XI. BHIKKHĀDĀYĪVAGGO - PHẨM BHIKKHĀDĀYĪ

101. Ký Sự về Trưởng Lão Bhikkhādāyaka

1611. Bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, vị thọ nhận các vật hiến cúng, trong khi đi ra khỏi khu rừng bao la, Ngài đã đạt đến Niết Bàn, lìa khỏi tham ái.

1612. Tôi đã dâng lên một muỗng thức ăn đến bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha, đấng Đại Hùng, bậc Trí Tuệ đã được an tịnh như thế ấy.

1613. Trong lúc đức Phật, đấng quyến thuộc của mặt trời, đang giúp cho đám đông dân chúng đang tiếp bước theo sau được thành tựu Niết bàn, có niềm hạnh phúc cao thượng đã sanh khởi đến tôi.

1614. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng thức ăn.

1615. Trước đây tám mươi bảy kiếp, chính bảy vị có tên Mahāreṇu là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.

1616. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Bhikkhādāyaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Bhikkhādāyaka là phần thứ nhất.

--ooOoo--

102. Ký Sự về Trưởng Lão Ñāṇasaññaka

1617. Đức Phật, bậc Đại Ẩn Sĩ có màu da vàng chói như là loài bò mộng thuần chủng, tợ như giống voi mātaṅga (đến tuổi) bị tiết dục ở ba nơi.

1618. Tôi đã nhìn thấy bậc Trưởng Thượng của thế gian đang bước đi ở trên đường, đang chiếu sáng tất cả các phương tợ như mặt trăng đã được tròn đầy.

1619. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín ở trí tuệ (của Ngài), tôi đã chắp tay lên và đã đảnh lễ đấng Siddhattha với tâm tịnh tín, với ý vui mừng.

1620. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về trí tuệ (của đức Phật).

1621. Trước đây 73 kiếp, mười sáu vị đứng đầu nhân loại đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1622. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.  

Đại đức trưởng lão Ñāṇasaññaka[42]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ñāṇasaññaka là phần thứ nhì.

--ooOoo--

103. Ký Sự về Trưởng Lão Uppalahatthi

1623. Lúc bấy giờ, tôi đã là người làm tràng hoa cư ngụ ở (thành phố) Tivarā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Siddhattha.

1624. 1625. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng bó bông hoa. Do nhờ tác động của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều được thọ hưởng quả báu tăng trưởng của việc đã được thực hiện tốt đẹp của mình trước đây, tôi được vây quanh bởi những người tốt của xứ Malla; điều này là quả báu của việc dâng cúng đức Phật.

1626. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

1627. Xét đến chín mươi bốn (kiếp) trừ ra thời hiện tại, ở tại nơi ấy đã có năm trăm vị vua tên là Najjūpama.

1628. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Uppalahatthiya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Uppalahatthiya là phần thứ ba.

--ooOoo--

104. Ký Sự về Trưởng Lão Padapūjaka

1629. Tôi đã dâng cúng bông hoa nhài đến đức Thế Tôn Siddhattha. Tôi đã đặt xuống bảy bông hoa ở hai bàn chân (của Ngài) với sự mừng rỡ.

1630. Do việc làm ấy, giờ đây tôi vượt trội nhân loại và chư Thiên. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.

1631. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.

1632. Trước đây vào kiếp thứ năm, đã có mười ba đấng Chuyển Luân Vương tên Samantagandha là các vị thống lãnh dân chúng (chinh phục) bốn phương.

1633. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Padapūjaka[43]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Padapūjaka là phần thứ tư.

--ooOoo--

105. Ký Sự về Trưởng Lão Muṭṭhipupphiya

1634. Lúc bấy giờ, tôi đã là người làm tràng hoa tên Sudassana. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, đấng Vô Nhiễm, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu.

1635. Tôi đã cầm lấy bông hoa nhài và đã cúng dường đến (đức Phật) Padumuttara. Có nhãn quan trong sạch, có thiện ý, tôi đã chứng đắc Thiên nhãn.

1636. Do sự cúng dường bông hoa này và do các nguyện lực của tâm, tôi đã không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.

1637. Trước đây ba mươi sáu kiếp, đã có mười sáu vị vua tên Devuttara là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1638. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Muṭṭhipupphiya[44]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Muṭṭhipupphiya là phần thứ năm.

--ooOoo--

106. Ký Sự về Trưởng Lão Udakapūjaka

1639. (Tôi đã nhìn thấy) bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, chói sáng như là ngọn lửa từ bơ lỏng, cháy rực như là ngọn lửa tế thần, đang di chuyển bằng đường không trung.

1640. Tôi đã dùng bàn tay múc nước và đã hắt lên không trung. Đấng Đại Hùng, đức Phật, đấng Bi Mẫn, bậc Ẩn Sĩ đã tiếp nhận.

1641. Sau khi biết được ý định của tôi, bậc Đạo Sư tên Padumuttara đứng ở trên không trung đã nói lên lời kệ này:

1642. “Do sự dâng cúng nước này và do sự sanh khởi niềm phỉ lạc, (người ấy) không bị sanh vào khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.”

1643. Do việc làm ấy ở nơi đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, sau khi từ bỏ sự hơn thua, tôi đã đạt được vị thế Bất Động.

1644. (Trước đây) sáu ngàn năm trăm kiếp, ba đấng Chuyển Luân Vương tên Sahassarāja ấy đã là các vị thống lãnh dân chúng (chinh phục) bốn phương.

1645. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Udakapūjaka[45]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Udakapūjaka là phần thứ sáu.

--ooOoo--

107. Ký Sự về Trưởng Lão Naḷamāliya

1646. Đức Phật Padumuttara, đấng Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy, bậc an tịnh như thế ấy đã ngồi xuống ở tấm thảm cỏ.

1647. Sau khi cầm lấy tràng hoa sậy và buộc lại thành chiếc quạt, tôi đã dâng đến đức Phật, đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy.

1648. Đấng Toàn Tri, bậc Lãnh Đạo Thế Gian đã thọ nhận chiếc quạt. Sau khi biết được ý định của tôi, Ngài đã nói lên lời kệ này:

1649. “Giống như thân thể của Ta được mát mẻ, sự bực bội không được biết đến, tương tợ y như thế mong rằng tâm ngươi được giải thoát khỏi ba loại lửa.”

1650. Tất cả chư Thiên là những vị sống nương tựa vào khu rừng đã hội tụ lại. Chúng tôi lắng nghe lời dạy của đức Phật là điều làm cho người thí chủ được hoan hỷ.

1651. Ngồi xuống tại nơi ấy ở phía trước Hội Chúng tỳ khưu, đức Thế Tôn, trong lúc làm cho thí chủ được hoan hỷ, đã nói lên những lời kệ này:

1652. “Do sự dâng cúng chiếc quạt này và do các nguyện lực của tâm, (người này) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương có tên là Subbata.

1653. Nhờ vào phần dư sót của nghiệp ấy, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, (người này) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương có tên là Māluta.

1654. Do sự dâng cúng chiếc quạt này và do tính chất đầy đủ của việc tôn kính, (người này) không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.”

1655. (Trước đây) ba mươi ngàn kiếp, ba mươi tám vị ấy tên là Subbata. (Trước đây) hai mươi chín ngàn kiếp, (đã có) tám vị tên là Māluta.

1656. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Naḷamāliya[46]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 Ký sự về trưởng lão Naḷamāliya là phần thứ bảy.

(Tụng phẩm thứ bảy được chấm dứt).

--ooOoo--

108. Ký Sự về Trưởng Lão Āsanūpaṭṭhāpaka

1657. Sau khi đã đi sâu vào khu rừng rậm ít tiếng động, không bị náo loạn, tôi đã dâng cúng bảo tọa sư tử đến (đức Phật) Atthadassī như thế ấy.

1658. Tôi đã cầm lấy một nắm tràng hoa và đã đi nhiễu quanh Ngài. Sau khi phục vụ bậc Đạo Sư, tôi đã ra đi, mặt hướng phía bắc.

1659. Do việc làm ấy ở nơi đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, tôi đã tự thân đạt được Niết Bàn, tất cả các hữu đã được xóa sạch.

1660. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của bảo tọa sư tử.

1661. Trước đây bảy trăm kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ Sannibbāpaka, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1662. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Āsanūpaṭṭhāpaka[47]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Āsanūpaṭṭhāpaka là phần thứ tám.

--ooOoo--

109. Ký Sự về Trưởng Lão Biḷālidāyaka

1663. Tôi sống trên tấm thảm bằng lá ở không xa núi Hi-mã-lạp. Khi ấy, tôi đạt được sự ham thích các loại cỏ và có thói quen nằm ngủ (ở thảm lá).

1664. Sau khi mang lại và sửa soạn (các) trái táo, trái bhallātaka, và trái billa, tôi đào xới các loại rễ củ kalamba, biḷālī, và takkala.

1665. Sau khi biết được ý định của tôi, đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đã đi đến khu vực của tôi.

1666. Khi bậc Long Tượng, vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu đi đến, tôi đã dâng lên củ biḷālī và đã đặt vào trong bình bát.

1667. Khi ấy, trong lúc làm cho tôi được hoan hỷ, bậc Đại Hùng đã thọ dụng. Sau khi thọ dụng, đấng Toàn Tri đã nói lên lời kệ này:

1668. “Sau khi làm cho tâm của mình được tịnh tín, ngươi đã dâng cúng củ biḷālī đến Ta, ngươi không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.”

1669. Trước đây năm mươi bốn kiếp, (tôi đã là) vị tên Sumekhaliya, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1670. (Đây) là lần cuối cùng của tôi trong sự luân chuyển, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.

1671. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Biḷālidāyaka[48]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Biḷālidāyaka là phần thứ chín.

--ooOoo--

110. Ký Sự về Trưởng Lão Reṇupūjaka

1672. Bậc Toàn Giác có màu da vàng chói tợ như mặt trời có trăm tia ánh sáng, đang làm cho tất cả các phương rực sáng tợ như mặt trăng đã được tròn đầy.

1673. Ngài được vây quanh bởi các vị Thinh Văn tợ như quả đất được bao quanh bởi các biển cả. Tôi đã cầm lấy bông hoa nāga và đã dâng các bột phấn hoa đến (đức Phật) Vipassī.

1674. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bột phấn hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

1675. Trước đây bốn mươi lăm kiếp, tôi đã là vị Sát-đế-lỵ tên Reṇu, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1676. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Reṇupūjaka[49]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Reṇupūjaka là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

 Phần Tóm Lược

Vị dâng cúng thức ăn, vị suy tưởng về trí tuệ, vị liên quan đến bó (bông hoa), vị cúng dường bàn chân, vị liên quan đến nắm bông hoa, vị dâng cúng nước, vị có tràng hoa sậy, vị phục vụ, vị dâng cúng củ biḷālī, và phấn hoa; (tổng cộng) có sáu mươi sáu câu kệ.

Phẩm Bhikkhādāyī là phẩm thứ mười một.

--ooOoo--