LỜI GIỚI THIỆU II

Apadānapāḷi là tựa đề của tập Kinh thứ mười ba thuộc Tiểu Bộ. Chúng tôi đề nghị tựa đề tiếng Việt là Thánh Nhân Ký Sự. Chú giải của tập Kinh Apadānapāḷi có tên là Visuddhajanavilāsinī. 

Apadānapāḷi gồm có bốn phần:

- Buddhāpadāna (liên quan đến Phật Toàn Giác)

- Paccekabuddhāpadāna (liên quan đến Phật Độc Giác)

- Therāpadāna (559 câu chuyện về các vị trưởng lão)

- và Therī-apadāna (40 câu chuyện về các vị trưởng lão ni). 

Bộ Kinh song ngữ Apadānapāḷi - Thánh Nhân Ký Sự được trình bày thành 3 tập:

- Apadānapāḷi tập I gồm có hai phần đầu nói về Phật Toàn Giác và Phật Độc Giác, cộng với 400 ký sự về các vị trưởng lão thuộc phần ba Therāpadāna - Trưởng Lão Ký Sự.

- Apadānapāḷi tập II được trình bày ở đây gồm có 159 ký sự còn lại thuộc phần ba Therāpadāna - Trưởng Lão Ký Sự.

- Apadānapāḷi tập III gồm 40 ký sự về các trưởng lão ni thuộc phần bốn có tên là Therī-apadāna - Trưởng Lão Ni Ký Sự.   

Về nội dung, Apadānapāḷi - Thánh Nhân Ký Sự tập II được chia làm 16 phẩm (vagga) có số thứ tự các phẩm từ XLI - LVI. Mỗi phẩm gồm có 10 ký sự, riêng phẩm cuối cùng chỉ có 9. Tên ký sự đầu tiên trong mỗi phẩm được sử dụng lại để đặt tên cho phẩm ấy, ví dụ phẩm XLI Metteyyavaggo - Phẩm Metteyya dựa vào tựa đề của ký sự 401 là Tissametteyyattherāpadānaṃ - Ký Sự về Trưởng Lão Tissametteyya. Điều cần lưu ý là chỉ có một số ít vị trưởng lão được xác định danh tánh, các vị còn lại có tên được gọi theo hành động phước thiện đã làm, ví dụ ký sự 403 về Trưởng Lão Mettagū vì vị này hành trì tâm từ ái (mettā), ký sự 404 về Trưởng Lão Dhotaka vì vị này có nhận xét rằng các vị tỳ khưu là những vị đã gội rửa (dhota) các điều ác xấu, v.v...

Các câu chuyện của Therāpadāna  - Trưởng Lão Ký Sự có chủ đề liên quan đến những hành động phước thiện của các vị tỳ khưu ở trong thời quá khứ. Những thiện nghiệp này đã đem lại phước báu cho các vị ấy trong nhiều kiếp, cuối cùng vào kiếp chót các vị này đã xuất gia với đức Phật Gotama trở thành tỳ khưu, được chứng quả vị A-la-hán, đã thành tựu tam minh, đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí. Các điểm chi tiết được trình bày ở mỗi ký sự đã được các vị tỳ khưu đích thân thuật lại. Có nhiều ký sự dài với nhiều chi tiết hay lạ, những cũng có những ký sự ngắn được tóm tắt chỉ trong một vài câu kệ. Một số nghiệp bất thiện cũng đã được đề cập đến và nghiệp quả xấu phải gánh chịu do những hành động ấy đem lại cũng không phải là nhỏ. Đa số các thiện nghiệp đều lấy đối tượng cúng dường là chư Phật trong thời quá khứ, chúng tôi đặc biệt lưu ý đến những phước thiện được làm nhắm đến các đối tượng khác xét rằng chúng sanh trong thời điểm hiện nay vẫn còn có cơ duyên được gần gũi. Các thiện nghiệp này xét ra đơn giản, dễ làm, nhưng cũng có kết quả vô cùng lớn lao. Ký sự 494 ghi nhận việc chỉ có tưởng nhớ đến đức Phật và cúng dường bông hoa ở không trung cũng thoát khỏi khổ cảnh 31 kiếp, ký sự 498 xác nhận rằng tâm ý trong việc phước thiện là quan trọng, còn đối tượng thọ lãnh không hẳn là chủ yếu (câu kệ 5324-5327), ký sự 524 ghi lại rằng chỉ cần nương nhờ (quy y) với vị tỳ khưu cũng có kết quả thoát khỏi khổ cảnh 31 kiếp, ký sự 538 thuật lại việc hốt lá cây Bồ Đề đem đi đổ cũng đã giúp cho người hành thiện được sanh làm Trời và nếu phải làm người thì được sanh vào giai cấp cao quý, ký sự 549 đề cập đến trường hợp vị phải chịu sự tái sanh làm con chim bồ câu, nhưng nhờ vào nghiệp lực của quá khứ vẫn tìm đến để phục vụ vị tỳ khưu đang tu tập ở trong rừng từ đó được sanh thiên, ký sự 557 nói về quả báu của việc cúng dường xá-lợi đức Phật. Đặc biệt ký sự 539 vốn quen thuộc nhưng lại có kết cuộc bất ngờ, đáng ngạc nhiên. Đây là câu chuyện của một người Bà-la-môn đến với Giáo Pháp của đức Phật Thích Ca lúc tuổi đã già và đã bị các vị tỳ khưu đương thời từ chối việc cho xuất gia. Nhờ công đức cúng dường một muỗng thức ăn đến ngài Sāriputta (Xá-lợi-phất) trước đây mà người Bà-la-môn này đã được ngài Sāriputta cho xuất gia trở thành tỳ khưu theo lời chỉ dạy của đức Phật. Điều ngạc nhiên ở đây người này lại chính là vị trưởng lão Rādha đã được đức Thế Tôn tán dương là vị đứng đầu trong số các vị tỳ khưu có tài biện giải.  

Về hình thức, Therāpadāna - Trưởng Lão Ký Sự được viết theo thể kệ thơ (gāthā), mỗi câu kệ gồm có bốn pāda được trình bày thành hai dòng. Đa số các câu kệ của tập Kinh này làm theo thể thông thường gồm có tám âm cho mỗi pāda. Chúng tôi chủ trương ghi lại lời dịch Việt theo lối văn xuôi hầu ý nghĩa chuyển dịch được phần trọn vẹn. Đôi chỗ hai câu kệ được dịch chung thành một đoạn dựa theo tính chất hoàn chỉnh về văn phạm hoặc về ý nghĩa của chúng. Cũng cần nói thêm về văn bản Pāḷi được trình bày ở đây đã được phiên âm lại từ văn bản Pāḷi – Sinhala, ấn bản Buddha Jayanti Tripitaka Series của nước quốc giáo Sri Lanka. 

Về phương diện dịch thuật và trình bày văn bản tiếng Việt, có một số điều cần lưu ý như sau: Mặc dầu toàn bộ văn bản là các lời tự thuật, tuy nhiên chúng tôi chỉ trình bày ở dạngchữ nghiêng cho những đoạn đối thoại trực tiếp hoặc những điều ước nguyện, suy nghĩ. Về từ xưng hô của hàng đệ tử đối với đức Phật, chúng tôi sử dụng từ “con” ở ngôi thứ nhất cho những trường hợp trực tiếp, và “tôi” cho những trường hợp xét rằng người nghe là các đối tượng khác. Về văn phong của lời dịch, chúng tôi chủ trương ghi lại lời tiếng Việt sát theo văn bản gốc và cố gắng không bỏ sót từ nào không dịch. Lời văn tiếng Việt của chúng tôi có chứa đựng những mấu chốt giúp cho những ai có ý thích nghiên cứu Pāḷi thấy ra được cấu trúc của loại ngôn ngữ này. Việc làm này của chúng tôi không hẳn đã được hoàn hảo, dẫu sao cũng là bước khởi đầu nhằm thúc đẩy việc nghiên cứu cổ ngữ Phật Học của người Việt Nam. Tuy nhiên, một số sai sót trong quá trình phiên dịch đương nhiên không thể tránh khỏi, chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về trình độ yếu kém.  

Cũng xin chân thành ghi nhận sự quan tâm chăm sóc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với công tác phiên dịch của chúng tôi về phương diện vật thực bồi dưỡng và thuốc men chữa bệnh của các vị hữu ân sau: Thầy Thích Tâm Không (Seattle), Bhikkhunī Sukhetta Nichanaporn Ketjan (Thái), gia đình Phật tử Phạm Trọng Độ, gia đình Phật tử Lý Hoàng Anh, Phật tử Võ Đức Hùng, Cô Phạm Thu Hương và Cô Hoàng Thị Thịnh (Hồng Kông). Công việc soạn thảo này được thông suốt, không bị gián đoạn, chính là nhờ có sự hỗ trợ quý báu của quý vị. Thành tâm cầu chúc quý vị luôn giữ vững niềm tin và thành tựu được nhiều kết quả trong công việc tu tập giải thoát và hộ trì Tam Bảo. 

Một điều thiếu sót lớn nếu không đề cập đến sự nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi của Phật tử Mam Pitiya trong việc tham khảo bản dịch tiếng bản xứ. Cũng không quên không nhắc đến những sự ủng hộ, khích lệ, và công đức góp ý về phần tiếng Việt của Đại Đức Đức Hiền cùng với hai vị Phật tử Tung Thiên và Đông Triều đã giúp cho chúng tôi tránh được một số điểm vụng về trong việc sử dụng từ ngữ tiếng Việt. Chúng tôi cũng xin thành tâm tùy hỷ và tán dương công đức của các thí chủ đã nhiệt tâm đóng góp tài chánh giúp cho Công Trình Ấn Tống Tam Tạng Song Ngữ Pāḷi - Việt được tồn tại và phát triến, mong sao phước báu Pháp thí này luôn dẫn dắt quý vị vào con đường tu tập đúng theo Chánh Pháp.  

Cuối cùng, ngưỡng mong phước báu phát sanh trong công việc soạn thảo tập Kinh này được thành tựu đến thầy tổ, song thân, và tất cả chúng sanh trong tam giới. Nguyện cho hết thảy đều được an vui, sức khỏe, có trí tuệ, và tinh tấn tu tập ngõ hầu thành đạt cứu cánh giải thoát, chấm dứt khổ đau.

 

 Kính bút,

   ngày 02 tháng 05 năm 2008

  Tỳ Khưu Indacanda (Trương đình Dũng)

 

 

 

 

 

 

CÁC CHỮ VIẾT TẮT:

 

ApA.     : Apadāna Aṭṭhakathā - Chú Giải Apadāna (PTS.)

ND  : Chú thích của Người Dịch

PTS.: Nhà Xuất Bản Pali Text Society (Anh Quốc)

TTPV.   : Tam Tạng Pāḷi - Việt