I. SỰ TOÀN HẢO VỀ BỐ THÍ

Namo tassa bhagavato arahato sammā sambuddhassa
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!

I. DĀNAPĀRAMITĀ
1. Akitticariyaṃ
1. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Akitti:
[1]

1. Kappe ca satasahasse caturo ca asaṅkhiye
etthantare yaṃ caritaṃ sabbaṃ taṃ bodhipācanaṃ.

1. Các hạnh nào được thực hành trong khoảng thời gian này,[2] (tức là) bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp,[3] tất cả các hạnh ấy là điều kiện làm cho chín muồi quả vị giác ngộ.

2. Atītakappe caritaṃ ṭhapayitvā bhavābhave
imamhi kappe caritaṃ pavakkhissaṃ suṇohi me.

2. Trừ ra các hạnh đã được thực hành trong kiếp quá khứ thuộc đời này hoặc đời khác, ta sẽ nói đến hạnh đã được thực hiện trong kiếp này, ngươi hãy lắng nghe. [4]

3. Yadā ahaṃ brahāraññe suññe vipinakānane
ajjhogahetvā vihārāmi akitti nāma tāpaso.

3. Lúc bấy giờ, ta là vị đạo sĩ khổ hạnh tên Akitti. Ta đã đi sâu vào và cư ngụ ở khu rừng rậm, hoang vắng, là lâm viên có nhiều cây.

4. Tadā maṃ tapatejena santatto tidivādhibhū
dhārento brāhmaṇavaṇṇaṃ bhikkhāya maṃupāgami.

4. Khi ấy, Chúa của chư thiên Sakka [5] bị nóng bức [6] bởi năng lực khổ hạnh của ta nên đã đi đến gần ta để xin vật thực trong dáng vóc vị Bà-la-môn.

5. Pavanā ābhataṃ paṇṇaṃ atelañca aloṇikaṃ
mama dvāre ṭhitaṃ disvā sakaṭāhena ākiriṃ.

5. Nhìn thấy (vị ấy) đứng ở cánh cửa (căn chòi lá) của ta, ta đã bày ra chỉ có một tô lá cây đã được gió gom lại, không có dầu và cũng không có muối.[7]

6. Tassa datvānahaṃ paṇṇaṃ nikkujjitvāna bhājanaṃ
punesanaṃ jahitvāna pāvisaṃ paṇṇasālakaṃ.

6. Sau khi bố thí lá cây đến vị này, ta đã lập úp cái tô lại, từ bỏ việc tìm kiếm (thức ăn) một lần nữa, và đã đi vào căn chòi lá.

7. Dutiyampi tatiyampi upagañchi mamantikaṃ
akampito anolaggo evamevamadāsahaṃ.

7. Lần thứ nhì, rồi lần thứ ba, vị ấy cũng đã đi đến gặp ta. Không dao động, không dính mắc, ta đã bố thí như hai lần trước.

8. Na me tappaccayā atthi sarīrasmiṃ vivaṇṇiyaṃ
pītisukhena ratiyā vītināmemi taṃ divaṃ.

8. (Nhưng) không vì nguyên nhân ấy mà thân thể của ta trở nên tiều tụy; ta đã trải qua ngày hôm ấy với niềm phỉ lạc và hứng thú.

9. Yadi māsampi dve māsaṃ dakkhiṇeyyaṃ varaṃ labhe
akampito anolīno dadeyyaṃ dānamuttamaṃ.

9. Nếu như ta có được một vị xứng đáng để cúng dường thì ta có thể dâng cúng vật thí tối thượng luôn cả một tháng, hai tháng, mà không dao động, không lưỡng lự.

10. Na tassa dānaṃ dadamāno yasaṃ lābhañca patthayiṃ
sabbaññutaṃ patthayāno tāni kammāni ācarinti.

10. Trong khi bố thí phẩm vật cho vị ấy, ta đã không mong cầu danh và lợi. Ta đã thực hiện những hành động ấy trong khi ước mong phẩm vị Toàn Tri.

Akitticariyaṃ paṭhamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Akitti là phần thứ nhất.

--ooOoo--

 2. Saṅkhacariyaṃ
2. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Saṅkha:
[8]

***

11. Punāparaṃ yadā homi brāhmaṇo saṅkhasavhayo
mahāsamuddaṃ taritukāmo upagacchāmi paṭṭanaṃ.

11. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vị Bà-la-môn tên gọi Saṅ-kha. Có ý định băng qua đại dương, ta đã đi đến bến tàu.

12. Tatthaddasāmi paṭipathe sayambhuṃ aparājitaṃ
kantāraddhāna paṭipannaṃ tattāya kaṭhinabhūmiyā.

12. Tại nơi ấy, ta đã nhìn thấy ở phía bên kia đường một vị Phật Độc Giác, là bậc không bị kẻ khác hàng phục, đang đi ở con đường xa vắng, trên mặt đất gồ ghề, nóng bỏng.

13. Tamahaṃ paṭipathe disvā imamatthaṃ vicintayiṃ
idaṃ khettaṃ anuppattaṃ puññakāmassa jantuno.

13. Sau khi nhìn thấy vị ấy ở phía bên kia đường, ta đã suy xét về sự việc này: “Đây là phước điền đã được thành tựu đến cho người mong cầu phước báu.”

14. Yathāpi kassako puriso khettaṃ disvā mahāgamaṃ.
tattha bījaṃ na ropeti na so dhaññena atthiko.

14. Cũng giống như người nông phu nhìn thấy thửa ruộng có triển vọng thu hoạch lớn, người ấy không gieo hạt giống ở nơi ấy (nghĩa là) người ấy không có nhu cầu về thóc lúa.

15. Evamevāhaṃ puññakāmo disvā khetta varuttamaṃ
yadi tattha kāraṃ na karomi nāhaṃ puññena atthiko.

15. Tương tợ như thế, là người có mong cầu về phước báu, sau khi nhìn thấy phước điền cao quý tối thượng, nếu ta không thể hiện hành động ở phước điền ấy thì ta không phải là người mong cầu về phước báu.

16. Yathā amacco muddikāmo rañño ante pure jane
na deti tesaṃ dhanadhaññaṃ muddito parihāyati.

16. Giống như vị quan đại thần mong muốn có uy quyền đối với những người trong cung mà không ban cho những người ấy tài sản và thóc gạo thì sẽ bị suy giảm về uy quyền.

17. Evamevāhaṃ puññakāmo vipulaṃ disvāna dakkhiṇaṃ
yadi tassa dānaṃ na dadāmi parihāyissāmi puññato.

17. Tương tợ như thế, là người có mong cầu về phước báu sau khi nhìn thấy bậc cao thượng xứng đáng để cúng dường, nếu ta không dâng cúng vật thí đến vị ấy thì ta sẽ bị suy giảm về phước báu.

18. Evāhaṃ cintayitvāna orohitvā upāhanā
tassa pādāni vanditvā adāsiṃ chattupāhanaṃ.

18. Sau khi suy nghĩ như thế, ta đã cởi ra đôi dép, rồi đảnh lễ ở hai bàn chân của vị ấy, và đã cúng dường dù và dép.

19. Tenevāhaṃ sataguṇato sukhumālo sukhedhito
apica dānāṃ paripūrento evaṃ tassa adāsahanti.

19. Mặc dầu ta có cơ thể mảnh mai và được nuôi dưỡng cẩn thận gấp trăm lần so với vị ấy, tuy nhiên trong khi làm tròn đủ hạnh bố thí, ta cũng đã cúng dường đến vị ấy như thế.

Saṅkhacariyaṃ dutiyaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Saṅkha là phần thứ nhì.

--ooOoo--

3. Kurudhammacariyaṃ
3. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Kurudhamma:
[9]

***

20. Punāparaṃ yadā homi indapatthe puruttame
rājā dhanañjayo nāma kusale dasahupāgato.

20. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vị vua tên Dhanañjaya ở tại kinh thành Indapattha, và được thuần thục về mười thiện nghiệp.

21. Kāliṅga raṭṭhavisayā brāhmaṇā upagañchu maṃ
āyācuṃ maṃ hatthināgaṃ dhaññaṃ maṅgalasammataṃ.

21. Những người Bà-la-môn từ lãnh thổ vương quốc Kaliṅga đã đi đến gặp ta. Họ đã cầu xin ta con long tượng được xem là biểu hiện của sự thịnh vượng và may mắn.

22. Avuṭṭhiko janapado dubbhikkho chātako mahā
dadāhi pavaraṃ nāgaṃ nīlaṃ añjanasavhayaṃ.

22. (Họ đã nói rằng): “Xứ sở chúng tôi không có mưa, thức ăn hiếm hoi, đói kém trầm trọng. Xin ngài hãy ban cho con hắc long tượng cao quý có tên là Añjana.”

23. Na me yācakamanuppatte paṭikkhepo anucchavo
mā me bhijji samādānaṃ dassāmi vipulaṃ gajaṃ.

23. (Ta nghĩ rằng): “Đối với ta, khi có được người cầu xin thì sự từ chối là điều không đúng đắn. Sự thọ trì của ta chớ có bị đổ vỡ. Ta sẽ bố thí con voi vĩ đại.”

24. Nāgaṃ gahetvā soṇḍāya bhiṅkāre ratanāmaye
jalaṃ hatthe ākiritvā brāhmaṇānaṃ adaṃ gajaṃ.

24. Sau khi nắm lấy con voi ở chiếc ngà và rưới nước từ chiếc bình làm bằng ngọc quý lên bàn tay, ta đã cho con voi đến các vị Bà-la-môn.

25. Tassa nāge padinnamhi amaccā etadabrūvuṃ
kinnu tuyhaṃ varaṃ nāgaṃ yācakānaṃ padassasi.

25. Khi con voi ấy đã được cho đi, các quan đại thần đã nói điều này: “Sao ngài lại cho con voi quý báu của ngài đến những kẻ cầu xin?

26. Dhaññaṃ maṅgalasampannaṃ saṅgāmavijayuttamaṃ
tasmiṃ nāge padinnamhi kinte rajjaṃ karissati.

26. Con voi là tối ưu trong việc chiến thắng ở trận tiền, được thành tựu sự thịnh vượng và may mắn. Khi con voi ấy đã được cho đi thì cái gì sẽ vận hành vương quốc của ngài?

27. Rajjampi me dade sabbaṃ sarīraṃ dajjamattano
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā nāgaṃ adāsahanti.

27. Ta có thể bố thí luôn cả toàn bộ vương quốc của ta. Ta có thể bố thí cả thân mạng của mình. Ðối với ta, quả vị Toàn Tri là yêu quý; vì thế ta đã bố thí con long tượng.

Kurudhammacariyaṃ tatiyaṃ.
 Hạnh của (đức Bồ-tát) Kurudhamma là phần thứ ba.

--ooOoo--

4. Mahāsudassanacariyaṃ
4. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Mahāsudassana:
[10]

***

28. Kusāvatimhi nagare yadā āsiṃ mahīpati
mahāsudassano nāma cakkavatti mahabbalo.

28. Khi ở thành phố Kusāvatī, ta đã là vị lãnh chúa, đấng Chuyển Luân Vương có quyền lực lớn lao tên Mahāsudassana.

29. Tatthāhaṃ divase tikkhattuṃ ghosāpemi tahiṃ tahiṃ
ko kiṃ icchati pattheti kassa kiṃ dīyatu dhanaṃ.

29. Tại thành phố ấy, ta đã cho thông báo ba lần trong ngày ở khắp các nơi rằng: “Ai muốn (hoặc) mong mỏi vật gì? Của cải gì nên được ban phát? (Ban phát) đến ai?

30. Ko chātako ko tasito ko mālaṃ ko vilepanaṃ
nānārattāni vatthāni ko naggo paridahissati.

30. Ai đói? Ai khát? Ai (cần) vòng hoa? Ai (cần) dầu thoa? Có các loại vải vóc đủ màu, ai trần truồng thì sẽ mặc vào?

31. Ko pathe chattamādeti ko pāhanā mudū subhā
iti sāyañca pāto ca ghosāpemi tahiṃ tahiṃ.

31. Ai đi đường cần đến dù? Ai (cần đến) giày dép mềm mại, đẹp đẽ?” Ta đã cho thông báo sáng chiều ở khắp các nơi như thế.

32. Na taṃ dasasu ṭhānesu na pi ṭhānasatesu vā
anekasataṭhānesu paṭiyattaṃ yācake dhanaṃ.

32. Của cải ấy đã được chuẩn bị cho những người cầu xin không phải chỉ ở mười địa điểm, hoặc ở một trăm địa điểm, mà ở hàng trăm địa điểm.

33. Divā vā yadi vā rattiṃ yadi eti vaṇibbako
laddhā yadicchakaṃ bhogaṃ pūrahatthova gacchati.

33. Nếu có người nghèo khổ đi đến cho dù ban ngày hoặc ban đêm, họ đều được nhận lãnh tài sản theo như ý thích rồi ra đi với hai tay tràn đầy của cải.

34. Evarūpaṃ mahādānaṃ adāsiṃ yāvajīvikaṃ
napāhaṃ dessaṃ dhanaṃ dammi napi natthi nicayo mayi.

34. Ta đã bố thí những phẩm vật lớn lao có hình thức như thế cho đến trọn đời. Ta cho ra của cải không phải là vì không thích ý, cũng không phải là vì ta không có chỗ để cất giữ.

35. Yathāpi āturo nāma rogato parimuttiyā
dhanena vejjaṃ tappetvā rogato parimuccati.

35. Cũng giống như người bị bệnh, sau khi làm hài lòng vị thầy thuốc với vàng bạc cho việc chữa lành căn bệnh, thì (sẽ) được hoàn toàn thoát khỏi căn bệnh.

36. Tathevāhaṃ jānamāno paripūretumasesato
 ūnamanaṃ pūrayituṃ demi dānaṃ vaṇibbake
 nirālayo apaccāso sambodhimanupattiyāti.

36. Tương tợ y như thế, khi biết được (điều ấy), để làm viên mãn (pháp bố thí) không bị thiếu sót và làm cho đầy đủ tâm ý còn khiếm khuyết, ta đã ban phát vật thí cho những người cầu xin, không luyến tiếc, không mong mỏi sự đền đáp nhằm thành tựu quả vị Toàn Giác.

Mahāsudassanacariyaṃ catutthaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Mahāsudassana là phần thứ tư.

--ooOoo--

 

5. Mahāgovindacariyaṃ
5. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Mahāgovinda:
[11]

***

37. Punāparaṃ yadā homi satta rājapurohito
pūjito naradevehi mahāgovindabrāhmaṇo.

37. Vào một thời điểm khác nữa, khi là Bà-la-môn Mahāgovinda, ta đã là viên quan tế tự của bảy vị vua và được các đấng quân vương cung phụng.

38. Tadāhaṃ sattarajjesu yaṃ me āsi upāyanaṃ

 tena demi mahādānaṃ akkhobhaṃ sāgarūpamaṃ.

38. Khi ấy, phẩm vật ở trong bảy vương quốc đã là của ta. Với phẩm vật ấy ta đã ban phát cuộc đại thí, tợ như biển cả không bị xáo động

39. Na me dessaṃ dhanaṃ dhaññaṃ napi natthi nicayo mayi
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā demi varaṃ dhananti.

39. Không phải là của cải và lúa gạo là không được vừa ý đối với ta và cũng không phải là ở nơi ta không có sự tích trữ. Quả vị giác ngộ đối với ta rất là cao quý, do đó ta bố thí tài sản quý giá.

Mahāgovindacariyaṃ pañcamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Mahāgovinda là phần thứ năm.

--ooOoo--

6. Nimirājacariyaṃ
6. Hạnh của Đức Vua Nimi:
[12]

***

40. Punāparaṃ yadā homi mithilāyaṃ puruttame
nimi nāma mahārājā paṇḍito kusalatthiko.

40. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vị đại vương tên Nimi, là bậc trí tuệ và là người tầm cầu thiện pháp ở tại kinh thành Mithilā.

41. Tadāhaṃ māpayitvāna catussālaṃ catummukhaṃ
tattha dānaṃ pavattesiṃ migapakkhinarādinaṃ.

41. Khi ấy, ta đã cho thực hiện bốn sảnh đường (mỗi sảnh đường) có bốn cổng ra vào (ở bốn hướng chính). Ở tại nơi ấy, ta đã cho tiến hành việc bố thí đến các thú vật, chim chóc, loài người, v.v...

42. Acchādanañca sayanañca annaṃ pānañca bhojanaṃ
abbocchinnaṃ karitvāna mahādānaṃ pavattayiṃ.

42. Ta đã thực hiện không ngừng nghỉ[13] và đã cho tiến hành cuộc đại thí (gồm có) y phục, giường ghế, cơm ăn, nước uống, và thực phẩm (các loại),

43. Yathāpi sevako sāmiṃ dhanahetumupāgato
kāyena vācā manasā ārādhaniyamesati.

43. Cũng giống như người đầy tớ, vì lý do lương bổng, tiếp cận chủ nhân và suy tầm cách làm hài lòng bằng thân, khẩu, ý (bằng hành động, lời nói, và tư tưởng).

44. Tathevāhaṃ sabbabhave pariyesissāmi bodhijaṃ
dānena satte tappetvā icchāmi bodhimuttamanti.

44. Tương tợ y như thế, trong tất cả mọi kiếp sống ta cũng sẽ tầm cầu việc làm sanh khởi sự giác ngộ. Sau khi làm thỏa mãn các chúng sanh với vật bố thí, ta mong cầu quả vị giác ngộ tối thượng.

Nimirājacariyaṃ chaṭṭhamaṃ.
Hạnh của đức vua Nimi là phần thứ sáu.

--ooOoo--

7. Candakumāracariyaṃ
7. Hạnh của Hoàng Tử Canda:
[14]

***

45. Punāparaṃ yadā homi ekarājassa atrajo
nagare pupphavatiyā kumāro candasavhayo.

45. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vị hoàng tử tên Canda, con trai của Ekaràja, ở tại thành phố Pupphavatī.

46. Tadāhaṃ yajanā mutto nikkhanto yaññavāṭato
saṃvegaṃ janayitvāna mahādānaṃ pavattayiṃ.

46. Khi ấy, ta đã được thoát khỏi cuộc tế thần và đã rời khỏi khu vực cuộc lễ tế. Sau khi đã tạo nên niềm xúc động, ta đã tiến hành cuộc đại thí.

47. Nāhaṃ pivāmi khādāmi napi bhuñjāmi bhojanaṃ
 dakkhiṇeyye adatvāna api chappañca rattiyo.

47. (Khi) không được bố thí đến những người xứng đáng sự bố thí, ta không uống, không ăn, cũng không thọ dụng vật thực, thậm chí đến năm sáu đêm.

48. Yathāpi vāṇijo nāma katvāna bhaṇḍasañcayaṃ
 yattha lābho mahā hoti tattha taṃ harati bhaṇḍakaṃ.

48. Cũng giống như người thương buôn sau khi đã tích trữ hàng hóa thì sẽ đem hàng hóa ấy đến nơi nào có nhiều lợi nhuận.

49. Tatheva sakabhuttāpi pare dinnaṃ mahapphalaṃ
 tasmā parassa dātabbaṃ satabhāgo bhavissati.

49. Tương tợ y như thế, ngay cả việc bố thí đến người khác vật đã được thọ dụng bởi bản thân cũng có quả báu lớn; vì thế nên bố thí đến tha nhân, sẽ có được (kết quả) gấp trăm lần.

50. Etamatthavasaṃ ñatvā demi dānaṃ bhavābhave
na paṭikkamāmi dānato sambodhimanupattiyāti.

50. Biết được năng lực của chân lý ấy, ta đã ban phát vật bố thí kiếp này đến kiếp khác. Ta không suy giảm việc bố thí nhằm thành tựu quả vị Toàn Giác.

Candakumāracariyaṃ sattamaṃ.
Hạnh của Hoàng Tử Canda là phần thứ bảy.

--ooOoo--

8. Sivirājacariyaṃ
8. Hạnh của Đức Vua Sivi:
[15]

***

51. Ariṭṭhasavhaye nagare sivi nāmāsiṃ khattiyo
nisajja pāsādavare evaṃ cintesahaṃ tadā.

51. Ở tại thành phố có tên gọi là Ariṭṭha, ta đã là vị Sát-đế-lỵ tên Sivi. Vào lúc ngồi ở tòa lâu đài quý báu, ta đã suy nghĩ như vầy:

52. Yaṃ kiñci mānusaṃ dānaṃ adinnaṃ me na vijjati
yopi vāceyya maṃ cakkhuṃ dadeyyaṃ avikampito.

52. “Không có bất cứ vật thí nào thuộc về nhân loại mà ta chưa từng bố thí. Thậm chí người nào yêu cầu ta về con mắt thì ta cũng có thể bố thí, không bị dao động.”

53. Mama saṅkappamaññāya sakko devānamissaro
nisinno devaparisāya idaṃ vacanamabruvi.

53. Biết được tâm tư của ta, vị Chúa Trời Sakka ngồi ở giữa tập thể chư thiên đã nói lên lời này:

54. Nisajja pāsādavare sivirājā mahiddhiko
cintento vividhaṃ dānaṃ adeyyaṃ so na passati,

54. “Đức vua Sivi có đại oai lực trong khi ngồi ở tòa lâu đài quý báu suy nghĩ về vật bố thí đủ các loại, vị ấy không nhìn thấy vật chưa từng được bố thí.

55. Tathannu vitathannetaṃ handa vīmaṃsayāmi taṃ
muhuttaṃ āgameyyātha yāva jānāmi taṃ manaṃ.

55. Điều này là đúng hay không đúng sự thật? Vậy hãy để ta thử thách vị ấy. Các người hãy chờ một chốc lát đến khi ta biết được tâm ý ấy.”

56. Pavedhamāno palitasiro valitagatto jarāturo
andhavaṇṇova hutvāna rājānaṃ upasaṅkami.

56. Sau khi biến thành dáng vóc người mù lòa, đang run rẩy, có đầu tóc bạc phơ, cơ thể nhăn nheo, già yếu, bệnh hoạn, (Chúa Trời Sakka) đã đi đến gặp đức vua.

57. So tadā paggahetvāna vāmaṃ dakkhiṇabāhu ca
sirasmiṃ añjaliṃ katvā idaṃ vacanamabruvi.

57. Khi ấy, ông ta đã giơ cánh tay trái và cánh tay phải lên chắp lại ở đầu, rồi đã nói lời này:

58. Yācāmi taṃ mahārāja dhammikaraṭṭhavaḍḍhana
tava dānaratā kitti uggatā devamānuse.

58. “Tâu đại vương, tôi cầu xin ngài. Ôi vị làm tiến triển vương quốc về phương diện đạo đức, danh tiếng của ngài về sự hoan hỉ trong bố thí đã vang khắp chốn nhân thiên.

59. Ubhopi nettā nayanā andhā upahatā mama
ekaṃ me nayanaṃ dehi tvampi ekena yāpaya.

59. Cả hai con mắt dẫn đường của tôi bị mù lòa, hư hỏng. Hãy bố thí cho tôi một con mắt, ngài cũng hãy còn sống với một con mắt vậy.”

60. Tassāhaṃ vacanaṃ sutvā haṭṭho saṃviggamānaso
katañjalī vedajāto idaṃ vacanamabruviṃ.

60. Nghe được lời nói của người ấy, ta đã mừng rỡ, có tâm trí phấn chấn. Tràn ngập niềm phấn khởi, ta đã chắp tay lại rồi đã nói lời này:

61. Idānāhaṃ cintayitvā pāsādato idhāgato
tvaṃ mama cittamaññāya nettaṃ yācitumāgato.

61. “Lúc này đây, sau khi suy nghĩ trẫm đã rời tòa lâu đài đi đến nơi đây. Còn ngươi, sau khi biết được tâm của trẫm đã đi đến để cầu xin con mắt.

62. Aho me mānasaṃ siddhaṃ saṅkappo paripūrito
adinnapubbaṃ dānavaraṃ ajja dassāmi yācake.

62. Ôi, ý định của ta đã được thành tựu, điều ước mong đã được vẹn toàn! Hôm nay, ta sẽ ban cho người hành khất tặng vật cao quý chưa từng được bố thí trước đây.

63. Ehi sīvaka uṭṭhehi mā dandhayi mā pavedhayi
 ubhopi nayane dehi uppāṭetvā vaṇibbake.

63. Này Sīvaka, [16]hãy lại gần. Hãy mạnh dạn lên, đừng chần chờ, chớ có run rẩy. Hãy móc ra cả hai con mắt và trao cho người cầu thỉnh.”

64. Tato so codito mayhaṃ sīvako vacanaṅkaro
uddharitvāna pādāsi tālamiñjaṃva yācake.

64. Sau đó, bị ta thúc giục vị Sīvaka ấy là người thi hành mệnh lệnh đã lấy ra (hai con mắt) giống như nạo cơm dừa, rồi đã trao cho cho người hành khất.

65. Dadamānassa dennassa dinnadānassa me sato
cittassa aññathā natthi bodhiyā yeva kāraṇā.

65. Trong khi chuẩn bị bố thí, khi đang bố thí, khi tặng vật đã được ta bố thí, tâm không có thay đổi với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.

66. Na me dessā ubho cakkhu attā na me na dessiyo
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā cakkhuṃ adāsahanti.

66. Hai con mắt không có bị ta ghét bỏ, bản thân không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã bố thí con mắt.

Sivirājacariyaṃ aṭṭhamaṃ.
Hạnh của Đức Vua Sivi là phần thứ tám.

--ooOoo--

9. Vessantaracariyaṃ
9. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Vessantara:
[17]

***

67. Yā me ahosi janikā Phusatī nāma khattiyā
sā atītāsu jātisu sakkassa mahesī piyā.

67. Người mẹ ruột của ta là nữ nhân dòng Sát-đế-lỵ tên Phusatī. Bà ấy là hoàng hậu yêu quý của (Chúa Trời) Sakka vào những kiếp sống trước.[18]

68. Tassā āyukkhayaṃ disvā devindo etadabruvi
dadāmi te dasavare vara bhadde yadicchasi.

68. Nhìn thấy sự dứt tuổi thọ của bà ấy, vị Chúa Trời đã nói điều này: “Này quý phi, trẫm ban cho khanh mười điều ân huệ, hãy chọn lựa theo như ý thích.”

69. Evaṃ vuttā ca sā devī sakkaṃ punidamabruvi
kinnū me aparādhatthi kinnu dessā ahaṃ tava
 rammā cāvesi maṃ ṭhānā vātova dharaṇīruhaṃ.

69. Và khi được nói như vậy, bà hoàng hậu ấy đã đáp lại (Chúa Trời) Sakka điều này: “Thiếp có lỗi lầm gì vậy? Phải chăng thiếp bị ngài ghét bỏ khiến ngài lưu đày thiếp khỏi chốn bồng lai như là ngọn gió thổi trốc gốc cây vậy?

70. Evaṃ vutto ca so sakko puna tassīdamabruvi
na ceva te kataṃ pāpaṃ na ca me tvamasi appiyā.

70. Và khi được nói như vậy, vị (Chúa Trời) Sakka ấy đã đáp lại bà ta điều này: “Chẳng phải khanh đã làm điều sai trái và cũng chẳng phải là ta không yêu quý khanh.

71. Ettakaṃ yeva te āyu cavanakālo bhavissati
paṭiggaṇha mayā dinne vare dasa varuttame.

71. Sở dĩ như thế ấy chính là vì tuổi thọ của khanh, thời điểm tử vong sắp đến. Hãy tiếp nhận mười điều ân huệ quý báu tối cao đã được trẫm ban thưởng.”

72. Sakkena sā dinnavarā tuṭṭhahaṭṭhā pamoditā
mama abbhantaraṃ katvā phusatī dasavare varī.

72. Với mười điều ân huệ được (Chúa Trời) Sakka ban thưởng, bà Phusatī ấy, hớn hở, mừng rỡ, vui sướng, đã lựa chọn mười điều ân huệ sau khi đã tính gộp luôn cả ta (vào các điều ân huệ ấy).

73. Tato cutā sā phusatī khattiye upapajjatha
jetuttaramhi nagare sañjayena samāgamī.

73. Mệnh chung từ nơi đó, bà Phusatī ấy đã sanh vào dòng dõi Sát-đế-lỵ ở thành phố Jetuttara và đã kết hôn với Sañjaya.

74. Tadāhaṃ phusatiyā kucchiṃ okkanto piyamātuyā
mama tejena me mātā sadā dānaratā ahū.

74. Khi ấy, ta đã hạ sanh vào lòng bà Phusatī, người mẹ yêu quý. Do nhờ oai lực của ta, người mẹ của ta đã luôn luôn hứng thú trong việc bố thí.

75. Adhane āture jiṇṇe yācake addhike jane
samaṇe brāhmaṇe khīṇe deti dānaṃ akiñcane.

75. Bà bố thí cho những người không có tài sản, người không có của cải, người bệnh hoạn, người già cả, người ăn xin, người đi đường, các vị Sa-môn, các Bà-la-môn, và những người bị khánh tận.

76. Dasamāse dhārayitvāna karonto purapadakkhiṇaṃ
vessānaṃ vīthiyā majjhe janesi phusatī mamaṃ.

76. Sau khi mang thai ta được mười tháng, bà Phusatī trong lúc đang đi quanh thành phố đã sanh ta ở giữa đường phố của những người thương buôn.

77. Na mayhaṃ mattikaṃ nāmaṃ napi pettikasambhavaṃ
jātomhi vessavīthiyā tasmā vessantaro ahū.

77. Tên của ta không liên quan đến họ mẹ, cũng không xuất phát từ họ cha. Ta đã được sanh ra ở đường phố của những người thương buôn, vì thế ta đã là Vessantara.

78. Yadāhaṃ dārako homi jātiyā aṭṭhavassiko
tadā nisajja pāsāde dānaṃ dātuṃ vicintayiṃ.

78. Đến khi ta đã trở thành đứa bé trai được tám tuổi tính từ lúc sanh, khi ấy ta đã ngồi ở tòa lâu đài và đã suy nghĩ về việc bố thí tặng vật.

79. Hadayaṃ dadeyyaṃ cakkhuṃ maṃsampi rudhirampi ca
dadeyyaṃ kāyaṃ sāvetvā yadi koci yācaye mamaṃ.

79. Ta có thể bố thí tim, mắt, luôn cả thịt và máu của mình. Ta đã thông báo là ta có thể bố thí xác thân của mình nếu có người van xin.

80. Sabhāvaṃ cintayantassa akampitamasaṇṭhitaṃ
akampī tattha paṭhavī sineruvanavaṭaṃsakā.

80. Trong khi ta đang suy xét về bản tánh không dao động không hẹp hòi, tại nơi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru đã rúng động.

81. Anvaddhamāse paṇṇarase puṇṇamāse uposathe
paccayaṃ nāgamāruyha dānaṃ dātuṃ upāgamiṃ.

81. Mỗi nửa tháng, vào ngày mười lăm và ngày cuối tháng là ngày trai giới, ta đã cưỡi lên con voi Paccaya và đã đi đến để bố thí tặng phẩm.

82. Kāliṅgaraṭṭhavisayā brāhmaṇā upagañchu maṃ
āyācuṃ maṃ hatthināgaṃ dhaññaṃ maṅgalasammataṃ.

82. Những người Bà-la-môn từ lãnh thổ vương quốc Kaliṅga đã đi đến gặp ta. Họ đã cầu xin ta con long tượng được xem là biểu hiện của sự thịnh vượng và may mắn:

83. Avuṭṭhiko janapado dubbhikkho chātako mahā
 dadāhi pavaraṃ nāgaṃ sabbasetaṃ gajuttamaṃ.

83. “Xứ sở chúng tôi không có mưa, thức ăn hiếm hoi, đói kém trầm trọng. Xin ngài hãy ban cho con long tượng cao quý, toàn màu trắng, tối thắng của loài voi.”

84. Dadāmi na vikampāmi yaṃ maṃ yācanti brāhmaṇā
santaṃ nappatiguhāmi dāne me ramatī mano.

84. Ta bố thí điều mà những người Bà-la-môn yêu cầu ta; ta không rung động. Ta không thu giấu vật đang sở hữu. Tâm ý của ta hoan hỉ trong việc bố thí.

85. Na me yācakamanuppatte paṭikkhepo anucchavo
 mā me bhijji samādānaṃ dassāmi vipulaṃ gajaṃ.

85. (Nghĩ rằng): “Đối với ta, khi có được người cầu xin thì sự từ chối là điều không đúng đắn. Sự thọ trì của ta chớ có bị đổ vỡ. Ta sẽ bố thí con voi vĩ đại.”

86. Nāgaṃ gahetvā soṇḍāya bhiṅkāre ratanāmaye
jalaṃ hatthe ākiritvā brāhmaṇānaṃ adaṃ gajaṃ.

86. Sau khi nắm lấy con voi ở chiếc ngà và rưới nước từ chiếc bình làm bằng ngọc quý lên bàn tay, ta đã cho con voi đến các vị Bà-la-môn.

87. Punāparaṃ dadantassa sabbasetaṃ gajuttamaṃ
tadāpi paṭhavī kampi sineruvanavaṭaṃsakā.

87. Lại một lần nữa, trong khi ta đang bố thí con voi tối thắng toàn màu trắng, khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

88. Tassa nāgassa dānena sivayo kuddhā samāgatā
pabbojesuṃ sakā raṭṭhā vaṅkaṃ gacchatu pabbataṃ.

88. Do việc bố thí con voi ấy, những người dân xứ Sivi giận dữ đã tụ họp lại và đã trục xuất (ta) ra khỏi vương quốc của ta (nói rằng): “Hãy cho ông ta đi đến ngọn núi Vaṅka.”

89. Tesaṃ nicchuhamānānaṃ akampitamasaṇṭhitaṃ
mahādānaṃ pavattetuṃ ekaṃ varamayācisaṃ.

89. Trong khi bọn họ xua đuổi, ta đã yêu cầu một ân huệ để tiến hành cuộc đại thí, không dao động, không hẹp hòi.

90. Yācitā sivayo sabbe ekaṃ varamadaṃsu me
sāvayitvā kaṇṇabheriṃ mahādānaṃ dadāmahaṃ.

90. Khi được yêu cầu, tất cả những người dân xứ Sivi đã ban cho ta một ân huệ. Sau khi cho vỗ kêu hai chiếc trống lớn, ta đã trao tặng món quà vĩ đại.

91. Athettha vattatī saddo tumulo bheravo mahā
dānena maṃ nīharanti puna dānaṃ dadātayaṃ.

91. Lúc bấy giờ, tại nơi ấy có âm thanh ầm ĩ, ồn ào, ghê rợn vang lên. Bởi sự bố thí (này), họ đã lôi kéo ta đi; một lần nữa ta đã trao tặng món quà vĩ đại.

92. Hatthi asse rathe datvā dāsidāsaṃ gavaṃ dhanaṃ
mahādānaṃ daditvāna nagarā nikkhamiṃ tadā.

92. Sau khi đã bố thí voi, ngựa, xe cộ, tôi trai, tớ gái, trâu bò, của cải, và đã ban phát cuộc đại thí, vào khi ấy ta đã rời khỏi thành phố.

93. Nikkhamitvāna nagarā nivattitvā vilokite
tadāpi paṭhavī kampī sineruvanavaṭaṃsakā.

93. Sau khi rời khỏi thành phố, ta đã quay người lại quan sát, khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

94. Catuvāhiṃ rathaṃ datvā ṭhatvā cātummahāpathe.
ekākiyo adutiyo maddideviṃ idamabrūviṃ.

94. Sau khi bố thí cỗ xe bốn ngựa kéo, ta đứng ở ngã tư đường, chỉ một mình không người hầu cận, và ta đã nói với Hoàng Hậu Maddī điều này:

95. Tvaṃ maddi kaṇhaṃ gaṇhāhi lahukā esā kaniṭṭhikā
ahaṃ jāliṃ gahessāmi garuko bhātiko hi so.

95. “Này Maddī, nàng hãy ẵm Kaṇhā(jinā), con bé nhẹ và là em gái. Ta sẽ ẵm Jāli bởi vì nó nặng và là anh trai.”

96. Padumaṃ puṇḍarīkaṃ va maddikaṇhājinaggī
ahaṃ suvaṇṇabimbaṃ va jāliṃ khattiyamaggahiṃ.

96. Maddī đã ôm lấy Kaṇhājinā như thể ôm lấy đóa sen xanh hoặc đóa sen trắng. Ta đã ôm lấy vị Sát-đế-lỵ Jāli như thể ôm lấy bầu đựng nước bằng vàng.

97. Abhijātā sukhumālā khattiyā caturo janā
visamaṃ samaṃ akkamantā vaṅkaṃ gacchāma pabbataṃ.

97. Bốn người Sát-đế-lỵ, dòng dõi quý tộc, có vóc dáng mảnh mai, tiến bước trên mặt đất lúc gồ ghề lúc bằng phẳng đi về hướng ngọn núi Vaṅka.

98. Ye keci manujā enti anumagge paṭippathe
maggaṃ te paṭi pucchāma kuhiṃ vaṅkatapabbato.

98. Chúng tôi đã hỏi những người đi cùng đường hoặc theo hướng ngược lại về lộ trình: “Ngọn núi Vaṅka ở nơi nào?

99. Te tattha amhe passitvā karuṇaṃ giramudīrayuṃ
dukkhante paṭivedenti dūre vaṅkatapabbato.

99. Nhìn thấy chúng tôi ở nơi ấy, họ đã thốt lên lời thương xót. Họ bày tỏ nỗi đau xót (nói rằng): “Ngọn núi Vaṅka ở xa lắm.”

100. Yadi passanti pavane dārakā phalite dume
 tesaṃ phalānaṃ hetumhi uparodanti dārakā.

100. Nếu hai đứa trẻ nhìn thấy những cây có trái ở trong khu rừng, hai đứa trẻ bật khóc vì nguyên nhân của những trái cây ấy.

101. Rodante dārake disvā ubbiggā vipulā dumā
 sayamevonamitvāna upagacchanti dārake.

101. Trông thấy hai đứa trẻ khóc lóc, những cội cây cao lớn xum xuê tự động khom mình xuống đến gần hai đứa trẻ.

102. Idaṃ acchariyaṃ disvā abbhutaṃ lomahaṃsanaṃ
 sādhukāraṃ pavattesi maddī sabbaṅgasobhanā.

102. Sau khi nhìn thấy điều kỳ diệu phi thường khiến lông tóc rởn ốc này, (hoàng hậu) Maddī, với sự rạng rỡ ở toàn thân, đã thốt lên lời tán thán (rằng):

103. Accheraṃ vata lokasmiṃ abbhutaṃ lomahaṃsanaṃ
 vessantarassa tejena sayamevonatā dumā.

103. “Quả thật là điều kỳ diệu phi thường ở thế gian khiến lông tóc rởn ốc. Những cội cây đã tự động khom mình xuống bởi vì oai lực của Vessantara.”[19]

104. Saṅkhipiṃsu pathaṃ yakkhā anukampāya dārake
 nikkhantadivase yeva cetaraṭṭhamupāgamuṃ.

104. Vì lòng thương xót hai đứa trẻ, các hàng Dạ-xoa đã thâu ngắn đường đi; chỉ nội trong ngày khởi hành họ đã đi đến vương quốc Ceta.

105. Saṭṭhirājasahassāni tadā vasanti mātule
sabbe pañjalikā hutvā rodamānā upāgamuṃ.

105. Lúc bấy giờ có sáu mươi ngàn vị vua cư ngụ ở Mātulā.[20] Tất cả đã chắp tay lên, than khóc, và đã đi đến gần.

106. Tattha vattetvā sallāpaṃ cetehi cetaputtehi
te tato nikkhamitvāna vaṅkaṃ agamuṃ pabbataṃ.

106. Ở tại nơi ấy, sau khi trao đổi trò chuyện cùng với các vị vương tử xứ Ceta ấy, rồi từ đó bốn người đã đi đến ngọn núi Vaṅka.

107. Āmantayitvā devindo vissakammaṃ mahiddhikaṃ
assamaṃ sukataṃ rammaṃ paṇṇasālaṃ sumāpaya.

107. Chúa Trời đã triệu tập vị Vissakamma có đại thần lực (ra lệnh rằng): “Khanh hãy khéo biến hóa ra một khu ẩn cư được xây dựng tốt đẹp có gian nhà lá xinh xắn.”

108. Sakkassa vacanaṃ sutvā vissakammo mahiddhiko
assamaṃ sukataṃ rammaṃ paṇṇasālaṃ sumāpayī.

108. Nghe theo lời của (Chúa Trời) Sakka, vị Vissakamma có đại thần lực đã khéo biến hóa ra một khu ẩn cư được xây dựng tốt đẹp có gian nhà lá xinh xắn.

109. Ajjhogahetvā pavanaṃ appasaddaṃ nirākulaṃ
caturo janā mayaṃ tattha vasāma pabbatantare.

109. Sau khi đã đi sâu vào khu rừng có ít tiếng động không có xáo trộn, bốn người chúng tôi đã sống ở tại nơi ấy, phía bên trong ngọn núi.

110. Ahañca maddidevī ca jālī kaṇhājinā cubho
aññamaññaṃ sokanudā vasāma assame tadā.

110. Khi ấy, ta và Hoàng Hậu Maddī cùng với hai con là Jāli và Kaṇhājinā đã sống ở khu ẩn cư giúp nhau xóa tan nỗi niềm sầu muộn.

111. Dārake anurakkhanto asuñño homi assame
maddī phalaṃ āharati poseti sā tayo jane.

111. Trong khi chăm nom hai đứa trẻ, ta không có đơn độc ở khu ẩn cư. Nàng Maddī mang về trái cây; nàng ấy nuôi dưỡng ba người.

112. Pavane vasamānassa addhiko maṃ upāgami
āyāci puttake mayhaṃ jāliṃ kaṇhājinañcubho.

112. Khi ta đang sống ở trong khu rừng, có người khách đi đường đã đến gặp ta và đã cầu xin cả hai người con của ta là Jāli và Kaṇhājinā.

113. Yācakaṃ upagataṃ disvā hāso me upapajjatha
ubho putte gahetvāna adāsiṃ brāhmaṇe tadā.

113. Khi trông thấy người cầu xin đi đến gần, sự mừng rỡ đã sanh khởi ở ta. Khi ấy, ta đã dắt cả hai người con và đã trao tặng cho vị Bà-la-môn.

114. Sake putte cajantassa jūjake brāhmaṇe yadā
tadāpi paṭhavī kampi sineruvanavaṭaṃsakā.

114. Khi ta dứt bỏ hai người con của chính bản thân cho vị Bà-la-môn Jūjaka, khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

115. Punadeva sakko oruyha hutvā brāhmaṇasannibho
āyāci maṃ maddideviṃ sīlavantiṃ patibbataṃ.

115. Hơn thế nữa, (Chúa Trời) Sakka, sau khi ngự xuống với dáng vóc vị Bà-la-môn, đã cầu xin ta Hoàng Hậu Maddī là người vợ có giới hạnh và chung thủy.

116. Maddiṃ hatthe gahetvāna udakañjali pūriya
pasantamanasaṅkappo tassa maddimadāsahaṃ.

116. Sau khi nắm lấy nàng Maddī ở cánh tay và làm đầy hai bàn tay bụm lại với nước, ta đã ban bố nàng Maddī cho vị ấy với tâm ý và tư duy hoan hỷ.

117. Maddiyā dīyamānāya gagane devā pamoditā
tadāpi paṭhavī kampī sineruvanavaṭaṃsakā.

117. Khi nàng Maddī đang được bố thí, chư thiên ở cõi trời đã mừng rỡ. Khi ấy, trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

118. Jāliṃ kaṇhājinaṃ dhītaṃ maddideviṃ patibbataṃ
cajamāno na cintesiṃ bodhiyāyeva kāraṇā.

118. Trong khi dứt bỏ (người con trai) Jāli, người con gái Kaṇhājinā, và Hoàng Hậu Maddī người vợ chung thủy, ta đã không phải nghĩ ngợi với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.

119. Na me dessā ubho puttā maddidevī na dessiyā
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā piye adāsahaṃ.

119. Cả hai người con không có bị ta ghét bỏ, Hoàng Hậu Maddī không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã bố thí những người thân yêu.

120. Punāparaṃ brahāraññe mātāpitusamāgame
karuṇaṃ paridevante sallapante sukhaṃ dukhaṃ.

120. Vào một dịp khác nữa, khi hội ngộ cùng cha mẹ ở tại khu rừng bao la, trong khi bọn họ đang than khóc bi thảm nói về nỗi niềm hạnh phúc và khổ đau.

121. Hirottappena garunā ubhinnaṃ upasaṅkamiṃ
tadāpi paṭhavī kampi sineruvanavaṭaṃsakā.

121. Do sự tôn kính, ta đã đến gặp song thân với sự hổ thẹn và ái ngại. Khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

122. Punāparaṃ brahāraññe nikkhamitvā sañātibhi
pavisāmi puraṃ rammaṃ jetuttara puruttamaṃ.

122. Vào một dịp khác nữa, ta cùng với thân quyến đã lìa khỏi khu rừng bao la và đi vào thành phố tráng lệ là kinh thành Jetuttara.

123. Ratanāni satta vassiṃsu mahāmegho pavassatha
tadāpi paṭhavī kampi sineruvanavaṭaṃsakā.

123. Khi ấy, bảy loại châu báu đã đổ xuống cơn mưa, có đám mây lớn đã đổ tuôn mưa. Lúc bấy giờ, trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

124. Acetanāyaṃ paṭhavī aviññāya sukhaṃ dukhaṃ
sāpi dānabalā mayhaṃ sattakkhattuṃ pakampathāti.

124. Ngay cả trái đất vô tư này không nhận thức được nỗi niềm hạnh phúc và khổ đau, nó cũng đã rung chuyển bảy lần bởi vì năng lực bố thí của ta.

Vessantaracariyaṃ navamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Vessantara là phần thứ chín.

--ooOoo--

10. Sasapaṇḍitacariyaṃ
10. Hạnh của Con Thỏ Hiền Trí:

***

125. Punāparaṃ yadā homi sasako pavanacāriko
tiṇapaṇṇasākaphalabhakkho paraheṭhanavivajjito.

125. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là con thỏ lang thang ở trong rừng, có thức ăn là cỏ, lá cây, rau cải, và quả củ. Ta lánh xa việc hãm hại các kẻ khác.

126. Makkeṭo ca sigālo ca uddapoto cahaṃ tadā
vasāma ekasāmantā sāyaṃ pāto padissare.

126. Lúc bấy giờ, có một con khỉ, một con chó rừng, một con rái cá nhỏ, và ta sống trong cùng một khu vực, gặp gỡ nhau sáng chiều.

127. Ahaṃ te anusāsāmi kiriye kalyāṇapāpake
pāpāni parivajjetha kalyāṇebhinivissatha.

127. Ta giảng dạy cho chúng về các hành động lành dữ: “Các ngươi hãy xa lìa các điều ác, các ngươi hãy gắn bó với các việc thiện.”

128. Uposathamhi divase candaṃ disvāna pūritaṃ
etesaṃ tattha ācikkhiṃ divaso ajjuposatho.

128. Sau khi nhìn thấy mặt trăng đã tròn vào ngày trai giới, tại nơi ấy ta đã chỉ bảo chúng rằng: “Hôm nay là ngày trai giới.

129. Dānāni paṭiyādetha dakkhiṇeyyassa dātave
datvā dānaṃ dakkhiṇeyye upavassathuposathanti.

129. Các ngươi hãy chuẩn bị những tặng phẩm để bố thí đến bậc xứng đáng được dâng cúng. Sau khi đã bố thí tặng phẩm đến bậc xứng đáng được dâng cúng, các ngươi hãy thực hành ngày trai giới.”

130. Te me sādhūti vatvāna yathāsatti yathābalaṃ
dānāni paṭiyādetvā dakkhiṇeyyaṃ gavesisuṃ.

130. Chúng đã nói với ta rằng: “Sādhu, lành thay!” Rồi tùy theo khả năng, tùy theo sức lực, sau khi chuẩn bị các tặng phẩm chúng đã đi tìm bậc xứng đáng được dâng cúng.

131. Ahaṃ nissajja cintesiṃ dānaṃ dakkhiṇānucchavaṃ
yadihaṃ labhe dakkhiṇeyyaṃ kiṃ me dānaṃ bhavissati.

131. Ta đã ngồi xuống và suy nghĩ về tặng phẩm thích hợp với bậc xứng đáng được dâng cúng: “Nếu ta đạt được một bậc xứng đáng được dâng cúng thì tặng phẩm của ta sẽ là gì?

132. Na me atthi tilā muggā māsā vā taṇḍulā ghataṃ
ahaṃ tiṇena yāpemi na sakkā tiṇa dātave.

132. Ta không có mè, đậu xanh, đậu tây, gạo, hay bơ. Ta sống bằng cỏ nhưng bố thí cỏ là không thể được.

133. Yadi koci eti dakkhiṇeyyo bhikkhāya mama santike
dajjāhaṃ sakamattānaṃ na so tuccho gamissati.

133. Nếu có người là bậc xứng đáng được dâng cúng đi đến nơi ta để khất thực, ta sẽ cúng dường bản thân của mình; người ấy sẽ không (phải) ra đi mà không có gì.

134. Mama saṅkappamaññāya sakko brāhmaṇavaṇṇinā
āsayaṃ me upāgañchi dānaṃ vīmaṃsanāya me.

134. Biết được ý định của ta, (Chúa Trời) Sakka với dáng vóc của vị Bà-la-môn đã đi đến chổ ngụ của ta nhằm việc xác định việc bố thí của ta.

135. Tamahaṃ disvāna santuṭṭho idaṃ vacanamabrūviṃ
sādhu khosi anuppatto ghāsahetu mamantike.

135. Khi nhìn thấy vị ấy, ta đã hớn hở nói lên điều này: “Quả thật là tốt đẹp về việc ông đã đi đến chỗ tôi vì nguyên nhân thực phẩm.

136. Adinnapubbaṃ dānavaraṃ ajja dassāmi te ahaṃ
tuvaṃ sīlaguṇūpeto ayuttante paraheṭhanaṃ.

136. Hôm nay, tôi sẽ biếu ông tặng phẩm cao quí chưa từng được bố thí trước đây. Ông là con người thành tựu giới đức nên việc hãm hại kẻ khác là không thích hợp đối với ông.

137. Ehi aggiṃ padīpehi nānā kaṭṭhe samāniya
ahaṃ pacissamattānaṃ pakkaṃ tvaṃ bhakkhayissasi.

137. Ông hãy đi đến và đốt lên ngọn lửa. Hãy đem lại nhiều cây củi. Tôi sẽ nướng chín bản thân. Ông sẽ thọ thực vật đã được nấu chín.”

138. Sādhūti so haṭṭhamano nānā kaṭṭhe samānayi
mahantaṃ adāsi citakaṃ katvānaṅgāragabbhakaṃ.

138. Vị ấy, với tâm ý mừng rỡ, (nói rằng): “Sādhu, lành thay!” rồi đã đem lại nhiều cây củi đốt lên đống lửa lớn và đã tạo nên một cụm than hồng.

139. Aggiṃ tattha padīpesi yathā so khippaṃ mahā bhave
phoṭetvā rajagate gatte ekamantaṃ upāvisiṃ.

139. Vị ấy đã đốt lên ngọn lửa ở tại nơi ấy và ngọn lửa ấy đã mau chóng trở nên mãnh liệt như thế. Sau khi rủ sạch các chi thể bị lấm bụi, [21] ta đã tiến vào một bên (đống lửa).

140. Yadā mahā kaṭṭhapuñjo āditto dhama dhamāyati
taduppatitvā papatiṃ majjhe jālasikhantare.

140. Khi đống cây củi to lớn đã phát cháy bùng lên mạnh mẽ, ta đã nhảy lên và rơi vào ở chính giữa ngọn lửa.

141. Yathā sītodakaṃ nāma paviṭṭhaṃ yassa kassaci
sameti darathapariḷāhaṃ assādaṃ deti pīti ca.

141. Giống như bất cứ ai đã đi vào trong làn nước mát lạnh thì được dịu đi nỗi bực bội và cơn phiền muộn (của mình) đồng thời làm sanh khởi [22] sự hứng thú và phỉ lạc.

142. Tatheva jalataṃ aggiṃ paviṭṭhassa mamaṃ tadā
sabbaṃ sameti darathaṃ yathā sītodakaṃ viya.

142. Tương tợ y như thế, khi ta đi vào ngọn lửa đang cháy rực, tất cả nỗi bực bội đã được dịu đi, tợ như (đi vào) làn nước mát lạnh vậy.

143. Chavi chammaṃ maṃsaṃ naharuṃ aṭṭhiṃ hadayabandhanaṃ
kevalaṃ sakalaṃ kāyaṃ brāhmaṇassa adāsahantī.

143. Ta đã bố thí đến vị Bà-la-môn hết thảy toàn bộ thân thể gồm có lớp da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và cơ tim.

Sasapaṇḍitacariyaṃ dasamaṃ.
Hạnh của Con Thỏ Hiền Triết là phần thứ mười.

--ooOoo--

144. Akitti brāhmaṇo saṅkho kururājā dhanañjayo
mahā sudassano rājā mahāgovinda brāhmaṇo.

144. Bà-la-môn Akitti, Saṅkha, Dhañanjaya vua xứ Kuru, đức vua Mahāsudassana, Bà-la-môn Mahāgovinda,

145. Nimi canda kumāro ca sivi vessantaro saso
ahameva tadā āsiṃ yo te dānavare adā.

145. Nimi, hoàng tử Canda, Sivi, Vessantara, và con thỏ chính là ta vào lúc bấy giờ, và là người đã bố thí những tặng phẩm cao quý.

146. Ete dānaparikkhārā ete dānassa pāramī
jīvitaṃ yācake datvā imaṃ pārami pūrayiṃ.

146. Những hạnh này là những phần cơ bản của sự bố thí. Những hạnh này là các sự toàn hảo của sự bố thí. Sau khi bố thí mạng sống đến người cầu xin, ta đã làm đầy đủ sự toàn hảo (về bố thí) này.

147. Bhikkhāyupagataṃ disvā sakattānaṃ pariccajiṃ
dānena me samo natthi esā me dānapāramīti.

147. Sau khi nhìn thấy người đi đến gần để khất thực, ta đã xả bỏ bản thân mình. Không có ai bằng ta về sự bố thí; đây là sự toàn hảo về bố thí của ta.

Dānapāramitā niṭṭhitā.
Dứt sự toàn hảo về bố thí.

--ooOoo--


[1] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 480.

[2] ettha caritanti cariyā = ở đây, điều đã được thực hành là hạnh, CpA. 17.

[3] Chú Giải Sư Dhammapāla giải thích về từ asaṅkheyya như sau: “Ở đây, asaṅkheyya là không có khả năng để đếm, không thể tính đếm được, có ý nghĩa là vượt quá sự tính đếm.” Ngài còn giải thích rõ thêm: “Ý nghĩa ở đây là bốn lần không thể đếm được (bốn a-tăng-kỳ) của các đại kiếp cọng thêm một trăm ngàn đại kiếp” (CpA. 12). Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng “bốn a-tăng-kỳ cọng thêm một trăm ngàn” là một con số có giá trị vô cùng lớn.

[4] Đức Phật đang giảng giải cho ngài Sāriputta (Xá-lợi-phất), CpA. 20.

[5] Tidivādhibhū là Chúa cõi trời Tidivā, tức là cõi Tāvatiṃsa (Đạo Lợi), CpA. 24.

[6] Bị oi bức do hơi nóng phát ra ở tảng đá ngồi có phủ gấm vàng của vị ấy CpA. 24.

[7] Mô tả tính chất bố thí bất cứ vật gì thuộc về bản thân không phân biệt, CpA. 24. Như vậy, lúc này, đức Bồ-tát chỉ sử dụng lá cây ở trong rừng để làm thức ăn.

[8] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 442.

[9] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 276.

[10] Kinh Đại Thiện Kiến Vương, Trường Bộ Kinh II; Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 95.

[11] So sánh với Kinh Đại Điền-tôn (Mahāgovindasuttaṃ), Trường Bộ Kinh II.

[12] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 541.

[13] Nghĩa là đã tiến hành ngày đêm không gián đoạn đến lúc dứt tuổi thọ, CpA. 54.

[14] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 542.

[15] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 499.

[16] Sīvaka là tên vị ngự y của đức vua Sivi, CpA. 66.

[17] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 547.

[18] Chú giải ghi rằng: vào kiếp sống quá khứ liền trước đó, CpA. 74.

[19] Do nhờ năng lực phước báu của Vessantara, CpA. 87.

[20] Mātulā là tên của một thành phố thuộc vương quốc Ceta, CpA. 87.

[21] Nếu có các chúng sanh ở trong bộ lông thì “chớ để chúng bị chết,” (nghĩ thế) ta đã rúng rẩy các phần thân thể đang bị lấm bụi của ta ba lần, CpA. 106.

[22] deti được giải thích là uppādeti (làm sanh khởi), CpA. 107.