để mà đạt cho được cái chỗ dứt khoát đó đi. Do vậy các vị còn luôn luôn luyến tiếc vợ con và tài sản, không có bỏ ra được. Mà không có bỏ ra được như vậy thì con đường mà tu hành này chẳng bao giờ tới đâu được hết. Ý là vị chư thiên nhắc nhở cái vị cư sĩ ấy là như vậy.

Trả lời cho cô Minh Cảnh trước. Bởi vì của cô Minh Cảnh thì ngắn, hỏi có bao nhiêu đây thôi nên Thầy trả lời trước.

Cô Minh Cảnh hỏi Thầy:

Hiện tại con tu cái Hiện tại an lạc trú. Ngồi một giờ con ám thị nhĩ thức cho bám chặt để mà phá cái âm thanh. Và con vận dụng như vậy thì âm thanh có giảm. Nhưng mà cô Út nói con sai mà con không biết sai chỗ nào. Bởi vì cô Út không có xét qua cái chỗ mà tu cái định Hiện tại an lạc trú của con. Trong lúc con tu trong một ngày, con ngồi một giờ hoặc là một ngày con ngồi hai giờ tu. Thì trong cái định Hiện tại an lạc trú con ngồi cái thời gian ít như vậy là đúng đó, nó không sai đâu. Và con bám chặt trong cái tụ điểm. Sáu cái thức mà bám chặt ở trên tụ điểm và cột chặt nó ở trong cái hơi thở. Từ tụ điểm đó mà chúng ta thấy xuất phát cái hơi thở ra và hơi thở vô.

Thầy cũng nhắc lại cho mấy con thấy là cái vấn đề cái tụ điểm là rất quan trọng. Thầy thường nói đó là cái điểm tựa để mà chúng ta bảy qui tụ. Chúng ta có thần lực và đại thần lực mà có được là cái như ở trong Tứ như ý túc đó. Định như ý túc chúng ta muốn nhập định lúc nào chúng ta nhập sao chúng ta chỉ ra lệnh là chúng ta nhập được đó. Mà muốn được vậy thì tức là chúng ta phải có cái tụ điểm. Mà cái tụ điểm tức là một cái cọc để mà chúng ta đóng thật chặt để mà chúng ta cột sáu con vật. Sáu con vật đó là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta - cột chặt vào đó. Do đó, sáu con vật này nó bị cột chặt đó, nó chạy loanh quanh một hơi nó nó mệt cái nó nằm xuống đó, nó không có đi. Bây giờ chúng ta đã cột chặt, nó chạy lâu ngày rồi giờ nó mệt rồi. Lúc nào nó cũng nằm đó, nó không có đi đâu xa nữa cho nên nó không có phá làng phá xóm người ta nữa. Do đó cho nên chúng ta rất dễ rồi, chỉ cần bảo nó bám chặt xuống, nằm yên xuống ở trên cái tụ điểm. Từ đó chúng ta phải thấy rằng cái tụ điểm là cái quan trọng. Cái tụ điểm là như thế nào? Chúng ta phải có một cái pháp tưởng nơi đó. Bởi vì đạo Phật biết dùng tưởng nhưng mà rất sợ tưởng, xả bỏ tưởng. Chớ không phải là cái tưởng mà tự nó đến là chúng ta phải xả bỏ.

Như bây giờ chúng ta ngồi thiền nhiếp tâm nè với mục đích tịnh chỉ cái gì, vào cái định gì. Mà bây giờ nó ngồi đây nó thấy an ổn, nó thấy thích thú thì cái này là tưởng đến. Nó là khác rồi. Còn bây giờ mình dùng tưởng là như thế nào? Mình đặt cái tưởng của mình là mình đặt cái thây ma sình hôi thúi mà nó sình trương. Cho nên trước mắt mình thì đâu có cái thây ma đâu mà bây giờ mình lại thấy cái bộ xương của con người nằm đó rồi hôi rồi thúi rồi này kia đủ thứ hết. Thì đó là mình dùng pháp tưởng chứ gì, cái đề mục tưởng chứ gì. Cho nên chúng ta biết dùng cái tưởng thì chúng ta cũng có thể sử dụng được. Cũng như bây giờ ở tại cái nhân trung của chúng ta nè, cái chỗ này nè. Cái nhân trung thì nó có cái đầu nhân trung, và giữa nhân trung và cái cuối của đuôi của nhân trung. Thầy phân biệt cho các con biết chứ, tại sao chúng ta không đặt nó ở trước mũi. Mà chúng ta không đặt nó ở tại tam tinh, mà không đặt nó ở tại cổ họng mà không đặt nó ở tại rún. Mà chúng ta lại lấy cái chỗ cái nhân trung của chúng ta làm cái trụ điểm. Thì cái đầu của nhân trung là cái lỗ mũi của chúng ta cận cái đầu của nhân trung. Thì cái điểm nó sẽ nằm ở tại chỗ đó gọi là cái tụ điểm. Vì ở chỗ đó, cái mũi nó xuất phát hít vô và thở ra. Cái hơi thở nó ra vô tại chỗ đó. Cho nên từ đó chúng ta đặt cái tụ điểm đó thì chúng ta có một cái tưởng. Có một cái tưởng chúng ta đặt đó. Chúng ta thấy từ ở cái tụ điểm đó nó thở ra, cái hơi thở đó xuất phát ra. Chứ không phải ở trong cái lỗ mũi chúng ta hay từ dưới phổi chúng ta mà thở theo cái lỗ mũi chúng ta nó đi ra, không phải vậy. Sự thật là nó từ ở trong phổi chúng ta nó đi ra chứ không phải ở từ chỗ cái tụ điểm này mà nó thở ra. Nhưng chúng ta dùng cái tưởng, chúng ta thấy như từ ở đây cái hơi thở nó đi ra, nó xuất ra, nó thở ra. Đó là cái thứ nhất. Rồi bắt đầu, thường thường chúng ta hít vô chúng ta thấy như ở không gian chỗ này nó có một cái số không khí nó chạy vô lỗ mũi chúng ta. Nó đi vô trong phổi chúng ta. Do đó chúng ta, cái tâm của chúng ta cứ chạy vô chạy ra theo cái không gian của nó, cái khoảng không gian của nó có cái khoảng. Như ở dưới này chúng ta thấy hơi thở nó chạy vô lỗ mũi. Hít vô chúng ta thấy có cảm tưởng như cái hơi thở nó chạy vô trong cái lỗ mũi của mình. Rồi mình thở ra mình thấy như hơi thở ở trong đó nó chạy ra. Thậm chí có người dẫn hơi thở đi đến cái bụng nghe nó phình lên xộp xuống dưới. Đó là những cái sai, mà ở đây chúng ta chỉ biết cái tụ điểm chúng ta từ cái chỗ này nó thở ra, từ cái chỗ này nó hít vô. Thấy cái hơi thở nó xuất phát từ cái tụ điểm nó hít vô. Cho nên cái tâm mà chúng ta nằm ở đó, sáu cái thức nằm đó nó bám chặt cái hơi thở. Cái hơi thở ra và cái hơi thở vô nó cũng đều thông.

Đó là cái mà chúng ta tu về cái định Hiện tại an lạc trú. Nương vào cái hơi thở như vậy để làm gì? Để chúng ta bắt buộc nhĩ thức hoặc là cái nhãn thức, hoặc là mọi cái thức của chúng ta đều nằm chặt trên đó mà phá âm thanh, phá luôn cả cái thọ. Cái thọ là cái xúc thức của chúng ta chứ gì, cái thân thức đó, mà nó làm cho chúng ta cảm giác đau nhức hoặc khó chịu đó. Do đó chúng ta cũng bắt nó nằm trên đó. Do đó nó không có cảm giác đau đớn hoặc mỏi nhức.

Đó thì cái đó là một cái phần mà chúng ta tu tập để mà chúng ta đi dần đến cái tịnh chỉ các hành ở trong thân mà chúng ta làm chủ được cái thân của chúng ta. Còn cái phần tâm thì cô Út nói ở đây có nghĩa là cổ dò xét qua cái tâm của con nó còn dính mắc cái này cái kia. Cổ nói con sai không có nghĩa là sai cái chỗ ngồi tu này. Mà phải sai là cái chỗ tu cái Định vô lậu. Con không có chịu nỗ lực tu Định vô lậu như thế nào. Mà cái Định vô lậu thì các con biết là nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng nó mới là vô lậu. Mà mình cứ chống đối với hoàn cảnh hoài, mình làm nghịch lại. Bởi vì tùy thuận, hồi nãy có cái bài kệ nói mình tùy thuận ở trong mọi cảnh đó. Như cái vị tu sĩ hồi nãy ở trong cái bài kệ. Tùy thuận trong hoàn cảnh làm cho tâm của mình giải thoát, tức là nó không có lậu hoặc. Phải không, người ta nói sao mình cũng nghe đúng vậy thôi, mình cũng làm đúng y như vậy hết thì tức là tùy thuận. Trong cái hoàn cảnh của mình chưa phải là ba y một bát, luôn luôn từ chỗ này đến chỗ khác như những người khác, mà sống còn đang nỗ lực tu hành trên cái bước đường. Như bây giờ mình chưa nhập Tứ thiền mà mình ở trong một cái khu rừng đó. Mà khu rừng đó nào là có cọp, beo, voi, gấu hay này kia. Nó đến nó làm động đủ thứ. Nó nhảy nó múa nó hát nó ca, nó làm gì kệ mặc nó, nương theo nó, đừng có làm động nó thôi. Nó muốn sao mình cứ làm vừa ý nó hết thì chắc chắn tùy sống trong cái hoàn cảnh đó thì chắc chắn là mình sẽ được yên ổn mà nhập định.

Đó như vậy, chứ đâu phải cô Út nói con ngồi tu cái định Hiện tại an lạc trú này sai đâu. Đâu có ai nói vậy, nhưng mà người ta nói sai thì mình phải hiểu rõ cái sai của mình, tức là Định vô lậu. Nó còn có nhiều cái loại định mà thấy mình còn bị chướng tâm, mình còn chưa có giải thoát được. Khi nghe người ta nói một lời nào đó, người ta nói ra chứ người ta dò xét xem mình có chướng tâm không. Mà ta thấy chướng là biết mình tu sai nên nó còn chướng. Con hiểu chưa. Cho nên khi người ta nói tức là người ta trắc nghiệm người ta thử xem coi mình có bị động không. Mà mình bị động tức là tâm chưa vô lậu. Mà tâm vô lậu thì nó không bị động.

Đó, biết được như vậy thì phải biết cái chỗ sai mà tập, liệu mà tu cái Định vô lậu cho nó nhiều, sống tùy cái hoàn cảnh, tùy cái trường hợp. Bởi vì chỉ có cái tâm nhẫn nhục - tùy thuận  - bằng lòng thì chúng ta mới thấy được cái cứu cánh giải thoát của cái định Định vô lậu. Còn nếu mình sống không có được theo ý muốn của mình, mình muốn mà. Mà mình muốn tức là mình muốn cái cảnh tịnh, muốn cảnh này cảnh kia, tức là còn bị muốn hết. Mình phải sống ở trong cái cảnh mà không được muốn, mà không được muốn thì tức là hết muốn chứ gì, mà hết muốn tức là ly dục chứ gì. Mà ly dục tức là ly dục ly bất thiện pháp - tức là mình đã đạt được cái Định vô lậu rồi chứ gì. Tức là nhập được Sơ thiền.

Còn bây giờ con phá âm thanh mà cái Sơ thiền con chưa nhập thì coi chừng phá âm thanh mà rốt cuộc rồi thinh tưởng nó nhào vô nó cả đóng trong đó rồi mới chết đó. Làm sao mà đi qua khỏi cái nẻo của Tam thiền này nổi.

Đó, các con hiểu chỗ sai chưa. Phải hiểu, cho nên bây giờ mình tính mình phá âm thanh bên ngoài nhưng rốt cuộc rồi cái thinh tưởng bây giờ ở trong. Bởi vì cái tâm chưa ly dục ly ác pháp thì tức là còn cái tâm dục. Nó chưa hết, nó còn cái tâm chướng ngại, tâm bất toại nguyện của mình nó chưa được. Do đó nó hiện ra những cái âm thinh tưởng. Lúc bây giờ làm sao mà dẹp nổi cái thinh tưởng. Ở đâu trong đầu con, trong lỗ tai con. Ở trong, con nghe vô trong nó lại nghe càng rõ nữa. Nó xưng là ông này ông kia. Nó xưng là nào là chúa trời, nào là Cao Đài tiên ông, nào là cậu, nào là cô, nào là bà cửu thiên huyền nữ, nào là bà Đen, nào là chúa tiên, chúa xứ chúa ngãi gì. Nó đem từ mấy bà chúa ngoài ở miền Trung vô nó nhét trong đầu con đủ thứ ở trổng, nó nói ở trổng thì con nghĩ sao. Nó cứ xưng bà chúa không hà chứ nó đâu có xưng nhỏ đâu, phải không.

Các con thấy trên cái vấn đề mà tu, mà nếu mà phá âm thanh bên ngoài rồi tự nhiên âm thanh bên  ngoài không tác động được ý thức, nhĩ thức của con rồi. Thì ngay từ đó những cái âm thanh mà của tưởng đó nó sẽ. Con ở ngoài miền Trung, thì ở ngoài đó bà chúa, tức là nhiều chúa nhất rồi. Nó sẽ hiện trong đầu con đủ thứ bà chúa nói chuyện ở trổng chứ đâu phải ít. Coi chừng, Thầy nói nó có chứ không phải không đâu. Thì coi như vậy là chưa có vội vàng đâu, hồi nãy cô Út nói sai là chuẩn bị cho cái Sơ thiền của mình cho nó hoàn chỉnh được là cái chỗ mà trước các đối tượng mà tâm bất động. Tức là ly dục ly ác pháp rồi thì nó mới đi vào con đường Tứ thiền mới bảo đảm. Chứ còn không khéo nó bị lạc vào cái nẻo ma mất. Coi vậy chứ nó không đơn giản mà nó khó khăn. Bởi vậy nghe người ta nói sai là mình cứ nghĩ khác hà.

Còn về phần cô An Tịnh, con ghi trên cái vấn đề con tu rất đúng và cứ tiếp tục tu, cố gắng mà tập luyện từng chút từng chút như vậy thì rất tốt chứ không có gì hết. Thầy thấy không có cái sai chỗ nào hết nhưng mà tuần tự bước đi từng bước. Nhất là tu cái Định vô lậu tạo những cái hoàn cảnh thuận tiện nhất trong cái cuộc sống của mình. Đối với cái hoàn cảnh hiện tại khi mà Thầy không có trụ ở đây nữa thì các con cứ giữ gìn rất là đúng nghiêm chỉnh. Người nào còn ở lại thì cô Út sẽ sắp xếp cho mọi cái hoàn cảnh để thực hiện mọi cái định từ ban đầu - cái Định vô lậu. Rồi trong khi đó mình không có nghĩa là mình tu nội cái Định vô lậu không đâu. Nhưng mà cổ sắp xếp cho mình tu những cái Định vô lậu. Rồi kế đó mà cái Định vô lậu mà cổ thấy đạt được rồi thì cổ sắp xếp cho mình tu cái định, bắt đầu tu cái định Hiện tại an lạc trú để nhập Bốn thiền để diệt cái hơi thở, để diệt các mười tám cái loại tưởng, chứ không phải mười sáu mà là mười tám cái loại tưởng. Bởi vì ba lần sáu mười tám, mười tám cái loại tưởng.

Do khi mà mình ly dục ly ác pháp rồi bắt đầu mình tu cái Định vô lậu mà đạt được cái tâm vô lậu rồi thì bắt đầu cổ sắp xếp cho cái hoàn cảnh của mình thuận tiện nhất để cho mình thực hiện bốn cái định này. Cho nên nhập Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thì khoảng thời gian các con sẽ được cái thời gian ngắn nhất và yên tịnh nhất, độc cư 100% nhất. Để mà thực hiện bốn định này thì thời gian ngắn nhất của các con là trong ba tháng hoặc là sáu tháng là cùng. Nghĩa là các con sẽ nhập được cái định, làm chủ được thân tâm. Cũng từ trong ba tháng sáu tháng đó các con có thể thực hiện Tứ như ý túc. Muốn định hồi nào định, muốn hiện thần thông lúc nào hiện thần thông. Muốn ngồi bay lên trời bay chơi cũng được, muốn đây ra miền Bắc hô cái nó ngồi ở Hà Nội liền. Thì muốn hồi nào nó được như vậy hà, khỏi cần tốn xe lửa xe đò xe gì hết. Nghĩa là ở ngồi đây bắt đầu xếp bằng bảo thân này hãy đi ra miền Bắc ngồi ở ngoài nhà ở ngoải. Ngay đây mình ra lệnh nó ngồi ở ngoải rồi như chớp mắt. Thì trong lúc đó các con được sức thiền định rồi thì Tứ như ý túc các con muốn cái thân của mình như thế nào nó làm theo như thế nấy, nó không phải khó khăn nữa. Và như vậy thì mới thấy cái sự làm chủ sanh tử của mình. Bảo nó chết nó mới chết, bảo nó sống nó mới sống. Chứ còn nếu mà không được như vậy thì tu hành làm gì, phải không các con. Nghĩ mình tu hành mà không làm chủ được sanh tử. Mà đã làm chủ được sanh tử thì cái chuyện đây với Hà Nội đâu có phải là xa. Mình hô một cái là nó đã ngồi ở quảy rồi. Thời gian đối với mình đâu có còn ..,ờ cái không gian đối với mình đâu có còn dài như là các con phải ngồi xe điện, ngồi xe lửa ba bốn ngày, tuần lễ mới tới quảy đâu. Đâu có còn đâu. Con ra lệnh là ngay đó nó đã ngồi ở Hà Nội rồi. Cho nên tu như vậy mình mới tu chứ. Tu như vậy người ta mới giật mình chứ. Còn tu mà bây giờ mình ngồi đây mình thì bảo nó bay lên hư không nó hông bay nổi. Thì nó nặng quá, bị ăn nhiều quá nó nặng quá bay đâu có nổi. Cho nên mình tu sao mà mình ngồi bảy tám ngày không ăn tức là nhẹ rồi đó. Mà mình tu sao mà mình nhập cái định mà cả tháng hai tháng mình không ăn tức là mình biết cái thân của mình nhẹ rồi đó. Lúc bây giờ con ngồi xếp bằng con bảo nó bay lên hư không mà nó bay được đó. Nó ngồi trên hư không mà nó ngồi không có ghế không có đẻn gì hết mà nó ngồi nó không té xuống thì biết là đúng là mình đã nhẹ rồi. Bị gì bảy ngày không ăn tức là nó nhẹ rồi, mà hai ba tháng không ăn là nó nhẹ rồi, cho nên nó bay, nó ngồi được. Còn bây giờ mấy con coi, đâu có được. Bữa nay không có ăn, trưa bữa nay ăn mà ngày mai không ăn thì đã thấy mệt rồi, phải không. Cho nên nó còn nặng lắm. Còn khi nào mà các con nhập định mà bảy ngày không ăn thì thấy nó nhẹ được chút rồi đó. Mà một tháng không ăn thì thấy nhẹ hơn chút nữa. Mà ba bốn tháng không ăn mà kể như vậy thì các con biểu nó bay lên, nó bay thật đó. Thầy nói mà khi mà các con nhập định mà ba bốn tháng mà không ăn rồi thì các con bảo sao nó nghe hết. Phải không. Bởi vì nó nhẹ rồi, vì vậy nó nhẹ quá cho nên vì vậy mà con bảo nó. Ngồi đây con bảo nó đi ra Hà Nội cái nó bay dù ra quảy nghe cái chớp mắt còn hơn là phản lực.

Như vậy mình mới tu chứ. Tu như vậy mới thấy thích chứ. Tu gì mà ngồi đây như cục đá, thích làm sao được. Cái tâm gì mà hễ ai đụng tới thì méo miệng khóc rầm, phải không. Như vậy tu làm gì, tu có giải thoát chỗnào đâu. Cái tâm gì như cục đá mà đụng tới nghe thốt chân thốt cẳng họ hết. Cho nên chúng ta tu làm sao mà cho nó nhẹ nhàng, cho nó thanh thản. Thì như vậy mới tu chứ, vậy thì mình mới bỏ hết đời mình đi tu chứ. Tu để rồi không ra gì hết thì tu làm gì.

Cho nên những cái điều mà con ghi chép đây Thầy thấy tuần tự mà tu tập thì đúng cách chớ không sao đâu. Rồi cái sự sắp xếp của cô Út sắp xếp để cho nó hợp. Trong cái giai đoạn nào, tu cái gì gì cổ sắp xếp. Cho nên bây giờ là những cái lúc mà cổ sắp xếp cho các con ly dục ly ác pháp. Mà các con ly không có nổi mà cứ đòi hỏi ở cái định Hiện tại an lạc trú để nhập bốn thiền để phá âm thanh, để phá thọ. Trời đất ơi, chưa ly dục mà phá cái đó phá sao nổi!Cáikhối tâm khối cắt của con nó nặng hơn cái cục đá xanh ở trên núi. Cho nên phải xả cái thứ đó ra đi. Xả cái thứ đó ra thì bây giờ cái tâm của con nó còn như cái bông gòn rồi. Thì lúc bây giờ cái thân của con ăn có một bữa, mai mốt nó không có thèm ăn nữa thì nó mới được chứ, thì nó mới nhẹ. Thân và tâm nó đều nhẹ hết thì nó phải dễ. Các con có hiểu không, Thầy nói như vậy là các con nhớ mà nỗ lực tu tập.

Thầy tin rằng mỗi đứa đều tu tập, ngày nào đó mấy con bay lên hư không mà ngồi ở trển chơi. Buổi chiều nào mát mát ở đây các con ngồi ở trển mà chơi cho sướng, ngồi chi dưới đất nó đâu có mát. Bởi vì mình tu không phải là mình thể hiện người ta coi chơi.  Nhưng mà khi nào rảnh rang thì mình cũng, hồi đó tui tu như vậy, tui cũng thực hiện cho biết cái thần lực của tui như thế nào chớ. Không lẽ tui tu được tôi không thực hiện thần lực. Bữa nào mình rủ năm bảy chị em mình bay lên trời ngồi thiền, nhập định chơi ở trển một bữa coi, có gì đâu. Thì các con làm thử một bửa thì năm bảy người mà được rồi. Bao nhiêu người ở dưới đất họ chưa được họ ráng họ tu, mà tu dữ lắm chớ. Mà đâu có nghĩ mà cái cuộc đời của họ có ai mà làm cái điều này không. Người ta còn hăng hái người ta tu. Còn nếu mà các con làm chuyện đó không được thì tu cái gì tới hai ba chục năm, hai năm ba năm rồi. Trời, ngồi đóng nào đóng nấy y như con cóc có ra gì hết. Ai mà thèm tu nữa. Cho nên mình tu sao người ta thấy người ta ham tu. Thì đó là mình làm gương, mình thắp lại cái ngọn đuốc của Phật pháp. Còn mình tu mà không có ra ôn gì hết, thôi người ta thấy chán quá. Tu gì hai ba chục năm rồi. Nói thì nói cái miệng mà sự thực ra tu chẳng có ra ôn gì hết. Như vậy làm cái gì. Còn mình tu sao mà hai ba năm mà xúm nhau mình ngồi trên hư không, ngồi thiền ở trển. Trời ơi, mấy đứa này sao mà nó ngồi trên mây xanh mà nó ngồi được, không có rớt nữa chớ. Ngồi y như máy bay bay. Tu vậy mới tu chứ các con, mới ham chớ. Thầy nói mấy con mà tu mà ngồi được như vậy thì Phật pháp mình thắp sáng ngọn đuốc hết, không có khó đâu.

Thầy nói không có khó, các con xả hết tâm đi đừng có ham thích gì thế gian này nữa đâu. Mai mốt chết rồi trôi lăn trong lục đạo, cũng sanh tử luân hồi kiếp này đến kiếp khác cũng khổ nhăn răng méo miệng cả đám. Có người nào chết mình cũng khóc thí bà cố mình, phải không. Thầy nói có bộ không ha. Thí dụ như giờ mẹ Thầy chết thầy cũng khóc thí bà chớ bộ Thầy không khóc, bộ hổng thương. Mà khóc cũng khổ gần chết chứ bộ sướng ích gì mà ngu gì cứ khóc. Chẳng hạn như Thầy nói ngày mười hai Thầy từ giã Thầy đi thì coi bộ mấy con quẹt nước mắt tùm lum hết. Trời ơi, đi chớ bộ chết đâu mà khóc. Có hông, cho nên thực sự ra mấy con nay yếu quá rồi, sợi bún muốn thiêu rồi, ai đụng tới cái nó muốn rớt ra hết, nó hổng còn dẻo chút nào ăn hết ngon.

Thôi bây giờ có ai còn hỏi Thầy gì nữa hông.

Hỏi thêm thì hỏi đi (không nghe đc câu hỏi). Được tốt thôi, nó có thể tăng lên con 40 phút cũng không sao hết mà nó có thụt xuống. Thay gì bây giờ con định là 30, 20 phút mà nó có xuống 15 phút cũng được. Tại vì nó tới đó nó lui ra thì mình cứ lui, không có cần. Bởi vì ngày xưa ông Phật có đồng hồ đâu mà dòm, cho nên ổng chỉ à bây giờ nó tu tới đó thì nó hết. Nó hết, nó ra thì ổng ra ổng đi kinh hành chơi. Phải không. Mà nó có kéo dài thêm một giờ hai giờ thì ổng cứ mặc tình thôi. Ngồi mà, giải thoát an ổn thì cứ ngồi. Mà ngồi mà nghe nó bung ra thì cứ đi kinh hành cho nó ớn nó phải ngồi. Cho nên đừng có lo cái chuyện đó. Không phải hồi đó mà Thầy mới dạy con là ổn định hơi thở. Phải mấy phút, phải đúng chứ gì, đó là ổn định hơi thở. Giờ cái giai đoạn nó khác rồi, con sao còn chấp cái chuyện cũ nữa. Hồi nào đến giờ xách cái xe đạp quèn mà đi két két um xùm. Cả hàng xóm người ta nói cái bà sao mà xách xe đạp đi làm cho người tađộng xóm hết. Mà bây giờ bỏ cái xe đó rồi mình xách được cái xe gắn máy mình đi nghe im re mà hổng chịu mà lại còn xách cái xe đạp đó đi nữa sao. Phải không, điên gì mà xách cái đồng hồ mà xem cho nó mệt, xả bỏ đi.

Con hỏi Thầy gì. .. Trong cái vấn đề tu tập của con thì tu tập như vậy Thầy thấy hiện giờ tu như vậy cũng tốt chớ không phải không. Mà sau đó thì phải sắp xếp cái thời khóa lại cho nó hẳn hòi hoài đàng hoàng tùy theo cái sức của mình mà tu. Còn hiện bây giờ thì đừng có để cái tâm nó buồn bã mà phải cái tâm thanh thản. Phải thấy cái tâm mình nó có lo lắng buồn bã cái gì đó thì phải dùng cái Định vô lậu mình phải quét sạch nó ra. Dùng cái định, đặt cái niệm buồn bã đó - coi buồn bã đó là cái niệm. Buồn bã cái gì, lo lắng cái gì. Lo lắng đời tu hành của mình, hay lo lắng con cháu, hay lo lắng nghề nghiệp, hay lo lắng chùa xưa, hay lo lắng đồ chúng đang tu hành mà không có người, hay lo lắng huynh đệ của mình không có nơi nương tựa, hay là lo lắng cho cái đời của mình già rồi mà không có thầy. Tất cả những cái đó đều đặt trước mặt của mình. Nó - cái niệm của nó niệm nào, xem cái mặt của nó như thế nào, quán xét nó như thế nào thì mình sẽ đặt nó xuống đi, dẹp nó xuống đi. Rồi dùng cái pháp hướng đặt cho nó ra khỏi cái tâm của mình để giúp cho cái tâm của mình nó trở về thanh thản, bất động. Để nỗ lực trên con đường tu tập. Chứ đừng để cho nó buồn. Nó buồn nó làm cho mình không có ngủ nghỉ được. Rồi nó lại buồn làm cho tâm của mình ngồi ức chế nó mà không giải quyết được cái gì. Nó không có đem đến cái lợi cho con đâu. Cho nên bây giờ có cái trạng thái buồn giận hờn thương ghét. Tất cả những cái này đều là đặt ở trước mặt, dùng cái Định vô lậu mà quét sạch, dùng cái quán xét tư duy để mà đặt nó ra hết, không có để trong tâm của chúng ta.Cho nên chúng ta sống một đời sống thanh thản, tâm bất động thì mới là đúng cái nghĩa ly dục ly ác pháp của Phật. Rồi từng đó mới tập cái hơi thở để lần lượt tịnh chỉ các hành để mà nhập vào các định thì nó đúng cách.Cho nên đừng có nghĩ rằng, Thầy nghĩ rằng trong hiện giờ các con tuy tuổi lớn nhưng mà có gặp Thầy, có gặp Chánh pháp thì nếu mà tu kĩ lưỡng từng cái bước đầu tu như thế nào. Cũng như trong tập nhật kí của cô An Tịnh viết đây. Thì từ khi mà vào đây mà tu tập thì thường là tu cái Định niệm hơi thở nhiều nhất. Kế đó sau cái giáo án này thì hầu như là có sự thay đổi rất lớn là phải tu đúng vào cái Định vô lậu, làm cho cái tâm của mình phải ly dục ly ác pháp ra. Làm cho cái tâm không có buồn khổ, không có giận hờn. Trước cái hoàn cảnh nào nó cũng đem đến cho mình có một cái tâm an vui. Do cái chỗ tu tập như vậy thì cái định Hiện tại an lạc trú tu nó ít lại nhưng mà kết quả thấy nó cao hơn. Hồi trước tu dữ tợn cứ liên tục lo cái hơi thở mà tu riết rồi cứ năm mười hơi thở, cứ năm mười hơi thở cứ đi. Mà mãi thấy hoài mà vọng tưởng nó vẫn còn mà hôn trầm nó cũng chưa sạch. Còn bây giờ thì nó có nhiều cái thay đổi, hôn trầm thì nó cũng còn chứ không phải hết nhưng nó không làm chủ được mình nữa. Còn về cái phần mà Hiện tại an lạc trú trong hơi thở thì tu ít nhưng mà chất lượng nó có cao hơn. Nhiếp tâm vô thì hoàn toàn chủ động không có để mà một cái niệm mà nó xen vô trong hơi thở của mình. Tu ít nhưng mà chất lượng cao. Và đồng thời thì cái tâm của mình càng ngày trước cái ăn cái mặc, cái đời sống của mình nghe coi nó xả xuống rất nhiều, nó thanh thản cuộc sống. Thì thấy như vậy đó là mình đi dần đến cái con đường giải thoát chứ gì.Nó rõ ràng và cứ tiếp tục như vậy là có ngày sẽ đi đến, đi đến cuối cùng chứ không phải là không đi đến cuối cùng.

Cho nên tu đúng thì chúng ta sẽ thấy con đường chúng ta càng ngày, mỗi ngày chúng ta đều có cái sự tiến bộ ở trong đó. Nhất là cái Định vô lậu mà các con tu đúng rồi ngày nay ngày mai các con thấy cái tâm của mình thay đổi rồi. Thay đổi là vì nó không có, trước cái vật gì nó cũng không dính mắc, nó không có buồn khổ. Nó tiết kiệm nước mắt lắm, nó không bao giờ khóc đâu. Bởi vì nó hết lậu hoặc rồi nó không có biết khóc nữa. Mà nó biết cười, nó biết vui chứ nó không biết khổ nữa, nó hết khổ rồi. Còn trong lúc chúng ta còn cái lậu hoặc thì luôn luôn chúng ta có cái sự khổ đau, có cái sự làm cho tâm chúng ta có lúc vui lúc buồn lúc thế này thế khác. Chúng ta chưa thấy những cái nghịch cảnh là cái pháp mà giúp cho chúng ta giải thoát được. Mà cái thuận cảnh nó làm cho lớn cái ngã của chúng ta ra. Tưởng là an chứ sự thật chưa an. Cho nên trong tất cả những cái môi trường, cái hoàn cảnh mà các pháp nghịch đều là những cái pháp tốt cho cái người tu tập giải thoát của đạo Phật.Làm cho chúng ta ly được cái tâm dục, tâm ham muốn của chúng ta và các ác pháp dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn. Chúng ta càng gặp nó nhiều thì tâm chúng ta mau tiến bộ chừng ấy. Mà lâu lâu nó gặp một lần thì chu cha. Cho nên muốn mà cho gặp được nhiều thì cũng khó lắm chứ không phải dễ. Hầu hết là các con mà chuyên tu không, hổng ai tới thất ai thì chắc chắn là khó gặp cái pháp lắm. Còn cái pháp người này đến thất người kia, người kia đến thất người nọ, thôi chuyên môn mà nói chuyện. Mà cái người mà biết tu thì nó giải thoát mau lắm. Còn người không biết tu thì nó lôi xuống địa ngục cũng mau lắm. Bởi vì nói chuyện với nhau nó xúm nhau nó lôi xuống đó hết. Cho nên nó cũng là nguy hiểm nhưng mà cũng được giải thoát. Đó các con hiểu chưa. Như vậy là cố gắng tu cái Định vô lậu cho nhiều đi. Các con nhớ không.

Đây là cái giáo trình của Thầy rõ ràng mà. Phật dạy phải tu Định vô lậu chứ. Còn định Hiện tại an lạc trú chỉ chẳng qua là chúng ta muốn làm chủ cái thân, muốn bay trên hư không mà chơi thôi. Cái chuyện đó cái chuyện về sau. Cho nên mình đợi mình tu cái này cho xong đi, cái tâm nó bất động rồi thì mặc tình mình muốn ngồi trên hư không thì lúc đó mình ra lệnh cái thân nó bay trển nó ngồi chơi thì cái chuyện đó nó không còn khó nữa. Còn bây giờ cái tâm của mình nó còn như một cái đóng rác, nó còn hôi thúi gần chết mà hổng lo dẹp mà cứ muốn bay trên hư không mà mang cái đóng rác trên đó thì bà con ở dưới mình này nó nghe thúi hết trơn. Phải hông. Bởi vì mình đem nó lên trên cao thì nó thúi nhiều ở dưới. Còn mình sạch cái bụng, mình sạch thúi rồi bắt đầu mình bay trển thì nó bay mùi thơm xuống cho người ta nhờ. Chứ còn mình đem cái bụng thúi mình ngồi trên đầu người ta thì nó khổ người ta chứ sao. Các con hiểu điều đó. Mà bây giờ cái bụng của mình mang ba cái giận hờn phiền não, ganh tỵ, tỵ hiềm đủ thứ này mà trèo trên trời mà ngồi trển rải xuống ba cái thứ này đau khổ người ta còn vô cùng vô tận nữa. Các con hiểu chưa. Quét sạch cái này đi rồi cái Định hơi thở nó giúp cho các con ngồi trên đó mà ban rải cái hương thơm giải thoát của đạo đức nhân quả. Nó phải tốt lành không. Chắc chắn là các con sẽ làm được điều đó.

À, bây giờ Thầy xin trả lời. Khi mà tu rồi thứ nhất là thấy cái cơ thể, Thầy có giảng rồi các con. Thấy cơ thể mình mệt nhọc thì mình thư giản, mình đi kinh hành thư giản. Thư giản làm cho nó trở về với cái trạng thái an ổn, cái thân và tâm nó khỏe khoắn trở lại. Còn nếu mà mình đi kinh hành mà cứ gìm gìm cái tâm mình cứ cột dưới chân mình hoài để cho nó tập trung cho nó biết. Hay hoặc là như đi kinh hành để phá hôn trầm thì cái này nó càng làm cho ta mệt nữa. Cho nên ở đây đi kinh hành mà thư giãn nó khác, mà đi kinh hành mà tu Chánh niệm tỉnh thức khác, mà đi kinh hành mà tu cái tâm từ của chúng ta, mà ban rải lòng thương yêu của chúng ta với chúng sanh khác, mà đi kinh hành phá hôn trầm thùy miên nó khác. Nó có những cái loại đi kinh hành nhưng mà phải hiểu cho rõ những cái loại đi kinh hành đó. Trong khi đó chúng ta tu tập, mà bây giờ chúng ta ngồi thiền nãy giờ nó mệt mỏi quá rồi. Bây giờ xả ra nó mệt, giờ mình đi kinh hành thư giản như một người đi vô sự mà nhà vua họ đi du ngoạn chơi chứ họ chẳng có cái gì bận rộn. Thì cái đó, lúc đó là đi kinh hành thư giản. Cho nên phải nắm rõ những cái pháp mà kinh hành thư giản.

Thì lúc bây giờ con thấy cơ thể mệt nhọc thì con nên sử dụng đi kinh hành thư giản. Mà cơ thể mà nó khỏe khoắn nó không có gì hết thì con đi kinh hành tu Chánh niệm tỉnh thức. Mà con thấy thân tâm con nó khỏe mà con muốn tu tập thêm cái đi kinh hành để mà trau dồi cái tâm từ của mình. Cho nên mình đi mình tập trung mình nhìn xuống dưới chân để mình gieo cái lòng thương yêu của mình đối với chúng sanh, mình không đạp không làm hại chúng sanh thì cái đó là khác nữa. Cho nên mỗi cái nó đều có giúp chúng ta có sức tỉnh thức hết nhưng mà cái sức tỉnh thức đó nó nằm ở trong cái pháp môn để tu. Mà pháp nào nó ra pháp nấy, nó không sai. Phải hiểu lời Thầy dạy mà các con tu đúng thì kết quả đem đến các con thấy bữa nay ngày mai thì thấy nó thành tiên, ngày mốt thì thành Phật mất rồi, không cần thời gian lâu.

Về cái phần mà Định vô lậu.Dường như là các con cũng lợi dụng mình đi kinh hành tu cái định Chánh niệm tỉnh thức hoặc là đi kinh hành thư giãn bắt cái đầu óc mình suy nghiệm. Bây giờ nó có cái gì buồn phiền thì mình đặt cái niệm vừa đi vừa suy ngẫm. Thực ra thì trong cái động mà suy ngẫm thì cái suy ngẫm nó cũng tuyệt vời lắm chứ không phải không đâu. Vừa đi kinh hành mà cũng vừa suy ngẫm một cái chuyện để phá vỡ thì cũng rất tốt nhưng nó không có đúng cái cách của cái sự tu tập theo đạo Phật.

Tại sao vậy? Tại vì đạo Phật dạy chúng ta là phải ngồi kiết già lưng thẳng rồi đặt cái niệm. Từ cái niệm yên lặng, cái thân mà nó yên lặng rồi. Cái thân yên lặng để… Thí dụ như con suy ngẫm, con vừa đi vừa suy ngẫm thì cái thân con lúc nào nó cũng bị động. Nó động đi. Cho nên cái tri kiến của con thì có. Tri kiến hễ giờ con hiểu biết cái này kia, con quán xét nó cũng làm cho con ly cái tâm mà thương ghét của con. Nó làm cho con giảm bớt cái lậu hoặc nhưng con không khai triển nổi cái tri kiến giải thoát.Nó có cái tri kiến. Bởi vì cái cuộc đời của con nó có nhiều bài học ở trong cuộc đời. Nó làm cho con muốn an thì con phải có một sự hiểu biết. Cái sự hiểu biết đó nó giúp cho con để con tự cứu con, làm cho an. Cho nên bây giờ con vừa đi thì cái tri kiến của con nó sẽ phóng ra. Nó cũng suy nghĩ cái điều đó. Rồi một số mà mình đã học, hiểu được Phật pháp thì cái đó là cái tri kiến của mình nó mới hiện ra làm cho con phá đi cái tâm lậu hoặc của mình. Nhưng nó không phải đúng cách của Phật.

Đạo Phật muốn làm sao mà chúng ta phóng ra những cái tri kiến giải thoát. Cái điều đó là điều quan trọng. Nhưng mà muốn phóng ra được cái tri kiến giải thoát thì buộc lòng cái người đó phải - thân phải ngồi kiết già lưng thẳng mà trong cái cảnh tịch mịch yên lặng không có một tiếng động, vắng vẻ. Bởi vì Phật mới dạy “Thân chuyên nhứt cảnh” - cái thân của mình phải chuyên nhứt vào cái cảnh yên  lặng. Rồi từ cái cảnh yên lặng đó mình mới đặt cái niệm đó để cho cái pháp quán, bắt đầu cái tri kiến giải thoát nó phóng ra nó quán xét một cái đối tượng, một cái pháp mà nó làm cho cái tâm mình đang bị lậu hoặc đó nó phóng ra bắt đầu nó quét sạch tất cả những cái lậu hoặc đó ra bằng cái tri kiến giải thoát mà không phải bằng cái sự vay mượn.

Còn bằng vay mượn của những cái tri kiến thì vay mượn của những cái hiểu biết từ lâu. Cuộc đời con đã từng trải thì nó có cái sự hiểu biết của cuộc đời để cho nó giải quyết cho mình những cái tâm của mình không còn buồn phiền nữa. Nhưng nó không thực là cái tri kiến giải thoát của con, mà chính con phải đào sâu và triển khai nó bằng một ngày một đêm. Ít ra con cũng phải bỏ một thời, một thời tu cái Định vô lậu. Chọn một cái giờ nào đó con phải khoanh chân ngồi kiết già tỉnh táo đặt niệm. Mới đầu thì nó không nổi đâu nhưng mà hằng ngày mình cứ cố gắng mình tu tập. Rồi mình đặt niệm, có một ngày nào đó nó phóng. Nó được, nó phóng ra rồi nó sẽ có những cái trí tuệ rất là siêu việt để nó cứu con và đồng thời nó quét sạch các lậu hoặc. Nó ly dục ly ác pháp trong tâm con, con mới chứng đạt được cái Sơ thiền là nhờ cái tri kiến giải thoát đó.

Con nhớ như vậy thì mỗi một ngày một đêm ít ra con phải chọn hai mươi phút hoặc ba mươi phút ngồi thiền tu cái Định vô lậu chứ không được đi kinh hành mà tu cái Định vô lậu. Nhớ chưa, nhớ rồi thì như vậy là đủ rồi phải không.

Bây giờ Thầy xin nhắc lại, trên cái vấn đề tu tập để nối tiếp cái bài học vừa rồi thì cái Định vô lậu là cái định rất là quan trọng cho cái bước đường cho người mới tu chứ không phải cái định Hiện tại an lạc trú, bốn thiền đâu.Mà khi mà cái tâm mà chúng ta đã tu nó vô lậu thì nó mới thanh tịnh, nó mới ly dục ly ác pháp được. Mà khi nó ly dục ly ác pháp được thì chúng ta mới tiến tới tu cái định Hiện tại an lạc trú nó dễ dàng lắm.Nó không còn khó nữa. Cho nên hầu như chúng ta đọc lại những gương hạnh của các bậc Thánh tăng và Thánh ni thì chúng ta thấy rất rõ. Tu chỉ cái lậu hoặc họ hết, cái tâm ly dục ly ác pháp họ được thì Tam minh họ thành tựu rất là dễ dàng, không còn khó nữa. Cho nên ở đây quý thầy nhớ khi mà rời khỏi Thầy thì nỗ lực cái Định vô lậu mà nỗ lực tu.Tu cho nó đúng, hằng ngày phải siêng năng đặt cái niệm đó mà quét sạch những cái tâm mà tham ái, những cái tâm mà ham muốn của mình, những cái tâm phiền não giận hờn của mình. Quý thầy không thấy từ cái vật nhỏ vật lớn mà Thầy nhìn qua cái sự kiện mà Thầy thấy một người quyết tâm tu người ta độc cư người ta sống trầm lặng thì người ta giữ trọn được. Thì từ đó cái quen sống trầm lặng đó thì nó đi dần đi đến cái chỗ ly dục ly ác pháp. Bởi vì cái tâm dục của chúng ta nó muôn hình muôn vạn lận chứ nó không phải là ít. Do vì vậy mà chúng ta chỉ có cái cuộc sống mà độc cư, cái cuộc sống mà trầm lặng thì nó tuần tự nó sẽ quét ra hết.Chứ còn, lần lượt chúng ta cũng phải tập, chúng ta siêng tập những cái Định vô lậu, tập những cái Định sáng suốt, tập những cái Định chánh niệm tỉnh giác. Đó là những cái mà chúng ta cần thiết.

Do vì vậy mà chúng ta tập rồi chúng ta sống cho đúng những giới hạnh, lần lượt nó sẽ thuần thục và nó quen đi. Nó thuần thục, nó quen đi thì quý thầy sẽ thấy rằng chúng ta ly dục ly ác pháp được. Mà ly dục ly ác pháp được rồi thì cái cuộc sống của chúng ta thấy nó thanh thản làm sao. Nó khác lạ hơn là cuộc sống còn ở trong cái dục lạc. Từ đó chúng ta mới thấy được cái chỗ mà Phật gọi là ly dục ly ác pháp mà sanh hỷ lạc. Còn bây giờ chúng ta chưa ly được thì chúng ta chưa thấy cái trạng thái hỷ lạc của ly đâu. Cho nên ráng cố gắng khi xa Thầy thì đem cái định này tu nhiều. Chứ từ lâu tới giờ là hầu hết người ta đã hiểu sai. Người ta cứ cố gắng người ta ức chế tâm, người ta không chịu ly. Bởi vậy cho nên lấy giới luật mà tu đầu là bắt buộc cái thân và tâm của chúng ta sống ở trong khuôn khổ của giới luật để cho nó quen nó thuần lần. Và đồng thời chúng ta có những cái định mà chúng ta tu để cho chúng ta sống trọn được ở trong cái giới luật của Phật. Còn nếu mà không có những cái định như cái Định vô lậu, cái Định tỉnh thức, cái Định sáng suốt thì chúng ta không sống được ở trong giới luật được. Thì quý thầy nhớ là chúng ta hãy đem những cái định đó mà chúng ta nỗ lực thực hiện để chúng ta sống trọn vẹn ở trong giới luật. Và giới luật là một vị thần hộ mệnh cho chúng ta. Cho nên ở đây thì Thầy nhắc lại để cho chúng ta cố gắng mà chúng ta thực hiện con đường tu tập cho nó rốt ráo.

Còn cái định Hiện tại an lạc trú thì quý vị chỉ cần ổn định cho được cái hơi  thở là tốt nhất rồi. Rồi tới chừng đó thì khi mà tu được vô lậu rồi thì cái tâm của quý vị ly dục ly ác pháp rồi thì quý vị chỉ cần hướng tâm nhắc nó tịnh chỉ. Phật đã dạy rồi, bây giờ mình muốn nhập Sơ thiền thì mình cần phải tịnh chỉ cái gì. Rồi mình nhập Nhị thiền tịnh chỉ cái gì, nhập Tam thiền tịnh chỉ cái gì, nhập Tứ thiền tịnh chỉ cái gì. Mình dùng cái pháp hướng mình cứ ngay cái chỗ đó mình gọi nó, tịnh chỉ cái đó. Thì trong khi cái tâm mà tịnh rồi thì chúng ta ra lệnh thì nó sẽ tịnh chỉ hà, chứ đâu phải ngồi đó ức chế tâm hoặc là luyện thiền, luyện hơi thở cho nó chậm nó nhẹ đến mức nào đâu, đâu cần. Đó là những cái kinh nghiệm mà trải qua cái thời gian tu tập của Thầy và Thầy biết rất rõ. Bởi vì chúng ta biết cái định nào, nó sẽ tịnh chỉ cái gì. Trong kinh Phật cũng đã dạy cái điều đó rồi. Mà bây giờ chúng ta có cái pháp hướng như cái lý tác ý, để nó tác ý ra cái chỗ đó để nó ngưng thì chúng ta mới tịnh chỉ nó. Thì lúc bây giờ chúng ta mới làm cho nó ngưng được.

Đó là những cái bí quyết, những cái thành công ở trên con đường tu tập theo đạo Phật. Nhưng đầu tiên là chúng ta phải tu tập để cho cái tâm chúng ta thanh tịnh, đừng có theo dục, đừng có theo ác pháp. Cái chuyện nho nhỏ thôi mà nó cũng xảy ra những cái ác pháp làm cho tâm chúng ta phiền não. Thầy nói đơn giản như trong chúng chúng ta đây, sau cái thời gian có những cái cuộn băng Thầy giảng. Ôi thôi cái này nó còn bận tâm, đâu phải chúng ta ngồi nghe hát. Phải không, các thầy cứ nhớ là chúng ta nghe đây để nắm được cái yếu điểm nào mà chúng ta tu tập cho mình.Đi tu rồi tới cái bát người ta còn xả, còn mình bây giờ mua băng mua máy mua này kia. Năm sáu chục cuộn băng này để, cứ rỉ rả rỉ rả mà nghe Thầy ca thì thôi thôi. Chắc cái kiểu đó cũng như chúng ta mua cái băng hát của mấy cô đào ở ngoài kia để nghe còn sướng hơn. Mà còn nghe hay hơn, còn ngọt ngào hơn nữa, cái giọng còn cao, gặp cái giọng của ông thầy bệnh đao này cứ ho khẹt khẹt hoài có hay ho thứ gì đâu. Các thầy thấy rõ ràng mà, vậy mà cứ tua để mà cứ nghe thì Thầy nói ôi thôi chết rồi.

Cho nên ở đây chúng ta nghe là mục đích chúng ta nắm cho được cái yếu điểm của nào đó để chúng ta thực hiện con đường tu. Còn bao nhiêu chúng ta xả hết.Đi tu mà mang giống một cái kè như vầy. Hai ba chục cái cuộn băng thì thử hỏi quảy một gói vô trong rừng mà đặng ngồi nghe thì thôi. Nghe mà khỉ nó kêu còn hayhơn là nghe Thầy hát. Phải hông, các thầy biết. Cho nên dẹp hết đi dẹp hết đi đừng có nghe, đừngcó nghe nữa mà hãy giữ gìn. Thứ nhất là như thế nào: ăn nè, ngủ nè, độc cư nè phải đúng hông, rồi tùy thuận nhẫn nhục bằng lòng. Mà hễ hễ ra quý thầy, bây giờ quý thầy thấy trong thời gian này xem quý thầy có nhẫn nhục tùy thuận bằng lòng được không. Chút chút một mấy cuộn băng không mà Thầy thấy hổng có nhẫn nhục gì được hết. Cho nên tu rồi mà nhìn lại mới thấy thiệt thế gian là thế gian, cái tâm thế gian hồi nào nó cũng còn hồi nấy à. Cho nên nghe lời Thầy mà xả đi, bỏ đi để cho nó giải thoát, để cho cái tâm mình nó an ổn.

À, bây giờ có một thầy xin Thầy nghe cái dự thảo phương án thành lập Trung tâm An dưỡng từ thiện. Thầy cũng sẽ đọc lại cho nghe để biết cái ước vọng của Thầy làm cái đó là để làm gì đây, có ích lợi gì. Có thầy xin được nghe cái phương án thành lập Trung tâm An dưỡng từ thiện Chơn Lạc. Thầy xin đọc lại cái phương án ấy cho quý thầy nghe. Đó là một ước vọng của Thầy đem cái Đạo đức nhân quả của đạo Phật vào đời, mưu cầu lại hạnh phúc cho loài người trên cái hành tinh này. Nhưng ước vọng này chưa thành, chắc chắn chúng sanh chưa có hữu duyên. Sau này mới có cơ duyên thành hình dưới nhiều hình thức khác nhau chứ không phải như ở phương án này nữa. Miễn làm sao Đạo đức nhân quả được vào đời thì hạnh phúc cho con người biết là bao. Ở đây chỉ là một phương án nhỏ để đem đạo đức của đạo Phật dạy con người trong cái thời đại hiện tại này mà thôi. Có nghĩa là cái phương án này mà nó đem vào đời nó cũng tùy theo cái hoàn cảnh để mà đem đạo đức đó chứ không có phải là cái gì khác hết. Cho nên khi mà Thầy đọc thì quý thầy thấy đây là tùy cái hoàn cảnh mà thành lập cái dự thảo phương án này chứ không phải cái mục đích chính của nó là đem cái đạo đức nhân quả vào đời để dạy người ta biết làm lành tránh những cái điều dữ để tạo cái phước báu cho họ mà chính bàn tay và khối óc của họ chứ không phải ai khác hơn hết. Thầy xin đọc lại cái dự thảo phương án thành lập trung tâm an dưỡng.

Phương án thành lập Trung tâm an dưỡng từ thiện Chơn Lạc. Thay mặt ban sáng lập - Thượng tọa Thích Thông Lạc.

Mục lục:

1. Nhận định tình hình.

2. Mục đích.

3. Tổ chức điều hành.

4. Phương thức hoạt động.

5. Nguồn vốn.

6. Điều kiện an dưỡng.

7. Kế hoạch chi phí ăn ở trong thời gian an dưỡng.

8. Các giai đoạn thực hiện.

9. Kết luận.

Đó là cái mục lục nó có 9 cái phần của nó. Bây giờ phần một của nó là Nhận định cái tình hình.

Đây thì Thầy sẽ đọc cái phần một:

Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kì Đất nước thân yêu của chúng ta đã gánh chịu biết bao nhiêu mất mát đau thương mà hậu quả cho đến giờ sau gần 20 năm hòa bình những vết thương của chiến tranh còn chưa hàn gắn hết được. Bao nhiêu người con của Tổ quốc đã hi sinh tính mạng, bao nhiêu người đã không còn lành lặn, bao nhiêu người mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha, v.v…Những hi sinh vô giá đó làm sao đền đáp được, những người tu sĩ Phật tử cũng là những người con nước Việt. Khi Đất nước bị ngoại xâm đã phải gác sự tu hành của mình để cùng toàn dân tham gia kháng chiến. Nay được sống, được yên ổn tu hành trong hòa bình, đó là niềm hạnh phúc lớn lao. Chúng tôi suy nghĩ phải làm gì để đóng góp trí tuệ, công sức của mình trong chương trình xóa đói giảm nghèo của Chính phủ. Vì vậy việc thành lập Trung tâm an dưỡng từ thiện dành riêng cho cha mẹ liệt sĩ, thương binh, người có công với tổ quốc, trẻ em mồ côi và các tu sĩ là việc làm thiết  thực hợp với đạo và đời.

Đó là cái nhận định cái tình hình để mình giới thiệu cái phương án này.

Hai- tức là cái Mục đích.

Trung tâm an dưỡng nhầm mục đích tạo mọi điều kiện giúp đỡ cho cha mẹ liệt sĩ, các cán bộ hưu trí thương binh và các tu sĩ có nơi an dưỡng thanh tịnh, hưởng được không khí tốt lành thoáng mát, thường xuyên được chăm sóc sức khỏe. Hằng ngày được hướng dẫn tập dưỡng sinh, tọa thiền để tăng cường trí lực. Có nơi vui chơi giải trí hòa nhịp với cảnh trí thiên nhiên đẹp, môi trường trong lành. Bên cạnh đó trung tâm an dưỡng sẽ thu nhận trẻ em mồ côi, khuyết tật để nuôi dạy nghề, tạo điều kiện cho các cháu trở thành những công dân có ích cho xã hội. Trung tâm giúp mọi thành viên trong khu an dưỡng sống trong tinh thần cùng nhau vui sống, cùng nhau nói lời hòa hợp, cùng nhau góp ý kiến xây dựng, cùng nhau trao đổi những điều hay biết. Cùng nhau giữ gìn pháp luật, giới luật đức hạnh, cùng nhau đồng hưởng những niềm vui.

Ba - Tổ chức và điều hành.

Trung tâm thành lập với tên Trung tâm an dưỡng từ thiện Chơn Lạc. Trung tâm nằm trên một khu đất với diện tích hơn 4 hecta thuộc Phước Hải - huyện Long Đất - tỉnh Bà Vịa Vũng Tàu. Phía trước là biển Đông, bên phải là khu di tích lịch sử Minh Đạm, bên trái là ruộng lúa, sau lưng là núi. Trước đây là sở hữu chủ của tịnh thất Chơn Lạc đã và đang canh tác trồng cây gây rừng, tạo nên cảnh quang thơ mộng, thiên nhiên đẹp, không khí trong lành mát mẻ nhờ gió biển và rừngcây. Nơi đây rất phù hợp cho việc an dưỡng, chữa bệnh và tịnh tâm, hơn nữa lại gần khu du lịch, gần đường giao thông. Toàn trung tâm được chia làm 12 khu vực.

- Khu A1, A2 dành cho cha mẹ liệt sĩ, dành cho cán bộ thương binh.

- Khu B1, B2 dành cho những người nghèo.

- Khu C1, C2 dành cho tăng và ni tịnh tâm.

- Khu vực khám bệnh và điều trị bằng Đông -Tây y.

- Khu vực tập dưỡng sinh cho tất cả thành viên trung tâm.

- Khu làm việc của ban điều hành trung tâm.

- Khu nhà ở của nhân viên phục vụ, khu nhà ăn tập thể, khu vui chơi giải trí.

- Khu nhà khách, bãi đậu xe và nhà kho.

Chức năng của các khu vực như sau:

- Khu A1 dành cho sinh hoạt của các cha mẹ liệt sĩ, các gia đình thương binh cán bộ. Khu này được xây dựng thành những gia đình nhỏ gọn đẹp, xung quanh có vườn hoa.

- Khu A2 dành cho cán bộ thương binh độc thân, khu này tổ chức theo lối sống tập thể nam nữ biệt lập.

- Khu B1 dành cho những người nghèo, khu này xây dựng thành các tiểu gia đình xung quanh có vườn cảnh.

- Khu B2 dành cho những người nghèo độc thân. Khu này tổ chức theo lối sống tập thể được chia thành hai khu nam và nữ để sinh hoạt.

- Khu vực dành cho các vị tăng, trong khu có nơi sinh hoạt chung và nơi dành riêng để tịnh tâm của tăng và ni.

- Khu khám bệnh điều trị bằng Đông - Tây y cho các thành viên toàn trung tâm. Ngoài việc chữa bệnh còn kiểm tra vệ sinh ăn uống dành riêng một khu đất để trồng các loại cây thuốc.

- Khu tập thể dưỡng sinh được lót bằng đá granit, khoảng chia làm hai. Một có mái che rộng để tránh mưa, một không mái để tập y võ sinh, dưỡng sinh và thể dục.

- Khu vực làm việc cho ban điều hành toàn trung tâm gồm có văn phòng trưởng ban trung tâm, văn phòng phó ban trung tâm, phòng tổ chức hành chánh, phòng họp ban điều hành.

- Khu nhà ở cho nhân viên trung tâm được xây cất để phục vụ gồm: nhà ở trưởng ban, nhân viên y tế, nhân viên phục vụ bếp, nhân viên phục vụ khách.

- Khu nhà ở được chia như sau: một khu ăn chay dành cho chư tăng, chư ni, cư sĩ đến khất thực. Một khu nhà ăn dành cho cha mẹ liệt sĩ, cán bộ hưu trí và thương binh. Một nhà ăn dành cho nhân viên toàn trung tâm.

- Khu vui chơi giải trí được xây dựng dựa theo hình thể thiên nhiên, cải tạo thành hồ, cảnh non bộ, các thánh tích lịch sử thu nhỏ, các khu vườn sinh học cho các thành viên trung tâm thực hiện như khu hoa kiểng phong lan, bonsai, non bộ, khu vực trồng các loại cây quý hiếm như nhân sâm, linh chi, v.v.. Một khu vườn ươm cây để trồng tạo cảnh đẹp toàn trung tâm. Khu nhà khách xây dựng gần trung tâm dùng để tiếp khách từ trung ương và các tỉnh thành, các vị tu sĩ trung ương giáo hội, v.v.. về an dưỡng trong thời gian ngắn ngày. Khu này có phòng riêng cho tập thể và gia đình.

Ngoài ra trung tâm còn có một bãi đậu xe du lịch bốn đến 15 chỗ ngồi. Bãi đậu xe tải và xe khách cùng một nhà kho chứa nguyên liệu, chất đốt, dụng cụ và lương thực thực phẩm.

Tình nguyện điều hành toàn trung tâm là những Phật tử thuần thành, có nhiều uy tín và kinh nghiệm tổ chức từ thiện xã hội, được chính quyền chấp nhận. Thành phần ban điều hành gồm có một trưởng ban, một phó ban điều hành, một kế toán trưởng, một thủ quỹ, một thư ký. Giúp việc cho ban điều hành gồm có các phòng ban sau: phòng tổ chức và hành chánh quản trị, phòng y tế, phòng khoa học kỹ thuật, ban an sinh.

Bốn - Phương thức hoạt động.

Trung tâm an dưỡng từ thiện Chơn Lạc là một chỗ tổ chức có tư cách pháp nhân được Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và huyện Long Đất, xã Phước Hải ra quyết định thành lập và cấp giấy phép hoạt động. Được hoạch toán độc lập, có con dấu riêng, được mở tài khoản ở các ngân hàng, được phép nhận các nguồn bảo trợ trong tinh thần từ thiện xã hội.

Năm - Nguồn vốn.

Nguồn vốn của trung tâm do các Phật tử cùng các nhà hảo tâm đóng góp.

Sáu - Điều kiện an dưỡng.

Các cán bộ hưu trí, thương binh, cha mẹ liệt sĩ và những người nghèo được Ủy ban nhân dân Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu huyện Long Đất - xã Phước Hải giới thiệu. Những vị tu sĩ được giáo hội Phật giáo Việt Nam và Giáo hội cấp tỉnh thành giới thiệu.

Thời gian an dưỡng - Trung tâm tổ chức an dưỡng theo hai dạng. Dạng ngắn ngày từ một tuần đến một tháng, từ một tháng đến ba tháng, từ ba tháng đến sáu tháng. Dạng dài ngày từ sáu tháng đến một năm, từ một năm đến hai năm. Trường hợp đặc biệt sẽ được ban điều hành trung tâm xét và chấp thuận cho phép được an dưỡng lâu hơn.

Bảy - Các giai đoạn thực hiện.

Giai đoạn một: Quy hoạch và phân khu chức năng các khu theo dây chuyền tổ chức và quản lý của trung tâm. Xây dựng hệ thống cấp thoát nước điện, xây dựng các nhà cho ban điều hành và nhân viên trung tâm, xây dựng các đường vận chuyển trong trung tâm, xây dựng khu nhà bếp nhà ăn nhà vệ sinh.

Giai đoạn hai:Xây dựng các khu an dưỡng, xây dựng khu vui chơi giải trí. Giai đoạn ba: xây dựng khu nhà khách, xây dựng khu vui chơi giải trí, trồng hoa cảnh toàn trung tâm.

Kết luận - phần tám.

Chúng tôi là những người Phật tử được sống an ổn trong đất nước thanh bình và tạm đầy đủ. Muốn thể hiện tinh thần đền ơn đáp nghĩa đối với những cha mẹ liệt sĩ, những người có công với tổ quốc, những người thất nghiệp.

Đó là cái phần mà cái dự thảo cái phương án của Thầy như vậy. Đó là cái mục đích mà để khi mà được thành hình thì cái điều kiện tiên quyết mà Thầy làm. Tức là sau những người mà đến mà ở đó mà an dưỡng thì được Thầy hướng dẫn cho họ trong những cái buổi thuyết giảng nói về đạo đức nhân quả. Thầy không nói về thiền, cũng không nói về Phật giáo như thế nào hết nhưng mà nói về những cái ác cái thiện để cho mọi người người ta biết người ta thực hiện, người ta đem lại cái đời sống an lành và hạnh phúc cho mọi gia đình. Sau cái thời gian như từ nửa tháng cho đến một tháng ở trung tâm khi họ về thì chắc chắn cái gia đình đó được nghe những cái bài giảng về Đạo đức nhân quả thì họ sẽ mang lại cái hạnh phúc cho toàn gia đình của họ. Và đối xử với xóm làng của họ rất là có những cái trật tự, cái an ninh làm cho mọi người đều vui với nhau.

Đó là cái ước vọng của Thầy là đem cái điều đó để đem lại cái hạnh phúc cho con người. Nhưng vì bây giờ tuổi già sức yếu rồi, không thể thực hiện được cho nên cái này Thầy ủy thác lại sau này cho các thầy còn tuổi trẻ, hãy cố gắng mà đem cái Đạo đức nhân quả. Từ những cái tôn giáo nào nó cũng có cái đạo đức nhưng cái đạo đức của đạo Phật thì người ta làm như người ta không thấy cái đạo đức của đạo Phật. Vì vậy mà hầu hết có một số các thầy tu sĩ của Phật giáo cũng như các Tổ người ta luôn luôn đem cái đạo đức của Nho giáo mà dạy ở trong các chùa. Thầy có đọc cái bộ sách của các tổ viết đó là Thiền Lâm Bảo Huấn. Cái lời dạy đạo đức ở trong đó hầu hết là đạo nho chứ không phải là đạo Phật. Vì vậy mà Thầy thấy sao lại các vị Tổ này đều là những người tu sĩ của đạo Phật mà sao lại không thấy cái đạo đức của đạo Phật dạy con người. Mà lại lấy cái đạo đức của một tôn giáo khác mà viết thành một cái bộ sách như vậy để mà dạy những người tu sĩ của chúng ta phải hành theo cái đạo nho, hành cái đạo đức theo đạo nho.

Cho nên Thầy thấy rằng rất là ngạc nhiên, không phải đạo Phật không có đạo đức. Có đạo đức chớ, nhưng tại sao chúng ta không chịu khai triển nó ra? Vì hẳn hòi chúng ta đã thấy cái lộ trình mà thứ nhất mà đức Phật đã dạy cho cái người cư sĩ rất là tỉ mỉ, rất là rõ ràng. Và đạo Phật đã đứng ở  trên cái nhân quả để mà xây dựng cái giáo pháp của mình. Do vì vậy thì chúng ta biết rõ ràng là cái đạo đức của đạo Phật là cái đạo đức nhân quả, cái đạo đức giải thoát thực sự. Vì mình có làm điều thiện mình mang đến cái phước báu cho mình rất rõ. Tại sao không triển khai. Nếu mà từ xưa đến giờ mà quý hòa thượng quý thầy mà hiểu được như thế này. Triển khai ra thì bây giờ chúng ta có một cái đạo đức rất là tốt đẹp vô cùng và bây giờ dân tộc của chúng ta cũng thấm nhuần cái đạo đức đó rất là sâu. Cho nên người ta chỉ thấm nhuần với những cái hành động nho nhỏ của cái đạo đức nhân quả này.

Thầy xin nhắc lại một đứa con nó bắt một con kiến hay con dế rồi nó nắm nó quay để cho con dế chóng mặt đi rồi thả xuống cho hai con dế cắn đi. Hay hoặc là nó chơi một hơi nó ngắt chân ngắt cẳng con dế đi. Thì người mẹ nói con đừng có chơi như vậy. Con chơi như vậy tội đọa địa ngục chết. Thì người ta chỉ biết cái nhân quả có bao nhiêu đó thôi hà. Người ta hù dọa đứa nhỏ cho nó sợ cho nó đừng có làm đau khổ của con vật chứ người ta không có triển khai ra được cái đạo đức nhân quả thế nào và đem đến cái quả khổ, như thế nào là đem đến cái sự an vui. Mà người ta chỉ biết là con đừng có làm vậy đọa địa ngục, chơi như vậy là ác lắm. Người ta chỉ biết nói như vậy thôi, chứ người ta chưa có biết giảng ra cái đạo đức của đạo Phật như thế nào.

Cho nên Thầy thấy rằng cái nhiệm vụ của người tu sĩ Phật giáo hiện giờ là chúng ta phải triển khai cái đạo đức nhân quả để dạy cho con người là cái trách nhiệm rất lớn cho chúng ta. Làm cho con người có đạo đức đó và làm cho cái xã hội được trật tự an ninh vì người ta đã hiểu được nhân quả.

Bây giờ thì chúng ta đã được nghe qua cái dự thảo phương án và được nghe qua cái sơ sơ về cái ích lợi khi mà cái đạo đức của đạo Phật, tức là đạo đức nhân quả được đem ra giảng dạy cho mọi người thì đem lại ích lợi. Nhưng hôm nay là cái ngày chúng ta thấy cái ngày 12/7 năm Đinh Sửu nhằm ngày 14/8/1997 dương lịch. Sau ba tháng an cư kiết hạ thầy trò chúng ta gặp nhau thường trao đổi những kinh nghiệm tu hành. Và ngày ngày được nghe Thầy thuyết giảng, dựng lại các pháp môn của đức Phật đã dạy cách đây 2540 năm. Hơn 20 thế kỉ từ người xưa đến người nay đã nối tiếp nhau thắp ngọn đuốc của Phật pháp để cho nó sáng mãi mãi và trường tồn với con người trong thời gian. Nhưng ánh sáng Phật giáo này là một Phật giáo kiểu mới không phải là Phật giáo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Giáo lý thật sự là giáo lý của đức Thích Ca Mâu Ni nhưng người sau họ đã biến cái giáo lý này thành những môn học không còn là những môn tu. Cho nên họ lấy đó để cầu danh cầu lợi để đạt được cấp bằng của những cái giáo lý này. Thay vì giáo lý của Phật để dạy người tu tập giải thoát khỏi cảnh trầm luân đau khổ của thế gian. Thế mà con người không hiểu rõ lại chồng thêm một lớp danh lợi của Phật giáo lên trên cái lớp danh lợi của thế gian nữa.

Phật giáo cũ nghĩa là Phật giáo mà Nguyên Thủy thì bỏ xuống hết. Nghĩa là mọi cái thứ gì cũng đều buông xuống hết. Còn Phật giáo mới thì đã không buông xuống mà lại còn chồng thêm. Lấy thêm cái giáo điều, cái giáo lý của Phật làm cái danh cái lợi của mình. Do vậy sau những buổi thuyết giảng Thầy đã quá thẳng tay đập mạnh làm cho các thầy ngồi nghe quá sợ hãi và khiếp đãm trước một lực lượng tu sĩ Phật giáo hiện giờ quá đông đảo và có thế lực. Còn riêng Thầy với một tu sĩ tầm thường, thân hình thì ốm yếu nhỏ nhoi chẳng có gì đáng kể. Thế mà dám rống lên tiếng rống sư tử để dựng lại Phật giáo với một số đồ chúng nhỏ nhoi ít ỏi. Không thế lực thì làm sao dựng lại nổi? Hay đây là một hi vọng hão huyền, một giấc mơ tốt lành và giấc mơ ấy chẳng bao giờ thực hiện được. Tiếng rống sư tử này không khéo sẽ thành tiếng chó sủa ma trong đêm vắng.

Kính thưa quý thầy và quý Phật tử! Tuổi đời của Thầy đã hơn một đời người rồi, chẳng còn bao lâu nữa thân tứ đại này sẽ trả lại cho đất nước gió lửa. Chỉ vì thương các thầy tu hành chưa đến nơi đến chốn nên còn nấn ná một đôi ngày. Hôm nay trước giờ phút chia tay với các thầy cũng như các cư sĩ đã từng sống tu tập bên Thầy. Nếu quý vị nào còn quyết theo con đường tu tập của đạo Phật thì tốt hơn hết sau khi ở đây về thăm nhà, chùa rồi lo giải quyết mọi việc, xả dứt hết những nhân quả của thế gian. Những người thân thương và của cải tài sản. Chọn lấy một nơi thích nghi rồi tập hợp nhau lại một địa điểm sống đúng phạm hạnh, sách tấn nhau để tu tập. Còn quý thầy ở lẻ tẻ Thầy tin rằng khó mà quý thầy tự giác nỗi trong cuộc sống phạm hạnh. Chỉ có sống với nhau rồi sách tấn cho nhau. Nhờ giới hạnh nghiêm trì nó sẽ giúp quý thầy ly dục ly ác pháp. Nhờ sống bên nhau mới có sự sách tấn tu hành. Còn nếu sống một mình không có ai khích lệ, rồi quý thầy sẽ dễ dãi với mình, thiếu tinh tấn. Rồi phạm phải những giới hạnh thì quý thầy sẽ không sống đúng ly dục ly ác pháp nữa. Đời sống giới luật, đời sống của đạo sẽ không còn nghiêm túc khi quý thầy ở riêng một mình. Nếu mà sống không được nghiêm túc thì sự tu hành của quý thầy ngàn đời khó mà ly dục ly ác pháp được.

Mục đích của đạo Phật là phải có một cuộc sống ly dục, ly ác pháp thì mục đích đó mới đạt được. Đời sống không đúng thì mục đích của đạo Phật không thành tựu được. Điều này đã chứng minh cho quý thầy thấy rõ lớp lớp tu sĩ Phật giáo hằng bao thế kỷ nay tu hành chẳng đến đâu là vì sống không đúng giới hành. Đời sống không ly dục ly ác pháp được nên cuộc sống tu hành của họ rất là phí uổng. Họ bỏ cha mẹ vợ con tài sản của cải để vào chùa tu hành mong tìm sự giải thoát sanh tử luân hồi. Nào ngờ lại đi lụm mót những thứ dục lạc thế gian của người khác đang bỏ ra. Đời sống tu sĩ hiện giờ đi ngược lại đời sống của đức Phật và các Thánh tăng ngày xưa.

Kính thưa quý thầy và quý Phật tử! Nhìn thấy gương hạnh xấu xa, sống không đúng đời sống tu hành của đạo Phật thì quý vị nên tránh xa, phải từ bỏ. Do thế quý vị hãy tìm cách sống chung nhau một nơi nào thích nghi để lập hạnh. Sống đúng đời sống của Phật và chư hiền Thánh tăng. Chỉ có sống gần gũi bên nhau để thực hiện những lời dạy của Thầy, của Phật thì mới mong quý thầy tu hành đến nơi đến chốn. Còn sống riêng rẻ, ai lo cất thất nấy ở chắc chắn khó mà sống đúng phạm hạnh được.

Nếu quý thầy sống riêng rẻ quý thầy sẽ bị ma dục lạc cám dỗ và đưa quý thầy xuống địa ngục chẳng biết ngày nào ra khỏi. Nếu những địa điểm ở đây đông, không tiện thì quý thầy chia ra làm nhiều địa điểm. Ít nhất cũng phải từ hai đến ba người. Nghĩa là đông 10 người 20 người thì không tốt nhưng quý thầy có thể ở hai người ba người thì có thể sẽ yên ổn được. Đừng có nên tập trung đông người. Lấy trung bình 3 người cho đến 5 người tu hành chung nhau là tốt nhất và dễ tu nhất. Đông quá không ai điều khiển thì cũng khó tu mà sống một người thì không tự giác nỗi. Cho nên quý thầy phải sáng suốt chọn bạn đồng tu, phải hợp nhau mới tu được, không hợp thì khó tu hành lắm, không đơn giản.

Chúng ta thấy một mình mình thì ở, cất cái thất ở riêng thì mình thấy nó an lắm. Nhưng mà rồi cái ngủ, cái ăn nó dễ cám dỗ chúng ta lắm. Nếu mà chúng ta thắng được thì một mình chúng ta tu rất tốt. Sợ chúng ta thắng không được, rồi cái độc cư nó buồn nó khổ nó cô đơn nó tuôn tràn ra. Mà chúng ta sống một mình nó dễ lắm. Bởi vì cái hoàn cảnh và cái đối tượng nó dễ đến với chúng ta lắm. Ở trong thất mình yên như vậy, mắc mớ gì ở ngoài gõ cửa chúng ta kêu chúng ta thế này thế khác rồi hô cái này cái kia đủ thứ làm động tâm chúng ta rồi chúng ta phải bắt buộc phải ra nói chuyện hoặc là tiếp đón. Do đó làm chúng ta mất cái hạnh độc cư. Và mất cái hạnh độc cư nó làm tâm chúng ta bị phân tán ra, nó khó mà thống nhất lại được do cái chỗ đó rất khó. Vì vậy mà một mình nếu mà chúng ta sống được. Ăn ngủ và độc cư mà chúng ta chiến thắng được thì chúng ta sẽ tu hành tốt lắm. Mà nếu mà một mình chúng ta sống không được thì chúng ta cũng phải tìm hai người mà sống chung nhau. Nhưng đã có hai người thì quý thầy khó rồi đó, nó không đơn giản. Hai người là có hai tư tưởng, hai tư tưởng nếu mà nhắm được vào cái mục đích tu hành như ba vị tôn giả: Ngài A Na Luật tôn giả, Ngài Kiên tôn giả và Ngài A Nan Đà tôn giả. Ba người này sống suốt ba năm với nhau trong một cái nhà mà không hề có một tiếng nói.

Đó là một cái điều khó, còn chúng ta có sống được không? Mà ba người này họ sống, họ tùy ở cái tâm của người khác, họ sống cho cái người khác, không sống cho mình cho nên họ sống rất yên lặng. Còn đối với chúng ta bây giờ chưa có gì đâu. Ai cũng có cái tâm riêng hết. Thấy cái người đó mà sống coi bộ tu hơn mình thì thấy ghét rồi. Hơi có cái gì mà hay hơn mình đã là không ưa rồi. Cái tâm bỉ thử của chúngta còn nhiều lắm. Cho nên khi hai người mới đầu nó còn hợp đó nhưng mà thời gian sau nó không hợp đâu. Nó không hợp đâu rồi nó sanh ra những cái chuyện lặt vặt, nó làm cho phiền toái mà tâm nó bất an. Cho nên rất là khó.

Thầy nói hai người thôi chứ còn nói ba bốn người thì còn nhiều nữa. Ba bốn người nữa rồi nó kết hợp nó không ưa cái người đó thì nó kết hợp người này người kia rồi nó nói nó đặt thêm cái này, nó không hiểu nó đặt thêm những cái kia. Nó làm cho cái sự tu hành của chúng ta nó đi dần dần đến cái chỗ thành một đám ma quái chứ không phải là cái người tu hành. Cho nên nó khó là khó như vậy. Mà chúng ta kết hợp được, chọn được những người bạn mà đồng tu có một cái tâm hòa hợp không có cái bản ngã thì nó dễ lắm. Chớ còn có cái bản ngã một chút xíu ở trong đó là thấy cái sự đồng tu với nhau là nó khó. Cái thời gian một tháng hai tháng nó chưa nói cái gì đâu. Ở lâu rồi mới biết cái điều đó, khó lắm.

Cho nên chúng ta chọn được, quyết tâm được tu thì ta sống một mình là tốt nhất. Nhưng sống một mình thì phải giữ gìn, phải cảnh giác, phải có nghị lực chiến thắng được cái ăn cái ngủ và cái độc cư của mình. Đó là những cái bí quyết mà thành công ở trên con đường tu của đạo Phật đó. Mà nếu mà chúng ta không nắm được cái này thì ít hôm thì chúng ta phá hạnh chúng ta hết. Và phá từ cái hạnh ăn cho đến hạnh ngủ và cho đến hạnh độc cư thì kể như cuộc đời chúng ta chỉ tu hình thức chơi chứ không tới đâu hết.

Thầy xin nhắc lại quý thầy bởi vì các thầy sẽ sắp sửa rời khỏi Thầy rồi. Hôm nay còn Thầy thầy nhắc tới nhắc lui thế mà quý thầy còn không nghe thay huống hồ là không có Thầy. Thì nó quá tự do rồi. Mà nó quá tự do rồi thì ba cái hạnh ăn ngủ độc cư này làm sao mà quý thầy giữ gìn nỗi. Có Thầy đây thì quý thầy nhìn coi bao nhiêu người mà giữ được độc cư, còn bao nhiêu người mà sống lộn xộn, nay chạy thất này mai chạy thất kia. Các thầy cứ xét coi có không. Rồi từ cái chỗ đó quý thầy thấy có sự xung chướng với nhau, có sự bất toại nguyện nhau trong lòng, rồi tranh chấp nhau, rồi phiền não nhau. Ông này phiền não ông kia, có không? Các thầy cứ xét lại quý thầy, quý thầy thấy rất rõ. Cho nên những lời Thầy nói là vàng là ngọc đó, là những cái gương rất là sáng biết trước những cái sự kiện đó.

Đến đây Thầy cho nghe cái thanh qui Thầy. Là những cái giới nồng cốt của nó là gì, các thầy thấy rõ chứ gì. Đã hiểu đã nghe rõ cái giới nồng cốt là gì: Là ăn, là ngủ, là độc cư; rồi nhẫn nhục, rồi tùy thuận, rồi bằng lòng. Mà bây giờ quý thầy có thấy mình bằng lòng được ai không hay hoặc là mình xung chướng với mọi người, mình phiền não. Mà Thầy nghĩ ba cái thứ vật chất nó có ra gì đâu mà để cho tâm của mình nó quá đau khổ. Cho nên quý thầy thấy chưa. Đó là những cái phạm phải kỉ luật mà làm cho tâm quý thầy nó rất là đau khổ, nó không ly dục ly ác pháp. Cho đến bây giờ quý thầy nghe Thầy nhắc lại rồi suy ngẫm lại tâm của mình có không, có khổ không. Tại không nghe lời Thầy mà khổ, còn những người độc cư người ta như thạch bàn người ta không thấy chuyện gì xảy ra trong tâm hồn người ta hết, người ta rất là an ổn.

Đó quý thầy thấy chưa. Cho nên ở đây là cái sự Thầy nói ra để cảnh giác, lấy những cái thanh qui mà Thầy đã thu lại ở trong băng mà mở ra nghe cái lời của Thầy là cái lời nhắc những cái điều kiện cần thiết cho bước đường tu hành của quý vị.

Lấy trung bình là 3 người đến 5 người tu hành chung nhau là tốt nhất và dễ tu nhất, đông quá không ai điều khiển thì cũng khó tu. Mà sống một người thì không tự giác nỗi. Cho nên quý thầy phải sáng suốt chọn bạn đồng tu, phải hợp với nhau mới tu được, không hợp thì khó tu lắm. Chúng ta đừng có tưởng tượng là nó dễ đâu. Hai người là đã cũng thấy khó rồi đó, chứ không phải dễ đâu. Thầy nói cho đến 3 người đến 5 người là còn khó hơn đó, chứ đừng nói 10 người, 20 người; rất khó lắm.

Từ hai người trở lên phải có thanh qui. Nghĩa là 2 người sống là phải đặt cái thanh qui để bắt buộc thanh qui đó chúng ta phải áp dụng. Và hàng tháng chúng ta họp lại ngồi đọc thanh qui để rồi coi chúng ta có sai phạm chỗ nào ở trong cái thanh qui không. Thì như vậy mới có giữ được cái hòa hợp cho 2 người tu hành. Thì tức là 5 người 10 người thì cũng phải có thanh qui rồi. Hai người còn có huống hồ là 10 người. Nếu không có thanh qui thì ai cũng cho mình là người hiểu, người biết đúng còn tất cả là sai, là không đúng. Đó, nó sẽ bất hòa là ngay ở chỗ đó đó.

Dù bất cứ ở đâu theo Thầy nghĩ các thầy nên lấy thanh qui của Tu viện mà áp dụng cho địa điểm của mình thì chắc chắn quý thầy sẽ ly dục ly ác pháp trọn vẹn và ngày ngày tu hành càng tiến bộ tốt hơn.

Điều cấm kỵ nhất tu hành theo đạo Phật là cất am thất riêng rẻ tu hành một mình. Nghĩa là mình cất riêng ra rồi tự làm lấy sống đó, tự nấu nướng thì điều đó là điều nguy hiểm nhất. Rồi đây rồi cuộc sống của mình nó trở thành ra là làm để sống. Cứ hết cái giờ ngồi thiền ra thì tính phải lo nấu ăn cái này kia nọ. Bữa nay có ba cái đậu nấu chè đồ ăn đi, bữa nay có Phật tử đến cho sữa, đường mình pha thêm sữa, đường này để mà ăn đi hoặc là làm bánh bèo, bánh da lợn gì đây cho nó thơm ngon. Rồi ngồi đó cứ phục vụ cho cái ăn ở trong thất đó. Thì cái người mà cất thất riêng ở riêng mà nấu ăn nấu nướng riêng, Thầy thấy ra như là một cái gia đình của họ thôi. Rồi họ trồng cây trồng trái cuối cùng thì khách khứa mà bạn hàng đến mua cây mua trái cây gì đó thì như họ ngồi đó họ mở cái chợ buôn bán ở đó rồi. Cái thất của họ tu bây giờ nó trở thành cái chợ bán trái cây. Bởi trồng số đu đủ họ tới họ lui họ mua thành ra nó trở thành cái tiệm bán trái cây mất rồi, cái gian hàng bán trái cây. Cho nên cuối cùng thì tu không có được đâu.

Điều tu hành tốt nhất là có bậc minh sư hướng dẫn. Nghĩa là mình tu hành bất kì ở đâu mà có một vị thầy đã tu tập xong, mình nương vào cái vị thầy đó mình tu hành, đó là tốt nhất.

Điều tu hành tạm được là phải có bạn đồng tu, đồng pháp, đồng mục đích tu. Nghĩa là những người bạn đó đều đồng nhau. Chứ ông ta cũng đồng tu với mình mà ông ta tu pháp khác. Mình tu Giới - Định - Tuệ còn ông này ổng lại tu Thiền Đông Độ, một ông thì ăn ba bữa còn mình ăn ngày một bữa. Hai ông này ngồi ăn khác xa nhau, hai con mắt nó liếc liếc háy háy quít quítnhau, coi chừng thì cái chuyện đó nó khó quá đi. Cho nên tu thì phải đồng tu. Một pháp đồng với cái mục đích tu với nhau thì nó dễ. Còn cái ông thì chuyên môn niệm Phật rầm rộ, còn cái ông ngồi thiền gục tới gục lui. Hai cái ông này nó cũng không hợp nhau. Ông sao mà niệm Phật tôi ngồi thiền không được. Do đó cuối cũng cãi lẩy với nhau thôi. Cho nên tất cả những cái này đều là những cái có thể là nó không có đồng pháp cho nên nó khó tu lắm. Vì vậy mà chọn bạn phải chọn cái người mà có thể đồng pháp, đồng mục đích mới tu được.

Điều tu hành xấu nhất là sống chung với ác hữu tri thức. Nghĩa là mình chọn sai những cái người bạn xấu thì mình tu không bao giờ tới đâu hết. Đó là những ác hữu tri thức. Họ sẽ nay kiếm chuyện này, mai kiếm chuyện khác rồi ganh rồi tỵ, rồi đủ cách hết. Mình tránh xa cái loại này ra thì mình tu hành mới yên, chứ còn mình ở gần thì không có được.

Về phần đời sống ăn uống ngủ nghỉ, các thầy phải tập dần cho đến khi khắc phục được nó trọn vẹn, sống đời sống xuất thế thì mới xa gia đình, sống không nhà cửa mới được. Nghĩa là bây giờ các thầy mà về đây, thí dụ như có nhiều vị cư sĩ về đây thì từ lâu tới giờ mình đâu có xa nhà, bây giờ mình xa nhà. Rồi bắt đầu tuy rằng sống như vậy chứ mình cũng nhớ nhà nhớ cửa, cũng lo cũng lắng cái này kia thì bắt đầu mình biết cái tâm của mình nó chưa có được thuần hóa được ở trong cái đời sống xuất gia. Vì vậy mình về mình sống mình tập luyện dần dần từ cái ăn cái ngủ của mình cho đến cái độc cư sống riêng rẻ để cho mình khắc phục được cái tình cảm của mình cho nó dứt lần đi. Chứ còn bây giờ ngồi đây mà cứ nhớ nhà nhớ cửa nhớ cha nhớ mẹ nhớ con nhớ cái nhớ công ăn việc làm thì đi tu nó uổng lắm, nó hổng có ích lợi gì đâu.

Đừng dễ vui với ăn uống ngủ nghỉ mà hãy cảnh giác, đừng sống theo phàm tình. Mình đừng có dễ dãi với mình, mà mình phải khắc phục nó từ cái ăn cái ngủ của mình. Thấy nó không đúng giờ là mình không có cho nó ngủ mà phải cho nó ngủ có giờ có giấc đàng hoàng. Cái ăn cũng vậy, đừng có ăn uống lặt vặt. Muốn thì không cấm, giờ ăn là ăn, giờ không ăn thì không ăn.

Đừng có thấy cái ngon mà thích ăn nhiều, cũng đừng có thấy cái dỡ mà ăn ít. Mà phải sống cho nó đúng cái mực chứ đừng có lúc này lúc khác. Dở thì mình cũng ăn no, mà ngon thì cũng ăn no chứ không ăn ráng.

Các thầy trở về sống hòa mình với mọi người. Hãy nhớ câu: “Không làm khổ mình - khổ người”. Thầy nhắc quý thầy bây giờ ở đây quý thầy trái lại còn không nghe lời Thầy mà sống độc cư cho nên nhiều khi tự đã làm khổ mình và khổ bạn của mình rồi. Phải chi quý thầy nghe Thầy mà sống độc cư thì không làm khổ ai hết. Bây giờ quý thầy đã về với cuộc sống chung đụng với mọi người sẽ có sự tiếp duyên với nhau. Cố gắng nhớ câu: Không làm khổ mình cũng không làm khổ người. Phải biết và sáng suốt nhẫn nhục tùy thuận bằng lòng trước mọi hoàn cảnh, trước mọi ý muốn của người khác. Phải biết nhẫn nhục trước những sự khó nhẫn nhục.

Đó là những lời mà nhắc nhở của Thầy khi quý thầy sắp sửa rời khỏi Thầy. Không còn Thầy ở bên che chở nữa thì quý thầy phải sáng suốt mà nhận định cứu lấy mình để cho lúc nào tâm của mình không có đau khổ, thoát ra khỏi sự đau khổ của thế gian thường tình. Mọi người, mọi cảnh, mọi đối tượng luôn luôn đem lại sự an vui cho mình cho người khác thì quý thầy mới xứng đáng là đệ tử của Phật.

Thầy cho mọi người một cái bát đất đem về mà tập thọ thực ở trong bát đó. Mỗi lần ăn cơm thấy bát là thấy Thầy; thấy bát là nhớ đến ngày một bữa nuôi thân; thấy bát là nhớ đến tri túc thiểu dục; thấy bát là nhớ đến đời sống xuất gia; thấy bát là nhớ là cảnh giác đời sống thế gian vô thường khổ não, vui ít buồn nhiều; thấy bát là nhớ lại lời dặn bảo của Thầy nhìn chiếc bát là thấy gương hạnh sống của Thầy; thấy bát là nhớ lời Thầy dạy bảo: “Được thân người là khó, được Phật pháp còn khó hơn”; thấy bát là nhớ lời Thầy khuyên răng: “Các pháp thế gian là pháp vô thường. Vô thường thường khổ, chỉ có tịch diệt, diệt rồi là vui”; thấy bát là nhớ lời Phật dạy: “Hãy tự thắp đuốc lên mà đi”;thấy bát là nhớ lời Phật dạy: “Lấy giới luật ta làm thầy đừng lấy ai làm thầy”; thấy bát là nhớ đến những ngày sống dưới mái chùa xưa tre lá, bao kỉ niệm không quên.

Đó là các thầy thấy được cái bát là các thầy nhớ đến những ngôi chùa, cái Tu viện Chơn Như này. Cái chùa Chơn Như này mà ba tháng hạ rồi các thầy đã sống với nó, từng bao nhiêu kỉ niệm tới lui làm sao cho quý thầy quên được. Thấy cái bát là đã nhớ cái nơi mình sống trong ba tháng mà thôi.

Sau khi rời khỏi nơi đây Giới luật là vị thần hộ mệnh và che chở bảo hộ cho quý vị. Bằng ngược lại, quý vị phá giới tức là quý vị phá Phật pháp. Quý vị phải chịu lấy tội lỗi đó là đời đời kiếp kiếp quý vị thọ lấy tai ương và đọa địa ngục. Giới luật giúp cho quý vị thoát khỏi sanh tử luân hồi, giới luật là mẹ đẻ ra chư Phật. Quý vị nhớ kĩ rời khỏi nơi đây giới luật là vị thầy thân cận bên quý thầy. Giới luật chẳng bao giờ xa quý thầy. Chỉ có quý thầy xa giới luật mà thôi. Thiền của đạo Phật được xây dựng trên nền tảng giới luật - ly dục ly ác pháp. Giới luật mất là quý thầy trở thành phàm phu, giới luật còn sống với quý vị quý vị là thánh nhân. Thánh nhân chạy theo dục lạc là phàm phu, phàm phu sống đúng giới luật là thánh nhân. Này quý thầy thánh - phàm chỉ có giới luật và không có giới luật mà thôi.

Ở đây Thầy khuyên quý thầy khi rời khỏi nơi đây quý thầy hãy giữ gìn giới luật, nhất là giới ăn ngày một bữa, ngủ ít, sống độc cư thầm lặng, biết nhẫn nhục, biết tùy thuận, biết bằng lòng thì quý vị tu thiền định sẽ không rơi vào thiền tà ngoại đạo.

Vì tuổi già sức yếu Thầy cũng chẳng còn sống bao lâu nữa. Các pháp thế gian là pháp vô thường. Vì vô thường nên không lưu giữ nó làm gì. Thầy phải xả bỏ nó để về với cõi vĩnh hằng, không còn tái sanh lại nữa. Kéo dài thêm thân và tuổi thọ là kéo dài thêm sự đau khổ và cũng là kéo dài thêm nhân quả; để đến lúc cần đi ta phải đi, giữ lại làm gì. Thầy ra đi Thầy biết chỗ Thầy đi. Các thầy hiện giờ có ra đi các thầy chưa biết chỗ quý thầy đi thì quý thầy phải ráng tu hành. Còn Thầy, quý vị dựa vào Thầy tu hành, mất Thầy quý thầy hãy dựa vào giới luật mà tu hành. Giới luật là chỗ nương tựa vững chắc không bao giờ ra đi. Còn nương tựa vào Thầy có ngày Thầy sẽ mất. Thầy mất quý thầy mất chỗ nương tựa, quý vị bị hổng chân. Không có Thầy quý vị theo giới luật mà tu tập. Quý vị sẽ đi đến nơi đến chốn. Nghĩ thế Thầy sẽ ẩn bóng rồi sẽ ra đi vĩnh viễn. Khi thấy các thầy đã giữ gìn giới luật nghiêm túc, tu hành đến nơi đến chốn.

Một lần nữa Thầy xin nhắc lại quý thầy: giới luật là một bậc thầy vĩ đại trong đời sống tu hành của quý vị. Quý vị nhớ ghi khắc mãi đừng quên.

Bây giờ thầy trò chúng ta chia tay nhau ở đây là vừa rồi. Chúng ta đừng bịn rịn, đừng buồn rầu. Có duyên thì hợp, hết duyên thì xa. Các thầy hãy vui lên, hãy nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả. Duyên tan hợp đừng buồn các thầy à. Thầy sẽ gặp các thầy mãi mãi và chờ đợi các thầy nơi đó. Các thầy hãy ráng tu hành, ngày đó không còn xa. Nó sẽ đến với các thầy nay mai. Phải ráng xả tâm thế gian, xả lòng thương ghét giận hờn phiền toái và phải xả hết cả của cải tài sản vật chất thì các thầy sẽ được gần bên Thầy mãi mãi. Và thầy trò chúng ta sẽ không xa nhau nữa.

Các thầy hãy tìm một chỗ nào yên tịnh, yên ổn để tu hành, giữ gìn giới luật nghiêm túc. Thỉnh thoảng Thầy có dịp về sẽ thăm lại các thầy. Các thầy tin tưởng một ngày nào đó Thầy sẽ về thăm lại các thầy dù các thầy ở bất cứ nơi đâu Thầy cũng về thăm được. Cuối cùng Thầy chúc các thầy vui khỏe trên đường tu tập và hằng ngày tiến bộ rõ ràng. Cố gắng đoạn đường tu tập để sớm làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi. Chào tạm biệt các thầy.

Bây giờ chúng ta tiếp tục cái buổi học. Thì Thầy có đọc cái tập nhật ký thời khóa tu tập của Huệ Ân, con trình bày cái vấn đề tu cái Định vô lậu thì Thầy thấy cái trình bày của con rất đúng. Về cái pháp quán như vậy, từ quán xét từ cái thay đổi của cái thân vô thường của mình, Thầy thấy quán như vậy là rất hay. Và hằng ngày con thường đặt cái niệm và cứ quán xét như vậy thì cái lý vô thường của cái thân nó sẽ thấm nhuần và từ đó cái tâm của con nó sẽ xả đi tất cả các lậu hoặc cho nên nó đạt được cái chỗ ly dục ly ác pháp để rồi cái tâm nó sẽ thanh thản, nó sẽ nhập được cái Sơ thiền. Và từ đó về sau thì thường hướng tâm như vậy, quán như vậy rồi dùng cái pháp hướng, thì pháp hướng nó có hiệu quả thì sau đó tới bốn thiền thì con sẽ dùng cái pháp hướng mà để biểu nó tịnh chỉ. Như hiện giờ mà con đã thấy có cái hiệu quả của cái pháp hướng như cái nhức đầu con bảo nó đừng nhức đầu là thấy nó không có nhức nữa. Thì lúc bây giờ con chỉ cần, con không biết là tầm tứ như thế nào nhưng mà con bảo bốn cái tâm nó nhập vào Nhị thiền thì con bảo tầm tứ nó diệt đi, nó ngưng đi đừng có hoạt động nữa thì lúc bấy giờ con sẽ thấy có tuần tự hơi thở nó chậm nhẹ như thế nào đó nó sẽ rơi vào một cái trạng thái của định. Thì lúc bây giờ đó con đã nhập Nhị thiền. Còn nếu mà con bảo các trạng thái tưởng hãy đi ra hết để mà tịnh chỉ ly cái hỷ thì bắt đầu nhập Tam thiền thì bắt đầu con thấy nó vào Tam thiền. Tự nhiên cái tâm nó sẽ vào và đồng thời con ra lệnh các hành ngưng, hơi thở ngưng thì lúc bấy giờ nó ngưng đó thì con nhập Tứ thiền và đồng thời con nói cái thân này là hoàn toàn bỏ đi thì tức là nó sẽ hoại diệt cái thân, tức là con làm chủ được cái chết.

Đó là những cái điều kiện mà con tu cái Định vô lậu con cứ đặt cái niệm con quán như con đã viết ở trong cuốn tập nhật ký thời khóa. Con nỗ lực tu như vậy thì cái thời gian nó không lâu đâu con sẽ làm chủ được cái sống chết của con và cái vô lậu. Nó có cái hiệu quả là nó sẽ không còn cái lậu hoặc nữa thì cái nhân mà sanh tử luân hồi nó cũng hết. Tu cái định vô lậu cái nhân sanh tử nó hết thì con sẽ chết đi mà không có tái sanh luân hồi nữa.Con tu nó đơn giản nó không có cái gì nhiều đâu. Mà con đặt đúng cái niệm như vậy rồi con quán xét như vậy lần lượt con sẽ thấy rất rõ và rất rõ và đến cuối cùng thì chứng được cái lý vô thường và con sẽ hết lậu hoặc. Đó là cái phần về con.

Và đây là tiếp tục cái phần của cô Phượng.

Kính bạch Thầy, con có duyên lành và phước báu nhiều đời nên con mới được gặp Thầy và cô Út cưu mang dạy con pháp tu của Thầy. Nhưng vì nghiệp của con nặng quá nên con bị bệnh tim mạch nặng con phải tạm về nhà.

Do trong cái vấn đề đó thì con nhớ kĩ về cái Định vô lậu. Cô Phượng, con nhớ kĩ là con phải đặt cái niệm thân của con, con mới quán xét tức là suy tư, có sự tư duy ở trong cái sự vô thường của thân con hiện giờ, rồi tất cả những cái thọ, cái bệnh đau của con con cũng quán xét như thế nào để con thấu rõ được cái vô thường đó. Thì càng ngày, cứ mỗi ngày con tu một lần hai lần ba lần hay bốn lần thì mỗi ngày hai ba lần, bốn lần đó thì nhiều ngày nó sẽ thấm nhuần và nó chứng được cái lý vô thường. Cái lý mà khổ không vô ngã của nó rất là rõ ràng và cụ thể. Và từ đó con cũng sẽ thấy thanh thản trước khi mà cái thân này nó sẽ hủy hoại, tức là nó hoại diệt nó không còn nữa mà con vẫn thấy không còn bận tâm lo lắng nữa. Trước là con sẽ thấy cái tâm nó bất động ở trong các đối tượng, người ta nói nặng nói nhẹ hoặc làm cho con, cái thân của con phiền não, hoặc cái sự đau nhức ở trong thân con mà con thấy cái tâm nó thản nhiên nó không còn bận tâm nữa thì tức là mình biết là cái tâm vô lậu. Nó cụ thể và nó rõ ràng nó thấy cái tâm của mình nó bất động là mình biết nó bất động hẳn hoài đàng hoàng.

Còn về cái phần mà con tìm cái nơi mà yên tịnh để tu thì ở đây nó tùy theo cái nhân duyên. Nó có nhân duyên thì mình mới tu được còn nó không có nhân duyên thì mình không tu được. Thật ra thì Thầy đã ẩn bóng rồi thì Thầy giao lại cái phần này cho cô Út tất cả. Cho nên Thầy, cô Út tùy theo các con thấy mà cái sự điều hành của cô Út quá vất vả , Thầy cũng không có cái ý gì ở trong cái vấn đề này được.

Do vì vậy đó thì con thấy rằng trong cái vấn đề mà tìm một cái nơi yên tịnh thì tu nó mới tốt chứ không thể nào mà sống trong một cái gia đình nhỏ rất nhỏ mà tám chín người ở mà tu hành rất là khó. Đó là cái duyên con không có đủ vì vậy mà nên tìm cái nơi nào cho nó yên tịnh rồi thường đặt cái niệm tu cái Định vô lậu thì may ra mới quét sạch trong những cái thân mà bệnh tật của con đó là những cái pháp mà con đặt để mà con tu để mà con giải quyết các lậu hoặc mà con đã thọ lấy cái nghiệp thân con quá nặng trong hiện giờ.Nếu mà có được cái nơi yên tịnh tốt mà nỗ lực tu hành thì trong 5 tháng hoặc 6 tháng mà chứng.

BĂNG SỐ 58

Nếu mà có cái nơi yên tịnh tốt mà nỗ lực tu hành mà trong năm tháng hoặc sáu tháng mà chứng được cái lý vô thường của cái thân rồi thì đương nhiên là con thấy cái tâm hồn của con thanh thản vô cùng, không còn sợ hãi trước cái thọ, trước cái bệnh tật của con. Nó lên máu hoặc là nó như thế nào con cũng chẳng ngại. Tất cả những cái điều đó làm cho thân tâm con rất an ổn.

Cho nên ở đây theo Thầy thiết nghĩ thì đó là cái duyên mà thôi. Tùy theo cái nhân duyên mà mình thực hiện trên con đường tu hành. Mà thiếu duyên thì chắc chắn là rất khó chớ không phải dễ. Muốn tu mà không có duyên thì chắc cũng không tu được. Cũng như bây giờ các con muốn gần Thầy nhưng mà cái giờ phút mà Thầy đã ẩn bóng thay vì Thầy sẽ nhập diệt chứ Thầy cũng không muốn sống thêm một ngày nào cho nó quá cực khổ. Do vì vậy, nhưng vì có một vài người tu hành, đệ tử của Thầy chưa tới nơi, họ chưa đủ khả năng mà có thể thay thế Thầy mà lãnh đạo để thắp lại cái ngọn đuốc của Phật pháp. Giáo án của Thầy tuy ra đời biết nói lên cái đúng cái sai của đạo Phật để cho người ta tỉnh táo biết được cái đường lối nào tu được và đường lối nào tu không được. Nhưng không có kinh nghiệm của một con người thực thì khi nhắm đến cái đường hướng này nhiều khi chúng ta rất là mờ mịt, cũng khó lắm chứ không phải dễ. Cho nên dù sao đi nữa Thầy ẩn bóng có nghĩa là Thầy luôn luôn chăm sóc cho những người đệ tử của Thầy. Họ đang còn một vài bước nữa mà họ sẽ hoàn tất được con đường tu hành của họ. Do vì vậy mà tiếp đến khi mà họ đã làm xong thì Thầy mới ra đi vĩnh viễn. Chứ còn bây giờ mà bỏ như vậy thì Phật pháp nó cũng mai một. Công lao của Thầy dựng lại, rốt cuộc rồi không có người có kinh nghiệm để cho mấy con thừa kế thì quá là uổng. Do vì vậy mà Thầy còn nán nán lại đây trong một vài năm để giúp cho các con tu hành thêm được một cái bước khá sâu hơn và có thể dạy người, đưa người khác đi đến cái chỗ an ổn nhất là làm chủ cái sống chết được - thì đó mới là đường lối của Phật.

Dù Thầy biết rằng cơ thể của mình mỗi ngày là một suy yếu. Vì nó là cái thân vô thường, nó là tứ đại thì không thể nào mà giữ nó được. Nếu mà giữ được thì Thầy sống cũng như chết. Nghĩa là Thầy muốn giữ nó bây giờ sống bao lâu đi nữa thì ít ra thì Thầy cũng phải có thời gian phải ngồi thiền nhập định, phải có thời gian dài. Chẳng hạn bây giờ Thầy tiếp các con trong một tuần lễ thì ít ra Thầy cũng phải nhập định ở trong một tuần. Còn đằng này ngày nào Thầy cũng nói, cũng thuyết giảng, cũng tiếp xúc với các con thế này thì cái thân của Thầy càng ngày nó lại hoại diệt mau hơn, nhanh hơn. Thầy phải hao tốn cái lực lượng nhiều hơn cho nên cái thân của Thầy nó mòn, nó tàn tạ mau hơn. Còn Thầy ngồi làm thinh từ ngày này sang ngày khác thì nó không có mòn. Cũng như một cái vật, một cái máy mà nó không có chạy mà nó nằm yên thì cái máy đó nó không mòn. Còn cái máy gì mà nó chạy thôi suốt ngày suốt đêm, nó chạy hoài thì thử hỏi nó phải mau mòn chứ.

Các con thấy như ban ngày thì sáng Thầy phải thuyết giảng cho quý thầy, chiều thì trả lời cho các con rồi nghe các con thu băng. Rồi tối thì Thầy phải soạn giáo án không lúc nào ngơi nghỉ. Cái máy của Thầy chạy nhiều quá thì nó phải hao, nó hư đi. Còn khi mà ngồi thiền nhập định thì như cái máy nó không có chạy, nó nằm yên. Cho nên một cái người có thể nói rằng họ ngủ suốt hai mươi năm thì họ không có già, hai mươi năm đó họ không có thay đổi. Cũng như một người nhập định suốt hai mươi năm thì cái cơ thể họ không có thay đổi, chỉ còn ở mức trong bắt đầu mới nhập định mà thôi.

Đó thì các con thấy rằng trong cái sự mà kéo dài cái tuổi thọ của người đó thì bằng cái cách thức thiền định thì nó phải phục hồi như vậy. Ít ra thì Thầy làm việc trong cái thời gian một ngày thì ít ra Thầy cũng phải nhập cái định tương ưng với nó là phải một ngày thì mới phục hồi lại cái sức khỏe Thầy được. Đằng này Thầy thì cái làm việc thì nó gấp năm mười lần, mà cái lúc ngồi lại yên tịnh để mà giữ cái thân của mình thì nó có một hai giờ hoặc ba mươi phút là cùng. Như vậy cái thân nó dễ mòn mỏi lắm. Và đồng thời Thầy thấy cái sức khỏe của mình cũng kém nhiều lắm. Nếu mà không cố gắng thì giờ này chắc Thầy không nói chuyện với mấy con được nhiều. Do bữa hôm nay Thầy sẽ trả lời cho mấy con. Các con còn cái chỗ nào nữa mà hỏi, đây cũng là những cái lúc mà trả lời những cái lời cuối cùng đối với các con.

Minh Cảnh thì hỏi Thầy đây:

Bạch Thầy, hiện tại Thầy nhập được các định cao, có thể 100 năm thì thân Thầy không hư hoại và không ai hại được thân Thầy. Có thể ở trong định năm mười năm chờ Phật pháp đủ duyên, xuất định ra hoằng hóa độ sanh, dựng lại ngôi nhà chánh pháp. Thầy ẩn bóng nhưng Thầy không bỏ chúng con. Trong lúc đang tu tập có gì khó khăn Thầy sẽ thể hiện đến giúp đỡ. Chúng con được nghe lời Thầy dạy như vậy, chúng con hết sức yên tâm bám theo cô Út tu hành, giữ gìn giới luật nghiêm túc là có Thầy. Năm nay các Tăng, Ni, cận sự nam cả cận sự nữ và cả quần chúng tu hành rất thanh tịnh, xứng đáng một mùa hạ an cư kiết hạ, cuối cùng rồi Thầy ẩn bóng. Khó gặp lại một mùa hạ thái bình được nữa, mùa hạ năm nay Thầy chuẩn bị cho chúng con một lộ trình tu tập từ thấp lên cao, đầy đủ pháp, đầy đủ ba kinh nghiệm tu tập 10 năm trong thất của Thầy. Mười bảy năm nghiên cứu kinh điển Đại Thừa và Nguyên Thủy, hoằng hóa độ sanh gặp nhiều khó khăn cay đắng, nhưng Thầy không sờn lòng, Thầy nhắm mục đích đào tạo người tu chứng để phụ giúp Hoà Thượng Viện chủ. Nay có được vài vị có thể tu đạt được như Thầy chúng con có phần an ủi, đến lúc Thầy ẩn bóng Thầy mới đem hết kinh nghiệm 10 năm tu hành trong thất và chỗ chứng đạt của Thầy Thầy tha thiết và chỉ dạy cho chúng con hiểu biết hết để chúng con lấy đó mà tu tập. Chúng con chỉ cần tu tập đúng lời Thầy dạy là có kết quả giải thoát ngay, làm chủ sanh tử chấm dứt tái sanh luân hồi, đầy đủ trí tuệ vô lậu. Giờ đây con xin trình Thầy qua sự tu và học trong mùa hạ năm nay.

Kính bạch Thầy! Những gì mà chúng con chưa được hiểu biết mà mùa hạ năm nay Thầy đều khai thị cho chúng con được hiểu biết, đó là trước kia chúng con chưa hiểu biết về Nhất thế Tam bảo, nay được Thầy khai thị chỉ dạy con hiểu được Nhất thế Tam Bảo. Con chưa được hiểu biết lý thế Tam quy y, trau dồi Thập thiện, trau dồi Tứ vô lượng tâm: tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả. Hằng ngày được trau dồi đức hạnh, trước kia con chưa hiểu thân niệm Phật, thọ niệm Phật, Pháp niệm Phật nhờ Thầy khai mà nay chúng con hiểu biết được Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật. Đây là lần đầu tiên được Thầy dạy cho chúng con tu tập hằng ngày. Bất cứ Pháp nào đến ta bắt nó niệm Phật thì nó sẽ y như Phật. Thầy dạy chúng con phòng hộ sáu căn sống độc cư, ly dục ly ác pháp và các pháp hướng cho đến giới hạnh, giới đức, giới tuệ. Cách thức nhập định, xuất định. Nay Thầy đều khai thị cho chúng con hiểu biết thông suốt để tu tập trong những hàng ngày.

Hàng ngày trong thời gian vắng bóng Thầy, Thầy để lại cho chúng con một kho tàn vô giá để áp dụng hằng ngày. Suốt ngày đêm lúc nào cũng có pháp cho chúng con tu tập trong mọi hành động. Có bốn loại định để từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền cho đến Diệt Thọ Tưởng Định, Thầy dạy cho chúng con kỷ lưỡng. Tứ thiền diệu dụng vô cùng, người nào tu được Tứ thiền thì có đủ Tam minh Lục thông. Diệt thọ Tưởng định là nó có công năng bảo tồn thân như đồng, như sắt, không có gì làm hư hoại được nó, ở trong trạng thái vắng lặng mà sáng suốt khắp cả vũ trụ. Tất cả những gì chúng con chưa hiểu biết đều được Thầy chỉ dạy cho chúng con hiểu biết để chuẩn bị cho chúng con trên bước đường tu tập gặp phải khó khăn, những trạng thái của Định để vượt qua và những trạng thái của Tưởng. Chúng con có đủ duyên lành gặp được Bậc Minh sư, đó là sự lớn lao cho sự tu hành của chúng con. Gần gũi bậc minh sư, trí tuệ được phát sanh, tăng trưởng đức hạnh, đầy đủ phạm hạnh của một người tu sĩ. Thầy khéo tạo cho chúng con một môi trường thuận tiện cho người tu thiền định. Nơi khu vườn thanh vắng, dưới tàng cây bóng mát, xa xa có một cái thất xinh xinh nhỏ bé làm bằng cây tầm vông tre trúc. Tuy đơn sơ thanh nhã, nhưng đủ tiện nghi; nhà vệ sinh, nhà tắm, điện nước đầy đủ, thuận tiện cho một thiền sinh do sự kiến trúc mỹ thuật từ bàn tay của Thầy làm cho chúng con. Con đường đi kinh hành có hai hàng cây thon thon cao vút, trông như cảnh núi rừng tĩnh lặng. Thầy khéo sáng tạo, Cô Út là người có tài trí, thông minh, Cô quán chiếu mọi công việc trong tu viện. Cô phải lo cho chúng con từ đời sống, khi bệnh đau lo thuốc thang, ăn uống Cô khéo gói gắm để cho chúng con có đủ sống qua ngày, không dư thừa phung phí, nhưng không thiếu thốn, đủ chất lượng. Ở đây Thầy không có Phật tử đông đảo, chỉ có một số ít Phật tử nhiệt tâm vì Phật pháp tường tồn mà phát tâm cúng dường Thầy, phụ giúp cho Thầy để cho đời sống người chuyên tu. Thầy đào tạo người tu chứng, xây dựng Phật pháp. Chúng con khi ăn cơm cúng dường xong cũng tưởng nhớ đến công ơn của Cô Út đã chan rải lòng từ ban bố cho chúng con một bữa cơm ăn để no lòng tiến tu, cùng các cô phụ với cô Út làm thành một bữa cơm. Và cũng rất biết ơn các Phật tử vì Phật pháp trường tồn mà phát tâm ủng hộ cho chúng con để nuôi thân tu hành.

Đến đây chúng con thành tâm chúc Thầy sau khi ẩn bóng, mọi việc được thành công như ý mà Thầy đã ước nguyện ước vọng, nhất là đạo đức nhân quả được ra đời để cải tạo xã hội con người bằng đạo đức nhân bản - nhân quả. Đời sống bỏ ác làm lành, thánh thiện an vui. Dưới đây xin tri ân Cô Út đã hy sinh cho chúng con mọi khó khăn cực nhọc và biết ơn các Phật tử đã vì Phật pháp trường tồn mà phát tâm cúng dường Thầy ủng hộ cho chúng con tu hành. Chúng con nguyện cố gắng kiên trì tu tập, vượt qua được cơn sóng gió ba đào tiến tới con đường giải thoát để cùng nhau thắp lên ngọn đuốc con đường chánh pháp mới xứng đáng đền đáp công ơn sâu dày của Thầy và Cô Út trong muôi một.

Đến nay là ngày mà chúng con cùng với Thầy chia tay tạm biệt, chúng con chẳng biết nói gì hơn nữa, chúng con xin cúi đầu đảnh lễ Thầy tam bái.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Về cái phần mà cô Minh Cảnh trình bày qua cái lời mà trong cái buổi mà an cư giải hạ của mùa hạ năm nay. Sau khi nghe cái Giáo án, cái lời dạy của Thầy thì cô Minh Cảnh ghi lại tất cả những cái sự hiểu biết. Thầy thấy Cô đã hiểu rõ được cái đường lối tu hành, các Pháp đang tu hành, nắm rất vững, cố gắng mà thực hiện trong cái sự tu tập đó, thì Thầy tin rằng cái kết quả nó sẽ đem đến cái sự giải thoát thật sự. Người nào mà đã hiểu rõ và đồng thời giữ được Giới luật nghiêm chỉnh và thực hiện các Pháp mà Thầy dạy thì chắc chắn đi đến kết quả cuối cùng là thứ nhất là cái Tâm bất động; thứ hai là làm chủ được cái sự sống chết; thứ ba là chấm dứt sanh tử luân hồi. Ba cái điều kiện đó là phải có, bởi vì con đường của Đạo Phật thì nó rõ ràng chứ không phải nó còn mơ hồ hay là còn lý giải suông mà là cái sự thực hành kèm theo nó rất rõ, mà là thực hành đến đâu thì nó có kết quả tới đó và có kết quả tới đâu thì chúng ta cũng biết rõ là có kết quả. Đó là những cái điều kiện thực tế như vậy.

Đồng thời mà cái vấn đề hôm nay là cái buổi cuối cùng để mà Thầy trò gặp nhau sau những cái ngày mà tu tập đó, thì đương nhiên nó không phải trong ba tháng hạ này, mà chúng ta đã sống từ hai ba năm nay lận. Có người thì cũng đã sống với Thầy và cô Út rất lâu rồi chứ không phải mới. Có người thì cũng được hai ba năm rồi. Cho nên cái thời gian sống dài như vậy thì nó có cái sự vui sự buồn nó lẫn lộn đủ thứ. Nhất là trong những cái phút mà mấy con trở về nơi quê quán của mình, nhớ lại những cái lời la hét đánh đập, la hét mấy con để mà đập cái ngãcủa các con xuống. Thì cái con hãy nhớ cái ơn của cô Út rất lớn. Còn cái lời mà ngọt dịu thì các con không nhớ nhiều đâu. Nhớ lúc mà cô Út la dữ tợn mà, sách cái xô nước dơ nhất mà quăng trong mặt mấy con, thì cái đó là làm cho các con nhớ nhất. Đó là đập cái ngả của các con xuống đó. Hoặc là có những cái gì mà các con đã ghi lại trong ký ức của các con nhất đó là cái điều để cho các con buông xuống đó. Thì cái đó các con sẽ nhớ Cô nhiều. Và hôm nay cái mà các con nhớ nhất, đối với Thầy mà nhớ nhất là trong những cái lúc mà các con buồn xo khi bị cô Út mắng rầy thì lúc bây giờ các con nhớ mà, những cái năm đầu tiên các con về đây, lúc mà bị đập dữ tợn thì lúc bây giờ trong những buổi thuyết giảng. Bây giờ nó có những cái buổi thuyết giảng, lại là cái lúc mà Thầy an ủi nhất cho các con. Các con nhớ kỹ không, là ở cái điện Phật ở đằng trước luôn luôn là Thầy giảng cho các con liên tục gặp đó, thì trong những cái khi mà các con bị liên tục đập tan nát của cái ngã, cái phiền não, cái tham sân si của các con xuống, thì lúc bây giờ các con rất là buồn khổ. Mà trong khi đó lúc bây giờ các con sẽ, khi mà vắng bóng Thầy rồi các con sẽ nhớ cái gì nhất? Nhớ trong lúc Thầy như là một cái người mẹ mà đứa con đang đau khổ thì bà mẹ là người xoa dịu cái vết thương đau đó cho mấy đứa con.

Và cũng ngay bây giờ Thầy nói thực sự ra các con nếu mà sống bình thường, các con không có sự kiện gì xảy ra mà cô Út đập, thì các con không có thấy đâu. Nhưng mà khi có đập rồi các con mới thấy thấm thía. Bởi vì khi mà xa quá, vắng nhau, khi mà không còn sống gần bên nhau nữa mới thấy những cái đó là cái quý nhất cho con đường tu tập. Như Thầy ví dụ ở đây Trang nè, hoặc là Đào nè có những cái kỷ niệm giữa Thầy với mấy con. Cô Út mắng luôn cả Thầy, mắng luôn cả các con. Mà Thầy vẫn thản nhiên còn các con là mặt cứ bìu xịu ra đó. Có không? Nước mắt đứa nào cũng rưng rưng hết. Thật sự các con cứ nghĩ thấy thương Thầy, không phải Thầy không thấy. Thầy thì Thầy thấy nhân quả, còn các con thấy Thầy và thấy các con, chứ chưa có phải là thấy nhân quả. Cho nên các con bịu xịu ra coi bộ như cái cọng bún thiu. Còn Thầy như là cái cọng tàu hủ ky khi mà cái loại thứ thiệt nó dai lắm nó không có bứt được, của Thầy nó chắc lắm. Còn các con thì thấy cái mặt sao mà coi nó xụ xuống, nó ngó xuống chứ không có dám ngó lên, mà cái miệng thì nó méo xẹo chứ nó không cười, coi đời buồn khổ nhất. Nhưng mà sao các con không nhìn cái mặt của Thầy lúc bấy giờ, luôn luôn vui vẻ. Đó là nó có những cái cộng nghiệp, mà trong cái cộng nghiệp lại là cộng nghiệp với ai, cộng nghiệp với Thầy của mình. Cộng nghiệp với Thầy của mình, mà lại Thầy mình lại giải thoát còn mình thì bị xị thế này nè. Trời, coi như cái bị mà đứt quai.

Đó thì Thầy nói thật sự trong cái cuộc đời mình tu hành, là mình thấy những cái này là cái chỗ phước rất lớn để cho mình nỗ lực mình tu. Thầy mới thấy được chỗ này: à, rõ ràng là mình mới là giải thoát chứ. Chứ mình nói giải thoát mà không có cái này thì đệ tử mình đâu có thấy mình giải thoát. Cái chỗ này nó mới thấy mình giải thoát. Nó thấy mình giải thoát như vậy thì nó mới bắt chước mình. Bắt chước mình thì nó được giải thoát. Nó về, bây giờ vắng Thầy mới nhớ: À, ngày xưa Thầy làm gương hạnh đúng là Thầy giải thoát mà mình không chịu giải thoát, cho nên mình khổ. Thôi nên bây giờ mình cố gắng mình làm theo Thầy. Càng vắng Thầy bao nhiêu thì các con cần phải nỗ lực bấy nhiêu, phải không?

Cho nên do đó từ cái chỗ tu mà Thầy dạy các con là đặt cái niệm tu cái Định Vô lậu thì các con cũng nhớ kỹ nỗ lực mà tu cái đó để cứu cánh cái tâm của các con ra khỏi cái lậu hoặc. Nó làm cho các con được giải thoát. Cái đó là cái quan trọng nhất. Rồi từ cái tâm mà nó yên lặng rồi, nó thanh tịnh rồi thì cái pháp hướng mà Thầy dạy các con thường tu tập, thường nhắc nhở nó trở thành một cái nội lực, cái nội lực rất mạnh của cái tâm của các con mà chư Phật, đức Phật Thích Ca ngày xưa gọi là “Đại hùng lực” - cái Thần lực, các con sẽ khi mà tu vào cái bốn thiền thì đương nhiên là các con sẽ hết lậu hoặc. Cái Định Vô lậu thì các con đã ly dục ly ác pháp rồi thì nó là Sơ thiền rồi. Cho nên cái Sơ thiền thì các con đâu cần phải tu tập nữa. Do thời gian mà tu Định niệm hơi thở đó là các con đã là giữ được cái hơi thở, nó ổn định được cái hơi thở bình thường rồi, thì nó nằm tương đương với cái Sơ thiền rồi thì đâu cần gì hơi thở đâu. Và bây giờ các con đâu có cần gì mà các con lại ức chế tâm mình bằng cái vọng tưởng nữa. Mà các con chỉ dùng cái pháp hướng nương cái hơi thở. Các con bảo ra lệnh hơi thở chậm và nhẹ, diệt Tầm tứ nhập Nhị thiền. Thì lúc bây giờ các con sẽ, ngay đó cái hơi thở, ra cái lệnh mà tâm con nó thanh tịnh, nó ly dục rồi thì các con ra cái lệnh thì hơi thở nó sẽ theo đó mà nó nhẹ xuống và nó chậm cho đến khi nó đến cái mức của nó là nó diệt Tầm tứ thì ngay cái chỗ đó là các con sẽ nhập Nhị thiền liền. Và đồng thời bây giờ các con tiếp tới thì các con nhập Tam thiền. Thì các con tâm ly dục ly ác pháp rồi thì đâu còn những cái tưởng đâu, nó đâu còn những cái dục tưởng. Cho nên các con bảo ly hỷ, ly tất cả các trạng thái hỷ ra và đồng thời nhập Tam thiền. Thì bắt đầu cái hơi thở của các con nó sẽ nhẹ chậm xuống cho đến khi nó vào cái mực đúng cái trạng thái của sức tỉnh đến cái mức tỉnh thức cao. Làm cho các con ngủ mà như là tỉnh thì bây giờ đó thì là nhập Tam thiền. Nó loại ra tất cả những cái trạng thái tưởng thì lúc bây giờ chúng ta nằm ngủ mà không có mộng đó, tức là ngủ mà tỉnh không có chiêm bao, không mê đó thì nó mới là loại hết các trạng thái của tưởng, nó ly các trạng thái hỷ tưởng. Do lúc bây giờ các con lại hướng tâm lại nhắc nó cái hơi thở và các hành về hơi thở phải ngưng hoạt động thì ngay đó cái hơi thở và các hành nó sẽ ngưng đi. Nó ngưng với không phải là cái tưởng. Bởi vì cái tưởng nó do còn cái dục. Do chưa ly dục ly ác pháp thì nó còn cái tưởng. Còn khi ly các dục hết, các ác pháp hết rồi thì cái tưởng nó không còn hoạt động được nữa. Do đó chúng ta chỉ ra lệnh thì tức là các hành nó sẽ theo cái sự ra lệnh của chúng ta. Tức là như Thầy nói đó là cái đại thần lực, cái lực của cái tâm thanh tịnh của chúng ta. Từ đó chúng ta ra lệnh thì nó ngưng, chúng ta nhập Tứ thiền. Mà nhập Tứ thiền thì cái thân chúng ta không còn hoạt động nữa cho nên cái thân nó định. Thì thân định trên tâm, mà tâm định trên thân. Thì bây giờ thì chúng ta mới hướng tâm đến Tam minh nó mới có Túc mạng minh. Chứ còn nếu mà thân nó còn rung động, nó còn hoạt động ở trong này thì nó chưa định. Thì tức là thân chưa định trên tâm thì không thể nào mà chúng ta hướng tâm đến Tam minh được. Thì các con thấy rõ rất rõ là con đường rất cụ thể như vậy.

Cho nên hiểu rõ thì các con hãy lo mà tu cái Định vô lậu, xả cho được. Mà khi nào các con thấy như Thầy đã nhắc thường, tâm các con như cục đất mà người ta đá qua đá lại, mà nó lăn qua lại mà nó không có phiền não, không gì hết, nó vui vẻ như thường. Bởi vì nó nhìn được đôi mắt bằng nhân quả rồi. Người ta đang đá mình mà mình đang chịu những cái đá của người ta thì tức là mình trả, mình thấy mình trả. Còn cái mà hiện người ta đang đá mình tức là người ta đang nhân. Phải không? Người ta đang nhân mà, người ta nhân thì mai mốt người ta sẽ trả chứ sao. Còn bây giờ mình đang trả mà tại sao mình buồn. Không lẽ thiếu nợ người ta trả mà buồn sao? Cho nên các con không có suy nghĩ kịp cái điều đó, cho nên cái mặt nó bị xị, thấy như mình tạo điều kiện này điều kiện nọ, mình tạo ra cái nhân này nhân kia cho nên mình mới gánh phải cái quả này. Sự thật ra thì nó có nhân thì nó có quả rồi, mà nếu không nhân thì làm sao nó có quả được. Ít ra nó có cái gì nó mới xảy ra cái quả, cho nên chúng ta chấp nhận trả quả chứ chúng ta không có sợ trả, vì vậy mà chúng ta luôn vui. Luôn vui thì cũng như Phật ví dụ người ta đem bánh tới cho mình mà mình không nhận thì người ta đem về chứ có gì. Trái lại mình cứ mình nhận thì thành ra mình cứ rầu rĩ hoài, thì tức là mình đã nhận bánh người ta rồi.

Cho nên những cái Thầy nhắc đi nhắc lại cho các con sáng suốt. Đừng có lấy những cái chuyện xảy ra mà mình lại đâm ra phiền não. Trong những cái giờ phút cuối cùng không còn có Thầy nhắc nhở, không còn có một cái bàn tay của người mẹ mà nâng đỡ mình nữa, thì tức là mình không còn nương tựa chỗ nào hết thì mình nương tựa ai đây? À, mình sẽ nương tựa với “ông thầy Giới” của mình, vì giới luật nó sẽ giúp chúng ta nương tựa vào nó. Nó là thiện pháp. Mà nó là ác pháp đó thì ngay đó cái tâm mình phiền não thì càng phiền não hơn. Còn nó là thiện pháp thì ngay đó cái phiền não của mình thì mình biết rằng đây là ác pháp chứ không phải thiện pháp, cho nên mình dứt cái tâm phiền não mình. Mình dứt cái tâm phiền não mình tức là mình sống về cái giới luật rồi, tức đó là thiện pháp. Các con thấy một cái người mà tu hành mà biết rõ như vậy thì cái sự giải thoát ngay tâm họ. Đã là họ tu cái Định Vô lậu rồi. Và bây giờ hằng ngày mình không có cái chuyện gì hết thì mình phải đặt cái niệm đó để mình quét sạch cái tâm của mình, mình tu cái Vô lậu. Thì hằng ngày, ngày nào mình cũng phải nỗ lực mình tu cái Vô lậu. Thì 5 tháng, 3 tháng, 6 tháng thì cái lậu hoặc nó sẽ quét sạch ra được hết rồi. Thì chừng đó cái tâm mình nó như thạch bàn, nó vững vàng lắm rồi. Mà nó vững vàng rồi thì mình thử coi nó sao? Bây giờ cái thọ đau ở dưới cái chân mình ra lệnh nó đừng đau thì nó không đau.

Đó thì Huệ Ân đã trình bày Huệ Ân đã thực hiện được, Thầy thấy cái hiệu quả của pháp hướng nó có hiệu quả rồi. Nhưng bây giờ cái lậu hoặc nó chưa sạch đâu nhưng mà nó có cái kết quả là đã xả cái lậu hoặc. Con lớn tuổi rồi, thân thể yếu đuối rồi, đi đứng chậm chạp, có thể dễ té, có thể dễ bệnh. Thì Huệ Ân cố gắng mà luyện tập cái Định Vô lậu nhiều hơn, còn cái hơi thở để đó đi. Chờ cái ngày nào mà nó xong cái tâm này rồi thì bắt đầu chỉ sử dụng hướng tâm là sẽ nhập vào các định chứ khỏi cần phải luyện tập hơi thở nhiều. Luyện tập hơi thở nhiều khi mình thở quá dài, quá ngắn, nó rối loạn cơ thể của mình nó cũng không lợi ích gì. Nó làm cho tức lói thêm. Đó là những cái điều kiện mà Thầy khuyên nhủ các con nên tu tập trong những cái ngày. Cũng như cái ngày hôm nay là còn gặp gỡ Thầy, còn mai mốt nó đã hết khóa hạ rồi Thầy đâu còn dạy, chắc chắn là không gặp gỡ Thầy nữa và đồng thời thì cũng không còn thưa hỏi Thầy gì nữa. Khi nào mà Thầy tuyên bố là Thầy sẽ ra đi và không có còn vĩnh viễn gặp Thầy thì chừng đó thì các con sẽ không còn gặp Thầy. Và hôm nay, sau cái ngày giải hạ này thì các con ai thì có muốn về thăm gia đình hoặc này kia, còn muốn trở lại đây thì trở lại. Còn không thì về phải lo thu xếp, phải sắp xếp lại những chỗ ăn chỗ ở để mà nỗ lực tu hành tiếp tục ở trên con đường này cho xong. Chớ không lẽ đi tu rồi mà nửa đường bỏ dỡ sao. Phải thực hiện cho đến cuối cùng để cho đến cái chỗ mà rốt ráo, làm chủ được sanh tử chấm dứt luân hồi. Đó thì nó mới xong.

Còn nếu mà các con tu như thế này mà bỏ dỡ uổng lắm. Mới đi, coi như các con đã chịu đựng trong khoảng 2 đến 3 năm nay. Mà 2 đến 3 năm nay coi vậy chớ cái sự tu tập của các con nếu mà xét ra đối với cái người khác thì các con đã giảm bớt rất nhiều rồi. Thế mà các con lại bỏ dỡ, nói rằng mình còn. Chưa phải chừng nào mà nó rốt ráo mà nó mới thật sạch. Còn bây giờ tuy nó còn, nhưng mà đối với người khác thì các con chỉ còn 3 - 4 à, còn người ta tới 10 - 20 lận, thì các con thấy. Bây giờ các con dễ nhẫn dễ tùy thuận dễ bằng lòng hơn là những người khác chưa biết tu. Các con thấy trên cái sức mà tu tập thiền định các con hôm nay. Như nhiếp trong hơi thở các con dễ, ức chế tâm của mình rất dễ. Rồi cũng như đứa nào mà có tưởng nhiều thì có thể nói rằng chúng ta trị bệnh theo cái pháp mà dùng tưởng thì chúng ta thấy hoặc tay hoặc chân cũng dễ lắm. Có không, các con thấy có không. Còn cái người nào mà cái tưởng không có ngồi cứng ngắt chấp tay lên để nằm đó còn cũng như để cứng ngắt như cái tượng thôi chứ không có nhúc nhích. Còn người nào mà cái tưởng hơi mạnh chút xíu thì bắt đầu nó nhúc nhích dữ lắm. Thầy nói thực sự đây là tưởng mà. Nhưng mà chúng ta dùng cái tưởng để trị bệnh cũng như chúng ta tu cái Đinh Vô lậu đó, chúng ta cũng dùng cái tưởng mà quán bất tịnh để mà chúng ta thực hiện để lột cái bề trái của cái thân của chúng ta. Chúng ta nghĩ nó là thơm tho, chúng ta mới lật cái bề trái ra thì chúng ta mới thấy nó là bất tịnh, nó mới là vô thường thật sự, nó có sự thay đổi diễn biến nó mới đem đến cái khổ chúng ta. Do chúng ta tưởng chúng ta mới thấy được. Mà trước khi tưởng thì nó phải có một cái gì tưởng chứ không nó đâu có cái tưởng được.

Hôm nay trên cái pháp mà các con đã tập luyện. Khi nào mà bệnh của các con mà nó đúng là cái duyên nhân quả nó hết thì các con dùng cái đó thì nó hết. Mà cái duyên các con chưa hết bệnh, tức là cái duyên nhân quả nó chưa hết mà con chưa hết bệnh thì các con có trị hoài nó cũng không  hết đâu. Thật sự mà, ở đây Thầy đứng ở trên nhân quả Thầy nói mà chớ không phải là ngoài cái nhân quả mà nói được. Nếu mà các con có cái thân hôm nay đau thì ít ra các con muốn tạo cái nhân quả nào, cái thân nghiệp các con mang lên đây nó mới có cái đau này chớ. Bộ như không nó đau sao? Tại sao người khác không đau như mình mà mình lại đau? Tại sao tuổi người ta không đau đó mà mình lại đau cái đó? Thì đó là cái nhân quả của mình mà mình gánh ở trong cái đời trước mình qua. Mình tạo cái thân có cái quả này thì tức là cái thân của mình nó đã mang cái bệnh đó rồi. Các con hiểu như vậy.

Do hôm nay chúng ta nhờ cái duyên mà chúng ta tu hành. Vì vậy mà chúng ta gặp được những cái pháp tưởng này để mà chúng ta dùng nó để mà. Coi như nó là phục hồi lại những cái rối loạn của cơ thể chúng ta trong cái nhân quả của chúng ta. Nó trở về với cái dạng bình thường để cho nó không còn đau đớn nữa. Không khéo mình đem bác sĩ rồi mổ ra thì thôi nó lôi xương lôi thịt mình ra thấy còn ghê gớm hơn nữa. Lỡ mà nó để cái kéo trong đó nó vá lại thì chết mình luôn, phải không các con hiểu. Hoặc nó để cái gạt cái băng gì trong đó nó quên lấy đi thì cũng chết mình nữa. Còn cái này nó khỏi mà, nếu mà không hết thì nó đâu có sao, nó đâu có cắt banh xương xẻ thịt mình ra đâu mà sợ. Chỉ có tự nó nó làm sao nó làm kệ nó rồi nó hết thôi. Còn nó không hết thì cũng ăn thua gì, buổi sáng mình cũng ngồi múa chơi cũng khỏe, cũng như tập thể thao, có gì mà buồn phải không các con? Thay vì mình phải chạy bộ để cho nó khỏe, còn bây giờ mình ngồi chơi trong cái thiền đường này mình múa một chút cũng đâu có sao, coi cũng đẹp. Có người khác người ta đứng ngoài người ta xem ôi cái tượng này nó múa cũng dữ chứ. Đứa thì làm giống rồng đứa thì làm giống phượng, đứa thì làm như chim chích chòe. Coi cũng ngộ đâu có gì đâu. Cho nên các con cứ tập đi chứ có gì đâu. Còn con đường tu thì các con biết rằng nó từ cái chỗ mà mục đích chính của nó là ly dục ly ác pháp chứ đâu phải chỗ múa máy, phải không? Cũng đâu phải cái chỗ ngồi như cóc, nó đâu phải vậy. Muốn nhập định rồi ngồi như cóc gì, cóc tía cũng được. Còn giờ chưa có nhập định được làm sao ngồi như cóc tía được. Chúng ta có ngồi cũng như cóc con chứ đâu có cóc lớn được. Thành ra cái chuyện đó là cái chuyện sai.

Cho nên hôm nay tất cả cái điều kiện mà hôm nay chúng ta nói để mà thấy để mà cười chơi chứ thật ra thì cái gì rồi nó cũng đến cái nấy. Nhưng mà chúng ta chọn lấy con đường tu là phải chọn lấy con đường tu cho đến rốt ráo. Thầy tin là các con quyết tu rốt ráo thì các con sẽ tới à. Dù là 80 tuổi như bây giờ Huệ Ân giờ sắp sửa 80 tuổi rồi, con đi hết muốn nổi nhưng mà con quyết tu là con sẽ tới cái ngày cuối cùng con sẽ thấy sự làm chủ, kết quả con rất rõ ràng đó. Cho nên thật sự ra thì theo bên con thì có mấy cháu nó vẫn thấy một ngày nào đó Thầy tin rằng người mẹ của nó ra đi là cái gương sáng cho nó biết là có cái thân này khổ chứ không phải không. Nhưng mà cái khổ mà do cái sự công phu của mẹ nó có đủ duyên mà về đây tu cho đến ngày cuối cùng thì cái giờ ra đi của mẹ nó không có đến nỗi khổ như những người khác đâu. Vẫn tự tại, vẫn khỏe khoắn như thường. Người ta làm việc thiện không mà người ta chết còn an ổn, huống hồ mình tu hành, mình xả bỏ hết mình có làm ông thầy chùa lớn thầy chùa nhỏ nào đâu mà sợ. Cái thứ mà ông thầy chùa lớn thầy chùa nhỏ mới sợ, ăn của người ta ăn nhiều mới sợ. Nhất là Thầy đây, nhận lấy của người ta nhiều mới ngán chứ còn mấy con thứ thầy chùa nhỏ không có bao giờ sợ gì hết, phải không các con? Thầy nói thật mà mấy ông thầy chùa nhỏ họ tu họ không có sợ gì hết, còn mấy ông thầy chùa lớn thì sợ lắm. Bởi vì ai cũng cúng ông thầy lớn chứ ít có ai cúng ông thầy chùa nhỏ. Bởi vì có bao giờ họ xách lại họ cúng cho cô Huệ Ân không? Cái gì vải bộ họ cũng xách tới cúng Thầy à, Thầy có cái thân vậy làm sao Thầy mặc hết. Hôm qua cái cô nào đó không biết mang cho Thầy một đống vải. Trời, cái thân của Thầy có như vầy chắc có lẽ là đắp lên chôn luôn chứ cònnói gì. Các con thấy đâu có phải vậy, nhưng mà Thầy đã nhận tức là Thầy quá tham rồi đó. Nhưng mà không nhận thì họ không chịu đem về. Thì bây giờ Thầy làm sao bây giờ? Thật sự ra đó cũng là cái khó chứ không phải cái dễ. Cho nên cái mà Thầy ẩn bóng đều là Thầy cũng trốn danh trốn lợi thật sự đó, Thầy cũng sợ mình không nhận người ta cũng buồn mà nhận thì mình chất ở đâu bây giờ đây. Rồi bắt đầu cô Út ra, cô Út kiếm cái chuyện nào may y may áo cho hết chứ không lẽ giờ may cho ai giờ đây. Mà nếu các con không tu xong thì ba cái y nó quấn các con nó lôi xuống địa ngục cả đám hết. Còn nếu mấy con tu mà xong thì ba cái y đó nó mặc nó đi thì các con mới bay lên trời được, nó làm như đôi cánh nó bay. Thì các con hiểu chứ không phải là thường đâu. Cái thứ đó là thứ mồ hôi nước mắt của người ta. Cho nên họ cúng Thầy thầy biết làm sao bây giờ. Không nhận thì họ bỏ đó họ đi về có ai mang ba lô mang đồ về bao giờ đâu, họ bỏ đó. Mà bỏ đó thì mình thấy trời của mồ hôi nước mắt không lẽ mình bỏ đó cho nó hư sao? Thôi cũng đem nhét vô đó. Bây giờ biết ai giờ, biết ai mà cho bây giờ. Mấy ông thầy tu ông nào cũng nhiều hết, bây giờ cho mấy ông mấy ông còn tham nữa, còn tội nữa. Mấy ông tu chẳng ra gì, giới luật chẳng ra gì. Còn mấy con về ăn ngày một bữa còn quí hơn mấy ông nữa. Thôi đem cho mấy đứa này còn bảnh hơn, phải không? Các con thấy nó rõ mà. Còn đem cho mấy ông thầy kia, cho được chứ sao không được. Nhưng mà điều kiện mấy ông có ăn ngày một bữa không? Ăn ngày ba bữa mà còn chạy xe Dream nữa. Còn mấy con có thứ gì đâu, về hai tay không chẳng có gì hết. Cho mấy người tay không này còn quý hơn là cho mấy ông đã có. Cho nên đâu có đem cúng dường cho mấy người kia được. Vì vậy ít ra mình phải biết chọn cái nào mà có phước cho người khác chứ. Cho nên đem cho mấy con mà mấy con tu không xong nữa thì chết mấy con. Nó quấn mấy con nó lôi xuống địa ngục.

Thầy nói thật, cho nên vì vậy mà sau khi tu hành các con ráng đi đừng có nản chí. Trên cái đường tu bao giờ chúng ta cũng sẽ tới à. Cái kết quả khi mà Thầy vạch ra cái giáo án này rồi các con sẽ thấy con đường tu mình sẽ tới chớ không phải là không tới đâu. Tới rất rõ và cách thức tu cụ thể rõ ràng lắm. Nếu hằng ngày các con nỗ lực siêng năng. Mặc dù nó có những cái công việc để chúng ta rất là cực khổ và gian nan, nhưng bước đi chúng ta đừng có chùng bước, ta cứ tiến, tiến mãi đừng có lui. Nghe gì hơi khó khó coi bộ muốn thụt lui, muốn kêu là chạy ngược đó. Cái mặt thì ngó đây mà cái chân bước lui không à, không có dám. Sợ ngó trở lại sợ ở sau người ta dí mình. Thành ra đâu có dám quay mặt trở lại, thành ra cứ ngó tới mà chạy lui, cái kiểu đó thì nguy hiểm lắm. Đừng đừng, đừng có vậy. Cho nên ngó mặt tới thì đi tới chớ đừng có đi lui. Cái đó là cái hay nhất.

Cho nên ráng như thế nào để mà chúng ta thực hiện được cái chỗ tu hành. Thứ nhất là thầy nhắc là đây thì cho các con biết rằng, cái người mà cất thất riêng tư tu hành trong cái thời đức Phật, đức Phật không có chấp nhận điều đó đâu. Mặc dù bây giờ trong cái Tăng đoàn 1.250 vị tỳ kheo, có một vị tính xin đức Phật cái đề tài thiền để mà vào cái khu rừng vắng nào ở tu. Thì vào đó ở tu chứ đức Phật bao giờ cũng kèm sát vị đó chứ không bao giờ bỏ. Còn quý con mà nói ở bây giờ ờ hôm nay tôi đọc cái giáo án của Thầy rồi, giờ tôi muốn về cái núi đó núi đó hoặc chỗ nào đó tôi cất cái thất rồi tôi cũng nỗ lực tu. Sự thật cái tự giác của các con không thắng nổi đâu. Cái thứ nhất các con biết cái gì không? Ăn các con chưa thắng nỗi. Bị gì ở ngoài đời nó dễ cám dỗ lắm và cái tâm các con lúc bây giờ. Nó, cái ăn hễ nó coi vậy chứ nó không đơn giản đâu, nó lôi cuốn dữ lắm. Cho nên mình thấy ăn có chút nào hoặc uống ly nước ngọt đâu có nhằm nhò gì sợ. Nhưng từ một ly đó sau này nó sẽ chục ly nó chưa bỏ đâu. Thật sự đó, cho nên vì vậy nó rất khó lắm.

Rồi cái ngủ nó cũng vậy; hôm nay mệt quá thôi ngủ cho khỏe mai tu. Không ngờ bữa nay ngủ, ngày mai nó lại lôi ngủ nữa, ngày mốt nó lại lôi ngủ nữa, rồi bửa kia nó lại kéo ngủ dài ra nữa. Nó làm biếng ghê gớm lắm, từ từ nó lôi ra chớ không phải dễ đâu. Cho nên một mình nó ai mà thấy, mình ngủ chút ai mà thấy, ông Phật ông cũng ngồi đó ông ngó xuống chứ ông đâu có ngó lên thấy mình, cho nên mặc cho nó ngủ. Thành ra mình cứ tưởng cái tượng nó không thấy ai dè nó thấy chớ đâu phải nó không thấy. Thấy ông Phật Ông cứ ngồi ngó xuống chứ ông đâu có thấy. Mình lén lén nằm ngoài kia Ông dòm đâu có thấy, hoặc là mình ra sau lưng mình ngủ đâu có thấy, ai biểu mình nằm trước mặt Ông để Ông thấy. Do đó mà mình cứ nghĩ tưởng như vậy nhưng sự thật ra cái tâm mình nó thấy mình hết trơn. Đó, cho nên từ đó mình vẫn bị cái thiếu tự giác của mình.

Rồi đến độc cư các con biết nó còn khó hơn nữa, khó lắm.Nhưng mà ba cái hạnh ăn, ngủ và độc cư mà mấy con giữ trọn được thì lúc bây giờ mấy con mới cất thất riêng mấy con ở được. Nếu ăn ngủ mà không giữ trọn thì các con sẽ là, từ cái chỗ mà các con tự nấu nướng ăn là nguy hiểm vô cùng. Từ đó nó sai các con từ cái ăn phải thay đổi món ăn này món ăn kia. Điều đó là các con đi nhầm con đường ly dục ly bất thiện pháp. Nó không ly được. Từ cái ăn không ly là không thể. Cho nên tìm người bạn đồng tu với mình là hai người trở lên rất là khó chứ không phải dễ. Hai người là có hai tư tưởng rồi. Mà hai tư tưởng ở mới đầu một ngày hai ngày thì thấy nó hợp, nhưng mà đôi ba ngày mới lòi ra cái tướng của người nào, cái tâm của người nào nó khác nhau hết. Rồi hai người này cứ ở chung nhau mà cái tâm nó hục hặc hoài ở trong. Thiệt là, tuy không nói ra chứ thiệt thấy bất mãn vô cùng. Do đó làm sao tu. Cái khó là cái khó ở chỗ đó. Còn nếu đông nữa thì làm sao các con nghĩ từ ba bốn người trở lên làm sao mà tu hành. Mình đâu có Thầy nên cái chỗ mà đức hạnh nhẫn nhục tùy thuận bằng lòng đó là vốn cái mục đích để chúng ta sống chung với nhau từ hai người ba người trở lên mà chúng ta sống được là chúng ta tùy thuận ở cái tâm của người khác, cái ý của người khác, người ta muốn gì mình làm theo ý muốn. Mà chắc chắn gì bây giờ cái ý của các con mà các con làm theo ý muốn của người khác được. Đâu có bao giờ các con làm theo ý muốn của người khác được. Cho nên làm gì mà các con hai người bạn đồng bằng với nhau, đồng tu với nhau mà lại tùy thuận với nhau như vậy được đâu, đâu bao giờ có đâu.

Cho nên một người thì dễ tu nhưng không tự giác, mà hai người lại có hai tư tưởng lại càng khó tu. Cho nên cách tốt nhất là tu là phải có một cái kỷ luật, một cái thanh quy dù hai người, 3 người hay 10 người vẫn phải có cái thanh quy. Dựa vào cái thanh quy đó, cái kỷ luật đó để khép chặt mình ở trong cái kỷ luật đó, ai mà phạm thì đem cái thanh quy đó ra mà xử phạt. Ví dụ như bây giờ con một cái thất, Thầy một cái thất nè mà con lại nói chuyện với Thầy, lại thất Thầy nói chuyện, thì cái thanh quy cấm là độc cư không nói chuyện. Mà cái người lại thất người khác nói chuyện là đem ra, mổ ra liền. Tức là hôm nay là chị sai đó, chị đến thất tôi nói chuyện đó là phá độc cư rồi. Làm cho tôi cũng mất độc cư mà chị cũng mất độc cư. Tốt hơn là chị nên ở thất chị chứ đừng có lại đây nói chuyện. Nói chuyện như vậy là mình phạm giới. Ngày hôm nay là ngày rằm hay là ngày 14 đây, thì mình phải sám hối từ đây về sau chừa cái lỗi này nữa. Đừng có để làm mất cái thanh quy. Chỉ có thanh quy thôi, còn không có thanh quy làm sao nói người ta được. Hay là mình cũng buồn buồn mình cũng thích nói chuyện rồi lúc bây giờ. Kệ nó, giới giới kệ nó, mình cứ nói chuyện cho đã nói chuyện. Hai người cũng đồng nói chuyện thì thôi rồi. Thì cái chuyện đó thì không bao giờ có thể thực hiện được con đường con đường tu tập đâu, khó lắm.

Cho nên ở đây Thầy nói thực sự ra khi mà có một vị Thầy như Thầy thì nó có thể đặt thành một cái vấn đề mà cho các con độc cư không nói chuyện, thì lúc bây giờ theo kỷ luật đó và sợ Thầy thì lần lượt các con giữ được, từ đó quen đi rồi từ đó các con sống ở trong cái nội tâm độc cư. Sống trở lại trong cái sự tu tập của mình. Còn nếu không, không có kỷ luật như vậy thì nó động. Rồi rốt cuộc các con sống 5, 10 người như vậy, rồi tu cuối cùng cũng chẳng ra gì hết. Cho nên trong cái thời gian mà nó chưa phải tu những cái Định đó, cho nên các con còn sống chung đụng với nhau, rồi tập độc cư một ngày hay nửa ngày hay hoặc là một giờ hai giờ độc cư như cô Út cho đó. Đó là để tập cái Định Vô lậu chứ không phải là tập cái định nhập định như bốn cái thiền định đâu. Nhưng mà tập cái này để dành sẵn để sau khi này chúng ta mới sống độc cư hoàn toàn. Còn bây giờ chúng ta sống chung đụng là chúng ta tập cái Định Vô lậu để quét sạch cái lậu hoặc, không còn tham sân si mạn nghi nữa.

Các con thấy như bây giờ các con đang sống đó là tu cái Định Vô lậu đó.Cho nên cái người nào mà tu được cái Định Vô lậu thì luôn luôn cái mặt họ vui vẻ lắm, còn cái người nào mà tu cái Định Vô lậu không được thì cái mặt đụng có chuyện thì nó buồn buồn vào vào một hai ngày nó mới hết, nhìn thấy thì rất rõ đó. Cho nên trong cái hoàn cảnh của các con là nỗ lực thực hiện cái Định Vô lậu là nhiều nhất. Cho nên ở đây Cô út là nhắm vào cái Định Vô lậu mà dạy các con thôi. Mà dạy cách thức theo cô Út thì nhìn vào cái cuộc sống của mình rồi truy ra những cuộc sống đó để mình xả cái tâm của mình để cho mình trước cái đối tượng mà cái tâm mình nó thản nhiên mà không có hờn, không có giận, không có buồn gì hết hoàn toàn thì đó là mình vô lậu.

Rồi từ mình vô lậu rồi nó mới bước qua cái giai đoạn là tu cái định là Hiện tại an lạc trú mới cho vào những cái thất riêng tư rồi sống độc cư 100%. Cho nên bây giờ nói độc cư này kia là cô Út cổ không chịu. Tại vì cái tâm mình nó chưa vô lậu. Các con hiểu điều đó. Nếu mà cở hoàn toàn các con vô lậu, người ta nói gì nói các con an vui này kia nọ. Thì bây giờ nói thật sự không có khép các con vô cái thất độc cư đi nữa thì chừng đó các con cũng ra lệnh độc cư trong những giờ đây các con cũng nhập được định liền ngay tức khắc nữa. Thầy nói sự các con không cần phải vô thất độc cư. Còn bây giờ mà khép như các con thấy Thầy khép cho quý thầy độc cư họ cũng chẳng làm gì được hết. Họ độc cư họ đâu có chịu, họ chẳng chịu làm gì hết. Bởi vì cái tâm vô lậu của họ chưa hết, cho nên họ cũng chẳng làm gì được. Cho nên dù muốn dù không thì nó phải đi từ cái bước đầu của nó. Các con nhớ là cái Định Vô lậu rất là quan trọng cho cái bước đường tu tập làm chủ sanh tử của mình. Nó rất là quan trọng lắm. Vì vậy mà các con hãy cố gắng hơn.

Đây là cái lời của Hải Tâm hỏi thầy:

Kính bạch Thầy và cô Út.

Thưa Thầy và cô Út. Nay là buổi học hạ gần mãn, con xin trình sự tu tập và nói lên tâm tư nguyện vọng của mình. Xin Thầy và cô Út chỉ dạy cho con được rõ.

Gần ba năm nay từ khi con vào đây tu học được sự giảng dạy của Thầy qua pháp bảo của đức Phật, qua thân hành giáo của Thầy và cô Út chỉ dẫn chúng con từng chút. Chỗ nào đúng chỗ nào sai Cô vạch ra rất rõ ràng, chi tiết để chúng con ly dục ly ác pháp và buông xả dần dần, bản ngã của chúng con cũng tiêu mòn dần dần thấy rõ. Cô tạo những cảnh nghịch để giúp đỡ chúng con trên bước đường tu đập phá những cái ngã chấp, kiến chấp của chúng con. Rèn dạy chúng con không những đức tính nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng, can đảm bền chí và nghị lực, siêng năng tinh tấn vô cùng không một giây phút nào nghỉ ngơi. Dù trong cơn đau bệnh, tay chân rã rời bước đi không nổi Cô vẫn lê bước chân ra ngoài làm nhiệm vụ, phục vụ mọi người, chấn hưng Phật pháp, Cô rất an vui không hề than thở cùng ai. Cô buông xả tất cả không hề giận ghét ai, thương yêu lo lắng từ con vật nhỏ, Cô rất ý tứ hành vi thân khẩu ý của mình, làm chủ được thân tâm. Trước cơn đau nhức mà vẫn thản nhiên, Cô xem cái chết nhẹ như lông hồng, như sợi chỉ mành treo chuông; mọi sự việc xảy ra cô rất nhạy bén giải quyết trí tuệ. Cô chỉ ăn những món đơn giản tầm thường không béo bổ. Ly dục, Cô luôn làm vui lòng người. Qua gương hạnh đáng kính của cô Út, theo con nhận xét sự tu tập rèn luyện thân tâm không phải tầm thường. Thưa Thầy con xin hỏi: một người tu đạt kết quả như vậy họ có sẵn một cái tài hay một năng khiếu, một trí thông minh, nên con đường tu mau đạt kết quả có phải vậy không thưa Thầy.

Ở đây Hải Tâm hỏi Thầy. Sự thật nó cũng phải là cái một quá trình rèn luyện rất lâu chứ không phải là trong một ngày hai ngày mà cô Út rèn luyện mình được cái tâm như vậy. Mà cái thời gian mà ở đây nhiều cái đối tượng nhiều cái hoàn cảnh xảy ra, rồi lấy những cái đối tượng hoàn cảnh đó mà rèn luyện mình. Do đó mà hôm nay cô Út cũng muốn rèn luyện các con là vì cái lòng thương yêu của các con, muốn cho các con được như mình, được giải thoát như vậy. Cho nên Cô cố gắng, hễ cái gì thì cô Út cố gắng tạo điều kiện nấy để cho các con lấy đó mà rèn luyện thân tâm của mình cho được giải thoát.

Thưa Thầy khi tu Định Vô lậu tri kiến giải thoát phóng ra đó là trí tuệ. Tu Chánh niệm tỉnh giác làm việc liên tục từ sáng đến chiều, làm việc tôi biết làm việc, suy tư trong việc làm như vậy nó có trí tuệ gì bằng tri kiến giải thoát hay không?

Ở đây thì Hải Tâm hỏi thầy tu cái Định Vô lậu, cái tri kiến giải thoát là khi mà mình ngồi yên lặng thì bắt đầu, mới đầu thì mình dùng cái tri kiến. Tri kiến tức là sự hiểu biết của mình trong những cái lời Thầy dạy, trong những kinh sách của Phật. Ví dụ như nói cái thân này vô thường thì Phật nói cái thân vô thường, rồi nói cái thân là khổ khi nó vô thường thì nó thay đổi, nó không có duy trì, nó không thường hằng. Do đó nó có cái sự thay đổi, mà sự thay đổi đó nó làm khổ. Rồi nó, khi mà nó hoại diệt nó mất đi rồi thì nó không nữa. Và cái gì nó không có như vậy cho nên cái bản thể của nó cũng không có, cho nên cái ngã nó cũng không. Do đó Phật dạy như vậy. Rồi do vì vậy mà chúng ta chỉ hiểu như vậy chứ chúng ta chưa có hiểu nhiều nữa, cho nên khi mà nói nó vô thường thì chúng ta có cái suy tư. Cái suy tư hơn là cái hiểu của kinh sách đó. Bắt đầu chúng ta mới thấy quán xét như tóc ở trên thân của chúng ta, rồi như da chúng ta, rồi như cái sự suy yếu của thân của chúng ta trong lúc trẻ như thế nào, khi bây giờ như thế nào, rồi chúng ta suy nghĩ qua cái già chúng ta sẽ như thế nào? Thì chúng ta thấy cái sự vô thường thay đổi đó thì chúng ta mới rõ được cái vô thường thay đổi đó. Và cái mà hiểu rõ do chúng ta suy nghĩ ra mà thấy thì đó là cái tri kiến giải thoát, từ nó phóng ra cái sự suy tư đó nó làm chúng ta thấy rõ một cái vấn đề.Một cái vấn đề mà chúng ta muốn tìm hiểu mà bây giờ chúng ta đã rõthì cái đó gọi là tri kiến giải thoát. Còn cái mà chúng ta hiểu theo cái chữ nghĩa, theo cái hiểu của người khác dạy mình, thì cái đó không phải là cái sự tìm hiểu của mình thì cái đó gọi là tri kiến. Hiểu như vậy thì biết.

Còn tu Chánh niệm tỉnh thức nó làm cho chúng ta hoàn toàn tỉnh thức ở trong một cái hành động, nó có ý tứ từ trong cái việc làm mà không có khởi ra cái niệm gọi là vô thức. Cái niệm mà trong khi chúng ta đang làm các chuyện mà chúng ta không biết rồi chúng ta nghĩ cái chuyện khác, thì cái đang nghĩ cái chuyện khác thì cái chuyện này khởi lên một cái niệm gọi là vô thức. Cái niệm mà trong khi chúng ta đang làm cái chuyện mà chúng ta không biết rồi chúng ta nghĩ cái chuyện khác thì cái đang nghĩ chuyện khác thì cái việc làm này chúng ta không có biết, mất đi rồi. Thì đó gọi là thiếu cái Chánh niệm, gọi là thất niệm. Thất niệm tức là thất cái tỉnh thức ở đó. Cho nên ở đây giúp chúng ta làm việc có ý tứ. Vì vậy mà khi cái ý tứ này, khi mà chúng ta đặt một cái niệm thì nó mới có ý tứ. Cái ý tứ đó nó mới nhìn một cái sợi tóc. Nó mới nhanh nhìn được cái lằn nhăn của nó, nó mới nhìn cái mũi của nó, nó mới nhìn được cái gò má hóp của nó, nó mới nhìn được con mắt sâu của nó, nó mới nhìn được cái tròng mắt nó ngày xưa thì nó đen, bây giờ thì nó vàng nó bạc, nó thấy lờ mờ nó không rõ. Thì cái đó nó nhìn được cái sự vô thường của nó. Là cái sức ý tứ, ý tứ là cái sức tỉnh thức. Tỉnh thức nó mới giúp chúng ta ý tứ, ý tứ chúng ta mới quan sát được, chúng ta mới phóng ra được cái tri kiến giải thoát.Con hiểu không, nó mới có. Chứ còn cái ý tứ nó không phải là trí tuệ đâu. Cái ý tứ của chúng ta nó giúp chúng ta, nó tỉnh tức thì nó giúp cho chúng ta có ý tứ. Bây giờ cầm một cuốn vở này mà có ý tứ thì chúng ta cầm nó nó không có xẩy tay, làm rách hoặc làm rớt. Đó gọi là ý tứ. Chứ không phải là trong cái ý tứ đó là trí tuệ. Mà nhờ cái ý tứ đó thì bắt đầu chúng ta mới quán sát. Thì cái ý tứ đó nó mới xem lại cái sợi tóc của nó, rồi mới xem lại cái lông mày của nó, rồi mới xem lại con mắt của nó, rồi mới xem lại cái gò má hóp của nó, nó mới xem lại cái làn da của nó, nó mới nhìn lại móng tay móng chân, nó mới nhìn lại những đường gân ở trong thân của nó. Nó quan sát lại rất kỹ những cái phần chi tiết rất nhỏ của nó, cái đó gọi là trí tuệ. Nhưng mà cái trí tuệ này nó do cái sự phát triển, nó do cái ý tứ của mình nó triển khai ra những cái này để cho mình tìm hiểu được cái sự vô thường đó thì cái đó gọi là tri kiến giải thoát. Còn bây giờ mình hiểu qua một cái gì mà người ta hiểu sẵn thì cái đó gọi là vay mượn, cái đó gọi là tri kiến.

Cái phần là như vậy để cho con thấy rằng cái định Chánh niệm tỉnh giác nó chỉ giúp cho chúng ta có ý tứ, có tỉnh thức ở trong những cái ý tứ rồi áp dụng qua cái Định vô lậu thì nó mới phóng ra được cái tri kiến giải thoát. Còn nếu mà không có ý tứ này thì nó chỉ có cái tri kiến mà thôi. Bởi vì nó không có ý tứ cho nên nó chỉ nhớ lại. À nó nhớ lại vô thường khổ không vô ngã thì nói cái thân này là vô thường khổ không vô ngã. Cho nên có người nghe đặt cái niệm thân vô thì bắt đầu đặt cái niệm thân thì quán nó vô thường khổ không vô ngã. Rồi nói một hơi như vậy rồi xả ra đi, nói tôi tu cái Định Vô lậu rồi đó. Thì đó thiệt là cái định này có tu một ngàn năm nó cũng vô lậu theo kiểu mà nhai cái bã mía của người ta mà người ta nuốt hết cái nước ngọt, mà mình nhai lại lạc nhếch mà cứ nhai hoài thì nó cũng không nhằm nhò gì đâu. Thì đó là cái sai đó.

Về Định hiện tại an lạc trú con tu ít lại, con không ngồi hơn nữa tiếng, con tập có sức tỉnh làm chủ thân tâm cho được trong nửa tiếng này thôi. Con tu ba thời buổi khuya, chiều tối, thời gian còn lại con tu ba định kia. Giáo án ra đời Thầy hao hơi tổn sức rất nhiều. Con cũng nguyện đem hết sức mình siêng năng tu tập. Những gì cần trao dồi, những gì cần vứt bỏ và tuần tự con tu tập từ Đạo đức nhân quả, thập thiện thân khẩu ý, ly dục ly ác pháp, tri túc thiểu dục, Tứ vô lượng tâm.

Đó là cái phần mà các con đã hiểu qua cái giáo án mà Thầy đã dạy. Đó là cái phần nòng cốt của sự tu tập của các con đó.Ráng mà cố gắng nhớ đến thiểu dục tri túc, có gì mình biết đủ rồi. Mà bây giờ nó không có gì, mà nó còn cái gì mà mình cũng biết đủ rồi không đòi hỏi nữa. Thì đó gọi là tri túc thiểu dục. Tứ vô lượng tâm các con thường hành nó. Do đó mỗi mỗi các con đều giữ gìn thân khẩu ý của mình ly dục ly ác pháp thì các con sẽ thấy một cái tâm hồn, một cái thân an ổn nhất. Các con sẽ giải thoát hoàn toàn.

Nhứt là luôn khép mình trong giới luật, con đã học đã biết nhưng sao con vẫn còn phạm, lương tâm căn rứt, khổ sở vô cùng. Ngày nào giữ đúng con thấy tâm con thanh thản an vui.

Đừng nghĩ rằng, đừng có thấy mình phạm mà mình sợ, thấy phạm lỗi mà mình cắn rứt mà mỗi lần phạm là mỗi lần nhắc nhở cho mình sửa lại mình. Thì cái điều đó là cái điều rất hay cho cái sự tu tập. Vì mình còn là phàm phu thì những cái sự sai sót đó nó dễ lắm, nó dễ lầm lạc lắm.

Cho nên ở đây phần nhiều là chúng ta đang tu ở trong các đối tượng để mà chúng ta thực hiện cái tâm giải thoát. Thì cái sự lỗi lầm đó là một cái pháp để chúng ta sửa lại mình, để cho mình trau dồi lại mình, mình trở thành những cái người mà không còn có sự lỗi lầm đó nữa. Thì một ngày nào đó cho đến khi mà chúng ta không còn phạm phải những cái giới luật nữa thì lúc bây giờ đó là chúng ta đã đắc giới hoàn toàn. Tức là chúng ta đã ly dục ly ác pháp hoàn toàn rồi. Còn bây giờ thì đương nhiên là nó còn những cái chỗ phạm thì tức là mình chưa ly hết. Thí dụ như bây giờ nó 100 phần mà bây giờ mình mới đi 80 phần à, còn 20 chục phần, thì tức là phạm lỗi này thì các con sẽ thấy nó gấp trăm ngàn lần lận. Cho nên mới đầu thì các con thấy một bữa, bữa sau có Thầy đến thuyết giảng các con. Mà thuyết giảng các con là có nghĩa gì. An ủi các con, coi như các con bị té xuống Thầy nắm tay các con, Thầy nâng đỡ các con đứng dậy và an ủi các con để các con gặp Thầy nói rồi bắt đầu hồi hôm qua hay hồi nãy nó đã bị buồn rầu khổ sở mà gặp Thầy thuyết giảng rồi bắt đầu con thấy các con buông xuống nhẹ nhõm không còn buồn rầu nữa. Sau này thì Thầy không có cần nắm tay nắm chân các con mà lôi dậy nữa. Để cho các con tự đứng dậy, cho nên đứa nào đứng dậy mà cái mặt cũng nhăn nhó hết. Còn hồi đó có Thầy nắm tay đỡ dậy, Thầy phủi cát phủi đất cho thì nó sạch sẽ. Còn bây giờ các con đứng dậy chứ Thầy thấy ráng đứng chứ còn coi như là đất cát cùng mình hết.

Đó là sự thật mà, nhưng mà bây giờ còn ráng đứng chứ hồi đó nếu mà Thầy không có lại mà Thầy nắm tay thầy lôi lại Thầy phủi cát đất cho thì chắc chắn là nằm luôn đó chứ chưa có đứng dậy nỗi. Phải không? Các con nhớ. Hạnh Minh hồi cũng bị đòn chứ bộ không à.

Nhất là luôn khép mình trong giới luật. Con đã học đã biết nhưng sao con vẫn còn phạm. Biết chứ chưa, bởi vậy Thầy mới nói ngộ chứ chưa chứng mà. Chừng nào chứng cái lý của giới rồi thì đâu phạm nữa. Nhưng mà chứng như vậy hết phạm rồi thì mình còn tu cái chỗ nào nữa. Còn bây giờ đang hiểu mình là người đang tu mà. Cho nên cái phạm đó là cái để chúng ta tu. Tu để mà đắc giới. Mà đắc giới tức là giải thoát chứ gì? Do cái chỗ này mình mới thấy được cái chỗ tu. Còn nếu mà mình thấy hết phạm rồi. Bây giờ là Thánh rồi còn gì nữa phạm. Vì vậy thôi đi về trời ở chứ đâu có ở thế gian làm chi với ai đây nữa. Cho nên ở đây lúc nào mà con thấy con hết phạm rồi. Thì lúc bây giờ người ta sẽ làm cái bàn, Thầy sẽ nói với mấy cô đem đá vô đây Thầy xây cái bàn cho. Con hãy lên đây con ngồi, bây giờ hết phạm rồi lên ngồi đây chớ. Chớ đâu có ngồi chung với chúng được. Còn bây giờ còn phạm thì mình ngồi chung đặng mình tu. Còn hết phạm thì phải ngồi riêng ra, là Phật rồi, A La Hán rồi mà còn phạm sao? Thì như vậy là mới thấy chỗ giới luật là cái chỗ đó đó. Cho nên mỗi lần phạm là mỗi lần mình đã tu đó chứ, nỗ lực để cho mình không còn phạm nữa. Cho nên đâu có lương tâm gì cắn rứt. Đây là nó cắn rứt để cho mình thực hiện cho được.

Sự tu hành cũng có nhiều khó khăn. Tâm còn yếu con không vượt qua được, đôi lúc con cũng chán nản. Thưa Thầy, những lúc này con phải như thế nào, trạch pháp ra sao để sách tấn con trên bước đường tu tập?

Trong lúc mà chán nản, chưa chi mà vội chán nản thì dở quá vậy. Lúc mà còn Thầy thì lôi dậy đứng dậy tu nữa, mà bây giờ không có Thầy chán nản quá chắc nằm luôn. Thì cái chuyện đó đừng, bây giờ mình phải có nghị lực chứ. Đó, bây giờ con biết pháp hướng rồi chứ gì. Nằm đây cho mày chết luôn chứ ở đó, phải không? Mình ra lệnh: đứng dậy chứ không ta cho nằm là chết luôn. Thì bắt đầu nó sợ quá nó đứng dậy nó đi vô, nó không có nằm nữa. Thì con sẽ dùng cái pháp hướng mà nhắc nó. Tại sao mà đến giờ phút này mà như vậy, mà còn cái tâm như vậy, quá tệ vậy. Phải là thanh thản, phải là giải thoát hoàn toàn chớ. Cái chuyện đó quá tầm thường, đứng ở trong cái chỗ nhân quả thì đã nhìn thấy nó quá rõ. Tại sao lại còn cái tâm như vậy? Đó, cho nên con dùng những cái pháp hướng trách mình, tự hỏi mình, xem mình tu hành tại sao còn yếu đuối vậy? Đó từ đó con sẽ mạnh dạn hơn và tiến bộ hơn thì cái tâm chán nản đó nó sẽ hết.

Thầy giảng nhiều, con càng học con càng thấy con khuyết điểm rất nhiều, nhưng con sẽ cố gắng học pháp hành những câu Như lý tác ý để thắm nhuần trong tâm.Nghĩa là con thấy mà ở đây con thấy con càng yếu. Đứng trước các đối tượng mà quá cái sức tưởng tượng của mình mà mình thấy mình rất nhỏ bé, mình dễ ngã quỵ trước những cái pháp đó. Thì mình biết cái tâm mình yếu như vậy thì hằng đêm mình ngồi thiền mình đặt cái niệm trước mặt của mình mình tu cái Định Vô lậu. Cái lậu hoặc nó sạch rồi, thì lúc bấy giờ con người của mình nó như một cục đá vậy. Nghĩa là ai làm gì, gió thổi bao nhiêu, “bát phong bất động” mà. Tám hướng gió thổi nó chẳng động chỗ này hết, cho nên lúc bây giờ chỉ có cái Định Vô lậu mà con đặt niệm rồi con trạch pháp, đặt niệm quán, quán rồi mới dùng cái trạch pháp mà đập nó xuống. Do đó con vững vàng vô cùng. Cho nên đến khi mà đụng chuyện, đến khi mà gặp gió thổi thì cái tâm của con nó trơ trơ như cục đá, nó thổi như là thổi gò mối, không ăn thua gì nữa hết. Cho nên càng thổi bao nhiêu nó càng mát mẻ nữa. Bởi vì đức Phật nói cái sức chịu đựng của con người mà tới cái mức cuối cùng thì nó lại mát mẻ. Cho nên vì vậy mà lúc bây giờ con sẽ dùng cái Định Vô lậu đó, thì nó sẽ càng mát, lúc nào mà cô Út chửi mắng dữ thì nghe nó mát luôn. Cũng như quạt máy mà quạt nghe nó mát lạnh chứ đâu có mà nực. Còn khi nào nó nực tức là nó sai rồi nó không đúng, nó mát thì nó mới đúng. Tu như vậy là mình mới tu chứ, tu mà người ta nói gì chửi mắng gì mình mình mát lạnh thì đó là mình tu đúng pháp rồi đó.

Thầy giảng con không có tài cũng chưa có đức độ bao nhiêu. Nếu được Thầy và cô Út cho ở lại tu học thì con cũng cố gắng nghe và thực hành theo sự chỉ dẫn của Cô dù cực khổ, đói khát con cũng không than.Sự thật ra thì Thầy nói ai đuổi, người ta thử thách chứ ai mà đuổi. Miễn là mình có bền chí hay là không thôi chớ. Vấn đề đó là vấn đề muốn rèn luyện mình ở trong những cái “Người ta nói hoa sen phải mọc ở trong lò lửa, chứ đâu phải mọc trong nước trong bùn lầy được sao’’. Do cái chỗ đó mới thấy nó nở ở trong lửa cái bông nó mới đẹp chứ. Như vậy là hoa nở trong lò lửa. Bây giờ nghe người ta nói: Đi đi, đừng có ở. Thì bắt đầu quảy gói đi thì cái chuyện đó thì quá dễ rồi, cái chuyện đó ai làm không được. Cho nên cái chuyện đó là cái chuyện cần phải có một cái sự bền chí bền lòng, có sự năng nổ và có sự biết lỗi của mình, biết khắc phục, biết tu tập thì cái sự mà ở lại nỗ lực tu tập đều là điều tốt nhất. Không có bao giờ có thể mà ba năm trời các con đã từng sống ở đây rồi, thì các con biết từng cái sự giải thoát ở trong tâm các con nó có bao nhiêu cái sự giải thoát. Nó vô lượng pháp thì nó vô lượng cái sự giải thoát ở trong tâm. Không phải trong một ngày hai ngày mà chúng ta giải thoát hết được, nhất là cái tâm vô lậu. Các con nghe 25 năm hay là 55 năm của vị A Na Luật. 55 năm, nó đâu phải là cái chuyện tầm thường trong một ngày một giờ mà chúng ta thành tựu được. Vì vậy mà 3 năm trời nay mà các con theo cô Út các con thấy xả bao nhiêu không? Nhìn lại đứa nào mà Thầy thấy con nè, Tự Nguyện nè, Tú nè, Huệ Ân nè các con thấy về đây phải nói rằng 3 năm nay các con thấy thì đến giờ phút này các con thấy cái sự giải thoát như thế nào? Nếu mà cứ đem lại từ cái ngày bắt đầu mà các con đến đây cho đến bây giờ các con thấy cái thời gian mà tu tập nó sẽ đem lại cho các con cái lợi ích rất lớn chứ không phải là ít. Như vậy thì các con phải nỗ lực hơn nữa để cho nó sắp sửa mà bước tới cái chỗ giải thoát nó lại càng khó khăn hơn nữa. Nó đánh mình bung ra nữa chứ không phải ít đâu. Nhưng mà mình nỗ lực thực hiện cho tận cùng nó thì chừng đó mình mới mát lạnh. Cho nên đức Phật nói cái sức chịu đựng sinh mạng của mình tận cùng, đến cái mức tận cùng thì nó mới mát lạnh. Chớ còn nó mới nửa chừng nó chưa mát lạnh đâu. Cho nên ở đây phải nỗ lực cho tận cùng thì nó mới mát lạnh.

Đó là các con phải thực hiện cho đúng những cái điều kiện mà như vậy thì các con thấy bây giờ nếu mà các con tìm thấy một cái nơi nào mà có thể nó yên ổn, có thể thực hiện được con đường thiền định từ cái Định Vô lậu cho đến cái Định hiện tại an lạc trú thì các con tìm cái chỗ đó mà các con ở tu. Còn nếu mà không thấy cái chỗ nào mà hơn cái chỗ này được thì các con nên bám chặt cái chân cô Út đi. Có đá bao nhiêu các con cũng ôm cho chặt. Thì các con ôm chặt bao nhiêu thì sự giải thoát nó càng nhiều bấy nhiêu. Mà ôm lỏng lỏng thì tức là nó sẽ không thấy có giải thoát đâu. Cho nên ở đây cô Út nghe Thầy nói vậy chắc chắn là Cô ghét Thầy. Biểu mấy đứa ôm chặt Cô riết Cô chết hết đó, Cô tu không có được. Nhưng mà bởi vì Thầy thương các con Thầy mới nói thiệt ra đó, đừng có để cho cô Út nghe băng này chớ, để cho Cô nghe rồi bất tử. Chứ bây giờ mà ôm chân ai giờ? Thầy đi mất rồi còn đâu mà ôm chân. Phải không? Chỉ có ôm chân cô Út, Cô nói để Cô đi trước đi chứ sợ ôm chân Cô rồi Cô không biết làm sao cứu mấy con được. Bây giờ biết ai thôi bây giờ các con phải ôm chân cô Út thôi chứ giờ. Như vậy thì đứa nào ráng ôm được thì ôm mà ôm không được thì tìm cái chỗ nào cho nó yên ổn mà tu tập thì cũng tốt thôi chứ Thầy cũng không có nhất quyết được cái điều đó được. Do cái tâm tư của các con chứ gì. Các con tìm thấy được cái chỗ nào mà yên ổn nhất mà có thể mà đưa đến giải thoát.

Các con nghe Thầy có giảng cái bài khu rừng mà phải không? Tìm cái khu rừng mà cái chỗ đó bây giờ mình thấy được cái sự giải thoát rồi. Tâm mình hồi đó nó chưa vô lậu, giờ nó được vô lậu rồi; tâm mình nó bất an mà nó được an rồi thì ngay đó dù bây giờ có đói có khát đi nữa nhất định cũng không rời khu rừng đó đâu, phải không? Mà đến gặp cái vị nào mà ở chung với vị đó, vị thầy đó. Mà bây giờ ở đó dù cơm ăn áo mặc đầy đủ mà tâm vô lậu chưa có vô lậu được, mà tâm bất an nó chưa bất an được thôi dù có đầy đủ cũng đi chứ đừng có ở. Ở trong kinh Phật đã dạy rồi, mà ở với vị Thầy đó dù có đói có khát gì đi nữa thì lúc bấy giờ mà mình thấy tâm mình chưa an mà nó được an, mà tâm mình chưa vô lậu giờ nó được vô lậu thì bây giờ có đuổi cũng không đi, nhất định không đi. Chết bỏ, nhất định ở đây Cô chết tui chết với nhau, chớ bây giờ cô dạy sao tui nghe như vậy tui không dám cãi cô đâu nhưng mà tui không bỏ cô. Có cái điều kiện như vậy thôi. Đó là mình tìm được một cái vị mà có thể giúp mình vượt ra khỏi cái sanh tử luân hồi rồi. Thì bây giờ cái vị đó làm khó dễ gì mình cũng không đi hết. Cái người mà người ta mà ngon ngọt dịu ngọt với mình để cho mình tu hành thì cái chỗ mà mình thấy dù mình có đầy đủ, ngọt ngào cho mình tu hành đi nữa thì chắc chắn mình có ở tu mình cũng không có lợi ích mà không có vô lậu được thì bây giờ có ngọt ngào đi nữa thì mình cũng không ở. Tại sao vậy? Tại vì mình thấy rõ ràng là chỗ đó không có lợi mà người ta lợi dụng mình để cho mình ở chung đó mà người ta làm cái tập thể đó để người ta lường gạt người khác người ta lấy tiền người ta sống. Đó là người ta mới dụ mình chứ. Người ta mới ngọt ngào mình chứ. Còn cái người mà ở đây người ta không có vì cái chỗ đó cho nên người ta cứ xua đuổi mình không à. Nhưng mà mình thấy rõ ràng tâm mình vô lậu nè tâm mình nó như thế này thế khác nè, chưa an nó được an thì mình hãy bám cho chặt đừng có buông người đó ra. Vì sớm muộn gì người đó sẽ giúp mình. Họ làm vậy chứ họ tìm cách họ giúp mình, thực sự ra họ giúp mình để mình tu giải thoát mà thôi.

Thì rõ ràng là các con xét thấy bây giờ các con thấy. Nhiều khi các con thấy cô Út chỉ các con từng chút ở trong cuộc đời của các con để các con tìm ra lối giải thoát vô lậu của mình chứ gì? Những lúc đó thì các con thấy Cô Út dạy có nhiều cái kinh nghiệm về cuộc đời thiệt chứ không phải không. Nó không có ở trong kinh điển còn Thầy thì đứng ở trong kinh Phật thầy giảng cho các con thấy các pháp tu hành như vậy như vậy. Nhưng mà đây là cái chuẩn bị để rồi chúng ta phải đương đầu với cuộc sống thật sự ngoài đời. Còn cô Út Cô dạy đương đầu thật sự với cuộc sống chớ không phải là dạy kinh sách. Còn Thầy ở đây dạy chuẩn bị. Bây giờ các con tu Định Vô lậu nè, các con quán thân vô thường nè, cái này cái nọ cái kia, xem nó như vậy. Đến khi con thấu rõ cái sự vô thường rồi thì con chuẩn bị nó chứ chưa có gặp đâu. Mà khi gặp rồi lúc bấy giờ cái trí tuệ con nó phóng ra cái thân vô thường rồi người ta chửi mình làm gì mình giận. Nó đỡ các con một chút. Còn khi các con phải tư duy cho nó sâu sắc à. Cho nên đến khi gặp người ta chửi mình thản nhiên. Mà mình phải tu nó nhiều hơn, và nó chưa có sức chuẩn bị, còn ở đây mình có sức chuẩn bị trước.

Cho nên trong cái sự tu tập về Định vô lậu đó là cái sự chuẩn bị cho chúng ta vô lậu, cho nên nó thấm được cái lý vô lậu. Do đó gọi là chứng ngộ. Chứng ngộ cái lý vô thường khổ không vô ngã. Do như vậy cái lậu hoặc nó sạch. Còn cái tu mà Tứ bất hoại tịnh là các pháp đang ở trong cái đối tượng, nó có thể xảy ra chúng ta tham sân si phiền não. Nó làm cho chúng ta có những cái sự khổ tâm. Do vì vậy mà chúng ta tu cái Tứ bất hoại tịnh. Tu Tứ bất hoại tịnh là để cho chúng ta bắt cái thân nó niệm Phật. Mà thân chúng ta nó niệm Phật thì nó không có lỗi lầm. Phật nó đâu có lỗi lầm. Bắt cái tâm niệm Phật thì nó không có lỗi lầm. Do đó cũng làm cho cái lậu hoặc của chúng ta nó sẽ sạch hết.

À, thưa Thầy khi con được nghe qua giáo án con đã tu sửa lại không như trước nữa. Tức là con lao động gần như suốt cả buổi sáng để tu Chánh niệm tỉnh giác cho có sức tỉnh. Trong khi chung đụng xem xét tâm con có lỗi gì thì trưa hoặc tối con tu Định Vô lậu. Thay vì cái chỗ con tu cái Định Vô lậu này xem xét cái chỗ này a, thì con đặt cái niệm nó ra rồi con quán xét lại con có cái lỗi gì không thì nó cũng được. Hoặc là lúc bây giờ mình thấy nó rất rõ rồi, mình không cần quán xét, cái đó là cái lỗi của mình rồi. Thì do cái đó, cái thân mà niệm Phật thì nó không được lỗi, thì do đó con đã học Tứ bất hoại tịnh. Con áp dụng ngay liền con khỏi cần tu cái Định vô lậu, nó mất công con phải quán xét. Bởi vì con đã rõ rồi cần gì phải quán xét. Chừng nào cái đó nó không có rõ con mới đặt cái niệm vô lậu con mới quán xét để cho mình hiểu rõ. Còn bây giờ cái lỗi của mình mà mình chưa có hiểu nó là đúng hay là sai, mình có lỗi hay không lỗi thì mình đặt ra để mình tìm ra cái lỗi xem có phải đúng là cái lỗi của mình không. Do vì vậy đó thì nó phải là cái Định vô lậu. Còn bây giờ mình đã rõ rồi, bắt đầu mình đem nó bắt buộc niệm Phật. Mày đã làm bậy thì tức là mày phải niệm Phật cho mày khỏi làm bậy nữa. Các con hiểu.

Cho nên tu cái Định vô lậu thì khi nó không còn rõ, nó chưa có rõ, nên buộc lòng mình phải quán xét cho nó rõ. Còn cái Tứ bất hoại tịnh là tất cả các pháp đều lôi đầu nó vô bắt nó niệm Phật. Bởi vì nó bốn cái chỗ niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới. Cho nên vì vậy mà mỗi hở hở ra cái gì thì mình lôi cái thân của mình ra niệm Phật nè, lôi tâm ra niệm Phật nè, lôi cái thọ ra niệm Phật, lôi các pháp ra niệm Phật. Mà niệm như vậy thì chúng ta sẽ hoàn toàn được giải thoát hoàn toàn. Nó không còn có cái tâm phiền não đau khổ nữa. Cho nên tu như vậy thì nó kết quả rất lớn. Còn khi nào không rõ thì con nên đặt cái niệm Vô lậu. Và đồng thời con muốn thấm nhuần cái vô ngã, cái khổ không vô ngã của con, cái vô thường của con thì con cũng đặt cái niệm đó hằng ngày con tu để cho nó thấm nhuần cái vô ngã, cho nên nó diệt trừ cái bản ngã của mình, nó diệt trừ cái tâm ngã mạn của mình. Do đó con phải thấy nó vô thường, khổ không vô ngã nó rất là rõ ràng khi hằng ngày con đặt cái niệm đó và con quán xét cho nó rất cụ thể.

Xem tánh con còn tham sân si mạn nghi nữa hay không. Tức là ngũ triền cái đó. Nếu khuya con tu Định hiện tại an lạc trú 30 phút, trong 30 phút này con thường hướng tâm nhắc nhở thì cái điều đó là cái điều tốt nhất không có sao hết. Sáu căn phải tập trung tại tụ điểm nghe hơi thở và nhìn hơi thở, hơi thở phải chậm và nhẹ. Con thấy hơi thở con càng lúc càng chậm và nhẹ dần nhờ con tu ít lại, nên hôn trầm cũng bớt nhiều. Thưa Thầy khi tâm con còn tham sân si mạn nghi con tu Tứ bất hoại tịnh thì tâm con được giải thoát rồi. Con khỏi tu Định vô lậu có được không? Con tu, tức là tham sân si mạn nghi con mới phá được cái triền cái à. Mới có ngũ triền cái à. Còn Thất kiết sử, còn cái lậu hoặc nó còn chưa hết. Cho nên cái Định vô lậu nó còn nữa, còn phải tu nữa. Chứ không phải nói tu Tứ bất hoại tịnh là tham sân si của mình hết rồi thì mình khỏi tu Định vô lậu. Không, phải tu thêm, tu để chứng được cái lý vô thường khổ không vô ngã của nó.

Thưa Thầy những lúc nào con tu Định sáng suốt? Khi con ngồi trên xe buồn ngủ hoặc là đang may vá mà buồn ngủ con tu Định sáng suốt được không? Không. Lúc bây giờ mà tu Định sáng suốt là lúc bây giờ phải là cái tâm thanh thản, cái tâm thức tỉnh thì mới tu Định sáng suốt. Còn cái khi mà buồn ngủ hoặc là khi ngồi trên xe mà đang bị buồn ngủ thì lúc như bây giờ con ngồi trên xe mà con buồn ngủ thì đó là một cái điều rất khó, rất khó. Muốn mà tu cho nó được vậy thì lúc bây giờ khi ngồi trên xe, tức là ngồi yên lặng như vậy thì con mới đặt cái niệm, tu cái Định vô lậu. Con mới dùng cái trí tuệ quán xét, quán xét làm cho nó động tâm cho nên nó hết buồn ngủ. Còn không khéo con nằm, con ngồi thôi nó lặng lặng nó không có nghĩ cái gì hết cái nó thiu thỉu nó buồn ngủ. Cho nên khi mà ngồi trên xe thì nên đặt tu cái Định vô lậu chứ không được mà tu cái Định gì khác hơn mà phá cái buồn ngủ được. Còn khi mà bình thường ở nhà hoặc ở chùa mà nó buồn ngủ thì con nên tu cái định Chánh niệm tỉnh thức để mà đi kinh hành, để mà phá buồn ngủ. Thầy ví dụ như buồn ngủ nhiều thì con đứng tại chỗ con chạy. Coi như là mình chạy bộ, chạy tại chỗ, chạy lúp xúp mà chạy bộ, chạy chừng nào đổ mồ hôi ra rồi đi tắm. Do đó mà cái buồn ngủ nó mới hết, mới yên được. Rồi bắt đầu không có được ngồi mà tu cái định hơi thở nữa mà phải đi kinh hành. Nó đã hết buồn ngủ rồi nhưng phải đi kinh hành tập tỉnh thức ở dưới bàn chân của mình. Vì vậy nó mới phá được cái buồn ngủ. Cái buồn ngủ nó không đơn giản đâu. Cho nên ở đây không thể nào mà tu Định sáng suốt mà trong khi mà buồn ngủ mà tu được đâu khó lắm.

Trong suốt ba tháng nay tâm chúng con dao động rất nhiều. Hết chuyện này đến chuyện kia nên chi,làm việc, học lý thuyết. Chúng con tu tập ít, chưa thực hành nhiều nhưng con thấy có kết quả. Tâm con bớt giận hờn không còn quá thèm khát như xưa, tình cảm cũng bớt đi. Con hi vọng rằng nếu con tu đúng giới luật, phạm hạnh đầy đủ thì lợi ích phải giải thoát cho con và cho nhiều người, và đền ơn Thầy, cô Út đã nhiều năm tháng quá cực khổ vì chúng con. Công sức Thầy giảng dạy rất là mệt nhọc và chu đáo một công trình chưa từng có, nhắc đi nhắc lại những lỗi lầm ăn ngủ độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận bằng lòng đã huân tập nhiều đời trong chúng con tưởng chừng như không bao giờ tu sửa được. Như tâm ham muốn, giận hờn, thương ghét, si mê, tật đố, nghi ngờ. Nhưng hôm nay con hầu hết đã hiểu được cái lý chỉ còn tu tập bằng cách thực hành nhờ pháp quán, pháp hướng, trạch pháp. Những gì cần dứt bỏ chúng con phải mạnh dạn, can đảm vứt bỏ ngay liền. Những gì cần trao dồi chúng con cũng liên tục nhắc nhở không quên để chúng con quét sạch lậu hoặc, ly dục ly ác pháp để nhập Sơ thiền. Nhưng từ đây về sau sự tu tập của chúng con có kết quả như thế nào, đúng hay là sai, chướng ngại chỗ nào chúng con không biết thưa hỏi cùng ai. Không còn người để sách tấn và khích lệ chúng con trên bước đường tu tập gian truân vất vả này nữa. Đúng là một điều bất hạnh cho chúng con. Con không lấy làm nản chí mà chỉ biết nhân quả duyên nghiệp chúng con được Thầy độ đến đây quá đầy đủ. Chúng con theo đó nắm lấy giới luật nghiêm trì, giới hạnh nghiêm trì, giới hạnh nghiêm túc để thực hiện cho đúng được giải thoát hoàn toàn, làm chủ được sanh tử luân hồi, vì còn bao nhiêu người đang mong đợi ở chúng con. Và sự ra đi của Thầy cũng được an tâm vì không đứa nào chểnh mảng trong sự tu tập này nữa, mà quyết chí năng nổ hằng ngày hằng đêm để thực hiện cho bằng được con đường giải thoát của đạo Phật. Chúng con phải thu ngắn thời gian sớm đạt kết quả để cô Út bớt lo lắng, bận rộn cho chúng con từng ngày từng đêm. Thoát khỏi lo âu từng người trong tuổi già sức yếu, trong cơn đau ốm liên tục, trong sự lo lắng buồn rầu. Suốt những năm tháng chỉ công dã tràng xe cát biển Đông, trong sự chán nản nhìn chúng con tu tập. Nhưng hôm nay giáo án ra đời chúng con được thông hiểu hơn và quyết chí tu hành để không làm phụ lòng Thầy và cô Út, để đền đáp ơn chư Phật, ơn đàn na thí chủ.

Thưa Thầy, câu vì vô minh nên ta sống viễn ly. Có phải người sống viễn ly như vậy tu toàn pháp quán tưởng Định vô lậu, không có cảnh để buông xả ly dục ly ác pháp?

À, không phải. Đây Thầy nói chữ “Thưa Thầy, câu vì vô minh nên ta sống viễn ly”. Ở đây thì các con thấy cái vô mình là cái một phần của nó làm chúng ta mờ mịt không có rõ. Nhưng còn một cái rõ. Một cái viễn ly ở đây là viễn ly cái tâm ham muốn nữa, rồi viễn ly cái lòng vô minh nữa. Viễn ly cái vô minh là chúng ta phải nỗ lực, chúng ta phải thông hiểu những gì chưa thông hiểu.Còn viễn ly cái lòng ham muốn của chúng ta là dứt bỏ những gì mà chúng ta cần dứt bỏ. Rồi viễn ly những cái gì đã là thói quen của chúng ta đó, thì nó trở thành những cái thói quen thì chúng ta phải trau dồi cho cái tâm đức của chúng ta nó trở thành những cái đó nó thuần thục thêm. Cho nên đó là cái lý để mà nói chúng ta viễn ly.

“Có phải người sống viễn ly như vậy tu toàn pháp quán?” Không phải, không phải toàn là pháp quán mà nó nhiều pháp nó mới có thể viễn ly. Nhưng mà đầu tiên thì cái gì viễn ly đầu tiên trước tức là chúng ta phải viễn ly về cái ăn cái ngủ, cái độc cư. Chúng ta phải viễn ly nó, thì viễn ly. Thí dụ như bây giờ mình ăn ngày ba bữa thì mình viễn ly ra mình bớt ăn còn có một bữa. Rồi mình ăn một bữa mà mình còn thèm mình ăn nhiều, do đó mình viễn ly cái thèm cái ăn ít lại. Do cái sự viễn ly đó lần lượt cái sự viễn ly đó nó đi từng bậc từng bậc cho nó đến. Rồi bây giờ cái tâm mình còn ham muốn sửa sang đẹp đẽ hoặc còn trang điểm hay còn thích vật này vật kia, thì mình viễn ly cái lòng ham muốn đó. Mình phải viễn ly mà khi cái tập viễn ly đó, nó nhiều cái thứ viễn ly lắm, nó xa lìa vật chất cái này cho đến cái nọ, nó đủ mọi mặt của sự viễn ly.

“Có phải sống viễn ly như vậy là tu pháp quán?” Quán cũng là một điều tập cho chúng ta viễn ly, mọi cái chúng ta đều là có cái sự tu tập để mà viễn ly hết. Tu cái Định vô lậu cũng là vốn để chúng ta viễn ly cái tâm sân si mạn nghi của mình. Tất cả mọi cái pháp môn đều là giúp chúng ta viễn ly ra đó, xa lìa ra đó.

Khi ra đi giữa chợ họ còn thèm ăn, ai chửi mắng họ còn tức giận và tham sân nghi mạn họ còn hay không là một phần cũng là do thói quen. Cho nên ở đây thói quen thì chúng ta, nó cũng phải tập viễn ly cái thói quen, nhưng mà chúng ta phải tập vứt bỏ. Chúng ta phải tập xa lìa, chúng ta phải trau dồi rồi phải có cái để tu tập, có cái thì chúng ta phải thông hiểu. Thông hiểu thì nó mới phá dần cái vô minh còn mình không thông hiểu thì vô minh mới thành nhiều. Cho nên có những cái thông hiểu để cho nó không có vô minh. Một phần cũng do thói quen còn người sống chung đụng, có cảnh để họ buông xả ly dục ly ác pháp, kiềm chế tâm mình liên tục như không nói chuyện, không ăn phi thời, không nổi sân, không kiêu căng hống hách, không nghi ngờ ai. Có nhiều cảnh người ta giải quyết không nổi khiến người ta đau khổ nên họ thích sống viễn ly để xa lìa cảnh đó. Ở đây người ta nghĩ viễn ly là mình sống tách biệt ra cũng như sống độc cư như Thầy cho quý thầy sống độc cư vậy? Không phải. Viễn ly là trong khi mình sống chung như thế này mà mình viễn ly cái tâm của mình chứ không phải là viễn ly xa lìa người ta hoặc là xa lìa cảnh động. Như bây giờ mình sống mình tu tập viễn ly là tất cả các pháp đều là giúp cho chúng ta viễn ly, mà viễn ly đây là viễn ly cái mục đích tâm của chúng ta. Nhưng bây giờ chúng ta còn yếu là chúng ta tập cái viễn ly của chúng ta là sống trong cái cảnh yên tĩnh một chút để không ở trong cảnh động thì cái tâm của chúng ta nó khó mà có thể giữ gìn nó được. Cho nên chúng ta cũng viễn ly cảnh trước rồi chúng ta… Cũng như đức Phật dạy chúng ta mà tu cái định Chánh niệm tỉnh thức hoặc là tu các pháp thì đức Phật dạy chúng ta phòng hộ sáu căn trước. Các con thấy phải dạy cái đó trước chứ. Nếu mà không phòng hộ sáu căn thì các con đi ra đường các con ngó qua ngó lại về nhà thấy đủ thứ hết, trong đầu dính đủ thứ hết. Bây giờ xả ra biết chừng nào xả cho hết. Cho nên muốn viễn ly nó thì đầu tiên chúng ta phải ngó xuống đất, không được ngó qua ngó lại phòng hộ mắt tai mũi họng thân ý. Đừng có nghe chuyện gì bên ngoài xung quanh mình mà hãy nghe và hãy thấy ở dưới bước chân mình đi mà thôi. Gọi là phòng hộ sáu căn. Do đó khi mình đi khất thực hoặc là mình đi mình về tới nhà, trong đầu của mình con mắt cũng không thấy gì, lỗ tai cũng không nghe gì hết, cho nên khỏi phải xả cái gì hết gọi là phòng hộ sáu căn. Đó cũng là pháp viễn ly. Viễn ly làm cho nó đừng dính vô gọi là viễn ly. Chứ không phải mình sống xa cái cảnh gọi là viễn ly. Cũng như bây giờ thay vì cái cảnh, mà ở trong cảnh động ngay bây giờ chúng ta tu khó quá. Thôi bây giờ chúng ta tập sống mỗi người một cái thất không có ở chung nhau thì đó cũng là cách thức tập viễn ly cái hoàn cảnh. Rồi lần lượt chúng ta lại sống chung đụng nhau công việc này công việc kia nhưng mà chúng ta đã biết viễn ly cái tâm của mình. Viễn ly cái tâm tham viễn ly cái tâm sân, viễn ly cái tâm nghi mạn, viễn ly cái tâm tỵ hiềm ganh ghét để cho tâm mình không có tỵ hiềm ganh ghét. Đó là những cái tập viễn ly. Do cái chỗ này thì chúng ta tuần tự hằng ngày càng tới, cho nên chúng ta không bị dính mắc nữa. Đó là chúng ta đã viễn ly.

Sau thời gian tu tập họ ra đi đụng cảnh đó họ còn đau khổ nữa hay không? À, Khi mà họ đã viễn ly xong và họ đã tu đến cái Định vô lậu, chứng được cái lý vô lậu rồi hoặc là họ đã chứng được cái lý vô thường khổ không vô ngả rồi thì họ không còn dính mắc nữa, thì cái sự viễn ly là cái sự sống của họ rồi. Cho nên đối với các cảnh mà đến với họ nó không có dính họ nữa, cho nên đó là viễn ly, cho nên họ đâu còn đau khổ nữa. Cũng như bây giờ mới đầu chúng ta tập viễn ly cái tham hoặc là viễn ly cái tâm sân của mình thì bắt đầu mình phải phòng hộ sáu căn mình giữ gìn, mình đừng cho tiếp duyên đừng có nói chuyện. Sợ nó xảy ra chuyện này chuyện kia cái tâm mình dễ sân. Sau cái thời gian mà tu tập dùng cái Định vô lậu mình quét sạch cái tâm tham đi, sân của mình đi. Cái tâm sân bây giờ nó không còn sân nữa rồi là do đó bắt đầu bây giờ đụng, mình đến tiếp xúc với mọi người người ta chửi mắng mình, mình thấy cái tâm mình nó không sân. Tức là mình đã viễn ly cái sân được rồi. Còn hồi đó thì mình chưa dám, cho nên hồi đó mình không dám nói chuyện mình rất cẩn thận, nói ra là sợ người ta chửi mình cái chết được, thế nào mình cũng không thoát khỏi cái sân. Cho nên bây giờ mình cố mình phòng hộ mình giữ gìn cho mình đừng có bị dính trong cái pháp sân. Do đó sau thời gian giữ gìn như vậy để cho mình tu cái Định vô lậu. Khi mà cái Định vô lậu nó quét sạch cái tâm sân nó ra rồi thì lúc bây giờ mình biết cái tâm sân của mình đứng trước các đối tượng người ta có mắng chửi hoặc làm gì mình không có sân nữa. Thì lúc bây giờ mình đâu có còn đau khổ nữa. Vậy mình biết rằng mình đã viễn ly cái tâm sân được rồi.

Con thấy cái chữ viễn ly nó rộng lắm chứ không phải. Người mới tu thì nó vẫn có cái sự viễn ly đó, để mà phòng hộ để giữ gìn. Sau khi tu chứng rồi hoàn toàn nó ngộ được cái lý, nó chứng được cái lý nó rồi thì cái tâm sân nó hết rồi. Thì cái tâm sân nó hết thì tức là lúc bây giờ chúng ta thấy đối cảnh chúng ta không có sân nữa tức là chúng ta đã viễn ly, tức là xa lìa cái tâm sân hoàn toàn. Cho nên cái sân nó không có ở trong tâm ta nữa gọi là viễn ly. Còn nếu mà nó còn thì tức là chúng ta chưa có viễn ly nó. Mà chưa có viễn ly nó tức là chúng ta cần tu cái Định vô lậu nữa. Cần tu cái Định vô lậu nữa để cho nó chứng được cái lý mà vô thường khổ không vô ngã đó. Cho nên cái tâm của chúng ta nó quét sạch cái ngũ triền cái đi, cho nên cái tâm sân nó không còn nữa.

Hay là tâm họ đã như như bất động? Không thể nói tâm như như bất động là nó phải trải qua, chứng ngộ được một cái lý, cái lý của Phật pháp rồi. Thì nói như như bất động là một cái tên nhưng mà sự thật ra chúng ta đã viễn ly cái tâm đó. Viễn ly cái tâm tham thì lúc bấy giờ chúng ta không còn tham ái tức là không còn buồn rầu khổ não hay suy tư cái này hay tham muốn cái kia, tức là viễn ly cái đó rồi. Bây giờ hết cái sân thì tức là viễn ly cái sân, hết cái si thì tức là viễn ly cái si, hết cái ngả mạn thì tức là viễn ly cái ngả mạn. Mà tất cả những cái viễn ly hết thì gộp lại người ta gọi là tâm như như bất động, hay là trước các pháp tâm bất động giải thoát. Hay còn gọi là mục đích của phạm hạnh; cái mục đích tâm bất động giải thoát là phạm hạnh. Đó thì những cái tên đó đều gọi cho cái chỗ tâm bất động của chúng ta mà thôi. Nhưng mà đây là gộp chung, nó gộp chung hết chứ không phải là một, nó gộp chung hết.

Thưa Thầy hai cảnh trên nơi nào người ta tu mau đạt kết quả sớm? Sự thật ra tu mau hay sớm là do cái chỗ mà mình tu đúng và vừa với cái sức của mình tu thì nó rất mau. Thì nó rất mau viễn ly và khi mà ngộ được thì nó hoàn toàn, toàn bộ tham sân si mạn nghi đều được quét sạch hết. Thì lúc bây giờ gọi là như như bất động hay gọi là phạm hạnh hoặc gọi là tâm giải thoát bất động. Thì tất cả những cái này đều là sớm hay mau là do cái người đó có nỗ lực siêng năng, hằng ngày có tập cái Định vô lậu hay không. Vì siêng năng hàng ngày mà chúng ta tu tập cái Định vô lậu, thì mỗi ngày nó thêm một chút thì nó thấm nhuần được cái lý vô lậu của nó. Nó làm cho cái nhận xét, cái hiểu biết của chúng ta càng ngày càng thấm nhuần của cái lý vô thường khổ không vô ngả của Phật đã dạy. Nó làm cho chúng ta biết rõ ràng các pháp trong thế gian này đều là vô thường không có một cái thứ gì mà thường. Vì vậy mà chúng ta không còn bị lầm chấp cái kiến chấp nó nữa, cho nên chúng ta hết cái vô minh. Làm luôn luôn lúc nào trước mắt chúng ta cũng có cái minh và thấy rõ là các pháp đều vô thường. Cho nên lúc bây giờ ai chửi chúng ta cũng thấy nó là vô thường. Cho nên chúng ta không còn phiền não giận hờn. Vì vậy đó là chúng ta đã ly. Do cái chỗ mà siêng tu thì chúng ta mau có kết quả. Còn chúng ta thấy nó phải tu cái định Hiện tại an lạc trú, hơi thở nhiều để nhập định mà không tu cái này, mà tu sơ sơ tu ít thì nó có cái thời gian rất dài nó mới có thể viễn ly được. Mà chữ viễn ly ở đây đức Phật gộp lại để cho chúng ta thấy rằng cái ly dục ly ác pháp đó chính là chính cái chỗ viễn ly.

Qua cái ý nghĩ thô sơ của con cũng còn sai trái kính xin Thầy chỉ dẫn cho con lần cuối cùng để con an tâm nắm vững bước đi trên đường tu tập? Đó là những điều mà thầy đã giảng ở đây cho Hải Tâm con nhận xét thấy nỗ lực tu về cái Định vô lậu càng nhiều thì tâm con sẽ được giải thoát và như như bất động. Bởi vì trên cái sự tu cái Định vô lậu nó có bốn cái chỗ mà các con nêu ra để tu. Lấy cái thân để mà chúng ta quán xét, lấy cái thọ để mà chúng ta quán xét. Mà cái thọ thì luôn luôn lúc nào nó cũng cái đau khổ ở trong thân tâm của chúng ta. Do đó chúng ta lấy nó mà đặt thành một cái niệm để quán xét thấy thọ nó từ đâu đến, nó vô thường nó khổ như thế nào, nó vô ngã như thế nào? Chúng ta quán xét để thông suốt, mà khi thông suốt rồi thì ngũ triền cái và thất kiết sử nó sẽ quét sạch nó không có còn ở trong tâm ta nữa. Cho nên siêng năng càng tu cái này bao nhiêu thì cái tâm chúng ta được giải thoát bấy nhiêu và nó chấm dứt luân hồi là ở cái nhân này chứ không phải ở cái quả của thân chúng ta đang có.Đó là, thông suốt được như vậy thì hằng ngày chúng ta tu Tứ bất hoại tịnh. Và hằng ngày thì chúng ta nỗ lực đặt cái niệm trước để tu cái Định vô lậu thì kết quả đem đến cho mấy con Thầy thấy rất là rõ nét và cụ thể cho sự giải thoát của mình.

Ở đây có một câu hỏi cô Diệu Hoa thưa hỏi Thầy.

Con kính bạch Thầy. Lời Thầy đã dạy là khóa hạ an cư này là khoá cuối cùng của Tu viện, đồng thời cũng là ngày chia tay Thầy trò để Thầy ra đi ẩn bóng. Con cúi xin Thầy hoan hỷ cho con được thổ lộ tâm tư kể từ khi được gặp Thầy xin cầu pháp. Buổi đầu ấy vào năm Giáp Tuất - 1995, trong lúc đó có bốn chị em chúng con kể cả cô An Tịnh và chú Chánh Trực. Khi đó trong viện chưa có nữ vào tu, chúng con có ra hỏi cô Út thì cô Út nói Thầy không nhận nữ. Thầy dạy chúng con về tu tại gia, pháp môn lập đức lập hạnh, in kinh ấn tống để hồi hướng cho cha mẹ, vào ngày giỗ, phóng sinh, giúp đỡ những người tàn tật yếu đau, không lễ bái cúng dường rườm rà, mê tín, u mê, v.v.. Sau khi ra về chúng con đã y lời Thầy dạy và đã thực hành. Tiếp đến tháng 8 năm Ất Hợi con lại được tái khóa vào Thầy, lúc này con tự đi một mình vào Thầy cầu pháp tu hơi thở, Thầy đã dạy cho tu một phút bằng 20 hơi thở. Con về thực hiện dần dần con cảm thấy có kết quả. Hàng tháng con vào Thầy xin ở lại Tu viện mỗi lần từ 2 đến 7 ngày tập thở cho có kết quả và tập theo nếp sống hằng ngày ở Tu viện. Trong những ngày ở đó con đã theo được từ giờ giấc tu và ăn ngủ. Và vào kỳ giáp tết năm Bính Tý con cũng được Thầy và cô Út cho con ở lại để dự cái Tết mùa xuân vĩnh cửu của nhà Phật. Qua tết đó con phải về Hà Nội để làm bổn phận 5 năm một lần với cha mẹ đã quá cố. Và bổn phận làm người em út đối với các chị đã làm. Với năm đó con bị đau bệnh triền miên, đôi lúc cơ thể con có hiện tượng khác lạ, cảm như khó qua được. Do đó con mới viết thư vào bạch Thầy. Thầy gửi cho con 3 lá thư trả lời thưa hỏi của con. Nay con còn lưu lại 3 lá thư đó để truyền lại cho các cháu mai sau. Con y lời trong thư Thầy dạy và thực hiện ám thị khi đau bệnh và ăn uống thuốc thang nghỉ ngơi cho mau lành rồi tu tập trở lại.

Bạch Thầy, con thấy kết quả và hằng ngày con thầm mong chóng bình phục lại sức khỏe. Với tâm con nguyện theo Phật theo Thầy. Con kính bạch Thầy kể từ ngày đầu con hướng vào Thầy con có niềm tin thật tâm của con đến Thầy với lý do con đã đi cầu pháp nơi này nơi khác với chị với em mà chưa có nơi nào dạy về tu mà được cặn kẽ như Thầy. Thầy đã đối xử và dạy chúng con thật là hơn người cha đẻ. Con thầm biết ơn Thầy, con xin phép Thầy cho con được phép bộc lộ. Con đi cầu đạo nhiều nơi, phước duyên con may gặp Thầy dạy tu đạo gốc của Phật là tu giải thoát. Bao tháng năm Thầy học tỏ tường bản thân kinh nghiệm rõ ràng, nguyên thủy kinh điển gốc nguồn mở ra. Thầy đã suy nghiệm cuốn kinh qua sống như đức Phật sống để tu Giới - Định - Tuệ, tam Vô lậu học. Đức Phật truyền một mực Thầy theo ba y một bát, Thầy chuyên tra cứu quyết một lòng tu tập, không làm độc cư hạnh quá rõ ràng, từ Giới đến Định Thầy hiểu rõ. Sáu uyên thâm lời Phật nhiệm màu, đạt định phát tuệ Thầy hiển ngộ cho đích thực rồi, Thầy vô chánh định nhập nhiều ngày xuất định trọn vẹn, đạt rồi Thầy ghi pháp môn. Nay truyền từng pháp, dạy con dần dần từng pháp một. Con vâng lời dạy nguyện hết lòng theo gót Thầy đi. Một là lãnh pháp tu trì tại gia giữ giới con ghi tại lòng, đức hạnh tu được duyên dung, đủ duyên xin nhập tu viện. Cúi xin Thầy từ bi tế độ dạy bảo con đến ngộ hoàn toàn. Ngộ được ân Phật một niềm cùng với một dạ. Kính ơn đến Thầy. Con kính Thầy. Con Diệu Hoa.

Ở đây thì con có cái bức thư gửi đến Thầy thì đây cũng là một cái duyên mà nỗ lực mà tu tập. Thầy thấy những bức thư mà con gửi đến thăm Thầy có nói đến cái sự bệnh đau của con thì Thầy cũng tùy theo cái Phật pháp mà dạy cho con thực hiện để cho con được an cái tâm, trợ giúp cho lúc mà con trị bệnh. Thì may ra con thực hiện đúng lời Thầy dạy thì đúng là con có kết quả đó là do chính con chứ không phải Thầy mà ban bố cái phước báu đó cho con được mà chính con đã thực hiện đúng cái lời dạy. Mà lời dạy đó là của Phật chứ không phải là của Thầy. Thầy chỉ hiểu cái kinh nghiệm đó mà để dạy lại cho con mà thôi. Mà con thực hiện đúng thì con có kết quả. Cũng như hôm nay mà các con đã tu tập thấy được kết quả đó, là do cái hành trì của các con làm đúng lời dạy của Thầy. Chứ nếu mà các con tu sai thì Thầy dù có nói đi cách gì chắc cũng không có đạt được. Cho nên các con nỗ lực những cái gì mà Thầy đã dạy ở trong cái giáo án hôm nay các con tu tập từ cái nào mà Thầy dạy. Bây giờ, những cái lúc mà còn được gặp Thầy thì các con hỏi cặn kẽ hết đi. Chứ còn nếu mà khi Thầy về Đà Lạt, lênTrúc Lâm hoặc là ở một nơi nào đó thì lúc bây giờ các con không có còn gặp Thầy nữa đâu. Vì vậy mà cái thưa hỏi của các con là cái cần thiết lắm các con mới có hỏi Thầy. Mà những cái mà các con phải nói rằng còn sơ sót. Chưa biết là mình tu cái đó như thế nào nữa. Nghĩa là biết nó như vậy, Thầy có dạy nó kết quả như vậy, nhưng khi mà thực hành nó lộn xộn lắm, nó không biết. Như hồi nãy Nhã Tâm hỏi Thầy. Tu Tứ bất hoại tịnh thì chúng ta có cần tu cái Định vô lậu hay không? Đó thì các con thấy đó là có cái thực hành rồi mới thấy được cái khó của nó ở chỗ đó.

Khi, dường như là tu Tứ bất hoại tịnh là nó cũng gần giống như cái Định vô lậu chứ gì? Nhưng nó khác xa các con, chứ không phải gần đâu. Cái này nó phá cái đối tượng của nó trước cái hiện tại. Còn cái kia nó phá tất cả những cái lậu hoặc của chúng ta từ quá khứ đến vị lai đến hiện tại. Cho nên cái Định vô lậu nó phá cả ba cái thời gian chứ không phải trong một cái thời gian. Nó làm chúng ta, cái tâm như như bất động trong ba cái thời gian của nó trong hiện tại, quá khứ và vị lai. Còn cái niệm Phật, cái pháp Tứ bất hoại tịnh thì nó giúp chúng ta đối với cái hiện tại là lôi đầu nó cứ ra niệm Phật, cho nên trong hiện tại là hoàn toàn là nó không bị dính mắc vào. Cũng như các con muốn cất cái nhà của mình mà không có ai mà xâm chiếm vào được thì các con phải xây một cái hàng rào cho kín đáo. Cũng như là làm một cái tường thành vĩ đại thì không ai mà vô chiếm ở trong cái nhà của các con được. Thì Tứ bất hoại tịnh là cái pháp đầu tiên. Là các con phải trước khi muốn cất cái nhà thì các con phải làm cái hàng rào bảo vệ cái nhà đó. Cho nên cái hàng rào chắc bao nhiêu.

BĂNG SỐ 59

Xin quý thầy chấp tay lên niệm hồng danh Đức Bổn Sư để tưởng nhớ công ơn của Người.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

Quý thầy đã niệm Phật xong, quýthầy tiếp tục bài học hôm qua. Hôm qua thầy đã giảng đến câu: Sau 3 tháng hạ Thầy hết sức cố gắng để hoàn thành Giáo án tu tập của đạo Phật nhưng sức người có hạn, thời gian quá ngắn mà giáo án của Phật thì quá dài. Vì thế Thầy mới giảng được 2 phần, còn lại phần thứ 3 thì mới bắt đầu vào giới hành. Bài Tứ bất hoại tịnh ở 4 chỗ niệm Phật: Thân, Thọ, Tâm và Pháp. Để tiếp tục chương trình giáo án này cho hoàn thành. Ở giai đoạn cuối cùng này rất là quan trọng trong bước đường hành trì tiến đến mục tiêu cứu kính giải thoát của Đạo Phật đó là Giới hành. Bây giờ chúng ta tiến tới hành trì, lấy thân niệm Pháp. Vậy “Thân niệm Pháp” là gì?

Thân là thân của chúng ta, Pháp là những lời Phật dạy, là phương pháp để trao dồi tu tập khiến cho thân tâm của chúng ta được an tịnh, thanh thoát. Thầy xin kê ra những bài Pháp mà Đức Phật đã dạy trong 49 năm thuyết pháp độ chúng sanh:

1. Năm giới.

2. Mười giới(Sadi).

3. Mười điều lành.

4.Tứ vô lượng tâm.

5.Tứ chánh cần.

6. Tứ bất hoại tịnh.

7.Tứ niệm xứ.

8.Tứ thiền.

9.Tứ diệu đế.

10.Tứ như ý túc.

11. Thất giác chi.

12. Tam minh.

Đây là những pháp cần phải tu tập, traudồi. Còn đây là những pháp mà chúng ta cần phải hiểu biết và cũng có lúc cần phải vứt bỏ:

1.Năm uẩn.

2. Năm triền cái.

3. Năm hạ phần kiết sử.

4. Năm thượng phần kiết sử.

5.Năm căn.

6.Năm lực.

7.Sáu nội xứ.

8.Sáu ngoạixứ.

9.Sáu thức.

10.Sáu xúc.

11.Sáu thọ.

12.Sáu tưởng.

13.Sáu ái.

14.Sáu hòa kính pháp.

15.Bảy định cụ.

16.Bảy tùy miên.

17.Bảy kiết sử.

18.Mười mộ truyền nhân pháp.

19.Mười bất thiện nghiệp đạo.

20.Mười thánh cư.

21.Mười pháp vô học.

22.Chín thứ đề diệt.

Đây là những cái pháp cần phải thông hiểu, vứt bỏ và còn phải tu tập rèn luyện thân tâm hằng ngày. Pháp của Đức Phật dạy rất nhiều không phải chỉ có Ba mươi bảy phẩm trợ đạo như người ta đã kê ravàghi chép lại trong những bài Kinh của Phật, điều đó còn thiếu sót rất nhiều, chớ không phải đầy đủ.Nhưng dù sao chúng ta cũng lần lượt sẽ học hết những lời của Phật dạy để biết pháp nào thông hiểu, pháp nào vứt bỏ, pháp nào trau dồi và pháp nào tu tập. Rồi đây lần lượt Thầy sẽ giảng hết các pháp mà Đức Phật đã dạy trong kinh Nguyên Thủy. Hiện giờ Thầy đã kê ra một số tượng trưng để lấy đó làm đối tượng cho thân ta tu tập. Nhưng trước khi học Thân niệm pháp thì quý thầy cần phải nhớ quý thầy có học bao nhiêu pháp của Phật mà không sống đúng ba hạnh, ba đức thì dù cho quý thầy có tu đến đâu cũng chẳng có ích lợi gì cho chính bản thân của quý thầy và cho những người khác. Nhất là về Hạnh độc cư, trong giáo án những phần trước Thầy đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần về cái hạnh độc cư nhưng quý thầy tật nào vẫn tật nấy, vui thích và thích nói chuyện với nhau. Do thế mà Thầy thấy rằng con đường của đạo Phật đối với sự độc cư rất là khó khăn khi một người chưa quyết tâm tu giải thoát. Vì thế tiến tới tu tập giới hành thì quý thầy phải sống độc cư đúng một trăm phần trăm. Hạnh độc cư rất là quan trọng cho con đường tu tập theo đạo Phật, đức Phật đã hiểu rõ hạnh độc cư - bí quyết thành công, con đường giải thoát của đạo. Nên Ngài có để lại cho chúng ta 42 bài kệ để nhắc nhở người sau tu hành, phải thực hành hạnh độc cư cho rốt ráo thì mới mong đạt được mục đích, phạm hạnh cao quý của đạo mà Ngài đã khổ công tu tập để đem lại sự lợi ích cho chúng sanh sau này chấm dứt được sự sanh tử luân hồi.

Hiện nay cô Út đã sắp xếp cho các con mỗi người một vị trí an ổn yên tịnh để sống độc cư cho được trọn vẹn, thực hiện nội tâm lắng lặng, càng lúc càng đi sâu vào thiền định mới được. Nếu không có giữ độc cư thì làm sao mà tu tập đi sâu vào thiền định. Vậy các con phải lắng tai nghe 42 bài kệ nhắc nhở của Đức Phật, sống hạnh độc cư giống như con tê giác một sừng. Bốn mươi hai bài kệ này trong Kinh tập trang 7 tựa đề “Bài kinh con tê ngưu một sừng”. Bây giờ Thầy đọc kệ và giảng giải cho các con rõ.

Bài thứ nhất:

Đối với chúng hữu tình

Từ bỏ gậy và trượng

Chớ làm hại chúng sanh

Trong chúng hữu tình ấy

Đừng thương nhớ vật gì

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng

Đây cái câu thứ nhất, đối với loài chúng sanh, cái loài hữu tình có sự sống chết, sự đói khát, có tâm sân hận, dữ tợn, giết hại lẫn nhau để tìm cái sống. Thì tất cả đối với loại hữu tình này đối với chúng nó thì chúng ta không có nên dùng gậy, dùng dao dùng mác, dùng những đồ vật để làm hại chúng, dù chúng hung dữ như rắn độc, như bò cạp, như rít, như những loài vật dữ tợn trong rừng cọp, beo. Chúng ta cũng không nên làm hại chúng.

Đối với tất cả những lời hữu tình ấy chúng ta không nên nuôi dưỡng chúng, vì tại sao, vì gây cho chúng ta có những cái tình thương làm cho chúng ta mất độc cư. Khi chúng ta nuôi một con mèo, một con chó, một con vật gì đó, một con gà, hoặc là một con chim hoặc là một con cá. Tất cả những cái loài vật à chúng ta được nuôi nó đều gây cho chúng ta một cái cảm tình, từ đó chúng ta không còn sống độc cư nữa. Vì độc cư chúng ta thấy mình sống một mình. Nhưng có nuôi một con chim làm chúng ta vui theo con chim đó mà mất độc cư. Vì vậy trong cái bài kệ này Phật dạy: “Trong chúng hữu tình ấy. Đừng thương nhớ vật gì” . Nghĩa là chúng ta không có nên thương nhớ con vật gì cả, cũng đừng nuôi dưỡng chúng. Vì nuôi dưỡng nó gây cái tình cảm của chúng ta đối với chúng mà chúng ta khó mà thực hiện con đường độc cư, hạnh độc cư được. Vì vậy mà Phật khuyên chúng ta hãy sống riêng một mình đừng có con vật này con vật khác mà nuôi trong thất của mình. Đừng có cho con mèo, con chó, con vật gì mà nó quấn quýt theo mình rồi nó làm cho mình mất cái hạnh độc cư.

Phật bảo chúng ta hãy giống như một con tê ngưu một sừng. Con tê ngưu đây là một con trâu, một con trâu nước, nó có một cái sừng nhỏ trên cái mũi của nó, khi nó lớn lên nó có một cái sừng rồi thì nó đi sống riêng lẻ một mình nó, nó không có sống chung trong bầy của nó nữa. Nghĩa là ai, con vật gì mà đến xâm chiếm nó thì nó tự vùng vẫy và chiến đấu chứ không cần đến cái đoàn của nó. Cho nên nó thường sống một mình, thường vui một mình, thường ở một mình chẳng hề biết sợ ai, chẳng hề biết lo toan, chẳng hề biết nghĩ ngợi một cái điều gì, chẳng hề biết buồn vui một cái gì nữa. Vì vậy mà Phật ví một người tu sĩ như chúng ta phải sống như con tê ngưu một sừng. Đó là bài thứ nhất.

Tóm lại bài này đức Phật nói chúng ta đừng giết hại chúng sanh nhưng cũng đừng thương xót chúng sanh. Vì thương xót làm chúng ta mất độc cư và giết hại là làm ác làm chúng ta có những hậu quả khó khăn trên bước đường tu tập khi chúng ta sống một mình. Vì vậy bài kệ thứ nhất này, đối với loài hữu tình, đối với tất cả chúng sanh chúng ta chỉ nên xa lìa chúng mà không nên ở gần chúng. Hoặc thương hoặc ghét điều đó cũng làm chúng ta khổ đau cho nên chúng ta phải cố gắng giữ trọn hạnh độc cư, xa lìa tất cả mọi chúng sanh.

Bài kệ thứ hai:

Con trai còn không nhớ

Nói gì nhớ bạn bè

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Ở đây đức Phật dạy chúng ta con của chúng ta, tức là đức Phật ví như mình có một đứa con trai một mà mình còn không nhớ huống hồ mình nhớ đến bạn bè thân hữu, hoặc bà con, hoặc người này người kia, hoặc là cha mẹ mình nữa. Cho nên đức Phật dạy khi mà tâm khởi nghĩ nhớ thương thì đó là mình chưa có sống độc cư được. Muốn cho sống độc cư được thì chúng ta đừng có nghĩ nhớ đến cái người mà chúng ta yêu nhất đó là đứa con trai độc nhất của mình. Cũng như chúng ta chưa có con, chưa có cái thì cái người mà thương nhất của chúng ta đó là cha mẹ mình. Vì vậy những mà người thương nhất mà chúng ta còn không nhớ huống hồ là chúng ta nhớ bà con thân thuộc, hoặc là nhớ người này người kia hoặc là bạn bè của chúng ta. Chắc chắn là chúng ta không bao giờ nhớ, vì không bao giờ nhớ tức là sống độc cư. Còn nhớ còn thương, còn tưởng còn nghĩ đến con cái, vợ con thì đó là chúng ta chưa sống độc cư. Cho nên ở đây Đức Phật đem bốn câu kệ này mà ngồi lại một mình mà nhớ người này nhớ người kia tức là chưa sống độc cư.

Cho nên Phật dạy chúng ta hãy sống riêng một mình, nên sống không có nhớ nghĩ đến người này người khác, thương nhớ người này người kia thì như vậy mới là sống một mình. Còn sống một mình mà nhớ người này người nọ người kia thì đó là chưa sống một mình. Vì vậy Phật khuyên chúng ta “Hãy sống riêng một mình. Như tê ngưu một sừng”. Đấy, thì đầu tiên đức Phật dạy chúng ta xa lánh những cái loài vật, loài hữu tình để cho chúng ta được độc cư, được sống riêng một mình. Kế đến chúng ta xa cái tâm tư nhớ thương của chúng ta đối với những người thân. Người thân nhất chúng ta cũng phải xa lìa để chúng ta giữ trọn được hạnh độc cư. Nếu chúng ta khép mình trong cái cuộc sống một mình nhưng tâm hồn chúng ta thả hồn đi phiêu du, nhớ tưởng cái này nhớ tưởng cái khác thì đó là không có sống hạnh độc cư. Như vậy không sống riêng một mình được thì làm sao sống giống như con tê ngưu một sừng được. Cho nên ở đây chúng ta phải nhớ kỹ là chúng ta khi có một tâm tư khởi lên nhớ nghĩ thương những người thân của mình thì hãy mau mau dùng pháp hướng quét sạnh ra để cho chúng ta thực hiện được hạnh độc cư. Chứ không phải ngồi nhớ nghĩ tưởng. Mà chỉ riêng một mình ngồi nên nhớ nghĩ tưởng thương thì tức là mình cũng mất hạnh độc cư rồi, tuy rằng mình đã sống một mình. Đó là bài kệ thứ hai.

Đến bài kệ thứ ba:

Do thân cận giao thiệp

Thân ái từ ấy sanh

Tùy thân theo thân ái

Khổ này mới nảy sanh

Nhìn thấy những nguy hại

Do thân ái sanh khởi

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Đến đây đức Phật nhắc chúng ta cái bài kệ thứ ba. Do có thân cận và giao thiệp người này người kia, bạn bè nói chuyện này chuyện kia như quý thầy mà nói chuyện hoặc các con mà nói chuyện qua lại thế này thế kia thì cái thân ái nó từ đó mới sanh khởi. Tức là cái lòng thương lòng ghét bắt đầu từ đó nó sanh khởi. Và nó sanh khởi như vậy thì chúng ta không có sống độc cư được. Cũng từ đó cái lòng thương lòng ghét của chúng ta phát khởi lên do vì cái sự thân cận, giao thiệp mà đưa đi đến cái chỗ lòng thương lòng ghét, rồi tâm hờn tâm giận thù oán do đó mà sanh khởi. Nó làm cho chúng ta giữ cái hạnh độc cư không có được. Từ cái chỗ do sự thân cận, giao thiệp đó mà tạo chúng ta biết bao nhiêu sự khổ. Rồi chúng ta tu hành cũng không đạt được những cái kết quả vì giữ không được đúng cái hạnh độc cư. Cho nên khiến cho chúng ta càng tu lại càng xa đọa mà không bao giờ đạt được kết quả giải thoát của thiền định.

Tùy thân theo thân ái,tùy theo cái thân của chúng ta mà thân cận với mọi người nữa thì cái thân ái của chúng ta nó phát khởi, nó làm chúng ta thương người này ghét người kia hay giận người nọ như câu trên “Do thân cận giao thiệp”. Từ đó mà cái lòng thương lòng ghét của chúng ta phát sanh. Vì vậy mà cái hạnh độc cư nó làm cho chúng ta cắt đứt được cái sự thân cận giao thiệp.

Chúng ta thường thường là muốn hay giao du với bạn bè, thân thuộc, người này người nọ người kia, giao thiệp rộng. Người tu hành mà giao thiệp rộng đó là một cái tai hại rất lớn cho cái sự tu tập của chúng ta. Vì thế mà đức Phật dạy chúng ta độc cư, sống một mình, sống riêng rẻ; không có giao thiệp với người nào, không có làm quen với người nào thì chúng ta mới dễ dàng tu hành. Vì có làm quen, có thân cận, có giao thiệp rộng rãi thì cái tình thân ái của chúng ta nó mới phát khởi cái lòng thương ghét cái lòng giận hờn. Nó mới do cái lòng thân cận giao thiệp đó mà nó phát khởi ra. Vì thế cuộc đời chúng ta càng tu mà cái tiến bộ thì không tiến bộ mà càng lui dần lui dần đi về cái phía cái cuộc đời của người thế gian, không phải đi về cái phía của người xuất thế gian, ra khỏi cái nhà thế gian để đi tìm con đường giải thoát. Do đó mà câu kệ thứ tư Phật nói “Khổ này mới nảy sanh”. Từ cái chỗ thân cận giao thiệp đó thì cái tình thương ghét giận hờn nó mới nỗi lên khổ. Giận hờn thương ghét thì nó cũng khổ, thương cũng khổ, cho nên khổ này mới do chỗ này mà nảy sanh ra. Người mà có trí người ta thấy cái đó người ta biết cái đó là nguy hiểm cho nên câu kệ thứ năm thì Phật dạy “Nhìn thấy những nguy hại”. Những cái điều mà thân cận giao thiệp này nó đem đến những cái sự nguy hại, làm cho con đường tu tập của chúng ta không tiến bộ và càng ngày càng thối chuyển.

“Do thân ái sanh khởi”,vì cái sự thân ái mà nó khởi lên những cái thương ghét làm cho chúng ta có những cái nguy hại trên bước đường tu tập. Làm chúng ta khó khăn trên bước đường tu tập. Nhưng vì cái bản chất của con người là sợ cô đơn, sợ một mình, thích vui. Vui thế gian, vui theo kiểu mà nói chuyện này chuyện kia. Cho nên các con thấy trong cái sự tu tập vừa qua trong ba tháng hạ. Các con từ xa xôi đến đây, đường cả ngàn vạn dặm chứ không phải ít, từ miền Bắc vào miền Nam lận mà. Thế mà các con tránh không khỏi được cái sự nói chuyện, giao thiệp với nhau. Đến đây thì ngay từ cái lúc đầu Thầy đã nhắc nhở độc cư, cái giới hạnh, giới nòng cốt của tu viện là độc cư. Thế mà các con giữ được có mấy bữa đầu hà. Sau đó thì hoàn toàn cho đến cuối hạ thì càng lại bung ra nói chuyện này chuyện nọ chuyện kia. Đủ thứ hiềm khích, giận hờn, phiền não, đủ loại hết. Các con thấy chưa, cái bài kệ của đức Phật đã xác định cho rõ ràng để biết được cái sự tu đúng tu sai của chúng ta. Qua cái hạnh sống mà xác định được. Vì vậy mà các con đã thấy rõ là chúng ta đã có nỗi khổ, nỗi khổ đó làm cản trở con đường tu tập của chúng ta tức là sự thân cận giao thiệp rộng rãi, bạn bè nhiều, giao thiệp rộng người này người kia, phật tử đông là càng tu tập càng khó. Cho nên lời khuyên cuối cùng của Phật thì các thầy như các con đã thấy rõ “Hãy sống riêng một mình. Như tê ngưu một sừng”. Nghĩa là thấy sự nguy hại, thấy cái sự nguy hiểm như vậy thì chúng ta cố gắng mà tập sống riêng một mình. Đừng có làm thân, làm tình làm tứ, đừng có giao thiệp nói chuyện này chuyện kia chuyện nọ. Đến đây Thầy rất là cấm cản quý thầy điều này rất nhiều.

Bây giờ quý thầy đã thấy ông Phật đã hiểu biết sự nguy hiểm, sự nguy hại cho con đường tu tập cho nên đặt ra 42  bài kệ khuyên chúng ta cố gắng sống độc cư. Có sống độc cư được thì chúng ta mới thành tựu được đạo giải thoát, không phải dễ. Đạo giải thoát không thể dành riêng cho những người ham giao thiệp thân cận người này người kia, vui sướng ở trong thế gian được. Đạo giải thoát của đạo Phật dành riêng cho những bậc sống một mình, độc bộ độc hành trên con đường này thì mới mong có ngày giải thoát, mới mong có ngày ra khỏi con đường sanh tử chấm dứt luân hồi. Còn nếu mà chúng ta ham vui thế gian thì tốt hơn chúng ta đừng có xuất gia, chúng ta đừng có đi theo con đường của đạo Phật mà hãy đi vào con đường của các tôn giáo khác vì nó có sự vui, sự sung sướng. Còn ở con đường của đạo Phật thì phải sống một mình, phải sống cô đơn, phải sống độc cư, phải vui sướng ở trong thầm lặng, ở trong độc cư, phải vui sướng ở trong cái hạnh thầm lặng một mình.

Đó thì quý thầy thấy cái bài kệ thứ ba mà đức Phật xác định là do sự thân cận giao thiệp rộng rãi mà cản trở con đường tu, mà đem đến sự đau khổ cho chúng ta muôn ngàn thứ đau khổ do sự thân cận giao thiệp này.

Câu kệ thứ hai thì đức Phật nói rằng chúng ta sống độc cư như con tê giác, sống riêng một mình mà còn ngồi nhớ nghĩ thương yêu gia đình, bạn bè thân thuộc thế này thế khác, cha mẹ thì cũng không phải sống độc cư.

Rồi thì câu kệ thứ nhất đức Phật dạy chúng ta đối với tất cả các loài hữu tình, tất cả các con vật không nên thương mà cũng không nên ghét, mà cũng không nên làm hại chúng, mà cũng không nên ôm ấp thương yêu chúng. Vì sống gần chúng cũng làm cho chúng ta không còn độc cư vì phải bận tâm, chia sẻ tâm ra để lo lắng cho chúng bằng cách này bằng cách khác. Hoặc là làm cho chúng ta tức giận, sân hận vì chúng mà phải dùng những cái gậy gộc, hoặc giết hại chúng, hoặc là thế này thế khác. Cho nên câu kệ thứ nhất thì đối với chúng sanh, đối với loài vật thì chúng ta không nên gần gũi, không nên thương mà cũng không nên ghét, cũng không nên hại chúng. Đấy chúng ta sống trọn được hạnh độc cư. Nếu chúng ta sống độc cư mà trong thất chúng ta có nuôi một con vật thì chúng ta chưa hẳn là độc cư, dù là con vật gì chúng ta chưa hẳn là độc cư.

Bây giờ đến bài kệ thứ tư, thầy xin đọc hết bài kệ thứ tư:

Do lòng từ thương mến

Đối với bạn bè thân hữu

Chuyện tu hành bỏ quên

Tâm tư bị ràng buộc

Do thấy sợ hãi này

Trong giao du mật thiết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bây giờ Thầy giải thích cái bài kệ này để cho quý thầy và các con hiểu cho rõ ràng.

Bài thứ tư này Phật muốn nói “Do lòng từ thương mến”, do cái lòng mà chúng ta thương mến người này, thương mến người kia, thương mến người nọ. Đối với bạn bè thân hữu của mình, do cái lòng thương mến đó mà nó tạo cho chúng ta trên cái bước đường độc cư không có dễ dàng, tạo cho chúng ta trên bước đường tu tập để hợp nhất tâm, để nhằm vào cái mục đích trợ thành một cái lực lượng của nội tâm để dứt bỏ tham sân si mạn nghi, tất cả những Ngũ triền cái hoặc Thất kiết sử đang trói buộc chúng ta. Mà chúng ta bị những cái lòng thương lòng ghét đối với bạn bè thân hữu nó làm tâm chúng ta bị chi phối, chia chẻ ra. Do như vậy dù chúng ta sống trong cái thất một mình nhưng tâm hồn chúng ta vẫn bị chia sẽ ra cho mọi người. Đó thì coi như chúng ta không có sống một mình.

Do đó những thời giờ mà để chúng ta ngồi thanh thản giữ tâm trong sáng thì trái lại chúng ta lại quên đi, bỏ quên đi cái chuyện tu tập đó đi. Hoặc là chúng ta tu tập tâm từ, ban rải cho chúng sanh trên bước đường đi kinh hành hoặc là trong những hành động làm của chúng ta hằng ngày nơi thân của chúng ta tránh khỏi sự va chạm làm cho chúng sanh đau khổ. Do lòng từ của chúng ta, phải tỉnh thức ở trong những cái tỉnh thức. Trong hành động của chúng ta hằng ngày thì chúng ta vì cái lòng từ thương mến bạn bè thân hữu thì chúng ta lại quên đi, lại quên đi cái sự tu tập của chúng ta. Bởi vì đạo Phật tu nhiều lắm, nhiều cái thứ định để mà tu chứ không phải có một thứ định mà tới giờ ngồi thiền nhập định đơn thuần như người ta nghĩ. Mà ở đây Phật phải tu nhiều cách, nhiều thức để chúng ta từ cái tỉnh thức, từ cái tâm thanh thản, từ cái Định hiện tại an lạc trú, từ cái Định niệm hơi thở, từ cái Định vô lậu, từ cái hạnh thiểu dục tri túc, từ cái phòng hộ sáu căn. Tất cả mọi mọi chúng ta đều tu tập liên tục không có dám kẻ hở nào hết. Bước ra một bước đi, hoặc là nói một lời nói một hành động đều là chúng ta phải tỉnh thức, phải cẩn thận, phải cảnh giác rất lớn đối với cái hành động thân khẩu ý của chúng ta. Do như vậy mà chúng ta đâu còn cái thời gian nào mà ngồi đó mà nhớ mà thương bạn bè thân hữu hoặc là thế này thế khác.

Cho nên nếu mà chúng ta còn cái lòng nghĩ đến cái này cái kia, lo lắng chuyện đói chuyện này kia nọ thì tức là chuyện tu hành chúng ta bỏ quên. Cho nên câu ba của bài kệ thứ tư này thì đức Phật đã nói “Chuyện tu hành bỏ quên”. Nghĩa là chúng ta còn một cái tâm nào mà cái lòng thương yêu thương mến đối với bạn bè thân hữu, nhớ lại người này người nọ người kia thì cái chuyện tu hành chúng ta đã bỏ quên rồi. Và cũng vì cái lòng thương yêu đối với bạn bè thân hữu, đối với cha mẹ anh em, đối với vợ con tất cả mọi cái thì lúc bấy giờ tâm tư ta bị ràng buộc. Cho nên câu kệ thứ tư thì Phật nói “Tâm tư bị ràng buộc”, bị trói buộc, bị siết chặt. Cho nên trong cái kiết sử thì Ái kiết sử nó ràng buộc, nó trói buộc cái tâm của quý vị rất khó mà bứt ra được. Nếu mà người mà không thấy nó, không sợ hãi nó thì con đường tu tập giữ cái hạnh độc cư không bao giờ được. Cho nên thấy nó sợ hãi, thấy được cái sự ràng buộc, sự trói buộc, cái sự tu tập không có tiến bộ thì quý thầy và cái con phải sợ hãi trong cái vấn đề giao du mật thiết. Giao du mật thiết với bạn bè, với người này người kia người nọ, rồi làm quen, rồi giao thiệp rộng rãi thì phải sợ hãi cái hành động đó; hành động đó sẽ đưa đến chúng ta tu tập rất khó. Cho nên chúng ta không giao du, không có giao thiệp với người này người kia, không có giao thiệp rộng rãi với ai. Chúng ta cắt đứt, muốn đi tu con đường giải thoát này chúng ta đoạn dứt, không có tình cảm với một cái người nào nữa hết. Có như vậy thì chúng ta mới thấy được sự tu tập của chúng ta mới có ngày mới có tiến bộ được. Còn nếu không làm sao mà chúng ta có thể giải thoát được. Hằng ngày cứ giao du cứ bạn bè, lý luận cái này luận cái kia, chuyện này chuyện nọ chuyện khác, nói chuyện đủ thứ. Thì thử hỏi làm sao tu hành đến nơi đến chốn được. Cho nên người tu hành phải sợ hãi những cái việc mà giao du mật thiết thì mới có thể sống một mình mới được. Cho nên Phật khuyên “Hãy sống riêng một mình. Như tê ngưu một sừng”.

Đó, thì cái bài kệ này nó có một cái ý nghĩa rất là sâu sắc để mà chúng ta giữ gìn cho trọn vẹn cái hạnh độc cư mà không bị sự ràng buộc của bạn bè, thân hữu, của sự giao thiệp rộng rãi. Cho nên bài kệ ba và bài kệ bốn này để chỉ cho chúng ta biết rằng sự giao thiệp rộng rãi, sự giao du mật thiết với nhau là tai hại cho cái con đường tu tập theo đạo Phật. Cho nên thấy những sự giao du mật thiết, những sự giao thiệp rộng rãi thì chúng ta sợ lắm. Người tu mà biết thì chúng ta sợ hãi lắm, đó là một con đường đưa đi đến cái sự sa đọa, cái chỗ khổ đau, cái chỗ ràng buộc, cái chỗ trói buộc, nó không bao giờ giải thoát đâu. Cho nên ở đây cái bài kệ bốn chúng ta phải thấy được cái sự sâu sắc mà đức Phật đã dạy chúng ta. Cái mục đích mà chúng ta phải đạt được mà chúng ta không giữ gìn được cái hạnh độc cư này thì khó mà chúng ta có thể đạt được cái mục đích cao siêu của đạo Phật được. Bây giờ Thầy đọc lại bài kệ thứ tư để cho quý thầy và các con suy ngẫm mà cố gắng giữ gìn hạnh độc cư:

Do lòng từ thương mến

Đối với bạn bè thân hữu

Chuyện tu hành bỏ quên

Tâm tư bị ràng buộc

Do thấy sợ hãi này

Trong giao du mật thiết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

 

Bây giờ đến Bài kệ thứ năm:

Ai nhớ nghĩ chờ mong

Đối với con và vợ

Người ấy bị buộc ràng

Như cành tre rậm rạp

Còn các ngọn tre cao

Nào có gì buộc ràng

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bài kệ thứ năm thì Phật nhắc nhở:

Ai nhớ nghĩ chờ mong

Đối với con và vợ

Người ấy bị buộc ràng.

Ba câu kệ đầu nếu mà chúng ta vào đây mà chúng ta ngồi tu hành hoặc một nơi nào đó để quyết tâm đi theo con đường giải thoát của đạo Phật mà còn nhớ còn mong đến con, đến vợ thì đương nhiên cái người tu sĩ ấy đã bị buộc ràng, đã sống không có độc cư được rồi. Phật ví dụ “Như cành tre rậm rạp”, như những cành tre ở dưới gốc tre nó rậm rạp, nó bị bao nhiêu sự trói buộc, nó không có thảnh thơi. Nó không có giải thoát được, nó bị trói buộc bởi những cành tre khác, bởi những cây tre khác. Còn các ngọn tre cao, những cây tre mà vọt lên, cao vút lên trên thì nó không có bị cái sự ràng ở dưới những gốc cây.

Thì như vậy đức Phật ví dụ mình mà muốn vượt thoát ra khỏi cái tình đời, cái con đường của thế gian nó đang bị những kiết sử ràng buộc rất là chập chùng, rất là chặt chẽ. Cho nên chúng ta muốn vượt thoát ra cũng như những ngọn tre nó cao hơn những ngọn tre khác thì nó không còn bị ràng buộc.

Đó thì như vậy nó vượt lên trên cao hết thì tức là nó sống riêng một mình như con tê ngưu một sừng. Thì quý thầy thấy rõ khi mà chúng ta là mọi người đang sống ở trên thế gian này mà chúng ta sống độc cư được là như ngọn tre mà cao vút lên vượt ra khỏi cái bụi tre, cái gốc tre cho nên chúng ta không còn bị buộc ràng bởi những cái gai, cái cành tre nhỏ, những cái váng nhện của cái lại tre nó bao bọc cái gốc tre. Chúng ta vọt lên trên, chúng ta cao vút lên hết. Thì cái người mà sống độc cư là cái người vọt lên, cao vút lên. Còn cái người mà sống không được độc cư, sống không riêng một mình, người đó đang bị trói buộc, ràng buộc không có vượt thoát được.

Đó thì ở cái bài kệ thứ năm này đức Phật thí dụ cho chúng ta thấy rằng một con người muốn sống độc cư là con người vượt lên trên chứ không phải là con người trốn đời, con người tránh cái sự đời mà con người vượt lên, vượt lên những cái sự trói buộc, cái sự mà vui thích của thế gian, cái sự mà vui giả tạo của thế gian, vui đó rồi khổ đó. Cho nên khi mà nhớ mong con với vợ thì tức là bị ràng buộc, bị ràng buộc thì tức là bị nó trói buộc. Chúng ta phải nhìn con và vợ là một cái nhân quả để mà chúng ta vay nợ ở tiền kiếp mà bây giờ chúng ta phải trả. Mà chúng ta đã vượt lên trên cho khỏi lên tức là chúng ta đã thoát ra sự ràng buộc đó. Còn nếu mà chúng ta không có vượt thoát ra thì chúng ta sẽ bị vợ và con trói buộc rất chặt không thể nào mà thoát ra. Mặc dù thân chúng ta thoát nhưng tâm hồn chúng ta vẫn bị nó trói buộc thì như vậy chúng ta cũng chưa hẳn đã độc cư. Hiện giờ thân chúng ta ngồi trong thất không nói chuyện với ai nhưng tâm hồn chúng ta nghĩ nhớ chờ mong, thương con nhớ vợ. Thì cái điều đó là cái thân không bị trói buộc nhưng cái tâm vẫn bị những cái kiết sử đó trói buộc chúng ta, cái ái kiết sử đó trói buộc chúng ta rất chặt. Vì vậy mà chúng ta sống chưa riêng một mình đâu, chúng ta chưa vượt ra khỏi đâu. Mà muốn vượt ra khỏi thì chúng ta phải hiểu biết nó là một cái sự nguy hại nguy hiểm cho con đường tu tập của chúng ta, nên cắt đứt, nên bỏ. Không còn có cái sự trói buộc gì chúng ta nữa. Vì vậy mà chúng ta phải sống một mình như con tê ngưu một sừng. Sống riêng rẻ, không sống chung ở trong bầy tê ngưu nữa. Sống một mình tự tại, tự do, giải thoát đó là độc cư.

Bây giờ tới cái Bài kệ thứ sáu:

Như nai trong rừng núi

Không gì bị trói buộc

Muốn đi đâu nó đi

Để tìm kiếm thức ăn

Như các bậc hiền trí

Muốn tự do giải thoát

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bây giờ Thầy giải thích cái bài kệ này. Đây cái bài kệ này thì Phật ví như một con nai ở trong cái rừng núi. Nó sống có một mình nó cho nên nó không có bị ai trói buộc. Nó muốn đi đâu thì nó đi, nó muốn đi kiếm thức ăn thì nó cũng tự tại ở trong cái sự đi kiếm thức ăn, muốn đi Đông đi Tây đi Nam đi Bắc. Phật ví một người mà sống độc cư thì giống như một cái con nai. Nhưng chúng ta phải sống một mình, chứ không phải con nai mà đi tìm bạn tìm bè. Mà đây là con nai đi tìm cái sự giải thoát cho nên nó sống riêng một mình. Đi ăn cũng một mình, đi đâu cũng một mình không có cái gì mà trói buộc ràng rịt nó hết cho nên nó sống riêng một mình nó. Thì đức Phật ví con nai mà sống được như vậy thì các nhà hiền trí, các người tu hành mà theo đạo Phật cũng vậy. Muốn mà tu cho được sự giải thoát, làm chủ sanh tử, chấm dứt sự luân hồi thì cũng phải sống một mình, cũng sống riêng một mình, cũng không còn bị dính dấp một cái tình cảm thương ghét giận hờn ai nữa hết. Không còn bị những cái đối tượng làm cho mình phải lo, phải thương, phải ghét phải giận phải hờn. Cho nên vì vậy đó mà đức Phật muốn khuyên mình phải sống độc cư, sống riêng một mình mới có được yên ổn mà tu tập con đường theo đạo giải thoát.

Nếu mà mình không có sống riêng một mình được thì khó mà tu tập theo con đường của đạo Phật được. Vì chính cái mục đích của nó là tâm bất động. Mà hiện giờ tâm mình còn đang động mà mình sống chung trong mọi người, người nói vầy kẻ nói khác, người nói thuận kẻ nói nghịch làm cho tâm của mình luôn luôn bất an, làm sao mà mình được yên ổn mà mình nhiếp tâm hằng khắc phục cái tâm mình để cho mình xa lìa những cái tham muốn, những cái vui của thế gian, những cái dục lạc của thế gian, những cái cám dỗ của thế gian. Rồi những cái giận hờn phiền não đau khổ của thế gian làm cho chúng ta rối ren ở trong cái đầu óc, làm cho cái đời sống của chúng ta rất là bất toại nguyện.

Như vậy chúng ta mà muốn đạt được cái sức bất động tâm, đạt được cái sức làm chủ sanh lão bệnh tử thì chúng ta phải sống độc cư, sống riêng một mình. Hãy sống riêng một mình như con tê ngưu trong rừng. Đó thì Đức Phật khuyên chúng ta làm sao mà chúng ta muốn đạt được con đường giải thoát của đạo Phật thì phải sống riêng một mình, phải sống độc cư, phải sống mà không còn bị trói buộc dính mắc một cái gì của tình cảm, của sự thương ghét, của sự giận hờn phiền não của thế gian nữa thì chúng ta mới có thể thực hiện được con đường này. Qua cái bài kệ thứ sáu cũng như một con nai ở trong rừng có một mình, nó không bị cái gì trói buộc, đi ăn chỗ nào thì tự do đi ăn, không có đi cả bầy cả bầy để rồi người này nhìn thấy kẻ kia thấy rồi bẫy rồi rọ rồi săn rồi bắn rồi làm cho cái đời sống con nai bất an. Cho nên con nai này nó khôn ngoan nó sống một mình nó cho nên nó được an ổn nhất, được giải thoát nhất. Và người tu sĩ chúng ta hiện giờ chúng ta cũng chấp nhận cái hạnh độc cư là cái tuyệt vời nhất để mà chúng ta thực hiện con đường giải thoát. Đó là bài kệ thứ sáu, Phật ví người tu sĩ chúng ta cũng như là một con nai mà sống riêng một mình trong rừng tự do tự tại nên không còn bị trói buộc và dính mắc nữa.

Bài kệ thứ bảyđức Phật muốn nhắc lại, đây Thầy sẽ đọc lại cái bài kệ này cho các thầy và các con nghe để mà hiểu qua cái cách thức sống độc cư.

Giữa bạn bè thân hữu

Thường gọi lên gọi xuống

Hoặc ở chỗ trụ xứ

Hoặc trên đường lộ hành

Muốn tự do giải thoát

Không còn gì tham luyến

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Nghĩa là đức Phật nói khi mà chúng ta còn giao thiệp, còn kết bạn kết bè thì họ gọi lên gọi xuống nói chuyện tới chuyện lui, chuyện này chuyện nọ chuyện kia cho nên làm cho chúng ta bất an, chúng ta không có được tự tại, không có được tự do để cho sự tu tập của chúng ta được yên tĩnh. Cho nên bạn bè rất là tai hại, thân hữu rất là tai hại. Vì vậy mà trên cái bước đường mà chúng ta đi, cái chỗ mà chúng ta ở, thường thường thì người ta hay tìm cái người đồng hành rồi cái người đồng xứ để có chỗ nương tựa với nhau. Ở đây người tu hành chúng ta không có chọn cái nơi mà đồng xứ để đồng ở có bạn có bè với nhau. Rồi đi trên đường cũng độc bộ độc hành chứ không có rủ ren người này người nọ cùng đi với mình để cho vui. Thì cái điều mà đức Phật khuyên một người mà đi tu theo đạo Phật thì không có nên trụ xứ một chỗ hai ba người, năm ba người mà chỉ có một mình mà thôi. Cũng như đi trên đường thì hầu hết người ta sợ đi một mình, sợ trộm cướp hay hoặc này kia nọ nhưng người tu người ta không có sợ, và đi có nhiều người nó lại còn động tâm chúng ta hơn, đi rồi nói chuyện này chuyện nọ chuyện kia nó không được yên tịnh. Đó là nói trên đường đời cũng như là trên cuộc sống. Chỗ ở của chúng ta đều phải từ giã không có sống với hai người, không có sống ba người bốn người, năm người mười người mà hãy sống cho một mình mà thôi.

Bởi vì cái cuộc đời tu hành của chúng ta chúng ta không còn tham luyến một cái gì hết. Mà không còn tham luyến thì chúng ta còn sợ hãi cái gì đâu mà chúng ta lại phải kết đôi, kết bạn kết bè. Cho nên chúng ta hãy sống riêng một mình như tê ngưu một sừng. Thì như vậy là chúng ta thấy đức Phật khuyên chúng ta hãy cố gắng tránh xa bạn bè vì họ thường gọi tới gọi lui, họ làm cái này làm cái kia, họ nói chuyện này chuyện kia đủ thứ đủ loại làm cho tâm chúng ta bất an cho nên con đường tu chúng ta khó đạt được.

Cho nên quý thầy và các con cũng phải nghe, phải hiểu, phải ráng nỗ lực thực hiện cái hạnh độc cư, sống riêng một mình, làm riêng một mình, đi riêng một mình không có nói chuyện với ai thì may ra chúng ta mới đạt được con đường tu hành giải thoát. Đó là bài kệ thứ bảy.

Bài kệ thứ támthì đức Phật cũng khuyên chúng ta thêm để chúng ta thấy rằng con đường tu của đạo Phật là phải sống riêng một mình, không được sống chung nhiều người. Ở đây, chúng ta nghe đức Phật khuyên:

Bài kệ thứ tám:

Giữa bạn bè thân hữu

Ưa thích vui cười đùa

Đối với con với cháu

Ái luyến thật lớn thay

Phải nhàm chán hệ lụy

Với những người thân ái

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng.

Ở đây đức Phật khuyên chúng ta, với bạn bè thân hữu thì cái người mà ưa vui, ưa thích cười đùa nói chuyện, bông đùa nói chuyện phiếm, nói chuyện giỡn, nói chuyện chơi, hoặc đánh cờ hoặc làm đủ thứ trò để vui chơi, rượu chè bài bạc với bạn bè, làm cho vui thích, đó là cách thức vui theo cái người thế gian mà mặc đem đến cho cái sự đau khổ. Cũng như đối với con, với cháu thì mình luyến ái, mình thương yêu, mình không có bỏ chúng được thì những cái điều này nó làm cho chúng ta sống độc cư không có được, làm chúng ta tu theo con đường của Đạo Phật không được. Cho nên cái người mà ham thích bè bạn, giao thiệp rộng rãi, người này người kia thì những người đó không có tu theo Đạo Phật được, không có độc cư được. Những người mà còn thương con nhớ cháu, còn ưa con ưa cháu còn ái luyến với con cháu thì những người đó cũng không có sống độc cư được, cũng không có thực hiện được con đường tu theo đạo Phật giải thoát. Vì đó là một sợi dây kiết sử trói buộc rất chặt và làm cho họ không có thể nào thoát ra được thì làm sao mà thực hiện được con đường thiền định của đạo Phật.

Muốn thực hiện được con đường thiền định của đạo Phật, thì muốn sống được cái hạnh độc cư để sống một mình để thực hiện con đường thiền định của đạo Phật thì phải nhàm chán những cái sự hệ lụy đó, những cái sự trói buộc đó. Với những người thân ái đó chúng ta phải nhàm chán, phải từ bỏ, phải xa lìa những cái người đó để chúng ta sống độc cư, sống riêng một mình mới được. Còn nếu mà chúng ta không nhàm chán, không thấy cái sự hệ lụy, không thấy cái sự trói buộc, không thấy những cái đau khổ, cái bất toại nguyện trong tâm của chúng ta mà do những cái người bạn bè, người thân, con cháu của chúng ta, những người ruột thịt nó sẽ làm chúng ta khó khăn mà tu hành, khó khăn mà độc cư được. Cho nên chúng ta phải nhàm chán, phải vứt bỏ, phải xa lìa họ đi thì chúng ta mới sống được độc cư, mới sống được riêng một mình thì chúng ta mới giống như là con tê ngưu một sừng trong rừng.

Bài kệ thứ tám đức Phật khuyên chúng ta phải vứt bỏ bạn bè, con cái, những người thân thuộc hệ lụy, phải nhàm chán, phải xa lìa, phải từ giã phải từ bỏ. Vì đó là những người thân, họ có những sợi dây vô hình trói buộc chúng ta rất chặt, khó mà chúng ta tiến tới con đường tu hành của đạo Phật để được giải thoát sanh tử luân hồi hoàn toàn.

Những cái điều mà thân thương, những cái điều thương ghét, những cái điều giận hờn phiền não, những cái điều mà bạn bè thân thuộc, con cái, dòng họ quyến thuộc anh em, cha mẹ ruột thịt đó là những cái sợi dây vô hình, những sợi dây đó nó trói buộc chúng ta nó làm cho chúng ta không có đi được trên con đường của đạo Phật.

Muốn đi vào con đường của đạo Phật phải bứt cho mạnh, thoát ra cho mau, đừng có ở trong cái vòng đó mà chúng ta sống không có được độc cư đâu. Chúng ta phải gan dạ, phải quyết tâm, phải có một cái sự dứt bỏ rất mạnh thì chúng ta mới sống được hạnh độc cư. Còn nếu mà chúng ta không có quyết tâm mà cứ sống lềnh lềnh lềnh lềnh, mà thích nói chuyện nói vui đùa cái này, cái kia cái nọ, không những làm động mình mà còn làm động người khác, mà mình tu không được mà người khác tu cũng tu không được.

Cho nên ở đây phải quyết tâm vứt bỏ, không được có thể sống mà tu hành mà sống cái kiểu mà không có độc cư, không có riêng một mình thì như vậy là khó đi đến con đường giải thoát cuối cùng của đạo Phật. Chỉ tu cho qua ngày qua tháng mà thôi chớ không bao giờ đạt được kết quả, đạt được cái mục đích cao siêu của đạo Phật đâu.

Bài kệ thứ chín:

Khắp cả bốn phương trời

Không sân hận với ai

Tự mình biết vừa đủ

Chẳng ham muốn vật gì

Vững tâm chịu hiểm nguy

Không rung sợ dao động

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bài kệ thứ chín này Đức Phật ví như bốn cái phương trời. Tức là Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn cái phương khắp cùng đó, đối với mọi người trong bốn cái phương trời này rộng mênh mông như vậy, bất kì người nào mình cũng không sân không hận gì với một người nào hết. Đó là hai câu kệ đầu, đối với ai họ làm gì làm, họ chửi mắng mình, họ hạ nhục mình, họ làm gì làm mình không sân hận không phiền não với ai hết, nghĩa là khắp cùng mọi người ở trong bốn phương trời này, Đông, Tây, Nam, Bắc đối với mình hoàn toàn là mình không có biết hờn giận cái người nào. Dù là người thân, người không thân, người xa lạ, người gần gũi, người quen thuộc, con cháu của mình, nói gì nói, nói nặng nói nhẹ, nói gì nói mình trơ trơ như cục đất thì đó là chính mình sống độc cư. Còn nếu mà mình không trơ trơ như cục đất, đụng đâu phiền não đó thì chưa hẳn là độc cư. Cái độc cư của đạo Phật nó sâu sắc đến cái mức độ không thể lường được. Đụng chuyện gì mình cũng động tâm, đụng chuyện gì mình cũng chịu không được, đụng chuyện gì mình cũng không tùy thuận, bằng lòng không nhẫn nhục được thì đó là mình không sống độc cư. Còn mình sống độc cư ai nói gì nói, mình trơ trơ như cục đá, đó là độc cư.

Tự mình biết vừa đủ.

Chẳng ham muốn vật gì

Hai câu kế này thì chúng ta thấy rất rõ. Mình biết vừa đủ tức là thiểu dục tri túc. Thiểu dục tri túc tức là mình có cái gì mình biết đủ cái đó, mình không ham không muốn không đòi hỏi thêm gì hết. Nghĩa là bây giờ hiện giờ có cái gì thì đủ xài nó thôi, không đòi hỏi thêm gì, không cần cái gì, đời mọi vật đều vô thường có rồi mất đó. Mất đó làm cho mình phiền não thêm chứ làm gì, nên chẳng thích cái gì hết. Cố gắng chỉ độc bộ độc hành, chỉ biết vừa đủ, ít muốn để cho mình thực hiện được con đường độc cư, đi trên con đường giải thoát cuối cùng ra khỏi nhà sanh tử luân hồi đầy đau khổ mà chúng ta không làm cách nào mà thoát ra khỏi cái vòng sanh tử này, cái vòng luân hồi này. Chỉ có con đường duy nhất của Đạo Phật mới dẫn dắt chúng ta thoát ra khỏi con đường này. Cái con đường này mới dắt chúng ta ra khỏi cuộc đời này.

Nếu mà chúng ta không biết được vậy, khó mà chúng ta biết đủ, ít muốn. Nếu chúng ta quyết tâm ra khỏi cái cuộc đời đau khổ này, ra khỏi sự luân hồi sanh tử này, chấm dứt không còn tái sanh luân hồi ở kiếp đời này nữa thì chúng ta phải nỗ lực, phải sống độc cư. Nếu mà không biết đủ, ít muốn thì đó là chưa biết sống độc cư. Chúng ta có một cái bộ đồ mà chúng ta còn muốn thêm một bộ đồ nữa là chưa sống độc cư. Vì sống độc cư là thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ, không có còn muốn thêm. Ai cho ăn cái gì thì ăn cái đấy, không có nghĩ rằng ăn cái đó là bổ, là mập là béo hay là đầy đủ dưỡng chất, hay hoặc là ăn thiếu dưỡng chất. Không cần, ăn để no, để sống, để nỗ lực thực hiện con đường giải thoát. Trong ngày nay, ngày mai ra khỏi cuộc đời này là chúng ta đã mừng rồi. Còn sống thêm một ngày nào ở trong cuộc đời này là còn đau khổ, vì cuộc đời là một cái lộ trình của nhân quả, chi phối con người từng phút giây, tạo cho con người vô thường từng chút, từng diệt từng sanh tử, từng chút, từng sát-na, làm sao mà chúng ta vui sướng được mà chúng ta an ổn ở trong cảnh đời như vậy.

Cho nên chúng ta phải nỗ lực, phải quyết tâm phải ra cho khỏi bằng cái hạnh độc cư. Hạnh độc cư không những sống một mình mà hạnh độc cư còn nằm ở trong cái rộng lớn là đối với cái tâm chúng ta không sân, không hận, không phiền não mới độc cư; còn sân còn hận thì làm sao mà gọi là độc cư. Mà tâm chúng ta chưa biết đủ, còn ham muốn thì sao gọi là độc cư. Cho nên tâm biết đủ, không ham muốn thì mới là độc cư.

Bởi vậy chúng ta phải vững tâm, vững tâm trong khi mà thiểu dục tri túc như vậy nó thiếu kém mọi điều nhưng chúng ta vẫn biết đủ, vậy là chúng ta phải có một sự vững tâm chịu được những sự nguy hiểm. Ví dụ như bây giờ bộ quần áo mà chúng ta mặc ở trong thân chỉ có một bộ như thế này mà bị mưa ướt thì lúc bấy giờ chúng ta phải giặt dẹ nó thì tức là chúng ta phải trần truồng. Thì chúng ta phải lấy lá cây hoặc gì đó mà chúng ta che khuất cái thân trần truồng của chúng ta để cho nó kín đáo một chút để rồi giặt cái bộ đồ, như thế là chúng ta đã biết đủ, ít muốn rồi đó, đó là chúng ta đã sống độc cư. Cho nên nếu mà không vững tâm chịu những cái nguy hiểm thì làm sao mà chúng ta sống độc cư được, cho nên chúng ta không run sợ, dao động trước mọi cảnh. Trước mọi cảnh người ta chửi mắng mình như tác nước nhưng không rung sợ, không giao động, không hận, không thù, không sân,đó là độc cư. Vững tâm chịu hiểm nguy trước những hiểm nguy như gặp cọp, beo, rắn độc… Tất cả những cái đó chúng ta không rung sợ mà vững tâm chịu trên những sự hiểm nguy đó. Như trước cơn bệnh ngặt nghèo sắp sửa bỏ thân này chúng ta vẫn vững tâm không dao động. Chúng ta biết thọ là vô thường chúng ta không sợ hãi cho nên chúng ta vững tâm. Và khi vững tâm như vậy, trước cái nguy hiểm như vậy mà chúng ta không dao động tâm đó là chúng ta đã sống độc cư. Còn chúng ta rung sợ, chúng ta lo lắng, chúng ta chạy thuốc chạy thang bằng cách này bằng cách khác để cho cái bệnh nó hết hoặc thế này thế khác thì đó là chúng ta không sống độc cư, chúng ta bị dao động. Tâm giao động là không sống độc cư.

Cho nên lúc bây giờ chúng ta phải thấy được cái hạnh sống riêng một mình, đó là một cái điều rất là cao quý của đạo Phật. Chứ không phải sống ở trong thất một mình mình, cô đơn một mình mình đó là độc cư đâu. Nó cũng là một cái góc cạnh của độc cư nhưng chưa phải thâm sâu của độc cư. Trước một con rắn độc, một con cọp dữ mà chúng ta không dao động, không hề sợ hãi trước cái chết của một con vật sắp sửa giết mình thì đó mình mới là độc cư. Cho nên hạnh độc cư rất là tuyệt vời, rất là cao quý cho nên cái người hiểu được hạnh độc cư thì khó ít ai hiểu. Cho nên độc cư có nghĩa là độc mộc một mình trước những sự nguy hiểm, trước những bệnh tật đau khổ có thể dày vò nhức nhối cơ thể, cái đau tận cùng của sức chịu đựng của thân nhưng tâm chúng ta không giao động thì người đó mới gọi là độc cư. Ý nghĩa độc cư rất là sâu sắc, trước mọi cảnh, mọi cái làm cho bất toại nguyện tâm mà tâm vẫn vững chí, không hề giao động trước cái đối tượng đó thì đó là độc cư. Bởi vậy, sống độc cư phải sống cho đúng cách, phải hiểu cho đúng cách, phải thấu rõ cho đúng cách thì nó mới có đầy đủ cái nghĩa của độc cư. Ai nói gì mặc, ai làm gì mặc, không giao thiệp với ai, không kết bè kết bạn với ai thì đó mới là sống độc cư. Cho nên cái nghĩa độc cư rất là rộng rãi. Vì vậy ở đây cái bài thứ chín này Phật khuyên chúng ta trước mọi sự hiểm nguy tâm không có giao động thì đó là chúng ta đã sống riêng một mình, sống độc cư giống như con tê ngưu một sừng.

Đến đây là Bài kệ thứ mười, Thầy đọc bài kệ thứ mười để quý thầy và các con nghe mà suy ngẫm cái hạnh độc cư.

Người xuất gia tu hành

Chung sống thật khó khăn

Cũng như các gia chủ

Cùng sống trong gia đình

Phải sống vô tư lự

Giữa con cháu như người dưng.

Đó bây giờ Thầy và các con thấy rằng người xuất gia chúng ta mà chung sống với một cái người nào khác đều là khó khăn, không có dễ dàng. Họ thì ở ngoài đời, sống như thế này thế khác, họ muốn cái này muốn cái kia cái nọ. Còn mình là thiểu dục tri túc làm sao mình sống chung với họ được. Mình thì ăn ngày một bữa còn họ ăn hai ba bữa thì làm sao sống chung được. Cho nên cái cuộc sống của họ cuộc sống khác, còn người xuất gia là cuộc sống khác. Cho nên chúng ta phải thấy cuộc sống của chúng ta là cuộc sống độc cư còn của họ là cuộc sống không có độc cư, cuộc sống tập hợp, cuộc sống vui, cuộc sống buồn, cuộc sống khổ, cuộc sống giận hờn phiền não, cuộc sống động, cuộc sống đau khổ, cuộc sống sanh tử luân hồi. Còn cuộc sống của chúng ta là cuộc sống thầm lặng, cuộc sống an ổn, cuộc sống thanh thản, cuộc sống yên vui. Đó là độc cư.

Đây Đức Phật ví dụ: chúng ta là những người xuất gia tu hành thì cũng giống như cái ông chủ nhà, họ sống chung nhau trong cùng một cái gia đình cũng như chúng ta là những người tu hành sống chung với nhau trong cái tập thể như thế này nhưng phải sống vô tư lự, sống không giao thiệp, không có chơi với người nào hết, vô tư với mọi người, không thương không ghét người nào, không giận không hờn, ai nói gì cũng được hết, mình cũng chấp nhận cái đúng cái sai của ai hết, hoàn toàn mình chỉ lo cho mình giải thoát mà thôi. Đó là cách thức tu hành của một người tu sĩ của Đạo Phật.

Nếu mà chúng ta giữ được sống chung nhau như ở cái đại gia đình của chúng ta như cái tu viện này, mười người mười mấy người mà chúng ta sống chung nhau. Ai làm gì làm chúng ta cứ lo chúng ta tu tập và chúng ta lo làm những công việc thì chúng ta cứ làm mà không có nói chuyện với ai. Có điều gì mà không rõ thì mình hỏi rồi thôi, không có nói chuyện vu vơ, sống vô tư lự không biết giận, không biết hờn, không biết ghét, không biết ghen ai hết, nhiệm vụ của người nào nấy làm của người nấy. Cho nên chúng ta cùng sống nhau trong một cái gia đình, làm thì chúng ta trợ giúp nhau làm, sống thì chia sẻ những công việc nhau làm nhưng không có để động tâm. Sống vô tư, không có thương người này ghét người kia, không có nịnh người này bợ người kia, nói xấu người nọ. Chúng ta có cái tâm tánh như vậy thì tức là chúng ta không sống độc cư. Còn trái lại chúng ta không nịnh không bợ không theo người này, không nói người kia thì đó là chúng ta đang sống độc cư đó. Chuyện gì không biết thì hỏi, chuyện gì biết thì thưa và cứ làm một mình. Đó là sống độc cư. Giữa bao nhiêu người mà mình sống được như vậy cũng như người gia chủ họ phải sống chung trong gia đình, họ phải sống vô tư lự giữa con cháu giống như người dưng. Họ không bị con cháu, không bị sự chia cắt cái tâm tư của họ thương đứa này ghét đứa kia thì như vậy đó là họ sống độc cư. Chúng ta cũng vậy, sống chung nhau, thấy việc cùng làm, giúp nhau cùng sống nhưng chúng ta không có bàn bạc riêng tư, không có nói xấu người này hay hoặc là nịnh bợ người kia bằng cách này bằng cách khác. Chúng ta an nhiên tự tại để nỗ lực thực hiện cái độc cư của chúng ta, cái sống riêng một mình. Thì cái bài kệ thứ mười thì Đức Phật ví dụ người xuất gia chúng ta sống chung nhau trong một cái cảnh nhiều người rất là khó nhưng chúng ta phải sống vô tư lự, không nịnh, không bợ, không chạy theo người này không nói xấu người kia thì như vậy mới chính là chúng ta sống độc cư, mới sống riêng một mình đó. Tuy rằng đông người nhưng mà vẫn sống riêng một mình như con tê ngưu một sừng. Đó là cái kệ thứ mười.

Bài kệ thứ mười một.

Thầy xin đọc lại cái bài kệ này để quý thầy và các con nghe để mà suy ngẫm:

Từ bỏ để một bên

Mọi biểu tượng của gia đình

Như loại cây san hô

Tước bỏ mọi lá cây

Bậc tu hành cắt đứt

Mọi trói buộc gia đình

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bốn câu kệ đầu thì đức Phật dạy, một người mà đã quyết tâm tu hành rồi thì phải từ bỏ, từ bỏ mọi thứ, để nó qua một bên đi, dẹp nó qua một bên đi đừng có mang theo ở trong lòng của mình thì mình tu không được. Mang theo tức là mình không có độc cư. Mình nên bỏ nó qua một bên mọi hiện tượng gia đình, tức là mọi sự thương ghét hoặc là của cải, tài sản trong gia đình, anh em ruột thịt, cha mẹ, vợ con. Những cái biểu tượng đó mình đều là mình bỏ nó qua một bên đi, mình dẹp nó qua một bên chỉ còn có một cái lộ trình duy nhất là độc bộ, độc hành, đó là con đường giải thoát của Đạo Phật mà thôi. Lấy đó làm cái phương châm, làm cái đối tượng để cho mình bước đi mà thôi. Chứ còn đối với gia đình, đối với tất cả mọi sự vật của thế gian dẹp nó qua một bên, bỏ qua một bên, không có để cho tâm trí chúng ta động tâm đến những điều đó. Ai sống, ai chết đều là do nhân quả chứ không phải có mặt mình mà làm cho họ hết những cái nhân quả đó đâu, mình không cứu ai được đâu, chính mình cứu mình còn chưa được huống hồ mình không bỏ thì những sự việc đó nó xảy đến mình cũng đâu có làm gì được. Cho nên mình biết suy nghĩ như vậy, biết hiểu như vậy thì cái bài kệ này Đức Phật bảo mình phải bỏ qua những biểu tượng, những đối tượng của gia đình. Hãy dẹp nó qua giống như cái cây san hô nó bỏ tất cả mọi lá của nó, nó không để cho cái lá nó dính, nó chỉ còn cái cọng san hô mà thôi.

Thì cái người tu hành chúng ta nó cũng vậy, nghĩa là cũng cắt đứt mọi cái trói buộc của gia đình không để mọi trói buộc của gia đình. Vì mọi trói buộc của gia đình tức là chúng ta không có sống độc cư được. Cho nên thân chúng ta lìa xa, chúng ta vào chùa ở, hoặc vào trong núi trong non ở hang ở hóc nhưng mà tình cái tình cảm gia đình chúng ta còn, không có bứt nó được, không cởi mở nó được, nó trói buộc chúng ta thì coi như đương nhiên chúng ta chưa phải sống độc cư đâu. Chúng ta cũng chưa phải là những người tu hành cắt đứt đâu. Cho nên chúng ta phải ráng nỗ lực, phải thực hiện. Tuy là nói lời nói nhưng ở đây là cái pháp vứt bỏ, nỗ lực vứt, vứt cho thật sạch. Nếu chúng ta không dứt thì ai dứt cho mình được. Mình thương ta thương mẹ thì mình phải dứt cái tình thương đó để cho mình nỗ lực mình tu, mà mình không dứt thì ai dứt cho mình được để cho mình tu. Mình phải hiểu như vậy thì “Hãy sống riêng một mình. Như tê ngưu một sừng”. Đó thì cái bài kệ chúng ta thấy rất rõ. Thầy đọc lại để cho quý thầy và các con nghe.

Từ bỏ để một bên

Mọi biểu tượng của gia đình

Như loại cây san hô

Tước bỏ mọi lá cây

Bậc tu hành cắt đứt

Mọi trói buộc gia đình

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng”.

Đó là bài kệ thứ mười một.

Bài kệ thứ mười hai, Thầy sẽ đọc để quý thầy và các con hãy nghe mà suy ngẫm:

Nếu tìm được bạn lành

Thận trọng và sáng suốt

Bạn đồng hành chung sống

Cùng sống bạn hiền trí

Cùng nhau đồng tu tập

Chẳng ai nói với ai

Hãy sống với bạn ấy

Chánh niệm lòng vui mừng.

Nghĩa là trên con đường đời mà chúng ta tu tập thì cần phải có thiện hữu tri thức, cần phải có bạn lành, bạn lành để giúp đỡ chúng ta trên bước đường tu tập. Như vậy chúng ta vẫn sống độc cư vì cái người bạn lành đó họ không nói chuyện với chúng ta bằng một cách phi thời, bằng một cách phiến diện, họ không nói chúng ta những cái chuyện tào lao, những cái chuyện phiếm. Họ nói với chúng ta bằng những cái hành động tu của họ, bằng những cái lời nói dạy chúng ta cách thức thực hiện con đường tu tập giải thoát. Thì đó là cái người bạn lành.

Cho nên khi chọn cái người bạn lành để mà sống chung nhau mà tu học thì thận trọng và còn phải sáng suốt. Mà biết được cái người bạn lành rồi thì chúng ta chung sống với nhau nhưng hầu hết là chúng ta không nói chuyện với nhau. Đó là những người bạn lành. Còn những người bạn mà không lành, những người bạn xấu thì gặp nhau thì chuyện này chuyện kia, kể chuyện đông chuyện tây, kể chuyện tình chuyện tứ, kể chuyện năm xưa, chuyện hồi nhỏ, tất cả những cái chuyện này chuyện kia. Nói rồi thêm, rồi bớt, rồi nói này kia rồi ca ngợi mình thế này thế khác, đó là những người bạn xấu chớ không phải những người bạn lành. Còn những người bạn lành là những người người ta làm thinh, tối ngày người ta thực hiện trong cái đời sống giải thoát, người ta không có nói chuyện với ai hết thì mình sống chung với những người đó mình mới có ảnh hưởng, mình mới theo những gương đó mình mới nỗ lực mà tu tập con đường giải thoát của chính mình.

Còn nếu mà có những người bạn mà không tốt thì ngay đó, ngay đó mình biết liền hà. Người bạn không tốt là người bạn nhiều chuyện, người bạn thích nói chuyện, thích tập hợp, rủ ren cái này cái kia đó là những người bạn xấu. Còn những người bạn tốt, mình vào Tu viện thì thấy những người bạn tốt thì họ không có nói chuyện đâu, họ không có làm quen, làm thân với mình đâu, đó là những người bạn tốt đó. Mình hỏi một câu gì đó họ trả lời một cái câu đó là có giá trị rất tuyệt. Còn cái người bạn mà tập trung nhau lại thất này, lại thất kia mà nói chuyện chùm nhum chùm nhum là những người bạn xấu đó. Những người đó họ có học thức cao cách gì đi nữa họ cũng vẫn là những người xấu, họ chỉ lý luận bằng cái miệng lưỡi của họ chứ đời sống của họ chẳng ra gì hết. Họ là những con trùng trong lông sư tử, họ giết Phật pháp, họ là những người giết Phật pháp chết.

Cho nên nhìn vào cái đời sống tu sĩ, đừng có nghĩ rằng họ thẳng tay vào chợ, họ bu lu ba la, họ nói chuyện này chuyện kia, họ ăn uống phi thời, họ đi đứng phi thời, họ làm những chuyện phi thời, họ không đúng tính cách của một tu sĩ, đó là những người bạn xấu, những người đó không phải thiện hữu tri thức. Dù họ có cấp bằng tiến sĩ hay cấp bằng gì đi nữa họ vẫn là những người bạn xấu của chúng ta. Họ không phải là con người đi tìm cái đạo giải thoát, họ là con người đi tìm cái danh, cái lợi của cuộc đời để cho họ thực hiện được những cái danh cái lợi của họ bằng cách khoe khoang, bằng cách này bằng cách khác. Cho nên những người bạn đó là những người bạn chúng ta không nên gần vì gần những người bạn đó chúng ta không sống được độc cư.

Chúng ta đến những người bạn mà những người bạn mà chúng ta sống độc cư, đó là những người bạn tốt. Những người bạn có thể mang đến cho chúng ta càng nhiều sống độc cư hơn, giúp chúng ta đạt được những kết quả tu hành giải thoát hơn. Người ta không nói chuyện nhiều với mình, người ta giúp mình bằng cách này bằng cách khác để cho mình được sống độc cư trọn vẹn, để cho mình thực hiện được con đường giải thoát. Đó là những người bạn tốt, những người đó không bao giờ nhiều chuyện, những người đó không bao giờ nói chuyện tào lao, nói chuyện không có đúng cách. Với họ một lời, hai lời là nhiều lắm. Họ không bao giờ nói nhiều lời.

Cho nên trong bước đường tu tập, quý thầy phải nhớ kỹ khi thực hiện con đường tu tập cần phải tìm những người bạn lành. Mà những người bạn lành đó rất ít, rất khó, đó là những người độc cư. Ở trong Tu viện của chúng ta chúng ta cũng thấy rằng ai là những người mà độc cư tốt nhất, chắc quý thầy cũng biết chứ, có những gương hạnh độc cư rất tốt, đó là những người bạn lành của quý thầy. Họ là những cái gương để cho quý thầy soi để quý thầy đi cho đúng con đường của đạo giải thoát. Ở đây Thầy không muốn nhắc tên những người đó nhưng quý vị chắc có lẽ ai cũng biết người nào tốt, người nào xấu.

Bây giờ đến cái Bài kệ số mười ba:

Nếu không được bạn lành

Thận trọng và sáng suốt

Cũng đừng sống với họ

Họ chẳng phải hiền trí

Hãy như vua từ bỏ

Đất nước bị bại vong

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Nghĩa là khi mình tìm mà không có cái người bạn tốt như vậy, người bạn mà đang sống độc cư, người bạn mà làm gương hạnh tu hành tốt cho mình như vậy thì mình phải sáng suốt và thận trọng không có đụng người nào cũng kết bè kết bạn. Các con có hiểu chưa, quý thầy có hiểu chưa? Trong Tu viện chúng ta có mấy người, người nào tốt người nào xấu các con biết chứ, người nào sống độc cư người nào không sống độc cư các con biết chứ, người nào nói chuyện nhiều, người nào nói chuyện ít các con biết chứ? Cho nên các con hãy lấy cái gương hạnh của những người tu tốt đó mà làm gương hạnh tốt cho mình, sống độc cư sống một mình không nói chuyện bậy bạ. Để giữ gương hạnh đó mà thực hiện con đường tu tập giải thoát thì cái thời gian sẽ thu ngắn lại cho các con, cho các thầy, mới mong đạt được kết quả sau này. Chứ còn không khéo thì suốt cuộc đời tu hành chỉ uổng mà thôi, không làm sao giải thoát được vì không sống độc cư được thì làm sao tu hành được cái gì mà giải thoát. Cho nên mục đích của độc cư nó sâu rộng vô cùng vô tận để mà chúng ta đạt được con đường giải thoát của đạo Phật. Chứ không phải chúng ta sống một mình thì tối ngày làm thinh mà mặt mày chầm dầm, ai đụng tới thì giận thì hờn, ngồi trong thất mà nhớ người này, nghĩ người kia gọi là độc cư. Thì cái đó không phải độc cư, mà là độc mộc chứ không phải độc cư. Cái đó là độc mộc, cô đơn làm cho mình càng khắc khổ hơn, làm cho mình như cây khô sắp hết nhựa thì đó không phải là độc cư. Độc cư thì càng ngày càng nhựa sống, càng sự giải thoát càng tràn đầy trong tâm hồn của chúng ta, đem lại cho chúng ta một niềm an vui vĩnh cửu không bao giờ có một sự gián đoạn. Thật hạnh phúc cho những người nào sống độc cư đúng cách thì sẽ được an vui và yên ổn tâm hồn và thân tâm của họ.

Cho nên cái người bạn tốt mà tìm được thì chúng ta sống chung mà không tìm được thì chúng ta đừng có nên sống chung với những người bạn xấu. Những người đó họ đem đến chúng ta khó khăn tu hành, họ nhiều chuyện, họ chuyện này đến chuyện kia, họ nói lảm nhảm, họ nói chuyện chẳng ra đâu, họ nói chuyện này chuyện kia, họ nói đủ loại. Những người đó là những người chúng ta phải xa để chúng ta tự sống một mình.

Cho nên ở đây Đức Phật ví như một nhà vua mà đã bị chiến bại, đã bị thất trận thì bây giờ chúng ta hãy trả lại cái đất cho người khác, đừng có tham vọng lấy cái đất của người khác. Chúng ta cứ lui dần lui dần mà tránh đi. Những cái người mà không tốt thì chúng ta tránh họ đi cũng như nhà vua mà thấy sức quân đội của mình yếu, sức của mình đang yếu không đủ đương đầu với quân đội mạnh thì chúng ta nên rút lui bỏ đi, bỏ từ xa đi thì may ra chúng ta còn bảo vệ được một chút ít biên cương đất nước của chúng ta. Thì như vậy đức Phật dạy chúng ta tìm người bạn lành, người bạn tốt, người bạn mà biết sống độc cư. Mà tìm không được thì chúng ta hãy sống một mình, đừng có sống với những người không tốt đó thì cuộc đời tu hành chúng ta cũng uổng phí. Cho nên Phật khuyên “hãy sống riêng một mình, như con tê ngưu một sừng”. Trước cái hoàn cảnh mà tìm không được bạn thì chúng ta phải sống một mình mà thôi, nỗ lực thực hiện những lời của Phật dạy, giới luật của Phật đã chỉ dạy thì chúng ta sống một mình để thực hiện con đường tu tập. Còn chừng nào có bạn lành bạn tốt thì chúng ta mới kết bạn để mà noi gương bạn để mà tu hành, cái gì không hiểu thì hỏi bạn. Còn bây giờ chúng ta không có người bạn tốt thì chúng ta nên xa lánh, xa lánh tất cả mọi người vì nhìn chung chúng ta chưa thấy ai là người bạn tốt của chúng ta. Cho nên ở đây quý thầy thấy bài kệ thứ mười ba, Đức Phật dạy chúng ta khi chọn không được người bạn tốt thì chúng ta sống một mình, sống riêng một mình, nỗ lực tu hành một mình theo những điều, những lời của Phật đã dạy.

Bây giờ Thầy đọc Bài kệ thứ mười bốn để cho quý thầy và các con nghe mà suy ngẫm cái bài kệ mà Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta trong một cái khía cạnh để sống độc cư, sống trầm lặng, sống một mình:

Thật chúng ta tán thán

Những bằng hữu chu toàn

Bậc hơn ta bằng ta

Nên sống gần thân cận

Nếu không gặp bạn này

Thì ta phải cố gắng

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Đó thì cái lời khuyên của Phật trong cái bài kệ thứ mười bốn. Khi chúng ta gặp một người thiện hữu tri thức, một người bạn lành, một người hơn ta trên bước đường tu tập theo đạo Phật và bằng ta trên bước đường tu tập theo đạo Phật. Nghĩa là người đó đang sống độc cư, đang sống trong thầm lặng, đang sống trong thiểu dục tri túc, đang ở trong Chánh niệm tỉnh giác, đang tu tập định vô lậu, đang tập bốn Thiền để thực thi con đường giải thoát sanh tử làm chủ luân hồi. Người bạn đó là người bạn tốt. Người bạn mà chúng ta thấy hằng sống trong thầm lặng, hằng sống trong độc cư, không thích nói chuyện, không thích nói chuyện phiếm, nói chuyện tào lao, không thích nói chuyện đông tây kim cổ đó là những người bạn đáng làm gương cho ta tu hành. Cho nên câu đầu Phật nói “Thật chúng ta tán thán. Những bằng hữu chu toàn”, những người mà lo tu tập, những người mà lo rèn luyện trao dồi thân tâm của mình như vậy, đó là những người bạn rất là chu toàn, làm gương cho ta tu hành.

“Bậc hơn ta” đó là những người tu trước ta, và bằng ta là đang tu như ta. Cho nên chúng ta nên gần sống với những người đó để làm bạn thân cận, bắt chước những cái hạnh tu tập của những người này may ra chúng ta mới đạt được con đường tu hành giải thoát. Nếu không gặp được những người bạn này đức Phật khuyên thì chúng ta phải cố gắng sống một mình. Dù trước hoàn cảnh nguy hiểm, dù trước hoàn cảnh khó khăn nào chúng ta cũng nên sống một mình đừng có vui chơi theo những người bạn xấu, những người phá hạnh độc cư, những người làm ồn náo, những người thích vui chuyện thế gian, những người thích nói chuyện tầm phào, chuyện phiếm, chuyện không ra đâu, đó là những người đang ở trong cái tâm dục lạc thế gian. Chúng ta nên tránh xa những người bạn này vì con đường tu tập của đạo Phật rất kỵ với những người bạn xấu này.

Những người sống không độc cư, không trầm lặng, những người còn ham thích vui thế gian mà lại ham thích tu hành thì những người này là những người tham vọng. Đời chẳng muốn bỏ mà đạo thì muốn thêm, những người này là những người không xứng đáng cho chúng ta gần gũi, xứng đáng là những người bạn tốt của chúng ta. Chúng ta hãy lìa xa những người đó mà hãy cố gắng sống một mình.

Cho nên vì vậy mà tu viện cố gắng đào tạo cho các thầy và các con mỗi người một am thất riêng để chúng ta sống một mình trong một cái đại gia đình tu tập. Để chọn lấy những cái việc sống một mình mà tu hành. Còn những người mà sống thích nói chuyện, thích giao du, sống tiếp duyên bằng cách này bằng cách khác thì những người đó là những người không xứng đáng cho chúng ta chơi, làm bạn, cho chúng ta gần gũi. Như vậy trong Tu viện của chúng ta các con đã thấy ai là những người xứng đáng là bạn của mình chưa. Nếu người đó không thích nói chuyện, không thích nói chuyện tào lao, không đem chuyện này chuyện kia, không đến thất người này người kia thì người đó là xứng đáng để chúng ta bắt chước mà tu tập. Còn những người mà thích nói chuyện thì chúng ta thôi thôi, chúng ta nên xa những người đó đi. Những người đó là những người nhiều chuyện, những người ở ngoài thế gian. Phải không các con? Cũng như ở đây, bây giờ quý thầy con thấy còn bao nhiêu người, người nào cũng lo sống độc cư tu tập, người nào cũng lo sống riêng lẻ một mình, người ta sống trầm lặng, người ta nỗ lực tu hành. Còn bao nhiêu cái thứ nói chuyện thì đã bị Thầy quét sạch ra khỏi Tu viện, không để cho một móng nào mà còn ở trong Tu viện này nữa.

Các con thấy rõ chứ? Bên nam thầy đã quét đi sạch là vì Thầy không muốn để những người phá hạnh độc cư, họ đã làm ồn náo Tu viện chúng ta biết bao nhiêu năm nay rồi, bây giờ chúng ta quét họ ra khỏi là chúng ta rất mừng, chỉ để lại một vài người mà quyết tâm thực hiện con đường của đạo Phật để đi đến cái sự giải thoát sanh tử hoàn toàn. Nhìn lại một số rất đông nhưng hiện giờ còn được bao nhiêu người. Nếu trong các con, bên nữ mà các con lấy gương của những người còn lại mà làm gương hạnh tu hành cho mình thì đó là điều quý nhất và cũng là niềm vui nhất cho cô Út vì cô Út buồn vì thấy các con hay thích nói chuyện to, chuyện nhỏ, nói chuyện tào lao không đúng cách.

Đó là những điều mà ở đây đức Phật đã khuyên nhủ trong cái bài kệ thứ mười bốn. Đó là chúng ta tán thán những người, ca ngợi những người mà sống trong hạnh trầm lặng, trong độc cư, trong một mình lo chuyên cần tu tập thì đó là những người bạn xứng đáng. Còn những người bạn không xứng đáng thì chúng ta nên xa lìa.

Bài kệ thứ mười lăm, Đức Phật khuyên chúng ta, bài kệ này Thầy xin đọc để quý thầy và các con suy ngẫm mà thấy cái hạnh độc cư :

Thấy đồ trang sức vàng

Lấp lánh và sáng chói

Được người thợ kim hoàng

Khéo làm, khéo tay làm

Đối với những vật này

Nguy hiểm tự hại thân

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Nghĩa là đức Phật nói rằng, khi mà chúng ta sống một mình thì những cái đồ trang sức, vòng vàng hay hoặc là kim cương hay hoặc là những đá quý, ngọc thì những cái vật này là cái vật nguy hiểm nhất cho những người mà sống độc cư một mình. Vì có những cái của cải tốt này sẽ làm cho chúng ta rất tai hại, có thể người ta giết mình người ta lấy của mình. Cho nên đối với những cái vật này chúng ta thấy đó là một cái điều tai hại, nguy hiểm nhất cho nên chúng ta từ giã nó đi, đừng có cất giữ, đừng có để ở trong người của chúng ta mà nguy hiểm đến thân mạng của chúng ta, làm chúng ta không sống được hạnh độc cư.

Người có của này thì họ ở trong người họ mà họ sống một mình thì các con thấy cái tâm họ có lo không, mà có lo thì có độc cư được không, không độc cư. Cho nên không tiền, không bạc, không của cải, chỉ con ba y một bát như đức Phật ngày xưa thì các con thấy sống ở chỗ nào lại là có lo. Ai có lấy chi mà cái bát bằng đất, bằng sành bao nhiêu tiền, cái bộ đồ tu sĩ mà rách nát, cũng như đức Phật mà làm cái y phấn tảo như vậy, lượm bằng vải thay ma thì có lấy cái y đó bán ai mà mua. Cho nên đức Phật sống quá an ổn, quá giải thoát, luôn luôn tâm lúc nào cũng thấy yên ổn, thanh tịnh. Còn chúng ta có đồ tốt, cái này cái nọ cái kia coi chừng mà chúng ta chúng ta mất độc cư với nó. Chúng ta còn lo ra đó, chúng ta không có gom tâm lại được đâu vì những vật đó nó sẽ làm cho tâm chúng ta bị phân tán, sợ hãi. Ngủ đâu có an, phải không các con? Có vật gì quý, có vàng bạc, có châu báu, có cái này kia thì ngủ khó an lắm, rất là sợ hãi người khác sẽ đến giết mình và cướp đoạt của mình rồi có thể làm nguy hại cho đến tính mạng của mình. Con đường tu của mình thì mất độc cư vì tâm mắc lo ra thì sao mà độc cư được. Đó là bài kệ thứ mười lăm.

Bài kệ thứ mười bốn thì chúng ta khó mà tìm cái người bạn mà tốt, người bạn mà chuyên tu, người bạn mà độc cư, người bạn sống trầm lặng. Còn bài kệ thứ mười lăm thì khuyên chúng ta đừng có vật báu ở trong người, những đồ trang sức đó nó sẽ nguy hiểm đến tính mạng và đồng thời làm chúng ta sống độc cư không có được. Cho nên những cái chuyện nho nhỏ mà chúng ta không thấy thì chúng ta ngỡ đó là mình sống một mình mình, sống độc cư nhưng mà không ngờ những vật dụng nhỏ đó nó đeo theo mình nó làm mình không độc cư được không. Tâm còn lo ra mà sao gọi là độc cư. Phải không các con, các con thấy rõ trong cái vấn đề tu tập coi vậy chứ không đơn giản, nó rất khó đó.

Làm sao mà chúng ta sống cho đúng bởi vì qua bốn mươi hai bài kệ này thì đức Phật chia ra từng cái phần nhỏ để nói lên cái hạnh độc cư, một cái chuyện nhỏ thôi cũng làm chúng ta mất độc cư, cũng làm chúng ta không an ổn ở trong sống riêng một mình.

Bây giờBài kệ thứ mười sáu:

Như vậy nếu ta sống

Với một người thứ hai

Tranh luận cải vã nhau

Sân hận gay hấn nhau

Nhìn thấy trong tương lai

Sợ hãi nguy hiểm này

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Thì ở đây đức Phật nhắn nhủ thêm là chúng ta sống hai người, mà nếu hai người là người bạn tốt, người bạn lành thì rất quý. Mà người bạn mà không tốt, không lành thì sớm muộn gì cũng có những sự tranh luận và cãi vã nhau. Phải không, các con thấy cái đó có đúng không. Rồi có sân, có hận, rồi gây hấn nhau. Nhìn thấy trong cái hiện tại nó như vậy thì cái người bạn sống không độc cư được thì sớm muộn rồi thì thế nào sự tranh cãi, cãi vã nhau cũng phải có, còn cái sự sân hận và gây hấn nhau cũng không thể nào tránh khỏi. Do đó nhìn trong cái tương lai chúng ta biết sẽ xảy ra những cái đó. Vì những người bạn đó là những người bạn không độc cư được. Mà những người bạn không độc cư thì tương lai sẽ không tốt cho bước đường tu tập của chúng ta. Mà khi mà biết rằng nó không tốt cho con đường tu tập của chúng ta thì chúng ta có sợ hãi những cuộc sống mà hai người không, ba người năm người không. Không, chúng ta phải tránh xa đi. Cho nên sợ hãi nguy hiểm này, những cái sự mà sảy ra gây hấn, tranh luận cải vã nhau nó sẽ xảy ra trong tương lai. Bây giờ thì thấy nó thuận đó, nó chưa; nhưng mai mốt mà cái người mà nói chuyện qua lại sớm muộn gì cũng có sự tranh cãi tương lai. Phải thấy hậu quả đó là cái hậu quả của cái người sống không độc cư thì làm sao cũng phải có cái hậu quả đó. Mà cái hậu quả đó thì làm cho chúng ta có yên không. Đâu có yên, cho nên rất là nguy hiểm cho người tu tập. Vì vậy mà Phật khuyên chúng ta hãy sống riêng một mình như tê ngưu một sừng. Đừng có sống với những cái người như vậy. Những người không phải thiện hữu tri thức thì nó sẽ có sự tranh luận mà cãi vã nhau, có sự sân hận gây hấn nhau ở tương lai không sớm thì muộn cũng sẽ có. Có rồi làm chúng ta bất an, có làm chúng ta không độc cư được.

Đó là cái bài thứ mười sáu, Đức Phật khuyên chúng ta đừng có sống với những người mà chúng ta thấy sống không có đúng cái hạnh độc cư trầm lặng.

Bây giờ đến Bài kệ thứ mười bảy:

Các dục thật mỹ miều

Ngọt thơm và đẹp ý

Mọi hình sắc phi sắc

Làm mê loạn tâm tư

Thấy sự nguy hiểm này

Trong các dục trưởng dưỡng

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Thì quý thầy thấy cái bài kệ thứ mười bảy đức Phật khuyên chúng ta nên sống riêng một mình là vì chúng ta sống với những cái vật dụng mà cái này cái nọ cái kia. Các cái dục, các đối tượng dục như sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp như pháp danh, lợi, thực, thùy. Những cái đó là những cái cám dỗ, những cái gợi cho chúng ta cái lòng ham muốn. Đó là những cái pháp dục của thế gian. Nó rất là mỹ miều, nó làm cho chúng ta thấy rất là thích thú, và nó ngon nó thơm và nó làm cho mình thấy nó rất đẹp, làm cho đẹp ý chúng ta. Mọi cái hình sắc và cái không hình sắc đều là có thể nó gợi lên cho chúng ta những cái dục. Nó làm cho chúng ta ham thích, nó làm cho chúng ta ham muốn vì vậy nó làm cho chúng ta mê loạn tâm tư chúng ta không được tỉnh táo, luôn luôn tâm bị giao động theo các pháp trần đó. Do vì vậy đó, nó làm cho chúng ta không sống độc cư được, nó rất là nguy hiểm nó làm chúng ta không có sống trầm lặng được. Nó lôi cuốn chúng ta chạy đầu này, chạy đầu kia, chạy đầu nọ rồi chúng ta lý luận thế này, lý luận thế khác. Đó là để chúng ta chạy theo cái tâm ham muốn của chúng ta, cái tâm dục của chúng ta. Như vậy là cái cuộc đời tu hành chúng ta bị các dục, các dục này là cái ngũ dục lạc, cái dục trần (sắc thinh hương vị xúc pháp), rồi cái ngũ dục (ăn, ngủ, thực, thùy, danh sắc, bệnh) nó cũng đều là làm cho chúng ta bất an, làm chúng ta sống trầm lặng, sống độc cư không được. Cho nên khi mà chúng ta biết nó như vậy đó thì chúng ta hãy tránh xa nó đi, hãy tìm cách mà xa lánh nó đi đừng có ở gần cái thứ đó. Thì ở gần các thứ đó thì chúng ta sống một mình không được đâu, sống riêng tư một mình không được đâu. Cho nên do đó chúng ta phải nỗ lực sống độc cư mà không có chung đụng với những cái dục đó, không có gần gũi những cái dục đó làm chúng ta được giải thoát, tu tập được tốt đẹp, càng ngày càng tiến bộ. Còn nếu mà gần những cái dục đó thì càng ngày càng sa đọa và càng thối chuyển trên bước đường tu tập.

Hôm nay các con thấy rõ ràng tất cả những cái dục như có sáu cái trần sắc thinh hương vị xúc pháp đó là sáu cái trần, nó cám dỗ chúng ta khó mà giữ hạnh độc cư. Năm cái dục lạc của thế gian đó là sắc danh lợi thực thùy, năm cái dục này cũng rất là mạnh, lôi cuốn làm cho chúng ta mê loạn tâm tư, làm chúng ta thấy mất bình tĩnh, tĩnh giác, mất chánh niệm, làm chúng ta say đắm, trưởng dưỡng làm chúng ta chạy theo các dục, trưởng dưỡng các dục lớn lên cho nên chúng ta mất cái hạnh độc cư. Vì vậy mà chúng ta quyết định phải sống một mình để tránh xa những cái dục này, các pháp dục này nó làm cho tâm chúng ta mê loạn, điên cuồng mà không còn sáng suốt nữa, không còn tỉnh thức ở trong cái chánh niệm nữa. Thì như vậy thì chúng ta quyết tâm khép chặt mình ở trong cái hạnh độc cư, cái sống một mình để chúng ta diệt trừ các dục. Còn không khéo thì chúng ta sẽ bị các dục lôi cuốn và con đường tu của chúng ta mất đi. Cho nên cái người mà muốn hàng phục được các dục, ly dục ly ác pháp như trong kinh Phật đã dạy nhập Sơ thiền. Mà muốn ly được các dục này chỉ có hạnh độc cư thì mới có thể ly dục. Thì cái bài này đức Phật muốn chỉ rõ rằng chúng ta muốn xa lìa các dục, muốn ly các dục thì phải sống riêng một mình như tê ngưu một sừng. Thầy đọc lại cái bài kệ này, quá thấm thía. Bởi vì khi mà vào đầu tu theo đạo Phật thì các con với các thầy cũng đã thấy rằng Phật dạy ly dục, ly bất thiện pháp nhập Sơ thiền. Mà cái bài kệ này để nhắn nhở chúng ta phải sống độc cư. Nhờ sống độc cư mới có ly dục ly ác pháp được.

Đây, Thầy đọc lại cho nghe:

Các dục thật mỹ miều

Ngọt thơm và đẹp ý

Mọi hình sắc phi sắc

Làm mê loạn tâm tư

Thấy sự nguy hiểm này

Trong các dục trưởng dưỡng

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Rõ ràng các con muốn ly dục thì các con phải sống một mình, phải sống độc cư đó. Đó, thì vì vậy bài kệ đức Phật muốn chúng ta ly các dục thì chúng ta phải sống độc cư.

Đến đây Thầy đọc Bài kệ thứ mười tám.

BĂNG SỐ 60

Xinquý thầy chấp tay lên niệm hồng danh Đức Bổn Sư để tưởng nhớ công ơn của Người.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

Quý thầy đã niệm Phật xong, hãy nghe nối tiếp bài học hôm qua. Bây giờ Thầy đọc lại bài kệ thứ mười tám để quý thầy và các con nghe và suy ngẫm cho kỹ.

Bài kệ thứ mười tám:

Đây là một mụtnhọt

Và cũng là tai họa

Mũi tên là tật bệnh

Là sợ hãi cho ta

Thấy sự nguy hiểm này

Do các dục trưởng dưỡng

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Cái bài kệ này đức Phật xem các pháp, các pháp mà dục của thế gian mà được trưởng dưỡng thì nó như cái mũi tên mà đâm vào tim của chúng ta và nó là những sự sợ hãi cho ta, nó là những cái sự nguy hiểm và những cái sự tai họa cho ta chứ không phải. Chúng ta xem dục, các lòng ham muốn của chúng ta như là cái mụt nhọt, như là cái tai họa, như là cái bệnh tật, như là cái mũi tên đâm vào tim của chúng ta. Cho nên cái sự nguy hiểm, cái sự sợ hãi này, đối với các dục trưởng dưỡng này chúng ta phải sợ hãi. Vì nếu mà chúng ta không sống độc cư, không sống một mình được thì các dục này nó sẽ bị nuôi lớn. Cho nên cái bài kệ thứ mười bảy thì đức Phật xác định rằng muốn ly dục, ly ác pháp thì chúng ta hãy sống riêng một mình. Và đức Phật lại sợ chúng ta chưa thấy cái sự nguy hiểm của các dục cho nên cái bài kệ thứ mười tám thì Phật cho chúng ta biết thêm các dục nó như là cái mụt nhọt. Cái mụt nhọt có nghĩa là nó đau, nó nhức, nó khổ sở lắm. Nó là tai họa, các dục nó là cái tai họa nó sẽ đem đến cho chúng ta cái khổ. Cái lòng ham muốn của chúng ta nó sẽ đem đến cho chúng ta cái khổ. Nó giống như cái mũi tên nó đâm suốt vào con tim của chúng ta, nó làm chúng ta đau đớn lắm. Và bệnh tật - nó là tật bệnh, nghĩa là luôn luôn nó đem đến cái sự đau khổ. Nó là cái sự sợ hãi - các dục đó nó làm chúng ta sợ hãi cái này sợ hãi cái khác. Nó là cái sự nguy hiểm nhất cuộc đời của chúng ta. Cho nên nó là nguyên nhân đau khổ như ở trong Tứ diệu đế (cái Tập đế). Nguyên nhân đau khổ là cái dục, cái lòng ham muốn của chúng ta.

Như vậy vì muốn mà khắc phục cái lòng ham muốn này, ức chế được cái lòng ham muốn này chỉ duy nhất chúng ta phải sống riêng một mình. Mà nếu không sống riêng một mình thì không bao giờ mà chúng ta hàng phục được cái tâm dục này (cái lòng ham muốn này). Cho nên cố gắng mà sống riêng được một mình thì chúng ta mới ly được dục, mới ly được ác pháp.

Đó là cái bài kệ để xác định cho chúng ta muốn nhập được cái sơ thiền là ly dục ly ác pháp nhập sơ thiền. Mà muốn sống được mà ly dục ly ác pháp là phải sống độc cư, phải sống riêng rẻ, phải sống một mình thì mới có ly dục được. Hai cái bài kệ này có một cái giá trị rất lớn cho chúng ta tu tập thiền định của đạo Phật. Nếu chúng ta sống không đúng thì chúng ta không bao giờ thực hiện được con đường thiền định này. Mà chúng ta sống đúng thì tức là chúng ta sẽ thực hiện được con đường thiền định. Mà sống độc cư không có nghĩa là chúng ta giam mình trong cái thất gọi là nhập thất rồi nỗ lực tu cái này cái kia đâu. Chúng ta sống ở trong đó, độc cư một mình mà chúng ta sống biết cách sống chứ không phải là không biết cách sống. Sống biết cách cho nên cái tâm của chúng ta nó cởi mở, nó vui, nó thích thú, nó âm thầm, nó lặng lẽ mà nó có một cái niềm hân hoan của cái sự ly dục, ly bất thiện pháp. Cho nên Phật nói ly dục, ly bất thiện pháp nhập sơ thiền. Do ly dục sanh hỷ lạc, do cái ly dục đó, do cái sống độc cư đó mà ly được cái dục rồi thì nó đem đến cho chúng ta một cái sự an lạc, sự hạnh phúc vô cùng, cái sự thích thú mà liên tục không có phút nào mà ngừng nghỉ cái sự an lạc đó, cái sự hỷ lạc đó.

Thì bài kệ thứ mười tám này đức Phật nhắc các dục nó như là cái mụt nhọt, cái mụt đau đớn, nó là cái tai họa, nó là cái mũi tên độc, nó là cái bệnh tật, nó là cái niềm sợ hãi của chúng ta và nó cũng là cái sự nguy hiểm nhất cho cái đời sống của con người, của tất cả con người ở trong cái thế gian này. Nhưng người ta không biết, người ta chạy theo nó để mà nuôi cái dục, trưởng dưỡng càng ngày càng lớn thì cái sự đau khổ của họ càng nhiều. Cho nên chúng ta quyết định là ly nó thì quyết định ly nó thì phải ly bằng cách nào? Tức là chúng ta phải sống độc cư, phải sống riêng một mình. Mà sống riêng một mình thì mới có ly được nó.

Đó hai bài kệ Đức Phật xác định cho chúng ta thấy rằng muốn mà sống độc cư, đó là cách thức mà chúng ta sống để mà chúng ta ly dục ly ác pháp đó. Đó thì từ cái bài kệ này, hai bài kệ này chúng ta thấy rất rõ là cái lối tu tập của chúng ta mà Thầy thường nhắc cho quý thầy cũng như các con nghe. Bí quyết thành công của thiền định là phải sống độc cư. Phải không? Thầy đã nhắc từ lâu mà, đâu phải mới đây. Cho nên không sống độc cư làm sao ly dục ly ác pháp mà gọi là thiền định. Mọi người người ta vẫn hô ngồi thiền, nhập định, hít thở; nào sổ tức tùy tức, nào là tịnh chỉ, nào là thiền Minh sát tuệ, nào là thiền Công án, nào là thiền Tổ sư thiền, nào là biết vọng liền buông, nào là chẳng niệm thiện niệm ác, nào là ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm... Người ta nói đủ loại đủ thiền, người ta nói ly cái này, ly cái kia, ly cái nọ nhưng cuối cùng thì người ta không thấy được cái mấu chốt, cái bí quyết của sự thành công của thiền định. Cái bí quyết của sự thành công của thiền định đâu có gì khó hơn là chúng ta sống độc cư, sống một mình, sống có pháp tu hành, có cách thức tu tập, có cách thức rèn luyện, có giới luật để phòng hộ sáu căn, có cách thức để mà tạo tu tập, cho nên độc cư mà chúng ta thấy chúng ta sống một mình mà chúng ta thấy sống rất là an ổn, rất là giải thoát, rất là an vui. Chớ đâu phải sống không có pháp, chúng ta sống có cách thức, có đủ cách để mà chúng ta tu hành giải thoát mà.

Như vậy là quý thầy đã thấy rõ con đường tu tập của đạo Phật đâu có gì mà đức Phật dấu diếm chúng ta đâu. Chính những cái bí quyết đó mà đức Phật đã nói lên những cái bài kệ khuyên lơn chúng ta bằng cách này bằng cách khác để chúng ta thực hiện được cái hạnh độc cư mà chúng ta ly lìa xa tất cả mọi cái dục của thế gian, mọi cái cám dỗ của thế gian, mọi cái ràng buộc của thế gian làm chúng ta không có thực hiện được con đường giải thoát, tu tập được con đường giải thoát. Cho nên cái hạnh độc cư là cái bí quyết mà thành công trên con đường của đạo Phật.

Nhưng phải hiểu hai chữ độc cư, đừng có hiểu nó bằng một cách cạn cợt mà hiểu nó một cách rộng rãi và sâu xa. Qua bốn mươi hai bài kệ này rất là cụ thể, rõ ràng để chúng ta biết được cái hạnh độc cư cao quý và tuyệt vời của con đường tu theo đạo Phật.

Bây giờ Thầy giảng tiếp, Thầy sẽ đọc cái bài kệ thứ mười tám:

Đây là một mụt nhọt

Và cũng là tai họa

Mũi tên là tật bệnh

Là sợ hãi cho ta

Thấy sự nguy hiểm này

Do các dục trưởng dưỡng

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Ở đây đức Phật xem các cái dục, xem các lòng ham muốn của mình nó như là cái mụt nhọt, như cái mụt nhọt đang mưng mũ, đang đau nhức đang làm khổ sở mình và xem nó là những cái tai họa. Các dục trưởng mà trưởng dưỡng nuôi nó lớn mà chạy theo nó. Như bây giờ mà chúng ta thấy sống ở trong thất của mình có một mình mình, sống riêng một mình buồn bã này kia. Đó là cái dục nó muốn chúng ta bỏ để phá độc cư, bỏ ra đi hoặc là đi đây đi đó để mà cho vui, nó tìm bằng cách này bằng cách khác, đó là cái dục nó trưởng dưỡng.

Ví dụ như nó sanh ra những cái bệnh tật, hoặc những cái này cái nọ kia hoặc là cái mục đích của nó làm cho mất độc cư. Mà tâm của chúng ta bị dao động theo những cái trạng thái thân nghiệp của nó. Nó bệnh sơ sài, nó bị bệnh vừa thôi mà chúng ta quá là quan trọng, coi quá quan trọng. Tâm chúng ta bị dao động xem như là chúng ta không có tu hành được, làm cho chúng ta trở ngại như vậy để mà phá cái hạnh độc cư. Mà khi mà chúng ta không thấy những cái dục mà nó đã tạo ra những cái cách sợ hãi, những dao động tâm để làm chúng ta không còn cô đơn nữa, làm chúng ta vui theo thế gian, trưởng dưỡng theo cái lòng vui của thế gian. Thì lúc bây giờ đó chúng ta không thấy nó là cái tai họa, nó không phải là một cái mũi tên độc đâm xuyên vào quả tim của chúng ta, xuyên vào thân của chúng ta. Cho nên phải xem cái lòng ham muốn của chúng ta là cái tật bệnh muôn đời của con người. Vì thế mà chúng ta phải sợ hãi, sợ hãi nó, sợ hãi cái lòng ham muốn của nó. Nó đi qua quốc độ này nó đi qua quốc độ khác để phá cái hạnh độc cư của chúng ta. Cái hạnh mà có thể chúng ta ly dục ly ác pháp được.

Nếu mà chúng ta không giữ trọn được cái hạnh độc cư thì khó mà có thể chúng ta đạt được cái kết quả. Cái kết quả mà chúng ta sẽ thực hiện được cái sự giải thoát bằng cái hạnh độc cư. Cho nên nếu mà chúng ta thấy nó là sự nguy hiểm, thấy các lòng ham muốn của chúng ta mà nuôi lớn, trưởng dưỡng nuôi lớn nó lên thì đó là nó nguy hiểm, rất là nguy hiểm. Thì chúng ta thấy được nguy hiểm thì chúng ta ngăn chặn liền, quyết tâm ôm chặt, sống hạnh độc cư, hoàn toàn là sống một mình để chúng ta thực hiện cho được sự giải thoát. Mà sự giải thoát này là cái gì, là cái ly dục ly ác pháp. Lìa ra, xa nó lìa ra. Mà lìa ra được tức là phải sống một mình, sống trầm lặng. Còn nếu mà chúng ta lìa xa nó không được thì chúng ta khó; khó mà sống, khó mà đạt được cái đạo giải thoát của đạo Phật. Bởi vì sống không được độc cư thì không thể nào mà tu hành cái gì được nữa hết.

Cho nên qua cái bài kệ thứ mười tám này thì đức Phật nhắc nhở chúng ta phải xem như các cái dục, các cái lòng ham muốn của chúng ta nó như là cái mụt nhọt, nó đau nhức, nó khổ sở, nó là cái tai họa mang đến cho chúng ta nhiều cái sự khổ, nó là mũi tên đâm suốt qua trong ta. Nó là tật bệnh, nó đem đến cho chúng ta nhiều cái đau khổ. Cho nên xem nó là cái tật bệnh - nghĩa là khi mà thân tâm chúng ta nhức mỏi, đau chỗ này, đau chỗ kia thì nó cũng làm cho chúng ta dao động và trưởng dưỡng cái dục của nó. Nó chạy đầu này đầu kia, đi xem bác sĩ hoặc là đi thầy này thầy kia đều là phá hạnh độc cư của chúng ta. Cho nên đức Phật nói trước cái thọ chúng ta đừng có dao động tâm, mà hãy xem như chúng ta đã chết đi rồi, chúng ta quyết tâm, quyết tử ôm chặt thì chắc chắn những cái nghiệp của chúng ta nó không phải là đến lúc này nó chết đâu. Chưa phải lúc mà nó chết thì nó sẽ thua chúng ta và nó sẽ bại trận và vì vậy mà chúng ta sẽ giữ gìn trọn vẹn cái hạnh độc cư. Cho nên cái người tu hành người ta rất sợ hãi các đối tượng dục trong đó có cái thọ nó câu hữu với các cái khác mà nó làm chúng ta mất cái hạnh sống riêng một mình, mất cái hạnh độc cư. Cho nên ở đây quý thầy và các con phải thông suốt được cái lý của cuộc sống của chúng ta hàng ngày trên cái bước đường tu tập để chúng ta giữ cho trọn vẹn cái độc cư thì chúng ta mới có thể mang đến cái kết quả của cái sự tu tập. Nếu mà không có thực hiện được như vậy đó thì khó mà thành tựu được cái hạnh độc cư.

Cho nên cái bài kệ mười tám này đức Phật bảo chúng ta phải xem nó rất là nguy hiểm, phải xem nó là tai họa, phải xem nó là bệnh tật, phải xem nó là mũi tên độc, luôn lúc nào tâm chúng ta cũng sợ hãi nó, xem nó như là cái mụt nhọt đau làm cho chúng ta đau nhức từng phút từng giây. Thì chúng ta mới sống được cái hạnh độc cư. Còn nếu không thì khó mà chúng ta sống hạnh độc cư.

Thì nhớ Thầy đọc lại cái bài kệ này để cho quý thầy suy ngẫm lời của Phật dạy. Xem các dục trưởng dưỡng của chúng ta, hay lòng ham muốn của chúng ta rất là nguy hiểm. Nó làm cho chúng ta sống không có trọn vẹn được cái hạnh độc cư. Nó làm chúng ta sống không trọn vẹn được cái tâm hợp nhất, nó làm cho cái tâm của chúng ta bị phân tán, chia ra khó mà thực hiện con đường thiền định (bốn thiền định) của Phật.

Đây Thầy đọc lại cho quý thầy nghe một lần nữa:

Đây là một mụt nhọt

Và cũng là tai họa

Mũi tên là tật bệnh

Là sợ hãi cho ta

Thấy sự nguy hiểm này

Do các dục trưởng dưỡng

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Nghĩa là chúng ta hãy sống một mình, đừng có sợ hãi đối với các dục, đối với bệnh tật, đối với tai họa, đối với cái mụt nhọt đang nung mũ đang nhức nhối, đang khổ sở. Chúng ta đừng dao động mà hãy sống một mình, đừng có nương tựa vào ai hết, đừng có nương tựa vào cái sự kiện nào hết để cho chúng ta được sống độc cư, được thực hiện được sự giải thoát, chấm dứt được sự tái sanh luân hồi. Đó là bài kệ thứ mười tám.

Bây giờ Thầy sẽ đọc tiếp Bài kệ thứ mười chín:

Lạnh lẽo và nóng bức

Đói bụng và khát nước

Gió thổi, nóng mặt trời

Muỗi lằng và rắn rít

Tất cả xúc chạm này

Chịu đựng hãy vượt qua

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng

Bây giờ đức Phật nói về thời tiết, rồi nói về cái sự không có cơm ăn, không có nước uống, rồi nói về cái sự gió thổi ầm ầm, nói về cái nóng bức của mặt trời; rồi muỗi lằng, rồi rắn rết, tất cả những cái loài súc vật dữ, độc. Tất cả những cái sự xúc chạm này nó làm cho tâm chúng ta sợ hãi, làm cho tâm chúng ta dao động khó mà sống một mình được. Đây đức Phật đầu tiên nói cho chúng ta thấy rõ ràng. Sự lạnh lẽo và sự nóng bức cũng làm cho chúng ta không thể nào mà sống độc cư được. Chúng ta phải chạy đi tìm cái này cái nọ cái kia để rồi bị dao động tâm. Rồi đói bụng, rồi khát nước nó cũng đều làm cho chúng ta có cái sự dao động mà không sống được hạnh độc cư. Ở cái chỗ gió thổi dữ tợn ầm ầm, rồi mặt trời thì nóng gay gắt chịu không nổi thì đó là những cái khiến cho ta không thể nào mà sống một mình được, sống độc cư được. Muỗi lằng và rắn rít cũng là những cái loài làm cho chúng ta sợ hãi mà chúng ta không dám sống một mình mà phải đi tìm sống với người này hoặc người kia để đừng có sợ hãi. Thì tất cả những cái này nó cũng đều làm chúng ta mất cái sự độc cư.

Bởi vì những cái sự xúc chạm như xúc chạm lạnh lẽo, nóng bức nè, đói bụng nè, gió thổi ầm ầm nè, mặt trời nóng nè, muỗi lằng, rắn rít trước mặt chúng ta thấy những cái loài vật hung dữ này chúng ta quá sợ hãi cho nên không thể nào mà sống một mình. Ở đây đức Phật nói “Tất cả xúc chạm này, Chịu đựng hãy vượt qua” - chúng ta phải cố gắng mà chịu đựng để vượt qua những cái khó khăn này để sống một mình cho đúng, như con tê ngưu một sừng.

Đó thì ở cái bài kệ này đức Phật đem lại cho chúng ta thấy thời tiết rồi cái sự đói khát, rồi những cái sự rắn rít độc đem đến cho chúng ta có những bệnh tật, những cái này cái kia. Làm cho chúng ta có những cái sự sợ hãi mà không thể nào sống độc cư được. Mà muốn được vậy thì chúng ta phải gan dạ, phải đủ nghị lực, phải chiến đấu lại trước cái nghịch cảnh đó, trước cái thời tiết lạnh lẽo và nóng bức. Cho nên chúng ta phải chiến đấu, chiến đấu tận cùng để chúng ta vượt qua, vượt qua cho được nhất định chúng ta phải sống cho được độc cư.

Vì tất cả những cái này đều là cái môi trường, cái đối tượng tạo cho cái tâm sợ hãi của chúng ta để mà nuôi lớn tâm dục của chúng ta. Cái tâm, cái lòng ham muốn của chúng ta. Muốn gì? Muốn đừng có lạnh lẽo, muốn đừng có nóng bức, muốn đừng có đói bụng, muốn đừng có khát nước, muốn đừng có gió thổi ầm ầm dữ tợn, muốn cái chỗ nào mà nó không có sợ, muốn cho mặt trời không có nóng bức nực nội nè, muốn cho chỗ đó không có rắn rít, không có những cái loài thú vật độc. Chúng ta muốn những cái đó để chúng ta được yên ổn tu hành chứ gì. Nhưng sự thật ra khi mà cái muốn này để mà tránh né nó thì chúng ta khó mà có thể độc cư được, khó có thể sống một mình được. Vì cái tâm dao động, cái tâm sợ hãi này là cái tâm không thể nào sống riêng một mình được. Nó phải tìm có bạn có bè, có người này người kia. Vì chính những cái đối tượng này, cái hoàn cảnh này, cái thời tiết này nó làm cho chúng ta sợ hãi, làm chúng ta phải đi tìm có những người sống để nương tựa với nhau, sống bên nhau.

Cho nên cái người mà sống một mình là cái người phải đầy đủ nghị lực gan dạ. Hầu hết con người đều là cái tâm hồn đều là sợ hãi cho nên họ phải tập trung nhau để thành những cái bộ lạc, để thành những cái xóm, cái ấp, cái làng để sống nương tựa vào nhau có người này người kia mà không có sợ. Do chỗ đó đó mà con người không còn có cái sự tự do nữa, không còn có cái sự sống riêng một mình được. Vì thế mà nó mới sống tập thể với nhau, sống chung nhau thì nó có sự trộm cắp, tham lam, đánh lộn, chửi lộn, mắng lộn, nó tạo ra muôn vàn thứ đau khổ. Còn cái một người mà sống một mình ở trong rừng trong núi trong non không có ai thì làm sao có mắng lộn, chửi lộn, có lấy của ai đâu.

Còn sống gần bên nhau, nương tựa với nhau để đỡ sợ hãi những cái sự thời tiết hay là thú dữ, hoặc là đói khát hoặc là ruồi lằng, hoặc là những cái bệnh tật này bệnh tật kia sảy ra. Một mình thì sợ chết cho nên vì vậy phải sống gần nhiều người, có người này người kia để khi tối lửa tắt đèn có nhau nhưng trái lại nó lại đưa chúng ta đi đến những cái khổ đau, cái khổ đau vô cùng là có nhiều người xảy ra nhiều thứ chuyện trộm cắp, mắng chửi, đánh lộn đánh lạo đủ thứ.

Do có cái xã hội, có cái tập thể, có cái xã hội, có một nước non rồi phải có một cái luật cho nên người ta mới có thể giữ gìn trật tự an ninh được. Còn nếu mà không có pháp luật, không có cái giữ gìn an ninh trật tự thì người này giết người kia, người kia giết người nọ vì cướp của với nhau thì ai mà cư xử cho được. Cho nên đất nước phải có vua chúa, phải có chính phủ, phải có công an, cảnh sát để giữ gìn trật tự an ninh. Vì đối với cái tập thể này để không khéo nó sẽ chà đạp lên nhau và làm cho nhiều cái đau khổ.

Trái lại, người tu chúng ta sống riêng lẻ một mình, sống độc cư cho nên chúng ta thoát ra khỏi được cái cảnh mà gần gũi với mọi người. Mà gần gũi với mọi người thì chúng ta biết rõ mà đâu có một cái gì mà an ổn được. Người thì ý dì kẻ thì ý khác, mọi mặt đưa đến chúng ta rất là đau khổ. Nhưng mà vì chúng ta là người không có nghị lực, không có gan dạ­­­­­, không có bền chí cho nên chúng ta trước những cái thời tiết lạnh lẽo, nóng bức, trước những thú vật hung dữ, trước những cái đói bụng đói khát này chúng ta không có thể nào mà làm chủ được mình. Do vì vậy mà chúng ta phải sống tìm lại, nương tựa với nhau sống có tập thể để không có sợ hãi trước những cái thời tiết, trước những cái thú dữ, trước những cái bệnh tật, tai họa đem đến cho chúng ta thình lình khi mà sống một mình.

Đó thì cái bài kệ thứ mười chín thì đức Phật nêu lên để chúng ta thấy được cái thời tiết, rồi cái sự đói khát, rồi cái sự gió bão, rồi cái nóng bức của mặt trời, rồi cái muỗi lằn, rắn độc, rít, tất cả những cái loài thú dữ nè. Đó là những cái điều mà đức Phật nêu lên để thấy rằng nếu mà chúng ta không có gan dạ, không có cái bền chí, không có cái nghị lực thì chắc chắn chúng ta sẽ không sống độc cư được. Mà không sống độc cư được thì chúng ta khó mà ly dục ly ác pháp. Mà khó ly dục ly ác pháp thì không bao giờ mà có thể giải thoát được sanh tử luân hồi.

Cho nên ở đây phải thấy là cái dục nó tùy theo những cái hoàn cảnh, những cái thời tiết, những cái đối tượng mà nó khởi lên những cái lòng trưởng dưỡng, cái lòng dục của chúng ta. Trước những cái sợ hãi, lo lắng cũng do cái lòng ham muốn của chúng ta. Muốn gì? Muốn sống sợ chết. Do cái sự muốn sống sợ chết này nó trước những cái tai họa, những cái khó chịu, cái sợ những vật độc hung dữ thì làm chúng ta sợ hãi, từ đó chúng ta sống một mình không dám. Do vì vậy mà chúng ta chạy theo cái sự sợ hãi đó mà chúng ta sống với tập thể. Mà sống trong tập thể thì chúng ta làm sao mà giải thoát được cái tâm ly dục ly ác pháp này. Đó là cái bài kệ thứ mười chín.

Cho nên một cái người nào tu theo đạo Phật thì phải có nghị lực, phải có gan dạ, chịu đựng thì nó sẽ vượt qua tất cả những khó khăn này. Mà khi vượt qua những khó khăn này thì chúng ta sống riêng một mình như con tê ngưu một sừng.

Bây giờ Thầy đọc lại cái bài kệ thứ mười chín để các thầy và các con chiêm nghiệm lại lời của Phật dạy ở trong cái bài kệ này:

Lạnh lẽo và nóng bức

Đói bụng và khát nước

Gió thổi, nóng mặt trời

Muỗi lằng và rắn rít

Tất cả xúc chạm này

Chịu đựng hãy vượt qua

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bây giờ Thầysẽ giảng tiếp cái Bài kệ thứ hai mươi để thấy đức Phật khuyên chúng ta giữ gìn cái hạnh độc cư như thế nào.

Thầy xin đọc cái Bài kệ thứ hai mươi:

Như con voi to lớn

Từ bỏ cả bầy đàn

Thân thể được sanh ra

To lớn tựa hoa sen

                                          Tùy theo sự thích thú                  

Sống tại chỗ rừng núi

Phải sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Đây, bây giờ đức Phật khuyên chúng ta “Như một con voi to lớn” - nghĩa là chúng ta như một con voi to lớn, chúng ta chẳng có sợ gì. Một người tu theo đạo Phật mà không xem mình to lớn thì không bao giờ có thể thực hiện được con đường này. Phải xem mình là cái người vĩ đại, cái người to lớn. Vượt qua tất cả những cái khó khăn, những cái sự ràng buộc để thực hiện được hạnh độc cư, cái sự sống một mình. Cho nên đức Phật ví mình như con voi to lớn, từ bỏ cả bầy đàn. Đó là chúng ta lìa khỏi cái xã hội loài người, lìa khỏi mọi người, lìa khỏi những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta không sợ hãi, chúng ta đầy đủ những nghị lực để chiến đấu chống lại sống một mình mình, chúng ta thực hiện được độc cư. Cho nên “Như con voi to lớn” - chúng ta “từ bỏ cả bầy đàn”.

Thân thể được sinh ra.

To lớn tựa hoa sen

Thân thể chúng ta được sanh ra như vậy thì chúng ta phải thực hiện cái sự to lớn của nó, mà trong sạch của nó như một cái hoa sen, chẳng có sợ một cái gì cả hết. Ở đây Phật ví thân thể được sanh ra - to lớn như hoa sen. Nghĩa là thân thể của chúng ta được sanh ra làm người thì chúng ta phải biết nó, phải bảo nó, bảo nó cho nó thoát ly ra được, sống độc cư được để cho nó thoát ly, ly dục ly ác pháp, thoát ly ra cái bầy đàn, cái tập thể của nó để cho nó to lớn và thanh tịnh, trong sạch như hoa sen.

Còn nếu mà nó sống ở trong cái tập thể cái xã hội, thì cái xã hội là cái xã hội ô nhiễm, cái xã hội dục lạc, cái xã hội độc ác, cái xã hội ác pháp thì không thể nào như cái hoa sen được. Cho nên từ ở trong những cái bùn nhơ cũng như chúng ta sống ở trong cái xã hội đầy bao nhiêu sự dẫy đầy bất công, bao nhiêu sự đau khổ, bao nhiêu ác pháp ở trong đó. Thế mà chúng ta vượt ra sống độc cư một mình thì đó là tựa như hoa sen.

Thân thể chúng ta sinh ra trong một cái tập thể nhưng chúng ta vượt ra cái tập thể ô nhiễm, cái tập thể uế trượt, cái tập thể ác độc, cái tập thể ác pháp. Thì lúc bấy giờ chúng ta như là một cái hoa sen vượt lên trên mặt nước, vượt lên trên bùn hôi thúi của nó. Vì khi mà vượt ra được như vậy thì chúng ta mới sống cái hạnh độc cư. Mà sống cái hạnh độc cư thì chúng ta nỗ lực thực hiện tu tập các pháp môn Phật đã dạy tu tập. Thì đó là tùy theo sự thích thú. Bây giờ mình muốn, trên cái muốn của mình mình muốn giải thoát cho nên mình tùy theo cái sự tu tập của mình nó tạo cho mình có những sự an lạc, vui thú của cái sự độc cư. Còn nếu mà chúng ta không thấy được cái sự an lạc, vui thú trong hạnh độc cư thì khó mà chúng ta ly dục ly ác pháp; chúng ta trở về cái dục lạc của thế gian.

“Sống tại chỗ rừng núi”- nghĩa là chúng ta sống ở chỗ nào yên ổn, độc cư tu một mình; không có sống ở trong cái thành phố hay cái chòm cái xã cái ấp có nhiều người như vậy không có đúng cái hạnh độc cư, sống đúng cái hạnh độc cư. Mà muốn sống đúng cái hạnh độc cư thì như con voi sống ở chỗ rừng núi xa vắng nào đó, rồi tùy theo các pháp mà nỗ lực tu hành thì nó đem lại cái sự trầm lặng, cái sự an vui, cái sự ly hỷ, ly các trạng thái dục, ly các ác pháp được rồi thì nó có cái hỷ lạc do cái sự ly dục này mà nó sanh ra. Làm chúng ta thấy thích thú, an lạc trong cái độc cư của chúng ta. Cho nên ở đây Phật khuyên chúng ta thì hãy sống riêng một mình, như tê ngưu một sừng.

Thầy xin nhắc lại bài kệ này “Như con voi to lớn. Từ bỏ cả bầy đàn” - như chúng ta từ bỏ cái xã hội của chúng ta. Xã hội loài người ô nhiềm, uế trượt, hung dữ, hung ác. Thân thể được sanh ra to lớn tựa hoa sen - thân thể của chúng ta được sanh ra trong cái nhân quả đầy những ác trược, đầy những cái hôi thúi, đầy những cái bẩn thỉu mà chúng ta vượt ra cho được thì như là cái hoa sen to lớn, rất là thanh tịnh. Rồi tùy ở nơi trong rừng yên lặng, nơi cái chỗ mà độc cư một mình đó, tùy theo những cái sở thích của chúng ta mà chúng ta thực hiện con đường tu tập. Hãy sống riêng một mình như tê ngưu một sừng.

Đó thì quý thầy đã thấy, các con đã thấy được cái lời của Phật dạy trong bài kệ hai mươi này. Chúng ta vượt ra khỏi bầy đàn. Tức là chúng ta vượt ra khỏi xã hội, của sự trói buộc của gia đình, của xã hội, của mọi người để chúng ta thực hiện cái sự sống độc cư, cái sự sống riêng một mình để chúng ta thực hiện con đường giải thoát của đạo Phật ly dục, ly ác pháp. Đó là cái bài kệ hai mươi.

Bài kệ hai mươi mốt, Thầy xin đọc Bài kệ hai mươi mốt:

Ai ưa thích hội chúng

Người ấy khó tu hành

Làm sao chứng Niết bàn

Giải trừ các cảm thọ

Cân nhắc lời giảng dạy

Từ bỏ nơi đông đảo

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bài hai mươi mốt này đức Phật xác định rất rõ ràng để cho thấy cái người tu theo đạo Phật phải thực hiện cho bằng được cái hạnh độc cư. Nếu mà cái người ưa thích vui ở trong những các hội chúng, sống ở trong cái tập thể của xã hội có nhiều người thì người ấy khó mà tu hành con đường giải thoát. Đọc đức Phật đã xác định như vậy. Nè, đây Thầy đọc hai câu kệ đầu. “Ai ưa thích hội chúng” - tức là hội họp, thích coi hát, thích chơi, thích bạn bè, thích nói chuyện này kia, chuyện kia với người này người nọ người kia, “Người ấy khó tu hành”. Người ấy không tu hành được, nói khó có nghĩa là tu không có được. Cho nên cái người mà thích sống một mình, thích trầm lặng là cái người tu được. Mà cái người thích vui, thích hội chúng, thích hội họp, thích đi chơi chỗ này chỗ kia; ngồi tu vài bữa thích đi chỗ này chỗ kia cho nó thoải mái đó, cái người đó tu không được. Phải nói rằng cái người đó không có duyên tu với đạo Phật.

Cho nên khi mà chúng ta biết được tâm trạng chúng ta mà thích thú vui chơi như vậy thì chúng ta đừng có tu theo đạo Phật làm chi. Vì chúng ta có tu cũng chẳng tới đâu hết. Mất thì giờ vô ích, bỏ cuộc đời chúng ta cũng chẳng ra gì hết. Cho nên người mà thích vui là cái người thích hội họp, thích nói chuyện, thích đi chỗ này chỗ kia thì những người đó là người không thể theo con đường của đạo Phật được.

Cho nên đức Phật xác định làm sao chứng niết bàn, giải trừ các cảm thọ. Nghĩa là làm sao mà chúng ta chứng được cái chỗ giải thoát đâu, làm sao mà chúng ta giải trừ các cảm thọ chúng ta được. Các cảm thọ: thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ thì tất là những cảm thọ này nó làm chúng ta đau khổ, ham thích. Tất cả những cái này đem đến cho chúng ta bao nhiêu là sự đau khổ. Mà nếu mà chúng ta thích hội họp như vậy thì chúng ta không thể nào mà giải trừ được cái cảm thọ, các cái đau khổ này. Cho nên chúng ta không thể nào mà đi vào con đường giải thoát được.

Cân nhắc lời giảng dạy.

Từ bỏ nơi đông đảo

Nghĩa là qua cái bài kệ của Phật chúng ta phải cân nhắc cho kỹ lưỡng những cái lời giảng dạy này, những cái lời mà giảng dạy của Phật, những bài kệ của Phật nhắc đi nhắc lại, cân nhắc cho kỹ. Nếu mà chúng ta đã quyết tâm theo con đường của đạo Phật để tu hành giải thoát thì chúng ta phải từ bỏ những cái nơi đông đảo, từ bỏ hội họp, từ bỏ nói chuyện, từ bỏ tất cả mọi cái vui của thế gian. Thì chúng ta mới có thể thực hiện được con đường tu hành giải thoát của đạo Phật. Nghĩa là chúng ta có sống độc cư thì chúng ta mới có ly dục ly ác pháp được; mà không có sống độc cư được thì không bao giờ ly dục ly ác pháp được. Mà không ly dục ly ác pháp được thì không bao giờ mà chúng ta đạt được cái mục đích của đạo Phật được.

Đó thì cái bài kệ thứ hai mươi mốt thì Phật khuyên chúng ta:

Ai ưa thích hội chúng

Người ấy khó tu hành

Làm sao chứng Niết bàn

Giải trừ các cảm thọ

Cân nhắc lời giảng dạy

Từ bỏ nơi đông đảo

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Quý thầy và các con nghe chỗ này mà cố gắng, cố gắng thực hiện đừng có lơ lỏng, đừng có dễ vui với mình mà uổng một cuộc đời, uổng thân làm người. Được thân là khó, được Phật pháp còn khó hơn. Biết được như vậy chúng ta phải khắc phục mình, đem đầy đủ nghị lực chiến đấu để sống độc cư, đừng có sống vui theo thế gian. Vì có sống độc cư chúng ta mới thực hiện được sự giải thoát thân tâm mình. Đây là lời Thầy nhắc lại lần nữa.

Bài kệ thứ hai mươi hai:

Muốn giải thoát vượt khỏi

Các tri kiến hý luận

Phải quyết định độc cư

Chứng đắc được con đường

Nơi đây trí được sanh

Không cần nhờ người khác

Phải sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bài kệ thứ hai mươi hai này các thầy và các con thấy đức Phật khuyên chúng ta:

Muốn giải thoát vượt khỏi.

Các tri kiến lý luận

Nghĩa là chúng ta muốn mà được giải thoát thì chúng ta phải ra khỏi các tri kiến hý luận, cái chuyện nói luận cái này bàn cái kia, vui chơi thỏa thích thì hầu hết con người phải nói chuyện cho nó vui vẻ thích bằng cách này hoặc bằng cách khác cho nên đức Phật gọi đó là những tri kiến hý luận. Nói chuyện đông chuyện tây, nói chuyện chính trị, nói chuyện làm ăn, nói chuyện thời tiết, nói chuyện thiên văn địa lý, nói chuyện khoa học, nói cái này cái kia… đều là những cái hý luận, nó không có lợi ích thiết thực cho chúng ta. Những cái hý luận này nó chỉ đem lại cho chúng ta những cái tâm trưởng dưỡng những cái dục, cái lòng ham muốn của chúng ta hơn lên. Nó không có lợi ích thiết thực. Vì thế mà chúng ta phải khắc phục mình, phải nỗ lực thực sự để mà tiêu diệt các tri kiến hý luận này.

Nghĩa là từ đây chúng ta sống độc cư thì chúng ta đâu còn hý luận với ai. Cho nên chúng ta phải quyết định độc cư. Ở đây câu kệ thứ ba trong bài kệ hai hai này thì đức Phật dạy phải quyết định độc cư. Nghĩa là chỉ có độc cư thì mới giải trừ được các tri kiến hý luận, mới vượt khỏi cái tri kiến hý luận. Còn nếu không thì cái bản chất, tánh nào tật náy của chúng ta nó quen đi. Gặp ai thì chúng ta cũng nói chuyện này, chuyện kia chuyện nọ để vui chơi thì đó là những cái hý luận. Bàn thiền, luận đạo, nói kinh cũng đều là những cái hý luận chứ không phải là không có hý luận. Vì chúng ta có sống độc cư thì chúng ta mới không có hý luận. Mà không sống độc cư thì dù bây giờ chúng ta có nói kinh nói sách gì đúng đắn đi cho mấy cũng là thuộc về loại hý luận.

Bởi vì sống độc cư thì đâu còn ai mà chúng ta nói chuyện. Mà không còn ai nói chuyện thì chúng ta mới thực hiện được con đường giải thoát. Còn nếu mà không có sống độc cư được thì chúng ta phải có người này có người kia, có bầu có bạn, rồi có nói chuyện này chuyện kia. Do đó những cái nói chuyện đó đức Phật gọi là hý luận, cho nên không có thể nào mà chứng đắc được con đường giải thoát.

Phải quyết định độc cư,

Chứng đắc được con đường.

Nghĩa là chúng ta phải quyết định độc cư thì chúng ta mới có thể đạt được con đường giải thoát của đạo Phật. Từ cái chỗ mà chúng ta sống độc cư đó cái trí tuệ chúng ta, cái tri kiến giải thoát của chúng ta mới được quét sạch. Cái trí tuệ chúng ta mới được quét sạch. Nếu mà chúng ta không sống độc cư thì cái tri kiến hý luận nó tràn đầy, nó tích tập những sự hiểu biết của chúng ta bằng cái vay mượn của kẻ khác, bằng cái đờm dãi của người khác. Còn chúng ta sống độc cư thì do đó chúng ta mới có cái tâm thanh tịnh, yên lặng, nó mới có tâm định tĩnh. Từ cái định tĩnh đó trí tuệ chúng ta nó mới được phát sanh, nó mới triển khai ra. Từ đó chúng ta mới thấy cái tri kiến giải thoát đưa đến chúng ta sống trong một cuộc đời không còn ham muốn cái gì nữa hết, buông xả hết không còn một vật gì còn ràng buộc, trói buộc chúng ta.

Cho nên khi mà chúng ta sống độc cư thì chúng ta chẳng cần một người nào khác nữa hết, không có cần cái người nào dạy chúng ta tu hành. Chỉ cần sống độc cư là chúng ta có thể từ đó chúng ta có thể thấy được cái tri kiến của chúng ta phát sanh, thấy được con đường tu hành của chúng ta. Chúng ta sống độc cư trong một năm hai năm cho đến mười năm không có tiếp duyên với ai cả thì từ đó chúng ta mới thấy được cái trí tuệ phát sanh của chúng ta vô cùng vô lượng. Nó nhắm vào cái tâm hồn của chúng ta để đưa chúng ta đến cái chỗ giải thoát hoàn toàn, chứng đắc trên con đường của đạo Phật. Dù thiền định nào cũng đều thông suốt. Cho nên đức Phật khuyên chúng ta: hãy sống riêng một mình, như tê ngưu một sừng.

Đây Thầy đọc lại bài kệ thứ hai mươi hai để cho quý thầy thấy cái lời của Phật dạy rất là thấm thía:

Muốn giải thoát vượt khỏi.

Các tri kiến lý luận

Phải quyết định độc cư.

Ba câu kệ này thì đức Phật đã quyết định cho chúng ta muốn mà thoát khỏi những cái tri kiến vay mượn, cái tri kiến lý luận suông, cái lời nói vui theo dục lạc của thế gian thì phải quyết định là phải độc cư. Mà khi độc cư được thì mới chứng đắc được con đường giải thoát.

Đây:

Chứng đắc được con đường

Nơi đây trí được sanh.

Đức Phật xác định chỉ có độc cư thì mới chứng đắc được con đường giải thoát, nơi chỗ đó trí tuệ mới được sanh. Không cần nhờ người khác - Nghĩa là không cần ai khai ngộ chúng ta, chỉ chúng ta sống đúng độc cư là tự nó nó đã có những trí tuệ phát sanh. Cho nên đâu cần người nào khai ngộ đâu, mình cũng được giải thoát như thường. Cho nên phải sống riêng một mình, như tê ngưu một sừng.

Bây giờ Thầy xin đọc tiếp cái Bài kệ thứ hai mươi ba:

Không tham không lừa đảo

Không khát vọng dèm pha

Mọi si mê ác trược

Được gạn sạch quét sạch

Trong tất cả các pháp

Không tham ái ước mong

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Nghĩa là chúng ta sống riêng một mình, sống độc cư, sống trầm lặng một mình thì chúng ta mới không có tâm tham, mới không có sự lừa đảo, mới không có khát vọng, mới không có dèm pha. “Mọi si mê ác trược” - thì mọi si mê nó mới phá sạch, nó không còn những cái ác trược nữa. Và nhờ sống độc cư đó mà nó được gạn sạch, quét sạch.

Trong tất cả các pháp

Không tham ái ước mong

Nghĩa là tất cả những cái pháp thế gian nó đều gạn lọc và quét sạch là nhờ sống độc cư. Nếu chúng ta không sống độc cư thì khó mà có thể gạn lọc được những cái tâm tham ái, cái tâm lừa đảo, cái tâm khát vọng, cái tâm dèm pha, cái tâm ác trược, cái tâm si mê. Cho nên tất cả những cái tâm này mà nó được quét sạch đều do nhờ cái sống độc cư hết, sống một mình hết. Mà nếu không sống một mình thì chắc chắn không bao giờ mà quét sạch những tâm này ra được. Mà không quét sạch những tâm này ra được thì khó mà có thể tìm thấy con đường giải thoát của đạo Phật được.

Quý thầy hiểu chưa? Cho nên bài kệ thứ hai mươi ba này đức Phật xác định chỉ có sống độc cư mới quét sạch được cái tâm thế gian, cái tâm khát vọng, cái tâm dèm pha, các tâm lừa đảo, cái tâm ham muốn, cái tâm si mê, cái tâm ác trượt. Nếu mà không sống độc cư thì không thể nào được hết.

Thầy xin đọc bài kệ thứ hai mươi ba để cho quý thầy hiểu cho rõ ràng:

Không tham không lừa đảo

Không khát vọng dèm pha

Mọi si mê ác trược

Được gạn sạch quét sạch

Trong tất cả các pháp

Không tham ái ước mong

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Chỉ có sống riêng một mình thì mới quét sạch được cái đó. Muốn được mà quét sạch cái này thì chúng ta phải sống riêng một mình, cố gắng sống một mình thì nó sẽ quét sạch. Đó là bài kệ thứ hai mươi ba.

Bài kệ thứ hai mươi bốn:

Với bạn bè độc ác

Hãy từ bỏ lánh xa

Kẻ không thấy mục đích

Quen nếp sống thế gian

Chớ tự mình thân cận

Kẻ đam mê phóng dật

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Nghĩa là đức Phật khuyên chúng ta với những người bạn bè mà độc ác thì chúng ta phải lánh xa họ, không được sống với họ. Bởi vì họ là những kẻ không có thấy cái mục đích giải thoát cho nên họ còn đam mê, phóng dật ở trong cái tham dục, cái dục lạc của thế gian. Qua cái nếp sống thế gian thì mình đã hiểu biết họ như thế nào. Chứ bây giờ là hầu hết mọi người là người ta đang chạy theo cái dục lạc thế gian. Thì đó là những người bạn bè mà gọi là họ đã chạy theo dục lạc thế gian thì họ là những người bạn xấu, chớ sao bạn bè tốt được - họ là những bạn bè độc ác. Họ thương mình đó mà mai mốt có cái gì thì họ trở thành những cái người bạn xấu, họ sẽ hại mình một cách rất dễ dàng, chưa chắc đâu - đó là cái sự thương đâu. Cho nên toàn bộ con người hiện giờ dưới con mắt của người tu sĩ là thấy rằng con người đang chạy theo những dục lạc của thế gian. Mà đang chạy theo dục lạc thế gian thì phải có ác pháp, không thể nào mà thiếu ác pháp được. Cho nên chúng ta là những người tu hành phải sống một mình, phải tránh xa mọi người. Vì mọi người không thể nào đem lại sự giải thoát cho chúng ta được mà chính chúng ta phải sống một mình. Từ đó chúng ta mới không bị những người bạn bè, những con người độc ác này mà làm động tâm chúng ta, làm cho tâm chúng ta dao động liên tục. Vì vậy mà chúng ta không có ra khỏi cái cuộc đời đầy luân hồi, đầy đau khổ này.

Cho nên ở đây cái bài kệ thứ hai mươi bốn này đức Phật khuyên chúng ta phải lánh xa hết mọi người. Vì mọi người đều là những kẻ đam mê phóng dật, đang chạy theo những cái ham muốn của thế gian. Cho nên muốn mà tu thành theo đạo Phật thì chúng ta thấy đời phải ra đời, đạo phải ra đạo. Cái người tu mà còn chạy theo đam mê phóng dật của thế gian thì cái người đó chúng ta coi như là ác tri thức chứ không phải thiện hữu tri thức mà ác tri thức. Chúng ta phải tránh xa đừng có gần người đó. Vì những người đó không bao giờ sống một mình được. Cho nên chúng ta chỉ biết còn có con đường của đạo Phật là sống một mình để thực hiện sự ly dục ly ác pháp. Để được giải thoát, để chấm dứt được sự sanh tử luân hồi thì chỉ có con đường duy nhất là pháp môn độc cư. Mới cứu chúng ta ra khỏi con đường đầy đau khổ của cuộc đời, của kiếp người.

Bài kệ thứ hai mươi lăm.Thầy xin đọc Bài kệ thứ hai mươi lăm để cho quý thầy và các con suy ngẫm cái lời của Phật dạy qua cái bài kệ này:

Bậc nghe nhiều tpháp

Hãy gần gũi người ấy

Người ấy tâm rộng lớn

Thông minh và biện tài

Biết điều không nên làm

Thì nhiếp phục mê hoặc

Noi theo hạnh người này

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bài kệ này, chúng ta hãy noi theo cái gương của những người mà chúng ta thấy những cái người mà thiện hữu tri thức họ đều là những cái bậc nghe nhiều, nghe pháp mà Phật đã dạy và họ thường hằng ngày họ trì những cái pháp họ đã được nghe. Thì chúng ta chọn ở trong các huynh đệ của chúng ta và ai là cái người nghe nhiều và trì pháp thì chúng ta noi theo cái gương của người đó mà chúng ta sống độc cư. Sống độc cư để chi, để làm gì? Để chúng ta trì các pháp mà chúng ta đã được nghe nhiều. Và chúng ta gần gũi nghĩa là chúng ta tìm cái người đó. Họ sống họ cũng độc cư, họ không nói chuyện với mình nhưng cái gương hạnh của họ đó nó làm cho chúng ta bắt chước, làm chúng ta noi theo. Cho nên con đường tu của chúng ta dễ tiến bộ là nhờ chúng ta có thiện hữu tri thức. Không có nghĩa thiện hữu tri thức là những cái người thường nói pháp, nói chuyện này chuyện kia chúng ta nhiều mà chính cái hành động sống của họ đã làm cho chúng ta sống theo hạnh độc cư của họ. Và họ làm cái gì thì chúng ta bắt chước làm theo cái ấy. Vì họ là những người mà tâm họ rộng lớn, họ thông minh và họ đầy đủ biện tài. Những cái biện tài họ không để mà nói chuyện với chúng ta. Chúng ta biết họ, họ không nói thôi, mà họ nói cái gì họ cũng thông suốt. Không có cái gì có thể làm chướng ngại họ được, họ trả lời tất cả những cái gì, câu hỏi rất là khó khăn. Cho nên họ có những cái biện tài và trí óc thông minh. Những điều họ chưa có học mà người ta hỏi họ đều biết, thì đó là cái trí óc thông minh của họ.

Cho nên biết điều không nên làm và những người đó họ không nên làm những điều mà họ biết điều họ không nên làm. Và chúng ta mà sống gần như vậy chúng ta bắt chước chúng ta biết. Có những cái điều ác chúng ta đâu có nên làm, nhưng có những điều thiện thì chúng ta nên làm. Và những người mà nghe nhiều và trì pháp thì họ sẽ làm những điều mà họ biết đó là điều thiện. Mà những cái điều ác thì chắc chắn họ sẽ không làm cho nên họ không làm những cái điều mà họ không nên làm. Họ thường nhiếp phục tâm nghi hoặc, nghi người này nghi người kia; không có để cho tâm mình nghi ai xấu hết. Mọi người ai sao kệ họ, chẳng nghi ngờ họ gì hết. Thì đó là những người đó là những người bạn tốt, những người thiện hữu tri thức của mình. Họ sống họ không nói chuyện với mình nhưng mà hành động sống của họ là cái gương hạnh để cho mình tu tập mình sống một mình. Cho nên họ thường nhiếp phục không có nghi ngờ người nào hết, họ không có nghi ngờ cái người đó xấu, người đó như thế này thế nọ thế khác.

Noi theo hạnh người này.

Hãy sống riêng một mình.

Thì mình lấy gương hạnh của cái người thiện hữu tri thức họ đang sống, đang tu hoặc họ đã tu xong, họ sống mà không nói chuyện với ai. Do đó mình bắt đầu mình sống cũng theo gương hạnh của họ và đồng thời những cái điều mà họ không nên làm thì mình cũng bắt chước mình không nên làm. Cho nên ở đây đức Phật dạy cái bài kệ thứ hai mươi lăm này là chúng ta nên chọn cái người bạn tốt, cái người sống độc cư, cái người mà không nói chuyện, mà luôn luôn lúc nào có những hành động mà chúng ta để ý để mà chúng ta theo dõi cái gương hạnh đó mà chúng ta tu tập, để chúng ta sống độc cư cho đúng cách.

Còn nếu mà chúng ta chọn không được cái người bạn mà tốt như vậy thì chúng ta sẽ bị ảnh hưởng như bạn xấu. Họ nói chuyện này chuyện kia làm cho chúng ta động tâm, làm chúng ta riết rồi chúng ta cũng điên theo, chạy theo những dục lạc, lòng ham muốn của chúng ta ở thế gian, cuối cùng thì chúng ta tu suốt cuộc đời chúng ta mà rất uổng. Nó không có những gương hạnh tốt để chúng ta thực hiện theo cái gương hạnh tốt đó để mà chúng ta được giải thoát. Quý thầy và các con thấy rõ chưa?

Cho nên có được mà những bậc thiện hữu tri thức như vậy, có những gương hạnh mà tu tốt như vậy, họ là những người biết nghe nhiều pháp, biết trì các pháp mà họ đã được nghe. Thì đó là những người mà chúng ta gần gũi để lấy họ làm cái gương tốt để cho mình thực hiện theo cái gương tốt đó mà mình cũng được giải thoát như họ.

Còn nếu không có thì chúng ta cũng phải đành sống riêng một mình, không phải có nghĩa là chúng ta có người bạn hữu thiện hữu tri thức hằng ngày chúng ta phải tiếp duyên nói chuyện này chuyên kia. Không, không phải vậy đâu, đừng hiểu như vậy mà chính người thiện hữu tri thức họ đang sống độc cư đó, họ đang sống trong thầm lặng đó, họ đang sống ở trong một mình họ đó. Đó là những cái gương mà chúng ta noi theo đó mà chúng ta vượt qua những khó khăn chứ không phải sống độc cư mà dễ dàng, có nhiều cái khó khăn lắm. Nhờ cái gương đó mà chúng ta noi theo chúng ta mới sống được. Phải hiểu, hiểu như vậy thì chúng ta mới thấy được con đường tu tập của chúng ta. Những người đó trước những cơn bệnh cơn đau họ không làm tâm họ dao động, họ không có chạy bác sĩ hoặc là chạy thầy chạy thang thuốc gì hết. Họ tự cứu chữa họ bằng pháp hướng hoặc là có những cái duyên.

Ví dụ như chẳng hạn Thầy thấy họ bệnh ho hoặc cảm hay gì đó Thầy đem thuốc thầy cho họ uống, rồi họ dùng pháp hướng quét sạch ra những cái thân nghiệp của họ để rồi họ thực hiện giữ đúng hạnh độc cư. Họ không phải vì một chút đau bệnh nhức, nhức tay nhức chân hoặc nhức đầu nhức cổ gì đó mà họ chạy đi tùm lum bác sĩ này bác sĩ kia, thì tức là họ bị động mất rồi. Nhìn cái gương của họ, họ đâu phải là con người bằng đá, bằng cây, bằng gạch, bằng ngói, bằng sắt, bằng đồng?Họ cũng là con người bằng xương bằng thịt; mình đau họ cũng đau, mình nhức họ cũng nhức mà tại sao họ chẳng có dao động tâm, họ chẳng hề sợ những cái thọ. Còn mình hễ hơi hơi là mình đã chạy tùm lum tà la hết, mình phá mất cái hạnh độc cư, làm sao mà mình tu cho tới nơi tới chốn được. Hơi có sổ mũi, nhức đầu chút ít gì đó, nóng lạnh tí chút sơ sơ đã là chạy tùm lum tà la thì muôn đời chúng ta làm sao mà tu tập được giải thoát, uổng cái đời chúng ta tu hành.

Muốn giải thoát, chúng ta xem thường những cái loại thân nghiệp này.Nó không phải là những cái điều mà có thể làm trở ngại con đường tu tập của chúng ta, phá cái hạnh độc cư. Chúng ta chẳng hề sợ cái thọ, vì cái thọ chúng ta đã hiểu biết nó là vô thường, nó không thường hằng thì tại sao chúng ta lại sợ nó. Cho nên chúng ta không bao giờ sợ nó thì chúng ta không có ngại gì cả; chúng ta quyết định, quyết định là chúng ta sẽ không có sợ cái thọ. Cho nên tất cả những cái này trong những cái bài kệ trước đức Phật cũng đã nhắc nhở chúng ta nhiều,trước thời tiết, trước cái bệnh tật, trước những cái đau khổ của thân chúng ta đừng có dao động, đừng có phá hạnh độc cư, hãy cố gắng giữ hạnh độc cư. Và vì vậy có được người thiện hữu tri thức, những người bạn tốt họ đang sống độc cư, đang sống trầm lặng, họ chẳng hề rung sợ trước những cái thọ của họ thì chúng ta noi gương họ mà chúng ta bắt chước.

Ở đây đức Phật, bài kệ thứ hai mươi lăm này đức Phật nhắc là chúng ta có những người bạn đó chúng ta noi theo gương. Cho nên cuối cùng thì đức Phật dạy - hãy sống riêng một mình. Thấy gương hạnh của người đó như vậy thì chúng ta nỗ lực, chúng ta thực hiện gương hạnh sống một mình như con tê ngưu một sừng.

Như vậy là quý thầy đã thấy rõ được cái con đường tu tập của đạo Phật là cái bí quyết cái mục đích để mà chúng ta đạt được cái con đường giải thoát chính là cái độc cư, cái sống trầm lặng, cái sống riêng một mình. Sống riêng một mình nhưng luôn luôn lúc nào chúng ta cũng noi gương những người bạn tốt, những Thánh nhân, những bậc chơn nhân, những bậc mà người ta thực hiện được những gương hạnh độc cư, người ta ly được dục ly ác pháp thì những bậc đó là những bậc để chúng ta thực hiện hạnh độc cư ly dục ly ác pháp như các vị đó.

Bây giờ Thầy đọc Bài kệ thứ hai mươi sáu, Phật khuyên chúng ta:

Mọi du hí vui đùa

Và dục lạc thế gian

Không trang điểm làm đẹp

Không ước vọng mong cầu

Từ bỏ mọi hào nhoáng

Nói lên lời chân thật

Sáu câu kệ này đức Phật nói mọi du hí vui đùa. Du hí là đi chỗ này chỗ kia cho nó vui, nó thích, đi xem cảnh xem hoa, đi xem sông xem núi, đi xem những danh lam thắng cảnh, những nơi di tích lịch sử hoặc là chỗ này chỗ kia, những cái nơi mà hội họp, những nơi chợ búa, những nơi đô thị, có những cái sự vui đùa. Mọi du hí vui đùa như vậy, đó là những cái mà đưa đến chúng ta động tâm, đưa đến chúng ta không có độc cư được.

Và những cái dục lạc thế gian, những cái làm chúng ta thích thú cái này cái nọ cái kia, ham muốn cái này cái nọ cái kia, đó là những dục lạc thế gian khiến cho chúng ta thích trang điểm làm đẹp. Cho nên người tu sĩ chúng ta không có trang điểm làm đẹp, không có ước vọng mong cầu. Nghĩa là không mong cầu cái này không có mong cầu cái kia. Tu là tu, sống là sống cho đúng hạnh không có cầu mong cái này cái kia.

Ví dụ bữa nay y áo của mình rách mình mong cầu chi có Phật tử cúng dường cho mình bộ y áo mới. Như vậy đó là chúng ta còn mong cầu. Chúng ta chẳng mong cầu gì hết. Chẳng hạn bây giờ chúng ta đang đau bệnh chúng ta nói phải chi mà Phật tử cúng dường thuốc ho, thuốc cảm thuốc này kia, khi mà có đau bệnh mình uống nó sẽ bớt đau bệnh hơn. Thì còn cái mong cầu, mong cầu nhỏ nhưng cũng còn cái mong cầu; cho nên chúng ta chẳng còn mong cầu cái đó. Chúng ta hiện bây giờ có thuốc thì chúng ta uống thuốc mà không thuốc thì chúng ta dùng pháp hướng quét sạch cái thọ của chúng ta, đuổi nó ra khỏi cái thân của chúng ta làm chúng ta giảm đi cái đau đi.

Chúng ta đừng sợ hãi, chúng ta tin tưởng ở Phật pháp, như cái lý tác ý để chúng ta cứu lấy mình. Nhờ đó mà tâm của chúng ta nó không có dao động. Như vậy là các thầy và các con cũng nên nhớ rằng chỉ chúng ta tin tưởng ở Phật pháp, chúng ta dùng cái pháp hướng để đối trị với cái thọ của chúng ta vì chúng ta biết cái thọ là vô thường mà nó xảy ra cho thân chúng ta bệnh này bệnh kia bệnh nọ. Đó là cái nghiệp thân của chúng ta, chúng ta đừng có để tâm chúng ta dao động mà chúng ta hãy dùng pháp hướng như Phật đã dạy như cái lý mà tác ý nó ra để đuổi cái thọ ra khỏi cái thân nghiệp của chúng ta làm cho thân chúng ta không còn động, không còn sợ mà chúng ta giữ trọn được cái hạnh độc cư. Nhờ giữ trọn được cái hạnh độc cư đó, bởi vì cái thọ nó câu hữu với các pháp khác, nó làm chúng ta phải phá đi cái hạnh độc cư. Mà phá hạnh độc cư thì chúng ta không bao giờ mà chúng ta ly dục, ly ác pháp được. Mà không ly dục ly ác pháp làm sao mà chúng ta được giải thoát.Cho nên chúng ta phải thấy được cái độc cư là cái quý báu nhất, cái cuộc sống riêng một mình là pháp môn rất là quý báu để chúng ta thực hiện con đường ly dục ly ác pháp, làm cho tâm của chúng ta được giải thoát hoàn toàn và chấm dứt được sanh tử luân hồi. Nếu mà chúng ta cứ bị cái thọ mà câu hữu với các điều khác, câu hữu với cái xác thân của chúng ta, rồi câu hữu với cái tưởng của chúng ta làm chúng ta dao động tâm rồi chúng ta phá đi cái hạnh độc cư. Và phá đi hạnh độc cư thì ngàn đời, muôn đời chúng ta tu cũng vô ích mà thôi.

Vì chúng ta biết rằng mỗi con người có thân đều là phải có cái nghiệp. Có nghiệp thì tức là phải có cái thọ khổ của nó, thì nó phải bệnh này bệnh nọ bệnh kia. Mặc nó, người tu hành mà còn sợ bệnh đau là cái gì, chết chúng ta còn chả sợ, bỏ hết cuộc đời mà còn sợ cái thọ, cái bệnh là cái gì. Cho nên chúng ta phải mạnh dạn đừng có sợ hãi.

Ở đây, bài kệ thứ hai mươi sáu này, đức Phật khuyên chúng ta, những cái vui đùa của cái du hí mà đi chỗ này chỗ kia mà đi vui đùa của thế gian thì chúng ta bỏ, và tất cả các dục lạc của thế gian chúng ta cũng bỏ. Mọi sự trang điểm làm cho đẹp vì thân chúng ta bất tịnh mà, mỗi mỗi nó đều hôi thúi mà có gì đâu, nó bất tịnh, nó dơ bẩn vô cùng. Thế mà chúng ta làm cái lớp trang điểm ở ngoài đẹp đẽ làm gì. Thân chúng ta xấu xí đâu có bằng những người mà sanh hóa thân. Sanh ra từ cái chỗ nhơ bẩn cho nên thân chúng ta nó quá bất tịnh, nó hôi thúi, nó bẩn thỉu. Ba ngày không tắm đã là không chịu nổi rồi, đi ra thì người ta đã bịt mũi bịt miệng, người ta không dám hít cái mùi hôi của chúng ta.

Đó thì các con cũng như quý thầy đã thấy sự bất tịnh của cái thân rồi thì còn ham gì trang điểm, áo quần lụa là cho đẹp, cần gì phải trang điểm nào là lược dắt trâm cài, đeo vòng đeo vàng cho nó đẹp. Có gì mà đẹp, một cái đống thịt hôi thúi, một cái đống xương trắng ghê gớm, một cái đống gân cốt đờm nhớt, rất là bẩn thỉu có gì mà đẹp đẽ đâu. Cho nên trong cái khi đó mà chúng ta đã thấy được cái điều này thì chúng ta hãy mau mau mà xa lìa nó đi. Đừng có để cho chúng ta chấp cái ngã rồi chúng ta sẽ ước mong cái này cái nọ, cầu mong cái này cái nọ.

Chúng ta nhìn cái hào nhoáng ở bên ngoài của mỗi con người chúng ta tưởng là sang là đẹp. Sự thật đó là đau khổ, những cái mà đem đi đến cuộc đời luôn luôn mãi tiếp diễn trong luân hồi sanh tử. Từ cái nhà cửa, từ cái áo quần, từ cái trang điểm hào nhoáng bên ngoài nó chứng tỏ là những người đó là những người vô minh, chạy theo những con đường dục lạc của thế gian, tạo muôn vàn thứ đau khổ và tiếp diễn trong cái sự luân hồi sanh tử, mãi mãi muôn đời không bao giờ dứt. Nhìn cái nhà lầu, cái biệt thự, cái vila hào nhoáng, nhìn cái xe hào nhoáng của họ lướt qua thì biết rằng họ là những con người đang đắm đuối ở trong vũng bùn nhơ hôi thúi của thế tục chớ đâu phải là giải thoát. Chúng ta sống trầm lặng, sống một mình, sống cô đơn, nỗ lực thực hiện những lời Phật đã dạy, những pháp Phật đã dạy thì chúng ta mới thấy được sự giải thoát chơn thật, làm chúng ta ra khỏi những cái sự cám dỗ của những dục lạc của thế gian.

Cho nên ở cái bài kệ thứ hai mươi sáu Phật dạy chúng ta phải từ bỏ mọi hào nhoáng, những cái trang điểm, những cái hoa mỹ, những cái đẹp đẽ mà làm chúng ta thích thú đó là chúng ta phải từ bỏ. Muốn mà được như vậy thì chúng ta hãy cố gắng, hãy xa lìa, hãy lánh bỏ mà sống riêng một mình.

Thầy xin đọc lại toàn bộ bài kệ để cho quý thầy và các con suy ngẫm mà nỗ lực thực hiện tu hành cho đạt được cái kết quả, làm thân con người quá khổ.

Mọi du hí vui đùa

Và dục lạc thế gian

Không trang điểm làm đẹp

Không ước vọng mong cầu

Từ bỏ mọi hào nhoáng

Nói lên lời chân thật

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Những cái lời mà Thầy dạy nãy giờ là những cái lời nói chân thật của Phật pháp, lời nói chân thật của một người đã giải thoát. Họ không còn ham thích một cái gì hết. Cho nên qua cái bài kệ này chúng ta phải suy ngẫm để nói lên lời chân thật, để chúng ta biết đâu là đúng, đâu là sai, đâu là khổ, đâu là giải thoát. Thì chúng ta mới lập được cái hạnh độc cư trọn vẹn mà không bị dao động tâm, không phá vỡ cái hạnh độc cư.

Bây giờ Thầy đọc đến Bài kệ thứ hai mươi bảy:

Với con và với vợ

Với cha và với mẹ

Tài sản cùng lúa gạo

Bà con là trói buộc

Hãy từ bỏ buộc ràng

Đó là dục như vậy

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Đây, đức Phật chỉ cái dục, đối tượng của những cái dục làm chúng ta không xa lìa được những cái lòng ham muốn của chúng ta. Đối với vợ, với con là cái dục; đối với cha với mẹ là cái dục; tài sản cùng lúa gạo tức là cùng những thực phẩm, cái sống đó đều là cái dục; bà con thân bằng quyến thuộc đều là cái dục nó trói buộc chúng ta. Cho nên Phật khuyên hãy từ bỏ những cái sự ràng buộc này. Đó là những cái mà làm chúng ta không có dứt trừ, không có ly được cái lòng ham muốn, ly được dục, ly các ác pháp được. Đó là những đối tượng, những cái đối tượng làm cho cái tâm dục trưởng dưỡng càng ngày nó càng lớn lên, ham muốn cái này ham muốn cái kia. Đây là những đối tượng, những đối tượng này nó làm cho cái tâm dục của chúng ta trưởng dưỡng càng lúc càng lớn càng mạnh càng nhiều và chúng ta càng khổ đau, và càng trôi lăn ở trong sáu nẻo luân hồi của kiếp người từ kiếp này sang kiếp khác.

Đó, cho nên Phật khuyên hãy từ bỏ nó đi mà sống riêng một mình như tê ngưu một sừng.

Các thầy thấy chưa? Bài kệ thứ hai mươi bảy Phật chỉ cho chúng ta những cái đối tượng, những đối tượng đó mà nó trưởng dưỡng những cái dục, cái lòng ham muốn của chúng ta lớn dần theo những cái đối tượng đó. Từ những cái đối tượng đó mà đoạn dứt được thì cái dục nó mới có ly mà ly được thì cái hạnh sống độc cư đó là một cái bí quyết để mà chúng ta lìa xa nó. Còn nếu mà chúng ta sống riêng một mình không được thì làm sao mà chúng ta xa lìa: con, vợ, cha, mẹ, tài sản của cải, bà con ruột thịt, bạn bè. Cho nên chỉ có cái hạnh độc cư nó mới có xa lìa được, nó mới ly được. Cho nên phải thấy được bí quyết thành công của sự tu tập theo đạo Phật đó là hạnh độc cư. Mà Thầy thường nhắc đi nhắc lại với quý thầy rất nhiều, với các con rất nhiều nhưng có ai, mấy ai mà đã sống được độc cư?

Mười năm trong thất Thầy đã sống độc cư, Thầy mới biết được cái bí quyết thành công của nó. Còn bây giờ đem ra nói với quý thầy, quý thầy có tin đâu, các con có tin đâu. Cho nên cứ lăng xăng chạy qua chạy lại, nói chuyện này chuyện kia đủ thứ làm cho tâm động, làm sao mà ly, lìa xa được những cái này. Thì dù bây giờ có nói nhập Nhị thiền, Tam thiền cũng chỉ là lời nói suông chứ chả có Tam thiền Nhị thiền gì cả. Sơ thiền ly dục ly ác pháp còn chưa được thì làm gì đến Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Cũng như vừa rồi thì các con đã thấy rằng có nhiều người đã tự xưng mình, ở trong mùa hạ năm nay có nhiều người tự xét mình, nghĩ rằng mình nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền. Rồi có người bảo Thầy, hỏi Thầy coi phải có vậy không. Thiệt ra thì Thầy làm thinh chứ không bao giờ Thầy xác định rằng có hay không. Một người mà chưa có ly dục ly ác pháp thì làm sao gọi là Sơ thiền, Nhị thiền. Họ có ba y một bát chưa, họ có ly chưa, họ còn có những người ly nhữngngười thân chưa? Họ còn có những người này người kia, người thân này người thân kia. Họ chưa có ly được cái nơi sống mà họ gọi là đầy đủ. Họ có sống trong rừng họ ăn lá cây được chưa, họ có sống ở trong những cái hang cái hóc mà khổ sở, toàn ăn rễ cây rừng mà sống, lượm trái cây rừng mà sống mà không cần, không sợ hãi trước những cái sự rắn độc, rít độc hay hoặc là những cái loài có thể giết hại họ chết trong cấp thời, hoặc là những bệnh đau xảy ra có thể đem đến cho họ có thể chết ngay tức khắc. Thế mà họ chưa có ly được những cái này thì thử hỏi làm sao gọi là Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Làm sao mà Thầy dám xác nhận là rằng họ nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền được?

Nhìn qua đời sống xét thấy cái chỗ mà họ sống chưa được độc cư. Sống được một hai ngày, năm ba ngày thì lại có chuyện, nói chuyện này chuyện kia. Nếu một người biết sống độc cư, ít ra mà để thực hiện con đường ly dục ly ác pháp thì ít ra họ phải sống một mình họ phải đôi ba năm, năm năm, mười năm độc cư như vậy, mà biết họ có ly dục ly ác pháp được chưa. Nếu họ sống được một năm, hai năm, ba năm chắc chắn là họ sẽ hoàn tất con đường đi ly dục ly ác pháp. Còn đằng này họ chưa sống được một ngày ly dục ly ác pháp nữa, ngồi đó ở trong thất mà tâm tư nghĩ lăng xăng đủ thứ chuyện ở ngoài thì làm sao mà gọi là ly dục. Hễ thân mà hơi có bệnh đau là nhảy lăng xăng như cá mà bị vào lưới. Thì thử hỏi làm sao là ly dục ly ác pháp.

Người ly dục ly ác pháp trước những cảnh nào người ta cũng thản nhiên,bình thản. Thân đau như buốt, nhức nhối vô cùng người ta cũng thản nhiên, người ta không có hề động chạm đến phá cái hạnh độc cư, không bao giờ nhảy khỏi cái hàng rào của độc cư. Do vì vậy người ta mới ly dục ly ác pháp. Còn cái này chạy tùm lum tà la, hễ động một chút là nhảy tới nhảy lui lăng xăng. Nhất là bệnh đau mà Thầy đã xét thấy qua các thầy, ai nấy cũng đều là động tâm trước các cảm thọ, họ không hề dạn dĩ, gan lỳ chịu đựng những cơn đau của họ, họ sợ chết. Tu hành mà còn sợ chết thì thử hỏi tu hành cái gì. Tu hành thì không sợ chết mới tu hành được. Cho nên vì vậy mà các cảm thọ, nhất là thọ khổ không làm cho họ dao động tâm họ thì họ mới sống độc cư trọn vẹn.

Đây là Thầy nói về cái thọ, còn về biết bao nhiêu thứ chuyện mà họ không thể buông xả được. Như quý thầy thấy rằng ít hôm thì có vợ có con, ít hôm thì có cha có mẹ, hôm thì bạn bè đến thăm viếng tùm lum tà la. Rồi ít hôm thì có Phật tử này, Phật tử nọ đi đến thăm thầy mình này kia nọ thì các thầy nghĩ như thế nào, các con nghĩ như thế nào? Có độc cư được không? Độc cư gì như vậy mà sao gọi độc cư được, vì vậy mà sao gọi là ly dục ly ác pháp được.

Đó là những cái khó của đạo Phật mà phải thực hiện sống cho đúng thì cái khó đó nó trở thành cái dễ.

Bây giờ Thầy đọc lại cái bài kệ thứ hai mươi bảy để cho các thầy và các con suy ngẫm qua cái sự độc cư ở cái bài kệ này:

Với con và với vợ

Với cha và với mẹ

Tài sản cùng lúa gạo

Bà con là trói buộc

Hãy từ bỏ buộc ràng

Đó là dục như vậy

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Các con suy ngẫm đi, thử coi có phải đó là những buộc ràng không. Xa lìa đi để cứu lấy mình, chỉ có mình cứu lấy mình mà thôi, không ai cứu mình được trên con đường tu hành giải thoát này.

Bài kệ thứ hai mươi tám, Thầy xin đọc cái bài kệ này:

Tất cả là trói buộc

Ở trong thế gian này

Lạc thú thật nhỏ bé

Vị ngọt thật ít ỏi

Khổ đau lại nhiều hơn

Chúng đều là câu móc

Người tu biết như vậy

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Đức Phật thấy những cái điều mà trói buộc của thế gian, những cái lạc thú của thế gian nó nhỏ bé, nó ít ỏi; nó ngọt ngào ít ỏi lắm nhưng nó đau khổ nhiều lắm, đừng có ham, đừng có ham nó. Thấy vị ngọt của nó tuy ít ỏi nhưng chúng ta cứ tham đắm hoài. Những lạc thú thì quá nhỏ bé, có gì thú vui của thế gian đâu, toàn là thứ đau khổ. Cho nên tất cả những cái sự này là sự trói buộc ở trong thế gian này, nó ràng buộc rất là chặt chẽ. Chúng - những cái lạc thú, những cái vị ngọt này nó là những miếng mồi của cái lưỡi câu móc, nó câu chúng ta, nó làm chúng ta tưởng đó là hạnh phúc. Vì vậy mà chúng ta phải chết điêuchết đứng với nó. Khi một người mà đã bị mắc cái lưỡi câu này rồi khó mà gỡ ra. Chúng ta là những con người, những con vật, những con cá đã mắc câu; mắc câu của lạc thú ở đời; mắc câu vợ, con, cha, mẹ, tài sản của cải, bà con ruột thịt. Chúng ta đã mắc cái lưỡi câu này.

Rồi những cái thú vui nhỏ nhỏ như ăn thì thấy ngon, như nằm thấy êm ấm rồi thích những cái dục lạc này, dục lạc kia. Tất cả những cái này là chúng ta đã bị câu móc của nó hết rồi. Chúng ta bị móc, móc ở trong họng của chúng ta rồi cho nên hiện giờ chúng muốn kéo lôi chúng ta chỗ nào cũng được. Cho nên đến khi mà cái câu móc cuối cùng là bệnh tật của thân chúng ta, chúng ta cũng bị những cái câu móc đó.

“Chúng đều là câu móc”,ở đây đức Phật xác định chúng đều là những câu móc, nó móc chúng ta đó. Cho nên khi mới nhức đầu hay nóng lạnh sơ sơ, nó đã móc chúng ta nhảy tứ tung hết, phá độc cư rồi. Chúng ta thấy rõ chứ, thấy rõ như vậy thì chúng ta biết rằng chúng ta có sợ nó nữa không?Chúng ta sẽ bứt cái lưỡi câu móc này ra, không để cho nó móc trong họng của chúng ta nữa. Từ đó chúng ta mới có được sự giải thoát.

“Người tu biết như vậy”- biết rõ như vậy, biết rõ từng cái như vậy. Từ cái thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ, từ cái bà con ruột thịt, con cái vợ chồng, anh em cha mẹ, bầu bạn đều là những câu móc móc trong họng của chúng ta làm chúng ta sống độc cư không có được, làm chúng ta sống hạnh tu hành không có xong. Cho nên cuối cùng chúng ta bị trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi mà không thấy, cứ mải mê tưởng là chúng ta tu như vậy là được. Tu như vậy chưa được vì sống chưa đúng làm sao tu được thiền định. Thiền định phải chứng minh trên cái nền tảng hạnh sống của một người tu. Người tu đúng hạnh thì tức là thiền định mới đúng. Mà người sống không đúng hạnh thì tu hành đều là sai hết, không có tu đúng, đều là tà thiền, tà đạo, đều là những cái pháp tà. Mà người sống đúng hạnh độc cư, sống đúng giới luật của Phật là người tu sẽ đúng chánh pháp. Mà người tu mà sống không đúng giới luật của Phật, sống không đúng cái hạnh độc cư, sống không riêng một mình thì người đó dù có tu như thế nào cũng đều là tà pháp ngoại đạo mà thôi. Không chính xác đâu.

Đến đây, Thầy sẽ đọcBài kệ thứ hai mươi chín để cho quý thầy nghe và các con suy ngẫm cái bài kệ mà Phật khuyên chúng ta như thế nào:

Hãy chặt đứt bẻ gãy

Các kiết sử trói buộc

Như các loài thủy tộc

Phá hoại các mạng lưới

Như lửa đã cháy xong

Không còn trở lui lại

Người tu cần phải biết

Chỉ sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bây giờ Thầy sẽ giải thích để các con hiểu cho rõ. Cái câu đầu của bài kệ thứ hai mươi chín Phật dạy “Hãy chặt đứt bẽ gãy”. Đức Phật bảo chúng ta hãy chặt đứt bẻ gãy - chặt đứt bẻ gãy là cái gì? “Các kiết sử trói buộc” - như vậy chúng ta biết rằng phải chặt đứt các sợi dây trói buộc đó, những sợi dây đó là những cái sợi dây gì. Ở đây thì nó có bảy cái kiết sử tức là thất kiết sử đó. Thầy giải thích cho quý thầy rõ bảy sợi dây này có những cái tên gì.

-        Cái kiết sử đầu tiên gọi là Ái kiết sử.

-        Cái kiết sử thứ hai gọi là Sân kiết sử.

-        Cái kiết sử thứ ba gọi là Kiến kiết sử.

-        Cái kiết sử thứ tư gọi là Nghi kiết sử.

-        Cái kiết sử thứ năm gọi là Mạn kiết sử.

-        Cái kiết sử thứ sáu gọi là Hữu tham kiết sử.

-        Cái kiết sử thứ bảy là Vô minh kiết sử.

Đây là nó có bảy cái kiết sử. Thì Phật khuyên chúng ta nên chặt đứt bảy kiết sử này, giống như cái loài mà thủy tộc nó phá hoại các mạng lưới, như vậy nó mới có thể sống độc cư được. Nếu mà còn kiết sử thì chúng ta khó sống độc cư lắm.

Ái kiết sử có nghĩa là sợi dây yêu thương, sợi dây mà thương yêu nó trói buộc chúng ta đối với vợ con, anh em, cha mẹ, dòng họ, bạn bè thân thuộc nó làm chúng ta thương mến. Và sự thương mến đó nó trói buộc chúng ta rất chặt.

Sân kiết sử có nghĩa là sân, hận, phiền não, giận hờn, tức tối; những cái mà thù hận thì nó gọi là sân kiết sử. Cái này cũng trói buộc chúng ta rất chặt.

Kiến kiết sử là những cái sự mà hiểu biết của chúng ta, những cái tri kiến mà chúng ta hiểu biết, nó chấp chặt những cái tri kiến đó. Cũng như bây giờ người ta nói “Trong mọi chúng sanh đều có Phật tánh” thì ai cũng hiểu như vậy rồi cũng chấp cái đó gọi là kiến kiết sử. Bởi vì con đường của Đạo Phật mà còn cái kiến chấp nào thì cái đó nó đâu có được. Cho nên trong kinh nói, nếu mà chúng ta chứng Alahán mà chúng ta còn thấy chứng quả Alahán thì chúng ta chưa chứng quả Alahán. Cho nên có nhiều thầy nói là tui nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thì những người đó chưa có chứng gì hết, chưa có biết. Đạo Phật mà chúng ta mở miệng ra một cái, cho mình được cái đó tức là cái kiến kiết sử, cái hiểu biết cái đó nó thành ra cái tri kiến. Cái tri kiến đó nó gọi là kiến kiết sử. Cho nên người tu hành mà còn bị dính mắc một cái kiến nào đó thì cái đó nó trói buộc chúng ta. Do vì vậy mà chúng ta hay tranh luận hơn thua với họ để cho mình, cái lý luận của mình, cái kiến của mình - cái ý kiến, cái của mình hiểu biết nó đúng còn của người khác sai cho nên mình phải tranh luận với họ, mình bài bác họ thế này thế kia đó là kiến kiết sử.

Nghi kiết sử là nghi ngờ cái này kia, nghi cái này không phải là pháp chánh tri, cái này là tà pháp; nghi ngờ cái này cái kia, nghi ngờ người này nghi ngờ người kia, đủ thứ loại nghi. Thì cái nghi ngờ đó, đó là nghi kiết sử nó làm chúng ta, buộc chặt chúng ta khó mà chúng ta vượt thoát ra. Đó là nghi kiết sử.

Mạn kiết sử là ngã mạn. Khi mình hiểu biết một vài điều gì đó ở trong kinh hoặc luận, hoặc là có sự học hỏi. Có nghĩa là mình có cấp bằng cử nhân tiến sĩ rồi mình chấp vào những cái cấp bằng đó rồi cái ngã mạn của mình theo đó mà lớn lên, cái kiêu ngạo, cái tâm tự kiêu tự đại mình nó lớn lên ở trong cái chỗ đó. Mà chính cái kiêu mạn này nó cũng trói chặt chúng ta. Có một chút gì danh là nó đã ngã mạn rồi. Thấy mình tu hơn người ta là nó đã ngã mạn rồi. Cho nên nó trói chặt mình lại, vì vậy mà cái người tu chúng ta phải bứt chặt, bẻ gãy nó đi. Ở đây phải bẻ gãy nó. Mà chỉ có cái người mà sống độc cư thì mới bẻ gãy nó được chứ cái người mà không sống độc cư thì không bẻ gãy nó được.

Hữu tham kiết sử nghĩa là có cái lòng mà ham muốn cái này cái kia, ham muốn cái này cái kia cái nọ đó thì cái đó nó trói buộc chúng ta. Thấy cái gì chúng ta cũng thích, thấy cái gì chúng ta cũng ham thì đó là cái muốn của chúng ta. Đó là hữu tham kiết sử.

Vô minh kiết sử là cái không hiểu của chúng ta. Hiểu mà không đúng thì đó là cái không hiểu. Một người mà học tiến sĩ họ học rất giỏi, họ hiểu biết rất giỏi nhưng mà họ hiểu ở trong cái dính mắc của dục lạc thế gian, họ chạy theo những cái dục lạc thế gian. Thí dụ như một ông bác sĩ ổng nói ở bây giờ ăn như vậy mới đủ chất, hoặc ăn ngày một bữa thì thiếu chất. Đó là cái vô minh của ông ta. Ổng đâu biết rằng chúng ta ăn ngày một bữa là đủ sống, nó không thừa. Còn ổng ăn dư đi nữa tới chừng đó cũng chết chứ ổng có sống đâu. Phải chi mà ăn mà nó đầy đủ dưỡng chất này kia nọ mà kéo dài người ta một trăm, hai trăm tuổi, một ngàn tuổi thì như vậy là cái đúng - là ông bác sĩ nói đúng. Còn bây giờ ổng ăn có đầy đủ đi nữa thì bảy tám chục tuổi, một trăm tuổi ổng cũng chết queo hà. Có ông bác sĩ nào mà ổng lý luận như vậy mà có cái ông vua nào mà ăn đầy đủ chất bổ dưỡng mà ổng sống lâu đâu. Càng ăn bổ dưỡng chừng nào lại càng mau chết chừng nấy. Cho nên cái lý luận đó là cái lý luận sai, cái lý luận của kẻ vô minh, nó không thấy. Còn chúng ta ăn ngày một bữa vừa đủ sống thì không sanh dục. Mà không sanh dục tức là tâm hồn chúng ta ly các pháp ác rồi, nó không còn khổ đau. Và không còn khổ đau thì chúng ta thanh thản, cho nên tuổi thọ chúng ta sống kéo dài ra được. Còn họ ăn nhiều họ sanh dục; từ cái sanh dục này đến sanh dục kia, họ làm cho tâm hồn họ đau khổ, tuổi thọ họ càng ngày càng kém chứ chưa phải là kéo dài cái tuổi thọ họ đâu.

Cho nên từ cái chỗ hiểu sai lệch, cái chỗ mà hiểu không đúng như vậy đó gọi là vô minh chớ không phải họ không hiểu. Họ hiểu không đúng, không đúng cái đường lối giải thoát, không đúng cái tâm trạng giải thoát mà hiểu một cách dính mắc rồi chạy theo cái ăn uống, tức là chạy theo cái dục lạc. Ăn cho nhiều để cho nó bổ, ăn cho nhiều tức là chạy theo cái dục, rồi ăn nhiều nó sanh dục. Đó là những cái hiểu lầm lạc mà gọi là vô minh kiết sử. Cái này nó cũng trói buộc. Cho nên có một lúc người ta cũng nói: ăn cơm gạo lút muối mè trị bệnh này bệnh kia, người ta cũng chấp vào cái chỗ đó, cho như vậy đó là đúng, đó cũng là cái vô minh. Có người nói nhịn đói nó sẽ trị bệnh, có nhiều người nghĩ rằng tiết thực trị bệnh, nghĩ cái này nghĩ cái kia. Có nhiều người nghĩ uống nước tiểu nước đái là hết bệnh. Ôi nó đủ thứ vô minh. Cái đời sao mà nó đủ thứ vô minh vô cùng, nó không hiểu được cái gì hết. Cho nên càng thấy cái cuộc đời nó càng đủ loại, nó chế biến đủ loại để mà nó vô minh đủ cách ở trong đó. Nó không có thấy cái lối giải thoát. Cuộc đời này, cái thân này là thân bất tịnh, hôi thúi, bẩn thỉu; cái thân này là cái thân không có thể trường thọ, thân nhân quả, cái thân vô thường, nó sống bữa nay ngày mai nó chết, nó liên tục có sự thay đổi trong thân của nó, nó cằn cỗi, càng ngày càng tiêu, càng hoại diệt. Nó đâu có trường tồn thế mà người ta cứ chấp chặt nó, nuôi dưỡng nó bằng cách này bằng cách khác để cho nó bồi bổ để cho nó bồi dưỡng. Hễ ra chút là thiếu chất thiếu này kia, sanh cái tâm lo lắng, dao động tất cả mọi cái. Hơi nhức cái đầu, hơi đau cái chân một chút đã là băn khoăn đã là lo lắng. Cái tâm dao động như vậy cái tâm đó là cái tâm bệnh tật, cái tâm không sáng suốt, cái tâm vô minh. Cho nên do vì vậy mà luôn lúc nào cũng trong cái đau khổ chớ không bao giờ được giải thoát.

Cho nên ở đây Phật dạy chúng ta phải bẻ gãy, phải bứt bảy cái sợi dây kiết sử này thì như vậy chúng ta mới có được sự giải thoát.

Phật ví như các loài thủy tộc (tức là loài cá ở dưới biển, sông) bị người ta bao cái lưới rồi người ta bắt lên để người ta làm thịt thì các loài thủy tộc này phải phá tất cả các mạng lưới để mà đi ra. Thì chúng ta đang bị những kiết sử, bảy kiết sử này trói buộc chúng ta cũng như đang bị ở trong một cái lưới cho nên chúng ta phải chặt đứt và bẻ gãy nó đi. Nếu mà chúng ta không có chịu mà dứt bỏ nó, không có chịu chặt đứt nó thì chúng ta khó có thể mà thoát ra khỏi cái con đường sanh tử luân hồi. Cho nên chúng ta phải chặt đứt nó, phải chặt cho thật đứt đoạn, phải làm cho mạng lưới phải rách nát để mà loài thủy tộc thoát ra khỏi những cái đau khổ cũng như là chúng ta bẻ gãy tất cả các kiết sử vậy.

Đức Phật còn ví dụ thêm, trong bài kệ này còn ví dụ thêm cho chúng ta thấy Như lửa đã cháy xong”- nó cháy qua rồi nó không cháy lui trở lạinữa, bởi vì đâu có chà bổinữa, cho nên nó đốt sạch. Chúng ta đoạn dứt các kiết sử cũng như là lửa cháy, lửa cháy cho sạch không còn có một cái sự gì trói buộc chúng ta được. Thì như vậy người mà tu hành mà hiểu biết mà rõ được như vậy thì chúng ta phải làm gì mà chúng ta cắt được nó?Chỉ có sống độc cư mới cắt được bảy kiết sử này thôi.

Cho nên cái hạnh độc cư rất là tuyệt vời. Nếu chúng ta biết cách sống riêng một mình thì các kiết sử này chúng ta đều bứt hết, bẻ gãy hết. Nếu mà chúng ta không sống được độc cư thì khó mà bẻ gãy thất kiết sử này. Bảy cái kiết sử này không có thể nào bứt ra được hết, thì muôn đời chúng ta đều bị ở trong cái mạng lưới của bảy kiết sử này trói buộc đời này sang đời khác không bao giờ mà thoát ra được.

Cho nên cái bài kệ thứ hai mươi chín Phật khuyên chúng ta phải sống độc cư thì mới bẻ gãy, mới chặt đứt tất cả các kiết sử.

Vậy thì Thầy đọc lại để cho quý thầy suy ngẫm lại cái bài kệ đức Phật dạy có đúng hay không.

Hãy chặt đứt bẻ gãy

Các kiết sử trói buộc

Như các loài thủy tộc

Phá hoại các mạng lưới

Như lửa đã cháy xong

Không còn trở lui lại

Người tu cần phải biết

Chỉ sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Đó là bài kệ mà chúng ta dùng cái hạnh độc cư mà bẻ gãy và chặt đứt tất cả những sợi dây ràng buộc của kiết sử. Như vậy chúng ta mới trọn vẹn được con đường tu tập theo đạo Phật.

Bây giờ Thầy tiếp tục Bài thứ kệ thứ ba mươi:

Với mắt cúi nhìn xuống

Chân đi không lưu luyến

Các căn được hộ trì

Tâm ý khéo chế ngự

Không đầy ứ rỉ chảy

Không cháy đỏ bừng lên

Người tu cần phải biết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Đây, bài kệ này đức Phật muốn chúng ta sống một mình, sống riêng một mình mà sống trong cái sự phòng hộ của sáu căn. Khi đi ra mà sống một mình, sống độc cư khi đi ra đường thì như thế nào? Nếu một người sống độc cư thì đi ra đường, dù đi nơi đâu chứ không phải là giam mình ở trong nhà mà gọi là độc cư. Cũng có đi ra đường, cũng có đi chỗ này chỗ kia nhưng cái đi của chúng ta như thế nào để đúng là hạnh độc cư.

Với mắt cúi nhìn xuống - con mắt nhìn xuống dì chứ không có ngó qua ngó lại, đó là phòng hộ nhãn căn, phòng hộ mắt để cho mắt không có dính mọi vật tức là giữ gìn mắt như vậy gọi là sống độc cư.

Chân đi không lưu luyến– cái chân chúng ta bước đi ở trên bước đường mà chúng ta đi ra khỏi cái thất của chúng ta rồi, cái vị trí của chúng ta rồi. Nhưng chúng ta đừng có để cái sự lưu luyến của chúng ta ở chỗ này chỗ kia chỗ nọ. Cho nên đó là độc cư đó. Cho nên vì vậy mà hôm nay chúng ta học cái bài này chúng ta biết được cái độc cư không có nghĩa là chúng ta khép chặt mình ở trong một khuôn viên nào đó mà chúng ta đi tới đi lui nhưng phải có sự phòng hộ. Mắt mình nhìn xuống, chân đi không lưu luyến thì đó là độc cư đó. Cho nên chúng ta thấy rằng chúng ta đi ra mà chúng ta giữ gìn được trọn vẹn như vậy thì gọi là độc cư. Còn nếu mà giữ gìn không được trọn vẹn như vậy thì không nên đi ra.

Các căn được hộ trìthì mắt tai mũi miệng thân ý của mình đều được giữ gìn không có cho nó dính mắc vào các trần, các pháptrần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đừng có cho nó dính mắc vào. Vì vậy mà chúng ta luôn luôn phải hộ trì các căn. Mà khi hộ trì các căn như vậy tức là chúng ta đã sống độc cư đó.

Tâm ý khéo chế ngự– cái tâm với cái ý của chúng ta luôn luôn lúc nào cũng chế ngự, không có cho nó khởi lên sự ham muốn cái này cái nọ cái kia. Đó là chúng ta khéo mà chế ngự được tâm mình như vậy, đó là mình sống độc cư đó.

Không đầy ứ rĩ chảy

Không cháy đỏ bừng lên

Nghĩa là nó không có chảy ra, nó không có đổ ra, nó không có khởi ra, nó không nghĩ ra cái ham muốn, cái này cái kia, thì đó là những cái lậu hoặc nó không có rỉ ra được. Mà không có rỉ chảy ra được thì tâm chúng ta rất là thanh thản. Cho nên nó không có khởi ra vì tâm ý mình khéo chế ngự cho nên nó không có khởi nghĩ ra cho nên nó không có bị chất chứa, nó không có bị ức chế, mình chế ngự nó. Mình không làm cho nó dính mắc trong những cái đối tượng của hiện tại đối với nó. Và tâm của chúng ta khéo tu định Vô lậu, xả trừ những cái lậu hoặc cho nên vì vậy mà nó không có đầy ứ mà rỉ chảy ra. Vì vậy mà tâm ý chúng ta nó không có phiền não, không có đau khổ, nó không có sân hận cho nên không cháy đỏ bừng lên - tức là không có sân hận, không có giận dữ nữa, nó thanh thản, nó nhẹ nhàng, nó an ổn. Đó là những cái điều kiện như vậy là những cái điều kiện sống độc cư, sống cô đơn, sống một mình.

Người tu cần phải biết- người tu sĩ chúng ta cần phải hiểu biết như vậy. Đó là cái lối sống một mình đó, giống như con tê ngưu một sừng. Bởi vì, khi mà chúng ta đi ra, hoặc đi tới đi lui ở trong thất của chúng ta cũng vậy, chúng ta nhìn xuống giữ gìn mắt của mình (cúi nhìn xuống); chân đi thì không lưu luyến - không lưu luyến một cái chỗ nào cả hết. Các căn thì luôn luôn lúc nào cũng hộ trì, tâm ý thì khéo chế ngự không để cho lậu hoặc rỉ chảy ra, không sân hận bừng cháy lên thì đó là chúng ta đã sống hạnh độc cư, đã sống đúng người độc cư.

Mà nếu mà chúng ta không có giữ gìn được, không có giữ gìn cái chỗ tu hành được như vậy thì tức là chúng ta không phải là người sống độc cư. Cho nên sống độc cư thế nào các thầy thấy: khi đi chúng ta nhìn xuống chân rồi tu tập định Chánh niệm tỉnh thức trong cái hành động của mình cho nên Chánh niệm tỉnh thức thì trong chánh niệm thì có lưu luyến gì nữa không. Đâu có lưu luyến gì, luôn luôn lúc nào cũng phòng hộ sáu căn, không có được để cho nó duyên theo các trần làm cho nó bị dính mắc cho nên các căn chúng ta thanh tịnh, tâm ý thì khéo chế ngự, làm cho nó không có rỉ chảy ra những cái lậu hoặc, không có sân hận không có giận dữ, không có làm những cái điều ác. Đó là những cái mà hành động đó là những hành động sống độc cư, sống cô đơn, sống một mình giống như con tê ngưu một sừng.

Đây Thầy đọc lại bài kệ ba mươi này để cho quý thầy và các con suy ngẫm, cố gắng giữ gìn trên bước đường tu tập mà Thầy đã dạy các con có những cái định: định Chánh niệm tỉnh thức, định Sáng suốt - tu cái tâm thanh thản, định Vô lậu - thì ở chỗ này đó là chúng ta phòng hộ sáu căn, đều là do cái sự tu tập tỉnh thức của chúng ta.

Với mắt cúi nhìn xuống.

Chân đi không lưu luyến

Các căn được hộ trì

Tâm ý khéo chế ngự

Không đầy ứ rỉ chảy

Không cháy đỏ bừng lên

Người tu cần phải biết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Đó là bài kệ thứ ba mươi. Bây giờ Thầy tiếp tục bài kệ thứ Ba mươi mốt.

BĂNG SỐ 61

Bây giờ Thầy xin đọc lại để quý thầyvà các con lắng nghe cho kỹ. Đây Thầy đọc:

Hãy trút bỏ để lại

Các biểu tượng thế gian

Như loại cây san hô

Loại bỏ các nhành lá

Dù đắp áo cà sa

Ra khỏi nhà thế tục

Người tu sĩ cần biết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bây giờ Thầy sẽ giải thích cho các thầy và các con nghe.

Ở đây cái bài kệ hai câu đầu thì đức Phật khuyên cái người tu, khuyên chúng ta tu hành thì hai câu đầu:

Hãy trút bỏ để lại.

Các biểu tượng thế gian.

Nghĩa là chúng ta trút bỏ lại hết tất cả những cái cuộc sống, những cái biểu tượng, những cái hình ảnh, những cái sắc tướng, những cái tham đắm những cái gì mà của thế gian chúng ta bỏ sạch ra, chúng ta bỏ sạch. Mà đức Phật ví như hai câu kệ kế thì đức Phật ví như cái loại cây san hô nó trút bỏ cái nhành lá của nó hết, nó còn có trơ trụi những cái cọng mà thôi, cái cây nó mà thôi chứ nó không còn có cái gì nữa hết. Thì chúng ta là những người quyết tâm đi tìm con đường giải thoát thì chúng ta trút bỏ những cái biểu tượng của thế gian, những cái cuộc sống của thế gian. Vì cái cuộc sống của thế gian là cuộc sống dính mắc, cái cuộc sống đau khổ, cái cuộc sống đưa đến cho chúng ta nhiều cái tạo thành những nhân quả thiện ác để rồi tiếp tục ở trên con đường tái sanh luân hồi mãi mãi mà không bao giờ dứt. Cho nên cái người muốn tu theo đạo Phật thì phải trút bỏ hết, để lại hết không có mang theo, không có lấy theo một cái gì của thế gian nữa hết, bỏ xuống hết.

Mặc dù là chúng ta đắp áo cà sa đi tu rồi, ra khỏi nhà thế tục nhưng chúng ta mà không hiểu biết, không có trút bỏ ra hết thì vẫn còn mang theo trong chiếc áo cà sa của chúng ta. Bằng chứng như bây giờ đó thì các thầy cũng như các con cũng thấy có nhiều người tu hành theo đạo Phật cũng đắp áo cà sa, cũng trong hàng giáo phẩm là Đại đức, Thượng tọa rồi Hòa thượng nhưng họ chưa có trút bỏ hết đâu. Họ còn sống ở trong những cái biểu tượng của thế gian, những hình ảnh của thế gian, những tham đắm của thế gian. Vào trong chùa thấy tất cả những gì mà thế gian sống là họ có đủ những cái đó. Và cũng vì vậy mà họ không thể nào mà sống độc cư được. Cho nên cuối cùng thì chúng ta thấy trong chiếc áo cà sa của chúng ta chưa có cái trong sạch, nó còn cái ô nhiễm. Ngoài thì che chiếc áo cà sa nhưng bên trong nó còn rất nhiều cái sự ô nhiễm của nó.

Cho nên người tu hành theo đạo Phật khi mà chúng ta chấp nhận con đường tu thì chúng ta phải xả bỏ hết, trút hết xuống, không có đem theo một cái gì cả hết, chỉ còn có duy nhất là hướng đến cái sự giải thoát, chấm dứt cái sự tái sanh luân hồi, không còn khổ đau nữa và chấm dứt trong một cái đời. Chứ đừng có đắp chiếc áo cà sa ra khỏi nhà thế tục, sống trong một ngôi chùa, một cái tu viện, một cái thiền viện mà cái tâm tư của thế gian, mà cái cuộc sống của thế gian; vật chất đầy đủ, máy móc đầy đủ, phương tiện đầy đủ thì thử hỏi những người đó làm sao mà giải thoát được, đời sống không xa lìa cái ăn cái ngủ thì làm sao giải thoát được. Ăn uống phi thời, còn ăn uống lặt vặt nữa là khác, ngủ nghỉ phi thời không giờ giấc nhất định làm sao mà không mê muội, không vô minh. Cho nên ở đây đức Phật khuyên bài kệ thứ ba mươi mốt. Nếu chúng ta là người quyết sống một mình thì hãy xả bỏ hết những của cải tài sản, những cái hình ảnh sắc tướng của thế gian, dẹp sạch xuống thì gọi là sống một mình, sống riêng một mình như con tê ngưu một sừng. Nếu chúng ta không xả hết không bỏ hết dù là chúng ta đắp chiếc áo cà sa ra khỏi nhà thế tục nhưng cuộc sống chúng ta không buông xả. Thì đương nhiên coi như chúng ta chưa phải là người sống độc cư. Độc cư không có nghĩa là không nói chuyện với mọi người, không có giao thiệp tiếp duyên với mọi người mà còn buông xả hết mọi vật xung quanh mới gọi là độc cư. Còn mang theo cái vật này vật kia, xung quanh chúng ta còn nhiều thì chưa hẳn đã là độc cư. Cho nên độc cư phải mang đầy đủ cái ý nghĩa là xả bỏ hết thì mới đầy đủ ý nghĩa của độc cư.

Chúng ta chỉ còn có đi tìm con đường giải thoát cho nên cởi bỏ hết những gì của thế gian thì mới có thể giải thoát được. Chưa cởi bỏ là làm sao mà giải thoát được. Vì thế Thầy cũng quyết tâm cởi bỏ hết để chúng ta tìm con đường giải thoát hoàn toàn, còn vướng mắc một cái gì thì không ra khỏi nhà thế tục, không có trút bỏ được hết thì làm sao mà giải thoát, như còn đồ chúng, như còn chùa còn tu viện, còn cái này còn cái kia thì làm sao mà giải thoát được. Cho nên phải vứt bỏ, vứt bỏ cả danh cả lợi, bỏ tất cả mọi cái để mà chúng ta không còn gì nữa cả. Có như vậy chúng ta mới giải thoát được, mới độc cư trọn vẹn được, mới cứu mình ra khỏi ngôi nhà sanh tử, làm chủ luân hồi, mới chấm dứt được. Cho nên bài kệ này đầy đủ ý nghĩ: dù có đắp chiếc áo cà sa mà không chịu vứt bỏ thì cũng khó mà giải thoát được. Hình ảnh như tu sĩ Phật giáo hiện giờ khắp cùng trên thế gian này tu rất nhiều nhưng trút bỏ để sống độc cư thì chắc chắn chưa ai đã trút bỏ hết sạch. Vì thế mà chẳng tìm thấy con đường giải thoát của Đạo Phật được.

Thầy xin đọc lại bài kệ để chúng ta suy ngẫm, suy ngẫm để nghiệm coi con đường tu của mình có độc cư, có sống riêng một mình chưa, xả bỏ hết chưa.

Đây các thầy và các con hãy nghe lại kỹ:

Hãy trút bỏ để lại

Các biểu tượng thế gian

Như loại cây san hô

Loại bỏ các nhành lá

Dù đắp áo cà xa

Ra khỏi nhà thế tục

Người tu sĩ phải biết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bây giờ đến Bài kệ thứ ba mươi hai, Thầy xin đọc để các thầy và các con suy ngẫm những lời Phật dạy để chúng ta sống cho đúng những cái hạnh của người tu, để tu tập mới có được sự giải thoát hoàn toàn, chấm dứt được sự sanh tử và luân hồi.

Đâybài kệ Thầy xin đọc:

Không tham đắm vật chất

Không tham, không tạo tác

Không nhờ ai nuôi dưỡng

Chỉ khất thực từng nhà

Đối với mọi gia đình

Tâm không bị trói buộc

Người tu sĩ phải biết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Ở trên đức Phật bảo chúng ta hãy trút bỏ hết tất cả mọi biểu tượng của thế gian. Còn ở dưới này, bài kệ thứ ba mươi hai thì đức Phật dạy chúng ta không có tham đắm những cái vật chất. Tất cả những cái gì vật chất xung quanh chúng ta, vật gì chúng ta cũng đừng tham đắm hết. Đến cái bát của chúng ta ăn cơm hàng ngày cũng không có tham đắm. Có thì dùng không có thì thôi chứ không có sợ hãi. Mất cái bát của mình ai lấy thì tiếc, đừng có chấp cái đó.

Không tham không tạo tác- không có tham lam, không có tham muốn nữa mà cũng không có tạo tác ra cái này cái kia.

Không nhờ ai nuôi dưỡng- vì mình nhờ người khác nuôi dưỡng mình tu hành thì nó còn có những cái khó, khó đối xử lắm. Cho nên chúng ta chỉ khất thực từng nhà, do sự đi xin từng nhà đó thì chúng ta đối với mọi gia đình không có ràng buộc. Mình xin rồi thôi rồi mai mình xin người khác, cho thì mình sống không cho thì thôi. Chớ còn nhờ người khác nuôi nó có cái ơn trong đó, nó làm chúng ta rất khó xử. Nhiều khi họ sơ suất thì làm cho mình buồn, hoặc là họ quá nồng nhiệt giúp đỡ mình thì mình thấy cái ơn nó ái ngại ở trong lòng của mình. Nó khó chịu, nó làm cho tâm mình nó bị trói buộc. Cho nên mình đi khất thực từng nhà, đi xin mọi gia đình từ cái người nghèo đến người giàu, không bị ai ràng buộc, không bị Phật tử ràng buộc. Mình không bị trói buộc do đó mình rất là sống thoải mái trên bước đường tu tập của mình. Cho nên tâm không có bị trói buộc bởi những cái tình cảm bởi những người lo cho mình thế này thế khác. Mình không có bị những tình cảm trói buộc đó.

Người tu sĩ phải biết- mình phải rõ biết được; mình đi tu rồi mình phải rõ biết được mọi từng chút từng chút. Mình phải cố gắng riêng mình, nếu mà còn để một cái sự gì trói buộc, tình cảm gì trói buộc chúng ta thì chúng ta phải thấy rằng con đường tu của chúng ta sống hạnh độc cư rất là khó.

Bởi vậy trong cái thời đại của chúng ta không phải giống như trong thời đại của đức Phật. Chúng ta đi xin từng nhà hiện giờ rất là khó khăn, không phải dễ. Muốn được mà sống mà yên ổn tu hành thì chúng ta phải biết, phải hiểu rõ được cái hoàn cảnh, cái thời điểm của mình. Phải sống làm sao để cho tâm nó không bị trói buộc, nó không bị ràng buộc thì như vậy chúng ta mới sống độc cư mới được. Còn có sự ràng buộc, có sự trói buộc thì khó mà sống độc cư.

Bài kệ này thì đức Phật bảo chúng ta cái điều chính của nó là đừng có tạo tác, đừng tham. Mà không tạo tác, không nhờ ai nuôi dưỡng, chỉ đi ăn xin mà thôi. Sống như vậy mới có thể sống độc cư mới trọn vẹn. Còn không sống được vậy thì khó mà độc cư trọn vẹn, rất khó mà sống độc cư trọn vẹn. Mà không độc cư trọn vẹn thì chúng ta khó mà đi đến con đường giải thoát, khó mà tìm thấy cái con đường đi đến cứu cánh cho chính mình ra khỏi nhà sanh tử luân hồi.

Thầy xin đọc lại bài kệ này để cho quý thầy và các con suy ngẫm. Mà suy ngẫm để sống cho đúng cái hạnh độc cư, để sống cho đúng cuộc sống riêng một mình:

Không tham đắm vật chất

Không tham, không tạo tác

Không nhờ ai nuôi dưỡng

Chỉ khất thực từng nhà

Đối với mọi gia đình

Tâm không bị trói buộc

Người tu sĩ phải biết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bây giờ Thầy đọc đến Bài kệ thứ ba mươi ba:

Từ bỏ năm triền cái

Che đậy trói buộc tâm

Đối với mọi kiết sử

Hãy trừ khử dứt sạch

Không y cứ nương tựa

Chặt đứt ái sân hận

Người tu sĩ cần biết

Hãy siêng sống một mình

Như tê ngưu một sừng.

Nghĩa là bài kệ này đức Phật khuyên chúng ta chỉ có sống một mình thì chúng ta mới từ bỏ được năm cái triền cái. Năm triền cái là tham sân si mạn nghi, luôn luôn nó che mờ nó làm chúng ta không thấy. Nó trói buộc chúng ta rất chặt. Và thất kiết sử - bảy cái kiết sử mà bài kệ trước Phật đã nhắc nhở. Hãy trừ khử dứt sạch các kiết sử, các cái dây này, không có y cứ nó mà nương tựa nó. Nghĩa là ái kiết sử thương ghét, đừng có y cứ vào cái chỗ thương ghét đó. Người ta thương mình thì điều đó cũng là tai hại, nguy hiểm cho sự tu tập của mình làm cho mình khó mà có thể vượt qua, có thể sống độc cư trọn vẹn được. Làm sao mà vượt qua được những cái ái kiết sử đó.

Chặt đứt ái sân hận - cái kiết sử mà sân hận này nó cũng là cái nguy hiểm hết sức, nó làm chúng ta khó mà có thể độc cư được. Mà chỉ có độc cư thì chúng ta mới dứt sạch ái kiết sử, ái sân hận, ái tham, ái si, ái vô minh. Tất cả những cái này nó nhờ độc cư mà có thể nó dứt được. Cũng như năm ngũ triền cái tham sân si mạn nghi che đậy phủ mờ làm chúng ta không có thấy. Mà người độc cư là người mới dứt sạch, mới từ bỏ được. Còn không có độc cư thì khó mà từ bỏ năm cái triền cái và thất kiết sử được. Cho nên người tu sĩ phải thấy rõ được cái điều này rất là quan trọng. Là phải sống độc cư, sống riêng sống một mình thì mới dứt được năm triền cái, mới ly được năm triền cái, mới đoạn dứt bảy kiết sử.

Đó là cái bài kệ thứ ba mươi ba. Muốn dứt trừ năm triền cái và thất kiết sử thì phải sống độc cư, phải sống một mình thì mới chặt đứt được tất cả những cái này, thì chúng ta không còn nương tựa nó được. Còn nếu chúng ta không sống một mình thì chúng ta sống có người này người kia người nọ thì tức là chúng ta nương tựa thất kiết sử và năm ái triền cái này. Vì vậy con đường tu hành của chúng ta chẳng đi tới đâu hết. Cuối cùng thì đời chẳng ra đời mà đạo chẳng ra đạo.

Như chúng ta dù có đắp áo cà sa mà chúng ta không độc cư thì muôn đời ngàn đời chúng ta cũng khó mà có thể giải thoát được. Thì trong chiếc áo cà sa đó dãy đầy năm cái triền cái và thất kiết sử trói buộc cái vị mà đắp áo cà sa đó. Bằng chứng như các thầy cũng như các con đã thấy tu sĩ chúng ta hiện giờ khắp cùng trên thế giới này về đạo Phật rất đông nhưng họ vẫn sống không đúng hạnh độc cư, họ không sống riêng một mình cho nên họ bị năm triền cái và thất kiết sử trói buộc rất chặt chẽ không thể nào mà họ thoát ra khỏi. Cho nên họ luôn luôn có thể nói rằng cuộc đời của họ liên tục, tiếp diễn ở trong sự luân hồi tái sanh, trong sáu nẻo ba đường không bao giờ thoát ra khỏi. Họ tu từ kiếp này đến kiếp khác cũng không bao giờ tìm thấy con đường giải thoát được vì cái lối sống của họ, vì họ sống không đúng hạnh, họ sống không độc cư, họ sống không riêng sống một mình. Họ không giống như con tê ngưu một sừng cho nên họ luôn luôn bị trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi; có khi đọa địa ngục nữa là khác. Như vậy cái bài kệ này nhắc nhở chúng ta. Mỗi một bài kệ đều có một ý nghĩa của nó để đưa chúng ta đi vào cái sự sống đúng cái hạnh sống độc cư, sống riêng một mình để thực hiện con đường giải thoát của đạo Phật.

Bài kệ thứ ba mươi bốn:

Hãy xoay lưng trở lại

Đối với lạc và khổ

Cả đối với hỷ ưu

Được cảm thọ từ trước

Hãy chứng cho được xả

Tâm an chỉ thanh tịnh

Người tu cần phải biết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

ĐứcPhật dạy chúng ta xoay lưng trở lại với cuộc đời chứ không phải chạy theo cuộc đời, mà xoay lưng trở lại nghĩa là sống ngược trở lại. Người ta chạy theo vật chất thì chúng ta ngược lại xả bỏ hết vật chất. Người ta thương yêu giận hờn thì chúng ta xoay lưng trở lại không còn thương yêu gì hết. Chúng ta xả hết, xả hết. Đối với những cái lạc của thế gian, cái cám dỗ của thế gian làm cho thích thú thì chúng ta xoay lưng trở lại, không tìm cái lạc cho mình. Và đứng trước cái khổ, cái thọ khổ chúng ta cũng chẳng hề sợ hãi. Trước cái thọ khổ của con đường đi tìm con đường giải thoát gặp khó khăn khổ sở chúng ta chẳng sờn lòng tiến bước đi về phía khổ sở. Mặc dù bữa đói bữa no là cái khổ, bữa lạnh bửa lẽo áo y không đủ mà chúng ta vẫn vui vẻ. Sống xoay lưng lại, ngược lại với cuộc sống đầy đủ vật chất của thế gian.

Dù là từ trước tới giờ chúng ta có những cái thói quen, đã cảm thọ những cái lạc, cái khổ, cái hỷ ưu, những cái vật chất thế gian đã cám dỗ chúng ta đã thành những thói quen từ trước. Nhưng bây giờ khi mà chúng ta đã quyết định đi tìm con đường giải thoát thì nhất định chúng ta phải xoay lưng trở lại, chúng ta phải xả bỏ nó. Cho nên chúng ta phải chứng được, phải chứng được cái sự xả đi, xả ly nó ra. Nghĩa là chúng ta phải làm sao bỏ cho được, mà muốn bỏ được chúng ta phải sống độc cư, sống riêng một mình. Chỉ có sống độc cư, sống riêng một mình thì ta mới xả được nó, còn nếu mà không có sống riêng một mình, không có sống độc cư thì làm sao chúng ta xả được nó.

Cho nên câu kệ dạy chúng ta:

Hãy chứng cho được xả

Tâm an chỉ thanh tịnh.

Nếu mà chúng ta sống độc cư được thì chúng ta mới xả được. Chúng ta xả được thì tâm chúng ta mới có an chỉ, mới có thanh tịnh được. Còn nếu mà xả không được nó, không xoay lưng được lại với nó thì chúng ta không bao giờ có sự thanh tịnh, có sự an chỉ được. Cho nên hiện giờ các thầy cũng như các con đã thấy mọi người tu người ta không xoay lưng lại với cuộc đời vì thế mà tâm người ta không có an chỉ đâu, tâm của họ không có thanh tịnh đâu.

Do cái chỗ này chúng ta phải biết cái mấu chốt của sự tu tập của chúng ta là cái cuộc sống phải sống riêng một mình, phải sống độc cư thì chúng ta mới từ giã, mới xả được cái thọ của hỷ ưu, cái thọ của lạc, cái thọ của khổ; mới xoay lưng lại cuộc đời mới được. Cuộc đời thì người ta thích hội họp vui vẻ, lý luận cái này nói chuyện kia làm cho vui vẻ với nhau. Còn chúng ta xoay lưng trở lại chúng ta sống thui thủi một mình, sống trầm lặng một mình, sống cô đơn một mình. Đó là cái lối sống của bậc tu sĩ.

Muốn được vậy thì các thầy phải nỗ lực, phải cố gắng, phải sống cho đúng cách, sống cho riêng một mình, sống độc cư. Không phải ở chỗ độc cư là cái chỗ chúng ta câm không nói, nhưng chúng ta biết lúc nào mà đúng thời chúng ta nói mà không đúng thời thì chúng ta không nói. Cho nên sống độc cư có nghĩa là sống riêng một mình nhưng đúng thời. Chúng ta nói những cái gì đúng thời, hợp lý chứ không có nói tầm bậy tầm bạ, không có hội họp. Cho nên những gì mà người ta cần hỏi mình thì mình cần trả lời, hoặc những gì cần thiết cho con đường tu tập của mình thì mình hỏi, chứ đâu phải là mình câm. Mình nói chuyện nhưng không phải nói chuyện tào lao, nói chuyện tầm bậy, không kết hợp không đi tới chỗ này, đến chỗ kia chơi. Mình xoay lưng ngược trở lại với cuộc đời là mình sống như vậy, nó mới đúng cái chỗ mà mình tu tập.

Bài kệ thứ ba mươi bốn là cái bài kệ dạy chúng ta xoay lưng lại với cuộc đời. Xoay lưng lại với thọ khổ thọ lạc, xoay lưng lại với hỷ ưu mà cố gắng để mà xả cho được, xả cho hết. Mà xả được thì tâm nó an chỉ nó thanh tịnh thì mới sống độc cư trọn vẹn. Con đường tu tập giải thoát chấm dứt sự sanh tử luân hồi mới được dễ dàng.

Bây giờ Thầy đọc đến Bài kệ thứ ba mươi lăm:

Tinh cần và tinh tấn

Đạt được lý chơn đế

Tâm không còn thụ động

Không còn có biếng nhác

Kiên trì trong cố gắng

Dũng lực được sanh khởi

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bây giờ Thầy sẽ giảng bài kệ thứ ba mươi lăm này.

Chữ “tinh cần ““tinh tấn“ “tinh cần “nghĩa là siêng năng, cẩn thận, cần kiệm. Mỗi mỗi chúng ta trong cái pháp tu rất là ân cần mỗi cái pháp, siêng năng ở trong mỗi cái pháp. Còn “tinh tấn“ đây có nghĩa là siêng năng. Siêng năng nghĩa là tinh cần, luôn luôn chúng ta phải cần mẫn trong những cái pháp mà Thầy đã giảng xong. Những pháp hành thì quý thầy phải cố gắng để mà tu tập, để mà thực hiện, để mà hằng ngày siêng năng làm những cái việc như trau dồi Tứ vô lượng tâm, hay hoặc là mình sẽ dứt bỏ như tu Tứ chánh cần. Rồi dùng cái pháp hướng, rồi dùng tu tập cái Định vô lậu, tu tập định Chánh niệm tỉnh thức, rồi tu tập siêng năng đi kinh hành để tu tập cái tâm từ, tâm bi, tâm hỷ và tâm xả của mình, rồi tu tập định niệm hơi thở nữa, rồi nỗ lực mà tu tập cái định diệt tầm còn tứ. Tất cả những cái vấn đề đó đều cần phải tu tập, nhất là cái định Vô lậu thì cần phải tu tập nhiều nhất nữa. Tại sao phải tinh cần? Tinh cần nghĩa là cần mẫn, siêng năng tu tập cái định vô lậu. Tại vì cái định vô lậu nó làm cho chúng ta có tri kiến sáng suốt và hiểu biết. Do cái chỗ mà siêng năng tu tập tinh cần trong cái định Vô lậu thì càng ngày chúng ta càng phát triển ra được cái trí tuệ. Cái trí tuệ đó nó sẽ thấu suốt được cái lý chơn đế.

Cái lý chơn đế  - cái lý thật của đạo Phật, cái lý thật của đạo giải thoát. Nó làm cho quý thầy thấu suốt được cái lý, chứng được cái lý chơn đế. Thì trong chơn đế chúng ta thấy có bốn đế: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Hằng ngày mà chúng ta nỗ lực tu tập để mà phá năm cái triền cái và thất kiết sử thì chúng ta mới rõ thấu được cái lý của chân đế.

- Khổ: chúng ta sẽ thấu rõ được cái lý khổ chân thật của đời người. Khi con người sanh ra là mang cái khổ. Từ ngày sanh cho tới khi cái ngày chết, rồi tiếp tục cái đời khác, kiếp khác thì mãi mãi ở trong cái đau khổ của cái nhân quả luân hồi mà không bao giờ chấm dứt. Đó là khổ.

- Tập là cái nguyên nhân để mà kết hợp lại, cái nguyên nhân để tập hợp lại tất cả những cái sự đau khổ của kiếp con người. Chúng ta sẽ thấu rõ được cái nguyên nhân đó. Cái nguyên nhân đó  - đó là một cái chơn đế, một cái lý của chơn đế. Chúng ta thấu suốt được cái khổ của kiếp người tức là chúng ta thấu suốt được một cái lý chơn đế của kiếp người đầy đau khổ.

- Rồi Tập đế chúng ta lại thấu suốt cái lý của tập đế. Cái lý của Tập đế là cái nguyên nhân tập hợp lại bao nhiêu cái sự khổ của kiếp con người.

- Rồi tiếp tục chúng ta sẽ đạt được cái lý của Diệt đế. Tức là cái Niết bàn, cái cảnh giới, cái trạng thái an ổn, cái trạng thái bất động tâm giải thoát, cái trạng thái thanh thản, nó không có làm cho chúng ta đau khổ nữa. Đó là cái Niết bàn. Tức là cái lý chơn đế của cái Niết bàn. Nó không có mơ hồ, nó không có trừu tượng, nó không có siêu hình mà nó sự thật trong cái trạng thái tâm hồn của chúng ta. Đó là cái lý chơn đế giải thoát, cái lý chơn đế Diệt đế.

- Đến cái lý chơn đế Đạo đế thì chúng ta sẽ rõ nó có tám cái nẻo để mà chúng ta thực hiện diệt cái tập khởi cái Tập đế, diệt cái nguyên nhân tụ tập, câu hữu lại để làm cho chúng ta đau khổ suốt cả đời của chúng ta. Đó là cái lý Đạo đế, cái lý chơn đế của Đạo đế làm chúng ta thấu suốt đời.

Cho nên chúng ta tu tập càng siêng năng thì tất cả các lý chơn đế chúng ta đều thông suốt, đều đạt được cái lý chơn đế. Tức là chúng ta chứng được cái lý chơn đế. Mà chứng được cái lý chơn đế tức là tâm chúng ta bất động, không còn giao động nữa cho nên nó không còn bị động.

Ở đây cái câu kệ thứ ba của bài kệ “Tâm không còn thụ động”. Nếu mà đạt được cái lý chơn đế rồi thì cái tâm của chúng ta không còn bị động nữa, không còn thụ động tức là không còn bị các pháp thế gian lôi cuốn chúng ta, tâm chúng ta bất động như như. Và khi mà chúng ta đã thấu được cái lý chơn đế rồi thì không còn biếng nhác nữa. Tức là chúng ta tinh tấn, siêng năng chứ chúng ta không còn có biếng nhác nữa, và cũng từ đó chúng ta nỗ lực hằng ngày siêng năng.

Cho nên ở đây quý thầy mà thấu suốt được rồi thì quý thầy cố gắng mà tu tập để chúng ta thấu được cái lý của chơn đế. Cái lý chơn đế tức là bốn cái đế mà chúng ta cần phải thấu suốt. Chỉ có tu tập, chỉ có nỗ lực thực hiện con đường mà định Vô lậu thì chúng ta thấu suốt mau đạt được cái lý chơn đế rốt ráo, nhanh chóng, không có thời gian kéo dài. Còn nếu mà chúng ta ít có tu cái định vô lậu thì chúng ta khó mà thấu suốt được cái lý chơn đế. Cho nên chúng ta không còn biếng nhác, không còn lười biếng nữa mà rất là siêng năng, rất là tinh tấn trong cái sự tu tập. Cho nên trong mọi cái sự khó khăn thì chúng ta đều có cái sự kiên trì trong cái sự cố gắng. Tuy là bước đường tu tập hằng ngày chúng ta hướng tâm như cái lý tác ý để thấu được cái lý chơn đế nhưng nó còn có những cái khó khăn. Hoàn cảnh khó khăn, cuộc sống khó khăn, nghiệp thân khó khăn. Nó đau bệnh này bệnh kia nó cũng làm chúng ta khó khăn. Cho nên những cái khó khăn đó nó cũng làm cho chúng ta phải có một cái nghị lực, phải có kiên trì trong cái sự cố gắng tu tập. Còn nếu không có sự kiên trì, không có sự cố gắng tu tập thì chúng ta chẳng đạt được cái lý chơn đế.

Bởi vậy trong cái bước đường mà tu tập của đạo Phật thì quý thầy phải sáng suốt, phải siêng năng, phải tinh cần, phải nỗ lực không có được biếng trễ. Vì có cố gắng, có kiên trì, có nỗ lực, có tinh cần thì cái lý chơn đế mới đạt được. Và cũng từ cái sự kiên trì cố gắng đó nó không còn có lười biếng thì cái dũng lực ở trong ta nó được sanh khởi. Mà muốn đạt được cái sự tu tập từ tinh cần, siêng năng để đạt được cái lý chơn đế, tâm không còn thụ động, tâm không còn biếng nhác, có cái sự kiên trì, có sự cố gắng, có đầy đủ nghị lực, dũng lực phát khởi trong ta thì người ấy phải sống riêng một mình. Người ấy phải sống độc cư, nếu mà không sống độc cư, không sống riêng một mình thì không thể nào có tinh cần, tinh tấn, có đạt được lý chơn đế, có tâm không còn bị thụ động, tâm không còn lười biếng. Phát khởi những cái sự kiên trì cố gắng dũng lực thì những cái này sẽ được phát khởi thì chỉ có duy nhất là phải sống độc cư. Còn nếu không sống độc cư thì không bao giờ có được những cái này. Nghĩa là cái người mà không chịu sống độc cư thì không bao giờ có sự tinh cần, có sự tinh tấn; không bao giờ có đạt được lý chơn đế; không bao giờ mà có cái tâm bất động được; không bao giờ hết lười biếng được; không bao giờ có nghị lực, có kiên trì, có cố gắng, có dũng lực để mà đạt được cái sự tu tập này. Cho nên phải chỉ duy nhất là chúng ta phải sống riêng một mình, sống riêng một mình để thực hiện những cái gì mà Thầy đã dạy, Phật pháp đã dạy, kinh sách Phật đã dạy, lời Phật đã dạy - đừng quên những điều này. Cho nên ở đây Phật nói là:

Hãy sống riêng một mình.

Như tê ngưu một sừng.

Đó thì cái bài kệ nào đức Phật cũng nhắn nhủ chúng ta muốn đạt được những cái gì ở trên cái bài kệ đã nói, cái mục đích của bài kệ đã nói thì chỉ có duy nhất là phải sống riêng một mình. Có sống riêng một mình thì chúng ta mới đạt được cái kết quả vô cùng vĩ đại đó, còn nếu không có được thì chắc chắn chúng ta khó mà có kết quả được.

Đến đây Thầy sẽ đọc tiếp Bài kệ thứ ba mươi sáu:

Không từ bỏ độc cư

Không viễn ly thiền định

Thường thường sống hành trì

Tùy pháp trong các pháp

Chơn chánh nhận thức rõ

Nguy hiểm trong sanh hữu

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Ở đây bài kệ thứ ba mươi sáu đức Phật vô câu kệ đầu, đức Phật khuyên không được từ bỏ độc cư, nghĩa là không được sống riêng một mình và không có tách lìa các thiền định. Như Thầy đã dạy các thầy thấy như thánh chánh niệm phòng hộ sáu căn, thiền Chánh niệm tĩnh giác định, Định vô lậu, Định sáng suốt, Định niệm hơi thở, Định hiện tại an lạc trú. Tất cả những cái loại định này thì quý thầy cần phải siêng năng mà tu tập đừng có lười biếng mà bỏ qua, đêm ngày nỗ lực tu tập. Cho nên ở câu kệ thứ hai Phật nói “Không viễn ly thiền định”.

Câu thứ ba thì Phật dạy “Thường thường sống hành trì” - luôn luôn phải hành trì thiền định, luôn luôn phải hành trì cái hạnh độc cư. Thì nhớ những lời Phật đã dạy trong bài kệ thứ ba mươi sáu này thì thứ nhất là không có được bỏ cái hạnh độc cư. Làm sao phải khép chặt mình trong cái hạnh độc cư để mà tu tập  - đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai là đừng có xa lìa, đừng có nghĩ bửa nay mình nghỉ, ngày mai rồi hãy tu thiền nữa, ngồi thiền. Không, ngày nào cũng phải giữ gìn giờ giấc nghiêm chỉnh chứ đừng có viễn ly thiền định. Hãy luôn luôn hành trì, hãy luôn luôn tu tập đừng có giờ giấc nào mà bỏ nó. Lúc nào có thể tu tập được là cứ hành trì các loại thiền mà Thầy đã dạy. Nhất là muốn giữ gìn cái hạnh độc cư, tức là chúng ta phòng hộ sáu căn của chúng ta rất là cẩn mật. Vì tâm của chúng ta còn quá yếu, mà chúng ta đi tới đi lui nói chuyện này chuyện kia thì tâm dễ bị động, dễ bị dính mắc. Và dễ bị động, dễ bị dính mắc thì không có thể thực hiện được con đường tu tập theo đạo Phật được. Cho nên bài kệ thứ ba mươi sáu Phật khuyên:

Không từ bỏ độc cư

Không viễn ly thiền định

Thường thường sống hành trì

Tùy pháp trong các pháp

Tùy theo cái cơ thể, tùy theo sức lực của mình mà tu tập, rồi nương vào các cái pháp, theo các cái pháp trong các pháp mà tu tập. Cái pháp nào thì tu theo cái pháp nấy cho đúng. Ví dụ tu Tứ bất hoại tịnh thì phải tu thân niệm Phật như thế nào, tâm niệm Phật thế nào, thọ niệm Phật thế nào, các pháp niệm Phật thế nào. Rồi thân niệm pháp như thế nào, tâm niệm pháp như thế nào, thọ niệm pháp như thế nào, rồi các pháp niệm pháp như thế nào. Rồi đến thân niệm tăng như thế nào, tâm niệm tăng thế nào, thọ niệm tăng thế nào, các pháp niệm tăng như thế nào. Rồi đến thân niệm giới như thế nào, tâm niệm giới như thế nào, thọ niệm giới như thế nào, các pháp niệm giới như thế nào. Đó thì chúng ta tu Tứ bất hoại tịnh thì chúng ta phải thông suốt, phải rõ và hằng ngày chúng ta nỗ lực thực hiện những cái điều mà Thầy đã dạy trong Tứ bất hoại tịnh. Rồi đến Tứ vô lượng tâm phải thực hiện như thế nào, từ bi hỷ xả như thế nào. Phải thực hiện hằng ngày, tu tập nhiều quá, rất nhiều điều chúng ta tu tập.

Chúng ta biết áp dụng trong cái thiền định nào, trong cái pháp môn nào, tu tập cái gì cho đúng pháp của nó  - tức là tùy pháp trong các pháp.

Phải sáng suốt, phải nhận rõ, chơn chánh nhận thức rõ, nghĩa là phải nhận rõ cái pháp nào, cái pháp thế gian và cái pháp tu tập; cái pháp nào nguy hiểm, cái pháp nào không nguy hiểm, cái pháp nào giải thoát, cái pháp nào không giải thoát chúng ta phải nhận thức cho rõ ràng. Cái chơn chánh nhận thức rõ ràng đừng có để lạc lòng. Nhiều khi chúng ta tu những cái pháp mà Phật đã dạy bỗng dưng nghe các nhà Đại thừa nói pháp này pháp nọ kia nó cao, hay, nó tối thượng thừa thế này thế khác. Tâm chúng ta tham đắm do những cái danh từ rỗng toét làm cho chúng ta thích thú, do đó chúng ta bỏ cái pháp mà Phật dạy. Chúng ta chạy theo những cái pháp cao siêu hơn của các pháp Đại thừa, của Thiền Đông Độ chẳng hạn. Vì trong lúc đó chúng ta chạy đi như vậy thì chúng ta chưa đủ cái trí tuệ phán xét đâu là đúng đâu là sai. Vì vậy mà chúng ta mất đi rất nhiều thời gian để rồi sau cái thời gian đó chúng ta không thấy kết quả được, quay trở về với con đường chơn chánh của đạo Phật thì cái thời gian đó quá dài. Và tuổi chúng ta cũng già, sức chúng ta yếu kém dần cho nên đến cái giai đoạn này chúng ta sống đúng cái giới hạnh của đạo Phật rất là khó bởi vì ăn ngày một bữa, sống ít ngủ, thường xuyên năng đi kinh hành, tu tập Chánh niệm tĩnh thức hằng ngày không có lúc nào mà để rảnh rang, để cho chúng ta có cái thời gian mà rảnh rỗi được. Vì vậy mà sức yếu tuổi già rồi thì khó mà có thể thực hiện được con đường của đạo Phật. Bởi vậy quý thầy thấy rất rõ là cái người già khó mà theo cái đạo Phật tu lắm. Bởi vì ăn ngày một bữa mà già thì đâu có thể ăn ngày một bữa mà sống nỗi cho nên khó mà theo.

Nguy hiểm trong sanh hữu. Mà phải thấy rằng tất cả những các vật dụng, những cái gì mà xung quanh chúng ta gọi là có để mà nó phục vụ đời sống cho mình thì coi chừng những cái đó nó sẽ là nguy hiểm lắm. Nó làm cho chúng ta khó lắm, khó tu tập lắm. Cho nên chúng ta phải thấy chữ “sanh hữu” - hữu là có, sanh là sanh khởi ra những cái có, có cái này có cái kia, có cái nọ. Đó là những sự nguy hiểm. Cho nên đàn ông chúng ta không sanh khởi cái gì có nữa hết thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ khỏe rất khỏe. Và chúng ta cũng không chấp nhận cái gì có thêm, vì càng có thêm là càng có sự trói buộc làm chúng ta khó mà bước ra. Nó trở thành những cái kiết sử  - hữu ái kiết sử, nó trói buộc chúng ta rất chặt. Cho nên chúng ta bứt xuống, bỏ xuống được bao nhiêu thì chúng ta bỏ. Bởi vì chúng ta phải thấy nó là cái sự nguy hiểm rất lớn cho đời sống tu hành của chúng ta. Bỏ xuống hết, bỏ xuống hết, chỉ còn ba y một bát đi xin ăn mà thôi. Như vậy mới thực sự giải thoát hoàn toàn, tu tập thiền định mới có thể đi sâu vào được. Còn không khéo thì khó có thể thực hiện được đi sâu vào thiền định. Cho nên ở đây thì đức Phật khuyên chúng ta hãy sống riêng một mình, như tê ngưu một sừng. Cuối cùng bài kệ thứ ba mươi sáu thì Phật cũng khuyên chúng ta như vậy.

Đầu tiên thì đức Phật khuyên đừng có bỏ độc cư, đừng có viễn ly thiền định, thường sống hành trì, tùy pháp mà theo trong các pháp mà tu tập, nhận thức cho rõ đường lối cách thức tu tập của mình có mờ mịt hay không, có không rõ chưa, có chơn chánh hay không, có chánh niệm tĩnh thức chưa, có đủ sức mà để vượt qua những cái khó khăn chưa. Phải nương theo pháp như thế nào cho đúng các pháp. Đó là tất cả những cái mà chúng ta cần phải xét. Nhưng muốn xét được vậy thì phải sống riêng một mình. Sống riêng một mình chúng ta mới có thời giờ để mà xét, mới rõ được các pháp, rõ được sự tu tập chúng ta có tùy pháp trong các pháp được hay chưa, hay hoặc là chưa tùy pháp được, hay hoặc là trong các pháp chưa thông. Cho nên tất cả những cái này chỉ có người sống riêng một mình mới suy ngẫm được cái đường lối, cách thức tu tập của chúng ta trong đạo Phật. Còn nếu không sống riêng một mình thì khó mà có sự suy ngẫm. Mà không có sự suy ngẫm thì con đường của chúng ta nó không có rõ ràng lắm. Mà không có rõ ràng thì tức là chúng ta tu tập lơ mơ, tu tập không có kết quả. Tu tập cho có hình thức, tu tập cho có thời gian để rồi thời gian trôi qua một cách vô ích.

Như vậy chỉ chúng ta sống riêng một mình thì chúng ta mới có thời gian mà chiêm nghiệm, mà quán xét lại sự tu tập của chúng ta có đúng hay sai, có rõ hay không rõ. Tất cả những cái này thì chúng ta quán xét qua bài kệ thứ ba mươi sáu. Phật khuyên chúng ta phải thông suốt, phải hiểu rõ, phải chơn chánh nhận thức cho rõ, tránh những sự nguy hiểm của sanh hữu. Nếu mà không tránh những cái sự nguy hiểm của sanh hữu, của vật chất, của tất cả những cái sự trói buộc xung quanh mình thì mình sẽ không có đi trên con đường tu tập này được và sẽ bị trôi lăn ở trong sáu nẻo luân hồi vì sanh hữu là những cái kiết sử  - hữu ái kiết sử nó sẽ trói buộc chúng ta vô cùng, nó khó mà bứt ra được. Vì vậy chỉ có cái hạnh độc cư, chỉ có cái hạnh sống riêng một mình thì quý vị mới có thể cắt ly được nó, xa lìa được nó. Còn sống mà câu hữu, kết hợp, tập hợp thì khó mà xa lìa được những cái sanh hữu. Nó sẽ sanh khởi cái này cái kia, nó làm cho chúng ta rất là khổ đau, khó mà tu tập trên bước đường theo đạo Phật.

Cho nên bài kệ này thì quý thầy và các con hãy suy ngẫm để mà nỗ lực thực hiện cho đúng, nhất là chơn chánh nhận thức. Câu kệ “Chơn chánh nhận thức” - nghĩa là mỗi tu tập của chúng ta chúng ta phải nhận thức cho rõ ràng, xét nó có đúng hay sai. Cái sai thì chúng ta bỏ, cái đúng thì chúng ta tiếp tục tu. Như các thầy và các con biết rằng có nhiều người tu mà cái sai họ không có nhận xét cái sai, mà nói sai họ cũng không nghe. Cho nên họ cứ ngỡ tưởng nó là đúng, rồi họ cứ cứ ngồi đó lúc lắc, hoặc là họ ngồi cho nhiều cái thời gian, cho dài ra. Dạy hoài mà quý thầy và các con cũng không nghe cái lời dạy. Cho nên cuối cùng thì quý thầy và các con đều mất thời gian quá lớn, một số thời gian quá to, phí uổng hết cái đời tu tập của nó. Phải cố gắng mà nghe, đây là bài kệ Phật khuyên. Cái lời này mà nếu mà quý thầy không có chịu tập để nghe những cái lời dạy của Phật và những cái lời khuyên của Thầy thì chắc chắn trên con đường này quý thầy và các con tu vô ích. Tốt hơn là chúng ta trở về gia đình mà sống cho ra người đạo đức cũng là quý lắm rồi. Còn nếu mà quyết tu hành thì các thầy phải giữ gìn độc cư, phải giữ gìn phải quán xét để cái thời gian mà mình độc cư một mình mình đó. Nếu mình ngồi không mà nghĩ tầm bậy tầm bạ thì có ích gì đâu. Cho nên mình đem những cái cách thức tu tập, cái mình đã tu rồi mình tu qua rồi mình xét qua coi có đúng hay không. Hay hồi nãy mình vừa tu, bây giờ mình quan sát lại mình tu như vậy là có chính xác chưa, có đúng chưa, có diệt tầm giữ tứ được chưa, hay hoặc là vô lậu hết chưa, bản ngã của mình còn hay hết, tất cả những vật chất xung quanh của mình - cái mà gọi là của mình mình có còn chấp nó không hay là mình xả ra hết rồi.

Đó là những cái mình cần phải xét, xét cho rõ, để không rõ thì mình lại bị sai. Mà lại sai tức là con đường tu tập của mình nó không bao giờ tới đích được, nó không có bao giờ mà giải thoát được, uổng công tu tập của mình.

Thầy xin đọc Bài kệ thứ ba mươi bảy:

Mong cầu đoạn diệt ái

Sống hạnh không phóng dật

Không đần độn câm ngọng

Nghe nhiều giữ chánh niệm

Các pháp thường quán sát

Siêng năng mới quyết định

Người tu sĩ cần biết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Thì ở đây câu kệ thứ nhất đức Phật khuyên chúng ta “Mong cầu đoạn diệt ái”. Cái đầu tiên của chúng ta, bởi vì trong Tứ diệu đế thì đã nói ái là cái chỗ tập hợp, tập hợp tất cả những cái khổ đến cho đời người của chúng ta. Thì hằng ngày chúng ta quyết tâm tu hành là làm sao chúng ta đoạn diệt được cái ái, được cái lòng ham muốn của mình. Đạt được cái đó tức là chúng ta sẽ có một sự giải thoát, tâm bất động được. Và chính chỗ đó là cái trạng thái diệt đế đó - tức là diệt ái đó, thì đó là Niết bàn. Đó là cái trạng thái giải thoát của con người, của kiếp con người. Nó không còn tái sanh luân hồi. Cho nên người tu hành thì cái mục đích của chúng ta là nhắm vào cái nguyên nhân sanh ra muôn thứ đau khổ của chúng sanh mà đoạn diệt nó được, mong cầu cái sự đoạn diệt cho được. Mà muốn mà đoạn diệt được cái ái thì cái câu kệ thứ hai của bài kệ ba mươi bảy thì “Sống hạnh không phóng dật”.

Quý thầy và các con thấy sống hạnh không phóng dật tức là cái tâm không có chạy theo vật chất thế gian, không có phóng ra ngoài mà hãy quay nó trở vào trong, mà suy nghiệm lại những cái cách thức tu tập của mình. Hãy quay nó trở vào trong, đừng có phóng ra, đừng có chạy theo các đối tượng, các dục lạc thế gian, sắc thinh hương vị xúc pháp; đừng có chạy theo bên ngoài. Mà tâm không chạy theo bên ngoài thì quý thầy thấy phải như thế nào? Mình phải sống độc cư chớ. Muốn mà tâm không phóng dật, không chạy ra ngoài thì duy nhất chỉ có cái hạnh độc cư mới giữ gìn nó trọn vẹn, nó mới không phóng giật được. Bởi vì chúng ta sống độc cư không có nghĩa là chúng ta sống ngồi không mà chúng ta hằng giờ, hằng phút chúng ta đều có pháp để mà thực hiện. Cho nên tâm của chúng ta đâu có rảnh rang, đâu có rảnh rang mà ngồi đó nghĩ nhớ cái này cái kia mà chạy phóng theo. Cho nên có nhiều người lại hiểu lầm rằng khi mà chúng ta sống độc cư không có đi đây đi đó thì ngồi trong thất thì tâm chúng ta nghĩ ngợi cái kia cái nọ, phóng ra. Đó là tại vì quý thầy không có siêng năng, không có tu tập, không có tinh cần. Cái sự tu tập như cái bài kệ thứ ba mươi lăm Thầy đã nhắc:

Tinh cần và tinh tấn

Đạt được lý chân đế

Tâm không còn thụ động

Không còn có biếng nhác

Kiên trì trong cố gắng.

Đó là những cái chúng ta sống ở trong thất mà độc cư thì chúng ta có pháp, có pháp mà tu. Có các pháp cho nên thời gian chúng ta đâu có rảnh rang, cho nên tâm ý chúng ta đâu còn chạy phóng ra được, nó luôn luôn ở trong các pháp để thực hiện tu tập. Còn bây giờ quý thầy không có pháp tu thì quý thầy vào trong thất thì tâm quý thầy nó lang thang, nó phóng ra. Còn có pháp tu thì tâm đâu có lang thang phóng ra. Cho nên người ta luôn người ta thích sống một mình là vì người ta có pháp tu hành. Cho nên có những bậc chơn tu người ta ở trong núi, trong rừng, trong hang trong hóc một mình từ năm này đến năm khác mà người ta không thấy cô đơn là vì người ta có pháp môn người ta rèn luyện, người ta tu tập. Chứ nếu mà sống mà không có pháp môn mà rèn luyện tu tập thì chắc cũng không có ai sống độc cư nổi. Do tuần tự rèn luyện tu tập đó mà càng ngày chúng ta mới thấy được cái tâm bất động. Vì vậy màcái tâm hoàn toàn đứng trước các vật mà nó không bị dính mắc, nó không phóng theo các vật được. Do cái chỗ tu tập của chúng ta rèn luyện cho đến một ngày viên mãn, cái tâm nó bất động. Còn bây giờ cái tâm chúng ta còn đang động mà chúng ta không chịu sống độc cư thì do đó cái tâm của chúng ta sẽ phóng dật đi ra ngoài, thì nó phóng theo đối tượng các vật của nó. Còn ở trong thất thì chúng ta chỉ có duy nhất có pháp môn để mà tu tập cho nên tâm nó cũng không có rảnh rang mà nó phóng theo các dục lạc của thế gian.

Cho nên “Không đần độn, câm ngọng” nghĩa là sống độc cư không phải là sống cái kiểu đần độn, cái kiểu là không nói, cái kiểu là ngọng nghịu. Mà sống độc cư có nghĩa là sống rất là sáng suốt, thông minh bởi vì tu cái định Vô lậu mà. Cần phải quán xét cần phải suy tư, cần phải khai triển những cái gì mà mình chưa hiểu thì mình phải khai triển, hiểu cho được thấu đáo được những cái lý.

Chẳng hạn là như bây giờ mình muốn hiểu một cái thân vô thường của mình, rồi mình muốn hiểu coi mình có cái ngã hay không, mình muốn hiểu thử coi tại sao mà có cái nguyên nhân của cái ái sinh ra, do đâu mà có cái ái này. Mình đi tìm lại thì mình thấy cái lòng ham muốn của mình do đâu mà có ra những cái này. Và vì vậy mà chúng ta phân dần để chúng ta biết được cái gốc của nó mà chúng ta diệt, diệt cái tâm ham muốn của chúng ta, đoạn diệt nó mới hết. Còn nếu mà chúng ta không chịu suy tư, chúng ta nghe nói ái là nguyên nhân đau khổ thì chúng ta nói cái ái thôi bây giờ là lòng ham muốn của chúng ta, thôi chúng ta diệt lòng ham muốn nhưng chúng ta chưa biết cái nguyên nhân nào mà sanh ra lòng ham muốn thì làm sao chúng ta diệt nó. Cho nên chúng ta phải biết.

Do cái sự độc cư mà chúng ta tu cái định vô lậu, chúng ta quán xét làm cho cái trí tuệ càng ngày càng thấu suốt, càng thấu được cái lý chơn để, càng rõ được cái lý của chơn đế. Và càng rõ được thì cái sự mà chứng được cái lý chơn đế nó không khó khăn mà chứng được lý chân đế thì tâm hồn bất động, tâm ta bất động, không có dao động trước các đối tượng, trước các pháp cho nên chúng ta hoàn toàn giải thoát. Chứ không phải người độc cư là cái người đần độn, câm ngọng, không biết nói năng, không biết gì. Nhưng chúng ta biết nói nhưng mà chúng ta không nói là tại vì chúng ta thấy nói nó chẳng ích lợi gì. Nói nó sanh ra nhiều chuyện, nói nó sanh ra động tâm, nói nó sanh ra những ác pháp, nó làm cho chúng ta khổ sở, làm cho chúng ta khó khăn. Cho nên chúng ta không phải là kẻ câm.

Cho nên cô Út thường nói: “Độc cư chứ không phải độc câm” nghĩa là nhiều người hiểu rằng chúng ta không có nói đó là độc cư. Không phải. Chúng ta nói nhưng mà không nói bậy nói bạ. Cái gì đúng chúng ta nói, cái gì không đúng chúng ta không nói, đó là chúng ta độc cư.

“Nghe nhiều giữ chánh niệm” – nghe những cái lời giảng dạy của Thầy, biết được luôn luôn lúc nào giữ tâm ở trong cái chơn chánh của cái niệm chứ không có cái tà niệm. Thì khi mà nghe nhiều thì luôn luôn hiểu biết được các pháp chơn chánh cho nên chúng ta thường giữ cái tâm ở trong cái niệm chơn chánh không có để cái tà niệm. Vì cái tà niệm làm chúng ta phiền não, đau khổ.

Cho nên vì vậy mà muốn cho được mà chánh niệm thì  “các pháp” - các pháp ở đây không phải là cái pháp tu mà là các pháp của thế gian: pháp tham, pháp muốn, pháp gợi tình, gợi cảnh, pháp hỷ, pháp lạc, pháp vui, pháp sung sướng, pháp tham, pháp sân, pháp si, pháp mạn nghi. Tất cả những các pháp đó thì chúng ta quán xét, quán xét nó, coi nó có phải đúng hay là sai, nó đưa chúng ta đi đến chỗ đau khổ hay là chỗ không đau khổ. Các pháp của thế gian thường xảy đến làm cho con người đau khổ, làm cho con người mê thích, làm cho con người say đắm, làm cho con người mắc vào cái lưới buộc chặt mà không thoát ra. Cho nên chúng ta quán xét các pháp thế gian để rồi chúng ta xả bỏ, dứt bỏ nó mà không còn tham đắm.

Do cái sự mà hằng siêng năng mà quán xét như vậy thì chúng ta mới có quyết định được cái sự tu hành của mình, quyết định được cái sự giải thoát cho chính mình. Bởi vậy, chỉ có sự siêng năng mà quán xét các pháp, chỉ có sự siêng năng mà giữ gìn được chánh niệm. Do đó, chúng ta mới quyết định được cái đời sống của chúng ta. Do cái sự siêng năng mà quán xét, do sự siêng năng mà tu tập Chánh niệm tỉnh giác, do cái sự siêng năng tu tập đó, do cái sự siêng năng mà đoạn diệt các ái của chúng ta. Do chúng ta sống mà không có vừa phóng tâm phóng dật ra ngoài thì như vậy chúng ta mới quyết định được, do cái sự siêng năng mà tu tập các pháp như vậy chúng ta mới quyết định được đời sống của chúng ta, quyết định được sự sanh tử luân hồi của chúng ta. Còn nếu không thì chúng ta khó mà có thể quyết định được cái sanh tử luân hồi của chính mình.

Bởi vậy trên cái bước đường mà tu tập chúng ta cần phải quan sát kỹ chứ không kỹ thì chúng ta khó có thể đạt được cái Niết bàn, cứu cánh cho chúng ta.

Bởi vậy, bây giờ Thầy sẽ đọc lại cái bài kệ thứ ba mươi bảy để cho quý thầy và các con nghe lại một lần nữa mà suy ngẫm:

Mong cầu đoạn diệt ái

Sống hạnh không phóng dật

Không đần độn câm ngọng

Nghe nhiều giữ chánh niệm

Các pháp thường quan sát.

Siêng năng mới quyết định

Người tu sĩ cần biết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng”.

Ở chỗ bài kệ này có một cái câu đáng để lưu ý vì các thầy các con đều có cái hiểu sai về cái pháp độc cư. Ở đây, câu thứ ba của bài kệ thứ ba mươi bảy này “Không đần độn câm ngọng”. Quý thầy và các con hiểu ở chỗ này, Phật nói sống hạnh độc cư không có nghĩa là đần độn, ra ngơ ngơ ngẩn ngẩn làm như người mà không có biết gì hết, không phải; làm như người câm không có nói, không phải vậy. Cho nên cái câu này “Không đần độn câm ngọng” nghĩa là chúng ta rất là thông minh, nghĩa là sáng suốt. Người ta nói một cái gì đó mình hiểu biết, cái đó mình đáng nói thì mình nói còn không đáng thì mình làm thinh. Chứ không phải mình đi ra mình cũng giữ cái vẻ câm ngọng của mình, cái vẻ mà không nói của mình rồi ngơ ngơ ngẩn ngẩn, không phải vậy; đần độn như vậy - không phải.

Cái người độc cư là cái người có tu tập cái định Vô lậu, có phát triển được cái trí tuệ tri kiến giải thoát, cái trí tuệ của họ. Do vì vậy mà khi ra họ luôn luôn sống được với cái chánh niệm trong tâm của họ. Nhờ cái sự quan sát phát triển, triển khai được cái trí tuệ tri kiến giải thoát của họ cho nên họ hoàn toàn họ không có đần độn. Nghe cái câu nói của người khác đó đáng trả lời thì họ trả lời, mà không đáng thì họ làm thinh, họ cười vui vẻ. Họ tùy thuận, họ chấp nhận, họ bằng lòng, họ nhẫn nhục chứ họ đâu có phải là cái người ngu, họ sáng suốt. Cho nên đúng lúc nào họ cần phải hỏi là họ hỏi còn không cần hỏi thì họ làm thinh. Ai nói gì thì họ cũng vui vẻ chứ không phải họ gầm gầm cái mặt xuống hoặc là sống một mình, không có chơi với ai, không phải đâu. Cũng hòa hợp với mọi người nhưng cái đáng nói thì nói, cái không đáng nói thì không.

Đó là cách sống độc cư mà bài kệ thứ ba mươi bảy Phật dùng cái câu kệ “Không đần độn câm ngọng” để chỉ chúng ta sống độc cư không phải là cái người đần độn hay cái người câm ngọng.

Cho nên ở đây câu kệ thứ bảy ở trong bài kệ thứ ba mươi bảy này đức Phật nói: Người tu sĩ cần phải biết.  “Người tu sĩ cần biết” - chúng ta biết cái gì? Biết cái hạnh độc cư của chúng ta là cái mấu chốt để giải quyết con đường sanh tử luân hồi và biết cái hạnh độc cư không phải là người đần độn, không phải là người câm ngọng không biết nói. Phải hiểu như vậy thì mới sống cái hạnh độc cư mới trọn vẹn.

Bây giờ Thầy sẽ tiếp tục đọc cái Bài kệ thứ ba mươi tám:

Như sư tử không động

An tịnh giữa các tiếng

Như gió không vướng mắc

Khi thổi qua mạng lưới

Như hoa sen không dính

Không bị nước thấm ướt

Muốn vậy thì hãy sống

Chỉ sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bây giờ thì đức Phật ví một người sống độc cư như con sư tử không có động. Nghĩa là nó luôn luôn lúc nào, dù là các tiếng gầm tiếng thét của loài vật khác nó chẳng có dao động sợ một tí nào hết. Nó an tịnh giữa các tiếng, tiếng gì nó cũng không có ngán hết, không có sợ. Cho nên Phật ví dụ như chúng ta là người sống độc cư không có bị tiếng khen tiếng chê, tiếng chửi tiếng mắng tiếng này tiếng kia mà làm cho tâm chúng ta giao động. Chúng ta luôn luôn giữ gìn cái tâm an tịnh giữa các cái tiếng gầm tiếng thét của các loài vật khác như cọp, báo, hoặc tiếng hét hoặc tiếng la của các loài vật khác thì con sư tử nó chẳng bao giờ nó sợ tiếng động nào hết, tiếng la tiếng hét nào. Thì chúng ta cũng vậy, một người sống độc cư thì chẳng có hề để tâm dao động trước các cái âm thanh, trước các lời nói, trước tiếng này tiếng kia, trước tiếng mắng tiếng chửi, nó không có dao động cái tâm chúng ta chút nào thì như vậy là người mới sống độc cư. Người sống độc cư mà hễ mỗi chút đều là giao động tâm thì đâu còn là sống độc cư. Cho nên sống độc cư là sống không dao động.

Mặc dù là chúng ta sống chung với mọi người, ai nói nặng nói nhẹ nói gì nói mà tâm chúng ta không giao động tức là độc cư. Hễ mỗi chút mỗi phiền não, mỗi chút mỗi giận mỗi chút mỗi hờn thì người đó có sống độc cư không.

Bởi vậy phải rõ, phải biết rõ. “Người tu sĩ cần biết” - biết cái gì? Biết cái độc cư của chúng ta như thế nào. Nghĩa là tâm chúng ta không dao động trước tiếng khen, tiếng chê, tiếng mắng tiếng chửi, tiếng mạ nhục như thế nào tâm chẳng giao động thì người đó là sống độc cư. Còn người không có, lúc nào tâm cũng bị động thì dù người đó có ở trong thất riêng một mình đi nữa thì người đó vẫn không phải độc cư. Hình thức thì độc cư nhưng tâm chưa độc cư. Thì sống chung đụng với mọi người mà tâm không dao động trước các tiếng khen tiếng chê, không mừng không vui không theo những cái âm thanh, tiếng động gì hết thì cái người đó là cái người sống độc cư. Còn cái người mà luôn luôn bị giao động là cái người không độc cư. Đức Phật ví dụ người sống độc cư “Như gió không vướng mắc/ Khi thổi qua mạng lưới”, nghĩa là như cơn gió thổi qua mạng lưới là cơn gió nó đi luôn chứ nó không dính mắc ở trong mạng lưới. Đó thì người sống độc cư là cái người thật sự mà thực hành được cái hạnh độc cư thì tiếng khen, tiếng chê, tiếng mắng tiếng chửi, chuyện này chuyện nọ chuyện kia, lòng thương lòng ghét, nó không có vướng mắc tất cả những cái đó. Thì lúc bấy giờ cái người đó họ sống giữa chợ đi nữa vẫn gọi là người sống độc cư.

Các thầy và các con hiểu chỗ cái mục đích độc cư qua bài kệ thứ ba mươi tám này chưa, có rõ không, quá rõ ràng đâu còn gì nữa? Nghĩa là tâm không có giao động trước anh em ruột thịt bà con có sống có chết thì mặc tình; cha mẹ có sống có chết mặc tình không có giao động thì như vậy là sống độc cư. Còn dao động, còn lo, còn nghĩ, còn thương còn nhớ thì như vậy là gió thổi qua mạng lưới nó dính hết rồi đâu còn. Đó không phải là độc cư. Độc cư là không bị dính mắc gì hết gọi là độc cư.

Phật ví dụ thêm một lần nữa để chúng ta thấy cái hạnh độc cư:

Như hoa sen không dính.

Không bị nước thấm ướt.

Như cái bông sen ở dưới nước nó lên nhưng không dính chút nước nào hết. Thì mình sống ở trong mọi người, mình sống ở trong thất một mình mình. Hình thức thì độc cư một mình hoặc mình sống chung với mọi người nhưng tâm mình nó không bị dính một cái lời nói nào, lời khen lời chê lời mắng lời chửi, lời châm biếm, lời nói móc nói gì mình vẫn thản nhiên, không bị dính mắc, mình vẫn thanh thản tâm hồn, không bị giao động chút gì hết thì giống như hoa sen không dính mắc.

Câu đầu thì đức Phật ví như mình con sư tử giữa các tiếng của các loài khác, không có làm mất sự an tịnh của con sư tử, không có làm cho nó bị động. Qua hai câu kệ kế đó thì Phật ví như gió thổi nó không dính mắc, thổi qua cái mạng lưới nó không bị dính ở trong đó chút nào. Hai câu kệ thứ sáu của bài kệ thứ ba mươi tám, hai câu đó Phật ví dụ như hoa sen dưới nước, sống ở trong nước mà không bị nước thấm. Cái ví dụ thứ nhất là như con sư tử không động, an tịnh giữa các tiếng, đó là chúng ta sống độc cư ở trong thất, ai nói gì nói chúng ta không động. Cái thứ hai chúng ta bước ra ngoài như gió thổi trong mạng lưới nó không dính mắc gì hết cũng là độc cư đó. Và đến cái thứ ba, từ ở cái sự sống của chúng ta, trong những cái cuộc đời ô trược, sống chung quanh bao nhiêu người ô nhiễm họ chạy theo dục lạc thế gian, họ lôi cuốn chúng ta mọi cái nhưng chúng ta vươn lên. Do đó chúng ta không bị những cái ô nhiễm, những cái bất tịnh, những cái lôi cuốn đó làm chúng ta sa ngã thì như vậy chúng ta không bị nước thấm ướt đó. Đó là từ cái chỗ hoa sen sống ở trong cảnh sống chung đụng với mọi người, người ta nói nặng nói nhẹ, nói này nói kia gì đủ loại hết, hoặc là đem cái thực phẩm, cái ăn cái uống cái y cái áo, cái này cái kia, hoặc lòe làm chúng ta ham thích, làm chúng ta thích thú, làm chúng ta say mê. Mà chúng ta không say mê, không dính mắc một chút nào hết thì Đức Phật ví như cái hoa sen ở trong vũng bùn nước đọng hôi thúi mà vươn lên mà không có bị dính một chút thấm ướt nào hết.

Đó là cái bài kệ này Phật ví dụ, sáu câu kệ mà ví dụ ba cái trường hợp để chúng ta thấy ba cái trường hợp sống độc cư. Trường hợp thứ nhất là sống một mình trong nơi hoang vắng yên tĩnh. Trường hợp thứ hai là khi đi khất thực, đi tới đi lui đó là trường hợp như gió thổi. Trường hợp thứ ba là sống ngay cái lòng của thế gian mà vẫn độc cư. Đó là ba cái trường hợp sống độc cư. Muốn vậy thì hãy sống: “Chỉ sống riêng một mình, Như tê ngưu một sừng”. Thì như vậy là chúng ta thấy ba cái trường hợp sống mà luôn luôn chúng ta phải giữ gìn cái hạnh độc cư. Mà nếu giữ gìn cái hạnh độc cư thì nó có dính mắc không, nó có dao động trước các tiếng động khác không, nó có dính mắc những cái sự mà lôi cuốn của các pháp thế gian không, nó có bị thấm nhiễm, ô nhiễm các pháp thế gian lôi cuốn mình không? Đó là ba cái giai đoạn để chứng minh cho cái hạnh độc cư của chúng ta tu tập trong cái hạnh độc cư.

Thì chỉ có người muốn được vậy thì phải sống chỉ sống riêng có một mình. Đức Phật khuyên chúng ta muốn mà nó không có dính mắc ba trường hợp này thì chúng ta phải cố gắng. Đầu tiên thì chúng ta phải tập sống riêng một mình, nỗ lực tu tập để chứng được cái lý và tâm không phóng dật, chứng được cái lý Tứ đế, cái lý Diệu đế, cái lý Thánh đế. Kế đó chúng ta quyết tâm đoạn dứt các ái tham, lòng ham muốn - cái ái của chúng ta, luôn luôn giữ tâm không phóng dật. Do cái sự tu tập đó thì chúng ta phải sống riêng một mình. Mà sống riêng một mình thì ba cái trường hợp độc cư này chúng ta hoàn toàn là đạt được kết quả. Chỉ muốn được vậy thì phải sống riêng một mình. Sống để tu tập những cái gì, diệt cái tâm - cái nguyên nhân tập hợp những cái đau khổ để mà chứng được cái lý chơn đế của đạo làm cho chúng ta được giải thoát hoàn toàn.

Như vậy bài kệ thứ ba mươi tám này đức Phật cũng khuyên chúng ta phải sống riêng một mình. Khi nào mà chúng ta trải qua ba trường hợp (trường hợp thứ 1, trường hợp thứ 2, trường hợp thứ 3) mà chúng ta giữ gìn trọn vẹn được như vậy thì đó là chúng ta đã sống riêng một mình, đã độc cư được rồi. Còn không được như vậy thì chúng ta hãy tiếp tục mà sống độc cư, ở giai đoạn thứ nhất để cho cái tâm bất động trước cái đã rồi sau đó mới sống độc cư ở trong cái sự vướng mắc của các pháp, rồi sau đó mới ở trong các bùn nhơ, các chỗ bất tịnh mà để giữ mình mà không có, không có bị ướt thấm những cái bất tịnh đó. Thì như vậy thì chúng ta mới hoàn toàn được cái sống độc cư, cái hạnh độc cư. Cho nên ở đây phải xem mình như là một con tê ngưu một sừng, sống trong những hoàn cảnh mà đạt được những cái độc cư như vậy mới gọi là con tê ngưu một sừng.

Bài kệ thứ ba mươi chín, đức Phật nhắc trở lại:

Giống như con sư tử

Với quai hàm hùng mạnh

Bật chúa của loài thú

Sống chinh phục chế ngự

Thường sống trong các xứ

Nhàn tịnh và xa vắng

Người tu sĩ cần biết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Ở đây đức Phật đem lại cái sự độc cư đầu tiên giống như một con sư tử. Chúng ta muốn sống như một con sư tử thì chúng ta phải có những cái sự hùng mạnh. Ở đây Phật ví dụ  “Với quai hàm hùng mạnh” nghĩa là cái con sư tử nó có cái hàm của nó rất là mạnh cho nên nó chẳng sợ một con vật nào hết. Thì chúng ta muốn mà sống cho được như gió thổi mà không dính mắc các màng lưới, như hoa sen mà không ướt thấm những cái nước bùn nhơ thì chúng ta phải có cái sức tu tập, mà cái sức tu tập đó thì như là con sư tử có quai hàm hùng mạnh. Thì lúc bây giờ chúng ta sống giữa cái loài người cũng như con sư tử sống giữa cái loài thú. Thì chúng ta phải tu tập để mà chinh phục chế ngự được tâm của mình, chinh phục chế ngự được thọ của mình, chinh phục chế ngự được tưởng của mình và chinh phục chế ngự được các pháp. Thân, thọ, tâm, pháp mà chúng ta sống chúng ta chinh phục và chế ngự được chúng thì chúng ta như là con sư tử, như là bậc chúa của loài người, như con sư tử là bậc chúa của loài thú. Còn ta mà sống mà chinh phục được bốn cái trụ xứ này, thân thọ tâm pháp của chúng ta mà chinh phục được nó thì chúng ta là bậc chúa của loài người, chúng ta vượt qua sanh lão bệnh tử. Thì chúng ta ở trong các nơi nào, chỗ nào thì chúng ta vẫn là độc cư, vẫn là an tịnh và coi như là vắng vẻ, coi như là xa vắng, coi như là yên ổn, không còn có một chút nào mà tâm chúng ta động, không còn thấy cái chỗ nào là chỗ động hết. Đó là những cái độc cư của chúng ta.

Nhưng mà trước khi mà độc cư mà được như vậy thì chúng ta phải là con người sống chinh phục và chế ngự. Chinh phục ai? Chinh phục thân mình, chinh phục tâm mình, chinh phục thọ mình, chinh phục các pháp. Chúng ta sống chế ngự gì? Chế ngự thân mình, chế ngự tâm mình, chế ngự thọ mình, chế ngự các pháp. Nếu mà chúng ta sống mà chúng ta chinh phục được, chúng ta chế ngự được thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta thì chúng ta ở trong cái xứ sở nào, chúng ta ở đâu thì chúng ta cũng đều là nhàn tịnh và xa vắng, tức là chúng ta cũng đều là độc cư hoàn toàn.

Cho nên người tu sĩ cần phải biết, cần phải biết muốn mà được như vậy thì đầu tiên chúng ta phải sống riêng một mình. Sống riêng một mình, sống độc cư để chúng ta thực hiện các pháp. Các pháp đó là gì - là chinh phục được thân, thọ, tâm, pháp; chế ngự được thân, thọ, tâm, pháp. Thì trong khi chúng ta có những pháp tu tập như: Phòng hộ sáu căn, Chánh niệm tỉnh thức, thiểu dục tri túc, định Vô lậu, định sáng suốt, định niệm hơi thở, định hiện tại an lạc trú. Tất cả những cái này chúng ta đều hằng ngày thực hiện nỗ lực tu tập thì chúng ta sẽ sống độc cư, sống nhàn tịnh mà không có một cái vật gì, không có một đối tượng gì mà có thể làm cho tâm chúng ta dao động được hết. Chúng ta hoàn toàn là sống yên ổn, sống xa vắng tất cả. Tuy rằng sống bên mọi người nhưng mà vẫn xa vắng với mọi người. Vì họ với ta không thể nào hợp nhau được là tại vì họ chạy theo dục lạc còn ta đâu có chạy theo dục lạc. Chúng ta sống trong cảnh an vui và yên ổn của sự độc cư của chúng ta.

Bài kệ ba mươi chín đức Phật ví dụ giống như con sư tử nhưng mà với cái quai hàm hùng mạnh của nó. Muốn có được cái quai hàm hùng mạnh thì trải qua một thời gian chúng ta phải sống chinh phục và chế ngự thân thọ tâm pháp của chúng ta. Thì bây giờ chúng ta là bậc chúa của loài người thì con sư tử có cái quai hàm hùng mạnh của nó, cứng chắc như vậy để chiến thắng với mọi loài vật khác thì nó mới là bậc chúa của loài thú. Còn chúng ta sống mà chinh phục và chế ngự được thân thọ tâm pháp của chúng ta thì ta mới là bậc chúa của loài người. Chúng ta sống ở đâu, ở nơi nào chúng ta cũng đều được nhàn tịnh và giải thoát, đều là cũng có cái sự yên ổn, vắng vẻ, yên tịnh cho chúng ta, an tịnh cho chúng ta, không còn ai mà làm cho chúng ta dao động được hết. Cho nên muốn được vậy thì cần phải thấy hiện giờ chúng ta cần phải sống một mình để thực hiện những cái sự tu tập, để làm cho chúng ta có một cái quai hàm hùng mạnh như một con sư tử.

Khi nào chúng ta chinh phục được, chế ngự được thân thọ tâm pháp của chúng ta thì lúc bây giờ đương nhiên coi như chúng ta là một con sư tử có cái quai hàm hùng mạnh. Còn nếu mà chúng ta chưa chinh phục nó thì chúng ta chưa có cái quai hàm hùng mạnh thì chúng ta hãy sống riêng một mình, và giống như con tê ngưu một sừng mà chúng ta phải nỗ lực thực hiện những pháp mà Phật đã dạy. Thì chúng ta chinh phục được để chúng ta ức chế được, chế ngự được thân thọ tâm pháp của chúng ta.

Bài kệ thứ ba mươi chín là bài kệ khuyên nhủ chúng ta nên sống độc cư để thực hiện tu tập, để có một cái sức lực, cái sức lực mà chinh phục và chiến đấu lại thân tâm của chúng ta, làm chủ được các pháp thế gian.

Bài kệ bốn mươi:

Từ tâm sống trú xứ

Bi tâm hạnh giải thoát

Sống hành trì đúng pháp

Hỷ tâm phải đúng thời

Không chống đối va chạm

Với một ai ở đời

Ấy là tâm xả sạch

Các pháp trong thế gian

Chỉ có người tu sĩ

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bây giờ đức Phật khuyên chúng ta muốn tu tập cái tâm Từ Bi Hỷ Xả, tức là Tứ vô lượng thì phải sống riêng một mình, phải sống độc cư thì chúng ta mới tu tập được Tứ vô lượng tâm.

Đầu tiên thì đức Phật dạy chúng ta từ tâm sống trú xả. Nghĩa là chúng ta trao dồi cái tâm Từ của chúng ta, tức là chúng ta xả tất cả cái tâm tham, sân, si, phiền não của chúng ta. Chúng ta phải trú ở trong cái xả thì chúng ta mới có thể tu tâm Từ. Như Thầy đã dạy, hằng ngày chúng ta câu hữu với cái định Chánh niệm tỉnh thức để rồi tỉnh giác để rồi chúng ta làm, đi đứng nằm ngồi, hoàn toàn những hành động của chúng ta đều tu tập ở trong cái tâm Từ để tránh sự vô tình mà chúng ta giẫm đạp hoặc là giết hại chúng sanh.

Thì ở đây thì Phật dạy “Từ tâm sống trú xả” - muốn mà tu cái tâm Từ thì phải trú cái cảnh giới xả. Thứ nhất là cảnh giới độc cư là cảnh giới xả, cảnh giới phòng hộ sáu căn. Đó là sống trú xả đó. Thì muốn tu cái tâm Từ thì phải sống trong cái cảnh đó. Mà nếu mà chúng ta không sống ở trong cảnh độc cư thì chúng ta không thể nào mà tu tâm Từ được, và tâm Bi, tâm giải thoát cũng không tu được. Cho nên muốn tu tâm Từ, tâm Bi và các hạnh giải thoát thì phải sống hành trì đúng pháp theo các pháp thì chúng ta phải sống đúng. Bây giờ tu tâm từ tâm mà sống trú xả, thì trú xả đó thì trú thứ nhất là gì. Trú trong độc cư không tiếp duyên ra ngoài thì chúng ta mới có tu tập ở cái giai đoạn đầu. Đến cái giai đoạn thứ hai thì chúng ta trú ở trong cái xả. Thì ví dụ như bây giờ mình sống chung với mọi người thì mình lấy cái tâm xả của mình mình sống chung. Thì mình sống chung ở trong cái tâm xả, thì nó có xả thì nó mới sống chung với người ta được, mà không xả thì làm sao mình sống chung với người ta được, cho nên tâm Từ mình làm sao có. Mình dễ giận, dễ hờn thì làm sao mà gọi là tâm Từ. Muốn cho được cái tâm Từ mà để xả cho được thì đầu tiên phải sống độc cư, sau đó thì chúng ta phải trú ở trong tâm xả, tức là tâm nhẫn, rồi tâm tùy thuận. Tâm nhẫn, tâm tùy thuận thì lúc bây giờ chúng ta mới có tu tâm Từ được. Tâm Bi cũng vậy và các hạnh giải thoát cũng vậy, cũng phải trú ở trong tâm xả.

“Sống hành trì đúng pháp”- theo các pháp mà Phật đã dạy thì chúng ta sống cho đúng cách.

“Hỷ tâm phải đúng thời”- nghĩa là lúc nào mà vui mừng thì phải đúng thời, chứ không phải lúc nào cũng vui được; lúc nào mà ban rải cái lòng hỷ của mình với mọi người, với loài chúng sanh. Để làm gì - để chúng ta xả. Ví dụ có người chửi mình mà mình không có vui được thì tức là mình có xả được không. Cho nên lúc bây giờ đúng cái thời mà mình cần cái xả nó thì làm cho mình vui, không làm cho mình khổ.

Không chống đối va chạm” - nghĩa là luôn lúc nào mình muốn cái tâm hỷ của mình mà đúng thời thì mình giữ gìn, đừng có chống đối, đừng có va chạm với một ai, với một cái vật gì khác nữa hết. Vì có sự chống đối, vì có sự va chạm thì cái tâm hỷ rất là khó hỷ. Mà muốn được vậy thì chúng ta phải tỉnh giác, phải tu tập cái sức tỉnh giác. Biết đúng thời là mình nói hoặc làm cái gì cho đúng thời, không khéo thì nó sẽ không đúng thời, nó sẽ có sự chống đối, có sự va chạm thì cái tâm Hỷ không thể mà thành tựu được. Mà tâm Hỷ không thể thành tựu thì tâm Bi, tâm Từ làm sao có được. Cho nên ở đây chúng ta phải thấy được nó câu hữu, nó kết hợp Từ, Ni, Hỷ, Xả - nó bốn cái.

Không chống trái va chạm

Với một ai ở đời

Ấy là tâm xả sạch

Nghĩa là luôn luôn lúc nào mình cũng giữ trọn, mình không chống lại với ai, mình không va chạm với ai thì trong mọi cái hoàn cảnh mà xảy đến mà mình không hề có sự chống đối va chạm gì với ai thì ấy là tâm xả, tâm xả của mình. Còn có sự chống đối, còn có sự phiền não, còn có sự giận hờn, còn có sự đau khổ trong tâm của mình thì chưa phải xả.

Cho nên luôn luôn lúc nào chúng ta cũng cần phải giữ gìn tâm của mình. Thứ nhất là sống trong cái hạnh độc cư để tu tâm Từ, tâm Bi và các hạnh giải thoát. Hằng ngày thì chúng ta phải tu tập theo đúng pháp Phật dạy và đem tâm hỷ thì phải đúng thời. Đúng cái thời để mà rèn luyện cái tâm hỷ. Như trong bài Tứ vô lượng tâm Thầy đã dạy các thầy tu tập tâm Từ Bi Hỷ. Tất cả những cái này Thầy đã dạy, các thầy phải nỗ lực tu tập. Đó là sống hành trì đúng pháp theo những cái lời Thầy dạy. Thì như trong bài kệ bốn mươi này đức Phật nói sống hành trì đúng pháp. Nếu mà chúng ta tu đúng pháp thì tâm Từ tâm Bi và tâm Hỷ của chúng ta sẽ đúng thời. Cho nên chúng ta không còn có chống đối và va chạm với ai hết. Bởi vì từ bi Hỷ chúng ta đã có thì chúng ta đâu còn chống đối nữa hết và va chạm ai hết. Mà không còn chống đối và va chạm với một ai ở đời thì đó là chúng ta xả hết rồi. Chúng ta xả sạch, các pháp ở trong thế gian này chúng ta xả sạch. Cái muốn mà tu tập được Tứ vô lượng tâm như vậy là xả sạch hết các pháp trong thế gian thì người tu sĩ cần phải có sự sống riêng một mình để trao dồi, để luyện tập, để vứt bỏ tất cả mọi cái. Hằng ngày chúng ta tu tập như vậy trong một năm, hai năm, ba năm. Sau đó thì chúng ta mới thấy là chúng ta đã vứt bỏ các pháp thế gian. Và khi mà vứt bỏ được các pháp thế gian thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy cái sự mà sống riêng một mình, đó là một cái bí quyết để mà chúng ta thực hiện được con đường tu tập giải thoát. Cho nên ở đây Phật ví dụ: "Hãy sống riêng một mình như tê ngưu một sừng". Nghĩa là chúng ta muốn mà sống một mình như một con tê ngưu thì tức là chúng ta phải sống độc cư để mà tu tập cho nó chín mùi tất cả những cái lý pháp cũng như những cái tâm phóng dật, khép chặt không cho nó phóng dật. Và chúng ta đã thực hiện được những cái tâm Từ Bi Hỷ Xả của chúng ta cho nên không còn va chạm, không còn chống đối ai. Ai nói hơn nói thua gì mặc họ, mình cũng chẳng cần phải hơn thua gì với ai nữa hết. Đó là chúng ta đã xả sạch, xả sạch các pháp trong thế gian. Chúng ta đã hoàn tất được con đường độc cư để mà thực hiện Tứ vô lượng tâm.

Bài kệ thứ bốn mươi này tức là đức Phật muốn nhắc nhủ chúng ta, muốn thực hiện từ bi hỷ xả này thì chúng ta phải sống riêng một mình, phải sống độc cư thì chúng ta mới thực hiện được tâm Từ Bi Hỷ Xả.

Bây giờ Thầy tiếp tục đọc Bài kệ bốn mươi mốt.

Đoạn tận lòng tham ái

Và sân hận si mê

Cắt đoạn và chặt đứt

Các kiết sử lớn nhỏ

Không có gì sợ hãi

Khi mạng sống lâm chung

Chỉ giữ gìn cho trọn

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Ở đây đức Phật khuyên chúng ta, câu kệ thứ nhất - đoạn tận cái lòng tham muốn của chúng ta, đó là cái cách thức thứ nhất. Bây giờ chúng ta muốn mà đoạn tận được cái lòng ham muốn của chúng ta thì chúng ta phải sống riêng một mình, sống độc cư một mình ở trong cái khu vực yên tịnh nào đó để chúng ta thực hiện cái tâm, cái định Vô lậu mà chúng ta quét sạch cái lòng tham ái của chúng ta.

“Và sân hận si mê”- Nhờ cái định Vô lậu đó nó làm cho chúng ta không còn si mê nữa. Và cái sân hận của chúng ta cũng đoạn tận cái lòng sân hận của chúng ta. Mà không si mê thì sân hận đâu có, mà không si mê thì tham ái cũng đâu có. Cho nên nhờ chúng ta sống độc cư, tu cái định Vô lậu làm cho chúng ta càng ngày càng sáng suốt. Cái tri kiến giải thoát càng ngày càng minh mẫn ra, nó càng rõ ra cho nên cái lòng tham ái của chúng ta bị đoạn tận và cái lòng sân hận cũng bị đoạn mất.

Cắt đoạn và cắt đứt.

Các kiết sử lớn nhỏ.

Ở đây đức Phật nói khi mà chúng ta đã sống độc cư, đã tu tập, đã đoạn tận cái tham ái, đoạn tận cái si mê thì chúng ta nỗ lực tiếp tục mà cắt đoạn, cắt đứt đi các kiết sử lớn nhỏ. Tức là bảy cái kiết sử lớn nhỏ chúng ta đều chặt đứt sạch. Nghĩa là đoạn dứt Ngũ triền cái và Thất kiết sử thì chúng ta cần phải có cái thời gian sống độc cư để mà chúng ta đoạn dứt nó. Nghĩa là trước cái mạng sống của chúng ta có thể nó lâm chung nhưng chúng ta đừng có sợ hãi, đừng có lo lắng, đừng có sợ. Bây giờ chúng ta còn một tấc hơi thì chúng ta phải đoạn dứt lòng tham ái, đoạn dứt cái tâm sân hận si mê của chúng ta, cắt đứt bảy cái kiết sử lớn nhỏ thì do đó chúng ta chẳng có sợ gì mà trước giờ phút lâm chung. Thân của chúng ta là thân của nghiệp, nay thì mạnh mai thì đau không dừng nhưng chúng ta chẳng hề sợ hãi cái phút lâm chung của chúng ta. Chúng ta thấy rằng cái cần thiết là chúng ta phải đoạn dứt bảy kiết sử và Ngũ triền cái, phải quét sạch nó. Tâm tham ái của chúng ta do đó mà đoạn diệt. Muốn được vậy thì chúng ta phải sống độc cư, sống một mình. Riêng sống một mình để chúng ta tu tập cái định Vô lậu mà diệt cái ngũ triền cái; chặt đứt, đoạn dứt cái thất kiết sử làm chúng ta không còn bị dính mắc trói buộc được nữa, hoàn toàn thênh thang giải thoát trong con đường tu hành giải thoát của đạo Phật.

Thì bài kệ thứ bốn mươi mốt này đức Phật khuyên chúng ta cũng nên sống một mình như tê ngưu một sừng để thực hiện cái định Vô lậu, để quét sạch năm cái triền cái và đoạn dứt cái thất kiết sử.

Bây giờ Thầy đọc Bài kệ bốn mươi hai:

Có những bạn vì lợi

Thân cận và chung sống

Những bạn không mưu lợi

Nay khó tìm ở đời

Người sáng suốt cứu mình

Không phải cứu mọi người

Trong lúc còn đang tu

Người tu sĩ cần biết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Thì ở đây bài bốn hai là bài kệ cuối cùng của bốn mươi hai bài kệ, đức Phật khuyên chúng ta đừng có vì người khác mà mình đang tu mình hãy lo mình tu, mình sống độc cư mình tu đi đừng có vì người này người kia. Mình nói mình lo mình khuyên họ tu hành này kia để làm hạnh Bồ tát, để độ người ta. Trong khi mình tu chưa có xong. Và đồng thời mình phải biết rằng trong cái số người bạn của mình nó có nhiều cái loại bạn lắm. Có những bạn vì lợi mà thân cận và chung sống, có những bạn không có mưu lợi. Nhưng mà cái đời mình khó mà kiếm tìm những người bạn mà không có mưu lợi ở thế gian này. Còn những người bạn mà ở đời họ mưa cầu cái lợi lộc cái thế gian này nhiều lắm, họ chạy theo vật chất nhiều lắm. Cho nên đừng có thân cận với những người bạn, chung sống với những người bạn đó. Còn những người bạn mà không mưu lợi, họ sống mà nỗ lực tu hành thì cái đời của mình khó tìm những người bạn đó lắm, không có bao giờ mà tìm được những người bạn. Hở ra một chút, những người bạn mà gọi là đồng tu đồng hành đều là những người bạn mà mưu lợi không hà. Còn những người bạn mà không mưu lợi khó mà tìm lắm. Ai cũng muốn chùa to tháp lớn, ai cũng muốn có Phật tử nhiều, tiền bạc nhiều thì những người bạn đó không phải là những người bạn mà chúng ta thân cận, sống chung đâu. Chúng ta hãy lìa họ đi. Họ đang sống như vua chúa; họ đang sống như quan như chúa; họ đang sống có người hầu kẻ hạ thì những người bạn đó không phải là người tu hành đâu; là những người chạy theo, phóng tâm theo dục lạc thế gian. Cho nên ở đời chúng ta đừng có nghĩ là phải thương những người bạn đó, phải đem những cái pháp mà khuyên dạy họ. Họ chẳng nghe đâu. Dục lạc thế gian đã che mờ mắt họ rồi, không thể nào mà chúng ta cứu họ được đâu. Chúng ta hãy cố gắng cứu mình đi, cứu mình đi.

Cho nên :

Người sáng suốt cứu mình

Không phải cứu mọi người.

Câu này đức Phật khuyên chúng ta. Chúng ta hãy sống độc cư, sống một mình mình đi, đừng có sống chung với những người bạn đó, khó mà tìm những cái người bạn tốt lắm, đừng nghĩ rằng chúng ta khuyên họ, họ nỗ lực họ tu họ trở thành những người bạn tốt. Không đâu. Bây giờ chúng ta chưa đâu, chưa có tu xong đâu, cho nên chúng ta phải tránh xa hết tránh xa hết mọi người, không có tin người nào là người bạn tốt. Coi chừng ngoài hình thức của họ thì khéo léo rồi chúng ta lầm tưởng nhưng mà rồi cuối cùng cái cuộc đời chúng ta cũng chẳng cứu được mình đâu. Cho nên chúng ta phải ráng, ráng mà sáng suốt mà cứu mình cho ra khỏi, vì trong lúc mình còn đang tu. Mà lúc mình còn đang tu thì cần thiết là mình phải độc cư, không có được hai người, không có được ba người, sống một mình mình thôi. Sống một mình mình thôi không có hai ba người, để chúng ta thực hiện.

Cho nên bài kệ bốn mươi hai này, đức Phật sợ chúng ta khi mà được pháp, biết pháp, đúng pháp mà tu tập. Mình thương người khác bạn mình, họ không biết mình đem những cái lời khuyên họ thế này thế khác. Thôi, chúng ta khoan đã. Tu chừng nào xong rồi, có đủ kinh nghiệm, hãy hướng dẫn họ, hãy khuyên họ, họ nghe cũng được mà không nghe cũng được, không có sao hết vì chúng ta tu rồi. Còn bây giờ chúng ta tu chưa xong mà chúng ta cứ lo cho họ thì cáiđộc cư chúng ta có độc cư được không ? Không bao giờ chúng ta độc cư được. Mà không bao giờ độc cư được thì thử hỏi chúng ta làm sao giải thoát được.

Hôm nay để kết thúc bốn mươi hai bài kệ này, đức Phật đã nhắn nhủ chúng ta nên sống độc cư. Cuối cùng cái bài kệ bốn mươi hai thì đức Phật cũng đã thấy được cái tâm thương của chúng ta đối với mọi người. Cho nên chúng ta có thể khuyên lơn người bạn này bạn kia, rồi chúng ta nghĩ rằng mình khuyên rồi. Hoặc là kết hợp với họ để sống, cùng sống nhau để cho có bạn. Nhưng mà sự thật họ lại là những người phá chúng ta không còn độc cư. Cho nên chúng ta tìm cái cách nào đó mà chúng ta ở cho yên để mà chúng ta thực hiện độc cư, thực hiện cho được cái sự độc cư để chúng ta tu tập được giải thoát. Chừng nào giải thoát được rồi thì mình muốn làm gì cũng được hết. Còn mình chưa giải thoát thì thôi xin hãy độc cư đi, đừng có nên bỏ hạnh độc cư vì chính hạnh độc cư là bí quyết thành công trên con đường tu tập giải thoát. Tâm bất động giải thoát là nhờ có hạnh độc cư. Bốn mươi hai cái bài kệ này không có đủ xác chứng rằng đạo Phật nhắm vào để hướng dẫn chúng ta tu hành giải thoát hay sao?

Cho nên quý thầy phải hiểu, bốn mươi hai bài kệ này nghe đi nghe lại cho kỹ để mà chúng ta thực hiện cái hạnh độc cư cho trọn vẹn. Đừng có để mà cái hạnh độc cư chúng ta lướt ướt nửa chừng chẳng ra độc cư gì hết, thì uổng cuộc đời tu hành của chúng ta. Quyết định một đời phải giữ hạnh độc cư trọn vẹn, phải sống một mình như con tê ngưu một sừng mà đức Phật đã dạy thì mới mong chúng ta mới có kết quả được trên con đường tu tập của chúng ta. Còn nếu mà chúng ta phá hạnh độc cư thì chúng ta khó mà có thể thực hiện được. Đừng để tình cảm chúng ta dính mắc người thân của chúng ta thì hạnh độc cư của chúng ta cũng tiêu luôn. Đừng để tình cảm của chúng ta dính mắc bạn bè thân hữu thì chúng ta cũng tiêu luôn. Trên con đường khó mà chúng ta đạt được kết quả. Đừng để những vật chất lôi cuốn chúng ta để rồi chúng ta cũng mất cả hạnh độc cư. Đừng để mọi thứ mà làm cho tâm chúng ta mất độc cư thì chúng ta cũng không có thể đi đến con đường giải thoát cuối cùng được và sự chấm dứt luân hồi khó mà đạt được.

Mong quý thầy và các con hãy cố gắng suy ngẫm bốn mươi hai bài kệ này. Rút tỉa ra từng bài kệ để mà thực hiện cuộc đời độc cư trọn vẹn mà Thầy từng nhắc nhở. Cách đây bảy tám năm Thầy đã nhắc, Thầy đã nhắc tới nhắc lui rất nhiều là: Bí quyết thành công của sự thiền định là độc cư. Các thầy nhớ kỹ và các con nhớ kỹ chứ ?

Đến đây Thầy xin kết thúc bài Bốn mươi hai bài kệ độc cư.

                   HẾT.

PHỤ LỤC 1

PHỤ LỤC 2

PHỤ LỤC 3