HẠNH TẠNG

LỜI GIỚI THIỆU

Cariyāpiṭaka (Hạnh Tạng) là tập Kinh cuối cùng Tiểu Bộ (Khuddakanikāya). Chú Giải của tập Kinh Cariyāpiṭaka (Hạnh Tạng) có tên là Paramatthadīpanī do công của Ngài Dhammapāla thực hiện vào khoảng cuối thế kỷ thứ 5 sau Công Nguyên.

Về nội dung, tập kinh Cariyāpiṭaka (Hạnh Tạng) có tựa đề nêu bật được nội dung chứa đựng ở bên trong. Cụ thể tập Kinh này trình bày về 35 câu chuyện các tiền thân của đức Bồ-tát đã chuyên tâm thực hành các đức hạnh để đạt đến sự toàn hảo (pāramitā) của các đức hạnh ấy trong thời gian bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp nhằm làm chín muồi quả vị Giác Ngộ. Nói về mười sự toàn hảo này, các dịch giả tiền bối đã dịch là mười pháp ba-la-mật hay thập độ. Điều đáng ngạc nhiên trong tập Kinh này là chỉ có bảy sự toàn hảo được đề cập đến thay vì mười, và số lượng các câu chuyện cho mỗi đức hạnh lại không thống nhất, không rõ do bị thất thoát trong việc truyền thừa hay là việc thực hiện tập Kinh chưa được hoàn tất. Sở dĩ chúng tôi có nhận xét như vậy vì tập Kinh này được chia làm ba chương: Chương I nói về bố thí có 10 chuyện, chương II nói về trì giới có 10 chuyện, và chương III bao gồm 15 chuyện còn lại: xuất ly 5 chuyện, quyết định 1 chuyện, chân thật 6 chuyện, từ ái 2 chuyện, và hành xả 1 chuyện. Muốn tìm hiểu rõ hơn về điểm này, chúng ta có thể tham khảo chương Pakiṇṇakakathā thuộc Chú Giải của tập Kinh Cariyāpiṭaka (Hạnh Tạng) này vì có giảng đầy đủ về mười đức hạnh đồng thời có đầy đủ những chi tiết liên quan đến vị mong mỏi việc thực hành hạnh nguyện Bồ Tát (CpA. 276-332).

Xét về hình thức, tập Kinh Cariyāpiṭaka (Hạnh Tạng) được thực hiện dựa theo lối trường thi (tương tợ như thể Mahā Kāvya của ngôn ngữ Sanskrit) gồm nhiều câu kệ (gāthā) hợp thành. Mỗi câu kệ được ghi thành 2 dòng và được chia làm 4 pāda; thông thường mỗi câu kệ như vậy là một câu văn hoàn chỉnh về phương diện văn phạm. Văn bản Pāḷi Roman được trình bày ở đây đã được phiên âm lại từ văn bản Pāḷi-Sinhala của bộ Tam Tạng Buddha Jayanti Series đang được sử dụng tại nước Sri Lanka. Về việc này, chúng tôi cũng xin tri ân Ven. Mettāvihārī (Đan Mạch) đã hoan hỷ cho phép chúng tôi sử dụng văn bản đã được phiên âm sẵn đang phổ biến trên mạng internet (www.metta.lk). Điều này đã tiết kiệm cho chúng tôi nhiều thời gian và công sức, chúng tôi chỉ việc kiểm tra và điều chỉnh lại những điểm thiếu sót hoặc không chính xác.

Bản tiếng Việt chúng tôi đã được phiên dịch trực tiếp từ nguyên bản Pāḷi của tập Kinh trên, một số từ dịch đã được dựa theo lời giải thích ở bản Chú giải Pāḷi Paramatthadīpanī. Chúng tôi ghi lại lời dịch Việt theo tinh thần "hiểu văn bản như thế nào thì cố gắng ghi lại đúng như thế ấy;" đối với các bản văn cổ, chúng tôi không có tham vọng vươn đến các tiêu chuẩn phiên dịch cao hơn. Các sự sai sót trong phiên dịch đương nhiên không thể tránh khỏi, chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về trình độ yếu kém. Tuy nhiên, điều khiến cho chúng tôi được hoan hỷ là chúng tôi đã tận dụng hết khá năng của bản thân cho công việc nghiên cứu và hoàn tất lời Việt cho tập Kinh này.

Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành tán dương công đức các thí chủ đã có sự quan tâm đến công việc tu học và phiên dịch kinh điển của chúng tôi trong thời gian qua. Về Nam Cư Sĩ có các vị: Dr. Bình Anson, Chú Lương Xuân Lộc, Phật tử Phạm Trọng Độ, PT. Lưu Xuân An và nhóm Phật tử California, PT. Lý Hoàng Anh, PT. Trương Đình Nguyên, về Nữ Cư Sĩ có các vị: Bà Diệu Giới, Bà Diệu Đài, Cô Diệu Bình và các con cháu, Cô Phạm Thị Thi, Cô Phạm Xuân Lan, Cô Lê Thị Huế, Cô Lê Thị Tích, Cô Visākhā An Trương, Cô Minh Hạnh, Cô Hồ Hoàng Anh, Cô Nguyễn Ngọc Vivian, và gia đình Cô Trương Tuyết Anh.

Công đức này xin dâng đến Hòa Thượng Devahandiye Paññāsekara Nāyaka Mahāthera, trụ trì chùa Sri Jayawardhanaramaya, Colombo, Tích Lan, đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong công việc tu học và nghiên cứu Phật Pháp thời gian qua.

Cuối cùng, ngưỡng mong phước báu phát sanh trong công việc ghi lại lời Việt cho tập Kinh này được thành tựu đến tất cả chúng sanh. Nguyện cho hết thảy đều được an vui, sức khỏe, có trí tuệ, và tinh tấn tu tập ngõ hầu thành đạt cứu cánh giải thoát, chấm dứt khổ đau.

Kính bút,
đêm rằm tháng bảy
ngày 08 tháng 08 năm 2006
Tỳ Khưu Indacanda (Trương đình Dũng)

-ooOoo-


CHỮ VIẾT TẮT:

BvA : Buddhavaṃsa-aṭṭhakathā (PTS) - Chú Giải Phật Sử.
CpA : Cariyāpiṭaka-aṭṭhakathā (PTS) - Chú Giải Hạnh Tạng.
PTS : Nhà Xuất Bản Pali Text Society (Anh Quốc)

I. SỰ TOÀN HẢO VỀ BỐ THÍ

Namo tassa bhagavato arahato sammā sambuddhassa
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!

I. DĀNAPĀRAMITĀ
1. Akitticariyaṃ
1. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Akitti:
[1]

1. Kappe ca satasahasse caturo ca asaṅkhiye
etthantare yaṃ caritaṃ sabbaṃ taṃ bodhipācanaṃ.

1. Các hạnh nào được thực hành trong khoảng thời gian này,[2] (tức là) bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp,[3] tất cả các hạnh ấy là điều kiện làm cho chín muồi quả vị giác ngộ.

2. Atītakappe caritaṃ ṭhapayitvā bhavābhave
imamhi kappe caritaṃ pavakkhissaṃ suṇohi me.

2. Trừ ra các hạnh đã được thực hành trong kiếp quá khứ thuộc đời này hoặc đời khác, ta sẽ nói đến hạnh đã được thực hiện trong kiếp này, ngươi hãy lắng nghe. [4]

3. Yadā ahaṃ brahāraññe suññe vipinakānane
ajjhogahetvā vihārāmi akitti nāma tāpaso.

3. Lúc bấy giờ, ta là vị đạo sĩ khổ hạnh tên Akitti. Ta đã đi sâu vào và cư ngụ ở khu rừng rậm, hoang vắng, là lâm viên có nhiều cây.

4. Tadā maṃ tapatejena santatto tidivādhibhū
dhārento brāhmaṇavaṇṇaṃ bhikkhāya maṃupāgami.

4. Khi ấy, Chúa của chư thiên Sakka [5] bị nóng bức [6] bởi năng lực khổ hạnh của ta nên đã đi đến gần ta để xin vật thực trong dáng vóc vị Bà-la-môn.

5. Pavanā ābhataṃ paṇṇaṃ atelañca aloṇikaṃ
mama dvāre ṭhitaṃ disvā sakaṭāhena ākiriṃ.

5. Nhìn thấy (vị ấy) đứng ở cánh cửa (căn chòi lá) của ta, ta đã bày ra chỉ có một tô lá cây đã được gió gom lại, không có dầu và cũng không có muối.[7]

6. Tassa datvānahaṃ paṇṇaṃ nikkujjitvāna bhājanaṃ
punesanaṃ jahitvāna pāvisaṃ paṇṇasālakaṃ.

6. Sau khi bố thí lá cây đến vị này, ta đã lập úp cái tô lại, từ bỏ việc tìm kiếm (thức ăn) một lần nữa, và đã đi vào căn chòi lá.

7. Dutiyampi tatiyampi upagañchi mamantikaṃ
akampito anolaggo evamevamadāsahaṃ.

7. Lần thứ nhì, rồi lần thứ ba, vị ấy cũng đã đi đến gặp ta. Không dao động, không dính mắc, ta đã bố thí như hai lần trước.

8. Na me tappaccayā atthi sarīrasmiṃ vivaṇṇiyaṃ
pītisukhena ratiyā vītināmemi taṃ divaṃ.

8. (Nhưng) không vì nguyên nhân ấy mà thân thể của ta trở nên tiều tụy; ta đã trải qua ngày hôm ấy với niềm phỉ lạc và hứng thú.

9. Yadi māsampi dve māsaṃ dakkhiṇeyyaṃ varaṃ labhe
akampito anolīno dadeyyaṃ dānamuttamaṃ.

9. Nếu như ta có được một vị xứng đáng để cúng dường thì ta có thể dâng cúng vật thí tối thượng luôn cả một tháng, hai tháng, mà không dao động, không lưỡng lự.

10. Na tassa dānaṃ dadamāno yasaṃ lābhañca patthayiṃ
sabbaññutaṃ patthayāno tāni kammāni ācarinti.

10. Trong khi bố thí phẩm vật cho vị ấy, ta đã không mong cầu danh và lợi. Ta đã thực hiện những hành động ấy trong khi ước mong phẩm vị Toàn Tri.

Akitticariyaṃ paṭhamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Akitti là phần thứ nhất.

--ooOoo--

 2. Saṅkhacariyaṃ
2. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Saṅkha:
[8]

***

11. Punāparaṃ yadā homi brāhmaṇo saṅkhasavhayo
mahāsamuddaṃ taritukāmo upagacchāmi paṭṭanaṃ.

11. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vị Bà-la-môn tên gọi Saṅ-kha. Có ý định băng qua đại dương, ta đã đi đến bến tàu.

12. Tatthaddasāmi paṭipathe sayambhuṃ aparājitaṃ
kantāraddhāna paṭipannaṃ tattāya kaṭhinabhūmiyā.

12. Tại nơi ấy, ta đã nhìn thấy ở phía bên kia đường một vị Phật Độc Giác, là bậc không bị kẻ khác hàng phục, đang đi ở con đường xa vắng, trên mặt đất gồ ghề, nóng bỏng.

13. Tamahaṃ paṭipathe disvā imamatthaṃ vicintayiṃ
idaṃ khettaṃ anuppattaṃ puññakāmassa jantuno.

13. Sau khi nhìn thấy vị ấy ở phía bên kia đường, ta đã suy xét về sự việc này: “Đây là phước điền đã được thành tựu đến cho người mong cầu phước báu.”

14. Yathāpi kassako puriso khettaṃ disvā mahāgamaṃ.
tattha bījaṃ na ropeti na so dhaññena atthiko.

14. Cũng giống như người nông phu nhìn thấy thửa ruộng có triển vọng thu hoạch lớn, người ấy không gieo hạt giống ở nơi ấy (nghĩa là) người ấy không có nhu cầu về thóc lúa.

15. Evamevāhaṃ puññakāmo disvā khetta varuttamaṃ
yadi tattha kāraṃ na karomi nāhaṃ puññena atthiko.

15. Tương tợ như thế, là người có mong cầu về phước báu, sau khi nhìn thấy phước điền cao quý tối thượng, nếu ta không thể hiện hành động ở phước điền ấy thì ta không phải là người mong cầu về phước báu.

16. Yathā amacco muddikāmo rañño ante pure jane
na deti tesaṃ dhanadhaññaṃ muddito parihāyati.

16. Giống như vị quan đại thần mong muốn có uy quyền đối với những người trong cung mà không ban cho những người ấy tài sản và thóc gạo thì sẽ bị suy giảm về uy quyền.

17. Evamevāhaṃ puññakāmo vipulaṃ disvāna dakkhiṇaṃ
yadi tassa dānaṃ na dadāmi parihāyissāmi puññato.

17. Tương tợ như thế, là người có mong cầu về phước báu sau khi nhìn thấy bậc cao thượng xứng đáng để cúng dường, nếu ta không dâng cúng vật thí đến vị ấy thì ta sẽ bị suy giảm về phước báu.

18. Evāhaṃ cintayitvāna orohitvā upāhanā
tassa pādāni vanditvā adāsiṃ chattupāhanaṃ.

18. Sau khi suy nghĩ như thế, ta đã cởi ra đôi dép, rồi đảnh lễ ở hai bàn chân của vị ấy, và đã cúng dường dù và dép.

19. Tenevāhaṃ sataguṇato sukhumālo sukhedhito
apica dānāṃ paripūrento evaṃ tassa adāsahanti.

19. Mặc dầu ta có cơ thể mảnh mai và được nuôi dưỡng cẩn thận gấp trăm lần so với vị ấy, tuy nhiên trong khi làm tròn đủ hạnh bố thí, ta cũng đã cúng dường đến vị ấy như thế.

Saṅkhacariyaṃ dutiyaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Saṅkha là phần thứ nhì.

--ooOoo--

3. Kurudhammacariyaṃ
3. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Kurudhamma:
[9]

***

20. Punāparaṃ yadā homi indapatthe puruttame
rājā dhanañjayo nāma kusale dasahupāgato.

20. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vị vua tên Dhanañjaya ở tại kinh thành Indapattha, và được thuần thục về mười thiện nghiệp.

21. Kāliṅga raṭṭhavisayā brāhmaṇā upagañchu maṃ
āyācuṃ maṃ hatthināgaṃ dhaññaṃ maṅgalasammataṃ.

21. Những người Bà-la-môn từ lãnh thổ vương quốc Kaliṅga đã đi đến gặp ta. Họ đã cầu xin ta con long tượng được xem là biểu hiện của sự thịnh vượng và may mắn.

22. Avuṭṭhiko janapado dubbhikkho chātako mahā
dadāhi pavaraṃ nāgaṃ nīlaṃ añjanasavhayaṃ.

22. (Họ đã nói rằng): “Xứ sở chúng tôi không có mưa, thức ăn hiếm hoi, đói kém trầm trọng. Xin ngài hãy ban cho con hắc long tượng cao quý có tên là Añjana.”

23. Na me yācakamanuppatte paṭikkhepo anucchavo
mā me bhijji samādānaṃ dassāmi vipulaṃ gajaṃ.

23. (Ta nghĩ rằng): “Đối với ta, khi có được người cầu xin thì sự từ chối là điều không đúng đắn. Sự thọ trì của ta chớ có bị đổ vỡ. Ta sẽ bố thí con voi vĩ đại.”

24. Nāgaṃ gahetvā soṇḍāya bhiṅkāre ratanāmaye
jalaṃ hatthe ākiritvā brāhmaṇānaṃ adaṃ gajaṃ.

24. Sau khi nắm lấy con voi ở chiếc ngà và rưới nước từ chiếc bình làm bằng ngọc quý lên bàn tay, ta đã cho con voi đến các vị Bà-la-môn.

25. Tassa nāge padinnamhi amaccā etadabrūvuṃ
kinnu tuyhaṃ varaṃ nāgaṃ yācakānaṃ padassasi.

25. Khi con voi ấy đã được cho đi, các quan đại thần đã nói điều này: “Sao ngài lại cho con voi quý báu của ngài đến những kẻ cầu xin?

26. Dhaññaṃ maṅgalasampannaṃ saṅgāmavijayuttamaṃ
tasmiṃ nāge padinnamhi kinte rajjaṃ karissati.

26. Con voi là tối ưu trong việc chiến thắng ở trận tiền, được thành tựu sự thịnh vượng và may mắn. Khi con voi ấy đã được cho đi thì cái gì sẽ vận hành vương quốc của ngài?

27. Rajjampi me dade sabbaṃ sarīraṃ dajjamattano
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā nāgaṃ adāsahanti.

27. Ta có thể bố thí luôn cả toàn bộ vương quốc của ta. Ta có thể bố thí cả thân mạng của mình. Ðối với ta, quả vị Toàn Tri là yêu quý; vì thế ta đã bố thí con long tượng.

Kurudhammacariyaṃ tatiyaṃ.
 Hạnh của (đức Bồ-tát) Kurudhamma là phần thứ ba.

--ooOoo--

4. Mahāsudassanacariyaṃ
4. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Mahāsudassana:
[10]

***

28. Kusāvatimhi nagare yadā āsiṃ mahīpati
mahāsudassano nāma cakkavatti mahabbalo.

28. Khi ở thành phố Kusāvatī, ta đã là vị lãnh chúa, đấng Chuyển Luân Vương có quyền lực lớn lao tên Mahāsudassana.

29. Tatthāhaṃ divase tikkhattuṃ ghosāpemi tahiṃ tahiṃ
ko kiṃ icchati pattheti kassa kiṃ dīyatu dhanaṃ.

29. Tại thành phố ấy, ta đã cho thông báo ba lần trong ngày ở khắp các nơi rằng: “Ai muốn (hoặc) mong mỏi vật gì? Của cải gì nên được ban phát? (Ban phát) đến ai?

30. Ko chātako ko tasito ko mālaṃ ko vilepanaṃ
nānārattāni vatthāni ko naggo paridahissati.

30. Ai đói? Ai khát? Ai (cần) vòng hoa? Ai (cần) dầu thoa? Có các loại vải vóc đủ màu, ai trần truồng thì sẽ mặc vào?

31. Ko pathe chattamādeti ko pāhanā mudū subhā
iti sāyañca pāto ca ghosāpemi tahiṃ tahiṃ.

31. Ai đi đường cần đến dù? Ai (cần đến) giày dép mềm mại, đẹp đẽ?” Ta đã cho thông báo sáng chiều ở khắp các nơi như thế.

32. Na taṃ dasasu ṭhānesu na pi ṭhānasatesu vā
anekasataṭhānesu paṭiyattaṃ yācake dhanaṃ.

32. Của cải ấy đã được chuẩn bị cho những người cầu xin không phải chỉ ở mười địa điểm, hoặc ở một trăm địa điểm, mà ở hàng trăm địa điểm.

33. Divā vā yadi vā rattiṃ yadi eti vaṇibbako
laddhā yadicchakaṃ bhogaṃ pūrahatthova gacchati.

33. Nếu có người nghèo khổ đi đến cho dù ban ngày hoặc ban đêm, họ đều được nhận lãnh tài sản theo như ý thích rồi ra đi với hai tay tràn đầy của cải.

34. Evarūpaṃ mahādānaṃ adāsiṃ yāvajīvikaṃ
napāhaṃ dessaṃ dhanaṃ dammi napi natthi nicayo mayi.

34. Ta đã bố thí những phẩm vật lớn lao có hình thức như thế cho đến trọn đời. Ta cho ra của cải không phải là vì không thích ý, cũng không phải là vì ta không có chỗ để cất giữ.

35. Yathāpi āturo nāma rogato parimuttiyā
dhanena vejjaṃ tappetvā rogato parimuccati.

35. Cũng giống như người bị bệnh, sau khi làm hài lòng vị thầy thuốc với vàng bạc cho việc chữa lành căn bệnh, thì (sẽ) được hoàn toàn thoát khỏi căn bệnh.

36. Tathevāhaṃ jānamāno paripūretumasesato
 ūnamanaṃ pūrayituṃ demi dānaṃ vaṇibbake
 nirālayo apaccāso sambodhimanupattiyāti.

36. Tương tợ y như thế, khi biết được (điều ấy), để làm viên mãn (pháp bố thí) không bị thiếu sót và làm cho đầy đủ tâm ý còn khiếm khuyết, ta đã ban phát vật thí cho những người cầu xin, không luyến tiếc, không mong mỏi sự đền đáp nhằm thành tựu quả vị Toàn Giác.

Mahāsudassanacariyaṃ catutthaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Mahāsudassana là phần thứ tư.

--ooOoo--

 

5. Mahāgovindacariyaṃ
5. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Mahāgovinda:
[11]

***

37. Punāparaṃ yadā homi satta rājapurohito
pūjito naradevehi mahāgovindabrāhmaṇo.

37. Vào một thời điểm khác nữa, khi là Bà-la-môn Mahāgovinda, ta đã là viên quan tế tự của bảy vị vua và được các đấng quân vương cung phụng.

38. Tadāhaṃ sattarajjesu yaṃ me āsi upāyanaṃ

 tena demi mahādānaṃ akkhobhaṃ sāgarūpamaṃ.

38. Khi ấy, phẩm vật ở trong bảy vương quốc đã là của ta. Với phẩm vật ấy ta đã ban phát cuộc đại thí, tợ như biển cả không bị xáo động

39. Na me dessaṃ dhanaṃ dhaññaṃ napi natthi nicayo mayi
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā demi varaṃ dhananti.

39. Không phải là của cải và lúa gạo là không được vừa ý đối với ta và cũng không phải là ở nơi ta không có sự tích trữ. Quả vị giác ngộ đối với ta rất là cao quý, do đó ta bố thí tài sản quý giá.

Mahāgovindacariyaṃ pañcamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Mahāgovinda là phần thứ năm.

--ooOoo--

6. Nimirājacariyaṃ
6. Hạnh của Đức Vua Nimi:
[12]

***

40. Punāparaṃ yadā homi mithilāyaṃ puruttame
nimi nāma mahārājā paṇḍito kusalatthiko.

40. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vị đại vương tên Nimi, là bậc trí tuệ và là người tầm cầu thiện pháp ở tại kinh thành Mithilā.

41. Tadāhaṃ māpayitvāna catussālaṃ catummukhaṃ
tattha dānaṃ pavattesiṃ migapakkhinarādinaṃ.

41. Khi ấy, ta đã cho thực hiện bốn sảnh đường (mỗi sảnh đường) có bốn cổng ra vào (ở bốn hướng chính). Ở tại nơi ấy, ta đã cho tiến hành việc bố thí đến các thú vật, chim chóc, loài người, v.v...

42. Acchādanañca sayanañca annaṃ pānañca bhojanaṃ
abbocchinnaṃ karitvāna mahādānaṃ pavattayiṃ.

42. Ta đã thực hiện không ngừng nghỉ[13] và đã cho tiến hành cuộc đại thí (gồm có) y phục, giường ghế, cơm ăn, nước uống, và thực phẩm (các loại),

43. Yathāpi sevako sāmiṃ dhanahetumupāgato
kāyena vācā manasā ārādhaniyamesati.

43. Cũng giống như người đầy tớ, vì lý do lương bổng, tiếp cận chủ nhân và suy tầm cách làm hài lòng bằng thân, khẩu, ý (bằng hành động, lời nói, và tư tưởng).

44. Tathevāhaṃ sabbabhave pariyesissāmi bodhijaṃ
dānena satte tappetvā icchāmi bodhimuttamanti.

44. Tương tợ y như thế, trong tất cả mọi kiếp sống ta cũng sẽ tầm cầu việc làm sanh khởi sự giác ngộ. Sau khi làm thỏa mãn các chúng sanh với vật bố thí, ta mong cầu quả vị giác ngộ tối thượng.

Nimirājacariyaṃ chaṭṭhamaṃ.
Hạnh của đức vua Nimi là phần thứ sáu.

--ooOoo--

7. Candakumāracariyaṃ
7. Hạnh của Hoàng Tử Canda:
[14]

***

45. Punāparaṃ yadā homi ekarājassa atrajo
nagare pupphavatiyā kumāro candasavhayo.

45. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vị hoàng tử tên Canda, con trai của Ekaràja, ở tại thành phố Pupphavatī.

46. Tadāhaṃ yajanā mutto nikkhanto yaññavāṭato
saṃvegaṃ janayitvāna mahādānaṃ pavattayiṃ.

46. Khi ấy, ta đã được thoát khỏi cuộc tế thần và đã rời khỏi khu vực cuộc lễ tế. Sau khi đã tạo nên niềm xúc động, ta đã tiến hành cuộc đại thí.

47. Nāhaṃ pivāmi khādāmi napi bhuñjāmi bhojanaṃ
 dakkhiṇeyye adatvāna api chappañca rattiyo.

47. (Khi) không được bố thí đến những người xứng đáng sự bố thí, ta không uống, không ăn, cũng không thọ dụng vật thực, thậm chí đến năm sáu đêm.

48. Yathāpi vāṇijo nāma katvāna bhaṇḍasañcayaṃ
 yattha lābho mahā hoti tattha taṃ harati bhaṇḍakaṃ.

48. Cũng giống như người thương buôn sau khi đã tích trữ hàng hóa thì sẽ đem hàng hóa ấy đến nơi nào có nhiều lợi nhuận.

49. Tatheva sakabhuttāpi pare dinnaṃ mahapphalaṃ
 tasmā parassa dātabbaṃ satabhāgo bhavissati.

49. Tương tợ y như thế, ngay cả việc bố thí đến người khác vật đã được thọ dụng bởi bản thân cũng có quả báu lớn; vì thế nên bố thí đến tha nhân, sẽ có được (kết quả) gấp trăm lần.

50. Etamatthavasaṃ ñatvā demi dānaṃ bhavābhave
na paṭikkamāmi dānato sambodhimanupattiyāti.

50. Biết được năng lực của chân lý ấy, ta đã ban phát vật bố thí kiếp này đến kiếp khác. Ta không suy giảm việc bố thí nhằm thành tựu quả vị Toàn Giác.

Candakumāracariyaṃ sattamaṃ.
Hạnh của Hoàng Tử Canda là phần thứ bảy.

--ooOoo--

8. Sivirājacariyaṃ
8. Hạnh của Đức Vua Sivi:
[15]

***

51. Ariṭṭhasavhaye nagare sivi nāmāsiṃ khattiyo
nisajja pāsādavare evaṃ cintesahaṃ tadā.

51. Ở tại thành phố có tên gọi là Ariṭṭha, ta đã là vị Sát-đế-lỵ tên Sivi. Vào lúc ngồi ở tòa lâu đài quý báu, ta đã suy nghĩ như vầy:

52. Yaṃ kiñci mānusaṃ dānaṃ adinnaṃ me na vijjati
yopi vāceyya maṃ cakkhuṃ dadeyyaṃ avikampito.

52. “Không có bất cứ vật thí nào thuộc về nhân loại mà ta chưa từng bố thí. Thậm chí người nào yêu cầu ta về con mắt thì ta cũng có thể bố thí, không bị dao động.”

53. Mama saṅkappamaññāya sakko devānamissaro
nisinno devaparisāya idaṃ vacanamabruvi.

53. Biết được tâm tư của ta, vị Chúa Trời Sakka ngồi ở giữa tập thể chư thiên đã nói lên lời này:

54. Nisajja pāsādavare sivirājā mahiddhiko
cintento vividhaṃ dānaṃ adeyyaṃ so na passati,

54. “Đức vua Sivi có đại oai lực trong khi ngồi ở tòa lâu đài quý báu suy nghĩ về vật bố thí đủ các loại, vị ấy không nhìn thấy vật chưa từng được bố thí.

55. Tathannu vitathannetaṃ handa vīmaṃsayāmi taṃ
muhuttaṃ āgameyyātha yāva jānāmi taṃ manaṃ.

55. Điều này là đúng hay không đúng sự thật? Vậy hãy để ta thử thách vị ấy. Các người hãy chờ một chốc lát đến khi ta biết được tâm ý ấy.”

56. Pavedhamāno palitasiro valitagatto jarāturo
andhavaṇṇova hutvāna rājānaṃ upasaṅkami.

56. Sau khi biến thành dáng vóc người mù lòa, đang run rẩy, có đầu tóc bạc phơ, cơ thể nhăn nheo, già yếu, bệnh hoạn, (Chúa Trời Sakka) đã đi đến gặp đức vua.

57. So tadā paggahetvāna vāmaṃ dakkhiṇabāhu ca
sirasmiṃ añjaliṃ katvā idaṃ vacanamabruvi.

57. Khi ấy, ông ta đã giơ cánh tay trái và cánh tay phải lên chắp lại ở đầu, rồi đã nói lời này:

58. Yācāmi taṃ mahārāja dhammikaraṭṭhavaḍḍhana
tava dānaratā kitti uggatā devamānuse.

58. “Tâu đại vương, tôi cầu xin ngài. Ôi vị làm tiến triển vương quốc về phương diện đạo đức, danh tiếng của ngài về sự hoan hỉ trong bố thí đã vang khắp chốn nhân thiên.

59. Ubhopi nettā nayanā andhā upahatā mama
ekaṃ me nayanaṃ dehi tvampi ekena yāpaya.

59. Cả hai con mắt dẫn đường của tôi bị mù lòa, hư hỏng. Hãy bố thí cho tôi một con mắt, ngài cũng hãy còn sống với một con mắt vậy.”

60. Tassāhaṃ vacanaṃ sutvā haṭṭho saṃviggamānaso
katañjalī vedajāto idaṃ vacanamabruviṃ.

60. Nghe được lời nói của người ấy, ta đã mừng rỡ, có tâm trí phấn chấn. Tràn ngập niềm phấn khởi, ta đã chắp tay lại rồi đã nói lời này:

61. Idānāhaṃ cintayitvā pāsādato idhāgato
tvaṃ mama cittamaññāya nettaṃ yācitumāgato.

61. “Lúc này đây, sau khi suy nghĩ trẫm đã rời tòa lâu đài đi đến nơi đây. Còn ngươi, sau khi biết được tâm của trẫm đã đi đến để cầu xin con mắt.

62. Aho me mānasaṃ siddhaṃ saṅkappo paripūrito
adinnapubbaṃ dānavaraṃ ajja dassāmi yācake.

62. Ôi, ý định của ta đã được thành tựu, điều ước mong đã được vẹn toàn! Hôm nay, ta sẽ ban cho người hành khất tặng vật cao quý chưa từng được bố thí trước đây.

63. Ehi sīvaka uṭṭhehi mā dandhayi mā pavedhayi
 ubhopi nayane dehi uppāṭetvā vaṇibbake.

63. Này Sīvaka, [16]hãy lại gần. Hãy mạnh dạn lên, đừng chần chờ, chớ có run rẩy. Hãy móc ra cả hai con mắt và trao cho người cầu thỉnh.”

64. Tato so codito mayhaṃ sīvako vacanaṅkaro
uddharitvāna pādāsi tālamiñjaṃva yācake.

64. Sau đó, bị ta thúc giục vị Sīvaka ấy là người thi hành mệnh lệnh đã lấy ra (hai con mắt) giống như nạo cơm dừa, rồi đã trao cho cho người hành khất.

65. Dadamānassa dennassa dinnadānassa me sato
cittassa aññathā natthi bodhiyā yeva kāraṇā.

65. Trong khi chuẩn bị bố thí, khi đang bố thí, khi tặng vật đã được ta bố thí, tâm không có thay đổi với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.

66. Na me dessā ubho cakkhu attā na me na dessiyo
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā cakkhuṃ adāsahanti.

66. Hai con mắt không có bị ta ghét bỏ, bản thân không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã bố thí con mắt.

Sivirājacariyaṃ aṭṭhamaṃ.
Hạnh của Đức Vua Sivi là phần thứ tám.

--ooOoo--

9. Vessantaracariyaṃ
9. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Vessantara:
[17]

***

67. Yā me ahosi janikā Phusatī nāma khattiyā
sā atītāsu jātisu sakkassa mahesī piyā.

67. Người mẹ ruột của ta là nữ nhân dòng Sát-đế-lỵ tên Phusatī. Bà ấy là hoàng hậu yêu quý của (Chúa Trời) Sakka vào những kiếp sống trước.[18]

68. Tassā āyukkhayaṃ disvā devindo etadabruvi
dadāmi te dasavare vara bhadde yadicchasi.

68. Nhìn thấy sự dứt tuổi thọ của bà ấy, vị Chúa Trời đã nói điều này: “Này quý phi, trẫm ban cho khanh mười điều ân huệ, hãy chọn lựa theo như ý thích.”

69. Evaṃ vuttā ca sā devī sakkaṃ punidamabruvi
kinnū me aparādhatthi kinnu dessā ahaṃ tava
 rammā cāvesi maṃ ṭhānā vātova dharaṇīruhaṃ.

69. Và khi được nói như vậy, bà hoàng hậu ấy đã đáp lại (Chúa Trời) Sakka điều này: “Thiếp có lỗi lầm gì vậy? Phải chăng thiếp bị ngài ghét bỏ khiến ngài lưu đày thiếp khỏi chốn bồng lai như là ngọn gió thổi trốc gốc cây vậy?

70. Evaṃ vutto ca so sakko puna tassīdamabruvi
na ceva te kataṃ pāpaṃ na ca me tvamasi appiyā.

70. Và khi được nói như vậy, vị (Chúa Trời) Sakka ấy đã đáp lại bà ta điều này: “Chẳng phải khanh đã làm điều sai trái và cũng chẳng phải là ta không yêu quý khanh.

71. Ettakaṃ yeva te āyu cavanakālo bhavissati
paṭiggaṇha mayā dinne vare dasa varuttame.

71. Sở dĩ như thế ấy chính là vì tuổi thọ của khanh, thời điểm tử vong sắp đến. Hãy tiếp nhận mười điều ân huệ quý báu tối cao đã được trẫm ban thưởng.”

72. Sakkena sā dinnavarā tuṭṭhahaṭṭhā pamoditā
mama abbhantaraṃ katvā phusatī dasavare varī.

72. Với mười điều ân huệ được (Chúa Trời) Sakka ban thưởng, bà Phusatī ấy, hớn hở, mừng rỡ, vui sướng, đã lựa chọn mười điều ân huệ sau khi đã tính gộp luôn cả ta (vào các điều ân huệ ấy).

73. Tato cutā sā phusatī khattiye upapajjatha
jetuttaramhi nagare sañjayena samāgamī.

73. Mệnh chung từ nơi đó, bà Phusatī ấy đã sanh vào dòng dõi Sát-đế-lỵ ở thành phố Jetuttara và đã kết hôn với Sañjaya.

74. Tadāhaṃ phusatiyā kucchiṃ okkanto piyamātuyā
mama tejena me mātā sadā dānaratā ahū.

74. Khi ấy, ta đã hạ sanh vào lòng bà Phusatī, người mẹ yêu quý. Do nhờ oai lực của ta, người mẹ của ta đã luôn luôn hứng thú trong việc bố thí.

75. Adhane āture jiṇṇe yācake addhike jane
samaṇe brāhmaṇe khīṇe deti dānaṃ akiñcane.

75. Bà bố thí cho những người không có tài sản, người không có của cải, người bệnh hoạn, người già cả, người ăn xin, người đi đường, các vị Sa-môn, các Bà-la-môn, và những người bị khánh tận.

76. Dasamāse dhārayitvāna karonto purapadakkhiṇaṃ
vessānaṃ vīthiyā majjhe janesi phusatī mamaṃ.

76. Sau khi mang thai ta được mười tháng, bà Phusatī trong lúc đang đi quanh thành phố đã sanh ta ở giữa đường phố của những người thương buôn.

77. Na mayhaṃ mattikaṃ nāmaṃ napi pettikasambhavaṃ
jātomhi vessavīthiyā tasmā vessantaro ahū.

77. Tên của ta không liên quan đến họ mẹ, cũng không xuất phát từ họ cha. Ta đã được sanh ra ở đường phố của những người thương buôn, vì thế ta đã là Vessantara.

78. Yadāhaṃ dārako homi jātiyā aṭṭhavassiko
tadā nisajja pāsāde dānaṃ dātuṃ vicintayiṃ.

78. Đến khi ta đã trở thành đứa bé trai được tám tuổi tính từ lúc sanh, khi ấy ta đã ngồi ở tòa lâu đài và đã suy nghĩ về việc bố thí tặng vật.

79. Hadayaṃ dadeyyaṃ cakkhuṃ maṃsampi rudhirampi ca
dadeyyaṃ kāyaṃ sāvetvā yadi koci yācaye mamaṃ.

79. Ta có thể bố thí tim, mắt, luôn cả thịt và máu của mình. Ta đã thông báo là ta có thể bố thí xác thân của mình nếu có người van xin.

80. Sabhāvaṃ cintayantassa akampitamasaṇṭhitaṃ
akampī tattha paṭhavī sineruvanavaṭaṃsakā.

80. Trong khi ta đang suy xét về bản tánh không dao động không hẹp hòi, tại nơi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru đã rúng động.

81. Anvaddhamāse paṇṇarase puṇṇamāse uposathe
paccayaṃ nāgamāruyha dānaṃ dātuṃ upāgamiṃ.

81. Mỗi nửa tháng, vào ngày mười lăm và ngày cuối tháng là ngày trai giới, ta đã cưỡi lên con voi Paccaya và đã đi đến để bố thí tặng phẩm.

82. Kāliṅgaraṭṭhavisayā brāhmaṇā upagañchu maṃ
āyācuṃ maṃ hatthināgaṃ dhaññaṃ maṅgalasammataṃ.

82. Những người Bà-la-môn từ lãnh thổ vương quốc Kaliṅga đã đi đến gặp ta. Họ đã cầu xin ta con long tượng được xem là biểu hiện của sự thịnh vượng và may mắn:

83. Avuṭṭhiko janapado dubbhikkho chātako mahā
 dadāhi pavaraṃ nāgaṃ sabbasetaṃ gajuttamaṃ.

83. “Xứ sở chúng tôi không có mưa, thức ăn hiếm hoi, đói kém trầm trọng. Xin ngài hãy ban cho con long tượng cao quý, toàn màu trắng, tối thắng của loài voi.”

84. Dadāmi na vikampāmi yaṃ maṃ yācanti brāhmaṇā
santaṃ nappatiguhāmi dāne me ramatī mano.

84. Ta bố thí điều mà những người Bà-la-môn yêu cầu ta; ta không rung động. Ta không thu giấu vật đang sở hữu. Tâm ý của ta hoan hỉ trong việc bố thí.

85. Na me yācakamanuppatte paṭikkhepo anucchavo
 mā me bhijji samādānaṃ dassāmi vipulaṃ gajaṃ.

85. (Nghĩ rằng): “Đối với ta, khi có được người cầu xin thì sự từ chối là điều không đúng đắn. Sự thọ trì của ta chớ có bị đổ vỡ. Ta sẽ bố thí con voi vĩ đại.”

86. Nāgaṃ gahetvā soṇḍāya bhiṅkāre ratanāmaye
jalaṃ hatthe ākiritvā brāhmaṇānaṃ adaṃ gajaṃ.

86. Sau khi nắm lấy con voi ở chiếc ngà và rưới nước từ chiếc bình làm bằng ngọc quý lên bàn tay, ta đã cho con voi đến các vị Bà-la-môn.

87. Punāparaṃ dadantassa sabbasetaṃ gajuttamaṃ
tadāpi paṭhavī kampi sineruvanavaṭaṃsakā.

87. Lại một lần nữa, trong khi ta đang bố thí con voi tối thắng toàn màu trắng, khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

88. Tassa nāgassa dānena sivayo kuddhā samāgatā
pabbojesuṃ sakā raṭṭhā vaṅkaṃ gacchatu pabbataṃ.

88. Do việc bố thí con voi ấy, những người dân xứ Sivi giận dữ đã tụ họp lại và đã trục xuất (ta) ra khỏi vương quốc của ta (nói rằng): “Hãy cho ông ta đi đến ngọn núi Vaṅka.”

89. Tesaṃ nicchuhamānānaṃ akampitamasaṇṭhitaṃ
mahādānaṃ pavattetuṃ ekaṃ varamayācisaṃ.

89. Trong khi bọn họ xua đuổi, ta đã yêu cầu một ân huệ để tiến hành cuộc đại thí, không dao động, không hẹp hòi.

90. Yācitā sivayo sabbe ekaṃ varamadaṃsu me
sāvayitvā kaṇṇabheriṃ mahādānaṃ dadāmahaṃ.

90. Khi được yêu cầu, tất cả những người dân xứ Sivi đã ban cho ta một ân huệ. Sau khi cho vỗ kêu hai chiếc trống lớn, ta đã trao tặng món quà vĩ đại.

91. Athettha vattatī saddo tumulo bheravo mahā
dānena maṃ nīharanti puna dānaṃ dadātayaṃ.

91. Lúc bấy giờ, tại nơi ấy có âm thanh ầm ĩ, ồn ào, ghê rợn vang lên. Bởi sự bố thí (này), họ đã lôi kéo ta đi; một lần nữa ta đã trao tặng món quà vĩ đại.

92. Hatthi asse rathe datvā dāsidāsaṃ gavaṃ dhanaṃ
mahādānaṃ daditvāna nagarā nikkhamiṃ tadā.

92. Sau khi đã bố thí voi, ngựa, xe cộ, tôi trai, tớ gái, trâu bò, của cải, và đã ban phát cuộc đại thí, vào khi ấy ta đã rời khỏi thành phố.

93. Nikkhamitvāna nagarā nivattitvā vilokite
tadāpi paṭhavī kampī sineruvanavaṭaṃsakā.

93. Sau khi rời khỏi thành phố, ta đã quay người lại quan sát, khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

94. Catuvāhiṃ rathaṃ datvā ṭhatvā cātummahāpathe.
ekākiyo adutiyo maddideviṃ idamabrūviṃ.

94. Sau khi bố thí cỗ xe bốn ngựa kéo, ta đứng ở ngã tư đường, chỉ một mình không người hầu cận, và ta đã nói với Hoàng Hậu Maddī điều này:

95. Tvaṃ maddi kaṇhaṃ gaṇhāhi lahukā esā kaniṭṭhikā
ahaṃ jāliṃ gahessāmi garuko bhātiko hi so.

95. “Này Maddī, nàng hãy ẵm Kaṇhā(jinā), con bé nhẹ và là em gái. Ta sẽ ẵm Jāli bởi vì nó nặng và là anh trai.”

96. Padumaṃ puṇḍarīkaṃ va maddikaṇhājinaggī
ahaṃ suvaṇṇabimbaṃ va jāliṃ khattiyamaggahiṃ.

96. Maddī đã ôm lấy Kaṇhājinā như thể ôm lấy đóa sen xanh hoặc đóa sen trắng. Ta đã ôm lấy vị Sát-đế-lỵ Jāli như thể ôm lấy bầu đựng nước bằng vàng.

97. Abhijātā sukhumālā khattiyā caturo janā
visamaṃ samaṃ akkamantā vaṅkaṃ gacchāma pabbataṃ.

97. Bốn người Sát-đế-lỵ, dòng dõi quý tộc, có vóc dáng mảnh mai, tiến bước trên mặt đất lúc gồ ghề lúc bằng phẳng đi về hướng ngọn núi Vaṅka.

98. Ye keci manujā enti anumagge paṭippathe
maggaṃ te paṭi pucchāma kuhiṃ vaṅkatapabbato.

98. Chúng tôi đã hỏi những người đi cùng đường hoặc theo hướng ngược lại về lộ trình: “Ngọn núi Vaṅka ở nơi nào?

99. Te tattha amhe passitvā karuṇaṃ giramudīrayuṃ
dukkhante paṭivedenti dūre vaṅkatapabbato.

99. Nhìn thấy chúng tôi ở nơi ấy, họ đã thốt lên lời thương xót. Họ bày tỏ nỗi đau xót (nói rằng): “Ngọn núi Vaṅka ở xa lắm.”

100. Yadi passanti pavane dārakā phalite dume
 tesaṃ phalānaṃ hetumhi uparodanti dārakā.

100. Nếu hai đứa trẻ nhìn thấy những cây có trái ở trong khu rừng, hai đứa trẻ bật khóc vì nguyên nhân của những trái cây ấy.

101. Rodante dārake disvā ubbiggā vipulā dumā
 sayamevonamitvāna upagacchanti dārake.

101. Trông thấy hai đứa trẻ khóc lóc, những cội cây cao lớn xum xuê tự động khom mình xuống đến gần hai đứa trẻ.

102. Idaṃ acchariyaṃ disvā abbhutaṃ lomahaṃsanaṃ
 sādhukāraṃ pavattesi maddī sabbaṅgasobhanā.

102. Sau khi nhìn thấy điều kỳ diệu phi thường khiến lông tóc rởn ốc này, (hoàng hậu) Maddī, với sự rạng rỡ ở toàn thân, đã thốt lên lời tán thán (rằng):

103. Accheraṃ vata lokasmiṃ abbhutaṃ lomahaṃsanaṃ
 vessantarassa tejena sayamevonatā dumā.

103. “Quả thật là điều kỳ diệu phi thường ở thế gian khiến lông tóc rởn ốc. Những cội cây đã tự động khom mình xuống bởi vì oai lực của Vessantara.”[19]

104. Saṅkhipiṃsu pathaṃ yakkhā anukampāya dārake
 nikkhantadivase yeva cetaraṭṭhamupāgamuṃ.

104. Vì lòng thương xót hai đứa trẻ, các hàng Dạ-xoa đã thâu ngắn đường đi; chỉ nội trong ngày khởi hành họ đã đi đến vương quốc Ceta.

105. Saṭṭhirājasahassāni tadā vasanti mātule
sabbe pañjalikā hutvā rodamānā upāgamuṃ.

105. Lúc bấy giờ có sáu mươi ngàn vị vua cư ngụ ở Mātulā.[20] Tất cả đã chắp tay lên, than khóc, và đã đi đến gần.

106. Tattha vattetvā sallāpaṃ cetehi cetaputtehi
te tato nikkhamitvāna vaṅkaṃ agamuṃ pabbataṃ.

106. Ở tại nơi ấy, sau khi trao đổi trò chuyện cùng với các vị vương tử xứ Ceta ấy, rồi từ đó bốn người đã đi đến ngọn núi Vaṅka.

107. Āmantayitvā devindo vissakammaṃ mahiddhikaṃ
assamaṃ sukataṃ rammaṃ paṇṇasālaṃ sumāpaya.

107. Chúa Trời đã triệu tập vị Vissakamma có đại thần lực (ra lệnh rằng): “Khanh hãy khéo biến hóa ra một khu ẩn cư được xây dựng tốt đẹp có gian nhà lá xinh xắn.”

108. Sakkassa vacanaṃ sutvā vissakammo mahiddhiko
assamaṃ sukataṃ rammaṃ paṇṇasālaṃ sumāpayī.

108. Nghe theo lời của (Chúa Trời) Sakka, vị Vissakamma có đại thần lực đã khéo biến hóa ra một khu ẩn cư được xây dựng tốt đẹp có gian nhà lá xinh xắn.

109. Ajjhogahetvā pavanaṃ appasaddaṃ nirākulaṃ
caturo janā mayaṃ tattha vasāma pabbatantare.

109. Sau khi đã đi sâu vào khu rừng có ít tiếng động không có xáo trộn, bốn người chúng tôi đã sống ở tại nơi ấy, phía bên trong ngọn núi.

110. Ahañca maddidevī ca jālī kaṇhājinā cubho
aññamaññaṃ sokanudā vasāma assame tadā.

110. Khi ấy, ta và Hoàng Hậu Maddī cùng với hai con là Jāli và Kaṇhājinā đã sống ở khu ẩn cư giúp nhau xóa tan nỗi niềm sầu muộn.

111. Dārake anurakkhanto asuñño homi assame
maddī phalaṃ āharati poseti sā tayo jane.

111. Trong khi chăm nom hai đứa trẻ, ta không có đơn độc ở khu ẩn cư. Nàng Maddī mang về trái cây; nàng ấy nuôi dưỡng ba người.

112. Pavane vasamānassa addhiko maṃ upāgami
āyāci puttake mayhaṃ jāliṃ kaṇhājinañcubho.

112. Khi ta đang sống ở trong khu rừng, có người khách đi đường đã đến gặp ta và đã cầu xin cả hai người con của ta là Jāli và Kaṇhājinā.

113. Yācakaṃ upagataṃ disvā hāso me upapajjatha
ubho putte gahetvāna adāsiṃ brāhmaṇe tadā.

113. Khi trông thấy người cầu xin đi đến gần, sự mừng rỡ đã sanh khởi ở ta. Khi ấy, ta đã dắt cả hai người con và đã trao tặng cho vị Bà-la-môn.

114. Sake putte cajantassa jūjake brāhmaṇe yadā
tadāpi paṭhavī kampi sineruvanavaṭaṃsakā.

114. Khi ta dứt bỏ hai người con của chính bản thân cho vị Bà-la-môn Jūjaka, khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

115. Punadeva sakko oruyha hutvā brāhmaṇasannibho
āyāci maṃ maddideviṃ sīlavantiṃ patibbataṃ.

115. Hơn thế nữa, (Chúa Trời) Sakka, sau khi ngự xuống với dáng vóc vị Bà-la-môn, đã cầu xin ta Hoàng Hậu Maddī là người vợ có giới hạnh và chung thủy.

116. Maddiṃ hatthe gahetvāna udakañjali pūriya
pasantamanasaṅkappo tassa maddimadāsahaṃ.

116. Sau khi nắm lấy nàng Maddī ở cánh tay và làm đầy hai bàn tay bụm lại với nước, ta đã ban bố nàng Maddī cho vị ấy với tâm ý và tư duy hoan hỷ.

117. Maddiyā dīyamānāya gagane devā pamoditā
tadāpi paṭhavī kampī sineruvanavaṭaṃsakā.

117. Khi nàng Maddī đang được bố thí, chư thiên ở cõi trời đã mừng rỡ. Khi ấy, trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

118. Jāliṃ kaṇhājinaṃ dhītaṃ maddideviṃ patibbataṃ
cajamāno na cintesiṃ bodhiyāyeva kāraṇā.

118. Trong khi dứt bỏ (người con trai) Jāli, người con gái Kaṇhājinā, và Hoàng Hậu Maddī người vợ chung thủy, ta đã không phải nghĩ ngợi với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.

119. Na me dessā ubho puttā maddidevī na dessiyā
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā piye adāsahaṃ.

119. Cả hai người con không có bị ta ghét bỏ, Hoàng Hậu Maddī không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã bố thí những người thân yêu.

120. Punāparaṃ brahāraññe mātāpitusamāgame
karuṇaṃ paridevante sallapante sukhaṃ dukhaṃ.

120. Vào một dịp khác nữa, khi hội ngộ cùng cha mẹ ở tại khu rừng bao la, trong khi bọn họ đang than khóc bi thảm nói về nỗi niềm hạnh phúc và khổ đau.

121. Hirottappena garunā ubhinnaṃ upasaṅkamiṃ
tadāpi paṭhavī kampi sineruvanavaṭaṃsakā.

121. Do sự tôn kính, ta đã đến gặp song thân với sự hổ thẹn và ái ngại. Khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

122. Punāparaṃ brahāraññe nikkhamitvā sañātibhi
pavisāmi puraṃ rammaṃ jetuttara puruttamaṃ.

122. Vào một dịp khác nữa, ta cùng với thân quyến đã lìa khỏi khu rừng bao la và đi vào thành phố tráng lệ là kinh thành Jetuttara.

123. Ratanāni satta vassiṃsu mahāmegho pavassatha
tadāpi paṭhavī kampi sineruvanavaṭaṃsakā.

123. Khi ấy, bảy loại châu báu đã đổ xuống cơn mưa, có đám mây lớn đã đổ tuôn mưa. Lúc bấy giờ, trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

124. Acetanāyaṃ paṭhavī aviññāya sukhaṃ dukhaṃ
sāpi dānabalā mayhaṃ sattakkhattuṃ pakampathāti.

124. Ngay cả trái đất vô tư này không nhận thức được nỗi niềm hạnh phúc và khổ đau, nó cũng đã rung chuyển bảy lần bởi vì năng lực bố thí của ta.

Vessantaracariyaṃ navamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Vessantara là phần thứ chín.

--ooOoo--

10. Sasapaṇḍitacariyaṃ
10. Hạnh của Con Thỏ Hiền Trí:

***

125. Punāparaṃ yadā homi sasako pavanacāriko
tiṇapaṇṇasākaphalabhakkho paraheṭhanavivajjito.

125. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là con thỏ lang thang ở trong rừng, có thức ăn là cỏ, lá cây, rau cải, và quả củ. Ta lánh xa việc hãm hại các kẻ khác.

126. Makkeṭo ca sigālo ca uddapoto cahaṃ tadā
vasāma ekasāmantā sāyaṃ pāto padissare.

126. Lúc bấy giờ, có một con khỉ, một con chó rừng, một con rái cá nhỏ, và ta sống trong cùng một khu vực, gặp gỡ nhau sáng chiều.

127. Ahaṃ te anusāsāmi kiriye kalyāṇapāpake
pāpāni parivajjetha kalyāṇebhinivissatha.

127. Ta giảng dạy cho chúng về các hành động lành dữ: “Các ngươi hãy xa lìa các điều ác, các ngươi hãy gắn bó với các việc thiện.”

128. Uposathamhi divase candaṃ disvāna pūritaṃ
etesaṃ tattha ācikkhiṃ divaso ajjuposatho.

128. Sau khi nhìn thấy mặt trăng đã tròn vào ngày trai giới, tại nơi ấy ta đã chỉ bảo chúng rằng: “Hôm nay là ngày trai giới.

129. Dānāni paṭiyādetha dakkhiṇeyyassa dātave
datvā dānaṃ dakkhiṇeyye upavassathuposathanti.

129. Các ngươi hãy chuẩn bị những tặng phẩm để bố thí đến bậc xứng đáng được dâng cúng. Sau khi đã bố thí tặng phẩm đến bậc xứng đáng được dâng cúng, các ngươi hãy thực hành ngày trai giới.”

130. Te me sādhūti vatvāna yathāsatti yathābalaṃ
dānāni paṭiyādetvā dakkhiṇeyyaṃ gavesisuṃ.

130. Chúng đã nói với ta rằng: “Sādhu, lành thay!” Rồi tùy theo khả năng, tùy theo sức lực, sau khi chuẩn bị các tặng phẩm chúng đã đi tìm bậc xứng đáng được dâng cúng.

131. Ahaṃ nissajja cintesiṃ dānaṃ dakkhiṇānucchavaṃ
yadihaṃ labhe dakkhiṇeyyaṃ kiṃ me dānaṃ bhavissati.

131. Ta đã ngồi xuống và suy nghĩ về tặng phẩm thích hợp với bậc xứng đáng được dâng cúng: “Nếu ta đạt được một bậc xứng đáng được dâng cúng thì tặng phẩm của ta sẽ là gì?

132. Na me atthi tilā muggā māsā vā taṇḍulā ghataṃ
ahaṃ tiṇena yāpemi na sakkā tiṇa dātave.

132. Ta không có mè, đậu xanh, đậu tây, gạo, hay bơ. Ta sống bằng cỏ nhưng bố thí cỏ là không thể được.

133. Yadi koci eti dakkhiṇeyyo bhikkhāya mama santike
dajjāhaṃ sakamattānaṃ na so tuccho gamissati.

133. Nếu có người là bậc xứng đáng được dâng cúng đi đến nơi ta để khất thực, ta sẽ cúng dường bản thân của mình; người ấy sẽ không (phải) ra đi mà không có gì.

134. Mama saṅkappamaññāya sakko brāhmaṇavaṇṇinā
āsayaṃ me upāgañchi dānaṃ vīmaṃsanāya me.

134. Biết được ý định của ta, (Chúa Trời) Sakka với dáng vóc của vị Bà-la-môn đã đi đến chổ ngụ của ta nhằm việc xác định việc bố thí của ta.

135. Tamahaṃ disvāna santuṭṭho idaṃ vacanamabrūviṃ
sādhu khosi anuppatto ghāsahetu mamantike.

135. Khi nhìn thấy vị ấy, ta đã hớn hở nói lên điều này: “Quả thật là tốt đẹp về việc ông đã đi đến chỗ tôi vì nguyên nhân thực phẩm.

136. Adinnapubbaṃ dānavaraṃ ajja dassāmi te ahaṃ
tuvaṃ sīlaguṇūpeto ayuttante paraheṭhanaṃ.

136. Hôm nay, tôi sẽ biếu ông tặng phẩm cao quí chưa từng được bố thí trước đây. Ông là con người thành tựu giới đức nên việc hãm hại kẻ khác là không thích hợp đối với ông.

137. Ehi aggiṃ padīpehi nānā kaṭṭhe samāniya
ahaṃ pacissamattānaṃ pakkaṃ tvaṃ bhakkhayissasi.

137. Ông hãy đi đến và đốt lên ngọn lửa. Hãy đem lại nhiều cây củi. Tôi sẽ nướng chín bản thân. Ông sẽ thọ thực vật đã được nấu chín.”

138. Sādhūti so haṭṭhamano nānā kaṭṭhe samānayi
mahantaṃ adāsi citakaṃ katvānaṅgāragabbhakaṃ.

138. Vị ấy, với tâm ý mừng rỡ, (nói rằng): “Sādhu, lành thay!” rồi đã đem lại nhiều cây củi đốt lên đống lửa lớn và đã tạo nên một cụm than hồng.

139. Aggiṃ tattha padīpesi yathā so khippaṃ mahā bhave
phoṭetvā rajagate gatte ekamantaṃ upāvisiṃ.

139. Vị ấy đã đốt lên ngọn lửa ở tại nơi ấy và ngọn lửa ấy đã mau chóng trở nên mãnh liệt như thế. Sau khi rủ sạch các chi thể bị lấm bụi, [21] ta đã tiến vào một bên (đống lửa).

140. Yadā mahā kaṭṭhapuñjo āditto dhama dhamāyati
taduppatitvā papatiṃ majjhe jālasikhantare.

140. Khi đống cây củi to lớn đã phát cháy bùng lên mạnh mẽ, ta đã nhảy lên và rơi vào ở chính giữa ngọn lửa.

141. Yathā sītodakaṃ nāma paviṭṭhaṃ yassa kassaci
sameti darathapariḷāhaṃ assādaṃ deti pīti ca.

141. Giống như bất cứ ai đã đi vào trong làn nước mát lạnh thì được dịu đi nỗi bực bội và cơn phiền muộn (của mình) đồng thời làm sanh khởi [22] sự hứng thú và phỉ lạc.

142. Tatheva jalataṃ aggiṃ paviṭṭhassa mamaṃ tadā
sabbaṃ sameti darathaṃ yathā sītodakaṃ viya.

142. Tương tợ y như thế, khi ta đi vào ngọn lửa đang cháy rực, tất cả nỗi bực bội đã được dịu đi, tợ như (đi vào) làn nước mát lạnh vậy.

143. Chavi chammaṃ maṃsaṃ naharuṃ aṭṭhiṃ hadayabandhanaṃ
kevalaṃ sakalaṃ kāyaṃ brāhmaṇassa adāsahantī.

143. Ta đã bố thí đến vị Bà-la-môn hết thảy toàn bộ thân thể gồm có lớp da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và cơ tim.

Sasapaṇḍitacariyaṃ dasamaṃ.
Hạnh của Con Thỏ Hiền Triết là phần thứ mười.

--ooOoo--

144. Akitti brāhmaṇo saṅkho kururājā dhanañjayo
mahā sudassano rājā mahāgovinda brāhmaṇo.

144. Bà-la-môn Akitti, Saṅkha, Dhañanjaya vua xứ Kuru, đức vua Mahāsudassana, Bà-la-môn Mahāgovinda,

145. Nimi canda kumāro ca sivi vessantaro saso
ahameva tadā āsiṃ yo te dānavare adā.

145. Nimi, hoàng tử Canda, Sivi, Vessantara, và con thỏ chính là ta vào lúc bấy giờ, và là người đã bố thí những tặng phẩm cao quý.

146. Ete dānaparikkhārā ete dānassa pāramī
jīvitaṃ yācake datvā imaṃ pārami pūrayiṃ.

146. Những hạnh này là những phần cơ bản của sự bố thí. Những hạnh này là các sự toàn hảo của sự bố thí. Sau khi bố thí mạng sống đến người cầu xin, ta đã làm đầy đủ sự toàn hảo (về bố thí) này.

147. Bhikkhāyupagataṃ disvā sakattānaṃ pariccajiṃ
dānena me samo natthi esā me dānapāramīti.

147. Sau khi nhìn thấy người đi đến gần để khất thực, ta đã xả bỏ bản thân mình. Không có ai bằng ta về sự bố thí; đây là sự toàn hảo về bố thí của ta.

Dānapāramitā niṭṭhitā.
Dứt sự toàn hảo về bố thí.

--ooOoo--


[1] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 480.

[2] ettha caritanti cariyā = ở đây, điều đã được thực hành là hạnh, CpA. 17.

[3] Chú Giải Sư Dhammapāla giải thích về từ asaṅkheyya như sau: “Ở đây, asaṅkheyya là không có khả năng để đếm, không thể tính đếm được, có ý nghĩa là vượt quá sự tính đếm.” Ngài còn giải thích rõ thêm: “Ý nghĩa ở đây là bốn lần không thể đếm được (bốn a-tăng-kỳ) của các đại kiếp cọng thêm một trăm ngàn đại kiếp” (CpA. 12). Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng “bốn a-tăng-kỳ cọng thêm một trăm ngàn” là một con số có giá trị vô cùng lớn.

[4] Đức Phật đang giảng giải cho ngài Sāriputta (Xá-lợi-phất), CpA. 20.

[5] Tidivādhibhū là Chúa cõi trời Tidivā, tức là cõi Tāvatiṃsa (Đạo Lợi), CpA. 24.

[6] Bị oi bức do hơi nóng phát ra ở tảng đá ngồi có phủ gấm vàng của vị ấy CpA. 24.

[7] Mô tả tính chất bố thí bất cứ vật gì thuộc về bản thân không phân biệt, CpA. 24. Như vậy, lúc này, đức Bồ-tát chỉ sử dụng lá cây ở trong rừng để làm thức ăn.

[8] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 442.

[9] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 276.

[10] Kinh Đại Thiện Kiến Vương, Trường Bộ Kinh II; Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 95.

[11] So sánh với Kinh Đại Điền-tôn (Mahāgovindasuttaṃ), Trường Bộ Kinh II.

[12] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 541.

[13] Nghĩa là đã tiến hành ngày đêm không gián đoạn đến lúc dứt tuổi thọ, CpA. 54.

[14] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 542.

[15] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 499.

[16] Sīvaka là tên vị ngự y của đức vua Sivi, CpA. 66.

[17] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 547.

[18] Chú giải ghi rằng: vào kiếp sống quá khứ liền trước đó, CpA. 74.

[19] Do nhờ năng lực phước báu của Vessantara, CpA. 87.

[20] Mātulā là tên của một thành phố thuộc vương quốc Ceta, CpA. 87.

[21] Nếu có các chúng sanh ở trong bộ lông thì “chớ để chúng bị chết,” (nghĩ thế) ta đã rúng rẩy các phần thân thể đang bị lấm bụi của ta ba lần, CpA. 106.

[22] deti được giải thích là uppādeti (làm sanh khởi), CpA. 107.

II. SỰ TOÀN HẢO VỀ GIỚI

II. SĪLAPĀRAMITĀ

1. Mātuposakacariyaṃ
1. Hạnh của Vị Nuôi Dưỡng Mẹ:

***

148. Yadā ahosi pavane kuñjaro mātuposako
na tadā atthi mahiyā guṇena mama sādiso.

148. Vào lúc ta là con voi nuôi dưỡng voi mẹ ở trong rừng rậm. Lúc bấy giờ, ở trên trái đất không có người tương đương với ta về giới đức.

149. Pavane disvā vanacaro rañño maṃ paṭivedayi
tavānucchavo mahārāja gajo vasati kānane.

149. Có người đi rừng, sau khi nhìn thấy ta ở khu rừng rậm, đã thông báo với đức vua rằng: “Tâu đại vương, có con voi được xứng đáng với ngài đang sống ở trong rừng.

150. Na tassa parikhāya’ttho napi āḷhakakāsuyā
samaṃ gahite soṇḍāya sayameva idhehiti.

150. Không cần phải gây thương tích cho nó, cũng không cần đến cọc trói và hầm hố. Khi được nắm ở vòi của chính nó, tự thân nó sẽ đi đến chỗ này.”

151. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā rājāpi tuṭṭhamānaso
pesesi hatthidamakaṃ chekācariyaṃ susikkhitaṃ.

151. Nghe được lời nói ấy của ông ta, ngay cả đức vua cũng có tâm trí hớn hở và đã phái đi người thuần hóa voi, là bậc thầy kinh nghiệm, đã được huấn luyện rành rẽ.

152. Gantvāna so hatthidamako addasa padumassare
bhisamulālaṃ uddharantaṃ yāpanatthāya mātuyā.

152. Sau khi đi đến, người thuần hóa voi ấy đã nhìn thấy (ta), ở trong hồ sen, đang nhổ lên rễ và ngó sen nhằm mục đích nuôi dưỡng mẹ.

153. Viññāya me sīlaguṇaṃ lakkhaṇaṃ upadhārayi
ehi puttāti vatvāna mama soṇḍāya aggahi.

153. Biết được giới đức của ta, người này đã xác định các đặc điểm và đã nói rằng: “Này con trai, hãy đi đến,” rồi đã nắm chặt cái vòi của ta.

154. Yaṃ me tadā pākatikaṃ sarīrānugataṃ balaṃ
ajja nāgasahassānaṃ balena samasādisaṃ.

154. Khi ấy, sức mạnh tự nhiên đồng hành với cơ thể của ta là tương đương với sức mạnh của một ngàn con voi ngày hôm nay.

155. Yadihaṃ tesaṃ pakuppeyyaṃ upetānaṃ gahanāya maṃ
paṭibalo bhave tesaṃ yāva rajjampi mānusaṃ.

155. Nếu ta nổi cơn giận dữ với những người đã đi đến để bắt ta, ta có thừa khả năng đối với bọn họ, thậm chí luôn cả vương quốc của những người ấy nữa.

156. Api cāhaṃ sīlarakkhāya sīlapāramī pūriya
na karomi citte aññathattaṃ pakkhipante mamāḷhake.

156. Hơn nữa, vì gìn giữ giới để làm viên mãn sự toàn hảo về giới, ta không làm thay đổi tâm ý trong khi họ xô đẩy ta vào cây cọc trói.

157. Yadi te maṃ tattha koṭṭeyyuṃ phrasūhi tomarehi ca
neva tesaṃ pakuppeyyaṃ sīlakhaṇḍabhayā mamāti.

157. Nếu bọn họ có làm tổn thương ta bằng những cái rìu và những cây thương, ta cũng chẳng nổi cơn giận dữ đối với bọn họ vì ta có nỗi lo sợ bị đứt giới.

Mātuposakacariyaṃ paṭhamaṃ.
Hạnh của Vị Nuôi Dưỡng Mẹ là phần thứ nhất.

--ooOoo--

2. Bhūridattacariyaṃ
2. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Bhūridatta:
[23]

***

158. Punāparaṃ yadā homi bhūridatto mahiddhiko
virūpakkhena mahāraññā devalokamagacchahaṃ.

158. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Bhūridatta có đại thần lực. Ta đã đi đến cõi trời cùng với vị Đại Vương Virūpakkha.[24]

159. Tattha passitvāhaṃ deve ekantaṃ sukha samappite
taṃ saggaṃ gamanatthāya sīlabbataṃ samādiyiṃ.

159. Sau khi nhìn thấy chư thiên ở tại nơi ấy được thọ hưởng an lạc trọn vẹn, ta đã thọ trì giới cấm nhằm mục đích đi đến cõi trời ấy. [25]

160. Sarīrakiccaṃ katvāna bhūtvā yāpanamattakaṃ
caturo aṅge adhiṭṭhāya semi vammikamuddhani.

160. Sau khi làm phận sự đối với cơ thể [26] và thọ dụng chỉ đủ để nuôi sống, ta đã quyết định về bốn chi phần (của cơ thể) [27] rồi đã nằm ở trên đỉnh của gò mối.

161. Chaviyā cammena maṃsena nahāruaṭṭhikehi vā
yassa etena karaṇīyaṃ dinnaṃ eva harātu so.

161. Đối với người nào có việc cần dùng đến da ngoài, da trong, thịt, các sợi gân, hoặc các khúc xương (ở cơ thể ta), chính vì là vật đã được bố thí nên hãy để người ấy mang đi.

162. Saṃsito akataññunā ālambano mamaggahi
peḷāya pakkhipitvāna kīḷeti maṃ tahiṃ tahiṃ.

162. Khi ta đang nằm, kẻ vô ơn Ālambana [28] đã nắm lấy ta ném vào trong giỏ rồi đã bắt ta làm trò vui ở nơi này nơi khác.

163. Peḷāya pakkhipantepi sammaddantepi pāṇinā
ālambane na kuppāmi sīlakhaṇḍabhayā mama.

163. Ngay cả trong khi ông ấy ném (ta) vào giỏ, thậm chí trong khi ông ấy dùng bàn tay đè bẹp (ta) xuống, ta không giận dữ đối với Ālambana vì ta có nỗi lo sợ bị đứt giới.

164. Sakajīvitapariccāgo tiṇato lahuko mama
sīlavītikkamo mayhaṃ paṭhavī-ubbattanā viya.

164. Sự xả bỏ sanh mạng bản thân của ta là nhẹ hơn cọng cỏ. Sự phá giới đối với ta tương tợ như việc đảo ngược trái đất.

165. Nirantaraṃ jātisataṃ cajeyyaṃ mama jīvitaṃ
neva sīlaṃ pabhindeyyaṃ catudīpānahetupi.

165. Liên tục một trăm kiếp sống, ta có thể xả bỏ mạng sống của ta chứ không thể nào làm đứt giới cho dù là vì nguyên nhân (làm vua cai trị) bốn châu lục.

166. Api cāhaṃ sīlarakkhāya sīlapāramipūriyā
na karomi citte aññathattaṃ pakkhipantamhi peḷaketi.

166. Hơn nữa, vì gìn giữ giới để làm viên mãn sự toàn hảo về giới, ta không làm thay đổi tâm ý trong khi (Ālambana) ném (ta) vào trong giỏ.

Bhūridattacariyaṃ dutiyaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Bhūridatta là phần thứ nhì.

--ooOoo--

3. Campeyyanāgacariyaṃ
 3. Hạnh của Con Rồng Campeyya:
[29]

***

167. Punāparaṃ yadā homi campeyyako mahiddhiko
tadāpi dhammiko
[30]āsiṃ sīlabbatasamappito.

167. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Campeyyaka có đại thần lực. Vào thời ấy, ta cũng đã là người nghiêm túc, hành trì giới cấm.

168. Tadāpi maṃ dhammacāriṃ upavutthaṃ uposathaṃ
ahituṇḍiko gahetvāna rājadvāramhi kīḷati.

168. Cũng vào khi ấy, trong khi ta là người hành pháp đang thực hành ngày trai giới, một người luyện rắn đã tóm bắt lấy ta rồi đã bắt ta làm trò vui ở cổng hoàng cung.

169. Yaṃ so vaṇṇaṃ cintayati nīlaṃ pītañca lohitaṃ
tassa cittānuvattento homi cintitasantibho.

169. Gã ấy nghĩ về màu nào, xanh, vàng, hoặc đỏ, còn ta, trong khi biến đổi theo ý nghĩ của gã ấy, trở thành (có màu sắc) giống như đã được suy nghĩ (bởi người ấy).

170. Thalaṃ kareyyaṃ udakaṃ udakampī thalaṃ kare
yadihaṃ tassa pakuppeyyaṃ khaṇena jārikaṃ kare.

170. Ta có thể biến đất thành nước, và cũng có thể biến nước thành đất. Nếu ta nổi giận đối với gã ấy, ta có thể biến (gã ấy) trở thành tro bụi trong một sát-na.[31]

171. Yadi cittavasī hessaṃ parihāyissāmi sīlato
sīlena parihīṇassa uttamattho na sijjhati.

171. Nếu như ta thể hiện năng lực của tâm, ta sẽ từ bỏ giới; (và) mục đích tối thượng không được thành tựu đến người từ bỏ giới.

172. Kāmaṃ bhijjatu yaṃ kāyo idheva vikirīyatu
neva sīlaṃ pabhindeyyaṃ vikirante bhusaṃ viyāti.

172. Dầu sao đi nữa, hãy để thân xác này bị tan vỡ, hãy để nó bị phân tán ở ngay đây; trong khi bị tan tác giống như bụi phấn, ta cũng không thể nào làm đứt giới.

Campeyyanāgacariyaṃ tatiyaṃ.
Hạnh của Con Rồng Campeyya là phần thứ ba.

--ooOoo--

4. Cullabodhicariyaṃ
4. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Cullabodhi:
[32]

***

173. Punāparaṃ yadā homi cullabodhi susīlavā
bhavaṃ disvāna bhayato nekkhammaṃ abhinikkhamiṃ.

173. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Cullabodhi, là người có giới hạnh. Nhìn thấy hiện hữu là nguy hiểm, ta đã ra đi theo hạnh xuất ly.

174. Yā me dutiyikā āsi brāhmaṇī kanakasantibhā
sāpi vaṭṭe anapekkhā nekkhammaṃ abhinikkhamī.

174. Ta có người vợ dòng dõi Bà-la-môn có nước da như vàng ròng. Cô ta cũng không mong muốn luân hồi nên đã ra đi theo hạnh xuất ly.

175. Nirālayā chinnabandhū anapekkhā kule gaṇe
carantā gāmanigamaṃ bārāṇasimupāgamuṃ.

175. Không dính mắc, thân quyến đã lìa, không mong muốn về gia đình, (hay) về đồ chúng, chúng tôi du hành qua làng mạc phố chợ và đã đi đến Bārāṇasī.

176. Tattha vasāma nipakā asaṃsaṭṭhā kule gaṇe
nirākule appasadde rājuyyāne vasāmubho.

176. Ở tại nơi ấy, chúng tôi đã sống khôn khéo, không cấu kết gia đình, bè đảng. Cả hai đã sống trong khu vườn của đức vua, không bị quấy rầy, ít có tiếng động.

177. Uyyānadassanaṃ gantvā rājā addasa brāhmaṇiṃ
upagamma mamaṃ pucchi tuyhesā kassa bhāriyā.

177. Đức vua đã đi đến ngoạn cảnh khu vườn và đã nhìn thấy người nữ Bà-la-môn. Ngài đã đi đến gặp ta và hỏi rằng: “Nàng ấy là vợ của khanh hay của ai?”

178. Evaṃ vutte ahaṃ tassa idaṃ vacanamabravi
na mayhaṃ bhariyā esā sahadhammā ekasāsanī.

178. Được nói như vậy, ta đã nói với đức vua lời này: “Nàng ấy không phải là vợ của thần, nàng là người đồng đạo, cùng chung giáo lý.”

179. Tassāsārattādhigato gāhāpetvāna ceṭake
nippīḷayanto balasā antepuraṃ pavesayī.

179. Bị ái luyến và khát khao nàng ấy, đức vua đã ra lệnh các thuộc hạ bắt giữ rồi dùng sức mạnh để ép buộc đưa nàng vào nội cung.

180. Odapattakiyā mayhaṃ sahajā ekasāsanī
ākaḍḍhitvā nayantiyā kopo me uppajjatha.

180. Nàng là người vợ của ta theo nghi thức chạm vào bát nước, đồng thời xuất gia cùng chung giáo lý. Trong khi nàng bị lôi kéo đưa đi, sự giận dữ đã khởi lên ở ta.

181. Saha kope samuppanne sīlabbatamanussariṃ
tattheva kopaṃ niggaṇhiṃ nādāsiṃ vaḍḍhitūpari.

181. Cùng lúc khi cơn giận đã được phát khởi, ta đã nhớ lại giới cấm. Ngay tại nơi ấy, ta đã nén lại cơn giận và đã không cho bộc phát lên.

182. Yadihaṃ brāhmaṇiṃ koci koṭṭeyya tiṇhasattiyā
neva sīlaṃ pabhindeyyaṃ bodhiyāyeva kāraṇā.

182. Nếu như có ai dùng con dao bén đâm chém người nữ Bà-la-môn ấy, ta cũng không thể nào làm đứt giới với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.

183. Na me sā brāhmaṇī dessā na pi me balaṃ na vijjati
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā sīlānurakkhissanti.

183. Người nữ Bà-la-môn ấy không có bị ta ghét bỏ, cũng không phải là sức mạnh của ta không có. Ðối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta sẽ gìn giữ giới hạnh.

Cullabodhicariyaṃ catutthaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Cullabodhi là phần thứ tư.

--ooOoo--

5. Mahisarājacariyaṃ
5. Hạnh của Con Trâu Chúa:
[33]

***

184. Punāparaṃ yadā homi mahiso pavanacāriko
pavaḍḍhakāyo balavā mahanto bhīmadassano.

184. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là con trâu lang thang ở trong khu rừng rậm, có thân thể phát triển, khỏe mạnh, to lớn, trông thấy phải sợ hãi.

185. Pabbhāre giridugge ca rukkhamūle dakāsaye
hotettha ṭhānaṃ mahisānaṃ koci koci tahiṃ tahiṃ.

185. Nơi ấy, trong hang động, ở sườn núi dốc, dưới cội cây, (gần) nơi hồ nước, có (các) khu vực rải rác đó đây dành cho loài trâu.

186. Vicaranto brahāraññe ṭhānaṃ addasa bhaddakaṃ
taṃ ṭhānaṃ upagantvāna tiṭṭhāmi ca sayāmi ca.

186. Trong khi đi lang thang ở khu rừng rậm, ta đã nhìn thấy một nơi thuận tiện. Ta đã đi đến nơi ấy, đứng lại, rồi nằm xuống.

187. Athettha kapimāgantvā pāpo anariyo lahu
khandhe nalāṭe bhamuke mutteti ohaṇeti maṃ.

187. Rồi có con khỉ đê tiện, thô lỗ, nhanh nhảu đã đi đến nơi ấy và tiểu tiện, đại tiện ở trên lưng, trên trán, và lông mày của ta.

188. Sakimpi divasaṃ dutiyaṃ tatiyaṃ catutthampi ca
dūseti maṃ sabbakālaṃ tena homi upadduto.

188. Một lần trong ngày, rồi lần thứ hai, lần thứ ba, và thậm chí đến lần thứ tư, nó làm ta bị nhơ bẩn vào mọi lúc; vì điều ấy, ta trở nên bực bội.

189. Mamaṃ upaddutaṃ disvā yakkho maṃ idamabravi
nāsehetaṃ chavaṃ pāpaṃ siṅgehi ca khurehi ca.

189. Nhìn thấy sự bực bội của ta, có con Dạ-xoa đã nói với ta điều này: “Ngươi hãy giết chết cái loài tồi tệ đê tiện ấy bằng các sừng và các móng chân.”

190. Evaṃ vutte tadā yakkhe ahaṃ taṃ idamabraviṃ
kiṃ tvaṃ makkhesi kuṇapena pāpena anariyena maṃ.

190. Được con Dạ-xoa nói như vậy, khi ấy ta đã nói với con Dạ-xoa ấy điều này: “Sao ngươi lại bôi nhọ ta với cái thây ma đê tiện và thô lỗ?

191. Yadihaṃ tassa kuppeyyaṃ tato hīnataro bhave
sīlañca me pabhijjeyya viññū ca garaheyyu maṃ.

191. Nếu ta nổi giận với nó, vì điều đó ta sẽ trở nên tồi tệ hơn, giới của ta có thể bị đứt, và người trí có thể khiển trách ta.

192. Hīḷitā jīvitā cāpi parisuddhena mataṃ varaṃ
kyāhaṃ jīvitahetupi kāhāmi paraheṭhanaṃ.

192. Vả lại, sống mà hổ thẹn thì chết với sự trong sạch là cao quý. Cho dù nguyên nhân là mạng sống, không thể nào ta lại gây ra sự tổn hại cho kẻ khác?

193. Mame vāyamaññamāno aññepevaṃ karissati
teva tattha vadhissanti sā me mutti bhavissati.

193. Trong khi suy nghĩ về những người khác là giống như ta, con khỉ này cũng sẽ hành động như thế. Chính họ sẽ giết chết nó tại nơi ấy, còn ta thì sẽ có được sự giải thoát này.[34]

194. Hīnamajjhimaukkaṭṭhe sahanto avamānitaṃ
evaṃ labhati sappañño manasā yathāpatthitanti.

194. Trong khi nhẫn nhịn sự khinh miệt ở những người kém cỏi, trung bình, hoặc cao quý, như thế bậc thiện trí đạt được theo như điều đã được mong mỏi bởi tâm ý.[35]

Mahisarājacariyaṃ pañcamaṃ.
Hạnh của Con Trâu Chúa là phần thứ năm.

--ooOoo--

6. Rurumigarājacariyaṃ
6. Hạnh của Con Nai Chúa Ruru:
[36]

***

195. Punāparaṃ yadā homi sutattakanakasannibho
migarājā rurunāma paramasīlasamāhito.

195. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vua của loài nai, có tên là Ruru, có màu lông tợ như vàng nung đỏ, đang chú tâm vào giới hạnh tối cao.

196. Ramme padese ramaṇīye vivitte amanussake
tattha vāsaṃ upagañchiṃ gaṅgākūle manorame.

196. Ta đã đi đến trú ngụ tại nơi ấy, ở một khu đất xinh xắn, đáng yêu, thanh vắng, không có loài người, bên bờ sông Gaṅgā [37] thích ý.

197. Atho uparigaṅgāya dhanikehi paripīḷito
puriso gaṅgāya papati jīvāmi vā marāmi vā.

197. Khi ấy, ở thượng nguồn sông Gaṅgā, có người đàn ông bị bức bách bởi những chủ nợ nên đã gieo mình xuống dòng sông Gaṅgā (nghĩ rằng): “Ta hoặc là sống hay là chết.”

198. Rattindivaṃ so gaṅgāya vuyhamāno mahodake
ravanto karuṇaṃ rāvaṃ majjhe gaṅgāya gacchati.

198. Trong khi bị cuốn trôi ở giòng nước lớn và kêu la thảm thiết ngày đêm, người ấy trôi ra giữa dòng sông Gaṅgā.

199. Tassāhaṃ saddaṃ sutvāna karuṇaṃ paridevato
gaṅgāya tīre ṭhatvāna apucchiṃ kosi tvaṃ naro.

199. Nghe được tiếng kêu la thảm thiết của người ấy đang than khóc, ta đã đứng ở bờ sông Gaṅgā hỏi rằng: “Ông là người nào?

200. So me puṭṭho ca vyākāsi attano kāraṇaṃ tadā
dhanikehi bhīto tasito pakkhantohaṃ mahānadiṃ.

200. Và khi được ta hỏi, người ấy đã giải thích hành động của mình: “Sợ hãi những người chủ nợ, bị hoảng hốt, tôi đã lao mình xuống dòng sông lớn.”

201. Tassa katvāna kāruññaṃ cajitvā mama jīvitaṃ
pavisitvā nīhariṃ tassa andhakāramhi rattiyā.

201. Khởi tâm thương xót người ấy, ta đã buông bỏ mạng sống của mình, lao vào (dòng nước), và đã vớt người ấy lên trong bóng tối của ban đêm.

202. Assattha kālamaññāya tassāhaṃ idamabruviṃ
ekaṃ taṃ varaṃ yācāmi mā maṃ kassaci pāvada.

202. Nhận biết được thời điểm đã được hồi phục, ta đã nói với người ấy điều này: “Ta yêu cầu ngươi một ân huệ là ngươi chớ có nói về ta đối với bất cứ người nào.”

203. Nagaraṃ gantvāna ācikkhi pucchito dhanahetuko
rājānaṃ so gahetvāna upagañchi mamantikaṃ.

203. Sau khi đi đến thành phố, người ấy vì nguyên nhân của cải đã nói ra khi được hỏi, rồi đã đưa đức vua đi đến vùng phụ cận của ta.

204. Yāvatā kāraṇaṃ sabbaṃ rañño ārocitaṃ mayā
rājā sutvāna vacanaṃ usuṃ tassa pakappayī
idheva ghātayissāmi mittadubbhiṃ anāriyaṃ.

204. Toàn bộ sự việc đến đâu đã được ta tường thuật cho đức vua. Nghe được lời kể lại, đức vua đã hướng mũi tên vào người ấy (nói rằng): “Trẫm sẽ giết chết kẻ đê tiện phản bội bạn bè ngay tại chỗ này.”

205. Tamahaṃ anurakkhanto nimminiṃ mama attano
tiṭṭhateso mahārāja kāmaṅkāro bhavāmi te.

205. Trong khi bảo vệ cho người ấy, ta đã hoán đổi (người ấy) bằng bản thân của ta (nói rằng): “Tâu đại vương hãy để cho người ấy sống. Thần sẽ là người tạo ra lạc thú cho ngài.”

206. Anurakkhiṃ mama sīlaṃ nārakkhiṃ mama jīvitaṃ
sīlavā hi tadā āsiṃ bodhiyā eva kāraṇāti.

206. Ta đã bảo vệ giới của ta. Ta đã không bảo tồn mạng sống của mình. Bởi vì, vào lúc ấy ta đã là người có giới hạnh với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.

Rururājacariyaṃ chaṭṭhamaṃ.
Hạnh của Con Nai Chúa Ruru là phần thứ sáu.

--ooOoo--

7. Mātaṅgacariyaṃ
7. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Mātaṅga:
[38]

***

207. Punāparaṃ yadā homi jaṭilo uggatāpano
mātaṅgo nāma nāmena sīlavā susamāhito.

207. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là đạo sĩ tóc bện nghiêm trì khổ hạnh, có giới đức, định tâm bền vững, tên là Mātaṅga.

208. Ahañca brāhmaṇo eko gaṅgākūle vasāmubho
ahaṃ vasāmi upari heṭṭhā vasati brāhmaṇo.

208. Ta và một vị Bà-la-môn, cả hai sống ở bên bờ sông Gaṅgā. Ta sống ở thượng nguồn, còn vị Bà-la-môn sống ở hạ nguồn.

209. Vicaranto anukūlamhi uddhaṃ me assamaddasa
tattha maṃ paribhāsetvā abhisapi muddhaphālanaṃ.

209. Trong khi đi lang thang dọc theo bờ sông, vị Bà-la-môn đã nhìn thấy khu ẩn cư của ta ở thượng nguồn. Tại nơi ấy, sau khi mắng nhiếc ta, vị ấy đã nguyền rủa về sự vỡ tan cái đầu (của ta).

210. Yadihaṃ tassa pakuppeyyaṃ yadi sīlaṃ na gopaye
oloketvāna’haṃ tassa kareyyaṃ chārikaṃ viya.

210. Nếu ta nổi cơn giận dữ đối với vị này, nếu ta không gìn giữ giới, thì sau khi nhìn vào vị ấy ta có thể làm cho trở thành như là tro bụi.

211. Yaṃ so tadā maṃ abhisapi kupito duṭṭhamānaso
tasseva matthake nipati yogena taṃ pamocayiṃ.

211. Lúc bấy giờ, điều mà vị ấy nguyền rủa ta trong lúc bị bực tức và có tâm ý xấu xa lại được áp dụng ở trên cái đầu của chính vị ấy. Ta đã giúp cho vị ấy được thoát khỏi (việc bị bể đầu thành bảy mảnh) bằng thủ thuật. [39]

212. Anurakkhiṃ mama sīlaṃ nārakkhiṃ mama jīvitaṃ
sīlavā hi tadā āsiṃ bodhiyā yeva kāraṇāti.

212. Ta đã bảo vệ giới của ta. Ta đã không bảo tồn mạng sống của mình. Bởi vì, vào lúc ấy ta đã là người có giới hạnh với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.

Mātaṅgacariyaṃ sattamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Mātaṅga là phần thứ bảy.

--ooOoo--

 8. Dhammadevaputtacariyaṃ
8. Hạnh của Thiên Tử Dhamma:
  [40]

***

213. Punāparaṃ yadā homi mahesakko mahiddhiko
dhammo nāma mahāyakkho sabbalokānukampako.

213. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Đại Dạ-xoa tên là Dhamma, có tùy tùng đông đảo, có đại thần lực, có lòng bi mẫn đối với tất cả thế gian.

214. Dasa kusalakammapathe samādapento mahājanaṃ
carāmi gāmanigamaṃ samitto saparijjano.

214. Trong lúc khuyến khích dân chúng hành trì thập thiện nghiệp đạo, ta cùng với bạn bè và những người hầu cận đi đến các thôn làng phố chợ.

215. Pāpo kadariyo yakkho dīpento dasa pāpake
sopettha mahiyā carati samitto saparijjano.

215. Có con Dạ-xoa độc ác, bỏn xẻn, trong lúc giảng giải về thập ác, nó với bạn bè và những người hầu cận cũng đi khắp trái đất này.

216. Dhammavādī adhammo ca ubho paccanikā mayaṃ
dhūre dhūraṃ ghaṭṭayantā samimhā paṭipathe ubho.

216. Là những người nói về chánh pháp và tà pháp, cả hai chúng tôi là đối thủ. Trong khi va chạm càng xe với càng xe ở lối đi ngược chiều, cả hai đối mặt nhau.

217. Kalaho vattatī bhesmā kalyāṇapāpakassa ca
maggā okkamanatthāya mahāyuddho upaṭṭhito.

217. Cuộc xung đột giữa thiện và ác đã xảy ra một cách ghê rợn, và trận chiến đấu lớn lao vì việc rời khỏi đường lộ là sắp sửa xảy ra.

218. Yadihaṃ tassa pakuppeyyaṃ yadi bhinde tapoguṇaṃ
saha parijanaṃ tassa rajabhūtaṃ kareyyahaṃ.

218. Nếu như ta nổi cơn giận dữ đối với gã ấy, nếu như ta phá vỡ đức tính khổ hạnh, ta có thể làm cho gã ấy và đoàn tùy tùng trở thành tro bụi.

219. Api cāhaṃ sīlarakkhāya nibbāpetvāna mānasaṃ
saha janenokkamitvā pathaṃ pāpassa’dāsahaṃ.

219. Tuy nhiên, nhằm mục đích gìn giữ giới hạnh, ta đã làm nguội lạnh tâm ý. Sau khi cùng với đám người bước xuống, ta đã nhường đường cho kẻ ác.

220. Saha pathato okkante katvā cittassa nibbutiṃ
vivaraṃ adāsi paṭhavī pāpayakkhassa tāvadeti.

220. Cùng lúc ta đang rời khỏi đường lộ sau khi đã làm nguội lạnh tâm ý, trái đất ngay lập tức đã tạo ra khe nứt dành cho con Dạ-xoa ác xấu.

Dhammadevaputtacariyaṃ aṭṭhamaṃ.
Hạnh của thiên tử Dhamma là phần thứ tám.

--ooOoo--

9. Alīnasattacariyaṃ
9. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Alīnasatta:
[41]

***

221. Pañcālaraṭṭhe nagaravare kampillāyaṃ puruttame
rājā jayaddiso nāma sīlaguṇamupāgato.

221. Ở trong kinh thành Kampillā, thành phố tráng lệ thuộc vương quốc Pancāla, có đức vua tên Jayaddisa đã được thành tựu giới đức.

222. Tassa rañño ahaṃ putto sutadhammo susīlavā
alīnasatto guṇavā anurattaparijano sadā.

222. Là Alīnasatta, người con trai của đức vua ấy, ta được học tập, có giới hạnh tốt, có đức độ, luôn luôn quan tâm đến người hầu cận.

223. Pitā me migavaṃ gantvā porisādaṃ upāgami
so me pitumaggahesi bhakkhosi mama mā cali.

223. Cha ta đã đi săn thú rừng và đã đến gần bên Porisāda (kẻ ăn thịt người). Gã ấy đã bắt giữ cha ta (nói rằng): “Ngươi là thức ăn của ta, chớ có vùng vẫy.”

224. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā bhīto tasitavedhito
ūrukkhambho ahū tassa disvāna porisādakaṃ.

224. Sau khi được nghe lời nói ấy của gã, đức vua đã trở nên hoảng hốt, run rẩy vì sợ hãi, cứng đờ chân cẳng khi trông thấy kẻ ăn thịt người.

225. Migavaṃ gahetvā muñcassu katvā āgamanaṃ puna
brāhmaṇassa dhanaṃ datvā pitā āmantayī mamaṃ.

225. (Đức vua đã nói rằng:) “Hãy giữ lấy con thú rừng, rồi trả tự do cho ta,” và đã hứa hẹn việc sẽ quay trở lại. Sau khi giao lại tài sản cho vị (quan đại thần) Bà-la-môn, cha (ta) đã nhắn nhủ ta rằng:

226. Rajjaṃ putta, paṭipajja mā pamajjī puraṃ idaṃ
kataṃ me porisādena mama āgamanaṃ puna.

226. “Này con, hãy cai quản vương quốc. Chớ bỏ bê thành phố này. Cha đã hứa với kẻ ăn thịt người về việc sẽ quay trở lại của cha.” 

227. Mātu pitu ca vanditvā nissajitvāna attānaṃ
nikkhipitvā dhanuṃ khaggaṃ porisādamupāgamiṃ.

227. Sau khi cúi lạy mẹ cha và buông bỏ bản thân, ta đã đặt cung kiếm xuống rồi đã đi đến gặp kẻ ăn thịt người.

228. Sasatthahatthūpagataṃ kadāci so tasissatī
tena bhijjissati sīlaṃ parittāsaṃ kate mayi.

228. Có lẽ gã ấy sẽ sợ hãi người đi đến có vũ khí trong tay. Khi ta đã gây nên nỗi lo sợ, vì điều ấy giới sẽ bị hư hỏng.

229. Sīlakhaṇḍabhayā mayhaṃ tassa dessaṃ na byāhariṃ
mettacitto hitavādī idaṃ vacanamabruviṃ.

229. Vì ta có nỗi lo sợ về việc đứt giới, ta đã không nói điều gây khó chịu đối với gã ấy. Là người nói điều lợi ích, có tâm từ ái, ta đã nói điều này:

230. Ujjālehi mahā-aggiṃ papatissāmi rukkhato
sampakka kālamaññāya bhakkhaya tvaṃ pitāmaha.

230. “Hãy đốt lên ngọn lửa lớn, tôi sẽ lao từ trên cây xuống. Này ông chú, ông hãy biết lúc đã được chín tới, rồi ông hãy thọ thực.”

231. Iti sīlavataṃ hetu nārakkhiṃ mama jīvitaṃ
pabbājesiṃ cahaṃ tassa sadā pāṇātipātikanti.

231. Như thế với việc thực hành giới là nguyên nhân, ta đã không bảo tồn mạng sống của ta. Và ta đã khiến cho gã (ăn thịt người) ấy luôn luôn xa lánh việc giết hại sanh mạng.

Alīnasattacariyaṃ navamaṃ.
 Hạnh của (đức Bồ-tát) Alīnasatta là phần thứ chín.

--ooOoo--

10. Saṅkhapālacariyaṃ
10. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Saṅkhapāla:
  [42]

***

232. Punāparaṃ yadā homi saṅkhapālo mahiddhiko
dāṭhāvudho ghoraviso dvijivho uragādhibhū.

232. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Saṅkhapāla, chúa tể của loài rồng, có đại thần lực, có răng nanh [43] là vũ khí, có nọc độc ghê gớm, và có hai lưỡi.

233. Catuppathe mahāmagge nānā janasamākule
caturo aṅge adhiṭṭhāya tattha vāsamakappayiṃ.

233. Ở tại ngã tư của con đường lớn có sự tụ hội của nhiều hạng người, sau khi quyết định về bốn chi phần (của cơ thể), ta đã thiết lập chỗ cư ngụ ở tại nơi ấy.

234. Chaviyā cammena maṃsena nahāru aṭṭhikehi vā
yassa etena karaṇīyaṃ dinnaṃ yeva harātu so.

234. Đối với người nào có việc cần dùng đến da ngoài, da trong, thịt, các sợi gân, hoặc các khúc xương (ở cơ thể ta), chính vì là vật đã được bố thí nên hãy để người ấy mang đi.

235. Addasaṃsu bhojaputtā kharā luddā akāruṇā
upagañchuṃ mamaṃ tattha daṇḍamuggarapāṇino.

235. Có những gã vô lại thô lỗ, hung dữ, bất nhân, đã nhìn thấy và đã tiến đến gần ta ở tại nơi ấy, các bàn tay có nắm gậy gộc.

236. Nāsāya vinivijjhitvā naṅguṭṭhe piṭṭhikaṇṭake
kāje āropayitvāna bhojaputtā hariṃsu maṃ.

236. Sau khi chọc thủng ở lỗ mũi, ở đuôi, và ở xương sống lưng, những gã vô lại đã đặt ta lên cáng rồi lôi đi.

237. Sasāgarantaṃ paṭhaviṃ sakānanaṃ sapabbataṃ
icchamāno cahaṃ tattha nāsāvātena jhāpaye.

237. Và ở nơi ấy, với luồng gió từ lỗ mũi ta, trong khi mong muốn ta có thể thiêu đốt trái đất có biển bao bọc, có rừng, có núi.

238. Sūlehi vijjhiyantepi koṭṭayantepi sattihi
bhojaputte na kuppāmi esā me sīlapāramīti.

238. Mặc dù đang bị đâm thọc bởi những cọc nhọn, mặc dầu đang bị chặt chém bởi những con dao, ta cũng không tức giận những gã vô lại; đây là sự toàn hảo về giới của ta.

Saṅkhapālacariyaṃ dasamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Saṅkhapāla là phần thứ mười.

--ooOoo--

239. Hatthināgo bhūridatto campeyyo bodhi māhiso
rurumātaṅgo dhammo ca atrajo ca jayaddiso.

239. Con long tượng, Bhūridatta, (con rồng) Campeyya, (Culla) bodhi, con trâu (chúa), (con nai chúa) Ruru, (đạo sĩ tóc bện) Mātaṅga, (thiên tử) Dhamma, (đức vua) Jayaddisa và người con trai.

240. Ete sabbe sīlabalā parikkhārā padesikā
jīvitaṃ parirakkhitvā sīlāni anurakkhissaṃ.

240. Tất cả (chín) hạnh này đều có năng lực của giới, là những phần thiết yếu, là những yếu tố góp phần (vào sự toàn hảo về giới); (tuy nhiên), ta còn bảo tồn mạng sống rồi mới gìn giữ các giới.

241. Saṅkhapālassa me sato sabbakālampi jīvitaṃ
yassa kassaci nīyantaṃ tasmā sā sīlapāramīti.

241. (Trái lại), mạng sống của ta khi là Saṅkhapāla luôn luôn được ban phát đến bất cứ người nào; do đó, điều ấy là sự toàn hảo về giới.

Sīlapāramīniddeso niṭṭhito.
Dứt phần giảng giải sự toàn hảo về giới.

--ooOoo--


[23] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 543.

[24] Cõi trời này là cõi trời Tāvatiṃsa (Đạo Lợi) và Virūpakkha là một vị thủ lãnh của loài rồng rắn (nāgādhipati), CpA. 117.

[25] Đi đến bằng phương thức tái sanh (uppattivasena), CpA. 117.

[26] Là thực hiện việc chăm sóc cơ thể như rửa mặt, v.v... CpA. 117.

[27] Bốn chi phần của cơ thể là da (ngoài và trong), thịt, gân, xương, CpA. 117, như sẽ được đề cập đến ở câu kế.

[28] Câu chuyện được ghi lại ở CpA. 118-122.

[29] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 506.

[30] dhammiko (người nghiêm túc) được giải thích là dhammacārī (người hành pháp) (CpA. 126). Kế đó, dhammacārī được giải thích là “người thực hành thập thiện nghiệp đạo như là bố thí, trì giới, v.v... và không thực hành điều sai trái dầu là nhỏ nhen” (CpA. 129-30).

[31] Người luyện rắn này hành hạ ta vô cùng tàn bạo và không biết ta thần lực của ta. Khi nỗi cơn giận dữ, ta đã nghĩ rằng: “Vậy thì ta sẽ phô bày thần lực của ta đối với gã này.” Cho dầu chỉ là một sự suy xét, nhưng nếu như ta thể hiện năng lực của tâm thì gã ấy đã bị phân tác tương tợ như một nắm bụi phấn (CpA. 130).

[32] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 443.

[33] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 278.

[34] Là sự giải thoát khỏi khổ đau và sự giết hại sanh mạng, CpA. 143.

[35] Là đạt được trí Toàn Giác theo như ước muốn.

[36] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 482.

[37] Tên con sông này được ghi lại theo âm là Hằng Hà.

[38] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 497.

[39] Đức Bồ-tát đã bảo dùng cục đất sét đặt ở trên đầu của vị Bà-la-môn rồi cho vị ấy lội xuống và đứng ở trong nước. Khi mặt trời mọc lên thì vị Bà-la-môn hụp xuống, đầu chìm ở trong nước. Còn cục đất sét (thay thế cái đầu) ở trên mặt nước đã bị mặt trời làm vỡ tan thành bảy mảnh (CpA. 159).

[40] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 457.

[41] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 513.

[42] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 524.

[43] Có bốn răng nanh, hai trên hai dưới, CpA. 175.

-ooOoo-

III. SỰ TOÀN HẢO VỀ XUẤT LY


III. NEKKHAMMAPĀRAMITĀ

1. Yudhañjayacariyaṃ
1. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Yudhañjaya:
  [1]

***

242. Yadā ahaṃ amitayaso rājaputto yudhañjayo
ussāvabinduṃ suriyātape patitaṃ disvāna saṃvijiṃ.

242. Khi ta là hoàng tử Yudhañjaya có danh tiếng vô lượng, ta đã động tâm sau khi nhìn thấy giọt sương mai bị tiêu tan dưới ánh nắng mặt trời. [2]

243. Taññevādhipatiṃ katvā saṃvegamanubrūhayiṃ
mātāpitu ca vanditvā pabbajjamanuyācahaṃ.

243. Sau khi trầm tư về chính điều ấy, ta đã làm cho nỗi động tâm tăng trưởng. Ta đã cúi lạy mẹ cha và xin phép xuất gia.

244. Yācanti maṃ pañjalikā sanegamā saraṭṭhakā
ajjeva putta paṭipajja iddhaṃ phītaṃ mahāmahiṃ.

244. Họ cùng với các thị dân và các cư dân của xứ sở, hai tay chắp lại, thỉnh cầu ta rằng: “Này con, ngay ngày hôm nay con hãy cai quản lãnh địa rộng lớn, tiến triển, và thịnh vượng.”

245. Sarājake sahorodhe sanegame saraṭṭhake
karuṇaṃ paridevante anapekkho hi pabbajiṃ.

245. Trong khi họ, có cả đức vua, có cả phi tần, có thị dân, có cư dân của xứ sở, đang khóc lóc thảm thương, bởi vì ta đã xuất gia, không lưu luyến.

246. Kevalaṃ paṭhaviṃ rajjaṃ ñāti parijanayasaṃ
cajamāno na cintesiṃ bodhiyāyeva kāraṇā.

246. Trong khi từ bỏ toàn bộ trái đất, vương quốc, quyến thuộc, người hầu, và danh vọng, ta đã không suy nghĩ (đến điều gì khác) với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.

247. Mātā pitā na me dessā napi dessaṃ mahāyasaṃ
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā rajjaṃ pariccajinti.

247. Me cha không có bị ta ghét bỏ, danh vọng lớn lao cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã từ bỏ vương quốc.

Yudhañjayacariyaṃ paṭhamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Yudhañjaya là phần thứ nhất.

--ooOoo--

 2. Somanassacariyaṃ
2. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Somanassa:
 [3]

***

248. Punāparaṃ yadā homi indapatte puruttame
kāmito dayito putto somanassoti vissuto.

248. Vào một thời điểm khác nữa, khi ở tại kinh thành Indapatta, ta là người con trai được mong mỏi, được yêu quý, được nổi tiếng (với tên) là Somanassa.

249. Sīlavā guṇasampanno kalyāṇapaṭibhāṇavā
vuddhāpacāyī hirimā saṅgahesu ca kovido.

249. Ta là người có giới, được thành tựu đức hạnh, có lối ứng xử lịch thiệp, có sự tôn kính bậc trưởng thượng, có sự khiêm tốn, và rành rẽ về các cách tiếp độ.

250. Tassa rañño patikaro ahosi kuhakatāpaso
ārāmaṃ mālāvacchañca ropayitvāna jīvati.

250. Có gã đạo sĩ giả trá được đức vua ấy yêu mến. Ông ta trồng trọt rau quả hoa màu rồi sinh sống.

251. Tamahaṃ disvāna kuhakaṃ thusarāsiṃva ataṇḍulaṃ.
dumaṃ anto va susiraṃ kadaliṃ va asārakaṃ.

251. Nhận biết ông là giả trá ví như đống trấu không có hạt gạo, ví như thân cây có lỗ bọng lớn ở bên trong, ví như cây chuối không có lỏi cứng.

252. Natthi ’massa sataṃ dhammo sāmaññāpagato ayaṃ
hirisukkadhammajahito jīvitavuttikāraṇā.

252. Không có pháp của các bậc thiện trí ở người này. Vì lý do nuôi dưỡng mạng sống, người này đã xa rời Sa-môn hạnh, đã từ bỏ pháp trong sạch là sự khiêm tốn.

253. Kupito ahosi paccanto aṭavīhi parantihi
taṃ nisedhetuṃ gacchanto anusāsi pitā mamaṃ.

253. Vùng biên giới đã bị khuấy động bởi những kẻ lâm tặc thuộc các xứ lân bang. Khi ra đi để dẹp yên việc ấy, cha (ta) đã dạy bảo ta rằng:

254. Mā pamajji tuvaṃ tāta jaṭilaṃ uggatāpanaṃ
yadicchakaṃ pavattehi sabbakāmadado hi so.

254. “Này con yêu dấu, con chớ có lơ là với vị đạo sĩ tóc bện nghiêm trì khổ hạnh. Hãy thi hành điều (vị ấy) ước muốn bởi vì vị ấy là người ban bố (cho chúng ta) mọi điều lạc thú.”

255. Tamahaṃ gantvā’nupaṭṭhānaṃ idaṃ vacanamabraviṃ
kaccite gahapati kusalaṃ kiṃ vā te āharīyatu.

255. Ta đã đi đến phục vụ vị ấy và đã nói lời này: “Này gia chủ, ông có được an vui không?” hoặc “Vật gì cần được mang lại cho ông?

256. Tena so kupito āsi kuhako mānanissito
ghātāpemi tuvaṃ ajja raṭṭhā pabbājayāmi vā.

256. Vì thế, kẻ giả trá, chất chứa ngã mạn ấy đã giận dữ (nói rằng): “Hôm nay, ta sẽ làm cho ngươi hoặc là bị giết chết, hoặc là bị trục xuất ra khỏi vương quốc.”

257. Nisedhayitvā paccantaṃ rājā kuhakamabravi
kacci te bhante khamanīyaṃ sammāno te pavattito
tassa ācikkhati pāpo kumāro yathā nāsiyo.

257. Sau khi bình định khu vực biên giới, đức vua đã nói với kẻ giả trá (ấy) rằng: “Thưa ngài, ngài có được thoải mái, có được sự tôn kính không?” Gã xấu xa đã nói với đức vua rằng: “Hoàng tử cần phải bị trừng trị như thế.”

258. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā āṇāpesi mahīpati
sīsaṃ tattheva chinditvā katvāna catukhaṇḍikaṃ
rathiyā rathiyaṃ dassetha sā gatī jaṭilahīḷito.

258. Sau khi nghe được lời nói ấy của kẻ ấy, vị chúa tể của trái đất đã ra lệnh rằng: “Hãy chém đầu ngay tại chỗ, rồi phân (thây) thành bốn mảnh, và cho trưng bày ở khắp các ngã đường; đó là phần số dành cho kẻ miệt thị vị đạo sĩ tóc bện.”

259. Tattha kāraṇikā gantvā caṇḍā luddā akāruṇā
mātu aṅke nisinnassa ākaḍḍhitvā nayanti maṃ.

259. Tại nơi ấy,[4] những người hành quyết độc ác, hung dữ, bất nhân đã lôi kéo ta đang ngồi ở lòng mẹ rồi dẫn đi. [5]

260. Tesāhaṃ evamavacaṃ bandhataṃ gāḷhabandhanaṃ
rañño dassetha maṃ khippaṃ rājakiriyāni atthime.

260. Ta đã nói với họ như vầy: “Hãy cấp tốc đưa ta đã bị trói bằng gông xiềng chắc chắc đến trình diện đức vua, ta có các việc cần làm cho đức vua.”

261. Te maṃ rañño dassayiṃsu pāpassa pāpasevino
disvāna taṃ saññapesiṃ mamañca vasamānayiṃ.

261. Bọn họ đã đưa ta đến gặp vị vua ác xấu là người thân cận với kẻ ác xấu. Sau khi tiếp kiến, ta đã làm cho đức vua hiểu rõ và ta đã tạo được uy thế cho ta.

262. So maṃ tattha khamāpesi mahārajjamadāsi me
sohaṃ tamaṃ dāḷayitvā pabbajiṃ anagāriyaṃ.

262. Đức vua đã yêu cầu thứ lỗi về việc ấy và đã trao vương quốc rộng lớn lại cho ta. Ta đây, sau khi phá tan sự mê muội, đã xuất gia theo hạnh không nhà.

263. Na me dessaṃ mahārajjaṃ kāmabhogo na dessiyo
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā rajjaṃ pariccajinti.

263. Vương quốc rộng lớn không có bị ta ghét bỏ, sự hưởng thụ các dục không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã từ bỏ vương quốc.

Somanassacariyaṃ dutiyaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Somanassa là phần thứ nhì.

--ooOoo--

3. Ayogharacariyaṃ
3. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Ayoghara:
  [6]

***

264. Punāparaṃ yadā homi kāsirājassa atrajo
ayogharamhi saṃvaḍḍho nāmenāsi ayogharo.

264. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là người con trai của đức vua Kāsi, ta đã lớn lên trong căn nhà bằng sắt [7] và đã được gọi với tên là Ayoghara.

265. Dukkhena jīvito laddho sampīḷe patiposito
ajjeva putta paṭipajja kevalaṃ vasudhaṃ imaṃ.

265. (Vua cha đã phán rằng:) “Này con, mạng sống của con được tiếp nhận một cách khó khăn, được nuôi dưỡng ở nơi bực bội. Ngay chính ngày hôm nay, con hãy cai quản toàn thể trái đất này

266. Saraṭṭhakaṃ sanigamaṃ sajanaṃ vanditvā khattiyaṃ
añjalimpaggahetvāna idaṃ vacanamabruviṃ.

266. cùng với cư dân trong xứ sở, luôn cả phố chợ, và loài người nữa.” Sau khi đảnh lễ vị Sát-đế-lỵ, ta đã chắp tay lên và đã nói lời này:

267. Ye keci mahiyā sattā hīnamukkaṭṭhamajjhimā
nirārakkhā sake gehe vaḍḍhanti saha ñātihi.

267. “Bất cứ chúng sanh nào ở trên trái đất, dầu kém cỏi, cao quý, hoặc trung bình, lớn lên trong nhà của chính họ cùng với các thân quyến không cần sự bảo vệ.”

268. Idaṃ loke uttariyaṃ sampīḷe mama posanaṃ
ayogharamhi saṃvaḍḍho appabhe’candasūriye.

268. (Rồi ta đã suy nghĩ rằng:) “Sự nuôi dưỡng này của ta ở trong nơi bực bội là hy hữu ở trên thế gian. Ta đã được lớn lên trong căn nhà bằng sắt thiếu hẳn ánh sáng mặt trăng và mặt trời.

269. Pūtikuṇapasampuṇṇā muccitvā mātukucchito
tato ghoratare dukkhe puna pakkhitto ayoghare.

269. Có được tấm thân hối thối này sau khi rời khỏi bụng mẹ, từ đó ta lại bị ném vào căn nhà sắt khổ sở và kinh hãi hơn một lần nữa.

270. Yadihaṃ tādisaṃ patvā dukkhaṃ paramadāruṇaṃ
rajjesu yadi rañjāmi pāpānaṃ uttamo siyā.

270. Nếu sau khi đã đạt đến khổ đau vô cùng ghê rợn như thế ấy, nếu ta còn thích thú trong vương quyền thì ta là kẻ tồi tệ nhất trong số những kẻ ác xấu.”

271. Ukkaṇṭhitomhi kāyena rajjenamhi anatthiko
nibbutiṃ pariyesissaṃ yattha maccu na maddiye.

271. Ta nhàm chán xác thân, ta không mong muốn vương quyền, ta sẽ tầm cầu sự tịch diệt Niết-bàn là nơi tử thần không thể đày đọa.”

272. Evāhaṃ cintayitvāna viravantaṃ mahājanaṃ
nāgova bandhanaṃ chetvā pāvisiṃ kānanaṃ vanaṃ.

272. Trong lúc đó đám đông đang kêu gào, ta đã suy nghĩ như vậy và đã đi vào khu rừng rậm, giống như con voi đã giật đứt xiềng xích.

273. Mātā pitā na me dessā napi me dessaṃ mahāyasaṃ
nabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā rajjaṃ pariccajinti.

273. Mẹ cha không có bị ta ghét bỏ, danh vọng lớn lao cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã từ bỏ vương quốc.

Ayogharacariyaṃ tatiyaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Ayoghara là phần thứ ba.

--ooOoo--

4. Bhisacariyaṃ
4. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Bhisa:
[8]

***

274. Punāparaṃ yadā homi kāsīnaṃ puravaruttame
bhaginī bhātaro satta nibbattā sotthiye kule.

274. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta ở tại kinh thành của xứ Kāsi, (ta có) một người em gái và bảy người em trai được sanh ra trong gia đình quý phái (dòng Bà-la-môn).

275. Etesaṃ pubbajo āsiṃ hirisukkamupāgato
bhavaṃ disvāna bhayato nekkhammābhirato ahaṃ.

275. Trong số những người này, ta đã được sanh ra trước tiên, đạt được pháp trong sạch là sự khiêm tốn. Sau khi nhận thấy sự hiện hữu là nguy hại, ta đã thỏa thích trong việc xuất gia.

276. Mātā pitūhi pahitā sahāyā ekamānasā
kāmehi maṃ nimantenti kulavaṃsaṃ dharehīti.

276. Các thân hữu, được mẹ và cha nhắn đến, đồng tâm mời mọc (ta) bằng các dục lạc: “Bạn hãy duy trì dòng dõi gia tộc.”

277. Yaṃ tesaṃ vacanaṃ vuttaṃ gihī dhamme sukhāvahaṃ
tamme ahosi kaṭhinaṃ tattaphālasamaṃ viya.

277. Lời nào của những người ấy được nói ra về việc đem lại lạc thú trong cuộc sống gia đình, điều ấy đối với ta được xem tương tợ như lưỡi cày đã được nung đỏ, thô thiển.

278. Te maṃ tadā ukkhipantaṃ pucchiṃsu patthitaṃ mama
Kiṃ tvaṃ patthayasī? Samma ! Yadi kāme na bhuñjasi.

278. Khi ấy, họ đã hỏi ta, kẻ từ khước (cuộc sống gia đình), về nguyện vọng của ta: “Này bạn, nếu bạn không hưởng thục các dục thì bạn mong muốn điều gì?

279. Tesāhaṃ evamavacaṃ atthakāmo hitesinaṃ
nāhaṃ patthemi gihībhāvaṃ nekkhammābhirato ahaṃ.

279. Là người mong muốn điều tốt đẹp, ta đã nói với họ, những người đang tầm cầu lợi ích (cho ta) rằng: “Tôi không mong muốn trạng thái người tại gia, tôi thỏa thích trong sự xuất ly.”

280. Te mayhaṃ vacanaṃ sutvā pitu mātu ca sāvayuṃ
mātā pitā evamāhu sabbepi pabbajāma bho.

280. Sau khi lắng nghe lời nói của ta, họ đã thuật lại cho cha mẹ (ta). Mẹ cha ta đã nói như vầy: “Này quí vị, tất cả chúng tôi cũng xuất gia.”

281. Ubho mātā pitā mayhaṃ bhaginī ca satta bhātaro
amitaṃ dhanaṃ chaḍḍhayitvā pāvisimhā mahāvananti.

281. Cả hai mẹ cha của ta, người em gái, và bảy em trai đã buông bỏ của cải vô số rồi đi vào trong khu rừng lớn.

Bhisacariyaṃ catutthaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Bhisa là phần thứ tư.

--ooOoo--

5. Soṇapaṇḍitacariyaṃ
5. Hạnh của vị Hiền Trí Soṇa:
[9]

***

282. Punāparaṃ yadā homi nagare brahmavaḍḍhane
tattha kulavare seṭṭhe mahāsāḷe ajāyahaṃ.

282. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta sống ở thành phố Brahma-vaḍḍhana, tại nơi ấy ta đã được sinh ra trong gia đình cao quý, ưu tú, vô cùng giàu có.

283. Tadāpi lokaṃ disvāna andhabhūtaṃ tamotthataṃ
cittaṃ bhavato patikuṭati tuttavegahataṃ viya.

283. Khi ấy, ta cũng đã nhận thấy thế gian là bị mù quáng, bị bao phủ bởi bóng tối. Tâm (ta) chối từ sự hiện hữu như thể bị châm chích thô bạo bởi cây gậy nhọn.

284. Disvāna vividhaṃ pāpaṃ evaṃ cintesahaṃ tadā
kadāhaṃ gehā nikkhamma pavisissāmi kānanaṃ.

284. Sau khi nhận thấy sự xấu xa dưới nhiều hình thức khác nhau, ta đã suy nghĩ như vầy: “Lúc nào ta sẽ lìa bỏ gia đình, ta sẽ đi vào rừng?

285. Tadāpi maṃ nimantiṃsu kāmabhogehi ñātayo
tesampi chandamācikkhiṃ mānimantetha tehi maṃ.

285. Cũng vào khi ấy, các thân quyến đã mời mọc ta với các sự thọ hưởng về dục lạc, ta cũng đã nói cho những người ấy về ước muốn (của ta) rằng: “Xin các vị chớ có mời mọc ta bằng những thứ ấy.”

286. Yo me kaṇiṭṭhako bhātā nandonāmāsi paṇḍito
sopi maṃ anusikkhanto pabbajjaṃ samarocayī.

286. Em trai của ta tên là Nanda là bậc trí tuệ. Vị ấy, trong khi học tập theo ta, cũng đã thích thú với việc xuất gia.

287. Ahaṃ soṇo ca nando ca ubho mātā pitā mama
tadāpi bhoge chaḍḍetvā pāvisimhā mahāvananti.

287. Khi ấy, ta Soṇa và Nanda cùng với cả hai cha mẹ của ta cũng đã buông bỏ của cải vô số rồi đi vào trong khu rừng lớn.

Soṇapaṇḍitacariyaṃ pañcamaṃ.
Hạnh của vị hiền triết Soṇa là phần thứ năm.

Nekkhammapāramitā niṭṭhitā.
Dứt sự toàn hảo về xuất ly.

--ooOoo--

IV. SỰ TOÀN HẢO VỀ QUYẾT ĐỊNH

IV. ADHIṬṬHĀNAPĀRAMITĀ

6. Temiyapaṇḍitacariyaṃ
6. Hạnh của vị Hiền Trí Temiya:
[10]

***

288. Punā paraṃ yadā homi kāsirājassa atrajo
mūgapakkhoti nāmena temiyoti vadanti maṃ.

288. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là người con trai của đức vua Kāsi có tên là Mūgapakkha, nhưng mọi người gọi ta là Temiya. [11]

289. Soḷasitthisahassānaṃ na vijjati pumo tadā
ahorattānaṃ accayena nibbatto ahamekako.

289. Khi ấy, mười sáu ngàn phi tần (của đức vua) không có được một người con trai (luôn cả con gái). Sau nhiều ngày đêm, chỉ mỗi một mình ta đã được sanh ra.

290. Kicchā laddhaṃ piyaṃ puttaṃ abhijātaṃ jutindharaṃ
setacchattaṃ dhārayitvāna sayane poseti maṃ pitā.

290. (Vua) cha đã nuôi dưỡng ta, người con trai yêu quý, đạt được một cách khó nhọc, đã được sanh ra vẹn toàn, có thân tâm sáng lạng, ở trên chiếc giường đã được che chiếc lọng màu trắng.

291. Niddāyamāno sayanavare pabujjhitvānahaṃ tadā
addasaṃ paṇḍaraṃ chattaṃ yenāhaṃ nirayaṃ gato.

291. Khi ấy, trong lúc đang ngủ trên chiếc giường cao quý, ta đã thức giấc và nhìn thấy chiếc lọng nhạt màu, nghĩa là ta sẽ bị đi địa ngục.

292. Sahadiṭṭhassa me chattaṃ tāso uppajji bheravo
vinicchayaṃ samāpanno kadāhaṃ imaṃ muñcissaṃ.

292. Có nỗi sợ hãi ghê gớm đã khởi lên ở ta khi được nhìn thấy chiếc lọng. Ta đã đi đến quyết định: “Ta sẽ được thoát khỏi điều này [12]bằng cách nào?[13]

293. Pubbasālohitā mayhaṃ devatā atthakāminī
sāmaṃ disvāna dukkhitaṃ tīsu ṭhānesu yojayī.

293. Có vị tiên nữ trước đây cùng huyết thống với ta [14] có lòng mong muốn điều tốt đẹp cho ta, sau khi nhìn thấy bản thân ta bị đau khổ, đã căn dặn về ba thái độ:

294. Māpaṇḍiccaṃ vibhāya bālamato bhava sabbapāṇinaṃ
sabbo jano ocināyatu evaṃ tava attho bhavissati.

294. “Chớ ra vẻ khôn ngoan, hãy là kẻ ngu si đối với tất cả chúng sanh, hãy làm cho mọi người khinh khi; như thế sẽ có sự tốt đẹp cho con.”

295. Evaṃ vuttāya’haṃ tassā idaṃ vacanamabraviṃ
karomi te naṃ vacanaṃ yaṃ tvaṃ bhaṇasi devate
atthakāmāsi me amma! Hitakāmāsi devate!

295. Khi được nói như vậy, ta đã nói với bà ấy lời này: “Bà tiên ơi, con sẽ thực hành theo lời mà bà đã chỉ bảo. Mẹ ơi, mẹ đã có lòng mong muốn điều tốt đẹp cho con. Bà tiên ơi, bà đã có mong muốn điều lợi ích cho con.”

296. Tassāhaṃ vacanaṃ sutvā sāgareva thalaṃ labhiṃ
haṭṭho saṃviggamānaso tayo aṅge adhiṭṭhahiṃ.

296. Sau khi nghe được lời nói của bà ấy, ta đã thọ nhận như là đã đến được đất liền ở giữa biển khơi. Mừng rỡ, với tâm ý phấn chấn, ta đã quyết định ba điều:

297. Mūgo ahosiṃ badhiro pakkho gati vivajjito
ete aṅge adhiṭṭhāya vassānaṃ soḷasaṃ vasiṃ.

297. Ta đã là người câm, điếc, què quặt, việc đi lại đã được từ bỏ. Ta đã quyết định các điều này và đã sống mười sáu năm.

298. Tato me hatthapāde ca jivhaṃ sotañca maddiya
anūnataṃ me passitvā kālakaṇṇīti nindisuṃ.

298. Do đó, họ đã xoa bóp tay chân, lưỡi và mắt của ta. Sau khi nhận thấy không có sự khiếm khuyết ở ta, họ đã chê bai là “Kẻ bất hạnh.”

299. Tato jānapadā sabbe senāpati purohitā
sabbe ekamanā hutvā chaḍḍanaṃ anumodiṃsu.

299. Sau đó, tất cả dân chúng trong xứ sở, các tướng lãnh quân đội, các viên quan tế tự, tất cả đã nhất trí bằng lòng việc truất phế.

300. Sohaṃ tesaṃ matiṃ sutvā haṭṭho saṃviggamānaso
yassatthāya tapo ciṇṇo so me attho samijjhatha.

300. Sau khi nghe ý kiến của những người ấy, ta đây đã trở nên mừng rỡ, có tâm trí phấn chấn. Sự khổ hạnh đã được thể hiện (bởi ta) vì mục đích nào thì mục đích ấy của ta đã được thành công.

301. Nahāpetvā anulimpitvā veṭhetvā rājaveṭhanaṃ
chattena abhisiñcitvā kāresuṃ purapadakkhiṇaṃ.

301. Sau khi đã tắm rửa, xức dầu, đội lên vương miện, làm lễ rưới nước (cho ta), rồi với chiếc lọng che họ đã tiến hành việc đi nhiễu vòng quanh thành phố.

302. Sattāhaṃ dhārayitvāna uggate ravimaṇḍale
rathena maṃ nīharitvā sārathī vanamupāgamī.

302. Sau khi đã duy trì chiếc lọng trong bảy ngày, đến lúc vầng sáng của mặt trời hiện ra, người đánh xe đã đưa ta ra khỏi (thành phố) bằng chiếc xe ngựa rồi đi về phía khu rừng.

303. Ekokāse rathaṃ katvā sajjassaṃ hatthamuñcito
sārathī khaṇatī kāsuṃ nikhātuṃ paṭhaviyā mamaṃ.

303. Sau khi dừng chiếc xe ở một khoảng trống, người đánh xe đã buộc ngựa để được rảnh tay rồi đã đào cái hố để chôn ta ở trong lòng đất.

304. Adhiṭṭhitamadhiṭṭhānaṃ tajjento vividhakāraṇā
nābhindiṃ vatamadhiṭṭhānaṃ bodhiyā yeva kāraṇā.

304. Trong khi nhiều nguyên nhân đủ các loại đang đe dọa điều quyết tâm đã được khẳng định, ta đã không làm đổ vỡ việc tuân thủ đã được quyết định với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.

305. Mātā pitā na me dessā attā me na ca dessiyo
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā vatamadhiṭṭhahiṃ.

305. Mẹ cha không có bị ta ghét bỏ, bản thân cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã quyết định việc tuân thủ.

306. Ete aṅge adhiṭṭhāya vassāni soḷasiṃ vasiṃ.
adhiṭṭhānena samo natthi esā me adhiṭṭhānapāramīti.

306. Sau khi quyết định các điều này, ta đã sống trong mười sáu năm. Không có ai bằng (ta) về sự quyết định, điều này là sự toàn hảo về quyết định của ta.

Temiyacariyaṃ chaṭṭhamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Temiya là phần thứ sáu.

Adhiṭṭhānapāramitā niṭṭhitā.
Dứt sự toàn hảo về quyết định.

--ooOoo--

V. SỰ TOÀN HẢO VỀ CHÂN THẬT

V. SACCAPĀRAMITĀ
7. Kapirājacariyaṃ
7. Hạnh của con Khỉ Chúa:
[15]

***

307. Yadā ahaṃ kapi āsiṃ nadī kule darīsaye
pīḷito suṃsumārena gamanaṃ na labhāmihaṃ.

307. Vào lúc ta là con khỉ sống trong hang ở bờ sông, ta đã bị đe dọa bởi con cá sấu nên không đạt được việc ra đi.

308. Yamhokāse ahaṃ ṭhatvā orapāraṃ patāmahaṃ
tatthacchi sattu vadhako kumbhīlo luddadassano.

308. Tại địa điểm ta thường đứng ở bờ bên này rồi nhảy qua bờ bên kia, tại chỗ ấy có con cá sấu là kẻ thù, là kẻ sát thủ, có dáng vóc hung tợn.

309. Somaṃ asaṃsi ehīti ahamemīti taṃ vadiṃ
tassa matthakamakkamma parakule patiṭṭhahiṃ.

309. Con cá sấu đã thông báo với ta rằng: “Cứ việc đi đến.” Ta đã nói với nó rằng: “Tôi đang đi đến,” rồi đã bước lên đầu của nó và đã đứng vững bờ bên kia.

310. Na tassa alikaṃ bhaṇitaṃ yathā vācaṃ akāsahaṃ
saccena me samo natthi esā me sacca pāramīti.

310. Điều đã được nói với con cá sấu không phải là không đúng sự thật (vì) ta đã hành động đúng theo lời nói. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.

Kapirājacariyaṃ sattamaṃ.
 Hạnh của con khỉ chúa là phần thứ bảy.

--ooOoo--

8. Saccatāpasacariyaṃ
8. Hạnh của Đạo Sĩ Sacca:

***

311. Punāparaṃ yadā homi tāpaso saccasavhayo
saccena lokaṃ pālesiṃ samaggaṃ janamakāsahanti.

311. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là đạo sĩ khổ hạnh tên gọi Sacca. Ta đã hộ trì thế gian bằng sự chân thật; ta đã làm cho mọi người hợp nhất.

Saccapaṇḍitacariyaṃ aṭṭhamaṃ.
Hạnh của đạo sĩ Sacca là phần thứ tám.

--ooOoo--

9. Vaṭṭapotakacariyaṃ
9. Hạnh của Chim Cút Con:
[16]

***

312. Punāparaṃ yadā homi magadhe vaṭṭapotako
ajātapakkho taruṇo maṃsapesi kulāvake.

312. Vào một thời điểm khác nữa, khi ở tại Magadha, ta là con chim cút con, cánh chưa được mọc, còn non nớt, (như) là miếng thịt ở trong tổ.

313. Mukhatuṇḍake nāharitvā mātā posayatī mamaṃ
tassā phassena jīvāmi natthi me kāyikaṃ balaṃ.

313. (Chim) mẹ tha (mồi) lại ở trong mỏ và nuôi dưỡng ta. Ta sống còn do sự tiếp xúc với chim mẹ; ta không có sức mạnh ở thân.

314. Saṃvacchare gimhasamaye davaḍāho padippati
upagacchati amhākaṃ pāvako kaṇhavattanī.

314. Trong năm vào mùa nóng, có nạn cháy rừng bộc phát. Ngọn lửa cuộn khói đen tiến về hướng chúng tôi.

315. Dhūmadhūmaṃ janitvevaṃ saddāyanto mahāsikhī
anupubbena jhāpento aggī mamamupāgami.

315. Ngọn lửa lớn lao trong lúc gào thét đã tạo ra luồng khói này cuộn khói nọ. Trong khi lần lượt làm phát cháy, ngọn lửa đã tiến đến gần ta.

316. Aggivegabhayā bhītā tasitā mātā pitā mama
kulāvake maṃ chaḍḍhetvā attānaṃ parimocayuṃ.

316. Lo sợ vì sự ồ ạt của ngọn lửa, mẹ cha của ta trở nên kinh hãi, hoảng hốt, đã bỏ rơi ta lại ở trong tổ và đã giải thoát cho bản thân.

317. Pāde pakkhe pajahāmi natthi me kāyikaṃ balaṃ
so’haṃ agatiko tattha evaṃ cintesahaṃ tadā.

317. Ta đã ra sức hai chân, hai cánh; ta không có sức mạnh ở thân. Ta đây không đi được. Khi ấy tại nơi ấy, ta đã suy nghĩ như vầy:

318. Yesāhaṃ upadhāveyyaṃ bhīto tasitavedhito
te maṃ ohāya pakkantā kathaṃ me ajja kātave.

318. “Bị kinh hãi, hoảng hốt, run sợ, ta có thể chạy đến gần cha mẹ, nhưng họ đã bỏ rơi ta và tẩu thoát. Ta nên hành động như thế nào ngày hôm nay?

319. Atthi loke sīlaguṇo saccaṃ soceyyanuddayā
tena saccena kāhāmi saccakiriyamuttamaṃ.

319. Đức hạnh của giới, sự chân thật, sự trong sạch, lòng bi mẫn hiện hữu ở trên đời; với sự chân thật ấy, ta có thể hiện hành động chân thật tối thắng.”

320. Āvajjetvā dhammabalaṃ saritvā pubbako jine
saccabalamavassāya saccakiriyamakāsahaṃ.

320. Ta đã hướng về sức mạnh của Giáo Pháp, tưởng nhớ đến các đấng Chiến Thắng [17] trước đây, và nương tựa vào sức mạnh của sự chân thật, ta đã thể hiện hành động chân thật rằng:

321. Santi pakkhā apatanā santi pādā avañcanā3
mātā pitā ca nikkhantā jātaveda paṭikkama.

321. “Có cánh không thể bay, có chân không thể đi. Mẹ cha đã lìa khỏi, lửa ơi hãy lui đi.”

322. Saha sacce kataṃ mayhaṃ mahā pajjalito sikhī
vajjesi soḷasa karīsāni udakampatvā yathā sikhī
saccena me samo natthi esā me saccapāramīti.

322. Với sự chân thật đã được thực hiện bởi ta, ngọn lửa cháy rực to lớn đã lùi trở lại mười sáu karīsa, [18] giống như ngọn lửa đã gặp phải nước. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.

Vaṭṭapotakacariyaṃ navamaṃ.
Hạnh của chim cút con là phần thứ chín.

--ooOoo--

10. Maccharājacariyaṃ
10. Hạnh của Vua Cá:
[19]

***

323. Punāparaṃ yadā homi maccharājā mahāsare
uṇhe suriyasantāpe sare udakaṃ khīyatha.

323. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vua của loài cá ở trong cái hồ rộng lớn. Và nước ở trong hồ bị khô cạn vào mùa nắng, dưới sự đốt cháy của ánh mặt trời.

324. Tato kākā ca gijjhā ca bakā kuḷalasenakā
bhakkhayantī divā rattiṃ macche upanisīdiya.

324. Do đó, các con quạ, các con diều hâu, các con cò, các con chim ưng và chim ó đã đáp xuống, ăn các con cá ban ngày lẫn ban đêm. [20]

325. Evaṃ cintesahaṃ tattha saha ñātīhi pīḷito
kena nukho upāyena ñāti dukkhā pamocaye.

325. Tại nơi ấy, cùng với các thân quyến ta đã bị áp bức, và ta đã suy nghĩ như vầy: “Vậy thì bằng cách nào để ta có thể giải thoát cho thân quyến khỏi khổ đau?

326. Vicintayitvā dhammatthaṃ saccaṃ addasa passayaṃ
sacce ṭhatvā pamocesiṃ ñātīnaṃ taṃ atikkhayaṃ.

326. Sau khi xem xét ý nghĩa của các pháp, ta đã nhận ra sự chân thật là nơi nương tựa. Căn cứ vào sự chân thật, ta đã cởi bỏ thảm họa bị diệt chủng ấy cho các thân quyến.

327. Anussaritvā saddhammaṃ paramatthaṃ vicintayaṃ
akāsiṃ saccakiriyaṃ yaṃ loke dhuvasassataṃ.

327. Sau khi hồi tưởng về thiện pháp, ta đã suy nghiệm về chân lý tuyệt đối. Ta đã thể hiện hành động chân thật là pháp bền vững và thường còn ở thế gian rằng:

328. Yato sarāmi attānaṃ yato pattosmi viññutaṃ
nābhijānāmi sañcicca ekapāṇaṃ vihiṃsitaṃ
etena saccavajjena pajjunno abhivassatu.

328. “Kể từ lúc ta nhớ được về bản thân, kể từ khi ta đạt đến sự hiểu biết, ta không biết đến việc đã cố ý hãm hại dầu chỉ một sanh mạng. [21] Do lời nói chân thật này, xin Thần Mây [22]hãy đổ mưa xuống.

329. Abhitthanaya pajjunna nidhiṃ kākassa nāsaya
kākaṃ sokāya rundhehi macche sokā pamocaya.

329. Hỡi Thần Mây, hãy vang lên tiếng sấm, hãy làm tiêu tan kho lương dự trữ của loài quạ, [23] hãy vây hãm loài quạ bằng sự buồn rầu, hãy giải thoát loài cá khỏi nỗi phiền muộn.”

330. Sahakate saccavare pajjunto cābhigajjiya
thalaṃ ninnañca pūrento khaṇena abhivassatha.

330. Đồng lúc với sự chân thật cao quý được thể hiện, Thần Mây đã gầm lên tiếng sấm và trong giây lát đã đổ mưa xuống, làm tràn ngập vùng đất liền và trũng thấp.

331. Evarūpaṃ saccavaraṃ katvā viriyamuttamaṃ
vassāpesiṃ mahāmeghaṃ saccatejabalassito
saccena me samo natthi esā me saccapāramīti.

331. Sau khi thể hiện sự tinh tấn tột đỉnh là pháp chân thật cao quý có hình thức như thế, (có sự) tin cậy vào năng lực và uy quyền của sự chân thật, ta đã làm cho đám mây lớn đổ mưa xuống. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.

Maccharājacariyaṃ dasamaṃ.
Hạnh của vua cá là phần thứ mười.

--ooOoo--

11. Kaṇhadīpāyanacariyaṃ
11. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Kaṇhadīpāyana:
[24]

***

332. Punāparaṃ yadā homi kaṇhadīpāyano isī
paro paññāsavassāni anabhirato cariṃ ahaṃ.

332. Vào một thời điểm khác nữa, khi là vị ẩn sĩ Kaṇhadīpāyana, ta đã sống không được hoan hỷ hơn năm mươi năm.

333. Na koci etaṃ jānāti anabhiratimanaṃ mama
ahaṃ kassaci nācikkhiṃ arati me carati mānase.

333. Không ai biết tâm ý không hoan hỷ này của ta. Ta đã không nói ra với ai cả và sự không hoan hỷ diễn tiến ở trong tâm ý của ta.

334. Sabrahmacārī maṇḍabyo sahāyo me mahā isī
pubbakammasamāyutto sūlamāropaṇaṃ labhī.

334. Bà-la-môn Maṇḍabya, bạn của ta, là một vị đại ẩn sĩ đã bị thọ lãnh (hành phạt) cắm cọc nhọn do trả quả của nghiệp quá khứ. [25]

335. Tamahaṃ upaṭṭhahitvāna ārogyamanupāpayiṃ
āpucchitvāna āgañchiṃ yaṃ mayhaṃ sakamassamaṃ.

335. Ta đã chăm sóc và đã phục hồi sức khỏe cho vị ấy. Sau khi cáo từ, ta đã trở về lại chốn ẩn cư của mình.

336. Sahāyo brāhmaṇo mayhaṃ bhariyaṃ ādāya puttakaṃ
tayo janā samāgantvā āgañchuṃ pāhunāgataṃ.

336. Người bạn Bà-la-môn của ta đã đưa vợ và đứa con trai nhỏ đến. Ba người cùng đi và đã đi đến với tư thế của những người khách.

337. Sammodamāno tehi saha nisinno sakamassame
dārako vaṭṭamanukkhipaṃ āsivisamakopayī.

337. Trong lúc ta đang ngồi tại chốn ẩn cư của mình chuyện trò với những người ấy, đứa bé trai đã ném trái banh và làm cho làm con rắn có nọc độc giận dữ.

338. Tato so vaṭṭagataṃ maggaṃ anvesanto kumārako
āsivisassa hatthena uttamaṅgaṃ parāmasī.

338. Sau đó, trong lúc dõi theo lộ trình di chuyển của trái banh, đứa bé trai ấy đã chạm bàn tay vào đầu của con rắn độc.

339. Tassa āmasane kuddho sappo visabalassito
kupito paramakopena aḍaṃsi dārakaṃ khaṇe.

339. Do sự đụng chạm của đứa bé, con rắn đã trở nên giận dữ. Ỷ lại vào sức mạnh của nọc độc, bị bực bội với sự bực bội cùng tột, con rắn ngay lập tức đã cắn đứa bé.

340. Saha daṭṭho āsivisena dārako papati bhūmiyaṃ
tenāhaṃ dukkhito āsiṃ mama vāhasi taṃ dukkhaṃ.

340. Khi bị cắn bởi con rắn độc, đứa bé đã ngã xuống ở trên nền đất. Vì điều ấy, ta đã trở nên đau buồn; nỗi buồn đau ấy đã tác động đến ta.

341. Tyāhaṃ assāsayitvāna dukkhite sokasallite
paṭhamaṃ ākāsiṃ kiriyaṃ aggaṃ saccaṃ varuttamaṃ.

341. Sau khi an ủi họ (là những người) đang bị đau khổ, đang bị mũi tên sầu muộn, ta đã thể hiện hành động chân thật tột đỉnh cao quý tối thượng lần đầu tiên rằng:

342. Sattāhamevāhaṃ pasannacitto
 puññatthiko acariṃ brahmacariyaṃ
athāparaṃ yañcaritaṃ mamayidaṃ
 vassāni paññāsa samādhikāni.

342. “Là người mong mỏi phước thiện, ta đã thực hành Phạm hạnh với tâm tín thành chỉ được bảy ngày. Từ đó về sau, Phạm hạnh của ta là năm mươi năm và thêm nữa.

343. Akāmako vāhi ahaṃ carāmi etena saccena suvatthi hoti
hataṃ visaṃ jīvatu yaññadatto.

343. Ta thực hành (Phạm hạnh) không có nhiệt tình, chỉ qua ngày. Do lời nói chân thật này, hãy có được sự tốt lành, chất độc hãy được tiêu trừ, và Yaññadatta [26] hãy sống.”

344. Saha sacce kate mayhaṃ visavegena vedhito
abujjhitvāna vuṭṭhāsi ārogo cāsi māṇavo
saccena me samo natthi esā me saccapāramīti.

344. Với sự chân thật của ta đã được thể hiện, đứa bé Bà-la-môn bị run rẩy bởi sức mạnh của nọc độc đã được tỉnh lại, đã đứng lên, không tật bệnh. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.

Kaṇhadīpāyanacariyaṃ ekādasamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Kaṇhadīpāyana là phần thứ mười một.

--ooOoo--

12. Sutasomacariyaṃ
12. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Sutasoma:
[27]

***

345. Punāparaṃ yadā homi sutasomo mahīpatī
gahito porisādena brāhmaṇe saṅgaraṃ sariṃ.

345. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là đức vua Sutasoma. Bị bắt giữ bởi Porisāda (kẻ ăn thịt người), ta đã nhớ lại lời hứa với vị Bà-la-môn.

346. Khattiyānaṃ ekasataṃ āvuṇitvā karatale
ete sampamilāpetvā yaññatthe upanayī mamaṃ.

346. Sau khi xỏ dây ở lòng bàn tay của một trăm vị Sát-đế-lỵ rồi (treo lên) phơi khô họ, kẻ ấy đã đưa ta đi nhằm mục đích tế thần.

347. Apucchi maṃ porisādo kintvaṃ icchasi nissajaṃ.
yathāmati te kāhāmi yadi me tvaṃ punehisi.

347. Kẻ ăn thịt người đã hỏi ta rằng: “Có phải ngài mong muốn việc cởi trói? Ta sẽ làm theo ý thích của ngài nếu ngài còn quay trở lại.”

348. Tassa paṭissuṇitvāna paṇhe āgamanaṃ mama
upāgantvā puraṃ rammaṃ rajjaṃ nīyādayiṃ tadā.

348. Vào lúc ấy, sau khi đã hứa hẹn đối với câu hỏi của kẻ (ăn thịt người) ấy về việc trở lại của ta, ta đã đi đến thành phố tráng lệ và đã chối từ vương quốc.

349. Anussaritvā saddhammaṃ pubbakaṃ jinasevitaṃ
brāhmaṇassa dhanaṃ datvā porisādaṃ upāgamiṃ.

349. Sau khi tưởng nhớ đến Chánh Pháp đã được thực hành bởi các đấng Chiến Thắng thời quá khứ, ta đã trao lại tài sản cho vị Bà-la-môn và đã đi đến gặp kẻ ăn thịt người.

350. Natthi me saṃsayo tattha ghātayissati vā na vā
saccavācānurakkhanto jīvitaṃ cajitumupāgamiṃ
saccena me samo natthi esā me sacca pāramīti.

350. Trong trường hợp ấy, không có sự phân vân ở ta về việc kẻ ấy sẽ giết hay không (giết). Trong khi bảo vệ lời nói chân thật, ta đã đi đến để buông bỏ mạng sống. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.

Sutasomacariyaṃ dvādasamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Sutasoma là phần thứ mười hai.

Saccapāramitā niṭṭhitā.
Dứt sự toàn hảo về chân thật.  

--ooOoo--

VI. SỰ TOÀN HẢO VỀ TỪ ÁI

 

VI. METTĀ PĀRAMITĀ
13. Suvaṇṇasāmacariyaṃ
13. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Suvaṇṇasāma:
 [28]

***

351. Sāmo yadā vane āsiṃ sakkena abhinimmito
pavane sīhabyagghehiva mettāya-m-upanāmayiṃ.

351. Vào lúc ta là Sāma ở trong khu rừng đã được (Chúa Trời) Sakka hóa hiện ra. Ở trong khu rừng lớn, ta đã rải tâm từ ái đến các loài sư tử và cọp.

352. Sīhabyagghehi dīpīhi acchehi mahisehi ca
pasadamigavarāhehi parivāretvā vane vasiṃ.

352. Ta đã sống ở trong khu rừng, được quây quần xung quanh bởi các loài sư tử, cọp, beo, gấu, trâu rừng, nai đốm, và heo rừng.

353. Na maṃ koci uttasati, napihaṃ bhāyāmi kassaci,
mettābalenupatatthaddho ramāmi pavane tadāti.

353. Không loài thú nào e ngại ta, ta cũng không sợ hãi loài thú nào. Lúc bấy giờ, được duy trì nhờ vào năng lực từ ái, ta hứng thú ở trong khu rừng lớn.

Suvaṇṇasāmacariyaṃ terasamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Suvaṇṇasāma là phần thứ mười ba.

--ooOoo--

14. Ekarājacariyaṃ
14. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Ekarāja:
[29]

***

354. Punāparaṃ yadā homi ekarājāti vissuto
paramaṃ sīlaṃ adhiṭṭhāya pasāsāmi mahāmahiṃ.

354. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta được nổi tiếng (với tên) là Ekarāja. Ta đã phát nguyện về giới hạnh tối cao và đã cai quản trái đất to lớn. [30]

355. Dasakusalakammapathe vattāmi anavasesato
catūhi saṅgahavatthūhi saṅgaṇhāmi mahājanaṃ.

355. Ta đã thực hành về thập thiện nghiệp đạo không thiếu sót. Ta đã thâu phục đám đông dân chúng bằng bốn phép tiếp độ.

356. Evaṃ me appamattassa idhaloke parattha ca
dabbaseno upāgantvā acchindanto puraṃ mamaṃ.

356. Trong lúc ta đang tinh tấn như thế vì lợi ích ở đời này và thế giới khác, Dabbasena [31] đã tiến đến chiếm cứ thành phố của ta.

357. Rājūpajīve nigame sabalaṭṭhe saraṭṭhake.
sabbaṃ hatthagataṃ katvā kāsuyaṃ nikhaṇī mamaṃ.

3357. Sau khi thực hiện việc thâu tóm tất cả gồm có nhân sự của đức vua, các thị dân, cùng với quân đội, vá các cư dân của xứ sở, (vị ấy) đã chôn ta ở trong cái hố.

58. Amaccamaṇḍalaṃ rajjaṃ phītaṃ antepuraṃ mama
acchinditvāna gahitaṃ piyaṃ puttaṃva passahaṃ
mettāya me samo natthi esā me mettāpāramīti.

358. (Vị ấy) đã chiếm đoạt quần thần, vương quốc thịnh vượng, và hậu cung của ta. Ta đã nhìn thấy chính đứa con trai yêu dấu đang bị bắt đi. Không có ai bằng (ta) về từ ái, điều này là sự toàn hảo về từ ái của ta.

Ekarājacariyaṃ cuddasamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Ekarāja là phần thứ mười bốn.

Mettā pāramitā niṭṭhitā.
 Dứt sự toàn hảo về từ ái
.

 --ooOoo--

VII. SỰ TOÀN HẢO VỀ HÀNH XẢ

VII. UPEKKHĀPĀRAMITĀ
15. Mahālomahaṃsacariyaṃ
15. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Mahālomahaṃsa:
  [32]

***

359. Susāne seyyaṃ kappemi chavaṭṭhikaṃ upanidhāya ’haṃ
gomaṇḍalā upāgantvā rūpaṃ dassenti nappakaṃ.

359. Ta nằm ở trong bãi tha ma tựa vào bộ xương người chết. Đám trẻ con nhà quê đã đi đến và đã phô diễn hình thức (khuấy rối) không phải là ít.

360. Apare gandhañca mālañca bhojanaṃ vividhaṃ bahuṃ
upāyanānyupanenti haṭṭhā saṃviggamānasā.

360. Các đứa khác mừng rỡ, với tâm trí phấn chấn, mang lại các quà tặng là hương thơm, vòng hoa, và vô số thực phẩm các loại.

361. Ye me dukkhaṃ upadahanti ye ca denti sukhaṃ mama
sabbesaṃ samako homi dayākopo na vijjati.

361. Ta đều bình đẳng đối với tất cả những ai gây ra khổ đau cho ta cũng như những ai đem lại cho ta an lạc; thương và giận đều không được biết đến.

362. Sukhadukkhatulā bhūto yasesu ayasesu ca
sabbattha samako homi esā me upekkhā pāramīti.

362. Là thăng bằng giữa an lạc và khổ đau, giữa các danh thơm và những tiếng xấu, ta đều bình đẳng trong mọi trường hợp; điều này là sự toàn hảo về hành xả của ta.

Mahālomahaṃsacariyaṃ paṇṇarasamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Mahālomahaṃsa là phần thứ mười lăm.

Upekkhā pāramitā niṭṭhitā.
Dứt sự toàn hảo về hành xả.

--ooOoo--

BÀI KỆ TÓM TẮT

UDDĀNA GĀTHĀ
***

363. Yudhañjayo somanasso ayoghara bhisenaca
soṇanando mūgapakkho kapirājā saccasavhayo.

363. Chuyện Yudhañjaya, chuyện Somanassa, chuyện Ayoghara (ngôi nhà sắt), và chuyện Bhisa, chuyện Soṇa và Nanda, chuyện Mūgapakkha (Temiya), chuyện con khỉ chúa, và chuyện vị (đạo sĩ) tên Sacca.

364. Vaṭṭako maccharājā ca kaṇhadīpāyano isi
sutasomo puna āsiṃ sāmoca ekarājahu
upekkhā pāramī āsi iti vuttaṃ mahesinā.

364. Chuyện chim cút con, và chuyện vua cá, chuyện ẩn sĩ Kaṇhadīpāyana, lại nữa ta đã là Sutasoma, Sāma, và Ekarājā, và đã có sự toàn hảo về hành xả; như thế đã được thuyết giảng bởi vị Đại Ẩn Sĩ.

365. Evaṃ bahuvidhiṃ dukkhaṃ sampatti ca bahuvidhā
bhavā bhave anubhavitvā patto sambodhimuttamaṃ.

365. Sau khi kinh nghiệm khổ đau dưới nhiều hình thức và thành công với nhiều thể loại ở lần tái sanh này đến lần tái sanh khác như thế, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng.

366. Datvā dātabbakaṃ dānaṃ sīlaṃ pūretvā asesato
nekkhamme pāramiṃ gantvā patto sambodhimuttamaṃ.

366. Sau khi bố thí những gì cần được bố thí, sau khi làm viên mãn giới hạnh không thiếu sót, sau khi đạt đến sự toàn hảo về xuất ly, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng.

367. Paṇḍite paripucchitvā viriyaṃ katvāna muttamaṃ.
khantiyā pāramiṃ gantvā patto sambodhi muttamaṃ.

367. Sau khi đã vấn hỏi các bậc hiền trí, sau khi đã thể hiện sự tinh tấn tối thượng, sau khi đã đạt đến sự toàn hảo về nhẫn nại, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng.

368. Katvā daḷhamadhiṭṭhānaṃ saccavāvānurakkhiya
mettāya pāramiṃ gantvā patto sambodhimuttamaṃ.

368. Sau khi đã thực hành sự quyết định vững chắc, sau khi đã hộ trì lời nói chân thật, sau khi đã đạt đến sự toàn hảo về từ ái, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng.

369. Lābhālābhe yasāyase sammānanāvamānane
sabbattha samako hutvā patto sambādhi muttamaṃ.

369. Ðối với lợi lộc và không lợi lộc, đối với danh thơm và tiếng xấu, đối với sự kính trọng và chê bai, sau khi đã là bình đẳng trong mọi trường hợp, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng.

370. Kosajjaṃ bhayato disvā viriyārambhañca khemato
āraddhaviriyā hotha esā buddhānusāsanī.

370. Sau khi thấy được sự biếng nhác là nguy hiểm và việc khởi sự tinh tấn là an toàn, hãy nỗ lực tinh tấn; đây là lời giáo huấn của chư Phật.

371. Vivādaṃ bhayato disvā avivādañca khemato
samaggā sakhilā hotha esā buddhānusāsanī.

371. Sau khi thấy được sự tranh cãi là nguy hiểm và sự không tranh cãi là an toàn, hãy hợp nhất, thân thiện; đây là lời giáo huấn của chư Phật.

372. Sau khi thấy được sự dễ duôi là nguy hiểm và sự không dễ duôi là an toàn, hãy tu tập đạo lộ tám chi phần; đây là lời giáo huấn của chư Phật. [33]

Yudhañjayavaggo tatiyo.
Phẩm Yudhañjaya là thứ ba.

--ooOoo--

Itthaṃ sudaṃ bhagavā attano pubbacariyaṃ sambhāvayamāno
buddhāpadāniyaṃ nāma dhammapariyāyaṃ abhāsitthāti.

Ở đây, trong khi trình bày về phẩm hạnh quá khứ của bản thân, đức Thế Tôn đã thuyết giảng về bản thể của Giáo Pháp có tên là Buddhāpadāniyaṃ. [34]

Cariyāpiṭakapāḷi samattā.
Hạnh Tạng được đầy đủ.

--ooOoo--


[1] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 460.

[2] Do tác động của sự tưởng đến vô thường, CpA. 183.

[3] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 505

[4] tattha, được giải thích là: “với sự ra lệnh của đức vua ...,” CpA. 191.

[5] Lúc ấy, đức Bồ-tát được bảy tuổi, CpA. 189.

[6] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 510.

[7] Đức Bồ-tát đã được nuôi lớn lên trong ngôi nhà lớn hoàn toàn bằng sắt được xây dựng theo hình thức gian nhà hình tứ giác nhằm mục đích ngăn ngừa các tai họa do phi nhân. Hai người anh trai của đức Bồ-tát đã bị con nữ Dạ-xoa ăn thịt lúc mới sanh ra (CpA. 195-6).

[8] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 488.

[9] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 532.

[10] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 538.

[11] Vào ngày đức Bồ-tát được sanh ra, trời đã đổ cơn mưa xuống toàn thể vương quốc Kāsi, nên được gọi là Temiya (được ầm ướt), CpA. 216-7.

[12] Là thoát khỏi vương quốc xui xẻo này, CpA. 218.

[13] Dịch theo kathāhaṃ imaṃ muñcissaṃ thay vì kadāhaṃ ...? (Khi nào ta sẽ ...?)

[14] Vị này ngự ở trên chiếc lọng ấy và là người mẹ ruột trong một kiếp sống trước đây, CpA. 218.

[15] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 57.

[16] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 35.

[17] Jina (đấng Chiến Thắng) cũng là danh hiệu đề cập đến đức Phật.

[18] karīsa là đơn vị đo diện tích.

[19] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 75.

[20] Lúc này, hồ đã bị cạn nước, các con cá nằm trong các bãi bùn rải rác đó đây, CpA. 237.

[21] Dịch theo câu văn Pāḷi ở phần cước chú.

[22] Dịch theo Chú Giải ... pajjuno megho abhivassatu, CpA. 238.

[23] Kho lương dự trữ ám chỉ đến các con cá đang vướng trong bùn. Nếu trời đổ mưa làm đầy nước trong hồ thì kho lương dự trữ của loài quạ sẽ bị tiêu tan (CpA. 238-9).

[24] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 444.

[25] Trong thời quá khứ, tiền thân vị này đã dùng một mảnh gỗ mun đâm xuyên qua con ruồi, CpA. 243.

[26] Tên của đứa bé trai, CpA. 245.

[27] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 537.

[28] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 540.

[29] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 303.

[30] Đã cai quản vùng đất rộng lớn ở vương quốc Kāsi ba trăm do-tuần, CpA. 264.

[31] Dabbasena là đức vua xứ Kosala, CpA. 264.

[32] Có thể liên quan đến Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 94.

[33] Câu kệ 372 không có ở Tạng Tích Lan, nhưng được thấy ở Tạng Thái, Miến Điện, Anh:

Pamādaṃ bhayato disvā, appamādañca khemato
bhāvethaṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ esā buddhānusāsanī
.

[34] Buddhāpadāniyaṃ là đề tài được thuyết giảng, là đề tài được trình bày có liên quan đến công hạnh khó làm thuộc thời xa xưa nghĩa là việc làm quá khứ của chư Phật, CpA. 335.

-ooOoo-