XXIII. ĀLAMBANADĀYAKAVAGGO - PHẨM ĀLAMBANADĀYAKA

221. Ký Sự về Trưởng Lão Ālambanadāyaka

2373. Vật tựa (lưng) đã được tôi dâng cúng đến đức Thế Tôn Atthadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy, bậc Chúa Tể của loài người như thế ấy.

2374. Tôi cai quản trái đất bao la bao gồm biển cả và tôi thực hiện quyền lãnh đạo đối với các sanh mạng ở trên trái đất.

2375. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tam minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.

2376. Trước đây sáu mươi hai kiếp, ba vị Sát-đế-lỵ (cùng) tên Ekāpassita ấy đã là các Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

2377. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ālambanadāyaka[19]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ālambanadāyaka là phần thứ nhất.

--ooOoo--

222. Ký Sự về Trưởng Lão Ajinadāyaka

2378. Trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi đã là bậc thầy của đám đông. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, vị thọ nhận các vật hiến cúng.

2379. 2380. Mảnh da thú đã được tôi dâng cúng đến đấng quyến thuộc của thế gian Sikhī. Nhờ vào việc làm ấy ở đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, tôi đã thọ hưởng sự thành tựu, tôi đã thiêu đốt các phiền não. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.

2381. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng tấm da dê trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của tấm da dê.

2382. Trước đây vào kiếp thứ năm, tôi đã là đức vua Sudāyaka, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2383. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ajinadāyaka[20]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ajinadāyaka là phần thứ nhì.

--ooOoo--

223. Ký Sự về Trưởng Lão Dvirataniya

2384. Trong thời quá khứ, tôi đã là thợ săn thú rừng ở trong khu rừng hoang rậm. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, đấng Vô Nhiễm, vị thọ nhận các vật hiến cúng.

2385. Tôi đã dâng cúng đến bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī một lát thịt. Tôi được thiết lập làm vị chúa tể ở thế gian luôn cả chư Thiên.

2386. Do nhờ sự dâng cúng lát thịt này, châu báu sanh lên cho tôi. Hai loại châu báu này ở thế gian đưa đến sự thành tựu của đời hiện tại.

2387. Tôi thọ hưởng tất cả các thứ ấy nhờ vào năng lực của sự dâng cúng lát thịt. Thân thể của tôi mềm mại, trí tuệ của tôi có sự nhận biết vi tế.

2388. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng lát thịt trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng lát thịt.

2389. Trước đây vào kiếp thứ tư, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng. Vị ấy tên là Mahārohita, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

2390. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Dvirataniya[21]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Dvirataniya là phần thứ ba.

(Tụng phẩm thứ mười).

--ooOoo--

224. Ký Sự về Trưởng Lão Ārakkhadāyaka

2391. Tôi đã cho thực hiện vòng rào chắn đến đức Thế Tôn Siddhattha. Và tôi đã dâng cúng sự bảo vệ đến đấng Thiện Thệ, bậc Đại Ẩn Sĩ.

2392. Do tính chất đặc biệt của nghiệp ấy, tôi không nhìn thấy sự kinh hoàng và sựhãi sợ. Khi được sanh lên ở bất cứ đâu, sự run sợ của tôi là không được biết đến.

2393. (Kể từ khi) tôi đã cho thực hiện vòng rào chắn trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của vòng rào chắn.

2394. Trước đây vào kiếp thứ sáu, (tôi đã là) vị tên Apassena, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2395. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ārakkhadāyaka[22]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ārakkhadāyaka là phần thứ tư.

--ooOoo--

225. Ký Sự về Trưởng Lão Avyādhika

2396. Tôi đã dâng cúng đến gian nhà sưởi ấm đến đức Thế Tôn Vipassī, chỗ trú ngụ và bình chứa nước nóng đến những người bị bệnh.

2397. Do việc làm ấy, thân thể của tôi đã được tạo thành tốt đẹp, tôi không còn biết đến bệnh tật; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.

2398. Kể từ khi tôi đã dâng cúng gian nhà trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của gian nhà sưởi ấm.

2399. Trước đây vào kiếp thứ bảy, tôi đã là vị tên Aparājita độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2400. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Avyādhika[23]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Avyādhika là phần thứ năm.

--ooOoo--

226. Ký Sự về Trưởng Lão Aṅkolapupphiya

2401. Nārada là tên của tôi, (mọi người) biết đến tôi là Kassapa. Tôi đã nhìn thấy đức Phật Vipassī, vị đứng đầu trong số các Sa-môn, được chư Thiên tôn kính.

2402. Đức Phật có các tướng mạo phụ là vị thọ nhận các vật hiến cúng. Tôi đã cầm lấy bông hoa aṅkola và đã dâng lên đức Phật.

2403. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

2404. Trước đây bảy mươi bốn kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Romasa, có sự trang sức với ngọc trai và tràng hoa, có binh lực và phương tiện di chuyển xứng đáng.

2405. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Aṅkolapupphiya[24]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Aṅkolapupphiya là phần thứ sáu.

--ooOoo--

227. Ký Sự về Trưởng Lão Sovaṇṇavaṭaṃsakiya

2406. Trong khi đi ra khu vực vườn hoa, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Tôi đã cầm lấy vòng hoa đội đầu bằng vàng được kiến tạo khéo léo.

2407. Cỡi trên lưng của con voi, tôi đã mau chóng từ nơi ấy leo xuống và đã dâng lên đức Phật Sikhī, đấng quyến thuộc của thế gian.

2408. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

2409. Trước đây 27 kiếp, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng tên Mahāpatāpa, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

2410. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sovaṇṇavaṭaṃsakiya[25]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sovaṇṇavaṭaṃsakiya là phần thứ bảy.

--ooOoo--

228. Ký Sự về Trưởng Lão Miñjavaṭaṃsakiya

2411. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian Sikhī, bậc cao quý trong số các vị đang thuyết giảng, đã Niết Bàn, tôi đã thực hiện việc cúng dường cội Bồ Đề với những vòng hoa đội đầu được xếp đặt các nơi.

2412. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc cúng dường trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường cội Bồ Đề.

2413. Trước đây hai mươi sáu kiếp, tôi đã là vị tên Meghabbha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2414. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Miñjavaṭaṃsakiya[26]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Miñjavaṭaṃsakiya là phần thứ tám.

--ooOoo--

229. Ký Sự về Trưởng Lão Sukatāveliya

2415. Lúc bấy giờ, tôi đã là người làm tràng hoa tên Asita. Sau khi chọn lấy vòng hoa đội đầu, tôi đã ra đi để dâng lên đức vua.

2416. Khi chưa gặp được đức vua, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Sikhī. Được mừng rỡ, tôi đã dâng (vòng hoa) lên đức Phật với tâm mừng rỡ.

2417. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

2418. Trước đây hai mươi lăm kiếp, tôi đã là vị vua có oai lực lớn lao tên Vebhāra, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

2419. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sukatāveliya[27]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sukatāveliya là phần thứ chín.

--ooOoo--

230. Ký Sự về Trưởng Lão Ekavandiya

2420. Đấng Anh Hùng Vessabhū là bậc ưu tú, quý cao trong số các vị thắng trận. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã đảnh lễ đức Phật tối thượng.

2421. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đảnh lễ.

2422. (Trước đây) 24 kiếp, (tôi đã là) vị tên Vigatānanda, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2423. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ekavandiya[28]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ekavandiya là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

Vật tựa (lưng), tấm da dê, vị dâng cúng thịt, vị thí chủ về sự bảo vệ, sự không bị bệnh, (bông hoa) aṅkola, (vòng hoa) vàng, (vòng hoa) ruột cây, vòng hoa đội đầu, và sự đảnh lễ; (tổng cộng) có năm mươi lăm câu kệ đã được tính đếm bởi các vị nhìn thấy sự lợi ích.

Phẩm Ālambanadāyaka là phẩm thứ hai mươi ba.

--ooOoo--