--ooOoo--
Milindapañhapāḷi là một tác phẩm có giá trị trong nền văn học Phật Giáo Theravāda. Milinda là tên của một vị vua, còn từ pañha có nghĩa là “câu hỏi.” Như vậy, tựa đề Milindapañha được dịch sát nghĩa sang tiếng Việt sẽ là “Những câu hỏi của Milinda;” chúng tôi chọn tựa đề tiếng Việt cho tác phẩm Milindapañhapāḷi là “Milinda Vấn Đạo.”
Theo sự sắp xếp ở bản Lược Đồ Tam Tạng Song Ngữ Pāḷi - Việt (trang xviii), thì Milindapañhapāḷi là tập thứ 45 (TTPV 45), thuộc về Tiểu Bộ, Tạng Kinh. Cũng cần giải thích rõ rằng: Tiểu Bộ là bộ thứ năm của Tạng Kinh, bốn bộ trước là Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, và Tăng Chi Bộ. Lịch sử hình thành Tiểu Bộ xét ra có phần phức tạp và Tam Tạng của các quốc gia theo truyền thống Theravāda có số lượng đầu sách của Tiểu Bộ không được thống nhất. Tiểu Bộ của Tam Tạng Thái Lan có 15 đầu sách: Khuddakapāṭha, Dhammapadapāḷi, Udānapāḷi, Itivuttakapāḷi, Suttanipātapāḷi, Vimānavatthupāḷi, Petavatthupāḷi, Theragathāpāḷi, Therīgāthāpāḷi, Jātakapāḷi, Niddesapāḷi, Paṭisambhidāmaggapāḷi, Apadānapāḷi, Buddhavaṃsapāḷi, Cariyāpiṭakapāḷi. Hai đầu sách Nettipakaraṇa và Peṭakopadesa được thấy ở Tiểu Bộ của Tam Tạng Tích Lan và Tam Tạng Miến Điện. Tuy nhiên, Tam Tạng Miến Điện còn có thêm một tập nữa là Milindapañhapāḷi, nâng tổng số đầu sách thuộc Tiểu Bộ lên thành 18. Tam Tạng Song Ngữ Pāḷi - Việt tuy sử dụng nguồn Pāḷi và sự sắp xếp theo hệ thống Buddha Jayanti Tripitaka Series của xứ quốc giáo Tích Lan, nhưng riêng ở Tiểu Bộ có thêm vào tập Milindapañhapāḷi theo sự chọn lựa của truyền thống Miến Điện.
Tập Kinh Milindapañhapāḷi - Milinda Vấn Đạo thuật lại cuộc đối thoại giữa đức vua Milinda và vị tỳ khưu Nāgasena. Tập Kinh này giải thích về một số điểm khúc mắc trong Giáo Pháp và còn là một tài liệu có giá trị về khía cạnh ngôn ngữ. Tuy nhiên, danh tánh của tác giả cũng như thời điểm thực hiện không thể xác định được, có tài liệu phỏng định rằng tác phẩm này đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 1 theo Tây lịch. Một cách xác định khác là căn cứ vào việc văn bản này có đề cập đến tu viện Asoka ở thành phố Pāṭaliputta để đưa đến kết luận rằng việc thực hiện tác phẩm này đã được tiến hành sau thời kỳ đức vua Asoka, nghĩa là sau thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Thêm vào đó, một điểm mốc khác được xác định chắc chắc là văn bản này đã được thực hiện trước thế kỷ thứ 5 theo Tây lịch, là thời điểm vị Chú Giải sư Buddhaghosa thực hiện các bộ Aṭṭhakathā (Chú Giải), bởi vì các Chú Giải ấy đã có đề cập đến văn bản Milindapañhapāḷi.
Căn cứ vào dòng chữ cuối của bản Kinh, được biết rằng vị đại trưởng lão tên Doṇi sống ở thành phố Doṇi thuộc xứ Laṅkā đã nghe và viết lại thành sách đúng theo sự sắp xếp của nó. Có sự nhận định rằng tập Kinh này tuy đã được ghi lại ở xứ Tích Lan nhưng vẫn có xuất xứ từ Ấn Độ, bởi vì các địa danh được đề cập trong văn bản này hoàn toàn là các địa danh ở Ấn Độ, và không có địa điểm nào của Tích Lan được nói đến. Tuy nhiên, cũng không thể truy nguyên được nguồn gốc là bằng cách nào và vào lúc nào tập Kinh này đã được truyền đến hòn đảo Tích Lan. Một điểm khác nữa đáng được lưu ý là bản dịch tiếng Trung Quốc tên Nāgasenabhikṣusūtra, có thời điểm thực hiện được biết vào khoảng thế kỷ thứ 4, đã được tìm thấy. Bản dịch này ngắn gọn hơn và có một vài điểm khác biệt so với văn bản Pāḷi, điều ấy đưa đến giả thuyết cho rằng văn bản đầu tiên của Milindapañha đã được thực hiện chỉ có bấy nhiêu, sau đó được truyền sang Trung Quốc rồi được dịch sang tiếng bản xứ, còn văn bản Pāḷi tồn tại ở Ấn Độ đã được tiếp tục phát triển thêm trong khoảng thời gian về sau để có được văn bản như ngày hôm nay; để khẳng định điều này, cần phải có thêm nhiều chứng cớ khác nữa. Ngoài ra, còn có tác phẩm Milindaṭīkā - Sớ Giải về Milinda đã được thực hiện ở Tích Lan bởi vị Trưởng Lão Mahātipiṭaka Cūḷābhayathero, nghĩa là vị trưởng lão tên Cūḷābhaya có danh hiệu là Mahātipiṭaka (Đại Tam Tạng). Sớ Giải này đã giải thích một số điểm khó hiểu ở trong văn bản chính và có tên gọi là Madhuratthappakāsinī.
Tập Kinh này đã được dịch sang tiếng Việt từ tài liệu có nguồn gốc tiếng Hán, và gần đây từ những tài liệu tiếng Anh, nhưng những văn bản này rất ngắn gọn. Đặc biệt có bản dịch của Hòa Thượng Giới Nghiêm với tựa đề ‘Mi Tiên Vấn Đáp’ là đầy đủ nhất, tuy nhiên chúng tôi thiển nghĩ rằng Hòa Thượng đã chọn lối dịch giảng, thay vì bám sát nguyên bản. Bản dịch này đã được Thượng Tọa Giới Đức hiệu đính lại cũng theo tinh thần trên. Nếu muốn tham khảo thêm tài liệu tiếng Anh thì nên xem bản dịch đầy đủ của của Giáo Sư I. B. Horner đã được Hội Pali Text Society in vào năm 1969 gồm có hai tập.
Về nội dung, tập Kinh Milindapañhapāḷi - Milinda Vấn Đạo ghi lại những câu hỏi của đức vua Milinda về Giáo Pháp của đức Phật Gotama và các câu trả lời của vị tỳ khưu Nāgasena. Theo văn bản, đức vua tên Milinda ở thành Sāgala, thuộc xứ Jambudīpa (Ấn Độ) là người thông minh, có ý cầu học, đã thường tìm đến các nhà triết học, các giáo chủ đương thời để học hỏi. Tuy nhiên, những câu trả lời của các vị này đã không làm cho đức vua được thỏa mãn. Các vị A-la-hán trong Phật Giáo cũng không ngoại lệ, và kết quả là các vị tỳ khưu, dẫu là bậc Thánh hoặc còn là phàm nhân, đều phải ẩn cư để khỏi phải đối diện với những câu hỏi hóc búa của vị vua này. Cuối cùng, vị thiên tử Mahāsena đang cư ngụ ở cung điện Ketumatī đã được thỉnh cầu hạ sanh vào thế giới loài người để làm công việc tế độ đức vua Milinda. Vị Thiên tử đã đồng ý và đã được sanh ra trong gia đình người Bà-la-môn tên Sonuttara, sau đó lớn lên là đứa bé trai Nāgasena. Vào lúc bảy tuổi, được cha thuê thầy dạy học, và đứa bé đã học được rành rẽ ba bộ Vệ Đà chỉ sau một lần nghe qua. Sau đó, đã được đại đức Rohaṇa tế độ và cho xuất gia làm Sa-di, cho học Tạng Vi Diệu Pháp. Và vị Sa-di Nāgasena chỉ với một lần đọc đã thông thạo tất cả Tạng Vi Diệu Pháp ấy. Vào năm hai mươi tuổi, Nāgasena đã được thọ giới trở thành vị tỳ khưu và được thầy tế độ gởi đến tu viện Vattaniya để học với ngài Assagutta. Tại đây, đại đức Nāgasena đã thành tựu Thánh quả Nhập Lưu. Rồi sau đó, đại đức Nāgasena đã được gởi đến tu viện Asoka ở Pāṭaliputta để học với ngài Dhammarakkhita. Sau đó, trong sự chứng minh của ngài Dhammarakkhita, đại đức Nāgasena đã học Tam Tạng, lời dạy của đức Phật, về phần văn tự chỉ với một lần đọc trong ba tháng, rồi thêm ba tháng nữa chú tâm về phần ý nghĩa. Sau đó, nhờ vào sự sách tấn của ngài Dhammarakkhita, đại đức Nāgasena đã đạt được phẩm vị A-la-hán cùng với các tuệ phân tích ngay trong đêm ấy. Sau đó, nhận lời thỉnh mời của các vị A-la-hán ở cao nguyên Rakkhita núi Hi-mã-lạp, đại đức Nāgasena đã rời tu viện Asoka và đã đi đến nơi ấy bằng thần thông, và đã nhận lời việc đối đáp với đức vua Milinda. Các câu hỏi của đức vua Milinda đề cập đến nhiều lãnh vực của Phật Giáo, và các câu trả lời thông minh của vị tỳ khưu Nāgasena giúp cho người đọc có thể hiểu thêm về lời dạy của đức Phật.
Về hình thức sắp xếp, phần Nigamanaṃ - Đoạn Kết ở cuối tập Kinh có ghi như sau: “Các câu hỏi của đức vua Milinda được truyền đạt ở trong tập sách này gồm có hai trăm sáu mươi hai câu hỏi, được chia thành hai mươi hai phẩm, thuộc về sáu chương, như vậy là đầy đủ. Tuy nhiên còn có bốn mươi hai câu hỏi chưa được truyền đạt. Tổng cộng tất cả các câu hỏi đã được truyền đạt và chưa được truyền đạt là ba trăm lẻ bốn câu hỏi. Hết thảy tất cả được gọi tên là: ‘Các câu hỏi của đức vua Milinda.’” Ở đây, sáu chương đã được nêu ra là: Sự Liên Hệ Trong Quá Khứ, Câu Hỏi của Đức Vua Milinda, Câu Hỏi về Hành Tướng, Câu Hỏi Đối Chọi, Câu Hỏi (giảng bằng sự) Suy Luận, Câu Hỏi Giảng về Các Ví Dụ; còn các con số 22 phẩm (vagga) là và 304 câu hỏi vẫn là điều đang làm phân vân các nhà nghiên cứu. Về 42 câu hỏi chưa được truyền đạt, phần Mātikā - Các Tiêu Đề ở chương Opammakathāpañhā - Câu Hỏi Giảng về Các Ví Dụ giới thiệu 105 ví dụ, nhưng chỉ có 67 ví dụ được trình bày dưới dạng câu hỏi, và các câu hỏi chưa được trình bày là 38 chứ không phải 42.
Nói tóm lại, đây là một sự kiện có thật đã xảy ra ở tu viện Sankheyya, thuộc kinh đô Sagala của nước Bactria. Và các công trình nghiên cứu đã xác định rằng đức vua Milinda chính là vị vua người gốc Hy Lạp (Greek) tên Menander đã cai trị xứ Bactria ở vùng Tây Bắc của Ấn Độ (India) vào khoảng thế kỷ thứ 2 theo Tây lịch. Còn lai lịch của vị tỳ khưu Nāgasena không tìm ra được, có thể vì các sử liệu chỉ tập trung ghi lại các sinh hoạt của triều đại vua chúa.
Có hai điểm lưu ý cần được nêu lên ở đây là việc đức vua Milinda đã từng đi đến tham vấn sáu vị Giáo chủ ngoại đạo Pūraṇa Kassapa, Makkhalī Gosāla, Nigaṇṭha Nātaputta, Sañjaya Bellaṭṭhiputta, Ajita Kesakambalī, Kakudha Kaccāyana; điều này xét ra không được hợp lý vì những vị giáo chủ này sống cùng thời với đức Phật. Như vậy, nếu các giáo phái này còn tồn tồn tại đến thời kỳ của đức vua Milinda thì cũng chỉ có thể là các hậu duệ của sáu vị này. Điều khác nữa là có nhiều trích dẫn của tỳ khưu Nāgasena cho biết là lời dạy của đức Phật nhưng không thể tìm ra được ở Tam Tạng Pāḷi đang sử dụng hiện nay; do đó chúng tôi chỉ ghi lại những phần trích dẫn mà chúng tôi có thể kiểm tra được dựa vào kết quả nghiên cứu của Cố Giáo Sư I. B. Horner qua bản dịch tiếng Anh Milinda’s Questions 2 tập của người.
Văn bản Pāḷi trình bày ở đây đã được phiên âm trực tiếp từ văn bản Pāḷi-Sinhala ấn hành tại Sri Lanka vào năm 1962, Phật lịch 2505 do công sức hiệu đính của Ngài Trưởng Lão Aggamahāpaṇḍita Ānandametteyya Mahāthera. Tập sách này còn có đính kèm luôn cả phần Sớ Giải Milindaṭīkā cũng bằng mẫu tự Sinhala.
Về phương diện dịch thuật và trình bày văn bản tiếng Việt, chúng tôi đã ghi nghĩa Việt của các câu kệ ngôn bằng văn xuôi nhằm diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của văn bản gốc, và được trình bày bằng dạng chữ nghiêng để làm nổi bật sự khác biệt. Về văn phong của lời dịch, chúng tôi chủ trương ghi lại lời tiếng Việt sát theo văn bản gốc và cố gắng không bỏ sót từ nào không dịch. Lời văn tiếng Việt của chúng tôi có chứa đựng những mấu chốt giúp cho những ai có ý thích nghiên cứu Pāḷi thấy ra được cấu trúc của loại ngôn ngữ này, đống thời tạo sự thuận tiện cho công việc hiệu đính trong tương lai. Việc làm này của chúng tôi không hẳn đã được hoàn hảo, dẫu sao cũng là bước khởi đầu nhằm thúc đẩy phong trào nghiên cứu cổ ngữ Phật Học của người Việt Nam. Tuy nhiên, một số sai sót trong quá trình phiên dịch đương nhiên không thể tránh khỏi, chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về trình độ yếu kém.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành ghi nhận sự quan tâm chăm sóc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với công tác phiên dịch của chúng tôi về phương diện vật thực bồi dưỡng và thuốc men chữa bệnh của các vị hữu ân sau: TT. Bửu Hiền - Trụ Trì Chùa Pháp Bảo Mỹ Tho, Nghiên cứu sinh Tiến Sĩ tại Đại Học Peradeniya - Sri Lanka, ĐĐ. Tâm Đăng - Nghiên cứu sinh Tiến Sĩ tại Đại Học Kelaniya - Sri Lanka, Sư Cô Thích Nữ Tâm Đạo - Nghiên cứu sinh Tiến Sĩ tại Đại Học Pune - India, Cô Phạm Thu Hương (Hồng Kông), Phật tử Hựu Huyền (Đà Nẵng), Phật tử Hoàng Thị Lựu và gia đình ( Đà Nẵng). Công việc soạn thảo này được thông suốt, không bị gián đoạn, chính là nhờ có sự hỗ trợ nhiệt tình và quý báu của quý vị. Thành tâm cầu chúc quý vị luôn giữ vững niềm tin và thành tựu được nhiều kết quả trong công việc tu tập giải thoát.
Một điều thiếu sót lớn nếu không đề cập đến sự nhiệt tình giúp đỡ của Phật tử Tung Thiên đã sắp xếp thời gian để đọc lại bản thảo một cách kỹ lưỡng và đã đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc giúp cho chúng tôi tránh được một số điểm vụng về trong việc sử dụng từ ngữ tiếng Việt. Chúng tôi cũng xin thành tâm tùy hỷ và tán dương công đức của các thí chủ đã nhiệt tâm đóng góp tài chánh giúp cho Công Trình Ấn Tống Tam Tạng Song Ngữ Pāḷi - Việt được tồn tại và phát triến, mong sao phước báu Pháp thí này luôn dẫn dắt quý vị vào con đường tu tập đúng theo Chánh Pháp, thành tựu Chánh Trí, chứng ngộ Niết Bàn, không còn luân hồi sanh tử nữa.
Nhân đây, cũng xin thành kính tri ân công đức của Ngài Hòa Thượng Ven. Devahandiye Paññāsekara Nāyaka Mahāthera, tu viện trưởng tu viện Sri Jayawardhanaramaya Colombo 8 - Sri Lanka, Ven. Kaluthara Wanaratana, tu viện trưởng tu viện Sri Vinayalankaramaya, Colombo 10 - Sri Lanka, Sư Cô Từ Tâm, Siddhartha Compassion School, Bodh Gaya - India, đã cung cấp trú xứ và các vật dụng cần thiết giúp cho chúng tôi có thể tập trung toàn thời gian cho công việc thực hiện tập Kinh này.
Cuối cùng, ngưỡng mong phước báu phát sanh trong công việc soạn thảo tập Kinh này được thành tựu đến thầy tổ, song thân, và tất cả chúng sanh trong tam giới. Nguyện cho hết thảy đều được an vui, sức khỏe, có trí tuệ, và tinh tấn tu tập ngõ hầu thành đạt cứu cánh giải thoát, chấm dứt khổ đau.
Kính bút,
ngày 12 tháng 06 năm 2011
Tỳ Khưu Indacanda (Trương đình Dũng)