[1] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Verañjā, ở cội cây Nimba của dạ xoa Naḷeru,[1]cùng với đại chúng tỳ khưu có số lượng năm trăm vị tỳ khưu. Vị bà-la-môn Verañja đã nghe được rằng: “Chắn chắn là ngài Sa-môn Gotama, con trai dòng Sākya (Thích Ca), từ dòng dõi Sākya đã xuất gia, và hiện ngự tại Verañjā, ở cội cây Nimba của dạ xoa Naḷeru cùng với đại chúng tỳ khưu có số lượng năm trăm vị tỳ khưu. Tiếng tăm tốt đẹp về ngài Gotama ấy đã được lan rộng ra như vầy: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Vị ấy sau khi tự mình chứng ngộ thắng trí đã công bố về thế gian này tính luôn cõi chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người. Vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự. Vị ấy giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Tốt thay cho việc diện kiến các vị A-la-hán như thế ấy!”
[2] Sau đó, bà-la-môn Verañja đã đi đến gặp đức Thế Tôn. Sau khi đến, vị ấy đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, bà-la-môn Verañja đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Thưa ngài Gotama, tôi đã được nghe điều này: “Sa-môn Gotama không cung kính, hoặc không đứng dậy, hoặc không mời chỗ ngồi đến các vị bà-la-môn già cả, uy tín, lớn tuổi, sống thọ, đã đạt đến giai đoạn cuối của cuộc đời.” Thưa ngài Gotama, điều ấy thật đúng như thế bởi vì ngài Gotama không cung kính, hoặc không đứng dậy, hoặc không mời chỗ ngồi đến các vị bà-la-môn già cả, uy tín, lớn tuổi, sống thọ, đã đạt đến giai đoạn cuối của cuộc đời. Thưa ngài Gotama, điều ấy thật không thích đáng!
- Này Bà-la-môn, trong thế gian tính luôn cõi chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người, ta không thấy một ai mà ta có thể cung kính, hoặc có thể đứng dậy, hoặc có thể mời chỗ ngồi. Này Bà-la-môn, bởi vì nếu Như Lai cung kính, hoặc đứng dậy, hoặc mời chỗ ngồi người nào thì đầu của người ấy sẽ bị vỡ tan.
- Ngài Gotama không biết về phẩm chất (arasarūpo)!
- Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama không biết về phẩm chất.” Này Bà-la-môn, các phẩm chất về sắc, các phẩm chất về thinh, các phẩm chất về hương, các phẩm chất về vị, các phẩm chất về xúc, đối với Như Lai các việc ấy đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama không biết về phẩm chất;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.[2]
- Ngài Gotama không biết thưởng thức (Nibbhogo)!
- Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama không biết thưởng thức.” Này Bà-la-môn, các sự thưởng thức về sắc, các sự thưởng thức về thinh, các sự thưởng thức về hương, các sự thưởng thức về vị, các sự thưởng thức về xúc, đối với Như Lai các việc ấy đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama không biết thưởng thức;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.
- Ngài Gotama thuyết về không hành động (akiriyavādo)!
- Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama thuyết về không hành động.” Này Bà-la-môn, bởi vì ta thuyết về không hành động đối với việc làm ác của thân, đối với lời nói ác của miệng, đối với suy nghĩ ác của ý; ta thuyết về không hành động của các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama thuyết về không hành động;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.
- Ngài Gotama thuyết về đoạn diệt (ucchedavādo)![3]
- Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama thuyết về đoạn diệt.” Này Bà-la-môn, bởi vì ta thuyết về sự đoạn diệt của luyến ái, của sân hận, của si mê; ta thuyết về sự đoạn diệt của các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama thuyết về đoạn diệt;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.
- Ngài Gotama có sự ghê tởm (jegucchī)!
- Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama có sự ghê tởm.” Này Bà-la-môn, bởi vì ta ghê tởm với việc làm ác của thân, với lời nói ác của miệng, với suy nghĩ ác của ý; ta ghê tởm trong sự tạo thành các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama có sự ghê tởm;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.
- Ngài Gotama là người cách ly (venayiko)!
- Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người cách ly.” Này Bà-la-môn, bởi vì ta thuyết về pháp đưa đến sự cách ly đối với luyến ái, đối với sân, đối với si; ta thuyết về pháp đưa đến sự cách ly đối với các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người cách ly;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.
- Ngài Gotama là người thiêu đốt (tapassī)!
- Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thiêu đốt.” Này Bà-la-môn, ta thuyết rằng các pháp ác và bất thiện tức là việc làm ác của thân, lời nói ác của miệng, và suy nghĩ ác của ý cần được thiêu đốt. Này Bà-la-môn, người nào có các pháp ác và bất thiện cần được thiêu đốt đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai; ta gọi người ấy là: “Người thiêu đốt.” Này Bà-la-môn, các pháp ác và bất thiện cần được thiêu đốt của Như Lai đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thiêu đốt;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.
- Ngài Gotama là người thoát khỏi bàothai (apagabbho)!
- Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thoát khỏi bào thai.” Này Bà-la-môn, sự sanh vào bào thai trong ngày vị lai của người nào, tức là sự tái sanh và hiện hữu lần nữa đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai; ta gọi người ấy là: “Người thoát khỏi bào thai.” Này Bà-la-môn, sự sanh vào bào thai trong ngày vị lai của Như Lai, tức là sự tái sanh và hiện hữu lần nữa đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thoát khỏi bào thai;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.
[3] Này Bà-la-môn, cũng giống như con gà mái có được tám, hoặc mười, hoặc mười hai quả trứng. Nếu con gà mái nằm lên trên chúng đúng cách, ủ nóng đều đúng cách, ấp đúng cách, và trong số các con gà con mới nở ấy, con nào dùng vuốt của móng chân hoặc mỏ phá vỡ vỏ trứng và nở ra an toàn trước tiên, thì điều nên nói về con gà con ấy là thế nào, lớn nhất hay nhỏ nhất?
- Thưa ngài Gotama, nên gọi nó là “Con lớn nhất” bởi vì nó lớn nhất trong bầy.
- Này Bà-la-môn, cũng tương tợ như thế trong số chúng sanh sống trong vô minh (ví như) đang ở trong quả trứng và bị trùm kín lại, ta là người duy nhất đã phá vỡ vỏ trứng vô minh và chứng đắc quả vị Chánh Đẳng Giác vô thượng ở trên đời. Này Bà-la-môn, ta đây là người đứng đầu và cao cả nhất của thế gian. Này Bà-la-môn, hơn nữa ta đã có sự nỗ lực được thành tựu không bị thối giảm, có niệm được thiết lập không bị xao lãng, có thân được khinh an không còn rạo rực, có tâm được an trụ tập trung. Này Bà-la-môn, quả vậy sau khi đã tách ly khỏi các dục và tách ly khỏi các pháp bất thiện, ta đây đã chứng đạt và trú thiền thứ nhất với hỷ và lạc sanh lên do tách ly (khỏi các triền cái), có tầm, có tứ. Do sự đình chỉ tầm và tứ, ta đã chứng đạt và trú thiền thứ hai với nội phần an tỉnh, tâm được chuyên nhất, có hỷ và lạc sanh lên do định, không tầm, không tứ. Và do sự không còn tham muốn ở hỷ, với xả ta đã trú, có niệm và tỉnh giác ta đã chứng nghiệm trạng thái lạc bằng thân, đó là điều mà các bậc Thánh nói rằng: “Vị ấy có xả, có niệm, có sự trú vào lạc;” ta đã chứng đạt và trú thiền thứ ba. Do sự từ bỏ lạc, do sự từ bỏ khổ (của thân), do sự trừ diệt hỷ và ưu ở tâm (đã có) trước đây, ta đã chứng đạt và trú thiền thứ tư với sự thanh tịnh của xả và niệm, không khổ không lạc.
Trong khi tâm được an trụ, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, lìa khỏi phiền não, nhu thuận, có thể sử dụng, ổn định, đạt đến trạng thái vững chắc như thế, ta đây đã hướng dẫn tâm đến trí tuệ ghi nhớ về các kiếp sống trước (Túc Mạng Minh). Ta nhớ lại nhiều kiếp sống trước như là một lần sanh, hai lần sanh, ba lần sanh, bốn lần sanh, năm lần sanh, mười lần sanh, hai mươi lần sanh, ba mươi lần sanh, bốn mươi lần sanh, năm mươi lần sanh, một trăm lần sanh, một ngàn lần sanh, một trăm ngàn lần sanh, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp: “Vào kiếp sống ấy, ta đã có tên như vầy, dòng họ như vầy, giai cấp như vầy, thức ăn như vầy, kinh nghiệm khổ và lạc như vầy, có tuổi thọ như vầy. Từ chỗ ấy, ta đây đã chết đi rồi đã sanh lên tại chỗ kia. Ở nơi kia, ta đã có tên như vầy, dòng họ như vầy, giai cấp như vầy, thức ăn như vầy, kinh nghiệm khổ và lạc như vầy, có tuổi thọ như vầy. Từ nơi kia, ta đây đã chết đi rồi đã sanh lên tại nơi này.” Như thế, ta nhớ lại nhiều kiếp sống trước với các nét cá biệt và đại cương. Này Bà-la-môn, quả vậy vào canh đầu của đêm ta đã chứng đạt Minh thứ nhất này, ta đã diệt tận vô minh và làm cho minh sanh khởi, ta đã diệt tận bóng tối và làm cho ánh sáng sanh khởi. Như thế ấy là điều (ta đã thành đạt) trong lúc ta sống không dễ duôi, nỗ lực, quyết tâm. Này Bà-la-môn, chính điều này đã là sự khai mở đầu tiên của ta, tương tợ như con gà con thoát ra từ vỏ trứng vậy.
Trong khi tâm được an trụ, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, lìa khỏi phiền não, nhu thuận, có thể sử dụng, ổn định, đã đạt đến trạng thái vững chắc như thế, ta đây đã hướng dẫn tâm đến trí tuệ (quán xét) về sự sanh tử của chúng sanh (Sanh Tử Minh). Ta đây nhìn thấy chúng sanh bằng thiên nhãn thuần tịnh vượt trội loài người, ta đây biết được rằng trong khi chết đi rồi sanh lại chúng sanh đều đi theo nghiệp tương ứng (trở thành) hạ tiện, cao quý, đẹp đẽ, xấu xí, đến chốn an vui, (hay) đọa vào cõi khổ: “Quả đúng như vậy, những chúng sanh đang hiện hữu (bhonto) này có hành động xấu xa bằng thân, có hành động xấu xa bằng lời nói, có suy nghĩ xấu xa bằng ý, vu khống các bậc Thánh, theo tà kiến, tán thành các hành động do tà kiến, khi tan rã thân xác và chết đi, họ bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Trái lại, những chúng sanh đang hiện hữu (bhonto) này có hành động tốt đẹp bằng thân, có hành động tốt đẹp bằng lời nói, có suy nghĩ tốt đẹp bằng ý, không vu khống các bậc Thánh, theo chánh kiến, tán thành các hành động do chánh kiến, khi tan rã thân xác và chết đi, họ được sanh vào chốn an vui, cõi trời, loài người.” Như thế, ta nhìn thấy chúng sanh bằng thiên nhãn thuần tịnh vượt trội loài người, ta đây biết được rằng trong khi chết đi rồi sanh lại chúng sanh đều đi theo nghiệp tương ứng (trở thành) hạ tiện, cao quý, đẹp đẽ, xấu xí, đến chốn an vui, (hay) đọa vào cõi khổ. Này Bà-la-môn, quả vậy vào canh giữa của đêm ta đã chứng đạt Minh thứ hai này, ta đã diệt tận vô minh và làm cho minh sanh khởi, ta đã diệt tận bóng tối và làm cho ánh sáng sanh khởi. Như thế ấy là điều (ta đã thành đạt) trong lúc ta sống không dễ duôi, nỗ lực, quyết tâm. Này Bà-la-môn, chính điều này đã là sự khai mở thứ hai của ta, tương tợ như con gà con thoát ra từ vỏ trứng vậy.
Trong khi tâm được an trụ, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, lìa khỏi phiền não, nhu thuận, có thể sử dụng, ổn định, đã đạt đến trạng thái vững chắc như thế, ta đây đã hướng dẫn tâm đến trí tuệ đoạn tận các lậu hoặc (Lậu Tận Minh). Ta đây đã biết rõ: “Đây là Khổ” đúng theo bản thể thật (yathābhūtaṃ). Ta đây đã biết rõ: “Đây là nguyên nhân của Khổ” đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: “Đây là sự Diệt Khổ” đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: “Đây là sự thực hành đưa đến sự Diệt Khổ” đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: “Đây là các lậu hoặc” đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: “Đây là nguyên nhân của các lậu hoặc” đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: “Đây là sự diệt tận các lậu hoặc” đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: “Đây là sự thực hành đưa đến sự diệt tận các lậu hoặc” đúng theo bản thể thật. Trong khi ta đây biết được như thế, thấy được như thế, thì tâm cũng đã được giải thoát khỏi dục lậu, tâm cũng đã được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm cũng đã được giải thoát khỏi vô minh lậu. Khi ta đã được giải thoát, trí tuệ giải thoát đã khởi lên và ta đã biết rõ rằng: “Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn (đưa đến) bản ngã nào khác (tương tợ) như vầy nữa.” Này Bà-la-môn, quả vậy vào canh cuối của đêm ta đã chứng đạt Minh thứ ba này, ta đã diệt tận vô minh và làm cho minh sanh khởi, ta đã diệt tận bóng tối và làm cho ánh sáng sanh khởi. Như thế ấy là điều (ta đã thành đạt) trong lúc ta sống không dễ duôi, nỗ lực, quyết tâm. Này Bà-la-môn, chính điều này đã là sự khai mở thứ ba của ta, tương tợ như con gà con thoát ra từ vỏ trứng vậy.
[4] Khi được nói như thế, bà-la-môn Verañja đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Ngài Gotama là vị đứng đầu, ngài Gotama là người cao cả nhất. Bạch ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Bạch ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Bạch ngài Gotama, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được ngài Gotama giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Tôi đây xin quy y ngài Gotama, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin ngài Gotama chấp nhận tôi là nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Xin ngài Gotama hãy nhận lời tôi về việc cư trú mùa mưa ở Verañjā cùng với hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, người bà-la-môn Verañja hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
[5] Vào lúc bấy giờ, Verañjā có sự khó khăn về vật thực, đời sống khổ cực, dịch bệnh hoành hành (setaṭṭhikā),[4]vật thực được phân phối theo thẻ, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực.
Vào lúc bấy giờ, có những người buôn ngựa từ xứ Uttarāpatha đã đến cư trú mùa mưa ở Verañjā cùng với năm trăm con ngựa. Ở các bãi nhốt ngựa, họ có chuẩn bị từng phần (pattha) lúa mạch[5]cho các vị tỳ khưu. Vào buổi sáng, các vị tỳ khưu mặc y cầm y bát rồi đi vào trong thành Verañjā để khất thực. Khi không nhận được đồ ăn khất thực, các vị đi đến khất thực ở các bãi nhốt ngựa và mang về tu viện (mỗi vị) một phần lúa mạch. Các vị giã đi giã lại trong cối giã rồi thọ dụng. Đại đức Ānanda nghiền phần lúa mạch ở tảng đá rồi dâng lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thọ dụng thức ấy.
Quả vậy, đức Thế Tôn đã nghe tiếng cối giã. Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi. Các đấng Như lai hỏi có liên quan đến lợi ích và không (hỏi việc) không có liên quan đến lợi ích, khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề. Chư Phật Thế Tôn hỏi các vị tỳ khưu bởi hai lý do: “Chúng ta sẽ thuyết Pháp hoặc sẽ quy định điều học cho các đệ tử.” Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda, tiếng cối giã ấy là gì vậy?
Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Ānanda, tốt lắm! Tốt lắm! Này Ānanda, (điều ấy) đã được khắc phục bởi các ngươi là những người hoàn thiện. Về sau này, con người sẽ chê bai cơm gạo sāli và thịt.
[6] Sau đó, đại đức Mahāmoggallāna (Mục Kiền Liên) đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, hiện nay Verañjā có sự khó khăn về vật thực, đời sống khổ cực, dịch bệnh hoành hành, vật thực được phân phối theo thẻ, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Bạch ngài, bề mặt bên dưới của đại địa cầu này có chất như là mật ong, không cặn bã, và có hương vị y như thế. Bạch ngài, thật tốt thay nếu con lật ngửa quả địa cầu ra (để rồi) các tỳ khưu sẽ thọ dụng chất bổ dưỡng (ấy).[6]
- Này Moggallāna, ngươi sẽ giải quyết thế nào về các chúng sanh sống ở quả địa cầu?
- Bạch ngài, con sẽ biến hoá một bàn tay trở thành giống như đại địa cầu và di chuyển chúng sanh sống ở quả địa cầu đến đó, rồi con sẽ lật ngửa quả địa cầu ra bằng cánh tay kia.
- Này Moggallāna, thôi đi. Ngươi chớ thích thú để lật ngửa quả địa cầu ra nữa khiến chúng sanh sẽ gánh chịu sự xáo trộn.
- Bạch ngài, thật tốt thay nếu tất cả hội chúng tỳ khưu có thể đi đến Uttarakuru để khất thực.
- Này Moggallāna, ngươi sẽ giải quyết thế nào về các tỳ khưu không có thần thông?
- Bạch ngài, bằng cách nào mà tất cả các tỳ khưu đều sẽ đi được thì con sẽ làm theo cách ấy.
- Này Moggallāna, thôi đi. Ngươi chớ thích thú đến việc đi đến Uttarakuru để khất thực của toàn bộ hội chúng tỳ khưu nữa.
[7] Khi ấy, đại đức Sāriputta (Xá Lợi Phất) trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã tồn tại lâu dài?” Sau đó vào lúc chiều tối, đại đức Sāriputta khi xuất khỏi thiền tịnh đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, trường hợp con trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã tồn tại lâu dài?”
- Này Sāriputta, Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đã không tồn tại lâu dài. Này Sāriputta, Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đã tồn tại lâu dài.
- Bạch ngài, vậy do nhân gì, do duyên gì khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đã không tồn tại lâu dài?
- Này Sāriputta, đức Thế Tôn Vipassī, đức Thế Tôn Sikhī, và đức Thế Tôn Vessabhū đã không nỗ lực để thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết đến các đệ tử và các vị ấy đã có ít suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthā, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhūtadhammaṃ, vedallaṃ.[7]Điều học cho các đệ tử đã không được (các vị ấy) quy định và giới bổn Pātimokkha đã không được công bố. Với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đã được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có dòng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đã xuất gia, các vị ấy đã khiến cho Phạm hạnh ấy biến mất thật nhanh chóng. Này Sāriputta, cũng giống như nhiều bông hoa khác nhau được đặt xuống ở trên tấm ván sàn và không được kết lại với nhau bằng sợi chỉ, cơn gió (sẽ) làm phân tán, làm tung toé, và hủy hoại chúng. Điều ấy có nguyên nhân thế nào? Này Sāriputta, giống như việc (các bông hoa) không được kết lại với nhau bằng sợi chỉ; này Sāriputta, tương tợ như thế với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đã được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có dòng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đã xuất gia, các vị ấy đã khiến cho Phạm hạnh ấy biến mất thật nhanh chóng. Và chư Phật Thế Tôn ấy (chỉ) nỗ lực dùng tâm biết được tâm để giáo huấn các đệ tử. Này Sāriputta, trong thời quá khứ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác Vessabhū, ở trong khu rừng ghê rợn nọ, dùng tâm biết được tâm rồi giáo huấn và chỉ dạy hội chúng tỳ khưu một ngàn vị rằng: “Hãy suy tầm như vầy.[8]Chớ suy tầm như thế.[9]Hãy tác ý như vầy.[10]Chớ tác ý như thế.[11]Hãy từ bỏ điều này.[12]Hãy thành tựu rồi an trú điều này.”[13]Này Sāriputta, khi ấy trong lúc được đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác Vessabhū giáo huấn như thế chỉ dạy như thế, các tâm của một ngàn vị tỳ khưu ấy đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Này Sāriputta, vào trường hợp ấy trong khi đã bị kinh sợ đối với khu rừng ghê rợn, người nào chưa dứt bỏ ái dục đi vào khu rừng ấy thì hầu hết các sợi lông sẽ dựng đứng lên. Này Sāriputta, đây là nhân đây là duyên khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đã không tồn tại lâu dài.
- Bạch ngài, vậy do nhân gì, do duyên gì khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đã tồn tại lâu dài?
- Này Sāriputta, đức Thế Tôn Kakusandha, đức Thế Tôn Konāgamana, và đức Thế Tôn Kassapa đã nỗ lực để thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết đến các đệ tử và các vị ấy đã có nhiều suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthā, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhūtadhammaṃ, vedallaṃ. Điều học cho các Thinh Văn đã được (các vị ấy) quy định và giới bổn Pātimokkha đã được công bố. Với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đã được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có dòng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đã xuất gia, các vị ấy đã duy trì Phạm hạnh ấy lâu dài và trường cửu. Này Sāriputta, cũng giống như nhiều bông hoa khác nhau được đặt xuống ở trên tấm ván sàn và được kết lại với nhau bằng sợi chỉ, cơn gió (sẽ) không làm phân tán, không làm tung toé, và không hủy hoại chúng. Điều ấy có nguyên nhân thế nào? Này Sāriputta, giống như việc (các bông hoa) được kết lại với nhau bằng sợi chỉ; này Sāriputta, tương tợ như thế với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đã được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có dòng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đã xuất gia, các vị ấy đã duy trì Phạm hạnh ấy lâu dài và trường cửu. Này Sāriputta, đây là nhân, đây là duyên khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đã tồn tại lâu dài.
[8] Sau đó, đại đức Sāriputta đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch Thế Tôn, nay là thời điểm của việc ấy. Bạch Thiện Thệ, nay là thời điểm của việc ấy, (tức là thời điểm) đức Thế Tôn nên quy định điều học cho các đệ tử, nên công bố giới bổn Pātimokkha; như thế Phạm hạnh này có thể được tiếp tục và tồn tại lâu dài.
- Này Sāriputta, ngươi hãy chờ đợi! Này Sāriputta, ngươi hãy chờ đợi! Trong trường hợp ấy, chỉ có Như Lai mới biết thời điểm. Này Sāriputta, cho đến khi nào một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này thì cho đến khi ấy bậc Đạo Sư chưa quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử. Này Sāriputta, chính bởi vì một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự lớn mạnh về số lượng thì cho đến khi ấy một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này. Này Sāriputta, chính bởi vì hội chúng đạt đến sự đông đảo về số lượng nên một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này, nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển thì cho đến khi ấy một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này. Này Sāriputta, chính bởi vì hội chúng đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển nên một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này, nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự dồi dào về lợi lộc thì cho đến khi ấy một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này. Này Sāriputta, chính bởi vì hội chúng đạt đến sự dồi dào về lợi lộc nên một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này, nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc học nhiều thì cho đến khi ấy một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này. Này Sāriputta, chính bởi vì hội chúng đạt đến sự lớn mạnh về việc học nhiều nên một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này, nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.[14]Này Sāriputta, bởi vì hội chúng tỳ khưu không có ô nhiễm, không có tội lỗi, có ác pháp đã lìa, được thanh tịnh, trong sạch, đã an trú vào mục đích.[15]Này Sāriputta, bởi vì trong số năm trăm tỳ khưu này, vị tỳ khưu thấp nhất (đã) là vị Nhập Lưu, không còn pháp bị đọa, được bền vững, và hướng đến sự giác ngộ.
[9] Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda, điều này đã trở thành thông lệ của các đấng Như Lai là khi các vị cư trú mùa mưa do những ai đã thỉnh mời thì các vị không ra đi du hành trong xứ sở khi chưa thông báo cho những người ấy. Này Ānanda, chúng ta sẽ thông báo cho bà-la-môn Verañja này.
- Bạch ngài, xin vâng. Đại đức Ānanda đã đáp lời đức Thế Tôn.
Sau đó, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát cùng với đại đức Ānanda là sa-môn thị giả đi đến tư gia của bà-la-môn Verañja, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, bà-la-môn Verañja đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với bà-la-môn Verañja đang ngồi một bên điều này:
- Này Bà-la-môn, do được ông thỉnh mời chúng tôi đã trải qua mùa (an cư) mưa. Giờ chúng tôi thông báo ông rằng chúng tôi muốn ra đi du hành trong xứ sở.
- Bạch ngài Gotama, sự thật là các vị đã được tôi thỉnh mời và đã trải qua mùa (an cư) mưa. Tuy nhiên, việc cúng dường chưa được dâng cúng. Và điều ấy không phải là không có vật bố thí cũng không phải là không có lòng bố thí. Trong trường hợp này, điều ấy làm sao có thể đạt được khi cuộc sống tại gia có nhiều phận sự và có nhiều việc cần phải làm? Xin ngài Gotama nhận lời buổi trai phạn của tôi vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà-la-môn Verañja bằng bài Pháp thoại, rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy bà-la-môn Verañja đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm tại tư gia của mình rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn rằng:
- Bạch ngài Gotama, đã đến giờ. Thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y cầm y bát đi đến tư gia của bà-la-môn Verañja, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, bà-la-môn Verañja đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, bà-la-môn Verañja đã choàng lên đức Thế Tôn với ba y và choàng lên mỗi một vị tỳ khưu với một xấp vải đôi. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà-la-môn Verañja bằng bài Pháp thoại, rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi.
Sau đó, khi đã ngụ tại Verañjā theo như ý thích, đức Thế Tôn đã đi dọc theo Soreyya, Saṅkassa, Kaṇṇakujja, và đến được bến đò Payāga.[16]Sau khi đến nơi, ngài đã vượt qua sông Gaṅgā tại bến đò Payāga và ngự đến thành Bārāṇasī (Ba-la-nại). Sau đó, khi đã ngụ tại thành Bārāṇasī theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành đến thành Vesālī (Vệ Xá). Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Vesālī. Tại nơi ấy, trong thành Vesālī, đức Thế Tôn đã ngụ tại Mahāvana (Đại Lâm), nơi giảng đường Kūṭāgāra.
Dứt tụng phẩm Verañja.
*******
[1]Theo ngài Buddhaghosa giải thích ở Samantapāsādikā (Chú Giải Tạng Luật), Verañjā là tên của một thành phố, Pucimanda là cây Nimba (Từ điển Pāli-English của Pali Text Society cho biết đó là một loại cây có lá đắng và gỗ cứng), Naḷeru là tên của một dạ-xoa, và đức Thế Tôn ngự ở khu vực lân cận của cây ấy.
[2]Theo ngài Buddhaghosa, ông bà-la-môn nói “arasarūpo” để chỉ trích đức Phật sống không thuận theo tập quán là người trẻ nên cung kính, hoặc đứng dậy, hoặc mời chỗ ngồi đối với các vị già cả, uy tín, v.v... Còn đức Thế Tôn cũng dùng nhóm từ “arasarūpo” nhưng đề cập đến năm đối tượng thích ý là sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc lạc được tầm cầu bởi năm giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân. Ở các phần kế tiếp, khi chỉ trích đức Phật “không biết thưởng thức,” “thuyết về không hành động,” “có sự ghê tởm,” “là người từ bỏ,” là người thiêu đốt,” vị bà-la-môn cũng ám chỉ việc đức Phật không cung kính, hoặc không đứng dậy, hoặc không mời chỗ ngồi đến các vị già cả, uy tín, v.v...
[3]Theo ngài Buddhaghosa, vị bà-la-môn chỉ trích rằng đức Phật thuyết về đoạn kiến (ucchedavāda) chủ trương sau đời này không có đời khác.
[4]Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Có nhiều xương trắng nằm rải rác vì có quá nhiều người chết đói hoặc là tên của một loại bệnh mốc trắng ở cây lúa;” chúng tôi tạm dịch thoát như trên.
[5]Theo ngài Buddhaghosa, lúa mạch này đã được tách vỏ trấu và hấp chín. Các người buôn ngựa đem theo lúa mạch để cho ngựa ăn ở những vùng không kiếm ra cỏ và họ đã xén phần ăn sáng của ngựa để dâng cho các vị tỳ khưu. Ngài Mahāsamaṇa Chao giải thích ở tác phẩm Vinayamukha thì 1 pattha có dung tích bằng hai bàn tay bụm lại.
[6]Pappoṭakojam = chất sanh ra từ cây nấm (?).
[7]Xin xem Diệu Pháp Yếu Lược (Saddhammasaṅgaha) để có lời giải thích chi tiết về chín thể loại này.
[8]Suy tầm về ly dục, suy tầm về vô sân, và suy tầm vô hại (Theo lời giảng giải của ngài Buddhaghosa).
[9]Chớ suy tầm về ngũ dục, chớ suy tầm về sân hận, chớ suy tầm về hãm hại (Theo lời giảng giải của ngài Buddhaghosa).
[10]Tác ý đến vô thường, tác ý đến khổ não, tác ý đến vô ngã, tác ý đến bất tịnh (Theo lời giảng giải của ngài Buddhaghosa).
[11]Chớ tác ý đến bốn điều đối nghịch trên là: thường, lạc, ngã, tịnh (Theo lời giảng giải của ngài Buddhaghosa).
[12]Hãy từ bỏ bất thiện pháp (Theo lời giảng giải của ngài Buddhaghosa).
[13]Hãy thành tựu và an trú vào thiện pháp (Theo lời giảng giải của ngài Buddhaghosa).
[14]Phần “sự lớn mạnh về việc học nhiều” này không có ở đĩa CD Budsir IV của Thái Lan. Chúng tôi thêm vào theo bản dịch tiếng Anh của học giả I. B. Horner.
[15]Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, và Tri kiến về sự giải thoát (Theo lời giảng giải của ngài Buddhaghosa).
[16]Payāga là một thị trấn ở bên bờ sông Gaṅgā, nay là thành phố Allahabad (Chú thích của người dịch).
-ooOoo-
[10] Vào lúc bấy giờ, ở không xa thành Vesālī có ngôi làng Kalanda. Ở nơi ấy, có người con trai nhà đại phú tên là Sudinna Kalandaputta.[1]Khi ấy, Sudinna Kalandaputta đã đi đến Vesālī cùng với nhiều người bạn do công việc cần làm nào đó. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, được vây quanh bởi hội chúng đông đảo, đang ngồi thuyết giảng Giáo Pháp. Sudinna Kalandaputta đã nhìn thấy đức Thế Tôn được vây quanh bởi hội chúng đông đảo đang ngồi thuyết giảng Giáo Pháp. Sau khi nhìn thấy, Sudinna Kalandaputta đã khởi ý điều này:[2]“Hay là ta cũng nên nghe Pháp?” Khi ấy, Sudinna Kalandaputta đã đi đến gần hội chúng ấy, sau khi đến đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Sudinna Kalandaputta đã khởi ý điều này: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc ấy không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn trong sạch như vỏ ốc được cạo sạch. Hay là ta nên cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà?” Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, hội chúng ấy đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, và ra đi. Sau đó, khi hội chúng đã đứng dậy không bao lâu, Sudinna Kalandaputta đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Sudinna Kalandaputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, theo như con hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc ấy không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn trong sạch như vỏ ốc được cạo sạch. Bạch ngài, con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà. Xin đức Thế Tôn hãy (làm lễ) xuất gia cho con.
- Này Sudinna, vậy ngươi đã được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà chưa?
- Bạch ngài, con chưa được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.
- Này Sudinna, các đức Như Lai không (làm lễ) xuất gia cho người con trai chưa được mẹ và cha cho phép.
- Bạch ngài, bằng cách nào khiến mẹ và cha sẽ cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà thì con đây sẽ làm theo cách ấy.
[11] Sau đó, khi đã hoàn tất công việc cần làm ấy ở Vesālī, Sudinna Kalandaputta đã đi về lại làng Kalanda đến gặp mẹ và cha, sau khi đến đã nói với mẹ và cha điều này:
- Mẹ và cha à, theo như con hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc ấy không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn trong sạch như vỏ ốc được cạo sạch. Con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà. Hãy cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.
Khi được nói như thế, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:
- Này Sudinna thương, con chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng, và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương, con không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang còn sống mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được?
Đến lần thứ nhì, Sudinna Kalandaputta đã nói với mẹ và cha điều này:
- Mẹ và cha à, theo như con hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc ấy không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn trong sạch như vỏ ốc được cạo sạch. Con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà. Hãy cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.
Đến lần thứ nhì, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:
- Này Sudinna thương, con chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng, và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương, con không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang còn sống mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được?
Đến lần thứ ba, Sudinna Kalandaputta đã nói với mẹ và cha điều này:
- Mẹ và cha à, theo như con hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc ấy không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn trong sạch như vỏ ốc được cạo sạch. Con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà. Hãy cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.
Đến lần thứ ba, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:
- Này Sudinna thương, con chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng, và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương, con không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang còn sống mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được?
Khi ấy, Sudinna Kalandaputta (nghĩ rằng): “Mẹ và cha không cho phép ta về việc rời nhà xuất gia sống không nhà!” rồi đã nằm xuống ngay tại chỗ ấy trên nền đất không có trải lót (nói rằng):
- Đối với tôi, hoặc là cái chết ngay tại đây, hoặc là sự xuất gia.
Sau đó, Sudinna Kalandaputta đã không ăn một bữa, đã không ăn hai bữa, đã không ăn ba bữa, đã không ăn bốn bữa, đã không ăn năm bữa, đã không ăn sáu bữa, đã không ăn bảy bữa.
[12] Khi ấy, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:
- Này Sudinna thương, con chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng, và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương, con không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang còn sống mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được? Này Sudinna thương, con hãy đứng dậy, hãy ăn, hãy uống, và hãy chơi đùa. Trong khi ăn, trong khi uống, trong khi chơi đùa, trong khi thọ hưởng các dục, trong khi làm các điều phước thiện, con có thể thỏa thích, chớ mẹ và cha không cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.
Khi được nói như vậy, Sudinna Kalandaputta đã im lặng.
Đến lần thứ nhì, ...(như trên)...
Đến lần thứ ba, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:
- Này Sudinna thương, con chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng, và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương, con không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang còn sống mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được? Này Sudinna thương, con hãy đứng dậy, hãy ăn, hãy uống, và hãy chơi đùa. Trong khi ăn, trong khi uống, trong khi chơi đùa, trong khi thọ hưởng các dục, trong khi làm các điều phước thiện, con có thể thỏa thích, chớ mẹ và cha không cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.
Đến lần thứ ba, Sudinna Kalandaputta đã im lặng.
[13] Sau đó, những người bạn của Sudinna Kalandaputta đã đi đến gặp Sudinna Kalandaputta, sau khi đến đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:
- Này Sudinna mến, bạn chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng, và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna mến, bạn không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa bạn một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc bạn đang còn sống mẹ và cha lại cho phép bạn về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được? Này Sudinna mến, bạn hãy đứng dậy, hãy ăn, hãy uống, và hãy chơi đùa. Trong khi ăn, trong khi uống, trong khi chơi đùa, trong khi thọ hưởng các dục, trong khi làm các điều phước thiện, bạn có thể thỏa thích, chớ mẹ và cha không cho phép bạn về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.
Khi được nói như vậy, Sudinna Kalandaputta đã im lặng.
Đến lần thứ nhì, ...(như trên)...
Đến lần thứ ba, những người bạn của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:
- Này Sudinna thương, bạn chính là ...(như trên)...
Đến lần thứ ba, Sudinna Kalandaputta đã im lặng.
Khi ấy, những người bạn của Sudinna Kalandaputta đã đi đến gặp mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta, sau khi đến đã nói với mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta điều này:
- Mẹ và cha à, Sudinna này nằm trên nền đất không có trải lót (nói rằng): “Đối với tôi, hoặc là cái chết ngay tại đây, hoặc là sự xuất gia.” Nếu mẹ và cha không cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia sống không nhà, anh ta sẽ đi đến cái chết ngay tại chỗ ấy. Vả lại, nếu mẹ và cha cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia sống không nhà, mẹ và cha sẽ còn nhìn thấy anh ta cho dù đã xuất gia. Nếu Sudinna không thỏa thích trong việc rời nhà xuất gia sống không nhà, thì anh ta còn chốn nào khác đây? Anh ta sẽ quay trở về ngay tại chỗ này. Mẹ và cha hãy cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia sống không nhà đi.
- Các con thương, mẹ và cha cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.
[14] Sau đó, những người bạn của Sudinna Kalandaputta đã đi đến gặp Sudinna Kalandaputta, sau khi đến đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:
- Này Sudinna mến, hãy đứng dậy đi. Bạn đã được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.
Khi ấy, Sudinna Kalandaputta (nghĩ rằng): “Nghe nói ta đã được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà” nên mừng rỡ phấn chấn, vừa đứng dậy vừa dùng bàn tay phủi khắp mình mẩy. Sau đó nhiều ngày, Sudinna Kalandaputta đã phục hồi lại sức khoẻ và đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Sudinna Kalandaputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, con đã được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy (làm lễ) xuất gia cho con.
Rồi Sudinna Kalandaputta đã đạt được sự xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn, đã đạt được sự tu lên bậc trên. Khi đã được tu lên bậc trên không bao lâu, đại đức Sudinna đã thọ trì và thực hành các đức hạnh đầu đà có hình thức như vầy: là vị ngụ ở rừng, là vị chuyên khất thực, là vị mặc y paṃsukūla,[3]là vị đi khất thực theo tuần tự từng nhà. Đại đức đã sống nương tựa vào ngôi làng nọ trong xứ Vajjī.
[15] Vào lúc bấy giờ, xứ Vajjī có sự khó khăn về vật thực, đời sống khổ cực, dịch bệnh hoành hành (setaṭṭhikā), vật thực được phân phối theo thẻ, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Khi ấy, đại đức Sudinna đã khởi ý điều này: “Hiện nay, xứ Vajjī có sự khó khăn về vật thực, đời sống khổ cực, dịch bệnh hoành hành, vật thực được phân phối theo thẻ, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Vả lại, nhiều quyến thuộc của ta ở trong thành Vesālī thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo, hay là ta nên sống nương tựa vào quyến thuộc vậy? Hơn nữa, do có liên quan đến ta, quyến thuộc sẽ cúng dường vật thí, sẽ làm các điều phước thiện, và các tỳ khưu sẽ nhận được lợi lộc còn ta sẽ không bị khó nhọc về đồ ăn khất thực.” Sau đó, đại đức Sudinna đã thu xếp sàng tọa, cầm y bát, và ra đi về phía thành Vesālī. Trong khi tuần tự du hành, đại đức đã đến được thành Vesālī. Tại nơi ấy trong thành Vesālī, đại đức Sudinna trú ở Mahāvana, nơi giảng đường Kūṭāgāra.
Quyến thuộc của đại đức Sudinna đã nghe được rằng: “Nghe nói Sudinna con trai của Kalanda đã đến thành Vesālī.” Họ đã đem lại cúng dường đến đại đức Sudinna bữa ăn gồm sáu mươi nồi cơm. Khi ấy, đại đức Sudinna đã phân chia cho các tỳ khưu sáu mươi nồi cơm ấy rồi vào buổi sáng đã mặc y, cầm y bát, đi vào làng Kalanda để khất thực, trong khi đi tuần tự từng nhà để khất thực đã đi đến nhà của cha mình. Vào lúc bấy giờ, người nữ tỳ của quyến thuộc của đại đức Sudinna có ý định đổ đi món cháo chua đã để cách đêm. Khi ấy, đại đức Sudinna đã nói với người nữ tỳ của quyến thuộc ấy điều này:
- Này chị gái, nếu vật ấy cần phải đổ bỏ thì hãy trút vào đây trong bình bát của tôi.
Khi ấy, trong lúc đang trút món cháo chua đã để cách đêm ấy vào bình bát của đại đức Sudinna, người nữ tỳ của quyến thuộc của đại đức Sudinna đã nhận ra đặc điểm của các cánh tay, của các bàn chân, và của giọng nói (của đại đức Sudinna).[4]Sau đó, người nữ tỳ của quyến thuộc của đại đức Sudinna đã đi đến gặp mẹ của đại đức Sudinna, sau khi đến đã nói với mẹ của đại đức Sudinna điều này:
- Bẩm bà, bà nên biết là công tử Sudinna đã trở về.
- Này nô tỳ, nếu ngươi nói đúng, ta sẽ ban cho ngươi khỏi kiếp tôi tớ.
Vào lúc bấy giờ, đại đức Sudinna (ngồi) tựa vào chân của vách tường nọ rồi thọ thực món cháo chua đã để cách đêm ấy. Và người cha của đại đức Sudinna trong lúc đi công chuyện đã nhìn thấy đại đức Sudinna (ngồi) tựa vào chân của vách tường nọ đang thọ thực món cháo chua đã để cách đêm ấy, sau khi nhìn thấy đã đi đến gần đại đức Sudinna, sau khi đến đã nói với đại đức Sudinna điều này:
- Này Sudinna thương, lẽ nào con lại ăn món cháo chua đã để cách đêm? Này Sudinna thương, hay là con nên đi về nhà mình đi?
- Này gia chủ, tôi đã đi đến nhà của ông rồi. Từ nơi đó mà tôi đã nhận được món cháo chua đã để cách đêm này.
Khi ấy, người cha của đại đức Sudinna đã nắm lấy cánh tay của đại đức Sudinna và nói với đại đức Sudinna điều này:
- Này Sudinna thương, hãy đi. Chúng ta sẽ đi về nhà.
Sau đó, đại đức Sudinna đã đi đến nhà của cha mình, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, người cha của đại đức Sudinna đã nói với đại đức Sudinna điều này:
- Này Sudinna thương, hãy ăn đi.
- Này gia chủ, thôi đi. Việc thọ thực ngày hôm nay của tôi đã hoàn tất.
- Này Sudinna thương, vậy hãy nhận lời bữa ăn vào ngày mai.
Đại đức Sudinna đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, đại đức Sudinna đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
[16] Sau đó, khi trải qua đêm ấy mẹ của đại đức Sudinna đã cho phủ lên mặt đất bằng phân bò tươi rồi bảo người chất thành hai đống gồm một vàng, một bạc. Các đống ấy lớn đến mức khiến người đàn ông đứng ở phía bên này không nhìn thấy người đàn ông đứng ở phía bên kia, và người đàn ông đứng ở phía bên kia không nhìn thấy người đàn ông đứng ở phía bên này. Sau khi đã cho che lại các đống ấy bằng những tấm thảm, cho sắp đặt chỗ ngồi ở giữa, và cho che màn xung quanh, mẹ của đại đức Sudinna đã bảo người vợ cũ của đại đức Sudinna rằng:
- Này con dâu, như thế thì khi trang điểm với đồ trang sức nào mà con đã được con trai Sudinna yêu thương quý mến thì con hãy trang điểm với đồ trang sức ấy.
- Thưa mẹ, xin vâng. Người vợ cũ của đại đức Sudinna đã trả lời mẹ của đại đức Sudinna.
Sau đó vào buổi sáng, đại đức Sudinna đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến tư gia của cha mình, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, người cha của đại đức Sudinna đã đi đến gặp đại đức Sudinna, sau khi đến đã cho mở hai đống ấy ra rồi đã nói với đại đức Sudinna điều này:
- Này Sudinna thương, phần này là vật hồi môn của người đàn bà là của mẹ con, phần kia là của cha, phần kia là của ông nội. Này Sudinna thương, con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường để thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện được mà. Này Sudinna thương, hãy quay về đi con. Hãy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hãy thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện đi.
- Cha à, tôi không thể nào, tôi không có khả năng (làm như thế). Tôi đang thỏa thích thực hành Phạm hạnh.
Đến lần thứ nhì, ...(như trên)...
Đến lần thứ ba, người cha của đại đức Sudinna đã nói với đại đức Sudinna điều này:
- Này Sudinna thương, phần này là vật hồi môn của người đàn bà là của mẹ con, phần kia là của cha, phần kia là của ông nội. Này Sudinna thương, con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường để thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện được mà. Này Sudinna thương, hãy quay về đi con. Hãy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hãy thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện đi.
- Này gia chủ, nếu gia chủ không nổi giận thì chúng ta nên bàn về điều ấy.
- Này Sudinna thương, hãy nói đi.
- Này gia chủ, nếu vậy thì hãy cho người thực hiện những bao tải thật lớn, cho người đổ đầy vàng bạc vào, cho người đưa lên các xe kéo hàng, rồi nhận chìm ở giữa giòng sông Gaṅgā. Điều ấy có lý do là gì? Này gia chủ, bởi vì từ đó là nguyên nhân khiến ông có sự sợ hãi, hoặc có sự kinh hoàng, hoặc có lông dựng đứng lên, hoặc là sự gìn giữ; điều ấy sẽ không có cho ông nữa.
Khi được nói như thế, người cha của đại đức Sudinna đã tỏ ra không hài lòng:
- Tại sao con trai Sudinna lại nói như thế?
Sau đó, người cha của đại đức Sudinna đã bảo người vợ cũ của đại đức Sudinna rằng:
- Này con dâu, nếu vậy thì con là người được yêu thương quý mến, có lẽ con trai Sudinna sẽ làm theo lời con.
Khi ấy, người vợ cũ của đại đức Sudinna đã ôm lấy hai bàn chân của đại đức Sudinna và nói với đại đức Sudinna điều này:
- Công tử ơi, các nàng tiên nữ ấy như thế nào khiến chàng thực hành Phạm hạnh vì các nàng ấy vậy?
- Này chị gái, tôi thực hành Phạm hạnh không phải vì các nàng tiên nữ.
Khi ấy, người vợ cũ của đại đức Sudinna (nghĩ rằng): “Từ nay, công tử Sudinna xưng hô với ta bằng tiếng chị gái” nên đã ngất đi rồi ngã xuống ngay tại chỗ ấy. Sau đó, đại đức Sudinna đã nói với người cha điều này:
- Này gia chủ, nếu vật thực sẽ được bố thí thì hãy bố thí đi. Ông chớ có quấy rầy chúng ta nữa.
- Này Sudinna thương, hãy ăn đi.
Khi ấy, mẹ và cha của đại đức Sudinna đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn đại đức Sudinna với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Sau đó, khi đại đức Sudinna đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, mẹ của đại đức Sudinna đã nói với đại đức Sudinna điều này:
- Này Sudinna thương, gia đình này thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương, con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường để thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện được mà. Này Sudinna thương, hãy quay về đi con. Hãy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hãy thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện đi.
- Mẹ à, tôi không thể nào, tôi không có khả năng (làm như thế). Tôi đang thỏa thích thực hành Phạm hạnh.
Đến lần thứ nhì, ...(như trên)...
Đến lần thứ ba, mẹ của đại đức Sudinna đã nói với đại đức Sudinna điều này:
- Này Sudinna thương, gia đình này thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương, chính vì điều ấy con hãy để lại chủng tử. Chớ để các Licchavi đoạt lấy tài sản không người thừa tự của chúng ta.
- Mẹ à, điều này tôi có thể làm được.
- Này Sudinna thương, hiện nay con ngụ ở đâu vậy?
- Mẹ à, ở Mahāvana.
Sau đó, đại đức Sudinna đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
[17] Sau đó, mẹ của đại đức Sudinna đã bảo người vợ cũ của đại đức Sudinna rằng:
- Này con dâu, nếu vậy thì khi nào đến thời kỳ, kinh nguyệt của con xuất hiện, khi ấy con hãy cho mẹ hay.
- Thưa mẹ, xin vâng. Người vợ cũ của đại đức Sudinna đã trả lời mẹ của đại đức Sudinna.
Sau đó chẳng bao lâu, người vợ cũ của đại đức Sudinna đã đến thời kỳ, nàng đã có kinh nguyệt. Khi ấy, người vợ cũ của đại đức Sudinna đã nói với mẹ của đại đức Sudinna điều này:
- Thưa mẹ, con đã đến thời kỳ, kinh nguyệt của con đã xuất hiện.
- Này con dâu, vậy thì con đã được con trai Sudinna yêu thương quý mến khi trang điểm với đồ trang sức nào, (giờ) con hãy trang điểm với đồ trang sức ấy.
- Thưa mẹ, xin vâng. Người vợ cũ của đại đức Sudinna đã trả lời mẹ của đại đức Sudinna.
Sau đó, mẹ của đại đức Sudinna đã đưa người vợ cũ của đại đức Sudinna đi đến Mahāvana gặp đại đức Sudinna, sau khi đến đã nói với đại đức Sudinna điều này:
- Này Sudinna thương, gia đình này thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương, con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường để thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện được mà. Này Sudinna thương, hãy quay về đi con. Hãy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hãy thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện đi.
- Mẹ à, tôi không thể nào, tôi không có khả năng (làm như thế). Tôi đang thỏa thích thực hành Phạm hạnh.
Đến lần thứ nhì, ...(như trên)...
Đến lần thứ ba, mẹ của đại đức Sudinna đã nói với đại đức Sudinna điều này:
- Này Sudinna thương, gia đình này thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương, chính vì điều ấy con hãy để lại chủng tử. Chớ để các Licchavi đoạt lấy tài sản không người thừa tự của chúng ta.
- Mẹ à, điều này tôi có thể làm được.
Rồi đã nắm lấy cánh tay của người vợ cũ đi vào trong (khu rừng) Mahāvana. Trong khi điều học chưa được quy định, vị ấy không nhận thức được điều nguy hại nên đã tiến hành việc đôi lứa với người vợ cũ ba lần. Do việc ấy, nàng ta đã mang thai.
[18] Chư thiên ở địa cầu đã đồn đãi lời rằng: “Ngài ơi, hội chúng tỳ khưu thật sự không có sự ô uế, không bị điều tai tiếng, nay Udinna Kalandaputta đã gây nên sự ô uế, đã gây nên điều tai tiếng!” Sau khi nghe được tiếng đồn của chư thiên ở địa cầu, chư thiên ở cõi Tứ Đại Thiên Vương đã đồn đãi lời rằng: ...(như trên)... chư thiên ở cõi Đạo Lợi ...(như trên)... chư thiên ở cõi Dạ Ma ...(như trên)... chư thiên ở cõi Đẩu Suất ...(như trên)... chư thiên ở cõi Hóa Lạc Thiên ...(như trên)... chư thiên ở cõi Tha Hóa Tự Tại ...(như trên)... chư thiên thuộc hàng Phạm thiên đã đồn đãi lời rằng: “Ngài ơi, hội chúng tỳ khưu thật sự không có sự ô uế, không bị điều tai tiếng, nay Udinna Kalandaputta đã gây nên sự ô uế, đã gây nên điều tai tiếng!” Vào thời khắc ấy vào giây phút ấy, lời đồn đãi như thế ấy đã đi đến các cõi trời Phạm thiên.
Sau đó, khi bào thai ấy đã được phát triển đầy đủ, người vợ cũ của đại đức Sudinna đã sanh con trai. Khi ấy, những người bạn của đại đức Sudinna đã đặt tên cho đứa bé trai là “Bījako (Chủng Tử),” đã đặt tên cho người vợ cũ của đại đức Sudinna là “Bījakamātā (Mẹ của Chủng Tử),” và đã đặt tên cho đại đức Sudinna là “Bījakapitā (Cha của Chủng Tử).” Thời gian sau, cả hai người ấy đã rời nhà xuất gia sống không nhà[5]và đã chứng đắc quả vị A-la-hán.
[19] Sau đó, đại đức Sudinna đã khởi lên sự ăn năn, đã khởi lên nỗi ân hận: “Thật là điều không lợi ích đã có cho ta! Thật là điều lợi ích đã không có cho ta! Ta đã đạt được điều xấu! Ta đã không đạt được điều tốt! Bởi vì ta đây đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời!” Do chính sự ăn năn ấy và do nỗi ân hận ấy, vị ấy đã trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân, tâm trở nên lãnh đạm, trì trệ, khổ sở, buồn bã, ăn năn, và có vẻ thờ thẩn. Khi ấy, những vị tỳ khưu bạn của đại đức Sudinna đã nói với đại đức Sudinna điều này:
- Này đại đức Sudinna, trước đây đại đức có sắc tướng, các căn rạng rỡ, sắc diện an tịnh, nước da trong sáng, thanh khiết. Hiện nay, trong lúc này đại đức đây lại trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân, tâm trở nên lãnh đạm, trì trệ, khổ sở, buồn bã, ăn năn, và có vẻ thờ thẩn. Này đại đức Sudinna, không lẽ đại đức không thỏa thích thực hành Phạm hành hay sao?
- Này các đại đức, không phải tôi không thỏa thích thực hành Phạm hạnh mà tôi đã tạo nên ác pháp, tôi đã thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ. Này các đại đức, tôi đây đã khởi lên sự ăn năn, đã khởi lên nỗi ân hận: “Thật là điều không lợi ích đã có cho ta! Thật là điều lợi ích đã không có cho ta! Ta đã đạt được điều xấu! Ta đã không đạt được điều tốt! Bởi vì ta đây đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời!”
- Này đại đức Sudinna, đại đức có sự ăn năn là phải lẽ, có nỗi ân hận là phải lẽ. Bởi vì đại đức đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời. Này đại đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn sự ràng buộc chứ không phải để đưa đến sự ràng buộc, đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn chấp thủ chứ không phải để đưa đến sự chấp thủ hay sao? Này đại đức, ở đây trong khi đức Thế Tôn thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái thì đại đức lại nghĩ đến tham ái, thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn sự ràng buộc thì đại đức lại nghĩ đến sự ràng buộc, thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn chấp thủ thì đại đức lại nghĩ đến sự chấp thủ. Này đại đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái trong các ái, để đưa đến sự không còn đam mê trong các nỗi đam mê, để kềm chế các sự khao khát, để trừ diệt các sự vướng mắc, để cắt đứt vòng tái sanh, để diệt tận ái, để ly tham, để đưa đến sự tịch diệt, để đưa đến Niết Bàn hay sao? Này đại đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức đã đề cập đến sự từ bỏ các dục, đã đề cập đến sự hiểu rõ về các dục tưởng, đã đề cập đến sự kềm chế các nỗi khao khát về dục, đã đề cập đến sự trừ diệt các dục tầm, đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao? Này đại đức, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này đại đức, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
Sau đó, khi đã khiển trách đại đức Sudinna bằng nhiều phương thức, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[20] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi đại đức Sudinna rằng:
- Này Sudinna, nghe nói ngươi thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại , thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời? Này kẻ rồ dại, không phải ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn ràng buộc chứ không phải để đưa đến sự ràng buộc, đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn chấp thủ chứ không phải để đưa đến sự chấp thủ hay sao? Này kẻ rồ dại, thế mà ở đây trong khi ta thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái thì ngươi lại nghĩ đến tham ái, thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn ràng buộc thì ngươi lại nghĩ đến sự ràng buộc, thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn chấp thủ thì ngươi lại nghĩ đến sự chấp thủ. Này kẻ rồ dại, không phải ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái trong các ái, để đưa đến sự không còn đam mê trong các nỗi đam mê, để kềm chế sự khao khát, để trừ diệt sự vướng mắc, để cắt đứt vòng tái sanh, để diệt tận ái, để ly tham, để đưa đến sự tịch diệt, để đưa đến Niết Bàn hay sao? Này kẻ rồ dại, không phải ta bằng nhiều phương thức đã đề cập đến sự từ bỏ các dục, đã đề cập đến sự hiểu rõ về các dục tưởng, đã đề cập đến sự kềm chế các nỗi khao khát về dục, đã đề cập đến sự trừ diệt các dục tầm, đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao? Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong miệng của con rắn có nọc độc khủng khiếp còn là điều cao thượng, nhưng đặt dương vật vào trong âm vật của người nữ là không (cao thượng). Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong miệng của con hắc xà còn là điều cao thượng, nhưng đặt dương vật vào trong âm vật của người nữ là không (cao thượng). Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong hố than được đốt cháy có ngọn lửa sáng rực còn là điều cao thượng, chớ đặt dương vật vào trong âm vật của người nữ là không (cao thượng). Điều ấy có lý do như thế nào? Này kẻ rồ dại, bởi vì do nguyên nhân kia[6]ngươi có thể đi đến cái chết hoặc khổ gần như chết, nhưng không vì nguyên nhân kia, khi tan rã thân xác và chết đi ngươi lại có thể bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này kẻ rồ dại, quả thật do nguyên nhân này,[7]khi tan rã thân xác và chết đi, ngươi có thể bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này kẻ rồ dại, thế mà ở đây lại là ngươi, tức là việc ngươi bị vướng vào việc kết hợp của hai người, theo từng cặp, ở nơi kín đáo, là việc làm không tốt đẹp, là việc làm của các dân làng, là việc làm của những người thấp kém, là xấu xa, kết cuộc phải dùng nước tẩy rửa. Này kẻ rồ dại, đối với các pháp bất thiện ngươi là người vi phạm đầu tiên, trước tất cả. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này kẻ rồ dại, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
Sau đó, khi đã khiển trách đại đức Sudinna bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn đã chê bai về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong việc ăn uống, sự tầm cầu quá nhiều, sự không biết đủ, sự kết phe nhóm, sự biếng nhác; và bằng nhiều phương thức ngài đã ngợi khen về sự dễ dàng trong việc cấp dưỡng, sự dễ dàng trong việc ăn uống, sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài hòa, sự đoạn giảm, sự ra sức nỗ lực. Ngài đã thuyết Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu vì mười điều lợi ích: Nhằm sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỳ khưu hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp,[8]và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào thực hiện việc đôi lứa là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”[9]Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
Dứt tụng phẩm về Sudinna.
[21] Vào lúc bấy giờ, tại Mahāvana (Đại Lâm) ở Vesālī, có vị tỳ khưu nọ dùng thức ăn dụ dỗ con khỉ cái rồi thực hiện việc đôi lứa với nó. Khi ấy vào buổi sáng, vị tỳ khưu ấy đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào thành Vesālī để khất thực. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu trong lúc đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đã đi đến trú xá của vị tỳ khưu ấy. Con khỉ cái ấy đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy từ đàng xa đang đi lại, sau khi thấy đã đi đến gần các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến gần đã lúc lắc hông ở phía trước các vị tỳ khưu ấy, đã lúc lắc đuôi, đã đưa hông ra, và làm dấu hiệu. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Không còn nghi ngờ gì nữa, vị tỳ khưu ấy thực hiện việc đôi lứa với con khỉ cái này!” rồi đã nấp vào ở một bên. Sau đó, vị tỳ khưu ấy sau khi đi khất thực ở trong thành Vesālī đã mang đồ ăn khất thực quay trở về. Khi ấy, con khỉ cái ấy đã đi đến gần vị tỳ khưu ấy. Rồi vị tỳ khưu ấy đã thọ dụng đồ khất thực ấy một phần và cho con khỉ cái ấy một phần. Sau đó, khi đã ăn xong đồ khất thực ấy con khỉ cái ấy đã đưa hông ra cho vị tỳ khưu ấy. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy thực hiện việc đôi lứa với con khỉ cái ấy. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, chẳng phải điều học đã được đức Thế Tôn quy định hay sao? Này đại đức, tại sao đại đức lại thực hiện việc đôi lứa với con khỉ cái này?
- Này các đại đức, đúng vậy. Điều học đã được đức Thế Tôn quy định và điều ấy là với người nữ chứ không phải với thú cái.
- Này đại đức, chẳng phải điều ấy là đúng như thế hay sao? Này đại đức, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này đại đức, tại sao đại đức sau khi xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời? Này đại đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, ...(như trên)... đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao? Này đại đức, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này đại đức, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
Sau đó, khi đã khiển trách vị tỳ khưu ấy bằng nhiều phương thức, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[22] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi vị tỳ khưu ấy rằng:
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi đã thực hiện việc đôi lứa với con khỉ cái, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi sau khi xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời? Này kẻ rồ dại, không phải ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, ...(như trên)... đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao? Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong miệng của con rắn có nọc độc khủng khiếp còn là điều cao thượng, nhưng đặt dương vật vào trong âm vật của con khỉ cái là không (cao thượng). Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong miệng của con hắc xà còn là điều cao thượng, nhưng đặt dương vật vào trong âm vật của con khỉ cái là không (cao thượng). Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong hố than được đốt cháy có ngọn lửa sáng rực còn là điều cao thượng, chớ đặt dương vật vào trong âm vật của con khỉ cái là không (cao thượng). Điều ấy có lý do như thế nào? Này kẻ rồ dại, bởi vì do nguyên nhân kia[10]ngươi có thể đi đến cái chết hoặc khổ gần như chết, nhưng không vì nguyên nhân kia, khi tan rã thân xác và chết đi, ngươi lại có thể bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này kẻ rồ dại, quả thật do nguyên nhân này,[11]khi tan rã thân xác và chết đi, ngươi có thể bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này kẻ rồ dại, thế mà ở đây lại là ngươi, tức là việc ngươi bị vướng vào việc kết hợp của hai người, theo từng cặp, ở nơi kín đáo, là việc làm không tốt đẹp, là việc làm của các dân làng, là việc làm của những người thấp kém, là xấu xa, kết cuộc phải dùng nước tẩy rửa. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào thực hiện việc đôi lứa ngay cả với loài thú cái là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
Dứt chuyện con khỉ cái.
[23] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu nhóm Vajjīputtaka cư trú ở Vesālī đã thọ thực theo ý thích, ngủ theo ý thích, tắm theo ý thích. Sau khi đã thọ thực theo ý thích, sau khi đã ngủ theo ý thích, sau khi đã tắm theo ý thích, sau khi đã tác ý không chơn chánh, các vị ấy đã thực hiện việc đôi lứa khi chưa lìa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ lòng yếu nhược (dubbalyaṃ). Thời gian sau đó, các vị ấy bị tác động bởi sự bất hạnh của quyến thuộc, bởi sự sự bất hạnh về tài sản, bởi sự bất hạnh về bệnh hoạn nên đi đến gặp đại đức Ānanda và nói như vầy:
- Thưa ngài Ānanda, chúng tôi không phải là những người chê bai đức Phật, không phải là những người chê bai đức Pháp, không phải là những người chê bai đức Tăng. Thưa ngài Ānanda, chúng tôi là những người chê bai chính mình, là những người không chê bai kẻ khác. Chính chúng tôi không có may mắn, chúng tôi có phước báu ít oi, chúng tôi đây sau khi xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời. Thưa ngài Ānanda, giờ đây nếu chúng tôi có thể đạt được sự xuất gia trong sự chứng minh của đức Phật, có thể đạt được sự tu lên bậc trên, thì giờ đây chúng tôi có thể là những người hành Minh Sát, có thể sống gắn bó với sự tu tập về các thiện pháp tức là các pháp có liên quan đến sự giác ngộ vào đầu đêm và cuối đêm. Thưa ngài Ānanda, tốt thay xin ngài hãy trình sự việc này lên đức Thế Tôn.
- Này các đại đức, được rồi.
Nghe theo các vị nhóm Vajjīputtaka cư trú ở Vesālī, đại đức Ānanda đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Ānanda, việc Như Lai có thể hủy bỏ điều học pārājika đã được quy định cho các đệ tử vì lý do của các vị Vajjī hoặc của những người con trai của các vị Vajjī là điều không có cơ sở và không hợp lý.
[24] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào khi chưa lìa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ lòng yếu nhược mà thực hiện việc đôi lứa thì vị ấy không được tu lên bậc trên trong tương lai. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào sau khi lìa bỏ sự học tập và sau khi tuyên bố sự yếu nhược rồi thực hiện việc đôi lứa thì vị ấy được tu lên bậc trên trong tương lai. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào thọ trì sự học tập và lối sống của các tỳ khưu, khi chưa lìa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ lòng yếu nhược, mà thực hiện việc đôi lứa ngay cả với loài thú cái là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”
[25] Vị nào: là bất cứ vị nào có mối quan hệ như vầy, có giai cấp như vầy, có tên như vầy, có họ như vầy, có giới hạnh như vầy, có trú xứ như vầy, có hành xứ như vầy (yathāgocaro), là vị trưởng lão (trên mười năm tỳ khưu), mới tu (dưới năm năm), hoặc trung niên (trên năm năm); vị ấy được gọi là “vị nào.”
[26] Tỳ khưu: “Vị đi khất thực” là tỳ khưu. “Vị chấp nhận việc đi khất thực” là tỳ khưu. “Vị mặc y đã được cắt rời” là tỳ khưu. Là tỳ khưu do sự thừa nhận. Là tỳ khưu do tự mình xác nhận. Là tỳ khưu khi được (đức Phật) nói rằng: “Này tỳ khưu, hãy đi đến (ehi bhikkhu).” “Vị đã tu lên bậc trên bằng Tam Quy” là tỳ khưu. “Vị hiền thiện” là tỳ khưu. “Vị có thực chất” là tỳ khưu. “Vị thánh hữu học” là tỳ khưu. “Vị thánh vô học” là tỳ khưu. “Vị đã được tu lên bậc trên với hội chúng hợp nhất bằng hành sự có lời thông báo đến lần thứ tư, không sai sót, đáng được duy trì” là tỳ khưu. Ở đây, vị tỳ khưu đã được tu lên bậc trên với hội chúng hợp nhất, bằng hành sự có lời thông báo đến lần thứ tư, không sai sót, đáng được duy trì, vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
[27] Sự học tập: Có ba sự học tập: sự học tập về tăng thượng giới, sự học tập về tăng thượng tâm, sự học tập về tăng thượng tuệ.[12]Ở đây, “sự học tập” được đề cập trong ý nghĩa này là sự học tập về tăng thượng giới.
[28] Lối sống nghĩa là điều học nào đã được đức Thế Tôn quy định, điều học ấy gọi là lối sống. Vì thế, vị học tập theo lối sống ấy được gọi là “thọ trì lối sống.”
[29] Khi chưa lìa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ lòng yếu nhược: Này các tỳ khưu, có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ. Này các tỳ khưu, có sự bày tỏ lòng yếu nhược và sự học tập được lìa bỏ.
[30] Này các tỳ khưu, thế nào là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ?
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị bực bội, không thỏa thích, có ý định từ biệt hạnh sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, mong mỏi thân phận cư sĩ, mong mỏi thân phận người phụ việc chùa, mong mỏi thân phận sa di, mong mỏi thân phận ngoại đạo, mong mỏi thân phận đệ tử ngoại đạo, mong mỏi thân phận không phải là sa-môn, mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ đức Phật?” Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.
Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ý định từ biệt hạnh sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(như trên)..., mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ đức Pháp?” ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ đức Tăng?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ sự học tập?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ Luật?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ giới bổn Pātimokkha?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ việc đọc tụng?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ thầy tế độ?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ thầy dạy học?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ đệ tử?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ học trò?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ vị có chung thầy tế độ?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ vị có chung thầy dạy học?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ Phạm hạnh?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành gia chủ?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành nam cư sĩ?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành người phụ việc chùa?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành sa di?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành ngoại đạo?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành đệ tử ngoại đạo?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành không phải là sa-môn?” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành không phải là Thích tử?” Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.
Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ý định từ biệt hạnh sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(như trên)..., mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Nếu như tôi có thể lìa bỏ đức Phật?” ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Nếu như tôi có thể không phải là Thích tử?” ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Giờ tôi nên lìa bỏ đức Phật?” ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Giờ tôi nên không phải là Thích tử?” ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Vậy tôi hãy nên lìa bỏ đức Phật?” ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Vậy tôi hãy nên không phải là Thích tử?” ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Ước gì tôi có thể lìa bỏ đức Phật?” ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Ước gì tôi có thể không phải là Thích tử?” Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.
Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ý định từ biệt hạnh sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(như trên)..., mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ mẹ.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ cha.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ anh (em) trai.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ chị (em) gái.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ con trai.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ con gái.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ vợ.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ quyến thuộc.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ bạn bè.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ làng quê.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ phố phường.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ ruộng.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ vườn.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ tiền vàng.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ vàng khối.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ nghề nghiệp.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi hồi tưởng lại sự cười, nói, đùa giỡn trước đây.”Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.
Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ý định từ biệt hạnh sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(như trên)..., mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có mẹ. Người ấy có thể nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có cha. Người ấy có thể nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có anh (em) trai. Người ấy có thể nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có chị (em) gái. Người ấy có thể nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có con trai. Người ấy có thể nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có con gái. Người ấy có thể nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có vợ. Người ấy có thể nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có quyến thuộc. Các người ấy có thể nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có bạn bè. Các người ấy có thể nuôi tôi.” Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.
Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ý định từ biệt hạnh sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(như trên)..., mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có mẹ. Người ấy sẽ nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có cha. Người ấy sẽ nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có anh (em) trai. Người ấy sẽ nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có chị (em) gái. Người ấy sẽ nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có con trai. Người ấy sẽ nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có con gái. Người ấy sẽ nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có vợ. Người ấy sẽ nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có quyến thuộc. Các người ấy sẽ nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có bạn bè. Các người ấy sẽ nuôi tôi.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có làng quê. Tôi sẽ sống nhờ nó.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có phố phường. Tôi sẽ sống nhờ nó.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có ruộng. Tôi sẽ sống nhờ nó.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có vườn. Tôi sẽ sống nhờ nó.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có tiền vàng. Tôi sẽ sống nhờ nó.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có vàng khối. Tôi sẽ sống nhờ nó.”... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có nghề nghiệp. Tôi sẽ sống nhờ nó.”Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.
Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ý định từ biệt hạnh sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(như trên)..., mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Việc khó làm!” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Không phải việc dễ làm!” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Việc khó thực hành!” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Không phải việc dễ thực hành!” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi không nỗ lực!” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi không chịu đựng nỗi!” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi không sung sướng!” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi không thỏa thích!” Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.
[31] Này các tỳ khưu, thế nào là có sự bày tỏ lòng yếu nhược và sự học tập được lìa bỏ?
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị bực bội, không thỏa thích, có ý định từ biệt hạnh sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(như trên)... mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ đức Phật.” Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược và sự học tập được lìa bỏ.
Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ý định từ biệt hạnh sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(như trên)... mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ đức Pháp.” ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ đức Tăng.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ sự học tập.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ Luật.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ giới bổn Pātimokkha.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ việc đọc tụng.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ thầy tế độ.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ thầy dạy học.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ đệ tử.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ học trò.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ vị có chung thầy tế độ.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ vị có chung thầy dạy học.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ Phạm hạnh.” ...(như trên)... ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi là gia chủ.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi là cư sĩ.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi là người phụ việc chùa.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi là sa di.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi là ngoại đạo.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi là đệ tử ngoại đạo.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi không phải là sa-môn.” ... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi không phải là Thích tử.” Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược và sự học tập được lìa bỏ.
Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ý định từ biệt hạnh sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(như trên)..., mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi đã chán đức Phật (alaṃ me buddhenāti).” ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi đã chán Phạm hạnh (alaṃ me sabrahmacārīhi).” Này các tỳ khưu, như thế là ...(như trên)...
Hoặc là ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi còn liên quan gì với đức Phật?”(Kinnu me buddhenāti) ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi còn liên quan gì với Phạm hạnh?” Này các tỳ khưu, như thế là ...(như trên)...
Hoặc là ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi không còn cần đến đức Phật.” ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi không còn cần đến Phạm hạnh.” Này các tỳ khưu, như thế là ...(như trên)...
Hoặc là ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi đã hoàn toàn lìa khỏi đức Phật.” ...(như trên)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi đã hoàn toàn lìa khỏi Phạm hạnh.” Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược và sự học tập được lìa bỏ.
Hoặc là, còn có những điều khác ám chỉ đến đức Phật (Buddhavevacanaṃ), hoặc ám chỉ đến đức Pháp, hoặc ám chỉ đến đức Tăng, hoặc ám chỉ đến sự học tập, hoặc ám chỉ đến Luật, hoặc ám chỉ đến giới bổn Pātimokkha, hoặc ám chỉ đến việc đọc tụng, hoặc ám chỉ đến thầy tế độ, hoặc ám chỉ đến thầy dạy học, hoặc ám chỉ đến đệ tử, hoặc ám chỉ đến học trò, hoặc ám chỉ đến vị có chung thầy tế độ, hoặc ám chỉ đến vị có chung thầy dạy học, hoặc ám chỉ đến Phạm hạnh, hoặc ám chỉ đến gia chủ, hoặc ám chỉ đến nam cư sĩ, hoặc ám chỉ đến người phụ việc chùa, hoặc ám chỉ đến sa di, hoặc ám chỉ đến ngoại đạo, hoặc ám chỉ đến đệ tử ngoại đạo, hoặc ám chỉ đến (trạng thái) không phải là sa-môn, hoặc ám chỉ đến (trạng thái) không phải là Thích tử, và vị nói ra, tuyên bố với những hình thức ấy, với những biểu hiện ấy, với những dấu hiệu ấy. Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược và sự học tập được lìa bỏ.
[32] Này các tỳ khưu, thế nào là sự học tập chưa được lìa bỏ? Này các tỳ khưu, ở đây sự học tập được lìa bỏ với những hình thức nào, với những biểu hiện nào, với những dấu hiệu nào và vị bị điên (ummattako) lìa bỏ sự học tập với những hình thức ấy, với những biểu hiện ấy, với những dấu hiệu ấy thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học trong sự chứng minh của vị bị điên thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị có tâm bị rối loạn (khittacitto) lìa bỏ sự học tập thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học trong sự chứng minh của vị có tâm bị rối loạn thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị bị thọ khổ hành hạ (vedanaṭṭo) lìa bỏ sự học tập thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học trong sự chứng minh của vị bị thọ khổ hành hạ thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học trong sự chứng minh của thiên nhân thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học trong sự chứng minh của loài thú thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học theo ngôn ngữ quý phái (ariyakena) trong sự chứng minh của người bình dân (milakkhaka) và nếu người ấy không hiểu được thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học theo ngôn ngữ bình dân trong sự chứng minh của người quý phái và nếu người ấy không hiểu được thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học theo ngôn ngữ quý phái trong sự chứng minh của người quý phái nhưng nếu người ấy không hiểu được thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học theo ngôn ngữ bình dân trong sự chứng minh của người bình dân nhưng nếu người ấy không hiểu được thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học theo lối đùa cợt thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học do bị lỡ lời thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị ấy nói ra nhưng có ý định không cho nghe được thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị ấy có ý định cho nghe được nhưng nói ra không rõ ràng thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị ấy nói với người không hiểu biết (aviññussa) thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị ấy không nói ra rõ ràng với người hiểu biết thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Hoặc vị ấy không nói ra rõ ràng đầy đủ (cả câu) thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Này các tỳ khưu, như thế là sự học tập chưa được lìa bỏ.
[33] Việc đôi lứa nghĩa là việc nào là việc kết hợp của hai người, theo từng cặp, ở nơi kín đáo, là việc làm không tốt đẹp, là việc làm của các dân làng, là việc làm của những người thấp kém, là xấu xa, kết cuộc phải dùng nước tẩy rửa; việc ấy gọi là việc đôi lứa.
[34] Thực hiện nghĩa là vị nào đưa vật biểu tượng (nimittaṃ) vào vật biểu tượng (nimittena), đưa dương vật (aṅgajātaṃ) vào âm vật (aṅgajātena) cho dầu chỉ (đưa vào) khoảng cách bằng hạt mè, vị ấy được gọi là thực hiện.
[35] Ngay cả với loài thú cái: Sau khi thực hiện việc đôi lứa với giống cái của loài thú thì không còn là sa-môn, không phải là Thích tử nữa chứ không phải chỉ với người nữ; vì thế được gọi là “ngay cả với loài thú cái.”
[36] Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như người đàn ông bị chặt đứt đầu không thể sống bám víu vào thân thể ấy; tương tợ như thế, vị tỳ khưu sau khi thực hiện việc đôi lứa thì không còn là sa-môn, không phải là Thích tử; vì thế được gọi “là vị phạm tội pārājika.”
[37] Không được cộng trú: cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là cộng trú. Vị ấy không có được điều ấy, vì thế được gọi là “không được cộng trú.”
[38] Nữ tánh (itthī) có ba loại: người nữ, phi nhân nữ, thú cái.
Lưỡng căn (ubhatobyañjanaka)[13]có ba loại: người lưỡng căn, phi nhân lưỡng căn, thú lưỡng căn.
Vô căn (paṇḍaka)[14]có ba loại: người vô căn, phi nhân vô căn, thú vô căn.
Nam tánh (purisa) có ba loại: người nam, phi nhân nam, thú đực.
Vị thực hiện việc đôi lứa với người nữ theo ba đường (magge): ở đường đại tiện, ở đường tiểu tiện, ở miệng thì phạm tội pārājika. Vị thực hiện việc đôi lứa với phi nhân nữ ...(như trên)... với thú cái theo ba đường: ở đường đại tiện, ở đường tiểu tiện, ở miệng thì phạm tội pārājika.
Vị thực hiện việc đôi lứa với người lưỡng căn ...(như trên)... với phi nhân lưỡng căn ...(như trên)... với thú lưỡng căn theo ba đường: ở đường đại tiện, ở đường tiểu tiện, ở miệng thì phạm tội pārājika.
Vị thực hiện việc đôi lứa với người vô căn theo hai đường: ở đường đại tiện, ở miệng thì phạm tội pārājika. Vị thực hiện việc đôi lứa với phi nhân vô căn ...(như trên)... với thú vô căn ...(như trên)... với người nam ...(như trên)... với phi nhân nam ...(như trên)... với thú đực theo hai đường: ở đường đại tiện, ở miệng thì phạm tội pārājika.
[39] Vị tỳ khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường đại tiện của người nữ thì phạm tội pārājika. Vị tỳ khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường tiểu tiện của người nữ thì phạm tội pārājika. Vị tỳ khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào miệng của người nữ thì phạm tội pārājika. Vị tỳ khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường đại tiện, vào đường tiểu tiện, vào miệng của phi nhân nữ ...(như trên)... của thú cái ...(như trên)... của người lưỡng căn ...(như trên)... của phi nhân lưỡng căn ...(như trên)... của thú lưỡng căn thì phạm tội pārājika.
Vị tỳ khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường đại tiện ...(như trên)... vào miệng của người vô căn thì phạm tội pārājika. Vị tỳ khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường đại tiện, vào miệng của phi nhân vô căn ...(như trên)... của thú vô căn, của người nam, của phi nhân nam, của thú đực ...(như trên)... thì phạm tội pārājika.
[40] Các tỳ khưu đối nghịch (bhikkhupaccatthikā)[15]đem người nữ lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện (của người nữ); nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội pārājika. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện (của người nữ); nếu vị ấy không ưng thuận việc đưa vào, (nhưng) ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội pārājika. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện (của người nữ); nếu vị ấy không ưng thuận việc đưa vào, không ưng thuận khi được đẩy vào, (nhưng) ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội pārājika. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện (của người nữ); nếu vị ấy không ưng thuận việc đưa vào, không ưng thuận khi được đẩy vào, không ưng thuận khi dừng lại, (nhưng) ưng thuận việc rút ra thì phạm tội pārājika. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện (của người nữ); nếu vị ấy không ưng thuận việc đưa vào, không ưng thuận khi được đẩy vào, không ưng thuận khi dừng lại, không ưng thuận việc rút ra thì vô tội.
Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường tiểu tiện (của người nữ) ...(như trên)... với miệng (của người nữ); nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ đang tỉnh táo, đang ngủ, đang say sưa, bị điên, đang đờ đẫn, đã chết chưa bị (thú) ăn, đã chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ...(như trên)... thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... đã chết đã bị (thú) ăn nhiều phần lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện, với đường tiểu tiện, với miệng (của người nữ); nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội.
Các tỳ khưu đối nghịch đem phi nhân nữ ...(như trên)... thú cái, người lưỡng căn, phi nhân lưỡng căn, thú lưỡng căn lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện, với đường tiểu tiện, với miệng (của đối tượng); nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội. Các tỳ khưu đối nghịch đem thú lưỡng căn đang tỉnh táo, đang ngủ, đang say sưa, bị điên, đang đờ đẫn, đã chết chưa bị (thú) ăn, đã chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ...(như trên)... thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... đã chết đã bị (thú) ăn nhiều phần lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện, với đường tiểu tiện, với miệng (của đối tượng); nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội.
Các tỳ khưu đối nghịch đem người vô căn ...(như trên)... phi nhân vô căn, thú vô căn lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện (của đối tượng), ...(như trên)... với miệng (của đối tượng); nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm pārājika. ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội. Các tỳ khưu đối nghịch đem thú vô căn đang tỉnh táo, đang ngủ, đang say sưa, bị điên, đang đờ đẫn, đã chết chưa bị (thú) ăn, đã chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ...(như trên)... thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... đã chết đã bị (thú) ăn nhiều phần lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện (của đối tượng), ...(như trên)... với miệng (của đối tượng); nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội.
Các tỳ khưu đối nghịch đem người nam ...(như trên)... phi nhân nam, ...(như trên)... thú đực lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện (của đối tượng), ...(như trên)... với miệng (của đối tượng); nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm pārājika. ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội. Các tỳ khưu đối nghịch đem thú nam đang tỉnh táo, đang ngủ, đang say sưa, bị điên, đang đờ đẫn, đã chết chưa bị (thú) ăn, đã chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ...(như trên)... thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... đã chết đã bị (thú) ăn nhiều phần lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện (của đối tượng), ...(như trên)... với miệng (của đối tượng); nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội.
[41] Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện, với đường tiểu tiện, với miệng (của người nữ) – của người nữ được che phủ và của vị ấy không được che phủ – của người nữ không được che phủ và của vị ấy được che phủ – của người nữ được che phủ và của vị ấy được che phủ – của người nữ không được che phủ và của vị ấy không được che phủ; nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ đang tỉnh táo, đang ngủ, đang say sưa, bị điên, đang đờ đẫn, đã chết chưa bị (thú) ăn, đã chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ...(như trên)... thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... đã chết đã bị (thú) ăn nhiều phần lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện, với đường tiểu tiện, với miệng (của người nữ) – của người nữ được che phủ và của vị ấy không được che phủ – của người nữ không được che phủ và của vị ấy được che phủ – của người nữ được che phủ và của vị ấy được che phủ – của người nữ không được che phủ và của vị ấy không được che phủ; nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội.
Các tỳ khưu đối nghịch đem phi nhân nữ ...(như trên)... thú cái, người lưỡng căn, phi nhân lưỡng căn, thú lưỡng căn lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện, với đường tiểu tiện, với miệng (của đối tượng) – của đối tượng được che phủ và của vị ấy không được che phủ – của đối tượng không được che phủ và của vị ấy được che phủ – của đối tượng được che phủ và của vị ấy được che phủ – của đối tượng không được che phủ và của vị ấy không được che phủ; nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội. Các tỳ khưu đối nghịch đem thú lưỡng căn đang tỉnh táo, đang ngủ, đang say sưa, bị điên, đang đờ đẫn, đã chết chưa bị (thú) ăn, đã chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ...(như trên)... thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... đã chết đã bị (thú) ăn nhiều phần lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện (của đối tượng), ...(như trên)... với miệng (của đối tượng) – của đối tượng được che phủ và của vị ấy không được che phủ – của đối tượng không được che phủ và của vị ấy được che phủ – của đối tượng được che phủ và của vị ấy được che phủ – của đối tượng không được che phủ và của vị ấy không được che phủ; nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội.
Các tỳ khưu đối nghịch đem người vô căn, phi nhân vô căn, thú vô căn, người nam, phi nhân nam, thú đực lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện (của đối tượng), ...(như trên)... với miệng (của đối tượng) – của đối tượng được che phủ và của vị ấy không được che phủ – của đối tượng không được che phủ và của vị ấy được che phủ – của đối tượng được che phủ và của vị ấy được che phủ – của đối tượng không được che phủ và của vị ấy không được che phủ; nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm pārājika. ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội. Các tỳ khưu đối nghịch đem thú đực đang tỉnh táo, đang ngủ, đang say sưa, bị điên, đang đờ đẫn, đã chết chưa bị (thú) ăn, đã chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ...(như trên)... thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... đã chết đã bị (thú) ăn nhiều phần lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (của vị ấy) với đường đại tiện (của đối tượng), ...(như trên)... với miệng (của đối tượng) – của đối tượng được che phủ và của vị ấy không được che phủ – của đối tượng không được che phủ và của vị ấy được che phủ – của đối tượng được che phủ và của vị ấy được che phủ – của đối tượng không được che phủ và của vị ấy không được che phủ; nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội.
[42] Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần người nữ rồi kết hợp đường đại tiện, đường tiểu tiện, miệng (của người nữ) với dương vật (của vị ấy); nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần người nữ đang tỉnh táo, đang ngủ, đang say sưa, bị điên, đang đờ đẫn, đã chết chưa bị (thú) ăn, đã chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ...(như trên)... thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... đã chết đã bị (thú) ăn nhiều phần rồi kết hợp đường đại tiện, đường tiểu tiện, miệng (của người nữ) với dương vật (của vị ấy); nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội.
Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần phi nhân nữ ...(như trên)... thú cái, người lưỡng căn, phi nhân lưỡng căn, thú lưỡng căn ...(như trên)... người vô căn, phi nhân vô căn, thú vô căn, người nam, phi nhân nam, thú đực rồi kết hợp đường đại tiện, miệng (của đối tượng) với dương vật (của vị ấy); nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm pārājika. ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần thú đực đang tỉnh táo, đang ngủ, đang say sưa, bị điên, đang đờ đẫn, đã chết chưa bị (thú) ăn, đã chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ...(như trên)... thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... đã chết đã bị (thú) ăn nhiều phần rồi kết hợp đường đại tiện, miệng (của đối tượng) với dương vật (của vị ấy); nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội.
[43] Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần người nữ rồi kết hợp đường đại tiện, đường tiểu tiện, miệng (của người nữ) với dương vật (của vị ấy) – của vị ấy được che phủ và của người nữ không được che phủ – của vị ấy không được che phủ và của người nữ được che phủ – của vị ấy được che phủ và của người nữ được che phủ – của vị ấy không được che phủ và của người nữ không được che phủ; nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần người nữ đang tỉnh táo, đang ngủ, đang say sưa, bị điên, đang đờ đẫn, đã chết chưa bị (thú) ăn, đã chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ...(như trên)... thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... đã chết đã bị (thú) ăn nhiều phần rồi kết hợp đường đại tiện, đường tiểu tiện, miệng (của người nữ) với dương vật (của vị ấy) – của vị ấy được che phủ và của người nữ không được che phủ – của vị ấy không được che phủ và của người nữ được che phủ – của vị ấy được che phủ và của người nữ được che phủ – của vị ấy không được che phủ và của người nữ không được che phủ; nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội.
Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần phi nhân nữ ...(như trên)... thú cái, người lưỡng căn, phi nhân lưỡng căn, thú lưỡng căn, ...(như trên)... người vô căn, phi nhân vô căn, thú vô căn, người nam, phi nhân nam, thú đực rồi kết hợp đường đại tiện, miệng (của đối tượng) với dương vật (của vị ấy) – của vị ấy được che phủ và của đối tượng không được che phủ – của vị ấy không được che phủ và của đối tượng được che phủ – của vị ấy được che phủ và của đối tượng được che phủ – của vị ấy không được che phủ và của đối tượng không được che phủ; nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần thú đực đang tỉnh táo, đang ngủ, đang say sưa, bị điên, đang đờ đẫn, đã chết chưa bị (thú) ăn, đã chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ...(như trên)... thì phạm tội pārājika. ...(như trên)... đã chết đã bị (thú) ăn nhiều phần rồi kết hợp đường đại tiện, miệng (của đối tượng) với dương vật (của vị ấy) – của vị ấy được che phủ và của đối tượng không được che phủ – của vị ấy không được che phủ và của đối tượng được che phủ – của vị ấy được che phủ và của đối tượng được che phủ – của vị ấy không được che phủ và của đối tượng không được che phủ; nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... không ưng thuận thì vô tội.
[44] Các tỳ khưu đối nghịch (bhikkhupaccatthikā) được phân tích như thế nào thì những vị vua đối nghịch (rājapaccatthikā),[16]những kẻ trộm cướp đối nghịch (corapaccatthikā), những kẻ vô lại đối nghịch (dhuttapaccatthikā), những kẻ thảo khấu đối nghịch (uppalagandhapaccatthikā) nên được phân tích như thế.
[45] Vị đưa (dương vật) vào khiếu (maggaṃ) theo đường khiếu (maggena) thì phạm tội pārājika. Vị đưa (dương vật) vào nơi không phải là khiếu (amaggaṃ) theo đường khiếu (maggena) thì phạm tội pārājika. Vị đưa (dương vật) vào khiếu (maggaṃ) không theo đường khiếu (amaggena) thì phạm tội pārājika. Vị đưa (dương vật) vào nơi không phải là khiếu (amaggaṃ) không theo đường khiếu (amaggena) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).[17]
[46] Vị tỳ khưu vi phạm giới với vị tỳ khưu đang ngủ, vị kia thức giấc lại ưng thuận; cả hai nên bị trục xuất. Vị kia thức giấc không ưng thuận, kẻ làm bậy nên bị trục xuất. Vị tỳ khưu vi phạm giới với vị sa di đang ngủ, vị sa di thức giấc lại ưng thuận; cả hai nên bị trục xuất. Vị sa di thức giấc không ưng thuận, kẻ làm bậy nên bị trục xuất. Vị sa di vi phạm giới với vị tỳ khưu đang ngủ, vị tỳ khưu thức giấc lại ưng thuận; cả hai nên bị trục xuất. Vị tỳ khưu thức giấc không ưng thuận, kẻ làm bậy nên bị trục xuất. Vị sa di vi phạm giới với vị sa di đang ngủ, vị kia thức giấc lại ưng thuận; cả hai nên bị trục xuất. Vị kia thức giấc không ưng thuận, kẻ làm bậy nên bị trục xuất.
[47] Vị không biết, vị không ưng thuận,[18]vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt tụng phẩm “Được che đậy.”
[48]
Câu chuyện con khỉ cái,
và các vị Vajjī,
(trong hình tướng) gia chủ,
lõa thể, và ngoại đạo,
chuyện về đứa bé gái,
Uppalavaṇṇā,
hai trường hợp chuyển tánh,
người mẹ, rồi con gái,
chị (em) gái, người vợ,
lưng dẻo, dương vật dài,
vết loét hai trường hợp,
tranh vẽ, và tượng gỗ,
với chuyện Sundara
thành ra năm (trường hợp),
năm chuyện bãi tha ma,
chuyện xương (được thâu nhặt),
rồng cái, dạ-xoa nữ,
ma nữ, người vô căn,
liệt cảm giác, khi đụng,
chuyện vị A-la-hán
ngủ ở Bhaddiya,
bốn chuyện Sāvatthi,
Vesāli ba chuyện,
vòng hoa, vị ngủ mơ,
ở Bhārukaccha,
Supabbā, Saddhā,
chuyện vị tỳ khưu ni,
vị ni tu tập sự,
và vị sa di ni,
gái điếm, người vô căn,
nữ gia chủ, lẫn nhau,
vị lớn tuổi xuất gia,
chuyện nai tơ (cuối cùng).
[49] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã thực hiện điều đôi lứa với con khỉ cái. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc:[19]“Điều học đã được đức Thế Tôn quy định; phải chăng ta đã phạm tội pārājika?” rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[50] Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu Vajjīputtaka cư trú ở Vesālī đã thực hiện việc đôi lứa khi chưa lìa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ lòng yếu nhược. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định; phải chăng chúng ta đã phạm tội pārājika?” rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, các ngươi đã phạm tội pārājika.
[51] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Như thế này thì ta sẽ không phạm tội” rồi đã thực hiện việc đôi lứa trong hình tướng gia chủ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[52] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Như thế này thì ta sẽ không phạm tội,” sau khi trở nên trần truồng rồi đã thực hiện việc đôi lứa. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[53] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Như thế này thì ta sẽ không phạm tội,” sau khi mặc vải sợi cỏ ...(như trên)... sau khi mặc vỏ cây ...(như trên)... sau khi mặc gỗ lát mỏng, sau khi mặc tấm mền bằng tóc, sau khi mặc cánh chim cú, sau khi mặc da sơn dương rồi đã thực hiện việc đôi lứa. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[54] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi khất thực. Khi thấy một đứa bé gái nằm trên ghế, vị ấy đã khởi dục vọng rồi đưa ngón tay cái vào âm vật (của đứa bé gái). Đứa bé gái đã chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika. Ngươi phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[55] Vào lúc bấy giờ, có người thanh niên bā-la-môn nọ đem lòng say đắm tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā. Khi ấy, lúc tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã đi vào làng để khất thực, thanh niên bā-la-môn ấy đã đi vào liêu cốc nấp kín rồi chờ đợi. Khi đi khất thực trở về sau bữa ăn, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã rửa chân rồi đi vào liêu cốc và ngồi xuống ở trên giường. Khi ấy, người thanh niên bā-la-môn ấy đã nhấc bổng tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā lên và làm điều tồi bại. Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, vị ni không ưng thuận thì vô tội.[20]
[56] Vào lúc bấy giờ, tướng trạng người nữ (itthīlingaṃ) đã xuất hiện ở vị tỳ khưu nọ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép chuyển sang (sinh hoạt) với các tỳ khưu ni (và vẫn giữ nguyên) thầy tế độ ấy, sự tu lên bậc trên ấy, các năm (thâm niên) ấy. Những tội nào của các tỳ khưu có liên quan đến các tỳ khưu ni, các tội ấy được làm cho hết tội trong sự chứng minh của các tỳ khưu ni. Những tội nào của các tỳ khưu không có liên quan đến các tỳ khưu ni thì được vô tội với các tội ấy.
Vào lúc bấy giờ, tướng trạng người nam đã xuất hiện ở vị tỳ khưu ni nọ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép chuyển sang (sinh hoạt) với các tỳ khưu (và vẫn giữ nguyên) thầy tế độ ấy, sự tu lên bậc trên ấy, các năm (thâm niên) ấy. Những tội nào của các tỳ khưu ni có liên quan đến các tỳ khưu, các tội ấy được làm cho hết tội trong sự chứng minh của các tỳ khưu. Những tội nào của các tỳ khưu ni không có liên quan đến các tỳ khưu thì được vô tội với các tội ấy.
[57] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Như thế này thì ta sẽ không phạm tội” rồi đã thực hiện việc đôi lứa với người mẹ. ...(như trên)... rồi đã thực hiện việc đôi lứa với con gái. ...(như trên)... rồi đã thực hiện việc đôi lứa với chị (em) gái. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[58] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ là người có lưng dẻo. Vị ấy bị bực bội bởi sự không thỏa thích nên đã dùng miệng ngậm lấy dương vật của mình. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ là người có dương vật dài (lambī). Vị ấy bị bực bội bởi sự không thỏa thích nên đã đưa dương vật của mình vào đường đại tiện của mình. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[59] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nhìn thấy thây người chết. Và trên thi thể ấy, có vết loét ở bên cạnh bộ phận sinh dục.[21]Vị ấy (nghĩ rằng): “Như thế này thì ta sẽ không phạm tội” rồi đã đưa dương vật vào bộ phận sinh dục rồi rút ra bằng chỗ vết loét. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nhìn thấy thây người chết. Và trên thi thể ấy, có vết loét ở bên cạnh bộ phận sinh dục. Vị ấy (nghĩ rằng): “Như thế này thì ta sẽ không phạm tội” rồi đã đưa dương vật vào vết loét rồi rút ra từ bộ phận sinh dục. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[60] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục nên đã dùng dương vật (của mình) sờ vào vật biểu tượng ở tranh vẽ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục nên đã dùng dương vật (của mình) sờ vào chỗ kín ở tượng gỗ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[61] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu tên Sundara đã được xuất gia ở thành Rājagaha và (đang) đi trên đường. Có người nữ nọ sau khi nhìn thấy vị ấy đã nói điều này:
- Thưa ngài, xin chờ chốc lát, tôi sẽ đảnh lễ.
Trong khi đảnh lễ, người nữ ấy đã vén y nội lên rồi dùng miệng ngậm lấy dương vật (của vị ấy). Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, có phải ngươi đã ưng thuận?
- Bạch Thế Tôn, con đã không ưng thuận.
- Này tỳ khưu, vị không ưng thuận thì vô tội.[22]
[62] Vào lúc bấy giờ, có người nữ nọ sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu đã nói điều này:
- Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy thực hiện việc đôi lứa.
- Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.
- Thưa ngài, hãy đến. Tôi sẽ ra sức. Ngài đừng ra sức, như thế ngài sẽ không phạm tội.
Vị tỳ khưu ấy đã làm như thế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có người nữ nọ sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu đã nói điều này:
- Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy thực hiện việc đôi lứa.
- Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.
- Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy ra sức. Tôi sẽ không ra sức, như thế ngài sẽ không phạm tội.
Vị tỳ khưu ấy đã làm như thế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có người nữ nọ sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu đã nói điều này:
- Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy thực hiện việc đôi lứa.
- Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.
- Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở bên trong rồi cho xuất (tinh) ra ở bên ngoài. ...(như trên)... Ngài hãy cọ xát ở bên ngoài rồi cho xuất (tinh) ra ở bên trong, như thế ngài sẽ không phạm tội.
Vị tỳ khưu ấy đã làm như thế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[63] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến bãi tha ma đã nhìn thấy thi thể chưa bị (thú) ăn và đã thực hiện việc đôi lứa ở thi thể ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến bãi tha ma đã nhìn thấy thi thể chưa bị (thú) ăn nhiều phần và đã thực hiện việc đôi lứa ở thi thể ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến bãi tha ma đã nhìn thấy thi thể đã bị (thú) ăn nhiều phần và đã thực hiện việc đôi lứa ở thi thể ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến bãi tha ma đã nhìn thấy cái đầu bị đứt lìa rồi đã đưa dương vật vào cái miệng đã được banh ra và (dương vật) có va chạm vào miệng. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến bãi tha ma đã nhìn thấy cái đầu bị đứt lìa rồi đã đưa dương vật vào cái miệng đã được banh ra và (dương vật) không có va chạm vào miệng. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đem lòng say đắm người nữ nọ. Nàng ấy đã từ trần và bị quăng bỏ ở mộ địa. Các khúc xương đã bị phân tán rải rác. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã đi vào bãi tha ma rồi thâu nhặt các khúc xương lại và đã đặt dương vật vào chỗ kín. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[64] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã thực hiện việc đôi lứa với rồng cái. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã thực hiện việc đôi lứa với dạ-xoa nữ. ...(như trên)... đã thực hiện việc đôi lứa với ma nữ (petiyā). ...(như trên)... đã thực hiện việc đôi lứa với người vô căn. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[65] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị liệt cảm giác (upahatindriyo). Vị ấy (nghĩ rằng): “Ta đây không cảm giác được lạc hay khổ, như thế ta sẽ không phạm tội” rồi đã thực hiện việc đôi lứa. ...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, kẻ rồ dại ấy đã phạm tội pārājika dầu đã cảm giác hay đã không cảm giác.
[66] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Ta sẽ thực hiện việc đôi lứa với người nữ” nhưng chỉ mới đụng chạm vị ấy đã hối hận. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[67] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi nghỉ ngơi vào ban ngày trong khu rừng Jātiyā ở thành Bhaddiya đã nằm xuống. Các phần cơ thể của vị ấy đã bị cương lên bởi gió. Có người nữ nọ nhìn thấy rồi đã ngồi lên trên dương vật (của vị ấy), đến khi đạt được mục đích đã bỏ đi. Các vị tỳ khưu nhìn thấy (vị ấy) bị nhầy nhụa nên đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, dương vật trở nên cương cứng do năm lý do: do ái dục, do phân, do nước tiểu, do gió, do bị cắn bởi sâu bọ. Này các tỳ khưu, đây là năm lý do làm cho dương vật trở nên cương cứng. Này các tỳ khưu, dương vật của vị tỳ khưu ấy trở nên cương cứng do ái dục là điều không có cơ sở và không hợp lý. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy là vị A-la-hán. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không có phạm tội.
[68] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi nghỉ ngơi vào ban ngày trong khu rừng Andha ở thành Sāvatthi đã nằm xuống. Có cô chăn bò nọ nhìn thấy rồi đã ngồi lên trên dương vật (của vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đã ưng thuận việc đưa vào, đã ưng thuận khi được đẩy vào, đã ưng thuận khi dừng lại, đã ưng thuận việc rút ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi nghỉ ngơi vào ban ngày trong khu rừng Andha ở thành Sāvatthi đã nằm xuống. Có cô chăn dê nọ nhìn thấy ...(như trên)... Có cô đi mót củi nọ nhìn thấy ...(như trên)... Có cô đi nhặt phân bò nọ nhìn thấy rồi đã ngồi lên trên dương vật (của vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đã ưng thuận việc đưa vào, đã ưng thuận khi được đẩy vào, đã ưng thuận khi dừng lại, đã ưng thuận việc rút ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[69] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi nghỉ ngơi vào ban ngày ở Mahāvana trong thành Vesālī đã nằm xuống. Có người nữ nọ nhìn thấy rồi đã ngồi lên trên dương vật (của vị ấy) và sau khi đạt được mục đích đã đứng cạnh bên rồi cười. Vị tỳ khưu ấy thức giấc đã nói với người nữ ấy điều này:
- Có phải việc làm này là của cô?
- Thưa vâng, việc làm này là của tôi.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi có biết không?
- Bạch Thế Tôn, con không biết.
- Này tỳ khưu, vị không biết thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi nghỉ ngơi vào ban ngày ở Mahāvana trong thành Vesālī đã nằm xuống tựa vào thân cây. Có người nữ nọ nhìn thấy rồi đã ngồi lên trên dương vật (của vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đã lập tức đứng dậy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, có phải ngươi đã ưng thuận?
- Bạch Thế Tôn, con đã không ưng thuận.
- Này tỳ khưu, vị không ưng thuận thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi nghỉ ngơi vào ban ngày ở Mahāvana trong thành Vesālī đã nằm xuống tựa vào thân cây. Có người nữ nọ nhìn thấy rồi đã ngồi lên trên dương vật (của vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đã đạp (khiến cô ấy) lăn tròn. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, có phải ngươi đã ưng thuận?
- Bạch Thế Tôn, con đã không ưng thuận.
- Này tỳ khưu, vị không ưng thuận thì vô tội.
[70] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi nghỉ ngơi vào ban ngày tại giảng đường Kūṭāgāra ở Mahāvana trong thành Vesālī đã mở cửa lớn rồi nằm xuống. Các phần thân thể của vị ấy đã bị cương lên bởi gió. Vào lúc bấy giờ, có nhiều người nữ mang theo vật thơm và tràng hoa đã đi đến tu viện ngắm nhìn các trú xá. Khi ấy, những người nữ ấy đã nhìn thấy vị tỳ khưu ấy nên đã ngồi lên trên dương vật (của vị ấy), đến khi đạt được mục đích đã nói rằng: “Đây quả thật là người như bò mộng,” sau khi để lại vật thơm và tràng hoa rồi đã bỏ đi. Các vị tỳ khưu nhìn thấy (vị ấy) bị nhầy nhụa nên đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, dương vật trở nên cương cứng do năm lý do: do ái dục, do phân, do nước tiểu, do gió, do bị cắn bởi sâu bọ. Này các tỳ khưu, đây là năm lý do làm cho dương vật trở nên cương cứng. Này các tỳ khưu, dương vật của vị tỳ khưu ấy trở nên cương cứng do ái dục là điều không có cơ sở và không hợp lý. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy là vị A-la-hán. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không có phạm tội. Này các tỳ khưu, đối với vị nghỉ ngơi (paṭisallīyantena) vào ban ngày, ta cho phép nghỉ ngơi sau khi đã đóng cửa lớn lại.
[71] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ người thành phố Bhārukaccha trong lúc đang ngủ (mơ thấy) đã thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ (nên nghĩ rằng): “Ta không còn là sa-môn nữa, ta sẽ hoàn tục.” Trong lúc đi đến thành phố Bhārukaccha, giữa đường đã nhìn thấy đại đức Upāli và đã kể lại sự việc ấy. Đại đức Upāli đã nói như vầy:
- Này đại đức, trong giấc mơ thì không phạm tội.
[72] Vào lúc bấy giờ, nữ cư sĩ tên Supabbā ở trong thành Rājagaha là người có đức tin mù quáng. Cô ấy có tri kiến như vầy: “Người nữ nào cúng dường việc đôi lứa thì người nữ ấy dâng vật thí tối thượng.” Sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu, cô ấy đã nói điều này:
- Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy thực hiện việc đôi lứa.
- Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.
- Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở giữa hai bắp vế; như thế ngài sẽ không phạm tội.
Vị tỳ khưu ấy đã làm như thế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vào lúc bấy giờ, nữ cư sĩ tên Supabbā ở trong thành Rājagaha là người có đức tin mù quáng. Cô ấy có tri kiến như vầy: “Người nữ nào cúng dường việc đôi lứa thì người nữ ấy dâng vật thí tối thượng.” Sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu, cô ấy đã nói điều này:
- Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy thực hiện việc đôi lứa.
- Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.
- Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở lỗ rún; ...(như trên)... Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở bụng; ...(như trên)... Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở nách; ...(như trên)... Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở cổ; ...(như trên)... Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở lỗ tai; ...(như trên)... Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở bím tóc; ...(như trên)... Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở giữa hai ngón tay; ...(như trên)... Thưa ngài, hãy đến. Tôi sẽ đến gần và dùng tay làm (ngài) xuất tinh; như thế ngài sẽ không phạm tội.
Vị tỳ khưu ấy đã làm như thế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[73] Vào lúc bấy giờ, nữ cư sĩ tên Saddhā ở trong thành Sāvatthi là người có đức tin mù quáng. Cô ấy có tri kiến như vầy: “Người nữ nào cúng dường việc đôi lứa thì người nữ ấy dâng vật thí tối thượng.” Sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu, cô ấy đã nói điều này:
- Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy thực hiện việc đôi lứa.
- Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.
- Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở giữa hai bắp vế; như thế ngài sẽ không phạm tội.
Vị tỳ khưu ấy đã làm như thế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[74] Vào lúc bấy giờ, nữ cư sĩ tên Saddhā ở trong thành Sāvatthi có đức tin mù quáng. Cô ấy có tri kiến như vầy: “Người nữ nào cúng dường việc đôi lứa thì người nữ ấy dâng vật thí tối thượng.” Sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu, cô ấy đã nói điều này:
- Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy thực hiện việc đôi lứa.
- Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.
- Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở lỗ rún; ...(như trên)... Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở bụng; ...(như trên)... Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở nách; ...(như trên)... Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở cổ; ...(như trên)... Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở lỗ tai; ...(như trên)... Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở bím tóc; ...(như trên)... Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy cọ xát ở giữa hai ngón tay; ...(như trên)... Thưa ngài, hãy đến. Tôi sẽ đến gần và dùng tay làm (ngài) xuất tinh; như thế ngài sẽ không phạm tội.
Vị tỳ khưu ấy đã làm như thế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[75] Vào lúc bấy giờ, các vương tử Licchavi ở thành Vesālī đã bắt giữ vị tỳ khưu rồi buộc phải phạm giới với vị tỳ khưu ni. Cả hai đã ưng thuận, cả hai nên bị trục xuất. Cả hai đã không ưng thuận, cả hai đều vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các vương tử Licchavi ở thành Vesālī đã bắt giữ vị tỳ khưu rồi buộc phải phạm giới với cô ni tu tập sự. ...(như trên)... rồi buộc phải phạm giới với vị sa di ni. Cả hai đã ưng thuận cả hai nên bị trục xuất. Cả hai đã không ưng thuận, cả hai đều vô tội.
[76] Vào lúc bấy giờ, các vương tử Licchavi ở thành Vesālī đã bắt giữ vị tỳ khưu rồi buộc phải phạm giới với gái điếm. ...(như trên)... rồi buộc phải phạm giới với người vô căn. ...(như trên)... rồi buộc phải phạm giới với nữ gia chủ. Vị tỳ khưu đã ưng thuận, vị tỳ khưu nên bị trục xuất. Vị tỳ khưu đã không ưng thuận, vị tỳ khưu vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các vương tử Licchavi ở thành Vesālī đã bắt giữ vị tỳ khưu rồi buộc phải phạm giới lẫn nhau. Cả hai đã ưng thuận, cả hai nên bị trục xuất. Cả hai đã không ưng thuận, cả hai đều vô tội.
[77] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ xuất gia lúc tuổi đã lớn. Vị ấy đã đi gặp người vợ cũ. Cô ấy đã níu giữ lại (nói rằng):
- Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy hoàn tục.
Vị tỳ khưu ấy trong lúc bước lui đã té ngửa ra. Cô ấy đã giở (y) lên rồi ngồi lên trên dương vật (của vị ấy). Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, có phải ngươi đã ưng thuận?
- Bạch Thế Tôn, con đã không ưng thuận.
- Này tỳ khưu, vị không ưng thuận thì vô tội.
[78] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ ngụ ở trong rừng. Có con nai tơ đã đi đến chỗ tiểu tiện của vị ấy. Trong lúc đang uống nước tiểu, nó đã dùng miệng ngậm lấy dương vật (của vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đã ưng thuận. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Dứt điều pārājika thứ nhất.
[1]Kalandaputta nghĩa là “con trai của Kalanda.”
[2]Đúng ra phải dịch rằng: “điều này đã khởi đến Sudinna Kalandaputta.”
[3]Y paṃsukūla: y được may bằng vải dơ bị người ta quăng bỏ, thông thường là vải quấn tử thi được tìm thấy ở bãi tha ma.
[4]Ngài Buddhaghosa giải thích ở Chú Giải Samantapāsādikā rằng đã tám năm trôi qua nên người nữ tỳ không thể nhận ra đại đức Sudinna mà chỉ nhận biết qua các đặc điểm trên (Đại đức Sudinna xuất gia vào năm thứ mười hai của đức Thế Tôn và lúc bấy giờ là năm thứ hai mươi).
[5]Theo ngài Buddhaghosa cho biết, hai mẹ con đã xuất gia sau đó khoảng bảy hoặc tám năm.
[6]Là việc đặt dương vật vào trong miệng của con rắn có nọc độc khủng khiếp, vào trong miệng của con hắc xà, vào trong hố than được đốt cháy có ngọn lửa sáng rực.
[7]Là việc đặt dương vật vào trong âm vật của người nữ.
[8]Ngài Buddhaghosa giải thích rằng Saddhamma gồm có ba phần: Pariyattisaddhamma (Pháp Học) gồm tất cả các lời dạy của đức Phật đã được kết tập thành Tam Tạng, Patipattisaddhamma (Pháp Hành) là 13 pháp Đầu-đà, 14 pháp hành, 82 phận sự chính, Giới, Định, và Minh Sát, Adhigamasaddhamma (Pháp Đắc Chứng) là 4 Đạo, 4 Quả, và Niết Bàn. Về 82 phận sự chính Ṭīkā (Sớ giải) giải thích rằng: 66 phận sự của vị hành parivāsa (bắt đầu với điều “Không nên ban phép tu lên bậc trên, ..., không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất”), không ngụ chung với 5 hạng tỳ khưu: vị cũng thực hành parivāsa nhưng thâm niên hơn, vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta, vị đang thực hành mānatta, vị xứng đáng sự giải tội, tính là 5 điều thành 71. “Không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các vị tỳ khưu trong sạch” tính là 1 điều thành 72. “Không nên bôi nhọ vị tỳ khưu trong sạch với sự hư hỏng về giới, v.v...” tính là 10 điều. Tổng cọng là 82 phận sự.
[9]Từ “bất cộng trụ” đã được sử dụng quen thuộc khi đề cập đến tội pārājika. Thật ra, “bất cộng trụ” là từ dịch của “asaṃvāsa” trong “... pārājiko hoti asaṃvāso,” chứ không phải của “pārājika.” “Pārājika” được xem là tên của tội, còn “asaṃvàsa” có thể xem như là một hình thức xử lý tội pārājika, là không được sống chung và tiến hành các hành sự như là lễ Uposatha, lễ Parāraṇā, v.v.... Ngài Buddhaghosa chỉ ra động từ liên quan là “parājeti = khuất phục, đánh bại, chế ngự, chiến thắng” và giải thích rằng vị “pārājiko” là vị “parājito: quá khứ phân từ thể thụ động của parājeti, có nghĩa là: bị khuất phục, bị đánh bại, bị chế ngự.” Như vậy, “pārājika” có nghĩa là “kẻ thất trận, kẻ bại trận người thua cuộc” và được sử dụng cho tên của một loại tội cực nặng trong giới bổn Pātimokkha của tỳ khưu gồm 4 điều được trình bày trong chương này. Chúng tôi giữ nguyên từ “pārājika” không dịch. Trường hợp cần thiết sẽ dùng từ “bất cộng trụ” để quý vị có thể dễ dàng nắm vững được vấn đề.
[10]Là việc đặt dương vật vào trong miệng của con rắn có nọc độc khủng khiếp, vào trong miệng của con hắc xà, vào trong hố than được đốt cháy có ngọn lửa sáng rực.
[11]Là việc đặt dương vật vào trong âm vật của con khỉ cái.
[12]Adhisīla: Tăng thượng giới là giới bổn Pātimokkha. Adhicitta: Tăng thượng tâm là sự tu tập các loại định hợp thế. Adhipaññā: Tăng thượng tuệ là sự tu tập (các tâm) Đạo Siêu Thế (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[13]Theo như phần phân tích bên dưới, hạng người này có luôn cả hai bộ phận sinh dục nam và nữ. Vì thế, chúng tôi tạm dùng từ “lưỡng căn” để dịch từ “ubhatobyañjana.” Trong thực tế, bản thân chúng tôi chưa từng được nghe hoặc được đọc tài liệu khoa học nào nói về trường hợp này.
[14]Từ Pāli paṇḍ$aka là đề cập đến người phái nam. Về phái nữ, các từ được tìm thấy là paṇḍikā, itthipaṇḍikā, itthipaṇḍaka. Từ tiếng Anh tương đương là “eunuch” được dịch sang tiếng Việt là “hoạn quan, thái giám.” Từ “bị thiến” đã được dùng đến trong một số bản dịch trước đây. Lâu nay, chúng tôi hiểu theo ý nghĩa thông thường đó. Gần đây, chúng tôi tìm thấy từ “jātipaṇḍaka” mới biết thêm được là có hạng người paṇḍaka bẩm sanh. Dựa theo phần giảng giải của giới pārājika thứ nhất này, chúng tôi có được khái niệm là hạng này không có bộ phận sinh dục, còn việc xác định nam hay nữ là do các đặc tính khác như vóc dáng, bộ ngực, giọng nói, v.v... Về tâm sinh lý, trong Mahāvagga - Đại Phẩm thuộc tạng Luật có câu chuyện đề cập đến bản chất ham muốn về nhục dục của hạng người này. Chúng tôi tạm dịch là “vô căn” cho hạng người không có bộ phận sinh dục này cho dù là bẩm sinh hay bị thiến.
[15]Ṭīkā giải thích “bhikkhupaccatthikā” là “các kẻ đối nghịch của tỳ khưu” còn ngài Buddhaghosa thiên về ý “các tỳ khưu đối nghịch.” Theo văn phạm, hai cách dịch trên đều có khả năng tùy theo cách phân tích danh từ kép “bhikkhupaccatthikā” là tappurisa hay kammadhāraya. Xin xem phần [44] bên dưới để xác định mạch văn và có được sự chọn lựa hợp lý.
[16]Nếu ở trên dịch là “các kẻ đối nghịch của tỳ khưu” thì ở đây phải dịch là “các kẻ đối nghịch của vị vua” xét ra không hợp lý. Chính vì ở đây phải chọn “các vị vua đối nghịch” nên có thể xác định ý nghĩa cho phần [40] ở trên là “những tỳ khưu đối nghịch.”
[17]Có thể liên hệ phần này với hai câu chuyện ở phần [59].
[18]Điều vô tội này ở CD Budsir iv không có, được thêm vào theo CD Chaṭṭhasaṅgāyana và bản dịch tiếng Anh.
[19]Đúng ra phải dịch rằng: “Có nỗi nghi hoặc đã khởi đến vị ấy.”
[20]Lúc này, vị tỳ khưu ni Uppalavaṇṇa đã là vị A-la-hán. Còn người thanh niên ấy khi vừa đi khuất tầm mắt của vị tỳ khưu ni thì quả địa cầu đã nứt tạo ra lỗ hổng hút vào lòng đất như thể quả địa cầu này không thể nâng đỡ nỗi kẻ độc ác ấy. Anh ta lập tức bị đọa vào địa ngục Avīci và ở vào trạng thái bị lửa địa ngục thiêu đốt (theo giải thích của ngài Buddhaghosa).
[21]Theo văn cảnh có thể nghiệm ra rằng thi thể này là của người nữ, dựa vào văn phạm không thể xác định được.
[22]Ngài Buddhaghosa giải thích rằng vị này đẹp trai (sundara) và là vị Bất Lai.
-ooOoo-
[79] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha (Vương Xá), ở núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu sơn). Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ-khưu thân thiết đồng quan điểm đã dựng lên ở sườn núi Isigili những túp lều bằng cỏ rồi vào mùa (an cư) mưa. Đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm cũng đã dựng lên túp lều bằng cỏ và vào mùa (an cư) mưa. Rồi khi đã sống qua ba tháng mùa mưa, các vị tỳ-khưu ấy đã tháo gỡ các túp lều cỏ, thu xếp cỏ và gỗ lại, rồi ra đi du hành trong xứ sở. Còn đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đã cư trú mùa mưa ở chính nơi ấy, mùa lạnh ở nơi ấy, và mùa nóng ở nơi ấy. Rồi trong lúc đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đi vào làng để khất thực, những cô cắt cỏ, những cô mót củi đã tháo gỡ túp lều cỏ, đoạt lấy cỏ và gỗ, rồi (mang) đi.
Đến lần thứ nhì, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đã gom góp cỏ và gỗ rồi dựng lên túp lều cỏ. Và lần thứ nhì, trong lúc đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đi vào làng để khất thực, những cô cắt cỏ, những cô mót củi đã tháo gỡ túp lều cỏ, đoạt lấy cỏ và gỗ, rồi (mang) đi.
Đến lần thứ ba, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đã gom góp cỏ và gỗ rồi dựng lên túp lều cỏ. Và lần thứ ba, trong lúc đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đi vào làng để khất thực, những cô cắt cỏ, những cô mót củi đã tháo gỡ túp lều cỏ, đoạt lấy cỏ và gỗ, rồi (mang) đi.
Khi ấy, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đã khởi ý điều này: “Quả thật đã đến lần thứ ba, trong lúc ta đi vào làng để khất thực, những cô cắt cỏ, những cô mót củi đã tháo gỡ túp lều cỏ, đoạt lấy cỏ và gỗ, rồi (mang) đi. Vả lại, ta đã khéo học tập nghề làm đồ gốm với thầy ta, không sai sót, và có tay nghề thiện xảo; hay là ta nên đích thân nhồi trộn đất bùn và tạo nên một túp lều hoàn toàn bằng đất sét?” Sau đó, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đã đích thân nhồi trộn đất bùn và tạo nên một túp lều hoàn toàn bằng đất sét, rồi đã thu nhặt cỏ, củi, phân bò khô, và nung chín túp lều ấy. Túp lều ấy đẹp đẽ, đáng nhìn, xinh xắn, có màu đỏ như cánh kiến. Giống như tiếng vang của cái chuông nhỏ, âm thanh của túp lều ấy cũng tương tợ như thế.
Rồi sau đó, đức Thế Tôn trong lúc đi xuống từ núi Gijjhakūṭa cùng với nhiều vị tỳ-khưu đã nhìn thấy túp lều đẹp đẽ, đáng nhìn, xinh xắn, có màu đỏ như cánh kiến ấy. Sau khi nhìn thấy, đức Thế Tôn đã hỏi các tỳ-khưu rằng:
- Này các tỳ-khưu, cái vật đẹp đẽ, đáng nhìn, xinh xắn, có màu đỏ như cánh kiến kia là vật gì vậy?
Khi ấy, các vị tỳ-khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ-khưu, kẻ rồ dại ấy thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các tỳ-khưu, vì sao kẻ rồ dại ấy lại đích thân nhồi trộn đất bùn và tạo nên một túp lều hoàn toàn bằng đất sét? Này các tỳ-khưu, kẻ rồ dại ấy quả không có sự quan tâm, không có lòng thương xót, không có tâm vô hại đối với các sanh mạng! Này các tỳ-khưu, hãy đi và phá vỡ túp lều ấy. Chớ để loài người sau này (theo gương đó) gây nên việc giết hại các sanh mạng. Này các tỳ-khưu, không nên thực hiện cốc liêu hoàn toàn bằng đất sét; vị nào thực hiện thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
- Bạch ngài, xin vâng.
Các vị tỳ-khưu ấy sau khi đáp lời đức Thế Tôn đã đi đến túp lều ấy, sau khi đến đã phá vỡ túp lều ấy. Khi ấy, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đã nói với các tỳ-khưu ấy điều này:
- Này các đại đức, vì sao các vị phá vỡ túp lều của tôi vậy?
- Này đại đức, đức Thế Tôn bảo phá vỡ.
- Này các đại đức, nếu bậc Pháp chủ bảo phá vỡ thì hãy phá vỡ đi.
[80] Sau đó, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đã khởi ý rằng: “Quả thật đã đến lần thứ ba, trong lúc ta đi vào làng để khất thực, những cô cắt cỏ, những cô mót củi đã tháo gỡ túp lều cỏ, đoạt lấy cỏ và gỗ, rồi (mang) đi. Ngay cả túp lều hoàn toàn bằng đất sét được ta tạo nên cũng đã bị đức Thế Tôn cho phá vỡ. Có viên quản lý kho gỗ là người đồng đạo với ta; hay là ta nên yêu cầu viên quản lý kho gỗ các cây gỗ rồi tạo nên một túp lều bằng gỗ?”Sau đó, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đã đi đến gặp viên quản lý kho gỗ, sau khi đến đã nói với viên quản lý kho gỗ điều này:
- Này đạo hữu, quả thật đã đến lần thứ ba, trong lúc ta đi vào làng để khất thực, những cô cắt cỏ, những cô mót củi đã tháo gỡ túp lều cỏ, đoạt lấy cỏ và gỗ, rồi (mang) đi. Ngay cả túp lều hoàn toàn bằng đất sét được ta tạo nên cũng đã bị đức Thế Tôn cho phá vỡ. Này đạo hữu, hãy cho ta các cây gỗ; ta muốn thực hiện túp lều bằng gỗ.
- Thưa ngài, các cây gỗ mà tôi có thể dâng ngài thì các loại như thế không có. Thưa ngài, có những cây gỗ thuộc quốc khố là vật liệu tu bổ thành phố được để riêng phòng lúc hữu sự. Nếu đức vua bảo cho các thứ ấy thì ngài hãy cho người mang đi.
- Này đạo hữu, (các thứ ấy) đã được đức vua cho rồi.
Khi ấy, viên quản lý kho gỗ (nghĩ rằng): “Các sa-môn Thích tử này quả thật là những vị thực hành Pháp, là những vị thực hành sự an tịnh, là những vị có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp, ngay cả đức vua cũng tịnh tín những vị này; không thể nào (họ) lại nói: ‘Đã được cho!’ về vật chưa được cho,” nên đã nói với đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm điều này:
- Thưa ngài, hãy cho người mang đi.
Sau đó, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đã cho người cắt xẻ các cây gỗ ấy thành từng miếng, cho chuyển đi bằng các xe tải, rồi đã thực hiện túp lều bằng gỗ.
[81] Sau đó, Bà-la-môn Vassakāra là quan đại thần xứ Magadha trong lúc đi thanh tra các công việc trong thành Rājagaha đã đi đến gặp viên quản lý kho gỗ, sau khi đến đã nói với viên quản lý kho gỗ điều này:
- Này khanh, có những cây gỗ thuộc quốc khố là vật liệu tu bổ thành phố được để riêng phòng lúc hữu sự, những cây gỗ ấy đâu rồi?
- Thưa quan lớn, những cây gỗ ấy đã được đức vua cho đến ngài Dhaniya con trai người thợ gốm rồi.
Khi ấy, Bà-la-môn Vassakāra quan đại thần xứ Magadha trở nên không hoan hỷ (nghĩ rằng): “Vì sao đức vua lại cho Dhaniya con trai người thợ gốm những cây gỗ thuộc quốc khố là vật liệu tu bổ thành phố được để riêng phòng lúc hữu sự?” Sau đó, Bà-la-môn Vassakāra quan đại thần xứ Magadha đã đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này:
- Nghe nói những cây gỗ thuộc quốc khố là vật liệu tu bổ thành phố được để riêng phòng lúc hữu sự đã được bệ hạ cho đến Dhaniya con trai người thợ gốm, có đúng không vậy?
- Ai đã nói như thế?
- Tâu bệ hạ, viên quản lý kho gỗ.
- Này Bà-la-môn, nếu thế thì hãy truyền lệnh gọi viên quản lý kho gỗ.
Sau đó, Bà-la-môn Vassakāra quan đại thần xứ Magadha đã truyền lệnh trói viên quản lý kho gỗ.
[82] Đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đã nhìn thấy viên quản lý kho gỗ bị trói lại và đang bị dẫn đi, sau khi nhìn thấy, đã nói với viên quản lý kho gỗ điều này:
- Này đạo hữu, vì sao ngươi bị trói lại và bị dẫn đi vậy?
- Thưa ngài, vì sự việc của những cây gỗ ấy.
- Này đạo hữu, ngươi cứ đi. Ta cũng đi nữa.
- Thưa ngài, ngài nên đến trước khi tôi bị giết chết.
Sau đó, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đã đi đến hậu cung của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm điều này:
- Thưa ngài, nghe nói những cây gỗ thuộc quốc khố là vật liệu tu bổ thành phố được để riêng phòng lúc hữu sự đã được trẫm cho đến ngài, có đúng không vậy?
- Tâu đại vương, đúng vậy.
- Thưa ngài, chúng tôi là những vị vua có nhiều phận sự, có nhiều việc phải làm, sau khi đã cho không thể nhớ được. Thưa ngài, giờ xin hãy nhắc lại.
- Tâu đại vương, ngài có nhớ khi được phong vương lần thứ nhất ngài tuyên bố lời như vầy: “Cỏ, gỗ, và nước đã được dâng đến các sa-môn và Bà-la-môn, hãy để cho các vị sử dụng.”
- Thưa ngài, trẫm đã nhớ rồi. Thưa ngài, có những sa-môn và Bà-la-môn khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy có sự hối hận cho dù chỉ là các sự việc nhỏ nhặt, và vật đã được trẫm nói có liên quan đến các vị ấy là vật vô chủ ở trong rừng. Thưa ngài, chính ngài đã suy nghĩ dùng mưu mẹo ấy để lấy vật chưa được cho là các cây gỗ. Làm sao trẫm đây có thể hành hạ, hoặc giam giữ, hoặc trục xuất vị sa-môn hay vị Bà-la-môn được? Thưa ngài, hãy đi đi. Ngài được tự do nhờ hình tướng và chớ có tái phạm việc như vầy nữa!
[83] Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các vị sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn, giới hạnh xấu xa, nói láo. Chính các vị này giả vờ là những vị thực hành Pháp, là những vị thực hành sự an tịnh, là những vị có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp! Các vị này không có sa-môn hạnh, các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đã bị hư hỏng, Phạm hạnh của các vị này đã bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đã không còn, Phạm hạnh của các vị này đã không còn! Các vị này còn đánh lừa ngay cả các đức vua, thì đâu còn gì nữa đối với những người khác?
Các tỳ-khưu đã nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỳ-khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm lại lấy vật chưa được cho là các cây gỗ của đức vua vậy?
Sau đó, các vị tỳ-khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ-khưu lại và hỏi đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm rằng:
- Này Dhaniya, nghe nói ngươi lấy vật chưa được cho là các cây gỗ của đức vua, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại lấy vật chưa được cho là các cây gỗ của đức vua vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Hơn nữa, này kẻ rồ dại, chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
Vào lúc bấy giờ, có vị quan đại thần nọ trước kia là vị xử án đã xuất gia nơi các vị tỳ-khưu đang ngồi cách đức Thế Tôn không xa. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị tỳ-khưu ấy điều này:
- Này tỳ-khưu, với mức bao nhiêu thì đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha (sẽ) hành hạ, hoặc giam giữ, hoặc trục xuất kẻ trộm cắp sau khi bắt được?
- Bạch Thế Tôn, với một pāda, hoặc tương đương một pāda, hoặc hơn một pāda.
Vào lúc bấy giờ, ở thành Rājagaha, năm māsaka thì bằng một pāda.[1] Khi ấy, đức Thế Tôn đã khiển trách đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ...(như trên)... Sau khi ngợi khen về sự ra sức nỗ lực, ngài đã thuyết Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ-khưu rồi đã bảo các tỳ-khưu rằng:
- ...(như trên)... Và này các tỳ-khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ-khưu nào lấy vật không được cho theo lối trộm cắp; tương tợ như trong vụ đánh cắp, các vị vua sau khi bắt được kẻ trộm thì có thể hành hạ, hoặc có thể giam giữ, hoặc có thể trục xuất (phán rằng): ‘Ngươi là kẻ trộm, ngươi là kẻ ngu, ngươi là kẻ khờ, ngươi là kẻ cướp;’ cũng tương tợ như thế, vị tỳ-khưu khi lấy vật không được cho, vị này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ-khưu như thế.
[84] Vào lúc bấy giờ, các tỳ-khưu nhóm Lục Sư đã đi đến chỗ nhuộm y và lấy trộm gói đồ nhuộm mang về tu viện chia nhau. Các tỳ-khưu đã nói như vầy:
- Này các đại đức, các vị thật là đại phước! Các vị đã phát sanh được nhiều y.
- Này các đại đức, do đâu mà chúng tôi có phước? Hôm nay, chúng tôi đã đi đến chỗ nhuộm y và lấy trộm gói đồ nhuộm.
- Này các đại đức, không phải điều học đã được đức Thế Tôn quy định hay sao? Này các đại đức, tại sao các người lại lấy trộm gói đồ nhuộm?
- Này các đại đức, đúng vậy. Điều học đã được đức Thế Tôn quy định và điều ấy là ở trong làng, không phải ở trong rừng.
- Này các đại đức, điều ấy không phải là như thế hay sao? Này các đại đức, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các đại đức, vì sao các đại đức lại lấy trộm gói đồ nhuộm? Này các đại đức, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Hơn nữa, này các đại đức, chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
Rồi sau khi khiển trách các tỳ-khưu nhóm Lục Sư bằng nhiều phương thức, các tỳ-khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ-khưu lại và hỏi các tỳ-khưu nhóm Lục Sư rằng:
- Này các tỳ-khưu, nghe nói các ngươi đã đi đến chỗ nhuộm y và lấy trộm gói đồ nhuộm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại đi đến chỗ nhuộm y và lấy trộm gói đồ nhuộm? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ-khưu nhóm Lục Sư bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ...(như trên)... Sau khi ngợi khen về sự ra sức nỗ lực, ngài đã thuyết Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ-khưu rồi đã bảo các tỳ-khưu rằng:
- ...(như trên)... Và này các tỳ-khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ-khưu nào lấy vật không được cho từ làng hoặc từ rừng theo lối trộm cắp; tương tợ như trong vụ đánh cắp, các vị vua sau khi bắt được kẻ trộm thì có thể hành hạ, hoặc có thể giam giữ, hoặc có thể trục xuất (phán rằng): ‘Ngươi là kẻ trộm, ngươi là kẻ ngu, ngươi là kẻ khờ, ngươi là kẻ cướp;’ cũng tương tợ như thế, vị tỳ-khưu khi lấy vật không được cho, vị này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”
[85] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)... Vị ấy được gọi là “vị nào.”
tỳ-khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ-khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Làngnghĩa là một túp lều cũng là làng. Hai túp lều cũng là làng. Ba túp lều cũng là làng. Bốn túp lều cũng là làng. Làng có người. Làng không có người. Làng được rào lại. Làng không được rào lại. Làng được thiết lập theo từng cụm nhà. Thậm chí chiếc xe tải của thương buôn dừng lại trên bốn tháng cũng được gọi là làng.
Vùng ven làng nghĩa là tính đến chỗ rơi xuống của cục đất được ném đi bởi người nam (có sức mạnh) hạng trung đứng ở bục cổng của ngôi làng được rào lại, (hoặc) tính đến chỗ rơi xuống của cục đất được ném đi bởi người nam (có sức mạnh) hạng trung đứng ở vùng biên của các ngôi nhà thuộc làng không được rào lại.
Rừngnghĩa là trừ đi làng và vùng ven làng, phần còn lại gọi là rừng.
Vật không được chonghĩa là vật nào chưa được cho, chưa được trao, chưa được dứt bỏ, được bảo vệ, được canh giữ, có sở hữu chủ, được quản lý bởi người khác; vật ấy là vật không được cho.
Theo lối trộm cắp: có tâm trộm cắp, có tâm lấy trộm.
[86] Lấy đi: vị lấy đi, vị mang đi, vị lấy trộm, vị làm thay đổi tư thế, vị làm di chuyển khỏi vị trị, vị chờ đến giờ hẹn.
[87] Có hình thức như thế nghĩa là một pāda, hoặc tương đương một pāda, hoặc hơn một pāda.
Các vị vuanghĩa là các vị vua (cai trị) toàn trái đất, các vị vua của một xứ, các vị vua của một vùng, các vị trưởng bộ tộc, các quan xử án, các quan đại thần, hoặc các vị nào điều khiển việc gia hình thì gọi là các vị vua.
Kẻ trộmnghĩa là kẻ nào lấy đi theo lối trộm cắp vật không được cho trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka; kẻ ấy gọi là kẻ trộm.
(Hoặc) có thể hành hạ: Họ có thể hành hạ bằng tay, bằng chân, bằng roi, bằng gậy, bằng đùi cui, hoặc bằng cách làm cho tàn phế.
Hoặc có thể giam giữ: Họ có thể giam giữ theo cách trói bằng dây thừng, theo cách trói bằng xiềng xích, theo cách trói bằng cùm, bằng cách giam trong nhà ngục, bằng cách giữ trong thành phố, bằng cách giữ trong làng, bằng cách giữ trong thị trấn, hoặc họ có thể thực hiện việc cho người canh gác.
Hoặc có thể trục xuất: Họ có thể trục xuất ra khỏi làng, ra khỏi thị trấn, ra khỏi thành phố, ra khỏi khu vực, ra khỏi xứ sở.
Ngươi là kẻ trộm, ngươi là kẻ ngu, ngươi là kẻ khờ, ngươi là kẻ cướp: Điều này là sự quở trách.
[88] Có hình thức như thế nghĩa là một pāda, hoặc tương đương một pāda, hoặc hơn một pāda.
Khi lấy: trong khi lấy đi, trong khi mang đi, trong khi lấy trộm, trong khi làm thay đổi tư thế, trong khi làm cho rời khỏi vị trí, trong khi đang chờ đến giờ hẹn.
[89] Vị này cũng: là liên quan đến vị trước đây đã được đề cập.
Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như chiếc lá vàng đã lìa khỏi cành không thể xanh trở lại; tương tợ như thế, vị tỳ-khưu lấy đi theo lối trộm cắp vật không được cho có giá trị một pāda hoặc hơn một pāda thì không phải là sa-môn, không phải là Thích tử; vì thế, được gọi là “vị phạm tội pārājika.”
Không được cộng trú: Sự cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là sự cộng trú. Vị ấy không có được điều ấy, vì thế được gọi là “không được cộng trú.”
[90] Vật ở trong đất, vật ở trên mặt đất, vật ở trên không trung, vật ở cách mặt đất, vật ở trong nước, vật ở trên chiếc thuyền, vật ở trong xe, vật là gói hàng, vật ở trong vườn, vật ở trong trú xá, vật ở trong ruộng, vật ở trong khu đất, vật ở trong làng, vật ở trong rừng, nước, tăm xỉa răng, cây rừng, vật được mang đi, vật được ký gởi, trạm thuế, sinh mạng, loài không chân, loài hai chân, loài bốn nhân, loài nhiều chân, người theo dõi, người bảo vệ vật ký gởi, lấy trộm theo kế hoạch, hành động theo giờ hẹn, hành động theo dấu hiệu.
[91] Vật ở trong đất nghĩa là vật được chôn ở trong lòng đất, đã được phủ kín. Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm vật ở trong đất,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai, hoặc tìm kiếm cái thuổng hay cái giỏ, hoặc đi (một mình) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) chặt cây hoặc dây leo mọc ở nơi ấy thì phạm tội tác ác (dukkaṭa);[2] (nếu) đào đất, hoặc xắn ra, hoặc lấy lên thì phạm tội tác ác (dukkaṭa);[3] (nếu) sờ vào cái hũ thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
Vị có ý định trộm cắp, sau khi đưa vật đựng của mình vào trong (hũ),[4] (nếu) sờ vào vật có giá trị năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) bỏ vào trong vật đựng của mình hoặc bốc lên một nắm tay thì phạm tội pārājika.
Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào vật làm theo dạng sợi: hoặc là dây thắt lưng, hoặc là dây chuyền cổ, hoặc là dây chuyền ở hông, hoặc là tấm vải choàng, hoặc là khăn xếp đội đầu thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) nắm vào chóp (của một vật nào) rồi nâng lên thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) chà xát rồi bỏ xuống thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) đưa ra khỏi miệng hũ cho dù chỉ một khoảng cách mảnh như sợi tóc thì phạm tội pārājika.
Vị có ý định trộm cắp, trong một lần (nếu) uống bơ lỏng (sappi), hay dầu ăn, hay mật ong, hay nước mía trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì phạm tội pārājika. Ngay tại chỗ đó, (nếu) đập bể, hoặc đổ bỏ, hoặc đốt đi, hoặc làm cho không còn sử dụng được nữa thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[92] Vật ở trên đất nghĩa là vật được đặt ở trên mặt đất. Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm vật ở trên mặt đất,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
[93] Vật ở trên không nghĩa là vật di chuyển ở trên không, hoặc là chim công, hoặc là chim đa đa, hoặc là gà gô, hoặc là chim cun cút, hoặc là tấm vải choàng, hoặc là khăn xếp đội đầu, hoặc là nữ trang, hoặc là vàng bị bể ra và rơi xuống. Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm vật ở trên không,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một mình) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm gián đoạn sự di chuyển thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
[94] Vật ở cách mặt đất[5] nghĩa là vật được đặt ở trên không (cách khoảng với mặt đất) hoặc là ở trên giường, hoặc là ở trên ghế, hoặc là ở sào máng y, hoặc là ở dây treo y, hoặc là ở chốt đinh đóng ở tường, hoặc là ở cái móc ngà voi, hoặc là được treo trên cây, thậm chí chỉ ở trên vật kê bình bát. Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm vật ở cách mặt đất,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một mình) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
[95] Vật ở trong nước nghĩa là vật được đặt ở trong nước. Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm vật ở trong nước,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một mình) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) lặn xuống hoặc nổi lên thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào hoặc là đóa sen xanh, hoặc là đóa sen hồng, hoặc là đóa sen trắng, hoặc là ngó sen mọc ở nơi ấy, hoặc là cá, hoặc là rùa trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
[96] Thuyền nghĩa là (người ta) vượt qua (hồ, sông, biển, v.v...) bằng vật ấy. Vật ở trên chiếc thuyền nghĩa là vật được đặt ở trên thuyền. Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm vật ở trên chiếc thuyền,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một mình) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm chiếc thuyền,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một mình) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) tháo dây buộc thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); sau khi tháo dây buộc, (nếu) vị ấy sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm di chuyển tới, hoặc lui, hoặc ngang, cho dù chỉ một khoảng cách mảnh như sợi tóc thì phạm tội pārājika.
[97] Xe nghĩa là xe có mui, xe kéo hai bánh, xe tải hàng, xe ngựa kéo. Vật ở trong xe nghĩa là vật được đặt ở trong xe. Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm vật ở trong xe,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một mình) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm chiếc xe,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một mình) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
[98] Gói hàng nghĩa là gói hàng ở trên đầu, gói hàng ở vai, gói hàng ở hông, vật được đeo. Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào gói hàng ở trên đầu thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) đưa xuống vai thì phạm tội pārājika. Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào gói hàng ở trên vai thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) đưa xuống hông thì phạm tội pārājika. Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào gói hàng ở hông thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) cầm bằng tay thì phạm tội pārājika. Vị có ý định trộm cắp, (nếu) đặt gói hàng ở tay xuống mặt đất thì phạm tội pārājika. Vị có ý định trộm cắp, (nếu) nhấc lên khỏi mặt đất thì phạm tội pārājika.
[99] Vườn nghĩa là vườn hoa, vườn trái cây. Vật ở trong vườn nghĩa là vật được để ở bốn nơi trong vườn: vật ở trong đất, vật ở trên mặt đất, vật ở trên không trung, vật ở cách mặt đất. Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm vật ở trong vườn,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một mình) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào hoặc là rễ cây mọc ở nơi ấy, hoặc là vỏ cây, hoặc là lá cây, hoặc là bông hoa, hoặc là trái cây trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
Vị kiện cáo về quyền sở hữu (abhiyuñjati) khu vườn thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm cho người chủ khởi lên sự nghi hoặc (về quyền sở hữu) thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) người chủ buông bỏ trách nhiệm: “(Khu vườn) sẽ không còn là của tôi nữa!” thì phạm tội pārājika.
[100] Vật ở trong trú xá nghĩa là vật được để ở bốn nơi trong trú xá: vật ở trong đất, vật ở trên mặt đất, vật ở trên không trung, vật ở cách mặt đất. Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm vật ở trong trú xá,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một mình) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
Vị kiện cáo về quyền sở hữu trú xá thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm cho người chủ khởi lên sự nghi hoặc (về quyền sở hữu) thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) người chủ buông bỏ trách nhiệm: “(Trú xá) sẽ không còn là của tôi nữa!” thì phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lý (dhammaṃ caranto), nếu vị ấy thắng người chủ thì phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lý, (nếu) thua thì phạm trọng tội (thullaccaya).
[101] Ruộng nghĩa là nơi sản xuất thóc lúa và rau xanh. Vật ở trong ruộng nghĩa là vật được để ở bốn nơi trong ruộng: vật ở trong đất, vật ở trên mặt đất, vật ở trên không trung, vật ở cách mặt đất. Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm vật ở trong ruộng,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một mình) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào thóc lúa hoặc là rau xanh trồng ở nơi ấy trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
Vị kiện cáo về quyền sở hữu mảnh ruộng thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm cho người chủ khởi lên sự nghi hoặc (về quyền sở hữu) thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) người chủ buông bỏ trách nhiệm: “(Mảnh ruộng) sẽ không còn là của tôi nữa!” thì phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lý, nếu vị ấy thắng người chủ thì phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lý, (nếu) thua thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Vị di chuyển cọc ranh, hoặc dây ngăn, hoặc hàng rào, hoặc ranh giới thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); khi phần việc cuối cùng chưa hoàn tất thì phạm trọng tội (thullaccaya); khi phần việc cuối cùng ấy đã hoàn tất thì phạm tội pārājika.
[102] Khu đất nghĩa là khu đất vườn, khu đất trú xá. Vật ở trong khu đất nghĩa là vật được để ở bốn nơi trong khu đất: vật ở trong đất, vật ở trên mặt đất, vật ở trên không trung, vật ở cách mặt đất. Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm vật ở trong khu đất,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một mình) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
Vị kiện cáo về quyền sở hữu mảnh ruộng thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm cho người chủ khởi lên sự nghi hoặc (về quyền sở hữu) thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) người chủ buông bỏ trách nhiệm: “(Khu đất) sẽ không còn là của tôi nữa!” thì phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lý, nếu vị ấy thắng người chủ thì phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lý, (nếu) thua thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Vị di chuyển cọc ranh, hoặc dây ngăn, hoặc hàng rào, hoặc tường thành thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); khi phần việc cuối cùng chưa hoàn tất thì phạm trọng tội (thullaccaya); khi phần việc cuối cùng ấy đã hoàn tất thì phạm tội pārājika.
[103] Vật ở trong làng nghĩa là vật được để ở bốn nơi trong làng: vật ở trong đất, vật ở trên mặt đất, vật ở trên không trung, vật ở cách mặt đất. Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm vật ở trong làng,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một mình) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
[104] Rừng nghĩa là nơi nào có được sự quản lý của con người, nơi ấy tức là rừng. Vật ở trong rừng nghĩa là vật được để ở bốn nơi trong rừng: vật ở trong đất, vật ở trên mặt đất, vật ở trên không trung, vật ở cách mặt đất. Vị có ý định trộm cắp: “Ta sẽ lấy trộm vật ở trong rừng,” (nếu) kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một mình) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào hoặc là cây gỗ, hoặc là dây leo, hoặc là cỏ mọc ở nơi ấy trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
[105] Nước nghĩa là nước đã được đưa vào trong chậu, hoặc ở trong là hồ chứa, hoặc ở trong đập ngăn. Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
Sau khi đưa chậu của mình vào, vị có ý định trộm cắp (nếu) sờ vào số nước trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho (nước) vào hẳn trong chậu của mình thì phạm tội pārājika.
Vị phá vỡ tường thành thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); sau khi phá vỡ tường thành, (nếu) cho thoát ra lượng nước trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì phạm tội pārājika; (nếu) cho thoát ra lượng nước trị giá hơn một māsaka hoặc kém năm māsaka thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) cho thoát ra lượng nước trị giá một māsaka hoặc kém một māsaka thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[106] Tăm xỉa răng nghĩa là đã được cắt hoặc chưa được cắt. Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào vật trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
[107] Cây rừng nghĩa là cây gỗ có sự hữu dụng được con người quản lý. Vị có ý định trộm cắp, (nếu) (dùng dao) chặt, thì phạm tội tác ác (dukkaṭa) theo mỗi nhát dao; khi nhát dao cuối cùng chưa hoàn tất thì phạm trọng tội (thullaccaya); khi nhát dao cuối cùng đã hoàn tất thì phạm tội pārājika.
[108] Vật được mang đi nghĩa là vật thuộc về người khác đang được mang đi. Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
(Nghĩ rằng): “Ta sẽ dẫn đi người khuân vác cùng với vật,” (nếu) làm di chuyển bước chân thứ nhất thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm di chuyển bước chân thứ nhì thì phạm tội pārājika.
(Nghĩ rằng): “Ta sẽ nhặt lấy vật bị rơi,” (nếu) làm cho (vật) rơi xuống thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào vật bị rơi xuống trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
[109] Vật ký gởi nghĩa là vật được ủy thác. Khi được nói rằng: “Cho tôi vật (đã ký gởi),” (nếu) trả lời: “Tôi không có giữ” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm cho người chủ khởi lên sự nghi hoặc (về việc ký gởi) thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) người chủ buông bỏ vấn đề: “Người này sẽ không trao cho ta!” thì phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lý, nếu vị ấy thắng người chủ thì phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lý, (nếu) thua thì phạm trọng tội (thullaccaya).
[110] Trạm thuế nghĩa là ở khe núi, hoặc ở bến đò, hoặc ở cổng làng đức vua đã quy định rằng: “Nơi đây người đi vào phải đóng thuế.” Sau khi đi vào nơi đó, vị có ý định trộm cắp (nếu) sờ vào vật có thuế phải đóng trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) vượt qua khỏi trạm thuế bước thứ nhất thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) vượt qua bước thứ nhì thì phạm tội pārājika. Vị đứng ở giữa trạm thuế và ném ra khỏi trạm thuế thì phạm tội pārājika. Vị mang theo vật chịu thuế thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[111] Sinh mạng nghĩa là sinh mạng con người được đề cập đến. Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
(Nghĩ rằng): “Ta sẽ dẫn đi từng bước,” (nếu) làm di chuyển bước chân thứ nhất thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm di chuyển bước chân thứ nhì thì phạm tội pārājika.
[112] Loài không chân nghĩa là loài rắn, loài cá. Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào (loài không chân) trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
[113] Loài hai chân nghĩa là loài người, loài có cánh.[6] Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào (loài hai chân) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
(Nghĩ rằng): “Ta sẽ dẫn đi từng bước,” (nếu) làm di chuyển bước chân thứ nhất thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm di chuyển bước chân thứ nhì thì phạm tội pārājika.
[114] Loài bốn chân nghĩa là loài voi, loài ngựa, loài lạc đà, loài bò, loài lừa, loài gia súc. Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào (loài bốn chân) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
(Nghĩ rằng): “Ta sẽ dẫn đi từng bước,” (nếu) làm di chuyển bước chân thứ nhất thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm di chuyển bước chân thứ nhì thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm di chuyển bước chân thứ ba thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm di chuyển bước chân thứ tư thì phạm tội pārājika.
[115] Loài nhiều chân nghĩa là loài bò cạp, loài rết (trăm chân), loài sâu róm. Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào (loài nhiều chân) trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
(Nghĩ rằng): “Ta sẽ dẫn đi từng bước,” (nếu) làm di chuyển bước chân thứ nhất thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm di chuyển cứ mỗi bước chân thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm di chuyển bước chân cuối cùng thì phạm tội pārājika.
[116] Người theo dõi nghĩa là sau khi theo dõi vật dụng vị ấy nói rằng: “Hãy lấy trộm vật dụng tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). (Nếu) vị kia lấy trộm vật dụng ấy thì cả hai phạm tội pārājika.
[117] Người bảo vệ vật ký gởi nghĩa là gìn giữ vật đã được mang đến. Vị có ý định trộm cắp, (nếu) sờ vào (vật ký gởi) trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
[118] Lấy trộm theo kế hoạch nghĩa là sau khi nhiều vị bàn thảo rồi một vị lấy trộm đồ vật thì tất cả đều phạm tội pārājika.
[119] Hành động theo giờ hẹn nghĩa là quy định giờ hẹn hoặc là trước bữa ăn, hoặc là sau bữa ăn, hoặc là ban đêm, hoặc là ban ngày. (nếu) (bảo rằng): “Hãy lấy trộm vật ấy vào giờ hẹn ấy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) vị kia lấy trộm đồ vật ấy vào giờ hẹn ấy thì cả hai phạm tội pārājika; (nếu) vị kia lấy trộm đồ vật ấy trước hay sau giờ hẹn ấy thì vị khởi xướng vô tội còn vị lấy trộm phạm tội pārājika.
[120] Hành động theo dấu hiệu nghĩa là vị ấy làm dấu hiệu (bảo rằng): “Tôi sẽ nháy mắt, hoặc là tôi sẽ nhướng mày, hoặc là tôi sẽ ngẩng đầu lên, ngươi hãy lấy trộm vật ấy theo dấu hiệu ấy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) vị kia lấy trộm đồ vật ấy theo dấu hiệu ấy thì cả hai phạm tội pārājika; (nếu) vị kia lấy trộm vật dụng ấy trước hay sau dấu hiệu ấy thì vị khởi xướng vô tội còn vị lấy trộm thì phạm tội pārājika.
[121] Vị tỳ-khưu chỉ thị vị tỳ-khưu rằng: “Hãy lấy trộm vật tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị kia nhận biết vật ấy rồi lấy trộm vật ấy thì cả hai phạm tội pārājika. Vị tỳ-khưu chỉ thị vị tỳ-khưu rằng: “Hãy lấy trộm vật tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị kia nhận biết vật ấy rồi lấy trộm vật khác thì vị khởi xướng vô tội còn vị lấy trộm phạm tội pārājika. Vị tỳ-khưu chỉ thị vị tỳ-khưu rằng: “Hãy lấy trộm vật tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị kia nhận biết vật khác rồi lấy trộm vật ấy thì cả hai phạm tội pārājika. Vị tỳ-khưu chỉ thị vị tỳ-khưu rằng: “Hãy lấy trộm vật tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị kia nhận biết vật khác rồi lấy trộm vật khác thì vị khởi xướng vô tội còn vị lấy trộm phạm tội pārājika.
Vị tỳ-khưu (A)[7] chỉ thị vị tỳ-khưu (B) rằng: “Hãy bảo vị tên (C) rằng: Vị tên (C) hãy nói với vị tên (D) rằng: ‘Vị tên (D) hãy lấy trộm vật tên như vầy’” thì vị ấy (A) phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị (nào) nói cho vị khác thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị lấy trộm (D) đồng ý thì vị khởi xướng (A) phạm trọng tội (thullaccaya); vị ấy (D) lấy trộm vật ấy thì tất cả đều phạm tội pārājika. Vị tỳ-khưu (A) chỉ thị vị tỳ-khưu (B) rằng: “Hãy bảo vị tên (C) rằng: Vị tên (C) hãy nói với vị tên (D) rằng: ‘Vị tên (D) hãy lấy trộm vật tên như vầy’” thì vị ấy (A) phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị ấy (B) chỉ thị vị khác (D) thì vị ấy (B) phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị lấy trộm (D) đồng ý thì vị ấy (D) phạm tội tác ác (dukkaṭa); vị ấy (D) lấy trộm vật ấy thì vị khởi xướng (A) vô tội, vị truyền chỉ thị (B) và vị lấy trộm (D) phạm tội pārājika.
Vị tỳ-khưu chỉ thị vị tỳ-khưu rằng: “Hãy lấy trộm vật tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị kia đi rồi quay trở lại (nói rằng): “Tôi không thể lấy trộm vật ấy.” Vị ấy lại chỉ thị thêm: “Khi nào ngươi có thể thì khi ấy ngươi hãy lấy trộm vật ấy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị kia lấy trộm vật ấy thì cả hai phạm tội pārājika.
Vị tỳ-khưu chỉ thị vị tỳ-khưu rằng: “Hãy lấy trộm vật tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận nhưng không nói rõ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có lấy trộm.” Vị kia lấy trộm vật ấy thì cả hai phạm tội pārājika. Vị tỳ-khưu chỉ thị vị tỳ-khưu rằng: “Hãy lấy trộm vật tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận rồi nói rõ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có lấy trộm.” Vị kia (đáp lại rằng): “Tôi đã được ngài chỉ thị” rồi lấy trộm vật ấy thì vị khởi xướng vô tội, còn vị lấy trộm phạm tội pārājika. Vị tỳ-khưu chỉ thị vị tỳ-khưu rằng: “Hãy lấy trộm vật tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận rồi nói rõ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có lấy trộm.” Vị kia (đáp lại rằng): “Tốt thôi” rồi ngưng lại thì cả hai vô tội.
[122] Vị lấy vật không được cho phạm tội pārājika với năm yếu tố: là vật thuộc về người khác, biết vật thuộc về người khác, là vật dụng quan trọng trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka, ý định trộm cắp có hiện diện. (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
Vị lấy vật không được cho phạm trọng tội (thullaccaya) với năm yếu tố: là vật thuộc về người khác, biết vật thuộc về người khác, là vật dụng tầm thường trị giá hơn một māsaka hoặc kém năm māsaka, ý định trộm cắp có hiện diện. (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Vị lấy vật không được cho phạm tội tác ác (dukkaṭa) với năm yếu tố: là vật thuộc về người khác, biết vật thuộc về người khác, là vật dụng tầm thường trị giá một māsaka hoặc kém một māsaka, ý định trộm cắp có hiện diện. (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[123] Vị lấy vật không được cho phạm tội pārājika với sáu yếu tố: biết vật không thuộc về mình, lấy không phải do sự thân thiết, không phải (mượn) trong thời hạn, là vật dụng quan trọng trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka, ý định trộm cắp có hiện diện. (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm trọng tội (thullaccaya); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội pārājika.
Vị lấy vật không được cho phạm trọng tội (thullaccaya) với sáu yếu tố: biết vật không thuộc về mình, lấy không phải do sự thân thiết, không phải (mượn) trong thời hạn, là vật dụng tầm thường trị giá hơn một māsaka hoặc kém năm māsaka, ý định trộm cắp có hiện diện. (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Vị lấy vật không được cho phạm trọng tội (thullaccaya) với sáu yếu tố: biết vật không thuộc về mình, lấy không phải do sự thân thiết, không phải (mượn) trong thời hạn, là vật dụng tầm thường trị giá một māsaka hoặc kém một māsaka, ý định trộm cắp có hiện diện. (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[124] Vị lấy vật không được cho phạm tội tác ác (dukkaṭa) với năm yếu tố: là vật không thuộc về người khác, nghĩ là vật thuộc về người khác, là vật dụng quan trọng trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka, ý định trộm cắp có hiện diện. (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Vị lấy vật không được cho phạm tội tác ác (dukkaṭa) với năm yếu tố: là vật không thuộc về người khác, nghĩ là vật thuộc về người khác, là vật dụng tầm thường trị giá hơn một māsaka hoặc kém năm māsaka, ý định trộm cắp có hiện diện. (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Vị lấy vật không được cho phạm tội tác ác (dukkaṭa) với năm yếu tố: là vật không thuộc về người khác, nghĩ là vật thuộc về người khác, là vật dụng tầm thường trị giá một māsaka hoặc kém một māsaka, ý định trộm cắp có hiện diện. (nếu) sờ vào thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm lay động thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) làm cho dời khỏi vị trí thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[125] Tưởng là của mình, trong khi lấy do sự thân thiết, (mượn ) trong thời hạn, thuộc về người chết (peta), thuộc về loài thú, nghĩ là vật bị quăng bỏ (paṃsukūla), vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt Tụng phẩm thứ nhất thuộc phần “Trộm cắp.”
[126]
Về những người thợ nhuộm
năm chuyện được đề cập,
bốn chuyện tấm vải choàng,
năm chuyện về ban đêm,
năm chuyện vị mang vác,
đáp thuận theo câu nói
năm chuyện được kể lại,
hai chuyện khác về gió,
ở thi thể chưa hoại,
rút thăm cỏ kusa,
chuyện nhà tắm thứ mười,
vật thú ăn thừa lại
năm chuyện được nói đến,
vị không có hiện diện
cũng đề cập năm chuyện,
lúc khó khăn vật thực
cơm, thịt, và bánh nướng,
bánh ngọt, và thịt ngọt,
vật dụng, cùng túi xách,
tấm nệm, sào máng y,
vị đã không đi ra,
được ăn do thân thiết,
tưởng của mình hai chuyện,
“Chúng tôi không lấy trộm”
như thế có bảy chuyện,
và lấy trộm bảy chuyện,
của hội chúng bảy chuyện,
hai chuyện khác về hoa,
nhân danh người khác nói
có ba chuyện cả thảy,
đem qua ba viên ngọc,
heo rừng, nai, và cá,
di chuyển cả chiếc xe,
chim tha đi hai chuyện,
các khúc gỗ hai chuyện,
vải paṃsukūla,
nước cuốn trôi hai chuyện,
từng chút, sự phân công,
chuyện khác chưa đủ số,
ở thành Sāvatthi
đầy nắm tay bốn chuyện,
phần còn thừa hai chuyện,
có hai chuyện về cỏ,
trái cây thuộc hội chúng
chia phần có bảy chuyện,
không phép chủ bảy chuyện,
gỗ, nước, và đất sét,
và hai chuyện về cỏ,
vị lấy trộm chiếc giường, v.v...
của hội chúng bảy chuyện,
và vật có chủ nhân
cũng không nên di chuyển,
chỉ tạm thời mang đi
vật có chủ thì được,
Campā, và Vương Xá,
và ngài Ajjuka
ở thành Vesālī,
chuyện Bārāṇasī,
và ở Kosambī,
và vị Daḷhika
ở thành Sāgalā.
[127] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ-khưu nhóm Lục Sư đã đi đến chỗ nhuộm y và lấy trộm gói đồ nhuộm. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định; phải chăng chúng ta đã phạm tội pārājika?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, các ngươi đã phạm tội pārājika.
[128] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đi đến chỗ nhuộm y nhìn thấy tấm vải quý giá nên đã khởi tâm trộm cắp. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội pārājika?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ-khưu, vô tội trong (trường hợp) sanh khởi tâm.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đi đến chỗ nhuộm y nhìn thấy tấm vải quý giá nên khởi tâm trộm cắp và sờ vào. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đi đến chỗ nhuộm y nhìn thấy tấm vải quý giá nên khởi tâm trộm cắp và làm lay động. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đi đến chỗ nhuộm y nhìn thấy tấm vải quý giá nên khởi tâm trộm cắp và làm dời khỏi vị trí. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[129] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đi khất thực nhìn thấy tấm vải choàng quý giá nên đã khởi tâm trộm cắp. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, vô tội trong (trường hợp) sanh khởi tâm.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đi khất thực nhìn thấy tấm vải choàng quý giá nên đã khởi tâm trộm cắp và sờ vào. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội tác ác (dukkaṭa).
... (như trên)... nên đã khởi tâm trộm cắp và làm lay động. ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).
... (như trên)... nên đã khởi tâm trộm cắp và làm dời khỏi vị trí. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[130] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ sau khi nhìn thấy đồ vật vào ban ngày rồi đã làm dấu hiệu (nghĩ rằng): “Ta sẽ lấy trộm vào ban đêm.” Vị ấy nhận ra vật ấy rồi lấy trộm vật ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
... (như trên)... Vị ấy nhận ra vật ấy rồi lấy trộm vật khác. ... (như trên)... Vị ấy nhận ra vật khác rồi lấy trộm vật ấy. ... (như trên)... Vị ấy nhận ra vật khác rồi lấy trộm vật khác. ... (như trên)... Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ sau khi nhìn thấy đồ vật vào ban ngày rồi đã làm dấu hiệu (nghĩ rằng): “Ta sẽ lấy trộm vào ban đêm.” Vị ấy nhận ra vật ấy rồi lấy trộm đồ vật của chính mình. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[131] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ trong lúc đang mang đồ vật của người khác đã khởi tâm trộm cắp rồi sờ vào gói đồ ở trên đầu. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội tác ác (dukkaṭa).
... (như trên)... đã khởi tâm trộm cắp rồi làm lay động. ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).
... (như trên)... nên đã khởi tâm trộm cắp và đã đưa xuống vai. ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
... (như trên)... đã khởi tâm trộm cắp rồi sờ vào gói đồ ở trên vai. ... (như trên)... đã khởi tâm trộm cắp rồi làm lay động. ... (như trên)... đã khởi tâm trộm cắp và đã đưa xuống hông. ... (như trên)... đã khởi tâm trộm cắp rồi sờ vào gói đồ ở hông. ... (như trên)... đã khởi tâm trộm cắp rồi làm lay động. ... (như trên)... đã khởi tâm trộm cắp rồi cầm lấy ở tay. ... (như trên)... đã khởi tâm trộm cắp rồi đặt gói đồ ở tay xuống đất ... (như trên)... đã khởi tâm trộm cắp rồi nhấc lên khỏi mặt đất. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[132] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đã căng y ở ngoài trời rồi đi vào trong trú xá. Có vị tỳ-khưu nọ (nghĩ rằng): “Chớ để y này bị hư hỏng,” nên đã đem cất đi. Vị kia đi ra rồi đã hỏi vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Này đại đức, y của tôi đã bị ai lấy trộm?
Vị ấy nói như vầy:
- Đã bị tôi lấy trộm.
Vị kia đã giữ vị ấy lại (nói rằng):
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con (chỉ đáp lại) thuận theo câu nói (niruttipatho).
- Này tỳ-khưu, vô tội trong việc (đáp lại) thuận theo câu nói.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đã để y ở trên ghế. ...(như trên)... đã để tọa cụ ở trên ghế ...(như trên)... đã để bình bát ở dưới ghế rồi đi vào trong trú xá. Có vị tỳ-khưu nọ (nghĩ rằng): “Chớ để bình bát này bị hư hỏng,” nên đã đem cất đi. Vị kia đi ra rồi đã hỏi vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Này đại đức, bình bát của tôi đã bị ai lấy trộm?
Vị ấy nói như vầy:
- Đã bị tôi lấy trộm.
Vị kia đã giữ vị ấy lại (nói rằng):
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, vô tội trong việc (đáp lại) thuận theo câu nói.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu ni nọ đã căng y ở hàng rào rồi đi vào trong trú xá. Có vị tỳ-khưu ni nọ (nghĩ rằng): “Chớ để y này bị hư hỏng,” nên đã đem cất đi. Vị ni kia đi ra rồi đã hỏi vị tỳ-khưu ni ấy rằng:
- Này ni sư, y của tôi đã bị ai lấy trộm?
Vị ni ấy nói như vầy:
- Đã bị tôi lấy trộm.
Vị ni kia đã giữ vị ni ấy lại (nói rằng):
- Cô không còn là nữ sa-môn nữa.
Vị ni ấy đã có nỗi nghi hoặc. Sau đó, vị tỳ-khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ-khưu ni. Các tỳ-khưu ni đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ-khưu. Các tỳ-khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, vô tội trong việc (đáp lại) thuận theo câu nói.
[133] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ nhìn thấy một tấm vải choàng bị cuốn đi bởi cơn gió xoáy nên đã nhặt lấy (nghĩ rằng): “Ta sẽ cho lại những người chủ.” Những người chủ đã quở trách vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không có ý định trộm cắp.
- Này tỳ-khưu, vị không có ý định trộm cắp thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đã nhặt lấy khăn xếp đội đầu bị cuốn đi bởi cơn gió xoáy với ý định trộm cắp (nghĩ rằng): “(Phải nhặt lấy) trước khi những người chủ nhìn thấy.” Những người chủ đã quở trách vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con có ý định trộm cắp.
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[134] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đi vào nơi nghĩa địa đã nhặt lấy vải paṃsukūla ở thi thể chưa hoại. Và có ngạ quỷ (peta) trú trong thi thể ấy.[8] Khi ấy, ngạ quỷ ấy đã nói với vị tỳ-khưu điều này:
- Thưa ngài, xin chớ lấy đi tấm vải choàng của tôi.
Vị tỳ-khưu ấy không chú ý đến nên đã nhặt lấy. Khi ấy, thi thể ấy đã đứng dậy và đi sát phía sau vị tỳ-khưu ấy. Sau đó, vị tỳ-khưu ấy đã đi vào trú xá và đóng cửa lại. Khi ấy, thi thể ấy đã té xuống ngay tại chỗ ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi không phạm tội pārājika. Và này các tỳ-khưu, không nên lấy vải paṃsukūla ở thi thể chưa hoại; vị nào lấy thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[135] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ trong lúc phân chia các y cho hội chúng đã tráo thăm (kusa) với ý định trộm cắp và lấy được y.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[136] Vào lúc bấy giờ, ở trong nhà tắm hơi đại đức Ānanda nghĩ là của mình nên đã mặc vào y nội của vị tỳ-khưu nọ. Khi ấy, vị tỳ-khưu ấy đã nói với đại đức Ānanda điều này:
- Này đại đức Ānanda, sao đại đức lại mặc y nội của tôi?
- Này đại đức, tôi tưởng là của tôi.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, vị (lầm) tưởng là của mình thì vô tội.
[137] Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ-khưu trong lúc đi xuống từ núi Gijjhakūṭā đã nhìn thấy phần thịt ăn còn thừa của sư tử (sīhavighāsaṃ) nên đã cho nấu chín rồi thọ dụng. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, (trong trường hợp) phần thịt ăn còn thừa của sư tử thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ-khưu trong lúc đi xuống từ núi Gijjhakūṭā đã nhìn thấy phần thịt ăn còn thừa của loài cọp ... (như trên)... đã nhìn thấy phần thịt ăn còn thừa của loài beo ... (như trên)... đã nhìn thấy phần thịt ăn còn thừa của loài linh cẩu ... (như trên)... đã nhìn thấy phần thịt ăn còn thừa của chó sói nên đã cho nấu chín rồi thọ dụng. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này các tỳ-khưu, (trong trường hợp) vật thuộc về loài thú thì vô tội.
[138] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ trong khi cơm của hội chúng được phân chia (đã nói rằng): “Hãy trao cho tôi phần của vị khác” rồi lấy phần của vị không có hiện diện (amūlakaṃ). Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội ưng đối trị (pācittiya) trong việc cố tình nói dối.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ trong khi vật thực cứng của hội chúng được phân chia ... (như trên)... trong khi bánh nuớng (pūva) của hội chúng được phân chia ... (như trên)... trong khi mía cây của hội chúng được phân chia ... (như trên)... trong khi dưa (timbarūsake) của hội chúng được phân chia ... (như trên)... (nói rằng): “Hãy trao cho tôi phần của vị khác” rồi lấy phần của vị không có hiện diện. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội ưng đối trị (pācittiya) trong việc cố tình nói dối.
[139] Vào lúc bấy giờ, trong thời kỳ khó khăn về vật thực có vị tỳ-khưu nọ có ý định trộm cắp đã đi vào cửa hàng bán cơm lấy trộm đầy bát cơm. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, trong thời kỳ khó khăn về vật thực có vị tỳ-khưu nọ có ý định trộm cắp đã đi vào cửa hàng bán thịt lấy trộm đầy bát thịt. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, trong thời kỳ khó khăn về vật thực có vị tỳ-khưu nọ có ý định trộm cắp đã đi vào cửa hàng bán bánh nướng lấy trộm đầy bát bánh nướng. ... (như trên)... có ý định trộm cắp đã lấy trộm đầy bát bánh ngọt (sakkhali) ... (như trên)... có ý định trộm cắp đã lấy trộm đầy bát thịt ngọt (modaka). Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[140] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ sau khi nhìn thấy vật dụng vào ban ngày rồi đã làm dấu hiệu (nghĩ rằng): “Ta sẽ lấy trộm vào ban đêm.” Vị ấy nhận ra vật ấy rồi lấy trộm vật ấy. ... (như trên)... Vị ấy nhận ra vật ấy rồi lấy trộm vật khác. ... (như trên)... Vị ấy nhận ra vật khác rồi lấy trộm vật ấy. ... (như trên)... Vị ấy nhận ra vật khác rồi lấy trộm vật khác. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ sau khi nhìn thấy vật dụng vào ban ngày rồi đã làm dấu hiệu (nghĩ rằng): “Ta sẽ lấy trộm vào ban đêm.” Vị ấy nhận ra vật ấy rồi lấy trộm vật dụng của chính mình. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[141] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ sau khi nhìn thấy túi xách ở trên ghế (nghĩ rằng): “Trong khi lấy từ chỗ này thì ta sẽ phạm tội pārājika” nên đã di chuyển luôn cả cái ghế rồi mới đoạt lấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[142] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ có định trộm cắp đã lấy trộm nệm của hội chúng. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[143] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ có định trộm cắp đã lấy trộm y ở sào máng y. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[144] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ sau khi đã lấy trộm y ở trong trú xá (nghĩ rằng): “Khi đi ra khỏi đây thì ta sẽ phạm tội pārājika,” rồi đã không đi ra khỏi trú xá. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, kẻ rồ dại ấy có đi ra hay không đi ra cũng đã phạm tội pārājika.
[145] Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ-khưu là bạn bè, một vị đã đi vào làng để khất thực. Còn vị thứ nhì, trong khi vật thực cứng của hội chúng được phân phát, đã nhận phần của người bạn và đã thọ dụng do sự thân thiết với vị ấy. Vị kia biết được đã quở trách vị ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con lấy do sự thân thiết.
- Này tỳ-khưu, trường hợp lấy do sự thân thiết thì vô tội.[9]
[146] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ-khưu thực hiện việc may y. Khi vật thực cứng của hội chúng được phân chia, các phần chia của tất cả các vị đã được mang đến và để ở bên cạnh. Có vị tỳ-khưu nọ (lầm) tưởng phần chia của vị tỳ-khưu khác là của mình nên đã thọ dụng. Vị kia biết được đã quở trách vị ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, vị (lầm) tưởng là của mình thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ-khưu thực hiện việc may y. Khi vật thực cứng của hội chúng được phân chia, phần chia của vị tỳ-khưu nọ được mang lại bằng bình bát của vị tỳ-khưu khác và được để xuống gần đó. Vị tỳ-khưu chủ nhân của bình bát tưởng (lầm) là của mình nên đã thọ dụng. Vị kia biết được đã quở trách vị ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, vị tưởng (lầm) là của mình thì vô tội.
[147] Vào lúc bấy giờ, có các kẻ trộm xoài đã hái xoài rồi mang theo gói (xoài) bỏ đi. Những người chủ đã đuổi theo các kẻ trộm ấy. Khi nhìn thấy những người chủ, các kẻ trộm đã đánh rơi gói (xoài) rồi tẩu thoát. Các vị tỳ-khưu tưởng rằng gói (xoài) ấy là vật quăng bỏ (paṃsukūla) nên đã cho người nhặt lấy rồi thọ dụng. Những người chủ đã quở trách các vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Các người không phải là sa-môn.
Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, (khi ấy) các ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, chúng con (lầm) tưởng là vật quăng bỏ.
- Này các tỳ-khưu, vị (lầm) tưởng là vật quăng bỏ thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có các kẻ trộm trái táo hồng (jambū) ...(như trên)... các kẻ trộm trái bánh mì (labuja) ...(như trên)... các kẻ trộm trái mít (panasa) ...(như trên)... các kẻ trộm trái chà là (tālapakka) ...(như trên)... các kẻ trộm mía (ucchu) ...(như trên)... các kẻ trộm dưa (timbarūsaka) sau khi gom các quả dưa lại rồi mang theo gói (dưa) bỏ đi. Những người chủ đã đuổi theo các kẻ trộm ấy. Khi nhìn thấy những người chủ, các kẻ trộm đã đánh rơi gói (dưa) rồi tẩu thoát. Các vị tỳ-khưu tưởng rằng gói (dưa) ấy là vật quăng bỏ (paṃsukūla) nên đã cho người nhặt lấy rồi thọ dụng. Những người chủ đã quở trách các vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Các người không phải là sa-môn.
Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ-khưu, vị (lầm) tưởng là vật quăng bỏ thì vô tội.
[148] Vào lúc bấy giờ, có các kẻ trộm xoài đã hái xoài rồi mang theo gói (xoài) bỏ đi. Những người chủ đã đuổi theo các kẻ trộm ấy. Khi nhìn thấy những người chủ, các kẻ trộm đã đánh rơi gói (xoài) rồi tẩu thoát. Các vị tỳ-khưu có ý định trộm cắp (nghĩ rằng): “(Phải ăn) trước khi những người chủ nhìn thấy,” rồi đã thọ dụng. Những người chủ đã quở trách các vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Các người không phải là sa-môn.
Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ-khưu, các ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có các kẻ trộm trái táo hồng ...(như trên)... các kẻ trộm trái bánh mì ...(như trên)... các kẻ trộm trái mít ...(như trên)... các kẻ trộm trái chà là ...(như trên)... các kẻ trộm mía ...(như trên)... các kẻ trộm dưa sau khi gom các quả dưa lại rồi mang theo gói (dưa) bỏ đi. Những người chủ đã đuổi theo các kẻ trộm ấy. Khi nhìn thấy những người chủ, các kẻ trộm đã đánh rơi gói (dưa) rồi tẩu thoát. Các vị tỳ-khưu có ý định trộm cắp (nghĩ rằng): “(Phải ăn) trước khi những người chủ nhìn thấy,” rồi đã thọ dụng. Những người chủ đã quở trách các vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Các người không phải là sa-môn.
Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ-khưu, các ngươi đã phạm tội pārājika.
[149] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ với ý định trộm cắp đã lấy trộm xoài của hội chúng. ...(như trên)... trái táo hồng của hội chúng. ...(như trên)... trái bánh mì của hội chúng. ...(như trên)... trái mít của hội chúng. ...(như trên)... trái chà là của hội chúng. ...(như trên)... mía của hội chúng. ...(như trên)... dưa của hội chúng. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[150] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đi đến vườn hoa với ý định trộm cắp đã lấy trộm bông hoa đã được hái trị giá năm māsaka. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đi đến vườn hoa. Sau khi hái bông hoa trị giá năm māsaka, vị ấy có ý định trộm cắp nên đã lấy trộm. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[151] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ trong lúc đi đến ngôi làng nhỏ đã nói với vị tỳ-khưu khác điều này:
- Này đại đức, được đại đức cho phép nên tôi sẽ nhân danh đại đức nói với gia đình hộ độ của đại đức.
Vị ấy sau khi đi đến đã bảo đem lại một tấm vải choàng và đã sử dụng cho bản thân. Vị kia biết được đã quở trách vị ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã không phạm tội pārājika. Và này các tỳ-khưu, không nên nói rằng: “Được đại đức cho phép nên tôi sẽ nói nhân danh đại đức (vutto vajjemi).” Vị nào nói thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đi đến ngôi làng nhỏ. Có vị tỳ-khưu nọ đã nói với vị tỳ-khưu ấy điều này:
- Này đại đức, được tôi cho phép nên đại đức hãy nhân danh tôi nói với gia đình hộ độ của tôi.
Vị ấy sau khi đi đến đã bảo đem lại hai tấm vải choàng và đã sử dụng cho bản thân một tấm, còn đưa cho vị tỳ-khưu kia một tấm. Vị kia biết được đã quở trách vị ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã không phạm tội pārājika. Và này các tỳ-khưu, không nên nói rằng: “Được tôi cho phép nên đại đức hãy nói nhân danh tôi (vutto vajjehi).” Vị nào nói thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ trong lúc đi đến ngôi làng nhỏ đã nói với vị tỳ-khưu khác điều này:
- Này đại đức, được đại đức cho phép nên tôi sẽ nhân danh đại đức nói với gia đình hộ độ của đại đức.
Vị kia cũng đã nói như vầy:
- Được tôi cho phép nên đại đức hãy nhân danh tôi nói với gia đình hộ độ của tôi.
Vị ấy sau khi đi đến đã bảo đem lại một āḷhakaṃ bơ lỏng, một tulaṃ mật đường, và một doṇaṃ[10] gạo rồi đã thọ dụng cho bản thân. Vị kia biết được đã quở trách vị ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã không phạm tội pārājika. Và này các tỳ-khưu, không nên nói rằng: “Được đại đức cho phép nên tôi sẽ nói nhân danh đại đức (vutto vajjemi),” và không nên nói rằng: “Được tôi cho phép nên đại đức hãy nói nhân danh tôi (vutto vajjehi).” Vị nào nói thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[152] Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ mang theo viên ngọc ma-ni quý giá cùng đi đường xa với vị tỳ-khưu nọ. Rồi khi nhìn thấy trạm thuế, người đàn ông ấy đã lén bỏ viên ngọc ma-ni vào trong túi xách của vị tỳ-khưu ấy và sau khi qua khỏi trạm thuế đã lấy lại. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không biết.
- Này tỳ-khưu, vị không biết thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ mang theo viên ngọc ma-ni quý giá cùng đi đường xa với vị tỳ-khưu nọ. Rồi khi nhìn thấy trạm thuế, người đàn ông ấy giả vờ bị bệnh rồi đã trao gói đồ của mình cho vị tỳ-khưu ấy. Sau khi qua khỏi trạm thuế, người đàn ông ấy đã nói với vị tỳ-khưu ấy điều này:
- Thưa ngài, xin hãy trao gói đồ cho tôi. Tôi không có bệnh.
- Này đạo hữu, tại sao ngươi làm như thế?
Khi ấy, người đàn ông ấy đã kể lại sự việc ấy cho vị tỳ-khưu ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không biết.
- Này tỳ-khưu, vị không biết thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đi đường xa cùng với chiếc xe ngựa. Một người đàn ông nọ đã dùng tài vật mua chuộc vị tỳ-khưu ấy, đến khi nhìn thấy trạm thuế đã trao cho vị tỳ-khưu ấy một viên ngọc ma-ni quý giá (nói rằng):
- Thưa ngài, hãy đem viên ngọc ma-ni này qua khỏi trạm thuế.
Rồi vị tỳ-khưu ấy đã đem viên ngọc ma-ni ấy qua khỏi trạm thuế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[153] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đã thả ra một con heo rừng bị mắc bẫy vì lòng trắc ẩn. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con vì lòng trắc ẩn thôi thúc.
- Này tỳ-khưu, vị vì lòng trắc ẩn thôi thúc thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đã thả ra một con heo rừng bị mắc bẫy với ý định trộm cắp (nghĩ rằng): “(Phải hành động) trước khi các người chủ nhìn thấy.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đã thả ra một con nai bị mắc bẫy vì lòng trắc ẩn. ...(như trên)... đã thả ra một con nai bị mắc bẫy với ý định trộm cắp (nghĩ rằng): “(Phải hành động) trước khi các người chủ nhìn thấy.” ...(như trên)... đã thả ra những con cá bị bị vướng vào rọ vì lòng trắc ẩn. ...(như trên)... đã thả ra những con cá bị bị vướng vào rọ với ý định trộm cắp (nghĩ rằng): “(Phải hành động) trước khi các người chủ nhìn thấy.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[154] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ sau khi nhìn thấy gói đồ ở trong chiếc xe (nghĩ rằng): “Trong khi lấy từ chỗ này thì ta sẽ phạm tội pārājika” nên đã bước lên đánh xe đi rồi mới đoạt lấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[155] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đã nhặt lấy miếng thịt bị chim ưng tha đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ cho lại những người chủ.” Những người chủ đã quở trách vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, vị không có ý định trộm cắp thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ đã nhặt lấy miếng thịt bị chim ưng tha đi với ý định trộm cắp (nghĩ rằng): “(Phải hành động) trước khi các người chủ nhìn thấy.” Những người chủ đã quở trách vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[156] Vào lúc bấy giờ, dân chúng buộc (các khúc gỗ) lại thành bè rồi thả xuôi dòng sông Aciravatī. Khi các dây buộc bị đứt, các khúc gỗ đã bị phân tán trôi đi. Các vị tỳ-khưu tưởng là vật quăng bỏ nên đã vớt lên. Những người chủ đã quở trách các vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Các người không phải là sa-môn.
Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này các tỳ-khưu, vị (lầm) tưởng là vật quăng bỏ thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, dân chúng buộc (các khúc gỗ) lại thành bè rồi thả xuôi dòng sông Aciravatī. Khi các dây buộc bị đứt, các khúc gỗ đã bị phân tán trôi đi. Các vị tỳ-khưu đã vớt lên với ý định trộm cắp (nghĩ rằng): “(Phải hành động) trước khi các người chủ nhìn thấy.” Những người chủ đã quở trách các vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Các người không phải là sa-môn.
Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này các tỳ-khưu, các ngươi đã phạm tội pārājika.
[157] Vào lúc bấy giờ, có người chăn bò nọ đã treo tấm vải choàng trên cây rồi đi đại tiện. Có vị tỳ-khưu tưởng là vật quăng bỏ nên đã nhặt lấy. Khi ấy, người chăn bò ấy đã quở trách vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này các tỳ-khưu, vị (lầm) tưởng là vật quăng bỏ thì vô tội.
[158] Vào lúc bấy giờ, trong lúc vị tỳ-khưu nọ đang lội qua sông, có một tấm vải choàng bị truột khỏi tay của những người thợ nhuộm (trôi đến) vướng vào chân (của vị ấy). Vị tỳ-khưu ấy đã nhặt lên (nghĩ rằng): “Ta sẽ cho lại những người chủ.” Những người chủ đã quở trách vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, vị không có ý định trộm cắp thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, trong lúc vị tỳ-khưu nọ đang lội qua sông, có một tấm vải choàng bị truột khỏi tay của những người thợ nhuộm (trôi đến) vướng vào chân (của vị ấy). Vị tỳ-khưu ấy nên đã nhặt lấy với ý định trộm cắp (nghĩ rằng): “(Phải hành động) trước khi các người chủ nhìn thấy.” Những người chủ đã quở trách vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[159] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ nhìn thấy hũ bơ lỏng nên đã thọ dụng mỗi lần một chút ít (thokaṃ thokaṃ). Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội tác ác (dukkaṭa).[11]
[160] Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ-khưu đã cùng nhau phân công rồi ra đi (nghĩ rằng): “Chúng ta sẽ lấy trộm đồ vật.” Một vị đã lấy trộm đồ vật. Các vị ấy đã nói như vầy:
- Chúng ta không phạm tội pārājika. Vị nào lấy trộm thì phạm tội pārājika.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, các ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ-khưu sau khi đã cùng nhau phân công rồi đã lấy trộm đồ vật và chia phần. Phần chia được các vị ấy chia ra cho mỗi một vị không đủ năm māsaka. Các vị ấy đã nói như vầy:
- Chúng ta không phạm tội pārājika.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, các ngươi đã phạm tội pārājika.
[161] Vào lúc bấy giờ, trong lúc ở thành Sāvatthi có khó khăn về vật thực, có vị tỳ-khưu nọ có ý định trộm cắp đã lấy trộm một nắm (tay) gạo của người chủ tiệm. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, trong lúc ở thành Sāvatthi có khó khăn về vật thực, có vị tỳ-khưu nọ có ý định trộm cắp đã lấy trộm một nắm (tay) đậu ...(như trên)... một nắm (tay) đậu tây ...(như trên)... một nắm (tay) hạt mè của người chủ tiệm. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[162] Vào lúc bấy giờ, trong khu rừng Andha ở thành Sāvatthi, các kẻ trộm sau khi giết con bò cái, đã ăn thịt, sau khi thu dọn phần còn thừa (để ở một nơi), rồi đi. Các vị tỳ-khưu tưởng là vật quăng bỏ nên đã cho người nhặt lấy và thọ dụng. Các kẻ trộm đã quở trách các vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Các người không phải là sa-môn.
Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này các tỳ-khưu, vị (lầm) tưởng là vật quăng bỏ thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, trong khu rừng Andha ở thành Sāvatthi, các kẻ trộm sau khi giết con heo rừng, đã ăn thịt, sau khi thu dọn phần còn thừa (để ở một nơi), rồi đi. Các vị tỳ-khưu tưởng là vật quăng bỏ nên đã cho người nhặt lấy và thọ dụng. Các kẻ trộm đã quở trách các vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Các người không phải là sa-môn.
Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này các tỳ-khưu, vị (lầm) tưởng là vật quăng bỏ thì vô tội.
[163] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ, sau khi đi đến cánh đồng cỏ, có ý định trộm cắp rồi đã lấy trộm cỏ được cắt sẵn trị giá năm māsaka. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[164] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ sau khi đi đến cánh đồng cỏ và cắt (số lượng) cỏ trị giá năm māsaka, có ý định trộm cắp rồi đã lấy trộm. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[165] Vào lúc bấy giờ, các tỳ-khưu vãng lai sau khi bảo chia phần xoài của hội chúng rồi đã thọ dụng. Các tỳ-khưu thường trú đã quở trách các vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Các người không phải là sa-môn.
Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, (khi ấy) các ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, chúng con có nhu cầu về thọ thực (paribhogatthāya).
- Này các tỳ-khưu, (trường hợp) có nhu cầu về thọ thực thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ-khưu vãng lai sau khi bảo chia phần trái táo hồng của hội chúng ...(như trên)... trái bánh mì của hội chúng ...(như trên)... trái mít của hội chúng ...(như trên)... trái chà là của hội chúng ...(như trên)... mía của hội chúng ...(như trên)... dưa của hội chúng rồi đã thọ dụng. Các tỳ-khưu thường trú đã quở trách các vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Các người không phải là sa-môn.
Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, (khi ấy) các ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, chúng con có nhu cầu về thọ thực.
- Này các tỳ-khưu, (trường hợp) có nhu cầu về thọ thực thì vô tội.
[166] Vào lúc bấy giờ, những người canh giữ xoài dâng trái xoài đến các vị tỳ-khưu. Các vị tỳ-khưu (nghĩ rằng): “Các người chủ bảo họ canh giữ các vật này chớ không bảo dâng các vật này,” nên đã ngần ngại không thọ nhận. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, vô tội trong việc bố thí của những người giữ vườn.
Vào lúc bấy giờ, những người canh giữ táo hồng ...(như trên)... những người canh giữ trái bánh mì ...(như trên)... những người canh giữ mít ...(như trên)... những người canh giữ trái chà là ...(như trên)... những người canh giữ mía ...(như trên)... những người canh giữ dưa dâng những quả dưa đến các vị tỳ-khưu. Các vị tỳ-khưu (nghĩ rằng): “Các người chủ bảo họ canh giữ các vật này chớ không bảo dâng các vật này,” nên đã ngần ngại không thọ nhận. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, vô tội trong việc bố thí của những người giữ vườn.
[167] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ lấy có tính cách tạm thời cây gỗ của hội chúng để chống đỡ bức tường của trú xá của bản thân. Các tỳ-khưu đã quở trách vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ-khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con (lấy) có tính cách tạm thời.
- Này tỳ-khưu, (trường hợp) có tính cách tạm thời thì vô tội.
[168] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ có ý định trộm cắp đã lấy trộm nước của hội chúng ...(như trên)... có ý định trộm cắp đã lấy trộm đất sét của hội chúng ...(như trên)... có ý định trộm cắp đã lấy trộm cỏ muñja của hội chúng ...(như trên)... Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ có ý định trộm cắp đã đốt cháy cỏ muñja của hội chúng ...(như trên)... Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[169] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ có ý định trộm cắp đã lấy trộm giường của hội chúng. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ-khưu nọ có ý định trộm cắp đã lấy trộm ghế của hội chúng ...(như trên)... nệm của hội chúng ...(như trên)... gối của hội chúng ...(như trên)... cánh cửa lớn của hội chúng ...(như trên)... cửa sổ của hội chúng ...(như trên)... đà gỗ của hội chúng. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ... (như trên)...
- Này tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[170] Vào lúc bấy giờ, các tỳ-khưu sử dụng chỗ nằm ngồi là vật dụng trong trú xá của người nam cư sĩ nọ tại một địa điểm khác. Khi ấy, người nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các ngài đại đức lại sử dụng đồ đạc của địa điểm này tại địa điểm khác?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, không nên sử dụng đồ đạc của địa điểm này tại địa điểm khác. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ-khưu ngần ngại di chuyển (thảm lót) đến nhà hành lễ Uposatha và phòng hội họp nên đã ngồi xuống ở nền nhà. Các thân mình và y phục đều bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, ta cho phép di chuyển có tính cách tạm thời.
[171] Vào lúc bấy giờ ở xứ Campā, vị tỳ-khưu ni học trò của tỳ-khưu ni Thullanandā đã đi đến gia đình hộ độ tỳ-khưu ni Thullanandā (nói rằng): “Ni sư muốn uống cháo gồm ba thứ;” sau khi bảo nấu, đã mang đi, rồi đã thọ dụng cho chính bản thân. tỳ-khưu ni Thullanandā biết được đã quở trách rằng:
- Ngươi không phải là nữ sa-môn.
Vị ni ấy đã có nỗi nghi hoặc. Sau đó, vị tỳ-khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ-khưu ni. Các tỳ-khưu ni đã kể lại sự việc ấy đến các tỳ-khưu. Các tỳ-khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, vị ni ấy không phạm tội pārājika mà phạm tội ưng đối trị (pācittiya) trong việc cố tình nói dối.
Vào lúc bấy giờ ở thành Rājagaha, vị tỳ-khưu ni học trò của tỳ-khưu ni Thullanandā đã đi đến gia đình hộ độ tỳ-khưu ni Thullanandā (nói rằng): “Ni sư muốn ăn mật viên;” sau khi bảo nấu, đã mang đi, rồi đã thọ dụng cho chính bản thân. tỳ-khưu ni Thullanandā biết được đã quở trách rằng:
- Ngươi không phải là nữ sa-môn.
Vị ni ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ-khưu, vị ni ấy không phạm tội pārājika mà phạm tội ưng đối trị (pācittiya) trong việc cố tình nói dối.
[172] Vào lúc bấy giờ ở thành Vesālī, người gia chủ hộ độ đại đức Ajjuka có hai đứa trẻ trai: (một) là con trai và (đứa kia) là cháu trai. Khi ấy, người gia chủ ấy đã nói với đại đức Ajjuka điều này:
- Thưa ngài, trong hai đứa trẻ trai này, đứa nào có đức tin và mộ đạo thì ngài nên trao cơ hội (okāsaṃ) này cho đứa ấy.
Người ấy đã qua đời. Vào lúc bấy giờ, đứa cháu trai của người gia chủ ấy thì có đức tin và mộ đạo. Khi ấy, đại đức Ajjuka đã trao cơ hội (okāsaṃ) ấy cho đứa trẻ trai ấy. Với của cải ấy, người ấy đã bảo quản được tài sản và còn tạo việc bố thí nữa. Rồi người con trai của vị gia chủ ấy đã nói với đại đức Ānanda điều này:
- Thưa ngài Ānanda, ai thật sự là người thừa tự của người cha: là con trai hay là cháu trai?
- Này đạo hữu, người con trai chính là người thừa tự của người cha.
- Thưa ngài, đại đức Ajjuka này đã bảo rằng của cải của chúng tôi là thuộc về người anh (em) họ của chúng tôi
- Này đạo hữu, đại đức Ajjuka không phải là sa-môn.
Sau đó, đại đức Ajjuka đã nói với đại đức Ānanda điều này:
- Này đại đức Ānanda, hãy cho tôi một cuộc phân xử.
Vào lúc bấy giờ, đại đức Upāli là thuộc về phe của đại đức Ajjuka. Khi ấy, đại đức Upāli đã nói với đại đức Ānanda điều này:
- Này đại đức Ānanda, vị (tỳ-khưu) được sở hữu chủ nói rằng: “Hãy trao cơ hội này cho người tên như vầy” rồi đã trao cho người ấy (theo lời dặn dò) thì phạm tội gì?
- Thưa ngài, vị ấy không phạm tội gì cho dù là tội tác ác (dukkaṭa) đi nữa.
- Này đại đức, đại đức Ajjuka được sở hữu chủ nói rằng: “Hãy trao cơ hội này cho người tên như vầy” rồi đã trao cho người ấy (theo lời dặn dò). Này đại đức, đại đức Ajjuka là vô tội.
[173] Vào lúc bấy giờ, ở thành Bārāṇasī, gia đình hộ độ đại đức Pilindavaccha bị bọn đạo tặc cướp bóc và hai đứa trẻ trai đã bị bắt đi. Sau đó, đại đức Pilindavaccha đã dùng thần thông đưa hai đứa trẻ ấy về lại và để ở sân nhà. Dân chúng sau khi nhìn thấy hai đứa trẻ (đã nói rằng): “Đây là năng lực thần thông của ngài Pilindavaccha!” rồi đã đặt trọn niềm tin nơi đại đức Pilindavaccha. Các vị tỳ-khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao đại đức Pilindavaccha lại đưa về những đứa trẻ đã bị bọn đạo tặc bắt đi?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, trong lãnh vực về thần thông, vị có thần thông thì vô tội .
[174] Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ-khưu là bạn bè, Paṇḍaka và Kapila. Một vị cư trú ở ngôi làng nhỏ, vị kia cư trú ở thành Kosambī. Rồi vị tỳ-khưu ấy trong lúc đi từ ngôi làng nhỏ đến thành Kosambī, ở giữa đường trong lúc lội qua con sông, có xâu thịt mỡ bị truột khỏi tay đám thợ săn heo rừng (trôi đến) vướng vào chân (của vị ấy). Vị tỳ-khưu ấy (nghĩ rằng): “Ta sẽ trao lại cho các người chủ,” rồi đã nhặt lấy. Các người chủ đã quở trách vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Ngươi không phải là sa-môn.
Một cô chăn bò nọ khi nhìn thấy vị ấy đi ngang qua đã nói điều này:
- Thưa ngài, hãy đến. Hãy thực hiện việc đôi lứa.
Vị ấy (nghĩ rằng): “Tự trong bản chất, ta không phải là sa-môn nữa rồi!” nên đã thực hiện việc đôi lứa với cô ấy, sau đó đã đi đến thành Kosambī và kể lại sự việc ấy cho các tỳ-khưu. Các tỳ-khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ-khưu, vị ấy không phạm tội pārājika trong việc trộm cắp, vị ấy phạm tội pārājika có liên quan đến việc đôi lứa.
[175] Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāgalā, vị tỳ-khưu đệ tử của đại đức Daḷhika bị bực bội bởi sự không thỏa thích nên đã lấy trộm khăn xếp đội đầu của người chủ tiệm rồi nói với đại đức Daḷhika điều này:
- Bạch ngài, tôi không phải là sa-môn, tôi sẽ hoàn tục.
- Này đại đức, ngươi đã làm điều gì?
- Bạch ngài, tôi đã lấy khăn xếp đội đầu của người chủ tiệm.
Vị ấy đã cho người đem lại và cho người định giá (vật ấy). Trong khi được định giá, vật ấy có giá trị không đến năm māsaka.
- Này đại đức, ngươi không phạm tội pārājika.
Rồi vị ấy đã thuyết Pháp thoại và vị tỳ-khưu ấy đã trở nên hoan hỷ.
Dứt điều pārājika thứ nhì.
[1] Theo ngài Buddhaghosa, đơn vị tiền tệ thời ấy là kahāpaṇa và 1 kahāpaṇa = 4 pāda = 20 māsaka. Theo bản dịch tiếng Anh “Pārājika Pāḷi” của Ven. Thumana do Department for the Promotion and Propagation of the Sāsanā xuất bản ở Miến Điện thì lấy đơn vị tiền tệ làm sự so sánh nên cho rằng: Nếu lấy trộm ¼ kyat sẽ phạm tội pārājika (1 US dollar # 1000 kyat vào năm 2002). Hơn nữa, baht đơn vị tiền tệ ở Thái Lan chính là từ pāda của Pāli (1US dollar # 45 baht vào năm 2002). Tài liệu “Luật Xuất Gia Tóm Tắt” của HT Hộ Tông cũng cho rằng 1 pāda tương đương 6 cắt bạc VN năm 1966. Nếu so sánh theo cách này thì chỉ cần trộm 1 vật có giá trị rất nhỏ cũng đã phạm tội pārājika. Tài liệu “Vinayamukha” của Ngài Mahāsamaṇa Chao (Thái Lan) ngoài cách giải thích trên còn giới thiệu một cách tính khác: “Theo Sớ giải (Tīkā), 1 māsaka trị giá bằng số vàng có trọng lượng tương đương trọng lượng của 4 hạt gạo.” Như vậy 1 pāda sẽ có giá trị vàng có trọng lượng tương đương trọng lượng của 4 x 5 = 20 hạt gạo, nghe đâu có người đã ước lượng vào khoảng 5 phân vàng (?).
[2] Đúng ra phải là tội ưng đối trị (pācittiya).
[3] Đúng ra phải là tội ưng đối trị (pācittiya).
[4] Vì không thể đưa hũ lên khỏi hố chôn được (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[5] Vehāsat,t,haṃ được dịch sát nghĩa cũng là “vật ở trên không.”
[6] Loài có cánh (pakkhajātā) có ba loại: cánh bằng lông (lomapakkhā) như chim công, gà gô, cánh bằng da (cammapakkhā) như loài dơi, cánh bằng xương (atthipakkhā) như loài ong (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[7] Dựa theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa, chúng tôi thêm vào A, B, C, D để cho dễ hiểu.
[8] Do sự luyến ái với tấm vải choàng nên người có tấm vải choàng ấy đã bị tái sanh làm peta ở nơi thi thể ấy. Peta có khả năng làm thi thể ấy đứng dậy. Sau khi cửa bị đóng lại, peta ấy biết đã bị mất tấm vải choàng nên đã từ bỏ thi thể ấy rồi theo nghiệp đi tái sanh lần nữa; do đó, thi thể ấy bị té ngã xuống đất (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[9] ... Này các tỳ-khưu, ta cho phép lấy do sự thân thiết (đồ vật) của người hội đủ năm điều: là vị quen biết, là vị thân thiết, vị ấy đã nói trước, vị ấy còn sống, và vị lấy biết được rằng: “Nếu được ta lấy thì vị ấy sẽ hoan hỷ.” (Đại Phẩm – Mahāvagga, chương II, [159]).
[10] Theo ngài Mahāsamaṇa Chao giải thích ở “Vinayamukha” thì āḷhakaṃ và doṇam là đơn vị đo dung tích. 1 āḷhakaṃ ước lượng khoảng tám bụm tay, 4 āḷhaka = 1 doṇam. Còn tulaṃ là đơn vị đo trọng lượng.
[11] Trường hợp này chúng ta có thể thắc mắc rằng: “Nếu tổng số bơ lỏng vị ấy đã thọ dụng trị giá bằng năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì vị ấy có phạm tội pārājika hay không?” (Yếu tố “có ý định trộm cắp” được hiểu ngầm). Đương nhiên là vị ấy phạm tội pārājika. Tuy nhiên, trường hợp của vị này có chút khác biệt. Chúng tôi hiểu như sau về lời giải thích của ngài Buddhaghosa: Vị ấy thọ dụng mỗi lần một chút ít như thế trị giá bằng một māsaka hoặc kém một māsaka nên chỉ phạm tội tác ác (dukkaṭa) cho mỗi lần thọ dụng. Sau khi thọ dụng lần thứ nhất, vị ấy sám hối, quyết tâm rằng: “Ta sẽ không làm như thế nữa.” Vì đã trong sạch trở lại, nên vào ngày kế khi vị ấy thọ dụng thêm một chút ít thì lại phạm tội tác ác (dukkaṭa) nữa. Vị ấy lại sám hối tội. Tiến trình phạm tội và sám hối được tiếp diễn. Chính vì lý do đó, số lượng bơ lỏng vị ấy đã thọ dụng không được tính gộp lại mà chỉ tính riêng cho mỗi lần thọ dụng. Nếu vị ấy không sám hối tội, thì sẽ tùy theo tổng số lượng bơ lỏng vị ấy đã thọ dụng mà định tội.
-ooOoo-
[176] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự ở thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự tu tập về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) bất tịnh cho các tỳ khưu một cách cặn kẽ bằng nhiều phương thức. Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta muốn thiền tịnh trong nửa tháng. Không ai đến gặp ta ngoại trừ một vị mang lại vật thực.
- Bạch ngài, xin vâng. Các vị tỳ khưu ấy đã trả lời đức Thế Tôn.
Và quả thật không có vị nào đi đến gặp đức Thế Tôn ngoại trừ một vị mang lại vật thực. Các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Quả thật, đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự tu tập về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) bất tịnh một cách cặn kẽ bằng nhiều phương thức,” rồi các vị ấy sống chuyên chú gắn bó vào việc tu tập về (đề mục) bất tịnh do nhiều động cơ khác nhau. Các vị ấy bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm với cơ thể của chính mình cũng giống như người nữ hoặc người nam còn trẻ, ở tuổi thanh niên, ưa thích trang điểm, vừa mới gội đầu bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm với xác rắn, hoặc xác chó, hoặc thây người chết máng vào cổ; tương tợ như thế, các vị tỳ khưu ấy trong khi bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm với cơ thể của chính mình, (một số) tự mình đoạt lấy mạng sống của chính mình, (một số) đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, (một số) đi đến gặp sa-môn giả mạo Migalaṇḍika rồi nói như vầy:
- Này đạo hữu, tốt thay ngươi hãy đoạt mạng sống của chúng tôi, y và bình bát này sẽ thuộc về ngươi.
Sau đó, sa-môn giả mạo Migalaṇḍika được trả công bằng các y và bình bát đã đoạt lấy mạng sống nhiều vị tỳ khưu rồi cầm cây gươm đẫm máu đi đến giòng sông Vaggumudā. Khi ấy, trong lúc chùi rửa cây gươm đẫm máu ấy sa-môn giả mạo Migalaṇḍika đã khởi lên sự ăn năn, đã khởi lên nỗi ân hận: “Thật là điều không lợi ích đã có cho ta! Thật là điều lợi ích đã không có cho ta! Ta đã đạt được điều xấu! Ta đã không đạt được điều tốt! Quả thật ta đã gây ra nhiều điều bất thiện là việc ta đã đoạt lấy mạng sống của các vị tỳ khưu có giới hạnh có thiện pháp!” Khi ấy, có vị thiên nhân nọ là tùy tùng của Ma Vương đã đi đến ở trên mặt nước (nhưng mặt nước sông) vẫn không bị làm chao động và đã nói với sa-môn giả mạo Migalaṇḍika điều này:
- Này kẻ thiện nhân, tốt lắm, tốt lắm! Này kẻ thiện nhân, điều lợi ích đã có cho ngươi! Này kẻ thiện nhân, ngươi đã đạt được điều tốt! Này kẻ thiện nhân, ngươi đã tạo nên nhiều điều thiện là việc ngươi đã giải thoát cho những kẻ chưa được giải thoát![1]
Khi ấy, sa-môn giả mạo Migalaṇḍika (nghĩ rằng): “Nghe nói điều lợi ích đã có cho ta! Nghe nói ta đã đạt được điều tốt! Nghe nói ta đã tạo nên nhiều điều thiện là việc ta đã giải thoát cho những kẻ chưa được giải thoát!” rồi cầm cây gươm bén đi đến từ trú xá này đến trú xá khác, từ phòng này đến phòng khác nói như vầy:
- Vị nào chưa giải thoát? Ta giải thoát cho vị nào đây?
Tại nơi ấy, những vị tỳ khưu nào chưa dứt bỏ tham ái thì các vị ấy, vào thời điểm ấy, trở nên sợ hãi, thân run rẩy, lông dựng đứng. Còn những vị tỳ khưu nào đã dứt bỏ tham ái thì các vị ấy, vào thời điểm ấy, không trở nên sợ hãi, thân không run rẩy, lông không dựng đứng. Rồi sa-môn giả mạo Migalaṇḍika trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống một vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống hai vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống ba vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống bốn vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống năm vị tỳ khưu, ...(như trên)... trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống mười vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống hai mươi vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống ba mươi vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống bốn mươi vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống năm mươi vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống sáu mươi vị tỳ khưu.
[177] Sau đó, khi trải qua nửa tháng ấy, đức Thế Tôn đã xuất khỏi thiền tịnh và bảo đại đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda, có phải hội chúng tỳ khưu dường như bị ít đi?
- Bạch ngài, sở dĩ như thế là vì đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự tu tập về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) bất tịnh cho các tỳ khưu một cách cặn kẽ bằng nhiều phương thức. Và bạch ngài, các vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Quả thật, đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự tu tập về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) bất tịnh một cách cặn kẽ bằng nhiều phương thức,” rồi các vị ấy sống chuyên chú gắn bó vào việc tu tập về (đề mục) bất tịnh do nhiều động cơ khác nhau. Các vị ấy bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm với cơ thể của chính mình. Cũng giống như người nữ hoặc người nam còn trẻ, ở tuổi thanh niên, ưa thích trang điểm, vừa mới gội đầu bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm với xác rắn, hoặc xác chó, hoặc thây người chết máng vào cổ; tương tợ như thế, các vị tỳ khưu ấy trong khi bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm với cơ thể của chính mình (một số) tự mình đoạt lấy mạng sống của chính mình, (một số) đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, (một số) đi đến gặp sa-môn giả mạo Migalaṇḍika rồi nói như vầy: “Này đạo hữu, tốt thay ngươi hãy đoạt mạng sống của chúng tôi, y và bình bát này sẽ thuộc về ngươi.” Bạch ngài, rồi sa-môn giả mạo Migalaṇḍika được trả công bằng các y và bình bát trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống một vị tỳ khưu, ...(như trên)... trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống sáu mươi vị tỳ khưu. Bạch ngài, lành thay xin đức Thế Tôn hãy chỉ dạy phương pháp khác theo đó hội chúng tỳ khưu này có thể đạt được trí giải thoát.
- Này Ānanda, như thế thì có bao nhiêu tỳ khưu sống nương tựa vào thành Vesālī, ngươi hãy triệu tập tất cả các vị ấy ở tại phòng hội họp.
- Bạch ngài, xin vâng. Đại đức Ānanda đã đáp lời đức Thế Tôn.
Rồi có bao nhiêu tỳ khưu sống nương tựa vào thành Vesālī, đại đức Ānanda sau khi triệu tập tất cả các vị ấy ở tại phòng hội họp rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, hội chúng tỳ khưu đã được triệu tập. Bạch ngài, bây giờ là thời điểm của việc gì xin đức Thế Tôn hãy suy tính (về việc ấy).
[178] Sau đó, đức Thế Tôn đã đi đến phòng hội họp, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được tu tập, được làm cho tăng trưởng, được thanh tịnh, cao quý, thuần khiết, có lạc là sự an trú, làm biến mất ngay lập tức và làm cho tịch lặng các pháp ác và bất thiện đã sanh hoặc chưa sanh khởi. Này các tỳ khưu, cũng giống như cơn mưa lớn sái mùa vào tháng cuối của mùa nóng làm biến mất ngay lập tức và làm lắng xuống các bụi bặm đã bốc lên; này các tỳ khưu, tương tợ như thế định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được tu tập, được làm cho tăng trưởng, được thanh tịnh, cao quý, thuần khiết, có lạc là sự an trú làm biến mất ngay lập tức và làm cho tịch lặng các pháp ác và bất thiện đã sanh hoặc chưa sanh khởi. Và này các tỳ khưu, thế nào là định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được tu tập? Thế nào là được làm cho tăng trưởng, được thanh tịnh, cao quý, thuần khiết, có lạc là sự an trú làm biến mất ngay lập tức và làm cho tịch lặng các pháp ác và bất thiện đã sanh hoặc chưa sanh khởi ? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu đi đến khu rừng, hoặc đi đến gốc cây, hoặc đi đến nơi thanh vắng, ngồi xuống, xếp chân thế kiết già, giữ thân thẳng và thiết lập niệm luôn hiện diện. Có niệm, vị ấy thở ra; có niệm, vị ấy thở vào.[2]Hoặc trong khi thở ra dài, vị ấy biết rõ: “Tôi thở ra dài;” hoặc trong khi thở vào dài, vị ấy biết rõ: “Tôi thở vào dài.” Hoặc trong khi thở ra ngắn, vị ấy biết rõ: “Tôi thở ra ngắn;” hoặc trong khi thở vào ngắn, vị ấy biết rõ: “Tôi thở vào ngắn.”[3]“Nhận biết rõ toàn bộ hơi thở, tôi sẽ thở ra”[4]vị ấy thực tập, “Nhận biết rõ toàn bộ hơi thở, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Làm cho an tịnh các thành phần của hơi thở, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Làm cho an tịnh các thành phần của hơi thở, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Nhận biết rõ hỷ, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rõ hỷ, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Nhận biết rõ lạc, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rõ lạc, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Nhận biết rõ các thành phần của tâm, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rõ các thành phần của tâm, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Làm cho an tịnh các thành phần của tâm, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Làm cho an tịnh các thành phần của tâm, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Nhận biết rõ tâm, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rõ tâm, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Tâm được hân hoan, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Tâm được hân hoan, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Tâm được định tĩnh, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Tâm được định tĩnh, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Tâm được giải thoát, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Tâm được giải thoát, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “ Quán xét về vô thường, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Quán xét về vô thường, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Quán xét về ly tham, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Quán xét về ly tham, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Quán xét về đoạn diệt, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Quán xét về đoạn diệt, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Quán xét về dứt bỏ, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Quán xét về dứt bỏ, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. Này các tỳ khưu, định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được tu tập như thế, được làm cho tăng trưởng như thế, được thanh tịnh, cao quý, thuần khiết, có lạc là sự an trú làm biến mất ngay lập tức và làm cho tịch lặng các pháp ác và bất thiện đã sanh hoặc chưa sanh khởi.
[179] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu (một số) tự mình đoạt lấy mạng sống của chính mình, (một số) đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, (một số) đi đến gặp sa-môn giả mạo Migalaṇḍika nói như vầy: “Này đạo hữu, tốt thay ngươi hãy đoạt mạng sống của chúng tôi, y và bình bát này sẽ thuộc về ngươi,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những tỳ khưu ấy, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ấy lại tự mình đoạt lấy mạng sống của chính mình, lại đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, lại đi đến gặp sa-môn giả mạo Migalaṇḍika nói như vầy: “Này đạo hữu, tốt thay ngươi hãy đoạt mạng sống của chúng tôi, y và bình bát này sẽ thuộc về ngươi” vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào cố ý đoạt lấy mạng sống con người hoặc tìm cách đem lại vũ khí cho người ấy; vị này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[180] Vào lúc bấy giờ, có người nam cư sĩ nọ bị bệnh. Vợ của người ấy thì đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đem lòng say đắm người đàn bà ấy. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã bàn bạc rằng: “Này các đại đức, nếu người nam cư sĩ ấy còn sống thì chúng ta sẽ không đạt được người đàn bà ấy. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ ấy.” Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã đi đến gặp người nam cư sĩ ấy, sau khi đến đã nói với người nam cư sĩ ấy điều này:
- Này cư sĩ, quả thật ngươi có điều tốt đã làm, có điều thiện đã làm, sự sợ hãi lúc lâm chung đã được khắc phục (katabhīruttāṇo), có điều ác không làm, điều tàn bạo không làm, điều tội lỗi không làm, ngươi đã làm điều tốt đẹp, ngươi đã không làm điều ác, vậy thì còn gì cho ngươi với mạng sống tội lỗi xấu xa này, sự chết đối với ngươi còn tốt hơn sự sống vậy. Từ chỗ này, khi tuổi thọ đã hết, khi tan rã thân xác và chết đi, ngươi sẽ được sanh về cảnh giới tốt đẹp là cõi trời, loài người. Ở đó, được cung phụng và được sở hữu năm loại dục lạc thiên đường, ngươi sẽ mãn nguyện.
Khi ấy, người nam cư sĩ ấy (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức đã nói sự thật bởi vì ta là người có điều tốt đã làm, có điều thiện đã làm, sự sợ hãi lúc lâm chung đã được khắc phục, có điều ác không làm, điều tàn bạo không làm, điều tội lỗi không làm, ta đã làm điều tốt đẹp, ta đã không làm điều ác, vậy thì còn gì cho ta với mạng sống tội lỗi xấu xa này, sự chết đối với ta còn tốt hơn sự sống vậy. Từ chỗ này, khi tuổi thọ đã hết, khi tan rã thân xác và chết đi, ta sẽ được tái sanh về cảnh giới tốt đẹp là cõi trời, loài người. Ở đó, được cung phụng và được sở hữu năm loại dục lạc thiên đường, ta sẽ mãn nguyện.” Và người ấy đã ăn những vật thực mềm không thích hợp, đã nhai những vật thực cứng không thích hợp, đã nếm những thức nếm không thích hợp, và đã uống những thức uống không thích hợp. Khi người ấy đã ăn những vật thực mềm không thích hợp, đã nhai những vật thực cứng không thích hợp, đã nếm những thức nếm không thích hợp, và đã uống những thức uống không thích hợp, cơn bệnh ngặt nghèo đã phát khởi. Chính vì cơn bệnh ấy, người ấy đã từ trần. Vợ của người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn, giới hạnh xấu xa, nói láo. Chính các vị này làm ra vẻ là có sự thực hành Pháp, có thực hành sự an tịnh, có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp! Các vị này không có sa-môn hạnh, các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đã bị hư hỏng, Phạm hạnh của các vị này đã bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đã không còn! Phạm hạnh của các vị này đã không còn! Các vị này đã ca ngợi lợi ích của sự chết đến chồng của tôi. Chồng của tôi đã bị giết chết bởi các vị này.
Những người khác cũng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các sa-môn Thích tử này không có khiêm tốn, ác giới, nói láo. Bởi vì các vị này làm ra vẻ là có sự thực hành Pháp, có thực hành sự an tịnh, có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp (nhưng) các vị này không có sa-môn hạnh! Các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đã bị hư hỏng! Phạm hạnh của các vị này đã bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đã không còn! Phạm hạnh của các vị này đã không còn! Các vị này đã ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ. Người nam cư sĩ đã bị giết chết bởi các vị này.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đã ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào cố ý đoạt lấy mạng sống con người, hoặc tìm cách đem lại vũ khí cho người ấy, hoặc ca ngợi lợi ích của sự chết, hoặc xúi giục đưa đến sự chết: “Này người ơi, còn gì cho ngươi với mạng sống tội lỗi xấu xa này, sự chết đối với ngươi còn tốt hơn sự sống!” Vị có tâm ý và có tâm tư như thế rồi bằng nhiều phương thức ca ngợi lợi ích của sự chết hoặc xúi giục đưa đến sự chết, vị này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”
[181] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Cố ý: là sự vi phạm trong khi biết, trong khi có ý định, sau khi đã suy nghĩ, sau khi đã khẳng định.
Con người nghĩa là vật gì ở khoảng giữa thời gian từ lúc tâm đầu tiên được sanh lên (tức là) thức đầu tiên hiện hữu trong bụng mẹ cho đến lúc chết; vật ấy gọi là con người
Đoạt lấy mạng sống: cắt đứt mạng quyền, làm hủy hoại, làm tổn hại sự tiếp nối.
Hoặc tìm cách đem lại vũ khí cho người ấy: hoặc là thanh gươm, hoặc là cây giáo, hoặc là mũi tên, hoặc là cọc nhọn, hoặc là đùi cui, hoặc là tảng đá, hoặc là cây kiếm, hoặc là thuốc độc, hoặc là dây thừng.
[182] Hoặc ca ngợi lợi ích của sự chết: làm cho thấy được sự nguy hiểm trong sự sống và nói khen ngợi về sự chết.
[183] Hoặc xúi giục đưa đến sự chết: (Nói rằng): “Hãy mang lại cây kiếm, hoặc hãy nhai thuốc độc, hoặc hãy dùng dây thừng treo lên rồi chết đi.”
[184] Này người ơi: Đây là lối nói xưng hô “Này người ơi!”
Còn gì cho ngươi với mạng sống tội lỗi xấu xa này, sự chết đối với ngươi còn tốt hơn sự sống: Cuộc sống nghĩa là tội lỗi. So với cuộc sống của những người giàu, cuộc sống của những người nghèo là tội lỗi. So với cuộc sống của những người có tài sản, cuộc sống của những người không có tài sản là tội lỗi. So với cuộc sống của chư thiên, cuộc sống của loài người là tội lỗi.
Mạng sống xấu xa nghĩa là đối với người bị cụt tay, đối với người bị cụt chân, đối với người bị cụt tay và chân, đối với người bị đứt tai, đối với người bị đứt mũi, đối với người bị đứt tai và mũi (nói rằng): “Còn gì với sự tội lỗi này, với mạng sống xấu xa này, sự chết đối với ngươi còn tốt hơn sự sống!”
Có tâm ý như thế: Ý nào tâm nấy, tâm nào ý nấy.
Có tâm tư: có sự suy tưởng về sự chết, có sự suy tư về sự chết, có sự suy nghĩ về sự chết
Bằng nhiều phương thức: bằng nhiều cách khác nhau.
Ca ngợi lợi ích của sự chết: làm cho thấy được sự bất hạnh trong mạng sống và nói lời khen ngợi về sự chết: “Từ chỗ này, khi tuổi thọ đã hết, khi tan rã thân xác và chết đi, ngươi sẽ được tái sanh về cảnh giới tốt đẹp là cõi trời, loài người. Ở đó, được cung phụng và được sở hữu năm loại dục lạc thiên đường, ngươi sẽ mãn nguyện.”
[185] Hoặc xúi giục đưa đến sự chết: (Nói rằng): “Hãy mang lại cây kiếm, hoặc hãy nhai thuốc độc, hoặc hãy dùng dây thừng treo lên rồi chết đi, hoặc nhảy vào khe nứt, vào hố sâu, xuống vực thẳm.”
[186] Vị này cũng: được đề cập liên quan đến các vị trước đây.
Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như tảng đá lớn bị bể làm hai không thể gắn liền lại được; tương tợ như thế, vị tỳ khưu cố ý đoạt lấy mạng sống con người thì không phải là sa-môn, không phải là Thích tử; vì thế được gọi là “vị phạm tội pārājika.”
Không được cộng trú: Sự cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là sự cộng trú. Vị ấy không có được điều ấy, vì thế được gọi là “không được cộng trú.”
[187] Tự mình, bằng cách khẳng định, bằng người đưa tin, bằng người đưa tin theo lối dây chuyền, bằng người đưa tin không theo lối dây chuyền, bằng người đưa tin đã đi rồi quay trở lại, hiện diện nghĩ là không hiện diện, không hiện diện nghĩ là hiện diện, hiện diện nghĩ là hiện diện, không hiện diện nghĩ là không hiện diện, vị ca ngợi bằng thân, vị ca ngợi bằng lời nói, vị ca ngợi bằng thân và bằng lời nói, vị ca ngợi bằng người đưa tin, vị ca ngợi bằng chữ khắc, cái hố đào, sự trợ giúp, việc để bên cạnh, dược phẩm, sự đem lại cảnh sắc, sự đem lại cảnh thinh, sự đem lại cảnh khí, sự đem lại cảnh vị, sự đem lại cảnh xúc, sự đem lại cảnh pháp, sự chỉ bảo, sự dạy dỗ, hành động theo giờ hẹn, hành động theo dấu hiệu.
[188] Tự mình: vị đích thân giết bằng (cách sử dụng) thân thể (tay, chân, nắm đấm, đầu gối, v.v...), hoặc bằng vật dính liền với thân thể (gươm, dao, v.v...), hoặc bằng vật được phóng ra (ví dụ mũi tên).
Bằng cách khẳng định: sau khi khẳng định rồi ra lệnh rằng: “Ngươi hãy đâm như vầy, hãy đánh như vầy, hãy giết như vầy.”
[189] Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị kia nhận biết người ấy rồi đoạt lấy mạng sống của người ấy thì cả hai phạm tội pārājika.
Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị kia nhận biết người ấy rồi đoạt lấy mạng sống của người khác thì vị khởi xướng vô tội còn vị giết người phạm tội pārājika.
Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị kia nhận biết người khác rồi đoạt lấy mạng sống của người ấy thì cả hai phạm tội pārājika.
Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị kia nhận biết người khác rồi đoạt lấy mạng sống của người khác thì vị khởi xướng vô tội còn vị giết người phạm tội pārājika.
[190] Vị tỳ khưu (A)[5]chỉ thị vị tỳ khưu (B) rằng: “Hãy bảo vị tên (C) rằng: Vị tên (C) hãy nói với vị tên (D) rằng: ‘Vị tên (D) hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy’” thì vị ấy (A) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị (nào) nói cho vị khác thì vị (nói) ấy phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị giết người (D) đồng ý thì vị khởi xướng (A) phạm tội thullaccaya (trọng tội); vị ấy (D) đoạt lấy mạng sống của người ấy thì tất cả đều phạm tội pārājika.
Vị tỳ khưu (A) chỉ thị vị tỳ khưu (B) rằng: “Hãy bảo vị tên (C) rằng: Vị tên (C) hãy nói với vị tên (D) rằng: ‘Vị tên (D) hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy’” thì vị ấy (A) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ấy (B) chỉ thị vị khác (D) thì vị ấy (B) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị giết người (D) đồng ý thì vị ấy (D) phạm tội dukkaṭa (tác ác); vị ấy (D) đoạt lấy mạng sống của người ấy thì vị khởi xướng (A) vô tội, vị truyền chỉ thị (B) và vị giết người (D) phạm tội pārājika.
[191] Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị kia đi rồi quay trở lại (nói rằng): “Tôi không thể đoạt lấy mạng sống người ấy.” Vị ấy lại chỉ thị thêm: “Khi nào ngươi có thể thì khi ấy ngươi hãy đoạt lấy mạng sống người ấy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị kia đoạt lấy mạng sống người ấy thì cả hai phạm tội pārājika.
[192] Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận nhưng không nói rõ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có giết.” Vị kia đoạt lấy mạng sống người ấy thì cả hai phạm tội pārājika. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận rồi nói rõ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có giết.” Vị kia (đáp lại rằng): “Tôi đã được ngài chỉ thị” rồi đoạt lấy mạng sống người ấy thì vị khởi xướng vô tội, còn vị giết người phạm tội pārājika. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận rồi nói rõ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có giết.” Vị kia (đáp lại rằng): “Tốt thôi” rồi ngưng lại thì cả hai vô tội.
[193] Hiện diện, nghĩ là không hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên như vầy nên bị giết” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Không hiện diện, nghĩ là hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên như vầy nên bị giết” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Hiện diện, nghĩ là hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên như vầy nên bị giết” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Không hiện diện, nghĩ là không hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên như vầy nên bị giết” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[194] Vị ca ngợi bằng thân nghĩa là vị làm cử chỉ bằng thân: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Vị ca ngợi bằng lời nói nghĩa là vị phát ngôn bằng lời nói: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Vị ca ngợi bằng thân và bằng lời nói nghĩa là vị làm cử chỉ bằng thân và phát ngôn bằng lời nói: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
[195] Vị ca ngợi bằng người đưa tin nghĩa là vị nói ra lời chỉ dẫn cho người đưa tin: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nghe lời chỉ dẫn của người đưa tin, (đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Vị ca ngợi bằng chữ khắc nghĩa là vị khắc chữ: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) với mỗi mẫu tự. (Đối tượng) sau khi nhìn thấy chữ khắc (nghĩ rằng): “Ta sẽ chết” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
[196] Cái hố đào nghĩa là vị đào cái hố dành cho người (nghĩ rằng): “Người rơi xuống sẽ chết” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi đã bị rơi xuống, cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
(Vị) đào cái hố không dành riêng cho ai (nghĩ rằng): “Bất cứ ai rơi xuống sẽ chết” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Nếu) con người rơi vào cái hố ấy thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi đã bị rơi xuống, cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika. (Nếu) dạ-xoa, hoặc ngạ quỷ, hoặc thú có dạng người rơi vào cái hố ấy thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi đã bị rơi xuống, cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Nếu) thú vật rơi vào cái hố ấy thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi đã bị rơi xuống, cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[197] Sự trợ giúp nghĩa là trong sự trợ giúp (vị ấy) đặt vũ khí, hoặc thoa thuốc độc, hoặc làm cho yếu đi, hoặc đem để ở chỗ khe nứt hoặc ở hố sâu hoặc nơi vực thẳm (nghĩ rằng): “Với việc này, người rơi xuống sẽ chết” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do vũ khí, hoặc do thuốc độc, hoặc do bị rơi xuống khiến cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
[198] Việc để bên cạnh nghĩa là đem lại gần bên hoặc là thanh gươm, hoặc là cây giáo, hoặc là mũi tên, hoặc là cọc nhọn, hoặc là đùi cui, hoặc là tảng đá, hoặc là cây kiếm, hoặc là thuốc độc, hoặc là dây thừng (nghĩ rằng): “(Người ấy) sẽ chết bằng vật này” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Đối tượng) (nghĩ rằng): “Ta sẽ chết bằng vật ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
[199] Dược phẩm nghĩa là vị trao cho bơ lỏng (sappi), bơ đặc (navanītaṃ), dầu ăn (telaṃ), mật (madhu), đường mía (phānitaṃ) (nghĩ rằng): “Sau khi nếm vật này (người ấy) sẽ chết” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Trong khi nếm vật ấy, cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
[200] Sự đem lại cảnh sắc nghĩa là vị đem lại cảnh sắc trái ý, dễ sợ, khủng khiếp (nghĩ rằng): “Sau khi nhìn thấy cảnh sắc này (người ấy) sẽ bị hoảng hốt và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nhìn thấy cảnh sắcấy, (đối tượng) bị hoảng hốt thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika. (Vị) đem lại cảnh sắc hợp ý, dễ thương, đáng yêu(nghĩ rằng): “Sau khi nhìn thấy cảnh sắc này (người ấy) sẽ bị thất vọng vì không đạt được và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nhìn thấy cảnh sắcấy, (đối tượng) bị thất vọng vì không đạt được thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Sự đem lại cảnh thinh nghĩa là vị đem lại cảnh thinh trái ý, dễ sợ, khủng khiếp(nghĩ rằng): “Sau khi nghe được tiếng này (người ấy) sẽ bị hoảng hốt và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nghe được tiếng ấy, (đối tượng) bị hoảng hốt thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika. (Vị) đem lại cảnh thinh hợp ý, dễ thương, đáng yêu(nghĩ rằng): “Sau khi nghe được tiếng này (người ấy) sẽ bị thất vọng vì không đạt được và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nghe được tiếng ấy, (đối tượng) bị thất vọng vì không đạt được thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Sự đem lại cảnh khí nghĩa là vị đem lại cảnh khí trái ý, ghê tởm, khó chịu(nghĩ rằng): “Sau khi ngửi mùi này (người ấy) sẽ có sự ghê tởm và khó chịu rồi chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi ngửi mùi ấy, (đối tượng) có sự ghê tởm và khó chịu, cảm thọ khổ sanh khởi thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika. (Vị) đem lại cảnh khí hợp ý (nghĩ rằng): “Sau khi ngửi mùi này (người ấy) sẽ bị thất vọng vì không đạt được và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi ngửi mùi ấy, (đối tượng) bị thất vọng vì không đạt được thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Sự đem lại cảnh vị nghĩa là vị đem lại cảnh vị trái ý, ghê tởm, khó chịu(nghĩ rằng): “Sau khi nếm vị này (người ấy) sẽ có sự ghê tởm và khó chịu rồi chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nếm thử vị ấy, (đối tượng) có sự ghê tởm và khó chịu, cảm thọ khổ sanh khởi thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika. (Vị) đem lại cảnh vị hợp ý (nghĩ rằng): “Sau khi nếm vị này (người ấy) sẽ bị thất vọng vì không đạt được và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nếm vị ấy, (đối tượng) bị thất vọng vì không đạt được thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Sự đem lại cảnh xúc nghĩa là vị đem lại cảnh xúc trái ý, gây đau đớn, thô cứng (nghĩ rằng): “Đụng chạm vào vật này (người ấy) sẽ chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi (đối tượng) đụng chạm vật ấy, cảm thọ khổ sanh khởi thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika. (Vị) đem lại cảnh xúc hợp ý, gây khoái lạc, mềm mại (nghĩ rằng): “Đụng chạm vào vật này (người ấy) sẽ bị thất vọng vì không đạt được và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi đụng chạm vật ấy, (đối tượng) bị thất vọng vì không đạt được thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Sự đem lại cảnh pháp nghĩa là vị thuyết bài giảng về địa ngục của người đi địa ngục (nghĩ rằng): “Sau khi nghe điều này (người ấy) sẽ bị hoảng hốt và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nghe được điều ấy, (đối tượng) bị hoảng hốt thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika. (Vị) thuyết bài giảng về cõi trời của nghiệp lành (nghĩ rằng): “Sau khi nghe điều này (người ấy) sẽ bị tác động rồi chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nghe được điều ấy, (đối tượng) bị tác động (nghĩ rằng): “Ta sẽ chết” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
[201] Sự chỉ bảo nghĩa là khi được hỏi, vị nói rằng: “Nên chết như vầy, người nào chết như vầy người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách chỉ bảo ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Sự dạy dỗ nghĩa là khi không được hỏi, vị nói rằng: “Nên chết như vầy, người nào chết như vầy người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách dạy dỗ ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
[202] Hành động theo giờ hẹn nghĩa là quy định giờ hẹn hoặc là trước bữa ăn, hoặc là sau bữa ăn, hoặc là ban đêm, hoặc là ban ngày. (Bảo rằng): “Hãy đoạt lấy mạng sống người ấy vào giờ hẹn ấy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); (nếu vị kia) đoạt lấy mạng sống người ấy vào giờ hẹn ấy thì cả hai phạm tội pārājika; (nếu vị kia) đoạt lấy mạng sống người ấy trước hay sau giờ hẹn ấy thì vị khởi xướng vô tội còn vị giết người phạm tội pārājika.
Hành động theo dấu hiệu nghĩa là vị làm dấu hiệu (bảo rằng): “Tôi sẽ nháy mắt, hoặc là tôi sẽ nhướng mày, hoặc là tôi sẽ ngẩng đầu lên, ngươi hãy đoạt lấy mạng sống người ấy theo dấu hiệu ấy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); (nếu vị kia) đoạt lấy mạng sống người ấy theo dấu hiệu ấy thì cả hai phạm tội pārājika; (nếu vị kia) đoạt lấy mạng sống người ấy trước hay sau dấu hiệu ấy thì vị khởi xướng vô tội còn vị giết người phạm tội pārājika.
[203] Vị không cố ý, vị không biết, vị không có ý muốn gây tử vong, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt tụng phẩm thứ nhất về tội pārājika vì giết người.
[204]
Việc ca ngợi, ngồi xuống,
chuyện chày và cối giã,
các vị già xuất gia,
mắc nghẹn thịt, thuốc độc,
ba chuyện làm nền đất,
ba chuyện khác về gạch,
lưỡi rìu, và khung gỗ,
giàn giáo, leo xuống, té,
hơ nóng, mũi, xoa bóp,
việc tắm, và thoa dầu,
nâng dậy, và xô ngã,
chết bởi vì cơm, nước,
có thai với nhân tình,
và người có hai vợ,
giết chết hai mẹ con,
cả hai không bị chết,
chà xát, và đốt nóng,
không sanh, còn sanh sản,
thọt lét, sự trả thù,
dạ-xoa, quỷ dữ tợn
và vị phái người đi,
tưởng vị ấy rồi giết,
giảng cõi trời, địa ngục,
ba chuyện về cây cối
ở thành Āḷavī,
ba chuyện khác về lửa,
chớ làm cho khổ sở,
không theo cách của ngài,
(cho uống) sữa còn bơ,
và cháo chua có muối.
[205] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu vì lòng trắc ẩn đã ca ngợi lợi ích của sự chết đến vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng chúng ta đã phạm tội pārājika?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, các ngươi đã phạm tội pārājika.
[206] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu đi khất thực nọ trong lúc ngồi xuống đã đè lên đứa bé trai được phủ bởi tấm màn ở trên chiếc ghế và gây ra tử vong. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội pārājika?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, khi chưa xem xét không nên ngồi xuống trên chỗ ngồi; vị nào ngồi xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[207] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc sắp đặt chỗ ngồi ở nhà ăn nơi xóm nhà đã cầm lấy một cái chày; khi cái chày được đưa lên cái chày thứ hai đã rơi xuống và chạm mạnh vào đỉnh đầu của đứa bé trai nọ. Đứa bé đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không cố ý.
- Này tỳ khưu, không cố ý thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong khi sắp đặt chỗ ngồi ở nhà ăn nơi xóm nhà đã bước lên vật dụng như cối giã khiến (chúng) quay tròn rồi chạm mạnh vào đứa bé trai nọ và gây ra tử vong. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, không cố ý thì vô tội.
[208] Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đã nói với người cha điều này:
- Thưa cha, hãy đi. Hội chúng chờ đợi cha.
Rồi đã nắm lấy ở lưng và đẩy tới. Người cha đã té xuống và chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không có ý muốn gây tử vong.
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đã nói với người cha điều này:
- Thưa cha, hãy đi. Hội chúng chờ đợi cha.
Rồi đã nắm lấy ở lưng và đẩy tới có ý muốn gây tử vong. Người cha đã té xuống và chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đã nói với người cha điều này:
- Thưa cha, hãy đi. Hội chúng chờ đợi cha.
Rồi đã nắm lấy ở lưng và đẩy tới có ý muốn gây tử vong. Người cha đã té xuống và không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[209] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đang ăn đã bị mắc nghẹn miếng thịt ở cổ họng. Có vị tỳ khưu khác đã vỗ vào cổ của vị tỳ khưu ấy. Cục thịt đã rơi ra có dính máu. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đang ăn đã bị mắc nghẹn miếng thịt ở cổ họng. Có vị tỳ khưu khác có ý muốn gây tử vong đã vỗ vào cổ của vị tỳ khưu ấy. Cục thịt đã rơi ra có dính máu. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đang ăn đã bị mắc nghẹn miếng thịt ở cổ họng. Có vị tỳ khưu khác có ý muốn gây tử vong đã vỗ vào cổ của vị tỳ khưu ấy. Cục thịt đã rơi ra có dính máu. Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[210] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu đi khất thực nọ sau khi nhận được vật thực có thuốc độc đã mang trở về và dâng các tỳ khưu nếm thử trước. Các tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không biết (có độc).
- Này tỳ khưu, vị không biết thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý muốn thử nghiệm đã trao thuốc độc cho vị tỳ khưu khác. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con có ý muốn thử nghiệm.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[211] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī thực hiện nền đất của trú xá. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa đá lên. Vị tỳ khưu ở phía trên nắm lấy vụng về khiến viên đá chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, không cố ý thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī thực hiện nền đất của trú xá. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa đá lên. Vị tỳ khưu ở phía trên có ý muốn gây tử vong nên đã thả viên đá ở đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī thực hiện nền đất của trú xá. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa đá lên. Vị tỳ khưu ở phía trên có ý muốn gây tử vong nên đã thả viên đá ở đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī xây dựng bức tường của trú xá. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa gạch lên. Vị tỳ khưu ở phía trên nắm lấy vụng về khiến viên gạch chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, không cố ý thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī xây dựng bức tường của trú xá. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa gạch lên. Vị tỳ khưu ở phía trên có ý muốn gây tử vong nên đã thả viên gạch ở đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī xây dựng công trình mới. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa lưỡi rìu lên. Vị tỳ khưu ở phía trên nắm lấy vụng về khiến lưỡi rìu chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, không cố ý thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī xây dựng công trình mới. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa lưỡi rìu lên. Vị tỳ khưu ở phía trên có ý muốn gây tử vong nên đã thả lưỡi rìu ở đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī xây dựng công trình mới. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa khung gỗ lên. Vị tỳ khưu ở phía trên nắm lấy vụng về khiến khung gỗ chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, không cố ý thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī xây dựng công trình mới. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa khung gỗ lên. Vị tỳ khưu ở phía trên có ý muốn gây tử vong nên đã thả khung gỗ ở đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī trong khi xây dựng công trình mới buộc lại cái giàn giáo. Có vị tỳ khưu nọ đã nói với vị tỳ khưu khác điều này:
- Này đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi buộc lại.
Vị ấy đã đứng ở chỗ ấy, trong khi buộc lại đã bị rơi xuống và chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không có ý muốn gây tử vong.
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī trong khi xây dựng công trình mới buộc lại cái giàn giáo. Có vị tỳ khưu nọ có ý muốn gây tử vong đã nói với vị tỳ khưu khác điều này:
- Này đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi buộc lại.
Vị ấy đã đứng ở chỗ ấy, trong khi buộc lại đã bị rơi xuống và chết đi. ...(như trên)... đã bị rơi xuống và không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[212] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ lợp xong trú xá và leo xuống. Có vị tỳ khưu khác đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, hãy leo xuống từ chỗ này.
Vị ấy trong khi leo xuống bằng chỗ ấy đã bị té xuống và chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ lợp xong trú xá và leo xuống. Có vị tỳ khưu khác có ý muốn gây tử vong đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, hãy leo xuống từ chỗ này.
Vị ấy trong khi leo xuống bằng chỗ ấy đã bị té xuống và chết đi. ...(như trên)... đã bị té xuống và không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[213] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bực bội bởi sự không thỏa thích nên đã leo lên đỉnh núi Gijjhakūṭa và trong khi lao xuống vách núi đã chạm người đan giỏ và gây ra tử vong. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên lao mình xuống; vị nào lao xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi leo lên núi Gijjhakūṭa đã ném đá để đùa giỡn. Viên đá đã chạm vào người chăn bò nọ và gây ra tử vong. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên ném đá để đùa giỡn; vị nào ném thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[214] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã hơ nóng vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn gây tử vong đã hơ nóng vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh nóng đầu. Các tỳ khưu đã cho vị ấy thuốc ở mũi. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh nóng đầu. Các tỳ khưu có ý muốn gây tử vong đã cho vị ấy thuốc ở mũi. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã xoa bóp vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn gây tử vong đã xoa bóp vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã tắm cho vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn gây tử vong đã tắm cho vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã thoa dầu cho vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn gây tử vong đã thoa dầu cho vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã đỡ vị ấy đứng dậy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn gây tử vong đã đỡ vị ấy đứng dậy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã làm vị ấy ngã xuống. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn gây tử vong đã làm vị ấy ngã xuống. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã cho vị ấy thức ăn. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn gây tử vong đã cho vị ấy thức ăn. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã cho vị ấy thức uống. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn gây tử vong đã cho vị ấy thức uống. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[215] Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ có chồng đi vắng đã mang thai với tình nhân. Cô ấy đã nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
- Này chị gái, tốt thôi!
Rồi đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Đứa bé trai đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai người vợ, một cô không sanh sản một cô còn sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đã nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, nếu cô ấy sanh con thì cô ta sẽ là chủ nhân của toàn bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
- Này chị gái, tốt thôi!
Rồi đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Đứa bé trai đã chết đi. Người mẹ đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai người vợ, một cô không sanh sản một cô còn sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đã nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, nếu cô ấy sanh con thì cô ta sẽ là chủ nhân của toàn bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
- Này chị gái, tốt thôi!
Rồi đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Người mẹ đã chết đi. Đứa bé trai đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai người vợ, một cô không sanh sản một cô còn sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đã nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, nếu cô ấy sanh con thì cô ta sẽ là chủ nhân của toàn bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
- Này chị gái, tốt thôi!
Rồi đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Cả hai đã chết đi. ...(như trên)... Cả hai đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà có thai nọ đã nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
- Này chị gái, như thế thì hãy tự chà xát.
Cô ấy đã chà xát và đã làm sẩy thai. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà có thai nọ đã nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
- Này chị gái, như thế thì hãy đốt nóng.
Cô ấy đã đốt nóng và đã làm sẩy thai. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà không sanh sản nọ đã nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc men làm cho tôi có thể sanh sản đi.
- Này chị gái, tốt thôi!
Rồi đã cho cô ấy thuốc men. Cô ấy đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).[6]
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà còn sanh sản nọ đã nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc men làm cho tôi không còn sanh sản đi.
- Này chị gái, tốt thôi!
Rồi đã cho cô ấy thuốc men. Cô ấy đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[216] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã làm cho vị tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư cười bằng cách dùng ngón tay thọt lét. Vị tỳ khưu ấy trong khi rối loạn không thở ra được nên đã chết đi. Các vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, (các ngươi) không phạm tội pārājika mà phạm tội pācittiya (ưng đối trị).[7]
[217] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư (nghĩ rằng): “Chúng ta sẽ gây chuyện” rồi chạm mạnh vào vị tỳ khưu nhóm Lục Sư khiến vị ấy chết đi. Các vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, (các ngươi) không phạm tội pārājika mà phạm tội pācittiya (ưng đối trị).[8]
[218] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ là vị đuổi tà ma đã đoạt lấy mạng sống của loài dạ-xoa. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[219] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phái vị tỳ khưu khác đến trú xá có dạ-xoa dữ tợn. Các dạ-xoa đã đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý muốn gây tử vong đã phái vị tỳ khưu khác đến trú xá có dạ-xoa dữ tợn. Các dạ-xoa đã đoạt lấy mạng sống vị ấy. ...(như trên)... Các dạ-xoa đã không đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phái vị tỳ khưu khác đến khu rừng hoang có thú dữ. Các thú dữ đã đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý muốn gây tử vong đã phái vị tỳ khưu khác đến khu rừng hoang có thú dữ. Các thú dữ đã đoạt lấy mạng sống vị ấy. ...(như trên)... Các thú dữ đã không đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phái vị tỳ khưu khác đến khu rừng hoang có trộm cướp. Những kẻ trộm cướp đã đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý muốn gây tử vong đã phái vị tỳ khưu khác đến khu rừng hoang có trộm cướp. Những kẻ trộm cướp đã đoạt lấy mạng sống vị ấy. ...(như trên)... Những kẻ trộm cướp đã không đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[220] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ nhận ra người ấy rồi đã đoạt lấy mạng sống người ấy, nhận ra người ấy rồi đã đoạt lấy mạng sống người khác, nhận ra người khác rồi đã đoạt lấy mạng sống người ấy, nhận ra người khác rồi đã đoạt lấy mạng sống người khác. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[221] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị phi nhân chiếm giữ. Có vị tỳ khưu khác đã đánh vào vị tỳ khưu ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị phi nhân chiếm giữ. Có vị tỳ khưu khác có ý muốn gây tử vong đã đánh vào vị tỳ khưu ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[222] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ thuyết bài giảng về cõi trời của nghiệp lành. Người ấy bị tác động nên đã chết đi. Vị (tỳ khưu) ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý muốn gây tử vong thuyết bài giảng về cõi trời của nghiệp lành. Người ấy bị tác động nên đã chết đi. ...(như trên)... Người ấy bị tác động đã không bị chết. Vị (tỳ khưu) ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ thuyết bài giảng về địa ngục của người đi địa ngục. Người ấy bị hoảng hốt nên đã chết đi. Vị (tỳ khưu) ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý muốn gây tử vong thuyết bài giảng về địa ngục của người đi địa ngục. Người ấy bị hoảng hốt nên đã chết đi. ...(như trên)... Người ấy bị hốt hoảng đã không bị chết. Vị (tỳ khưu) ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[223] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī chặt cây trong khi xây dựng công trình mới. Có vị tỳ khưu nọ đã nói với vị tỳ khưu khác điều này:
- Này đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi chặt.
Trong khi vị ấy đứng ở chỗ ấy đang chặt thì cái cây đã ngã đè lên và giết chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī chặt cây trong khi xây dựng công trình mới. Có vị tỳ khưu nọ có ý muốn gây tử vong đã nói với vị tỳ khưu khác điều này:
- Này đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi chặt.
Trong khi vị ấy đứng ở chỗ ấy đang chặt thì cái cây đã ngã đè lên và giết chết. ...(như trên)... cái cây đã ngã đè lên và không giết chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[224] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nổi lửa đốt rừng. Dân chúng bị đốt cháy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư có ý muốn gây tử vong đã nổi lửa đốt rừng. Dân chúng bị đốt cháy đã chết đi. ...(như trên)... Dân chúng bị đốt cháy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, (các ngươi) không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[225] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến pháp trường đã nói với viên xử tử kẻ cướp điều này:
- Này đạo hữu, chớ để người này bị khổ sở. Hãy đoạt lấy mạng sống bằng một nhát.
- Thưa ngài, tốt thôi!
Rồi đã đoạt lấy mạng sống bằng một nhát. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến pháp trường đã nói với viên xử tử kẻ cướp điều này:
- Này đạo hữu, chớ để người này bị khổ sở. Hãy đoạt lấy mạng sống bằng một nhát.
- Tôi sẽ không làm theo lời nói của ngài.
Rồi đã đoạt lấy mạng sống kẻ ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[226] Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có tay và chân bị chặt đứt ở trong nhà của gia tộc và có các thân quyến vây quanh. Có vị tỳ khưu nọ đã nói với những người ấy điều này:
- Này các đạo hữu, các người có mong muốn cái chết của người này không?
- Thưa ngài, đúng vậy. Chúng tôi muốn.
- Như thế thì hãy cho uống sữa còn bơ.
Họ đã cho người ấy uống sữa còn bơ. Người ấy đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có tay và chân bị chặt đứt ở trong nhà của gia tộc và được các thân quyến vây quanh. Có vị tỳ khưu ni nọ đã nói với những người ấy điều này:
- Này các đạo hữu, các người có mong muốn cái chết của người này không?
- Thưa ni sư, đúng vậy. Chúng tôi muốn.
- Như thế thì hãy cho uống cháo chua có muối.
Họ đã cho người ấy uống cháo chua có muối. Người ấy đã chết đi. Vị ni ấy đã có nỗi nghi hoặc. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni ấy đã phạm tội pārājika.
Dứt điều pārājika thứ ba.
[1]... tvaṃ atiṇṇe tāresi: Ngươi đã làm cho vượt qua (tāresi) những kẻ chưa được vượt qua (luân hồi).
[2]Theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa: “Assāsoti bahi nikkhamanavāto. Passāsoti anto pavisanavāto” (Hơi thở ra là gió đi ra bên ngoài. Hơi thở vào là gió đi vào bên trong). Như thế “assasati” là thở ra, “passasati” là thở vào, và phương pháp “Niệm hơi thở ra hơi thở vào” được trình bày hơi thở ra trước rồi mới đến hơi thở vào. Từ điển của Childers và A. P. Buddhadatta Mahā Thera cho nghĩa bị đảo lộn; có một vài bản dịch cũng bị vướng phải điểm này.
[3]Trong bốn mệnh đề đầu, động từ được sử dụng là “pajānāti = biết rõ” và có liên từ “vā = hay là, hoặc là” xen vào giữa. Từ mệnh đề thứ năm trở đi, động từ là “sikkhati = thực tập, thực hành, học tập.”
[4]Theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa, “sabbakāya” nên được hiểu là “phần đầu, phần giữa, và phần cuối của toàn bộ hơi thở ra (sakalassa assāsakāyassa ādimajjhapariyosānaṃ) khi thở ra hoặc toàn bộ hơi thở vào khi thở vào.”
[5]Chúng tôi thêm vào A, B, C, D để cho dễ hiểu.
[6]Tội dukkaṭa (tác ác) vì làm thầy thuốc (theo ngài Buddhaghosa).
[7]Liên quan đến điều pācittiya (ưng đối trị) 52.
[8]Liên quan đến điều pācittiya (ưng đối trị) 74.
-ooOoo-
[227] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đồng quan điểm, thân thiết đã vào mùa (an cư) mưa ở bờ sông Vaggumudā. Vào lúc bấy giờ, xứ Vajjī có sự khó khăn về vật thực, đời sống khổ cực, dịch bệnh hoành hành, vật thực được phân phối theo thẻ, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý rằng: “Hiện nay, xứ Vajjī có sự khó khăn về vật thực, đời sống khổ cực, dịch bệnh hoành hành, vật thực được phân phối theo thẻ, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Còn chúng ta có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau, vậy bằng phương thức nào chúng ta có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực?”
Một số vị đã nói như vầy:
- Này các đại đức, chúng ta hãy quyết định làm công việc cho các người tại gia đi; như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.
Một số vị đã nói như vầy:
- Này các đại đức, thôi đi! Việc gì lại quyết định làm công việc cho các người tại gia? Này các đại đức, chúng ta hãy đưa tin tức cho các người tại gia đi; như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.
Một số vị đã nói như vầy:
- Này các đại đức, thôi đi! Việc gì lại quyết định làm công việc cho các người tại gia? Việc gì lại đưa tin tức cho các người tại gia? Này các đại đức, chúng ta sẽ nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia rằng: “Vị tỳ khưu như vầy đạt sơ thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt nhị thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt tam thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt tứ thiền, vị tỳ khưu như vầy là vị Nhập Lưu, vị tỳ khưu như vầy là vị Nhất Lai, vị tỳ khưu như vầy là vị Bất Lai, vị tỳ khưu như vầy là vị A-la-hán, vị tỳ khưu như vầy có tam Minh, vị tỳ khưu như vầy có lục Thông;” như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.
- Này các đại đức, chính điều này là tốt hơn hết tức là việc chúng ta nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia.
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia:
- Vị tỳ khưu như vầy đạt sơ thiền, ...(như trên)..., vị tỳ khưu như vầy đạt tứ thiền, vị tỳ khưu như vầy là vị Nhập Lưu, ...(như trên)..., vị tỳ khưu như vầy có lục Thông.
Khi ấy, những người dân ấy (nghĩ rằng): “Quả thật điều lợi ích đã có cho chúng ta! Quả thật chúng ta đã đạt được điều tốt! Chúng ta có được các tỳ khưu như vầy trong số các tỳ khưu có giới có thiện pháp vào mùa (an cư) mưa! Quả thật từ trước đến nay không có các tỳ khưu như vầy vào mùa (an cư) mưa như là các vị tỳ khưu có giới có thiện pháp này vậy!” Họ cúng dường đến các tỳ khưu những vật thực loại mềm mà họ không ăn cho chính bản thân, không dâng đến cha mẹ, không cho đến vợ con, không cho đến các tôi tớ và người làm công, không cho đến bạn bè và các quan lại, không cho đến các thân quyến cùng huyết thống. Họ cúng dường đến các tỳ khưu những vật thực loại cứng mà họ không nhai cho chính bản thân, không dâng đến cha mẹ, ...(như trên)..., không cho đến các thân quyến cùng huyết thống. Họ cúng dường đến các tỳ khưu những thức nếm mà họ không nếm thử cho chính bản thân, không dâng đến cha mẹ, ...(như trên)... không cho đến các thân quyến cùng huyết thống. Họ cúng dường đến các tỳ khưu những thức uống mà họ không uống cho chính bản thân, không dâng đến cha mẹ, không cho đến vợ con, không cho đến các tôi tớ và người làm công, không cho đến bạn bè và các quan lại, không cho đến các thân quyến cùng huyết thống.
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã có được tướng mạo, căn quyền sung mãn, sắc diện rạng rỡ, sắc thân an tịnh.
Điều này đã trở thành thông lệ cho các tỳ khưu đã trải qua mùa (an cư) mưa là đi đến diện kiến đức Thế Tôn. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy trải qua ba tháng mùa (an cư) mưa đã thu xếp chỗ trú ngụ, cầm y bát, ra đi về phía thành Vesālī. Trong khi tuần tự du hành, các vị đã đi đến thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.
[228] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa ở các phương thì ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân; trái lại các vị tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā có được tướng mạo, căn quyền sung mãn, sắc diện rạng rỡ, sắc thân an tịnh.
Điều này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā điều này:
- Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau đã sống qua mùa (an cư) mưa có được thoải mái không? Và chắc hẳn không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực?
- Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc đều tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau đã sống qua mùa (an cư) mưa được thoải mái, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.
Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi. Các đấng Như lai hỏi có liên quan đến lợi ích và không (hỏi việc) không có liên quan đến lợi ích, khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề. Chư Phật Thế Tôn hỏi các tỳ khưu bởi hai lý do: “Chúng ta sẽ thuyết Pháp hoặc sẽ quy định điều học cho các đệ tử.” Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā điều này:
- Này các tỳ khưu, các ngươi có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau đã sống qua mùa (an cư) mưa được thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực như thế nào?
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, các ngươi có thực chứng không?
- Bạch Thế Tôn, không có thực chứng.
[229] Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này những kẻ rồ dại, tại sao các ngươi vì lý do của bao tử lại nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia? Này những kẻ rồ dại, thà các người bị mổ banh bụng ra bởi con dao bén của kẻ giết trâu bò còn là điều cao thượng, chớ vì lý do của bao tử mà nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia là không (cao thượng). Điều ấy có lý do như thế nào? Này những kẻ rồ dại, bởi vì do nguyên nhân kia [1]các ngươi có thể đi đến cái chết hoặc khổ gần như chết, nhưng không vì nguyên nhân kia, khi tan rã thân xác và chết đi, các ngươi lại có thể bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này những kẻ rồ dại, quả thật do nguyên nhân này,[2]khi tan rã thân xác và chết đi, các ngươi có thể bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
[230] Này các tỳ khưu, đây là năm kẻ cướp lớn được biết đến ở thế gian? Thế nào là năm? Này các tỳ khưu, ở đây có kẻ cướp lớn khởi ý như vầy: “Đến khi nào được tháp tùng bởi một trăm hay một ngàn, ta sẽ vừa đi quanh làng mạc phố thị kinh thành vừa giết vừa ra lệnh giết, vừa chém vừa ra lệnh chém, vừa hành hạ vừa ra lệnh hành hạ.” Một thời gian sau, được tháp tùng bởi một trăm hay một ngàn, kẻ ấy vừa đi quanh làng mạc phố thị kinh thành vừa giết vừa ra lệnh giết, vừa chém vừa ra lệnh chém, vừa hành hạ vừa ra lệnh hành hạ. Này các tỳ khưu, tương tợ như thế, ở đây có hạng ác tỳ khưu khởi ý như vầy: “Đến khi nào được tùy tùng bởi một trăm hay một ngàn, ta sẽ đi quanh làng mạc phố thị kinh thành và được tiếp rước, được cung kính, được nể sợ, được cúng dường, được tôn trọng, và có được lợi lộc về vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh của các gia chủ và các bậc xuất gia.” Một thời gian sau, được tùy tùng bởi một trăm hay một ngàn, vị ấy đi quanh làng mạc phố thị kinh thành và được tiếp rước, được cung kính, được nể sợ, được cúng dường, được tôn trọng, và có được lợi lộc về vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh của các gia chủ và các bậc xuất gia. Này các tỳ khưu, đây là kẻ cướp lớn thứ nhất được biết đến ở thế gian.
Này các tỳ khưu, hơn nữa, ở đây có hạng ác tỳ khưu sau khi đã học tập Pháp và Luật được công bố bởi Như Lai lại xem là của chính bản thân. Này các tỳ khưu, đây là kẻ cướp lớn thứ nhì được biết đến ở thế gian.
Này các tỳ khưu, hơn nữa, ở đây có hạng ác tỳ khưu bôi nhọ vị trong sạch, có Phạm hạnh, đang thực hành Phạm hạnh thanh tịnh bằng điều phi Phạm hạnh không có nguyên cớ. Này các tỳ khưu, đây là kẻ cướp lớn thứ ba được biết đến ở thế gian.
Này các tỳ khưu, hơn nữa, ở đây có hạng ác tỳ khưu chiêu dụ mua chuộc các người tại gia bằng các trọng vật là các vật dụng chủ yếu của hội chúng như là tu viện, vùng đất của tu viện, trú xá, vùng đất của trú xá, gường, ghế, nệm, gối, chum đồng, chậu đồng, hũ đồng, vại đồng, rìu, búa, cuốc, xẻng, lưỡi đục, dây leo, tre, cỏ muñja, cỏ pabbaja, cỏ tiṇa, đất sét, đồ gỗ, đồ gốm. Này các tỳ khưu, đây là kẻ cướp lớn thứ tư được biết đến ở thế gian.
Này các tỳ khưu, trong thế gian bao gồm cõi chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, bà-la-môn, chư thiên, và loài người, kẻ cướp lớn đứng hàng đầu là kẻ khoác lác về pháp thượng nhân không có không thực chứng. Điều ấy có lý do thế nào? Này các tỳ khưu, các ngươi đã ăn thức ăn của xứ sở theo lối trộm cướp.
Vị tuyên bố thế này,
bản thân như thế khác,
ăn cơm kiểu dối lường
như cờ gian bạc lận.
Nhiều kẻ cổ quấn y,
ác pháp không thu thúc,
kẻ ác, vì nghiệp ác
phải sanh vào địa ngục.
Kẻ ác giới buông lung
thà ăn vào sắt cục
cháy đỏ có lửa ngọn
hơn đồ ăn xứ sở.
[231] Khi ấy, đức Thế Tôn đã khiển trách các vị tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, về sự khó khăn trong việc ăn uống, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tuyên bố về pháp thượng nhân chưa được thắng tri, là pháp thể nhập của bản thân, là pháp thuộc về trí tuệ và sự thấy biết của bậc thánh rằng: ‘Tôi biết như vầy, tôi thấy như vầy.’ Sau đó vào lúc khác, dầu được hỏi hay không được hỏi, (vị ấy) có ước muốn được trong sạch tội đã vi phạm lại nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đã không biết như vầy lại nói biết, đã không thấy lại nói thấy, tôi đã nói điều phù phiếm, điều dối trá;’ vị ấy cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[232] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu trong khi không thấy tưởng là đã thấy, trong khi không đạt tưởng là đã đạt, trong khi không đắc chứng tưởng là đã đắc chứng, trong khi không thực chứng tưởng là đã thực chứng, đã nói một cách thái quá về trí giải thoát. Một thời gian sau, các vị lại có tâm thiên về tham ái, lại có tâm lại thiên về sân hận, lại có tâm lại thiên về si mê. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc rằng: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định; và chúng ta trong khi không thấy tưởng là đã thấy, trong khi không đạt tưởng là đã đạt, trong khi không đắc chứng tưởng là đã đắc chứng, trong khi không thực chứng tưởng là đã thực chứng, đã nói một cách thái quá về trí giải thoát, phải chăng chúng ta đã phạm tội pārājika?” Các vị ấy đã kể lại sự việc ấy cho đại đức Ānanda. Đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Ānanda, có các vị tỳ khưu trong khi không thấy tưởng là đã thấy, trong khi không đạt tưởng là đã đạt, trong khi không đắc chứng tưởng là đã đắc chứng, trong khi không thực chứng tưởng là đã thực chứng,đã nói với sự tự tin thái quá về trí giải thoát; điều ấy vốn không thuộc về trường hợp này.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tuyên bố về pháp thượng nhân chưa được thắng tri, là pháp thể nhập của bản thân, là pháp thuộc về trí tuệ và sự thấy biết của bậc thánh rằng: ‘Tôi biết như vầy, tôi thấy như vầy.’ Sau đó vào lúc khác, dầu được hỏi hay không được hỏi, (vị ấy) có ước muốn được trong sạch tội đã vi phạm lại nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đã không biết như vầy lại nói biết, đã không thấy lại nói thấy, tôi đã nói điều phù phiếm, điều dối trá,’ ngoại trừ vì sự tự tin thái quá; vị này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”
[233] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chưa được thắng tri: là không có, không thực chứng, không được biết rõ, trong khi không hiểu, trong khi không thấy thiện pháp ở nơi mình (lại nói): “Tôi có các thiện pháp.”
Pháp thượng nhân nghĩa là thiền, sự giải thoát, định, sự chứng đạt, trí tuệ và sự thấy biết, sự tu tập về Đạo, sự thực chứng về Quả, sự dứt bỏ phiền não, sự không còn bị che lấp của tâm, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng.
Là pháp thể nhập của bản thân: hoặc là thể nhập các thiện pháp ấy vào bản thân, hoặc là thể nhập bản thân vào các thiện pháp ấy.
Trí tuệ: là tam Minh.
Thấy biết: điều gì là trí tuệ điều ấy là sự thấy biết. Điều gì là sự thấy biết điều ấy là trí tuệ.
Tuyên bố: vị nói ra đến người nữ, hoặc đến người nam, hoặc đến người tại gia, hoặc đến vị xuất gia.
Tôi biết như vầy, tôi thấy như vầy: Tôi biết các pháp này, tôi thấy các pháp này, tôi có các pháp này, và tôi thuần thục trong các pháp này.
[234] Sau đó vào lúc khác: được thực hiện trong giây phút nào thì trải qua vào giây phút ấy, vào khoảng thời gian ấy, vào thời điểm ấy.
Dầu được hỏi: Sự việc gì đã cho biết thì được hỏi về việc ấy: “Điều gì đã được đại đức đắc chứng? Được đại đức đắc chứng như thế nào? Được đại đức đắc chứng vào lúc nào? Được đại đức đắc chứng ở đâu? Các phiền não nào đã được đại đức dứt bỏ? Đại đức đã đạt được các pháp nào?”
Hay không được hỏi: hoặc không được bất cứ ai đề cập đến.
Tội đã vi phạm: vị có ước muốn xấu xa, bị thúc giục bởi ước muốn, rồi khoác lác về pháp thượng nhân không có không thực chứng thì phạm tội pārājika.
Có ước muốn được trong sạch: hoặc là có ước muốn trở thành người gia chủ, hoặc là có ước muốn trở thành nam cư sĩ, hoặc là có ước muốn trở thành người phụ việc cho tu viện, hoặc là có ước muốn trở thành vị sa di.
Này các đại đức, tôiđã không biết như vầy lại nói biết, đã không thấy lại nói thấy: Tôi không biết các pháp này, tôi không thấy các pháp này, tôi không có các pháp này, và tôi không thuần thục trong các pháp này.
Tôi đã nói điều phù phiếm, điều dối trá: Điều phù phiếm đã được tôi nói ra, điều dối trá đã được tôi nói ra, điều không thực đã được tôi nói ra, điều không có đã được tôi nói ra, trong lúc tôi không biết tôi lại nói ra.
Ngoại trừ vì sự tự tin thái quá: trừ ra sự tự tin thái quá.
[235] Vị này cũng: được đề cập liên quan đến các vị trước đây.
Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như cây thốt nốt bị chặt ở ngọn không thể tăng trưởng được nữa; tương tợ như thế, vị tỳ khưu có ước muốn xấu xa, bị thúc giục bởi ước muốn, khi đã khoác lác về pháp thượng nhân không có không thực chứng, thì không phải là sa-môn, không phải là Thích tử; vì thế, được gọi là “vị phạm tội pārājika.”
Không được cộng trú: Sự cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là sự cộng trú. Vị ấy không có được điều ấy, vì thế được gọi là “không được cộng trú.”
[236] Pháp thượng nhân nghĩa là thiền, sự giải thoát, định, sự chứng đạt, trí tuệ và sự thấy biết, sự tu tập về Đạo, sự thực chứng về Quả, sự dứt bỏ phiền não, sự không còn bị che lấp của tâm, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng.
Thiền: là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền.
Sự giải thoát: là vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát.[3]
Định: là vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định.
Sự chứng đạt: là sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện.
Trí tuệ: là tam Minh.
Sự tu tập về Đạo: là tứ Niệm Xứ, tứ Chánh Cần, tứ Như Ý Túc, ngũ Quyền, ngũ Lực, thất Giác Chi, bát Thánh Đạo.
Sự thực chứng về Quả: là sự thực chứng quả vị Nhập Lưu, sự thực chứng quả vị Nhất Lai, sự thực chứng quả vị Bất Lai, sự thực chứng quả vị A-la-hán.
Sự dứt bỏ phiền não: là sự dứt bỏ tham ái, sự dứt bỏ sân, sự dứt bỏ si.
Sự không còn bị che lấp của tâm: nghĩa là tâm không còn bị che lấp bởi tham ái, tâm không còn bị che lấp bởi sân, tâm không còn bị che lấp bởi si.
Sự thỏa thích ở nơi thanh vắng: là sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với sơ thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với nhị thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với tam thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với tứ thiền.
[237] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền” (paṭhamaṃ jhānaṃ samāpajjiṃ) bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.”
Với bốn yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm.
Với năm yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi.
Với sáu yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát.
Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
[238] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” (paṭhamaṃ jhānaṃ samāpajjāmi) bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.”
Với bốn yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm.
Với năm yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi.
Với sáu yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát.
Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
[239] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng được sơ thiền” (paṭhamaṃ jhānaṃ samāpanno) bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.”
Với bốn yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng được sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm.
Với năm yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng được sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi.
Với sáu yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng được sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát.
Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng được sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
[240] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đạt sơ thiền” (paṭhamassa jhānassa lābhimhi) bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.”
Với bốn yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đạt sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm.
Với năm yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đạt sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi.
Với sáu yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đạt sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát.
Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đạt sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
[241] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi trú sơ thiền” (paṭhamassa jhānassa vāsimhi) bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.”
Với bốn yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi trú sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm.
Với năm yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi trú sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi.
Với sáu yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi trú sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát.
Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi trú sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
[242] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thực chứng sơ thiền” (paṭhamaṃ jhānaṃ sacchikataṃ mayā) bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.”
Với bốn yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thực chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm.
Với năm yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thực chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi.
Với sáu yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thực chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát.
Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thực chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
[243] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được nhị thiền, ... tam thiền, ... tứ thiền, ... tôi đạt ... tôi trú tứ thiền, ... tôi đã thực chứng tứ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
[244] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, ... tôi đạt ... tôi trú vô nguyện giải thoát, ... tôi đã thực chứng vô nguyện giải thoát” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[245] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, ... tôi đạt ... tôi trú vô nguyện định, ... tôi đã thực chứng vô nguyện định” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[246] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, ... tôi đạt ... tôi trú sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, ... tôi đã thực chứng sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[247] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được tam Minh, ... tôi đạt ... tôi trú tam Minh, ... tôi đã thực chứng tam Minh” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[248] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được tứ Niệm Xứ, tứ Chánh Cần, tứ Như Ý Túc, ... tôi đạt ... tôi trú tứ Như Ý Túc, ... tôi đã thực chứng tứ Như Ý Túc” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[249] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được ngũ Quyền, ngũ Lực, ... tôi đạt ... tôi trú ngũ Lực, ... tôi đã thực chứng ngũ Lực” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[250] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được thất Giác Chi, ... tôi đạt ... tôi trú thất Giác Chi, ... tôi đã thực chứng thất Giác Chi” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[251] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được bát Thánh Đạo, ... tôi đạt ... tôi trú bát Thánh Đạo, ... tôi đã thực chứng bát Thánh Đạo” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[252] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được quả vị Nhập Lưu, quả vị Nhất Lai, quả vị Bất Lai, quả vị A-la-hán, ... tôi đạt ... tôi trú quả vị A-la-hán, ... tôi đã thực chứng quả vị A-la-hán” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[253] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã từ bỏ tham ái, tôi đã quăng bỏ tham ái, tôi đã thoát khỏi tham ái, tôi đã dứt bỏ tham ái, tôi đã xa rời tham ái, tôi đã khai trừ tham ái, tôi đã đoạn trừ tham ái ” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã từ bỏ sân, ...(như trên)...”bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã từ bỏ si, tôi đã quăng bỏ si, tôi đã thoát khỏi si, tôi đã dứt bỏ si, tôi đã xa rời si, tôi đã khai trừ si, tôi đã đoạn trừ si” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[254] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
Dứt phần liên quan đến sự trong sạch.
[255] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và nhị thiền, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và nhị thiền, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và nhị thiền” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tam thiền, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và tam thiền, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và tam thiền” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tứ thiền, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và tứ thiền, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và tứ thiền” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[256] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và vô phiền não giải thoát, sơ thiền và vô tướng giải thoát, sơ thiền và vô nguyện giải thoát, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và vô nguyện giải thoát, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và vô nguyện giải thoát” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[257] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và vô phiền não định, sơ thiền và vô tướng định, sơ thiền và vô nguyện định, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và vô nguyện định, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và vô nguyện định” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[258] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, sơ thiền và sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, sơ thiền và sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[259] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tam Minh, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và tam Minh, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và tam Minh” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[260] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tứ Niệm Xứ, sơ thiền và tứ Chánh Cần, sơ thiền và tứ Như Ý Túc, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và tứ Như Ý Túc, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và tứ Như Ý Túc” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[261] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và ngũ Quyền, sơ thiền và ngũ Lực, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và ngũ Lực, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và ngũ Lực” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[262] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và thất Giác Chi, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và thất Giác Chi, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và thất Giác Chi” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[263] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và bát Thánh Đạo, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và bát Thánh Đạo, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và bát Thánh Đạo” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[264] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và quả vị Nhập Lưu, sơ thiền và quả vị Nhất Lai, sơ thiền và quả vị Bất Lai, sơ thiền và quả vị A-la-hán, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và quả vị A-la-hán, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và quả vị A-la-hán” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[265] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tôi đã từ bỏ tham ái, ...(như trên)... Tôi đã chứng sơ thiền ...(như trên)... và tôi đã từ bỏ sân ...(như trên)... Tôi đã chứng sơ thiền ...(như trên)... và tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
[266] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
Dứt phần phân tích theo sự xoay vòng.
[267] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được nhị thiền và tam thiền, ... tôi đạt ... tôi trú nhị thiền và tam thiền, ... tôi đã thực chứng nhị thiền và tam thiền” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được nhị thiền và tứ thiền, ... tôi đạt ... tôi trú nhị thiền và tứ thiền, ... tôi đã thực chứng nhị thiền và tứ thiền” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng nhị thiền và vô phiền não giải thoát, nhị thiền và vô tướng giải thoát, nhị thiền và vô nguyện giải thoát, nhị thiền và vô phiền não định, nhị thiền và vô tướng định, nhị thiền và vô nguyện định, nhị thiền và sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, nhị thiền và sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, nhị thiền và sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, nhị thiền và tam Minh, nhị thiền và tứ Niệm Xứ, nhị thiền và tứ Chánh Cần, nhị thiền và tứ Như Ý Túc, nhị thiền và ngũ Quyền, nhị thiền và ngũ Lực, nhị thiền và thất Giác Chi, nhị thiền và bát Thánh Đạo, nhị thiền và quả vị Nhập Lưu, nhị thiền và quả vị Nhất Lai, nhị thiền và quả vị Bất Lai, nhị thiền và quả vị A-la-hán, ...(như trên)... Tôi đã chứng được nhị thiền và tôi đã từ bỏ tham ái, ...(như trên)... và tôi đã từ bỏ sân ...(như trên)... và tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si ...(như trên)... Tôi đã chứng nhị thiền và tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tôi đã chứng nhị thiền và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, tôi đã chứng nhị thiền và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được nhị thiền và sơ thiền, ... tôi đạt ... tôi trú nhị thiền và sơ thiền, ... tôi đã thực chứng nhị thiền và sơ thiền” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
Dứt phần tổng hợp theo sự xoay vòng.
Sau khi thực hiện theo mỗi một nhân tố như thế,
phần tổng hợp theo sự xoay vòng nên được tiến hành một cách tròn đủ.
Phần này được tóm tắt.
[268] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền. ... tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đạt ... tôi trú sơ thiền, tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã thực chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, tam Minh, tứ Niệm Xứ, tứ Chánh Cần, tứ Như Ý Túc, ngũ Quyền, ngũ Lực, thất Giác Chi, bát Thánh Đạo, quả vị Nhập Lưu, quả vị Nhất Lai, quả vị Bất Lai, quả vị A-la-hán, ...(như trên)... Tôi đã từ bỏ tham ái, ...(như trên)... Tôi đã từ bỏ sân ...(như trên)... Tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si ...(như trên)... Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika ...(như trên)...
Dứt phần tóm tắt liên quan đến một nhân tố.
[269] Phần liên quan đến hai nhân tố, phần liên quan đến ba nhân tố, phần liên quan đến bốn nhân tố, phần liên quan đến năm nhân tố, phần liên quan đến sáu nhân tố, phần liên quan đến bảy nhân tố, phần liên quan đến tám nhân tố, phần liên quan đến chín nhân tố, phần liên quan đến mười nhân tố nên được phân tích giống y như cách đã được phân tích ở phần liên quan đến một nhân tố.
Đây là phần liên quan đến tất cả các nhân tố.
[270] Với ba yếu tố, ... Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, tam Minh, tứ Niệm Xứ, tứ Chánh Cần, tứ Như Ý Túc, ngũ Quyền, ngũ Lực, thất Giác Chi, bát Thánh Đạo, quả vị Nhập Lưu, quả vị Nhất Lai, quả vị Bất Lai, quả vị A-la-hán, ...(như trên)... Tôi đã từ bỏ tham ái, ...(như trên)... Tôi đã từ bỏ sân ...(như trên)... Tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si ...(như trên)... Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika: Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
Dứt phần liên quan đến tất cả các nhân tố.
Dứt phần giảng giải về trường hợp liên quan đến sự trong sạch.
[271] Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng nhị thiền” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng tam thiền” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng tứ thiền” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, tam Minh, tứ Niệm Xứ, tứ Chánh Cần, tứ Như Ý Túc, ngũ Quyền, ngũ Lực, thất Giác Chi, bát Thánh Đạo, quả vị Nhập Lưu, quả vị Nhất Lai, quả vị Bất Lai, quả vị A-la-hán” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã từ bỏ tham ái, ...(như trên)... Tôi đã từ bỏ sân ...(như trên)... Tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
Dứt phần phân tích theo sự xoay vòng theo từ được chọn lọc
thuộc về các sự việc căn bản.
[272] Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng tam thiền” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Phần tóm tắt theo sự xoay vòng có liên quan đến một nhân tố
thuộc về các sự việc căn bản.
Phần nhân tố được tóm tắt.
[273] Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Dứt phần tóm tắt có liên quan đến một nhân tố
thuộc về các sự việc căn bản.
[274] Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền và nhị thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng tam thiền” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền và nhị thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Phần phân tích theo sự xoay vòng có liên quan đến hai nhân tố
thuộc về các sự việc căn bản.
[275] Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền và tam thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng tứ thiền” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền và tam thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền và tam thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng có liên quan đến hai nhân tố
thuộc về các sự việc căn bản.
[276] Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)...
Dứt phần tóm tắt có liên quan đến hai nhân tố
thuộc về các sự việc căn bản.
[277] Phần liên quan đến ba nhân tố, phần liên quan đến bốn nhân tố, phần liên quan đến năm nhân tố, phần liên quan đến sáu nhân tố, phần liên quan đến bảy nhân tố, phần liên quan đến tám nhân tố, phần liên quan đến chín nhân tố, phần liên quan đến mười nhân tố nên được thực hiện theo như đã được giảng giải ở phần có liên quan đến mỗi một nhân tố thuộc về phần có từ được chọn lọc. Phần có liên quan đến một nhân tố được phân tích như thế nào thì nên được phân tích giống y như thế.
Đây là phần có liên quan đến tất cả các nhân tố.
[278] Với ba yếu tố, ...(như trên)... Với bảy yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, tam Minh, tứ Niệm Xứ, tứ Chánh Cần, tứ Như Ý Túc, ngũ Quyền, ngũ Lực, thất Giác Chi, bát Thánh Đạo, quả vị Nhập Lưu, quả vị Nhất Lai, quả vị Bất Lai, quả vị A-la-hán và tôi đã từ bỏ tham ái, ...(như trên)... Tôi đã từ bỏ sân ...(như trên)... Tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, và tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân” lại cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika; (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
Dứt phần trùng lặp theo sự xoay vòng thuộc về các sự việc căn bản.
Dứt phần giảng giải về trường hợp “Có ý định nói.”
[279] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị (tỳ khưu) nào cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được sơ thiền, vị tỳ khưu ấy có sự đạt được ... có sự an trú của sơ thiền, sơ thiền đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy”và (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội); (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.”
Với bốn yếu tố, với năm yếu tố, với sáu yếu tố, với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị (tỳ khưu) nào cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được sơ thiền, vị tỳ khưu ấy có sự đạt được ... có sự an trú của sơ thiền, sơ thiền đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy”và (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội); (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị (tỳ khưu) nào cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, tam Minh, tứ Niệm Xứ, tứ Chánh Cần, tứ Như Ý Túc, ngũ Quyền, ngũ Lực, thất Giác Chi, bát Thánh Đạo, quả vị Nhập Lưu, quả vị Nhất Lai, quả vị Bất Lai và quả vị A-la-hán. Vị tỳ khưu ấy có sự đạt được ... có sự an trú vào quả vị A-la-hán, quả vị A-la-hán đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy”và (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội); (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị (tỳ khưu) nào cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã từ bỏ tham ái, ...(như trên)... đã từ bỏ sân ...(như trên)... đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si”và (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội); (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị (tỳ khưu) nào cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy có tâm không bị che lấp bởi tham ái, có tâm không bị che lấp bởi sân, có tâm không bị che lấp bởi si” và (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội); (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị (tỳ khưu) nào cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng... đã chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền ở nơi thanh vắng; vị tỳ khưu ấy có sự đạt được ... có sự an trú của tứ thiền ở nơi thanh vắng, tứ thiền đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy ở nơi thanh vắng”và (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội); (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
[280] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị nào thọ dụng y của đạo hữu, thọ dụng vật thực của đạo hữu, thọ dụng chỗ trú ngụ của đạo hữu, thọ dụng thuốc men trị bệnh của đạo hữu, trú xá của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, y của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, vật thực của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, chỗ trú ngụ của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, thuốc men trị bệnh của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, vị nào đạo hữu đã đi đến và đã dâng y, đã dâng vật thực, đã dâng chỗ trú ngụ, đã dâng thuốc men trị bệnh, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền ở nơi thanh vắng; vị tỳ khưu ấy có sự đạt được ... có sự an trú của tứ thiền ở nơi thanh vắng, tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy”và (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya (trọng tội); (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” sau khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
Dứt mười lăm phần trùng lặp.
Dứt phần giảng giải về các trường hợp liên quan đến vật dụng.
[281] Vì sự tự tin thái quá, vị không có ý định khoác lác,vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[282]
Khi tự tin thái quá,
trong rừng, đi khất thực,
thầy tế độ, oai nghi,
các trói buộc, hoang vắng,
trú xá, được hộ độ,
không phải là việc khó,
tinh tấn, rồi tử thần,
sợ hãi, này đại đức
ân hận, hành chơn chánh,
với kiên trì gắn bó
đưa đến sự thành tựu,
rồi có hai câu chuyện
chịu đựng về cảm thọ,
bà-la-môn năm chuyện,
ba chuyện vị đề cập
trí giải thoát, ngụ nhà,
các dục đã ngăn chặn,
thỏa thích, và ra đi,
bộ xương và miếng thịt
hai chuyện kẻ giết bò,
cục thịt kẻ bẫy chim,
không da người hàng thịt,
cây gươm kẻ mổ heo,
cây lao thợ săn nai,
mũi tên người xử án,
cây kim kẻ dạy thú,
người đâm thọc bị khâu,
mang tinh hoàn quan tòa,
chìm hố kẻ ngoại tình,
bà-la-môn quỷ quyệt
là kẻ bị ăn phân,
không da gái lăng loàn,
gớm ghiếc bà bói toán,
thị héo hon tàn tạ
đổ than hồng tình địch,
đầu cụt kẻ trảm tù,
tỳ khưu, tỳ khưu ni,
ni tập sự, sa di,
rồi vị sa di ni,
đã xuất gia trong Luật
của Phật Kassapa
chúng đã làm ác nghiệp,
giòng sông Tapodā,
thành Rājagaha,
chiến trận (Licchavi),
và chuyện rồng lặn hụp,
tỳ khưu Sobhita
là vị A-la-hán
nhớ được năm trăm kiếp.
[283] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ do sự tự tin thái quá đã nói về trí giải thoát (aññā). Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định; phải chăng ta đã phạm tội pārājika?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, do sự tự tin thái quá thì vô tội.
[284] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ cư ngụ ở trong rừng sau khi mong mỏi rằng: “Như vầy thì dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đã kính trọng vị ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên cư ngụ ở trong rừng sau khi đã mong mỏi; vị nào cư ngụ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi khất thực sau khi mong mỏi rằng: “Như vầy thì dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đã kính trọng vị ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên đi khất thực sau khi đã mong mỏi; vị nào đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[285] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nói với vị tỳ khưu khác điều này:
- Này đại đức, tất cả các vị đệ tử của thầy tế độ của chúng ta đều là các vị A-la-hán.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).[4]
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nói với vị tỳ khưu khác điều này:
- Này đại đức, tất cả các vị học trò của thầy tế độ của chúng ta đều có đại thần lực, có đại oai lực.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[286] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi kinh hành sau khi mong mỏi rằng: “Như vầy thì dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đã kính trọng vị ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên đi kinh hành sau khi đã mong mỏi; vị nào đi kinh hành thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đứng yên sau khi đã mong mỏi ...(như trên)... ngồi xuống sau khi đã mong mỏi ...(như trên)... nằm xuống sau khi mong mỏi rằng: “Như vầy thì dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đã kính trọng vị ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên nằm xuống sau khi đã mong mỏi; vị nào nằm xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[287] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác về pháp thượng nhân đến vị tỳ khưu khác. Vị ấy cũng đã nói như vầy:
- Này đại đức, những sự trói buộc (saṃyojanā) của tôi cũng đã được đoạn tận.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[288] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi đến nơi vắng vẻ rồi khoác lác về pháp thượng nhân. Có vị tỳ khưu biết được tâm người khác đã phản bác vị tỳ khưu ấy rằng:
- Này đại đức, chớ có nói như thế. Điều ấy đại đức không có.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi đến nơi vắng vẻ rồi khoác lác về pháp thượng nhân. Có vị thiên nhân đã phản bác vị tỳ khưu ấy rằng:
- Thưa ngài, chớ có nói như thế. Điều ấy ngài không có.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa (tác ác)..
[289] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nói với nam cư sĩ nọ điều này:
- Này đạo hữu, vị tỳ khưu sống trong trú xá của đạo hữu là vị A-la-hán.
Và vị tỳ khưu ấy sống trong trú xá của người ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nói với nam cư sĩ nọ điều này:
- Này đạo hữu, vị tỳ khưu mà ngươi hộ độ bằng vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men trị bệnh là vị A-la-hán.
Và người ấy đang hộ độ vị tỳ khưu ấy bằng vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men trị bệnh. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[290] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này:
- Đại đức có pháp thượng nhân không?
- Này các đại đức, không phải là việc khó để nói lên trí giải thoát.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chỉ có những vị thinh văn của đức Thế Tôn mới có thể nói như thế. Và ta không phải là thinh văn của đức Thế Tôn; phải chăng ta đã phạm tội pārājika?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không có ý định khoác lác.
- Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này:
- Đại đức có pháp thượng nhân không?
- Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự tinh tấn được ra sức.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này:
- Này đại đức, chớ có sợ hãi!
- Này các đại đức, tôi không có sợ tử thần.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này:
- Này đại đức, chớ có sợ hãi!
- Này các đại đức, có lẽ vị nào có sự ân hận thì vị ấy mới sợ hãi.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này:
- Đại đức có pháp thượng nhân không?
- Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự hành trì chơn chánh.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này:
- Đại đức có pháp thượng nhân không?
- Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự tinh tấn được ra sức.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.[5]
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này:
- Đại đức có pháp thượng nhân không?
- Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự kiên trì gắn bó.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này:
- Này đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không?
- Này các đại đức, người nào khác thì không thể chịu đựng nỗi.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này:
- Này đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không?
- Này các đại đức, phàm nhân thì không thể chịu đựng nỗi.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)... Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[291] Vào lúc bấy giờ, có người bà-la-môn nọ đã thỉnh mời các tỳ khưu và đã nói điều này:
- Thưa các ngài, xin các ngài A-la-hán hãy ngự đến.
Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chúng ta không phải là các vị A-la-hán và người bà-la-môn này gọi chúng ta bằng từ A-la-hán. Vậy chúng ta nên xử trí như thế nào đây?” Các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, vô tội trong việc xưng hô theo đức tin.
Vào lúc bấy giờ, có người bà-la-môn nọ đã thỉnh mời các tỳ khưu và đã nói điều này:
- Thưa các ngài, xin các ngài A-la-hán hãy ngồi xuống.
...(như trên)...
- Thưa các ngài, xin các ngài A-la-hán hãy thọ thực.
...(như trên)...
- Thưa các ngài, xin các ngài A-la-hán hãy được hài lòng.
...(như trên)...
- Thưa các ngài, xin các ngài A-la-hán hãy ra đi.
Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chúng ta không phải là các vị A-la-hán và người bà-la-môn này lại đối xử với chúng ta bằng danh xưng A-la-hán. Vậy chúng ta nên xử trí như thế nào đây?” Các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, vô tội trong việc xưng hô theo đức tin.
[292] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác với vị tỳ khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đã nói như vầy:
- Này đại đức, tôi cũng đã đoạn tận các lậu hoặc.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác với vị tỳ khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đã nói như vầy:
- Này đại đức, các pháp này cũng được tìm thấy ở tôi.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác với vị tỳ khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đã nói như vầy:
- Này đại đức, tôi cũng thành thục các pháp này.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika
[293] Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đã nói với vị tỳ khưu nọ điều này:
- Thưa ngài, hãy đến và ngụ ở trong nhà.
- Này các đạo hữu, người như tôi không thể ngụ ở trong nhà.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không có ý định khoác lác.
- Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đã nói với vị tỳ khưu nọ điều này:
- Thưa ngài, hãy đến và thọ dụng các dục.
- Này các đạo hữu, các dục của tôi đã được ngăn chặn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không có ý định khoác lác.
- Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đã nói với vị tỳ khưu nọ điều này:
- Thưa ngài, xin hãy thỏa thích.
- Này các đạo hữu, tôi được thỏa thích với sự thỏa thích tối thượng.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chỉ có những vị thinh văn của đức Thế Tôn mới có thể nói như thế. Và ta không phải là thinh văn của đức Thế Tôn; phải chăng ta đã phạm tội pārājika?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không có ý định khoác lác.
- Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.
[294] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa ở trú xứ nọ sau khi thỏa thuận rằng: “Vị nào sẽ rời trú xứ này trước tiên, chúng ta sẽ biết vị ấy là: ‘Vị A-la-hán.’”
Có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Hãy để cho các vị biết ta là: ‘Vị A-la-hán,’” rồi đã rời trú xứ ấy trước tiên. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội pārājika?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[295] Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, đại đức Lakkhaṇa và đại đức Mahāmoggallāna cư ngụ tại núi Gijjhakūṭa. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Mahāmoggallāna đã mặc y cầm y bát đi đến gặp đại đức Lakkhaṇa, sau khi đến đã nói với đại đức Lakkhaṇa điều này:
- Này đại đức Lakkhaṇa, chúng ta hãy đi vào thành Rājagaha để khất thực.
- Này đại đức, xin vâng. Đại đức Lakkhaṇa đã trả lời đại đức Mahāmoggallāna.
Sau đó, trong khi đi xuống từ núi Gijjhakūṭa ngang qua khu vực nọ, đại đức Mahāmoggallāna đã mỉm cười. Khi ấy, đại đức Lakkhaṇa đã nói với đại đức Mahāmoggallāna điều này:
- Này đại đức Mahāmoggallāna, nhân gì duyên gì đưa đến việc mỉm cười vậy?
- Này đại đức Lakkhaṇa, không phải lúc để giải thích câu hỏi này, hãy hỏi ta câu hỏi này trong sự hiện diện của đức Thế Tôn.
Sau đó, đại đức Lakkhaṇa và đại đức Mahāmoggallāna đã đi khất thực ở trong thành Rājagaha, sau bữa ăn khi đi khất thực trở về đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Lakkhaṇa đã nói với đại đức Mahāmoggallāna điều này:
- Ở đây, đại đức Mahāmoggallāna, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa ngang qua khu vực nọ, đã mỉm cười. Này đại đức Mahāmoggallāna, nhân gì duyên gì đưa đến việc mỉm cười vậy?
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy bộ xương đang đi trong hư không và có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng[6]lăn xả lao vào bộ xương ấy, day nghiến, bóc ra, rứt ra các phần ở khoảng giữa các xương sườn; và bộ xương ấy đã rên rỉ khổ sở. Này đại đức, ta đây đã khởi ý điều này: “Thật là kỳ diệu!Thật là phi thường!Cũng có chúng sanh lại trở thành như thế này!Cũng có dạ-xoa lại trở thành như thế này! Cũng có ngạ quỷ lại trở thành như thế này! Cũng có sự hình thành bản ngã lại là như thế này!”
Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, quả thật các thinh văn sống với mắt thấy như thật! Này các tỳ khưu, quả thật các thinh văn sống với trí biết như thật! Bởi vì là thinh văn thì sẽ biết, hoặc sẽ thấy, hoặc sẽ chứng kiến điều như thế. Này các tỳ khưu, trước đây ta đã thấy chúng sanh ấy, tuy nhiên ta đã không nói ra. Và nếu ta nói ra điều ấy thì những kẻ khác có thể không tin ta, những ai không tin ta thì việc ấy sẽ đem lại cho chúng sự bất hạnh khổ đau lâu dài. Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ giết trâu bò ở ngay trong thành Rājagaha này. Kẻ ấy, do quả của nghiệp ấy, sau khi đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, và do quả dư sót của chính nghiệp ấy đã đạt đến sự hình thành bản ngã có hình thức như thế. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna là vô tội.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy miếng thịt đang đi trong hư không và có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào miếng thịt ấy, day nghiến, bóc ra, rứt ra; và miếng thịt ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ giết trâu bò ở ngay trong thành Rājagaha này.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy cục thịt đang đi trong hư không và có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cục thịt ấy, day nghiến, bóc ra, rứt ra; và cục thịt ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ bẫy chim ở ngay trong thành Rājagaha này.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người đàn ông không có lớp da (bao bọc)[7]đang đi trong hư không và có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, bóc ra, rứt ra; và người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người hàng thịt ở ngay trong thành Rājagaha này.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người có lông là các cây gươm đang đi trong hư không và những cây gươm ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; và người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người mổ heo ở ngay trong thành Rājagaha này.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người có lông là các cây lao đang đi trong hư không và những cây lao ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; và người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người thợ săn nai ở ngay trong thành Rājagaha này.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người có lông là các mũi tên đang đi trong hư không và những mũi tên ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; và người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người tra khảo ở ngay trong thành Rājagaha này.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người có lông là các cây kim đang đi trong hư không và những cây kim ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; và người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người đánh xe ở ngay trong thành Rājagaha này.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người có lông là các cây kim đang đi trong hư không và những cây kim ấy đã đi vào đầu của người ấy rồi đi ra từ miệng, đã đi vào miệng rồi đi ra từ ngực, đã đi vào ngực rồi đi ra từ bụng, đã đi vào bụng rồi đi ra từ hai đùi, đã đi vào hai đùi rồi đi ra từ hai cẳng chân, đã đi vào hai cẳng chân rồi đi ra từ hai bàn chân; và người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ nói lời đâm thọc ở ngay trong thành Rājagaha này.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người hình thù quỷ sứ đang đi trong hư không. Trong lúc đi, người ấy đặt hai tinh hoàn ở trên vai rồi đi. Trong khi ngồi xuống, người ấy ngồi xuống trên chính hai tinh hoàn ấy. Và có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, bóc ra, rứt ra; và người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là quan xử án[8]ở ngay trong thành Rājagaha này.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người bị chìm đến tận đầu ở trong hố phân ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ phạm tội ngoại tình ở ngay trong thành Rājagaha này.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người bị chìm đến tận đầu ở trong hố phân, ăn phân bằng hai bàn tay ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ bà-la-môn quỷ quyệt ở ngay trong thành Rājagaha này. Trong thời giáo pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa, kẻ ấy đã thỉnh mời hội chúng tỳ khưu bữa ăn. Sau khi cho người đổ đầy máng phân và thông báo thời giờ, kẻ ấy đã nói điều này: “Này các ngài, hãy ăn ở đây theo ý thích rồi hãy mang đi.” Kẻ ấy, do quả của nghiệp ấy, sau khi đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, và do quả dư sót của chính nghiệp ấy đã đạt đến sự hình thành bản ngã có hình thức như thế. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna là vô tội.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người đàn bà không có lớp da (bao bọc) đang đi trong hư không và có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cô ấy, day nghiến, bóc ra, rứt ra; và cô ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, người đàn bà ấy đã là gái lăng loàn ở ngay trong thành Rājagaha này. ...(như trên)... Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna là vô tội.
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người đàn bà hôi thối gớm ghiếc đang đi trong hư không và có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cô ấy, day nghiến, bóc ra, rứt ra; và cô ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, người đàn bà ấy đã là bà bói toán ở ngay trong thành Rājagaha này.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người đàn bà bị thiêu đốt, héo hon, tàn tạ; và cô ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, người đàn bà ấy đã là đệ nhất hoàng hậu của đức vua Kāliṅga. Bà ta lộ vẻ ghen tương đã dùng chậu than cháy đỏ trút lên người tình địch.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy thi thể không đầu đang đi trong hư không, còn các con mắt và miệng thì ở trên ngực của người ấy, và có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, bóc ra, rứt ra; và người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người xử tử bọn trộm cướp tên Dāmarika ở ngay trong thành Rājagaha này.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy vị tỳ khưu đang đi trong hư không, y hai lớp (saṅghāti) của vị ấy bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, bình bát cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, dây thắt lưng cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, thân hình cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa; và vị ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy đã là vị ác tỳ khưu ở vào thời giáo pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa.
...(như trên)...
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy vị tỳ khưu ni ...(như trên)... đã nhìn thấy vị ni tu tập sự, đã nhìn thấy vị sa di, đã nhìn thấy vị sa di ni đang đi trong hư không, y hai lớp (saṅghāti)[9]của vị ni ấy bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, bình bát cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, dây thắt lưng cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, thân hình cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa; và vị ni ấy đã rên rỉ khổ sở. Này đại đức, ta đây đã khởi ý điều này: “Thật là kỳ diệu!Thật là phi thường!Cũng có chúng sanh lại trở thành như thế này!Cũng có dạ-xoa lại trở thành như thế này! Cũng có ngạ quỷ lại trở thành như thế này! Cũng có sự hình thành bản ngã lại là như thế này!”
Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, quả thật các thinh văn sống với mắt thấy như thật! Này các tỳ khưu, quả thật các thinh văn sống với trí biết như thật! Bởi vì là thinh văn thì sẽ biết, hoặc sẽ thấy, hoặc sẽ chứng kiến điều như thế. Này các tỳ khưu, trước đây ta đã thấy vị sa di ni ấy tuy nhiên ta đã không nói ra. Và nếu ta nói ra thì những kẻ khác có thể không tin ta, những ai không tin ta thì việc ấy sẽ đem lại cho chúng sự bất hạnh khổ đau lâu dài. Này các tỳ khưu, vị sa di ni ấy đã là ác sa di ni ở vào thời giáo pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa. Vị ni ấy, do quả của nghiệp ấy, đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, và do quả dư sót của chính nghiệp ấy đã đạt đến sự hình thành bản ngã có hình thức như thế. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna là vô tội.
[296] Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với các tỳ khưu rằng:
- Này các đại đức, giòng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đoá hoa sen tròn nở rộ, và giờ đây giòng sông Tapodā này đã trở nên nóng bỏng và trôi chảy.
Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Mahāmoggallāna lại nói như vầy: “Này các đại đức, giòng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đoá hoa sen tròn nở rộ, và giờ đây giòng sông Tapodā này đã trở nên nóng bỏng và trôi chảy”? Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, giòng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đoá hoa sen tròn nở rộ, và giờ đây giòng sông Tapodā này đã trở nên nóng bỏng và trôi chảy. Này các tỳ khưu, tuy nhiên giòng sông Tapodā này đi qua giữa hai đại địa ngục; vì thế, giòng sông Tapodā này đã trở nên nóng bỏng và trôi chảy. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna là vô tội.
[297] Vào lúc bấy giờ, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, trong lúc giao chiến với các vị Licchavi, đã bị đánh tan tác. Sau đó, khi đã gom góp lại đội binh hậu bị, đức vua đã đánh bại các vị Licchavi. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: “Các vị Licchavi đã bị đức vua đánh tan tác.” Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với các tỳ khưu rằng:
- Này các đại đức, đức vua đã bị các vị Licchavi đánh tan tác. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: “Các vị Licchavi đã bị đức vua đánh tan tác.”
Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Mahāmoggallāna lại nói như vầy: “Này các đại đức, đức vua đã bị các vị Licchavi đánh tan tác. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: ‘Các vị Licchavi đã bị đức vua đánh tan tác’”? Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trước tiên đức vua đã bị các vị Licchavi đánh tan tác. Sau đó, khi đã gom góp lại đội binh hậu bị, đức vua đã đánh bại các vị Licchavi. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna là vô tội.
[298] Sau đó, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với các tỳ khưu rằng:
- Này các đại đức, ở đây tôi đã chứng đạt định bất thối (āneñjaṃ samādhiṃ) ở nơi bờ sông Sappinikā. Tôi đã nghe tiếng động của các con rồng đang hụp xuống rồi trồi lên và gầm lên tiếng rống.
Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Mahāmoggallāna lại nói như vầy: “Này các đại đức, ở đây tôi đã chứng đạt định bền vững ở nơi bờ sông Sappinikā. Tôi đã nghe tiếng động của các con rồng đang hụp xuống rồi trồi lên và gầm lên tiếng rống”? Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, Moggallāna có loại định này và vị ấy chưa được thuần thục lắm.[10]Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna là vô tội.
[299] Khi ấy, đại đức Sobhita đã nói với các tỳ khưu rằng:
- Này các đại đức, tôi nhớ được năm trăm kiếp.
Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Sobhita lại nói như vầy: “Này các đại đức, tôi nhớ được năm trăm kiếp”? Đại đức Sobhita khoác lác về pháp thượng nhân.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, Sobhita đã sống kiếp sống ấy, và kiếp sống ấy chỉ là một kiếp sống của Sobhita. Này các tỳ khưu, Sobhita đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Sobhita là vô tội.
Dứt điều pārājika thứ tư.
*******
[300] Bạch chư đại đức, bốn điều pārājika đã được đọc tụng xong. Vị tỳ khưu vi phạm điều nọ hoặc điều kia thuộc về các điều này thì không đạt được sự cộng trú cùng với các vị tỳ khưu,[11]trước đây như thế nào[12]thì sau này là như vậy; (vị ấy) là vị phạm tội pārājika không được cộng trú.
Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Chương Pārājika.
*******
Tóm lược chương này:
(Thực hiện) việc đôi lứa,
lấy vật không được cho,
thân mạng của con người,
(tuyên bố) pháp thượng nhân,
(Như vậy) có bốn điều
(gọi) pārājika,
sự việc nên chia chẻ,
mối nghi hoặc chẳng còn.
[1]Là việc bị mổ banh bụng ra bởi con dao bén của kẻ giết trâu bò.
[2]Là việc nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia.
[3]Vô phiền não giải thoát (suññato vimokkho) là nội tâm không còn tham sân si, vô tướng giải thoát (animitto vimokkho) là nội tâm không còn các biểu hiện của tham sân si, vô nguyện giải thoát (appaṇihito vimokkho) là không còn trạng thái mong mỏi về tham sân si (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[4]Vị ấy không phạm pārājika vì chưa đề cập rõ ràng bản thân vị ấy là A-la-hán. Có một số câu chuyện ở các phần kế cũng được giải thích tương tợ.
[5]Câu chuyện này được lập lại y như câu chuyện ở phía trên.
[6]Ngài Buddhaghosa gọi các loài chim kên kên, chim quạ, chim ưng này là các loài dạ-xoa có hình dạng chim (yakkhagijjhā, yakkhakākā, yakkhakulalā).
[7]Ngài Buddhaghosa giải thích rằng người này đã giết các con dê rồi lột da nên bị quả báu không có lớp da bao bọc. Các câu chuyện kế là những ví dụ về sự liên quan về nhân quả và nghiệp báo.
[8]Người này tuy là quan xử án nhưng nhận của hối lộ ở nơi kín đáo rồi xử án thiên lệch nên bị trả quả phải phơi bày vật kín ra (Theo ngài Buddhaghosa).
[9]Có thể đây là một lầm lẫn trong lúc gom các đoạn văn trùng lặp lại với nhau vì các vị ni tu tập sự, sa di, sa di ni không có y hai lớp (saṅghāt,i). Chỉ tỳ khưu và tỳ khưu ni mới có y này.
[10]Đoạn này phỏng dịch theo ý dựa vào lời giảng giải của ngài Buddhaghosa (Attheso bhikkhave samādhi so ca kho aparisuddho).
[11]Theo ngài Buddhaghosa, vị ấy không còn được tham dự các lễ Uposatha, Pavāraṇā, việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và các hành sự của hội chúng (saṅghakamma).
[12]Trước đây còn tại gia chưa tu lên bậc trên sự cách biệt đối với các vị tỳ khưu như thế nào thì bây giờ theo như thế (giải thích theo ngài Buddhaghosa).
-ooOoo-
Bạch chư đại đức, mười ba điều saṅghādisesa (tăng tàng) này được đưa ra đọc tụng.
[399] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi cư ngụ ở trong rừng. Trú xá của đại đức ấy đẹp đẽ, đáng nhìn, xinh xắn. Vào lúc bấy giờ, có nhiều người đàn bà đã đi đến tu viện có ý muốn nhìn ngắm trú xá của đại đức Udāyi. Khi ấy, những người đàn bà ấy đã đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Thưa ngài, chúng tôi muốn nhìn ngắm trú xá của ngài đại đức.
Khi ấy, đại đức Udāyi sau khi cho những người đàn bà ấy nhìn ngắm trú xá rồi đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của những người đàn bà ấy, còn nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, yêu cầu, nài nỉ, hỏi han, chất vấn, chỉ bảo, dạy dỗ, và khinh bỉ nữa. Những người đàn bà nào thuộc hạng táo tợn, ranh mãnh, trơ trẽn, những người ấy cùng với đại đức Udāyi cười cợt, khoe khoang, cười vang, trêu chọc. Trái lại, những người đàn bà nào có sự hổ thẹn, những người ấy đi ra bên ngoài và phàn nàn với các tỳ khưu rằng:
- Thưa các ngài, điều này là không đúng đắn, không thích hợp. Chúng tôi dầu được chồng nói như thế còn không thích, huống hồ là ngài đại đức Udāyi!
Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại nói với người nữ bằng những lời dâm dật?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi đại đức Udāyi rằng:
- Này Udāyi, nghe nói ngươi nói với người nữ bằng những lời dâm dật, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại nói với người nữ bằng những lời dâm dật? Này kẻ rồ dại, không phải ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, ...(như trên)... đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào bị khởi dục, do tâm bị thay đổi, rồi nói với người nữ bằng những lời dâm dật như là việc người trai trẻ nói với cô gái bằng những lời có tính chất đôi lứa thì tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[400] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bị khởi dục nghĩa là có dục vọng, có sự khao khát, có tâm say đắm.
Bị thay đổi: tâm có dục vọng là (tâm) bị thay đổi, tâm giận hờn là (tâm) bị thay đổi, tâm mê muội là (tâm) bị thay đổi. Tâm có dục vọng là (tâm) “bị thay đổi” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữ nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có hiểu biết, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là dâm dật và không dâm dật.
Lời nói dâm dật nghĩa là là lời nói liên quan đến đường tiêu, đường tiểu, và việc đôi lứa.
Nói: là sự vi phạm được đề cập đến.
Như là việc người trai trẻ nói với cô gái: là trai tơ với gái tơ, thanh niên với thanh nữ, người nam hưởng dục với người nữ hưởng dục.
Có tính chất đôi lứa: bằng những lời nói có liên quan đến việc hành dâm.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[401] Nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, yêu cầu, nài nỉ, hỏi han, chất vấn, chỉ bảo, dạy dỗ, và khinh bỉ có liên hệ đến đến hai đường khiếu.[1]
[402] Nói lời ca ngợi nghĩa là tán dương, khen ngợi, ca tụng về hai đường khiếu.
Nói lời chê bai nghĩa là xỉ vả, khinh khi, chê bai về hai đường khiếu.
Yêu cầu nghĩa là (nói rằng): “Hãy ban cho tôi, hãy dâng hiến cho tôi, cô là thích hợp để dâng hiến cho tôi.”
Nài nỉ nghĩa là (nói rằng): “Khi nào mẹ cô sẽ hoan hỷ? Khi nào cha cô sẽ hoan hỷ? Khi nào các thiên nhân của cô sẽ hoan hỷ? Khi nào là thời khắc tốt, là thời giờ tốt, là thời điểm tốt của cô? Khi nào tôi sẽ đạt được được việc đôi lứa với cô?”
Hỏi han nghĩa là (nói rằng): “Cô dâng hiến cho chồng như thế nào? Cô dâng hiến cho tình nhân như thế nào?”
Chất vấn nghĩa là (nói rằng): “Nghe nói cô dâng hiến cho chồng như vầy, cô dâng hiến cho tình nhân như vầy.”
Chỉ bảo nghĩa là khi được hỏi thì nói rằng: “Hãy dâng hiến như vầy, người dâng hiến như vầy sẽ được chồng yêu quý và thương mến.”
Dạy dỗ nghĩa là khi không được hỏi thì nói rằng: “Hãy dâng hiến như vầy, người dâng hiến như vầy sẽ được chồng yêu quý và thương mến.”
Khinh bỉ nghĩa là (nói rằng): “Cô không có hiện tướng (người nữ), cô không có đủ hiện tướng (người nữ), cô không có kinh nguyệt, cô bị băng huyết, cô thường xuyên mang vải lót, cô bị rong kinh, cô là người nữ có dị căn, cô là người nữ vô căn, cô là người bị lại đực, cô là người nữ tiêu tiểu chung một khiếu (sambhinnā), cô là người nữ lưỡng căn.”
[403] Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, yêu cầu, nài nỉ, hỏi han, chất vấn, chỉ bảo, dạy dỗ, và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của người nữ ấy thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Là người nữ và có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của người nữ ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Là người vô căn và biết là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của người vô căn ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Là người vô căn và có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của người vô căn ấy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nam và biết là người nam, có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của người nam ấy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là loài thú và biết là loài thú, có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của loài thú ấy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[404] Hai người nữ và biết hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người nữ ấy của thì phạm hai tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hai người nữ và có sự hoài nghi là hai người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người nữ ấy thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).
Hai người vô căn và biết hai người vô căn là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người vô căn ấy thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).
Hai người vô căn và có sự hoài nghi là hai người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người vô căn ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nam và biết hai người nam là người nam, có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người nam ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Hai con thú và biết hai con thú là loài thú, có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai con thú ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
[405] Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người ấy thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, có sự hoài nghi về cả hai, ...(như trên)... thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... (lầm) tưởng là người vô căn, ...(như trên)... thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... (lầm) tưởng là người nam, ...(như trên)... (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người nam, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người ấy thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người nam, có sự hoài nghi về cả hai, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người ấy thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và loài thú, có sự hoài nghi về cả hai, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người vô căn và người nam, (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người vô căn và người nam, có sự hoài nghi về cả hai, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người vô căn và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người vô căn và loài thú, có sự hoài nghi về cả hai, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người nam, có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến đường tiêu, đường tiểu của hai người ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
[406] Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến (phần cơ thể) từ xương đòn (ở cổ) trở xuống và từ đầu gối trở lên trừ ra đường tiêu và đường tiểu của người nữ ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Là người vô căn và (lầm) tưởng là người nữ, ...(như trên)... Là người nam và (lầm) tưởng là người nữ, ...(như trên)... Là loài thú và (lầm) tưởng là người nữ, ...(như trên)... thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến (phần cơ thể) từ xương đòn (ở cổ) trở xuống và từ đầu gối trở lên trừ ra đường tiêu và đường tiểu của hai người nữ ấy thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến (phần cơ thể) từ xương đòn (ở cổ) trở xuống và từ đầu gối trở lên trừ ra đường tiêu và đường tiểu của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
[407] Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến (phần cơ thể) từ xương đòn (ở cổ) trở lên và từ đầu gối trở xuống của người nữ ấy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là người vô căn và (lầm) tưởng là người nữ, ...(như trên)... Là người nam và (lầm) tưởng là người nữ, ...(như trên)... Là loài thú và (lầm) tưởng là người nữ, ...(như trên)... thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến (phần cơ thể) từ xương đòn (ở cổ) trở lên và từ đầu gối trở xuống của hai người nữ ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến (phần cơ thể) từ xương đòn (ở cổ) trở lên và từ đầu gối trở xuống của hai người ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến vật gắn liền với thân của người nữ ấy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là người vô căn ...(như trên)... Là người nam ...(như trên)... Là loài thú ...(như trên)... thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến vật gắn liền với thân của hai người nữ ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi nói lời ca ngợi, nói lời chê bai, ...(như trên)..., và khinh bỉ có đề cập đến vật gắn liền với thân của hai người ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
[408] Khi giảng về ý nghĩa của từ ngữ (với sự nghiêm trang), khi đọc tụng Pháp (với sự nghiêm trang), khi chỉ dạy Giáo Pháp (với sự nghiêm trang), vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[409]
Màu đỏ, bị sần sùi,
bị rối, và thô dày,
lông dài, được gieo giống,
đạo lộ là thông suốt?
đức tin, với vật thí,
(ba chuyện) về công việc.
[410] Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ khoác tấm vải len được nhuộm mới. Có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục rồi đã nói với người đàn bà ấy điều này:
- Này chị gái, của chị là màu đỏ.
Cô ấy không hiểu được.
- Thưa ngài, đúng vậy. Tấm vải len được nhuộm mới.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng)?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ khoác tấm vải len sần sùi (có lông rậm và ngắn). Có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục rồi đã nói với người đàn bà ấy điều này:
- Này chị gái, của chị là sần sùi.
Cô ấy không hiểu được.
- Thưa ngài, đúng vậy. Tấm vải len sần sùi.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ khoác tấm vải len đã được giặt sạch. Có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục rồi đã nói với người đàn bà ấy điều này:
- Này chị gái, của chị có lông bị rối.
Cô ấy không hiểu được.
- Thưa ngài, đúng vậy. Tấm vải len được giặt sạch.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ khoác tấm vải len thô dày. Có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục rồi đã nói với người đàn bà ấy điều này:
- Này chị gái, của chị có lông rậm.
Cô ấy không hiểu được.
- Thưa ngài, đúng vậy. Tấm vải len thô dày.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[411] Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ khoác tấm áo choàng dài. Có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục rồi đã nói với người đàn bà ấy điều này:
- Này chị gái, của chị có lông dài.
Cô ấy không hiểu được.
- Thưa ngài, đúng vậy. Tấm áo choàng dài.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[412] Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ sau khi cho người gieo giống thửa ruộng rồi đi về. Có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục rồi đã nói với người đàn bà ấy điều này:
- Này chị gái, của chị đã được gieo giống.
Cô ấy không hiểu được.
- Thưa ngài, đúng vậy. Vẫn còn chưa được lấp kín.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[413] Vào lúc bấy giờ, khi nhìn thấy người nữ du sĩ ngoại đạo đi ngược chiều, vị tỳ khưu nọ bị khởi dục rồi đã nói với người nữ du sĩ ngoại đạo ấy điều này:
- Này chị gái, phải chăng đạo lộ (maggo) của chị là thông suốt?
Cô ấy không hiểu được.
- Này tỳ khưu, đúng vậy. Rồi ngươi sẽ đạt đến.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).[2]
[414] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục rồi đã nói với người đàn bà nọ điều này:
- Này em gái, cô có đức tin. Tuy nhiên, cô không dâng cho chúng tôi việc cô đã dâng cho chồng.
- Thưa ngài, việc gì vậy?
- Việc đôi lứa.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục rồi đã nói với người đàn bà nọ điều này:
- Này em gái, cô có đức tin. Tuy nhiên, cô không dâng cho chúng tôi vật thí hạng nhất.
- Thưa ngài, việc gì vậy?
- Việc đôi lứa.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[415] Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ đang làm công việc. Có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục rồi đã nói với người đàn bà ấy điều này:
- Này em gái, cô hãy đứng, tôi sẽ làm.
Cô ấy không hiểu được.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ đang làm công việc. Có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục rồi đã nói với người đàn bà ấy điều này:
- Này em gái, cô hãy ngồi xuống, tôi sẽ làm.
Cô ấy không hiểu được.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ đang làm công việc. Có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục rồi đã nói với người đàn bà ấy điều này:
- Này em gái, cô hãy nằm xuống, tôi sẽ làm.
Cô ấy không hiểu được.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ ba.
*******
[523] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, tu viện Ghosita.[4]Vào lúc bấy giờ, người gia chủ hộ độ đại đức Channa[5]đã nói với đại đức Channa điều này:
- Thưa ngài, hãy tìm kiếm khu đất của trú xá. Tôi muốn cho xây dựng trú xá cho ngài đại đức.
Sau đó, trong khi dọn sạch khu đất của trú xá, đại đức Channa đã cho người đốn cội cây nọ vốn là nơi thờ phượng được làng mạc tôn kính, được thị trấn tôn kính, được thành phố tôn kính, được xứ sở tôn kính, được lãnh thổ tôn kính. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích tử lại cho chặt cội cây vốn là nơi thờ phượng được làng mạc tôn kính, được thị trấn tôn kính, được thành phố tôn kính, được xứ sở tôn kính, được lãnh thổ tôn kính? Các sa-môn Thích tử làm hại cuộc sống của loài có một giác quan?[6]
Các tỳ khưu đã nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Channa lại cho chặt cội cây vốn là nơi thờ phượng được làng mạc tôn kính, ...(như trên)..., được lãnh thổ tôn kính?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này Channa, nghe nói ngươi cho chặt cội cây vốn là nơi thờ phượng được làng mạc tôn kính, ...(như trên)..., được lãnh thổ tôn kính, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- ...(như trên)... Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại cho chặt cội cây vốn là nơi thờ phượng được làng mạc tôn kính, được thị trấn tôn kính, được thành phố tôn kính, được xứ sở tôn kính, được lãnh thổ tôn kính vậy? Này kẻ rồ dại, bởi vì có những chúng sanh có tâm thức là những hạng người ở trên cây cối. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu trong khi cho xây dựng trú xá lớn có thí chủ, dành cho bản thân, nên dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất. Các vị tỳ khưu ấy nên xác định khu đất là không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh. Nếu vị tỳ khưu cho xây dựng trú xá lớn dành cho bản thân ở khu đất có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh, hoặc không dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[524] Trú xá lớn nghĩa là có thí chủ được đề cập đến.
Trú xá nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài, hoặc được tô bên trong lẫn bên ngoài.
Trong khi cho xây dựng: là (tự mình) đang làm hoặc đang bảo người làm.
Có thí chủ: có người nào khác là sở hữu chủ: hoặc là người nữ, hoặc người nam, hoặc người tại gia, hoặc vị xuất gia.
Dành cho bản thân: vì nhu cầu của bản thân.
[525] Nên dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất: Vị tỳ khưu là người làm trú xá nên cho dọn sạch khu đất làm trú xá, nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi có ý định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm trú xá.
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Nếu toàn thể hội chúng có khả năng đi xem xét khu đất làm trú xá thì (khu đất) nên được xem xét bởi toàn thể hội chúng. Nếu toàn thể hội chúng không có khả năng đi xem xét khu đất làm trú xá thì tại nơi ấy, các vị tỳ khưu nào có kinh nghiệm, đủ năng lực để biết được có điều chướng ngại hoặc không có điều chướng ngại, có khoảng trống hay không có khoảng trống, các vị ấy nên được thỉnh cầu và nên được chỉ định. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ý định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm trú xá. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ý định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm trú xá. Hội chúng chỉ định các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc chỉ định các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định để xem xét khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[526] Các vị tỳ khưu đã được chỉ định ấy sau khi đi đến nơi ấy nên xem xét khu đất làm trú xá và nên nhận biết là có điều chướng ngại hoặc không có điều chướng ngại, có khoảng trống hay không có khoảng trống. Nếu có điều chướng ngại và không có khoảng trống xung quanh thì nên nói rằng: “Chớ làm ở đây.” Nếu không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung quanh thì nên thông báo với hội chúng rằng: “Không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung quanh.”
Vị tỳ khưu là người làm trú xá nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi có ý định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất làm trú xá.
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ý định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất làm trú xá. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên xác định khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ý định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất làm trú xá. Hội chúng xác định khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc xác định khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng xác định. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[527] Có điều chướng ngại nghĩa là có tổ kiến, hoặc là có tổ mối, hoặc là có ổ chuột, hoặc là có ổ rắn, hoặc là có ổ bọ cạp, hoặc là có ổ rết, hoặc là chỗ ở của bầy voi, hoặc là chỗ ở của bầy ngựa, hoặc là chỗ ở của bầy sư tử, hoặc là chỗ ở của bầy cọp, hoặc là chỗ ở của bầy beo, hoặc là chỗ ở của bầy gấu, hoặc là chỗ ở của bầy chó sói, hoặc là chỗ ở của của bất cứ các loài thú hoặc các loài sinh vật nào, hoặc kề cận ruộng trồng thóc lúa, hoặc kề cận ruộng trồng rau cải, hoặc kề cận nơi tra trấn, hoặc kề cận nơi xử trảm, hoặc kề cận mộ địa, hoặc kề cận vườn hoa, hoặc kề cận đất của đức vua, hoặc kề cận chuồng voi, hoặc kề cận chuồng ngựa, hoặc kề cận trại giam, hoặc kề cận quán rượu, hoặc kề cận nhà đồ tể, hoặc kề cận đường vận chuyển, hoặc kề cận giao lộ, hoặc kề cận nơi hội họp, hoặc kề cận chỗ qua lại; điều này nghĩa là có điều chướng ngại.
[528] Không có khoảng trống xung quanh nghĩa là không thể đi vòng với chiếc xe hàng được móc vào hoặc (không thể) đi vòng xung quanh với cái thang; điều này nghĩa là không có khoảng trống xung quanh.
[529] Không có điều chướng ngại nghĩa là không có tổ kiến, ...(như trên)... hoặc không kề cận chỗ qua lại; điều này nghĩa là không có điều chướng ngại.
[530] Có khoảng trống xung quanh nghĩa là có thể đi vòng với chiếc xe hàng được móc vào hoặc (có thể) đi vòng xung quanh với cái thang; điều này nghĩa là có khoảng trống xung quanh.
[531] Trú xá lớn nghĩa là có thí chủ được đề cập đến.
Trú xá nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài, hoặc được tô bên trong lẫn bên ngoài.
Cho xây dựng: là (tự mình) làm hoặc bảo người làm.
Hoặc không dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất: sau khi không cho xác địnhkhu đất làm trú xá bằng hành sự với lời đề nghị và lời thông báo rồi (tự) làm hoặc bảo người làm thì tội dukkaṭa (tác ác) cho mỗi thao tác. Còn cục (vữa tô) cuối cùng thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). Khi cục (vữa tô) ấy đã được đặt vào thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[532] Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất không được xác định, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất không được xác định, không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất đã được xác định, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất đã được xác định, không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[533] Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi.” Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi.” Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[534] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[535] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói trú xá được làm cho ta ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... “Hãy là khu đất được xác định và không có điều chướng ngại.” ...(như trên)... “Hãy là khu đất được xác định và có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... “Hãy là khu đất được xác định.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói trú xá được làm cho ta ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy (là) không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... “Hãy (là) không có điều chướng ngại.” ...(như trên)... “Hãy (là) có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... thì vô tội.
[536] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm ba tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[537] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi. Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho trú xá ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi. Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho trú xá ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì vị ấy phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[538] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[539] Vô tội trong trường hợp hang núi, hang nhân tạo, chòi cỏ, vì nhu cầu của vị khác, trong mọi trường hợp ngoại trừ nhà ở, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ bảy.
*******
[566] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka trong lúc đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa đã nhìn thấy con dê đực đang tình tự với con dê cái, sau khi nhìn thấy đã nói như vầy:
- Này các đại đức, giờ chúng ta đặt tên con dê đực này là Dabba Mallaputta và đặt tên con dê cái này là tỳ khưu ni Mettiyā, rồi chúng ta sẽ phát biểu như vầy: “Này các đại đức, trước đây chúng tôi nói về Dabba Mallaputta do đã được nghe; bây giờ chúng tôi đã thấy được đương sự đang tình tự với tỳ khưu ni Mettiyā.” Các vị ấy đã đặt tên con dê đực ấy là Dabba Mallaputta và đã đặt tên con dê cái ấy là tỳ khưu ni Mettiyā. Các vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
- Này các đại đức, trước đây chúng tôi nói về Dabba Mallaputta do đã được nghe; bây giờ chúng tôi đã thấy được đương sự đang tình tự với tỳ khưu ni Mettiyā.
Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đại đức, chớ có nói như thế. Đại đức Dabba Mallaputta sẽ không làm như thế.
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã hành động giống như điều các tỳ khưu này vừa nói không?
- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế Tôn biết rõ mà.
Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn ...(như trên)...
Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã hành động giống như điều các tỳ khưu này vừa nói không?
- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế Tôn biết rõ mà.
- Này Dabba, các vị (dòng dõi) Dabba không phủ nhận như thế. Nếu ngươi có làm, hãy nói: “Có làm;” nếu ngươi không làm, hãy nói: “Không làm.”
- Bạch ngài, từ khi con được sanh ra, con không bao giờ thấy mình là kẻ tầm cầu việc đôi lứa ngay cả trong lúc ngủ mơ, huống gì là tỉnh thức.
Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như vậy thì các ngươi hãy tra hỏi các tỳ khưu này.
Nói xong điều ấy, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào trú xá.
Sau đó, các tỳ khưu ấy đã tra hỏi các vị tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka. Trong khi bị tra hỏi bởi các tỳ khưu ấy, các vị ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
- Này các đại đức, có phải các vị nắm lấy sự kiện nhỏ nhặt nào đó thuộc về cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt rồi bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta về tội pārājika?
- Này các đại đức, đúng vậy.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka lại nắm lấy sự kiện nhỏ nhặt nào đó thuộc về cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt rồi bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta về tội pārājika?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi nắm lấy sự kiện nhỏ nhặt nào đó thuộc về cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt rồi bôi nhọ Dabba Mallaputta về tội pārājika, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại nắm lấy sự kiện nhỏ nhặt nào đó thuộc về cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt rồi bôi nhọ Dabba Mallaputta về tội pārājika vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào xấu xa, sân hận, bất bình vị tỳ khưu (khác) rồi nắm lấy sự kiện nhỏ nhặt nào đó thuộc về cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt và bôi nhọ về tội pārājika (nghĩ rằng): ‘Chắc là ta có thể loại vị ấy ra khỏi Phạm hạnh này.’ Sau đó vào lúc khác, dầu được hỏi hay không được hỏi, và cuộc tranh tụng ấy là có quan hệ khác biệt hẳn, sự kiện nhỏ nhặt nào đó đã được nắm lấy, và vị tỳ khưu (dầu có) thú nhận lỗi lầm (cũng) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[567] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.
Xấu xa, sân hận: bị nổi giận, không được hài lòng, không được thỏa mãn, có tâm giận dữ, sanh khởi lòng cay cú.
Bất bình:là bị bất bình do sự nổi giận ấy, do sự sân hận ấy, do sự không được hài lòng ấy, do sự không được thỏa mãn ấy.
[568] Thuộc về cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt: hoặc là có quan hệ khác biệt về tội hoặc là có quan hệ khác biệt về tranh tụng.
[569] Thế nào là cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt (aññabhāgiyaṃ) đối với cuộc tranh tụng? Cuộc tranh tụng liên quan đến tranh cãi là có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng liên quan đến khiển trách, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ. Cuộc tranh tụng liên quan đến khiển trách là có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tranh cãi. Cuộc tranh tụng liên quan đến tội là có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tranh cãi, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến khiển trách. Cuộc tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tranh cãi, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến khiển trách, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội. Như thế là cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng.
[570] Thế nào là cuộc tranh tụng có cùng quan hệ (tabbhāgiyaṃ) đối với cuộc tranh tụng? Cuộc tranh tụng liên quan đến tranh cãi là có cùng quan hệ đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tranh cãi. Cuộc tranh tụng liên quan đến khiển trách là có cùng quan hệ đối với cuộc tranh tụng liên quan đến khiển trách. Cuộc tranh tụng liên quan đến tội có thể là có cùng quan hệ, có thể là có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội.
Thế nào là cuộc tranh tụng liên quan đến tội có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội? Tội pārājika về việc đôi lứa là có quan hệ khác biệt đối với tội pārājika về trộm cắp, đối với tội pārājika về giết người, đối với tội pārājika về pháp thượng nhân. Tội pārājika về trộm cắp là có quan hệ khác biệt đối với tội pārājika về giết người, đối với tội pārājika về pháp thượng nhân, đối với tội pārājika về việc đôi lứa. Tội pārājika về giết người là có quan hệ khác biệt đối với tội pārājika về pháp thượng nhân, đối với tội pārājika về việc đôi lứa, đối với tội pārājika về trộm cắp. Tội pārājika về pháp thượng nhân là có quan hệ khác biệt đối với tội pārājika về việc đôi lứa, đối với tội pārājika về trộm cắp, đối với tội pārājika về giết người. Như thế là cuộc tranh tụng liên quan đến tội có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội.
Thế nào là cuộc tranh tụng liên quan đến tội có cùng quan hệ đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội? Tội pārājika về việc đôi lứa là có cùng quan hệ đối với tội pārājika về việc đôi lứa. Tội pārājika về trộm cắp là có cùng quan hệ đối với tội pārājika về trộm cắp. Tội pārājika về giết người là có cùng quan hệ đối với tội pārājika về giết người. Tội pārājika về pháp thượng nhân là có cùng quan hệ đối với tội pārājika về pháp thượng nhân. Như thế là cuộc tranh tụng liên quan đến tội có cùng quan hệ đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội.
Cuộc tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là có cùng quan hệ đối với cuộc tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
Như thế là cuộc tranh tụng có cùng quan hệ đối với cuộc tranh tụng.
[571] Nắm lấy sự kiện nhỏ nhặt nào đó: điều nhỏ nhặt nghĩa là có mười điều nhỏ nhặt: điều nhỏ nhặt về sự xuất thân, điều nhỏ nhặt về tên gọi, điều nhỏ nhặt về dòng họ, điều nhỏ nhặt về đặc điểm, điều nhỏ nhặt về tội vi phạm, điều nhỏ nhặt về bình bát, điều nhỏ nhặt về y phục, điều nhỏ nhặt về thầy tế độ, điều nhỏ nhặt về thầy dạy học, điều nhỏ nhặt về chỗ trú ngụ.
[572] Điều nhỏ nhặt về sự xuất thân nghĩa là có vị (xuất thân) sát-đế-lỵ (khattiya) được thấy đang phạm tội pārājika, rồi khi nhìn thấy vị (xuất thân) sát-đế-lỵ khác lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị (xuất thân) sát-đế-lỵ phạm tội pārājika đã bị ta thấy, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, với ngươi không còn lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Có vị (xuất thân) bà-la-môn được thấy ...(như trên)... Có vị (xuất thân) thương buôn được thấy ...(như trên)... Có vị (xuất thân) hạng cùng đinh được thấy đang phạm tội pārājika rồi khi nhìn thấy vị (xuất thân) hạng cùng đinh khác lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị (xuất thân) cùng đinh phạm tội pārājika đã bị ta thấy, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[573] Điều nhỏ nhặt về tên gọi nghĩa là có vị (tên) Buddharakkhita được thấy ...(như trên)... Có vị (tên) Dhammarakkhita được thấy ...(như trên)... Có vị (tên) Saṅgharakkhita được thấy đang phạm tội pārājika, sau khi nhìn thấy vị (tên) Saṅgharakkhita khác lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị (tên) Saṅgharakkhita phạm tội pārājika đã bị ta thấy, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[574] Điều nhỏ nhặt về dòng họ nghĩa là có vị (họ) Gotama được thấy ...(như trên)... Có vị (họ) Moggallāna được thấy ...(như trên)... Có vị (họ) Kaccāyana được thấy ...(như trên)... Có vị (họ) Vāsiṭṭha được thấy đang phạm tội pārājika rồi khi nhìn thấy vị (họ) Vāsiṭṭha khác lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị (họ) Vāsiṭṭha phạm tội pārājika đã bị ta thấy, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[575] Điều nhỏ nhặt về đặc điểm nghĩa là có vị cao được thấy ...(như trên)... Có vị lùn được thấy ...(như trên)... Có vị đen được thấy ...(như trên)... Có vị trắng được thấy đang phạm tội pārājika rồi khi nhìn thấy vị trắng khác lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị trắng phạm tội pārājika đã bị ta thấy, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[576] Điều nhỏ nhặt về tội vi phạm nghĩa là có vị đang vi phạm tội nhẹ được thấy rồi buộc tội vị ấy về tội pārājika rằng: “Ngươi phạm tội pārājika đã bị ta thấy, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[577] Điều nhỏ nhặt về bình bát nghĩa là có vị mang bình bát đồng được thấy ...(như trên)... Có vị mang bình bát đất được thấy ...(như trên)... Có vị mang bình bát tráng men (sāṭakapatta) được thấy ...(như trên)... Có vị mang bình bát đất loại bình thường (sumbhakapatta) được thấy đang phạm tội pārājika rồi khi nhìn thấy vị khác (cũng) mang bình bát đất loại bình thường lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị mang bình bát đất loại bình thường phạm tội pārājika đã bị ta thấy, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[578] Điều nhỏ nhặt về y phục nghĩa là có vị mặc y paṃsukūla được thấy ...(như trên)... Có vị mặc y của gia chủ được thấy đang phạm tội pārājika rồi khi nhìn thấy vị khác (cũng) mặc y của gia chủ lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị mặc y của gia chủ phạm tội pārājika đã bị ta thấy, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[579] Điều nhỏ nhặt về thầy tế độ nghĩa là có người đệ tử của vị tên (như vầy) được thấy đang phạm tội pārājika rồi khi nhìn thấy người đệ tử khác của vị tên (như vầy) lại buộc tội rằng: “Ngươi là người đệ tử của vị tên (như vầy) phạm tội pārājika đã bị ta thấy, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[580] Điều nhỏ nhặt về thầy dạy học nghĩa là có người học trò của vị tên (như vầy) được thấy đang phạm tội pārājika rồi khi nhìn thấy người học trò khác của vị tên (như vầy) lại buộc tội rằng: “Ngươi là người học trò của vị tên (như vầy) phạm tội pārājika đã bị ta thấy, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[581] Điều nhỏ nhặt về chỗ trú ngụ nghĩa là có vị ngụ ở chỗ trú ngụ tên (như vầy) được thấy đang phạm tội pārājika rồi khi nhìn thấy vị khác (cũng) ngụ ở chỗ trú ngụ tên (như vầy) lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị ngụ ở chỗ trú ngụ tên (như vầy) phạm tội pārājika đã bị ta thấy, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, với ngươi không còn lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[582] Về tội pārājika: về bất cứ điều nào thuộc về bốn điều.
Bôi nhọ: hoặc là buộc tội, hoặc là cho người buộc tội.
Chắc là ta có thể loại trừ vị ấy ra khỏi Phạm hạnh này: Ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi trạng thái tỳ khưu, ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi pháp sa-môn, ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi giới uẩn, ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi đức tính khắc khổ.
[583] Sau đó vào lúc khác: đã bôi nhọ trong giây phút nào thì trải qua vào giây phút ấy, vào khoảng thời gian ấy, vào thời điểm ấy.
Được hỏi: đã bôi nhọ với sự việc nào thì được hỏi về sự việc ấy.
Không được hỏi: không được bất cứ ai đề cập đến.
[584] Sự tranh tụng nghĩa là có bốn sự tranh tụng: Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
[585] Sự kiện nhỏ nhặt nào đó đã được nắm lấy: điều nhỏ nhặt nào đó trong mười điều nhỏ nhặt ấy đã được nắm lấy.
[586] Và vị tỳ khưu (dầu có) thú nhận lỗi lầm: Tôi đã nói điều rỗng không, tôi đã nói điều dối trá, tôi đã nói điều không thật, tôi đã nói điều tôi không biết.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[587] Vị tỳ khưu đang phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) đã được thấy. (Nguyên cáo) có sự ghi nhận là tội saṅghādisesa trên (cơ sở) tội saṅghādisesa, nếu buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, với ngươi không còn lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng nữa.” Như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đã được nắm lấy; (nguyên cáo) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Vị tỳ khưu đang phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) đã được thấy. (Nguyên cáo) có sự ghi nhận là tội thullaccaya (trọng tội) trên (cơ sở) tội saṅghādisesa, nếu buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là sa-môn, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa.”Như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đã được nắm lấy; (nguyên cáo) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Vị tỳ khưu đang phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) đã được thấy. (Nguyên cáo) có sự ghi nhận là tội pācittiya (ưng đối trị) trên (cơ sở) tội saṅghādisesa, nếu buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là sa-môn, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa.”Như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đã được nắm lấy; (nguyên cáo) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Vị tỳ khưu đang phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) đã được thấy. (Nguyên cáo) có sự ghi nhận là tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ) trên (cơ sở) tội saṅghādisesa. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội dukkaṭa (tác ác) trên (cơ sở) tội saṅghādisesa. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội dubbhāsita (ác khẩu) trên (cơ sở) tội saṅghādisesa, nếu buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là sa-môn, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa.”Như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đã được nắm lấy; (nguyên cáo) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[588] Vị tỳ khưu đang phạm tội thullaccaya (trọng tội) đã được thấy. (Nguyên cáo) có sự ghi nhận là tội thullaccaya trên (cơ sở) tội thullaccaya. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội pācittiya (ưng đối trị) trên (cơ sở) tội thullaccaya. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ) trên (cơ sở) tội thullaccaya. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội dukkaṭa (tác ác) trên (cơ sở) tội thullaccaya. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội dubbhāsita (ác khẩu) trên (cơ sở) tội thullaccaya. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội saṅghādisesa (tăng tàng) trên (cơ sở) tội thullaccaya, nếu buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là sa-môn...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa.”Như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đã được nắm lấy; (nguyên cáo) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Vị tỳ khưu đang phạm tội pācittiya (ưng đối trị) đã được thấy ...(như trên)... Vị tỳ khưu đang phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ) đã được thấy ...(như trên)... Vị tỳ khưu đang phạm tội dukkaṭa (tác ác) đã được thấy ...(như trên)... Vị tỳ khưu đang phạm tội dubbhāsita (ác khẩu) đã được thấy ...(như trên)... và có sự ghi nhận là tội dubbhāsita trên (cơ sở) tội dubbhāsita. ...(như trên)... và có sự ghi nhận là tội saṅghādisesa trên (cơ sở) tội dubbhāsita. ...(như trên)... và có sự ghi nhận là tội thullaccaya trên (cơ sở) tội dubbhāsita. ...(như trên)... và có sự ghi nhận là tội pācittiya trên (cơ sở) tội dubbhāsita. ...(như trên)... và có sự ghi nhận là tội pāṭidesanīya trên (cơ sở) tội dubbhāsita. ...(như trên)... và có sự ghi nhận là tội dukkaṭa trên (cơ sở) tội dubbhāsita, nếu buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là sa-môn, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa.”Như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đã được nắm lấy; (nguyên cáo) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Sau khi đã thực hiện theo mỗi một nhân tố, sự xoay vòng nên được thành lập.
[589] Vị tỳ khưu đang phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) đã được thấy. (Nguyên cáo) có sự ghi nhận là tội saṅghādisesa trên (cơ sở) tội saṅghādisesa, nếu cho người buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là sa-môn, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa.” Như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đã được nắm lấy; (nguyên cáo) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Vị tỳ khưu đang phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) đã được thấy. (Nguyên cáo) có sự ghi nhận là tội thullaccaya (trọng tội) trên (cơ sở) tội saṅghādisesa. ...(như trên)... và có sự ghi nhận là tội pācittiya (ưng đối trị) trên (cơ sở) tội saṅghādisesa. ...(như trên)... và có sự ghi nhận là tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ) trên (cơ sở) tội saṅghādisesa. ...(như trên)... và có sự ghi nhận là tội dukkaṭa (tác ác) trên (cơ sở) tội saṅghādisesa. ...(như trên)... và có sự ghi nhận là tội dubbhāsita (ác khẩu) trên (cơ sở) tội saṅghādisesa, nếu cho người buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là sa-môn, ...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa.”Như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đã được nắm lấy; (nguyên cáo) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[590] Vị tỳ khưu đang phạm tội thullaccaya (trọng tội) đã được thấy. (Nguyên cáo) có sự ghi nhận là tội thullaccaya trên (cơ sở) tội thullaccaya. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội pācittiya (ưng đối trị) trên (cơ sở) tội thullaccaya. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ) trên (cơ sở) tội thullaccaya. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội dukkaṭa (tác ác) trên (cơ sở) tội thullaccaya. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội dubbhāsita (ác khẩu) trên (cơ sở) tội thullaccaya. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội saṅghādisesa trên (cơ sở) tội thullaccaya, nếu cho người buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là sa-môn...(như trên)..., hay là hành sự của hội chúng nữa.”Như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đã được nắm lấy; (nguyên cáo) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Vị tỳ khưu đang phạm tội pācittiya (ưng đối trị) đã được thấy ...(như trên)... Vị tỳ khưu đang phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ) đã được thấy ...(như trên)... Vị tỳ khưu đang phạm tội dukkaṭa (tác ác) đã được thấy ...(như trên)... Vị tỳ khưu đang phạm tội dubbhāsita (ác khẩu) đã được thấy. (Nguyên cáo) có sự ghi nhận là tội dubbhāsita trên (cơ sở) tội dubbhāsita. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội saṅghādisesa trên (cơ sở) tội dubbhāsita. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội thullaccaya trên (cơ sở) tội dubbhāsita. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội pācittiya trên (cơ sở) tội dubbhāsita. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội pāṭidesanīya trên (cơ sở) tội dubbhāsita. ...(như trên)... có sự ghi nhận là tội dukkaṭa trên (cơ sở) tội dubbhāsita, nếu cho người buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, với ngươi không còn lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng nữa.” Như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đã được nắm lấy; (nguyên cáo) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[591] Vị buộc tội hoặc bảo (người khác) buộc tội theo như sự nhận biết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ chín.
*******
[592] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Vel,uvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, Devadatta đã đi đến gặp Kokālika, Kaṭamorakatissaka con trai của Khaṇḍadevī, và Samuddadatto; đến rồi đã nói với Kokālika, Kaṭamorakatissaka con trai của Khaṇḍadevī, và Samuddadatto điều này:
- Này các đại đức, hãy đi. Chúng ta sẽ tiến hành việc chia rẽ hội chúng của Sa-môn Gotama, tức là việc phân chia quyền lãnh đạo.
Khi được nói như thế, Kokālika đã nói với Devadatta điều này:
- Này đại đức, Sa-môn Gotama thật sự có đại thần lực, có đại oai lực. Làm thế nào chúng ta sẽ tiến hành việc chia rẽ hội chúng của Sa-môn Gotama, tức là việc phân chia quyền lãnh đạo được?
- Này các đại đức, hãy đi. Chúng ta sẽ đi đến gặp Sa-môn Gotama và yêu cầu năm sự việc: “Bạch ngài, đức Thế Tôn là người khen ngợi sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ bỏ, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, đây là năm sự việc đưa đến sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ bỏ, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, lành thay các tỳ khưu nên là các vị sống ở rừng cho đến trọn đời; vị nào cư ngụ trong làng thì vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời là các vị khất thực; vị nào hoan hỷ sự thỉnh mời thì vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời là các vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ, vị nào hoan hỷ y của gia chủ thì vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời là các vị sống ở gốc cây; vị nào đi đến mái che thì vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời không ăn cá thịt; vị nào ăn cá thịt thì vị ấy phạm tội.” Sa-môn Gotama sẽ không cho phép năm sự việc này. Và chúng ta đây sẽ công bố cho dân chúng biết về năm sự việc này.
- Này đại đức, với năm sự việc này thì có thể tiến hành việc chia rẽ hội chúng của Sa-môn Gotama, tức là việc phân chia quyền lãnh đạo. Này đại đức, bởi vì dân chúng có niềm tin với khổ hạnh.
[593] Sau đó, Devadatta cùng phe cánh đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Devadatta đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, đức Thế Tôn là người khen ngợi sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ bỏ, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, đây là năm sự việc đưa đến sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ bỏ, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, lành thay các tỳ khưu nên là các vị sống ở rừng cho đến trọn đời; vị nào cư ngụ trong làng thì vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời là các vị khất thực; vị nào hoan hỷ sự thỉnh mời thì vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời là các vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ, vị nào hoan hỷ y của gia chủ thì vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời là các vị sống ở gốc cây; vị nào đi đến mái che thì vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời không ăn cá thịt; vị nào ăn cá thịt thì vị ấy phạm tội.
- Này Devadatta, thôi đi. Vị nào muốn thì hãy trở thành vị sống ở rừng; vị nào muốn thì cứ cư ngụ ở trong làng. Vị nào muốn thì hãy trở thành vị khất thực; vị nào muốn thì cứ hoan hỷ việc thỉnh mời. Vị nào muốn thì hãy là vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ; vị nào muốn thì cứ hoan hỷ y của gia chủ. Này Devadatta, ta cho phép chỗ trú ngụ là gốc cây trong tám tháng. Cá thịt là thanh tịnh với ba điều kiện là: “Không thấy, không nghe, và không nghi ngờ.”
[594] Khi ấy, Devadatta (biết rằng): “Đức Thế Tôn không cho phép năm sự việc này,” nên mừng rỡ, phấn chấn cùng phe cánh từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, Devadatta cùng phe cánh đã đi vào thành Rājagaha công bố cho dân chúng biết về năm sự việc:
- Này các đạo hữu, chúng tôi đã đi đến gặp Sa-môn Gotama và đã yêu cầu năm sự việc: “Bạch ngài, đức Thế Tôn là người khen ngợi sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ bỏ, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, đây là năm sự việc đưa đến sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ bỏ, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, lành thay các tỳ khưu nên là các vị sống ở rừng cho đến trọn đời; vị nào cư ngụ trong làng thì vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời là các vị khất thực; vị nào hoan hỷ sự thỉnh mời thì vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời là các vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ, vị nào hoan hỷ y của gia chủ thì vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời là các vị sống ở gốc cây; vị nào đi đến mái che thì vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời không ăn cá thịt; vị nào ăn cá thịt thì vị ấy phạm tội.” Sa-môn Gotama không cho phép năm sự việc này. Còn chúng tôi sẽ thọ trì và thực hành năm sự việc này.
[595] Ở nơi ấy, những người nào không có đức tin, không mộ đạo, kém sáng suốt, những người ấy đã nói như vầy:
- Các sa-môn Thích tử này đúng là có sự từ bỏ, có sở hành đoạn trừ; còn Sa-môn Gotama là kẻ xa hoa nên nghĩ đến việc xa hoa.
Còn những người nào có đức tin, mộ đạo, sáng suốt, những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao Devadatta lại ra sức việc chia rẽ hội chúng của đức Thế Tôn, tức là việc phân chia quyền lãnh đạo?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao Devadatta lại ra sức chia rẽ hội chúng của đức Thế Tôn, tức là việc phân chia quyền lãnh đạo?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi Devadatta rằng:
- Này Devadatta, nghe nói ngươi ra sức chia rẽ hội chúng, tức là việc phân chia quyền lãnh đạo, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, . .(như trên)... Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại ra sức chia rẽ hội chúng, tức là việc phân chia quyền lãnh đạo vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất hoặc nắm lấy cuộc tranh tụng đưa đến chia rẽ, rồi loan truyền, chấp giữ. Vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Đại đức chớ có ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất, hoặc nắm lấy cuộc tranh tụng đưa đến chia rẽ, rồi loan truyền, chấp giữ. Đại đức hãy hòa nhập cùng hội chúng vì hội chúng hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, chung một nguyên tắc [1]thì sống được an lạc.’ Và khi được các tỳ khưu nói như vậy mà vị tỳ khưu ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[596]Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Hội chúng hợp nhất nghĩa là có sự đồng cộng trú được thiết lập trong cùng ranh giới (sīmā).
Ra sức chia rẽ: vị (nghĩ rằng): “Làm thế nào để những người này trở thành khác biệt, trở thành tách biệt, trở thành phe nhóm?” rồi tầm cầu phe cánh, kết hợp nhóm bọn.
Hoặc là cuộc tranh tụng đưa đến chia rẽ: là mười tám sự việc làm chia rẽ.[2]
Nắm lấy: là chọn lấy.
Loan truyền: là khơi lên.
Chấp giữ: là không chịu từ bỏ.
[597] Vị tỳ khưu ấy: là vị tỳ khưu chia rẽ hội chúng.
Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Đại đức chớ có ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất, hoặc nắm lấy cuộc tranh tụng đưa đến chia rẽ, rồi loan truyền, chấp giữ. Đại đức hãy hòa nhập cùng hội chúng vì hội chúng hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, chung một nguyên tắc, thì sống được an lạc.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu ấy nên được kéo[3]đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Đại đức chớ có ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất, hoặc nắm lấy cuộc tranh tụng đưa đến chia rẽ, rồi loan truyền, chấp giữ. Đại đức hãy hòa nhập cùng hội chúng vì hội chúng hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, chung một nguyên tắc, thì sống được an lạc.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[598] Vị tỳ khưu ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[599] Tội dukkaṭa (tác ác) do lời đề nghị. Các tội thullaccaya (trọng tội) do hai lời thông báo của hành sự (dvīhi kammavācāhi). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).[4]Đối với vị vi phạm tội saṅghādisesa, thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[600] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[601] Vị chưa được nhắc nhở, vị dứt bỏ, vị bị điên,[5]vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ mười.
*******
[616] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các vị nhóm Assaji và Punabbasuka[7]thường trú[8]tại vùng Kiṭāgiri (núi Kiṭā) là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có hình thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa che ngực. Họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết một mặt, tràng hoa kết hai mặt, thảm hoa, vòng hoa, vòng hoa đội đầu, vòng hoa đeo tai, vòng hoa che ngực cho những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình. Họ cùng với những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình ăn chung trong một đĩa, uống chung trong một cốc, ngồi chung trên một chỗ ngồi, nằm chung trên một giường, nằm chung một tấm trải, nằm chung một tấm đắp, nằm chung một tấm trải và tấm đắp. Họ ăn sái giờ, họ uống rượu, họ đeo dây chuyền, xức nước hoa và phấn thơm, họ nhảy múa, họ ca hát, họ tấu đàn, họ vui đùa. Họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang nhảy múa; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang ca hát; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang tấu đàn; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang vui đùa. Họ còn tiêu khiển cờ tám ô vuông, cờ mười ô vuông, họ chơi với bàn cờ tưởng tượng ở trên không, họ chơi lối sắp vòng tròn, họ chơi lối rút quân cờ, họ chơi ném xúc xắc, họ chơi đánh gậy, họ chơi trò vẽ bằng tay, họ chơi trò sấp ngữa, họ chơi trò thổi kèn bằng lá cây, họ chơi trò uốn dẻo, họ chơi trò nhào lộn, họ chơi trò dùng lá cọ giả làm cối xay gió, họ chơi trò đo lường, họ chơi trò đua xe, họ thi bắn cung, họ chơi trò đố chữ, họ chơi trò đoán ý, họ chơi trò nhái điệu bộ, họ tập cỡi voi, họ tập cỡi ngựa, họ tập điều khiển xe, họ tập bắn cung, họ tập đao kiếm, họ chạy phía trước voi, họ chạy phía trước ngựa, họ chạy đi chạy lại phía trước xe; họ huýt sáo, họ vỗ tay, họ vật lộn, họ dùng tay đánh nhau. Họ trải y ca-sa hai lớp ở giữa nhà rồi mời cô vũ nữ rằng: “Này cô em, hãy nhảy ở đây này,” họ còn vỗ tay tán thưởng. Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách.
[617] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã trải qua mùa (an cư) mưa ở xứ Kāsi, trong khi đi đến thành Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn, đã trú tại vùng Kiṭāgiri. Khi ấy vào buổi sáng, vị tỳ khưu ấy đã mặc y, cầm y bát, và đi vào vùng Kiṭāgiri để khất thực. Vị ấy có phong cách chững chạc, mắt nhìn xuống, với vẻ chăm chú khi đi tới bước lui, lúc nhìn ngắm, khi cử động co duổi. Dân chúng sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đã nói như vầy:
- Người này là ai mà trông giống như kẻ ngu trong nhóm người ngu, giống như kẻ khờ trong nhóm người khờ, giống như kẻ ngớ ngẩn trong nhóm người ngớ ngẩn vậy? Khi gã đi đến, ai mà chịu bố thí đồ ăn đây? Trong khi các ngài thuộc nhóm Assaji và Punabbasuka của chúng ta thì lịch thiệp, thân thiện, nói năng hòa nhã, luôn cười xã giao, luôn mời mọc đến thăm viếng, không có hợm hĩnh, khuôn mặt lại rạng rỡ, luôn mở đầu câu chuyện; chính vì thế, đồ ăn khất thực nên được cúng dường đến các ngài.
Có nam cư sĩ nọ đã nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đang đi khất thực ở vùng Kiṭāgiri, sau khi thấy đã đi đến gần vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã đảnh lễ vị tỳ khưu ấy và đã nói điều này:
- Thưa ngài, đồ khất thực có nhận được chưa vậy?
- Này đạo hữu, đồ khất thực chưa có nhận được.
- Thưa ngài, xin thỉnh. Chúng ta sẽ đi về nhà.
Khi ấy, nam cư sĩ ấy đã dẫn vị tỳ khưu ấy về nhà, dâng thức ăn, và đã nói điều này:
- Thưa ngài, ngài sẽ đi đâu?
- Này đạo hữu, giờ ta sẽ đi Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn.
- Thưa ngài, như thế thì xin ngài đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn với lời thăm hỏi của con và xin ngài hãy thưa như vầy: “Bạch ngài, sự sinh sống ở vùng Kiṭāgiri đã bị hủ hóa. Các vị nhóm Assaji và Punabbasuka thường trú tại vùng Kiṭāgiri là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có hình thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, ...(như trên)... Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Bạch ngài, những người trước đây mộ đạo, có niềm tin, bây giờ không còn mộ đạo, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đã bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, còn các tỳ khưu tồi cư ngụ. Bạch ngài, lành thay nếu đức Thế Tôn có thể phái các tỳ khưu đến vùng Kiṭāgiri, như vậy sự sinh sống ở vùng Kiṭāgiri có thể tồn tại.”
- Này đạo hữu, được rồi.
Vị tỳ khưu ấy sau khi lắng nghe nam cư sĩ ấy đã ra đi về hướng thành Sāvatthi. Tuần tự, vị ấy đã đến thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.
[618] Điều này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này tỳ khưu, sức khỏe có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Ngươi đi đến đường xa có được ít mệt nhọc không? Và này tỳ khưu, ngươi từ đâu đến vậy?
- Bạch Thế Tôn, sức khỏe khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc tốt đẹp. Bạch ngài, con đi đường xa không mệt lắm. Bạch ngài, con đây đã trải qua mùa (an cư) mưa ở xứ Kāsi, trong khi đi đến thành Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn, đã trú tại vùng Kiṭāgiri. Bạch ngài, khi ấy vào buổi sáng con đã mặc y, cầm y bát, đi vào vùng Kiṭāgiri để khất thực. Bạch ngài, có nam cư sĩ nọ đã nhìn thấy con đang đi khất thực ở vùng Kiṭāgiri, sau khi thấy đã đi đến gần con, sau khi đến đã đảnh lễ con và đã nói điều này: “Thưa ngài, đồ khất thực có nhận được chưa vậy?” “Này đạo hữu, đồ khất thực chưa có nhận được.” “Thưa ngài, xin thỉnh. Chúng ta sẽ đi về nhà.” Bạch ngài, khi ấy nam cư sĩ ấy đã dẫn con về nhà, dâng thức ăn, rồi đã nói điều này: “Thưa ngài, ngài sẽ đi đâu?” “Này đạo hữu, giờ ta sẽ đi Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn.” “Thưa ngài, như thế thì xin ngài đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn với lời thăm hỏi của con và xin ngài hãy thưa như vầy: “Bạch ngài, sự sinh sống ở vùng Kiṭāgiri đã bị hủ hóa. Các vị nhóm Assaji và Punabbasuka thường trú tại vùng Kiṭāgiri là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có hình thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, ...(như trên)... Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Bạch ngài, những người trước đây mộ đạo, có niềm tin, bây giờ không còn mộ đạo, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đã bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, còn các tỳ khưu tồi cư ngụ. Bạch ngài, lành thay nếu đức Thế Tôn có thể phái các tỳ khưu đến vùng Kiṭāgiri, như vậy sự sinh sống ở vùng Kiṭāgiri có thể tồn tại.” Bạch Thế Tôn, con từ xứ đó đi đến.
[619] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các vị nhóm Assaji và Punabbasuka thường trú tại vùng Kiṭāgiri là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có hình thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa che ngực. … (như trên) … . Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Những người trước đây mộ đạo, có niềm tin, bây giờ không còn mộ đạo, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đã bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, còn các tỳ khưu tồi cư ngụ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, … (như trên) … Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại hành xử sai nguyên tắc có hình thức như thế? Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa che ngực. Họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết một mặt, tràng hoa kết hai mặt, thảm hoa, vòng hoa, vòng hoa đội đầu, vòng hoa đeo tai, vòng hoa che ngực cho những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình. Họ cùng với những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình ăn chung trong một đĩa, uống chung trong một cốc, ngồi chung trên một chỗ ngồi, nằm chung trên một giường, nằm chung một tấm trải, nằm chung một tấm đắp, nằm chung một tấm trải và tấm đắp. Họ ăn sái giờ, họ uống rượu, họ đeo dây chuyền, xức nước hoa và phấn thơm, họ nhảy múa, họ ca hát, họ tấu đàn, họ vui đùa. Họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang nhảy múa; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang ca hát; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang tấu đàn; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang vui đùa. Họ còn tiêu khiển cờ tám ô vuông, cờ mười ô vuông, họ chơi với bàn cờ tưởng tượng ở trên không, họ chơi lối sắp vòng tròn, họ chơi lối rút quân cờ, họ chơi ném xúc xắc, họ chơi đánh gậy, họ chơi trò vẽ bằng tay, họ chơi trò sấp ngữa, họ chơi trò thổi kèn bằng lá cây, họ chơi trò uốn dẻo, họ chơi trò nhào lộn, họ chơi trò dùng lá cọ giả làm cối xay gió, họ chơi trò đo lường, họ chơi trò đua xe, họ thi bắn cung, họ chơi trò đố chữ, họ chơi trò đoán ý, họ chơi trò nhái điệu bộ, họ tập cỡi voi, họ tập cỡi ngựa, họ tập điều khiển xe, họ tập bắn cung, họ tập đao kiếm, họ chạy phía trước voi, họ chạy phía trước ngựa, họ chạy đi chạy lại phía trước xe; họ huýt sáo, họ vỗ tay, họ vật lộn, họ dùng tay đánh nhau. Họ trải y ca-sa hai lớp ở giữa nhà rồi mời cô vũ nữ rằng: “Này cô em, hãy nhảy ở đây này,” họ còn vỗ tay tán thưởng. Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Những người trước đây mộ đạo, có niềm tin, bây giờ không còn mộ đạo, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đã bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, còn các tỳ khưu tồi cư ngụ. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
[620] Sau đó, khi đã khiển trách các vị tỳ khưu Assaji và Punabbasuka bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn đã thuyết Pháp thoại rồi bảo Sāriputta (Xá Lợi Phất) và Moggallāna (Mục Kiền Liên) rằng:
- Này Sāriputta và Moggallāna, hai ngươi hãy đi đến vùng Kiṭāgiri rồi hãy thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka, các vị này là những đệ tử của hai ngươi.[9]
- Bạch ngài, các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka thì dữ tợn và thô lỗ, làm thế nào chúng con thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu ấy được?
- Này Sāriputta và Moggallāna, chính vì điều ấy hai ngươi hãy đi cùng với nhiều vị tỳ khưu.
- Bạch ngài, xin vâng. Sāriputta và Moggallāna đã trả lời đức Thế Tôn.
[621] - Và này các tỳ khưu, nên thực thi như vầy: Trước hết, các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka cần được quở trách; sau khi quở trách cần được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở cần xác định tội; sau khi xác định tội, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka này là những kẻ làm hư hỏng các gia đình và có các hành động sai trái. Những hành động sai trái của các vị này không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì các vị này không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri.’ Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka này là những kẻ làm hư hỏng các gia đình và có các hành động sai trái. Những hành động sai trái của các vị này không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì các vị này không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Hội chúng thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri.’ Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri’ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka này là những kẻ làm hư hỏng các gia đình và có các hành động sai trái. Những hành động sai trái của các vị này không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì các vị này không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Hội chúng thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri.’ Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri’ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri’ đã được hội chúng thực thi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[622] Sau đó, hội chúng tỳ khưu dẫn đầu là Sāriputta và Moggallāna đã đi đến vùng Kiṭāgiri và đã thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: “Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri.” Khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, các vị ấy không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh,[10]không trở nên thu thúc, không làm bổn phận để sửa đổi, không làm cho các tỳ khưu hài lòng, họ mắng chửi, họ nói xấu, họ bị sa đọa do có sự thiên vị vì thương do có sự thiên vị vì ghét do có sự thiên vị vì si mê do có sự thiên vị vì sợ hãi, họ bỏ đi, họ hoàn tục.
Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasukakhi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi lại không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, không trở nên thu thúc, không làm bổn phận để sửa đổi, không làm cho các tỳ khưu hài lòng, họ lại mắng chửi, họ lại nói xấu, họ lại bị sa đọa do có sự thiên vị vì thương do có sự thiên vị vì ghét do có sự thiên vị vì si mê do có sự thiên vị vì sợ hãi, họ lại bỏ đi, họ lại hoàn tục?
[623] Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình bày sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, không trở nên thu thúc, không làm bổn phận để sửa đổi, không làm cho các tỳ khưu hài lòng, họ mắng chửi, họ nói xấu, họ bị sa đọa do có sự thiên vị vì thương do có sự thiên vị vì ghét do có sự thiên vị vì si mê do có sự thiên vị vì sợ hãi, họ bỏ đi, họ hoàn tục, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, ...(như trên)... Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, lại không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, ...(như trên)... lại hoàn tục vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu sống nương tựa vào ngôi làng hoặc thị trấn nọ là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của vị ấy không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì vị ấy không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Đại đức hãy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đã đủ rồi!’ Và khi được nói như thế bởi các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy lại nói với các tỳ khưu ấy như vầy: ‘Các tỳ khưu có sự thiên vị vì thương, có sự thiên vị vì ghét, có sự thiên vị vì si mê, có sự thiên vị vì sợ hãi, cùng với tội như nhau họ lại xua đuổi vị này, họ lại không xua đuổi vị kia.’ Vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Đại đức chớ có nói như thế. Các tỳ khưu không có sự thiên vị vì thương, không có sự thiên vị vì ghét, không có sự thiên vị vì si mê, không có sự thiên vị vì sợ hãi. Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Đại đức hãy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đã đủ rồi!’ Và khi được các tỳ khưu nói như vậy mà vị tỳ khưu ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[624] Vị tỳ khưu (sống nương tựa) vào ngôi làng hoặc thị trấn nọ: là ngôi làng, là thị trấn, là thành phố, là ngôi làng và luôn cả thị trấn.
Sống nương tựa: các vật dụng là y phục, đồ ăn khất thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bịnh là phụ thuộc vào nơi ấy.
Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: Gia đình sát-đế-lỵ, gia đình bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.
Kẻ làm hư hỏng các gia đình: là kẻ làm các gia đình trở thành hư hỏng với bông hoa, hoặc với trái cây, hoặc với bột tắm, hoặc với với đất sét, hoặc với gỗ chà răng, hoặc với tre, hoặc bằng cách thức chữa bệnh, hoặc bằng cách đi bộ đưa tin.
Có hành động sai trái: vị trồng bông hoa, vị bảo kẻ khác trồng, vị tưới bông hoa, vị bảo kẻ khác tưới, vị hái bông hoa, vị bảo kẻ khác hái, vị kết lại bông hoa, vị bảo kẻ khác kết lại.
[625] Không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa: Những ai có mặt thì nhìn thấy, những ai vắng mặt thì nghe.
Các gia đình bị hư hỏng vì vị ấy: Trước kia họ mộ đạo, vì vị ấy họ trở nên không còn mộ đạo. Họ đã có niềm tin trở thành không có niềm tin.
Không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa: Những ai có mặt thì nhìn thấy, những ai vắng mặt thì nghe.
[626] Vị tỳ khưu ấy: là vị tỳ khưu làm hư hỏng các gia đình.
Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Đại đức hãy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đã đủ rồi!” Và khi được các tỳ khưu nói như thế, vị tỳ khưu ấy lại nói với các tỳ khưu ấy như vầy: “Các tỳ khưu có sự thiên vị vì thương, có sự thiên vị vì ghét, có sự thiên vị vì si mê, có sự thiên vị vì sợ hãi, cùng với tội như nhau các vị lại xua đuổi vị này, các vị lại không xua đuổi vị kia.”
[627]Vị tỳ khưu ấy: là vị tỳ khưu được thực thi hành sự.
Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Đại đức chớ có nói như thế. Các tỳ khưu không có sự thiên vị vì thương, không có sự thiên vị vì ghét, không có sự thiên vị vì si mê, không có sự thiên vị vì sợ hãi. Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Đại đức hãy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đã đủ rồi!”
Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu ấy nên được kéo đến giữa hội chúng và nên được nói rằng: “Đại đức chớ có nói như thế. Các tỳ khưu không có sự thiên vị vì thương, không có sự thiên vị vì ghét, không có sự thiên vị vì si mê, không có sự thiên vị vì sợ hãi. Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Đại đức hãy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đã đủ rồi!” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[628] Vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) khi được hội chúng thực thi hành phạt xua đuổi lại lên án các tỳ khưu có sự thiên vị vì thương, có sự thiên vị vì ghét, có sự thiên vị vì si mê, có sự thiên vị vì sợ hãi.Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) khi được hội chúng thực thi hành phạt xua đuổi lại lên án các tỳ khưu có sự thiên vị vì thương, có sự thiên vị vì ghét, có sự thiên vị vì si mê, có sự thiên vị vì sợ hãi.Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) khi được hội chúng thực thi hành phạt xua đuổi lại lên án các tỳ khưu có sự thiên vị vì thương, có sự thiên vị vì ghét, có sự thiên vị vì si mê, có sự thiên vị vì sợ hãi.Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[629] Tội dukkaṭa (tác ác) do lời đề nghị. Các tội thullaccaya (trọng tội) do hai lời thông báo của hành sự (dvīhi kammavācāhi). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). Đối với vị vi phạm tội saṅghādisesa, thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): Chỉ có hội chúng–không phải một số vị, không phải một cá nhân–ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy, cho thực hành lại từ đầu, ban cho hành phạt mānatta, cho giải tội; vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.” Là việc định danh, tức là việc đặt tên cho cả nhóm tội giống như tội ấy; vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[630] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[631] Vị chưa được nhắc nhở, vị dứt bỏ, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ,[11]vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ mười ba.
*******
[632] Bạch chư đại đức, mười ba điều saṅghādisesa (tăng tàng)đã được đọc tụng xong, chín điều bị phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, bốn điều (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba. Vị tỳ khưu vi phạm điều nọ hoặc điều kia thuộc về các điều này và che giấu biết được bao nhiêu ngày thì vị tỳ khưu ấy phải chịu hành phạt parivāsa không theo ý muốn bấy nhiêu ngày. Vị tỳ khưu đã trải qua hành phạt parivāsa nên thực hành thêm sáu đêm mānatta dành chotỳ khưu. Vị tỳ khưu có hành phạt mānatta đã được hoàn tất thì vị tỳ khưu ấy nên được giải tội tại nơi nào có hội chúng tỳ khưu nhóm hai mươi vị. Nếu hội chúng tỳ khưu nhóm hai mươi vị chỉ thiếu đi một mà giải tội cho vị tỳ khưu ấy thì vị tỳ khưu ấy chưa được giải tội và các tỳ khưu ấy bị khiển trách. Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy.
Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Chương Mười Ba Pháp.
********
Tóm lược chương này:
Sự xuất ra (tinh dịch),
việc xúc chạm cơ thể,
(nói lên) lời dâm dật,
tình dục cho bản thân,
mai mối, và liêu cốc,
trú xá, không nguyên cớ,
điều nhỏ nhặt nào đó,
và chia rẽ (hội chúng),
kẻ ủng hộ vị ấy,
và (ương ngạnh) khó nói,
làm hư các gia đình,
là mười ba điều học
saṅghādisesa.
[1]Ekuddeso: chung sự đọc tụng giới bổn Pātimokkha đang được hiện hành (theo ngài Buddhaghosa).
[2]Xin xem Đại Phẩm - Mahāvagga, chương Kosambī thứ X.
[3]Ngài Buddhaghosa giải thích là “... nắm lấy các tay và các chân kéo đến giữa hội chúng ...”
[4]Sở dĩ không đề cập đến tội thullaccaya thứ ba vì khi dứt câu: “Yassa nakkhamati so bhāseyya” ở chữ “yya” thì vị ấy phạm tội saṅghādisesa nên không thành lập tội thullaccaya thứ ba.
[5]Hai điều “vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ,” tạng Thái Lan có chú thích rằng: “Được thấy ở các sách khác.”
[6]Về vấn đề này, ngài Buddhaghosa đề cập đến bài kinh Anumānasutta thuộc Majjhimanikāya I (HT Minh Châu dịch là Kinh Tư Lượng số 15 của Kinh Trung Bộ 1).
[7]Theo ngài Buddhaghosa, hai vị này là các vị đứng đầu trong nhóm Lục Sư. Theo thứ tự được ngài trình bày là hai vị Paṇḍuka và Lohitaka ở thành Sāvatthi, hai vị khác đã được đề cập trước đây là Mettiya và Bhummajaka ở thành Rājagaha, và hai vị này ở vùng Kīṭāgiri.
[8]Được gọi là “āvāsika” nghĩa là trong trường hợp ấy chỗ trú ngụ (āvāso) tức là trú xá (vihāra) thuộc về vị ấy. Vị thường trú có trách nhiệm làm mới, sửa chữa những chỗ củ kỹ, v.v... được gọi là “āvāsika” còn vị chỉ thuần túy cư ngụ thôi thì gọi là “nevāsika” (Theo ngài Buddhaghosa).
[9]Ngài Buddhaghosa còn cho biết rằng hai tỳ khưu này (luôn cả sáu vị được gọi là Lục Sư) đều đã được xuất gia với hai vị Tối thượng Thinh Văn này, đã sống nương nhờ tròn đủ 5 năm, và có học thuộc lòng các đầu đề (mātikā).
[10]Theo ngài Buddhaghosa là 18 phận sự của vị bị thực thi hành sự xua đuổi (Xin xem Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương I, [119]).
[11]Hai điều “vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ” tạng Thái Lan có chú thích rằng: “Không được thấy ở tạng Miến Điện.”
-ooOoo-
[609] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, ở tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, đại đức Channa hành xử sai nguyên tắc.
Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này đại đức Channa, chớ có làm điều như vậy. Việc ấy không được phép.
Vị ấy đã nói như vầy:
- Này các đại đức, điều gì khiến các ngươi nghĩ là ta cần được dạy bảo? Chính ta mới nên dạy bảo các ngươi. Đức Phật là của chúng ta, Giáo Pháp là của chúng ta, Giáo Pháp đã được chứng đạt bởi ngài thái tử của chúng ta. Cũng giống như cơn gió mạnh thổi qua thì gom tụ cỏ, cành khô, lá rụng đó đây chung lại thành đống; hoặc cũng giống như dòng sông phát xuất từ ngọn núi thì gom tụ các loại rong rêu chung lại thành đống; tương tợ như thế, các ngươi có tên khác nhau, có họ khác nhau, có dòng dõi khác nhau, có gia tộc khác nhau đã được xuất gia và quy tụ chung lại. Điều gì khiến các ngươi nghĩ là ta cần được dạy bảo? Chính ta mới nên dạy bảo các ngươi. Đức Phật là của chúng ta, Giáo Pháp là của chúng ta, Giáo Pháp đã được chứng đạt bởi ngài thái tử của chúng ta.
Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp, đại đức Channa lại tỏ ra ương ngạnh?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi đại đức Channa rằng:
- Này Channa, nghe nói trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp, ngươi lại tỏ ra ương ngạnh, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, . .(như trên)... không nên làm. Này kẻ rồ dại, vì sao trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp, ngươi lại tỏ ra ương ngạnh vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Ngay cả vị tỳ khưu có bản tánh khó dạy,[6]trong khi được dạy bảo bởi các tỳ khưu về các điều học thuộc về giới bổn lại tỏ ra ương ngạnh: ‘Các đại đức chớ có nói bất cứ điều gì đến tôi dầu là tốt hay là xấu; tôi cũng sẽ không nói bất cứ điều gì đến các đại đức dầu là tốt hay là xấu. Các đại đức hãy kềm chế lại việc đề cập đến tôi.’ Vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Đại đức chớ tỏ ra ương ngạnh, đại đức hãy tỏ ra là người dễ dạy. Đại đức hãy dạy bảo các tỳ khưu đúng theo Pháp, các tỳ khưu cũng sẽ dạy bảo đại đức đúng theo Pháp; bởi vì như vậy hội chúng của đức Thế Tôn ấy được phát triển, tức là với sự dạy bảo lẫn nhau, với sự khích lệ lẫn nhau.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu mà vị tỳ khưu ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[610]Ngay cả vị tỳ khưu có bản tánh khó dạy: là vị khó dạy, là hội đủ các đức tính làm cho vị ấy trở thành khó dạy, không nhẫn nhịn, không nghiêm chỉnh thọ nhận sự giáo huấn.
Về các điều học thuộc về giới bổn: về các điều học thuộc về giới bổn Pātimokkha.
Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác.
Đúng theo Pháp nghĩa là điều học nào đã được đức Thế Tôn quy định, điều ấy nghĩa là đúng theo Pháp. Khi được dạy bảo với điều ấy, lại tỏ ra ương ngạnh: “Các đại đức chớ có nói bất cứ điều gì đến tôi dầu là tốt hay là xấu; tôi cũng sẽ không nói bất cứ điều gì đến các đại đức dầu là tốt hay là xấu. Các đại đức hãy kềm chế lại việc đề cập đến tôi.”
[611] Vị tỳ khưu ấy: là vị tỳ khưu có bản tánh khó dạy.
Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Đại đức chớ tỏ ra ương ngạnh, đại đức hãy tỏ ra là người dễ dạy. Đại đức hãy dạy bảo các tỳ khưu đúng theo Pháp, các tỳ khưu cũng sẽ dạy bảo đại đức đúng theo Pháp; bởi vì như vậy hội chúng của đức Thế Tôn ấy được phát triển, tức là với sự dạy bảo lẫn nhau, với sự khích lệ lẫn nhau.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu ấy nên được kéo đến giữa hội chúng và nên được nói rằng: “Đại đức chớ tỏ ra ương ngạnh, đại đức hãy tỏ ra là người dễ dạy. Đại đức hãy dạy bảo các tỳ khưu đúng theo Pháp, các tỳ khưu cũng sẽ dạy bảo đại đức đúng theo Pháp; bởi vì như vậy hội chúng của đức Thế Tôn ấy được phát triển, tức là với sự dạy bảo lẫn nhau, với sự khích lệ lẫn nhau.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[612] Vị tỳ khưu ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp lại tỏ ra ương ngạnh. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp lại tỏ ra ương ngạnh. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp lại tỏ ra ương ngạnh. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[613] Tội dukkaṭa (tác ác) do lời đề nghị. Các tội thullaccaya (trọng tội) do hai lời thông báo của hành sự (dvīhi kammavācāhi). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). Đối với vị vi phạm tội saṅghādisesa, thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[614] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[615] Vị chưa được nhắc nhở, vị dứt bỏ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ mười hai.
*******
[602] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Vel,uvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, Devadatta ra sức chia rẽ hội chúng, tức là việc phân chia quyền lãnh đạo. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Devadatta là người nói sai Pháp, Devadatta là người nói sai Luật. Vì sao Devadatta lại ra sức chia rẽ hội chúng, tức là việc phân chia quyền lãnh đạo vậy?
Khi được nói như thế, Kokālika, Kaṭamorakatissaka con trai của Khaṇḍadevī, và Samuddadatto đã nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy:
- Các đại đức chớ có nói như thế. Devadatta là người nói đúng Pháp. Devadatta là người nói đúng Luật. Devadatta nắm được và phát biểu về ước muốn và điều thích ý của chúng tôi, vị ấy hiểu và nói cho chúng tôi; hơn nữa điều ấy hợp ý chúng tôi.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao trong khi Devadatta ra sức chia rẽ hội chúng, các tỳ khưu lại là những kẻ ủng hộ tức là những kẻ tuyên bố ly khai?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói trong khi Devadatta ra sức chia rẽ hội chúng, các tỳ khưu lại là những kẻ ủng hộ tức là những kẻ tuyên bố ly khai, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, . .(như trên)... Này các tỳ khưu, vì sao trong khi Devadatta ra sức chia rẽ hội chúng, những kẻ rồ dại ấy lại là những kẻ ủng hộ tức là những kẻ tuyên bố ly khai vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Các tỳ khưu là những kẻ ủng hộ của chính vị tỳ khưu ấy tức là những kẻ tuyên bố ly khai dầu là một vị, hoặc hai vị, hoặc ba vị, và các vị ấy nói như vầy: ‘Các đại đức chớ có nói bất cứ điều gì về vị tỳ khưu này. Vị tỳ khưu này là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu này là người nói đúng Luật. Vị tỳ khưu này nắm được rồi phát biểu về ước muốn và điều thích ý của chúng tôi, vị ấy hiểu và nói cho chúng tôi; hơn nữa điều ấy hợp ý chúng tôi.’ Các vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Các đại đức chớ có nói như thế. Vị tỳ khưu này không phải là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu này không phải là người nói đúng Luật. Các đại đức chớ có thích ý về việc chia rẽ hội chúng. Các đại đức hãy hòa nhập cùng hội chúng vì hội chúng hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, chung một nguyên tắc, thì sống được an lạc.’ Và khi được các tỳ khưu nói như vậy mà các vị tỳ khưu ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì các vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[603]Của chính vị ấy: là của chính vị tỳ khưu chia rẽ hội chúng.
Các tỳ khưu là: Các vị tỳ khưu khác là.
Những kẻ ủng hộ: (Vị chia rẽ hội chúng) có quan điểm gì, có điều mong mỏi gì, có sự thích ý gì thì các vị ấy cũng có quan điểm ấy, có điều mong mỏi ấy, có sự thích ý ấy.
Những kẻ tuyên bố ly khai: là những vị đứng trong phe, trong nhóm của vị ấy.
Một vị, hoặc hai vị, hoặc ba vị: là một vị, hoặc hai vị, hoặc ba vị, và các vị ấy nói như vầy: “Các đại đức chớ có nói bất cứ điều gì về vị tỳ khưu này. Vị tỳ khưu này là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu này là người nói đúng Luật. Vị tỳ khưu này nắm được rồi phát biểu về ước muốn và điều thích ý của chúng tôi, vị ấy hiểu và nói cho chúng tôi; hơn nữa điều ấy hợp ý chúng tôi.”
[604] Các vị tỳ khưu ấy: các vị tỳ khưu là những kẻ ủng hộ.
Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Các đại đức chớ có nói như thế. Vị tỳ khưu này không phải là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu này không phải là người nói đúng Luật. Các đại đức chớ có thích ý về việc chia rẽ hội chúng. Các đại đức hãy hòa nhập cùng hội chúng vì hội chúng hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, chung một nguyên tắc, thì sống được an lạc.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (các vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Các vị tỳ khưu ấy nên được kéo đến giữa hội chúng và nên được nói rằng: “Các đại đức chớ có nói như thế. Vị tỳ khưu này không phải là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu này không phải là người nói đúng Luật. Các đại đức chớ có thích ý về việc chia rẽ hội chúng. Các đại đức hãy hòa nhập cùng hội chúng vì hội chúng hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, chung một nguyên tắc, thì sống được an lạc.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (các vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[605] Các vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) là những kẻ ủng hộ của tỳ khưu tên (như vầy) đang ra sức chia rẽ hội chúng, tức là những kẻ tuyên bố ly khai. Các vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) là những kẻ ủng hộ của tỳ khưu tên (như vầy) đang ra sức chia rẽ hội chúng, tức là những kẻ tuyên bố ly khai. Các vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) là những kẻ ủng hộ của tỳ khưu tên (như vầy) đang ra sức chia rẽ hội chúng, tức là những kẻ tuyên bố ly khai. Hội chúng nhắc nhở các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[606] Tội dukkaṭa (tác ác) do lời đề nghị. Các tội thullaccaya (trọng tội) do hai lời thông báo của hành sự (dvīhi kammavācāhi). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). Đối với các vị vi phạm tội saṅghādisesa, thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực. Hai ba vị nên được nhắc nhở chung (một lượt), không nên nhắc nhở nhiều hơn số lượng đó.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[607] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, các vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, các vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, các vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[608] Các vị chưa được nhắc nhở, các vị dứt bỏ, các vị có tâm bị rối loạn, các vị bị thọ khổ hành hạ, các vị bị điên, các vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ mười một.
*******
[377] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi cư ngụ ở trong rừng.[6]Trú xá của đại đức ấy đẹp đẽ, đáng nhìn, xinh xắn, có nội phòng ở giữa, khắp nơi xung quanh căn nhà có giường, ghế, nệm, gối được khéo xếp đặt, nước uống, nước rửa được khéo bố trí, phòng ốc được quét dọn cẩn thận. Nhiều người đi đến có ý muốn nhìn ngắm trú xá của đại đức Udāyi. Có người bà-la-môn nọ cùng người vợ cũng đã đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Chúng tôi muốn nhìn ngắm trú xá của ngài đại đức Udāyi.
- Này bà-la-môn, như thế thì chúng ta có thể nhìn ngắm.
Rồi đã cầm lấy chìa khóa, tháo chốt, mở cửa ra, và đi vào trong trú xá. Người bà-la-môn ấy đã đi vào tiếp theo sau đại đức Udāyi. Rồi người nữ bà-la-môn ấy đã đi vào tiếp theo sau người bà-la-môn ấy. Khi ấy, trong khi mở ra một số cửa sổ, trong khi đóng lại một số cửa sổ, đại đức Udāyi đã đi vòng quanh nội phòng rồi đi đến ở phía sau và vuốt ve các phần thân thể của người nữ bà-la-môn ấy. Sau đó, người bà-la-môn ấy đã trao đổi lời xã giao thân thiện với đại đức Udāyi rồi ra đi. Khi ấy, người bà-la-môn ấy được hoan hỷ đã thốt ra lời hoan hỷ rằng:
- Các vị sa-môn Thích tử này thật là cao quý khi sống trong khu rừng như vầy! Ngài đại đức Udāyi thật là cao quý khi sống trong khu rừng như thế này!
Khi được nói như thế, người nữ bà-la-môn ấy đã nói với người bà-la-môn ấy điều này:
- Sự cao quý của vị ấy là do đâu? Ông đã vuốt ve các phần thân thể của tôi ra sao thì Sa-môn Udāyi cũng đã vuốt ve các phần thân thể của tôi y như thế.
Khi ấy, người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các vị sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn, giới hạnh xấu xa, nói láo. Chính các vị này làm ra vẻ là có sự thực hành Pháp, có thực hành sự an tịnh, có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp! Các vị này không có sa-môn hạnh, các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đã bị hư hỏng, Phạm hạnh của các vị này đã bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đã không còn! Phạm hạnh của các vị này đã không còn! Vì sao Sa-môn Udāyi lại vuốt ve các phần thân thể của vợ ta? Không thể để cho các người đàn bà gia đình danh giá, các tiểu thơ gia đình danh giá, các thiếu nữ gia đình danh giá, các cô dâu gia đình danh giá, các nữ tỳ gia đình danh giá đi đến tu viện hoặc trú xá bởi vì nếu các người đàn bà gia đình danh giá, các tiểu thơ gia đình danh giá, các thiếu nữ gia đình danh giá, các cô dâu gia đình danh giá, các nữ tỳ gia đình danh giá đi đến tu viện hoặc trú xá, các sa-môn Thích tử có thể làm nhục họ nữa!
Các tỳ khưu đã nghe được người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại thực hiện việc xúc chạm thân thể với người nữ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi đại đức Udāyi rằng:
- Này Udāyi, nghe nói ngươi thực hiện việc xúc chạm thân thể với người nữ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại thực hiện việc xúc chạm thân thể với người nữ vậy? Này kẻ rồ dại, không phải ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, ...(như trên)... đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào bị khởi dục, do tâm bị thay đổi, rồi thực hiện việc xúc chạm thân thể với người nữ là sự nắm lấy tay, hoặc nắm lấy búi tóc, hoặc sự vuốt ve bất cứ bộ phận nào thì tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[378] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bị khởi dục nghĩa là có dục vọng, có sự khao khát, có tâm say đắm.
Bị thay đổi: tâm có dục vọng là (tâm) bị thay đổi, tâm giận hờn là (tâm) bị thay đổi, tâm mê muội là (tâm) bị thay đổi. Tâm có dục vọng là (tâm) “bị thay đổi” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữ nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, ngay cả đứa bé gái mới sanh ngày hôm ấy cho đến bà lão.
Với: cùng chung.
Thực hiện việc xúc chạm thân thể:được gọi là sự vi phạm.
Tay nghĩa là tính từ cùi chỏ cho đến các đầu móng tay.
Búi tóc nghĩa là tóc thuần túy, hoặc là (tóc) có trộn lẫn chỉ sợi, hoặc là có trộn lẫn tràng hoa, hoặc là có trộn lẫn bạc, hoặc là có trộn lẫn vàng, hoặc có trộn lẫn ngọc trai, hoặc có trộn lẫn ngọc ma-ni.
Bộ phận nghĩa là ngoại trừ tay và búi tóc, các phần còn lại gọi là bộ phận.
[379] Sự sờ vào, sự vuốt ve, sự vuốt xuống, sự vuốt lên, sự vỗ xuống, sự vỗ lên, sự kéo vào, sự đẩy ra, sự giữ lại, sự ôm chặt, sự nắm lấy, sự chạm vào.
[380] Sự sờ vào nghĩa là việc được cọ xát vào.
Sự vuốt ve nghĩa là sự di chuyển từ chỗ này qua chỗ khác.
Sự vuốt xuống nghĩa là đưa xuống phía dưới.
Sự vuốt lên nghĩa là nâng lên phía trên.
Sự vỗ xuống nghĩa là nghiêng về phía dưới.
Sự vỗ lên nghĩa là hướng lên phía trên.
Sự kéo vào nghĩa là sự lôi tới.
Sự đẩy ra nghĩa là sự đưa về lại.
Sự giữ lại nghĩa là sự siết chặt lại sau khi nắm lấy bộ phận (của thân thể).
Sự ôm chặt nghĩa là sự siết chặt lại cùng với bất cứ ai.
Sự nắm lấy nghĩa là việc được nắm lấy.
Sự chạm vào nghĩa là việc được đụng vào.
[381] Tội saṅghādisesa (tăng tàng): Chỉ có hội chúng ban cho hành phạt của tội ấy ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[382] Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, vuốt xuống, vuốt lên, vỗ xuống, vỗ lên, kéo vào, đẩy ra, giữ lại, ôm chặt, nắm lấy, chạm vào thân thể của người nữ ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Là người nữ và có sự hoài nghi, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nữ ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Là người nữ và (lầm) tưởng là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nữ ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Là người nữ và (lầm) tưởng là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nữ ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Là người nữ và (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nữ ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Là người vô căn và biết là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người vô căn ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Là người vô căn và có sự hoài nghi, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người vô căn ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là người vô căn và (lầm) tưởng là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người vô căn ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là người vô căn và (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người vô căn ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là người vô căn và (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người vô căn ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nam và biết là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nam ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nam và có sự hoài nghi, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nam ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nam và (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nam ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nam và (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nam ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nam và (lầm) tưởng là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nam ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là loài thú và biết là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của loài thú ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là loài thú và có sự hoài nghi, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của loài thú ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là loài thú và (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của loài thú ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là loài thú và (lầm) tưởng là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của loài thú ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là loài thú và (lầm) tưởng là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của loài thú ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[383] Hai người nữ và biết hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người nữ ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hai người nữ và có sự hoài nghi là hai người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người nữ ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).
Hai người nữ và (lầm) tưởng hai người nữ là người vô căn, ...(như trên)... Hai người nữ và (lầm) tưởng hai người nữ là người nam, ...(như trên)... Hai người nữ và (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người nữ ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).
Hai người vô căn và biết hai người vô căn là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người vô căn ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).
Hai người vô căn và có sự hoài nghi là hai người vô căn, ...(như trên)... Hai người vô căn và (lầm) tưởng hai người vô căn là người nam, ...(như trên)... Hai người vô căn và (lầm) tưởng hai người vô căn là loài thú, ...(như trên)... Hai người vô căn và (lầm) tưởng hai người vô căn là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người vô căn ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nam và biết hai người nam là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người nam ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nam và có sự hoài nghi là hai người nam, ...(như trên)... Hai người nam và (lầm) tưởng hai người nam là loài thú, ...(như trên)... Hai người nam và (lầm) tưởng hai người nam là người nữ, ...(như trên)... Hai người nam và (lầm) tưởng hai người nam là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người nam ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Hai con thú và biết hai con thú là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai con thú ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Hai con thú và có sự hoài nghi là hai con thú, ...(như trên)... Hai con thú và (lầm) tưởng hai con thú là người nữ, ...(như trên)... Hai con thú và (lầm) tưởng hai con thú là người vô căn, ...(như trên)... Hai con thú và (lầm) tưởng hai con thú là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai con thú ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
[384] Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, có sự hoài nghi về cả hai, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người nam, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người nam, có sự hoài nghi về cả hai, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người nam, (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người nam, (lầm) tưởng cả hai là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người nam, (lầm) tưởng cả hai là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và loài thú, có sự hoài nghi về cả hai, ...(như trên)... (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, ...(như trên)... (lầm) tưởng cả hai là người nam, ...(như trên)... (lầm) tưởng cả hai là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người vô căn và người nam, (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người vô căn và người nam, có sự hoài nghi về cả hai, ...(như trên)... thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người vô căn và người nam, (lầm) tưởng cả hai là người nam, ...(như trên)... Người vô căn và người nam, (lầm) tưởng cả hai là loài thú, ...(như trên)... Người vô căn và người nam, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người vô căn và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người vô căn và loài thú, có sự hoài nghi về cả hai, ...(như trên)... Người vô căn và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người nam, ...(như trên)... Người vô căn và người nam, (lầm) tưởng cả hai là loài thú, ...(như trên)... Người vô căn và người nam, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam và loài thú, có sự hoài nghi về cả hai, ...(như trên)... Người nam và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là loài thú, ...(như trên)... Người nam và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, ...(như trên)... Người nam và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
[385] Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nữ ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người nữ ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể của người nữ ấy bằng thân thể (vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể của hai người nữ ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể của hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể của người nữ ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể của hai người nữ ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể của hai người ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của người nữ ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của hai người nữ ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của hai người ấy bằng thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của người nữ ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của hai người nữ ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của hai người ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của người nữ ấy bằng vật ném ra (của vị ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của hai người nữ ấy bằng vật ném ra (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của hai người ấy bằng vật ném ra (của vị ấy) thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt phần trùng lặp về vị tỳ khưu.
[386] Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và người nữ sờ vào, vuốt ve, vuốt xuống, vuốt lên, vỗ xuống, vỗ lên, kéo vào, đẩy ra, giữ lại, ôm chặt, nắm lấy, chạm vào thân thể của vị tỳ khưu bằng thân thể của cô ấy; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và hai người nữ sờ vào, vuốt ve, vuốt xuống, vuốt lên, vỗ xuống, vỗ lên, kéo vào, đẩy ra, giữ lại, ôm chặt, nắm lấy, chạm vào thân thể của vị tỳ khưu bằng thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và cả hai sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của vị tỳ khưu bằng thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của vị tỳ khưu bằng vật được gắn liền với thân thể của cô ấy; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và hai người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của vị tỳ khưu bằng vật được gắn liền với thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và cả hai sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của vị tỳ khưu bằng vật được gắn liền với thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể của vị tỳ khưu bằng thân thể của cô ấy; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và hai người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể của vị tỳ khưu bằng thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và cả hai sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể của vị tỳ khưu bằng thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể của vị tỳ khưu bằng vật được gắn liền với thân thể của cô ấy; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và hai người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể của vị tỳ khưu bằng vật được gắn liền với thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và cả hai sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể của vị tỳ khưu bằng vật được gắn liền với thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của vị tỳ khưu bằng thân thể của cô ấy; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và hai người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của vị tỳ khưu bằng thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và cả hai sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của vị tỳ khưu bằng thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của vị tỳ khưu bằng vật được gắn liền với thân thể của cô ấy; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và hai người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của vị tỳ khưu bằng vật được gắn liền với thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và cả hai sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của vị tỳ khưu bằng vật được gắn liền với thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của vị tỳ khưu bằng vật ném ra của cô ấy; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và hai người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của vị tỳ khưu bằng vật ném ra của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục và cả hai sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của vị tỳ khưu bằng vật ném ra của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
[387] Vị có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, (nhưng) không biết được sự xúc chạm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị có ý muốn đáp ứng, (nhưng) không ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì vô tội.
Vị có ý muốn đáp ứng, (nhưng) không ra sức bằng thân, và không biết được sự xúc chạm thì vô tội.
Vị có ý muốn thoát ra, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì vô tội.
Vị có ý muốn thoát ra, rồi ra sức bằng thân, (nhưng) không biết được sự xúc chạm thì vô tội.
Vị có ý muốn thoát ra, (nhưng) không ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì vô tội.
Vị có ý muốn thoát ra, (nhưng) không ra sức bằng thân, và không biết được sự xúc chạm thì vô tội.
[388] Vị không cố ý, khi tâm không ghi nhận (asatiyā),[7]vị không biết, vị không thích thú, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[389]
Người mẹ, người con gái,
chị gái, và người vợ,
nữ quỷ, người vô căn,
ngủ, đã chết, thú cái,
và con búp bê gỗ,
bị áp bức, xe hàng,
đường đi, và thân cây,
chiếc thuyền, dây, cây gậy,
vị dùng bình bát đẩy,
khi được người đảnh lễ,
ra sức nhưng không đụng.
[390] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sờ vào người mẹ do lòng thương mến mẹ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng)?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sờ vào người con gái ruột do lòng thương mến con gái. ...(như trên)... sờ vào người chị (em) gái do lòng thương mến chị (em) gái. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)... Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[391] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã thực hiện việc xúc chạm thân thể với người vợ cũ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã thực hiện việc xúc chạm thân thể với nữ dạ-xoa. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã thực hiện việc xúc chạm thân thể với người vô căn. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã thực hiện việc xúc chạm thân thể với người nữ đang ngủ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã thực hiện việc xúc chạm thân thể với người nữ đã chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã thực hiện việc xúc chạm thân thể với loài thú cái (tiracchānagatitthiyā). Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã thực hiện việc xúc chạm thân thể với con búp bê gỗ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[392] Vào lúc bấy giờ, có nhiều người đàn bà đã áp bức vị tỳ khưu nọ và tay nắm tay dẫn đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi có thích thú không?
- Bạch Thế Tôn, con không thích thú.
- Này tỳ khưu, vị không thích thú thì vô tội.
[393] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục và đã lay động chiếc xe hàng có người đàn bà đã leo lên. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[394] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi nhìn thấy người đàn bà đi ngược chiều đã bị khởi dục rồi dùng bả vai thúc vào (cô ấy). Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[395] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục và đã lay động thân cây có người đàn bà đã leo lên. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[396] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục và đã lay động chiếc thuyền có người đàn bà đã leo lên. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[397] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục và đã lôi sợi dây thừng đang được người đàn bà nắm lấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục và đã lôi cây gậy đang được người đàn bà nắm lấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[398] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục và đã dùng bình bát đẩy người đàn bà. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong khi người đàn bà đang đảnh lễ[8]đã đưa bàn chân lên. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Ta sẽ nắm lấy người đàn bà” rồi đã ra sức nhưng chưa chạm đến. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng)?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ nhì.
*******
[1]Tựa đề này không có ở văn bản Pālicủa Tam TạngThái Lan, người dịch thêm vào để tiện việc phân biệt.
[2]Anabhirato: tâm bị loạn động và đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa ái dục nhưng lại không muốn trở về trạng thái tại gia (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[3]Theo ngài Buddhaghosa, đại đức Udāyi là thầy tế độ của đại đức Seyyasaka.
[4]Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: (saṅghādisesa = saṅgha-ādi-sesa) Hội chúng (saṅgha) là cần thiết từ lúc khởi đầu (ādi) và các phần kế (sesa). Khởi đầu là sự ban cho hành phạt parivāsa, các phần kế là sự ban cho hành phạt mānatta hoặc sự ban cho việc thực hành trở lại từ đầu (mūlāya paṭikassanaṃ), cuối cùng là hành sự giải tội (abbhānakamma) đều do hội chúng (saṅgha) thực hiện, cá nhân hoặc nhóm tỳ khưu đều không được (Xin xem thêm Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương II).
[5]Số bị cách khoảng có lẽ do lỗi kỷ thuật vì nội dung không thiếu sót khi so sánh với CD Chaṭṭhasaṅgāyana.
[6]Ngài Buddhaghosa cho rằng trú xá của đại đức Udāyi không phải ở trong một khu rừng riêng biệt mà ở trong Jetavana, thuộc về khu vực ở một bên, cuối cùng, sát ranh giới.
[7]Ngài Buddhaghosa giải thích về “asatiyā” như sau: Vị ấy bị bận rộn về việc khác nên không biết rằng: “Ta chạm vào người nữ.” Trong lúc không biết (asatiyā = thất niệm) như thế, như trong khi co duỗi tay chân, v.v... vị có sự đụng chạm thì vô tội.
[8]Theo ngài Buddhaghosa, người đàn bà đảnh lễ theo lối nắm lấy bàn chân của vị tỳ khưu. Trường hợp ấy, vị tỳ khưu nên có vật phủ lên bàn chân hoặc bất động.
-ooOoo-
[301] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi (Xá Vệ), Jetavana (Kỳ Viên), tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Vào lúc bấy giờ, đại đức Seyyasaka không được thỏa thích[2]thực hành Phạm hạnh. Vì thế, vị ấy trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Đại đức Udāyi[3]đã nhìn thấy đại đức Seyyasaka ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân; sau khi nhìn thấy đã nói với đại đức Seyyasaka điều này:
- Này đại đức Seyyasaka, tại sao ngươi lại ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân? Này đại đức Seyyasaka, chẳng lẽ ngươi không được thỏa thích thực hành Phạm hạnh?
- Này đại đức, đúng vậy.
- Này đại đức Seyyasaka, như thế thì ngươi hãy ăn theo như ý thích, hãy ngủ theo như ý thích, hãy tắm theo như ý thích. Sau khi đã ăn theo như ý thích, đã ngủ theo như ý thích, đã tắm theo như ý thích, khi nào sự không thỏa thích sanh khởi ở ngươi, tham ái quấy rối tâm, khi ấy ngươi hãy dùng bàn tay gắng sức làm xuất ra tinh dịch.
- Này đại đức, có được phép làm như thế không?
- Này đại đức, được chớ. Ta cũng làm như thế.
Sau đó, đại đức Seyyasaka đã ăn theo như ý thích, đã ngủ theo như ý thích, đã tắm theo như ý thích. Sau khi đã ăn theo như ý thích, đã ngủ theo như ý thích, đã tắm theo như ý thích, khi nào sự không thỏa thích sanh khởi, tham ái quấy rối tâm, khi ấy vị ấy đã dùng bàn tay gắng sức làm xuất ra tinh dịch. Rồi một thời gian sau, đại đức Seyyasaka đã trở nên có tướng mạo, căn quyền sung mãn, sắc mặt rạng rỡ, sắc thân an tịnh. Khi ấy, các tỳ khưu thân hữu của đại đức Seyyasaka đã nói với đại đức Seyyasaka điều này:
- Này đại đức Seyyasaka, trước đây đại đức thì ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Bây giờ, trong lúc này, đại đức đây có tướng mạo, căn quyền sung mãn, sắc mặt rạng rỡ, sắc thân an tịnh. Này đại đức Seyyasaka, đại đức có sử dụng thuốc men gì không?
- Này các đại đức, tôi không có sử dụng thuốc men. Tuy nhiên, tôi ăn theo như ý thích, ngủ theo như ý thích, tắm theo như ý thích. Sau khi đã ăn theo như ý thích, đã ngủ theo như ý thích, đã tắm theo như ý thích, khi nào sự không thỏa thích sanh khởi ở tôi, tham ái quấy rối tâm, khi ấy tôi dùng bàn tay gắng sức làm xuất ra tinh dịch.
- Này đại đức Seyyasaka, có phải đại đức gắng sức làm xuất ra tinh dịch bằng chính bàn tay thọ dụng vật tín thí?
- Này các đại đức, đúng vậy.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Seyyasaka lại dùng bàn tay gắng sức làm xuất ra tinh dịch vậy?
Sau đó, khi đã khiển trách đại đức Seyyasaka bằng nhiều phương thức, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi đại đức Seyyasaka rằng:
- Này Seyyasaka, nghe nói ngươi dùng bàn tay gắng sức làm xuất ra tinh dịch, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại dùng bàn tay gắng sức làm xuất ra tinh dịch? Này kẻ rồ dại, không phải ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn ràng buộc chứ không phải để đưa đến sự ràng buộc, đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn chấp thủ chứ không phải để đưa đến sự chấp thủ hay sao? Này kẻ rồ dại, thế mà ở đây trong khi ta thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái thì ngươi lại nghĩ đến tham ái, thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn ràng buộc thì ngươi lại nghĩ đến sự ràng buộc, thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn chấp thủ thì ngươi lại nghĩ đến sự chấp thủ. Này kẻ rồ dại, không phải ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái trong các ái, để đưa đến sự không còn đam mê trong các nỗi đam mê, để kềm chế sự khao khát, để trừ diệt sự vướng mắc, để cắt đứt vòng tái sanh, để diệt tận ái, để ly tham, để đưa đến sự tịch diệt, để đưa đến Niết Bàn hay sao? Này kẻ rồ dại, không phải ta bằng nhiều phương thức đã đề cập đến sự từ bỏ các dục, đã đề cập đến sự hiểu rõ về các dục tưởng, đã đề cập đến sự kềm chế các nỗi khao khát về dục, đã đề cập đến sự trừ diệt các dục tầm, đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này kẻ rồ dại, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã khiển trách đại đức Seyyasaka bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong việc ăn uống, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Việc xuất ra tinh do sự cố ý thì tội saṅghādisesa (tăng tàng).”[4]Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[302] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu sau khi thọ thực các loại vật thực hảo hạng có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, rồi rơi vào giấc ngủ. Trong khi các vị ấy có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, rồi rơi vào giấc ngủ, tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định rằng: ‘Việc xuất ra tinh do sự cố ý thì tội saṅghādisesa (tăng tàng).’Và tinh dịch của chúng ta đã bị xuất ra do chiêm bao. Và trong trường hợp này có sự cố ý dự phần vào; phải chăng chúng ta đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng)?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, sự cố ý ấy là có nhưng nó không đáng kể.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Việc xuất ra tinh dịch có sự cố ý thì tội saṅghādisesa (tăng tàng), ngoại trừ chiêm bao.”
[303] Sự cố ý: là sự vi phạm trong khi biết, trong khi có ý định, sau khi đã suy nghĩ, sau khi đã khẳng định.
Tinh: có mười loại tinh: màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, màu sữa loãng, màu nước, màu dầu ăn, màu sữa tươi, màu sữa đông, màu bơ lỏng.
Sự xuất ra: sự làm di chuyển khỏi vị trí được gọi là “sự xuất ra.”
Ngoại trừ chiêm bao: trừ ra trong giấc ngủ.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): Chỉ có hội chúng–không phải một số vị không phải cá nhân–ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy, cho thực hành lại từ đầu, ban cho hành phạt mānatta, cho giải tội; vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.” Là việc định danh, tức là việc đặt tên cho cả nhóm tội giống như tội ấy; vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[304] Làm xuất ra ở sắc pháp thuộc nội phần, làm xuất ra ở sắc pháp thuộc ngoại phần, làm xuất ra ở sắc pháp thuộc nội phần và ngoại phần, làm xuất ra trong khi lắc hông ở khoảng không, làm xuất ra khi có sự tác động của tham ái, làm xuất ra khi có sự tác động của phân, làm xuất ra khi có sự tác động của nước tiểu, làm xuất ra khi có sự tác động của gió, làm xuất ra khi có sự tác động của sâu bọ, làm xuất ra vì mục đích sức khoẻ, làm xuất ra vì mục đích khoái lạc, làm xuất ra vì mục đích dược phẩm, làm xuất ra vì mục đích bố thí, làm xuất ra vì mục đích phước thiện, làm xuất ra vì mục đích tế lễ, làm xuất ra vì mục đích cõi trời, làm xuất ra vì mục đích nòi giống, làm xuất ra vì mục đích nghiên cứu, làm xuất ra vì mục đích đùa giỡn, làm xuất ra (tinh) màu xanh, làm xuất ra (tinh) màu vàng, làm xuất ra (tinh) màu đỏ, làm xuất ra (tinh) màu trắng, làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng, làm xuất ra (tinh) màu nước, làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn, làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi, làm xuất ra (tinh) màu sữa đông, làm xuất ra (tinh) màu bơ lỏng.
[305] Ở sắc pháp thuộc nội phần: là ở sắc pháp có liên quan đến bản thân.
Ở sắc pháp thuộc ngoại phần: là ở sắc pháp có liên quan hoặc không có liên quan đến người khác.
Ở sắc pháp thuộc nội phần và ngoại phần: là ở cả hai nơi.
Trong khi lắc hông ở khoảng không:là dương vật của vị đang nỗ lực ở khoảng không trở nên thích ứng.
Khi có sự tác động của tham ái: là dương vật của vị bị tham ái quấy rối trở nên thích ứng.
Khi có sự tác động của phân: là dương vật của vị bị phân quấy rối trở nên thích ứng.
Khi có sự tác động của nước tiểu: là dương vật của vị bị nước tiểu quấy rối trở nên thích ứng.
Khi có sự tác động của gió: là dương vật của vị bị gió quấy rối trở nên thích ứng.
Khi có sự tác động của sâu bọ: là dương vật của vị bị sâu bọ quấy rối trở nên thích ứng.
Vì mục đích sức khoẻ: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ không có bệnh.”
Vì mục đích khoái lạc: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ tạo ra cảm giác khoái lạc.”
Vì mục đích dược phẩm: là (nghĩ rằng): “Sẽ có được thuốc men.”
Vì mục đích bố thí: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ cho vật thí.”
Vì mục đích phước thiện: là (nghĩ rằng): “Sẽ có được phước báu.”
Vì mục đích tế lễ: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ dâng lên vật tế lễ.”
Vì mục đích cõi trời: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến cõi trời.”
Vì mục đích nòi giống: là (nghĩ rằng): “Sẽ có được nòi giống.”
Vì mục đích nghiên cứu: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ nghiên cứu. Sẽ có được (tinh) màu xanh, sẽ có được (tinh) màu vàng, sẽ có được (tinh) màu đỏ, sẽ có được (tinh) màu trắng, ...(như trên)..., sẽ có được (tinh) màu bơ lỏng.”
Vì mục đích đùa giỡn: có ý định chơi giỡn.
[306] Ở sắc pháp thuộc nội phần, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Ở sắc pháp thuộc ngoại phần, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Ở sắc pháp thuộc nội phần và ngoại phần, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Trong khi lắc hông ở khoảng không, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Khi có sự tác động của tham ái, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Khi có sự tác động của phân, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Khi có sự tác động của nước tiểu, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Khi có sự tác động của gió, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Khi có sự tác động của sâu bọ, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vì mục đích sức khoẻ, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vì mục đích khoái lạc, ...(như trên)... vì mục đích dược phẩm, vì mục đích bố thí, vì mục đích phước thiện, vì mục đích tế lễ, vì mục đích cõi trời, vì mục đích nòi giống, vì mục đích nghiên cứu, vì mục đích đùa giỡn, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu xanh rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần liên quan đến sự trong sạch.
[307] Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ và mục đích khoái lạc rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ và mục đích dược phẩm, mục đích sức khoẻ và mục đích bố thí, mục đích sức khoẻ và mục đích phước thiện, mục đích sức khoẻ và mục đích tế lễ, mục đích sức khoẻ và mục đích cõi trời, mục đích sức khoẻ và mục đích nòi giống, mục đích sức khoẻ và mục đích nghiên cứu, mục đích sức khoẻ và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần phân tích theo sự xoay vòng có liên quan đến một nhân tố.
[308] Vị suy tưởng đến mục đích khoái lạc và mục đích dược phẩm rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích khoái lạc và mục đích bố thí, mục đích khoái lạc và mục đích phước thiện, mục đích khoái lạc và mục đích tế lễ, mục đích khoái lạc và mục đích cõi trời, mục đích khoái lạc và mục đích nòi giống, mục đích khoái lạc và mục đích nghiên cứu, mục đích khoái lạc và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích khoái lạc và mục đích sức khoẻ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[309] Vị suy tưởng đến mục đích dược phẩm và mục đích bố thí rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích dược phẩm và mục đích phước thiện, mục đích dược phẩm và mục đích tế lễ, mục đích dược phẩm và mục đích cõi trời, mục đích dược phẩm và mục đích nòi giống, mục đích dược phẩm và mục đích nghiên cứu, mục đích dược phẩm và mục đích đùa giỡn, mục đích dược phẩm và mục đích sức khoẻ, mục đích dược phẩm và mục đích khoái lạc rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[310] Vị suy tưởng đến mục đích bố thí và mục đích phước thiện rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích bố thí và mục đích tế lễ, mục đích bố thí và mục đích cõi trời, mục đích bố thí và mục đích nòi giống, mục đích bố thí và mục đích nghiên cứu, mục đích bố thí và mục đích đùa giỡn, mục đích bố thí và mục đích sức khoẻ, mục đích bố thí và mục đích khoái lạc, mục đích bố thí và mục đích dược phẩm rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[311] Vị suy tưởng đến mục đích phước thiện và mục đích tế lễ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích phước thiện và mục đích cõi trời, mục đích phước thiện và mục đích nòi giống, mục đích phước thiện và mục đích nghiên cứu, mục đích phước thiện và mục đích đùa giỡn, mục đích phước thiện và mục đích sức khoẻ, mục đích phước thiện và mục đích khoái lạc, mục đích phước thiện và mục đích dược phẩm, mục đích phước thiện và mục đích bố thí rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[312] Vị suy tưởng đến mục đích tế lễ và mục đích cõi trời rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích tế lễ và mục đích nòi giống, mục đích tế lễ và mục đích nghiên cứu, mục đích tế lễ và mục đích đùa giỡn, mục đích tế lễ và mục đích sức khoẻ, mục đích tế lễ và mục đích khoái lạc, mục đích tế lễ và mục đích dược phẩm, mục đích tế lễ và mục đích bố thí, mục đích tế lễ và mục đích phước thiện rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[313] Vị suy tưởng đến mục đích cõi trời và mục đích nòi giống, mục đích cõi trời và mục đích nghiên cứu, mục đích cõi trời và mục đích đùa giỡn, mục đích cõi trời và mục đích sức khoẻ, mục đích cõi trời và mục đích khoái lạc, mục đích cõi trời và mục đích dược phẩm, mục đích cõi trời và mục đích bố thí, mục đích cõi trời và mục đích phước thiện, mục đích cõi trời và mục đích tế lễ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[314] Vị suy tưởng đến mục đích nòi giống và mục đích nghiên cứu, mục đích nòi giống và mục đích đùa giỡn, mục đích nòi giống và mục đích sức khoẻ, mục đích nòi giống và mục đích khoái lạc, mục đích nòi giống và mục đích dược phẩm, mục đích nòi giống và mục đích bố thí, mục đích nòi giống và mục đích phước thiện, mục đích nòi giống và mục đích tế lễ, mục đích nòi giống và mục đích cõi trời rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[315] Vị suy tưởng đến mục đích nghiên cứu và mục đích đùa giỡn, mục đích nghiên cứu và mục đích sức khoẻ, mục đích nghiên cứu và mục đích khoái lạc, mục đích nghiên cứu và mục đích dược phẩm, mục đích nghiên cứu và mục đích bố thí, mục đích nghiên cứu và mục đích phước thiện, mục đích nghiên cứu và mục đích tế lễ, mục đích nghiên cứu và mục đích cõi trời, mục đích nghiên cứu và mục đích nòi giống rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[316] Vị suy tưởng đến mục đích đùa giỡn và mục đích sức khoẻ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích đùa giỡn và mục đích khoái lạc, mục đích đùa giỡn và mục đích dược phẩm, mục đích đùa giỡn và mục đích bố thí, mục đích đùa giỡn và mục đích phước thiện, mục đích đùa giỡn và mục đích tế lễ, mục đích đùa giỡn và mục đích cõi trời, mục đích đùa giỡn và mục đích nòi giống, mục đích đùa giỡn và mục đích nghiên cứu rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần tổng hợp theo sự xoay vòng có liên quan đến một nhân tố.
Phần có liên quan đến hai nhân tố nên được hướng dẫn y như thế.
[317] Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, và mục đích dược phẩm rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ...(như trên)...
Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần phân tích theo sự xoay vòng có liên quan đến hai nhân tố.
[318] Vị suy tưởng đến mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, và mục đích bố thí rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ...(như trên)... mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, và mục đích đùa giỡn, ...(như trên)...
Vị suy tưởng đến mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, và mục đích sức khoẻ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ...(như trên)...
Vị suy tưởng đến mục đích nghiên cứu, mục đích đùa giỡn, và mục đích sức khoẻ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ...(như trên)...
Vị suy tưởng đến mục đích nghiên cứu, mục đích đùa giỡn, và mục đích nòi giống rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần tổng hợp theo sự xoay vòng có liên quan đến hai nhân tố.
[319] Phần liên quan đến ba nhân tố, phần liên quan đến bốn nhân tố, phần liên quan đến năm nhân tố, phần liên quan đến sáu nhân tố, phần liên quan đến bảy nhân tố, phần liên quan đến tám nhân tố, phần liên quan đến chín nhân tố nên được thực hiện y như thế.
Đây là phần có liên quan đến tất cả các nhân tố.
[320] Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ và mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm và mục đích bố thí, mục đích phước thiện và mục đích tế lễ, mục đích cõi trời và mục đích nòi giống, mục đích nghiên cứu và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần có liên quan đến tất cả các nhân tố.
[321] Vị suy tưởng đến (tinh) màu xanh và (tinh) màu vàng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu xanh và (tinh) màu đỏ, ...(như trên)..., (tinh) màu xanh và (tinh) màu trắng, (tinh) màu xanh và (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu xanh và (tinh) màu nước, (tinh) màu xanh và (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu xanh và (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu xanh và (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu xanh và (tinh) màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần phân tích theo sự xoay vòng có liên quan đến một nhân tố.
[322] Vị suy tưởng đến (tinh) màu vàng và (tinh) màu đỏ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu vàng và (tinh) màu trắng, ...(như trên)..., (tinh) màu vàng và (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu vàng và (tinh) màu nước, (tinh) màu vàng và (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu vàng và (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu vàng và (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu vàng và (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu vàng và (tinh) màu xanh rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu đỏ và (tinh) màu trắng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu đỏ và (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu đỏ và (tinh) màu nước, (tinh) màu đỏ và (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu đỏ và (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu đỏ và (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu đỏ và (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu đỏ và (tinh) màu xanh, (tinh) màu đỏ và (tinh) màu vàng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu trắng và (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu trắng và (tinh) màu nước, (tinh) màu trắng và (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu trắng và (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu trắng và (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu trắng và (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu trắng và (tinh) màu xanh, (tinh) màu trắng và (tinh) màu vàng, (tinh) màu trắng và (tinh) màu đỏ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu sữa loãng và (tinh) màu nước, (tinh) màu sữa loãng và (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa loãng và (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu sữa loãng và (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu sữa loãng và (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu sữa loãng và (tinh) màu xanh, (tinh) màu sữa loãng và (tinh) màu vàng, (tinh) màu sữa loãng và (tinh) màu đỏ, (tinh) màu sữa loãng và (tinh) màu trắng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu nước và (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu nước và (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu nước và (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu nước và (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu nước và (tinh) màu xanh, (tinh) màu nước và (tinh) màu vàng, (tinh) màu nước và (tinh) màu đỏ, (tinh) màu nước và (tinh) màu trắng, (tinh) màu nước và (tinh) màu sữa loãng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu dầu ăn và (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu dầu ăn và (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu dầu ăn và (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu dầu ăn và (tinh) màu xanh, (tinh) màu dầu ăn và (tinh) màu vàng, (tinh) màu dầu ăn và (tinh) màu đỏ, (tinh) màu dầu ăn và (tinh) màu trắng, (tinh) màu dầu ăn và (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu dầu ăn và (tinh) màu nước rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu sữa tươi và (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu sữa tươi và (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu sữa tươi và (tinh) màu xanh, (tinh) màu sữa tươi và (tinh) màu vàng, (tinh) màu sữa tươi và (tinh) màu đỏ, (tinh) màu sữa tươi và (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa tươi và (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu sữa tươi và (tinh) màu nước, (tinh) màu sữa tươi và (tinh) màu dầu ăn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu sữa đông và (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu sữa đông và (tinh) màu xanh, (tinh) màu sữa đông và (tinh) màu vàng, (tinh) màu sữa đông và (tinh) màu đỏ, (tinh) màu sữa đông và (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa đông và (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu sữa đông và (tinh) màu nước, (tinh) màu sữa đông và (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa đông và (tinh) màu sữa tươi rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) màu xanh rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) màu vàng, (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) màu đỏ, (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) màu trắng, (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) màu nước, (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) màu sữa đông rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần tổng hợp theo sự xoay vòng có liên quan đến một nhân tố.
Phần có liên quan đến hai nhân tố nên được hướng dẫn y như thế.
[323] Vị suy tưởng đến (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, và (tinh) màu đỏ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, và (tinh) màu trắng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ...(như trên)...
Vị suy tưởng đến (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, và (tinh) màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần phân tích theo sự xoay vòng có liên quan đến hai nhân tố.
[324] Vị suy tưởng đến (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, và (tinh) màu trắng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ...(như trên)...
Vị suy tưởng đến (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, và (tinh) màu xanh rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ...(như trên)...
Vị suy tưởng đến (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng, và (tinh) màu xanh rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ...(như trên)...
Vị suy tưởng đến (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng, và (tinh) màu sữa tươi rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần tổng hợp theo sự xoay vòng có liên quan đến hai nhân tố.
[325] Phần liên quan đến ba nhân tố, phần liên quan đến bốn nhân tố, phần liên quan đến năm nhân tố, phần liên quan đến sáu nhân tố, phần liên quan đến bảy nhân tố, phần liên quan đến tám nhân tố, phần liên quan đến chín nhân tố nên được thực hiện y như thế.
Đây là phần có liên quan đến tất cả các nhân tố.
[326] Vị suy tưởng đến (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu sữa đông, và (tinh) màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần có liên quan đến tất cả các nhân tố.
[327] Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ và (tinh) màu xanh rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, (tinh) màu xanh, và (tinh) màu vàng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, và (tinh) màu đỏ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích bố thí, (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, và (tinh) màu trắng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích bố thí, mục đích phước thiện, (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, (tinh) màu trắng, và (tinh) màu sữa loãng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích bố thí, mục đích phước thiện, mục đích tế lễ, (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng, và (tinh) màu nước rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích bố thí, mục đích phước thiện, mục đích tế lễ, mục đích cõi trời, (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước, và (tinh) màu dầu ăn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích bố thí, mục đích phước thiện, mục đích tế lễ, mục đích cõi trời, mục đích nòi giống, (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn, và (tinh) màu sữa tươi rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích bố thí, mục đích phước thiện, mục đích tế lễ, mục đích cõi trời, mục đích nòi giống, mục đích nghiên cứu, (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi, và (tinh) màu sữa đông rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích bố thí, mục đích phước thiện, mục đích tế lễ, mục đích cõi trời, mục đích nòi giống, mục đích nghiên cứu, mục đích đùa giỡn, (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu sữa đông, và (tinh) màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần tổng hợp cả hai phần theo sự xoay vòng có tính chất trộn lẫn.
[328] Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu xanh” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu vàng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu xanh” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu đỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu xanh” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu trắng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu xanh” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu xanh” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu nước thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu xanh” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu xanh” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu xanh” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu sữa đông thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu xanh” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu bơ lỏng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần phân tích theo sự xoay vòng.
[329] Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu vàng” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu đỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu vàng” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu trắng ...(như trên)... làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng ... làm xuất ra (tinh) màu nước ... làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn ... làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi ... làm xuất ra (tinh) màu sữa đông ... làm xuất ra (tinh) màu bơ lỏng ... làm xuất ra (tinh) màu xanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần tổng hợp theo sự xoay vòng.
[330] Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu đỏ” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu trắng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu đỏ” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng ...(như trên)... làm xuất ra (tinh) màu nước ... làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn ... làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi ... làm xuất ra (tinh) màu sữa đông ... làm xuất ra (tinh) màu bơ lỏng ... làm xuất ra (tinh) màu xanh ... làm xuất ra (tinh) màu vàng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu trắng” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ...(như trên)... làm xuất ra (tinh) màu đỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). (Các sự xoay vòng nên được hiểu như thế).
Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu bơ lỏng” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu xanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu bơ lỏng” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu vàng ...(như trên)... làm xuất ra (tinh) màu đỏ ... làm xuất ra (tinh) màu trắng ... làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng ... làm xuất ra (tinh) màu nước ... làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn ... làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi ... làm xuất ra (tinh) màu sữa đông thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần xoay vòng ở giữa.
[331] Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu vàng” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu xanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu đỏ” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu xanh ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu trắng” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu xanh ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng”rồi gắng sứcvà làm xuất ra (tinh) màu xanh ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu nước” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu xanh ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) dầu ăn” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu xanh ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu xanh ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa đông” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu xanh ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu bơ lỏng” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu xanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt bước thứ nhất của sự xoay vòng nghịch.
[332] Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu đỏ” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu vàng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ... (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu xanh” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu vàng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt bước thứ nhì của sự xoay vòng nghịch.
[333] Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu trắng” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu đỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ... (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu xanh ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu vàng” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu đỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt bước thứ ba của sự xoay vòng nghịch.
[334] Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng”rồi gắng sứcvà làm xuất ra (tinh) màu trắng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ... (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu đỏ” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu trắng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt bước thứ bốn của sự xoay vòng nghịch.
[335] Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu nước”rồi gắng sứcvà làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ... (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu trắng” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt bước thứ năm của sự xoay vòng nghịch.
[336] Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn”rồi gắng sứcvà làm xuất ra (tinh) màu nước thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ... (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, (tinh) màu trắng ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu nước thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt bước thứ sáu của sự xoay vòng nghịch.
[337] Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi”rồi gắng sứcvà làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ... (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu nước” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt bước thứ bảy của sự xoay vòng nghịch.
[338] Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa đông”rồi gắng sứcvà làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ... (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt bước thứ tám của sự xoay vòng nghịch.
[339] Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu bơ lỏng”rồi gắng sứcvà làm xuất ra (tinh) màu sữa đông thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ... (tinh) màu xanh, (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu sữa đông thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt bước thứ chín của sự xoay vòng nghịch.
[340] Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu xanh”rồi gắng sứcvà làm xuất ra (tinh) màu bơ lỏng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ... (tinh) màu vàng, (tinh) màu đỏ, (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi ... Vị suy tưởng rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa đông” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu bơ lỏng thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt bước thứ mười của sự xoay vòng nghịch.
Dứt sự xoay vòng nghịch.
[343][5]Vị có ý định, gắng sức, bị xuất ra thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị có ý định, gắng sức, không bị xuất ra thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vị có ý định, không gắng sức, bị xuất ra thì vô tội.
Vị có ý định, không gắng sức, không bị xuất ra thì vô tội.
Vị không có ý định, gắng sức, bị xuất ra thì vô tội.
Vị không có ý định, gắng sức, không bị xuất ra thì vô tội.
Vị không có ý định, không gắng sức, bị xuất ra thì vô tội.
Vị không có ý định, không gắng sức, không bị xuất ra thì vô tội.
[344] Do chiêm bao, vị không có ý định làm cho xuất ra, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[345]
Giấc mơ, đại, tiểu tiện,
suy tầm, và nước nóng,
thuốc thoa, bị cơn ngứa,
đường đi, bao tinh hoàn,
nhà tắm hơi, bắp vế,
sa di, và vị ngủ,
bắp vế, tay bóp chặt,
ở khoảng trống, gồng mình,
vị suy tưởng, lỗ khoá,
vị vỗ bằng thanh gỗ,
giòng nước chảy, đầm nước,
rửa ráy, đống bông hoa,
hương lạc, trong cát, bùn,
rưới nước, ở chỗ nằm,
và dùng ngón tay cái.
[346] Vào lúc bấy giờ, tinh dịch của vị tỳ khưu nọ đã bị xuất ra do giấc mơ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng)?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, do giấc mơ thì vô tội.
[347] Vào lúc bấy giờ, tinh dịch của vị tỳ khưu nọ đã bị xuất ra trong lúc đại tiện. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng)?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không có ý định làm xuất ra.
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
[348] Vào lúc bấy giờ, tinh dịch của vị tỳ khưu nọ đã bị xuất ra trong lúc tiểu tiện. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
[349] Vào lúc bấy giờ, tinh dịch của vị tỳ khưu nọ đã bị xuất ra trong lúc (vị ấy) suy tư tầm cầu về dục. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị trong lúc suy tư tầm cầu về dục thì vô tội.
[350] Vào lúc bấy giờ, tinh dịch của vị tỳ khưu nọ đã bị xuất ra trong lúc (vị ấy) tắm bằng nước nóng. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không có ý định làm xuất ra.
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc tắm bằng nước nóng có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc tắm bằng nước nóng có ý định làm xuất ra nhưng tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[351] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị vết thương ở dương vật. Trong lúc vị ấy thoa thuốc, tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng)?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không có ý định làm xuất ra.
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị vết thương ở dương vật. Vị ấy trong lúc thoa thuốc có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[352] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc (gãi) ngứa ở tinh hoàn, tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc (gãi) ngứa ở tinh hoàn có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[353] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đi đường tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đi đường có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[354] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc tiểu tiện đã nắm lấy bao tinh hoàn và tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc tiểu tiện đã nắm lấy bao tinh hoàn có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[355] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc hơ nóng vùng bụng ở trong nhà tắm hơi, tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc hơ nóng vùng bụng ở trong nhà tắm hơi có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[356] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc kỳ cọ phần lưng của thầy tế độ ở trong nhà tắm hơi, tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc kỳ cọ phần lưng của thầy tế độ ở trong nhà tắm hơi có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[357] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc cho người xoa bóp bắp vế, tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc cho người xoa bóp bắp vế có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[358] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định làm xuất ra đã nói với vị sa di nọ điều này:
- Này sa di, hãy đến. Ngươi hãy nắm lấy dương vật của ta.
Vị sa di đã nắm lấy dương vật của vị ấy. Tinh dịch của vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[359] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nắm lấy dương vật của vị sa di đang ngủ. Tinh dịch của vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[360] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc dùng hai bắp vế ép chặt lấy dương vật, tinh dịch của vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc dùng hai bắp vế ép chặt lấy dương vật có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[361] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc dùng nắm tay bóp chặt lấy dương vật, tinh dịch của vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc dùng nắm tay bóp chặt lấy dương vật có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[362] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong khi lắc hông ở khoảng trống có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[363] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc gồng cứng cơ thể, tinh dịch của vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc gồng cứng cơ thể có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[364] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị dục khởi đã suy tưởng về âm vật của người nữ. Tinh dịch của vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). Và này các tỳ khưu, vị bị dục khởi không nên suy tưởng về âm vật của người nữ; vị nào suy tưởng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[365] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đưa dương vật vào lỗ khoá có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[366] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc dùng thanh gỗ cọ xát vào dương vật có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[367] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc tắm ở giòng nước chảy ngược (paṭisote), tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc tắm ở giòng nước chảy ngược có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[368] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đùa nghịch ở đầm nước (udañjale), tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đùa nghịch ở đầm nước có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[369] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc chạy ở trong nước (udake), tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc chạy ở trong nước có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[370] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đùa nghịch ở nơi đống bông hoa (pupphāvaḷiyaṃ), tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đùa nghịch ở nơi đống bông hoa có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[371] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc chạy trong rừng cây hương lạc (pokkharavane), tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc chạy ở trong rừng cây hương lạc có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[372] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đưa dương vật vào trong cát có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[373] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đưa dương vật vào trong bùn có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[374] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc dùng nước rưới lên dương vật, tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc dùng nước rưới lên dương vật có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[375] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc cọ xát dương vật ở chỗ nằm có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[376] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc dùng ngón tay cái cọ xát vào dương vật có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng)?” Vị ấy đã trình lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc dùng ngón tay cái cọ xát vào dương vật có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng)?” Vị ấy đã trình lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Dứt điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ nhất.
*******
[423] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi là vị thường tới lui với các gia đình và đi đến nhiều gia đình ở thành Sāvatthi. Tại nơi nào vị ấy nhìn thấy thanh niên chưa vợ hoặc thanh nữ chưa chồng thì vị ấy nói lời khen ngợi về cô con gái trước mặt cha mẹ của người con trai rằng:
- Cô con gái của gia đình kia là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái, có học thức, khôn ngoan, thông minh, giỏi giang, siêng năng. Cô gái ấy thì xứng đôi với người con trai này.
Các người ấy nói như vầy:
- Thưa ngài, những người này không biết chúng tôi: “Những người này là ai hoặc là (con cháu) của ai?” Thưa ngài, nếu ngài có thể bảo họ cho cưới thì chúng tôi có thể cho người rước cô con gái ấy về cho người con trai này.
Rồi vị ấy nói lời khen ngợi về cậu con trai trước mặt cha mẹ của người con gái rằng:
- Cậu con trai của gia đình kia là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái, có học thức, khôn ngoan, thông minh, giỏi giang, siêng năng. Cậu trai ấy thì xứng đôi với người con gái này.
Các người ấy nói như vầy:
- Thưa ngài, những người này không biết chúng tôi: “Những người này là ai hoặc là (con cháu) của ai?” Thật xấu hổ khi rêu rao về con gái! Thưa ngài, nếu ngài có thể bảo họ xin cưới thì chúng tôi có thể gả cô con gái này cho người con trai ấy.
Bằng chính phương thức ấy, vị ấy cho người thực hiện các đoàn đi rước dâu, cho người thực hiện các đoàn đi đưa dâu, và cho người tiến hành các vụ cưới hỏi.
[424] Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ trước đây (chồng) làm nghề thầy bói có cô con gái đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Các đệ tử đạo lõa thể ở ngôi làng khác đã đi đến và nói với bà vợ người thầy bói ấy rằng:
- Thưa bà, hãy gả cô con gái này cho con trai của chúng tôi.
Bà ấy đã nói như vầy:
- Thưa các ông, quả thật tôi không biết các ông: “Những người này là ai hoặc là (con cháu) của ai?” Và đây là đứa con gái duy nhất của tôi, không thể đi đến ngôi làng khác. Tôi sẽ không gả.
Dân chúng đã nói với các đệ tử đạo lõa thể ấy điều này:
- Thưa các ông, vì sao các ông đã đi đến?
- Thưa các ông, ở đây chúng tôi đã xin bà vợ người thầy bói kia gả cô con gái cho người con trai của chúng tôi, bà ta đã nói như vầy: “Thưa các ông, quả thật tôi không biết các ông: ‘Những người này là ai hoặc là (con cháu) của ai?’Và đây là đứa con gái duy nhất của tôi, không thể đi đến ngôi làng khác. Tôi sẽ không gả.”
- Thưa các ông, vì sao các ông lại xin bà vợ người thầy bói ấy gả cô con gái? Sao không nói với ngài đại đức Udāyi, ngài đại đức Udāyi sẽ bảo người ta gả cho?
Khi ấy, các đệ tử đạo lõa thể ấy đã đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Thưa ngài, ở đây chúng tôi đã xin bà vợ người thầy bói kia gả cô con gái cho người con trai của chúng tôi, bà ta đã nói như vầy: “Thưa các ông, quả thật tôi không biết các ông: ‘Những người này là ai hoặc là (con cháu) của ai?’Và đây là đứa con gái duy nhất của tôi, không thể đi đến ngôi làng khác. Tôi sẽ không gả.” Thưa ngài, tốt thay ngài đại đức hãy bảo bà vợ người thầy bói ấy gả cô con gái cho người con trai của chúng tôi.
Sau đó, đại đức Udāyi đã đi đến gặp bà vợ người thầy bói ấy, sau khi đến đã nói với bà vợ người thầy bói ấy điều này:
- Sao bà lại không gả cô con gái cho những người này?
- Thưa ngài đại đức, quả thật tôi không biết các người này: “Những người này là ai hoặc là (con cháu) của ai?” Và đây là đứa con gái duy nhất của tôi, không thể đi đến ngôi làng khác. Tôi sẽ không gả.
- Hãy gả cho những người này. Tôi biết những người này.
- Thưa ngài, nếu ngài đại đức biết thì tôi sẽ gả.
Sau đó, bà vợ người thầy bói ấy đã gả cô con gái cho các người đệ tử ngoại đạo ấy. Khi ấy, các người đệ tử ngoại đạo ấy đã dẫn người con gái ấy đi và đã đối xử như là con dâu chỉ trong một tháng rồi từ đó về sau sử dụng như là đứa tớ gái.
[425] Sau đó, cô con gái ấy đã phái người đưa tin đi đến gặp người mẹ (nhắn rằng):
- Vì bị đọa đày nên con phải chịu khổ sở, không được yên ổn. Họ đã đối xử con như là con dâu chỉ trong một tháng rồi từ đó về sau sử dụng như là đứa tớ gái. Mẹ của con hãy đến và hãy dẫn con đi.
Khi ấy, bà vợ người thầy bói ấy đã đi đến gặp các người đệ tử ngoại đạo ấy, sau khi đến đã nói với các người đệ tử ngoại đạo ấy điều này:
- Thưa các ông, chớ có sử dụng người con gái này như là đứa tớ gái, hãy đối xử người con gái này như là con dâu vậy.
Các người ấy đã nói như vầy:
- Chúng tôi không có cưới hỏi gì với bà; chúng tôi chỉ có cưới hỏi với vị sa-môn thôi. Bà hãy đi đi, chúng tôi không biết bà.
Khi ấy, bà vợ người thầy bói ấy bị trách mắng bởi những người đệ tử ngoại đạo ấy nên đã quay trở về lại thành Sāvatthi.
Đến lần thứ nhì, cô con gái ấy đã phái người đưa tin đi đến gặp người mẹ (nhắn rằng):
- Vì bị đọa đày nên con phải chịu khổ sở, không được yên ổn. Họ đã đối xử con như là con dâu chỉ trong một tháng rồi từ đó về sau sử dụng như là đứa tớ gái. Mẹ của con hãy đến và hãy dẫn con đi.
Khi ấy, bà vợ người thầy bói ấy đã đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Thưa ngài, nghe nói người con gái ấy bị đọa đày, phải chịu khổ sở, không được yên ổn. Họ đã đối xử cô ấy như là con dâu chỉ trong một tháng rồi từ đó về sau sử dụng như là đứa tớ gái. Thưa ngài, ngài nên nói rằng: “Này các ông, chớ có sử dụng người con gái này như là đứa tớ gái, hãy đối xử người con gái này như là con dâu vậy.”
Sau đó, đại đức Udāyi đã đi đến gặp các người đệ tử ngoại đạo ấy, sau khi đến đã nói với các người đệ tử ngoại đạo ấy điều này:
- Này các ông, chớ có sử dụng người con gái này như là đứa tớ gái, hãy đối xử người con gái này như là con dâu vậy.
Các người ấy đã nói như vầy:
- Chúng tôi không có cưới hỏi gì với ngài; chúng tôi chỉ có cưới hỏi với bà vợ người thầy bói thôi. Vị sa-môn không nên can thiệp vào. Là sa-môn thì nên là vị sa-môn tốt. Ngài hãy đi đi, chúng tôi không biết ngài.
Khi ấy, đại đức Udāyi bị trách mắng bởi những người đệ tử ngoại đạo ấy nên đã quay trở về lại thành Sāvatthi.
Đến lần thứ ba, cô con gái ấy đã phái người đưa tin đi đến gặp người mẹ (nhắn rằng):
- Vì bị đọa đày nên con phải chịu khổ sở, không được yên ổn. Họ đã đối xử con như là con dâu chỉ trong một tháng rồi từ đó về sau sử dụng như là đứa tớ gái. Mẹ của con hãy đến và hãy dẫn con đi.
Đến lần thứ nhì, bà vợ người thầy bói ấy đã đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Thưa ngài, nghe nói người con gái ấy bị đọa đày, phải chịu khổ sở, không được yên ổn. Họ đã đối xử cô ấy như là con dâu chỉ trong một tháng rồi từ đó về sau sử dụng như là đứa tớ gái. Thưa ngài, ngài nên nói rằng: “Này các ông, chớ có sử dụng người con gái này như là đứa tớ gái, hãy đối xử người con gái này như là con dâu vậy.”
- Lần trước, tôi đã bị những người đệ tử ngoại đạo ấy trách mắng. Bà hãy đi đi, tôi sẽ không đi.
[426] Khi ấy, bà vợ người thầy bói ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Ngài đại đức Udāyi hãy bị đọa đày như vầy! Ngài đại đức Udāyi hãy bị khổ sở như vầy! Ngài đại đức Udāyi chớ được yên ổn như vầy, giống như người con gái của tôi đã bị đọa đày, phải chịu khổ sở, không được yên ổn với bà gia ác độc, với ông gia ác độc, với người chồng ác độc.
Và người con gái ấy cũng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Ngài đại đức Udāyi hãy bị đọa đày như vầy! Ngài đại đức Udāyi hãy bị khổ sở như vầy! Ngài đại đức Udāyi chớ được yên ổn như vầy, giống như tôi đã bị đọa đày, phải chịu khổ sở, không được yên ổn với bà gia ác độc, với ông gia ác độc, với người chồng ác độc.
Những người đàn bà khác không được thuận thảo với các bà gia, hoặc với các ông gia, hoặc với những người chồng, những người ấy nguyền rủa như vầy:
- Ngài đại đức Udāyi hãy bị đọa đày như vầy! Ngài đại đức Udāyi hãy bị khổ sở như vầy! Ngài đại đức Udāyi chớ được yên ổn như vầy, giống như chúng tôi đã bị đọa đày, phải chịu khổ sở, không được yên ổn với các bà gia ác độc, với các ông gia ác độc, với những người chồng ác độc.
Trái lại, những người đàn bà nào được thuận thảo với các bà gia, hoặc với các ông gia, hoặc với những người chồng, những người ấy cầu khẩn như vầy:
- Ngài đại đức Udāyi hãy được yên ổn như vầy! Ngài đại đức Udāyi hãy được chiều chuộng như vầy! Ngài đại đức Udāyi hãy đạt được sự an lạc như vầy, giống như chúng tôi được yên ổn, được chiều chuộng, và đạt được sự an lạc với các bà gia hiền hậu, với các ông gia hiền hậu, với những người chồng hiền hậu.
[427] Các tỳ khưu đã nghe được một số người đàn bà thì đang nguyền rủa, một số người đàn bà thì đang cầu khẩn. Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại tiến hành việc mai mối?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi đại đức Udāyi rằng:
- Này Udāyi, nghe nói ngươi tiến hành việc mai mối, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại tiến hành việc mai mối vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tiến hành việc mai mối ý định của người nam đến người nữ, hoặc ý định của người nữ đến người nam trong việc trở thành vợ chồng, hoặc trong việc trở thành nhân tình, thì tội saṅghādisesa (tăng tàng).”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[438] Vào lúc bấy giờ, có nhiều kẻ vô lại trong khi dạo chơi ở vườn hoa đã phái người đưa tin đi đến gặp cô gái điếm nọ (nói rằng):
- Hãy đi đến, chúng ta sẽ dạo chơi ở vườn hoa.
Cô ấy đã nói như vầy:
- Thưa các ông, quả thật tôi không biết các ông: “Những người này là ai hoặc là (con cháu) của ai?” Vả lại, tôi có nhiều đồ đạc, có nhiều vật dụng, và ngoại thành là không nên đi. Tôi sẽ không đi.
Sau đó, người đưa tin ấy đã kể lại sự việc ấy cho những kẻ vô lại ấy. Khi được nói như thế, có người đàn ông nọ đã nói với những kẻ vô lại ấy điều này:
- Này các ông, tại sao các ông lại phải nài nỉ cô gái điếm ấy? Sao không nói với ngài đại đức Udāyi, ngài đại đức Udāyi sẽ bảo người ta ưng thuận?
Khi được nói như thế, có nam cư sĩ nọ đã nói với người đàn ông ấy điều này:
- Thưa ông, chớ có nói như thế. Các sa-môn Thích tử không được phép làm việc như thế. Ngài đại đức Udāyi sẽ không làm việc như thế đâu.
Khi được nói như thế, họ đã đánh cá với nhau: “Vị ấy sẽ làm! Vị ấy sẽ không làm!”
Sau đó, những kẻ vô lại ấy đã đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Thưa ngài, trường hợp chúng tôi khi đang đi dạo chơi ở vườn hoa đã phái người đưa tin đi đến gặp cô gái điếm kia (nói rằng): “Hãy đi đến, chúng ta sẽ dạo chơi ở vườn hoa.” Cô ấy đã nói như vầy: “Thưa các ông, quả thật tôi không biết các ông: ‘Những người này là ai hoặc là (con cháu) của ai?’Vả lại, tôi có nhiều đồ đạc, có nhiều vật dụng, và ngoại thành là không nên đi. Tôi sẽ không đi.” Thưa ngài, tốt thay xin ngài đại đức hãy bảo cô gái điếm ấy ưng thuận.
Khi ấy, đại đức Udāyi đã đi đến gặp cô gái điếm ấy, sau khi đến đã nói với cô gái điếm ấy điều này:
- Vì sao cô không đi cho những người này?
- Thưa ngài đại đức, quả thật tôi không biết những người này: “Những người này là ai hoặc là (con cháu) của ai?” Vả lại, tôi có nhiều đồ đạc, có nhiều vật dụng, và ngoại thành là không nên đi. Tôi sẽ không đi.
- Cô hãy đi cho những người này đi. Tôi biết những người này.
- Thưa ngài, nếu ngài đại đức biết thì tôi sẽ đi.
Sau đó, những kẻ vô lại ấy đã dắt cô gái điếm ấy đi đến vườn hoa. Khi ấy, nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao ngài đại đức Udāyi lại tiến hành việc mai mối cho cuộc tình trong chốt lát?
Các tỳ khưu đã nghe được nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại tiến hành việc mai mối cho cuộc tình trong chốt lát?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi đại đức Udāyi rằng:
- Này Udāyi, nghe nói ngươi tiến hành việc mai mối cho cuộc tình trong chốt lát, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, ...(như trên)... Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại tiến hành việc mai mối cho cuộc tình trong chốt lát vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tiến hành việc mai mối hoặc là ý định của người nam đến người nữ, hoặc là ý định của người nữ đến người nam trong việc trở thành vợ chồng, hoặc trong việc trở thành nhân tình, thậm chí chỉ là cuộc tình trong chốt lát thì tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[429] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Tiến hành việc mai mối: Hoặc là đi đến gặp người nam do người nữ phái đi, hoặc là đi đến gặp người nữ do người nam phái đi.
Hoặc là ý định của người nam đến người nữ: Hoặc là thông báo ý định của người nam đến người nữ.
Hoặc là ý định của người nữ đến người nam: Hoặc là thông báo ý định của người nữ đến người nam.
Hoặc trong việc trở thành vợ chồng: Cô sẽ trở thành người vợ.
Hoặc trong việc trở thành nhân tình: Cô sẽ trở thành nhân tình.
Cho dầu chỉ là cuộc tình trong chốt lát: Cô sẽ là người vợ trong chốt lát.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[430] Có mười hạng người nữ: hạng được mẹ bảo hộ, hạng được cha bảo hộ, hạng được cha mẹ bảo hộ, hạng được anh (em) trai bảo hộ, hạng được chị (em) gái bảo hộ, hạng được thân quyến bảo hộ, hạng được dòng họ bảo hộ, hạng được luân lý bảo hộ, hạng có sự gìn giữ, hạng bị quy định hình phạt.
[431] Có mười hạng vợ: hạng được mua bằng của cải, hạng sống chung do sự tự nguyện, hạng sống chung vì tài vật, hạng sống chung vì y phục, hạng được cưới theo nghi thức,[3]hạng có vật lót ở đầu được đặt xuống, hạng nữ tỳ là vợ, hạng người làm công là vợ, hạng được đem lại dưới lá cờ, hạng chỉ trong chốt lát.
[432] Hạng được mẹ bảo hộ (māturakkhitā) nghĩa là có mẹ bảo hộ,[4]canh giữ,[5]thể hiện sự lãnh đạo,[6]vận hành sự quản lý.[7]
Hạng được cha bảo hộ (piturakkhitā) nghĩa là có cha bảo hộ, canh giữ, thể hiện sự lãnh đạo, vận hành sự quản lý.
Hạng được mẹ cha bảo hộ (mātāpiturakkhitā) nghĩa là có mẹ cha bảo hộ, canh giữ, thể hiện sự lãnh đạo, vận hành sự quản lý.
Hạng được anh (em) trai bảo hộ (bhāturakkhitā) nghĩa là có anh (em) trai bảo hộ, canh giữ, thể hiện sự lãnh đạo, vận hành sự quản lý.
Hạng được chị (em) gái bảo hộ (bhaginīrakkhitā) nghĩa là có chị (em) gái bảo hộ, canh giữ, thể hiện sự lãnh đạo, vận hành sự quản lý.
Hạng được thân quyến bảo hộ (ñātirakkhitā) nghĩa là có thân quyến bảo hộ, canh giữ, thể hiện sự lãnh đạo, vận hành sự quản lý.
Hạng được dòng họ bảo hộ (gottarakkhitā) nghĩa là có dòng họ bảo hộ, canh giữ, thể hiện sự lãnh đạo, vận hành sự quản lý.
Hạng được luân lý bảo hộ (dhammarakkhitā) nghĩa là có các đồng đạo bảo hộ, canh giữ, thể hiện sự lãnh đạo, vận hành sự quản lý.
Hạng có sự gìn giữ (sārakkhā) nghĩa là được giữ lại ngay ở trong phòng: “Cô ấy là của ta;” thậm chí còn được đặt quanh bằng các bó hoa.[8]
Hạng bị quy định hình phạt (saparidaṇḍā) nghĩa là có người nào đó quy định hình phạt rằng: “Ai đến với người đàn bà tên như vầy phải chịu phạt tới mức này.”
[433] Hạng được mua bằng của cải (dhanakkītā) nghĩa là sau khi mua bằng của cải, (người đàn ông) giữ (nàng) sống chung (như là vợ).
Hạng sống chung do sự tự nguyện (chandavāsinī) nghĩa là người yêu giữ người yêu sống chung.
Hạng sống chung vì tài vật (bhogavāsinī) nghĩa là sau khi biếu xén tài vật, (người đàn ông) giữ (nàng) sống chung (như là vợ).
Hạng sống chung vì y phục (paṭavāsinī) nghĩa là sau khi biếu xén y phục, (người đàn ông) giữ (nàng) sống chung (như là vợ).[9]
Hạng được cưới theo nghi thức (odapattakinī) nghĩa là nghĩa là sau khi chạm vào bát nước, (người đàn ông) giữ (nàng) sống chung (như là vợ).[10]
Hạng có vật lót ở đầu được đặt xuống (obhatacumbaṭā) nghĩa là sau khi lấy xuống tấm đệm lót ở đầu (để mang vác), (người đàn ông) giữ (nàng) sống chung (như là vợ).[11]
Hạng nữ tỳ (dāsī ca bhariyā ca) nghĩa là vừa là nữ tỳ vừa là vợ.
Hạng người làm công (kammakārī ca bhariyā ca) nghĩa là vừa là người làm công vừa là vợ.[12]
Hạng được đem lại dưới lá cờ (dhajāhaṭā) nghĩa là (nàng) được đem lại như là tù binh.[13]
Hạng chỉ trong chốt lát (muhuttikā) nghĩa là đề cập đến cuộc tình chỉ trong chốc lát.
[434] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Nghe nói cô hãy là người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được cha bảo hộ tên như vầy nói rằng: ...(như trên)... người nữ được mẹ cha bảo hộ nói rằng ... người nữ được anh (em) trai bảo hộ nói rằng ... người nữ được chị (em) gái bảo hộ nói rằng ... người nữ được thân quyến bảo hộ nói rằng ... người nữ được dòng họ bảo hộ nói rằng ... người nữ được luân lý bảo hộ nói rằng ... người nữ có sự gìn giữ nói rằng ... người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Nghe nói cô hãy là người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Các phần tóm lược.
[435] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được cha bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được mẹ cha bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ...(như trên)... người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được anh (em) trai bảo hộ ... người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được chị (em) gái bảo hộ ... người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được thân quyến bảo hộ ... người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được dòng họ bảo hộ ... người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được luân lý bảo hộ ... người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ có sự gìn giữ ... người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần phân tích theo sự xoay vòng.
[436] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được cha bảo hộ và người nữ được mẹ cha bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được cha bảo hộ và người nữ được anh (em) trai bảo hộ ... người nữ được cha bảo hộ và người nữ được chị (em) gái bảo hộ ... người nữ được cha bảo hộ và người nữ được thân quyến bảo hộ ... người nữ được cha bảo hộ và người nữ được dòng họ bảo hộ ... người nữ được cha bảo hộ và người nữ được luân lý bảo hộ ... người nữ được cha bảo hộ và người nữ có sự gìn giữ ... người nữ được cha bảo hộ và người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được cha bảo hộ và người nữ được mẹ bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng.
[437] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ cha bảo hộ và người nữ được anh (em) trai bảo hộ ... người nữ được mẹ cha bảo hộ và người nữ được chị (em) gái bảo hộ ... người nữ được mẹ cha bảo hộ và người nữ được thân quyến bảo hộ ... người nữ được mẹ cha bảo hộ và người nữ được dòng họ bảo hộ ... người nữ được mẹ cha bảo hộ và người nữ được luân lý bảo hộ ... người nữ được mẹ cha bảo hộ và người nữ có sự gìn giữ ... người nữ được mẹ cha bảo hộ và người nữ bị quy định hình phạt ... người nữ được mẹ cha bảo hộ và người nữ được mẹ bảo hộ ... người nữ được mẹ cha bảo hộ và người nữ được cha bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng thứ nhì.
[438] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được anh (em) trai bảo hộ và người nữ được chị (em) gái bảo hộ ... người nữ được anh (em) trai bảo hộ và người nữ được thân quyến bảo hộ ... người nữ được anh (em) trai bảo hộ và người nữ được dòng họ bảo hộ ... người nữ được anh (em) trai bảo hộ và người nữ được luân lý bảo hộ ... người nữ được anh (em) trai bảo hộ và người nữ có sự gìn giữ ... người nữ được anh (em) trai bảo hộ và người nữ bị quy định hình phạt ... người nữ được anh (em) trai bảo hộ và người nữ được mẹ bảo hộ ... người nữ được anh (em) trai bảo hộ và người nữ được cha bảo hộ ... người nữ được anh (em) trai bảo hộ và người nữ được mẹ cha bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng thứ ba.
[439] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được chị (em) gái bảo hộ và người nữ được thân quyến bảo hộ ... người nữ được chị (em) gái bảo hộ và người nữ được dòng họ bảo hộ ... người nữ được chị (em) gái bảo hộ và người nữ được luân lý bảo hộ ... người nữ được chị (em) gái bảo hộ và người nữ có sự gìn giữ ... người nữ được chị (em) gái bảo hộ và người nữ bị quy định hình phạt ... người nữ được chị (em) gái bảo hộ và người nữ được mẹ bảo hộ ... người nữ được chị (em) gái bảo hộ và người nữ được cha bảo hộ ... người nữ được chị (em) gái bảo hộ và người nữ được mẹ cha bảo hộ ... người nữ được chị (em) gái bảo hộ và người nữ được anh (em) trai bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng thứ tư.
[440] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được thân quyến bảo hộ và người nữ được dòng họ bảo hộ ... người nữ được thân quyến bảo hộ và người nữ được luân lý bảo hộ ... người nữ được thân quyến bảo hộ và người nữ có sự gìn giữ ... người nữ được thân quyến bảo hộ và người nữ bị quy định hình phạt ... người nữ được thân quyến bảo hộ và người nữ được mẹ bảo hộ ... người nữ được thân quyến bảo hộ và người nữ được cha bảo hộ ... người nữ được thân quyến bảo hộ và người nữ được mẹ cha bảo hộ ... người nữ được thân quyến bảo hộ và người nữ được anh (em) trai bảo hộ ... người nữ được thân quyến bảo hộ và người nữ được chị (em) gái bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng thứ năm.
[441] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được dòng họ bảo hộ và người nữ được luân lý bảo hộ ... người nữ được dòng họ bảo hộ và người nữ có sự gìn giữ ... người nữ được dòng họ bảo hộ và người nữ bị quy định hình phạt ... người nữ được dòng họ bảo hộ và người nữ được mẹ bảo hộ ... người nữ được dòng họ bảo hộ và người nữ được cha bảo hộ ... người nữ được dòng họ bảo hộ và người nữ được mẹ cha bảo hộ ... người nữ được dòng họ bảo hộ và người nữ được anh (em) trai bảo hộ ... người nữ được dòng họ bảo hộ và người nữ được chị (em) gái bảo hộ ... người nữ được dòng họ bảo hộ và người nữ được thân quyến bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng thứ sáu.
[442] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được luân lý bảo hộ và người nữ có sự gìn giữ ... người nữ được luân lý bảo hộ và người nữ bị quy định hình phạt ... người nữ được luân lý bảo hộ và người nữ được mẹ bảo hộ ... người nữ được luân lý bảo hộ và người nữ được cha bảo hộ ... người nữ được luân lý bảo hộ và người nữ được mẹ cha bảo hộ ... người nữ được luân lý bảo hộ và người nữ được anh (em) trai bảo hộ ... người nữ được luân lý bảo hộ và người nữ được chị (em) gái bảo hộ ... người nữ được luân lý bảo hộ và người nữ được thân quyến bảo hộ ... người nữ được luân lý bảo hộ và người nữ được dòng họ bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng thứ bảy.
[443] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ có sự gìn giữ và người nữ bị quy định hình phạt ... người nữ có sự gìn giữ và người nữ được mẹ bảo hộ ... người nữ có sự gìn giữ và người nữ được cha bảo hộ ... người nữ có sự gìn giữ và người nữ được mẹ cha bảo hộ ... người nữ có sự gìn giữ và người nữ được anh (em) trai bảo hộ ... người nữ có sự gìn giữ và người nữ được chị (em) gái bảo hộ ... người nữ có sự gìn giữ và người nữ được thân quyến bảo hộ ... người nữ có sự gìn giữ và người nữ được dòng họ bảo hộ ... người nữ có sự gìn giữ và người nữ được luân lý bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng thứ tám.
[444] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được mẹ bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được cha bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được mẹ cha bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được anh (em) trai bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được chị (em) gái bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được thân quyến bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được dòng họ bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được luân lý bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ có sự gìn giữ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng thứ chín.
Dứt phần liên quan đến một nhân tố.
[445] Phần liên quan đến hai nhân tố, phần liên quan đến ba nhân tố, phần liên quan đến bốn nhân tố, phần liên quan đến năm nhân tố, phần liên quan đến sáu nhân tố, phần liên quan đến bảy nhân tố, phần liên quan đến tám nhân tố, phần liên quan đến chín nhân tố nên được thực hiện y như thế.
Đây là phần có liên quan đến mười nhân tố.
[446] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ, người nữ được cha bảo hộ, người nữ được mẹ cha bảo hộ, người nữ được anh (em) trai bảo hộ, người nữ được chị (em) gái bảo hộ, người nữ được thân quyến bảo hộ, người nữ được dòng họ bảo hộ, người nữ được luân lý bảo hộ, người nữ có sự gìn giữ, và người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt sự xoay vòng của “Hạng được mua bằng của cải.”
[447] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) được mua bằng của cải, (hạng) sống chung do sự tự nguyện, (hạng) sống chung vì tài vật, (hạng) sống chung vì y phục, (hạng) được cưới theo nghi thức, (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống, (hạng) nữ tỳ là vợ, (hạng) người làm công là vợ, (hạng) được đem lại dưới lá cờ, (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ...(như trên)...
Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được cha bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ...(như trên)... người nữ được mẹ cha bảo hộ nói rằng ... người nữ được anh (em) trai bảo hộ nói rằng ... người nữ được chị (em) gái bảo hộ nói rằng ... người nữ được thân quyến bảo hộ nói rằng ... người nữ được dòng họ bảo hộ nói rằng ... người nữ được luân lý bảo hộ nói rằng ... người nữ có sự gìn giữ nói rằng ... người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Các phần tóm lược.
[448] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được cha bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được mẹ cha bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ...(như trên)... người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được anh (em) trai bảo hộ ... người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được chị (em) gái bảo hộ ... người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được thân quyến bảo hộ ... người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được dòng họ bảo hộ ... người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được luân lý bảo hộ ... người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ có sự gìn giữ ... người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần phân tích theo sự xoay vòng.
[449] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được cha bảo hộ và người nữ được mẹ cha bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được cha bảo hộ và người nữ được anh (em) trai bảo hộ ... người nữ được cha bảo hộ và người nữ được chị (em) gái bảo hộ ... người nữ được cha bảo hộ và người nữ được thân quyến bảo hộ ... người nữ được cha bảo hộ và người nữ được dòng họ bảo hộ ... người nữ được cha bảo hộ và người nữ được luân lý bảo hộ ... người nữ được cha bảo hộ và người nữ có sự gìn giữ ... người nữ được cha bảo hộ và người nữ bị quy định hình phạt ... người nữ được cha bảo hộ và người nữ được mẹ bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng.
Phần nhân tố được tóm tắt.
[450] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được mẹ bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được cha bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được mẹ cha bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được anh (em) trai bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được chị (em) gái bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được thân quyến bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được dòng họ bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ được luân lý bảo hộ ... người nữ bị quy định hình phạt và người nữ có sự gìn giữ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần liên quan đến một nhân tố.
[451] Phần liên quan đến hai nhân tố, phần liên quan đến ba nhân tố, phần liên quan đến bốn nhân tố, phần liên quan đến năm nhân tố, phần liên quan đến sáu nhân tố, phần liên quan đến bảy nhân tố, phần liên quan đến tám nhân tố, phần liên quan đến chín nhân tố nên được thực hiện y như thế.
Đây là phần có liên quan đến mười nhân tố.
[452] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ, người nữ được cha bảo hộ, người nữ được mẹ cha bảo hộ, người nữ được anh (em) trai bảo hộ, người nữ được chị (em) gái bảo hộ, người nữ được thân quyến bảo hộ, người nữ được dòng họ bảo hộ, người nữ được luân lý bảo hộ, người nữ có sự gìn giữ, và người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt sự xoay vòng của “Hạng chỉ trong chốt lát.”
[453] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). ...(như trên)...
Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) sống chung do sự tự nguyện, (hạng) sống chung vì tài vật, (hạng) sống chung vì y phục, (hạng) được cưới theo nghi thức, (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống, (hạng) nữ tỳ là vợ, (hạng) người làm công là vợ, (hạng) được đem lại dưới lá cờ, (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Các phần tóm lược.
[454] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) sống chung do sự tự nguyện của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) sống chung vì tài vật ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) sống chung vì y phục ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) được cưới theo nghi thức ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) nữ tỳ là vợ ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) người làm công là vợ ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) được đem lại dưới lá cờ ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần phân tích theo sự xoay vòng.
[455] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) sống chung vì tài vật ...(như trên)... (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) chỉ trong chốt lát ... (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng.
Phần nhân tố được tóm tắt.
[456] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) chỉ trong chốt lát và (hạng) được mua bằng của cải ... (hạng) chỉ trong chốt lát và (hạng) sống chung do sự tự nguyện ... (hạng) chỉ trong chốt lát và (hạng) được đem lại dưới lá cờ của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần liên quan đến một nhân tố.
[457] Phần liên quan đến hai nhân tố, phần liên quan đến ba nhân tố, phần liên quan đến bốn nhân tố, phần liên quan đến năm nhân tố, phần liên quan đến sáu nhân tố, phần liên quan đến bảy nhân tố, phần liên quan đến tám nhân tố, phần liên quan đến chín nhân tố nên được thực hiện y như thế.
Đây là phần có liên quan đến mười nhân tố.
[458] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) được mua bằng của cải, (hạng) sống chung do sự tự nguyện, (hạng) sống chung vì tài vật, (hạng) sống chung vì y phục, (hạng) được cưới theo nghi thức, (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống, (hạng) nữ tỳ là vợ, (hạng) người làm công là vợ, (hạng) được đem lại dưới lá cờ, và (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[459] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được cha bảo hộ tên như vầy nói rằng: ...(như trên)... người nữ được mẹ cha bảo hộ nói rằng ... người nữ được anh (em) trai bảo hộ nói rằng ... người nữ được chị (em) gái bảo hộ nói rằng ... người nữ được thân quyến bảo hộ nói rằng ... người nữ được dòng họ bảo hộ nói rằng ... người nữ được luân lý bảo hộ nói rằng ... người nữ có sự gìn giữ nói rằng ... người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ ... (hạng) sống chung do sự tự nguyện ... (hạng) sống chung vì tài vật ... (hạng) sống chung vì y phục ... (hạng) được cưới theo nghi thức ... (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống ... (hạng) nữ tỳ là vợ ... (hạng) người làm công là vợ ... (hạng) được đem lại dưới lá cờ ... (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Các phần tóm lược.
[460] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) sống chung do sự tự nguyện của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) sống chung vì tài vật ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) sống chung vì y phục ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) được cưới theo nghi thức ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) nữ tỳ là vợ ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) người làm công là vợ ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) được đem lại dưới lá cờ ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần phân tích theo sự xoay vòng.
[461] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) sống chung vì tài vật ...(như trên)... (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) sống chung vì y phục ... (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) chỉ trong chốt lát ... (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng.
Phần nhân tố được tóm tắt.
[462] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) chỉ trong chốt lát và (hạng) được mua bằng của cải ... (hạng) chỉ trong chốt lát và (hạng) được đem lại dưới lá cờ của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần liên quan đến một nhân tố.
[463] Phần liên quan đến hai nhân tố, phần liên quan đến ba nhân tố, phần liên quan đến bốn nhân tố, phần liên quan đến năm nhân tố, phần liên quan đến sáu nhân tố, phần liên quan đến bảy nhân tố, phần liên quan đến tám nhân tố, phần liên quan đến chín nhân tố nên được thực hiện y như thế.
Đây là phần có liên quan đến mười nhân tố.
[464] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) được mua bằng của cải, (hạng) sống chung do sự tự nguyện, (hạng) sống chung vì tài vật, (hạng) sống chung vì y phục, (hạng) được cưới theo nghi thức, (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống, (hạng) nữ tỳ là vợ, (hạng) người làm công là vợ, (hạng) được đem lại dưới lá cờ, và (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[465] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ và người nữ được cha bảo hộ tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) sống chung do sự tự nguyện của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ, người nữ được cha bảo hộ, và người nữ được mẹ cha bảo hộ tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói cô hãy là người vợ (hạng) được mua bằng của cải, (hạng) sống chung do sự tự nguyện, và (hạng) sống chung vì tài vật của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
(Phần tổng hợp của hai nhân tố nên được thực hiện như thế).
Đây là phần có liên quan đến tất cả các nhân tố.
[466] Người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người nữ được mẹ bảo hộ, người nữ được cha bảo hộ, người nữ được mẹ cha bảo hộ, người nữ được anh (em) trai bảo hộ, người nữ được chị (em) gái bảo hộ, người nữ được thân quyến bảo hộ, người nữ được dòng họ bảo hộ, người nữ được luân lý bảo hộ, người nữ có sự gìn giữ, và người nữ bị quy định hình phạt có tên như vầy nói rằng: ‘Họ nói các cô hãy là những người vợ (hạng) được mua bằng của cải, (hạng) sống chung do sự tự nguyện, (hạng) sống chung vì tài vật, (hạng) sống chung vì y phục, (hạng) được cưới theo nghi thức, (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống, (hạng) nữ tỳ là vợ, (hạng) người làm công là vợ, (hạng) được đem lại dưới lá cờ, và (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần tổng hợp của hai nhân tố.
[467] Người mẹ của người đàn ông phái vị tỳ khưu đi ...(như trên)... Cha của người đàn ông phái vị tỳ khưu đi ...(như trên)... Mẹ cha của người đàn ông phái vị tỳ khưu đi ...(như trên)... Anh (em) trai của người đàn ông phái vị tỳ khưu đi ...(như trên)... Chị (em) gái của người đàn ông phái vị tỳ khưu đi ...(như trên)... Thân quyến của người đàn ông phái vị tỳ khưu đi ...(như trên)... Dòng họ của người đàn ông phái vị tỳ khưu đi ...(như trên)... Các đồng đạo của người đàn ông phái vị tỳ khưu đi (Sự trùng lặp về người đàn ông nên được giải thích chi tiết. Phần tổng hợp của hai nhân tố nên được giải thích chi tiết giống như cách thức về người đàn ông).
[468] Người mẹ của người nữ được mẹ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy nhận (con gái tôi) là người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người mẹ của người nữ được mẹ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy nhận (con gái tôi) là người vợ (hạng) sống chung do sự tự nguyện ... (hạng) sống chung vì tài vật ... (hạng) sống chung vì y phục ... (hạng) được cưới theo nghi thức ... (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống ... (hạng) nữ tỳ là vợ ... (hạng) người làm công là vợ ... (hạng) được đem lại dưới lá cờ ... (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Các phần tóm lược.
[469] Người mẹ của người nữ được mẹ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy nhận (con gái tôi) là người vợ (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) sống chung do sự tự nguyện của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người mẹ của người nữ được mẹ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy nhận (con gái tôi) là người vợ (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) sống chung do sự tự nguyện ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) sống chung vì tài vật ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) sống chung vì y phục ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) được cưới theo nghi thức ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) nữ tỳ là vợ ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) người làm công là vợ ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) được đem lại dưới lá cờ ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần phân tích theo sự xoay vòng.
[470] Người mẹ của người nữ được mẹ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy nhận (con gái tôi) là người vợ (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) sống chung vì tài vật ... (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) chỉ trong chốt lát ... (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng.
Phần nhân tố được tóm tắt.
[471] Người mẹ của người nữ được mẹ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy nhận (con gái tôi) là người vợ (hạng) chỉ trong chốt lát và (hạng) được mua bằng của cải ...(như trên)... (hạng) chỉ trong chốt lát và (hạng) được đem lại dưới lá cờ của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần liên quan đến một nhân tố.
Phần liên quan đến hai nhân tố cho đến phần liên quan đến chín nhân tố được thực hiện như thế.
Đây là phần có liên quan đến mười nhân tố.
[472] Người mẹ của người nữ được mẹ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy nhận (con gái tôi) là người vợ (hạng) được mua bằng của cải, (hạng) sống chung do sự tự nguyện, (hạng) sống chung vì tài vật, (hạng) sống chung vì y phục, (hạng) được cưới theo nghi thức, (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống, (hạng) nữ tỳ là vợ, (hạng) người làm công là vợ, (hạng) được đem lại dưới lá cờ, và (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[473] Người cha của người nữ được cha bảo hộ phái vị tỳ khưu đi ... Mẹ cha của người nữ được mẹ cha bảo hộ phái vị tỳ khưu đi ... Anh (em) trai của người nữ được anh (em) trai bảo hộ phái vị tỳ khưu đi ... Chị (em) gái của người nữ được chị (em) gái bảo hộ phái vị tỳ khưu đi ... Thân quyến của người nữ được thân quyến bảo hộ phái vị tỳ khưu đi ... Dòng họ của người nữ được dòng họ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi ...(như trên)... Các đồng đạo của người nữ được luân lý bảo hộ phái vị tỳ khưu đi ... Sở hữu chủ của người nữ có sự gìn giữ phái vị tỳ khưu đi ... Người quy định về hình phạt đối với người nữ bị quy định hình phạt phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy nhận (cô ta) là người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người quy định về hình phạt đối với người nữ bị quy định hình phạt phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy nhận (cô ta) là người vợ (hạng) sống chung do sự tự nguyện ... (hạng) sống chung vì tài vật ... (hạng) sống chung vì y phục ... (hạng) được cưới theo nghi thức ... (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống ... (hạng) nữ tỳ là vợ ... (hạng) người làm công là vợ ... (hạng) được đem lại dưới lá cờ ... (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Các phần tóm lược.
[474] Người quy định về hình phạt đối với người nữ bị quy định hình phạt phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy nhận (cô ta) là người vợ (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) sống chung do sự tự nguyện ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần phân tích theo sự xoay vòng.
[475] Người quy định về hình phạt đối với người nữ bị quy định hình phạt phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy nhận (cô ta) là người vợ (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) sống chung vì tài vật ... (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) chỉ trong chốt lát ... (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng.
Phần nhân tố được tóm tắt.
[476] Người quy định về hình phạt đối với người nữ bị quy định hình phạt phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy nhận (cô ta) là người vợ (hạng) chỉ trong chốt lát và (hạng) được mua bằng của cải ...(như trên)... (hạng) chỉ trong chốt lát và (hạng) được đem lại dưới lá cờ của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần liên quan đến một nhân tố.
Phần liên quan đến hai nhân tố cho đến phần liên quan đến chín nhân tố được thực hiện như thế.
Đây là phần có liên quan đến mười nhân tố.
[477] Người quy định về hình phạt đối với người nữ bị quy định hình phạt phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy nhận (cô ta) là người vợ (hạng) được mua bằng của cải, (hạng) sống chung do sự tự nguyện, (hạng) sống chung vì tài vật, (hạng) sống chung vì y phục, (hạng) được cưới theo nghi thức, (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống, (hạng) nữ tỳ là vợ, (hạng) người làm công là vợ, (hạng) được đem lại dưới lá cờ, và (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[478] Người nữ được mẹ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy chấp nhận tôi là người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người nữ được mẹ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy chấp nhận tôi là người vợ (hạng) sống chung do sự tự nguyện ... (hạng) sống chung vì tài vật ... (hạng) sống chung vì y phục ... (hạng) được cưới theo nghi thức ... (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống ... (hạng) nữ tỳ là vợ ... (hạng) người làm công là vợ ... (hạng) được đem lại dưới lá cờ ... (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Các phần tóm lược.
[479] Người nữ được mẹ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy chấp nhận tôi là người vợ (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) sống chung do sự tự nguyện ... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần phân tích theo sự xoay vòng.
[480] Người nữ được mẹ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy chấp nhận tôi là người vợ (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) sống chung vì tài vật ... (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) chỉ trong chốt lát ... (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng.
Phần nhân tố được tóm tắt.
[481] Người nữ được mẹ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy chấp nhận tôi là người vợ (hạng) chỉ trong chốt lát và (hạng) được mua bằng của cải ...(như trên)... (hạng) chỉ trong chốt lát và (hạng) được đem lại dưới lá cờ của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần liên quan đến một nhân tố.
Các phần liên quan đến hai nhân tố, v.v... nên được thực hiện y như thế.
Đây là phần có liên quan đến mười nhân tố.
[482] Người nữ được mẹ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy chấp nhận tôi là người vợ (hạng) được mua bằng của cải, (hạng) sống chung do sự tự nguyện, (hạng) sống chung vì tài vật, (hạng) sống chung vì y phục, (hạng) được cưới theo nghi thức, (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống, (hạng) nữ tỳ là vợ, (hạng) người làm công là vợ, (hạng) được đem lại dưới lá cờ, và (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[483] Người nữ được cha bảo hộ phái vị tỳ khưu đi ... Người nữ được mẹ cha bảo hộ phái vị tỳ khưu đi ... Người nữ được anh (em) trai bảo hộ phái vị tỳ khưu đi ... Người nữ được chị (em) gái bảo hộ phái vị tỳ khưu đi ... Người nữ được thân quyến bảo hộ phái vị tỳ khưu đi ... Người nữ được dòng họ bảo hộ phái vị tỳ khưu đi ... Người nữ được luân lý bảo hộ phái vị tỳ khưu đi ... Người nữ có sự gìn giữ phái vị tỳ khưu đi ... Người nữ bị quy định hình phạt phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy chấp nhận tôi là người vợ (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người nữ bị quy định hình phạt phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy chấp nhận tôi là người vợ (hạng) được mua bằng của cải ... (hạng) sống chung do sự tự nguyện ... (hạng) sống chung vì tài vật ... (hạng) sống chung vì y phục ... (hạng) được cưới theo nghi thức ... (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống ... (hạng) nữ tỳ là vợ ... (hạng) người làm công là vợ ... (hạng) được đem lại dưới lá cờ ... (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Các phần tóm lược.
[484] Người nữ bị quy định hình phạt phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy chấp nhận tôi là người vợ (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) sống chung do sự tự nguyện ...(như trên)... (hạng) được mua bằng của cải và (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần phân tích theo sự xoay vòng.
[485] Người nữ bị quy định hình phạt phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy chấp nhận tôi là người vợ (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) sống chung vì tài vật ... (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) chỉ trong chốt lát ... (hạng) sống chung do sự tự nguyện và (hạng) được mua bằng của cải của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Phần tổng hợp theo sự xoay vòng.
Phần nhân tố được tóm tắt.
[486] Người nữ bị quy định hình phạt phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy chấp nhận tôi là người vợ (hạng) chỉ trong chốt lát và (hạng) được mua bằng của cải ...(như trên)... (hạng) chỉ trong chốt lát và (hạng) được đem lại dưới lá cờ của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt phần liên quan đến một nhân tố.
Các phần liên quan đến hai nhân tố. v.v... nên được thực hiện y như thế.
Đây là phần có liên quan đến mười nhân tố.
[487] Người nữ bị quy định hình phạt phái vị tỳ khưu đi (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đi đến người có tên như vầy nói rằng: ‘Hãy chấp nhận tôi là người vợ (hạng) được mua bằng của cải, (hạng) sống chung do sự tự nguyện, (hạng) sống chung vì tài vật, (hạng) sống chung vì y phục, (hạng) được cưới theo nghi thức, (hạng) có vật lót ở đầu được đặt xuống, (hạng) nữ tỳ là vợ, (hạng) người làm công là vợ, (hạng) được đem lại dưới lá cờ, và (hạng) chỉ trong chốt lát của người tên như vầy.’” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt tất cả các phần trùng lặp theo sự xoay vòng.
[488] Nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Nhận lời, thông báo, không đem lại (hồi báo) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Nhận lời, không thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Nhận lời, không thông báo, không đem lại (hồi báo) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Không nhận lời, thông báo, không đem lại (hồi báo) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không nhận lời, không thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không nhận lời, không thông báo, không đem lại (hồi báo) thì vô tội.
[489] Người đàn ông bảo nhiều vị tỳ khưu rằng: “Thưa các ngài, xin hãy đi và thông báo cho người nữ tên như vầy.” Tất cả nhận lời, tất cả thông báo, tất cả đem lại (hồi báo) thì tất cả phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông bảo nhiều vị tỳ khưu rằng: “Thưa các ngài, xin hãy đi và thông báo cho người nữ tên như vầy.” Tất cả nhận lời, tất cả thông báo, rồi bảo một vị đem lại (hồi báo) thì tất cả phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông bảo nhiều vị tỳ khưu rằng: “Thưa các ngài, xin hãy đi và thông báo cho người nữ tên như vầy.” Tất cả nhận lời, rồi bảo một vị thông báo, tất cả đem lại (hồi báo) thì tất cả phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông bảo nhiều vị tỳ khưu rằng: “Thưa các ngài, xin hãy đi và thông báo cho người nữ tên như vầy.” Tất cả nhận lời, rồi bảo một vị thông báo, và bảo một vị đem lại (hồi báo) thì tất cả phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông bảo vị tỳ khưu rằng: “Thưa ngài, xin hãy đi và thông báo cho người nữ tên như vầy.” Vị nhận lời, thông báo, đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông bảo vị tỳ khưu rằng: “Thưa ngài, xin hãy đi và thông báo cho người nữ tên như vầy.” Vị nhận lời, thông báo, bảo người học trò đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông bảo vị tỳ khưu rằng: “Thưa ngài, xin hãy đi và thông báo cho người nữ tên như vầy.” Vị ấy nhận lời, bảo người học trò thông báo, đích thân đem lại (hồi báo) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người đàn ông bảo vị tỳ khưu rằng: “Thưa ngài, xin hãy đi và thông báo cho người nữ tên như vầy.” Vị ấy nhận lời, bảo người học trò thông báo, người học trò sau khi thông báo, đứng ở bên ngoài rồi đem lại (hồi báo) thì cả hai phạm tội thullaccaya (trọng tội).[14]
[490] Khi đi làm hoàn tất, khi trở về làm trái lời dặn thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Khi đi làm trái lời dặn, khi trở về làm hoàn tất thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Khi đi làm hoàn tất, khi trở về làm hoàn tất thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Khi đi làm trái lời dặn, khi trở về làm trái lời dặn thì vô tội.
[491] Vị đi vì công việc cần thiết của hội chúng hoặc của bảo tháp hoặc của người bệnh, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[492]
Ngủ, đã chết, đi khỏi,
không phải là người nữ,
là người nữ vô căn,
gây gỗ, vị khuyên giải,
và việc làm mai mối
cho hạng người vô căn.
[493] Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ bảo vị tỳ khưu nọ rằng: “Thưa ngài, xin hãy đi và thông báo cho người nữ tên như vầy.” Vị ấy đã đi và đã hỏi mọi người rằng:
- Cô tên như vầy ở đâu?
- Thưa ngài, cô ta ngủ.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng)?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ bảo vị tỳ khưu nọ rằng: “Thưa ngài, xin hãy đi và thông báo cho người nữ tên như vầy.” Vị ấy đã đi và đã hỏi mọi người rằng:
- Cô tên như vầy ở đâu?
- Thưa ngài, cô ta đã chết.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ bảo vị tỳ khưu nọ rằng: “Thưa ngài, xin hãy đi và thông báo cho người nữ tên như vầy.” Vị ấy đã đi và đã hỏi mọi người rằng:
- Cô tên như vầy ở đâu?
- Thưa ngài, cô ta đã đi khỏi.
...(như trên)...
- Thưa ngài, cô ta không phải là người nữ.
...(như trên)...
- Thưa ngài, cô ta là người nữ vô căn.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[494] Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ sau khi gây gỗ với chồng đã đi về nhà mẹ. Có vị tỳ khưu nọ đã làm công việc khuyên giải. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, cô ta đã bị chồng bỏ (alaṃvacanīyā)?[15]
- Bạch Thế Tôn, cô ta không bị chồng bỏ.
- Này tỳ khưu, trường hợp không bị chồng bỏ thì vô tội.
[495] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã làm mai mối cho người vô căn. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) mà phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Dứt điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ năm.
*******
[1]Là đường tiêu và đường tiểu. Từ “magga” có nghĩa thông thường là “đường đi, con đường.” Trong văn cảnh này được dịch là khiếu, đường khiếu (trong điều pārājika thứ nhất có đề cập đường khiếu khác nữa là miệng).
[2]Trường hợp này vị tỳ khưu bị phạm tội thullaccaya (trọng tội) vì đã ám chỉ “đường khiếu” khi sử dụng từ “magga” nhưng người nữ du sĩ hiểu theo nghĩa thông thường là “con đường.” Nếu cô ấy hiểu được ý thô tục thì vị tỳ khưu ấy đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[3]Được dịch theo ý. Dịch sát từ là: Người nữ mang bát nước (odapattakinī ).
[4]Không cho phép đi đến bất cứ nơi đâu (theo ngài Buddhaghosa).
[5]Giữ nàng ở nơi kín đáo, không để các người khác nhìn thấy (theo ngài Buddhaghosa).
[6]Cấm đoán nàng sống ở chỗ theo ý thích (theo ngài Buddhaghosa).
[7]Nói rằng: “Hãy làm điều này, chớ có làm điều kia” (theo ngài Buddhaghosa).
[8]Ṭīkā (Sớ giải) giải thích là “sasāmikā” nghĩa là cô ấy đã có chồng, đã có sở hữu chủ.
[9]Đề cập đến người đàn bà nghèo trở thành vợ sau khi nhận lấy y phục cho dầu chỉ là tấm áo choàng (theo ngài Buddhaghosa).
[10]Sau khi cả hai người nhúng hai tay vào trong một bát nước nói rằng: “Hãy gắn bó như là nước này, đừng có chia lìa” thì nàng được chấp nhận là vợ theo phong tục (theo ngài Buddhaghosa).
[11]Nàng là người kiếm củi, v.v... Sau khi lấy xuống từ đầu của nàng tấm đệm lót để đội vật nặng rồi đem về sống ở trong nhà (theo ngài Buddhaghosa).
[12]Nàng được thuê làm việc trong nhà. Người đàn ông không hài lòng với vợ của mình rồi san sẽ cuộc sống gia đình với nàng (theo ngài Buddhaghosa).
[13]Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: Khi đoàn quân dương cờ đi đến chiếm cứ một khu vực và nàng bị bắt đem lại, một người nào đó nhận nàng làm vợ nên được gọi là “dhajāhaṭā” (được đem lại dưới lá cờ).
[14]Người học trò khi quay trở về không báo cho thầy biết (đứng ở bên ngoài) và đích thân đem lại hồi báo cho người đàn ông. Người thầy bản thân nhận lời và bản thân bảo học trò thông báo nên phạm tội thullaccaya (trọng tội) vì hai phần ấy; còn người học trò bản thân thông báo và bản thân đem lại (hồi báo) nên phạm tội thullaccaya (trọng tội) vì hai phần ấy (theo ngài Buddhaghosa).
[15]Ngài Buddhaghosa giải thích “alaṃvacanīyā” là “pariccattā = bị từ bỏ.” Theo như trong một số quốc độ người đàn bà bị mất đi tính chất làm vợ thì gọi là “alaṃvacanīyā.” (alaṃ = vừa đủ, xứng đáng; vacanīya = nên được nói, cần phải nói. Alaṃvacanīyā = được nói đủ rồi, hết nước nói, không còn gì để nói).
-ooOoo-
[496] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī tự xin (vật liệu) rồi cho xây dựng các cốc liêu không có thí chủ, dành cho bản thân, không theo kích thước, và các cốc liêu ấy chưa đạt được sự hoàn tất. Các vị ấy sống có nhiều sự van xin, có nhiều sự yêu cầu: “Các người hãy bố thí người nam, hãy bố thí nhân công, hãy bố thí bò, hãy bố thí xe kéo, hãy bố thí rìu, hãy bố thí búa, hãy bố thí cuốc, hãy bố thí xẻng, hãy bố thí lưỡi đục, hãy bố thí dây leo, hãy bố thí tre, hãy bố thí cỏ muñja, hãy bố thí cỏ pabbaja, hãy bố thí cỏ tiṇa, hãy bố thí đất sét.” Dân chúng bực mình vì sự van xin, bực mình vì sự yêu cầu, khi thấy các tỳ khưu thì hốt hoảng, lo sợ, tránh né, bỏ đi đường khác, quay mặt hướng khác, đóng cửa lại; ngay cả khi thấy con bò cái họ (lầm) tưởng rằng: “Là vị tỳ khưu” rồi cũng tránh đi.
[497] Khi ấy, đại đức Mahākassapa, trải qua mùa (an cư) mưa ở thành Rājagaha, đã ra đi về phía thành Āḷavī, trong khi tuần tự du hành đã ngự đến thành Āḷavī. Tại nơi ấy trong thành Āḷavī, đại đức Mahākassapa ngụ tại tháp thờ Aggāḷava. Sau đó vào buổi sáng, đại đức Mahākassapa đã mặc y, cầm y bát, đi vào thành Āḷavī để khất thực. Dân chúng khi nhìn thấy đại đức Mahākassapa cũng trở nên hốt hoảng, lo sợ, tránh né, bỏ đi đường khác, quay mặt hướng khác, đóng cửa lại. Sau đó, khi đã đi khất thực trong thành Āḷavī, đại đức Mahākassapa khi đang đi khất thực trở về sau bữa ăn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các đại đức, thành Āḷavī này trước đây vật thực dồi dào, đồ khất thực nhận được mau chóng, và dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Hiện nay, thành Āḷavī này quả thật có sự khó khăn về vật thực, đồ khất thực nhận được khó khăn, và không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Này các đại đức, do nhân gì, do duyên gì khiến thành Āḷavī này lại có sự khó khăn về vật thực, đồ khất thực nhận được khó khăn, và không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực?
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho đại đức Mahākassapa.
[498] Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi ngự tại thành Rājagaha theo như ý thích đã ra đi du hành về phía thành Āḷavī, trong khi tuần tự du hành đã ngự đến thành Āḷavī. Tại nơi ấy trong thành Āḷavī, đức Thế Tôn ngụ tại tháp thờ Aggāḷava. Sau đó, đại đức Mahākassapa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Mahākassapa đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các vị tỳ khưu ở thành Āḷavī rằng:
- Này các tỳ khưu , nghe nói các ngươi tự xin (vật liệu) rồi cho xây dựng các cốc liêu không có thí chủ, dành cho bản thân, không theo kích thước, và các cốc liêu ấy chưa đạt được sự hoàn tất. Các ngươi đây sống có nhiều van xin, có nhiều sự yêu cầu: “Các người hãy bố thí người nam, hãy bố thí nhân công, hãy bố thí bò, hãy bố thí xe kéo, hãy bố thí rìu, hãy bố thí búa, hãy bố thí cuốc, hãy bố thí xẻng, hãy bố thí lưỡi đục, hãy bố thí dây leo, hãy bố thí tre, hãy bố thí cỏ muñja, hãy bố thí cỏ pabbaja, hãy bố thí cỏ tiṇa, hãy bố thí đất sét.” Dân chúng bực mình vì sự van xin, bực mình vì sự yêu cầu, khi thấy các tỳ khưu thì hốt hoảng, lo sợ, tránh né, bỏ đi đường khác, quay mặt hướng khác, đóng cửa lại; ngay cả khi thấy con bò cái họ (lầm) tưởng rằng: “Là vị tỳ khưu” rồi cũng tránh đi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, . .(như trên)..., không nên làm! Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại tự xin (vật liệu) rồi cho xây dựng các cốc liêu không có thí chủ, dành cho bản thân, không theo kích thước, và các cốc liêu ấy chưa đạt được sự hoàn tất. Các ngươi đây sống có nhiều van xin, có nhiều sự yêu cầu: “Các người hãy bố thí người nam, hãy bố thí nhân công, hãy bố thí bò, hãy bố thí xe kéo, hãy bố thí rìu, hãy bố thí búa, hãy bố thí cuốc, hãy bố thí xẻng, hãy bố thí lưỡi đục, hãy bố thí dây leo, hãy bố thí tre, hãy bố thí cỏ muñja, hãy bố thí cỏ pabbaja, hãy bố thí cỏ tiṇa, hãy bố thí đất sét” vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
Sau đó, khi đã khiển trách các tỳ khưu ở thành Āḷavī bằng nhiều phương thức, ...(như trên)... đức Thế Tôn đã đã thuyết Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi đã bảo các tỳ khưu rằng:
[499] - Này các tỳ khưu, vào thời trước đây có hai anh em ẩn sĩ đã sống nương tựa vào giòng sông Gaṅgā. Này các tỳ khưu, khi ấy rồng chúa Maṇikaṇṭha [1]đã vượt qua giòng sông Gaṅgā và đi đến gặp vị ẩn sĩ trẻ tuổi, sau khi đến đã dùng các phần thân thể quấn quanh vị ẩn sĩ trẻ tuổi bảy vòng rồi phồng lớn mang ở trên đầu (vị ấy) và giữ nguyên. Này các tỳ khưu, rồi do sự khiếp sợ con rồng ấy vị ẩn sĩ trẻ tuổi đã trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Này các tỳ khưu, vị ẩn sĩ lớn tuổi đã nhìn thấy vị ẩn sĩ trẻ tuổi bị ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân, sau khi nhìn thấy đã nói với vị ẩn sĩ trẻ tuổi điều này:
- Này đệ, vì sao đệ lại trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân vậy?
- Thưa huynh, trường hợp của đệ là con rồng chúa Maṇikaṇṭha đã vượt qua giòng sông Gaṅgā và đi đến gặp đệ, sau khi đến đã dùng các phần thân thể quấn quanh đệ bảy vòng rồi phồng lớn mang ở trên đầu (đệ) và giữ nguyên. Thưa huynh, do sự khiếp sợ con rồng ấy đệ đã trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân.
- Này đệ, vậy đệ có muốn con rồng ấy không đến nữa?
- Thưa huynh, đệ muốn con rồng ấy không đến nữa.
- Này đệ, vậy đệ thấy con rồng ấy có vật gì?
- Thưa huynh, đệ thấy viên ngọc ma-ni là vật trang điểm ở cổ của nó.
- Này đệ, như thế thì đệ hãy xin con rồng ấy viên ngọc ma-ni (nói rằng): “Rồng ơi, hãy cho ta viên ngọc ma-ni, ta cần viên ngọc ma-ni.”
Này các tỳ khưu, rồi con rồng chúa Maṇikaṇṭha đã vượt qua giòng sông Gaṅgā và đi đến gặp vị ẩn sĩ trẻ tuổi, sau khi đến đã đứng ở một bên. Này các tỳ khưu, vị ẩn sĩ trẻ tuổi đã nói với con rồng chúa Maṇikaṇṭha đang đứng một bên điều này:
- Rồng ơi, hãy cho ta viên ngọc ma-ni, ta cần viên ngọc ma-ni.
Này các tỳ khưu, khi ấy con rồng chúa Maṇikaṇṭha (nghĩ rằng): “Vị tỳ khưu xin viên ngọc ma-ni, vị tỳ khưu cần viên ngọc ma-ni” rồi đã bỏ đi ngay lập tức.
Này các tỳ khưu, đến lần thứ nhì con rồng chúa Maṇikaṇṭha đã vượt qua giòng sông Gaṅgā và đi đến gặp vị ẩn sĩ trẻ tuổi. Này các tỳ khưu, vị ẩn sĩ trẻ tuổi đã nhìn thấy con rồng chúa Maṇikaṇṭha từ ở đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với con rồng chúa Maṇikaṇṭha điều này:
- Rồng ơi, hãy cho ta viên ngọc ma-ni, ta cần viên ngọc ma-ni.
Này các tỳ khưu, khi ấy con rồng chúa Maṇikaṇṭha (nghĩ rằng): “Vị tỳ khưu xin viên ngọc ma-ni, vị tỳ khưu cần viên ngọc ma-ni” rồi ngay từ nơi ấy quay trở lui.
Này các tỳ khưu, đến lần thứ ba con rồng chúa Maṇikaṇṭha đang vượt qua giòng sông Gaṅgā. Này các tỳ khưu, vị ẩn sĩ trẻ tuổi đã nhìn thấy con rồng chúa Maṇikaṇṭha đang vượt qua giòng sông Gaṅgā, sau khi nhìn thấy đã nói với con rồng chúa Maṇikaṇṭha điều này:
- Rồng ơi, hãy cho ta viên ngọc ma-ni, ta cần viên ngọc ma-ni.
Này các tỳ khưu, khi ấy con rồng chúa Maṇikaṇṭha đã thốt lên với vị ẩn sĩ trẻ tuổi bằng những lời kệ này:
Cơm và nước của ta
được dồi dào, tuyệt hảo
sanh lên do nhân của
viên ngọc ma-ni này.
Ngươi kẻ xin quá lố,
ta không cho vật ấy,
và ta sẽ không đến
khu ẩn cư ngươi nữa.
Như là những đứa trẻ
tay cầm dao mài bén,
ngươi làm ta run rẩy
khi cầu xin viên ngọc.
Ngươi kẻ xin quá lố,
ta không cho vật ấy,
và ta sẽ không đến
khu ẩn cư ngươi nữa.
Này các tỳ khưu, khi ấy con rồng chúa Maṇikaṇṭha (nghĩ rằng): “Vị tỳ khưu xin viên ngọc ma-ni, vị tỳ khưu cần viên ngọc ma-ni” rồi bỏ đi, trong khi bỏ đi như thế rồi đã không quay trở lại nữa.
Này các tỳ khưu, sau đó vị ẩn sĩ trẻ tuổi do việc không còn nhìn thấy con rồng chúa xinh xắn ấy nữa càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân thêm hơn nữa. Này các tỳ khưu, vị ẩn sĩ lớn tuổi đã nhìn thấy vị ẩn sĩ trẻ tuổi càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân thêm hơn nữa; sau khi nhìn thấy đã nói với vị ẩn sĩ trẻ tuổi điều này:
- Này đệ, vì sao đệ lại càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân thêm hơn nữa vậy?
- Thưa huynh, đệ càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân thêm hơn nữa là do việc không còn nhìn thấy con rồng chúa xinh xắn ấy nữa. Này các tỳ khưu, khi ấy vị ẩn sĩ lớn tuổi đã thốt lên với vị ẩn sĩ trẻ tuổi bằng lời kệ này:
Chớ xin dầu mong được
vật yêu quý của người,
do cầu xin quá đáng
trở thành bị ghét bỏ.
Bà-la-môn cầu xin
rồng chúa ngọc ma-ni
không được nhìn thấy nữa,
bởi rồng đã bỏ đi.
Này các tỳ khưu, bởi vì việc van xin còn không được hoan hỷ, việc yêu cầu còn không được hoan hỷ đối với những chúng sanh là các loài thú ấy, thì sẽ là điều gì đối với loài người?
[500] Này các tỳ khưu, vào thời trước đây có vị tỳ khưu nọ sống trong khu rừng rậm nọ ở sườn núi của dãy Hi-mã-lạp-sơn. Này các tỳ khưu, không xa khu rừng rậm ấy có đầm nước lớn và sâu thẳm. Này các tỳ khưu, có bầy chim lớn vào ban ngày đi kiếm ăn ở trong đầm nước ấy và ban đêm đi đến nương náu ở khu rừng rậm ấy. Này các tỳ khưu, khi ấy vị tỳ khưu ấy bị quấy rầy bởi tiếng động của bầy chim ấy đã đi đến gặp ta, sau khi đến đã đảnh lễ ta rồi ngồi xuống ở một bên. Này các tỳ khưu, rồi ta đã nói với vị tỳ khưu ấy đang ngồi một bên điều này:
- Này tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Ngươi đi đến đường xa có được ít mệt nhọc không? Và này tỳ khưu, ngươi từ đâu đi đến?
- Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, con đi đến đường xa ít mệt nhọc. Bạch ngài, có khu rừng rậm lớn ở sườn núi của dãy Hi-mã-lạp-sơn. Bạch ngài, không xa khu rừng rậm ấy có đầm nước lớn và sâu thẳm. Bạch ngài, rồi có bầy chim lớn vào ban ngày đi kiếm ăn ở trong đầm nước ấy và ban đêm đến nương náu ở khu rừng rậm ấy. Bạch Thế Tôn, con từ nơi đó đi đến vì bị quấy rầy bởi tiếng động của bầy chim ấy.
- Này tỳ khưu, vậy ngươi có muốn bầy chim ấy không đến nữa?
- Bạch ngài, con muốn bầy chim ấy không đến nữa.
- Này tỳ khưu, như thế thì ngươi hãy về lại nơi ấy và đi vào trong khu rừng rậm ấy rồi vào canh đầu của đêm hãy nói lớn lời này ba lần: “Hỡi toàn bộ các ngài chim đã đến nương náu ở khu rừng rậm này, xin hãy lắng nghe tôi. Tôi cần lông chim. Hỡi các ngài, hãy cho tôi mỗi một ngài một lông chim.” Rồi vào canh giữa của đêm ...(như trên)... Rồi vào canh cuối của đêm hãy nói lớn lời này ba lần: “Hỡi toàn bộ các ngài chim đã đến nương náu ở khu rừng rậm này, xin hãy lắng nghe tôi. Tôi cần lông chim. Hỡi các ngài, hãy cho tôi mỗi một ngài một lông chim.”
Này các tỳ khưu, sau đó vị tỳ khưu ấy đã về lại nơi ấy và đi vào trong khu rừng rậm ấy, rồi vào canh đầu của đêm đã nói lớn lời này ba lần: “Hỡi toàn bộ các ngài chim đã đến nương náu ở khu rừng rậm này, xin hãy lắng nghe tôi. Tôi cần lông chim. Hỡi các ngài, hãy cho tôi mỗi một ngài một lông chim.” Rồi vào canh giữa của đêm ...(như trên)... Rồi vào canh cuối của đêm đã nói lớn lời này ba lần: “Hỡi toàn bộ các ngài chim đã đến nương náu ở khu rừng rậm này, xin hãy lắng nghe tôi. Tôi cần lông chim. Hỡi các ngài, hãy cho tôi mỗi một ngài một lông chim.”
Này các tỳ khưu, khi ấy bầy chim ấy (nghĩ rằng): “Vị tỳ khưu xin lông chim, vị tỳ khưu cần lông chim” nên đã rời bỏ khu rừng rậm ấy, trong khi bỏ đi như thế rồi đã không quay trở lại nữa.
Này các tỳ khưu, bởi vì việc van xin còn không được hoan hỷ, việc yêu cầu còn không được hoan hỷ đối với những chúng sanh là các loài thú ấy, thì sẽ là điều gì đối với loài người?
[501] Này các tỳ khưu, vào thời trước đây người cha của Raṭṭhapāla con trai nhà danh giá đã thốt lên với Raṭṭhapāla con trai nhà danh giá bằng lời kệ này:
Này Raṭṭhapāla,
có rất là nhiều người
dầu ta không biết họ
họ vẫn đi đến gặp
rồi lại cầu xin ta,
sao con không xin ta?
(Vị Raṭṭhapāla con trai nhà danh giá đáp lại rằng):
Kẻ xin không ai thích,
được xin lại không cho
cũng không được ưa thích;
chính vì lý do ấy,
tôi không cầu xin ông
chớ có ghét bỏ tôi.
Này các tỳ khưu, chính Raṭṭhapāla con trai nhà danh giá ấy còn nói với cha của mình như thế, thì người với người sẽ còn nói điều gì nữa?
[502] Này các tỳ khưu, đối với người tại gia các tài sản kiếm được khó khăn, các vật tích lũy được gìn giữ một cách khó nhọc. Này những kẻ rồ dại, thế mà ở nơi ấy các ngươi lại sống có nhiều van xin, có nhiều sự yêu cầu đối với các tài sản kiếm được khó khăn, các vật tích lũy được gìn giữ một cách khó nhọc như thế (nói rằng): “Các người hãy bố thí người nam, hãy bố thí nhân công, hãy bố thí bò, hãy bố thí xe kéo, hãy bố thí rìu, hãy bố thí búa, hãy bố thí cuốc, hãy bố thí xẻng, hãy bố thí lưỡi đục, hãy bố thí dây leo, hãy bố thí tre, hãy bố thí cỏ muñja, hãy bố thí cỏ pabbaja, hãy bố thí cỏ tiṇa, hãy bố thí đất sét.” Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu tự xin (vật liệu) rồi trong khi cho xây dựng cốc liêu không có thí chủ, dành cho bản thân thì nên cho làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài mười hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ,[2]chiều ngang bảy gang ở bên trong, và nên dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất. Các vị tỳ khưu ấy nên xác định khu đất là không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh. Nếu vị tỳ khưu tự xin (vật liệu) rồi cho xây dựng cốc liêu dành cho bản thân ở khu đất có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh, hoặc không dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất, hoặc vượt quá kích thước thì tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[503] Tự xin (vật liệu) nghĩa là sau khi tự mình yêu cầu người nam, nhân công, bò, xe kéo, rìu, búa, cuốc, xẻng, lưỡi đục, ...(như trên)... cỏ tiṇa, đất sét.
Cốc liêu nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài, hoặc được tô bên trong lẫn bên ngoài.
Trong khi cho xây dựng: là (tự mình) đang làm hoặc đang bảo người làm.
Không có thí chủ: không có người nào khác là sở hữu chủ: hoặc là người nữ, hoặc người nam, hoặc người tại gia, hoặc vị xuất gia.
Dành cho bản thân: vì nhu cầu của bản thân.
Nên cho làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài mười hai gang theo gang tay của đức Thiện thệ: theo cách đo ở bên ngoài.
Chiều ngang bảy gang ở bên trong: theo cách đo ở bên trong.
[504] Nên dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất: Vị tỳ khưu là người làm cốc liêu ấy nên cho dọn sạch khu đất làm cốc liêu, nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ, dành cho bản thân. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm cốc liêu.
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Nếu toàn thể hội chúng có khả năng đi xem xét khu đất làm cốc liêu thì (khu đất) nên được xem xét bởi toàn thể hội chúng. Nếu toàn thể hội chúng không có khả năng đi xem xét khu đất làm cốc liêu thì tại nơi ấy, các tỳ khưu nào có kinh nghiệm, đủ năng lực để biết được có điều chướng ngại hoặc không có điều chướng ngại, có khoảng trống hay không có khoảng trống, các vị ấy nên được thỉnh cầu và nên được chỉ định. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm cốc liêu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định các vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm cốc liêu. Hội chúng chỉ định các vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc chỉ định các vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định để xem xét khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[505] Các vị tỳ khưu đã được chỉ định ấy sau khi đi đến nơi đó nên xem xét khu đất làm cốc liêu và nên nhận biết là có điều chướng ngại hoặc không có điều chướng ngại, có khoảng trống hay không có khoảng trống. Nếu có điều chướng ngại và không có khoảng trống xung quanh thì nên nói rằng: “Chớ làm ở đây.” Nếu không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung quanh thì nên thông báo với hội chúng rằng: “Không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung quanh.”
Vị tỳ khưu là người làm cốc liêu nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ, dành cho bản thân. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất làm cốc liêu.
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất làm cốc liêu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên xác định khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất làm cốc liêu. Hội chúng xác định khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc xác định khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng xác định. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[506] Có điều chướng ngại nghĩa là có tổ kiến, hoặc là có tổ mối, hoặc là có ổ chuột, hoặc là có ổ rắn, hoặc là có ổ bọ cạp, hoặc là có ổ rết, hoặc là chỗ ở của bầy voi, hoặc là chỗ ở của bầy ngựa, hoặc là chỗ ở của bầy sư tử, hoặc là chỗ ở của bầy cọp, hoặc là chỗ ở của bầy beo, hoặc là chỗ ở của bầy gấu, hoặc là chỗ ở của bầy chó sói, hoặc là chỗ ở của bất cứ các loài thú hoặc các loài sinh vật nào, hoặc kề cận ruộng trồng thóc lúa, hoặc kề cận ruộng trồng rau cải, hoặc kề cận nơi tra trấn, hoặc kề cận nơi xử trảm, hoặc kề cận mộ địa, hoặc kề cận vườn hoa, hoặc kề cận đất của đức vua, hoặc kề cận chuồng voi, hoặc kề cận chuồng ngựa, hoặc kề cận trại giam, hoặc kề cận quán rượu, hoặc kề cận nhà đồ tể, hoặc kề cận đường vận chuyển, hoặc kề cận giao lộ, hoặc kề cận nơi hội họp, hoặc kề cận chỗ qua lại; điều này nghĩa là có điều chướng ngại.
[507] Không có khoảng trống xung quanh nghĩa là không thể đi vòng với chiếc xe hàng được móc vào hoặc (không thể) đi vòng xung quanh với cái thang; điều này nghĩa là không có khoảng trống xung quanh.
[508] Không có điều chướng ngại nghĩa là không có tổ kiến, hoặc là không có tổ mối, hoặc là không có ổ chuột, hoặc là không có ổ rắn, hoặc là không có ổ bọ cạp, hoặc là không có ổ rết, ...(như trên)... hoặc không kề cận chỗ qua lại; điều này nghĩa là không có điều chướng ngại.
[509] Có khoảng trống xung quanh nghĩa là có thể đi vòng với chiếc xe hàng được móc vào hoặc (có thể) đi vòng xung quanh với cái thang; điều này nghĩa là có khoảng trống xung quanh.
[510] Tự xin (vật liệu) nghĩa là sau khi tự mình yêu cầu về người nam, nhân công, ...(như trên)..., lưỡi đục.
Cốc liêu nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài, hoặc được tô bên trong lẫn bên ngoài.
Cho xây dựng: là (tự) làm hoặc bảo người làm.
Hoặc không dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất, hoặc vượt quá kích thước: hoặc là sau khi không cho xác địnhkhu đất làm cốc liêu bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ nhì, hoặc là sau khi vượt quá chiều dài hoặc chiều rộng cho dù chỉ bằng sợi tóc rồi (tự) làm hay bảo người làm thì tội dukkaṭa (tác ác) cho mỗi thao tác. Còn cục (vữa tô) cuối cùng thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). Khi cục (vữa tô) ấy đã được đặt vào thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[511] Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[512] Vị tỳ khưu làm cốc liêu vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu vượt quá kích thước, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu vượt quá kích thước, không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu theo kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu theo kích thước, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu theo kích thước, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu theo kích thước, không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[513] Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[514] Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[515] Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì (vị ấy) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì (vị ấy) phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy theo kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[516] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì (vị ấy) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy theo kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[517] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy là khu đất được xác định và không có điều chướng ngại.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất không được xác định, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy là khu đất được xác định và có khoảng trống xung quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất không được xác định, không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy là khu đất được xác định.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy (là) không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy (là) không có điều chướng ngại.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất đã được xác định, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy (là) có khoảng trống xung quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[518] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... “Hãy theo đúng kích thước và không có điều chướng ngại.” ...(như trên)... “Hãy theo đúng kích thước và có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... “Hãy theo đúng kích thước.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy theo đúng kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta theo đúng kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy (là) không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... “Hãy (là) không có điều chướng ngại.” ...(như trên)... “Hãy (là) có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... thì vô tội.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước, và không có điều chướng ngại.” ...(như trên)... “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước, và có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... “Hãy là khu đất được xác định và theo đúng kích thước.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo đúng kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất đã được xác định, theo đúng kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy (là) không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... “Hãy (là) không có điều chướng ngại.” ...(như trên)... “Hãy (là) có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... thì vô tội.
[519] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm ba tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm ba tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy theo kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm bốn tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm ba tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm ba tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[520] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi. Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc liêu ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi. Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc liêu ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi. Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc liêu ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì vị ấy phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi. Các vị làm cốc liêu cho vị ấy vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc liêu ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi. Các vị làm cốc liêu cho vị ấy theo kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc liêu ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì vị ấy phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi. Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc liêu ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì vị ấy phạm hai tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì phạm hai tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh ... thì phạm hai tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì phạm hai tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi ra đi. Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc liêu ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì vị ấy phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì vô tội.
[521] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[522] Vô tội trong trường hợp hang núi, hang nhân tạo, chòi cỏ, vì nhu cầu của vị khác, trong mọi trường hợp ngoại trừ nhà ở,[3]vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ sáu.
*******
[540] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, phẩm vị A-la-hán đã được đại đức Dabba Mallaputta[7]chứng đạt vào lúc bảy tuổi. Vị ấy đã thành đạt tất cả những gì vị đệ tử cần phải chứng đạt. Và đối với vị ấy, không có bất cứ việc gì cao thượng hơn cần phải làm hoặc sự tích lũy thêm (các việc) đã làm.
[541] Khi ấy, đại đức Dabba Mallaputta trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Phẩm vị A-la-hán đã được ta chứng đạt vào lúc bảy tuổi. Ta đã thành đạt tất cả những gì vị đệ tử cần phải chứng đạt. Và đối với ta, không có bất cứ việc gì cao thượng hơn cần phải làm hoặc sự tích lũy thêm (các việc) đã làm. Vậy ta nên thực hiện việc phục vụ gì cho hội chúng?” Rồi điều này đã khởi đến cho đại đức Dabba Mallaputta: “Hay là ta nên phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng?”
Sau đó vào buổi tối, đại đức Dabba Mallaputta đã xuất khỏi thiền tịnh và đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Dabba Mallaputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, trường hợp con trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Phẩm vị A-la-hán đã được ta chứng đạt vào lúc bảy tuổi. Ta đã thành đạt tất cả những gì vị đệ tử cần phải chứng đạt. Và đối với ta, không có bất cứ việc gì cao thượng hơn cần phải làm hoặc sự tích lũy thêm (các việc) đã làm. Vậy ta nên thực hiện việc phục vụ gì cho hội chúng?” Bạch ngài, rồi điều này đã khởi đến cho con: “Hay là ta nên phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng?” Bạch ngài, con muốn phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng.
- Này Dabba, tốt lắm, tốt lắm! Chính vì điều ấy ngươi hãy phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng.
- Bạch ngài, xin vâng. Đại đức Dabba Mallaputta đã đáp lại đức Thế Tôn.
[542] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các vị tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy hội chúng hãy chỉ định Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, Dabba cần được yêu cầu. Sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Đại đức Dabba Mallaputta đã được hội chúng chỉ định là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[543] Và khi đã được chỉ định, đại đức Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu có cùng sở hành. Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên về Kinh (nghĩ rằng): “Các vị sẽ tụng đọc Kinh với nhau.” Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu rành rẽ về Luật (nghĩ rằng): “Các vị sẽ xác định về Luật với nhau.” Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên giảng Pháp (nghĩ rằng): “Các vị sẽ thảo luận về Pháp với nhau.” Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên thiền định (nghĩ rằng): “Các vị sẽ không quấy rầy lẫn nhau.” Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên nói chuyện thế tục, sinh hoạt có nhiều sự năng động về thân (nghĩ rằng): “Các đại đức này cũng sẽ yên ổn với thú vui ấy.” Còn các tỳ khưu đi đến vào buổi tối, vị ấy nhập thiền đề mục ánh sáng và phân bố chỗ trú ngụ cho các vị ấy bằng chính ánh sáng ấy. Cho nên, các tỳ khưu cố ý đi đến vào buổi tối (nghĩ rằng): “Chúng ta sẽ chứng kiến sự kỳ diệu về thần thông của đại đức Dabba Mallaputta.” Sau khi đi đến gặp đại đức Dabba Mallaputta, các vị ấy nói như vầy:
- Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ trú ngụ cho chúng tôi.
Đại đức Dabba Mallaputta nói với các vị ấy như vầy:
- Các đại đức thích chỗ nào? Tôi sẽ phân bố chỗ nào?
Các vị ấy cố ý đề cập các chỗ ở xa xôi:
- Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu). Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở khe núi Kẻ Cướp. Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở sườn núi Isigili, chỗ tảng đá Đen. Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở sườn núi Vebhāra, hang Sattapaṇṇa (Thất Diệp). Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở Sītavana (Hàn Lâm), động Sappasoṇḍika. Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở hẽm núi Gomaṭa.Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở hẽm núi Tiṇḍuka.Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở hẽm núi Kapota.Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở khu vườn Tapoda.Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở vườn xoài của Jīvaka.Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở Maddakucchi, nơi vườn nai.
Đối với các vị ấy, đại đức Dabba Mallaputta đã nhập thiền đề mục ánh sáng và đi ở phía trước với ngón tay được thắp sáng. Chính nhờ ánh sáng ấy, các vị ấy đi theo sát ở phía sau đại đức Dabba Mallaputta. Đại đức Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ cho các vị ấy như vầy:
- Đây là giường, đây là ghế, đây là nệm, đây là gối, đây là chỗ tiêu, đây là chỗ tiểu, đây là nước uống, đây là nước rửa, đây là gậy chống, đây là qui định của hội chúng: “Giờ này có thể đi vào.Giờ này có thể đi ra.”
Sau khi đã phân bố chỗ trú ngụ cho các vị ấy như thế, đại đức Daba Mallaputta quay trở về lại Veḷuvana.
[544] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka[8]chỉ là các vị mới tu và phước báu ít ỏi. Các vị ấy thường nhận được những chỗ trú ngụ kém thuộc về hội chúng và những bữa ăn tồi. Vào lúc bấy giờ, dân chúng ở Rājagaha mong muốn cúng dường đến các tỳ khưu trưởng lão thức ăn được chuẩn bị hoàn hảo gồm có bơ lỏng, dầu ăn, phần ăn ngon, và thường dâng đến các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka vật bình thường theo khả năng gồm có cơm tấm và món thứ hai là cháo chua. Các vị ấy khi đi thọ thực về sau bữa ăn thường hỏi các tỳ khưu trưởng lão rằng:
- Này các đại đức, trong nhà ăn các vị đã có thức gì? Các vị đã không có thức gì?
Một số trưởng lão trả lời như vầy:
- Này các đại đức, chúng tôi có bơ lỏng, có dầu ăn, có phần ăn ngon.
Các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka nói như vầy:
- Này các đại đức, chúng tôi đã không được gì cả, chỉ là vật bình thường theo khả năng gồm có cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.
[545] Vào lúc bấy giờ, có vị gia chủ là người có bữa ăn ngon thường cúng dường đến hội chúng bữa ăn gồm bốn phần là bữa ăn thường lệ. Vị ấy cùng vợ và các con thường hiện diện và phục vụ ở nhà ăn. Họ dâng các vị này cơm, dâng các vị kia canh, dâng các vị nọ dầu ăn, và dâng các vị khác phần ăn ngon.
Vào lúc bấy giờ, bữa ăn vào ngày hôm sau của vị gia chủ có bữa ăn ngon đã được sắp xếp cho các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka. Hôm ấy, vị gia chủ có bữa ăn ngon đã đi đến tu viện bởi công việc cần làm nào đó. Vị ấy đã đi đến đại đức Dabba Mallaputta, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Dabba Mallaputta rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Dabba Mallaputta đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho vị gia chủ có bữa ăn ngon đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đại đức Dabba Mallaputta chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, vị gia chủ có bữa ăn ngon đã nói với đại đức Dabba Mallaputta điều này:
- Thưa ngài, bữa ăn vào ngày mai ở nhà chúng tôi đã được sắp xếp cho vị nào?
- Này gia chủ, bữa ăn vào ngày mai ở nhà gia chủ đã được sắp xếp cho các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka.
Khi ấy, vị gia chủ có bữa ăn ngon đã không được hài lòng (nghĩ rằng): “Tại sao các tỳ khưu tồi lại thọ thực ở nhà của chúng ta?” rồi đã đi về nhà và dặn dò người tớ gái rằng:
- Này con, hãy xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho cho các vị đến thọ thực vào ngày mai và dâng cho họ cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.
- Thưa chủ nhân, xin vâng. Người tớ gái ấy đã đáp lại vị gia chủ có bữa ăn ngon.
Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka (bàn bạc rằng): “Này các đại đức, hôm qua bữa ăn của vị gia chủ là người có bữa ăn ngon đã được sắp xếp cho chúng ta. Vào ngày mai, vị gia chủ có bữa ăn ngon cùng vợ và các con sẽ hiện diện và phục vụ chúng ta. Họ sẽ dâng các vị này cơm, sẽ dâng các vị kia canh, sẽ dâng các vị nọ dầu ăn, và sẽ dâng các vị khác phần ăn ngon.” Do chính tâm vui mừng ấy, ban đêm các vị đã không ngủ được như ý.
Sau đó vào buổi sáng, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã mặc y, cầm y bát, đi đến nhà của vị gia chủ có bữa ăn ngon. Cô tớ gái ấy đã nhìn thấy các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka từ đàng xa đang đi lại, sau khi thấy đã xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho và nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này:
- Thưa các ngài, xin hãy ngồi.
Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka khởi ý điều này: “Chắn hẳn đến giờ này bữa ăn vẫn chưa hoàn tất nên chúng ta mới được cho ngồi ở nhà kho như thế này!” Sau đó, cô tớ gái ấy đã trở lại với cơm tấm và món thứ hai là cháo chua (nói rằng):
- Thưa các ngài, xin hãy thọ thực.
- Này chị gái, chúng tôi là các vị thọ nhận bữa ăn thường lệ.
- Tôi biết các ngài đại đức là các vị thọ nhận bữa ăn thường lệ. Tuy nhiên, chính ngày hôm qua tôi đã được gia chủ dặn dò rằng: “Hãy xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho cho các vị đến thọ thực vào ngày mai và dâng cho họ cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.” Thưa các ngài, xin hãy thọ thực.
Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka (bàn bạc rằng): “Này các đại đức, hôm qua vị gia chủ có bữa ăn ngon đã đi đến tu viện gặp Dabba Mallaputta. Chắc chắn rằng chúng ta đã bị Dabba Mallaputta ly gián với vị gia chủ!” Chính vì tâm bực bội ấy, các vị ấy đã không thọ thực được như ý. Sau đó, khi trở về từ chỗ thọ thực sau bữa ăn, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã đi đến tu viện, bỏ rơi y bát, rồi ngồi xuống ôm đầu gối bằng y hai lớp (saṅghāṭipallatthikāya) ở phía bên ngoài cổng ra vào của tu viện, im lặng, xấu hổ, rút vai lại, mặt cúi xuống, trầm ngâm, không nói năng.
[546] Khi ấy, tỳ khưu ni Mettiyā đã đi đến gặp các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này:
- Tôi xin chào các ngài đại đức.
Khi được nói như thế, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã không đáp lại.
Đến lần thứ nhì, …(như trên)…
Đến lần thứ ba, tỳ khưu ni Mettiyā đã nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này:
- Tôi xin chào các ngài đại đức.
Đến lần thứ ba, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã không đáp lại.
- Có phải tôi làm phật lòng các ngài đại đức? Tại sao các ngài đại đức không nói chuyện với tôi?
- Này cô ni, bởi vì cô vẫn dửng dưng như thế trong khi chúng tôi bị Dabba Mallaputta làm tổn hại.
- Thưa các ngài đại đức, tôi làm được điều gì?
- Này cô ni, nếu cô chịu làm thì ngay trong ngày hôm nay đức Thế Tôn có thể trục xuất Dabba Mallaputta.
- Thưa các ngài đại đức, tôi làm được điều gì? Tôi có thể làm điều gì?
- Này cô ni, cô hãy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến hãy nói với đức Thế Tôn như vầy: “Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không hợp lý. Bạch ngài, chính ở quốc độ nào không có sự sợ hãi, không có tai họa, không có sầu khổ thì chính ở quốc độ ấy có sự sợ hãi, có tai họa, và có sầu khổ. Từ nơi nào gió lặng đi thì từ nơi ấy có bão tố. Con nghĩ rằng nước đã bùng cháy lên rồi; con đã bị ô nhục bởi ngài đại đức Dabba Mallaputta.”
- Thưa các ngài đại đức, xin vâng.
Rồi tỳ khưu ni Mettiyā nghe theo các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, tỳ khưu ni Mettiyā đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không hợp lý. Bạch ngài, chính ở quốc độ nào không có sự sợ hãi, không có tai họa, không có sầu khổ thì chính ở quốc độ ấy có sự sợ hãi, có tai họa, và có sầu khổ. Từ nơi nào gió lặng đi thì từ nơi ấy có bão tố. Con nghĩ rằng nước đã bùng cháy lên rồi; con đã bị ô nhục bởi ngài đại đức Dabba Mallaputta.
[547] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã làm việc như thế, giống như điều tỳ khưu ni này vừa nói không?
- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế Tôn biết rõ mà.
Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn ...(như trên)...
Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã làm việc như thế, giống như điều tỳ khưu ni này vừa nói không?
- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế Tôn biết rõ mà.
- Này Dabba, các vị (dòng dõi) Dabba không phủ nhận như thế. Nếu ngươi có làm, hãy nói: “Có làm;” nếu ngươi không làm, hãy nói: “Không làm.”
- Bạch ngài, từ khi con được sanh ra, con không bao giờ thấy mình là kẻ tầm cầu việc đôi lứa ngay cả trong lúc ngủ mơ, huống gì là tỉnh thức.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì việc ấy các ngươi hãy trục xuất tỳ khưu ni Mettiyā và hãy tra hỏi các tỳ khưu này.
Nói xong điều ấy, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào trú xá.
Sau đó, các tỳ khưu ấy đã trục xuất tỳ khưu ni Mettiyā. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã nói với các tỳ khưu ấy điều này:
- Này các đại đức, chớ có trục xuất tỳ khưu ni Mettiyā, cô ta không làm sai điều gì.Vì chúng tôi nổi giận, không hài lòng, có ý định loại trừ nên xúi giục cô ta thôi.
- Này các đại đức, có phải các vị bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta về tội pārājika (bất cộng trụ) không có nguyên cớ?
- Này các đại đức, đúng vậy.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka lại bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta về tội pārājika không có nguyên cớ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi bôi nhọ Dabba Mallaputta về tội pārājika không có nguyên cớ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại bôi nhọ Dabba Mallaputta về tội pārājika không có nguyên cớ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào xấu xa, sân hận, bất bình vị tỳ khưu (khác) rồi bôi nhọ về tội pārājika không có nguyên cớ (nghĩ rằng): ‘Chắc là ta có thể loại vị ấy ra khỏi Phạm hạnh này.’ Sau đó vào lúc khác, dầu được hỏi hay không được hỏi và sự tranh tụng ấy thật sự không có nguyên cớ, vị tỳ khưu (dầu có) thú nhận lỗi lầm (cũng) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[548] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.
Xấu xa, sân hận: bị nổi giận, không được hài lòng, không được thỏa mãn, có tâm giận dữ, sanh khởi lòng cay cú.
Bị bất bình:là bị bất bình do sự nổi giận ấy, do sự sân hận ấy, do sự không được hài lòng ấy, do sự không được thỏa mãn ấy.
Không có nguyên cớ nghĩa là không được thấy, không được nghe, không bị nghi ngờ.
Về tội pārājika: về bất cứ điều nào thuộc về bốn điều.
Bôi nhọ: hoặc là buộc tội, hoặc là bảo người buộc tội.
Chắc là ta có thể loại trừ vị ấy ra khỏi Phạm hạnh này: Ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi trạng thái tỳ khưu, ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi pháp sa-môn, ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi giới uẩn, ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi đức tính khắc khổ.
[549] Sau đó vào lúc khác: đã bôi nhọ trong giây phút nào thì trải qua vào giây phút ấy, vào khoảng thời gian ấy, vào thời điểm ấy.
Được hỏi: đã bôi nhọ với sự việc nào thì được hỏi về sự việc ấy.
Không được hỏi: không được bất cứ ai đề cập đến.
[550] Sự tranh tụng nghĩa là có bốn sự tranh tụng: Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
[551] Và vị tỳ khưu (dầu có) thú nhận lỗi lầm: Tôi đã nói điều rỗng không, tôi đã nói điều dối trá, tôi đã nói điều không thật, tôi đã nói điều tôi không biết.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[552] Đối với vị đã không thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã thấy ngươi phạm tội pārājika, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, không còn lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng với ngươi nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã không nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghe ngươi phạm tội pārājika, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, không còn lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng với ngươi nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã không nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghi ngờ ngươi phạm tội pārājika, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, không còn lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng với ngươi nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[553] Đối với vị đã không thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã thấy và đã nghe ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã không thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã thấy và đã nghi ngờ ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã không thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã thấy, đã nghe, và đã nghi ngờ ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã không nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghe và đã nghi ngờ ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã không nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghe và đã thấy ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã không nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghe, đã nghi ngờ, và đã thấy ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã không nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghi ngờ và đã thấy ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã không nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghi ngờ và đã nghe ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã không nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghi ngờ, đã thấy, và đã nghe ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[554] Đối với vị đã thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghe ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghi ngờ ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghe và đã nghi ngờ ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghi ngờ ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã thấy ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghi ngờ và đã thấy ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã thấy ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghe ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã thấy và đã nghe ngươi phạm tội pārājika, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, không còn lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng với ngươi nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[555] Đối với vị đã thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, (nhưng) hoài nghi về việc đã thấy, không tin việc đã thấy, không nhớ việc đã thấy, quên đi việc đã thấy, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã thấy và đã nghe ...(như trên)... Ta đã thấy và đã nghi ngờ ...(như trên)... Ta đã thấy, đã nghe, và đã nghi ngờ ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...
Đối với vị đã nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” (nhưng) hoài nghi về việc đã nghe, không tin việc đã nghe, không nhớ việc đã nghe, quên đi việc đã nghe, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghe và đã nghi ngờ ...(như trên)... Ta đã nghe và đã thấy ...(như trên)... Ta đã nghe, đã nghi ngờ, và đã thấy ngươi phạm tội pārājika, ...(như trên)...
Đối với vị đã nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” (nhưng) hoài nghi về việc đã nghi ngờ, không tin việc đã nghi ngờ, không nhớ việc đã nghi ngờ, quên đi việc đã nghi ngờ, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đã nghi ngờ và đã thấy ...(như trên)... Ta đã nghi ngờ và đã nghe ...(như trên)... Ta đã nghi ngờ, đã thấy, và đã nghe ngươi phạm tội pārājika, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, không còn lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng với ngươi nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[556] Đối với vị đã không thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đã bị thấy là đã phạm tội pārājika, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, không còn lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng với ngươi nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã không nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đã bị nghe là đã phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã không nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đã bị nghi ngờ là đã phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[557] Đối với vị đã không thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đã bị thấy và đã bị nghe ...(như trên)... Ngươi đã bị thấy và đã bị nghi ngờ ...(như trên)... Ngươi đã bị thấy, đã bị nghe, và đã bị nghi ngờ là đã phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã không nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đã bị nghe và đã bị nghi ngờ ...(như trên)... Ngươi đã bị nghe và đã bị thấy ...(như trên)... Ngươi đã bị nghe, đã bị nghi ngờ, và đã bị thấy là đã phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã không nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đã bị nghi ngờ và đã bị thấy ...(như trên)... Ngươi đã bị nghi ngờ và đã bị nghe ...(như trên)... Ngươi đã bị nghi ngờ, đã bị thấy, và đã bị nghe là đã phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[558] Đối với vị đã thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đã bị nghe là đã phạm tội pārājika, ...(như trên)... Ngươi đã bị nghi ngờ là đã phạm tội pārājika, ...(như trên)... Ngươi đã bị nghe và đã bị nghi ngờ là đã phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đã bị nghi ngờ ...(như trên)...” nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đã bị thấy ...(như trên)...” nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đã bị nghi ngờ và đã bị thấy là đã phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
Đối với vị đã nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đã phạm tội pārājika,” nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đã bị thấy là đã phạm tội pārājika, ...(như trên)...” nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đã bị nghe ...(như trên)...” nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đã bị thấy và đã bị nghe là đã phạm tội pārājika, ...(như trên)...” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[559] Đối với vị đã thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, (nhưng) hoài nghi về việc đã thấy, không tin việc đã thấy, không nhớ việc đã thấy, quên đi việc đã thấy; ...(như trên)... (nhưng) hoài nghi về việc đã nghe, không tin việc đã nghe, không nhớ việc đã nghe, quên đi việc đã nghe; ...(như trên)... (nhưng) hoài nghi về việc đã nghi ngờ, không tin việc đã nghi ngờ, không nhớ việc đã nghi ngờ, quên đi việc đã nghi ngờ, nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đã bị nghi ngờ và đã bị thấy ...(như trên)...” “Ngươi đã bị nghi ngờ và đã bị nghe ...(như trên)...” “Ngươi đã bị nghi ngờ, đã bị thấy, và đã bị nghe là đã phạm tội pārājika, ngươi không phải là sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, không còn lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng với ngươi nữa” thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) theo từng lời nói.
[560] Sự ghi nhận là trong sạch trong khi là không trong sạch.
Sự ghi nhận là không trong sạch trong khi là trong sạch.
Sự ghi nhận là không trong sạch trong khi là không trong sạch.
Sự ghi nhận là trong sạch trong khi là trong sạch.
[561] Vị không trong sạch là người đã vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là trong sạch, khi chưa thỉnh ý (để buộc tội), có ý định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị không trong sạch là người đã vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là trong sạch, khi đã thỉnh ý (để buộc tội), có ý định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị không trong sạch là người đã vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là trong sạch, khi chưa thỉnh ý (để buộc tội), có ý định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) thì phạm tội nói lời mắng nhiếc[9]và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị không trong sạch là người đã vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là trong sạch, khi đã thỉnh ý (để buộc tội), có ý định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) thì phạm tội nói lời mắng nhiếc.
[562] Vị trong sạch là người không vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là không trong sạch, khi chưa thỉnh ý (để buộc tội), có ý định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị trong sạch là người không vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là không trong sạch, khi đã thỉnh ý (để buộc tội), có ý định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) thì vô tội.
Vị trong sạch là người không vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là không trong sạch, khi chưa thỉnh ý (để buộc tội), có ý định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) thì phạm tội nói lời mắng nhiếc và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị trong sạch là người không vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là không trong sạch, khi đã thỉnh ý (để buộc tội), có ý định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) thì phạm tội nói lời mắng nhiếc.
[563] Vị không trong sạch là người đã vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là không trong sạch, khi chưa thỉnh ý (để buộc tội), có ý định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị không trong sạch là người đã vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là không trong sạch, khi đã thỉnh ý (để buộc tội), có ý định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) thì vô tội.
Vị không trong sạch là người đã vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là không trong sạch, khi chưa thỉnh ý (để buộc tội), có ý định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) thì phạm tội nói lời mắng nhiếc và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị không trong sạch là người đã vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là không trong sạch, khi đã thỉnh ý (để buộc tội), có ý định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) thì phạm tội nói lời mắng nhiếc.
[564] Vị trong sạch là người không vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là trong sạch, khi chưa thỉnh ý (để buộc tội), có ý định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị trong sạch là người không vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là trong sạch, khi đã thỉnh ý (để buộc tội), có ý định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị trong sạch là người không vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là trong sạch, khi chưa thỉnh ý (để buộc tội), có ý định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) thì phạm tội nói lời mắng nhiếc và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị trong sạch là người không vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu (nguyên cáo) có sự ghi nhận vị ấy là trong sạch, khi đã thỉnh ý (để buộc tội), có ý định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) thì phạm tội nói lời mắng nhiếc.
[565] Vị có sự ghi nhận là không trong sạch đối với vị trong sạch, vị có sự ghi nhận là không trong sạch đối với vị không trong sạch, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ tám.
*******
[1]Maṇikaṇṭha nghĩa là “cổ có ngọc ma-ni.” Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Nghe nói con rồng chúa ấy khi đi có trang điểm ở cổ một viên ngọc ma-ni lớn vĩ đại (có thể) ban cho tất cả các điều mong ước; vì thế được biết đến với tên ‘Maṇikaṇṭha,’”
[2]Sugatavidatthi (gang tay của đức Thiện Thệ): được ngài Buddhaghosa giải thích bằng ba lần gang tay của người bậc trung. Cũng vậy, HT Bửu Chơn ghi rằng 1 gang của người bậc trung là 0,25 mét và tính ra diện tích là 9,00 mét x 5,20 mét (Tứ Thanh Tịnh Giới, trang 33, ở phần chú thích). Trong tài liệu Vinayamukha, ngài Mahāsamaṇa Chao đề nghị rằng sugatavidatthi, tức là gang tay của đức Thiện Thệ, nên được tính theo kích thước trung bình là 0,25 mét; như vậy diện tích sẽ là 3,00 mét x 1,75 mét. Vì đây là “kuṭi” nên chúng tôi nghĩ rằng kích thước thứ hai hợp lý hơn.
[3]Ngoại trừ nhà ở cho mục đích trú ngụ của vị ấy (thì phạm tội). Nếu vị ấy cho xây dựng bảo rằng: “Sẽ là nhà làm lễ Uposatha, nhà tắm hơi, nhà ăn, nhà đốt lửa khác nữa,” trong mọi trường hợp thì vô tội. Tuy nhiên, nếu vị ấy nghĩ rằng: “Sẽ là nhà làm lễ Uposatha và ta sẽ trú ngụ,” “Sẽ là nhà tắm hơi, nhà ăn, nhà đốt lửa và ta sẽ trú ngụ,” trong khi được cho làm thì vị ấy phạm tội (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[4]Theo ngài Buddhaghosa, tu viện này được cho xây dựng bởi người phú hộ tên Ghosita.
[5]Channa: (Xa-nặc của Hán tạng) là người hầu cận của thái tử Siddhattha (Sĩ-đạt-ta) về sau trở thành đức Phật.
[6]Chỉ có giác quan “thân” (kāyindriyaṃ) để nhận biết sự xúc chạm. (theo ngài Buddhaghosa).
[7]Ngài Dabba là con trai của vua xứ Malla (theo ngài Buddhaghosa).
[8]Theo ngài Buddhaghosa, hai vị này là các vị đứng đầu trong nhóm Lục Sư. Thứ tự được ngài trình bày là hai vị Paṇḍuka và Lohitaka ở thành Sāvatthi, hai vị Mettiya và Bhummajaka ở thành Rājagaha, hai vị Assaji và Punabbasuka ở vùng núi Kīṭā.
[9]Là tội pācittiya (ưng đối trị) thứ nhì.
-ooOoo-
[416] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi là vị thường tới lui với các gia đình và đi đến nhiều gia đình ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà góa chồng nọ đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Udāyi đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến tư gia của người đàn bà ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, người đàn bà ấy đã đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Udāyi rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Udāyi đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người đàn bà ấy đang ngồi ở một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đại đức Udāyi chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, người đàn bà ấy đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Thưa ngài, xin ngài cứ nói ra nhu cầu. Chúng tôi có khả năng để dâng đến ngài đại đức vật dụng tức là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh.
- Này em gái, những thứ ấy tức là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh thì chúng tôi đạt được không khó. Vậy hãy dâng cho chúng tôi điều mà chúng tôi khó đạt được.
- Thưa ngài, điều gì vậy?
- Việc đôi lứa.
- Thưa ngài, ngài cần điều ấy?
- Này em gái, ta cần điều ấy,
- Thưa ngài, hãy đi đến. Rồi đã đi vào phòng trong, cởi bỏ y phục, và nằm ngửa ra trên chiếc giường nhỏ.
Sau đó, đại đức Udāyi đã đi đến gặp người đàn bà ấy, sau khi đến (đã nói rằng):
- Ai mà sờ vào vật hạ tiện hôi thối này? Rồi đã nhổ bãi nước miếng và bỏ đi.
Khi ấy, người đàn bà ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các vị sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn, giới hạnh xấu xa, nói láo. Chính các vị này làm ra vẻ là có sự thực hành Pháp, có thực hành sự an tịnh, có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp! Các vị này không có sa-môn hạnh, các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đã bị hư hỏng, Phạm hạnh của các vị này đã bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đã không còn, Phạm hạnh của các vị này đã không còn! Vì sao sa-môn Udāyi sau khi đích thân cầu xin tôi việc đôi lứa (lại nói rằng): “Ai mà sờ vào vật hạ tiện hôi thối này?” rồi nhổ bãi nước miếng và bỏ đi? Tôi có điều gì xấu? Tôi có mùi hôi gì? Tôi thua kém với ai, vì điều gì?
Các người đàn bà khác cũng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các vị sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn, giới hạnh xấu xa, nói láo. Chính các vị này làm ra vẻ là có sự thực hành Pháp, có thực hành sự an tịnh, có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp! Các vị này không có sa-môn hạnh, các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đã bị hư hỏng, Phạm hạnh của các vị này đã bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đã không còn, Phạm hạnh của các vị này đã không còn! Vì sao Sa-môn Udāyi sau khi đích thân cầu xin cô ấy việc đôi lứa (lại nói rằng): “Ai mà sờ vào vật hạ tiện hôi thối này?” rồi nhổ bãi nước miếng và bỏ đi? Cô ấy có điều gì xấu? Cô ấy có mùi hôi gì? Cô ấy thua kém với ai, vì điều gì?
Các tỳ khưu đã nghe được những người đàn bà ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người nữ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi đại đức Udāyi rằng:
- Này Udāyi, nghe nói ngươi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người nữ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người nữ vậy? Này kẻ rồ dại, không phải ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, ...(như trên)... đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào bị khởi dục, do tâm bị thay đổi, rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người nữ rằng: ‘Này em gái, đây là việc đứng đầu trong các sự hầu hạ là việc người nữ nên hầu hạ đến người có giới, có thiện pháp, có Phạm hạnh như là ta bằng việc ấy’là việc có tính chất đôi lứa, thì tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[417] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bị khởi dục nghĩa là có dục vọng, có sự khao khát, có tâm say đắm.
Bị thay đổi: tâm có dục vọng là (tâm) bị thay đổi, tâm giận hờn là (tâm) bị thay đổi, tâm mê muội là (tâm) bị thay đổi. Tâm có dục vọng là (tâm) “bị thay đổi” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữ nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có hiểu biết, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là dâm dật và không dâm dật.
Trong sự hiện diện của người nữ: xung quanh người nữ, không xa người nữ.
Tình dục cho bản thân: là tình dục của chính bản thân, có nguyên nhân của bản thân, có ý định cho bản thân, là sự phục vụ cho bản thân.
Đây là việc đứng đầu: điều này là tột đỉnh, điều này là hạng nhất, điều này là dẫn đầu, điều này là tối thượng, điều này là quý báu nhất.
Người nữ: là người nữ dòng vua chúa, hoặc là người nữ bà-la-môn, hoặc là người nữ thương buôn, hoặc là người nữ nô lệ.
Như là ta: là người dòng vua chúa, hoặc là bà-la-môn, hoặc là thương buôn, hoặc là nô lệ.
Người có giới: (người) có sự tránh xa việc sát sanh, có sự tránh xa việc trộm cắp, có sự tránh xa việc nói dối.
Có Phạm hạnh: có sự tránh xa việc đôi lứa.
Có thiện pháp nghĩa là với giới ấy và với Phạm hạnh ấy là (người) có thiện pháp.
Bằng việc ấy: bằng việc đôi lứa.
Nên hầu hạ: nên làm cho thích thú.
Có tính chất đôi lứa: là có liên quan đến việc hành dâm.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[418] Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người nữ ấy thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Là người nữ và có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người nữ ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Là người vô căn và biết là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người vô căn ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Là người vô căn và có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người vô căn ấy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là người nam và biết là người nam, có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người nam ấy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là loài thú và biết là loài thú, có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của loài thú ấy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[419] Hai người nữ và biết hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người nữ ấy thì phạm hai tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hai người nữ và có sự hoài nghi là hai người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người nữ ấy thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).
Hai người vô căn và biết hai người vô căn là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người vô căn ấy thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).
Hai người vô căn và có sự hoài nghi là hai người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người vô căn ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Hai người nam và biết hai người nam là người nam, ...(như trên)...
Hai con thú và biết hai con thú là loài thú, có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai con thú ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người vô căn, có sự hoài nghi về cả hai, ...(như trên)... thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... (lầm) tưởng là người vô căn, ...(như trên)... thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... (lầm) tưởng là người nam, ...(như trên)... (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người nam, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và người nam, có sự hoài nghi về cả hai, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ và loài thú, có sự hoài nghi về cả hai, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người vô căn và người nam, (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người vô căn và người nam, có sự hoài nghi về cả hai, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người vô căn và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).
Người vô căn và loài thú, có sự hoài nghi về cả hai, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người nam, có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
[420] Vị nói rằng: “Hãy hộ độ với vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[421]
Cách nào bà hiếm muộn,
có được đức con trai?
được yêu quý, thương mến?
Tôi nên dâng vật gì?
Hộ độ bằng thứ gì?
Cách nào được sanh thiên?
[422] Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà không sanh sản nọ đã nói với vị tỳ khưu thường tới lui với gia đình điều này:
- Thưa ngài, làm sao tôi có thể sanh con?
- Này em gái, hãy dâng vật thí hạng nhất.
- Thưa ngài, cái gì là vật thí hạng nhất?
- Là việc đôi lứa.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)... Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà còn sanh sản nọ đã nói với vị tỳ khưu thường tới lui với gia đình điều này:
- Thưa ngài, làm sao tôi có thể có được con trai?
- Này em gái, hãy dâng vật thí hạng nhất.
- Thưa ngài, cái gì là vật thí hạng nhất?
- Là việc đôi lứa.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ đã nói với vị tỳ khưu thường tới lui với gia đình điều này:
- Thưa ngài, làm sao tôi có thể được chồng yêu quý?
- Này em gái, hãy dâng vật thí hạng nhất.
- Thưa ngài, cái gì là vật thí hạng nhất?
- Là việc đôi lứa.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ đã nói với vị tỳ khưu thường tới lui với gia đình điều này:
- Thưa ngài, làm sao tôi có thể được may mắn?
- Này em gái, hãy dâng vật thí hạng nhất.
- Thưa ngài, cái gì là vật thí hạng nhất?
- Là việc đôi lứa.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ đã nói với vị tỳ khưu thường tới lui với gia đình điều này:
- Thưa ngài, tôi sẽ dâng ngài đại đức vật gì?
- Này em gái, hãy dâng vật thí hạng nhất.
- Thưa ngài, cái gì là vật thí hạng nhất?
- Là việc đôi lứa.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ đã nói với vị tỳ khưu thường tới lui với gia đình điều này:
- Thưa ngài, tôi hộ độ ngài đại đức bằng vật gì?
- Này em gái, bằng vật thí hạng nhất.
- Thưa ngài, cái gì là vật thí hạng nhất?
- Là việc đôi lứa.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ đã nói với vị tỳ khưu thường tới lui với gia đình điều này:
- Thưa ngài, làm sao tôi có thể sanh về cõi trời?
- Này em gái, hãy dâng vật thí hạng nhất.
- Thưa ngài, cái gì là vật thí hạng nhất?
- Là việc đôi lứa.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng)?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Dứt điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ tư.
*******
Bạch chư đại đức, hai điều aniyata (bất định) này được đưa ra đọc tụng.
ĐIỀU ANIYATA (BẤT ĐỊNH) THỨ NHẤT:
[633] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi là vị thường tới lui với các gia đình và đi đến nhiều gia đình ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, người con gái của gia đình hộ độ đại đức Udāyi đã được gả cho người con trai của gia đình nọ. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Udāyi đã mặc y, cầm y bát, đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã hỏi mọi người rằng:
- Cô gái tên (như vầy) ở đâu?
Những người ấy đã nói như vầy:
- Thưa ngài, cô ấy đã được gả cho người con trai của gia đình kia rồi.
Và gia đình ấy cũng là người hộ độ của đại đức Udāyi. Sau đó, đại đức Udāyi đã đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã hỏi mọi người rằng:
- Cô gái tên (như vầy) ở đâu?
- Thưa ngài, cô ấy ngồi ở phòng trong.
Khi ấy, đại đức Udāyi đã đi đến gặp người con gái ấy, sau khi đến đã cùng với người con gái ấy một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động, tùy lúc thì tâm sự, tùy lúc thì nói Pháp. [1]
[634] Vào lúc bấy giờ, bà Visākhā mẹ của Migāra có nhiều con trai, có nhiều cháu trai,[2]có các con trai không bệnh tật, có các cháu trai không bệnh tật, được xem là điều đại kiết tường. Trong những dịp tế lễ, hội hè, đình đám, dân chúng thường ưu tiên thỉnh mời bà Visākhā mẹ của Migāra đến dự tiệc. Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra được gia đình ấy thỉnh mời đã đi đến. Rồi bà Visākhā mẹ của Migāra đã nhìn thấy đại đức Udāyi cùng với người con gái ấy một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động, sau khi nhìn thấy đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Thưa ngài, điều này là không thích hợp, là không đúng đắn. Là việc ngài đại đức cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động. Thưa ngài, mặc dầu ngài đại đức không có ước muốn gì đến chuyện ấy, tuy nhiên những người không có niềm tin thì khó mà thuyết phục lắm.
Tuy được bà Visākhā mẹ của Migāra nói như thế, đại đức Udāyi đã không lưu tâm đến. Sau đó, bà Visākhā mẹ của Migāra đã ra về và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này Udāyi, nghe nói ngươi cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, … (như trên) … Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động, có nữ cư sĩ có lời nói đáng tin cậy sau khi thấy rồi tố cáo vị ấy với một tội nào đó trong ba tội: hoặc là với tội pārājika (bất cộng trụ), hoặc là với tội saṅghādisesa (tăng tàng), hoặc là với tội pācittiya (ưng đối trị). (Nếu) vị tỳ khưu thú nhận việc ngồi thì nên được hành xử với một tội nào đó trong ba tội: hoặc là với tội pārājika, hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya; hoặc là nữ cư sĩ có lời nói đáng tin cậy ấy tố cáo với tội nào thì nên hành xử vị tỳ khưu ấy theo tội ấy. Đây là điều aniyata (bất định).”
[635] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữ nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, ngay cả đứa bé gái mới sanh ngày hôm ấy cho đến bà lão.
Với: cùng chung.
Một nam một nữ: chỉ có vị tỳ khưu và người nữ.
Kín đáo: nghĩa là kín đáo đối với mắt, kín đáo đối với tai.
Kín đáo đối với mắt nghĩa là không thể nhìn thấy trong khi bị che mắt lại, trong khi nhướng mày, trong khi ngẩng đầu lên.
Kín đáo đối với tai nghĩa là không thể nghe lời nói (với giọng) bình thường.
Chỗ ngồi được che khuất nghĩa là được che khuất bởi bức tường, hoặc bởi cánh cửa, hoặc bởi tấm màn, hoặc bởi khung chắn, hoặc bởi cội cây, hoặc bởi cột nhà, hoặc bởi nhà kho, hoặc bởi bất cứ vật gì.
Thuận tiện cho hành động: là có thể thực hiện việc đôi lứa.
Ngồi: Khi người nữ đang ngồi thì vị tỳ khưu ngồi gần hoặc nằm gần, khi vị tỳ khưu đang ngồi thì người nữ ngồi gần hoặc nằm gần, hoặc cả hai đang ngồi, hoặc cả hai đang nằm.
[636] Có lời nói đáng tin cậy nghĩa là người nữ đã chứng Thánh Quả, đã thông suốt Tứ Diệu Đế (abhisametāvinī), đã hiểu rõ Tam Học: Giới, Định, Tuệ (viññātasāsanā).[3]
Nữ cư sĩ nghĩa là người nữ đã quy y đức Phật, đã quy y đức Pháp, đã quy y đức Tăng.
Sau khi thấy: sau khi đã nhìn thấy.
[637] (Cô ấy) có thể tố cáo với một tội nào đó trong ba tội: hoặc là với tội pārājika, hoặc là với tội saṅghādisesa (tăng tàng), hoặc là với tội pācittiya (ưng đối trị). (Nếu) vị tỳ khưu thú nhận việc ngồi thì nên được hành xử với một tội nào đó trong ba tội: hoặc là với tội pārājika, hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya; hoặc là nữ cư sĩ có lời nói đáng tin cậy ấy tố cáo với tội nào thì nên hành xử vị tỳ khưu ấy theo tội ấy.
[638] Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã ngồi và đang thực hiện việc đôi lứa với người nữ,” nếu vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo tội vi phạm.
Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã ngồi và đang thực hiện việc đôi lứa với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Sự thật là tôi đã ngồi nhưng tôi đã không thực hiện việc đôi lứa” thì nên hành xử theo việc ngồi.
Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã ngồi và đang thực hiện việc đôi lứa với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Tôi đã không ngồi nhưng đã nằm” thì nên hành xử theo việc nằm.
Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã ngồi và đang thực hiện việc đôi lứa với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Tôi đã không ngồi nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.
[639] Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã nằm và đang thực hiện việc đôi lứa với người nữ,” nếu vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo tội vi phạm.
Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã nằm và đang thực hiện việc đôi lứa với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Sự thật là tôi đã nằm nhưng tôi đã không thực hiện việc đôi lứa” thì nên hành xử theo việc nằm.
Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã nằm và đang thực hiện việc đôi lứa với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Tôi đã không nằm nhưng đã ngồi” thì nên hành xử theo việc ngồi.
Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã nằm và đang thực hiện việc đôi lứa với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Tôi đã không nằm nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.
[640] Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã ngồi và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” nếu vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo tội vi phạm.
Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã ngồi và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Sự thật là tôi đã ngồi nhưng tôi đã không thực hiện việc xúc chạm cơ thể” thì nên hành xử theo việc ngồi.
...(như trên)... “Tôi đã không ngồi nhưng đã nằm” thì nên hành xử theo việc nằm.
...(như trên)... “Tôi đã không ngồi nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.
[641] Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã nằm và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” nếu vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo tội vi phạm.
Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã nằm và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Sự thật là tôi đã nằm nhưng tôi đã không thực hiện việc xúc chạm cơ thể” thì nên hành xử theo việc nằm.
...(như trên)... “Tôi đã không nằm nhưng đã ngồi” thì nên hành xử theo việc ngồi.
...(như trên)... “Tôi đã không nằm nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.
[642] Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức cùng với người nữ một nam một nữ đã ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động,”nếu vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo việc ngồi.
...(như trên)... “Tôi đã không ngồi nhưng đã nằm” thì nên hành xử theo việc nằm.
...(như trên)... “Tôi đã không ngồi nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.
[643] Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức cùng với người nữ một nam một nữ đã nằm xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động,”nếu vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo việc nằm.
...(như trên)... “Tôi đã không nằm nhưng đã ngồi” thì nên hành xử theo việc ngồi.
...(như trên)... “Tôi đã không nằm nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.
[644] Tội aniyata (bất định): không chắc chắn là tội pārājika (bất cộng trụ), hay là tội saṅghādisesa (tăng tàng), hay là tội pācittiya (ưng đối trị).
[645] Vị thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội thì nên hành xử theo tội vi phạm.
Vị thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội thì nên hành xử theo tội vi phạm.
Vị thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội thì nên hành xử theo việc ngồi.
Vị thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội thì không nên hành xử.
Vị không thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội thì nên hành xử theo tội vi phạm.
Vị không thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội thì nên hành xử theo tội vi phạm.
Vị không thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội thì nên hành xử theo việc ngồi.
Vị không thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội thì không nên hành xử.
Dứt điều aniyata (bất định) thứ nhất.
*******
ĐIỀU ANIYATA (BẤT ĐỊNH) THỨ NHÌ:
[646] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán việc cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động” nên đã cùng với chính người con gái ấy một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, tùy lúc thì tâm sự, tùy lúc thì nói Pháp.
Đến lần thứ nhì, bà Visākhā mẹ của Migāra được gia đình ấy thỉnh mời đã đi đến. Rồi bà Visākhā mẹ của Migāra đã nhìn thấy đại đức Udāyi cùng với chính người con gái ấy một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, sau khi nhìn thấy đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Thưa ngài, điều này là không thích hợp, là không đúng đắn. Là việc ngài đại đức cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo. Thưa ngài, mặc dầu ngài đại đức không có ước muốn gì đến chuyện ấy, tuy nhiên những người không có niềm tin thì khó mà thuyết phục lắm.
Tuy được bà Visākhā mẹ của Migāra nói như thế, đại đức Udāyi đã không lưu tâm đến. Sau đó, bà Visākhā mẹ của Migāra đã ra về và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này Udāyi, nghe nói ngươi cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- … (như trên) … Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Hơn nữa, khi chỗ ngồi là không được che khuất, không thuận tiện cho hành động, nhưng thích hợp để nói với người nữ bằng những lời dâm dục. Vị tỳ khưu nào ở chỗ ngồi có hình thức như thế cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, có nữ cư sĩ có lời nói đáng tin cậy sau khi thấy rồi tố cáo vị ấy với một tội nào đó trong hai tội: hoặc là với tội saṅghādisesa (tăng tàng), hoặc là với tội pācittiya (ưng đối trị). (Nếu) vị tỳ khưu thú nhận việc ngồi thì nên hành xử với một tội nào đó trong hai tội: hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya; hoặc là nữ cư sĩ có lời nói đáng tin cậy ấy tố cáo với tội nào thì nên hành xử vị tỳ khưu ấy theo tội ấy. Đây cũng là điều aniyata (bất định).”
[647] Hơn nữa, khi chỗ ngồi là không được che khuất: là không được che khuất bởi bức tường, hoặc bởi cánh cửa, hoặc bởi tấm màn, hoặc bởi khung chắn, hoặc bởi cội cây, hoặc bởi cột nhà, hoặc bởi nhà kho, hoặc bởi bất cứ vật gì.
Không thuận tiện cho hành động: là không thể thực hiện việc đôi lứa.
Nhưng thích hợp để thốt ra với người nữ bằng những lời dâm dục: là có thể nói với người nữ bằng những lời dâm dục
[648] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Ở chỗ ngồi có hình thức như thế: ở chỗ ngồi y như thế ấy.
Người nữ nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có hiểu biết, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là dâm dật và không dâm dật.
Với: cùng chung.
Một nam một nữ: chỉ có vị tỳ khưu và người nữ.
Kín đáo: nghĩa là kín đáo đối với mắt, kín đáo đối với tai.
Kín đáo đối với mắt nghĩa là không thể nhìn thấy trong khi bị che mắt lại, trong khi nhướng mày, trong khi ngẩng đầu lên.
Kín đáo đối với tai nghĩa là không thể nghe lời nói (với giọng) bình thường.
Ngồi: Khi người nữ đang ngồi thì vị tỳ khưu ngồi gần hoặc nằm gần, khi vị tỳ khưu đang ngồi thì người nữ ngồi gần hoặc nằm gần, hoặc cả hai đang ngồi, hoặc cả hai đang nằm.
[649] Có lời nói đáng tin cậy: nghĩa là người nữ đã chứng Thánh Quả, đã thông suốt Tứ Diệu Đế (abhisametāvinī), đã hiểu rõ Tam Học: Giới, Định, Tuệ (viññātasāsanā).
Nữ cư sĩ nghĩa là người nữ đã quy y đức Phật, đã quy y đức Pháp, đã quy y đức Tăng.
Sau khi thấy: sau khi đã nhìn thấy.
[650] (Cô ấy) có thể tố cáo với một tội nào đó trong hai tội: hoặc là với tội saṅghādisesa (tăng tàng), hoặc là với tội pācittiya (ưng đối trị), (nếu) vị tỳ khưu thú nhận việc ngồi thì nên được hành xử với một tội nào đó trong hai tội: hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya; hoặc là nữ cư sĩ có lời nói đáng tin cậy ấy tố cáo với tội nào thì nên hành xử vị tỳ khưu ấy theo tội ấy.
[651] Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã ngồi và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” nếu vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo tội vi phạm.
Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã ngồi và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Sự thật là tôi đã ngồi nhưng tôi đã không thực hiện việc xúc chạm cơ thể” thì nên hành xử theo việc ngồi.
Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã ngồi và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Tôi đã không ngồi nhưng đã nằm” thì nên hành xử theo việc nằm.
Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã ngồi và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Tôi đã không ngồi nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.
[652] Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức đã nằm và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” nếu vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo tội vi phạm.
...(như trên)... “Sự thật là tôi đã nằm nhưng tôi đã không thực hiện việc xúc chạm cơ thể” thì nên hành xử theo việc nằm.
...(như trên)... “Tôi đã không nằm nhưng đã ngồi” thì nên hành xử theo việc ngồi.
...(như trên)... “Tôi đã không nằm nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.
[653] Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã nghe được rằng ngài đại đức đã ngồi và đang nói với người nữ bằng những lời dâm dục,” nếu vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo tội vi phạm.
Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã nghe được rằng ngài đại đức đã ngồi và đang nói với người nữ bằng những lời dâm dục,” nếu vị ấy nói như vầy: “Sự thật là tôi đã ngồi nhưng tôi đã không nói với người nữ bằng những lời dâm dục” thì nên hành xử theo việc ngồi.
...(như trên)... “Tôi đã không ngồi nhưng đã nằm” thì nên hành xử theo việc nằm.
...(như trên)... “Tôi đã không ngồi nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.
[654] Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã nghe được rằng ngài đại đức đã nằm và đang nói với người nữ bằng những lời dâm dục,” nếu vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo tội vi phạm.
...(như trên)... “Sự thật là tôi đã nằm nhưng tôi đã không nói bằng những lời dâm dục” thì nên hành xử theo việc nằm.
...(như trên)... “Tôi đã không nằm nhưng đã ngồi” thì nên hành xử theo việc ngồi.
...(như trên)... “Tôi đã không nằm nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.
[655] Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức cùng với người nữ một nam một nữ đã ngồi ở chỗ kín đáo,”nếu vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo việc ngồi.
...(như trên)... “Tôi đã không ngồi nhưng đã nằm” thì nên hành xử theo việc nằm.
...(như trên)... “Tôi đã không ngồi nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.
[656] Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy ngài đại đức cùng với người nữ một nam một nữ đã nằm ở chỗ kín đáo,”nếu vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo việc nằm.
...(như trên)... “Tôi đã không nằm nhưng đã ngồi” thì nên hành xử theo việc ngồi.
...(như trên)... “Tôi đã không nằm nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.
[657] Đây cũng là: được gọi như thế vì có liên quan đến điều trước.
Tội aniyata (bất định): không chắc chắn là tội saṅghādisesa (tăng tàng), hay là tội pācittiya (ưng đối trị).
[658] Vị thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội thì nên hành xử theo tội vi phạm.
Vị thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội thì nên hành xử theo tội vi phạm.
Vị thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội thì nên hành xử theo việc ngồi.
Vị thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội thì không nên hành xử.
Vị không thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội thì nên hành xử theo tội vi phạm.
Vị không thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội thì nên hành xử theo tội vi phạm.
Vị không thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội thì nên hành xử theo việc ngồi.
Vị không thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội thì không nên hành xử.
Dứt điều aniyata (bất định) thứ nhì.
*******
[659] Bạch chư đại đức, hai điều aniyata (bất định)đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Chương Aniyata (Bất Định).
*******
Tóm lược chương này:
Thuận tiện cho hành động,
như thế, không như thế,
đức Phật khéo xếp đặt
điều bất định như thế.
*******
[1]Xem xét khi nào không có ai qua lại thì hỏi han chuyện gia đình: “Chắc là cô hạnh phúc? Chắc là cô không bị mệt nhọc? Chắc là cô không bị đói?” v.v... Khi nào có ai đi lại gần thì nói Pháp: “Nên thọ bát quan trai giới. Nên dâng thức ăn theo thẻ.” v.v... (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[2]Bà có 10 người con trai và 10 người con gái. Mỗi người con trai hoặc gái có 20 người con. Tổng cọng bà có 420 người con cháu cả thảy (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[3]Hai từ trong ngoặc đơn được ghi nghĩa theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa.
-ooOoo-
Bạch chư đại đức, ba mươi điều nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị) này
được đưa ra đọc tụng.
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[1] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, ở tháp thờ Gotamaka. Vào lúc bấy giờ, ba y đã được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Ba y đã được đức Thế Tôn cho phép” nên đi vào làng với ba y nọ, mặc ở trong tu viện với ba y khác, và đi xuống tắm với ba y khác nữa. Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại sử dụng y phụ trội?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sử dụng y phụ trội, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại sử dụng y phụ trội vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sử dụng y phụ trội thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[2] Vào lúc bấy giờ, có y phụ trội phát sanh đến đại đức Ānanda. Đại đức Ānanda có ý định dâng y ấy đến đại đức Sāriputta. Và đại đức Sāriputta cư ngụ ở Sāketa. Khi ấy, đại đức Ānanda đã khởi ý điều này: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định là: ‘Không được sử dụng y phụ trội’ và y phụ trội này đã được phát sanh đến ta. Và ta có ý định dâng y này đến đại đức Sāriputta mà đại đức Sāriputta cư ngụ ở Sāketa; vậy ta nên thực hành như thế nào?” Sau đó, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Ānanda, bao lâu nữa Sāriputta sẽ đi đến đây?
- Bạch Thế Tôn, ngày thứ chín hoặc ngày thứ mười.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép cất giữ [1]y phụ trội tối đa mười ngày. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi vấn đề y đã được dứt điểm đối với vị tỳ khưu tức là khi Kaṭhina đã hết hiệu lực, y phụ trội được cất giữ tối đa mười ngày. Vượt quá hạn ấy thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”[2]
[3] Khi vấn đề y đã được dứt điểm: Y của vị tỳ khưu đã được làm xong, hoặc là đã bị mất, hoặc là đã bị hư hỏng, hoặc là đã bị cháy, hoặc là niềm mong mỏi về y đã bị tan vỡ.
Khi Kaṭhina đã hết hiệu lực: là đã hết hiệu lực do bất cứ tiêu đề nào trong tám tiêu đề,[3]hoặc là đã hết hiệu lực giữa chừng do hội chúng.[4]
Tối đa mười ngày: là được cất giữ (hoặc sử dụng) nhiều nhất là mười ngày.
Y phụ trội nghĩa là chưa được chú nguyện để dùng riêng, chưa được chú nguyện để dùng chung.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y[5](có kích thước) tối thiểu[6]cần phải chú nguyện để dùng chung.
Vượt quá hạn ấy thì (y ấy) nên được xả bỏ: Khi mặt trời mọc ngày thứ mười một thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy:
[4] Vị tỳ khưu ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, y này của tôi đã quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ (y) này đến hội chúng.
Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm đủ năng lực, và y đã xả bỏ nên được cho lại. Và này các tỳ khưu, nên cho lại như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Y này thuộc về vị tỳ khưu tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đã được xả bỏ đến hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho lại y này đến vị tỳ khưu tên (như vầy).”
[5] Vị tỳ khưu ấy nên đi đến nhiều vị tỳ khưu, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, y này của tôi đã quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến các đại đức.
Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm đủ năng lực, và y đã xả bỏ nên được cho lại. Và này các tỳ khưu, nên cho lại như vầy: Các tỳ khưu ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Xin chư đại đức hãy lắng nghe tôi. Y này thuộc về vị tỳ khưu tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đã được xả bỏ đến chư đại đức. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, chư đại đức nên cho lại y này đến vị tỳ khưu tên (như vầy).”
[6] Vị tỳ khưu ấy nên đi đến một vị tỳ khưu, đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch đại đức, y này của tôi đã quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến đại đức.
Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu ấy và y đã xả bỏ nên được cho lại: “Tôi cho lại đại đức y này.”
[7] Khi quá hạn mười ngày, nhận biết là đã quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi quá hạn mười ngày, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi quá hạn mười ngày, (lầm) tưởng là chưa quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa được chú nguyện để dùng riêng, (lầm) tưởng là đã được chú nguyện để dùng riêng, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa được chú nguyện để dùng chung, (lầm) tưởng là đã được chú nguyện để dùng chung, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đã được phân phát, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đã bị mất trộm, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đã bị hư hỏng, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi không bị cháy, (lầm) tưởng là đã bị cháy, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đã bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Y phạm vào nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa quá hạn mười ngày, (lầm) tưởng là đã quá hạn, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa quá hạn mười ngày, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa quá hạn mười ngày, nhận biết là chưa quá hạn thì vô tội.
[8] Trong thời hạn mười ngày, vị chú nguyện để dùng riêng, vị chú nguyện để dùng chung, vị phân phát, (y) bị mất trộm, (y) bị hư hỏng, (y) bị cháy, (người khác) cướp rồi lấy đi, (vị khác) lấy do sự thân thiết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[9] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư không cho lại y đã được xả bỏ. Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư không cho lại y đã được xả bỏ?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi không cho lại y đã được xả bỏ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ...(như trên)... đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên không cho lại y đã được xả bỏ; vị nào không cho lại thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt điều học thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[10] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi (Xá Vệ), Jetavana (Kỳ Viên), tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu sau khi đã trao y tận tay các tỳ khưu rồi ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y (y vai trái).[7]Các y ấy được để lại lâu ngày đã trở nên mốc meo. Các tỳ khưu đem phơi nắng các y ấy. Đại đức Ānanda trong lúc đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đã nhìn thấy các tỳ khưu ấy đang phơi nắng các y ấy, sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này các đại đức, các y bị mốc meo này là của vị nào vậy?
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho đại đức Ānanda. Đại đức Ānanda phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu sau khi trao y tận tay các tỳ khưu lại ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y?
Sau đó, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã hỏi các vị tỳ khưu ấy rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu sau khi trao y tận tay các tỳ khưu rồi ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy, sau khi trao y tận tay các tỳ khưu, lại ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi vấn đề y đã được dứt điểm đối với vị tỳ khưu tức là khi Kaṭhina đã hết hiệu lực, nếu vị tỳ khưu xa lìa ba y dầu chỉ một đêm thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[11] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ ở thành Kosambī bị bệnh. Các thân quyến đã phái người đưa tin đến gặp vị tỳ khưu ấy (nói rằng): “Ngài đại đức hãy đi đến. Chúng tôi sẽ hộ độ.” Các tỳ khưu cũng đã nói như vầy:
- Này đại đức, hãy đi. Các thân quyến sẽ hộ độ đại đức.
Vị ấy đã nói như vầy:
- Này các đại đức, điều học đã được đức Thế Tôn quy định rằng: “Không được xa lìa ba y;” và tôi thì bị bệnh nên không thể mang theo ba y mà ra đi được. Tôi sẽ không đi.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự đồng ý về việc không vi phạm tội vì xa lìa ba y đối với tỳ khưu bị bệnh. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi bị bệnh không thể mang theo ba y mà ra đi được. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về việc không vi phạm tội vì xa lìa ba y.
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) bị bệnh không thể mang theo ba y mà ra đi được. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về việc không vi phạm tội vì xa lìa ba y. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ý về việc không vi phạm tội vì xa lìa ba yđến vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) bị bệnh không thể mang theo ba y mà ra đi được. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về việc không vi phạm tội vì xa lìa ba y. Hội chúng ban cho sự đồng ý về việc không vi phạm tội vì xa lìa ba yđến vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc ban cho sự đồng ý về việc không vi phạm tội vì xa lìa ba yđến vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự đồng ý về việc không vi phạm tội vì xa lìa ba yđã được hội chúng ban cho vị tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi vấn đề y đã được dứt điểm đối với vị tỳ khưu tức là khi Kaṭhina đã hết hiệu lực, nếu vị tỳ khưu xa lìa ba y dầu chỉ một đêm thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị), ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.”
[12] Khi vấn đề y đã được dứt điểm: Y của vị tỳ khưu đã được làm xong, hoặc là đã bị mất, hoặc là đã bị hư hỏng, hoặc là đã bị cháy, hoặc là niềm mong mỏi về y đã bị tan vỡ.
Khi Kaṭhina đã hết hiệu lực: là đã hết hiệu lực do bất cứ tiêu đề nào trong tám tiêu đề, hoặc là đã hết hiệu lực giữa chừng do hội chúng.
Nếu vị tỳ khưu xa lìa ba y dầu chỉ một đêm: Nếu đã xa lìa hoặc là y hai lớp (saṅghāṭi), hoặc là thượng y (uttarāsaṅga), hoặc là y nội (antaravāsaka) dầu chỉ một đêm.
Ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu: Trừ ra có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Thì (y ấy) nên được xả bỏ (nissaggiyaṃ): Khi mặt trời mọc thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: Vị tỳ khưu ấy nên đi đến nơi hội chúng, ...(như trên)... và nên nói như vầy: “Bạch các ngài, y này của tôi đã xa lìa qua đêm giờ cần được xả bỏ, ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[13] Làng một địa hạt, nhiều địa hạt; gia trang một địa hạt, nhiều địa hạt; trang trại một địa hạt, nhiều địa hạt; nhà mái nhọn một địa hạt, nhiều địa hạt; tòa nhà vuông một địa hạt, nhiều địa hạt; tòa nhà dài một địa hạt, nhiều địa hạt; khu nhà lớn một địa hạt, nhiều địa hạt; chiếc thuyền một địa hạt, nhiều địa hạt; đoàn xe một địa hạt, nhiều địa hạt; cánh đồng một địa hạt, nhiều địa hạt; ruộng lúa một địa hạt, nhiều địa hạt; khu vườn một địa hạt, nhiều địa hạt; trú xá một địa hạt, nhiều địa hạt; gốc cây một địa hạt, nhiều địa hạt; khoảng không gian một địa hạt, nhiều địa hạt.
[14] Làng một địa hạt nghĩa là làng thuộc về một gia đình. (Nếu) được rào lại, sau khi đã để y ở trong làng thì nên hiện diện trong làng. (Nếu) không được rào lại, y đã được để ở tại nhà nào thì nên hiện diện tại nhà đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.[8]
Nhiều địa hạt nghĩa là thuộc về nhiều gia đình. (Nếu) được rào lại, y đã được để ở tại nhà nào thì nên hiện diện tại nhà đó: ở trong phòng hội họp hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. Khi đi đến phòng hội họp, sau khi đã để y ở trong tầm tay thì nên hiện diện ở trong phòng hội họp hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. Sau khi đã để y ở trong phòng hội họp, nên hiện diện ở trong phòng hội họp hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại, y đã được để ở tại nhà nào thì nên hiện diện tại nhà đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.
[15] Gia trang (nivesanaṃ) thuộc về một gia đình là được rào lại và có nhiều căn phòng (gabbhā), nhiều hậu phòng (ovarakā). Sau khi đã để y ở trong gia trang thì nên hiện diện trong gia trang. (Nếu) không được rào lại, y đã được để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.
Gia trang thuộc về nhiều gia đình là được rào lại và có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Y đã được để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại, y đã được để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.
[16] Trang trại (uddosito) thuộc về một gia đình là được rào lại và có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Sau khi đã để y ở trong trang trại thì nên hiện diện trong trang trại. (Nếu) không được rào lại, y đã được để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.
Trang trại thuộc về nhiều gia đình là được rào lại và có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Y đã được để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại, y đã được để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.
[17] Nhà mái nhọn (aṭṭo) thuộc về một gia đình: Sau khi đã để y ở trong nhà mái nhọn thì nên hiện diện trong nhà mái nhọn.
Nhà mái nhọn thuộc về nhiều gia đình là có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Y đã được để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.
[18] Tòa nhà vuông (mālo) thuộc về một gia đình: Sau khi đã để y ở trong tòa nhà vuông thì nên hiện diện trong tòa nhà vuông.
Tòa nhà vuông thuộc về nhiều gia đình là có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Y đã được để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.
[19] Tòa nhà dài (pāsādo) thuộc về một gia đình: Sau khi đã để y ở trong tòa nhà dài thì nên hiện diện trong tòa nhà dài .
Tòa nhà dài thuộc về nhiều gia đình là có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Y đã được để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.
[20] Khu nhà lớn (hammiyaṃ) thuộc về một gia đình: Sau khi đã để y ở trong khu nhà lớn thì nên hiện diện trong khu nhà lớn.
Khu nhà lớn thuộc về nhiều gia đình là có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Y đã được để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.
[21] Chiếc thuyền (nāvā) thuộc về một gia đình: Sau khi đã để y ở trong chiếc thuyền thì nên hiện diện trong chiếc thuyền.
Chiếc thuyền thuộc về nhiều gia đình là có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Y đã được để ở trong hậu phòng nào thì nên hiện diện trong hậu phòng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.
[22] Đoàn xe (sattho) thuộc về một gia đình: Sau khi đã để y ở trong đoàn xe thì không nên rời xa phía trước hoặc phía sau quá bảy abbhantara,[9]không nên xa rời phía bên hông quá một abbhantara.
Đoàn xe thuộc về nhiều gia đình: Sau khi đã để y ở trong đoàn xe thì không nên rời xa khỏi tầm tay.
[23] Cánh đồng (khettaṃ) thuộc về một gia đình:(Nếu) được rào lại, sau khi đã để y ở bên trong cánh đồng thì nên hiện diện bên trong cánh đồng. (Nếu) không được rào lại thì không nên rời khỏi tầm tay.
Cánh đồng thuộc về nhiều gia đình: (Nếu) được rào lại, sau khi đã để y ở bên trong cánh đồng thì nên hiện diện bên trong cánh đồng hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại thì không nên rời khỏi tầm tay.
[24] Ruộng lúa (dhaññakaraṇaṃ) thuộc về một gia đình:(Nếu) được rào lại, sau khi đã để y bên trong ruộng lúa thì nên hiện diện bên trong ruộng lúa. (Nếu) không được rào lại thì không nên rời khỏi tầm tay.
Ruộng lúa thuộc về nhiều gia đình: (Nếu) được rào lại, sau khi đã để y ở bên trong ruộng lúa thì nên hiện diện ở nơi ngưỡng cửa hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại thì không nên rời khỏi tầm tay.
[25] Khu vườn (ārāmo) thuộc về một gia đình:(Nếu) được rào lại và sau khi đã để y ở bên trong khu vườn thì nên hiện diện ở bên trong khu vườn. (Nếu) không được rào lại thì không nên rời khỏi tầm tay.
Khu vườn thuộc về nhiều gia đình: (Nếu) được rào lại, sau khi đã để y ở bên trong khu vườn thì nên hiện diện ở nơi ngưỡng cửa hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại thì không nên rời khỏi tầm tay.
[26] Trú xá (vihāro) thuộc về một gia đình:(Nếu) được rào lại, sau khi đã để y ở bên trong trú xá thì nên hiện diện bên trong trú xá. (Nếu) không được rào lại, y đã được để ở tại trú xá nào thì nên hiện diện tại trú xá ấy, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.
Trú xá thuộc về nhiều gia đình: (Nếu) được rào lại, y đã được để ở tại trú xá nào thì nên hiện diện tại trú xá ấy hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại, y đã được để ở tại trú xá nào thì nên hiện diện tại trú xá ấy hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.
[27] Gốc cây thuộc về một gia đình là toàn bộ bóng râm được chiếu xuống vào lúc nửa ngày (giữa trưa). Sau khi đã để y ở bên trong bóng râm thì nên hiện diện bên trong bóng râm.
Gốc cây thuộc về nhiều gia đình thì không nên rời khỏi tầm tay.
[28] Khoảng không gian một địa hạt, nhiều địa hạt nghĩa là không ở trong thôn làng, ở trong rừng, khoảng không gian xung quanh bảy abbhantara là một địa hạt,[10]từ đó trở đi là nhiều địa hạt.
[29] Khi đã xa lìa, nhận biết là đã xa lìa, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị) ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Khi đã xa lìa, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Khi đã xa lìa, (lầm) tưởng là chưa xa lìa, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Khi chưa nguyện xả, (lầm) tưởng là đã nguyện xả, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đã phân phát, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đã bị mất trộm, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đã bị hư hỏng, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Khi không bị cháy, (lầm) tưởng là đã bị cháy, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đã bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
[30] Y phạm vào nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa bị xa lìa, (lầm) tưởng là đã bị xa lìa, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa bị xa lìa, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa bị xa lìa, nhận biết là chưa bị xa lìa thì vô tội.
[31] Vị nguyện xả vào thời điểm rạng đông, vị phân phát, (y) bị mất trộm, (y) bị hư hỏng, (y) bị cháy, (người khác) cướp rồi lấy đi, (vị khác) lấy do sự thân thiết, với sự đồng ý của các tỳ khưu, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhì.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[32] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, y ngoài hạn kỳ đã phát sanh đến vị tỳ khưu nọ. Y ấy trong khi được may cho vị ấy thì không đủ. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy căng y ấy ra rồi vuốt tới vuốt lui cho thẳng. Đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các trú xá đã nhìn thấy vị tỳ khưu ấy sau khi căng y ấy ra đang vuốt tới vuốt lui cho thẳng, sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này tỳ khưu, vì sao ngươi lại căng y ấy ra rồi vuốt tới vuốt lui cho thẳng vậy?
- Bạch ngài, y ngoài thời hạn này đã phát sanh đến con, trong khi được may lại không đủ. Chính vì thế nên con căng y này ra rồi vuốt tới vuốt lui cho thẳng.
- Này tỳ khưu, ngươi có sự mong mỏi về y không?
- Bạch Thế Tôn, thưa có.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép sau khi thọ lãnh y ngoài hạn kỳ thì được giữ lại với sự mong mỏi về y.
[33] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cho phép sau khi thọ lãnh y ngoài hạn kỳ thì được giữ lại với sự mong mỏi về y” nên khi thọ lãnh y ngoài hạn kỳ thì giữ lại hơn một tháng. Các y ấy được buộc thành đống treo ở sào máng y. Đại đức Ānanda trong khi đi dạo quanh các trú xá đã nhìn thấy các y ấy được buộc thành đống treo ở sào máng y, sau khi nhìn thấy đã nói với các tỳ khưu rằng:
- Này các đại đức, các y đã được chất thành đống treo ở sào máng y là của vị nào vậy?
- Này đại đức, chúng là các y ngoài hạn kỳ của chúng tôi đã được giữ lại với sự mong mỏi về y.
- Này các đại đức, vậy các y này đã được giữ lại bao lâu rồi?
- Này đại đức, hơn một tháng.
Đại đức Ānanda phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu sau khi thọ lãnh y ngoài hạn kỳ rồi giữ lại hơn một tháng?
Sau đó, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu sau khi thọ lãnh y ngoài hạn kỳ rồi giữ lại hơn một tháng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy sau khi thọ lãnh y ngoài hạn kỳ rồi giữ lại hơn một tháng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi vấn đề y đã được dứt điểm đối với vị tỳ khưu tức là khi Kaṭhina đã hết hiệu lực, lại có y ngoài hạn kỳ phát sanh đến vị tỳ khưu, vị tỳ khưu đang mong muốn thì nên thọ lãnh. Sau khi thọ lãnh nên bảo thực hiện ngay lập tức, và nếu không đủ thì vị tỳ khưu ấy nên giữ lại y ấy tối đa một tháng khi có sự mong mỏi làm cho đủ phần thiếu hụt; nếu giữ lại quá hạn ấy mặc dầu có sự mong mỏi, (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[34] Khi vấn đề y đã được dứt điểm: Y của vị tỳ khưu đã được làm xong, hoặc là đã bị mất, hoặc là đã bị hư hỏng, hoặc là đã bị cháy, hoặc là niềm mong mỏi về y đã bị tan vỡ.
Khi Kaṭhina đã hết hiệu lực: là đã hết hiệu lực do bất cứ tiêu đề nào trong tám tiêu đề, hoặc là đã hết hiệu lực giữa chừng do hội chúng.
Y ngoài hạn kỳ nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu thì được phát sanh trong mười một tháng, khi Kaṭhina được thành tựu thì được phát sanh trong bảy tháng; (y) được dâng xác định trong thời gian trên thì (y) ấy gọi là y ngoài hạn kỳ.
Phát sanh: là phát sanh từ hội chúng, hoặc từ nhóm, hoặc từ thân quyến, hoặc từ bạn bè, hoặc từ vải quăng bỏ (paṃsukūla),[11]hoặc từ vật sở hữu của bản thân.[12]
[35] Đang mong muốn: vị đang ước muốn thì nên thọ lãnh.
Sau khi thọ lãnh nên bảo thực hiện ngay lập tức: nên bảo thực hiện trong mười ngày.
[36] Nếu không đủ: trong khi được may thì không đủ (không hình thành lá y).
Vị tỳ khưu ấy nên giữ lại y ấy tối đa một tháng: nên giữ lại nhiều nhất là một tháng.
Làm cho đủ phần thiếu hụt: với mục đích làm cho đủ phần thiếu hụt.
Khi có sự mong mỏi: là sự mong mỏi (y) từ hội chúng, hoặc từ nhóm, hoặc từ thân quyến, hoặc từ bạn bè, hoặc từ vải quăng bỏ, hoặc từ vật sở hữu của bản thân.
[37] Nếu giữ lại quá hạn ấy mặc dầu có sự mong mỏi: Khi y căn bản được phát sanh ngày ấy (và) y mong mỏi được phát sanh (cùng ngày) thì nên bảo thực hiện trong mười ngày. Khi y căn bản được phát sanh hai ngày ... Khi y căn bản được phát sanh ba ngày ... Khi y căn bản được phát sanh bốn ngày ... Khi y căn bản được phát sanh năm ngày ... Khi y căn bản được phát sanh sáu ngày ... Khi y căn bản được phát sanh bảy ngày ... Khi y căn bản được phát sanh tám ngày ... Khi y căn bản được phát sanh chín ngày ... Khi y căn bản được phát sanh mười ngày rồi y mong mỏi được phát sanh thì nên bảo thực hiện trong mười ngày.
Khi y căn bản được phát sanh mười một ngày ... Khi y căn bản được phát sanh mười hai ngày ... Khi y căn bản được phát sanh mười ba ngày ... Khi y căn bản được phát sanh mười bốn ngày ... Khi y căn bản được phát sanh mười lăm ngày ... Khi y căn bản được phát sanh mười sáu ngày ... Khi y căn bản được phát sanh mười bảy ngày ... Khi y căn bản được phát sanh mười tám ngày ... Khi y căn bản được phát sanh mười chín ngày ... Khi y căn bản được phát sanh hai mươi ngày rồi y mong mỏi được phát sanh thì nên bảo thực hiện trong mười ngày.
Khi y căn bản được phát sanh hai mươi mốt ngày rồi y mong mỏi được phát sanh thì nên bảo thực hiện trong chín ngày. Khi y căn bản được phát sanh hai mươi hai ngày rồi y mong mỏi được phát sanh thì nên bảo thực hiện trong tám ngày. Khi y căn bản được phát sanh hai mươi ba ngày ... thì nên bảo thực hiện trong bảy ngày. Khi y căn bản được phát sanh hai mươi bốn ngày ... thì nên bảo thực hiện trong sáu ngày. Khi y căn bản được phát sanh hai mươi lăm ngày ... thì nên bảo thực hiện trong năm ngày. Khi y căn bản được phát sanh hai mươi sáu ngày ... thì nên bảo thực hiện trong bốn ngày. Khi y căn bản được phát sanh hai mươi bảy ngày ... thì nên bảo thực hiện trong ba ngày. Khi y căn bản được phát sanh hai mươi tám ngày ... thì nên bảo thực hiện trong hai ngày. Khi y căn bản được phát sanh hai mươi chín ngày ... thì nên bảo thực hiện trong một ngày. Khi y căn bản được phát sanh ba mươi ngày rồi y mong mỏi được phát sanh vào chính ngày ấy thì (y căn bản) nên được chú nguyện để dùng riêng, nên được chú nguyện để dùng chung, nên được phân phát. Nếu vị không chú nguyện để dùng riêng, hoặc không chú nguyện để dùng chung, hoặc không phân phát, khi mặt trời mọc vào ngày thứ ba mươi mốt thì (y căn bản) phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, y ngoài hạn kỳ này của tôi đã quá hạn một tháng cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[38] Khi y căn bản được phát sanh là khác phẩm chất rồi y mong mỏi được phát sanh và còn lại nhiều đêm, không nên bảo thực hiện trái với ước muốn.[13]
[39] Khi quá hạn một tháng, nhận biết là đã quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi quá hạn một tháng, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi quá hạn một tháng, (lầm) tưởng là chưa quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa được chú nguyện để dùng riêng, (lầm) tưởng là đã được chú nguyện để dùng riêng, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa được chú nguyện để dùng chung, (lầm) tưởng là đã được chú nguyện để dùng chung, ... Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đã được phân phát, ... Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đã bị mất trộm, ... Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đã bị hư hỏng, ... Khi không bị cháy, (lầm) tưởng là đã bị cháy, ... Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đã bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
[40] Y phạm vào nissaggiya,không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa quá hạn một tháng, (lầm) tưởng là đã quá hạn, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa quá hạn một tháng, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa quá hạn một tháng, nhận biết là chưa quá hạn thì vô tội.
[41] Trong thời hạn một tháng, vị chú nguyện để dùng riêng, vị chú nguyện để dùng chung, vị phân phát, (y) bị mất trộm, (y) bị hư hỏng, (y) bị cháy, (người khác) cướp rồi lấy đi, (vị khác) lấy do sự thân thiết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[42] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, người vợ cũ của đại đức Udāyi đã xuất gia nơi các tỳ khưu ni. Tỳ khưu ni ấy thường xuyên đi đến gặp đại đức Udāyi. Đại đức Udāyi cũng thường xuyên đi đến gặp tỳ khưu ni ấy.
Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi nhận phần phân phối vật thực ở nơi có sự hiện diện của tỳ khưu ni ấy. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Udāyi đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến gặp tỳ khưu ni ấy, sau khi đến đã để lộ ra vật kín phía trước tỳ khưu ni ấy rồi đã ngồi xuống chỗ ngồi. Tỳ khưu ni ấy cũng đã để lộ ra vật kín phía trước đại đức Udāyi rồi đã ngồi xuống chỗ ngồi. Khi ấy, đại đức Udāyi bị khởi dục nên đã suy tưởng đến vật kín của tỳ khưu ni ấy. Tinh dịch đã xuất ra từ vật kín của vị ấy. Khi ấy, đại đức Udāyi đã nói với tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này sư tỷ, hãy đi và đem lại nước. Tôi sẽ giặt y nội.
- Thưa ngài, hãy trao lại. Chính tôi sẽ giặt.
Khi ấy, tỳ khưu ni ấy đã dùng miệng nuốt vào một phần tinh dịch ấy của vị ấy còn một phần đã đưa vào vật kín. Do việc ấy, cô ấy đã mang thai. Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:
- Tỳ khưu ni này không có Phạm hạnh. Cô này có thai.
- Này các ni sư, tôi không phải là không có Phạm hạnh.
Khi ấy, tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ngài đại đức Udāyi lại bảo tỳ khưu ni giặt y dơ?
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại bảo tỳ khưu ni giặt y dơ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn ...(như trên)... đã hỏi đại đức Udāyi rằng:
- Này Udāyi, nghe nói ngươi bảo tỳ khưu ni giặt y dơ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
- Này Udāyi, là nữ thân quyến của ngươi hay không phải là nữ thân quyến?
- Bạch Thế Tôn, không phải là nữ thân quyến.
- Này kẻ rồ dại, người nam không phải là thân quyến không biết điều gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì làm hài lòng hay không làm hài lòng người nữ không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao ngươi lại bảo tỳ khưu ni không phải là thân quyến giặt y dơ vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào bảo tỳ khưu ni không phải là thân quyến giặt, hoặc bảo nhuộm, hoặc bảo đập giũ y dơ thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[43] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Người nữ) Không phải là thân quyến nghĩa là người nữ không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Y dơ nghĩa là đã được mặc một lần, đã được khoác lên một lần.
Bảo giặt: vị chỉ thị rằng: “Hãy giặt” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Y) đã được giặt thì phạm vào nissaggiya.
Bảo nhuộm: vị chỉ thị rằng: “Hãy nhuộm” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Y) đã được nhuộm thì phạm vào nissaggiya.
Bảo đập giũ: vị chỉ thị rằng: “Hãy đập giũ” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi (Y) đã được vỗ vào một lần bằng bàn tay hoặc bằng cây gỗ thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, y cũ này của tôi đã được bảo tỳ khưu ni không phải là thân quyến giặt, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[44] Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt y cũ thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo nhuộm y cũ thì phạm tội nissaggiya pācittiya và tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo đập giũ y cũ thì phạm tội nissaggiya pācittiya và tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo nhuộm, bảo đập giũ y cũ thì phạm tội nissaggiya pācittiya và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo nhuộm y cũ thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo nhuộm, bảo đập giũ y cũ thì phạm tội nissaggiya pācittiya và tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo nhuộm, bảo giặt y cũ thì phạm tội nissaggiya pācittiya và tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo nhuộm, bảo đập giũ, bảo giặt y cũ thì phạm tội nissaggiya pācittiya và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo đập giũ y cũ thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo đập giũ, bảo giặt y cũ thì phạm tội nissaggiya pācittiya và tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo đập giũ, bảo nhuộm y cũ thì phạm tội nissaggiya pācittiya và tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo đập giũ, bảo giặt, bảo nhuộm y cũ thì phạm tội nissaggiya pācittiya và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, ...(như trên)...
Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, ...(như trên)...
Vị bảo giặt y cũ của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị bảo giặt tấm lót ngồi (tọa cụ), tấm trải nằm (ngọa cụ) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị bảo cô ni tu lên bậc trên từ một hội chúng giặt thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, nhận biết là thân quyến thì vô tội.
[45] Khi vị (tỳ khưu ni) là thân quyến đang giặt có vị (tỳ khưu ni) thứ nhì không phải là thân quyến (phụ giúp), vị (tỳ khưu ni) giặt khi chưa được nói, vị bảo giặt (y) chưa được sử dụng, bị bảo giặt vật dụng khác ngoại trừ y, (vị bảo) cô ni tu tập sự, (vị bảo) sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tư.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[46] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha (Vương Xá), Veḷuvana (Trúc Lâm), nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā trú ngụ tại thành Sāvatthi. Khi ấy vào buổi sáng, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào thành Sāvatthi để khất thực. Sau khi đã đi khất thực trong thành Sāvatthi, trong lúc đi khất thực trở về sau bữa ăn, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã đi đến khu rừng Andha để nghỉ trưa. Sau khi đi sâu vào trong khu rừng Andha, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã ngồi nghỉ trưa ở gốc cây nọ.
Vào lúc bấy giờ, bọn trộm cướp khi hành sự được hoàn tất đã giết chết con bò cái, lấy phần thịt, rồi đi vào khu rừng Andha. Thủ lãnh bọn cướp đã nhìn thấy tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đang ngồi nghỉ trưa ở tại gốc cây nọ, sau khi nhìn thấy đã khởi ý điều này: “Nếu lũ con trai và đàn em của ta nhìn thấy, chúng sẽ quấy rầy vị tỳ khưu ni này” nên đã rẽ sang lối khác. Sau đó, vị thủ lãnh bọn cướp ấy đã lấy các miếng thịt ngon nhất trong phần thịt đã được nấu chín, dùng lá buộc thành gói, rồi treo lên ở thân cây không xa tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā nói rằng: “Sa-môn hoặc bà-la-môn nào nhìn thấy thì hãy lấy vật thí này” rồi đã bỏ đi. Khi thủ lãnh bọn cướp ấy đang nói lời nói này, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã xuất khỏi thiền định và nghe được. Sau đó, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã cầm lấy phần thịt ấy và đi về ni viện. Sau đó, khi trải qua đêm ấy tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã sửa soạn phần thịt ấy, dùng thượng y buộc lại thành gói, rồi đã bay lên không trung và hiện ra ở Veḷuvana.
[47] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đã đi vào làng để khất thực. Đại đức Udāyi là vị ở lại canh giữ trú xá. Khi ấy, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Thưa ngài, đức Thế Tôn ở đâu?
- Này sư tỷ, đức Thế Tôn đã đi vào làng để khất thực.
- Thưa ngài, xin hãy dâng phần thịt này đến đức Thế Tôn.
- Này sư tỷ, đức Thế Tôn được hài lòng với phần thịt của cô, nếu cô có thể biếu tôi cái y nội như thế tôi cũng có thể được hài lòng với cái y nội.
- Thưa ngài, quả thật chúng tôi thân phận là người nữ có lợi lộc khó khăn. Và đây là cái y thứ năm cuối cùng[14]của tôi; tôi sẽ không cho.
- Này sư tỷ, cũng giống như người đã cho con voi thì nên biếu luôn các sợi dây nài; này sư tỷ, tương tợ như thế cô đã dâng đức Thế Tôn phần thịt thì hãy biếu tôi cái y nội.
Khi ấy, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā trong khi bị nài ép bởi đại đức Udāyi nên đã cho cái y nội rồi đi về ni viện. Các tỳ khưu ni trong lúc tiếp rước y bát của tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã nói với tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā điều này:
- Thưa ni sư, y nội của cô đâu rồi?
Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ngài đại đức Udāyi lại nhận lãnh y từ tay tỳ khưu ni? Là người nữ có lợi lộc thật khó khăn!
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại nhận lãnh y từ tay tỳ khưu ni?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này Udāyi, nghe nói ngươi nhận lãnh y từ tay tỳ khưu ni, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
- Này Udāyi, là nữ thân quyến của ngươi hay không phải là nữ thân quyến?
- Bạch Thế Tôn, không phải là nữ thân quyến.
- Này kẻ rồ dại, người nam không phải là thân quyến không biết điều gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì làm hài lòng hay không làm hài lòng người nữ không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao ngươi lại nhận lãnh y từ tay tỳ khưu ni không phải là thân quyến? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nhận lãnh y từ tay tỳ khưu ni không phải là thân quyến thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[48] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lãnh y trao đổi của các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các ngài đại đức lại không nhận lãnh y trao đổi của chúng tôi?
Các tỳ khưu đã nghe được các tỳ khưu ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép nhận lãnh vật trao đổi của năm hạng là tỳ khưu, tỳ khưu ni, vị ni tu tập sự, sa di, sa di ni. Này các tỳ khưu, ta cho phép nhận lãnh vật trao đổi của năm hạng này. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nhận lãnh y từ tay tỳ khưu ni không phải là thân quyến thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ sự trao đổi.”
[49] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Người nữ) Không phải là thân quyến nghĩa là người nữ không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Ngoại trừ sự trao đổi: trừ ra sự trao đổi.
Vị nhận lãnh, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, y này của tôi đã được nhận lãnh từ tay của tỳ khưu ni không phải là thân quyến, ngoại trừ sự trao đổi, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[44] Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị nhận lãnh y từ tay thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị), ngoại trừ sự trao đổi.
Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, vị nhận lãnh y từ tay thì phạm tội nissaggiya pācittiya, ngoại trừ sự trao đổi.
Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, vị nhận lãnh y từ tay thì phạm tội nissaggiya pācittiya, ngoại trừ sự trao đổi.
[51] Vị nhận lãnh y từ tay của cô ni tu lên bậc trên ở một hội chúng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác), ngoại trừ sự trao đổi.
Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, nhận biết là thân quyến thì vô tội.
[52] Của vị (tỳ khưu ni) là thân quyến, sự trao đổi vật lớn bằng vật nhỏ hoặc là vật nhỏ bằng vật lớn, vị tỳ khưu lấy do sự thân thiết, lấy trong chốc lát, lấy vật phụ tùng khác ngoại trừ y, của cô ni tu tập sự, của sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ năm.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[53] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya (Thích Ca) là rành rẽ về thuyết Pháp thoại. Vào lúc bấy giờ, có người con trai nhà đại phú nọ đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Upananda con trai dòng Sākya rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người con trai nhà đại phú ấy đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đại đức Upananda con trai dòng Sākya chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, người con con trai nhà đại phú ấy đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:
- Thưa ngài, xin ngài nói ra nhu cầu mà chúng tôi có khả năng để dâng đến ngài đại đức tức là vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh.
- Này đạo hữu, nếu đạo hữu có ý định bố thí thì hãy dâng một trong hai[15]tấm vải này.
- Thưa ngài, quả thật là kỳ cục cho những người con trai gia đình danh giá chúng tôi lại đi chỉ mặc một tấm vải! Thưa ngài, xin hãy chờ đến khi tôi đi về nhà, khi đã về nhà rồi tôi sẽ gởi đến hoặc là một trong hai tấm vải này, hoặc là đẹp hơn hai tấm này.
Đến lần thứ nhì, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã nói với người con trai nhà đại phú ấy điều này:
- Này đạo hữu, nếu đạo hữu có ý định bố thí thì hãy dâng một trong hai tấm vải này.
- Thưa ngài, quả thật là kỳ cục cho những người con trai gia đình danh giá chúng tôi lại đi chỉ mặc một tấm vải! Thưa ngài, xin hãy chờ đến khi tôi đi về nhà, khi đã về nhà rồi tôi sẽ gởi đến hoặc là một trong hai tấm vải này, hoặc là đẹp hơn hai tấm này.
Đến lần thứ ba, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã nói với người con trai nhà đại phú ấy điều này:
- Này đạo hữu, nếu đạo hữu có ý định bố thí thì hãy dâng một trong hai tấm vải này.
- Thưa ngài, quả thật là kỳ cục cho những người con trai gia đình danh giá chúng tôi lại đi chỉ mặc một tấm vải! Thưa ngài, xin hãy chờ đến khi tôi đi về nhà, khi đã về nhà rồi tôi sẽ gởi đến hoặc là một trong hai tấm vải này, hoặc là đẹp hơn hai tấm này.
- Này đạo hữu, đạo hữu không chịu bố thí khi được yêu cầu, việc gì khiến đạo hữu không có ý định bố thí lại nói lời thỉnh cầu vậy?
Khi ấy, người con trai nhà đại phú ấy trong lúc bị nài ép bởi đại đức Upananda con trai dòng Sākya nên đã cho một tấm vải rồi đi. Dân chúng sau khi nhìn thấy người con trai nhà đại phú ấy đã nói điều này:
- Này công tử, sao ngài lại đi đến chỉ mặc một tấm vải?
Khi ấy, người con trai nhà đại phú ấy đã kể lại sự việc ấy cho những người ấy. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các sa-môn Thích tử này thật ham muốn quá độ, không tự biết đủ. Không dễ gì mà thực hiện sự thỉnh cầu đúng pháp đối với những người này! Tại sao trong lúc được người con trai nhà đại phú thực hiện sự thỉnh cầu đúng pháp, các vị ấy lại lấy đi tấm vải choàng?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya lại yêu cầu người con trai nhà đại phú về y?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Upananda, nghe nói ngươi yêu cầu người con trai nhà đại phú về y, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
- Này Upananda, là thân quyến của ngươi hay không phải là thân quyến?
- Bạch Thế Tôn, không phải là thân quyến.
- Này kẻ rồ dại, người không phải là thân quyến không biết điều gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì làm hài lòng hay không làm hài lòng người không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao ngươi lại yêu cầu người con trai nhà đại phú về y? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào yêu cầu nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến về y thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[54] Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu đang đi đường xa từ Sāketa đến Sāvatthi. Giữa đường, bọn cướp đã xuất hiện và đã cướp bóc các vị tỳ khưu ấy. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán yêu cầu nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến về y,” trong lúc ngần ngại đã không yêu cầu rồi lõa thể như thế đi đến thành Sāvatthi và đảnh lễ các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đại đức, những người đạo sĩ lõa thể này tốt thật, những người này đảnh lễ các tỳ khưu.
Các vị ấy đã nói như vầy:
- Này các đại đức, chúng tôi không phải là đạo sĩ lõa thể, chúng tôi là tỳ khưu.
Các tỳ khưu đã nói với đại đức Upāli điều này:
- Này đại đức Upāli, hãy xét hỏi những người này đi.
Sau đó, trong lúc được xét hỏi bởi đại đức Upāli, các vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy. Khi ấy, đại đức Upāli sau khi xét hỏi các tỳ khưu ấy đã nói với các tỳ khưu điều này:
- Này các đại đức, những vị này là những vị tỳ khưu, hãy cho y đến những vị ấy.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu lại lõa thể mà đi đến? Sao không dùng cỏ che kín lại rồi mới nên đi đến?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị có y bị cướp đoạt hoặc vị có y bị mất được yêu cầu nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến về y. (Ta cho phép) khi đi đến trú xứ đầu tiên, nếu nơi ấy hội chúng có y thuộc về trú xá, hoặc vải lót giường, hoặc vải trải nền, hoặc bao nệm, được lấy vật ấy và choàng lên (nghĩ rằng): “Khi nhận được y, ta sẽ gởi lại.” Nếu hội chúng không có y thuộc về trú xá, hoặc vải lót giường, hoặc vải trải nền, hoặc bao nệm, thì nên dùng cỏ hoặc lá che kín lại rồi mới nên đi đến; nhưng không nên lõa thể mà đi đến, vị nào đi đến thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào yêu cầu nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến về y thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp này là vị tỳ khưu có y bị cướp đoạt hoặc là có y bị hư hỏng. Đây là duyên cớ trong trường hợp này.”
[55] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Không phải là thân quyến nghĩa là người không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.
Nam gia chủ nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.
Nữ gia chủ nghĩa là bất cứ người nữ nào sống trong căn nhà.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.
Y bị cướp đoạt nghĩa là y của vị tỳ khưu bị các vị vua, hoặc những kẻ trộm cướp, hoặc những kẻ vô lại cướp đoạt, hoặc bị bất cứ những ai cướp đoạt.
Y bị hư hỏng nghĩa là y của vị tỳ khưu bị lửa đốt cháy, hoặc bị nước cuốn trôi, hoặc bị các con chuột hoặc các con mối gặm nhấm, hoặc là cũ kỷ vì sử dụng.
Vị yêu cầu, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác), ngoại trừ có duyên cớ. Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, y này của tôi đã được yêu cầu từ gia chủ không phải là thân quyến ngoại trừ có duyên cớ, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[56] Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị yêu cầu y thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị), ngoại trừ có duyên cớ.
Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, vị yêu cầu y thì phạm tội nissaggiya pācittiya, ngoại trừ có duyên cớ.
Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, vị yêu cầu y thì phạm tội nissaggiya pācittiya, ngoại trừ có duyên cớ.
Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, nhận biết là thân quyến thì vô tội.
[57] Khi có duyên cớ, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ sáu.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[58] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến gặp các tỳ khưu là những vị có y bị cướp đoạt rồi nói như vầy:
- Này các đại đức, đức Thế Tôn đã cho phép vị có y bị cướp đoạt hoặc là vị có y bị hư hỏng được yêu cầu nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến về y. Này các đại đức, chúng ta hãy yêu cầu về y.
- Này các đại đức, thôi đi. Chúng tôi đã nhận được y rồi.
- Này các đại đức, chúng tôi yêu cầu vì nhu cầu của các đại đức.
- Này các đại đức, các vị hãy yêu cầu.
Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã đi đến các gia chủ không phải là thân quyến và đã nói điều này: “Này các đạo hữu, các vị tỳ khưu mới đi đến là những vị có y bị cướp đoạt, hãy dâng y cho các vị ấy,” rồi đã yêu cầu nhiều y.
Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ đang ngồi ở nơi hội họp đã nói với người đàn ông khác điều này:
- Quý ông, các vị tỳ khưu mới đi đến là những vị có y bị cướp đoạt, tôi đã dâng y cho các vị ấy.
Vị kia cũng đã nói như vầy:
- Tôi cũng đã dâng rồi.
Một người khác cũng đã nói như vầy:
- Tôi cũng đã dâng rồi.
Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại không biết sự chừng mực và yêu cầu nhiều y? Các sa-môn Thích tử sẽ làm việc buôn bán vải hay sẽ lập nên gian hàng?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại không biết sự chừng mực và yêu cầu nhiều y?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi không biết sự chừng mực và yêu cầu nhiều y, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại không biết sự chừng mực và yêu cầu nhiều y vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Nếu có nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến thỉnh cầu vị ấy để đem lại với nhiều y, vị tỳ khưu ấy nên chấp nhận y trong số ấy với mức tối đa là y nội và thượng y, nếu chấp nhận vượt quá số ấy thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[59] Nếu vị ấy: là vị tỳ khưu có y bị đánh cướp.
Không phải là thân quyến nghĩa là người không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.
Nam gia chủ nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.
Nữ gia chủ nghĩa là bất cứ người nữ nào sống trong căn nhà.
Với nhiều y: với các y có số lượng nhiều.
Thỉnh cầu để đem lại: là (nói rằng): “Ngài thích bao nhiêu xin nhận lấy bấy nhiêu.”
Vị tỳ khưu ấy nên chấp nhận y trong số ấy với mức tối đa là y nội và thượng y: Nếu ba (y) bị hư hỏng thì nên chấp nhận hai (y), hai (y) bị hư hỏng thì nên chấp nhận một (y), một (y) bị hư hỏng thì không nên chấp nhận.
Nếu chấp nhận vượt quá số ấy: Vị yêu cầu vượt quá số ấy, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, y này của tôi đã được yêu cầu vượt quá số ấy từ gia chủ không phải là thân quyến, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[60] Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị yêu cầu y vượt quá số ấy thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, vị yêu cầu y vượt quá số ấy thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, vị yêu cầu y vượt quá số ấy thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, nhận biết là thân quyến thì vô tội.
[61] Trong khi mang đi (nói rằng): “Tôi sẽ mang lại phần còn thừa,” (các thí chủ) dâng cho (nói rằng): “Phần còn lại là của chính ngài,” (các thí chủ) dâng không vì nguyên nhân (y) bị cướp đoạt, (các thí chủ) dâng không vì nguyên nhân (y) bị hư hỏng, của các thân quyến, của những người đã nói lời thỉnh cầu, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ bảy.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[62] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ đã nói với người vợ điều này:
- Tôi sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.
Khi người đàn ông ấy đang nói lời này, có vị tỳ khưu nọ là vị hành pháp khất thực đã nghe được. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya, sau khi đến đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:
- Này đại đức Upananda, ngài có được nhiều phước báu. Ở chỗ kia, có người đàn ông nọ đã nói với người vợ điều này: “Tôi sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.”
- Này đại đức, người ấy là người hộ độ cho tôi.
Sau đó, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã đi đến gặp người đàn ông ấy, sau khi đến đã nói với người đàn ông ấy điều này:
- Này đạo hữu, nghe nói đạo hữu có ý định dâng y đến tôi, có đúng không vậy?
- Thưa ngài, tôi cũng có khởi ý như vầy: “Tôi sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.”
- Này đạo hữu, nếu quả thật đạo hữu có ý định dâng y đến tôi thì hãy dâng y có hình thức như vầy. Tôi sẽ không sử dụng y được dâng ấy thì tôi sẽ làm gì với y ấy?
Sau đó, người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các vị sa-môn Thích tử này thật ham muốn quá độ, không tự biết đủ. Không dễ gì mà dâng y cho những người này! Vì sao ngài đại đức Upananda khi chưa được tôi thỉnh cầu trước lại đi đến và đưa ra sự căn dặn về y?
Các tỳ khưu đã nghe được người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Upananda, nghe nói ngươi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
- Này Upananda, là thân quyến của ngươi hay không phải là thân quyến?
- Bạch Thế Tôn, không phải là thân quyến.
- Này kẻ rồ dại, người không phải là thân quyến không biết điều gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì làm hài lòng hay không làm hài lòng người không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao ngươi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp có số tiền mua y của nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến đã được chuẩn bị dành riêng cho vị tỳ khưu: ‘Với số tiền mua y này sau khi mua y tôi sẽ dâng y đến vị tỳ khưu tên (như vầy).’ Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến và đưa ra sự căn dặn về y: ‘Quả thật là tốt, với số tiền mua y này ông hãy mua y có hình thức như vầy và như vầy rồi dâng cho tôi;’ vì sự mong muốn y tốt đẹp, (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[63] Dành riêng cho vị tỳ khưu: vì nhu cầu của vị tỳ khưu, sau khi nghĩ đến vị tỳ khưu rồi có ý định dâng vị tỳ khưu.
Không phải là thân quyến nghĩa là người không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.
Nam gia chủ nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.
Nữ gia chủ nghĩa là bất cứ người nữ nào sống trong căn nhà.
Số tiền mua y nghĩa là vàng, hoặc là tiền vàng, hoặc là ngọc ma-ni, hoặc là ngọc trai, hoặc là đá quý, hoặc là pha lê, hoặc là vải vóc, hoặc là chỉ sợi, hoặc là bông vải.
Với số tiền mua y này: với (số tiền) đã được sẵn sàng.
Sau khi mua y: sau khi trao đổi.
Tôi sẽ dâng: tôi sẽ cho.
Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy: vị tỳ khưu ấy là vị tỳ khưu mà số tiền mua y đã được chuẩn bị dành riêng cho.
Chưa được thỉnh cầu trước: chưa được nói trước rằng: “Thưa ngài, ngài có nhu cầu với loại y như thế nào?” “Tôi sẽ mua y của ngài như thế nào?”
Lại đi đến: sau khi đi đến nhà, sau khi đi đến gặp ở bất cứ nơi nào.
Đưa ra sự căn dặn về y: (Y) hãy dài, hoặc rộng, hoặc chắc, hoặc mịn màng.
Với số tiền mua y này: với (số tiền) đã được sẵn sàng.
Có hình thức như vầy và như vầy: là dài, hoặc rộng, hoặc chắc, hoặc mịn màng.
Sau khi mua: sau khi trao đổi.
(Đạo hữu) hãy dâng cho: hãy trao cho.
Vì sự mong muốn y tốt đẹp: có ao ước vật tốt, có ao ước vật giá cao.
(Gia chủ) mua (y) dài, hoặc rộng, hoặc chắc, hoặc mịn màng theo lời nói của vị ấy. Trong lúc thực hiện thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, y này của tôi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gia chủ không phải là thân quyến và đã đưa ra sự căn dặn về y, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[64] Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, nhận biết là thân quyến thì vô tội.
[65] Của các thân quyến, của những người đã nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bảo mua (y) giá thấp đối với người có ý định mua (y) giá cao, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tám.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[66] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ đã nói với người đàn ông khác điều này:
- Tôi sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.
Người kia cũng đã nói như vầy:
- Tôi cũng sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.
Có vị tỳ khưu nọ là vị hành pháp khất thực đã nghe được cuộc nói chuyện này của những người đàn ông ấy. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya, sau khi đến đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:
- Này đại đức Upananda, ngài có được nhiều phước báu. Ở chỗ kia, có người đàn ông nọ đã nói với người đàn ông khác điều này: “Tôi sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.” Người kia cũng đã nói như vầy: “Tôi cũng sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.”
- Này đại đức, họ là những người hộ độ cho tôi.
Sau đó, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã đi đến gặp những người đàn ông ấy, sau khi đến đã nói với những người đàn ông ấy điều này:
- Này các đạo hữu, nghe nói các đạo hữu có ý định dâng các y đến tôi, có đúng không vậy?
- Thưa ngài, chúng tôi cũng có khởi ý như vầy: “Chúng tôi sẽ dâng các y đến ngài đại đức Upananda.”
- Này các đạo hữu, nếu quả thật các đạo hữu có ý định dâng các y đến tôi thì nên dâng các y có hình thức như vầy. Tôi sẽ không sử dụng các y được dâng ấy thì tôi sẽ làm gì với các y ấy?
Khi ấy, những người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các vị sa-môn Thích tử này thật ham muốn quá độ, không tự biết đủ. Không dễ gì mà dâng các y cho những người này! Tại sao ngài đại đức Upananda khi chưa được chúng tôi thỉnh cầu trước lại đi đến và đưa ra sự căn dặn về y?
Các tỳ khưu đã nghe được những người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp các gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Upananda, nghe nói ngươi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp các gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
- Này Upananda, là các thân quyến của ngươi hay không phải là các thân quyến?
- Bạch Thế Tôn, không phải là các thân quyến.
- Này kẻ rồ dại, người không phải là thân quyến không biết điều gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì làm hài lòng hay không làm hài lòng những người không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao ngươi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp các gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp có các số tiền mua y khác nhau của hai nam gia chủ hoặc (của hai) nữ gia chủ không phải là các thân quyến đã được chuẩn bị dành riêng cho vị tỳ khưu: ‘Với các số tiền mua y khác nhau này sau khi mua các y khác nhau chúng tôi sẽ dâng các y đến vị tỳ khưu tên (như vầy).’ Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến và đưa ra sự căn dặn về y: ‘Quả thật là tốt, với các số tiền mua y này quý ông cả hai nhập thành một rồi hãy mua y có hình thức như vầy và như vầy rồi hãy dâng cho tôi;’ vì sự mong muốn y tốt đẹp, (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[67] Dành riêng cho vị tỳ khưu: vì nhu cầu của vị tỳ khưu, sau khi nghĩ đến vị tỳ khưu rồi có ý định dâng vị tỳ khưu.
Của hai: của cả hai.
Không phải là các thân quyến nghĩa là những người không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.
(Các) nam gia chủ nghĩa là bất cứ những người nam nào sống trong căn nhà.
(Các) nữ gia chủ nghĩa là bất cứ những người nữ nào sống trong căn nhà.
Các số tiền mua y nghĩa là nhiều vàng, hoặc là các tiền vàng, hoặc là các ngọc ma-ni, hoặc là các ngọc trai, hoặc là các đá quý, hoặc là các pha lê, hoặc là nhiều vải vóc, hoặc là nhiều chỉ sợi, hoặc là nhiều bông vải.
Với các số tiền mua y này: với (các số tiền) đã được sẵn sàng.
Sau khi mua y: sau khi trao đổi.
Chúng tôi sẽ dâng: chúng tôi sẽ cho.
Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy: vị tỳ khưu ấy là vị tỳ khưu mà các số tiền mua y đã được chuẩn bị dành riêng cho.
Chưa được thỉnh cầu trước: chưa được nói trước rằng: “Thưa ngài, ngài có nhu cầu với loại y như thế nào?” “Chúng tôi sẽ mua y của ngài như thế nào?”
Lại đi đến: sau khi đi đến nhà, sau khi đi đến gặp ở bất cứ nơi nào.
Đưa ra sự căn dặn về y: (Y) hãy dài, hoặc rộng, hoặc chắc, hoặc mịn màng.
Với các số tiền mua y này: với (các số tiền) đã được sẵn sàng.
Có hình thức như vầy và như vầy: là dài, hoặc rộng, hoặc chắc, hoặc mịn màng.
Sau khi mua: sau khi trao đổi.
(Quý ông) hãy dâng đến: (quý ông) hãy trao cho.
Cả hai nhập thành một: cả hai (người) với một (y).
Vì sự mong muốn y tốt đẹp: có ao ước vật tốt, có ao ước vật giá cao.
Họ mua (y) dài, hoặc rộng, hoặc chắc, hoặc mịn màng theo lời nói của vị ấy. Trong lúc thực hiện thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, y này của tôi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các gia chủ không phải là các thân quyến và đã đưa ra sự căn dặn về y, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[68] Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, nhận biết là thân quyến thì vô tội.
[69] Của các thân quyến, của những người đã nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bảo mua (y) giá thấp đối với những người có ý định mua (y) giá cao, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ chín.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[70] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị quan đại thần là người hộ độ cho đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã phái sứ giả đem tiền mua y đến đại đức Upananda con trai dòng Sākya (bảo rằng):
- Hãy mua y với số tiền mua y này rồi dâng y đến ngài đại đức Upananda.
Sau đó, người sứ giả ấy đã đi đến đại đức Upananda con trai dòng Sākya, sau khi đến đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:
- Thưa ngài, số tiền mua y này được dành riêng cho đại đức đã được mang lại. Xin đại đức hãy nhận lãnh tiền mua y.
Khi được nói như thế, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã nói với người sứ giả ấy điều này:
- Này đạo hữu, chúng tôi không nhận lãnh tiền mua y và chúng tôi chỉ nhận lãnh y đúng phép vào lúc hợp thời.
Khi được nói như thế, người sứ giả ấy đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:
- Vậy có ai là người phục vụ cho đại đức không?
Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ đã đi đến tu viện do công việc cần làm nào đó. Khi ấy, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã nói với người sứ giả ấy điều này:
- Này đạo hữu, chính nam cư sĩ này là người phục vụ cho các tỳ khưu.
Sau đó, khi đã dặn dò nam cư sĩ ấy, người sứ giả ấy đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya, sau khi đến đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:
- Thưa ngài, người phục vụ mà đại đức chỉ ra đã được tôi dặn dò. Đại đức hãy đi đến lúc đúng thời, người ấy sẽ dâng y cho ngài.
Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã không nói với nam cư sĩ ấy điều gì cả.
Đến lần thứ nhì, vị quan đại thần ấy đã phái sứ giả đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya (nhắn rằng):
- Thưa ngài, hãy sử dụng y ấy. Chúng tôi muốn y ấy được ngài đại đức sử dụng.
Khi ấy, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã không nói điều gì với nam cư sĩ ấy.
Đến lần thứ nhì, vị quan đại thần ấy đã phái sứ giả đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya (nhắn rằng):
- Thưa ngài, hãy sử dụng y ấy. Chúng tôi muốn y ấy được ngài đại đức sử dụng.
Đến lần thứ nhì, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã không nói với nam cư sĩ ấy điều gì cả.
Đến lần thứ ba, vị quan đại thần ấy đã phái sứ giả đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya (nhắn rằng):
- Thưa ngài, hãy sử dụng y ấy. Chúng tôi muốn y ấy được ngài đại đức sử dụng.
Vào lúc bấy giờ là ngày hội họp của thị trấn. Và thị trấn đã thực hiện quy định là: “Ai đi đến trễ bị phạt năm mươi tiền.” Khi ấy, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã đi đến gặp nam cư sĩ ấy, sau khi đến đã nói với nam cư sĩ ấy điều này:
- Này đạo hữu, tôi có nhu cầu về y.
- Thưa ngài, xin hãy chờ cho ngày hôm nay. Hôm nay là ngày hội họp của thị trấn. Và thị trấn đã thực hiện quy định là: “Ai đi đến trễ bị phạt năm mươi tiền.”
- Này đạo hữu, hãy dâng y cho tôi ngay hôm nay. Rồi đã nắm lấy dây thắt lưng (của người ấy).
Khi ấy, nam cư sĩ ấy trong lúc bị đại đức Upananda con trai dòng Sākya ép buộc nên đã mua y cho đại đức Upananda con trai dòng Sākya và đã đi đến trễ. Dân chúng đã nói với nam cư sĩ ấy điều này:
- Này ông, vì sao ông lại đi đến trễ? Ông đã bị mất năm mươi tiền.
Khi ấy, nam cư sĩ ấy đã kể lại sự việc ấy cho những người ấy. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các vị sa-môn Thích tử này thật ham muốn quá độ, không tự biết đủ. Không dễ gì mà phục vụ chonhững người này! Vì sao Upananda con trai dòng Sākya khi được nam cư sĩ nói rằng: “Thưa ngài, xin hãy chờ cho ngày hôm nay” lại không chờ đợi?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya khi được nam cư sĩ nói rằng: “Thưa ngài, xin hãy chờ cho ngày hôm nay” lại không chờ đợi?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Upananda, nghe nói ngươi khi được nam cư sĩ nói rằng: “Thưa ngài, xin hãy chờ cho ngày hôm nay” lại không chờ đợi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi khi được nam cư sĩ nói rằng: “Thưa ngài, xin hãy chờ cho ngày hôm nay” lại không chờ đợi? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp đức vua, hoặc quan triều đình, hoặc bà-la-môn, hoặc gia chủ phái sứ giả đem số tiền mua y dành riêng cho vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hãy mua y với số tiền mua y này rồi hãy dâng đến vị tỳ khưu tên (như vầy).’ Nếu người sứ giả ấy đi đến gặp vị tỳ khưu ấy và nói như vầy: ‘Thưa ngài, số tiền mua y này được dành riêng cho đại đức đã được mang lại. Xin đại đức hãy nhận lãnh tiền mua y.’ Người sứ giả ấy nên được vị tỳ khưu ấy nói như vầy: ‘Này đạo hữu, chúng tôi không nhận lãnh tiền mua y và chúng tôi chỉ nhận lãnh y đúng phép vào lúc hợp thời.’ Nếu người sứ giả ấy nói với vị tỳ khưu ấy như vầy: ‘Vậy có ai là người phục vụ cho đại đức không?’ Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có sự cần dùng y nên chỉ ra người phục vụ là người phụ việc chùa hoặc là nam cư sĩ: ‘Này đạo hữu, đây chính là người phục vụ cho các tỳ khưu.’ Nếu người sứ giả ấy sau khi đã dặn dò người phục vụ ấy rồi đã đi đến gặp vị tỳ khưu ấy nói như vầy: ‘Thưa ngài, người phục vụ mà đại đức đã chỉ ra đã được tôi dặn dò. Đại đức hãy đi đến lúc đúng thời, người ấy sẽ dâng y cho ngài.’ Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có sự cần dùng y sau khi đi đến gặp người phục vụ ấy rồi nên thông báo nên nhắc nhở hai hoặc ba lần: ‘Này đạo hữu, tôi có nhu cầu về y.’ Trong khi thông báo nhắc nhở hai hoặc ba lần, nếu đạt được y ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không đạt được thì nên đứng với trạng thái im lặng bốn lần, năm lần, tối đa là sáu lần. Trong khi đứng với trạng thái im lặng bốn lần, năm lần, tối đa là sáu lần, nếu đạt được y ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không đạt được rồi ra sức vượt quá số lần ấy và đạt được y ấy thì (y ấy) phạm vào nissaggiya và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Nếu không đạt được thì tiền mua y đã được mang lại là của nơi nào thì nên đích thân đi đến nơi ấy, hoặc nên phái sứ giả đi đến (nói rằng): ‘Này quý vị, các người đã gởi đến số tiền mua y dành riêng cho vị tỳ khưu nào, số tiền ấy không có được chút gì lợi ích cho vị tỳ khưu ấy. Quý vị hãy thâu hồi lại vật của mình, chớ để vật của quý vị bị mất mát. Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy.”
[71] Dành riêng cho vị tỳ khưu: vì nhu cầu của vị tỳ khưu, sau khi nghĩ đến vị tỳ khưu rồi có ý định dâng vị tỳ khưu.
Đức vua nghĩa là người nào cai trị vương quốc.
Quan triều đình nghĩa là người nào nhận lãnh bữa ăn và tiền lương của đức vua.
Bà-la-môn nghĩa là bà-la-môn do sự sanh ra.
Gia chủ nghĩa là trừ ra các vị vua, các quan triều đình, các bà-la-môn; những người còn lại gọi là gia chủ.
Số tiền mua y nghĩa là vàng, hoặc là tiền vàng, hoặc ngọc là ma-ni, hoặc là ngọc trai, hoặc là đá quý, hoặc là pha lê, hoặc là vải vóc, hoặc là chỉ sợi, hoặc là bông vải.
Với số tiền mua y này: với (số tiền) đã được sẵn sàng.
Sau khi mua y: sau khi trao đổi.
Hãy dâng đến: hãy trao cho.
Nếu người sứ giả ấy đi đến gặp vị tỳ khưu ấy và nói như vầy: ‘Thưa ngài, số tiền mua y này được dành riêng cho đại đức đã được mang lại. Xin đại đức hãy nhận lãnh tiền mua y.’ Người sứ giả ấy nên được vị tỳ khưu ấy nói như vầy: ‘Này đạo hữu, chúng tôi không nhận lãnh tiền mua y và chúng tôi chỉ nhận lãnh y đúng phép vào lúc hợp thời.’ Nếu người sứ giả ấy nói với vị tỳ khưu ấy như vầy: ‘Vậy có ai là người phục vụ cho đại đức không?’ Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có sự cần dùng y nên chỉ ra người phục vụ là người phụ việc chùa hoặc là nam cư sĩ: ‘Này đạo hữu, đây chính là người phục vụ cho các tỳ khưu.’ Không nên nói: ‘Hãy trao cho người ấy;’ hoặc ‘Người ấy sẽ cất giữ;’ hoặc ‘Người ấy sẽ trao đổi;’ hoặc ‘Người ấy sẽ mua.’ Nếu người sứ giả ấy sau khi đã dặn dò người phục vụ ấy rồi đã đi đến gặp vị tỳ khưu ấy nói như vầy: ‘Thưa ngài, người phục vụ mà đại đức đã chỉ ra đã được tôi dặn dò. Đại đức hãy đi đến lúc đúng thời, người ấy sẽ dâng y cho ngài.’
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có sự cần dùng y sau khi đi đến gặp người phục vụ ấy rồi nên thông báo, nên nhắc nhở hai hoặc ba lần: ‘Này đạo hữu, tôi có nhu cầu về y.’ Không nên nói: ‘Hãy dâng y cho tôi;’ ‘Hãy mang lại y cho tôi;’ ‘Hãy trao đổi y cho tôi;’ ‘Hãy mua y cho tôi.’ Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba.
Nếu đạt được (y), như thế việc này là tốt đẹp; nếu không đạt được thì sau khi đi đến nơi ấy nên đứng với trạng thái im lặng. Không nên ngồi xuống chỗ ngồi. Không nên thọ nhận vật thực. Không nên thuyết Pháp. Nếu được hỏi: ‘Ngài đã đi đến vì lý do gì?’ Nên nói rằng: ‘Này đạo hữu, ngươi hãy biết lấy.’ Nếu ngồi xuống chỗ ngồi, hoặc thọ nhận vật thực, hoặc thuyết Pháp, thì làm hỏng việc đứng. Lần thứ nhì, nên đứng. Lần thứ ba, nên đứng. Sau khi thông báo bốn lần, nên đứng bốn lần. Sau khi thông báo năm lần, nên đứng hai lần. Sau khi thông báo sáu lần thì không nên đứng.
Nếu không đạt được rồi ra sức vượt quá số lần ấy và đạt được y ấy, trong lúc thực hiện thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, y này của tôi đã đạt được do sự thông báo quá ba lần và đứng quá sáu lần, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
Nếu không đạt được thì tiền mua y đã được mang lại là của nơi nào thì nên đích thân đi đến nơi ấy hoặc nên phái sứ giả đi đến (nói rằng): ‘Này quý vị, các người đã gởi đến số tiền mua y dành riêng cho vị tỳ khưu nào, số tiền ấy không có được chút gì lợi ích cho vị tỳ khưu ấy. Quý vị hãy thâu hồi lại vật của mình, chớ để vật của quý vị bị mất mát.’
Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy: Đây là điều hợp lý trong trường hợp ấy.
[72] Với sự thông báo hơn ba lần, trong việc đứng hơn sáu lần, nhận biết là đã vượt quá, vị đạt được thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Với sự thông báo hơn ba lần, trong việc đứng hơn sáu lần, có sự hoài nghi, vị đạt được thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với sự thông báo hơn ba lần, trong việc đứng hơn sáu lần, (lầm) tưởng là chưa đủ, vị đạt được thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với sự thông báo chưa đủ ba lần, trong việc đứng chưa đủ sáu lần, (lầm) tưởng là đã vượt quá, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Với sự thông báo chưa đủ ba lần, trong việc đứng chưa đủ sáu lần, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Với sự thông báo chưa đủ ba lần, trong việc đứng chưa đủ sáu lần, nhận biết là chưa đủ thì vô tội.
[73] Với sự thông báo ba lần, với việc đứng sáu lần, với sự thông báo chưa đủ ba lần, với việc đứng chưa đủ sáu lần, (người ấy) dâng khi chưa được thông báo, thí chủ dâng sau khi thông báo, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười.
Phần Y là phần thứ nhất.
*******
Tóm lược phần này:
Mười ngày, một đêm, tháng,
việc giặt, và nhận lãnh,
ba điều không thân quyến,
của hai, bởi sứ giả.
*******
[1]Động từ “dhāreti” có nhiều nghĩa: Ở trên, chúng tôi dịch là “sử dụng,” ở các nơi khác là “mang, mặc, v.v...” tùy theo ngữ cảnh. Ở đây, tuy được ghi là “cất giữ,” nhưng các ý nghĩa khác đều có thể áp dụng.
[2]Nissaggiya pācittiya có hai phần: nissaggiya liên quan đến đồ vật cần được xả bỏ, pācittiya là tội ưng đối trị. Cụm từ này đã được các vị tiền bối dịch chung lại là “tội ưng xả đối trị.” Khi hai từ ấy đi chung, chúng tôi sẽ ghi là “tội ưng xả đối trị,” còn trường hợp phân tích riêng rẽ thì sẽ ghi như trên.
[3]Tám tiêu đề (mātikā) về sự hết hiệu lực của Kaṭhina: do sự ra đi, do (y) được hoàn tất, do tự mình quyết định, do bị mất, do nghe được (tin), do sự tan vỡ của niềm mong mỏi, do sự vượt qua ranh giới, do sự hết hiệu lực cùng một lúc (Đại Phẩm – Mahāvagga, chương VII, [99]).
[4]Hội chúng thực hiện hành sự thâu hồi khiến Kaṭhina hết hiệu lực (chú thích của người dịch).
[5]Sáu loại y: loại bằng sợi lanh (khomaṃ), loại bằng bông vải (kappāsikaṃ), loại bằng tơ lụa (koseyyaṃ), loại bằng sợi len (kambalaṃ), loại bằng gai thô (sāṇaṃ), loại bằng chỉ bố (bhaṅgaṃ).
[6]Này các tỳ khưu, ta cho phép chú nguyện để dùng chung y (có kích thước) tối thiểu với chiều dài là tám ngón tay với chiều rộng là bốn ngón tay theo ngón tay tiêu chuẩn (Sđd, chương VIII, [160]).
[7]santaruttara = sa + antara + uttara = sa + antaravāsaka + uttarasaṅga = với + y nội + thượng y.
[8]Ngài Buddhaghosa giải thích là 1 hatthapāsa (tầm tay) = 2,5 ratana, 1 ratana = 2 vidatthiyo (gang tay), 1 vidatthi = chiều rộng 12 ngón tay. Tài liệu The Buddhist Monastic Code của Thanissaro Bhikkhu cho biết khoảng cách của một hatthapāsa là 1,25 mét.
[9]Ngài Buddhaghosa giải thích 1 abbhantara là 28 hattha (cánh tay). Từ điển của Childers giải thích hattha là chiều dài tính từ cùi chỏ của cánh tay đến đầu ngón tay út. Tài liệu The Buddhist Monastic Code của Thanissaro Bhikkhu cho biết khoảng cách của 7 abbhantara = 98 mét (Như vậy 1 abbhantara = 14 mét, 1 hattha = 0,5 mét).
[10]Tức là vòng tròn bán kính 7 abbhantara (= 98 mét), lấy chỗ để y làm tâm điểm.
[11]Vải quăng bỏ (paṃsukūla) được phát sanh lên do nhiều cách thức. Đi vào mộ địa nhặt lấy các vải quấn tử thi đem về giặt sạch, cắt may thành y, nhuộm màu, v.v...là một trong những cách thức đã được các tỳ khưu thời ấy áp dụng (chú thích của người dịch).
[12]Ngài Buddhaghosa giải thích là phát sanh lên do bông vải, chỉ sợi, v.v... của bản thân.
[13]Ngài Buddhaghosa giải thích về điểm này như sau: “Nếu y căn bản là mịn và y mong mỏi là thô không thể kết hợp với nhau, và còn lại nhiều đêm nhưng vẫn không đủ cho đến hết tháng thì không nên cho thực hiện y trái với ước muốn còn bị sự chê bai nữa. Chờ đến khi nhận lãnh y mong mỏi khác nữa thì nên cho thực hiện trong khoảng thời gian (cho phép). Cũng nên chú nguyện y mong mỏi làm vải phụ tùng (parikkhāracoḷaṃ). Nếu y căn bản là thô và y mong mỏi là mịn thì nên chú nguyện y căn bản làm vải phụ tùng, rồi lấy y mong mỏi làm y căn bản và giữ lại. Bằng phương thức ấy thì đạt được lại cả tháng ấy để giữ lại y.” Có thể hiểu như sau: Trong vòng hai mươi ngày đầu tính từ lúc y căn bản được phát sanh, nếu y mong mỏi được phát sanh thì số ngày để giữ y căn bản không còn đủ ba mươi này. Hoặc là hy vọng trong 10 ngày còn lại sẽ có y mong mỏi khác cùng loại. Hoặc là chú nguyện y mong mỏi thành vải phụ tùng để y căn bản có thể giữ được đủ 30 ngày; nghĩa là chọn y mong mỏi mới phát sanh làm y căn bản và nguyện y căn bản làm vải phụ tùng như thế sẽ được tính lại đủ ba mươi ngày.
[14]Ngoài ba y như các tỳ khưu là y hai lớp (saṅghāṭi), thượng y (uttarasagaṃ), và y nội (antaravāsakaṃ), tỳ khưu ni còn có thêm hai y nữa là áo lót (saṃkacchikā) và vải choàng tắm (udakasāṭikā). Xin xem Tiểu Phẩm - Cullavagga, chương X.
[15]Ito: nghĩa là “từ đây” ám chỉ vải đang được mặc trên người ấy. Theo câu chuyện, được biết người ấy đang mặc hai tấm vải nên ghi lại như trên.
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[74] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi đến gặp những người làm tơ tằm rồi nói như vầy:
- Này các đạo hữu, hãy nấu nhiều kén tằm rồi bố thí đến chúng tôi; chúng tôi cũng muốn làm tấm trải nằm (ngọa cụ) có trộn lẫn tơ tằm.
Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử này sau khi đi đến gặp chúng tôi lại nói như vầy: “Này các đạo hữu, hãy nấu nhiều kén tằm rồi bố thí đến chúng tôi; chúng tôi cũng muốn làm tấm trải nằm có trộn lẫn tơ tằm.” Chúng tôi không có lợi nhuận, chúng tôi thu nhập khó khăn, chúng tôi vì lý do nuôi mạng, vì nguyên nhân vợ con mà gây nên việc giết chóc nhiều sinh vật nhỏ bé.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến gặp những người làm tơ tằm lại nói như vầy: “Này các đạo hữu, hãy nấu nhiều kén tằm rồi bố thí đến chúng tôi; chúng tôi cũng muốn làm tấm trải nằm có trộn lẫn tơ tằm”?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đi đến gặp những người làm tơ tằm rồi nói như vầy: “Này các đạo hữu, hãy nấu nhiều kén tằm rồi bố thí đến chúng tôi; chúng tôi cũng muốn làm tấm trải nằm có trộn lẫn tơ tằm,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi sau khi đi đến gặp những người làm tơ tằm lại nói như vầy: “Này các đạo hữu, hãy nấu nhiều kén tằm rồi bố thí đến chúng tôi; chúng tôi cũng muốn làm tấm trải nằm có trộn lẫn tơ tằm”? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào bảo làm tấm trải nằm có trộn lẫn tơ tằm thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[75] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Tấm trải nằm nghĩa là sau khi trải ra, sự không cuộn lại đã được thực hiện.
Bảo làm: vị (tự) làm hoặc bảo làm sau khi đã trộn lẫn vào cho dầu chỉ một sợi tơ tằm. Trong khi tiến hành thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (vật ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, tấm trải nằm có trộn lẫn tơ tằm này của tôi đã được bảo làm, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[76] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau khi thọ lãnh vật đã được làm bởi người khác, vị thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[77] Vị làm tấm màn che, hoặc tấm thảm trải nền đất, hoặc màn che quanh làm tường, hoặc nệm, hoặc gối, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[78] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen. Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử này lại bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[79] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Màu đen nghĩa là có hai loại màu đen: màu đen do tự nhiên hoặc là màu đen nhuộm.
Tấm trải nằm nghĩa là sau khi trải ra, sự không cuộn lại đã được thực hiện.
Bảo làm: vị (tự) làm hoặc bảo làm. Trong khi tiến hành thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (vật ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen của tôi đã được bảo làm, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[80] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau khi thọ lãnh vật đã được làm bởi người khác, vị thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[81] Vị làm tấm màn che, hoặc tấm thảm trải nền đất, hoặc màn che quanh làm tường, hoặc nệm, hoặc gối, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhì.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[82] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm không được bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen” nên để vào chỉ chút ít màu trắng ở viền rồi bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen y như thế. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại để vào một chút ít màu trắng ở viền rồi bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen y như thế?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi để vào một chút ít màu trắng ở viền rồi bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen y như thế, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại để vào một chút ít màu trắng ở viền rồi bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen y như thế vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trong khi bảo làm tấm trải nằm mới, vị tỳ khưu nên lấy hai phần lông cừu thuần màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ tư màu nâu đỏ. Nếu vị tỳ khưu không lấy hai phần lông cừu thuần màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ tư màu nâu đỏ rồi bảo làm tấm trải nằm mới thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[83] Mới nghĩa là có liên quan việc làm (tấm thảm nằm) được đề cập đến.
Tấm trải nằm nghĩa là sau khi trải ra, sự không cuộn lại đã được thực hiện.
Trong khi bảo làm: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo làm.
Nên lấy hai phần lông cừu thuần màu đen: sau khi đã được mang lại, thì nên lấy hai cân (tulā) [1]lông cừu thuần màu đen.
Phần thứ ba màu trắng: một cân của màu trắng.
Phần thứ tư màu nâu đỏ: một cân của màu nâu đỏ.
Nếu vị tỳ khưu không lấy hai phần lông cừu thuần màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ tư màu nâu đỏ: sau khi không để vào một cân màu trắng, một cân màu nâu đỏ rồi (tự) làm hoặc bảo làm tấm trải nằm mới. Trong khi tiến hành thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (vật ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, tấm trải nằm của tôi đã được bảo làm sau khi đã không để vào một cân màu trắng và một cân màu nâu đỏ, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[84] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau khi thọ lãnh vật đã được làm bởi người khác, vị thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[85] Sau khi để vào một cân màu trắng và một cân màu nâu đỏ rồi làm, sau khi để vào màu trắng nhiều hơn (hoặc) màu nâu đỏ nhiều hơn rồi làm, sau khi lấy thuần màu trắng (hoặc) thuần màu nâu đỏ rồi làm, vị làm tấm màn che, hoặc tấm thảm trải nền đất, hoặc màn che quanh làm tường, hoặc nệm, hoặc gối, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[86] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu bảo làm tấm trải nằm hàng năm. Các vị ấy sống có nhiều sự van xin, có nhiều sự yêu cầu: “Các người hãy bố thí các lông cừu. Có nhu cầu với các lông cừu.”
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại bảo làm tấm trải nằm hàng năm rồi sống có nhiều sự van xin, có nhiều sự yêu cầu: “Các người hãy bố thí các lông cừu. Có nhu cầu với các lông cừu”? Các tấm trải nằm của chúng tôi bị con cái của chúng tôi tiêu tiểu và bị các con chuột gặm nhấm còn được làm năm sáu năm một lần. Thế mà các sa-môn Thích tử này lại bảo làm tấm trải nằm hàng năm rồi sống có nhiều sự van xin, có nhiều sự yêu cầu: “Các người hãy bố thí các lông cừu. Có nhu cầu với các lông cừu.”
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu lại bảo làm tấm trải nằm hàng năm rồi sống có nhiều sự van xin, có nhiều sự yêu cầu: “Các người hãy bố thí các lông cừu. Có nhu cầu với các lông cừu.”?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu bảo làm tấm trải nằm hàng năm rồi sống có nhiều sự van xin, có nhiều sự yêu cầu: “Các người hãy bố thí các lông cừu. Có nhu cầu với các lông cừu,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại bảo làm tấm trải nằm hàng năm rồi sống có nhiều sự van xin, có nhiều sự yêu cầu: “Các người hãy bố thí các lông cừu. Có nhu cầu với các lông cừu” vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Sau khi bảo làm tấm trải nằm mới, vị tỳ khưu nên sử dụng sáu năm. Nếu chưa đủ sáu năm mà cho đi hoặc không cho đi tấm trải nằm ấy rồi bảo làm tấm trải nằm mới khác thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[87] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ ở thành Kosambī bị bệnh. Các thân quyến đã phái người đưa tin đến gặp vị tỳ khưu ấy nói rằng: “Ngài đại đức hãy đi đến. Chúng tôi sẽ hộ độ.” Các tỳ khưu cũng đã nói như vầy:
- Này đại đức, hãy đi. Các thân quyến sẽ hộ độ đại đức.
Vị ấy đã nói như vầy:
- Này các đại đức, điều học đã được đức Thế Tôn quy định rằng: “Sau khi bảo làm tấm trải nằm mới, vị tỳ khưu nên sử dụng sáu năm.” Và tôi thì bị bệnh nên không thể mang theo tấm trải nằm mà ra đi được. Tôi không được thoải mái khi không có tấm trải nằm. Tôi sẽ không đi.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự đồng ý về tấm trải nằm đối với vị tỳ khưu bị bệnh. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi bị bệnh không thể mang theo tấm trải nằm mà ra đi được. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về tấm trải nằm.
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) bị bệnh không thể mang theo tấm trải nằm mà ra đi được. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về tấm trải nằm. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ý về tấm trải nằmđến vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) bị bệnh không thể mang theo tấm trải nằm mà ra đi được. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về tấm trải nằm. Hội chúng ban cho sự đồng ý về tấm trải nằmđến vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc ban cho sự đồng ý về tấm trải nằmđến vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự đồng ý về tấm trải nằmđã được hội chúng ban cho đến vị tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Sau khi bảo làm tấm trải nằm mới, vị tỳ khưu nên sử dụng sáu năm. Nếu chưa đủ sáu năm mà cho đi hoặc không cho đi tấm trải nằm ấy rồi bảo làm tấm trải nằm mới khác thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị), ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.”
[88] Mới nghĩa là có liên quan việc làm (tấm thảm nằm) được đề cập đến.
Tấm trải nằm nghĩa là sau khi trải ra, sự không cuộn lại đã được thực hiện.
Sau khi bảo làm: sau khi (tự) làm hoặc sau khi bảo (người khác) làm.
Nên sử dụng sáu năm: nên sử dụng hơn sáu năm.
Nếu chưa đủ sáu năm: còn ít hơn sáu năm.
Cho đi tấm trải nằm ấy: sau khi cho đến những người khác.
Hoặc không cho đi:sau khi không cho đến bất cứ ai.
Ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu: Trừ ra có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Vị (tự) làm hoặc bảo làm tấm trải nằm mới khác. Trong khi tiến hành thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (vật ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, tấm trải nằm của tôi đã được bảo làm chưa đủ sáu năm giờ cần được xả bỏ, ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[89] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
[90] Vị làm khi được sáu năm, vị làm khi đã quá sáu năm, vị làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác, vị nhận được (tấm trải nằm) đã được làm bởi người khác rồi sử dụng, vị làm tấm màn che, hoặc tấm thảm trải nền đất, hoặc màn che quanh làm tường, hoặc nệm, hoặc gối, với sự đồng ý của các tỳ khưu, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tư.
********
ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[91] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta muốn thiền tịnh trong ba tháng. Không ai đi đến gặp ta ngoại trừ một vị mang lại vật thực.
- Bạch ngài, xin vâng. Các vị tỳ khưu ấy đã trả lời đức Thế Tôn.
Và quả thật không có vị nào đi đến gặp đức Thế Tôn ngoại trừ một vị mang lại vật thực. Vào lúc bấy giờ, hội chúng ở thành Sāvatthi đã thực hiện quy định là: “Này các đại đức, đức Thế Tôn muốn thiền tịnh trong ba tháng. Không ai được đi đến gặp đức Thế Tôn ngoại trừ một vị mang lại vật thực. Vị nào đi đến gặp đức Thế Tôn nên bị buộc sám hối tội pācittiya (ưng đối trị).”
[92] Khi ấy, đại đức Upasena con trai của Vaṅganta cùng tập thể đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.
Điều này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với đại đức Upasena con trai của Vaṅganta điều này:
- Này Upasena, sức khỏe có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi đi đường xa có được ít mệt nhọc không?
- Bạch Thế Tôn, sức khỏe khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc tốt đẹp. Bạch ngài, chúng con đi đường xa được ít mệt nhọc.
Vào lúc bấy giờ, vị tỳ khưu đệ tử của đại đức Upasena con trai của Vaṅganta ngồi xuống không xa đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này tỳ khưu, đối với ngươi các y paṃsukūla có dễ chịu không?
- Bạch ngài, đối với con các y paṃsukūla không có dễ chịu.
- Này tỳ khưu, vậy tại sao ngươi lại là vị hành pháp sử dụng y paṃsukūla?
- Bạch ngài, thầy tế độ của con là vị hành pháp sử dụng y paṃsukūla; như thế con cũng là vị hành pháp sử dụng y paṃsukūla.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với đại đức Upasena con trai của Vaṅganta điều này:
- Này Upasena, quả thật tập thể này có niềm tin đối với ngươi. Này Upasena, ngươi hướng dẫn tập thể bằng cách nào?
- Bạch ngài, ai cầu xin con sự tu lên bậc trên thì con nói với người ấy như vầy: “Này đạo hữu, ta là vị hành pháp ở rừng, hành pháp đi khất thực, hành pháp sử dụng y paṃsukūla, nếu ngươi cũng sẽ là vị hành pháp ở rừng, hành pháp đi khất thực, hành pháp sử dụng y paṃsukūla như thế thì ta sẽ cho ngươi tu lên bậc trên.” Nếu (người ấy) đồng ý với con thì con cho tu lên bậc trên, nếu không đồng ý với con thì con không cho tu lên bậc trên. Vị nào cầu xin con pháp nương nhờ thì con nói với vị ấy như vầy: “Này đại đức, ta là vị hành pháp ở rừng, hành pháp đi khất thực, hành pháp sử dụng y paṃsukūla, nếu ngươi cũng sẽ là vị hành pháp ở rừng, hành pháp đi khất thực, hành pháp sử dụng y paṃsukūla như thế thì ta sẽ ban cho ngươi pháp nương nhờ.” Nếu (vị ấy) đồng ý với con thì con ban cho pháp nương nhờ, nếu không đồng ý với con thì con không ban cho pháp nương nhờ. Bạch ngài, con hướng dẫn tập thể như thế.
- Này Upasena, tốt lắm, tốt lắm! Này Upasena, ngươi hướng dẫn tập thể tốt lắm. Này Upasena, ngươi có biết về quy định của hội chúng ở thành Sāvatthi không?
- Bạch ngài, con quả thật không biết về quy định của hội chúng ở thành Sāvatthi.
- Này Upasena, hội chúng ở thành Sāvatthi đã thực hiện quy định là: “Này các đại đức, đức Thế Tôn muốn thiền tịnh trong ba tháng. Không ai được đi đến gặp đức Thế Tôn ngoại trừ một vị mang lại vật thực. Vị nào đi đến gặp đức Thế Tôn nên bị buộc sám hối tội pācittiya (ưng đối trị).”
- Bạch ngài, hội chúng ở thành Sāvatthi sẽ được biết tiếng bởi quy định của chính họ. Chúng con sẽ không quy định điều không được quy định hoặc sẽ không hủy bỏ điều đã được quy định. Chúng con sẽ thọ trì và thực hành các điều học theo như đã được quy định.
- Này Upasena, tốt lắm, tốt lắm! Không nên quy định điều không được quy định hoặc không nên hủy bỏ điều đã được quy định. Nên thọ trì và thực hành các điều học theo như đã được quy định. Này Upasena, ta cho phép: “Các vị tỳ khưu nào là những vị hành pháp ở rừng, hành pháp đi khất thực, hành pháp sử dụng y paṃsukūla, hãy để các vị ấy đi đến diện kiến ta một cách thoải mái.”
Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu đứng ở bên ngoài cổng ra vào (nghĩ rằng): “Chúng ta sẽ buộc đại đức Upasena con trai của Vaṅganta sám hối tội pācittiya.” Sau đó, đại đức Upasena con trai của Vaṅganta cùng tập thể đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã nói với đại đức Upasena con trai của Vaṅganta điều này:
- Này đại đức Upasena, đại đức có biết quy định của hội chúng ở thành Sāvatthi không?
- Này các đại đức, đức Thế Tôn đã nói với tôi như vầy: “Này Upasena, ngươi có biết về quy định của hội chúng ở thành Sāvatthi không?” “Bạch ngài, con quả thật không biết về quy định của hội chúng ở thành Sāvatthi.” “Này Upasena, hội chúng ở thành Sāvatthi đã thực hiện quy định là: ‘Này các đại đức, đức Thế Tôn muốn thiền tịnh trong ba tháng. Không ai được đi đến gặp đức Thế Tôn ngoại trừ một vị mang lại vật thực. Vị nào đi đến gặp đức Thế Tôn nên bị buộc sám hối tội pācittiya.’” “Bạch ngài, hội chúng ở thành Sāvatthi sẽ được biết tiếng bởi quy định của chính họ. Chúng con sẽ không quy định điều không được quy định hoặc sẽ không hủy bỏ điều đã được quy định. Chúng con sẽ thọ trì và thực hành các điều học theo như đã được quy định.” Này các đại đức, đức Thế Tôn đã cho phép rằng: “Các vị tỳ khưu nào là những vị hành pháp ở rừng, hành pháp đi khất thực, hành pháp sử dụng y paṃsukūla, hãy để các vị ấy đi đến diện kiến ta một cách thoải mái.”
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy (bàn bạc rằng): “Đại đức Upasena con trai của Vaṅganta đã nói rằng: ‘Không nên quy định điều không được quy định hoặc không nên hủy bỏ điều đã được quy định. Nên thọ trì và thực hành các điều học theo như đã được quy định’ có phải là sự thật không vậy?”
[93] Các tỳ khưu đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đã cho phép rằng: ‘Các vị tỳ khưu nào là những vị hành pháp ở rừng, hành pháp đi khất thực, hành pháp sử dụng y paṃsukūla, hãy để các vị ấy đi đến diện kiến ta một cách thoải mái.’” Các vị ấy ao ước được diện kiến đức Thế Tôn nên đã quăng bỏ các tấm trải nằm và thọ trì pháp của vị ở trong rừng, pháp của vị đi khất thực, pháp của vị sử dụng y paṃsukūla.
Sau đó, đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các chỗ trú ngụ cùng với nhiều vị tỳ khưu đã nhìn thấy các tấm trải nằm bị quăng bỏ chỗ này chỗ nọ, sau khi nhìn thấy đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, những tấm trải nằm bị quăng bỏ chỗ này chỗ nọ là của vị nào vậy?
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm đem lại sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỳ khưu hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trong khi bảo thực hiện tấm lót ngồi (tọa cụ), vị tỳ khưu nên lấy một gang tay của đức Thiện Thệ[2]ở phần xung quanh của tấm lót cũ để hoại vẻ đẹp. Nếu vị tỳ khưu không lấy một gang tay của đức Thiện Thệ ở phần xung quanh của tấm lót cũ mà bảo làm tấm lót ngồi mới thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[94] Tấm lót ngồi nghĩa là có đường viền quanh được nói đến.
Tấm trải nằm nghĩa là sau khi trải ra, sự không cuộn lại đã được thực hiện.
Sau khi bảo làm: sau khi (tự) làm hoặc sau khi bảo (người khác) làm.
Tấm lót cũ nghĩa là đã được ngồi dầu chỉ một lần, đã được nằm dầu chỉ một lần.
Nên lấy một gang tay của đức Thiện Thệ ở phần xung quanh để hoại vẻ đẹp: để có được trạng thái bền chắc, sau khi cắt vòng tròn hoặc vuông vức rồi nên trải ra ở một góc, hoặc sau khi tháo rời rồi nên trải ra.
Nếu vị tỳ khưu không lấy một gang tay của đức Thiện Thệ ở phần xung quanh của tấm lót cũ: sau khi không lấy một gang tay của đức Thiện Thệ ở phần xung quanh của tấm lót cũ rồi (tự) làm hoặc bảo làm tấm lót ngồi mới, trong khi tiến hành thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (vật ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, tấm lót ngồi này của tôi đã được bảo làm sau khi không lấy một gang tay của đức Thiện Thệ ở phần xung quanh của tấm lót cũ, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[95] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị (tự làm) hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[96] Sau khi đã lấy một gang tay của đức Thiện Thệ ở phần xung quanh của tấm lót cũ rồi làm; trong khi không có, đã lấy ít hơn rồi làm; trong khi không có, đã không lấy rồi làm; vị nhận được (tấm lót ngồi) đã được làm bởi người khác rồi sử dụng; vị làm tấm màn che, hoặc tấm thảm trải nền đất, hoặc màn che quanh làm tường, hoặc nệm, hoặc gối; vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ năm.
********
ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[97] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi đang đi đến thành Sāvatthi trong xứ Kosala, ở giữa đường có các lông cừu đã được phát sanh. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã dùng thượng y gói các lông cừu ấy lại thành gói rồi đi. Dân chúng sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đã chế giễu rằng:
- Thưa ngài, chúng được mua bao nhiêu? Lợi nhuận sẽ là bao nhiêu?
Trong khi bị những người ấy chế giễu, vị tỳ khưu ấy đã trở nên xấu hổ. Sau đó, khi đến thành Sāvatthi vị tỳ khưu ấy đã đứng thẳng người ném các lông cừu ấy xuống. Các tỳ khưu đã nói với vị tỳ khưu ấy như vầy:
- Này đại đức, vì sao đại đức lại đứng thẳng người ném các lông cừu này xuống vậy?
- Này các đại đức, như thế là vì nguyên nhân các lông cừu này mà tôi đã bị dân chúng chế giễu.
- Này đại đức, thế đại đức đã mang những lông cừu này khoảng bao xa vậy?
- Này các đại đức, hơn ba do tuần.[3]
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu lại mang các lông cừu hơn ba do tuần?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi mang các lông cừu hơn ba do tuần, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại mang các lông cừu hơn ba do tuần vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu trong khi đi đường xa có các lông cừu được phát sanh, vị tỳ khưu mong muốn thì nên thọ lãnh. Sau khi thọ lãnh, nên dùng tay mang tối đa ba do tuần khi không có người mang. Nếu mang vượt quá khoảng cách ấy cho dầu không có người mang vác thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[98] Vị tỳ khưu trong khi đi đường xa: là vị đang đi đường.
Các lông cừu được phát sanh: là được phát sanh từ hội chúng, hoặc từ nhóm, hoặc từ thân quyến, hoặc từ bạn bè, hoặc từ vật quăng bỏ (paṃsukūla), hoặc từ vật sở hữu của bản thân.
Mong muốn: vị đang ước muốn thì nên thọ lãnh.
Sau khi thọ lãnh thì nên dùng tay mang tối đa ba do tuần: Nên dùng tay mang nhiều nhất ba do tuần.
Khi không có người mang vác: không có người nào khác khuân vác: hoặc là người nữ, hoặc là người nam, hoặc là người tại gia, hoặc là vị xuất gia.
Nếu mang vượt quá khoảng cách ấy cho dầu không có người mang vác: Vượt quá ba do tuần bước thứ nhất thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vượt quá ba do tuần bước thứ nhì thì (các lông cừu ấy) phạm vào nissaggiya. Đứng trong khoảng ba do tuần và làm rơi ngoài ba do tuần thì (các lông cừu ấy) phạm vào nissaggiya. Sau khi để ở trên xe hoặc trong gói đồ của người khác mà họ không hay biết, vị vượt quá ba do tuần thì (các lông cừu ấy) phạm vào nissaggiya, cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, các lông cừu này của tôi đã vượt quá ba do tuần, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ các vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[99] Hơn ba do tuần, nhận biết là đã hơn, vị vượt qua ba do tuần thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Hơn ba do tuần, có sự hoài nghi, vị vượt qua ba do tuần thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Hơn ba do tuần, (lầm) tưởng là chưa hơn, vị vượt qua ba do tuần thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa hơn ba do tuần, (lầm) tưởng là đã hơn, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa hơn ba do tuần, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa hơn ba do tuần, nhận biết là chưa hơn thì vô tội.
[100] Vị mang đi ba do tuần, vị mang đi chưa hơn ba do tuần, vị mang đi ba do tuần rồi mang lui lại, sau khi đi ba do tuần vị có ý định tìm trú xứ rồi mang hơn khoảng cách đó, vị nhận lại vật bị cướp rồi mang đi, vị nhận lại vật bị trộm rồi mang đi, vị bảo người khác mang, vị mang vật đã là thành phẩm (katabhaṇḍaṃ), vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ sáu.
********
ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[101] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya (Thích ca), trong thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bảo các tỳ khưu ni giặt, bảo nhuộm, và bảo chải các lông cừu. Trong khi giặt, trong khi nhuộm, và trong khi chải các lông cừu, các tỳ khưu ni xao lãng việc đọc tụng, việc vấn hỏi, (việc tu tập) tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng tuệ.[4]
Khi ấy, bà Mahāpajāpati Gotamī đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn, rồi đứng ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với bà Mahāpajāpati Gotamī đang đứng một bên điều này:
- Này Gotamī, chắc hẳn các tỳ khưu ni sống không có dễ duôi, tinh cần, và bản thân có nỗ lực?
- Bạch ngài, sự không dễ duôi của các tỳ khưu ni từ đâu có được khi các ngài đại đức nhóm Lục Sư bảo các tỳ khưu ni giặt, bảo nhuộm, và bảo chải các lông cừu? Trong khi giặt, trong khi nhuộm, và trong khi chải các lông cừu, các tỳ khưu ni xao lãng việc đọc tụng, việc vấn hỏi, (việc tu tập) tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng tuệ.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà Mahāpajāpati Gotamī bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, bà Mahāpajāpati Gotamī đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi bảo các tỳ khưu ni giặt, bảo nhuộm, và bảo chải các lông cừu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
- Này các tỳ khưu, là các nữ thân quyến của các ngươi hay không phải là các nữ thân quyến?
- Bạch Thế Tôn, không phải là các nữ thân quyến.
- Này những kẻ rồ dại, những người nam không phải là thân quyến không biết điều gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì làm hài lòng hay không làm hài lòng những người nữ không phải là thân quyến. Này những kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao các ngươi lại bảo các tỳ khưu ni không phải là thân quyến giặt, bảo nhuộm, và bảo chải các lông cừu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào bảo tỳ khưu ni không phải là thân quyến giặt, hoặc bảo nhuộm, hoặc bảo chải các lông cừu thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[102] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Người nữ) Không phải là thân quyến nghĩa là người nữ không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Bảo giặt: vị chỉ thị rằng: “Hãy giặt” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Các lông cừu) đã được giặt thì phạm vào nissaggiya.
Bảo nhuộm: vị chỉ thị rằng: “Hãy nhuộm” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Các lông cừu) đã được nhuộm thì phạm vào nissaggiya.
Bảo chải: vị chỉ thị rằng: “Hãy chải” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Các lông cừu) đã được chải thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, các lông cừu này của tôi đã được bảo tỳ khưu ni không phải là thân quyến giặt, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ (các lông cừu) này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[103] Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt các lông cừu thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo nhuộm các lông cừu thì phạm tội nissaggiya pācittiya và tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo chải các lông cừu thì phạm tội nissaggiya pācittiya và tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo nhuộm, bảo chải các lông cừu thì phạm tội nissaggiya pācittiya và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo nhuộm các lông cừu thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo nhuộm, bảo chải các lông cừu thì phạm tội nissaggiya pācittiya và tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo nhuộm, bảo giặt các lông cừu thì phạm tội nissaggiya pācittiya và tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo nhuộm, bảo chải, bảo giặt các lông cừu thì phạm tội nissaggiya pācittiya và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo chải các lông cừu thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo chải, bảo giặt các lông cừu thì phạm tội nissaggiya pācittiya và tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo chải, bảo nhuộm các lông cừu thì phạm tội nissaggiya pācittiya và tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo chải, bảo giặt, bảo nhuộm các lông cừu thì phạm tội nissaggiya pācittiya và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, ...(như trên)...
Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, ...(như trên)...
Vị bảo giặt các lông cừu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị bảo cô ni tu lên bậc trên từ một hội chúng giặt thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, nhận biết là thân quyến thì vô tội.
[104] Khi vị (tỳ khưu ni) là thân quyến đang giặt có vị (tỳ khưu ni) thứ nhì không phải là thân quyến (phụ giúp), vị (tỳ khưu ni) giặt khi chưa được nói, vị bảo giặt vật đã là thành phẩm chưa được sử dụng, (vị bảo) cô ni tu tập sự, (vị bảo) sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ bảy.
********
ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[105] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha (Vương Xá), Veḷuvana (Trúc Lâm), nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya là vị thường tới lui với gia đình nọ và là vị nhận bữa ăn thường kỳ. Khi nào gia đình ấy có được vật thực loại cứng hoặc loại mềm, phần chia trong số đó được để dành cho đại đức Upananda con trai dòng Sākya. Vào lúc bấy giờ, gia đình ấy có được miếng thịt nhằm lúc chiều tối. Trong số đó, phần chia của đại đức Upananda con trai dòng Sākya được để dành lại. Đến canh cuối của đêm, đứa bé trai của gia đình ấy thức dậy khóc lóc rằng:
- Hãy cho con thịt.
Khi ấy, người đàn ông ấy đã nói với người vợ điều này:
- Hãy cho đứa bé phần chia của ngài đại đức. Sau khi mua phần khác tôi sẽ dâng ngài.
Sau đó vào buổi sáng, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã mặc y, cầm y bát, đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, người đàn ông ấy đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Upananda con trai dòng Sākya rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, người đàn ông ấy đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:
- Thưa ngài, hôm qua lúc chiều tối có được miếng thịt. Trong số đó, phần chia của ngài đại đức đã được để dành. Thưa ngài, vào canh cuối của đêm, đứa bé trai này đã thức dậy khóc lóc rằng: “Hãy cho con thịt.” Phần chia của ngài đại đức đã được cho đến đứa bé. Thưa ngài, hãy để vật gì đó được mang lại với một đồng tiền (kahāpaṇa)?[5]
- Này đạo hữu, đồng tiền đã được ta từ bỏ.
- Thưa ngài, đúng vậy. Đã được từ bỏ.
- Này đạo hữu, hãy trao cho ta chính đồng tiền ấy.
Khi ấy, người đàn ông ấy đã trao đồng tiền cho đại đức Upananda con trai dòng Sākya rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Chúng tôi nhận lãnh tiền bạc như thế nào thì các sa-môn Thích tử này thọ lãnh tiền bạc y như thế.
Các tỳ khưu đã nghe được người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya lại thọ lãnh tiền bạc?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Upananda, nghe nói ngươi thọ lãnh tiền bạc, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại thọ lãnh tiền bạc vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nhận lấy hoặc bảo nhận lấy vàng bạc hoặc ưng thuận (vàng bạc) đã được mang đến thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[106] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vàng nghĩa là màu da của bậc Đạo Sư được nói đến.
Bạc nghĩa là đồng tiền kahāpaṇa, tiền māsaka bằng đồng, tiền māsaka bằng gỗ, tiền māsaka bằng nhựa cánh kiến, những vật nào dùng trong việc buôn bán.
Nhận lấy: bản thân cầm lấy thì phạm vào nissaggiya.
Bảo nhận lấy: bảo người khác cầm lấy thì phạm vào nissaggiya.
Hoặc ưng thuận (vàng bạc) đã được mang đến: hoặc ưng thuận (vàng bạc) đã được mang đến (nói rằng): “Vật này hãy là của ngài” thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ ở giữa hội chúng. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: Vị tỳ khưu ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Bạch các ngài, tôi đã thọ lãnh vàng bạc, vật này nên được tôi xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.”
Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực. Nếu có người phụ việc chùa hoặc nam cư sĩ đi đến nơi ấy thì nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, hãy nhận biết vật này.” Nếu người ấy nói rằng: “Với vật này, hãy để cho vật gì được mang lại?” Không nên nói rằng: “Hãy mang lại vật này hoặc vật này.” Nên đề cập đến vật được phép là bơ lỏng, hoặc dầu ăn, hoặc mật ong, hoặc đường mía. Nếu người ấy sau khi dùng (vàng bạc) ấy trao đổi và đem lại vật được phép thì tất cả nên thọ dụng trừ ra vị đã thọ lãnh vàng bạc. Nếu điều ấy có thể đạt được như vậy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không thể đạt được thì nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, hãy quăng bỏ vật này.” Nếu người ấy quăng bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu (người ấy) không quăng bỏ thì nên chỉ định vị quăng bỏ vàng bạc là vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, là vị biết vật đã được quăng bỏ hoặc chưa được quăng bỏ.
Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu nên được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị quăng bỏ vàng bạc. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị quăng bỏ vàng bạc. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị quăng bỏ vàng bạc xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị quăng bỏ vàng bạc. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Vị tỳ khưu đã được chỉ định ấy sau khi đã không làm dấu hiệu rồi nên ném đi. Nếu sau khi đã làm dấu hiệu rồi ném đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[107] Vàng bạc, nhận biết là vàng bạc, vị thọ lãnh vàng bạc thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Vàng bạc, có sự hoài nghi, vị thọ lãnh vàng bạc thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vàng bạc, (lầm) tưởng không phải là vàng bạc, vị thọ lãnh vàng bạc thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Không phải là vàng bạc, (lầm) tưởng là vàng bạc, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là vàng bạc, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là vàng bạc, nhận biết không phải là vàng bạc thì vô tội.
[108] Sau khi nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong chỗ ngụ, vị giữ lại (nghĩ rằng): “Là của ai, người ấy sẽ mang đi,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tám.
********
ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[109] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tiến hành việc trao đổi bằng vàng bạc dưới nhiều hình thức. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích tử lại tiến hành việc trao đổi bằng vàng bạc dưới nhiều hình thức, giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại tiến hành việc trao đổi bằng vàng bạc dưới nhiều hình thức?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi tiến hành việc trao đổi bằng vàng bạc dưới nhiều hình thức, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại tiến hành việc trao đổi bằng vàng bạc dưới nhiều hình thức? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tiến hành việc trao đổi bằng vàng bạc dưới nhiều hình thức thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[110] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Dưới nhiều hình thức nghĩa là đã được chế biến, chưa được chế biến, đã được chế biến và chưa được chế biến. Đã được chế biến nghĩa là làm thành vật (trang sức) ở đầu, làm thành vật (trang sức) ở cổ, làm thành vật (trang sức) ở tay, làm thành vật (trang sức) ở bàn chân, làm thành vật (trang sức) ở hông. Chưa được chế biến nghĩa là việc làm thành khối được nói đến. Đã được chế biến và chưa được chế biến nghĩa là cả hai điều ấy.
Vàng bạc nghĩa là có màu sắc của bậc Đạo Sư, là đồng tiền kahāpaṇa, tiền māsaka bằng đồng, tiền māsaka bằng gỗ, tiền māsaka bằng nhựa cánh kiến, những vật nào dùng trong việc buôn bán.
Tiến hành: vị trao đổi vật đã được chế biến bằng vật đã được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật chưa được chế biến bằng vật đã được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật đã được chế biến và chưa được chế biến bằng vật đã được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật đã được chế biến bằng vật chưa được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật chưa được chế biến bằng vật chưa được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật đã được chế biến và chưa được chế biến bằng vật chưa được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật đã được chế biến bằng vật đã được chế biến và chưa được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật chưa được chế biến bằng vật đã được chế biến và chưa được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật đã được chế biến và chưa được chế biến bằng vật đã được chế biến và chưa được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Nên được xả bỏ ở giữa hội chúng. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy:
Vị tỳ khưu ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Bạch các ngài, tôi đã tiến hành việc trao đổi bằng vàng bạc dưới nhiều hình thức, vật này nên được tôi xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.”
Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực. Nếu có người phụ việc chùa hoặc nam cư sĩ đi đến nơi ấy thì nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, hãy nhận biết vật này.” Nếu người ấy nói rằng: “Với vật này, hãy để cho vật gì được mang lại?” Không nên nói rằng: “Hãy mang lại vật này hoặc vật này.” Nên đề cập đến vật được phép là bơ lỏng, hoặc dầu ăn, hoặc mật ong, hoặc đường mía. Nếu người ấy sau khi dùng (vàng bạc) ấy trao đổi và đem lại vật được phép thì tất cả nên thọ dụng trừ ra vị đã thọ lãnh vàng bạc. Nếu điều ấy có thể đạt được như vậy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không thể đạt được thì nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, hãy quăng bỏ vật này.” Nếu người ấy quăng bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu (người ấy) không quăng bỏ thì nên chỉ định vị quăng bỏ vàng bạc là vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, là vị biết vật đã được quăng bỏ hoặc chưa được quăng bỏ.
Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu nên được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị quăng bỏ vàng bạc. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị quăng bỏ vàng bạc. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị quăng bỏ vàng bạc xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị quăng bỏ vàng bạc. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Vị tỳ khưu đã được chỉ định ấy sau khi đã không làm dấu hiệu rồi nên ném đi. Nếu sau khi đã làm dấu hiệu rồi ném đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[111] Vàng bạc, nhận biết là vàng bạc, vị trao đổi vàng bạc thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Vàng bạc, có sự hoài nghi, vị trao đổi vàng bạc thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vàng bạc, (lầm) tưởng không phải là vàng bạc, vị trao đổi vàng bạc thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Không phải là vàng bạc, (lầm) tưởng là vàng bạc, vị trao đổi vàng bạc thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Không phải là vàng bạc, có sự hoài nghi, vị trao đổi vàng bạc thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Không phải là vàng bạc, nhận biết không phải là vàng bạc, vị trao đổi vàng bạc thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Không phải là vàng bạc, (lầm) tưởng là vàng bạc, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là vàng bạc, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là vàng bạc, nhận biết không phải là vàng bạc thì vô tội.
[112] Vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ chín.
********
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[113] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya là rành rẽ về việc may y. Vị ấy đã làm y hai lớp (saṅghāṭi) được nhuộm khéo léo và được sửa soạn khéo léo từ các loại vải cũ, sau khi làm xong đã khoác vào. Khi ấy, có vị du sĩ ngoại đạo nọ mặc tấm choàng trị giá cao đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya, sau khi đến đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:
- Này đại đức, y hai lớp này của ngài đẹp thật. Hãy đổi cho tôi với tấm choàng này.
- Này đạo hữu, hãy biết lấy.
- Này đại đức, được rồi. Tôi biết mà.
- Này đạo hữu, tốt thôi. Rồi đã trao đổi.
Sau đó, vị du sĩ ngoại đạo ấy đã khoác lên y hai lớp ấy rồi đi đến tu viện của các du sĩ ngoại đạo. Các du sĩ ngoại đạo đã nói với vị du sĩ ngoại đạo ấy điều này:
- Này huynh đệ, y hai lớp này của ngươi đẹp thật. Ngươi nhận được từ đâu vậy?
- Này các huynh đệ, đã được trao đổi bằng tấm choàng kia của tôi.
- Này huynh đệ, y hai lớp này của ngươi sẽ được bao nhiêu ngày? Chính tấm choàng kia của ngươi mới giá trị.
Khi ấy, vị du sĩ ngoại đạo ấy (nghĩ rằng): “Các du sĩ ngoại đạo đã nói sự thật. Y hai lớp này của ta sẽ được bao nhiêu ngày? Chính tấm choàng kia của ta mới giá trị” rồi đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya, sau khi đến đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:
- Này đại đức, đây là y hai lớp của đại đức. Hãy cho lại tôi tấm choàng.
- Này đạo hữu, không phải ta đã nói với đạo hữu rằng: “Này đạo hữu, hãy biết lấy.” Ta sẽ không cho lại.
Khi ấy, vị du sĩ ngoại đạo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Ngay cả người tại gia còn cho lại vật ấy đến người tại gia có sự luyến tiếc. Sao vị xuất gia lại không cho lại vị xuất gia?
Các tỳ khưu đã nghe được vị du sĩ ngoại đạo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya lại tiến hành việc mua bán với du sĩ ngoại đạo?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Upananda, nghe nói ngươi tiến hành việc mua bán với du sĩ ngoại đạo, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại tiến hành việc mua bán với du sĩ ngoại đạo vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tiến hành việc mua bán dưới nhiều hình thức thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[114] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Dưới nhiều hình thức nghĩa là các vật dụng như là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, thuốc men chữa bệnh, thậm chí cục bột tắm, gỗ chà răng, nắm chỉ rời.
Tiến hành việc mua bán: (Nói rằng): “Hãy cho vật này với vật này, hãy mang lại vật này với vật này, hãy trao đổi vật này với vật này, hãy mua vật này với vật này,” vị tiến hành thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi nào có vật được mua và vật được bán, (tức là) vật của bản thân được đến tay người kia và vật của người kia được đến tay của bản thân thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, tôi đã tiến hành việc mua bán dưới nhiều hình thức, vật này nên được tôi xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[115] Việc mua bán, nhận biết là việc mua bán, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Việc mua bán, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Việc mua bán, (lầm) tưởng không phải là việc mua bán, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Không phải là việc mua bán, (lầm) tưởng là việc mua bán, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là việc mua bán, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là việc mua bán, nhận biết không phải là việc mua bán thì vô tội.
[116] Vị hỏi trị giá (của vật), vị chỉ bảo người làm cho đúng phép (kappiyakāraka), vị nói rằng: “Chúng ta có vật này, chúng ta cần vật này và vật này,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười.
Phần Tơ Tằm là phần thứ nhì.
*******
Tóm lược phần này:
Tơ tằm, thuần, hai phần,
sáu năm, tấm lót ngồi,
hai lông cừu, nhận lấy,
cả hai nhiều hình thức.
*******
[1]Tulā là đơn vị đo trọng lượng. Theo cách tính của ngài Mahāsamaṇa Chao ở trong Vinayamukha thì 1 tulā có trọng lượng của 160.000 hạt gạo (?).
[2]Khoảng chừng 25 cm. Xin xem điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ sáu ở Phân Tích Giới Tỳ Khưu tập 1, [502].
[3]Từ điển của Childers nói rằng 1 yojana là khoảng 12 miles, từ điển của Pali Text Society nói là khoảng 7 miles. The Buddhist Monastic Code của Thanissaro bhikkhu cho biết là 1 yojana = 10 miles = 16 km.
[4]Adhisīla: tăng thượng giới là giới bổn Pātimokkha. Adhicitta: tăng thượng tâm là sự tu tập các loại định hợp thế. Adhipaññā: tăng thượng tuệ là sự tu tập (các tâm) Đạo Siêu Thế (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[5]Nếu dựa vào câu chuyện này thì giá trị của 1 pāda hoặc 5 māsaka (= ¼ kahāpaṇa) vào thời bấy giờ không cao lắm. Nên nhớ lại rằng: Vị tỳ khưu lấy vật chưa được cho theo lối trộm cướp trị giá 1 pāda hoặc 5 māsaka thì phạm tội cực nặng pārājika (bất cộng trụ).
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[117] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thực hiện việc tích trữ nhiều bình bát. Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại tích trữ nhiều bình bát? Các sa-môn Thích tử sẽ làm việc buôn bán bình bát hay sẽ lập nên gian hàng gốm sứ?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại cất giữ bình bát phụ trội?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi cất giữ bình bát phụ trội, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại cất giữ bình bát phụ trội vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào cất giữ bình bát phụ trội thì (bình bát ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[118] Vào lúc bấy giờ, có bình bát phụ trội được phát sanh đến đại đức Ānanda. Đại đức Ānanda có ý định dâng bình bát ấy đến đại đức Sāriputta. Và đại đức Sāriputta ngụ tại Sāketa. Khi ấy, đại đức Ānanda đã khởi ý điều nảy: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định là: ‘Không được cất giữ bình bát phụ trội,’ và bình bát phụ trội này đã được phát sanh đến ta. Và ta có ý định dâng bình bát này đến đại đức Sāriputta mà đại đức Sāriputta cư ngụ ở Sāketa; vậy ta nên thực hành như thế nào?” Sau đó, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Ānanda, bao lâu nữa Sāriputta sẽ đi đến đây?
- Bạch Thế Tôn, ngày thứ chín hoặc ngày thứ mười.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép cất giữ bình bát phụ trội tối đa mười ngày. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Bình bát phụ trội nên được cất giữ tối đa mười ngày. Vượt quá hạn ấy thì (bình bát ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[119] Tối đa mười ngày: là được cất giữ (hoặc sử dụng) nhiều nhất mười ngày.
Bình bát phụ trội nghĩa là chưa được chú nguyện để dùng riêng, chưa được chú nguyện để dùng chung.
Bình bát nghĩa là có hai loại bình bát: bình bát sắt và bình bát đất. Bình bát có ba dạng: bình bát cỡ lớn, bình bát cỡ vừa, bình bát cỡ nhỏ. Bình bát cỡ lớn nghĩa là chứa được một nửa āḷhaka cơm, [1]một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. Bình bát cỡ vừa nghĩa là chứa được một nāḷika cơm, một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. Bình bát cỡ nhỏ nghĩa là chứa được một pattha[2]cơm, một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. Lớn hơn các cỡ ấy không phải là bình bát, nhỏ hơn không phải là bình bát.
[120] Vượt quá hạn ấy thì (bình bát ấy) nên được xả bỏ: Khi mặt trời mọc ngày thứ mười một thì phạm vào nissaggiya, (bình bát ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy:
[121] Vị tỳ khưu ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, bình bát này của tôi đã quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ bình bát này đến hội chúng.
Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực và bình bát đã xả bỏ nên được cho lại.
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Bình bát này thuộc về vị tỳ khưu tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đã được xả bỏ đến hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho lại bình bát này đến vị tỳ khưu tên (như vầy).”
[122] Vị tỳ khưu ấy nên đi đến nhiều vị tỳ khưu, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Thưa các ngài, bình bát này của tôi đã quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến các đại đức.
Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực và bình bát đã xả bỏ nên được cho lại.
“Xin các đại đức hãy lắng nghe tôi. Bình bát này thuộc về vị tỳ khưu tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đã được xả bỏ đến các đại đức. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, các đại đức nên cho lại bình bát này đến vị tỳ khưu tên (như vầy).”
[123] Vị tỳ khưu ấy nên đi đến một vị tỳ khưu, đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Thưa đại đức, bình bát này của tôi đã quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ bình bát này đến đại đức.
Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu ấy và bình bát đã xả bỏ nên được cho lại: “Tôi cho lại đại đức bình bát này.”
[124] Khi quá hạn mười ngày, nhận biết là đã quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi quá hạn mười ngày, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi quá hạn mười ngày, (lầm) tưởng là chưa quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa được chú nguyện để dùng riêng, (lầm) tưởng là đã được chú nguyện để dùng riêng, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa được chú nguyện để dùng chung, (lầm) tưởng là đã được chú nguyện để dùng chung, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đã được phân phát, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đã bị mất trộm, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đã bị hư hỏng, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi không bị bể, (lầm) tưởng là đã bị bể, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đã bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya.
[125] Bình bát phạm vào nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa quá hạn mười ngày, (lầm) tưởng là đã quá hạn, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa quá hạn mười ngày, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa quá hạn mười ngày, nhận biết là chưa quá hạn thì vô tội.
[126] Trong thời hạn mười ngày, vị chú nguyện để dùng riêng, vị chú nguyện để dùng chung, vị phân phát, (bình bát) bị mất trộm, (bình bát) bị hư hỏng, (bình bát) bị bể, (người khác) cướp rồi lấy đi, (vị khác) lấy đi do sự thân thiết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[127] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư không cho lại bình bát đã được xả bỏ. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên không cho lại bình bát đã được xả bỏ; vị nào không cho lại thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt điều học thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[128] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, có người thợ làm đồ gốm nọ đã thỉnh cầu các tỳ khưu rằng : “Các ngài đại đức nào có nhu cầu về bình bát, tôi sẽ dâng bình bát.” Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát. Những vị có các bình bát nhỏ thì yêu cầu các bình bát lớn. Những vị có các bình bát lớn thì yêu cầu các bình bát nhỏ. Khi ấy, trong lúc làm nhiều bình bát cho các tỳ khưu, người thợ làm đồ gốm ấy không thể làm hàng khác để bán nên không nuôi nổi bản thân, ngay cả vợ con của người này cũng phải chịu khổ sở. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử này lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát? Người này trong lúc làm nhiều bình bát cho các vị này không thể làm hàng khác để bán nên không nuôi nổi bản thân, ngay cả vợ con của người này cũng phải chịu khổ sở.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên yêu cầu bình bát, vị nào yêu cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[129] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có bình bát bị bể. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán yêu cầu bình bát” trong lúc ngần ngại không yêu cầu rồi đi khất thực bằng hai bàn tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại đi khất thực bằng hai bàn tay giống như là các ngoại đạo vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị có bình bát bị hư hỏng hoặc bình bát bị bể được yêu cầu về bình bát.
[130] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Đức Phật đã cho phép vị có bình bát bị hư hỏng hoặc bình bát bị bể được yêu cầu về bình bát,” các vị ấy với (bình bát) bị bể chỉ chút ít, bị lủng chỉ chút ít, bị nứt chỉ chút ít, bị trầy chỉ chút ít lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát. Khi ấy, trong lúc làm nhiều bình bát cho các tỳ khưu, người thợ làm đồ gốm ấy giống như trước đây không thể làm hàng khác để bán nên không nuôi nổi bản thân, ngay cả vợ con của người này cũng phải chịu khổ sở. Tương tợ y như thế, dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát? Người này trong lúc làm nhiều bình bát cho các vị này không thể làm hàng khác để bán nên không nuôi nổi bản thân, ngay cả vợ con của người này cũng phải chịu khổ sở.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư với (bình bát) bị bể chỉ chút ít, bị lủng chỉ chút ít, bị nứt chỉ chút ít, bị trầy chỉ chút ít lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi với (bình bát) bị bể chỉ chút ít, bị lủng chỉ chút ít, bị nứt chỉ chút ít, bị trầy chỉ chút ít lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi với (bình bát) bị bể chỉ chút ít, bị lủng chỉ chút ít, bị nứt chỉ chút ít, bị trầy chỉ chút ít lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào với bình bát chưa đủ năm miếng vá mà kiếm thêm bình bát mới khác thì (bình bát mới ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị tỳ khưu ấy nên xả bỏ bình bát ấy đến tập thể các tỳ khưu. Và cái nào là bình bát cuối cùng của tập thể các tỳ khưu ấy, cái ấy nên trao đến vị tỳ khưu ấy: ‘Này tỳ khưu, đây là bình bát của ngươi, nên giữ lấy cho đến khi bể.’ Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy.”
[131] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chưa đủ năm miếng vá nghĩa là bình bát không có miếng vá, hoặc một miếng vá, hoặc hai miếng vá, hoặc ba miếng vá, hoặc bốn miếng vá. Bình bát không chỗ đắp vá nghĩa là bình bát không có lỗ thủng rộng hai ngón tay.[3]Bình bát có chỗ đắp vá nghĩa là bình bát có lỗ thủng rộng hai ngón tay.
Bình bát mới nghĩa là liên quan việc yêu cầu được đề cập đến.
Kiếm thêm: vị yêu cầu, trong khi tiến hành thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (bình bát ấy) cần được xả bỏ ở giữa hội chúng. Tất cả các tỳ khưu nên mang theo bình bát đã chú nguyện và tụ hội lại. Không nên chú nguyện bình bát kém cỏi (nghĩ rằng): “Ta sẽ lấy bình bát cao giá.” Nếu vị chú nguyện bình bát kém cỏi (nghĩ rằng): “Ta sẽ lấy bình bát cao giá” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy:
[132] Vị tỳ khưu ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, bình bát này của tôi đã được kiếm thêm khi bình bát chưa đủ năm miếng vá, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ bình bát này đến hội chúng.
Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực. Nên chỉ định vị chuyển đổi bình bát là vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, là vị biết vật đã được lấy hay chưa được lấy.
Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị chuyển đổi bình bát. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị chuyển đổi bình bát. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị chuyển đổi bình bát xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị chuyển đổi bình bát. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Bình bát nên được chuyển đổi bởi vị tỳ khưu đã được chỉ định ấy. Nên nói với vị trưởng lão (thera) rằng: “Thưa ngài, xin trưởng lão nhận lấy bình bát.” Nếu vị trưởng lão nhận lấy, bình bát của vị trưởng lão nên được chuyển đổi đến vị thứ nhì. Và không nên vì lòng thương hại vị ấy mà không nhận lấy, vị nào không nhận lấy[4]thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị không có bình bát không được chuyển đổi. Nên được chuyển đổi cho đến vị mới tu của hội chúng theo phương thức như thế.
Và cái nào là bình bát cuối cùng của tập thể các tỳ khưu ấy, cái ấy nên trao đến vị tỳ khưu ấy: “Này tỳ khưu, đây là bình bát của ngươi, nên giữ lấy cho đến khi bể.” Vị tỳ khưu ấy không nên để xuống bình bát ấy không đúng chỗ, không nên sử dụng sái với cách thức dùng,[5]không nên phân phát đi (nghĩ rằng): “Làm thế nào bình bát này bị trộm, hoặc bị hư hỏng, hoặc bị bể?” Nếu để xuống không đúng chỗ, hoặc sử dụng sái với cách thức dùng, hoặc phân phát thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy: Đây là điều hợp lý trong trường hợp ấy.
[133] Với bình bát không miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).Với bình bát không miếng vá, vị kiếm thêm bình bát một miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát không miếng vá, vị kiếm thêm bình bát hai miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát không miếng vá, vị kiếm thêm bình bát ba miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát không miếng vá, vị kiếm thêm bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát một miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát một miếng vá, vị kiếm thêm bình bát một miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát một miếng vá, vị kiếm thêm bình bát hai miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát một miếng vá, vị kiếm thêm bình bát ba miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát một miếng vá, vị kiếm thêm bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát hai miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát hai miếng vá, vị kiếm thêm bình bát một miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát hai miếng vá, vị kiếm thêm bình bát hai miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát hai miếng vá, vị kiếm thêm bình bát ba miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát hai miếng vá, vị kiếm thêm bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát ba miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát ba miếng vá, vị kiếm thêm bình bát một miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát ba miếng vá, vị kiếm thêm bình bát hai miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát ba miếng vá, vị kiếm thêm bình bát ba miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát ba miếng vá, vị kiếm thêm bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát bốn miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát bốn miếng vá, vị kiếm thêm bình bát một miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát bốn miếng vá, vị kiếm thêm bình bát hai miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát bốn miếng vá, vị kiếm thêm bình bát ba miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát bốn miếng vá, vị kiếm thêm bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
[134] Với bình bát không miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát một miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát hai miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát ba miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát bốn miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
[135] Với bình bát không chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá ... bình bát một miếng vá ... bình bát hai miếng vá ... bình bát ba miếng vá ... bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát một chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá ... bình bát một miếng vá ... bình bát hai miếng vá ... bình bát ba miếng vá ... bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát hai chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá ... bình bát một miếng vá ... bình bát hai miếng vá ... bình bát ba miếng vá ... bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát ba chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá ... bình bát một miếng vá ... bình bát hai miếng vá ... bình bát ba miếng vá ... bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát bốn chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá ... bình bát một miếng vá ... bình bát hai miếng vá ... bình bát ba miếng vá ... bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
[136] Với bình bát không chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát một chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát hai chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát ba chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Với bình bát bốn chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
[137] Vị có bình bát bị hư hỏng, vị có bình bát bị bể, của các thân quyến, của những người đã nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhì.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[138] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha ở thành Rājagaha có ý muốn làm chỗ trú ngụ nên cho người dọn sạch sẽ hang núi. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp đại đức Pilindavaccha, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Pilindavaccha rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đại đức Pilindavaccha điều này:
- Thưa ngài, ngài trưởng lão cho làm cái gì vậy?
- Tâu đại vương, tôi có ý muốn làm chỗ trú ngụ nên cho người dọn sạch sẽ hang núi.
- Thưa ngài, ngài có nhu cầu về người giúp việc tu viện (ārāmika) không?
- Tâu đại vương, đức Thế Tôn chưa có cho phép về người giúp việc tu viện.
- Thưa ngài, như thế thì ngài hãy hỏi đức Thế Tôn rồi báo cho trẫm biết.
- Tâu đại vương, xin vâng. Đại đức Pilindavaccha đã đáp lời đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha.
Khi ấy, đại đức Pilindavaccha đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đại đức Pilindavaccha chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đại đức Pilindavaccha, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, đại đức Pilindavaccha đã phái sứ giả đi đến gặp đức Thế Tôn (thưa rằng):
- Bạch ngài, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha có ý muốn ban cho người giúp việc tu viện. Bạch ngài, vậy nên thực hành như thế nào?
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại, đã thuyết Pháp thoại, rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép người giúp việc tu viện.
Đến lần thứ nhì, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp đại đức Pilindavaccha, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Pilindavaccha rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đại đức Pilindavaccha điều này:
- Thưa ngài, người giúp việc tu viện có được đức Thế Tôn cho phép không?
- Tâu đại vương, đã được rồi.
- Thưa ngài, như vậy thì trẫm ban cho ngài đại đức người giúp việc tu viện.
Rồi sau khi hứa với đại đức Pilindavaccha về người giúp việc tu viện, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã không ghi nhớ. Sau một thời gian dài, đức vua khi phục hồi lại ký ức đã bảo viên quan đại thần nọ là vị tổng quản rằng:
- Này khanh, người giúp việc tu viện đã được trẫm hứa với ngài đại đức, người giúp việc tu viện ấy đã được ban cho chưa?
- Tâu bệ hạ, người giúp việc tu viện chưa được ban đến ngài đại đức.
- Này khanh, tính đến đêm nay là đã bao lâu rồi vậy?
Khi ấy, viên quan đại thần ấy sau khi tính đếm số lượng đêm rồi đã tâu với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này:
- Tâu bệ hạ, năm trăm đêm.
- Này khanh, như vậy thì hãy ban cho ngài đại đức năm trăm người giúp việc tu viện.
- Tâu bệ hạ, xin vâng.
Rồi vị quan đại thần đã vâng lệnh đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha dâng đến đại đức Pilindavaccha năm trăm người giúp việc tu viện. Một ngôi làng riêng biệt đã được thiết lập. Dân chúng đã gọi ngôi làng ấy là “Ngôi làng của những người giúp việc tu viện.” Dân chúng đã gọi ngôi làng ấy là “Ngôi làng Pilindavaccha.”
[139] Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha là vị thường hay lui tới trong ngôi làng ấy. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Pilindavaccha đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào ngôi làng Pilindavaccha để khất thực. Vào lúc bấy giờ, trong ngôi làng ấy có lễ hội. Những đứa trẻ nhỏ được trang điểm, đeo vòng hoa, và đùa giỡn. Khi ấy, đại đức Pilindavaccha trong khi đi khất thực tuần tự từng nhà ở ngôi làng Pilindavaccha đã đi đến căn nhà của người giúp việc tu viện nọ, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Vào lúc bấy giờ, cô bé gái con của người đàn bà giúp việc tu viện ấy nhìn thấy những đứa trẻ con khác được trang điểm, đeo vòng hoa, nên đã oà khóc:
- Cho con vòng hoa, cho con đồ trang sức.
Khi ấy, đại đức Pilindavaccha đã nói với người đàn bà giúp việc tu viện ấy điều này:
- Vì sao đứa bé gái này khóc vậy?
- Thưa ngài, đứa bé gái này nhìn thấy những đứa trẻ con khác được trang điểm, đeo vòng hoa, nên đã oà khóc: “Cho con vòng hoa, cho con đồ trang sức.” Chúng tôi lâm cảnh khó khăn, lấy đâu ra vòng hoa, lấy đâu ra đồ trang sức?
Khi ấy, đại đức Pilindavaccha đã cầm lấy vòng cỏ nọ rồi nói với người đàn bà giúp việc tu viện ấy điều này:
- Vậy thì hãy đội vòng cỏ này lên đầu của đứa bé gái ấy đi.
Khi ấy, người đàn bà giúp việc tu viện ấy đã cầm lấy vòng cỏ ấy rồi đội lên đầu của đứa bé gái ấy. Vòng cỏ ấy đã trở thành vòng hoa bằng vàng đẹp đẽ, xinh xắn, duyên dáng; trong nội cung của đức vua cũng không có được vòng hoa bằng vàng như thế ấy. Dân chúng đã trình báo lên đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha rằng:
- Tâu bệ hạ, trong nhà của người giúp việc tu viện kia có vòng hoa bằng vàng đẹp đẽ, xinh xắn, duyên dáng; trong nội cung của đức vua cũng không có được vòng hoa bằng vàng như thế ấy. Đối với kẻ lâm cảnh khó khăn ấy thì lấy đâu ra? Chắc chắn là có được do trộm cắp.
Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra lệnh bắt giữ gia đình của người giúp việc tu viện ấy.
Đến lần thứ nhì vào buổi sáng, đại đức Pilindavaccha đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào ngôi làng Pilindavaccha để khất thực. Trong khi đi khất thực tuần tự từng nhà ở ngôi làng Pilindavaccha, đại đức Pilindavaccha đã đi đến căn nhà của người giúp việc tu viện ấy, sau khi đến đã hỏi những người hàng xóm rằng:
- Gia đình của người giúp việc tu viện này đã đi đâu?
- Thưa ngài, bọn họ đã bị đức vua ra lệnh bắt giữ vì nguyên nhân vòng hoa bằng vàng ấy.
Khi ấy, đại đức Pilindavaccha đã đi đến ngự viện của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp đại đức Pilindavaccha, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Pilindavaccha rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Pilindavaccha đã nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đang ngồi một bên điều này:
- Tâu đại vương, vì sao gia đình của người giúp việc tu viện lại bị ra lệnh bắt giữ?
- Thưa ngài, trong nhà của người giúp việc tu viện ấy có vòng hoa bằng vàng đẹp đẽ, xinh xắn, duyên dáng; trong nội cung của trẫm cũng không có được vòng hoa bằng vàng như thế ấy. Đối với kẻ lâm cảnh khó khăn ấy thì lấy đâu ra? Chắc chắn là có được do trộm cắp.
Khi ấy, đại đức Pilindavaccha đã chú nguyện rằng: “Cung điện của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha là vàng;” cung điện ấy đã trở thành hoàn toàn làm bằng vàng.
- Tâu đại vương, do đâu đại vương lại có nhiều vàng đến thế này?
- Thưa ngài, trẫm đã hiểu rồi. Việc ấy là năng lực thần thông của chính ngài đại đức.
Rồi đức vua đã ra lệnh thả gia đình người giúp việc tu viện ấy.
[140] Dân chúng (đồn rằng): “Nghe nói ngài đại đức Pilindavaccha đã phô bày điều kỳ diệu của thần thông là pháp thượng nhân trước triều thần có cả đức vua nữa!” nên đã hoan hỷ, có niềm tin cao độ, rồi đã đem đến dâng đại đức Pilindavaccha năm loại dược phẩm như là bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật ong, đường mía. Đại đức Pilindavaccha trở thành người thường xuyên thọ lãnh năm loại dược phẩm và phân phát cho hội chúng mỗi khi được thọ lãnh. Rồi tiếp tục được thọ lãnh và hội chúng của vị ấy trở nên dư dã. Sau khi chứa đầy các hũ và các chum, các vị xếp chúng một bên; sau khi chứa đầy các túi lọc nước và các túi xách, các vị treo lên ở các cửa sổ. Các loại dược phẩm ấy đã bị rỉ xuống chảy ra và vẫn ở nguyên chỗ. Các trú xá đã có chuột xuất hiện rải rác rồi tràn ngập. Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các sa-môn Thích tử này là những người tích trữ đồ đạc trong nhà giống như là đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha vậy.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu lại chấp nhận sự thặng dư như thế này?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu chấp nhận sự thặng dư như thế ấy, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại chấp nhận sự thặng dư như thế ấy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Các loại dược phẩm nào được dùng cho các tỳ khưu bị bệnh như là bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật ong, đường mía. Các thứ ấy sau khi thọ lãnh nên được thọ dụng với sự cất giữ tối đa là bảy ngày. Vượt quá hạn ấy thì nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[141] Các loại dược phẩm nào được dùng cho các tỳ khưu bị bệnh: Bơ lỏng nghĩa là bơ lỏng từ loài bò, hoặc là bơ lỏng từ loài dê, hoặc là bơ lỏng từ loài trâu, hoặc là bơ lỏng của các loài thú nào có thịt được phép (thọ dụng).[6]Bơ đặc nghĩa là bơ đặc của chính các loài thú ấy. Dầu ăn nghĩa là dầu mè, dầu hạt mù tạt, dầu có chứa mật ong (madhukatelaṃ), dầu cây eraṇḍa, dầu từ mỡ thú. Mật ong nghĩa là mật của loài ong. Đường mía nghĩa là được sản xuất từ cây mía.
Các thứ ấy sau khi thọ lãnh nên được thọ dụng với sự cất giữ tối đa là bảy ngày: nên được thọ dụng nhiều nhất là bảy ngày.
Vượt quá hạn ấy thì nên được xả bỏ: Khi mặt trời mọc vào ngày thứ tám thì phạm vào nissaggiya, (dược phẩm ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, dược phẩm này của tôi đã vượt quá hạn bảy ngày, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[142] Khi quá hạn bảy ngày, nhận biết là đã quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi quá hạn bảy ngày, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi quá hạn bảy ngày, (lầm) tưởng là chưa quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa quyết định, (lầm) tưởng là đã quyết định, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đã phân phát, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đã bị mất trộm, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đã bị hư hỏng, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi không bị cháy, (lầm) tưởng là đã bị cháy, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đã bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya.
[143] Sau khi nhận lại vật đã xả bỏ, không nên sử dụng bằng cách dùng ở trên cơ thể, không nên nuốt vào. Nên đổ vào trong đèn hoặc trong màu đen (kāḷavaṇṇe). Vị tỳ khưu khác có thể sử dụng bằng cách dùng ở trên cơ thể, (nhưng) không nên nuốt vào.
Khi chưa quá hạn bảy ngày, (lầm) tưởng là đã quá hạn, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa quá hạn bảy ngày, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa quá hạn bảy ngày, nhận biết là chưa quá hạn thì vô tội.
[144] Trong thời hạn bảy ngày; vị quyết định;[7]vị phân phát; (dược phẩm) bị mất trộm; (dược phẩm) bị hư hỏng; (dược phẩm) bị cháy; (người khác) cướp rồi lấy đi; (vị khác) lấy đi do sự thân thiết; vị không mong mỏi với vật đã được hy sinh, đã được từ bỏ, đã được dứt bỏ đến người chưa tu lên bậc trên, sau khi cho rồi được lại và thọ dụng; vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[145] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, vải choàng tắm mưa đã được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Vải choàng tắm mưa đã được đức Thế Tôn cho phép” nên đã tìm kiếm y choàng tắm mưa trước thời hạn, sau khi làm trước thời hạn rồi mặc vào, đến khi vải choàng tắm mưa đã cũ thì (các vị) lõa thể và để mưa làm ướt thân hình.
Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại tìm kiếm y choàng tắm mưa trước thời hạn, sau khi làm trước thời hạn rồi mặc vào, đến khi vải choàng tắm mưa đã cũ thì (các vị) lõa thể và để mưa làm ướt thân hình?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi tìm kiếm y choàng tắm mưa trước thời hạn, sau khi làm trước thời hạn rồi mặc vào, đến khi vải choàng tắm mưa đã cũ thì (các ngươi) lõa thể và để mưa làm ướt thân hình, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại tìm kiếm y choàng tắm mưa trước thời hạn, sau khi làm trước thời hạn rồi mặc vào, đến khi vải choàng tắm mưa đã cũ thì (các ngươi) lại lõa thể và để mưa làm ướt thân hình vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “(Biết rằng): ‘Mùa nóng còn lại là một tháng’ vị tỳ khưu nên tìm kiếm y choàng tắm mưa. (Biết rằng): ‘Mùa nóng còn lại là nửa tháng’ vị làm xong thì nên mặc. Nếu (thời hạn) chưa đến (lại nghĩ rằng): ‘Mùa nóng còn lại là một tháng’ rồi tìm kiếm y choàng tắm mưa, nếu (thời hạn) chưa đến (lại nghĩ rằng): ‘Mùa nóng còn lại là nửa tháng’ sau khi làm xong rồi mặc vào thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[146] (Biết rằng): “Mùa nóng còn lại là một tháng” vị tỳ khưu nên tìm kiếm y choàng tắm mưa: Nên đi đến gặp những người nào trước đây dâng y choàng tắm mưa và nên nói như vầy: “Là thời điểm của vải choàng tắm mưa, là lúc của vải choàng tắm mưa, những người khác cũng dâng y choàng tắm mưa.” Không nên nói rằng: “Hãy dâng y choàng tắm mưa cho tôi, hãy mang lại y choàng tắm mưa cho tôi, hãy sắm y choàng tắm mưa cho tôi, hãy mua y choàng tắm mưa cho tôi.”
(Biết rằng): “Mùa nóng còn lại là nửa tháng” vị làm xong thì nên mặc: Khi mùa nóng còn lại là nửa tháng, sau khi làm xong thì nên mặc.
Nếu (thời hạn) chưa đến (lại nghĩ rằng): “Mùa nóng còn lại là một tháng”: Khi mùa nóng còn lại là hơn một tháng, vị tìm kiếm y choàng tắm mưa thì phạm vào nissaggiya.
Nếu (thời hạn) chưa đến (lại nghĩ rằng): “Mùa nóng còn lại là nửa tháng”: Khi mùa nóng còn lại là hơn nửa tháng, vị làm xong rồi mặc vào thì phạm vào nissaggiya. (Y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, y choàng tắm mưa này của tôi đã được tìm kiếm khi mùa nóng còn lại là hơn một tháng, sau khi làm xong đã được mặc khi mùa nóng còn lại là hơn nửa tháng, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ (y) này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[147] Khi mùa nóng còn lại là hơn một tháng, nhận biết là còn hơn (một tháng), vị tìm kiếm y choàng tắm mưa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi mùa nóng còn lại là hơn một tháng, có sự hoài nghi, vị tìm kiếm y choàng tắm mưa thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi mùa nóng còn lại là hơn một tháng, (lầm) tưởng là ít hơn (một tháng), vị tìm kiếm y choàng tắm mưa thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi mùa nóng còn lại là hơn nửa tháng, nhận biết là còn hơn (nửa tháng), vị làm xong rồi mặc vào thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi mùa nóng còn lại là hơn nửa tháng, có sự hoài nghi, vị làm xong rồi mặc vào thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi mùa nóng còn lại là hơn nửa tháng, (lầm) tưởng là ít hơn (nửa tháng), vị làm xong rồi mặc vào thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Nếu có y choàng tắm mưa mà lõa thể và để mưa làm ướt thân hình thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi mùa nóng còn lại là ít hơn một tháng, (lầm) tưởng là nhiều hơn (một tháng), phạm tội dukkaṭa.
Khi mùa nóng còn lại là ít hơn một tháng, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi mùa nóng còn lại là ít hơn một tháng, nhận biết là ít hơn (một tháng) thì vô tội.
Khi mùa nóng còn lại là ít hơn nửa tháng, (lầm) tưởng là nhiều hơn (nửa tháng), phạm tội dukkaṭa.
Khi mùa nóng còn lại là ít hơn nửa tháng, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi mùa nóng còn lại là ít hơn nửa tháng, nhận biết là ít hơn (nửa tháng) thì vô tội.
[148] Vị tìm kiếm y choàng tắm mưa khi (biết rằng): “Mùa nóng còn lại là một tháng;” vị làm xong và mặc vào khi (biết rằng): “Mùa nóng còn lại là nửa tháng;” vị tìm kiếm y choàng tắm mưa khi (biết rằng): “Mùa nóng còn lại là ít hơn một tháng;” vị làm xong và mặc vào khi (biết rằng): “Mùa nóng còn lại là ít hơn nửa tháng;” khi y choàng tắm mưa đã được tìm kiếm thì mùa mưa bị trễ, khi y choàng tắm mưa đã được mặc vào thì mùa mưa bị trễ, nên giặt rồi cất lại và nên mặc lúc đúng thời; vị có y bị cướp đoạt; vị có y bị mất trộm; khi có sự cố;[8]vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tư.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[149] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya nói với vị tỳ khưu là đệ tử của người anh điều này:
- Này đại đức, hãy đến. Chúng ta sẽ ra đi du hành trong xứ sở.
- Thưa ngài, tôi sẽ không đi. Y của tôi thì mảnh mai.
- Này đại đức, hãy đến. Ta sẽ cho ngươi y. Rồi đã cho y đến vị ấy.
Vị tỳ khưu ấy đã nghe được rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn sẽ ra đi du hành trong xứ sở.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Giờ đây ta sẽ không ra đi du hành trong xứ sở với đại đức Upananda con trai dòng Sākya nữa, ta sẽ ra đi du hành trong xứ sở với đức Thế Tôn.”
Sau đó, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, hãy đến. Giờ đây, chúng ta sẽ ra đi du hành trong xứ sở.
- Thưa ngài, tôi sẽ không ra đi du hành trong xứ sở với ngài. Tôi sẽ ra đi du hành trong xứ sở với đức Thế Tôn.
- Này đại đức, y mà ta đã cho ngươi là sẽ ra đi du hành trong xứ sở với ta. Rồi nổi giận, bất bình, đã giật lại y.
Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya sau khi tự mình cho y đến vị tỳ khưu lại nổi giận, bất bình rồi giật lại?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Upananda, nghe nói ngươi sau khi tự mình cho y đến vị tỳ khưu lại nổi giận, bất bình rồi giật lại, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi sau khi tự mình cho y đến vị tỳ khưu lại nổi giận, bất bình rồi giật lại vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi tự mình cho y đến vị tỳ khưu lại nổi giận, bất bình, rồi giật lại, hoặc bảo giật lại thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[150] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Đến vị tỳ khưu: là đến vị tỳ khưu khác.
Tự mình: sau khi đích thân cho.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Nổi giận, bất bình: không được hài lòng, có tâm bực bội, sanh khởi lòng cay cú.
Giật lại: tự mình giật lại thì phạm vào nissaggiya.
Bảo giật lại: ra lệnh người khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Được ra lệnh một lần, (vị nghe lệnh) dầu giật lại nhiều lần (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) nissaggiya. (Y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, y này của tôi sau khi tự mình cho đến vị tỳ khưu rồi đã giật lại, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ (y) này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[151] Người đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, sau khi tự mình cho y lại nổi giận, bất bình rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Người đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, sau khi tự mình cho y lại nổi giận, bất bình rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Người đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, sau khi tự mình cho y lại nổi giận, bất bình rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Sau khi cho vật dụng khác lại nổi giận, bất bình rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau khi cho y hoặc vật dụng khác đến người chưa tu lên bậc trên lại nổi giận, bất bình rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
[152] Vị kia cho lại, hoặc vị ấy lấy trong khi thân thiết với vị kia, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ năm.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[153] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong thời hạn làm y đã yêu cầu nhiều chỉ sợi. Ngay cả khi y đã làm xong vẫn còn lại nhiều chỉ sợi. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã khởi ý điều này: “Này các đại đức, chúng ta hãy yêu cầu thêm chỉ sợi khác nữa rồi bảo các thợ dệt dệt thành y.” Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã yêu cầu thêm chỉ sợi khác nữa rồi bảo các thợ dệt dệt thành y. Ngay cả khi y đã được dệt xong, vẫn còn lại nhiều chỉ sợi.
Đến lần thứ nhì, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã yêu cầu thêm chỉ sợi khác nữa rồi bảo các thợ dệt dệt thành y. Ngay cả khi y đã được dệt xong, vẫn còn lại nhiều chỉ sợi.
Đến lần thứ ba, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã yêu cầu thêm chỉ sợi khác nữa rồi bảo các thợ dệt dệt thành y. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại tự mình yêu cầu chỉ sợi rồi bảo các thợ dệt dệt thành y?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại tự mình yêu cầu chỉ sợi rồi bảo các thợ dệt dệt thành y?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi tự mình yêu cầu chỉ sợi rồi bảo các thợ dệt dệt thành y, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại tự mình yêu cầu chỉ sợi rồi bảo các thợ dệt dệt thành y vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tự mình yêu cầu chỉ sợi rồi bảo các thợ dệt dệt thành y thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[154] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Tự mình: sau khi đích thân yêu cầu.
Chỉ sợi nghĩa là sáu loại chỉ sợi: loại bằng sợi lanh (khomaṃ), loại bằng bông vải (kappāsikaṃ), loại bằng tơ lụa (koseyyaṃ), loại bằng sợi len (kambalaṃ), loại bằng gai thô (sāṇam), loại bằng chỉ bố (bhaṅgaṃ).
(Bởi) các thợ dệt: vị bảo các người làm công việc dệt vải (ra công) dệt, trong lúc thực hiện, (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, y này của tôi sau khi tự mình yêu cầu chỉ sợi rồi đã bảo các thợ dệt dệt thành, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ (y) này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[155] Khi đã bảo dệt, nhận biết là đã bảo dệt, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi đã bảo dệt, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi đã bảo dệt, (lầm) tưởng là chưa bảo dệt, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa bảo dệt, (lầm) tưởng là đã bảo dệt, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa bảo dệt, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa bảo dệt, nhận biết là chưa bảo dệt thì vô tội.
[156] (Yêu cầu chỉ sợi) để may y, trong trường hợp mạng vá, trường hợp dây thắt lưng, dây buộc ở vai, túi mang bình bát, đồ lược nước, của các thân quyến, của những người đã nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ sáu.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[157] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ sắp sửa đi vắng nhà đã nói với người vợ điều này:
- Hãy cân chỉ sợi rồi giao cho người thợ dệt kia, bảo dệt y rồi cất lấy, khi nào về tôi sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.
Trong khi người đàn ông ấy đang nói lời này, có vị tỳ khưu nọ là vị hành pháp khất thực đã nghe được. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya, sau khi đến đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:
- Này đại đức Upananda, ngài có được nhiều phước báu. Ở chỗ kia, có người đàn ông nọ sắp sửa đi vắng nhà đã nói với người vợ điều này: “Hãy cân chỉ sợi rồi giao cho người thợ dệt kia, bảo dệt y rồi cất lấy, khi nào về tôi sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.”
- Này đại đức, đúng vậy. Người ấy là người hộ độ cho tôi.
Người thợ dệt ấy cũng là người hộ độ cho đại đức Upananda con trai dòng Sākya. Sau đó, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã đi đến gặp người thợ dệt ấy, sau khi đến đã nói với người thợ dệt ấy điều này:
- Này đạo hữu, y này được dệt dành riêng cho tôi. Hãy làm (y ấy) dài, rộng, chặt chẽ, hãy dệt cho khéo, dệt cho đều đặn, khéo cào, khéo chải.
- Thưa ngài, những người này đã cân chỉ sợi rồi giao cho tôi (nói rằng): “Hãy dệt y với số chỉ sợi này.” Thưa ngài, không thể làm dài, hay rộng, hay chặt chẽ. Thưa ngài, có thể làm là dệt cho khéo, dệt cho đều đặn, khéo cào, và khéo chải.
- Này đạo hữu, ngươi hãy làm dài, rộng, và chặt chẽ. Với số chỉ ấy thì sẽ không thiếu.
Sau đó, người thợ dệt ấy sau khi đưa vào máy dệt số chỉ sợi đã được mang lại rồi đã đi đến gặp người đàn bà ấy, sau khi đến đã nói với người đàn bà ấy điều này:
- Thưa bà, có nhu cầu về chỉ sợi.
- Này ông, không phải tôi đã nói với ông rằng: “Hãy dệt y với số chỉ sợi này.”
- Thưa bà, sự thật là tôi đã được bà nói rằng: “Hãy dệt y với số chỉ sợi này;” tuy nhiên, ngài đại đức Upananda đã nói với tôi như vầy: “Này đạo hữu, ngươi hãy làm dài, rộng, và chặt chẽ. Với số chỉ ấy thì sẽ không thiếu.”
Khi ấy, người đàn bà ấy đã cho số lượng chỉ sợi lần sau y như số lượng lần thứ nhất.
Rồi đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã nghe được rằng: “Nghe nói người đàn ông ấy đi vắng nhà vừa mới trở về.” Sau đó, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã đi đến tư gia của người đàn ông ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, người đàn ông ấy đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Upananda con trai dòng Sākya rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, người đàn ông ấy đã nói với người vợ điều này:
- Có phải y đã được dệt?
- Ông à, đúng vậy. Y đã được dệt.
- Hãy đem lại. Tôi sẽ dâng y cho ngài đại đức Upananda.
Sau đó, người đàn bà ấy đã đem y ấy đến đưa cho chồng và đã kể lại sự việc ấy. Khi ấy, người đàn ông ấy sau khi dâng y ấy đến đại đức Upananda con trai dòng Sākya rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các sa-môn Thích tử này thật ham muốn quá độ, không tự biết đủ. Không dễ gì mà dâng y cho những người này! Vì sao ngài đại đức Upananda khi chưa được tôi thỉnh cầu trước lại đi đến gặp các thợ dệt và đưa ra sự căn dặn về y?
Các tỳ khưu đã nghe được người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các thợ dệt của gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Upananda, nghe nói ngươi khi chưa được thỉnh cầu trước đã đi đến gặp các thợ dệt của gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
- Này Upananda, là thân quyến của ngươi hay không phải là thân quyến?
- Bạch Thế Tôn, không phải là thân quyến.
- Này kẻ rồ dại, người không phải là thân quyến không biết điều gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì làm hài lòng hay không làm hài lòng người không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao ngươi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp các thợ dệt của gia chủ không phải là thân quyến và đưa ra sự căn dặn về y? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp có nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến bảo các thợ dệt dệt thành y dành riêng cho vị tỳ khưu. Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp các thợ dệt và đưa ra sự căn dặn về y: ‘Này đạo hữu, y này được dệt dành riêng cho tôi. Hãy làm (y ấy) dài, rộng, chắc chắn, hãy dệt cho khéo, dệt cho đều đặn, khéo cào, khéo chải. Có lẽ chúng tôi có thể biếu xén các ông vật gì đó.’ Và sau khi nói như vậy, nếu vị tỳ khưu ấy biếu xén vật gì dó dầu chỉ là đồ ăn khất thực thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[158] Dành riêng cho vị tỳ khưu: vì nhu cầu của vị tỳ khưu, lấy vị tỳ khưu làm đối tượng rồi có ý định dâng đến vị tỳ khưu.
Không phải là thân quyến nghĩa là người không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.
Nam gia chủ nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.
Nữ gia chủ nghĩa là bất cứ người nữ nào sống trong căn nhà.
(Bởi) các thợ dệt: (bởi) các người làm công việc dệt vải.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Bảo dệt: bảo đan lại.
Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy: vị tỳ khưu ấy là vị tỳ khưu mà y được dệt dành riêng cho.
Khi chưa được thỉnh cầu trước: Chưa được nói trước rằng: “’Thưa ngài, ngài có nhu cầu với loại y như thế nào?” “Tôi sẽ dệt y của ngài như thế nào?”
Đi đến gặp các thợ dệt: sau khi đi đến nhà, sau khi đi đến gặp ở bất cứ nơi nào.
Đưa ra sự căn dặn về y: (Nói rằng): “Này đạo hữu, y này được dệt dành riêng cho tôi. Hãy làm (y ấy) dài, rộng, dày, hãy dệt cho khéo, dệt cho đều đặn, khéo cào, khéo chải. Có lẽ chúng tôi có thể biếu xén các ông vật gì đó.”
Và sau khi nói như vậy, nếu vị tỳ khưu ấy biếu xén vật gì dó dầu chỉ là đồ ăn khất thực: Đồ ăn khất thực nghĩa là cháo, bữa ăn, vật thực cứng, cục bột tắm, gỗ chà răng, nắm chỉ rời, ngay cả nói Pháp. (Người thợ dệt) làm (y) dài, hoặc rộng, hoặc chặt chẽ theo lời nói của vị ấy; trong khi tiến hành thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, y này của tôi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các thợ dệt của gia chủ không phải là thân quyến và đã đưa ra sự căn dặn về y, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[159] Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các thợ dệt của gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, vị khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các thợ dệt của gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, vị khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các thợ dệt của gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là thân quyến, nhận biết là thân quyến thì vô tội.
[160] Của các thân quyến, của những người đã nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bảo dệt (y) có giá trị thấp đối với người có ý định dệt (y) có giá trị cao, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ bảy.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[161] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị quan đại thần nọ sắp sửa đi xa đã phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nhắn rằng):
- Các đại đức hãy đi đến. Tôi sẽ dâng y của mùa (an cư) mưa (vassāvāsikaṃ).
Các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Y của mùa (an cư) mưa đã được đức Thế Tôn cho phép đến các vị đã trải qua mùa (an cư) mưa” rồi trong lúc ngần ngại đã không đi đến. Khi ấy, vị quan đại thần ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các đại đức khi được tôi phái sứ giả đến mời lại không đi đến? Bởi vì tôi đi việc quân đội, việc sống khó biết, việc chết khó hay.
Các tỳ khưu đã nghe được vị quan đại thần ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ lãnh y đặc biệt rồi để riêng.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Y đặc biệt đã được đức Thế Tôn cho phép thọ lãnh rồi để riêng.” Các vị ấy sau khi thọ lãnh y đặc biệt rồi đã để vượt quá thời hạn về y. Các y ấy được buộc thành đống treo ở sào máng y. Đại đức Ānanda trong khi đi dạo quanh các trú xá đã nhìn thấy các y ấy được buộc thành đống treo ở sào máng y, sau khi nhìn thấy đã nói với các tỳ khưu rằng:
- Này các đại đức, các y đã được chất thành đống treo ở sào máng y là của vị nào vậy?
- Này đại đức, là các y đặc biệt của chúng tôi.
- Này các đại đức, vậy các y này đã được để riêng bao lâu rồi?
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã kể lại cho đại đức Ānanda về việc (y) đã được để riêng như thế nào. Đại đức Ānanda phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu sau khi thọ lãnh y đặc biệt lại để vượt quá thời hạn về y?
Sau đó, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu sau khi thọ lãnh y đặc biệt lại để vượt quá thời hạn về y, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy sau khi thọ lãnh y đặc biệt lại để vượt quá thời hạn về y vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi còn mười ngày là đến ngày rằm Kattika của ba tháng,[9]trường hợp vị tỳ khưu có y đặc biệt phát sanh, vị tỳ khưu nghĩ rằng là (y) đặc biệt rồi nên thọ lãnh, sau khi thọ lãnh nên để riêng cho đến hết thời hạn về y. Nếu để riêng vượt quá hạn ấy thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[162] Khi còn mười ngày là đến: mười ngày là sẽ đến lễ Pavāraṇā (Tự Tứ).
Ngày rằm Kattika của ba tháng: lễ Pavāraṇā là Kattika được nói đến.
Y đặc biệt nghĩa là người có ý định đi vào quân đội, hoặc có ý định đi xa, hoặc là bị bệnh, hoặc là mang thai, hoặc là người không có niềm tin đã được sanh khởi niềm tin, hoặc là người không mộ đạo đã được sanh khởi lòng mộ đạo. Nếu người ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Các đại đức hãy đi đến. Tôi sẽ dâng y của mùa (an cư) mưa.” Y này gọi là y đặc biệt.
Vị tỳ khưu nghĩ rằng là (y) đặc biệt rồi nên thọ lãnh, sau khi thọ lãnh nên để riêng cho đến hết thời hạn về y: sau khi ghi nhận rằng: “Đây là y đặc biệt.” rồi nên để riêng.
Thời hạn về y nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu thì một tháng cuối của mùa mưa.[10]Khi Kaṭhina được thành tựu thì năm tháng.
Nếu để riêng vượt quá hạn ấy: khi Kaṭhina không được thành tựu, vị vượt qua ngày cuối cùng của mùa mưa thì phạm vào nissaggiya. Khi Kaṭhina được thành tựu, vị vượt qua ngày hết hiệu lực Kaṭhina thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, y đặc biệt này của tôi đã vượt quá thời hạn về y, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[163] Y đặc biệt, nhận biết là y đặc biệt, vị để vượt quá thời hạn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Y đặc biệt, có sự hoài nghi, vị để vượt quá thời hạn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Y đặc biệt, (lầm) tưởng không phải là y đặc biệt, vị để vượt quá thời hạn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa chú nguyện để dùng riêng, (lầm) tưởng là đã chú nguyện để dùng riêng, ... Khi chưa chú nguyện để dùng chung, (lầm) tưởng là đã chú nguyện để dùng chung, ... Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đã phân phát, ... Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đã bị mất trộm, ... Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đã bị hư hỏng, ... Khi không bị cháy, (lầm) tưởng là đã bị cháy, ... Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đã bị cướp, vị để vượt quá thời hạn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Y phạm vào nissaggiya,không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là y đặc biệt, (lầm) tưởng là y đặc biệt, phạm tội dukkaṭa.
Không phải là y đặc biệt, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Không phải là y đặc biệt, nhận biết không phải là y đặc biệt thì vô tội.
[164] Trong thời hạn (về y), vị chú nguyện để dùng riêng, vị chú nguyện để dùng chung, vị phân phát, (y) bị mất trộm, (y) bị hư hỏng, (y) bị cháy, (người khác) cướp rồi lấy đi, (vị khác) lấy đi do sự thân thiết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tám.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[165] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu đã trải qua mùa (an cư) mưa sống ở những chỗ trú ngụ trong các khu rừng. Bọn trộm cướp tháng Kattika (nghĩ rằng): “Các tỳ khưu đạt được lợi lộc” nên đã quấy nhiễu. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị sống ở những chỗ trú ngụ trong các khu rừng được để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cho phép vị sống ở những chỗ trú ngụ trong các khu rừng được để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà” rồi để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà và xa lìa hơn sáu đêm. Các y ấy bị mất, bị hư hỏng, bị cháy, bị các con chuột gặm nhấm. Các tỳ khưu trở nên mặc vải tàn tạ và y phục thô xấu. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đại đức, tại sao các vị lại trở nên mặc vải tàn tạ và y phục thô xấu?
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu sau khi để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà lại xa lìa hơn sáu đêm?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu sau khi để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà lại xa lìa hơn sáu đêm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy sau khi để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà lại xa lìa hơn sáu đêm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi mùa (an cư) mưa đã qua ngày rằm Kattika, trường hợp có những chỗ trú ngụ ở trong rừng được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng, và vị tỳ khưu đang sống ở các chỗ trú ngụ có hình thức như thế, khi mong mỏi có thể để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà. Nếu vị tỳ khưu ấy có lý do nào đó đưa đến việc xa lìa y ấy, vị tỳ khưu ấy nên xa lìa y ấy tối đa là sáu đêm. Nếu xa lìa vượt quá hạn ấy, ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu, thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[166] Khi mùa (an cư) mưa đã qua: là mùa mưa đã đuợc trải qua.
Ngày rằm Kattika: ngày rằm Kattika của bốn tháng được đề cập đến.[11]
Những chỗ trú ngụ ở trong rừng: chỗ trú ngụ ở trong rừng nghĩa là cách (căn nhà) cuối cùng khoảng cách 500 cây cung.[12]
Có sự nguy hiểm nghĩa là trong tu viện hoặc trong vùng phụ cận tu viện, chỗ cắm trại của bọn cướp được thấy, chỗ ăn được thấy, chỗ đứng được thấy, chỗ ngồi được thấy, chỗ nằm được thấy.
Có sự kinh hoàng nghĩa là trong tu viện hoặc trong vùng phụ cận tu viện, dân chúng bị giết bởi bọn cướp được thấy, bị cướp giật được thấy, bị đánh đập được thấy.
Vị tỳ khưu đang sống ở các chỗ trú ngụ có hình thức như thế: là vị tỳ khưu đang sống ở các chỗ trú ngụ như vậy.
Khi mong mỏi: khi ước muốn.
Một y nào đó của ba y: hoặc là y hai lớp, hoặc là thượng y, hoặc là y nội.
Có thể để lại ở trong xóm nhà: có thể để lại ở vùng xung quanh ngôi làng là khu vực đi khất thực.
Nếu vị tỳ khưu ấy có lý do nào đó đưa đến việc xa lìa y ấy: nếu có lý do, nếu có nguyên nhân.
Vị tỳ khưu ấy nên xa lìa y ấy tối đa là sáu đêm: nên xa lìa nhiều nhất là sáu đêm.
Ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu: Trừ ra có sự đồng ý của các tỳ khưu
Nếu xa lìa vượt quá hạn ấy: Khi mặt trời ngày thứ bảy mọc lên thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, y này của tôi đã bị xa lìa quá sáu đêm, giờ cần được xả bỏ, ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
[167] Khi quá hạn sáu đêm, nhận biết là đã quá hạn, vị xa lìa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị) ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Khi quá hạn sáu đêm, có sự hoài nghi, vị xa lìa thì phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Khi quá hạn sáu đêm, (lầm) tưởng là chưa quá hạn, vị xa lìa thì phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Khi chưa nguyện xả, (lầm) tưởng là đã nguyện xả, ... Khi chưa phân phát, (lầm) tưởng là đã phân phát, ... Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đã bị mất trộm, ... Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đã bị hư hỏng, ... Khi không bị cháy, (lầm) tưởng là đã bị cháy, ... Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đã bị cướp, vị xa lìa thì phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Y phạm vào nissaggiya,không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa quá hạn sáu đêm, (lầm) tưởng là đã quá hạn, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa quá hạn sáu đêm, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa quá hạn sáu đêm, nhận biết là chưa quá hạn thì vô tội.
[168] Vị xa lìa sáu đêm, vị xa lìa kém sáu đêm, sau khi xa lìa sáu đêm vị ấy đi vào lại trong ranh giới của làng cư ngụ rồi ra đi, vị nguyện xả trong đêm thứ sáu, vị phân phát, (y) bị mất trộm, (y) bị hư hỏng, (y) bị cháy, (người khác) cướp rồi lấy đi, (vị khác) lấy đi do sự thân thiết, với sự đồng ý của các tỳ khưu, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ chín.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[169] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, trong thành Sāvatthi có bữa trai phạn có dâng y đến hội chúng của phường hội nọ được chuẩn bị (thông báo rằng): “Sau khi mời thọ thực, chúng tôi sẽ dâng y.” Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục sư đã đi đến gặp phường hội ấy, sau khi đến đã nói với phường hội ấy điều này:
- Này các đạo hữu, hãy dâng các y này cho chúng tôi.
- Thưa các ngài, chúng tôi sẽ không dâng, bữa trai phạn có dâng y đến hội chúng hàng năm của chúng tôi đã được thông báo.
- Này các đạo hữu, hội chúng có nhiều thí chủ, hội chúng có nhiều bữa trai phạn, chúng tôi sống ở đây nương nhờ vào quý vị, trông ngóng nơi quý vị. Nếu quý vị sẽ không bố thí đến chúng tôi, giờ còn ai sẽ bố thí cho chúng tôi? Này các đạo hữu, hãy dâng các y này cho chúng tôi.
Khi ấy, trong lúc bị các tỳ khưu nhóm Lục Sư ép buộc phường hội ấy đã dâng y được chuẩn bị như thế đến các tỳ khưu nhóm Lục Sư rồi dâng vật thực đến hội chúng. Những vị tỳ khưu nào biết được bữa trai phạn có dâng y đến hội chúng đã được chuẩn bị mà không biết được rằng: “(Y) đã được dâng đến các tỳ khưu nhóm Lục Sư,” những vị ấy đã nói như vầy:
- Này các đạo hữu, hãy dâng y đến hội chúng.
- Thưa các ngài, không có y như đã chuẩn bị, các ngài đại đức nhóm Lục Sư đã thuyết phục dâng cho bản thân.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư dầu biết lợi lộc đã được khẳng định là dâng đến hội chúng lại thuyết phục dâng cho bản thân?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi dầu biết lợi lộc đã được khẳng định là dâng đến hội chúng vẫn thuyết phục dâng cho bản thân, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi dầu biết lợi lộc đã được khẳng định là dâng đến hội chúnglại thuyết phục dâng cho bản thân vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào dầu biết lợi lộc đã được khẳng định là dâng đến hội chúng vẫn thuyết phục dâng cho bản thân thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[170] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc những người khác nói cho vị ấy, hoặc người ấy nói.
(Dâng đến) hội chúng nghĩa là đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.
Lợi lộc nghĩa là các vật dụng như là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh ngay cả cục bột tắm, gỗ chà răng, nắm chỉ rời.
Đã được khẳng định là dâng đến nghĩa là lời nói đã được phát ra rằng: “Chúng tôi sẽ dâng, chúng tôi sẽ làm.”
Thuyết phục dâng cho bản thân: Trong khi tiến hành thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (vật ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, vật này của tôi đã được thuyết phục dâng cho bản thân dầu biết lợi lộc đã được khẳng định là dâng đến hội chúng, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... chư đại đức nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”
Khi đã được khẳng định, nhận biết là đã được khẳng định, vị thuyết phục dâng cho bản thân thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi đã được khẳng định, có sự hoài nghi, vị thuyết phục dâng cho bản thân thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được khẳng định, (lầm) tưởng là chưa được khẳng định, vị thuyết phục dâng cho bản thân thì vô tội.
Khi đã được khẳng định là dâng đến hội chúng, vị thuyết phục dâng đến hội chúng khác hoặc bảo tháp thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được khẳng định là dâng đến bảo tháp, vị thuyết phục dâng đến bảo tháp khác, hoặc hội chúng, hoặc nhóm, hoặc cá nhân thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được khẳng định là dâng cho cá nhân, vị thuyết phục dâng cho cá nhân khác, hoặc hội chúng, hoặc nhóm, hoặc bảo tháp thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa được khẳng định, (lầm) tưởng là đã được khẳng định, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa được khẳng định, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa được khẳng định, nhận biết là chưa được khẳng định thì vô tội.
[171] Khi được hỏi rằng: “Chúng tôi dâng nơi nào?” vị nói rằng: “Nơi nào mà pháp bố thí của quý vị có thể đạt được sự hữu dụng, có thể được làm vật sửa chữa, có thể tồn tại lâu dài, hoặc nơi nào tâm của quý vị được hoan hỷ thì hãy dâng nơi đó,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười.
Phần Bình Bát là phần thứ ba.
*******
Tóm lược phần này:
Hai điều về bình bát,
dược phẩm, thuộc mùa mưa,
cho (y) là thứ năm,
tự mình, bảo thợ dệt,
y đặc biệt, nguy hiểm,
và thuộc về hội chúng.
*******
[172] Bạch chư đại đức, ba mươi điều nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị)đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Chương Nissaggiya (Ưng Xả).
********
[1]Aḍḍhāḷhakodanaṃ = Aḍḍha-āḷhaka-odanaṃ. Aḍḍha là một nửa, āḷhaka là đơn vị đo thể tích, odanaṃ là cơm đã được nấu. Ngài Mahāsamaṇa Chao cho rằng “cơm được nấu từ ½ āḷhaka gạo” phù hợp với lời giải thích của ngài Buddhaghosa. Cũng như người Việt chúng ta thường nói ăn hết 1 lon là ăn hết 1 lon gạo chứ không phải 1 lon cơm. Trong khi đó, dịch giả I.B. Horner hiểu theo văn phạm rằng: “lượng cơm là ½ āḷhaka.”
[2]Theo ngài Mahāsamaṇa Chao giải thích ở Vinayamukha thì 1 āḷhaka = 4 nāḷi (nāḷika?)= 8 pattha (1 nāli = 2 pattha). Pattha là lượng chứa do hai tay bụm lại. Khi dùng các lượng ½ āḷhaka, 1 nāli, 1 pattha gạo rồi nấu lên thành cơm thì các lượng cơm ấy là sức chứa đựng của ba loại bình bát nói trên.
[3]Aṅgula: là chiều dài của ngón tay có độ dài của 7 hạt gạo (Dịch giả I.B. Horner trích dẫn lời giải thích ở Vibhaṅga Aṭṭhakathā tr. 343). Tài liệu The Buddhist Monastic Code cho biết độ dài của hai ngón tay dvaṅgula khoảng 2 inches = 5,08 cm.
[4]Vị nào vì lòng thương hại mà không nhận lấy thì mới phạm tội dukkaṭa, còn vị tự biết đủ (nghĩ rằng): “Bình bát khác cho tôi làm gì?” rồi không nhận lấy thì vô tội (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[5]Ví dụ như nấu cơm, cháo, thuốc nhuộm, v.v... Tuy nhiên, khi đi đường xa nếu bị bệnh và không có vật gì để nấu thì nên bôi đất sét ở bên ngoài rồi nấu cháo hoặc nấu nước (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[6]Vị tỳ khưu không được dùng mười loại thịt: thịt người, thịt voi, thịt ngựa, thịt chó, thịt rắn, thịt sư tử, thịt hổ, thịt beo, thịt gấu, thịt chó sói (Đại Phẩm – Mahāvagga, chương VI, [59, 60]).
[7]Ví dụ như khi được phát sanh dầu ăn thì được cất giữ trong thời hạn bảy ngày, trường hợp quyết định làm thuốc thoa tay chân thì không phạm tội (vì sử dụng làm thuốc thoa nên trở thành vật có thể cất giữ đến hết đời).
[8]Chú giải cho một ví dụ là vị mặc y choàng tắm trị giá cao trong khi tắm sẽ có sự nguy hiểm về trộm cướp.
[9]Kattikatemāsipuṇṇamā (ngày rằm Kattika của ba tháng): Tương đương rằm tháng 9 âm lịch Việt Nam là ngày cuối cùng của mùa (an cư) mưa thời kỳ đầu, ngày này còn là ngày làm lễ Pavāraṇā của các vị tỳ khưu đã trải qua mùa (an cư) mưa thời kỳ đầu. Còn Kattikacatumāsipuṇṇamā (ngày rằm Kattika của bốn tháng) tương đương rằm tháng 10 âm lịch.
[10]Tương đương 16 tháng chín âm lịch đến hết rằm tháng mười âm lịch; thời gian này còn là thời kỳ dâng y Kaṭhina. Nếu Kaṭhina được thành tựu thì thời hạn về y được kéo dài đến khi nào Kaṭhina còn hiệu lực, hoặc đến hết rằm tháng 2 năm sau tức là thời hạn 5 tháng.
[11]Theo âm lịch của Việt Nam là rằm tháng 10.
[12]Tài liệu The Buddhist Monastic Code cho biết khoảng cách của 500 cây cung độ chừng 1 km.
VIII. CHƯƠNG PĀCITTIYA (ƯNG ĐỐI TRỊ)
(PĀCITTIYAKAṆḌAṂ)
Bạch chư đại đức, chín mươi hai điều pācittiya (ưng đối trị) này được đưa ra đọc tụng.
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[173] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, Hatthaka con trai dòng Sākya [1](Thích Ca) nói năng tráo trở. Trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo, vị ấy phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố tình nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời. Những người ngoại đạo phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao Hatthaka con trai dòng Sākya trong khi nói chuyện với chúng tôi lại phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố tình nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ngoại đạo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp Hatthaka con trai dòng Sākya, sau khi đến đã nói với Hatthaka con trai dòng Sākya điều này:
- Này đại đức Hatthaka, nghe nói trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo, đại đức phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố tình nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời, có đúng không vậy?
- Này các đại đức, những người ngoại đạo ấy cần được đánh bại bằng bất cứ cách nào, không thể để cho họ thắng.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao Hatthaka con trai dòng Sākya trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo lại phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố tình nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi Hatthaka con trai dòng Sākya rằng:
- Này Hatthaka, nghe nói trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo, ngươi phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố tình nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo, ngươi lại phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố tình nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi cố tình nói dối thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[174] Cố tình nói dối nghĩa là lời nói, tiếng nói, cách nói, lời phát biểu, sự biểu hiện bằng lời nói của vị có ý định lừa dối có tám cách không thánh thiện: Không thấy (nói rằng): “Tôi đã thấy,” không nghe (nói rằng): “Tôi đã nghe,” không cảm giác (nói rằng): “Tôi đã cảm giác,” không nhận thức (nói rằng): “Tôi đã nhận thức,” đã thấy (nói rằng): “Tôi đã không thấy,” đã nghe (nói rằng): “Tôi đã không nghe,” đã cảm giác (nói rằng): “Tôi đã không cảm giác,” đã nhận thức (nói rằng): “Tôi đã không nhận thức.”
[175] Không thấy nghĩa là không được thấy bởi mắt. Không nghe nghĩa là không được nghe bởi tai. Không cảm giác nghĩa là không được ngửi bởi mũi, không được nếm bởi lưỡi, không được xúc chạm bởi thân. Không nhận thức nghĩa là không được nhận thức bởi ý. Đã thấy nghĩa là đã được thấy bởi mắt. Đã nghe nghĩa là đã được nghe bởi tai. Đã cảm giác nghĩa là đã được ngửi bởi mũi, đã được nếm bởi lưỡi, đã được xúc chạm bởi thân. Đã nhận thức nghĩa là đã được nhận thức bởi ý.
[176] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.”
Với bốn yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm.
Với năm yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi.
Với sáu yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát.
Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe” về điều đã không nghe ...(như trên)... “Tôi đã cảm giác” về điều đã không cảm giác ...(như trên)... “Tôi đã nhận thức” về điều đã không nhận thức bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.”
Với bốn yếu tố, ...(như trên)... Với năm yếu tố, ...(như trên)... Với sáu yếu tố, ...(như trên)... Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức” về điều đã không nhận thức bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
[177] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy và đã nghe” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy và đã cảm giác” về điều đã không thấy ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy và đã nhận thức” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy, đã nghe, và đã cảm giác” về điều đã không thấy ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy, đã nghe, và đã nhận thức” về điều đã không thấy ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy, đã nghe, đã cảm giác, và đã nhận thức” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe và đã cảm giác” về điều đã không nghe ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe và đã nhận thức” về điều đã không nghe ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe và đã thấy” về điều đã không nghe ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe, đã cảm giác, và đã nhận thức” về điều đã không nghe ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe, đã cảm giác, và đã thấy” về điều đã không nghe ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe, đã cảm giác, đã nhận thức, và đã thấy” ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã cảm giác và đã nhận thức” về điều đã không cảm giác ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã cảm giác và đã thấy” về điều đã không cảm giác ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã cảm giác và đã nghe” về điều đã không cảm giác ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã cảm giác, đã nhận thức, và đã thấy” về điều đã không cảm giác ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã cảm giác, đã nhận thức, và đã nghe” về điều đã không cảm giác ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã cảm giác, đã nhận thức, đã thấy, và đã nghe” về điều đã không cảm giác ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức và đã thấy” về điều đã không nhận thức ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức và đã nghe” về điều đã không nhận thức ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức và đã cảm giác” về điều đã không nhận thức ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức, đã thấy, và đã nghe” về điều đã không nhận thức ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức, đã thấy, và đã cảm giác” về điều đã không nhận thức ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức, đã thấy, đã nghe, và đã cảm giác” về điều đã không nhận thức bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ...(như trên)...
[178] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã không thấy” về điều đã thấy bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.” Với bốn yếu tố, ...(như trên)... Với năm yếu tố, ...(như trên)... Với sáu yếu tố, ...(như trên)... Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã không thấy” về điều đã thấy bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã không nghe” về điều đã nghe ...(như trên)... “Tôi đã không cảm giác” về điều đã cảm giác ...(như trên)... “Tôi đã không nhận thức” về điều đã nhận thức bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.” Với bốn yếu tố, ...(như trên)... Với năm yếu tố, ...(như trên)... Với sáu yếu tố, ...(như trên)... Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã không nhận thức” về điều đã nhận thức bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
[179] Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe” về điều đã thấy ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã cảm giác” về điều đã thấy ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức” về điều đã thấy bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe và đã cảm giác” về điều đã thấy ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe và đã nhận thức” về điều đã thấy ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe, đã cảm giác, và đã nhận thức” về điều đã thấy bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã cảm giác” về điều đã nghe ...(như trên)... “Tôi đã nhận thức” về điều đã nghe ...(như trên)... “Tôi đã thấy” về điều đã nghe bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã cảm giác và đã nhận thức” về điều đã nghe ...(như trên)... “Tôi đã cảm giác và đã thấy” về điều đã nghe ...(như trên)... “Tôi đã cảm giác, đã nhận thức, và đã thấy” về điều đã nghe bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ...(như trên)...
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức” về điều đã cảm giác ...(như trên)... “Tôi đã thấy” về điều đã cảm giác ...(như trên)... “Tôi đã nghe” về điều đã cảm giác ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức và đã thấy” về điều đã cảm giác ...(như trên)... “Tôi đã nhận thức và đã nghe” về điều đã cảm giác ...(như trên)... “Tôi đã nhận thức, đã thấy và đã nghe” về điều đã cảm giác ...(như trên)... “Tôi đã thấy” về điều đã nhận thức ...(như trên)... “Tôi đã nghe” về điều đã nhận thức ...(như trên)... “Tôi đã cảm giác” về điều đã nhận thức ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy và đã nghe” về điều đã nhận thức ...(như trên)... “Tôi đã thấy và đã cảm giác” về điều đã nhận thức ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy, đã nghe, và đã cảm giác” về điều đã nhận thức bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ...(như trên)...
[180] Với ba yếu tố, vị có hoài nghi về điều đã thấy, không tin điều đã thấy, không nhớ về điều đã thấy, quên điều đã thấy lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy và đã nghe” bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ...(như trên)... lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy và đã nghe, đã cảm giác, và đã nhận thức” bị phạm tội pācittiya ...(như trên)... vị có hoài nghi về điều đã nghe, không tin điều đã nghe, không nhớ về điều đã nghe, quên điều đã nghe ...(như trên)... vị có hoài nghi về điều đã cảm giác, không tin điều đã cảm giác, không nhớ về điều đã cảm giác, quên điều đã cảm giác ...(như trên)... Với ba yếu tố, vị có hoài nghi về điều đã nhận thức, không tin điều đã nhận thức, không nhớ về điều đã nhận thức, quên điều đã nhận thức lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức và đã thấy” ...(như trên)... “Tôi đã nhận thức và đã nghe” ...(như trên)... “Tôi đã nhận thức và đã cảm giác” ...(như trên)... “Tôi đã nhận thức, đã thấy, và đã nghe” ...(như trên)... “Tôi đã nhận thức, đã thấy, và đã cảm giác” ...(như trên)... “Tôi đã nhận thức, đã thấy, đã nghe, và đã cảm giác” bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.”
Với bốn yếu tố, ...(như trên)... Với năm yếu tố, ...(như trên)... Với sáu yếu tố, ...(như trên)... Với bảy yếu tố, vị có hoài nghi về điều đã nhận thức, không tin điều đã nhận thức, không nhớ về điều đã nhận thức, quên điều đã nhận thức lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức, đã thấy, đã nghe, và đã cảm giác” bị phạm tội pācittiya (ưng đối trị): Trước tiên, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (vị ấy biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” khi đã nói (vị ấy biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã diễn đạt quan điểm, đã diễn đạt điều mong mỏi, đã diễn đạt điều khao khát, đã diễn đạt ý định.
[181] Vị nói không suy nghĩ, vị nói theo thói quen (vị nói không suy nghĩ–davāya bhaṇati–nghĩa là vị nói nhanh, vị nói theo thói quen–ravāya bhaṇati–nghĩa là vị nghĩ rằng: “Ta sẽ nói điều này” lại nói điều khác), vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[182] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi cãi cọ với các tỳ khưu hiền thiện đã mắng nhiếc các tỳ khưu hiền thiện theo sự sanh ra, theo tên gọi, theo dòng họ, theo công việc, theo nghề nghiệp, theo bệnh tật, theo đặc điểm, theo phiền não, theo tội vi phạm, lại còn chửi rủa và khinh bỉ bằng sự sỉ vả hạ tiện. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi cãi cọ với các tỳ khưu hiền thiện lại mắng nhiếc các tỳ khưu hiền thiện theo sự sanh ra, theo tên gọi, theo dòng họ, theo công việc, theo nghề nghiệp, theo bệnh tật, theo đặc điểm, theo phiền não, theo tội vi phạm, lại còn chửi rủa và khinh bỉ bằng sự sỉ vả hạ tiện?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi trong khi cãi cọ với các tỳ khưu hiền thiện đã mắng nhiếc các tỳ khưu hiền thiện theo sự sanh ra, theo tên gọi, theo dòng họ, theo công việc, theo nghề nghiệp, theo bệnh tật, theo đặc điểm, theo phiền não, theo tội vi phạm, lại còn chửi rủa và khinh bỉ bằng sự sỉ vả hạ tiện, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi trong khi cãi cọ với các tỳ khưu hiền thiện lại mắng nhiếc các tỳ khưu hiền thiện theo sự sanh ra, theo tên gọi, theo dòng họ, theo công việc, theo nghề nghiệp, theo bệnh tật, theo đặc điểm, theo phiền não, theo tội vi phạm, lại còn chửi rủa và khinh bỉ bằng sự sỉ vả hạ tiện? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
[183] - Này các tỳ khưu, vào thời trước đây ở thành Takkasilā có người bà-la-môn nọ có con bò mộng tên là Nandivisāla. Này các tỳ khưu, khi ấy con bò mộng Nandivisāla đã nói với người bà-la-môn ấy điều này: “Này Bà-la-môn, hãy đi và hãy đánh cá với nhà phú thương một ngàn (nói rằng): ‘Con bò mộng của chúng tôi sẽ lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.’” Này các tỳ khưu, sau đó người bà-la-môn ấy đã đánh cá với nhà phú thương một ngàn (nói rằng): ‘Con bò mộng của chúng tôi sẽ lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.’ Này các tỳ khưu, sau đó người bà-la-môn ấy đã nối liền một trăm xe kéo lại với nhau rồi máng con bò mộng Nandivisāla vào và đã nói điều này: “Này đồ xạo, hãy đi. Này đồ xạo, hãy kéo.” Này các tỳ khưu, khi ấy con bò mộng Nandivisāla đã đứng yên ngay tại chỗ ấy. Này các tỳ khưu, khi ấy người bà-la-môn ấy bị thua một ngàn nên đã rầu rĩ.
Này các tỳ khưu, khi ấy con bò mộng Nandivisāla đã nói với người bà-la-môn ấy điều này: “Này Bà-la-môn, vì sao ngươi lại rầu rĩ vậy?” “Này ông bò, bởi vì do ông mà ta đã bị thua một ngàn như thế.” “Này Bà-la-môn, vì sao ngươi lại bôi xấu ta bằng cách nói đồ xạo (trong khi) ta là kẻ không xạo? Này Bà-la-môn, ngươi hãy đi và hãy đánh cá với nhà phú thương hai ngàn (nói rằng): ‘Con bò mộng của chúng tôi sẽ lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.’ Và chớ có bôi xấu ta bằng cách nói đồ xạo (trong khi) ta là kẻ không xạo.” Này các tỳ khưu, sau đó người bà-la-môn ấy đã đánh cá với nhà phú thương hai ngàn (nói rằng): ‘Con bò mộng của chúng tôi sẽ lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.’ Này các tỳ khưu, rồi người bà-la-môn ấy sau khi nối liền một trăm xe kéo lại với nhau rồi đã máng con bò mộng Nandivisāla vào và đã nói điều này: “Này bạn hiền, hãy đi. Này bạn hiền, hãy kéo.” Này các tỳ khưu, khi ấy con bò mộng Nandivisāla đã lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.
[184]
Vị nói lời hoà nhã,
không hoà nhã luôn tránh.
Được nói lời hoà nhã
bò kéo đi gánh nặng,
vị thành tựu tài sản
nhờ vậy được hoan hỷ.
[185] Này các tỳ khưu, ngay từ thời ấy ta còn không hài lòng với sự chửi rủa, với sự khinh bỉ, thì hiện nay điều gì khiến ta sẽ hài lòng với sự chửi rủa, với sự khinh bỉ được? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi nói lời mắng nhiếc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[186] Lời mắng nhiếc nghĩa là vị mắng nhiếc theo mười sự việc: theo sự sanh ra, theo tên gọi, theo dòng họ, theo công việc, theo nghề nghiệp, theo bệnh hoạn, theo đặc điểm, theo phiền não, theo tội phạm, và bằng sự sỉ vả.
[187] Sự sanh ra nghĩa là có hai sự sanh ra: sự sanh ra thấp kém và sự sanh ra cao quý. Sự sanh ra thấp kém nghĩa là sự sanh ra của hạng cùng đinh, sự sanh ra của hạng đan tre, sự sanh ra của hạng thợ săn, sự sanh ra của hạng làm xe, sự sanh ra của hạng hốt rác; sự sanh ra ấy gọi là sự sanh ra thấp kém. Sự sanh ra cao quý là sự sanh ra của hạng sát-đế-lỵ và sự sanh ra của bà-la-môn; sự sanh ra ấy gọi là sự sanh ra cao quý.
[188] Tên gọi nghĩa là có hai loại tên gọi: tên gọi thấp kém và tên gọi cao quý. Tên gọi thấp kém nghĩa là tên Avakaṇṇaka, Javakaṇṇaka, Dhaniṭṭhaka, Saviṭṭhaka, Kulavaḍḍhaka hoặc là (tên gọi) bị khinh bỉ, bị chê bai, bị ghê tởm, bị xem thường, không được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; tên gọi ấy gọi là tên gọi thấp kém. Tên gọi cao quý nghĩa là được liên quan đến đức Phật, được liên quan đến đức Pháp, được liên quan đến đức Tăng, hoặc là (tên gọi) không bị khinh bỉ, không bị chê bai, không bị ghê tởm, không bị xem thường, được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; tên gọi ấy gọi là tên gọi cao quý.
[189] Dòng họ nghĩa là có hai loại dòng họ: dòng họ thấp kém và dòng họ cao quý. Dòng họ thấp kém nghĩa là dòng họ Kosiya, dòng họ Bhāradvāja, hoặc là (dòng họ) bị khinh bỉ, bị chê bai, bị ghê tởm, bị xem thường, không được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; dòng họ ấy gọi là dòng họ thấp kém. Dòng họ cao quý nghĩa là dòng họ Gotama, dòng họ Moggallāna, dòng họ Kaccāyana, dòng họ Vāseṭṭha, hoặc là (dòng họ) không bị khinh bỉ, không bị chê bai, không bị ghê tởm, không bị xem thường, được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; dòng họ ấy gọi là dòng họ cao quý.
[190]Công việc nghĩa là có hai loại công việc: công việc thấp kém và công việc cao quý. Công việc thấp kém nghĩa là công việc của thợ mộc, công việc hốt dọn bông hoa, hoặc là (công việc) bị khinh bỉ, bị chê bai, bị ghê tởm, bị xem thường, không được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; công việc ấy gọi là công việc thấp kém. Công việc cao quý nghĩa là việc đồng áng, việc thương buôn, việc chăn bò, hoặc là (công việc) không bị khinh bỉ, không bị chê bai, không bị ghê tởm, không bị xem thường, được tôn trọng trong những xứ sở ấy; công việc ấy gọi là công việc cao quý.
[191]Nghề nghiệp nghĩa là có hai loại nghề nghiệp: nghề nghiệp thấp kém và nghề nghiệp cao quý. Nghề nghiệp thấp kém nghĩa là nghề đan tre, nghề làm gốm, nghề thợ dệt, nghề thuộc da, nghề hớt tóc, hoặc là (nghề nghiệp) bị khinh bỉ, bị chê bai, bị ghê tởm, bị xem thường, không được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; nghề nghiệp ấy gọi là nghề nghiệp thấp kém. Nghề nghiệp cao quý nghĩa là nghề quản lý, nghề kế toán, nghề thư ký, hoặc là (nghề nghiệp) không bị khinh bỉ, không bị chê bai, không bị ghê tởm, không bị xem thường, được tôn trọng trong những xứ sở ấy; nghề nghiệp ấy gọi là nghề nghiệp cao quý.
[192] Tất cả các bệnh hoạn là thấp kém, tuy nhiên bệnh tiểu đường là cao quý.
[193] Đặc điểm nghĩa là có hai đặc điểm: đặc điểm thấp kém và đặc điểm cao quý. Đặc điểm thấp kém nghĩa là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng; đặc điểm ấy gọi là đặc điểm thấp kém. Đặc điểm cao quý nghĩa là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng; đặc điểm ấy gọi là đặc điểm cao quý.
[194] Tất cả các phiền não là thấp kém.
[195] Tất cả các tội vi phạm là thấp kém. Tuy nhiên, sự thành đạt quả vị Nhập Lưu[2]là cao quý.
[196] Sự sỉ vả nghĩa là có hai sự sỉ vả: sự sỉ vả thấp kém và sự sỉ vả cao quý. Sự sỉ vả thấp kém nghĩa là (nói rằng): “Ngươi là con lạc đà, ngươi là con cừu, ngươi là con bò , ngươi là con lừa, ngươi là loài thú, ngươi đi địa ngục, không có cõi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi,” đệm vào tiếng “ya,” hoặc đệm vào tiếng “bha,” hoặc gọi là “kāṭa” đối với người nam và “koṭacikā” đối với người nữ; sự sỉ vả ấy gọi là sự sỉ vả thấp kém. Sự sỉ vả cao quý nghĩa là (nói rằng): “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi;” sự sỉ vả ấy gọi là sự sỉ vả cao quý.
[197] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) thấp kém là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là hạng cùng đinh, ngươi là hạng đan tre, ngươi là hạng thợ săn, ngươi là hạng làm xe, ngươi là hạng hốt rác;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[198] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) cao quý là hạng sát-đế-lỵ, hạng bà-la-môn rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là hạng cùng đinh, ngươi là hạng đan tre, ngươi là hạng thợ săn, ngươi là hạng làm xe, ngươi là hạng hốt rác;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[199] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) thấp kém là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là sát-đế-lỵ, ngươi là bà-la-môn;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[200] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) cao quý là hạng sát-đế-lỵ, hạng bà-la-môn rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là sát-đế-lỵ, ngươi là bà-la-môn;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[201] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có tên gọi) thấp kém là Avakaṇṇaka, Javakaṇṇaka, Dhaniṭṭhaka, Saviṭṭhaka, Kulavaḍḍhaka rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là Avakaṇṇaka, ngươi là Javakaṇṇaka, ngươi là Dhaniṭṭhaka, ngươi là Saviṭṭhaka, ngươi là Kulavaḍḍhaka;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[202] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có tên gọi) cao quý là Buddharakkhita Dhammarakkhita Saṅgharakkhita rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là Avakaṇṇaka, ngươi là Javakaṇṇaka, ngươi là Dhaniṭṭhaka, ngươi là Saviṭṭhaka, ngươi là Kulavaḍḍhaka;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[203] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có tên gọi) thấp kém là Avakaṇṇaka, Javakaṇṇaka, Dhaniṭṭhaka, Saviṭṭhaka, Kulavaḍḍhaka rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là Buddharakkhita, ngươi là Dhammarakkhita, ngươi là Saṅgharakkhita;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[204] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có tên gọi) cao quý là Buddharakkhita Dhammarakkhita Saṅgharakkhita rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là Buddharakkhita, ngươi là Dhammarakkhita, ngươi là Saṅgharakkhita;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[205] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có dòng họ) thấp kém là Kosiya, Bhāradvāja rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là Kosiya, ngươi là Bhāradvāja;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[206] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có dòng họ) cao quý là Gotama, Moggallāna, Kaccāyana, Vāseṭṭha rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là Kosiya, ngươi là Bhāradvāja;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[207] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có dòng họ) thấp kém là Kosiya, Bhāradvāja rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là Gotama, ngươi là Moggallāna, ngươi là Kaccāyana, ngươi là Vāseṭṭha;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[208] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có dòng họ) cao quý là Gotama, Moggallāna, Kaccāyana, Vāseṭṭha rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là Gotama, ngươi là Moggallāna, ngươi là Kaccāyana, ngươi là Vāseṭṭha;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[209] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có công việc) thấp kém là thợ mộc, người hốt dọn bông hoa rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là thợ mộc, ngươi là người hốt dọn bông hoa;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[210] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có công việc) cao quý là nông phu, thương buôn, người chăn bò rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là thợ mộc, ngươi là người hốt dọn bông hoa;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[211] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có công việc) thấp kém là thợ mộc, người hốt dọn bông hoa rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là nông phu, ngươi là thương buôn, ngươi là người chăn bò;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[212] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có công việc) cao quý là nông phu, thương buôn, người chăn bò rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là nông phu, ngươi là thương buôn, ngươi là người chăn bò;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[213] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có nghề nghiệp) thấp kém là nghề đan tre, nghề làm gốm, nghề thợ dệt, nghề thuộc da, nghề hớt tóc rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là thợ đan tre, ngươi là thợ làm gốm, ngươi là thợ dệt, ngươi là thợ thuộc da, ngươi là thợ hớt tóc;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[214] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có nghề nghiệp) cao quý là quản lý, kế toán, thư ký rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là thợ đan tre, ngươi là thợ làm gốm, ngươi là thợ dệt, ngươi là thợ thuộc da, ngươi là thợ hớt tóc;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[215] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có nghề nghiệp) thấp kém là thợ đan tre, thợ làm gốm, thợ dệt, thợ thuộc da, thợ hớt tóc rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là quản lý, ngươi là kế toán, ngươi là thư ký;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[216] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có nghề nghiệp) cao quý là quản lý, kế toán, thư ký rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là quản lý, ngươi là kế toán, ngươi là thư ký;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[217] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có bệnh hoạn) thấp kém là bệnh cùi, bệnh mụt nhọt, bệnh chàm, bệnh lao phổi, bệnh động kinh rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là người bệnh cùi, ngươi là người bệnh mụt nhọt, ngươi là người bệnh chàm, ngươi là người bệnh lao phổi, ngươi là người bệnh động kinh;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[218] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có bệnh hoạn) cao quý là bệnh tiểu đường rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là người bệnh cùi, ngươi là người bệnh mụt nhọt, ngươi là người bệnh chàm, ngươi là người bệnh lao phổi, ngươi là người bệnh động kinh;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[219] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có bệnh hoạn) thấp kém là bệnh cùi, bệnh mụt nhọt, bệnh chàm, bệnh lao phổi, bệnh động kinh rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là người bệnh tiểu đường;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[220] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có bệnh hoạn) cao quý là bệnh tiểu đường rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là người bệnh tiểu đường;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[221] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có đặc điểm) thấp kém là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là quá cao, ngươi là quá lùn, ngươi là quá đen, ngươi là quá trắng;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[222] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có đặc điểm) cao quý là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là quá cao, ngươi là quá lùn, ngươi là quá đen, ngươi là quá trắng;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[223] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có đặc điểm) thấp kém là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là không quá cao, ngươi là không quá lùn, ngươi là không quá đen, ngươi là không quá trắng;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[224] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có đặc điểm) cao quý là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là không quá cao, ngươi là không quá lùn, ngươi là không quá đen, ngươi là không quá trắng;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[225] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có nội tâm) thấp kém bị tham khuấy nhiễu, bị sân khuấy nhiễu, bị si khuấy nhiễu rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi bị tham khuấy nhiễu, ngươi bị sân khuấy nhiễu, ngươi bị si khuấy nhiễu;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[226] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có nội tâm) cao quý là có sự đoạn tận tham, có sự đoạn tận sân, có sự đoạn tận si rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi bị tham khuấy nhiễu, ngươi bị sân khuấy nhiễu, ngươi bị si khuấy nhiễu;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[227] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có nội tâm) thấp kém bị tham khuấy nhiễu, bị sân khuấy nhiễu, bị si khuấy nhiễu rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi đã đoạn tận tham, ngươi đã đoạn tận sân, ngươi đã đoạn tận si;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[228] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có nội tâm) cao quý là có sự đoạn tận tham, có sự đoạn tận sân, có sự đoạn tận si rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi đã đoạn tận tham, ngươi đã đoạn tận sân, ngươi đã đoạn tận si;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[229] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có āpatti) thấp kém là bị phạm tội pārājika, bị phạm tội saṅghādisesa, bị phạm tội thullaccaya, bị phạm tội pācittiya, bị phạm tội pāṭidesanīya, bị phạm tội dukkaṭa, bị phạm tội dubbhāsita rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi đã phạm tội pārājika, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa, ngươi đã phạm tội thullaccaya, ngươi đã phạm tội pācittiya, ngươi đã phạm tội pāṭidesanīya, ngươi đã phạm tội dukkaṭa, ngươi đã phạm tội dubbhāsita;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[230] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có āpatti) cao quý là đã chứng đạt quả vị Nhập Lưu (Sota-āpatti) rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi đã phạm tội pārājika, ...(như trên)... ngươi đã phạm tội dubbhāsita;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[231] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có āpatti) thấp kém là phạm tội pārājika, ...(như trên)...phạm tội dubbhāsita rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi đã chứng đạt quả vị Nhập Lưu (Sotāpatti);” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[232] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (có āpatti) cao quý là đã chứng đạt quả vị Nhập Lưu (Sota-āpatti) rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi đã chứng đạt quả vị Nhập Lưu (Sotāpatti);” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[233] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém là con lạc đà, con cừu, con bò, con lừa, loài thú, người địa ngục rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là con lạc đà, ngươi là con cừu, ngươi là con bò, ngươi là con lừa, ngươi là loài thú, ngươi đi địa ngục, không có cõi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[234] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) cao quý là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là con lạc đà, ngươi là con cừu, ngươi là con bò, ngươi là con lừa, ngươi là loài thú, ngươi đi địa ngục, không có cõi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[235] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém là con lạc đà, con cừu, con bò, con lừa, loài thú, người địa ngục rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[236] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) cao quý là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[237] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[238] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là sát-đế-lỵ, là bà-la-môn;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[239] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là Avakaṇṇaka, Javakaṇṇaka, Dhaniṭṭhaka, Saviṭṭhaka, Kulavaḍḍhaka;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói. ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là Buddharakkhita Dhammarakkhita Saṅgharakkhita;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói. ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là Kosiya, Bhāradvāja;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là Gotama, Moggallāna, Kaccāyana, Vāseṭṭha;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là thợ mộc, người hốt dọn bông hoa;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là nông phu, thương buôn, người chăn bò;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là thợ đan tre, thợ làm gốm, thợ dệt, thợ thuộc da, thợ hớt tóc;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là quản lý, kế toán, thư ký;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là người bệnh cùi, người bệnh mụt nhọt, người bệnh chàm, người bệnh lao phổi, người bệnh động kinh;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là người bệnh tiểu đường;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị bị tham khuấy nhiễu, bị sân khuấy nhiễu, bị si khuấy nhiễu;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị đã đoạn tận tham, đã đoạn tận sân, đã đoạn tận si;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị đã phạm tội pārājika, ...(như trên)... đã phạm tội dubbhāsita;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị đã chứng đạt quả vị Nhập Lưu;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là con lạc đà, con cừu, con bò, con lừa, loài thú, người địa ngục, không có cõi trời cho những người ấy, khổ cảnh chờ đợi những người ấy;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[240] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cõi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[241] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói. ...(như trên)...
Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cõi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[242] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ...(như trên)... “Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cõi trời chờ đợi chúng tôi;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[243] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục người chưa tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự thấp kém rằng ...(như trên)... (bằng sự sỉ vả) cao quý rồi nói theo sự thấp kém rằng ...(như trên)... (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự cao quý rằng ...(như trên)... (bằng sự sỉ vả) cao quý là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[244] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cõi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[245] Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói. ...(như trên)... “Có lẽ những người này là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cõi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định hạ nhục người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ...(như trên)... “Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cõi trời chờ đợi chúng tôi;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[246] Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) thấp kém là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là hạng cùng đinh, ngươi là hạng đan tre, ngươi là hạng thợ săn, ngươi là hạng làm xe, ngươi là hạng hốt rác;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita (ác khẩu) theo từng lời nói.
Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) cao quý là hạng sát-đế-lỵ, hạng bà-la-môn rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là hạng cùng đinh, ngươi là hạng đan tre, ngươi là hạng thợ săn, ngươi là hạng làm xe, ngươi là hạng hốt rác;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita (ác khẩu) theo từng lời nói.
Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) thấp kém là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là sát-đế-lỵ, ngươi là bà-la-môn;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita (ác khẩu) theo từng lời nói.
Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) cao quý là hạng sát-đế-lỵ, hạng bà-la-môn rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là sát-đế-lỵ, ngươi là bà-la-môn;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita (ác khẩu) theo từng lời nói. ...(như trên)...
Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự thấp kém rằng ...(như trên)... (bằng sự sỉ vả) cao quý rồi nói theo sự thấp kém rằng ...(như trên)... (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự cao quý rằng ...(như trên)... (bằng sự sỉ vả) cao quý rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita (ác khẩu) theo từng lời nói.
[247] Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cõi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita (ác khẩu) theo từng lời nói.
[248] Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ...(như trên)... “Có lẽ những người này là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita (ác khẩu) theo từng lời nói.
[249] Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ...(như trên)... “Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cõi trời chờ đợi chúng tôi;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita (ác khẩu) theo từng lời nói.
[250] Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn người chưa tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự thấp kém rằng ...(như trên)... (bằng sự sỉ vả) cao quý rồi nói theo sự thấp kém rằng ...(như trên)... (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự cao quý rằng ...(như trên)... (bằng sự sỉ vả) cao quý rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita (ác khẩu) theo từng lời nói.
[251] Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ...(như trên)... “Ở đây, có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cõi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita (ác khẩu) theo từng lời nói.
[252] Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ...(như trên)... “Có lẽ những người này là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita (ác khẩu) theo từng lời nói.
[253] Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ...(như trên)... “Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cõi trời chờ đợi chúng tôi;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita (ác khẩu) theo từng lời nói.
[254] Vị (nói để) đề cập đến ý nghĩa, vị (nói để) đề cập đến Pháp, vị (nói) nhắm đến sự giảng dạy, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhì.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[255] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tạo ra sự đâm thọc giữa các tỳ khưu đang có sự xung đột, đang có sự cãi cọ, đang đưa đến các sự tranh luận, sau khi nghe từ vị này rồi kể lại cho vị kia đưa đến sự chia rẽ với vị này, sau khi nghe từ vị kia rồi kể lại cho vị này đưa đến sự chia rẽ với vị kia; vì thế các sự xung đột chưa sanh khởi được sanh khởi, và các sự xung đột đã sanh khởi càng phát triển rộng lớn và tăng thêm nhiều hơn nữa.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại tạo ra sự đâm thọc giữa các tỳ khưu đang có sự xung đột, đang có sự cãi cọ, đang đưa đến sự tranh luận, sau khi nghe từ vị này rồi kể lại cho vị kia đưa đến sự chia rẽ với vị này, sau khi nghe từ vị kia rồi kể lại cho vị này đưa đến sự chia rẽ với vị kia; vì thế các sự xung đột chưa sanh khởi được sanh khởi, và các sự xung đột đã sanh khởi càng phát triển rộng lớn và tăng thêm nhiều hơn nữa?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi tạo ra sự đâm thọc giữa các tỳ khưu đang có sự xung đột, đang có sự cãi cọ, đang đưa đến sự tranh luận, sau khi nghe từ vị này rồi kể lại cho vị kia đưa đến sự chia rẽ với vị này, sau khi nghe từ vị kia rồi kể lại cho vị này đưa đến sự chia rẽ với vị kia; vì thế các sự xung đột chưa sanh khởi được sanh khởi, và các sự xung đột đã sanh khởi càng phát triển rộng lớn và tăng thêm nhiều hơn nữa, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại tạo ra sự đâm thọc giữa các tỳ khưu đang có sự xung đột, đang có sự cãi cọ, đang đưa đến sự tranh luận, sau khi nghe từ vị này rồi kể lại cho vị kia đưa đến sự chia rẽ với vị này, sau khi nghe từ vị kia rồi kể lại cho vị này đưa đến sự chia rẽ với vị kia; vì thế các sự xung đột chưa sanh khởi được sanh khởi, và các sự xung đột đã sanh khởi càng phát triển rộng lớn và tăng thêm nhiều hơn nữa vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi (tạo ra) sự đâm thọc giữa các tỳ khưu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[256] Sự đâm thọc nghĩa là sự đâm thọc vì hai nguyên do: của vị ao ước được thương hoặc là của vị có ý định chia rẽ. Vị tạo ra sự đâm thọc theo mười sự việc: theo sự sanh ra, theo tên gọi, theo dòng họ, theo công việc, theo nghề nghiệp, theo bệnh hoạn, theo đặc điểm, theo phiền não, theo tội vi phạm, và bằng sự sỉ vả.
Sự sanh ra nghĩa là có hai sự sanh ra: sự sanh ra thấp kém và sự sanh ra cao quý. Sự sanh ra thấp kém nghĩa là sự sanh ra của hạng cùng đinh, sự sanh ra của hạng đan tre, sự sanh ra của hạng thợ săn, sự sanh ra của hạng làm xe, sự sanh ra của hạng hốt rác; sự sanh ra ấy gọi là sự sanh ra thấp kém. Sự sanh ra cao quý là sự sanh ra của hạng sát-đế-lỵ và sự sanh ra của bà-la-môn; sự sanh ra ấy gọi là sự sanh ra cao quý. ...(như trên)...
Sự sỉ vả nghĩa là có hai sự sỉ vả: sự sỉ vả thấp kém và sự sỉ vả cao quý. Sự sỉ vả thấp kém nghĩa là (nói rằng): “Ngươi là con lạc đà, ngươi là con cừu, ngươi là con bò, ngươi là con lừa, ngươi là loài thú, ngươi đi địa ngục, không có cõi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi,” đệm vào tiếng “ya,” hoặc đệm vào tiếng “bha,” hoặc gọi là “kāṭa” đối với người nam và “koṭacikā” đối với người nữ; sự sỉ vả ấy gọi là sự sỉ vả thấp kém. Sự sỉ vả cao quý nghĩa là (nói rằng): “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi;” sự sỉ vả ấy gọi là sự sỉ vả cao quý.
[257] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[258] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là sát-đế-lỵ, bà-la-môn” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[259] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là Avakaṇṇaka, Javakaṇṇaka, Dhaniṭṭhaka, Saviṭṭhaka, Kulavaḍḍhaka” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[260] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là Buddharakkhita, Dhammarakkhita, Saṅgharakkhita” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[261] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là Kosiya, Bhāradvāja” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[262] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là Gotama, Moggallāna, Kaccāyana, Vāseṭṭha” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[263] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là thợ mộc, người hốt dọn bông hoa” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[264] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là nông phu, thương buôn, người chăn bò” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[265] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là thợ đan tre, thợ làm gốm, thợ dệt, thợ thuộc da, thợ hớt tóc” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[266] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là quản lý, kế toán, thư ký” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[267] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là người bệnh cùi, người bệnh mụt nhọt, người bệnh chàm, người bệnh lao phổi, người bệnh động kinh” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[268] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là người bệnh tiểu đường” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[269] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[270] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[271] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi bị tham khuấy nhiễu, bị sân khuấy nhiễu, bị si khuấy nhiễu” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[272] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi đã đoạn tận tham, đã đoạn tận sân, đã đoạn tận si” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[273] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi phạm tội pārājika, phạm tội saṅghādisesa, phạm tội thullaccaya, phạm tội pācittiya, phạm tội pāṭidesanīya, phạm tội dukkaṭa, phạm tội dubbhāsita” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[274] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là vị Nhập Lưu”thì phạm tộipācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[275] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là con lạc đà, con cừu, con bò, con lừa, loài thú, người địa ngục, không có cõi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[276] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
[277] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Ở đây có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[278] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Ở đây có một số vị là sát-đế-lỵ, là bà-la-môn.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[279] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Ở đây có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cõi trời chờ đợi những người ấy.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[280] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói. ...(như trên)...
Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Có lẽ những người nào là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, những người ấy không có khổ cảnh, cõi trời chờ đợi những người ấy.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” thì phạm tộidukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[281] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói. ...(như trên)...
Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cõi trời chờ đợi chúng tôi.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” thì phạm tộidukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[282] Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng lời nói.
Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
Vị đã tu lên bậc trên nghe từ người chưa tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
Vị đã tu lên bậc trên nghe từ người chưa tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo từng lời nói.
[283] Vị không ao ước được thương, vị không có ý định chia rẽ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[284] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dạy các cư sĩ đọc Pháp theo từng câu. Các cư sĩ sống không tôn kính, không nghe lời, cư xử không thích đáng đối với các tỳ khưu.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại dạy các cư sĩ đọc Pháp theo từng câu khiến các cư sĩ sống không tôn kính, không nghe lời, cư xử không thích đáng đối với các tỳ khưu?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi dạy các cư sĩ đọc Pháp theo từng câu khiến các cư sĩ sống không tôn kính, không nghe lời, cư xử không thích đáng đối với các tỳ khưu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại dạy các cư sĩ đọc Pháp theo từng câu khiến các cư sĩ sống không tôn kính, không nghe lời, cư xử không thích đáng đối với các tỳ khưu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào dạy người chưa tu lên bậc trên đọc Pháp theo từng câu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[285] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người chưa tu lên bậc trên nghĩa là trừ ra tỳ khưu và tỳ khưu ni, các người còn lại là người chưa tu lên bậc trên.
[286] Theo từng câu nghĩa là một câu (của bài kệ), đọc tiếp theo, chỉ mỗi một âm, đọc hòa theo. Một câu (của bài kệ) nghĩa là bắt đầu đọc một lượt, chấm dứt một lượt. Đọc tiếp theo nghĩa là người đọc trước người đọc sau rồi chấm dứt một lượt. Chỉ mỗi một âm nghĩa là khi đang đọc chung “Rūpaṃ aniccaṃ,” vị (tỳ khưu) chỉ đọc chữ “Rū” rồi ngưng. Đọc hòa theo nghĩa là khi đang đọc “Rūpaṃ aniccaṃ,” (người chưa tu lên bậc trên) phát ra âm “Vedanā aniccā.” Điều gì là một câu (của bài kệ), điều gì là đọc tiếp theo, điều gì là chỉ mỗi một âm, điều gì là đọc hòa theo, tất cả điều ấy gọi là Pháp theo từng câu.
Pháp nghĩa là được giảng bởi đức Phật, được giảng bởi các vị Thinh Văn, được giảng bởi các vị ẩn sĩ, được giảng bởi chư Thiên có liên quan đến mục đích có liên quan đến Pháp bảo.
Dạy đọc Pháp: Vị dạy đọc theo câu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một câu. Vị dạy đọc theo từ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một từ.
[287] Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, vị dạy đọc Pháp theo từng câu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị dạy đọc Pháp theo từng câu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, vị dạy đọc Pháp theo từng câu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên thì vô tội.
[288] Trong khi bảo đọc tụng chung, trong khi thực hiện việc học chung, vị dạy người (chưa tu lên bậc trên) đọc (bỏ băng) phần đã được học thuộc lòng nhiều lần, vị dạy người (chưa tu lên bậc trên) đang đọc sai, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tư.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[289] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, các cư sĩ thường đi đến tu viện để nghe Pháp. Khi Pháp đã được giảng, các tỳ khưu trưởng lão đi về trú xá của các vị. Các tỳ khưu mới tu cùng với các cư sĩ nằm ngủ ngay tại nơi ấy ở phòng phục vụ; các vị bị thất niệm, không tỉnh giác, lõa thể, mớ ngủ, ngáy ngủ. Các cư sĩ phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các ngài đại đức lại nằm ngủ bị thất niệm, không tỉnh giác, lõa thể, mớ ngủ, ngáy ngủ?
Các tỳ khưu đã nghe được các cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu lại nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[290] Sau đó, khi đã ngự tại thành Āḷavī theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Kosambī. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Kosambī. Tại nơi đó trong thành Kosambī, đức Thế Tôn ngự ở tu viện Badarikā. Các tỳ khưu đã nói với đại đức Rāhula điều này:
- Này đệ Rāhula, điều học đã được đức Thế Tôn quy định là: “Không được nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên.” Này đệ Rāhula, hãy tìm chỗ ngủ.
Khi ấy, trong khi không có được chỗ ngủ, đại đức Rāhula đã nằm ngủ ở nhà tiêu. Sau đó vào canh cuối của đêm, đức Thế Tôn sau khi thức dậy đã đi đến nhà tiêu, sau khi đi đến đã tằng hắng. Đại đức Rāhula cũng đã tằng hắng lại.
- Ai đó vậy?
- Bạch Thế Tôn, con là Rāhula.
- Này Rāhula, sau con lại nằm ở đây?
Khi ấy, đại đức Rāhula đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên hai hoặc ba đêm. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên quá hai ba đêm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[291] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người chưa tu lên bậc trên nghĩa là trừ ra tỳ khưu, (các người) còn lại gọi là người chưa tu lên bậc trên.
Quá hai ba đêm: là hơn hai hoặc ba đêm.
Với: là cùng chung.
Chỗ ngụ nghĩa là đã được lợp kín toàn bộ đã được che kín xung quanh toàn bộ, đã được lợp kín phần lớn đã được che kín xung quanh phần lớn.
Nằm chung chỗ ngụ: vào ngày thứ tư lúc mặt trời đã lặn, khi người chưa tu lên bậc trên đang nằm vị tỳ khưu nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Khi vị tỳ khưu đang nằm, người chưa tu lên bậc trên nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Hoặc cả hai nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi đứng dậy rồi (cả hai) lại nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[292] Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, vị nằm chung chỗ ngụ quá hai ba đêm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị nằm chung chỗ ngụ quá hai ba đêm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, vị nằm chung chỗ ngụ quá hai ba đêm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Trong chỗ lợp kín một nửa, che kín xung quanh một nửa thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên thì vô tội.
[293] Vị ngụ hai ba đêm, vị ngụ chưa đủ hai ba đêm, sau khi ngụ hai đêm vào đêm thứ ba đi ra ngoài trước rạng đông rồi lại cư ngụ tiếp, trong chỗ lợp kín toàn bộ nhưng không che kín xung quanh toàn bộ, trong chỗ che kín xung quanh toàn bộ nhưng không lợp kín toàn bộ, trong chỗ không được lợp kín phần nhiều và không được che kín xung quanh phần nhiều, khi người chưa tu lên bậc trên đang nằm thì vị tỳ khưu ngồi, khi vị tỳ khưu đang nằm thì người chưa tu lên bậc trên ngồi, hoặc là cả hai đều ngồi, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ năm.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[294] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Anuruddha trong khi đang đi đến thành Sāvatthi trong xứ sở Kosala nhằm lúc chiều tối đã ghé lại ngôi làng nọ. Vào lúc bấy giờ, ở trong ngôi làng ấy có nhà nghỉ trọ của người đàn bà nọ đã được sắp đặt.[3]Khi ấy, đại đức Anuruddha đã đi đến gặp người đàn bà ấy, sau khi đến đã nói với người đàn bà ấy điều này:
- Này chị gái, nếu cô không phiền lòng tôi có thể ngụ một đêm ở phước xá.
- Thưa ngài, ngài có thể ngụ.
Những khách lữ hành khác cũng đã đi đến gặp người đàn bà ấy, sau khi đến đã nói với người đàn bà ấy điều này:
- Thưa bà, nếu bà không phiền lòng chúng tôi có thể trú một đêm ở phước xá.
- Có ngài sa-môn đã đến trước, nếu vị ấy cho phép các ông có thể trú lại.
Khi ấy, những khách lữ hành ấy đã đi đến gặp đại đức Anuruddha, sau khi đến đã nói với đại đức Anuruddha điều này:
- Thưa ngài, nếu ngài không phiền lòng chúng tôi có thể trú một đêm ở phước xá.
- Này các đạo hữu, hãy trú lại.
Khi ấy, người đàn bà ấy đã đem lòng say đắm do sự nhìn thấy đại đức Anuruddha. Sau đó, người đàn bà ấy đã đi đến gặp đại đức Anuruddha, sau khi đến đã nói với đại đức Anuruddha điều này:
- Thưa ngài, bị quấy rầy bởi những người này ngài sẽ ngụ không được an lạc. Thưa ngài, tốt thay tôi có thể sắp đặt cho ngài chiếc giường ở bên trong.
Đại đức Anuruddha đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, người đàn bà ấy đã sắp đặt chiếc giường của mình ở bên trong cho đại đức Anuruddha rồi khoác xiêm y và trang sức, xức hương thơm rồi đi đến gặp đại đức Anuruddha, sau khi đến đã nói với đại đức Anuruddha điều này:
- Thưa ngài, ngài là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái và thiếp là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Thưa ngài, tốt thay thiếp có thể là vợ của ngài.
Khi được nói như thế, đại đức Anuruddha đã im lặng.
Đến lần thứ nhì, ...(như trên)...
Đến lần thứ ba, người đàn bà ấy đã nói với đại đức Anuruddha điều này:
- Thưa ngài, ngài là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái và thiếp là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Thưa ngài, tốt thay ngài hãy chấp nhận thiếp đây và tất cả tài sản..
Đến lần thứ ba, đại đức Anuruddha đã im lặng.
Sau đó, người đàn bà ấy đã cởi ra tấm áo choàng và đi qua đi lại phía trước đại đức Anuruddha, rồi đứng lại, rồi ngồi xuống, rồi nằm xuống. Khi ấy, đại đức Anuruddha đã thu thúc các giác quan, cũng không nhìn người đàn bà ấy và cũng không nói. Khi ấy, người đàn bà ấy (nghĩ rằng): “Ngài thật là kỳ diệu! Ngài thật là phi thường! Nhiều người bỏ ra cả trăm cả ngàn vì ta, thế mà khi được đích thân ta van xin vị sa-môn này lại không chịu chấp nhận ta đây và tất cả tài sản,” rồi đã quấn lại tấm áo choàng, đê đầu ở hai chân của đại đức Anuruddha và đã nói với đại đức Anuruddha điều này:
- Thưa ngài, tội lỗi đã chiếm ngự lấy con khiến con trở nên đần độn, ngu si, không có đạo đức nên con đã hành động như thế. Thưa ngài, xin ngài đại đức ghi nhận sự sai trái trong tội lỗi ấy của con đây hầu để ngăn ngừa trong tương lai.
- Này chị gái, đúng như vậy, tội lỗi đã chiếm ngự lấy cô khiến cô trở nên đần độn, ngu si, không có đạo đức nên cô đã hành động như thế. Này chị gái, chính từ việc đó cô đã thấy được sự sai trái trong tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp, nay chúng tôi nhận biết điều ấy cho cô. Này chị gái, chính điều này là sự tiến bộ trong giới luật của bậc Thánh: “Người nào sau khi thấy được sự sai trái trong tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp sẽ có được sự ngăn ngừa trong tương lai.”
Sau đó, khi trải qua đêm ấy người đàn bà ấy đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn đại đức Anuruddha với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đại đức Anuruddha đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, người đàn bà ấy đã ngồi xuống ở một bên. Đại đức Anuruddha đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người đàn bà ấy đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đại đức Anuruddha chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, người đàn bà ấy đã nói với đại đức Anuruddha điều này:
- Thưa ngài, thật là tuyệt vời! Thưa ngài, thật là tuyệt vời! Thưa ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế Pháp đã được ngài đại đức Anuruddha giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Thưa ngài, con đây xin quy y đức Thế Tôn ấy, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin ngài đại đức chấp nhận con là nữ cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
Sau đó, đại đức Anuruddha đã đi đến thành Sāvatthi và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Anuruddha lại nằm chung chỗ ngụ với người nữ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này Anuruddha, nghe nói ngươi nằm chung chỗ ngụ với người nữ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này Anuruddha, vì sao ngươi lại nằm chung chỗ ngụ với người nữ vậy? Này Anuruddha, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nằm chung chỗ ngụ với người nữ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[295] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữ: nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, ngay cả đứa bé gái mới sanh ngày hôm ấy cho đến bà lão.
Với: là cùng chung.
Chỗ ngụ nghĩa là đã được lợp kín toàn bộ đã được che kín xung quanh toàn bộ, đã được lợp kín phần lớn đã được che kín xung quanh phần lớn.
Nằm chung chỗ ngụ: là lúc mặt trời đã lặn, khi người nữ đang nằm vị tỳ khưu nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Khi vị tỳ khưu đang nằm, người nữ nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Sau khi đứng dậy rồi (cả hai) lại nằm xuống thì phạm tội pācittiya.
[296] Người nữ, nhận biết là người nữ, vị nằm chung chỗ ngụ thì phạm tội pācittiya.
Người nữ, có sự hoài nghi, vị nằm chung chỗ ngụ thì phạm tội pācittiya.
Người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị nằm chung chỗ ngụ thì phạm tội pācittiya.
Trong chỗ lợp kín một nửa, che kín xung quanh một nửa, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị nằm chung chỗ ngụ với nữ dạ-xoa, hoặc với ma nữ, hoặc với người vô căn, hoặc với thú cái thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là người nữ, (lầm) tưởng là người nữ, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ thì vô tội.
[297] Trong chỗ lợp kín toàn bộ nhưng không che kín xung quanh toàn bộ, trong chỗ che kín xung quanh toàn bộ nhưng không lợp kín toàn bộ, trong chỗ không được lợp kín phần nhiều và không được che kín xung quanh phần nhiều, trong khi người nữ đang nằm thì vị tỳ khưu ngồi, trong khi vị tỳ khưu đang nằm thì người nữ ngồi, hoặc cả hai đều ngồi, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ sáu.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[298] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi là vị thường tới lui với các gia đình và đi đến nhiều gia đình ở thành Sāvatthi. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Udāyi đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến gia đình nọ. Vào lúc bấy giờ, bà chủ nhà đang ngồi ở cửa lớn của căn nhà. Cô con dâu đang ngồi ở cửa phòng trong. Khi ấy, đại đức Udāyi đã đi đến gặp bà chủ nhà, sau khi đến đã thuyết Pháp thầm thì bên tai của bà chủ nhà. Khi ấy, cô con dâu đã khởi ý điều này: “Vị sa-môn ấy là tình nhân của mẹ chồng hay là đang tán tỉnh?” Sau đó, khi đã thuyết Pháp thầm thì bên tai của bà chủ nhà, đại đức Udāyi đã đi đến gặp cô con dâu, sau khi đến đã thuyết Pháp thầm thì bên tai của cô con dâu. Khi ấy, bà chủ nhà đã khởi ý điều này: “Vị sa-môn ấy là tình nhân của con dâu hay là đang tán tỉnh?” Sau đó, khi đã thuyết Pháp thầm thì bên tai của cô con dâu, đại đức Udāyi đã ra đi. Khi ấy, bà chủ nhà đã nói với cô con dâu điều này:
- Này con, vị sa-môn ấy đã nói gì với con vậy?
- Thưa mẹ, vị ấy đã thuyết Pháp cho con. Vậy đã nói gì với mẹ?
- Cũng đã thuyết Pháp cho mẹ.
Hai người nữ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao đại đức Udāyi lại thuyết Pháp thầm thì bên tai của người nữ, không lẽ Pháp không nên được thuyết giảng công khai và minh bạch?
Các tỳ khưu đã nghe được các người nữ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại thuyết Pháp đến người nữ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này Udāyi, nghe nói ngươi thuyết Pháp đến người nữ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại thuyết Pháp đến người nữ vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào thuyết Pháp đến người nữ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[299] Vào lúc bấy giờ, các nữ cư sĩ sau khi nhìn thấy các tỳ khưu đã nói điều này:
- Xin các ngài đại đức hãy thuyết Pháp.
- Này các chị gái, không được phép thuyết Pháp đến người nữ.
- Xin các ngài đại đức hãy thuyết Pháp năm sáu câu thôi, có thể được phép học Pháp chỉ với chừng ấy.
- Này các chị gái, không được phép thuyết Pháp đến người nữ.
Rồi trong khi ngần ngại, các vị đã không thuyết. Các nữ cư sĩ phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các ngài đại đức khi được chúng tôi thỉnh cầu lại không thuyết Pháp?
Các tỳ khưu đã nghe được các nữ cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thuyết Pháp năm sáu câu đến người nữ. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào thuyết Pháp đến người nữ hơn năm sáu câu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[300] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cho phép thuyết Pháp năm sáu câu đến người nữ.” Các vị ấy sau khi bảo người nam không trí suy xét ngồi gần rồi thuyết Pháp đến người nữ quá năm sáu câu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại bảo người nam không trí suy xét ngồi gần rồi thuyết Pháp đến người nữ quá năm sáu câu?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi bảo người nam không trí suy xét ngồi gần rồi thuyết Pháp đến người nữ quá năm sáu câu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại bảo người nam không trí suy xét ngồi gần rồi thuyết Pháp đến người nữ quá năm sáu câu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào thuyết Pháp đến người nữ hơn năm sáu câu ngoại trừ có người nam có trí suy xét thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[301] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữ: nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có hiểu biết, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là dâm dật và không dâm dật.
Hơn năm sáu câu: là vượt quá năm sáu câu.[4]
Pháp nghĩa là được giảng bởi đức Phật, được giảng bởi các vị Thinh Văn, được giảng bởi các vị ẩn sĩ, được giảng bởi chư Thiên có liên quan đến mục đích có liên quan đến Pháp bảo.
Thuyết: vị thuyết theo câu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một câu. Vị thuyết theo từ thì phạm tội ưng đối trị theo mỗi một từ.
Ngoại trừ có người nam có trí suy xét: trừ ra có người nam có trí suy xét.
Người nam có trí suy xét nghĩa là có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là dâm dật và không dâm dật.
[302] Người nữ, nhận biết là người nữ, vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có người nam có trí suy xét.
Người nữ, có sự hoài nghi, vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có người nam có trí suy xét.
Người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có người nam có trí suy xét.
Vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu đến nữ dạ-xoa, hoặc ma nữ, hoặc người vô căn, hoặc loài thú có thân người nữ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) ngoại trừ có người nam có trí suy xét.
Không phải là người nữ, (lầm) tưởng là người nữ, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Kkhông phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ thì vô tội.
[303] Vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu có người nam có trí suy xét, vị thuyết Pháp chưa tới năm sáu câu, vị sau khi đứng dậy ngồi xuống lại rồi thuyết Pháp, vị thuyết trong khi người nữ đứng dậy rồi ngồi xuống lại, vị thuyết đến người nữ khác,[5]vị hỏi câu hỏi, vị trả lời khi được hỏi câu hỏi, người nữ lắng nghe vị đang thuyết vì lợi ích của người nam khác, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ bảy.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[304] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm đã vào mùa (an cư) mưa ở bờ sông Vaggumudā. Vào lúc bấy giờ, xứ Vajjī có sự khó khăn về vật thực, đời sống khổ cực, dịch bệnh hoành hành, vật thực được phân phối theo thẻ, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Hiện nay, xứ Vajjī có sự khó khăn về vật thực, đời sống khổ cực, dịch bệnh hoành hành, vật thực được phân phối theo thẻ, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Còn chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ nhau, vậy bằng phương thức nào chúng ta có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực?”
Một số vị đã nói như vầy:
- Này các đại đức, chúng ta hãy quyết định làm công việc cho các người tại gia đi; như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.
Một số vị đã nói như vầy:
- Này các đại đức, thôi đi! Việc gì lại quyết định làm công việc cho các người tại gia? Này các đại đức, chúng ta hãy đưa tin tức cho các người tại gia đi; như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.
Một số vị đã nói như vầy:
- Này các đại đức, thôi đi! Việc gì lại quyết định làm công việc cho các người tại gia? Việc gì lại đưa tin tức cho các người tại gia? Này các đại đức, chúng ta sẽ nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia rằng: “Vị tỳ khưu như vầy đạt sơ thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt nhị thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt tam thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt tứ thiền, vị tỳ khưu như vầy là vị Nhập Lưu, vị tỳ khưu như vầy là vị Nhất Lai, vị tỳ khưu như vầy là vị Bất Lai, vị tỳ khưu như vầy là vị A-la-hán, vị tỳ khưu như vầy có tam Minh, vị tỳ khưu như vầy có lục Thông;” như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.
- Này các đại đức, chính điều này là tốt hơn hết tức là việc chúng ta nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia.
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia:
- Vị tỳ khưu như vầy đạt sơ thiền, ...(như trên)... vị tỳ khưu như vầy có lục Thông
Khi ấy, những người dân ấy (nghĩ rằng): “Quả thật điều lợi ích đã có cho chúng ta! Quả thật chúng ta đã đạt được điều tốt! Chúng ta có được các tỳ khưu như vầy trong số các tỳ khưu có giới có thiện pháp vào mùa (an cư) mưa! Quả thật từ trước đến nay không có các tỳ khưu như vầy vào mùa (an cư) mưa như là các vị tỳ khưu có giới có thiện pháp này vậy!” Họ cúng dường đến các tỳ khưu những vật thực loại mềm mà họ không ăn cho chính bản thân, không dâng đến cha mẹ, không cho đến vợ con, không cho đến các tôi tớ và người làm công, không cho đến bạn bè và các quan lại, không cho đến các thân quyến cùng huyết thống. Họ cúng dường đến các tỳ khưu những vật thực loại cứng mà họ không nhai cho chính bản thân, không dâng đến cha mẹ, ...(như trên)..., không cho đến các thân quyến cùng huyết thống. Họ cúng dường đến các tỳ khưu những thức nếm mà họ không nếm thử cho chính bản thân, không dâng đến cha mẹ, ...(như trên)... không cho đến các thân quyến cùng huyết thống. Họ cúng dường đến các tỳ khưu những thức uống mà họ không uống cho chính bản thân, không dâng đến cha mẹ, không cho đến vợ con, không cho đến các tôi tớ và người làm công, không cho đến bạn bè và các quan lại, không cho đến các thân quyến cùng huyết thống.
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã có được tướng mạo, căn quyền sung mãn, sắc diện rạng rỡ, sắc thân an tịnh.
[305] Điều này đã trở thành thông lệ cho các tỳ khưu đã trải qua mùa (an cư) mưa là đi đến diện kiến đức Thế Tôn. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy trải qua ba tháng mùa (an cư) mưa đã thu xếp chỗ trú ngụ, cầm y bát, ra đi về phía thành Vesālī. Trong khi tuần tự du hành, các vị đã đi đến thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa ở các phương thì ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân; trái lại các vị tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā có được tướng mạo, căn quyền sung mãn, sắc diện rạng rỡ, sắc thân an tịnh.
Điều này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị các tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā điều này:
- Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ nhau đã sống qua mùa (an cư) mưa có được thoải mái không? Và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực?
- Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc đều tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ nhau đã sống qua mùa (an cư) mưa được thoải mái, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.
Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi. Các đấng Như lai hỏi có liên quan đến lợi ích và không (hỏi việc) không có liên quan đến lợi ích, khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề. Chư Phật Thế Tôn hỏi các tỳ khưu bởi hai lý do: “Chúng ta sẽ thuyết Pháp hoặc sẽ quy định điều học cho các đệ tử.” Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā điều này:
- Này các tỳ khưu, các ngươi có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ nhau đã sống qua mùa (an cư) mưa được thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực như thế nào?
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, các ngươi có thực chứng không?
- Bạch Thế Tôn, có thực chứng.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các ngươi lại ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia vì lý do của bao tử vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tuyên bố pháp thượng nhân đến người chưa tu lên bậc trên (nếu) có thực chứng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[306] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người chưa tu lên bậc trên nghĩa là trừ ra tỳ khưu và tỳ khưu ni, (các người) còn lại là người chưa tu lên bậc trên.
[307] Pháp thượng nhân nghĩa là thiền, sự giải thoát, định, sự chứng đạt, trí tuệ và sự thấy biết, sự tu tập về Đạo, sự thực chứng về Quả, sự dứt bỏ phiền não, sự không còn bị che lấp của tâm, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng.
[308] Thiền: là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền.
Sự giải thoát: là vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát.[6]
Định: là vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định.
Sự chứng đạt: là sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện.
Trí tuệ: là tam Minh.
Sự tu tập về Đạo: là tứ Niệm Xứ, tứ Chánh Cần, tứ Như Ý Túc, ngũ Quyền, ngũ Lực, thất Giác Chi, bát Chánh Đạo.
Sự thực chứng về Quả: là sự thực chứng quả vị Nhập Lưu, sự thực chứng quả vị Nhất Lai, sự thực chứng quả vị Bất Lai, sự thực chứng quả vị A-la-hán.
Sự dứt bỏ phiền não: là sự dứt bỏ tham ái, sự dứt bỏ sân, sự dứt bỏ si.
Sự không còn bị che lấp của tâm: nghĩa là tâm không còn bị che lấp bởi tham ái, tâm không còn bị che lấp bởi sân, tâm không còn bị che lấp bởi si.
Sự thỏa thích ở nơi thanh vắng: là sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với sơ thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với nhị thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với tam thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với tứ thiền.
[309] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi chứng sơ thiền” thì phạm tội pācittiya. Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng được sơ thiền” thì phạm tội pācittiya. Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đạt sơ thiền” thì phạm tội pācittiya. Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi trú sơ thiền” thì phạm tội pācittiya. Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã thực chứng sơ thiền” thì phạm tội pācittiya.
[310] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được nhị thiền, ... tam thiền, ... tứ thiền, ... tôi đạt ... tôi trú tứ thiền, ... tôi đã thực chứng tứ thiền” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[311] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, ... tôi đạt ... tôi trú vô nguyện định, ... tôi đã thực chứng vô nguyện định” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[312] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, ... tôi đạt ... tôi trú sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, ... tôi đã thực chứng sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[313] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được tam Minh, ... tôi đạt ... tôi trú tam Minh, ... tôi đã thực chứng tam Minh” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[314] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được tứ Niệm Xứ, tứ Chánh Cần, tứ Như Ý Túc, ... tôi đạt ... tôi trú tứ Như Ý Túc, ... tôi đã thực chứng tứ Như Ý Túc” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[315] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được ngũ Quyền, ngũ Lực, ... tôi đạt ... tôi trú ngũ Lực, ... tôi đã thực chứng ngũ Lực” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[316] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được thất Giác Chi, ... tôi đạt ... tôi trú thất Giác Chi, ... tôi đã thực chứng thất Giác Chi” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[317] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được bát Chánh Đạo, ... tôi đạt ... tôi trú bát Chánh Đạo, ... tôi đã thực chứng bát Chánh Đạo” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[318] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được quả vị Nhập Lưu, quả vị Nhất Lai, quả vị Bất Lai, quả vị A-la-hán, ... tôi đạt ... tôi trú quả vị A-la-hán, ... tôi đã thực chứng quả vị A-la-hán” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[319] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã từ bỏ tham ái, tôi đã từ bỏ sân, tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). ,
[320] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, tâm của tôi không bị che lấp bởi si” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[321] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền ở nơi thanh vắng, tôi đạt ... tôi trú tứ thiền ở nơi thanh vắng, tôi đã thực chứng tứ thiền ở nơi thanh vắng” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[322] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và nhị thiền, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và nhị thiền, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và nhị thiền” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tam thiền, ...(như trên)... “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tứ thiền, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và tứ thiền, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và tứ thiền” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[323] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền, vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, và vô nguyện định, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và vô nguyện định, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và vô nguyện định” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[324] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, và sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, và sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[325] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tam Minh, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và tam Minh, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và tam Minh” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[326] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tứ Niệm Xứ, sơ thiền và tứ Chánh Cần, sơ thiền và tứ Như Ý Túc, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và tứ Như Ý Túc, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và tứ Như Ý Túc” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[327] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và ngũ Quyền, sơ thiền và ngũ Lực, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và ngũ Lực, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và ngũ Lực” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[328] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và thất Giác Chi, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và thất Giác Chi, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và thất Giác Chi” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[329] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và bát Chánh Đạo, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và bát Chánh Đạo, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và bát Chánh Đạo” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[330] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và quả vị Nhập Lưu, sơ thiền và quả vị Nhất Lai, sơ thiền và quả vị Bất Lai, sơ thiền và quả vị A-la-hán, ... tôi đạt ... tôi trú sơ thiền và quả vị A-la-hán, ... tôi đã thực chứng sơ thiền và quả vị A-la-hán” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[331] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tôi đã từ bỏ tham ái, và tôi đã từ bỏ sân, và tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[332] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[333] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được nhị thiền và tam thiền, nhị thiền và tứ thiền, ... tôi đạt ... tôi trú nhị thiền và tứ thiền, ... tôi đã thực chứng nhị thiền và tứ thiền” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền ...(như trên)... và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được nhị thiền và sơ thiền, ... tôi đạt ... tôi trú nhị thiền và sơ thiền, ... tôi đã thực chứng nhị thiền và sơ thiền” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). ...(như trên)...
Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền. ... tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đạt ... tôi trú sơ thiền, tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã thực chứng sơ thiền” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). ...(như trên)...
Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[334] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, tam Minh, tứ Niệm Xứ, tứ Chánh Cần, tứ Như Ý Túc, ngũ Quyền, ngũ Lực, thất Giác Chi, bát Chánh Đạo, quả vị Nhập Lưu, quả vị Nhất Lai, quả vị Bất Lai, quả vị A-la-hán, ...(như trên)... Tôi đã từ bỏ tham ái, ...(như trên)... Tôi đã từ bỏ sân ...(như trên)... Tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si ...(như trên)... Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[335] Tuyên bố: Vị có ý định nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” lại nói: “Tôi đã chứng nhị thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Tuyên bố: Vị có ý định nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” lại nói: “Tôi đã chứng tam thiền, tứ thiền, vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, tam Minh, tứ Niệm Xứ, tứ Chánh Cần, tứ Như Ý Túc, ngũ Quyền, ngũ Lực, thất Giác Chi, bát Chánh Đạo, quả vị Nhập Lưu, quả vị Nhất Lai, quả vị Bất Lai, quả vị A-la-hán, tôi đã từ bỏ tham ái, tôi đã từ bỏ sân, tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[336] Tuyên bố: Vị có ý định nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền” ...(như trên)... lại nói: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Tuyên bố: Vị có ý định nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền” lại nói: “Tôi đã chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)...
Tuyên bố: Vị có ý định nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại nói: “Tôi đã chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)...
Tuyên bố: Vị có ý định nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại nói: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Tuyên bố: Vị có ý định nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, và tứ thiền ” ...(như trên)... Vị có ý định nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân”lại nói: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[337] Tuyên bố: Vị có ý định nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền, tam thiền, và tứ thiền ” ...(như trên)... “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại nói: “Tôi đã chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[338] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đã cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được sơ thiền, vị tỳ khưu ấy có sự đạt được ... có sự an trú của sơ thiền, sơ thiền đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy”thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đã cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được nhị thiền, tam thiền, tứ thiền; vị tỳ khưu ấy có sự đạt được ... có sự an trú của tứ thiền; tứ thiền đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy”thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đã cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định; vị tỳ khưu ấy có sự đạt được ... có sự an trú của vô nguyện định; vô nguyện định đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy”thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đã cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng sự chứng đạt về trạng thái vô phiền não, sự chứng đạt về trạng thái vô tướng, sự chứng đạt về trạng thái vô nguyện, tam Minh, tứ Niệm Xứ, tứ Chánh Cần, tứ Như Ý Túc, ngũ Quyền, ngũ Lực, thất Giác Chi, bát Chánh Đạo, quả vị Nhập Lưu, quả vị Nhất Lai, quả vị Bất Lai và quả vị A-la-hán, ...(như trên)... vị tỳ khưu ấy đã từ bỏ tham ái, ...(như trên)... đã từ bỏ sân ...(như trên)... đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, vị tỳ khưu ấy có tâm không bị che lấp bởi tham ái, có tâm không bị che lấp bởi sân, và có tâm không bị che lấp bởi si” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đã cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng... đã chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền ở nơi thanh vắng; vị tỳ khưu ấy có sự đạt được ... có sự an trú của tứ thiền ở nơi thanh vắng, tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy ở nơi thanh vắng”thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đã thọ dụng trú xá của đạo hữu, vị (tỳ khưu) nào đã thọ dụng y của đạo hữu, vị (tỳ khưu) nào đã thọ dụng vật thực của đạo hữu, vị (tỳ khưu) nào đã thọ dụng chỗ trú ngụ của đạo hữu, vị (tỳ khưu) nào đã thọ dụng vật dụng là thuốc men trị bệnh của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng; vị tỳ khưu ấy có sự đạt được ... có sự an trú của tứ thiền ở nơi thanh vắng, tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy”thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[339] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Trú xá của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, y của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, vật thực của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, chỗ trú ngụ của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, vật dụng là thuốc men trị bệnh của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng; vị tỳ khưu ấy có sự đạt được ... có sự an trú của tứ thiền ở nơi thanh vắng, tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy”thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[340] Tuyên bố: Vị nói đến người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đạo hữu đã đi đến và đã dâng trú xá, và đã dâng vật dụng là y, vật thực, chỗ trú ngụ, dược phẩm trị bệnh, vị tỳ khưu ấy đã chứng tứ thiền ở nơi thanh vắng; ,,,(như trên)... tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy”thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[341] Vị tuyên bố sự thực chứng đến người đã tu lên bậc trên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tám.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[342] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya gây chuyện bất đồng với các tỳ khưu nhóm Lục Sư. Vị ấy sau khi phạm tội xuất ra tinh dịch có sự cố ý đã thỉnh cầu hội chúng hành phạt parivāsa về tội ấy. Hội chúng đã ban cho vị ấy hành phạt parivāsa về tội ấy. Vào lúc bấy giờ, tại thành Sāvatthi có buổi trai phạn của phường hội nọ. Vị ấy đang chịu hành phạt parivāsa nên đã ngồi chỗ ngồi cuối cùng trong nhà ăn. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nói với các cư sĩ ấy điều này:
- Này các đạo hữu, vị này là đại đức Upananda con trai dòng Sākya được quen thuộc với quý vị, là vị thường tới lui với các gia đình, là vị thọ dụng vật tín thí bằng chính bàn tay đã gắng sức làm xuất ra tinh dịch. Vị ấy sau khi phạm tội xuất ra tinh dịch có sự cố ý đã thỉnh cầu hội chúng hành phạt parivāsa về tội ấy. Hội chúng đã ban cho vị ấy hành phạt parivāsa về tội ấy. Vị ấy đang chịu hành phạt parivāsa nên đã ngồi chỗ ngồi cuối cùng trong nhà ăn.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại công bố tội xấu của vị tỳ khưu đến người chưa tu lên bậc trên?
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi công bố tội xấu của vị tỳ khưu đến người chưa tu lên bậc trên, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại công bố tội xấu của vị tỳ khưu đến người chưa tu lên bậc trên vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào công bố tội xấu của vị tỳ khưu đến người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.”
[343] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Của tỳ khưu: là của vị tỳ khưu khác.
Tội xấu nghĩa là bốn tội pārājika (bất cộng trụ) và mười ba tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Người chưa tu lên bậc trên nghĩa là trừ ra tỳ khưu và tỳ khưu ni, các người còn lại là người chưa tu lên bậc trên.
Công bố: Vị công bố đến người nữ, hoặc đến người nam, hoặc đến người tại gia, hoặc đến vị xuất gia.
Ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu: Trừ ra có sự đồng ý của các tỳ khưu.
[344] Có sự đồng ý của các tỳ khưu có sự giới hạn về tội không có sự giới hạn về gia đình. Có sự đồng ý của các tỳ khưu có sự giới hạn về gia đình không có sự giới hạn về tội. Có sự đồng ý của các tỳ khưu có sự giới hạn về tội và có sự giới hạn về gia đình. Có sự đồng ý của các tỳ khưu không có sự giới hạn về tội và không có sự giới hạn về gia đình.
Có sự giới hạn về tội nghĩa là các tội được xét đến: “Nên công bố với chừng ấy tội.” Có sự giới hạn về gia đình nghĩa là các gia đình được xét đến: “Nên công bố đến chừng ấy gia đình.” Có sự giới hạn về tội và có sự giới hạn về gia đình nghĩa là các tội được xét đến và các gia đình được xét đến: “Nên công bố với chừng ấy tội đến chừng ấy gia đình.” Không có sự giới hạn về tội và không có sự giới hạn về gia đình nghĩa là các tội không được xét đến và các gia đình không được xét đến: “Nên công bố với chừng ấy tội đến chừng ấy gia đình.”
[345] Khi có sự giới hạn về tội, trừ ra các tội được xét đến vị công bố các tội khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Khi có sự giới hạn về gia đình, trừ ra các gia đình được xét đến vị công bố đến các gia đình khác thì phạm tội pācittiya. Khi có sự giới hạn về tội và có sự giới hạn về gia đình, trừ ra các tội được xét đến và trừ ra các gia đình được xét đến, vị công bố các tội khác đến các gia đình khác thì phạm tội pācittiya. Khi không có sự giới hạn về tội và không có sự giới hạn về gia đình thì vô tội.
[346] Tội xấu, nhận biết là tội xấu, vị công bố đến người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Tội xấu, có sự hoài nghi, vị công bố đến người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
Tội xấu, (lầm) tưởng không phải là tội xấu, vị công bố đến người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.
[347] Vị công bố tội không phải là tội xấu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị công bố sự vi phạm tội xấu hoặc tội không xấu của người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là tội xấu, (lầm) tưởng là tội xấu, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là tội xấu, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là tội xấu, nhận biết không phải là tội xấu, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[348] Vị tuyên bố về sự việc không (tuyên bố) về tội, vị tuyên bố về tội không (tuyên bố) về sự việc, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ chín.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[349] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, trong khi thực hiện công trình mới các tỳ khưu ở thành Āḷavī tự đào và bảo đào đất. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại tự đào và bảo đào đất, các sa-môn Thích tử giết hại mạng sống chỉ có một giác quan?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ở thành Āḷavī lại tự đào và bảo đào đất?
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi tự đào và bảo đào đất, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại tự đào và bảo đào đất vậy? Này những kẻ rồ dại, bởi vì dân chúng nghĩ rằng có mạng sống ở trong đất. Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tự đào hoặc bảo đào đất thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[350] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Đất nghĩa là có hai loại đất: đất màu mỡ và đất không màu mỡ.
Đất màu mỡ (jātā paṭhavī) nghĩa là thuần đất, thuần sét, có ít đá, có ít sỏi, có ít mảnh sành, có ít sạn, có ít cát, phần lớn là đất, phần lớn là sét, đất chưa được đốt cháy là đất màu mỡ được nói đến. Đống đất hoặc đống sét được thấm nước mưa hơn bốn tháng, đây cũng được gọi là đất màu mỡ.
Đất không màu mỡ (ajātā paṭhavī) nghĩa là thuần đá, thuần sỏi, thuần mảnh sành, thuần sạn, thuần cát, có ít đất, có ít đất sét, phần lớn là đá, phần lớn là sỏi, phần lớn là mảnh sành, phần lớn là sạn, phần lớn là cát, đã được đốt cháy là đất không màu mỡ được đề cập đến. Đống đất hoặc đống sét được thấm nước mưa chưa tới bốn tháng, đây cũng được gọi là đất không màu mỡ.
[351] Đào: là tự mình đào thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Bảo đào: là bảo người khác đào thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) đào nhiều lần (vị ra lệnh chỉ) phạm (một) tội pācittiya (ưng đối trị).
[352] Đất, nhận biết là đất, vị tự đào, hoặc bảo đào, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc đốt cháy, hoặc bảo đốt cháy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Đất, có sự hoài nghi, vị tự đào, hoặc bảo đào, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc đốt cháy, hoặc bảo đốt cháy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Đất, (lầm) tưởng không phải là đất, vị tự đào, hoặc bảo đào, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc đốt cháy, hoặc bảo đốt cháy thì vô tội.
Không phải đất, (lầm) tưởng là đất, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là đất, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là đất, nhận biết không phải là đất thì vô tội.
[353] Vị nói rằng: “Hãy tìm vật này, hãy bố thí vật này, hãy mang lại vật này, có nhu cầu về vật này, hãy làm vật này thành được phép,” không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười.
Phần Nói Dối là phần thứ nhất.
*******
Tóm lược phần này:
Dối, mắng nhiếc, đâm thọc,
câu Pháp, nằm hai điều,
với người biết, thực chứng,
tội xấu, việc đào (đất).
*******
[1]Ngài Buddhaghosa nói rằng: “Nghe nói vào thời đức Phật có 80.000 người đàn ông đã từ dòng Sākya đi xuất gia, vị này là một vị trong số đó.”
[2]Đây là nghệ thuật chơi chữ: āpatti có hai nghĩa là “tội vi phạm” và “sự đạt đến.” Sotāpatti = Sota–āpatti: sự đạt được vào giòng chảy tức là quả vị Nhập Lưu. Tất cả các āpatti (tội vi phạm) là thấp kém. Tuy nhiên, sự đạt đến quả vị Nhập Lưu (Sota–āpatti) là cao quý.
[3]Ngài Buddhaghosa giải thích rằng người đàn bà ấy đã lập nên ngôi nhà trọ ấy để làm phước báu. Khi đi đến ngôi làng ấy, nhiều người biết tin nên đã tìm đến xin trú đêm.
[4]Ngài Buddhaghosa giải thích về chữ “câu” (vācā) là một câu của bài kệ (eko gāthāpādo). Và một câu của bài kệ thông thường có ít nhất là 8 âm.
[5]Sau khi thuyết đến người nữ này chưa đến năm sáu câu, vị ấy chuyển sang thuyết đến người nữ khác. Theo cách ấy, trong một tư thế ngồi vị ấy có thể thuyết đến 1000 người nữ (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[6]Vô phiền não giải thoát (suññato vimokkho) là nội tâm không còn tham sân si, vô tướng giải thoát (animitto vimokkho) là nội tâm không còn các biểu hiện của tham sân si, vô nguyện giải thoát (appaṇihito vimokkho) là không còn trạng thái mong mỏi về tham sân si (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[354] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, trong lúc thực hiện công trình mới, các tỳ khưu ở thành Āḷavī chặt cây và bảo người chặt. Có vị tỳ khưu nọ ở thành Āḷavī chặt cây. Vị thiên nhân ngụ ở trên cây ấy đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Thưa ngài, ngài có ý định làm chỗ ở cho mình thì xin ngài chớ phá hủy chỗ ở của chúng tôi.
Vị tỳ khưu ấy trong lúc không lưu tâm đã chặt đi và đã đánh trúng cánh tay đứa bé trai của vị thiên nhân ấy. Khi ấy, vị thiên nhân ấy đã khởi ý điều này: “Có lẽ ta nên đoạt mạng sống của vị tỳ khưu này ngay tại nơi đây?” Rồi vị thiên nhân ấy đã khởi ý điều này: “Việc ta đoạt mạng sống của vị tỳ khưu này ngay tại nơi đây là không đúng đắn, có lẽ ta nên trình sự việc này lên đức Thế Tôn?”
Sau đó, vị thiên nhân ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này thiên nhân, lành thay, lành thay! Này thiên nhân, lành thay ngươi đã không đoạt lấy mạng sống của vị tỳ khưu ấy. Này thiên nhân, nếu hôm nay ngươi đã đoạt lấy mạng sống của vị tỳ khưu ấy, này thiên nhân ngươi đã gây ra nhiều sự vô phước. Này thiên nhân, hãy đi, ở chỗ kia có thân cây mọc riêng biệt. Hãy đi đến nơi ấy.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại chặt cây và bảo người chặt? Các sa-môn Thích tử giết hại mạng sống chỉ có một giác quan.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ở thành Āḷavī lại chặt cây và bảo người chặt?
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi chặt cây và bảo người chặt, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại chặt cây và bảo người chặt vậy? Này những kẻ rồ dại, bởi vì dân chúng nghĩ rằng có mạng sống ở trong thân cây. Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi phá hoại sự sống của thảo mộc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[355] Thảo mộc nghĩa là có năm sự sanh ra bởi mầm giống: mầm giống từ rễ, mầm giống từ thân, mầm giống từ mắt chồi, mầm giống từ phần ngọn, mầm giống từ hạt là loại thứ năm.
Mầm giống từ rễ nghĩa là củ nghệ, củ gừng, cây vacā, cây vacattaṃ, cây ngải cứu, cây lê lư (trị bệnh điên?), cây usīraṃ, cỏ bhaddamuttakaṃ, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ rễ, được nảy mầm từ rễ, vật ấy được gọi là mầm giống từ rễ.
Mầm giống từ thân nghĩa là cây sung, cây đa, cây pilakkha, cây udumbara, cây tuyết tùng, cây kapiṭhana, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ thân, được nảy mầm từ thân, vật ấy được gọi là mầm giống từ thân.
Mầm giống từ mắt chồi nghĩa là cây mía, cây tre, cây sậy, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ đoạn nối, được nảy mầm từ đoạn nối, vật ấy được gọi là mầm giống từ mắt chồi.
Mầm giống từ phần ngọn nghĩa là cây húng quế, cỏ lạc đà (phaṇijjakaṃ), cỏ thơm hiriveraṃ, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ phần ngọn, được nảy mầm từ phần ngọn, điều ấy được gọi là mầm giống từ phần ngọn.
Mầm giống từ hạt nghĩa là hạt lúa bắp, hạt rau cải, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ hạt, được nảy mầm từ hạt, vật ấy được gọi là mầm giống từ hạt là loại thứ năm.
[356] Mầm giống, nhận biết là mầm giống, vị chặt, hoặc bảo chặt, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc nấu, hoặc bảo nấu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Mầm giống, có sự hoài nghi, vị chặt, hoặc bảo chặt, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc nấu, hoặc bảo nấu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Mầm giống, (lầm) tưởng không phải là mầm giống, vị chặt, hoặc bảo chặt, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc nấu, hoặc bảo nấu thì vô tội.
Không phải mầm giống, (lầm) tưởng là mầm giống, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là mầm giống, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là mầm giống, nhận biết không phải là mầm giống thì vô tội.
[357] Vị nói rằng: “Hãy tìm vật này, hãy bố thí vật này, hãy mang lại vật này, có nhu cầu về vật này, hãy làm vật này thành được phép,” không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[358] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, ở tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, đại đức Channa tự mình hành xử sai nguyên tắc và trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng):
- Ai đã vi phạm? Đã vi phạm điều gì? Đã vi phạm ở đâu? Đã vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều gì?
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Channa trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): “Ai đã vi phạm? Đã vi phạm điều gì? Đã vi phạm ở đâu? Đã vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều gì?”
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã hỏi đại đức Channa rằng:
- Này Channa, nghe nói ngươi trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): “Ai đã vi phạm? ...(như trên)... Ngươi nói điều gì?” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): “Ai đã vi phạm? ...(như trên)... Ngươi nói điều gì?” Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như thế thì hội chúng hãy phán quyết tội nói tránh né đến tỳ khưu Channa. Và này các tỳ khưu, nên phán quyết như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên phán quyết tội nói tránh né đến tỳ khưu Channa. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác. Hội chúng phán quyết tội nói tránh né đến tỳ khưu Channa. Đại đức nào đồng ý việc phán quyết tội nói tránh né đến tỳ khưu Channa xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tội nói tránh né đã được hội chúng phán quyết đến tỳ khưu Channa. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[359] Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách đại đức Channa bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi nói tránh né thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[360] Vào lúc bấy giờ, trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng, đại đức Channa (nghĩ rằng): “Trong khi phản kháng cách này hoặc cách khác, ta sẽ vi phạm tội” nên đã im lặng gây khó khăn cho hội chúng.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Channa trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại im lặng gây khó khăn cho hội chúng?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)… Khi ấy, đức Thế Tôn đã hỏi đại đức Channa rằng:
- Này Channa, nghe nói ngươi trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng đã im lặng gây khó khăn cho hội chúng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại im lặng gây khó khăn cho hội chúng vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như thế thì hội chúng hãy phán quyết tội gây khó khăn đến tỳ khưu Channa. Và này các tỳ khưu, nên phán quyết như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại im lặng gây khó khăn cho hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên phán quyết tội gây khó khăn đến tỳ khưu Channa. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại im lặng gây khó khăn cho hội chúng. Hội chúng phán quyết tội gây khó khăn đến tỳ khưu Channa. Đại đức nào đồng ý việc phán quyết tội gây khó khăn đến tỳ khưu Channa xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tội gây khó khăn đã được hội chúng phán quyết đến tỳ khưu Channa. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[361] Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách đại đức Channa bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi nói tránh né, gây khó khăn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[362] Nói tránh né nghĩa là trong lúc được xác định sự việc hoặc tội ở giữa hội chúng, vị không có ý định nói lên điều ấy, không có ý định khơi lại điều ấy, rồi phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): “Ai đã vi phạm? Đã vi phạm điều gì? Đã vi phạm ở đâu? Đã vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều gì?” việc này nghĩa là nói tránh né.
[363] Gây khó khănnghĩa là trong lúc được xác định sự việc hoặc tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ý định nói lên điều ấy, không có ý định khơi lại điều ấy, rồi giữ im lặng và gây khó khăn cho hội chúng; việc này nghĩa là gây khó khăn.
[364] Khi tội nói tránh né chưa được phán quyết, trong lúc được xác định sự việc hay tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ý định nói lên điều ấy, không có ý định khơi lại điều ấy, rồi phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): “Ai đã vi phạm? Đã vi phạm điều gì? Đã vi phạm ở đâu? Đã vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều gì?” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi tội gây khó khăn chưa được phán quyết, trong lúc được xác định sự việc hay tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ý định nói lên điều ấy, không có ý định khơi lại điều ấy, rồi giữ im lặng và gây khó khăn cho hội chúng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[365] Khi tội nói tránh né đã được phán quyết, trong lúc được xác định sự việc hay tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ý định nói lên điều ấy, không có ý định khơi lại điều ấy, rồi phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): “Ai đã vi phạm? ...(như trên)... Ngươi nói điều gì?” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi tội gây khó khăn đã được phán quyết, trong lúc được xác định sự việc hay tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ý định nói lên điều ấy, không có ý định khơi lại điều ấy, rồi giữ im lặng và gây khó khăn cho hội chúng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[366] Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, khi nói tránh né gây khó khăn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, khi nói tránh né gây khó khăn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, khi nói tránh né gây khó khăn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai pháp, (lầm tưởng) là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp thì vô tội.
[367] Vị không biết rồi hỏi, vị bị bệnh rồi không nói, (nghĩ rằng): “Hội chúng sẽ có xung đột, hoặc cãi cọ, hoặc tranh luận, hoặc tranh cãi” rồi không nói, (nghĩ rằng): “Sẽ có sự chia rẽ hội chúng hoặc là sự bất đồng hội chúng” rồi không nói, (nghĩ rằng): “Sẽ thực hiện hành sự hoặc là sai pháp, hoặc là theo phe nhóm, hoặc là đến vị không xứng đáng với hành sự” rồi không nói, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhì.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[368] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, đại đức Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ và sắp xếp các bữa ăn của hội chúng. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka chỉ là các vị mới tu có phước báu ít ỏi. Các vị ấy thường nhận được những chỗ trú ngụ kém thuộc về hội chúng và những bữa ăn tồi. Các vị ấy phàn nàn về đại đức Dabba Mallaputta với các tỳ khưu rằng:
- Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ theo sự ưa thích và sắp xếp các bữa ăn theo sự ưa thích.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka lại phàn nàn về đại đức Dabba Mallaputta với các tỳ khưu?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn …(như trên)… đã hỏi các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi phàn nàn về Dabba Mallaputta với các tỳ khưu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại phàn nàn về Dabba Mallaputta với các tỳ khưu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi phàn nàn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[369] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka (nghĩ rằng): “Việc phê phán đã bị đức Thế Tôn cấm đoán, đã thế thì các tỳ khưu chỉ sẽ được nghe thôi” rồi phê phán đại đức Dabba Mallaputta ở xung quanh các vị tỳ khưu rằng:
- Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ theo sự ưa thích và sắp xếp các bữa ăn theo sự ưa thích.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka lại phê phán đại đức Dabba Mallaputta?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn …(như trên)… đã hỏi các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi phê phán Dabba Mallaputta, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại phê phán Dabba Mallaputta vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi phàn nàn, phê phán thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[370] Phê phán nghĩa là vị có ý định làm mất thể diện, có ý định làm mất danh dự, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên được hội chúng chỉ định làm vị phân bố chỗ trú ngụ, hoặc là vị sắp xếp bữa ăn, hoặc là vị phân chia cháo, hoặc là vị phân chia trái cây, hoặc là vị phân chia thức ăn khô, hoặc là vị phân chia vật linh tinh rồi phàn nàn hoặc phê phán vị đã tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[371] Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, khi phàn nàn phê phán thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, khi phàn nàn phê phán thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, khi phàn nàn phê phán thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[372] Vị phàn nàn hoặc phê phán người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị có ý định làm mất thể diện, có ý định làm mất danh dự, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên không được hội chúng chỉ định làm vị phân bố chỗ trú ngụ hoặc là vị sắp xếp bữa ăn, hoặc là vị phân chia cháo, hoặc là vị phân chia trái cây, hoặc là vị phân chia thức ăn khô, hoặc là vị phân chia vật linh tinh rồi phàn nàn hoặc phê phán với vị đã tu lên bậc trên hoặc với người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị có ý định làm mất thể diện, có ý định làm mất danh dự, có ý định làm xấu hổ người chưa tu lên bậc trên được hội chúng chỉ định hoặc không được chỉ định làm vị phân bố chỗ trú ngụ, hoặc là vị sắp xếp bữa ăn, hoặc là vị phân chia cháo, hoặc là vị phân chia trái cây, hoặc là vị phân chia thức ăn khô, hoặc là vị phân chia vật linh tinh, rồi phê phán hoặc phàn nàn với vị đã tu lên bậc trên hoặc với người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, (lầm tưởng) là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[373] Vị phàn nàn hoặc phê phán vị (khác) đang hành động theo thói thường vì ưa thích, vì sân hận, vì si mê, vì sợ hãi; vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[374] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ nhằm lúc mùa lạnh, các tỳ khưu sắp đặt tọa cụ và ngọa cụ ở ngoài trời rồi sưởi ấm thân hình. Khi thời giờ được thông báo, các vị trong lúc rời đi đã không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi đã ra đi không thông báo. Tọa cụ và ngọa cụ trở nên ẩm ướt.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu sau khi sắp đặt tọa cụ và ngọa cụ ở ngoài trời, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi lại ra đi không thông báo khiến tọa cụ và ngọa cụ bị ẩm ướt?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu sau khi sắp đặt tọa cụ và ngọa cụ ở ngoài trời, trong lúc rời đi không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi ra đi không thông báo khiến tọa cụ và ngọa cụ bị ẩm ướt, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy sau khi sắp đặt tọa cụ và ngọa cụ ở ngoài trời, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi lại ra đi không thông báo khiến tọa cụ và ngọa cụ bị ẩm ướt vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi tự trải ra hoặc bảo trải ra giường, hoặc ghế, hoặc nệm, hoặc gối kê thuộc về hội chúng ở ngoài trời, trong lúc rời đi không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[375] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sau khi ngụ ở ngoài trời rồi mang cất tọa cụ và ngọa cụ lúc còn sớm. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy đang mang cất tọa cụ và ngọa cụ lúc còn sớm; sau khi nhìn thấy đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, trong tám tháng thông thường không có mưa ta cho phép cất giữ tọa cụ và ngọa cụ ở nơi mái che, hoặc ở gốc cây, hoặc ngay tại chỗ nào các con quạ hoặc chim kên kên không phóng uế.
[376] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Thuộc về hội chúng nghĩa là đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.
Giường nghĩa là có bốn loại giường: giường lắp ráp (masārako), giường xếp (bundikābaddho), giường chân cong (kulirapādako), giường có chân tháo rời được (āhaccapādako).
Ghế nghĩa là có bốn loại ghế: ghế lắp ráp, ghế xếp, ghế chân cong, ghế có chân tháo rời được.
Nệm nghĩa là có năm loại nệm: nệm len, nệm bông vải, nệm vỏ cây, nệm cỏ, nệm lá.
Vật kê nghĩa là làm bằng bông vải, hoặc làm bằng cây usīra, hoặc làm bằng cỏ muñja, hoặc làm bằng cỏ pabbaja sau khi đã độn vào bên trong thì được buộc lại.
Sau khi tự trải ra: sau khi tự mình trải ra.
Sau khi bảo trải ra: sau khi bảo người khác trải ra. Vị bảo người chưa tu lên bậc trên trải ra thì trách nhiệm thuộc về vị ấy. Vị bảo người đã tu lên bậc trên trải ra thì trách nhiệm thuộc về người trải ra.
Trong lúc rời đi không thu dọn vật ấy: không tự mình thu dọn.
Cũng không bảo thu dọn: không bảo người khác thu dọn.
Hoặc ra đi không thông báo: không thông báo vị tỳ khưu, hoặc vị sa di, hoặc người giúp việc tu viện. Vị vượt quá chỗ rơi của cục đất được ném đi bởi người nam (có sức mạnh) bậc trung [1]thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[377] Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, sau khi trải ra hoặc bảo trải ra ở ngoài trời, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, sau khi trải ra hoặc bảo trải ra ở ngoài trời, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, sau khi trải ra hoặc bảo trải ra ở ngoài trời, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Sau khi trải ra hoặc bảo trải ra ở ngoài trời tấm lót nền hoặc vải phủ giường ghế hoặc thảm trải nền hoặc thảm lót ngồi hoặc tấm da thú hoặc thảm chùi chân hoặc ghế kê chân, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong lúc lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân của mình thì vô tội.
[378] Sau khi thu dọn rồi đi, sau khi bảo thu dọn rồi đi, vị đi có thông báo, vị đi khi (các vật ấy) đang còn được phơi nắng,[2](vật) đã được bất cứ ai chiếm hữu, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tư.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[379] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư là bạn hữu. Các vị ấy trong khi sống thì sống chung, trong khi ra đi thì ra đi chung. Các vị ấy sau khi trải ra vật lót nằm ở trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi đã không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi đã ra đi không thông báo. Chỗ trú ngụ đã bị mối gặm nhấm.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư sau khi trải ra vật lót nằm ở trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi lại ra đi không thông báo khiến chỗ trú ngụ bị mối gặm nhấm?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư sau khi trải ra vật lót nằm ở trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi ra đi không thông báo khiến chỗ trú ngụ bị mối gặm nhấm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy sau khi trải ra vật lót nằm ở trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi lại ra đi không thông báo khiến chỗ trú ngụ bị mối gặm nhấm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi tự trải ra hoặc bảo trải ra vật lót nằm trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[380] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Trú xá thuộc về hội chúng nghĩa là đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.
Vật lót nằm nghĩa là nệm, tấm lót nền, vải phủ giường ghế, thảm trải nền, thảm lót ngồi, tấm da thú, tấm lót ngồi, tấm trải nằm, thảm cỏ, thảm lá.
Sau khi tự trải ra: sau khi tự mình trải ra.
Sau khi bảo trải ra: sau khi bảo người khác trải ra.
Trong lúc rời đi không thu dọn vật ấy: không tự mình thu dọn.
Cũng không bảo thu dọn: không bảo người khác thu dọn.
Hoặc ra đi không thông báo: không thông báo vị tỳ khưu, hoặc vị sa di, hoặc người giúp việc tu viện. Vị vượt quá hàng rào của tu viện được rào lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị vượt qua vùng phụ cận của tu viện không được rào lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[381] Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, vị sau khi trải ra hoặc bảo trải ra vật lót nằm, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, vị sau khi trải ra hoặc bảo trải ra vật lót nằm, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, vị sau khi trải ra hoặc bảo trải ra vật lót nằm, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Sau khi trải ra hoặc bảo trải ra vật lót nằm ở vùng phụ cận của trú xá hoặc trong phòng phục vụ hoặc ở mái che hoặc ở gốc cây, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau khi trải ra hoặc bảo trải ra giường hoặc ghế ở trong trú xá hoặc ở vùng phụ cận của trú xá hoặc trong phòng phục vụ hoặc ở mái che hoặc ở gốc cây, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong khi lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân của mình thì vô tội.
[382] Sau khi thu dọn rồi đi, sau khi bảo thu dọn rồi đi, vị đi có thông báo, (vật) đã được bất cứ ai chiếm hữu, vị có dự tính sau khi đi đến nơi ấy rồi (nhắn tin về) hỏi, vị bị cản trở bởi bất cứ điều gì, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ năm.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[383] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chiếm hữu các chỗ nằm tốt nhất; các tỳ khưu trưởng lão bảo các vị ấy đứng dậy. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã khởi ý điều này: “Bằng phương kế gì chúng ta có thể sống mùa (an cư) mưa ở chính nơi này?” Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi nằm xuống (nghĩ rằng): “Người nào bực bội thì sẽ ra đi.”
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi nằm xuống?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi nằm xuống, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồi dại ấy lại chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi nằm xuống vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào ở trong trú xá thuộc về hội chúng dầu biết vẫn chen vào (chỗ) của vị tỳ khưu đã đến trước rồi nằm xuống (nghĩ rằng): ‘Người nào bực bội thì sẽ ra đi.’ Sau khi thực hiện chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[384] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Trú xá thuộc về hội chúng nghĩa là đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.
Biết nghĩa là vị biết rằng: “Vị già cả;” vị biết rằng: “Vị bệnh;” vị biết rằng: “Đã được hội chúng giao cho.”
Chen vào: là sau khi lấn chiếm.
Nằm xuống: Sau khi trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm ở khu vực lân cận của giường hoặc của ghế hoặc của lối vào hoặc của lối ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị nằm xuống hoặc ngồi xuống (ở chỗ ấy) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Sau khi thực hiện chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác: không có bất cứ nguyên nhân nào khác khiến (vị ấy) chen vào rồi nằm xuống.
[385] Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, vị chen vào rồi nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, vị chen vào rồi nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, vị chen vào rồi nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm không thuộc khu vực lân cận của giường hoặc của ghế hoặc của lối vào hoặc của lối ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị nằm xuống hoặc ngồi xuống (chỗ ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị trải ra hoặc bảo trải ra vật lót nằm ở vùng phụ cận của trú xá hoặc trong phòng phục vụ hoặc ở mái che hoặc ở gốc cây hoặc ở ngoài trời thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị nằm xuống hoặc ngồi xuống (chỗ ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong khi lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân của mình thì vô tội.
[386] Vị đi vào khi bị bệnh, vị đi vào vì lạnh hoặc vì nóng hoặc bị áp bức, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ sáu.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[387] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đang sửa chữa ngôi trú xá lớn nọ ở vùng ven (nghĩ rằng): “Chúng ta sẽ sống mùa (an cư) mưa ở đây.” Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nhìn thấy các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đang sửa chữa ngôi trú xá, sau khi nhìn thấy đã nói như vầy:
- Này các đại đức, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư này đang sửa chữa ngôi trú xá. Giờ chúng ta sẽ bảo họ rút đi.
Một số vị đã nói như vầy:
- Này các đại đức, hãy chờ đợi trong lúc họ đang sửa chữa. Khi đã được sửa chữa xong thì chúng ta sẽ bảo họ rút đi.
Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nói với các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư điều này:
- Này các đại đức, hãy đi đi, trú xá được giao cho chúng tôi.
- Này các đại đức, sao lại không nói cho biết trước, chúng tôi đã có thể sửa chữa cái khác?
- Này các đại đức, không phải trú xá thuộc về hội chúng hay sao?
- Này các đại đức, đúng vậy, trú xá thuộc về hội chúng.
- Này các đại đức, hãy đi đi, trú xá được giao cho chúng tôi.
- Này các đại đức, trú xá thì lớn, các vị ở được, thì chúng tôi cũng sẽ ở được.
- Này các đại đức, hãy đi đi, trú xá được giao cho chúng tôi.
Rồi đã nổi giận, bất bình nắm (các vị ấy) ở cổ lôi kéo ra ngoài. Trong lúc bị lôi kéo ra ngoài, các vị ấy khóc lóc. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đại đức, vì sao các vị khóc lóc vậy?
- Thưa các đại đức, những tỳ khưu nhóm Lục Sư này nổi giận, bất bình rồi lôi kéo chúng tôi ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư này khi nổi giận, bất bình lại lôi kéo các tỳ khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng?
Sau đó, các tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi nổi giận, bất bình rồi lôi kéo các tỳ khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi khi nổi giận, bất bình lại lôi kéo các tỳ khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nổi giận, bất bình rồi lôi kéo hoặc bảo lôi kéo vị tỳ khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[388] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.
Nổi giận, bất bình:không được hài lòng, có tâm bực bội, sanh khởi lòng cay cú.
[389] Trú xá thuộc về hội chúng nghĩa là đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.
Lôi kéo ra: sau khi nắm lấy ở trong phòng rồi lôi kéo ra phía trước thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi nắm lấy ở phía trước rồi lôi kéo ra bên ngoài thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Với một lần ra sức, mặc dầu kéo đi qua nhiều cánh cửa phạm (chỉ một) tội pācittiya (ưng đối trị).
Bảo lôi kéo ra: vị ra lệnh người khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Được ra lệnh một lần, mặc dầu kéo đi qua nhiều cánh cửa (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya (ưng đối trị).
[390] Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, vị nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, vị nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, vị nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra khỏi vùng phụ cận của trú xá, hoặc ra khỏi phòng phục vụ, hoặc ra khỏi mái che, hoặc ra khỏi gốc cây, hoặc ra khỏi khuôn viên bên ngoài thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo người chưa tu lên bậc trên ra khỏi trú xá, hoặc ra khỏi vùng phụ cận của trú xá, hoặc ra khỏi phòng phục vụ, hoặc ra khỏi mái che, hoặc ra khỏi gốc cây, hoặc ra khỏi khuôn viên bên ngoài thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong khi lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân của mình thì vô tội.
[391] Vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vị không biết hổ thẹn, vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia; vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vị bị điên, vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia; vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vị thường gây nên các sự xung đột, hoặc vị thường gây nên các sự cãi cọ, hoặc vị thường gây nên các sự tranh luận, hoặc vị thường gây nên các sự nói chuyện nhảm nhí, hoặc vị thường gây nên các sự tranh tụng trong hội chúng, vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia; vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra người đệ tử hoặc người học trò không thực hành phận sự đúng đắn, vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia; vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ bảy.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[392] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu sống trong trú xá của hội chúng có căn gác lầu, một vị ở bên dưới, một vị ở phía trên. Vị tỳ khưu ở trên đã ngồi lên một cách vội vã trên chiếc giường loại có chân tháo rời được. Chân giường đã rơi xuống và chạm vào đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đã thét lên. Các tỳ khưu đã chạy lại và đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, vì sao đại đức đã thét lên?
Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu lại ngồi lên một cách vội vã trên chiếc giường loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu trong trú xá của hội chúng?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã hỏi vị tỳ khưu ấy rằng:
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi ngồi lên một cách vội vã trên chiếc giường loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu trong trú xá của hội chúng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại ngồi lên một cách vội vã trên chiếc giường loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu trong trú xá của hội chúng vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào ngồi lên hoặc nằm lên trên chiếc giường hoặc ghế loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu trong trú xá của hội chúng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[393] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.
Trú xá thuộc về hội chúng nghĩa là đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.
[394] Căn gác lầu nghĩa là không đụng vào đầu của người đàn ông (có chiều cao) bậc trung.
Giường loại có chân tháo rời được nghĩa là sau khi khoan lỗ rồi được gắn vào.
Ghế loại có chân tháo rời được nghĩa là sau khi khoan lỗ rồi được gắn vào.
Ngồi lên: vị ngồi lên trên chỗ ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Nằm lên: vị nằm lên trên chỗ ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[395] Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, vị ngồi lên hoặc nằm lên trên chiếc giường hoặc ghế loại có chân tháo rời được ở căn gác lầuthì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, vị ngồi lên hoặc nằm lên trên chiếc giường hoặc ghế loại có chân tháo rời được ở căn gác lầuthì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, vị ngồi lên hoặc nằm lên trên chiếc giường hoặc ghế loại có chân tháo rời được ở căn gác lầuthì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong khi lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thuộc về cá nhân của mình thì vô tội.
[396] Ở chỗ không phải là gác lầu, ở gác lầu (thấp) bị va chạm vào đầu, nhà dưới không được sử dụng, (gác lầu) đã được lót sàn, (giường ghế) đã được đóng đinh, vị đứng ở trên chỗ ấy lấy xuống hoặc treo lên, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tám.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[397] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, ở tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, vị quan đại thần người hộ độ cho đại đức Channa ra lệnh xây dựng trú xá cho đại đức Channa. Khi ấy, lúc trú xá đã được làm hoàn tất, đại đức Channa đã cho người lợp thêm ở mái nhiều lớp, tô trét thêm ở tường nhiều lớp, khiến trú xá trở nên quá nặng nề rồi sụp đổ xuống. Sau đó, đại đức Channa trong lúc gom góp cỏ và cây gỗ đã làm hư hỏng ruộng lúa mạch của người bà-la-môn nọ. Khi ấy, người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các ngài đại đức lại làm hư hỏng ruộng lúa mạch của chúng tôi?
Các tỳ khưu đã nghe được người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao lúc trú xá đã được làm hoàn tất, đại đức Channa lại cho người lợp thêm ở mái nhiều lớp, tô trét thêm ở tường nhiều lớp, khiến trú xá trở nên quá nặng nề rồi sụp đổ xuống?
Sau đó, các tỳ khưu ấy đã trình sự việc lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này Channa, nghe nói lúc trú xá đã được làm hoàn tất ngươi còn cho người lợp thêm ở mái nhiều lớp, tô trét thêm ở tường nhiều lớp, khiến trú xá trở nên quá nặng nề rồi sụp đổ xuống, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao lúc trú xá đã được làm hoàn tất, ngươi lại cho người lợp thêm ở mái nhiều lớp, tô trét thêm ở tường nhiều lớp, khiến trú xá trở nên quá nặng nề rồi sụp đổ xuống vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trong lúc cho xây dựng trú xá lớn, vị tỳ khưu nên đứng ở chỗ không trồng trọt mà quyết định phương thức của việc lợp mái hai ba lớp, của việc lắp đặt chốt cửa, của việc trang hoàng các lỗ thông hơi, cho đến khung cửa lớn. Nếu vượt quá phương thức ấy, cho dầu vị đứng ở chỗ không trồng trọt mà quyết định vẫn phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[398] Trú xá lớn: nghĩa là có thí chủ được đề cập đến.
Trú xá: nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài, hoặc được tô bên trong lẫn bên ngoài.
Trong lúc cho xây dựng: là (tự mình) đang làm hoặc đang bảo người làm.
Cho đến khung cửa lớn: là (khoảng rộng) một tầm tay (1,25 m) ở các khu vực xung quanh của đà ngang và trụ cửa.
Của việc lắp đặt chốt cửa: của việc lắp đặt cánh cửa lớn.
Của việc trang hoàng các lỗ thông hơi: là của việc trang hoàng các cửa sổ (gồm có các việc): sơn màu trắng, sơn màu đen, sơn màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại.
Nên đứng ở chỗ không trồng trọt mà quyết định phương thức của việc lợp mái hai ba lớp: Được trồng trọt nghĩa là các loại lúa bắp và rau cải. Nếu đứng ở chỗ được trồng trọt mà xác định thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi đang lợp lượt thứ nhất, vị quyết định hai lượt, sau khi chỉ thị lượt thứ ba thì nên rời đi. Khi đang lợp theo phương thức thứ nhất, vị quyết định hai phương thức, sau khi chỉ thị phương thức thứ ba thì nên rời đi.
[399] Nếu vượt quá phương thức ấy, cho dầu vị đứng ở chỗ không trồng trọt mà quyết định: Vị đang lợp bằng ngói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng viên ngói.
Vị đang lợp bằng đá phiến thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng viên đá phiến.
Vị đang lợp bằng vữa hồ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng cục vữa hồ.
Vị đang lợp bằng cỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng nắm cỏ.
Vị đang lợp bằng lá thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng tấm lá.
[400] Vượt quá hai hay ba phương thức, nhận biết là vượt quá, vị quyết định thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vượt quá hai hay ba phương thức, có sự hoài nghi, vị quyết định thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vượt quá hai hay ba phương thức, (lầm) tưởng là chưa quá, vị quyết định thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chưa vượt quá hai hay ba phương thức, (lầm tưởng) là đã vượt quá, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Chưa vượt quá hai hay ba phương thức, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Chưa vượt quá hai hay ba phương thức, nhận biết là chưa quá thì vô tội.
[401] Trong hai hay ba phương thức, khi chưa đủ hai hay ba phương thức, trong hang đá, trong hang động, trong cốc liêu bằng cỏ, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, trừ ra nhà ở còn tất cả các nơi thì không phạm tội, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ chín.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[402] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, trong lúc thực hiện công trình mới các tỳ khưu ở thành Āḷavī dầu biết nước có sinh vật vẫn tưới và bảo tưới lên cỏ và đất sét. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ở thành Āḷavī dầu biết nước có sinh vật vẫn tưới và bảo tưới lên cỏ và đất sét?
Sau đó, các tỳ khưu ấy đã trình sự việc lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi dầu biết nước có sinh vật vẫn tưới và bảo tưới lên cỏ và đất sét, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi dầu biết nước có sinh vật vẫn tưới và bảo tưới lên cỏ và đất sét vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào biết nước có sinh vật vẫn tưới hoặc bảo tưới lên cỏ hay đất sét thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[403] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết hoặc các người khác thông báo cho vị ấy.
[404] Tưới: vị tự mình tưới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Bảo tưới: Vị ra lệnh cho người khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) tưới nhiều lần, (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi có sinh vật, nhận biết là có sinh vật, vị tưới hoặc bảo tưới lên cỏ hay đất sétthì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi có sinh vật, có sự hoài nghi, vị tưới hoặc bảo tưới lên cỏ hay đất sétthì phạm tội tội dukkaṭa (tác ác).
Khi có sinh vật, (lầm) tưởng là không có sinh vật, vị tưới hoặc bảo tưới lên cỏ hay đất sét thì vô tội.
Khi không có sinh vật, (lầm tưởng) là có sinh vật, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không có sinh vật, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không có sinh vật, nhận biết là không có sinh vật thì vô tội.
[405] Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười.
Phần Thảo Mộc là phần thứ nhì.
*******
Tóm lược phần này:
Thảo mộc, nói tráo trở,
việc phê phán (phàn nàn),
hai điều khi bỏ đi,
vị đến trước, lôi ra,
(giường ghế) chân tháo rời,
cửa lớn, có sinh vật.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[406] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trưởng lão trong khi giáo giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc thuộc về các vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã bàn bạc điều này:
- Này các đại đức, hiện nay các tỳ khưu trưởng lão trong khi giáo giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc thuộc về các vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Này các đại đức, vậy chúng ta cũng giáo giới các tỳ khưu ni.
Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã đi đến gặp các tỳ khưu ni và đã nói điều này:
- Này các sư tỷ, hãy đi đến gặp chúng tôi. Chúng tôi cũng sẽ giáo giới.
Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu nhóm Lục Sư, sau khi đến đã đảnh lễ các tỳ khưu nhóm Lục Sư rồi ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã thuyết Pháp thoại đến các tỳ khưu ni chỉ chút ít sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi đã giải tán (nói rằng):
- Này các sư tỷ, hãy đi đi.
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu ni ấy đang đứng một bên điều này:
- Này các tỳ khưu ni, chắc hẳn việc giáo giới đã có hiệu quả?
- Bạch ngài, làm sao sự giáo giới sẽ có hiệu quả khi các ngài đại đức nhóm Lục Sư thuyết Pháp thoại chỉ chút ít sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải tán?
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các tỳ khưu ni ấy bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, các tỳ khưu ni ấy đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi thuyết Pháp thoại cho các tỳ khưu ni chỉ chút ít sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải tán, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại thuyết Pháp thoại cho các tỳ khưu ni chỉ chút ít sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải tán vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị giáo giới tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị giáo giới tỳ khưu ni. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị giáo giới tỳ khưu ni. Đại đức nào đồng ý với việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị giáo giới tỳ khưu ni xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị giáo giới tỳ khưu ni. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị giáo giới tỳ khưu ni xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị giáo giới tỳ khưu ni. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu nhóm Lục Sư bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào chưa được chỉ định mà giáo giới tỳ khưu ni thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[407] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trưởng lão đã được chỉ định trong khi giáo giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc y như thế thuộc về các vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã bàn bạc điều này:
- Này các đại đức, hiện nay các tỳ khưu trưởng lão đã được chỉ định trong khi giáo giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc y như thế thuộc về các vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy đi ra khỏi ranh giới, sau khi chỉ định là vị giáo giới tỳ khưu ni cho lẫn nhau, chúng ta hãy giáo giới các tỳ khưu ni.
Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã đi ra khỏi ranh giới và đã chỉ định là vị giáo giới tỳ khưu ni cho lẫn nhau, sau đó đã đi đến gặp các tỳ khưu ni và đã nói điều này:
- Này các sư tỷ, chúng tôi cũng đã được chỉ định. Hãy đi đến gặp chúng tôi. Chúng tôi cũng sẽ giáo giới.
Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu nhóm Lục Sư, sau khi đến đã đảnh lễ các tỳ khưu nhóm Lục Sư rồi ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã thuyết Pháp thoại đến các tỳ khưu ni chỉ chút ít sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi đã giải tán (nói rằng):
- Này các sư tỷ, hãy đi đi.
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu ni ấy đang đứng một bên điều này:
- Này các tỳ khưu ni, chắc hẳn việc giáo giới đã có hiệu quả?
- Bạch ngài, làm sao sự giáo giới sẽ có hiệu quả khi các ngài đại đức nhóm Lục Sư thuyết Pháp thoại chỉ chút ít sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải tán?
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các tỳ khưu ni ấy bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, các tỳ khưu ni ấy đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi thuyết Pháp thoại cho các tỳ khưu ni chỉ chút ít sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải tán, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại thuyết Pháp thoại cho các tỳ khưu ni chỉ chút ít sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải tán vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị giáo giới tỳ khưu ni là vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: 1/ Là vị có giới, sống thu thúc trong sự thu thúc của giới bổn Pātimokkha, là vị đã được thành tựu về hành xứ, [1]thấy được sự sợ hãi trong những tội nhỏ nhặt, là vị thọ trì và thực hành trong các điều học; 2/ là vị nghe nhiều, ghi nhớ điều đã nghe, tích lũy điều đã nghe, các Pháp nào là toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ, các Pháp có hình thức như thế được nghe nhiều, được thuộc nằm lòng, được ôn tập bằng khẩu, được suy xét bằng tâm, được khéo phân tích bằng kiến thức; 3/ cả hai giới bổn Pātimokkha được khéo truyền thừa một cách chi tiết, khéo được chia chẽ, khéo được thực hành, khéo được xác định theo từng điều học theo từng từ ngữ; 4/ là vị có giọng nói rõ ràng, có cách nói lôi cuốn; 5/ được nhiều tỳ khưu ni quý mến và ưa thích; 6/ có năng lực giáo giới các tỳ khưu ni; 7/ trước đây không có vi phạm tội nghiêm trọng đối với người nữ đã xuất gia mặc y ca-sa theo đức Thế Tôn ấy;[2]8/ là vị được hai mươi năm hoặc hơn hai mươi năm (thâm niên). Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này làm vị giáo giới tỳ khưu ni.
[408] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chưa được chỉ định nghĩa là chưa được chỉ định bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
[409] Giáo giới: vị giáo giới với tám Trọng Pháp thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị giáo giới với pháp khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị giáo giới cô ni tu lên bậc trên từ một hội chúng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[410] Vị tỳ khưu được chỉ định ấy nên quét dọn chỗ ngụ, chuẩn bị nước uống nước rửa, sắp đặt chỗ ngồi, sau khi giữ lại vị thứ nhì[3]rồi nên ngồi xuống. Các tỳ khưu ni đi đến nơi ấy nên đảnh lễ vị tỳ khưu ấy rồi nên ngồi xuống ở một bên. Vị tỳ khưu được chỉ định ấy nên hỏi rằng: “Này các sư tỷ, các cô đã đến đầy đủ chưa?”[4]Nếu (các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, chúng tôi đã đến đầy đủ,” (nên hỏi rằng): “Này các sư tỷ, tám Trọng Pháp có được thực hành không?” Nếu (các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, có được thực hành,” (nên nói rằng): “Này các sư tỷ, đây là lời giáo giới” rồi nên ban lời giáo giới. Nếu (các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, không được thực hành,” (các tỳ khưu ni) nên được nhắc lại rằng:
“Tỳ khưu ni đã tu lên bậc trên được một trăm năm nên thực hành sự đảnh lễ, đứng dậy chào, chắp tay, phận sự thích hợp đến vị tỳ khưu vừa tu lên bậc trên vào ngày hôm ấy. Đây là Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng, cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời.
Tỳ khưu ni không nên an cư mùa mưa ở trú xứ không có tỳ khưu. Đây cũng là Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng, cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời.
Tỳ khưu ni vào mỗi nửa tháng nên mong mỏi hai việc từ hội chúng tỳ khưu: việc hỏi ngày Uposatha và việc đi đến (để nghe) giáo giới. Đây cũng là Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng, cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời.
Tỳ khưu ni sau khi mãn mùa (an cư) mưa nên hành lễ Pavāraṇā ở cả hai hội chúng dựa trên ba yếu tố: hoặc do thấy, hoặc do nghe, hoặc vì nghi ngờ. Đây cũng là Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng, cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời.
Tỳ khưu ni vi phạm giới nghiêm trọng nên thực hành hành phạt mānatta nửa tháng ở cả hai hội chúng. Đây cũng là Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng, cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời.
Cô ni tu tập sự (sikkhamānā) đã thực hành điều học về sáu pháp trong hai năm nên tầm cầu sự tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng. Đây cũng là Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng, cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời.
Tỳ khưu ni không vì bất cứ nguyên do gì được phép mắng chửi hoặc gièm pha tỳ khưu. Đây cũng là Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng, cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời.
Kể từ hôm nay, việc khuyên bảo của các tỳ khưu ni đến các tỳ khưu bị ngăn cấm, việc khuyên bảo của các tỳ khưu đến các tỳ khưu ni không bị ngăn cấm. Đây cũng là Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng, cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời.”
Nếu (các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, chúng tôi đã đến đầy đủ,” vị nói về pháp khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Nếu (các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, chúng tôi chưa đầy đủ,”[5]vị nói về tám Trọng Pháp thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau khi không ban lời giáo giới, vị nói về pháp khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[411] Hành sự sai Pháp–nhận biết là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp–nhận biết là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–có sự hoài nghi, vị giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp–nhận biết là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–(lầm tưởng) là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[412] Hành sự sai Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)... có sự hoài nghi, vị giáo giới ...(như trên)... (lầm tưởng) là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[413] Hành sự sai Pháp–(lầm tưởng) là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)... có sự hoài nghi, vị giáo giới ...(như trên)... (lầm tưởng) là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[414] Hành sự sai Pháp–nhận biết là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)... có sự hoài nghi, vị giáo giới ...(như trên)... nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[415] Hành sự sai Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)... có sự hoài nghi, vị giáo giới ...(như trên)... nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[416] Hành sự sai Pháp–(lầm tưởng) là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)... có sự hoài nghi, vị giáo giới ...(như trên)... nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[417] Hành sự đúng Pháp–(lầm tưởng) là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự đúng Pháp–(lầm tưởng) là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–có sự hoài nghi, vị giáo giới thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự đúng Pháp–(lầm tưởng) là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–(lầm tưởng) là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[418] Hành sự đúng Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)... có sự hoài nghi, vị giáo giới ...(như trên)... nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[419] Hành sự đúng Pháp–nhận biết là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)... có sự hoài nghi, vị giáo giới ...(như trên)... (lầm tưởng) là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[420] Hành sự đúng Pháp–(lầm tưởng) là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)... có sự hoài nghi, vị giáo giới ...(như trên)... nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[421] Hành sự đúng Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)... có sự hoài nghi, vị giáo giới ...(như trên)... nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[422] Hành sự đúng Pháp–nhận biết là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự đúng Pháp–nhận biết là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–có sự hoài nghi, vị giáo giới thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự đúng Pháp–nhận biết là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới thì vô tội.
[423] Vị đang ban cho phần đọc tụng,[6]vị đang ban cho phần giải thích,[7]vị nhắc lại khi được nói rằng: “Thưa ngài, xin hãy nhắc lại,” vị hỏi câu hỏi, vị giảng giải khi được hỏi câu hỏi, các tỳ khưu ni lắng nghe vị đang nói vì lợi ích của người khác, vị (giáo giới) cho cô ni tu tập sự, (vị giáo giới) cho sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[424] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trưởng lão giáo giới các tỳ khưu ni theo phiên. Vào lúc bấy giờ là phiên của đại đức Cūḷapanthaka giáo giới các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:
- Bây giờ ngày hôm nay, sự giáo giới sẽ là không có hiệu quả. Bây giờ ngài đại đức Cūḷapanthaka sẽ nói đi nói lại chính lời cảm hứng ấy.
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp đại đức Cūḷapanthaka, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Cūḷapanthaka rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Cūḷapanthaka đã nói với các tỳ khưu ni ấy đang ngồi một bên điều này:
- Này các sư tỷ, các cô đã đến đầy đủ chưa?
- Thưa ngài, chúng tôi đã đến đầy đủ.
- Này các sư tỷ, tám Trọng Pháp có được thực hành không?
- Thưa ngài, có được thực hành.
- Này các sư tỷ, đây là lời giáo giới.
Sau khi ban lời trên, vị ấy đã đọc đi đọc lại bài cảm hứng này:
Tâm hướng thượng, chẳng lười,
hiền triết tu trí đạo,
vị ấy không ưu sầu,
an tịnh, luôn chánh niệm.
[425] Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:
- Không phải chúng ta đã nói rằng: “Bây giờ ngày hôm nay, sự giáo giới sẽ là không có hiệu quả. Bây giờ ngài đại đức Cūḷapanthaka sẽ nói đi nói lại chính lời cảm hứng ấy” hay sao?
Đại đức Cūḷapanthaka đã nghe được lời nói trao đổi này của các tỳ khưu ni ấy. Khi ấy, đại đức Cūḷapanthaka đã bay lên không trung rồi đi kinh hành trong không trung trên bầu trời, rồi đứng lại, rồi ngồi xuống, rồi nằm xuống, rồi biến thành khói, rồi cháy rực lên, rồi biến mất. Vị ấy nói lên chính bài cảm hứng ấy và nhiều Phật ngôn khác. Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:
- Thưa ngài, thật là kỳ diệu! Thưa ngài, thật là phi thường! Quả thật từ trước đến nay, sự giáo giới cho chúng tôi trước đây không được hiệu quả như vầy, như là (sự giáo giới) của ngài đại đức Cūḷapanthaka!
Sau đó, đại đức Cūḷapanthaka đã giáo giới các tỳ khưu ni ấy cho đến khi trời tối hẳn mới giải tán (nói rằng):
- Này các sư tỷ, hãy đi đi.
Khi ấy, cửa thành đã đóng nên các tỳ khưu ni ấy đã trú lại bên ngoài thành đến sáng sớm mới đi vào thành phố. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các tỳ khưu ni này không còn Phạm hạnh; họ đã ở lại với các tỳ khưu trong tu viện bây giờ mới đi vào thành phố.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Cūḷapanthaka lại giáo giới các tỳ khưu ni khi mặt trời đã lặn?
…(như trên)…
- Này Cūḷapanthaka, nghe nói ngươi giáo giới các tỳ khưu ni khi mặt trời đã lặn, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này Cūḷapanthaka, vì sao ngươi lại giáo giới các tỳ khưu ni khi mặt trời đã lặn vậy? Này Cūḷapanthaka, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Dầu đã được chỉ định, nếu vị tỳ khưu giáo giới tỳ khưu ni khi mặt trời đã lặn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[426] Đã được chỉ định nghĩa là đã được chỉ định bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư.
Khi mặt trời đã lặn: khi mặt trời đã đi xuống ở bên dưới.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Giáo giới: vị giáo giới với tám Trọng Pháp hoặc với pháp khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[427] Khi (mặt trời) đã lặn, nhận biết là đã lặn, vị giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi (mặt trời) đã lặn, có sự hoài nghi, vị giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi (mặt trời) đã lặn, (lầm tưởng) là chưa lặn, vị giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị giáo giới cô ni tu lên bậc trên từ một hội chúng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi (mặt trời) chưa lặn, (lầm tưởng) là đã lặn, phạm tội dukkaṭa.
Khi (mặt trời) chưa lặn, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi (mặt trời) chưa lặn, nhận biết là chưa lặn thì vô tội.
[428] Vị đang ban cho phần đọc tụng, vị đang ban cho phần giải thích,vị nhắc lại khi được nói rằng: “Thưa ngài, xin hãy nhắc lại,” vị hỏi câu hỏi, vị giảng giải khi được hỏi câu hỏi, các tỳ khưu ni lắng nghe vị đang nói vì lợi ích của người khác, vị (giáo giới) cho cô ni tu tập sự, (vị giáo giới) cho sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhì.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[429] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến ni viện rồi giáo giới cho các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư. Các tỳ khưu ni đã nói với các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư điều này:
- Này các ni sư, hãy đi. Chúng ta sẽ đi nghe giáo giới.
- Này các ni sư, chúng tôi cũng nên đi vì lý do giáo giới, tuy nhiên các ngài đại đức nhóm Lục Sư đi đến ngay tại đây và giáo giới cho chúng tôi.
Các tỳ khưu ni phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến ni viện lại giáo giới cho các tỳ khưu ni?
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến ni viện lại giáo giới cho các tỳ khưu ni?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sau khi đi đến ni viện rồi giáo giới cho các tỳ khưu ni, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi sau khi đi đến ni viện lại giáo giới cho các tỳ khưu ni vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi đi đến ni viện rồi giáo giới cho các tỳ khưu ni thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[430] Vào lúc bấy giờ, bà Mahāpajāpati Gotamī bị bệnh. Các tỳ khưu trưởng lão đã đi đến thăm bà Mahāpajāpati Gotamī, sau khi đến đã nói với bà Mahāpajāpati Gotamī điều này:
- Này Gotamī, sức khoẻ bà có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?
- Thưa các ngài, sức khoẻ tôi không khá. Mọi việc không được thuận tiện. Thưa các ngài, xin hãy giảng Pháp.
- Này sư tỷ, sau khi đi đến ni viện không được phép giảng Pháp cho các tỳ khưu ni. Rồi trong lúc ngần ngại đã không thuyết giảng.
Sau đó, vào buổi sáng đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, đi đến thăm bà Mahāpajāpati Gotamī, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã nói với bà Mahāpajāpati Gotamī điều này:
- Này Gotamī, sức khoẻ bà có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?
- Bạch ngài, trước đây các tỳ khưu trưởng lão đi đến gặp con thường giảng Pháp cho con, vì thế con được an lạc. Giờ đây, các vị (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã ngăn cấm,” trong lúc ngần ngại không thuyết giảng, vì thế con không được an lạc.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà Mahāpajāpati Gotamī bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép sau khi đi đến ni viện được giáo giới tỳ khưu ni bị bệnh. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi đi đến ni viện rồi giáo giới cho các tỳ khưu ni thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là vị tỳ khưu ni bị bệnh. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”
[431] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Ni viện nghĩa là nơi nào các tỳ khưu ni cư ngụ dầu chỉ một đêm.
Sau khi đi đến: sau khi đi lại nơi ấy.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Giáo giới: vị giáo giới với tám Trọng Pháp hoặc với pháp khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.
Vị tỳ khưu ni bị bệnh nghĩa là không thể đi vì việc giáo giới hoặc vì việc cộng trú.
[432] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị sau khi đi đến ni viện rồi giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị sau khi đi đến ni viện rồi giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm tưởng) là chưa tu lên bậc trên, vị sau khi đi đến ni viện rồi giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Vị giáo giới bằng pháp khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị giáo giới cô ni tu lên bậc trên từ một hội chúng thì phạm tội dukkaṭa.
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm tưởng) là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên thì vô tội.
[433] Khi có duyên cớ, vị đang ban cho phần đọc tụng, vị đang ban cho phần giải thích, vị nhắc lại khi được nói rằng: “Thưa ngài, xin hãy nhắc lại,” vị hỏi câu hỏi, vị giảng giải khi được hỏi câu hỏi, các tỳ khưu ni lắng nghe vị đang nói vì lợi ích của người khác, vị (giáo giới) cho cô ni tu tập sự, (vị giáo giới) cho sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[434] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trưởng lão trong khi giáo giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc thuộc về các vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư nói như vầy:
- Các tỳ khưu trưởng lão không vì tôn kính Pháp mà giáo giới các tỳ khưu ni; các tỳ khưu trưởng lão giáo giới các tỳ khưu ni vì nguyên nhân lợi lộc.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại phát ngôn như vầy: “Các tỳ khưu trưởng lão không vì tôn kính Pháp mà giáo giới các tỳ khưu ni; các tỳ khưu trưởng lão giáo giới các tỳ khưu ni vì nguyên nhân lợi lộc”?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi phát ngôn như vầy: “Các tỳ khưu trưởng lão không vì tôn kính Pháp mà giáo giới các tỳ khưu ni; các tỳ khưu trưởng lão giáo giới các tỳ khưu ni vì nguyên nhân lợi lộc,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại phát ngôn như vầy: “Các tỳ khưu trưởng lão không vì tôn kính Pháp mà giáo giới các tỳ khưu ni; các tỳ khưu trưởng lão giáo giới các tỳ khưu ni vì nguyên nhân lợi lộc”? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nói như vầy: ‘Các tỳ khưu giáo giới cho các tỳ khưu ni vì nguyên nhân lợi lộc’ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[435] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vì nguyên nhân lợi lộc: vì nguyên nhân y phục, vì nguyên nhân vật thực, vì nguyên nhân chỗ trú ngụ, vì nguyên nhân vật dụng là dược phẩm trị bệnh, vì nguyên nhân tôn vinh, vì nguyên nhân cung kỉnh, vì nguyên nhân kính trọng, vì nguyên nhân đảnh lễ, vì nguyên nhân cúng dường.
[436] Nói như vầy: Vị có ý định làm mất thể diện, có ý định làm mất danh dự, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên được hội chúng chỉ định làm vị giáo giới tỳ khưu ni rồi nói như vầy: “Vị giáo giới vì nguyên nhân y phục, vì nguyên nhân vật thực, vì nguyên nhân chỗ trú ngụ, vì nguyên nhân vật dụng là dược phẩm trị bệnh, vì nguyên nhân tôn vinh, vì nguyên nhân cung kỉnh, vì nguyên nhân kính trọng, vì nguyên nhân đảnh lễ, vì nguyên nhân cúng dường;” vị nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[437] Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, vị nói như thế thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, vị nói như thế thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, (lầm tưởng) là hành sự đúng Pháp, vị nói như thế thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[438] Vị có ý định làm mất thể diện, có ý định làm mất danh dự, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên không được hội chúng chỉ định làm vị giáo giới tỳ khưu ni rồi nói như vầy: “Vị giáo giới vì nguyên nhân y phục, vì nguyên nhân vật thực, vì nguyên nhân chỗ trú ngụ, vì nguyên nhân vật dụng là dược phẩm trị bệnh, vì nguyên nhân tôn vinh, vì nguyên nhân cung kỉnh, vì nguyên nhân kính trọng, vì nguyên nhân đảnh lễ, vì nguyên nhân cúng dường;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[439] Vị có ý định làm mất thể diện, có ý định làm mất danh dự, có ý định làm xấu hổ vị chưa tu lên bậc trên được hội chúng chỉ định hoặc không được chỉ định làm vị giáo giới tỳ khưu ni rồi nói như vầy: “Vị giáo giới vì nguyên nhân y phục, vì nguyên nhân vật thực, vì nguyên nhân chỗ trú ngụ, vì nguyên nhân vật dụng là dược phẩm trị bệnh, vì nguyên nhân tôn vinh, vì nguyên nhân cung kỉnh, vì nguyên nhân kính trọng, vì nguyên nhân đảnh lễ, vì nguyên nhân cúng dường;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[440] Hành sự sai pháp, (lầm tưởng) là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[441] Vị nói về vị đang giáo giới theo thói thường vì nguyên nhân y phục, vì nguyên nhân vật thực, vì nguyên nhân chỗ trú ngụ, vì nguyên nhân vật dụng là dược phẩm trị bệnh, vì nguyên nhân tôn vinh, vì nguyên nhân cung kỉnh, vì nguyên nhân kính trọng, vì nguyên nhân đảnh lễ, vì nguyên nhân cúng dường; vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tư.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[442] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi khất thực ở con đường nọ trong thành Sāvatthi. Có vị tỳ khưu ni nọ cũng đi khất thực ở con đường ấy. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này sư tỷ, hãy đi. Vật thực được bố thí ở chỗ kia.
Vị ni ấy cũng đã nói như vầy:
- Thưa ngài, hãy đi. Vật thực được bố thí ở chỗ kia.
Do sự gặp gỡ thường xuyên, họ đã trở nên thân thiết.
Vào lúc bấy giờ, y của hội chúng được chia ra. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy sau khi đi nghe giáo giới đã đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã đảnh lễ vị tỳ khưu ấy rồi đứng ở một bên. Vị tỳ khưu ấy đã nói với vị tỳ khưu ni ấy đang đứng một bên điều này:
- Này sư tỷ, đây là phần chia y của tôi; cô nên nhận lấy.
- Thưa ngài, xin vâng. Y của tôi đã tàn tệ.
Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã cho y đến vị tỳ khưu ni ấy. Ngay cả y của vị tỳ khưu ấy cũng đã tàn tệ. Các tỳ khưu đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, bây giờ hãy làm y của đại đức đi.
Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu lại cho y đến tỳ khưu ni?
…(như trên)…
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi cho y đến tỳ khưu ni, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
- Này tỳ khưu, là nữ thân quyến của ngươi hay không phải là nữ thân quyến?
- Bạch Thế Tôn, không phải là nữ thân quyến.
- Này kẻ rồ dại, người nam không phải là thân quyến không biết điều gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì làm hài lòng hay không làm hài lòng người nữ không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại cho y đến tỳ khưu ni không phải là thân quyến vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào cho y đến tỳ khưu ni không phải là thân quyến thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[443] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không đưa y ra trao đổi với các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các ngài đại đức lại không đưa y ra trao đổi với chúng tôi?
Các tỳ khưu đã nghe được các tỳ khưu ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đưa ra trao đổi với năm hạng là tỳ khưu, tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, sa di ni. Này các tỳ khưu, ta cho phép đưa ra trao đổi với năm hạng này. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nào cho y đến tỳ khưu ni không phải là thân quyến thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ sự trao đổi.”
[444] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Người nữ) không phải là thân quyến nghĩa là người nữ không có liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Ngoại trừ sự trao đổi: trừ ra sự trao đổi, vị cho (y) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[445] Không phải là nữ thân quyến, nhận biết không phải là nữ thân quyến, vị cho y thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ sự trao đổi.
Không phải là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, vị cho y thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ sự trao đổi.
Không phải là nữ thân quyến, (lầm) tưởng là nữ thân quyến, vị cho y thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ sự trao đổi.
Vị cho y đến cô ni tu lên bậc trên ở một hội chúng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) ngoại trừ sự trao đổi.
Là nữ thân quyến, (lầm) tưởng không phải là nữ thân quyến, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là nữ thân quyến, nhận biết là nữ thân quyến thì vô tội.
[446] Với vị (tỳ khưu ni) là nữ thân quyến, sự trao đổi vật lớn bằng vật nhỏ hoặc là vật nhỏ bằng vật lớn, vị tỳ khưu ni lấy do sự thân thiết, vị ni lấy trong chốc lát, vị cho vật dụng khác ngoại trừ y, (cho đến) cô ni tu tập sự, (cho đến) sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ năm.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[447] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu Udāyi là rành rẽ làm công việc may y. Có vị tỳ khưu ni nọ đã đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Thưa ngài, tốt thay ngài đại đức hãy may y cho tôi.
Sau đó, đại đức Udāyi đã may y cho tỳ khưu ni ấy, sau khi khéo nhuộm, khéo sửa soạn, đã vẽ lên hình ảnh gợi cảm ở giữa,[8]rồi gấp lại, và để riêng. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Thưa ngài, y ấy đâu rồi?
- Này sư tỷ, hãy mang đi và để riêng y này còn được gấp như vầy. Khi nào hội chúng tỳ khưu ni đi đến nghe giáo giới, khi ấy hãy khoác y này lên và đi ở phía sau cùng của hội chúng tỳ khưu ni.
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã mang đi và để riêng y ấy còn được gấp như thế. Đến khi hội chúng tỳ khưu ni đi đến nghe giáo giới, khi ấy mới khoác y ấy lên và đi ở phía sau cùng của hội chúng tỳ khưu ni. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các tỳ khưu ni này thật là quá quắt, trơ trẽn, vô liêm sĩ bởi vì dám vẽ hình ảnh gợi cảm lên trên y?
Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:
- Việc làm này là của ai?
- Là của ngài đại đức Udāyi.
- Hình ảnh như thế này của những kẻ quá quắt, trơ trẽn, vô liêm sĩ không thể trưng bày, phải chăng là của ngài đại đức Udāyi?
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại may y cho tỳ khưu ni?
…(như trên)…
- Này Udāyi, nghe nói ngươi may y cho tỳ khưu ni, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
- Này Udāyi, là nữ thân quyến của ngươi hay không phải là nữ thân quyến?
- Bạch Thế Tôn, không phải là nữ thân quyến.
- Này kẻ rồ dại, người nam không phải là thân quyến không biết điều gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì làm hài lòng hay không làm hài lòng người nữ không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại may y cho tỳ khưu ni không phải là thân quyến vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào may y hoặc bảo may y cho tỳ khưu ni không phải là thân quyến thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[448] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Người nữ) không phải là thân quyến nghĩa là người nữ không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
May: vị tự mình may thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng mũi kim đâm.
Bảo may: vị ra lệnh người khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) may nhiều lần vị (ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya (ưng đối trị).
[449] Không phải là nữ thân quyến, nhận biết không phải là nữ thân quyến, vị may y hoặc bảo may y thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, vị may y hoặc bảo may y thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải là nữ thân quyến, (lầm) tưởng là nữ thân quyến, vị may y hoặc bảo may y thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị may y hoặc bảo may y cho cô ni tu lên bậc trên ở một hội chúng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là nữ thân quyến, (lầm) tưởng không phải là nữ thân quyến, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là nữ thân quyến, nhận biết là nữ thân quyến thì vô tội.
[450] Trường hợp vị (tỳ khưu ni) là nữ thân quyến, vị may hoặc bảo may vật dụng khác ngoại trừ y, (trường hợp) cô ni tu tập sự, (trường hợp) sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ sáu.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[451] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi hẹn trước rồi đi chung đường xa với các tỳ khưu ni. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Giống y như chúng ta đi dạo với vợ, các sa-môn Thích tử này cũng đi dạo với các tỳ khưu ni y như thế.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi hẹn trước rồi đi chung đường xa với các tỳ khưu ni?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sau khi hẹn trước rồi đi chung đường xa với các tỳ khưu ni, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi sau khi hẹn trước rồi đi chung đường xa với các tỳ khưu ni vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi hẹn trước rồi đi chung đường xa với vị tỳ khưu ni ngay cả từ làng này sang làng khác[9]thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[452] Vào lúc bấy giờ, nhiều tỳ khưu và tỳ khưu ni đi đường xa từ thành Sāketa đến thành Sāvatthi. Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy sau khi nhìn thấy các tỳ khưu ấy đã nói điều này:
- Chúng tôi sẽ cùng đi với các ngài đại đức.
- Này các sư tỷ, không được phép hẹn trước rồi đi chung đường xa với vị tỳ khưu ni. Hoặc là các cô hãy đi trước hoặc là chúng tôi sẽ đi trước.
- Thưa các ngài, các ngài đại đức là những người cao quý. Chính các ngài đại đức hãy đi trước.
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy trong khi đi sau ở giữa đường đã bị bọn đạo tặc cướp giật còn bị làm ô uế nữa. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến thành Sāvatthi và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép trên con đường cần phải đi chung với đoàn xe, được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng, sau khi hẹn trước được đi chung đường xa với vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi hẹn trước rồi đi chung đường xa với vị tỳ khưu ni ngay cả (đi) từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: con đường cần phải đi chung với đoàn xe, được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”
[453] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Với: cùng chung.
Sau khi hẹn trước: Vị hẹn trước rằng: “Này sư tỷ, chúng ta hãy đi. Thưa ngài, chúng ta hãy đi. Thưa ngài, chúng ta hãy đi. Này sư tỷ, chúng ta hãy đi. Hôm nay hoặc hôm qua hoặc ngày mai chúng ta hãy đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Ngay cả từ làng này sang làng khác: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng khoảng cách nửa yojana.[10]
Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.
Con đường cần phải đi chung với đoàn xe nghĩa là không có đoàn xe không thể đi được.
Có sự nguy hiểm nghĩa là trên con đường ấy chỗ cắm trại của bọn cướp được thấy, chỗ ăn được thấy, chỗ đứng được thấy, chỗ ngồi được thấy, chỗ nằm được thấy.
Có sự kinh hoàng nghĩa là trên con đường ấy dân chúng bị giết bởi bọn cướp được thấy, bị cướp giật được thấy, bị đánh đập được thấy. Sau khi đi đến chỗ có sự kinh hoàng, khi nhìn thấy không có sự kinh hoàng thì nên giải tán (nói rằng): “Này các sư tỷ, hãy đi đi.”
[454] Khi đã hẹn trước, nhận biết là đã hẹn trước, vị đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Khi đã hẹn trước, có sự hoài nghi, vị đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Khi đã hẹn trước, (lầm) tưởng là không hẹn trước, vị đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Vị tỳ khưu hẹn trước còn vị tỳ khưu ni không hẹn trước, thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không hẹn trước, (lầm) tưởng là đã hẹn trước, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không hẹn trước, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không hẹn trước, nhận biết là không hẹn trước thì vô tội.
[455] Khi có duyên cớ, các vị sau khi không hẹn trước rồi đi, vị tỳ khưu ni hẹn trước còn vị tỳ khưu không hẹn trước, các vị đi ngoài giờ hẹn ước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ bảy.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[456] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi hẹn trước rồi cùng lên một chiếc thuyền với các tỳ khưu ni. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Giống y như chúng ta du ngoạn với vợ trên một chiếc thuyến, các sa-môn Thích tử này sau khi hẹn trước rồi du ngoạn với các tỳ khưu ni trên một chiếc thuyến y như thế.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi hẹn trước rồi cùng lên một chiếc thuyền với các tỳ khưu ni?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sau khi hẹn trước rồi cùng lên một chiếc thuyền với các tỳ khưu ni, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi sau khi hẹn trước rồi cùng lên một chiếc thuyền với các tỳ khưu ni vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi hẹn trước rồi cùng với vị tỳ khưu ni lên chung một chiếc thuyền đi ngược giòng hoặc đi xuôi giòng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[457] Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu và tỳ khưu ni đi đường xa từ thành Sāketa đến thành Sāvatthi. Khoảng giữa đường, có con sông cần phải vượt qua. Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đã nói với các tỳ khưu ấy điều này:
- Chúng tôi sẽ vượt qua cùng với các ngài đại đức.
- Này các sư tỷ, không được phép hẹn trước rồi cùng lên một chiếc thuyền với vị tỳ khưu ni. Hoặc là các cô hãy vượt qua trước hoặc là chúng tôi sẽ vượt qua trước.
- Thưa các ngài, các ngài đại đức là những người cao quý. Chính các ngài đại đức hãy vượt qua trước.
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy trong khi vượt qua sau đã bị bọn đạo tặc cướp giật còn bị làm ô uế nữa. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến thành Sāvatthi và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép khi vượt ngang qua (sông) sau khi hẹn trước được lên chung một chiếc thuyền với vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi hẹn trước rồi cùng với vị tỳ khưu ni lên chung một chiếc thuyền đi ngược giòng hoặc đi xuôi giòng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), ngoại trừ vượt ngang qua (sông).”
[458] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Với: cùng chung.
Sau khi hẹn trước: Vị hẹn trước rằng: “Này sư tỷ, chúng ta hãy lên (thuyền). Thưa ngài, chúng ta hãy lên (thuyền). Thưa ngài, chúng ta hãy lên (thuyền). Này sư tỷ, chúng ta hãy lên (thuyền). Hôm nay hoặc hôm qua hoặc ngày mai chúng ta hãy lên (thuyền)” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi vị tỳ khưu ni đã lên (thuyền), vị tỳ khưu lên (thuyền) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Khi vị tỳ khưu đã lên (thuyền), vị tỳ khưu ni lên (thuyền) thì phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai cùng lên (thuyền) thì phạm tội pācittiya.
Đi ngược giòng: đi lên phía trên.
Đi xuôi giòng: đi xuống phía dưới.
Ngoại trừ vượt ngang qua (sông): trừ ra sự vượt ngang qua (sông). Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng khoảng cách nửa yojana.
[459] Khi đã hẹn trước, nhận biết là đã hẹn trước, vị lên chung một chiếc thuyền đi ngược giòng hoặc đi xuôi giòng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), ngoại trừ vượt ngang qua (sông).
Khi đã hẹn trước, có sự hoài nghi, vị lên chung một chiếc thuyền đi ngược giòng hoặc đi xuôi giòng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), ngoại trừ vượt ngang qua (sông).
Khi đã hẹn trước, (lầm) tưởng là không hẹn trước, vị lên chung một chiếc thuyền đi ngược giòng hoặc đi xuôi giòng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), ngoại trừ vượt ngang qua (sông).
Vị tỳ khưu hẹn trước còn vị tỳ khưu ni không hẹn trước, thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không hẹn trước, (lầm) tưởng là đã hẹn trước, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không hẹn trước, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không hẹn trước, nhận biết là không hẹn trước thì vô tội.
[460] Khi vượt ngang qua (sông), các vị không hẹn trước rồi lên (thuyền), vị tỳ khưu ni hẹn trước còn vị tỳ khưu không hẹn trước, các vị lên (thuyền) ngoài giờ hẹn ước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tám.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[461] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā là vị thường tới lui với gia đình nọ và là vị nhận vật thực thường kỳ. Và các tỳ khưu trưởng lão đã được gia chủ ấy thỉnh mời. Khi ấy vào buổi sáng, tỳ khưu ni Thullanandā đã mặc y, cầm y bát, đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã nói với gia chủ ấy điều này:
- Này gia chủ, việc gì mà nhiều vật thực loại cứng loại mềm này được chuẩn bị vậy?
- Thưa ni sư, tôi đã thỉnh mời các vị trưởng lão.
- Này gia chủ, các trưởng lão của ngươi là những vị nào vậy?
- Ngài Sārīputta, ngài Mahāmoggallāna, ngài Mahākaccāna, ngài Mahākoṭṭhita, ngài Mahākappina, ngài Mahācunda, ngài Anuruddha, ngài Revata, ngài Upāli, ngài Ānanda, ngài Rāhula.
- Này gia chủ, việc gì khiến ngươi lại thỉnh mời những tép riu trong khi các khổng long đang còn tồn tại?
- Thưa ni sư, những vị nào là các khổng long của cô vậy?
- Ngài Devadatta, ngài Kokālika, ngài Katamorakatissako con trai của Khaṇḍadevī, ngài Samuddadatto.
Lời nói này của tỳ khưu ni Thullanandā đã bị gián đoạn nửa chừng và các tỳ khưu trưởng lão đã đi vào.
- Này gia chủ, có đúng là các khổng long đã được ngươi thỉnh mời không?
- Này ni sư, ngay mới đây cô đã gọi các ngài đại đức là những tép riu, bây giờ là các khổng long. Rồi đã kéo ra khỏi nhà và chấm dứt phần bữa ăn thường kỳ.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao Devadatta dầu biết vật thực được tỳ khưu ni môi giới cho vẫn thọ thực?
…(như trên)…
- Này Devadatta, nghe nói ngươi biết vật thực được tỳ khưu ni môi giới cho vẫn thọ thực, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi biết vật thực được tỳ khưu ni môi giới cho vẫn thọ thực vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào biết thức ăn được tỳ khưu ni môi giới cho vẫn thọ thực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[462] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ xuất gia ở thành Rājagaha đã đi đến gia đình thân quyến. Dân chúng (nói rằng): “Lâu lắm ngài đại đức mới đến,” rồi đã làm bữa ăn thịnh soạn. Có vị tỳ khưu ni thường lui tới với gia đình ấy đã nói với những người ấy điều này:
- Này các đạo hữu, hãy dâng bữa ăn đến ngài đại đức.
Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán thọ thực khi biết thức ăn được tỳ khưu ni môi giới cho” trong khi ngần ngại đã không thọ nhận và không thể đi khất thực nên bữa ăn đành phải nhịn. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, khi có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ ta cho phép thọ thực dầu biết thức ăn được tỳ khưu ni môi giới cho. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào biết thức ăn được tỳ khưu ni môi giới cho vẫn thọ thực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ.”
[463] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc các người khác thông báo cho vị ấy, hoặc vị ni ấy thông báo.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Môi giới cho nghĩa là đối với những người trước đây không có ý định dâng cúng, không có ý định tiếp đãi, vị ni ấy môi giới rằng: “Ngài là vị trì tụng, ngài là vị nghe nhiều, ngài là vị trì Kinh, ngài là vị thông Luật, ngài là vị Pháp sư, hãy dâng cúng đến ngài, hãy phục vụ ngài.”
Thức ăn nghĩa là loại vật thực nào đó thuộc về năm loại vật thực.
Ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ: trừ ra có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ.
Có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ nghĩa là các thân quyến, hoặc (những người) đã nói lời thỉnh cầu, hoặc đã được chuẩn bị thường kỳ.
Ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ, vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ ăn,” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi một lần nuốt xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[464] Khi được môi giới cho, nhận biết đã được môi giới cho, vị thọ thực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ.
Khi được môi giới cho, có sự hoài nghi, vị thọ thực thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ.
Khi được môi giới cho, (lầm) tưởng là không được môi giới cho, vị thọ thực thì vô tội ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ.
Được vị ni tu lên bậc trên từ một hội chúng môi giới cho, vị thọ thực thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ.
Khi không được môi giới cho, (lầm) tưởng là đã được môi giới cho, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không được môi giới cho, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không được môi giới cho, nhận biết là không được môi giới cho thì vô tội.
[465] Khi có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ, cô ni tu tập sự môi giới cho, vị sa di ni môi giới cho, tất cả (các thức khác) trừ ra năm loại vật thực, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ chín.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[466] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, người vợ cũ của đại đức Udāyi đã xuất gia nơi các tỳ khưu ni. Tỳ khưu ni ấy thường xuyên đi đến gặp đại đức Udāyi. Đại đức Udāyi cũng thường xuyên đi đến gặp tỳ khưu ni ấy.
Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đã cùng với tỳ khưu ni ấy một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại cùng với tỳ khưu ni một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo?
…(như trên)…
- Này Udāyi, nghe nói ngươi cùng với tỳ khưu ni một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại cùng với tỳ khưu ni một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào cùng với tỳ khưu ni một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[467] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Với: cùng chung.
Một nam một nữ: chỉ có vị tỳ khưu và vị tỳ khưu ni.
Kín đáo: nghĩa là kín đáo đối với mắt, kín đáo đối với tai.
Kín đáo đối với mắt: nghĩa là không thể nhìn thấy trong khi bị che mắt lại, trong khi nhướng mày, trong khi ngẩng đầu lên.
Kín đáo đối với tai: nghĩa là không thể nghe lời nói (với giọng) bình thường.
Ngồi: Khi vị tỳ khưu ni đang ngồi, vị tỳ khưu ngồi gần hoặc nằm gần thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Trong khi vị tỳ khưu đang ngồi, vị tỳ khưu ni ngồi gần hoặc nằm gần thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Hoặc cả hai đang ngồi hoặc cả hai đang nằm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[468] Chỗ kín đáo, nhận biết là chỗ kín đáo, vị ngồi xuống một nam một nữ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chỗ kín đáo, có sự hoài nghi, vị ngồi xuống một nam một nữ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chỗ kín đáo, (lầm) tưởng là chỗ không kín đáo, vị ngồi xuống một nam một nữ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chỗ không kín đáo, (lầm) tưởng là chỗ kín đáo, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Chỗ không kín đáo, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Chỗ không kín đáo, nhận biết là chỗ không kín đáo thì vô tội.
[469] Có bất cứ người nam nào có trí suy xét là người thứ nhì, vị đứng không ngồi, không mong mỏi chỗ kín đáo, đang bận tâm chuyện khác rồi ngồi xuống, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười.
Phần Giáo Giới là phần thứ ba.
*******
Tóm lược phần này:
Chưa chỉ định, trời lặn,
ni viện, vì tài vật,
cho y, vị may y,
hẹn hò đi đường xa,
chung thuyền, vị thọ thực
vật thực ni môi giới,
một nam và một nữ,
các điều ấy là mười.
*******
[1]Ācāra-gocara: hành xứ, tức là sở hành và các chỗ đi lại, thân cận. Nghĩa là không tà mạng như là cho tre, v.v... và không đi đến các nơi không nên đi như gái điếm, v.v... Gia đình có đầy đủ đức tin được xem là gocara (xứ), tức là nơi có thể đi đến (ghi lại theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[2]Khi còn tại gia, không có đụng chạm cơ thể với tỳ khưu ni, không thực hiện việc đôi lứa với các cô ni tu tập sự và các sa di ni (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[3]Để khỏi bị phạm tội khi thuyết Pháp đến người nữ (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[4]“Samaggattha bhaginiyoti” được ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Sabbā āgatthatāti” nên được dịch như trên thay vì “Các cô chị có được hợp nhất không?”
[5]“Vaggamhāyyāti” thay vì dịch “Thưa ngài, chúng tôi là nhóm” chúng tôi dịch như trên cho phù hợp mạch văn.
[6]Vị đang đọc tụng phần tám Trọng Pháp bằng Pāli (theo ngài Buddhaghosa).
[7]Vị đang đọc phần chú giải của phần Pāli văn của tám Trọng Pháp (theo ngài Buddhaghosa).
[8]Chú giải cho biết rằng: “Sau khi nhuộm y, đại đức Udāyi đã dùng nhiều màu sắc phác họa hình ảnh người nam và người nữ đang thực hiện việc đôi lứa.”
[9]Gāmantaraṃ = gāma-antaraṃ: khoảng giữa của các làng.
[10]Tài liệu The Buddhist Monastic Code cho biết khoảng cách của nửa yojana là 8 km hoặc 5 miles.
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[470] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, ở không xa thành Sāvatthi có phường hội nọ sắp đặt sự thí thực tại phước xá. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư vào buổi sáng sau khi mặc y, cầm y bát, đi vào thành Sāvatthi để khất thực, khi không nhận được đồ ăn khất thực đã đi đến phước xá. Dân chúng (nói rằng): “Lâu lắm các ngài đại đức mới đến” rồi đã phục vụ một cách trịnh trọng. Sau đó vào ngày thứ nhì, vào ngày thứ ba, các tỳ khưu nhóm Lục Sư vào buổi sáng sau khi mặc y, cầm y bát, đã đi vào thành Sāvatthi để khất thực, khi không nhận được đồ ăn khất thực đã đi đến phước xá và thọ thực. Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã khởi ý điều này: “Chúng ta sẽ làm điều gì đây, có nên đi về tu viện rồi cũng sẽ trở lại chính nơi này?” Các vị tiếp tục cư ngụ tại chính nơi ấy và thọ dụng vật thực ở phước xá. Các ngoại đạo lánh xa. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử cứ tiếp tục cư trú và thọ dụng vật thực ở phước xá? Vật thực ở phước xá được sắp đặt đâu có dành riêng cho các vị; vật thực ở phước xá được sắp đặt dành cho tất cả!
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại tiếp tục cư trú và thọ dụng vật thực ở phước xá?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi tiếp tục cư trú và thọ dụng vật thực ở phước xá, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại tiếp tục cư trú và thọ dụng vật thực ở phước xá vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vật thực ở phước xá được thọ dụng một lần. Nếu vượt quá số ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[471] Vào lúc bấy giờ, đại đức Sārīputta trong khi đi đến thành Sāvatthi ở trong xứ sở Kosala đã ghé lại phước xá nọ. Dân chúng (nói rằng): “Lâu lắm trưởng lão mới đến” rồi đã phục vụ một cách trịnh trọng. Sau đó, khi đại đức Sārīputta đã thọ thực xong, có cơn bệnh ngặt nghèo đã phát khởi. Đại đức đã không thể rời trú xá ấy ra đi. Sau đó vào ngày thứ nhì, những người ấy đã nói với đại đức Sārīputta điều này:
- Thưa ngài, xin hãy thọ thực.
Khi ấy, đại đức Sārīputta (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm tiếp tục cư trú và thọ dụng vật thực ở phước xá,” trong lúc ngần ngại đã không thọ lãnh nên bữa ăn đã bị lỡ. Sau đó, đại đức Sārīputta đã đi đến thành Sāvatthi và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được tiếp tục cư trú và thọ thực ở phước xá. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu không bị bệnh được thọ dụng vật thực ở phước xá một lần. Nếu vượt quá số ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[472] Không bị bệnh nghĩa là có thể lìa phước xá ấy ra đi.
Bệnh nghĩa là không thể lìa phước xá ấy ra đi.
Vật thực ở phước xá nghĩa là loại vật thực nào đó thuộc về năm loại vật thực được phân phát theo nhu cầu không chỉ định (người thọ) ở trong phòng, hoặc ở mái che, hoặc ở gốc cây, hoặc ở ngoài trời. Vị tỳ khưu không bị bệnh nên thọ thực một lần, nếu (nghĩ rằng): “Ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh vượt quá số lần ấy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[473] Khi không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, vị thọ dụng vật thực ở phước xá vượt quá số lần ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi không bị bệnh, có sự hoài nghi, vị thọ dụng vật thực ở phước xá vượt quá số lần ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi không bị bệnh, (lầm) tưởng là có bệnh, vị thọ dụng vật thực ở phước xá vượt quá số lần ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi bị bệnh, nhận biết là bị bệnh thì vô tội.
[474] Vị bị bệnh, vị không bị bệnh thọ thực một lần, vị thọ thực khi chuẩn bị ra đi hoặc khi vừa mới đến, các người chủ thỉnh và mời ăn, được sắp đặt dành riêng (cho vị ấy), được sắp đặt không đủ theo nhu cầu (phần ăn rất ít ỏi), trừ ra năm loại vật thực (thọ dụng) tất cả (các thức khác) thì không phạm tội, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[475] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, Devadatta bị mất mát về lợi lộc và danh vọng nên cùng với tùy tùng liên tục yêu cầu các gia đình rồi thọ thực. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại liên tục yêu cầu các gia đình rồi thọ thực? Khi được đầy đủ ai mà không vừa ý? Đồ ngon ngọt ai lại không thích thú?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao Devadatta cùng với tùy tùng lại liên tục yêu cầu các gia đình rồi thọ thực?
…(như trên)…
- Này Devadatta, nghe nói ngươi cùng với tùy tùng liên tục yêu cầu các gia đình rồi thọ thực, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi cùng với tùy tùng lại liên tục yêu cầu các gia đình rồi thọ thực vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp vật thực dâng chung nhóm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[476] Vào lúc bấy giờ, dân chúng thỉnh mời các tỳ khưu bị bệnh với bữa trai phạn. Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán vật thực dâng chung nhóm.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép tỳ khưu bị bệnh được thọ dụng vật thực dâng chung nhóm. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp vật thực dâng chung nhóm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[477] Vào lúc bấy giờ, trong thời hạn dâng y dân chúng sau khi chuẩn bị bữa trai phạn có dâng y rồi thỉnh mời các tỳ khưu (nói rằng): “Sau khi mời thọ thực, chúng tôi sẽ dâng y.” Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán vật thực dâng chung nhóm.” Y được phát sanh ít ỏi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực dâng chung nhóm trong thời hạn dâng y. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp vật thực dâng chung nhóm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[478] Vào lúc bấy giờ, dân chúng thỉnh mời các tỳ khưu là những vị đang may y với bữa trai phạn. Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán vật thực dâng chung nhóm.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực dâng chung nhóm trong lúc may y. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp vật thực dâng chung nhóm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y, trong lúc may y. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[479] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đi đường xa cùng với dân chúng. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã nói với những người ấy điều này:
- Này các đạo hữu, hãy chờ đợi chốc lát. Chúng tôi sẽ đi khất thực.
Những người ấy đã nói như vầy:
- Thưa các ngài, hãy thọ thực ở ngay đây.
Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không thọ lãnh (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán vật thực dâng chung nhóm.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực dâng chung nhóm trong trường hợp đi đường xa. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp vật thực dâng chung nhóm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y, trong lúc may y, trong lúc đi đường xa. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[480] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đi thuyền cùng với dân chúng. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã nói với những người ấy điều này:
- Này các đạo hữu, hãy đưa thuyền vào bờ chốc lát. Chúng tôi sẽ đi khất thực.
Những người ấy đã nói như vầy:
- Thưa các ngài, hãy thọ thực ở ngay đây.
Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không thọ lãnh (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán vật thực dâng chung nhóm.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực dâng chung nhóm trong trường hợp lên thuyền. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp vật thực dâng chung nhóm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y, trong lúc may y, trường hợp đi đường xa, trường hợp lên thuyền. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[481] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu khi trải qua mùa (an cư) mưa ở các nơi đi đến thành Rājagaha để diện kiến đức Thế Tôn. Dân chúng khi nhìn thấy các tỳ khưu người khác xứ sở đã thỉnh mời với bữa trai phạn. Các vị tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán vật thực dâng chung nhóm.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực dâng chung nhóm trong trường hợp đông đảo (các tỳ khưu). Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp vật thực dâng chung nhóm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y, trong lúc may y, trường hợp đi đường xa, trường hợp lên thuyền, trường hợp đông đảo (các tỳ khưu). Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[482] Vào lúc bấy giờ, có người thân quyến ruột thịt của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã xuất gia nơi các đạo sĩ lõa thể. Khi ấy, người đạo sĩ lõa thể ấy đã đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này:
- Tâu đại vương, tôi muốn làm bữa ăn cho tất cả các giáo phái khác.
- Thưa ngài, nếu ngài có thể dâng vật thực đến hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu trước tiên thì trẫm có thể làm như thế.
Sau đó, người đạo sĩ lõa thể ấy đã phái sứ giả đi gặp các tỳ khưu (nói rằng):
- Xin các tỳ khưu hãy nhận lời bữa ăn vào ngày mai của tôi.
Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán vật thực dâng chung nhóm.” Sau đó, người đạo sĩ lõa thể ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, người đạo sĩ lõa thể ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Ngài Gotama đã xuất gia, tôi cũng đã xuất gia. Người đã xuất gia thì xứng đáng để thọ nhận vật thực của người đã xuất gia. Xin ngài Gotama nhận lời tôi về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, người đạo sĩ lõa thể ấy hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực dâng chung nhóm trong trường hợp bữa trai phạn của sa-môn. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp vật thực dâng chung nhóm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y, trong lúc may y, trường hợp đi đường xa, trường hợp lên thuyền, trường hợp đông đảo (các tỳ khưu), trường hợp bữa trai phạn của sa-môn. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”
[483] Vật thực thuộc về nhóm nghĩa là nơi nào bốn vị tỳ khưu được thỉnh mời với loại vật thực nào đó trong năm loại vật thực rồi thọ thực, việc này gọi là vật thực dâng chung nhóm.
Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.
Trường hợp bị bệnh nghĩa là ngay cả (trường hợp) các bàn chân bị nứt nẻ. (Nghĩ rằng): “Trường hợp bị bệnh” rồi nên thọ thực.
Trong thời hạn dâng y nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu thì tháng cuối cùng của mùa mưa, khi Kaṭhina được thành tựu thì năm tháng. (Nghĩ rằng): “Trong thời hạn dâng y” rồi nên thọ thực.
Trong lúc may y nghĩa là trong lúc y đang được may. (Nghĩ rằng): “Trong lúc may y” rồi nên thọ thực.
Trường hợp đi đường xa nghĩa là (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi nửa do tuần” [1]rồi nên thọ thực. Vị sắp sửa đi thì nên thọ thực. Vị vừa mới đến thì nên thọ thực.
Trường hợp lên thuyền nghĩa là (nghĩ rằng): “Ta sẽ lên thuyền” rồi nên thọ thực. Vị đã lên thuyền thì nên thọ thực. Vị vừa rời (thuyền) thì nên thọ thực.
Trường hợp đông đảo (các tỳ khưu) nghĩa là nơi nào hai hay ba vị tỳ khưu đi khất thực thì khất thực được mau mắn (yāpenti). Khi có vị thứ tư đi đến thì khất thực không được mau mắn (na yāpenti). (Nghĩ rằng): “Trường hợp đông đảo” rồi nên thọ thực.
Trường hợp bữa trai phạn của sa-môn nghĩa là bất cứ người nào thành tựu phẩm chất du sĩ thực hiện bữa trai phạn. (Nghĩ rằng): “Trường hợp bữa trai phạn của sa-môn” rồi nên thọ thực.
Ngoại trừ có duyên cớ, (nghĩ rằng): “Ta sẽ thọ thực” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[484] Vật thực dâng chung nhóm, nhận biết là vật thực dâng chung nhóm, vị thọ thực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Vật thực dâng chung nhóm, có sự hoài nghi, vị thọ thực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Vật thực dâng chung nhóm, (lầm) tưởng không phải là vật thực dâng chung nhóm, vị thọ thực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Không phải vật thực dâng chung nhóm, (lầm) tưởng là vật thực dâng chung nhóm, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải vật thực dâng chung nhóm, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải vật thực dâng chung nhóm, nhận biết không phải là vật thực dâng chung nhóm thì vô tội.
[485] Khi có duyên cớ, hai hoặc ba vị thọ thực chung, sau khi đi khất thực tụ hội chung lại (một chỗ) rồi thọ thực, trong bữa ăn thường kỳ, trong bữa ăn (phân phối) theo thẻ, vào mỗi nửa tháng, vào ngày Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng, (thọ dụng) tất cả (các thức khác) thì không phạm tội trừ ra năm loại vật thực, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhì.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[486] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, trong thành Vesālī sự luân phiên về các bữa trai phạn gồm các thức ăn hảo hạng đã được ấn định. Khi ấy, có người lao công nghèo nọ đã khởi ý điều này: “Theo như cách những người này thực hiện bữa trai phạn một cách trịnh trọng thì việc này không phải là tầm thường, hay là ta nên thực hiện bữa trai phạn?” Sau đó, người lao công nghèo ấy đã đi đến gặp cậu chủ tên Kira, sau khi đến đã nói với cậu chủ tên Kira ấy rằng:
- Thưa cậu chủ, tôi muốn thực hiện bữa trai phạn dâng hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu, hãy cho tôi tiền lương.
Cậu chủ tên Kira ấy cũng có niềm tin và mộ đạo. Khi ấy, cậu chủ tên Kira ấy đã cho người lao công nghèo ấy tiền lương phụ trội. Sau đó, người lao công nghèo ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, người lao công nghèo ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời con về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
- Này đạo hữu, người hãy biết hội chúng tỳ khưu là đông đảo.
- Bạch ngài, hội chúng tỳ khưu hãy là đông đảo. Con đã chuẩn bị được nhiều táo. Các thức uống trộn với táo sẽ được đầy đủ.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, người lao công nghèo ấy hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Các tỳ khưu đã nghe được rằng: “Nghe nói hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu đã được người lao công nghèo thỉnh mời vào ngày mai, các thức uống trộn với táo sẽ được đầy đủ.” Các vị ấy đã đi khất thực vào lúc sáng sớm rồi đã thọ thực. Dân chúng đã nghe được rằng: “Nghe nói hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu đã được người lao công nghèo thỉnh mời.” Họ đã mang lại cho người lao công nghèo vô số vật thực loại cứng loại mềm.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy người lao công nghèo ấy đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
- Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, đi đến tư gia của người lao công nghèo ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, người lao công nghèo ấy đã phục vụ các tỳ khưu ở trong nhà ăn. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này đạo hữu, hãy dâng chút ít thôi. Này đạo hữu, hãy dâng chút ít thôi.
- Thưa các ngài, chớ có thọ lãnh chỉ chút ít (vì nghĩ rằng): “Người lao công này nghèo.” Tôi đã cho chuẩn bị sẵn sàng vô số vật thực loại cứng loại mềm. Thưa các ngài, hãy thọ lãnh theo như ước muốn.
- Này đạo hữu, không phải vì lý do này mà chúng tôi thọ lãnh chỉ chút ít, tuy nhiên vào lúc sáng sớm chúng tôi đã đi khất thực và đã thọ thực rồi; vì thế chúng tôi thọ lãnh chỉ chút ít.
Khi ấy, người lao công nghèo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các ngài đại đức đã được tôi thỉnh mời còn thọ thực ở nơi khác? Không lẽ tôi không đủ khả năng để bố thí theo như ước muốn hay sao?
Các tỳ khưu đã nghe được người lao công nghèo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu khi được thỉnh mời ở nơi khác lại thọ thực ở nơi khác?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu khi được thỉnh mời ở nơi khác còn thọ thực ở nơi khác, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi khi được thỉnh mời ở nơi khác lại thọ thực ở nơi khác vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp vật thực thỉnh sau thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[487] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Có vị tỳ khưu khác đã cầm lấy đồ ăn khất thực đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, hãy thọ thực.
- Này đại đức, thôi đi. Có sự chuẩn bị về bữa ăn cho tôi rồi.
Thức ăn của vị tỳ khưu ấy đã được mang lại khi đã trưa. Vị tỳ khưu ấy đã thọ thực không được như ý. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép tỳ khưu bị bệnh được thọ dụng vật thực thỉnh sau. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp vật thực thỉnh sau thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[488] Vào lúc bấy giờ, trong thời hạn dâng y dân chúng sau khi chuẩn bị bữa trai phạn có dâng y rồi thỉnh mời các tỳ khưu (nói rằng): “Sau khi mời thọ thực, chúng tôi sẽ dâng y.” Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán vật thực thỉnh sau.” Y được phát sanh ít ỏi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực thỉnh sau trong thời hạn dâng y. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp vật thực thỉnh sau thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[489] Vào lúc bấy giờ, dân chúng thỉnh mời các tỳ khưu là những vị đang may y với bữa trai phạn. Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán vật thực thỉnh sau.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực thỉnh sau trong lúc may y. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp vật thực thỉnh sau thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y, trong lúc may y. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[490] Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, cùng với đại đức Ānanda là sa-môn hầu cận đã đi đến gia đình nọ, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau đó, những người ấy đã dâng vật thực đến đức Thế Tôn và đại đức Ānanda. Đại đức Ānanda trong lúc ngần ngại nên không thọ lãnh.
- Này Ānanda, hãy nhận lấy.
- Bạch Thế Tôn, đã có đủ. Có sự chuẩn bị về bữa ăn cho con rồi.
- Này Ānanda, như thế thì sau khi nhường lại (cho vị khác) rồi hãy nhận lấy.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, khi đã nhường lại sự chuẩn bị về bữa ăn ta cho phép thọ dụng vật thực thỉnh sau. Và này các tỳ khưu, nên nhường lại như vầy: “Tôi cho đến vị tên (như vầy) sự chuẩn bị về bữa ăn của tôi.”
[491] Vật thực thỉnh sau nghĩa là khi đã được thỉnh mời với bất cứ loại vật thực nào thuộc về năm loại vật thực, trừ ra món ấy vị thọ thực bất cứ loại vật thực nào khác thuộc về năm loại vật thực; việc này gọi là vật thực thỉnh sau.
Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.
Trường hợp bị bệnh nghĩa là không thể ngồi ở một chỗ để thọ thực theo như ý muốn. (Nghĩ rằng): “Trường hợp bị bệnh” rồi nên thọ thực.
Trong thời hạn dâng y nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu thì tháng cuối cùng của mùa mưa, khi Kaṭhina được thành tựu thì năm tháng. (Nghĩ rằng): “Trong thời hạn dâng y” rồi nên thọ thực.
Trong lúc may y nghĩa là trong lúc y đang được may. (Nghĩ rằng): “Trong lúc may y” rồi nên thọ thực.
Ngoại trừ có duyên cớ, (nghĩ rằng): “Ta sẽ thọ thực” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[492] Vật thực thỉnh sau, nhận biết là vật thực thỉnh sau, vị thọ thực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Vật thực thỉnh sau, có sự hoài nghi, vị thọ thực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Vật thực thỉnh sau, (lầm) tưởng không phải là vật thực thỉnh sau, vị thọ thực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Không phải vật thực thỉnh sau, (lầm) tưởng là vật thực thỉnh sau, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải vật thực thỉnh sau, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải vật thực thỉnh sau, nhận biết không phải là vật thực thỉnh sau thì vô tội.
[493] Khi có duyên cớ, sau khi nhường lại (cho vị khác) rồi thọ thực, vị thọ thực hai hoặc ba sự thỉnh mời chung một lượt, vị thọ thực theo tuần tự của sự thỉnh mời, khi được toàn bộ cả làng thỉnh mời thì thọ thực ở bất cứ nơi nào ở trong ngôi làng ấy, khi được toàn bộ cả phường hội thỉnh mời thì thọ thực ở bất cứ nơi nào ở trong phường hội ấy, khi được thỉnh mời vị nói rằng: “Tôi sẽ nhận đồ khất thực,” trong bữa ăn thường kỳ, trong bữa ăn (phân phối) theo thẻ, vào mỗi nửa tháng, vào ngày Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng, tất cả (các thức khác) trừ ra năm loại vật thực, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[494] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, mẹ của Kāṇā là nữ cư sĩ có niềm tin và mộ đạo. Kāṇā đã được gả cho người đàn ông nọ ở thôn làng. Khi ấy, Kāṇā đã đi đến nhà mẹ vì công việc cần làm nào đó. Sau đó, chồng của Kāṇā đã phái người đưa tin đi đến gặp Kāṇā (nhắn rằng): “Kāṇā hãy trở về. Tôi muốn sự trở về của Kāṇā.” Khi ấy, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā (nghĩ rằng): “Thật xấu hổ khi đi với tay không!” nên đã nấu bánh ngọt. Khi bánh ngọt chín, có vị tỳ khưu đi khất thực nọ đã đi vào nhà của nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā. Khi ấy, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā đã bảo dâng bánh ngọt đến vị tỳ khưu ấy. Vị ấy sau khi ra đi đã thông báo cho vị khác. Bà ta cũng đã bảo dâng bánh ngọt đến vị ấy. Vị ấy sau khi ra đi đã thông báo cho vị khác. Bà ta cũng đã bảo dâng bánh ngọt đến vị ấy. Bánh ngọt được chuẩn bị như thế đã không còn.
Đến lần thứ nhì, chồng của Kāṇā đã phái người đưa tin đi đến gặp Kāṇā (nhắn rằng): “Kāṇā hãy trở về. Tôi muốn sự trở về của Kāṇā.” Đến lần thứ nhì, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā (nghĩ rằng): “Thật xấu hổ khi đi với tay không!” nên đã nấu bánh ngọt. Khi bánh ngọt chín, có vị tỳ khưu đi khất thực nọ đã đi vào nhà của nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā. Khi ấy, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā đã bảo dâng bánh ngọt đến vị tỳ khưu ấy. Vị ấy sau khi ra đi đã thông báo cho vị khác. Bà ta cũng đã bảo dâng bánh ngọt đến vị ấy. Vị ấy sau khi ra đi đã thông báo cho vị khác. Bà ta cũng đã bảo dâng bánh ngọt đến vị ấy. Bánh ngọt được chuẩn bị như thế đã không còn.
Đến lần thứ ba, chồng của Kāṇā đã phái người đưa tin đi đến gặp Kāṇā (nhắn rằng): “Kāṇā hãy trở về. Tôi muốn sự trở về của Kāṇā. Nếu Kāṇā không trở về, tôi sẽ dắt về người vợ khác.” Đến lần thứ ba, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā (nghĩ rằng): “Thật xấu hổ khi đi với tay không!” nên đã nấu bánh ngọt. Khi bánh ngọt chín, có vị tỳ khưu đi khất thực nọ đã đi vào nhà của nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā. Khi ấy, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā đã bảo dâng bánh ngọt đến vị tỳ khưu ấy. Vị ấy sau khi ra đi đã thông báo cho vị khác. Bà ta cũng đã bảo dâng bánh ngọt đến vị ấy. Vị ấy sau khi ra đi đã thông báo cho vị khác. Bà ta cũng đã bảo dâng bánh ngọt đến vị ấy. Bánh ngọt được chuẩn bị như thế đã không còn.
Sau đó, chồng của Kāṇā đã dắt về người vợ khác. Kāṇā đã nghe được rằng: “Nghe nói người vợ khác đã được người đàn ông ấy dắt về.” Cô ấy đã đứng khóc lóc. Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, đi đến nhà của nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā đang ngồi một bên điều này:
- Vì sao Kāṇā này lại khóc vậy?
Khi ấy, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā đã kể lại sự việc ấy cho đức Thế Tôn. Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
[495] Vào lúc bấy giờ, có đoàn xe nọ có ý định từ thành Rājagaha đi về phía tây. Có vị tỳ khưu đi khất thực nọ đã đi vào khất thực ở đoàn xe ấy. Có nam cư sĩ nọ đã bảo dâng đến vị tỳ khưu ấy bánh lúa mạch. Vị ấy sau khi ra đi đã thông báo cho vị khác. Ông ta cũng đã bảo dâng bánh lúa mạch đến vị ấy. Vị ấy sau khi ra đi đã thông báo cho vị khác. Ông ta cũng đã bảo dâng bánh lúa mạch đến vị ấy. Vật dự phòng đường xa được chuẩn bị như thế đã không còn. Khi ấy, nam cư sĩ ấy đã nói với những người ấy điều này:
- Này các ông, hãy chờ đến ngày mai. Vật dự phòng đường xa được chuẩn bị như thế đã được dâng đến các ngài đại đức. Tôi sẽ chuẩn bị vật dự phòng đường xa.
- Này ông, chúng tôi không thể chờ đợi. Đoàn xe đã khởi hành. Rồi họ đã ra đi.
Khi ấy, nam cư sĩ ấy sau khi chuẩn bị vật dự phòng đường xa đã đi sau. Bọn đạo tặc đã cướp đoạt. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại thọ lãnh không biết chừng mực? Người này sau khi bố thí cho các vị ấy rồi trong khi đi sau đã bị cướp đoạt bởi bọn cướp.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm đem lại sự an lạc cho hội chúng, ...(như trên)... và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu khi đi đến gia đình được yêu cầu nhận lãnh các bánh ngọt hoặc các bánh lúa mạch, vị tỳ khưu đang mong mỏi thì nên thọ lãnh hai hoặc ba bình bát đầy. Nếu thọ lãnh quá số lượng ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi thọ lãnh hai hoặc ba bình bát đầy, khi mang về từ nơi ấy thì nên chia sẻ cùng với các tỳ khưu. Đây là sự đúng đắn trong trường hợp ấy.”
[496] Khi vị tỳ khưu đi đến gia đình: Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình sát-đế-lỵ, gia đình bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.
Đi đến: là đi đến nơi ấy.
Bánh ngọt nghĩa là bất cứ thức gì được chuẩn bị nhằm mục đích làm quà biếu.
Bánh lúa mạch nghĩa là bất cứ thức gì được chuẩn bị nhằm mục đích làm vật dự phòng đường xa.
Được yêu cầu nhận lãnh: (Nói rằng): “Ngài thích chừng nào hãy lấy chừng ấy.”
(Với vị) đang mong mỏi: (với vị) đang ước muốn.
Nên thọ lãnh hai hoặc ba bình bát đầy: Nên thọ lãnh đầy hai hoặc ba bình bát.
Nếu thọ lãnh quá số lượng ấy: Vị thọ lãnh quá số lượng ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi thọ lãnh hai hoặc ba bình bát đầy, vị đi ra khỏi nơi ấy nhìn thấy vị tỳ khưu khác nên thông báo rằng: “Tôi đã thọ lãnh hai ba bình bát đầy ở nơi kia, chớ thọ lãnh ở đó.” Nếu sau khi nhìn thấy, vị không thông báo thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Nếu đã được thông báo vị thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[497] Khi mang về từ nơi ấy thì nên chia sẻ cùng với các tỳ khưu: là sự đi trở về, sau khi mang về thì nên chia sẻ.
Đây là sự đúng đắn trong trường hợp ấy: đây là sự hợp lý trong trường hợp ấy.
Hơn hai ba bình bát đầy, nhận biết là hơn, vị thọ lãnh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hơn hai ba bình bát đầy, có sự hoài nghi, vị thọ lãnh thì phạm tội pācittiya.
Hơn hai ba bình bát đầy, (lầm) tưởng là còn kém, vị thọ lãnh thì phạm tội pācittiya.
Còn kém hai ba bình bát đầy, (lầm) tưởng là hơn, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Còn kém hai ba bình bát đầy, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Còn kém hai ba bình bát đầy, nhận biết là còn kém thì vô tội.
[498] Vị thọ lãnh hai hoặc ba bình bát đầy, vị thọ lãnh còn kém hai hoặc ba bình bát đầy, họ bố thí vật đã được chuẩn bị không vì mục đích làm quà biếu hoặc không vì mục đích làm vật dự phòng đường xa, họ bố thí phần còn thừa khi đã chuẩn bị vì mục đích làm quà biếu hoặc vì mục đích làm vật dự phòng đường xa, họ bố thí khi sự ra đi đã bị hủy bỏ, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tư.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[499] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người bà-la-môn nọ đã thỉnh mời và dâng bữa ăn đến các tỳ khưu. Khi thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm), các tỳ khưu đã đi đến các gia đình thân quyến rồi một số vị đã thọ thực thêm, một số vị đã nhận lấy đồ khất thực rồi đi. Sau đó, người bà-la-môn ấy đã nói với hàng xóm điều này:
- Này quý ông, các tỳ khưu đã được tôi làm hài lòng. Hãy đến, tôi cũng sẽ làm hài lòng quý ông.
Những người ấy đã nói như vầy:
- Này ông, có phải ông sẽ làm hài lòng chúng tôi không? Ngay cả những vị đã được ông thỉnh mời còn đi đến các nhà của chúng tôi, một số đã thọ thực thêm, một số đã nhận lấy đồ khất thực rồi đi.
Khi ấy, người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các ngài đại đức sau khi thọ thực trong nhà của chúng tôi lại thọ thực ở nơi khác? Không lẽ tôi không đủ khả năng để bố thí theo như ước muốn hay sao?
Các tỳ khưu đã nghe được người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[500] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu mang lại các đồ ăn khất thực hảo hạng cho các tỳ khưu bị bệnh. Các vị bị bệnh ăn không được như ý. Các tỳ khưu đổ bỏ các đồ ăn ấy. Đức Thế Tôn đã nghe được tiếng động ồn, tiếng động lớn, tiếng kêu của các con quạ, sau khi nghe đã bảo đại đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda, tiếng động ồn, tiếng động lớn, tiếng kêu của các con quạ ấy là gì vậy?
Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Ānanda, các tỳ khưu có thọ thực thức ăn thừa của vị bệnh không vậy?
- Bạch Thế Tôn, không thọ thực.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ thực thức ăn thừa của vị bị bệnh và của vị không bị bệnh. Và này các tỳ khưu, nên làm thành thức ăn thừa như vầy: “Tất cả chừng này là đủ rồi.” Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm không phải là thức ăn thừa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[501] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Thọ thực xong nghĩa là bất cứ loại vật thực nào thuộc về năm loại vật thực đã được ăn, dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa.
Đã từ chối (vật thực dâng thêm) nghĩa là việc ăn được ghi nhận, vật thực được ghi nhận, (thí chủ) đứng trong tầm tay (1 mét 25) dâng lên (vật thực) và sự từ chối được ghi nhận.
Không phải là thức ăn thừa nghĩa là việc làm thành được phép chưa được thực hiện, việc thọ lãnh chưa được thực hiện, việc nâng lên chưa được thực hiện, (việc dâng) đã được thực hiện ở ngoài tầm tay, đã được thực hiện bởi vị chưa thọ thực xong, được thực hiện bởi vị đã thọ thực xong đã từ chối (vật thực dâng thêm) đã từ chỗ ngồi đứng dậy nhưng chưa nói: “Tất cả chừng này là đủ rồi,” không phải là thức ăn thừa của vị bị bệnh; vật này gọi là không phải thức ăn thừa.
Thức ăn thừa nghĩa là việc làm thành được phép đã được thực hiện, việc thọ lãnh đã được thực hiện, việc nâng lên đã được thực hiện, (việc dâng) đã được thực hiện ở trong tầm tay, đã được thực hiện bởi vị đã thọ thực xong, được thực hiện bởi vị đã thọ thực xong đã từ chối (vật thực dâng thêm) đã từ chỗ ngồi đứng dậy và đã nói: “Tất cả chừng này là đủ rồi,” là thức ăn thừa của vị bị bệnh; vật này gọi là thức ăn thừa.
Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần còn lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[502] Không phải thức ăn thừa, nhận biết không phải là thức ăn thừa, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải thức ăn thừa, có sự hoài nghi, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya.
Không phải thức ăn thừa, (lầm) tưởng là thức ăn thừa, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya.
Vị thọ lãnh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời vì mục đích vật thực thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thức ăn thừa, (lầm) tưởng không phải là thức ăn thừa, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thức ăn thừa, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Thức ăn thừa, nhận biết là thức ăn thừa thì vô tội.
[503] Sau khi bảo làm thành thức ăn thừa rồi thọ thực, sau khi bảo làm thành thức ăn thừa vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh, vị mang theo vì nhu cầu của vị khác rồi đi, vị thọ thực phần còn thừa của vị bị bệnh, vị thọ dụng vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời khi có duyên cớ,[2]vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ năm.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[504] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu đang đi đường xa đến thành Sāvatthi ở trong xứ Kosala. Một vị tỳ khưu hành xử sai nguyên tắc. Vị tỳ khưu thứ nhì đã nói với vị tỳ khưu kia điều này:
- Này đại đức, chớ làm như thế. Điều này không được phép.
Vị kia đã kết oan trái với vị ấy. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đi đến thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāvatthi có bữa trai phạn dâng đến hội chúng của phường hội nọ. Vị tỳ khưu thứ nhì thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm). Còn vị tỳ khưu kết oan trái sau khi đi đến nhà thân quyến đã cầm lấy đồ ăn rồi đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, hãy thọ thực.
- Này đại đức, thôi đi. Tôi đã đầy.
- Này đại đức, đồ ăn ngon lắm. Hãy thọ thực.
Khi ấy, vị tỳ khưu ấy trong lúc bị vị tỳ khưu kia nài ép nên đã thọ thực đồ ăn ấy. Vị tỳ khưu kết oan trái đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, chính ngươi mới cần được ta nhắc nhở. Hãy suy nghĩ việc ngươi đã thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực thức ăn không phải là đồ còn thừa.
- Này đại đức, sao lại không chỉ bảo?
- Này đại đức, sao lại không hỏi?
Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu lại yêu cầu vị tỳ khưu đã thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) nhận lãnh thức ăn không phải là đồ còn thừa?
...(như trên)...
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi yêu cầu vị tỳ khưu đã thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) nhận lãnh thức ăn không phải là đồ còn thừa, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại yêu cầu vị tỳ khưu đã thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) nhận lãnh thức ăn không phải là đồ còn thừa vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào có ý muốn bươi móc lỗi lầm biết rõ vị tỳ khưu đã thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) vẫn yêu cầu nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm không phải là thức ăn thừa (nói rằng): “Này tỳ khưu, hãy nhai hoặc hãy ăn đi;” khi vị kia đã ăn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[505] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.
Thọ thực xong nghĩa là bất cứ loại vật thực nào thuộc về năm loại vật thực đã được ăn, dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa.
Đã từ chối (vật thực dâng thêm) nghĩa là việc ăn được ghi nhận, vật thực được ghi nhận, (thí chủ) đứng trong tầm tay (1 mét 25) dâng lên (vật thực) và sự từ chối được ghi nhận.
Không phải là thức ăn thừa nghĩa là việc làm thành được phép chưa được thực hiện, việc thọ lãnh chưa được thực hiện, việc nâng lên chưa được thực hiện, (việc dâng) đã được thực hiện ở ngoài tầm tay, được thực hiện bởi vị chưa thọ thực xong, được thực hiện bởi vị đã thọ thực xong đã từ chối (vật thực dâng thêm) đã từ chỗ ngồi đứng dậy nhưng chưa nói: “Tất cả chừng này là đủ rồi,” không phải là thức ăn thừa của vị bị bệnh; vật này gọi là không phải thức ăn thừa.
Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần còn lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt.
Yêu cầu nhận lãnh: (Nói rằng): “Đại đức thích chừng nào hãy lấy chừng ấy.”
Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc các người khác thông báo cho vị ấy, hoặc vị kia thông báo.
Có ý muốn bươi móc lỗi lầm: (nghĩ rằng): “Ta sẽ quở trách, ta sẽ nhắc nhở, ta sẽ làm cho hối lỗi, ta sẽ làm cho nhớ lại, ta sẽ làm cho xấu hổ.” Vị mang lại thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Với lời nói của vị ấy, (vị kia nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần (vị kia) nuốt xuống thì (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[506] Vị đã từ chối (vật thực dâng thêm), nhận biết là đã từ chối (vật thực dâng thêm), vị yêu cầu nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềmkhông phải là thức ăn thừathì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã từ chối (vật thực dâng thêm), có sự hoài nghi, vị yêu cầu nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềmkhông phải là thức ăn thừathì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị đã từ chối (vật thực dâng thêm), (lầm) tưởng là chưa từ chối (vật thực dâng thêm), vị yêu cầu nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềmkhông phải là thức ăn thừathì vô tội.
Vị mang lại vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời vì mục đích vật thực thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Với lời nói của vị ấy, (vị kia nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần (vị kia) nuốt xuống thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị chưa từ chối (vật thực dâng thêm), (lầm) tưởng là đã từ chối (vật thực dâng thêm), phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị chưa từ chối (vật thực dâng thêm), có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị chưa từ chối (vật thực dâng thêm), nhận biết là chưa từ chối (vật thực dâng thêm) thì vô tội.
[507] Vị sau khi bảo làm thành thức ăn thừa rồi cho; sau khi bảo làm thành thức ăn thừa rồi cho (nói rằng): “Hãy thọ thực;” vị cho (nói rằng): “Hãy đi (và) mang theo vì nhu cầu của vị khác;” vị cho phần còn thừa của vị bị bệnh; vị cho vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời (nói rằng): “Hãy thọ dụng khi có duyên cớ;” vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ sáu.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[508] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, ở thành Rājagaha có lễ hội ở trên đỉnh núi. Các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đã đi để xem lễ hội ở trên đỉnh núi. Dân chúng sau khi nhìn thấy các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đã cho các vị ấy tắm, đã cho xức dầu, đã mời ăn, rồi đã dâng vật thực cứng. Các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư sau khi nhận lấy vật thực cứng đã đi về tu viện và đã nói với các tỳ khưu nhóm Lục Sư điều này:
- Này các đại đức, hãy nhận lấy. Hãy nhai vật thực cứng.
- Này các đại đức, vật thực cứng đã được các ngươi nhận từ đâu vậy?
Các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu nhóm Lục Sư.
- Này các đại đức, có phải các ngươi đã thọ dụng vật thực vào lúc sái thời?
- Này các đại đức, đúng vậy.
Các tỳ khưu nhóm Lục Sư phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư lại thọ dụng vật thực vào lúc sái thời?
Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư lại thọ dụng vật thực vào lúc sái thời?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi thọ dụng vật thực vào lúc sái thời, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại thọ dụng vật thực vào lúc sái thời vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm vào lúc sái thời thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[509] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Lúc sái thời nghĩa là từ lúc đã quá nửa ngày cho đến rạng đông (ngày hôm sau).
Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần còn lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt. Vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[510] Vào lúc sái thời, nhận biết là lúc sái thời, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềmthì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vào lúc sái thời, có sự hoài nghi, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềmthì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vào lúc sái thời, (lầm) tưởng là lúc đúng thời, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị thọ lãnh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời vì mục đích vật thực thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc đúng thời, (lầm) tưởng là lúc sái thời, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc đúng thời, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc đúng thời, nhận biết là lúc đúng thời thì vô tội.
[511] Vị thọ dụng vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời khi có duyên cớ; vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ bảy.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[512] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, thầy tế độ của đại đức Ānanda là đại đức Veḷaṭṭhasīsa cư ngụ ở trong rừng. Vị ấy đi khất thực sau khi nhận được nhiều đồ ăn đã đem về tu viện phần cơm không bị dính thức ăn rồi đem phơi khô và để riêng. Khi có nhu cầu về thực phẩm vị ấy ngâm nước rồi thọ dụng; năm ba bữa vị ấy mới đi vào làng để khất thực. Các tỳ khưu đã nói với đại đức Veḷaṭṭhasīsa điều này:
- Này đại đức, vì sao năm ba bữa đại đức mới đi vào làng để khất thực?
Khi ấy, đại đức Veḷaṭṭhasīsa đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
- Này đại đức, có phải đại đức thọ dụng vật thực đã được tích trữ?
- Nảy các đại đức, đúng vậy.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Veḷaṭṭhasīsa lại thọ dụng vật thực đã được tích trữ?
...(như trên)...
- Này Veḷaṭṭhasīsa, nghe nói ngươi thọ dụng vật thực đã được tích trữ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này Veḷaṭṭhasīsa, vì sao ngươi lại thọ dụng vật thực đã được tích trữ vậy? Này Veḷaṭṭhasīsa, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm đã được tích trữ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[513] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Đã được tích trữ nghĩa là đã được thọ lãnh hôm nay và được nhai vào ngày kế tiếp.
Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần còn lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt. Vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[514] Vật đã được tích trữ, nhận biết là vật đã được tích trữ, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềmthì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vật đã được tích trữ, có sự hoài nghi, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềmthì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vật đã được tích trữ, (lầm) tưởng không phải là vật đã được tích trữ, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềmthì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị thọ lãnh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời vì mục đích vật thực thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội dukkaṭa.
Không phải là vật đã được tích trữ, (lầm) tưởng là vật đã được tích trữ, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là vật đã được tích trữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là vật đã được tích trữ, nhận biết là không phải là vật đã được tích trữ thì vô tội.
[511] Vị cất giữ vật dùng đến hết ngọ rồi thọ dụng cho đến hết ngọ, vị cất giữ vật dùng đến hết đêm rồi thọ dụng trong đêm, vị cất giữ vật dùng trong bảy ngày rồi thọ dụng trong bảy ngày, vị thọ dụng vật dùng suốt đời khi có duyên cớ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tám.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[516] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng? Khi được đầy đủ ai mà không vừa ý? Đồ ngon ngọt ai lại không thích thú?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Các loại vật thực thượng hạng như là bơ lỏng (sappi), bơ đặc (navanītaṃ), dầu ăn (telaṃ), mật ong (madhu), đường mía (phāṇitaṃ), cá (maccho), thịt (maṃsaṃ), sữa tươi (khīraṃ), sữa đông (dadhi); vị tỳ khưu nào yêu cầu các loại vật thực thượng hạng như thế cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[517] Vào lúc bấy giờ, có các tỳ khưu bị bệnh. Các tỳ khưu theo dõi bệnh tình đã nói với các tỳ khưu bị bệnh điều này:
- Này các đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?
- Này các đại đức, trước đây chúng tôi yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng, nhờ thế chúng tôi được thoải mái. Giờ đây, (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán,” trong lúc ngần ngại chúng tôi đã không yêu cầu, vì thế không được thoải mái.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Các loại vật thực thượng hạng như là bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật ong, đường mía, cá, thịt, sữa tươi, sữa đông; vị tỳ khưu nào không bị bệnh mà yêu cầu các loại vật thực thượng hạng như thế cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[518] Các loại vật thực thượng hạng: Bơ lỏng nghĩa là bơ lỏng từ loài bò, hoặc là bơ lỏng từ loài dê, hoặc là bơ lỏng từ loài trâu, hoặc bơ lỏng từ các loài thú nào có thịt được phép (thọ thực).[3]Bơ đặc nghĩa là bơ đặc của chính các loài thú ấy. Dầu ăn nghĩa là dầu mè, dầu hạt mù tạt, dầu có chứa mật ong (madhukatelaṃ), dầu cây eraṇḍa, dầu từ mỡ thú. Mật ong nghĩa là mật của loài ong. Đường mía nghĩa là được sản xuất từ cây mía. Cá nghĩa là loài di chuyển trong nước được đề cập đến. Thịt nghĩa là thịt của các loài thú nào có thịt được phép (thọ dụng). Sữa tươi nghĩa là sữa tươi từ loài bò, hoặc là sữa tươi từ loài dê, hoặc là sữa tươi từ loài trâu, hoặc là sữa tươi từ các loài thú nào có thịt được phép (thọ dụng). Sữa đông nghĩa là sữa đông của các loài thú ấy.
[519] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Các loại vật thực thượng hạng như thế: các loại vật thực thượng hạng có hình thức như thế.
Không bị bệnh nghĩa là vị có được sự thoải mái khi không có các loại vật thực thượng hạng.
Bị bệnh nghĩa là vị không có sự thoải mái khi không có các loại vật thực thượng hạng.
Vị không bị bệnh mà yêu cầu cho nhu cầu của bản thân, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Nghĩ rằng): “Với sự đạt được, ta sẽ thọ dụng” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[520] Không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, vị yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không bị bệnh, có sự hoài nghi, vị yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không bị bệnh, (lầm) tưởng là bị bệnh, vị yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Bị bệnh, nhận biết là bị bệnh thì vô tội.
[521] Vị bị bệnh, sau khi bị bệnh rồi yêu cầu thì hết bệnh và thọ dụng, vị thọ dụng phần còn lại của vị bị bệnh, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ chín.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[522] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ là vị chuyên sử dụng vật quăng bỏ (sabbapaṃsukūliko) cư ngụ ở nghĩa địa. Vị ấy khi được dân chúng bố thí lại không muốn thọ lãnh. Vị ấy tự mình nhặt lấy các vật cúng vong ở trong nghĩa địa, ở gốc cây, ở ngưỡng cửa rồi thọ dụng. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao vị tỳ khưu này lại tự mình nhặt lấy các vật cúng vong của chúng tôi rồi thọ dụng? Vị tỳ khưu này cứng cáp vạm vỡ chắc hẳn có ăn thịt người?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu lại đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng?
…(như trên)…
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[523] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại về nước và tăm xỉa răng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép tự mình cầm lấy nước và tăm xỉa răng rồi thọ dụng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng ngoại trừ nước và tăm xỉa răng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[524] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chưa được bố thí nghĩa là chưa thọ lãnh được đề cập đến.
Đã được bố thí nghĩa là trong khi cho (vật thí) bằng thân, hoặc bằng vật dính liền với thân, hoặc bằng cách buông ra, (thí chủ) đứng trong tầm tay (1 mét 25), vị nhận lãnh bằng thân hoặc bằng vật được gắn liền với thân; điều này gọi là đã được bố thí.
Thức ăn nghĩa là bất cứ vật gì nên được nuốt vào vật ấy gọi là thức ăn ngoại trừ nước và tăm xỉa răng.
Ngoại trừ nước và tăm xỉa răng: trừ ra nước và tăm xỉa răng. Vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi cầm lấy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[525] Chưa được thọ lãnh, nhận biết là chưa được thọ lãnh, vị đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ nước và tăm xỉa răng.
Chưa được thọ lãnh, có sự hoài nghi, vị đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ nước và tăm xỉa răng.
Chưa được thọ lãnh, (lầm) tưởng là đã được thọ lãnh, vị đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ nước và tăm xỉa răng.
Đã được thọ lãnh, (lầm) tưởng là chưa được thọ lãnh, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Đã được thọ lãnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Đã được thọ lãnh, nhận biết là đã được thọ lãnh thì vô tội.
[526] Trường hợp nước và tăm xỉa răng, vị tự mình nhặt lấy rồi thọ dụng bốn loại vật dơ có tính quan trọng[4]khi có duyên cớ và không có người làm cho được phép, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười.
Phần Vật Thực là phần thứ tư.
*******
Tóm lược phần này:
Vật thực (ở phước xá),
vật thực dâng chung nhóm,
mời đây thọ nơi kia,
bánh ngọt, và hai chuyện
ăn xong đã chối từ,
sái thời, được tích trữ,
(các thức ăn) thượng hạng,
vào cửa miệng là mười.
*******
[1]Tài liệu The Buddhist Monastic Code cho biết khoảng cách của nửa yojana là 8 km hoặc 5 miles.
[2]Khi có cơn khát vị thọ dụng vật dùng hết đêm để chận đứng cơn khát; khi có bệnh sanh khởi, vị thọ dụng vật dùng trong bảy ngày hoặc vật dùng suốt đời để làm giảm nhẹ cơn bệnh thì vô tội (giải thích theo ngài Buddhaghosa).
[3]Thịt của mười loài thú vị tỳ khưu không được phép thọ thực được đề cập ở Đại Phẩm – Mahāvagga, chương VI, [59, 60] gồm có: thịt người, thịt voi, thịt ngựa, thịt chó, thịt rắn, thịt sư tử, thịt hổ, thịt beo, thịt gấu, thịt chó sói.
[4]Cattāri mahāvikatāni: bốn loại vật dơ có tính quan trọng là: phân (gūthaṃ), nước tiểu (muttaṃ), tro (chārikaṃ), và đất sét (mattikaṃ) được sử dụng trong trường hợp bị rắn cắn (Sđd., VI, [43]).
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[527] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, có vật thực cứng phát sanh đến hội chúng. Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Ānanda, như thế thì hãy cho bánh ngọt đến những người dùng vật thực thừa.
- Bạch ngài, xin vâng.
Nghe theo lời đức Thế Tôn, đại đức Ānanda đã bảo những người dùng vật thực thừa ngồi xuống theo thứ tự rồi trong lúc cho mỗi người một cái bánh ngọt đã cho người nữ du sĩ ngoại đạo nọ hai cái bánh ngọt nghĩ rằng một cái. Các nữ du sĩ ngoại đạo xung quanh đã nói với nữ du sĩ ngoại đạo ấy điều này:
- Vị sa-môn ấy là tình nhân của cô.
- Vị sa-môn ấy không phải là tình nhân của tôi. Vị ấy đã cho hai cái bánh ngọt nghĩ rằng một cái.
Đến lần thứ nhì, đại đức Ānanda trong lúc cho mỗi người một cái bánh ngọt đã cho chính nữ du sĩ ngoại đạo ấy hai cái bánh ngọt nghĩ rằng một cái. Các nữ du sĩ ngoại đạo xung quanh đã nói với nữ du sĩ ngoại đạo ấy điều này:
- Vị sa-môn ấy là tình nhân của cô.
- Vị sa-môn ấy không phải là tình nhân của tôi. Vị ấy đã cho hai cái bánh ngọt nghĩ rằng một cái.
Đến lần thứ ba, đại đức Ānanda trong lúc cho mỗi người một cái bánh ngọt đã cho chính nữ du sĩ ngoại đạo ấy hai cái bánh ngọt nghĩ rằng một cái. Các nữ du sĩ ngoại đạo xung quanh đã nói với nữ du sĩ ngoại đạo ấy điều này:
- Vị sa-môn ấy là tình nhân của cô.
- Vị sa-môn ấy không phải là tình nhân của tôi. Vị ấy đã cho hai cái bánh ngọt nghĩ rằng một cái.
- Tình nhân! Không phải là tình nhân! Các cô ấy đã cãi vả nhau.
Có đạo sĩ lõa thể nọ đã đi đến nơi phân phát thực phẩm. Có vị tỳ khưu nọ sau khi nghiền cơm với nhiều bơ lỏng rồi đã cho người đạo sĩ lõa thể ấy một khối cơm lớn. Khi ấy, người đạo sĩ lõa thể ấy đã cầm lấy khối cơm ấy rồi ra đi. Một đạo sĩ lõa thể khác đã nói với người đạo sĩ lõa thể ấy điều này:
- Này huynh đệ, từ đâu ngươi đã có được khối cơm vậy?
- Này huynh đệ, đã có được từ nơi phân phát thực phẩm của gia chủ đầu trọc tức là Sa-môn Gotama ấy.
Các nam cư sĩ đã nghe được cuộc nói chuyện này của những người đạo sĩ lõa thể ấy. Sau đó, các nam cư sĩ ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, các nam cư sĩ ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, những tu sĩ ngoại đạo này có ý muốn bôi nhọ đức Phật, có ý muốn bôi nhọ Giáo Pháp, có ý muốn bôi nhọ Hội chúng. Bạch ngài, tốt thay các ngài đại đức không nên tự tay cho đến các tu sĩ ngoại đạo.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các nam cư sĩ ấy bằng bài Pháp thoại. Sau đó, các nam cư sĩ ấy khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy sau khi triệu tập hội chúng tỳ khưu lại đã thuyết Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm đem lại sự an lạc cho hội chúng, ...(như trên)... nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tự tay cho vật thực cứng hoặc vật thực mềm đến đạo sĩ lõa thể, hoặc nam du sĩ ngoại đạo, hoặc nữ du sĩ ngoại đạo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[528] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Đạo sĩ lõa thể nghĩa là bất cứ người lõa thể nào thành tựu pháp du sĩ.
Nam du sĩ ngoại đạo nghĩa là bất cứ người nam thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỳ khưu và sa di.
Nữ du sĩ ngoại đạonghĩa là bất cứ người nữ nào thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỳ khưu ni, vị ni tu tập sự, và sa di ni.
Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, nước và tăm xỉa răng; phần còn lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt.
Cho: Vị cho bằng thân, hoặc bằng vật được gắn liền với thân, hoặc bằng cách buông ra thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[529] Tu sĩ ngoại đạo, nhận biết là tu sĩ ngoại đạo, vị tự tay cho vật thực cứng hoặc vật thực mềmthì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Tu sĩ ngoại đạo, có sự hoài nghi, vị tự tay cho vật thực cứng hoặc vật thực mềmthì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Tu sĩ ngoại đạo, (lầm) tưởng không phải là tu sĩ ngoại đạo, vị tự tay cho vật thực cứng hoặc vật thực mềmthì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị cho nước và tăm xỉa răngthì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là tu sĩ ngoại đạo, (lầm) tưởng là tu sĩ ngoại đạo, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là tu sĩ ngoại đạo, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là tu sĩ ngoại đạo, nhận biết không phải là tu sĩ ngoại đạo thì vô tội.
[530] Vị bảo (người khác) cho và không (tự mình) cho, vị cho sau khi đã để gần bên, vị cho vật thoa bên ngoài, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[531] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã nói với vị tỳ khưu là đệ tử của người anh điều này:
- Này đại đức, hãy đến. Chúng ta sẽ đi vào làng để khất thực.
Sau khi bảo đừng bố thí cho vị ấy rồi đã đuổi đi (nói rằng):
- Này đại đức, hãy đi đi. Nói chuyện hoặc ngồi với ngươi ta không được thoải mái. Nói chuyện hoặc ngồi mỗi một mình ta còn có sự an lạc.
Khi ấy thời giờ đã cận, vị tỳ khưu ấy đã không thể đi khất thực. Khi đi trở về, vị ấy đã không có được phần phân chia về vật thực nên bữa ăn đã bị lỡ. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến tu viện và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, hãy đến. Chúng ta sẽ đi vào làng để khất thực,” sau khi bảo đừng bố thí cho vị ấy rồi lại đuổi đi?
…(như trên)…
- Này Upananda, nghe nói ngươi nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, hãy đến. Chúng ta sẽ đi vào làng để khất thực,” sau khi bảo đừng bố thí cho vị ấy rồi đuổi đi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, hãy đến. Chúng ta sẽ đi vào làng để khất thực,” sau khi bảo đừng bố thí cho vị ấy rồi lại đuổi đi vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nói với vị tỳ khưu như vầy: ‘Này đại đức, hãy đến. Chúng ta sẽ đi vào làng hoặc thị trấn để khất thực,’ sau khi bảo bố thí hoặc bảo đừng bố thí cho vị ấy rồi đuổi đi (nói rằng): ‘Này đại đức, hãy đi đi. Nói chuyện hoặc ngồi với ngươi ta không được thoải mái. Nói chuyện hoặc ngồi mỗi một mình ta còn có sự an lạc.’ Sau khi thực hiện chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[532] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.
Này đại đức, hãy đến. (Chúng ta sẽ đi vào) làng hoặc thị trấn: Làng, thị trấn, thành phố, làng luôn cả thị trấn.
Sau khi bảo bố thí cho vị ấy: Sau khi bảo bố thí xúp, hoặc bữa ăn, hoặc vật thực cứng, hoặc vật thực mềm.
Bảo đừng bố thí: bảo đừng bố thí bất cứ vật gì.
Đuổi đi: Vị có ý định cười, có ý định đùa giỡn, có ý định ngồi ở chỗ kín đáo, có ý định hành xử sai nguyên tắc với người nữ rồi nói như vầy: “Này đại đức, hãy đi đi. Nói chuyện hoặc ngồi với ngươi ta không được thoải mái. Nói chuyện hoặc ngồi mỗi một mình ta còn có sự an lạc” vị đuổi đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi (vị kia) đang lìa khỏi tầm nhìn hoặc tầm nghe, (vị đuổi đi) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi (vị kia) đã lìa khỏi, (vị đuổi đi) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Sau khi thực hiện chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác: không phải bất cứ nguyên nhân nào khác để đuổi đi.
[533] Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị đuổi đi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị đuổi đi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị đuổi đi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đưa ra lời ám chỉ về tật xấu (của vị kia) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị đuổi đi người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị đưa ra lời ám chỉ về tật xấu (của người chưa tu lên bậc trên) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[534] Vị đuổi đi (nói rằng): “Cả hai đi chung sẽ không có vật thực,” sau khi nhìn thấy vật có giá trị cao (nghĩ rằng): “Vị ấy sẽ sanh khởi tâm tham” rồi đuổi đi, sau khi nhìn thấy người nữ (nghĩ rằng): “Vị ấy sẽ sanh khởi sự không phấn chấn” rồi đuổi đi, vị đuổi đi (nói rằng): “Hãy mang về cháo hoặc bữa ăn hoặc vật thực cứng hoặc vật thực mềm cho vị bị bệnh hoặc vị ở lại hoặc vị canh giữ tu viện,” không có ý định hành xử sai nguyên tắc, vị đuổi đi khi có việc cần phải làm, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhì.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[535] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya sau khi di đến nhà của người bạn đã ngồi trong phòng ngủ với vợ của người ấy. Khi ấy, người đàn ông ấy đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Upananda con trai dòng Sākya rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, người đàn ông ấy đã nói với người vợ điều này:
- Hãy dâng đồ khất thực đến ngài đại đức.
Khi ấy, người đàn bà ấy đã dâng đồ khất thực đến đại đức Upananda con trai dòng Sākya. Sau đó, người đàn ông ấy đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:
- Thưa ngài, xin hãy đi bởi vì đồ khất thực đã được dâng đến ngài đại đức.
Khi ấy, người đàn bà ấy biết được rằng: “Người đàn ông này đã bị ám ảnh (bởi dục)!” nên đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:
- Thưa ngài, xin hãy ngồi lại, chớ có đi.
Đến lần thứ nhì, người đàn ông ấy …(như trên)…
Đến lần thứ ba, người đàn ông ấy đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:
- Thưa ngài, xin hãy đi bởi vì đồ khất thực đã được dâng đến ngài đại đức.
Đến lần thứ ba, người đàn bà ấy đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:
- Thưa ngài, xin hãy ngồi lại, chớ có đi.
Khi ấy, người đàn ông ấy đã đi ra ngoài và phàn nàn với các tỳ khưu rằng:
- Thưa các ngài, ngài đại đức Upananda này đã ngồi trong phòng ngủ với vợ của tôi. Vị ấy khi được tôi mời đi lại không chịu đi. Chúng tôi có nhiều phận sự có nhiều công việc phải làm.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya sau khi đi vào gia đình chỉ có cặp vợ chồng lại ngồi xuống?
…(như trên)…
- Này Upananda, nghe nói ngươi sau khi đi vào gia đình chỉ có cặp vợ chồng rồi ngồi xuống, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi sau khi đi vào gia đình chỉ có cặp vợ chồng lại ngồi xuống vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi đi vào gia đình chỉ có cặp vợ chồng rồi ngồi xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[536] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Gia đình chỉ có cặp vợ chồng nghĩa là chỉ có người đàn bà và người đàn ông. Cả hai chưa đi ra, cả hai chưa đoạn tận ái dục.
Sau khi đi vào: sau khi đi vào bên trong.
Ngồi xuống: Trong ngôi nhà lớn, vị đi qua khỏi khung cửa lớn một tầm tay (1 mét 25) rồi ngồi xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Trong ngôi nhà nhỏ, vị vượt qua khỏi trung tâm của nhà rồi ngồi xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[537] Trong phòng ngủ, nhận biết là phòng ngủ, vị đi vào gia đình chỉ có cặp vợ chồng rồi ngồi xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Trong phòng ngủ, có sự hoài nghi, vị đi vào gia đình chỉ có cặp vợ chồng rồi ngồi xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Trong phòng ngủ, (lầm) tưởng không phải là phòng ngủ, vị đi vào gia đình chỉ có cặp vợ chồng rồi ngồi xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải là phòng ngủ, (lầm) tưởng là phòng ngủ, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là phòng ngủ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là phòng ngủ, nhận biết không phải là phòng ngủ thì vô tội.
[538] Trong ngôi nhà lớn vị không đi qua khỏi khung cửa lớn một tầm tay rồi ngồi xuống, trong ngôi nhà nhỏ vị không vượt qua khỏi trung tâm của nhà rồi ngồi xuống, có vị tỳ khưu thứ hai, cả hai (vợ chồng) đã đi ra khỏi, cả hai đã đoạn tận ái dục, không phải ở trong phòng ngủ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[539] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya sau khi di đến nhà của người bạn đã cùng với vợ của người ấy ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất. Khi ấy, người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ngài đại đức Upananda lại cùng với vợ tôi ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất?
Các tỳ khưu đã nghe được người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya lại cùng với người nữ ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất?
…(như trên)…
- Này Upananda, nghe nói ngươi cùng với người nữ ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại cùng với người nữ ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào cùng với người nữ ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[540] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữ: nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, ngay cả đứa bé gái mới sanh ngày hôm ấy cho đến bà lão.
Với: cùng chung.
Kín đáo: nghĩa là kín đáo đối với mắt, kín đáo đối với tai.
Kín đáo đối với mắt: nghĩa là không thể nhìn thấy trong khi bị che mắt lại, trong khi nhướng mày, trong khi ngẩng đầu lên.
Kín đáo đối với tai: nghĩa là không thể nghe lời nói (với giọng) bình thường.
Được che khuất: nghĩa là chỗ ngồi được che khuất bởi bức tường, bởi cánh cửa, bởi tấm màn, bởi khung chắn, bởi cội cây, bởi cột nhà, bởi nhà kho, hoặc bởi bất cứ vật gì.
Ngồi: Khi người nữ đang ngồi, vị tỳ khưu ngồi gần hoặc nằm gần thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Trong lúc vị tỳ khưu đang ngồi, người nữ ngồi gần hoặc nằm gần thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Hoặc cả hai đang ngồi, hoặc cả hai đang nằm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[541] Là người nữ, nhận biết là người nữ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Là người nữ, có sự nghi ngờ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Là người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị cùng với nữ dạ-xoa, hoặc ma nữ, hoặc người vô căn, hoặc loài thú cái dạng người ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là người nữ, (lầm) tưởng là người nữ, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ thì vô tội.
[542] Có bất cứ người nam nào có trí suy xét là người thứ nhì, vị đứng không ngồi, không mong mỏi chỗ kín đáo, đang bận tâm chuyện khác rồi ngồi xuống, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tư.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[543] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya sau khi di đến nhà của người bạn đã cùng với vợ của người ấy một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo. Khi ấy, người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ngài đại đức Upananda lại cùng với vợ tôi một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo?
Các tỳ khưu đã nghe được người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya lại cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo?
…(như trên)…
- Này Upananda, nghe nói ngươi cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[544] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữ: nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có hiểu biết, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là dâm dật và không dâm dật.
Với: cùng chung.
Một nam một nữ: chỉ có vị tỳ khưu và người nữ.
Kín đáo: nghĩa là kín đáo đối với mắt, kín đáo đối với tai.
Kín đáo đối với mắt: nghĩa là không thể nhìn thấy trong khi bị che mắt lại, trong khi nhướng mày, trong khi ngẩng đầu lên.
Kín đáo đối với tai: nghĩa là không thể nghe lời nói (với giọng) bình thường.
Ngồi: Khi người nữ đang ngồi, vị tỳ khưu ngồi gần hoặc nằm gần thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Trong lúc vị tỳ khưu đang ngồi, người nữ ngồi gần hoặc nằm gần thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Hoặc cả hai đang ngồi, hoặc cả hai đang nằm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[545] Là người nữ, nhận biết là người nữ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo một nam một nữ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Là người nữ, có sự nghi ngờ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo một nam một nữ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Là người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo một nam một nữ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị cùng với nữ dạ-xoa, hoặc ma nữ, hoặc người vô căn, hoặc loài thú cái dạng người ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo một nam một nữ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là người nữ, (lầm) tưởng là người nữ, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ thì vô tội.
[546] Có bất cứ người nam nào có trí suy xét là người thứ nhì, vị đứng không ngồi, không mong mỏi chỗ kín đáo, đang bận tâm chuyện khác rồi ngồi xuống, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ năm.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[547] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ của đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã thỉnh mời đại đức Upananda con trai dòng Sākya với bữa trai phạn và cũng đã thỉnh mời các vị tỳ khưu khác với bữa trai phạn. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya thường đi giao thiệp với các gia đình trước bữa ăn. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã nói với những người ấy điều này:
- Này các đạo hữu, hãy dâng bữa trai phạn.
- Thưa các ngài, xin hãy chờ đến khi ngài đại đức Upananda đến.
Đến lần thứ nhì, các vị tỳ khưu ấy đã nói với những người ấy điều này:
- Này các đạo hữu, hãy dâng bữa trai phạn.
- Thưa các ngài, xin hãy chờ đến khi ngài đại đức Upananda đến.
Đến lần thứ ba, các vị tỳ khưu ấy đã nói với những người ấy điều này:
- Này các đạo hữu, hãy dâng bữa trai phạn trước khi thời giờ đi quá.
- Thưa các ngài, chúng tôi đã làm bữa trai phạn vì nguyên nhân là ngài đại đức Upananda. Thưa các ngài, xin hãy chờ đến khi ngài đại đức Upananda đến.
Sau đó, đại đức Upananda con trai dòng Sākya sau khi đi giao thiệp với các gia đình trước bữa ăn đã đi đến kịp giờ ngọ. Các tỳ khưu đã không thọ thực được như ý. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya khi đã được thỉnh mời, khi đã có bữa trai phạn còn đi đến các gia đình trước bữa ăn?
…(như trên)…
- Này Upananda, nghe nói ngươi khi đã được thỉnh mời, khi đã có bữa trai phạn còn đi đến các gia đình trước bữa ăn, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi khi đã được thỉnh mời, khi đã có bữa trai phạn còn đi đến các gia đình trước bữa ăn vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào khi đã được thỉnh mời, khi đã có bữa trai phạn còn đi đến các gia đình trước bữa ăn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[548] Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ của tỳ khưu Upananda con trai dòng Sākya đã cho người đem lại vật thực loại cứng nhằm dâng đến hội chúng (dặn dò) rằng: “Nên trình cho ngài đại đức Upananda thấy rồi mới dâng đến hội chúng.” Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đi vào làng để khất thực. Khi ấy, những người ấy sau khi đi đến tu viện đã hỏi các vị tỳ khưu rằng:
- Thưa các ngài, ngài đại đức Upananda ở đâu vậy?
- Này các đạo hữu, đại đức Upananda con trai dòng Sākya này đã đi vào làng để khất thực.
- Thưa các ngài, vật thực loại cứng này (được dặn dò rằng): “Nên trình cho ngài đại đức Upananda thấy rồi mới dâng đến hội chúng.”
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, như vậy thì sau khi thọ lãnh các ngươi hãy để riêng ra cho đến khi Upananda trở về.
Khi ấy, đại đức Upananda con trai dòng Sākya (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đi đến các gia đình trước bữa ăn” nên đã đi giao thiệp với các gia đình sau bữa ăn rồi về lại trong ngày. Món vật thực cứng đã bị bỏ đi.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya lại đi đến các gia đình sau bữa ăn?
…(như trên)…
- Này Upananda, nghe nói ngươi đi đến các gia đình sau bữa ăn, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại đi đến các gia đình sau bữa ăn vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào khi đã được thỉnh mời, khi đã có bữa trai phạn còn đi đến các gia đình trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[549] Vào lúc bấy giờ, nhằm thời hạn dâng y các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không đi giao thiệp với các gia đình. Y được phát sanh ít ỏi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đi giao thiệp với các gia đình trong thời hạn dâng y. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào khi đã được thỉnh mời, khi đã có bữa trai phạn còn đi đến các gia đình trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trong thời hạn dâng y. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[550] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu làm công việc may y có nhu cầu về kim, chỉ, dao nhỏ. Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không đi giao thiệp với các gia đình. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đi giao thiệp với các gia đình trong lúc may y. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào khi đã được thỉnh mời, khi đã có bữa trai phạn còn đi đến các gia đình trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trong thời hạn dâng y, trong lúc may y. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[551] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các dược phẩm. Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không đi giao thiệp với các gia đình. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (vị tỳ khưu) có sự thông báo đến vị tỳ khưu hiện diện được đi giao thiệp với các gia đình. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào khi đã được thỉnh mời, khi đã có bữa trai phạn, chưa có sự thông báo đến vị tỳ khưu hiện diện lại đi đến các gia đình trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trong thời hạn dâng y, trong lúc may y. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”
[552] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Đã được thỉnh mời nghĩa là đã được thỉnh mời với bất cứ loại vật thực nào thuộc về năm loại vật thực.
Có bữa trai phạn nghĩa là đã được thỉnh mời với món gì thì bữa trai phạn là với món đó.
Vị tỳ khưu hiện diện nghĩa là có thể có sự thông báo để đi vào (làng).
Vị tỳ khưu không hiện diện nghĩa là không thể có sự thông báo để đi vào (làng).
Trước bữa ăn nghĩa là đã được thỉnh mời với món gì thì chưa được ăn món đó.
Sau bữa ăn nghĩa là đã được thỉnh mời với món gì thì món đó đã được ăn, dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa.
Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình sát-đế-lỵ, gia đình bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.
Đi đến các gia đình: Vị đang bước vào khu vực lân cận ngôi nhà của người khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị vượt qua ngưỡng cửa bước thứ nhất thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị vượt qua ngưỡng cửa bước thứ nhì thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có nguyên cớ.
Trong thời hạn dâng y nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu thì tháng cuối cùng của mùa mưa, khi Kaṭhina được thành tựu thì năm tháng.
Trong lúc may y nghĩa là trong lúc y đang được may.
[553] Đã được thỉnh mời, nhận biết là đã được thỉnh mời, vị chưa có sự thông báo đến vị tỳ khưu hiện diện lại đi đến các gia đình trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Đã được thỉnh mời, có sự nghi ngờ, vị chưa có sự thông báo đến vị tỳ khưu hiện diện lại đi đến các gia đình trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Đã được thỉnh mời, (lầm) tưởng là không được thỉnh mời, vị chưa có sự thông báo đến vị tỳ khưu hiện diện lại đi đến các gia đình trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Không được thỉnh mời, (lầm) tưởng là đã được thỉnh mời, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không được thỉnh mời, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không được thỉnh mời, nhận biết là không được thỉnh mời thì vô tội.
[554] Khi có duyên cớ, có sự thông báo đến vị tỳ khưu hiện diện rồi đi vào (làng), không có vị tỳ khưu hiện diện rồi đi vào (làng) không có sự thông báo, đường đi ngang qua ngôi nhà của người khác, đường đi ngang qua khu vực lân cận ngôi nhà (của người khác), vị đi đến tu viện ở giữa làng, vị đi đến tu viện của các tỳ khưu ni, vị đi đến chỗ ngụ của các tu sĩ ngoại đạo, vị đi trở về, vị đi đến nhà của thí chủ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ sáu.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[555] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, Mahānāma dòng Sākya có nhiều dược phẩm. Khi ấy, Mahānāma dòng Sākya đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Mahānāma dòng Sākya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, tôi muốn thỉnh cầu hội chúng về dược phẩm trong bốn tháng.
- Này Mahānāma, tốt lắm, tốt lắm! Này Mahānāma, như thế ngươi hãy thỉnh cầu hội chúng về dược phẩm trong bốn tháng.
Các tỳ khưu ngần ngại không nhận lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép chấp nhận sự thỉnh cầu về vật dụng trong bốn tháng.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu yêu cầu dược phẩm (một số lượng) rất ít ỏi ở Mahānāma dòng Sākya. Giống như trước đây, dược phẩm của Mahānāma dòng Sākya vẫn dồi dào. Đến lần thứ nhì, Mahānāma dòng Sākya đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Mahānāma dòng Sākya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, tôi muốn thỉnh cầu hội chúng về dược phẩm trong bốn tháng kế tiếp.
- Này Mahānāma, tốt lắm, tốt lắm! Này Mahānāma, như thế ngươi hãy thỉnh cầu hội chúng về dược phẩm trong bốn tháng kế tiếp.
Các tỳ khưu ngần ngại không nhận lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép chấp nhận sự thỉnh cầu tiếp tục.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu yêu cầu dược phẩm (một số lượng) rất ít ỏi ở Mahānāma dòng Sākya. Giống như trước đây, dược phẩm của Mahānāma dòng Sākya vẫn dồi dào. Đến lần thứ ba, Mahānāma dòng Sākya đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Mahānāma dòng Sākya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, tôi muốn thỉnh cầu hội chúng về dược phẩm đến trọn đời.
- Này Mahānāma, tốt lắm, tốt lắm! Này Mahānāma, như thế ngươi hãy thỉnh cầu hội chúng về dược phẩm đến trọn đời.
Các tỳ khưu ngần ngại không nhận lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép chấp nhận sự thỉnh cầu vĩnh viễn.
[556] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư quấn y bê bối, trùm y luộm thuộm, không được chỉnh tề nên bị Mahānāma dòng Sākya nói rằng:
- Thưa các ngài, tại sao các ngài lại quấn y bê bối, trùm y luộm thuộm, không được chỉnh tề? Chẳng phải vị xuất gia nên quấn y đàng hoàng, trùm y gọn gàng, có sự chỉnh tề hay sao?
Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã kết oan trái với Mahānāma dòng Sākya. Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã khởi ý điều này: “Có phương kế gì chúng ta có thể làm cho Mahānāma dòng Sākya bị xấu hổ?” Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã khởi ý điều này: “Này các đại đức, hội chúng đã được Mahānāma dòng Sākya thỉnh cầu về dược phẩm. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy yêu cầu Mahānāma dòng Sākya về bơ lỏng đi.” Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã đi đến gặp Mahānāma dòng Sākya, sau khi đến đã nói với Mahānāma dòng Sākya điều này:
- Này đạo hữu, có nhu cầu về một chum (doṇa [1]) bơ lỏng.
- Thưa các ngài, xin hãy chờ đợi đến ngày mai. Nhiều người đã đi đến trại bò để lấy bơ lỏng; các ngài sẽ mang đi đúng hẹn.
Đến lần thứ nhì, …(như trên)…
Đến lần thứ ba, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nói với Mahānāma dòng Sākya điều này:
- Này đạo hữu, có nhu cầu về một chum bơ lỏng.
- Thưa các ngài, xin hãy chờ đợi đến ngày mai. Nhiều người đã đi đến trại bò để lấy bơ lỏng; các ngài sẽ mang đi đúng hẹn.
- Này đạo hữu, đạo hữu không chịu bố thí khi được yêu cầu, việc gì khiến đạo hữu nói lời thỉnh cầu khi không có ý định bố thí vậy?
Khi ấy, Mahānāma dòng Sākya phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao khi được nói rằng: “Thưa các ngài, xin hãy chờ đợi đến ngày mai” các đại đức lại không chịu chờ đợi?
Các tỳ khưu đã nghe được Mahānāma dòng Sākya phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư khi được Mahānāma dòng Sākya nói rằng: “Thưa các ngài, xin hãy chờ đợi đến ngày mai” lại không chịu chờ đợi?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi khi được Mahānāma dòng Sākya nói rằng: “Thưa các ngài, xin hãy chờ đợi đến ngày mai” lại không chịu chờ đợi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi khi được Mahānāma dòng Sākya nói rằng: “Thưa các ngài, xin hãy chờ đợi đến ngày mai” lại không chịu chờ đợi vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu không bị bệnh nên chấp nhận sự thỉnh cầu về vật dụng trong bốn tháng ngoại trừ có sự thỉnh cầu tiếp tục, ngoại trừ có sự thỉnh cầu đến trọn đời. Nếu chấp nhận vượt quá hạn ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[557] Vị tỳ khưu không bị bệnh nên chấp nhận sự thỉnh cầu về vật dụng trong bốn tháng: sự thỉnh cầu trong trường hợp bị bệnh nên được chấp nhận, lời thỉnh cầu tiếp tục cũng nên được chấp nhận (nói rằng): “Khi nào tôi bị bệnh, khi ấy tôi sẽ yêu cầu.” Lời thỉnh cầu đến trọn đời cũng nên được chấp nhận (nói rằng): “Khi nào tôi bị bệnh, khi ấy tôi sẽ yêu cầu.”
[558] Nếu chấp nhận vượt quá hạn ấy: Có sự thỉnh cầu có sự giới hạn về dược phẩm không có sự giới hạn về đêm. Có sự thỉnh cầu có sự giới hạn về đêm không có sự giới hạn về dược phẩm. Có sự thỉnh cầu có sự giới hạn về dược phẩm và có sự giới hạn về đêm. Có sự thỉnh cầu không có sự giới hạn về dược phẩm và không có sự giới hạn về đêm.
Có sự giới hạn về dược phẩm nghĩa là các dược phẩm được xét đến rồi (nói rằng): “Tôi nói lời thỉnh cầu với chừng này dược phẩm.”
Có sự giới hạn về đêm nghĩa là các đêm được xét đến rồi (nói rằng): “Tôi nói lời thỉnh cầu trong (thời hạn) chừng này đêm.”
Có sự giới hạn về dược phẩm và có sự giới hạn về đêm nghĩa là các dược phẩm được xét đến và các đêm được xét đến rồi (nói rằng): “Tôi nói lời thỉnh cầu với chừng này dược phẩm trong (thời hạn) chừng này đêm.”
Không có sự giới hạn về dược phẩm và không có sự giới hạn về đêm nghĩa là các dược phẩm không được xét đến và các đêm không được xét đến.
[559] Khi có sự giới hạn về dược phẩm, trừ ra các dược phẩm đã được thỉnh cầu, vị yêu cầu các loại dược phẩm khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi có sự giới hạn về đêm, trừ ra các đêm đã được thỉnh cầu, vị yêu cầu trong các đêm khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi có sự giới hạn về sự thỉnh cầu và có sự giới hạn về đêm, trừ ra các dược phẩm đã được thỉnh cầu và trừ ra các đêm đã được thỉnh cầu, vị yêu cầu các loại dược phẩm khác trong các đêm khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi không có sự giới hạn về sự thỉnh cầu và không có sự giới hạn về đêm thì vô tội.
[560] Khi không cần dùng dược phẩm, vị yêu cầu dược phẩm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi cần dùng dược phẩm này, vị yêu cầu dược phẩm khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã quá hạn ấy, nhận biết là đã quá hạn ấy, vị yêu cầu dược phẩm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã quá hạn ấy, có sự hoài nghi, vị yêu cầu dược phẩm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã quá hạn ấy, (lầm) tưởng là chưa quá hạn ấy, vị yêu cầu dược phẩm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa quá hạn ấy, (lầm) tưởng là đã quá hạn ấy, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa quá hạn ấy, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa quá hạn ấy, nhận biết là chưa quá hạn ấy thì vô tội.
[561] Vị yêu cầu các loại dược phẩm đã được thỉnh cầu, vị yêu cầu trong (thời hạn) các đêm đã được thỉnh cầu, sau khi nói rõ rồi yêu cầu: “Chúng tôi đã được quý vị thỉnh cầu các loại dược phẩm này, giờ chúng tôi có nhu cầu về dược phẩm loại này và loại này,” sau khi nói rõ rồi yêu cầu: “(Thời hạn) các đêm chúng tôi được quý vị thỉnh cầu đã trôi qua, giờ chúng tôi có nhu cầu về dược phẩm,” của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ bảy.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[562] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đức vua Pasenadi xứ Kosala cùng với quân đội đi đánh trận. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã đi để xem quân đội động binh. Đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nhìn thấy các tỳ khưu nhóm Lục Sư đang đi lại từ đàng xa, sau khi nhìn thấy đã cho người gọi đến rồi đã nói điều này:
- Thưa các ngài, vì sao các ngài lại đi đến nơi này?
- Tâu đại vương, chúng tôi có ý muốn xem.
- Thưa các ngài, việc gì lại nhìn trẫm đang say sưa chiến trận? Sao không chiêm ngưỡng đức Thế Tôn?
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại đi đến để xem quân đội động binh? Chúng tôi không có lợi nhuận, chúng tôi thu nhập khó khăn, chúng tôi vì lý do nuôi mạng, vì nguyên nhân vợ con mà phải đi vào quân đội.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đi để xem quân đội động binh?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đi để xem quân đội động binh, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại đi để xem quân đội động binh vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào đi để xem quân đội động binh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[563] Vào lúc bấy giờ, có người cậu của vị tỳ khưu nọ bị bệnh ở trong binh đội. Người ấy đã phái sứ giả đi đến gặp vị tỳ khưu ấy (nhắn rằng): “Bởi vì cậu bị bệnh ở trong binh đội. Đại đức hãy đi đến. Cậu mong sự đi đến của đại đức.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý rằng: “Đức Thế Tôn đã quy định điều học cho các tỳ khưu rằng: “Không được đi để xem quân đội động binh, và người cậu này của ta thì bị bệnh ở trong binh đội, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đi đến binh đội khi có nhân duyên như thế. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào đi để xem quân đội động binh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có nhân duyên như thế.”
[564] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Động binh nghĩa là quân đội sau khi đi ra từ làng thì đóng trại hoặc là tiến tới.
Quân đội nghĩa là các tượng binh, các kỵ binh, các xa binh, các bộ binh. Tượng binh thì có mười hai người đàn ông (một con voi). Kỵ binh thì có ba người đàn ông (một con ngựa). Xa binh thì có bốn người đàn ông (một chiếc xe). Bốn người đàn ông có vũ khí ở tay là bộ binh. Vị đi để xem thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Đứng ở nơi ấy nhìn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi rời khỏi khu vực lân cận của quang cảnh, vị lại nhìn nữa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Ngoại trừ có nhân duyên như thế: trừ ra có nhân duyên như thế.
[565] Khi động binh, nhận biết là động binh, vị đi để xem thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có nhân duyên như thế.
Khi động binh, có sự hoài nghi, vị đi để xem thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có nhân duyên như thế.
Khi động binh, (lầm) tưởng không phải là động binh, vị đi để xem thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có nhân duyên như thế.
Vị đi để xem mỗi một (loại binh chủng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Đứng ở nơi ấy nhìn thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi rời khỏi khu vực lân cận của quang cảnh, vị lại nhìn nữa thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là động binh, (lầm) tưởng là động binh, phạm tội dukkaṭa.
Không phải là động binh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Không phải là động binh, nhận biết không phải là động binh thì vô tội.
[566] Vị đứng ở trong tu viện nhìn thấy, (việc động binh) di chuyển đến chỗ đứng hoặc chỗ ngồi hoặc chỗ nằm của vị tỳ khưu, vị nhìn thấy khi đi ngược chiều, ngoại trừ có nhân duyên như thế, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tám.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[567] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, khi có công việc cần thiết các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến nơi binh đội rồi cư ngụ trong binh đội hơn hai ba đêm.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại cư ngụ trong binh đội? Chúng tôi không có lợi nhuận, chúng tôi thu nhập khó khăn, chúng tôi vì lý do nuôi mạng, vì nguyên nhân vợ con mà phải sống trong binh đội.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại cư ngụ trong binh đội hơn hai ba đêm?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi cư ngụ trong binh đội hơn hai ba đêm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại cư ngụ trong binh đội hơn hai ba đêm vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Nếu có nhân duyên nào đó khiến vị tỳ khưu ấy đi đến nơi binh đội, vị tỳ khưu ấy nên cư ngụ trong binh đội hai ba đêm; nếu vượt hơn số ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[568] Nếu có nhân duyên nào đó khiến vị tỳ khưu ấy đi đến nơi binh đội: nếu có duyên cớ, nếu có việc cần làm.
Vị tỳ khưu ấy nên cư ngụ trong binh đội hai ba đêm: nên trú hai ba đêm.
Nếu vượt hơn số ấy: khi mặt trời lặn vào ngày thứ tư, vị cư ngụ trong binh đội thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[569] Khi hơn hai ba đêm, nhận biết là đã hơn, vị cư ngụ trong binh đội thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi hơn hai ba đêm, có sự hoài nghi, vị cư ngụ trong binh đội thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi hơn hai ba đêm, (lầm) tưởng là còn kém, vị cư ngụ trong binh đội thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi còn kém hai ba đêm, (lầm) tưởng là đã hơn, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi còn kém hai ba đêm, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi còn kém hai ba đêm, nhận biết còn kém thì vô tội.
[570] Vị cư ngụ hai ba đêm, vị cư ngụ còn kém hai ba đêm, sau khi cư ngụ hai đêm vào đêm thứ ba sau khi đi ra khỏi trước rạng đông rồi cư ngụ trở lại, vị bị bệnh rồi cư ngụ, vị cư ngụ vì có việc cần làm đối với người bệnh, binh đội bị bao vây bởi quân địch, vị bị cản trở bởi điều gì đó, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ chín.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[571] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, trong khi cư ngụ hai ba đêm trong binh đội các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi đến nơi tập trận, nơi đóng quân, nơi dàn binh, đội chủ lực. Có vị tỳ khưu nọ thuộc nhóm Lục Sư sau khi đi đến nơi tập trận đã bị trúng mũi tên. Dân chúng đã chế giễu vị tỳ khưu ấy rằng:
- Thưa ngài, chắc hẳn đã là trận chiến cừ khôi? Ngài chiếm được bao nhiêu mục tiêu?
Trong khi bị những người ấy chế giễu, vị tỳ khưu ấy đã xấu hổ. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại đi đến để xem nơi tập trận? Chúng tôi không có lợi nhuận, chúng tôi thu nhập khó khăn, chúng tôi vì lý do nuôi mạng, vì nguyên nhân vợ con mà phải đi đến nơi tập trận.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đi để xem nơi tập trận?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đi để xem nơi tập trận, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại đi để xem nơi tập trận vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Nếu trong khi cư ngụ ở binh đội hai ba đêm vị tỳ khưu đi đến nơi tập trận, hoặc nơi đóng quân, hoặc nơi dàn binh, hoặc đội chủ lực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[572] Nếu vị tỳ khưu trong khi cư ngụ ở binh đội hai ba đêm: trong khi cư ngụ hai ba đêm.
Nơi tập trận nghĩa là nơi nào chiến trận được nhìn thấy.
Nơi đóng quân nghĩa là chừng này tượng binh, chừng này kỵ binh, chừng này xa binh, chừng này bộ binh.
Nơi dàn binh nghĩa là các tượng binh hãy từ nơi này; các kỵ binh hãy từ nơi này; các xa binh hãy từ nơi này; các bộ binh hãy từ nơi này.
Đội chủ lực nghĩa là đội tượng binh chủ lực, đội kỵ binh chủ lực, đội xa binh chủ lực, đội bộ binh chủ lực. Đội tượng binh chủ lực ít nhất là ba con voi, đội kỵ binh chủ lực ít nhất là ba con ngựa, đội xa binh chủ lực ít nhất là ba xe, đội bộ binh chủ lực ít nhất là bốn người đàn ông có vũ khí ở tay.
[573] Vị đi để xem thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Đứng ở nơi ấy nhìn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi rời khỏi khu vực lân cận của quang cảnh, vị lại nhìn nữa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đi để xem mỗi một (loại binh chủng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Đứng ở nơi ấy nhìn thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi rời khỏi khu vực lân cận của quang cảnh, vị lại nhìn nữa thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[574] Vị đứng ở trong tu viện nhìn thấy, sự tập trận xảy đến và được nhìn thấy ở chỗ đứng hoặc ở chỗ ngồi hoặc ở chỗ nằm của vị tỳ khưu, vị nhìn thấy khi đi ngược chiều, khi có việc cần phải làm vị đi rồi nhìn thấy, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười.
Phần Đạo Sĩ Lõa Thể là phần thứ năm.
*******
Tóm lược phần này:
Vị đạo sĩ lõa thể,
đuổi đi, hai vợ chồng,
hai chuyện nơi kín đáo,
bữa trai phạn, dược phẩm,
động binh, trú binh đội,
đi xem nơi tập trận.
*******
[1]Từ điển của Childers cho biết doṇa là đơn vị đo dung tích, 1 doṇa = 4 āḷhaka. Để dễ hình dung, sức chứa của bình bát cỡ lớn là ½ āḷhaka, vậy số lượng bơ lỏng được yêu cầu là 8 lần bình bát cỡ lớn.
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[575] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn trong khi du hành ở xứ Cetiya đã đi đến ngôi làng Bhaddavatikā. Những người giữ bò, chăn dê, nông phu, khách đi đường đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn chớ đi đến Ambatittha. Bạch ngài, ở Ambatittha có con rồng sống trong khu ẩn cư của đạo sĩ thờ lửa là con rắn có pháp thuật, có nọc độc khủng khiếp, chớ để nó hãm hại đức Thế Tôn.
Khi được nói như thế, đức Thế Tôn đã im lặng. Đến lần thứ nhì, ...(như trên)...
Đến lần thứ ba, những người giữ bò, chăn dê, nông phu, khách đi đường đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn chớ đi đến Ambatittha. Bạch ngài, ở Ambatittha có con rồng sống trong khu ẩn cư của đạo sĩ thờ lửa là con rắn có pháp thuật, có nọc độc khủng khiếp, chớ để nó hãm hại đức Thế Tôn.
Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã im lặng.
Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến ngôi làng Bhaddavatikā. Tại nơi đó, đức Thế Tôn đã trú ngụ ở ngôi làng Bhaddavatikā.
Khi ấy, đại đức Sāgata đã đi về phía Ambatittha đến khu ẩn cư của đạo sĩ thờ lửa, sau khi đến đã đi vào nhà thờ lửa, rồi đã sắp đặt tấm thảm trải bằng cỏ, ngồi xuống, xếp (chân) thế kiết già, giữ thân thẳng, tập trung niệm ở phía trước. Con rồng ấy đã nhìn thấy đại đức Sāgata đi vào, sau khi nhìn thấy đã trở nên không vui, bực bội, rồi đã phun khói. Đại đức Sāgata cũng đã phun khói. Khi ấy, con rồng không còn đè nén được cơn giận nên đã phun ra lửa. Đại đức Sāgata cũng đã nhập thiền đề mục lửa và đã phun ra lửa. Sau đó, đại đức Sāgata đã dùng lửa (của ngài) đoạt lấy ngọn lửa của con rồng ấy rồi đã đi về phía Bhaddavatikā.
Sau đó, khi đã ngự tại Bhaddavatikā theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Kosambī. Các cư sĩ ở thành Kosambī đã nghe được rằng: “Nghe nói ngài đại đức Sāgata đã gây chiến với con rồng ở Ambatittha.” Sau đó, trong khi tuần tự du hành, đức Thế Tôn đã ngự đến thành Kosambī. Khi ấy, các cư sĩ ở thành Kosambī sau khi đi ra tiếp đón đức Thế Tôn đã đi đến gặp đại đức Sāgata, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Sāgata rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, các cư sĩ ở thành Kosambī đã nói với đại đức Sāgata điều này:
- Thưa ngài, vật gì các ngài đại đức khó có được và ưng ý? Chúng tôi nên chuẩn bị vật gì?
Khi được nói như thế, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nói với các cư sĩ ở thành Kosambī điều này:
- Này các đạo hữu, có thứ rượu cất tên Bồ Câu thì các tỳ khưu khó có được và ưng ý, hãy chuẩn bị thức ấy.
Sau đó, các cư sĩ ở thành Kosambī đã chuẩn bị rượu cất tên Bồ Câu ở mỗi nhà, rồi khi nhìn thấy đại đức Sāgata đang đi khất thực đã nói với đại đức Sāgata điều này:
- Thưa ngài, xin ngài đại đức Sāgata hãy uống rượu cất tên Bồ Câu. Thưa ngài, xin ngài đại đức Sāgata hãy uống rượu cất tên Bồ Câu.
Sau đó, khi đã uống rượu cất tên Bồ Câu ở mỗi nhà, đại đức Sāgata trong lúc đang đi ra khỏi thành phố đã té ngã ở cổng thành. Khi ấy, đức Thế Tôn đang đi ra khỏi thành phố cùng với nhiều vị tỳ khưu đã nhìn thấy đại đức Sāgata bị té ngã ở cổng thành, sau khi nhìn thấy đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, hãy đưa Sāgata về.
- Bạch ngài, xin vâng.
Các vị tỳ khưu ấy nghe theo lời đức Thế Tôn sau khi đưa đại đức Sāgata về lại tu viện đã đặt nằm xuống, đầu hướng về đức Thế Tôn. Khi ấy, đại đức Sāgata đã xoay tròn vòng đưa hai chân hướng về đức Thế Tôn rồi nằm ngủ. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, phải chăng Sāgata đã có sự tôn kính và có sự vâng lời đối với Như Lai.
- Bạch ngài, đúng vậy.
- Này các tỳ khưu, vậy bây giờ Sāgata có sự tôn kính và có sự vâng lời đối với Như Lai không?
- Bạch ngài, điều ấy không có.
- Này các tỳ khưu, phải chăng Sāgata đã gây chiến với con rồng ở Ambatittha?
- Bạch ngài, đúng vậy.
- Này các tỳ khưu, vậy bây giờ Sāgata có đủ sức gây chiến với con rắn nước không?
- Bạch ngài, điều ấy không có.
- Này các tỳ khưu, vậy loại thức uống nào sau khi uống vào sẽ trở thành mất tỉnh táo thì có nên uống loại ấy không?
- Bạch ngài, điều ấy không nên.
- Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho Sāgata, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các tỳ khưu, vì sao Sāgata lại uống men say vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi uống rượu và men say thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[576] Rượu nghĩa là rượu từ bột, rượu từ bánh ngọt, rượu từ cơm, đã được rắc men vào, đã được trộn vào các hương liệu cần thiết.
Men say nghĩa là chất mật từ bông hoa, nước trích ra từ trái cây, nước trích ra từ mật ong, nước trích ra từ đường mía đã được trộn vào các hương liệu cần thiết.
Uống: vị uống vào dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[577] Men say, nhận biết là men say, vị uống vào thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Men say, có sự hoài nghi, vị uống vào thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Men say, (lầm) tưởng không phải là men say, vị uống vào thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải là men say, (lầm) tưởng là men say, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là men say, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là men say, nhận biết không phải là men say thì vô tội.
[578] Vị uống vào chất có màu sắc của men say có hương của men say có vị của men say nhưng không phải là men say, khi được nấu chung với xúp, khi được nấu chung với thịt, khi được nấu chung với dầu ăn, ở trong nước mật của trái cây āmalaka, vị uống nước cất không men say, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[579] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã chọc cười vị tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư bằng cách dùng ngón tay thọt léc. Vị tỳ khưu ấy trong lúc bị cười quá mức không thở được nên đã chết đi. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại chọc cười vị tỳ khưu bằng cách dùng ngón tay thọt léc?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi chọc cười vị tỳ khưu bằng cách dùng ngón tay thọt léc, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại chọc cười vị tỳ khưu bằng cách dùng ngón tay thọt léc vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi thọt léc bằng ngón tay thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[580] Thọt léc bằng ngón taynghĩa là kích thích bằng ngón tay. Vị đã tu lên bậc trên, có ý định chọc cười vị đã tu lên bậc trên rồi sờ vào cơ thể (vị kia) bằng cơ thể (của mình) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[581] Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị chọc cười bằng cách dùng ngón tay thọt léc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị chọc cười bằng cách dùng ngón tay thọt léc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị chọc cười bằng cách dùng ngón tay thọt léc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[582] Vị sờ vào vật được gắn liền với cơ thể (vị kia) bằng cơ thể (của mình) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị sờ vào cơ thể (vị kia) bằng vật được gắn liền với cơ thể (của mình) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị sờ vào vật được gắn liền với cơ thể (vị kia) bằng vật được gắn liền với cơ thể (của mình) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị sờ vào cơ thể (vị kia) bằng vật (do mình) ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị sờ vào vật được gắn liền với cơ thể (vị kia) bằng vật (do mình) ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị sờ vào vật (do vị kia) ném ra bằng vật (do mình) ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[583] Với vị chưa tu lên bậc trên, vị sờ vào cơ thể (vị kia) bằng cơ thể (của mình) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị sờ vào vật được gắn liền với cơ thể (vị kia) bằng cơ thể (của mình) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị sờ vào cơ thể (vị kia) bằng vật được gắn liền với cơ thể (của mình) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị sờ vào vật được gắn liền với cơ thể (vị kia) bằng vật được gắn liền với cơ thể (của mình) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị sờ vào cơ thể (vị kia) bằng vật (do mình) ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị sờ vào vật được gắn liền với cơ thể (vị kia) bằng vật (do mình) ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị sờ vào vật (do vị kia) ném ra bằng vật (do mình) ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[584] Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[585] Không có ý định chọc cười, vị sờ vào khi có việc cần phải làm, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhì.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[586] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đùa nghịch ở trong nước của giòng sông Aciravatī. Vào lúc bấy giờ, đức vua Pasenadi xứ Kosala cùng với hoàng hậu Mallikā ngự ở tầng trên của tòa lâu đài. Đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nhìn thấy các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đang đùa nghịch ở trong nước của giòng sông Aciravatī, sau khi nhìn thấy đã nói với với hoàng hậu Mallikā điều này:
- Này hậu Mallikā, các vị A-la-hán này đùa nghịch ở trong nước.
- Tâu đại vương, chắc chắn là điều học chưa được đức Thế Tôn quy định hoặc là các vị tỳ khưu ấy không biết.
Sau đó, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã khởi ý điều này: “Bằng phương thức nào để ta không phải trình lên đức Thế Tôn mà đức Thế Tôn có thể biết được các tỳ khưu này đùa nghịch ở trong nước?” Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã cho mời các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đến rồi đã dâng khối đường lớn cho các vị ấy (nói rằng):
- Thưa các ngài, xin hãy dâng lên đức Thế Tôn khối đường này.
Các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đã cầm lấy khối đường ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, đức vua dâng khối đường này đến đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, đức vua đã gặp các ngươi ở đâu?
- Bạch Thế Tôn, trong khi đang đùa nghịch ở trong nước của giòng sông Aciravatī.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại đùa nghịch ở trong nước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi chơi giỡn ở trong nước thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[587] Chơi giỡn ở trong nước nghĩa là vị có ý định chơi giỡn ở trong nước ngập trên mắt cá chân rồi hụp xuống hoặc trồi lên hoặc bơi lội thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[588] Chơi giỡn ở trong nước, nhận biết là chơi giỡn, phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chơi giỡn ở trong nước, có sự hoài nghi, phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chơi giỡn ở trong nước, (lầm) tưởng là không chơi giỡn, phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[589] Vị đùa nghịch ở trong nước ngập dưới mắt cá chân thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị đùa nghịch với chiếc thuyền thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị đập vỗ trong nước bằng cánh tay hoặc bằng bàn chân hoặc với khúc cây hoặc với mảnh sành thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị đùa nghịch nước hoặc cháo chua hoặc sữa tươi hoặc sữa pha loãng hoặc nước nhuộm y hoặc nước tiểu hoặc nước bùn chứa ở trong chậu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[590] Không chơi giỡn ở trong nước, (lầm) tưởng là chơi giỡn, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không chơi giỡn ở trong nước, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không chơi giỡn ở trong nước, nhận biết là không chơi giỡn ở trong nước thì vô tội.
[591] Không có ý định chơi giỡn, vị đi xuống nước khi có việc cần phải làm rồi hụp xuống hoặc trồi lên hoặc bơi lội, trong khi đi sang bờ bên kia rồi hụp xuống hoặc trồi lên hoặc bơi lội, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[592] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, đại đức Channa hành xử không đúng nguyên tắc. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này đại đức Channa, chớ hành động như thế. Điều ấy không được phép.
Vị ấy hành động tỏ ra vẻ không tôn trọng. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Channa lại thể hiện sự không tôn trọng?
…(như trên)…
- Này Channa, nghe nói ngươi thể hiện sự không tôn trọng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại thể hiện sự không tôn trọng vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi có sự không tôn trọng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[593] Sự không tôn trọngnghĩa là có hai sự không tôn trọng: sự không tôn trọng người và sự không tôn trọng Pháp.
Sự không tôn trọng người nghĩa là khi đang được vị đã tu lên bậc trên nói về điều đã được quy định, vị (nghĩ rằng): “Vị này bị phạt án treo, hoặc bị xem thường, hoặc bị khiển trách, hoặc lời nói của vị này sẽ không được thực hiện” rồi thể hiện sự không tôn trọng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Sự không tôn trọng Phápnghĩa là khi đang được vị đã tu lên bậc trên nói về điều đã được quy định, vị (nghĩ rằng): “Làm thế nào để điều này có thể được hủy bỏ, hoặc được thủ tiêu, hoặc được biến mất?” hoặc là vị không có ý muốn học tập điều ấy rồi thể hiện sự không tôn trọng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[594] Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị thể hiện sự không tôn trọng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị thể hiện sự không tôn trọng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị thể hiện sự không tôn trọng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[595] Khi đang được vị đã tu lên bậc trên nói về điều không được quy định, vị (nghĩ rằng): “Thực hành điều này không đưa đến sự đoạn trừ, không đưa đến sự từ bỏ, không đưa đến sự hoan hỷ, không đưa đến sự giảm thiểu, không đưa đến sự ra sức nỗ lực” rồi thể hiện sự không tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đang được vị chưa tu lên bậc trên nói về điều đã được quy định hoặc không được quy định, vị (nghĩ rằng): “Thực hành điều này không đưa đến sự đoạn trừ, không đưa đến sự từ bỏ, không đưa đến sự hoan hỷ, không đưa đến sự giảm thiểu, không đưa đến sự ra sức nỗ lực” rồi thể hiện sự không tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[596] Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[597] Vị nói rằng: “Sự giáo dục của các vị thầy dạy học của chúng tôi là như vầy, hãy kiểm tra,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tư.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[598] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã làm các vị tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư kinh sợ. Trong lúc bị làm cho kinh sợ, các vị ấy khóc lóc. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đại đức, vì sao các vị khóc lóc?
- Thưa các đại đức, các tỳ khưu nhóm Lục Sư này đã làm chúng tôi kinh sợ.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại làm các tỳ khưu kinh sợ?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi làm các tỳ khưu kinh sợ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại làm các tỳ khưu kinh sợ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào làm vị tỳ khưu kinh sợ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[599] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.
Làm kinh sợ: vị đã tu lên bậc trên có ý định làm kinh sợ vị đã tu lên bậc trên rồi đem lại cảnh sắc hoặc cảnh thinh hoặc cảnh khí hoặc cảnh vị hoặc cảnh xúc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) cho dầu vị kia bị kinh sợ hoặc không bị kinh sợ. Vị kể về sự nguy hiểm của trộm cướp hoặc sự nguy hiểm của thú dữ hoặc sự nguy hiểm của quỷ sứ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) cho dầu vị kia bị kinh sợ hoặc không bị kinh sợ.
[600] Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị làm kinh sợ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị làm kinh sợ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị làm kinh sợ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[601] Vị đã tu lên bậc trên có ý định làm kinh sợ vị chưa tu lên bậc trên rồi đem lại cảnh sắc hoặc cảnh thinh hoặc cảnh khí hoặc cảnh vị hoặc cảnh xúc thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) cho dầu vị kia bị kinh sợ hoặc không bị kinh sợ. Vị kể về sự nguy hiểm của trộm cướp hoặc sự nguy hiểm của thú dữ hoặc sự nguy hiểm của quỷ sứ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) cho dầu vị kia bị kinh sợ hoặc không bị kinh sợ.
[602] Vị chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[603] Vị không có ý định làm kinh sợ rồi đem lại cảnh sắc hoặc cảnh thinh hoặc cảnh khí hoặc cảnh vị hoặc cảnh xúc, vị kể về sự nguy hiểm của trộm cướp hoặc sự nguy hiểm của thú dữ hoặc sự nguy hiểm của quỷ sứ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ năm.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[604] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại xứ Bhagga, thành Susumāragira, trong rừng Bhesakalā, chỗ vườn nai. Vào lúc bấy giờ trong tháng mùa lạnh, các tỳ khưu sau khi đốt lên ngọn lửa ở khúc gỗ lớn nọ có lỗ hổng rồi sưởi ấm. Và ở trong lỗ hổng ấy có con rắn đen bị phỏng lửa nên bò ra ngoài và tấn công các vị tỳ khưu. Các tỳ khưu đã chạy nơi này nơi nọ.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu lại đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào có ý định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[605] Vào lúc bấy giờ, có các tỳ khưu bị bệnh. Các tỳ khưu thăm hỏi bệnh tình đã nói với các tỳ khưu bị bệnh điều này:
- Này các đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?
- Này các đại đức, trước đây chúng tôi đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm, nhờ thế chúng tôi được thoải mái. Giờ đây, (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán,” trong lúc ngần ngại nên không sưởi ấm; vì thế chúng tôi không được thoải mái.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào không bị bệnh có ý định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[606] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại trong việc đốt đèn, trong việc đốt lửa ở nhà tắm hơi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa khi có các nhân duyên như thế. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào không bị bệnh có ý định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có nhân duyên như thế.”
[607] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Không bệnh nghĩa là vị có được sự thoải mái khi không có ngọn lửa.
Bị bệnh nghĩa là vị không có sự thoải mái khi không có ngọn lửa.
Có ý định sưởi ấm: có ý muốn hơ nóng.
Ngọn lửanghĩa là lửa được đề cập đến.
Đốt lên: vị tự mình đốt lên thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Bảo đốt lên: vị ra lệnh người khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Khi được ra lệnh một lần, dầu (vị kia) đốt nhiều lần vị (ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya (ưng đối trị).
Ngoại trừ có nhân duyên như thế: trừ ra có nhân duyên như thế.
[608] Không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, vị có ý định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có nhân duyên như thế.
Không bị bệnh, có sự hoài nghi, vị có ý định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có nhân duyên như thế.
Không bị bệnh, (lầm) tưởng là bị bệnh, vị có ý định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có nhân duyên như thế.
Vị nhặt lên khúc củi đang cháy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Bị bệnh, nhận biết là bị bệnh thì vô tội.
[609] Vị bị bệnh, vị sưởi ấm khi (ngọn lửa) đã được thực hiện bởi vị khác, vị sưởi ấm ở chỗ tro tàn (không còn ngọn lửa), khi đốt đèn, khi đốt lửa (nung bình bát), ở trong nhà tắm hơi, ngoại trừ có nhân duyên như thế, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ sáu.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[610] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu thường tắm ở giòng sông Tapodā. [1]Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha (nghĩ rằng): “Ta sẽ gội đầu” rồi đã đi đến sông Tapodā và đã chờ đợi ở một bên (nghĩ rằng): “Đến khi các ngài đại đức tắm xong.” Các tỳ khưu đã tắm đến khi trời tối hẳn. Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha sau khi gội đầu xong vào ban đêm thì cửa thành đã đóng nên đã ngụ lại bên ngoài thành. Vào lúc sáng sớm, đức vua với dầu thoa chưa được tẩm hương đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đang ngồi một bên điều này:
- Tâu đại vương, vì sao ngài lại đến sớm với dầu thoa chưa được tẩm hương?
Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại rồi đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu sau khi nhìn thấy ngay cả đức vua vẫn tắm không biết chừng mực?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy sau khi nhìn thấy ngay cả đức vua vẫn tắm không biết chừng mực vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[611] Vào lúc bấy giờ, nhằm lúc trời nóng nực nhằm lúc trời oi bức, các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không tắm rồi đi ngủ với thân thể đẫm mồ hôi. Y và chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, vào lúc trời nóng nực vào lúc trời oi bức ta cho phép tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Nghĩ rằng): ‘Một tháng rưỡi còn lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[612] Vào lúc bấy giờ, có các tỳ khưu bị bệnh. Các tỳ khưu thăm hỏi bệnh tình đã nói với các tỳ khưu bị bệnh điều này:
- Này các đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?
- Này các đại đức, trước đây chúng tôi tắm khi chưa đủ nửa tháng, nhờ thế chúng tôi được thoải mái. Giờ đây, (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán,”trong lúc ngần ngại nên không tắm; vì thế chúng tôi không được thoải mái.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Biết rằng): ‘Một tháng rưỡi còn lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức, trường hợp bị bệnh; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[613] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sau khi thực hiện công trình mới, trong lúc ngần ngại không tắm rồi đi ngủ với thân thể đẫm mồ hôi. Y và chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trong trường hợp có công việc ta cho phép tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Nghĩ rằng): ‘Một tháng rưỡi còn lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức, trường hợp bị bệnh, trường hợp có công việc; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[614] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sau khi đi đường xa, trong lúc ngần ngại không tắm rồi đi ngủ với thân thể đẫm mồ hôi. Y và chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trong trường hợp đi đường xa ta cho phép tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Nghĩ rằng): ‘Một tháng rưỡi còn lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức, trường hợp bị bệnh, trường hợp có công việc, trường hợp đi đường xa; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[615] Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu trong khi thực hiện việc may y ở ngoài trời đã bị bao phủ bởi cơn gió có bụi, và trời thì mưa lâm râm. Các vị tỳ khưu trong lúc ngần ngại không tắm rồi đi ngủ với thân thể bị ẩm ướt. Y và chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trong trường hợp mưa gió ta cho phép tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Nghĩ rằng): ‘Một tháng rưỡi còn lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực, là lúc trời oi bức, trường hợp bị bệnh, trường hợp có công việc, trường hợp đi đường xa, trường hợp mưa gió; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”
[616] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chưa đủ nửa tháng: chưa tới nửa tháng.
Tắm: Vị tắm với bột tắm hoặc với đất sét, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi hoàn tất việc tắm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.
Lúc trời nóng nực nghĩa là một tháng rưỡi còn lại của mùa nóng.
Lúc trời oi bức nghĩa là tháng đầu tiên của mùa mưa; vị (biết rằng): “Như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức” rồi nên tắm.
Trường hợp bị bệnh nghĩa là vị không có thoải mái khi không tắm; vị (nghĩ rằng): “Trường hợp bị bệnh” rồi nên tắm.
Trường hợp có công việc nghĩa là ngay cả việc căn phòng được quét bụi; vị (nghĩ rằng): “Trường hợp có công việc” rồi nên tắm.
Trường hợp đi đường xa nghĩa là (biết rằng) “Ta sẽ đi nửa do tuần”[2]rồi nên tắm. Vị sắp sửa đi thì nên tắm. Vị đã đi thì nên tắm.
Trường hợp mưa gió nghĩa là các vị tỳ khưu đã bị bao phủ bởi cơn gió có bụi, hoặc là hai hoặc ba giọt nước mưa đã rơi trên thân thể; vị (nghĩ rằng): “Trường hợp mưa gió” rồi nên tắm.
[617] Chưa đủ nửa tháng, nhận biết là chưa đủ, vị tắm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Chưa đủ nửa tháng, có sự hoài nghi, vị tắm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Chưa đủ nửa tháng, (lầm) tưởng là đã hơn, vị tắm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Hơn nửa tháng, (lầm) tưởng là chưa đủ, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hơn nửa tháng, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hơn nửa tháng, nhận biết là đã hơn thì vô tội.
[618] Khi có duyên cớ, vị tắm khi được nửa tháng, vị tắm khi hơn nửa tháng, vị tắm khi đi sang bờ bên kia sông, ở tất cả các xứ sở vùng biên địa,[3]trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ bảy.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[619] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu và các du sĩ ngoại đạo đang đi đường xa từ thành Sāketa đến thành Sāvatthi. Giữa đường, bọn trộm cướp đã xuất hiện và cướp bóc các vị ấy. Quân lính của đức vua xuất phát từ thành Sāvatthi sau khi bắt được bọn cướp ấy cùng với đồ đạc đã phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu (nói rằng):
- Các đại đức hãy đi đến, các vị hãy nhận ra rồi hãy lấy đi y của chính mình.
Các vị tỳ khưu không nhận ra được y. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các ngài đại đức lại không nhận biết y của chính bản thân?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy sau khi triệu tập hội chúng tỳ khưu lại đã thuyết Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm đem lại sự an lạc cho hội chúng, ...(như trên)... nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nhận được y mới nên áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc là màu xanh, màu bùn, màu đen sẫm. Nếu vị tỳ khưu không áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc mà sử dụng y mới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[620] Mới nghĩa là đề cập đến việc làm thành được phép chưa được thực hiện.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y.
Nên áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc: nên áp dụng dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa.
Màu xanh nghĩa là có hai loại màu xanh: màu xanh của rỉ đồng và màu xanh lá cây.
Màu bùn nghĩa là nước (bùn) được đề cập đến.
Màu đen sẫm nghĩa là bất cứ (phẩm màu) gì liên quan đến màu đen.
Nếu vị tỳ khưu không áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc: sau khi không áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa, vị sử dụng y mới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[621] Khi chưa áp dụng, nhận biết là chưa áp dụng, vị sử dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa áp dụng, có sự hoài nghi, vị sử dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa áp dụng, (lầm) tưởng là đã áp dụng, vị sử dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã áp dụng, (lầm) tưởng là chưa áp dụng, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã áp dụng, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã áp dụng, nhận biết là đã áp dụng thì vô tội.
[622] Sau khi áp dụng rồi sử dụng, sự làm thành được phép (kappa) bị hủy hoại, chỗ làm thành được phép bị sờn, (y) chưa được làm thành được phép được may chung với (y) đã được làm thành được phép, khi có miếng vá, khi có làm đường viền, khi có sự mạng lại, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tám.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[623] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya sau khi chú nguyện để dùng chung y của mình đến vị tỳ khưu là đệ tử của người anh lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện (của vị ấy). Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu:
- Này các đại đức, đại đức Upananda con trai dòng Sākya này sau khi chú nguyện để dùng chung y của mình đến tôi lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya sau khi chú nguyện để dùng chung y của mình đến vị tỳ khưu lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện?
…(như trên)…
- Này Upananda, nghe nói ngươi sau khi chú nguyện để dùng chung y của mình đến vị tỳ khưu lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi sau khi chú nguyện để dùng chung y của mình đến vị tỳ khưu lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi đích thân chú nguyện để dùng chung y đến vị tỳ khưu hoặc đến vị tỳ khưu ni hoặc đến vị ni tu tập sự hoặc đến vị sa di hoặc đến vị sa di ni lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[624] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Đến vị tỳ khưu: là đến vị tỳ khưu khác.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ thực hành sự học tập về sáu pháp trong hai năm.
Sa di nghĩa là người nam tu tập theo mười điều học.
Sa di ni nghĩa là người nữ tu tập theo mười điều học.
Đích thân: sau tự mình chú nguyện để dùng chung.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Sự chú nguyện để dùng chung nghĩa là có hai sự chú nguyện để dùng chung: sự chú nguyện để dùng chung có mặt và sự chú nguyện để dùng chung vắng mặt. Sự chú nguyện để dùng chung có mặt nghĩa là (nói rằng): “Tôi chú nguyện để dùng chung y này đến ngươi hoặc đến vị tên (như vầy).” Sự chú nguyện để dùng chung vắng mặt nghĩa là (nói rằng): “Tôi trao y này đến ngươi vì mục đích chú nguyện để dùng chung.” Vị kia nên nói rằng: “Ai là bạn bè hoặc là người thân thiết của ngài?” “Vị tên (như vầy) và tên (như vầy).” Vị kia nên nói rằng: “Tôi sẽ trao cho những người ấy. Ngài hãy sử dụng vật thuộc về của những người ấy hoặc ngài hãy phân phát hoặc ngài hãy tiến hành như là có duyên cớ.”
Chưa có sự xả lời nguyện nghĩa là chưa được cho lại[4]đến vị ấy hoặc là vị ấy sử dụng trong khi không có thân thiết với vị kia thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[625] Chưa có sự xả lời nguyện, nhận biết là chưa có sự xả lời nguyện, vị sử dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chưa có sự xả lời nguyện, có sự hoài nghi, vị sử dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chưa có sự xả lời nguyện, (lầm) tưởng là đã có sự xả lời nguyện, vị sử dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị chú nguyện để dùng riêng hoặc vị phân phát (y ấy) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Có sự xả lời nguyện, (lầm) tưởng là chưa có sự xả lời nguyện, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Có sự xả lời nguyện, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Có sự xả lời nguyện, nhận biết là đã có sự xả lời nguyện thì vô tội.
[626] Hoặc là vị kia cho lại, hoặc là vị ấy (vị chủ nhân) sử dụng trong khi thân thiết với vị kia, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ chín.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[627] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư có các vật dụng không được cất giữ. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư thu giấu bình bát và y của các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư. Các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đã nói với các tỳ khưu nhóm Lục Sư điều này:
- Này các đại đức, hãy cho lại chúng tôi bình bát và y.
Các tỳ khưu nhóm Lục Sư cười. Các vị ấy khóc lóc. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đại đức, vì sao các vị khóc lóc?
- Thưa các đại đức, các tỳ khưu nhóm Lục Sư này thu giấu bình bát và y của chúng tôi.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại thu giấu bình bát và y của các tỳ khưu?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi thu giấu bình bát và y của các tỳ khưu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại thu giấu bình bát và y của các tỳ khưu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào thu giấu hoặc bảo thu giấu bình bát hoặc y hoặc tọa cụ hoặc ống đựng kim hoặc dây thắt lưng của vị tỳ khưu cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[628] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Của vị tỳ khưu: là của vị tỳ khưu khác.
Bình bát nghĩa là có hai loại bình bát: bình bát sắt và bình bát đất.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Tọa cụ nghĩa là nói đến vật có đường biên.
Ống đựng kim nghĩa là có kim hoặc không có kim.
Dây thắt lưng nghĩa là có hai loại dây thắt lưng: loại tết bằng vải sợi, loại tết kiểu đuôi heo.
Thu giấu: vị tự mình thu giấu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Bảo thu giấu: vị ra lệnh vị khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Khi được ra lệnh một lần, dầu (vị kia) thu giấu nhiều lần (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya (ưng đối trị).
Cho dầu chỉ muốn cười giỡn: là có ý định đùa nghịch.
[629] Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị thu giấu hoặc bảo thu giấu bình bát hoặc y hoặc tọa cụ hoặc ống đựng kim hoặc dây thắt lưng cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị thu giấu hoặc bảo thu giấu bình bát hoặc y hoặc tọa cụ hoặc ống đựng kim hoặc dây thắt lưng cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị thu giấu hoặc bảo thu giấu bình bát hoặc y hoặc tọa cụ hoặc ống đựng kim hoặc dây thắt lưng cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị thu giấu hoặc bảo thu giấu vật dụng khác cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị thu giấu hoặc bảo thu giấu bình bát hoặc y hoặc tọa cụ hoặc ống đựng kim hoặc dây thắt lưng của người chưa tu lên bậc trên cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[630] Không có ý định đùa giỡn, vị thu dọn vật được để lộn xộn, vị thu dọn (nghĩ rằng): “Ta sẽ cho lại sau khi thuyết Pháp thoại,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười.
Phần Uống Rượu là phần thứ sáu.
*******
Tóm lược phần này:
Rượu, ngón tay, đùa nghịch,
không tôn trọng, làm sợ,
ngọn lửa, tắm, hoại sắc,
đích thân, và thu giấu.
*******
[1]Tapodā (nghĩa là nước nóng) vừa là tên của một cái hồ vừa là tên của một giòng sông. Nước ở hồ thì mát nhưng khi ra đến giòng sông thì nóng (xem Phân Tích Giới Tỳ Khưu – Bhikkhuvibhaṅga 1, điều Pārājika thứ 4, [296]).
[2]Tương đương 5 miles, hoặc 8 km (theo The Buddhist Monastic Code).
[3]Xin xem thêm Đại Phẩm 2 - Mahāvagga II, chương V, [21-23])
[4]Nghĩa là vị kia chưa nói với vị chủ nhân của y rằng: “Ngài hãy sử dụng hoặc ngài hãy phân phát hoặc ngài hãy tiến hành như là có duyên cớ.”
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[631] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi là cung thủ. Và các con quạ làm vị ấy không vui. Vị ấy sau khi bắn trúng các con quạ rồi đã chặt đầu và cắm thành xâu ở cây cọc nhọn. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này đại đức, ai đã đoạt lấy mạng sống các con quạ?
- Này các đại đức, chính tôi. Các con quạ làm tôi không vui.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại cố ý đoạt lấy mạng sống sinh vật?
…(như trên)…
- Này Udāyi, nghe nói ngươi cố ý đoạt lấy mạng sống sinh vật, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại cố ý đoạt lấy mạng sống sinh vật vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào cố ý đoạt lấy mạng sống sinh vật thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[632] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Cố ý: sự vi phạm trong khi biết, trong khi có ý định, sau khi đã suy nghĩ, sau khi đã khẳng định.
Sinh vật nghĩa là đề cập đến sinh vật là loài thú.
Đoạt lấy mạng sống: vị cắt đứt mạng quyền, làm hủy hoại, làm tổn hại sự tiếp nối thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[633] Sinh vật, nhận biết là sinh vật, vị đoạt lấy mạng sống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Sinh vật, có sự hoài nghi, vị đoạt lấy mạng sống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sinh vật, (lầm) tưởng không phải là sinh vật, vị đoạt lấy mạng sống thì vô tội.
Không phải là sinh vật, (lầm) tưởng là sinh vật, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là sinh vật, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là sinh vật, nhận biết không phải là sinh vật thì vô tội.
[634] Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị không có ý định gây tử vong, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[635] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dầu biết nước có sinh vật vẫn sử dụng. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư dầu biết nước có sinh vật vẫn sử dụng?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi dầu biết nước có sinh vật vẫn sử dụng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi dầu biết nước có sinh vật vẫn sử dụng vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào dầu biết nước có sinh vật vẫn sử dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[636] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết hoặc những người khác thông báo cho vị ấy.
Có sinh vật: trong khi biết rằng: “Chúng sẽ bị chết do việc sử dụng;” vị sử dụng trong khi biết thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[637] Có sinh vật, nhận biết là có sinh vật, vị sử dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Có sinh vật, có sự hoài nghi, vị sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Có sinh vật, (lầm) tưởng là không có sinh vật, vị sử dụng thì vô tội.
Không có sinh vật, (lầm) tưởng là có sinh vật, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không có sinh vật, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không có sinh vật, nhận biết là không có sinh vật thì vô tội.
[638] Trong khi không biết rằng: “Có sinh vật,” trong khi biết rằng: “Không có sinh vật,” trong khi biết rằng: “Chúng sẽ không bị chết do việc sử dụng” rồi sử dụng, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhì.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[639] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dầu biết sự tranh tụng đã được giải quyết đúng theo Pháp vẫn khơi lại để làm hành sự lần nữa (nói rằng):
- Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai nên được thực hiện lại, hành sự chưa được giải quyết, đã được giải quyết sai nên được giải quyết lại.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư dầu biết sự tranh tụng đã được giải quyết đúng theo Pháp vẫn khơi lại để làm hành sự lần nữa?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi dầu biết sự tranh tụng đã được giải quyết đúng theo Pháp vẫn khơi lại để làm hành sự lần nữa, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi dầu biết sự tranh tụng đã được giải quyết đúng theo Pháp vẫn khơi lại để làm hành sự lần nữa vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào dầu biết sự tranh tụng đã được giải quyết đúng theo pháp vẫn khơi lại để làm hành sự lần nữa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[640] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.
Đúng theo pháp nghĩa là được thực hiện theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo Sư; việc này gọi là đúng theo pháp.
[641] Sự tranh tụng nghĩa là có bốn sự tranh tụng: sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
Khơi lại để làm hành sự lần nữa: vị khơi lại (nói rằng): “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai nên được thực hiện lại, hành sự chưa được giải quyết, đã được giải quyết sai nên được giải quyết lại” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[642] Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị khơi lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị khơi lại thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, vị khơi lại thì vô tội.
Hành sự sai pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp thì vô tội.
[643] Vị khơi lại trong khi biết rằng: “Hành sự đã được thực hiện hoặc là sai pháp, hoặc là theo phe nhóm, hoặc là đến vị không đáng bị hành sự,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[644] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya sau khi vi phạm tội làm xuất ra tinh dịch có sự cố ý đã thông báo đến vị tỳ khưu là đệ tử của người anh rằng:
- Này đại đức, tôi đã vi phạm tội làm xuất ra tinh dịch có sự cố ý. Chớ thông báo cho bất cứ ai.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi vi phạm tội làm xuất ra tinh dịch có sự cố ý đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa của tội ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, vị nọ sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đã nói điều này:
- Này đại đức, sau khi vi phạm tội làm xuất ra tinh dịch có sự cố ý tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa của tội ấy. Hội chúng đã ban hành phạt parivāsa của tội ấy đến tôi đây. Tôi đây đang thực hành parivāsa. Này đại đức, tôi xin trình báo. Đại đức hãy ghi nhận về tôi rằng: “Vị có trình báo.”
- Này đại đức, vị nào khác vi phạm tội này, có phải vị ấy cũng thực hiện như vầy?
- Này đại đức, đúng vậy.
- Này đại đức, đại đức Upananda con trai dòng Sākya này sau khi vi phạm tội làm xuất ra tinh dịch có sự cố ý, vị ấy đã thông báo đến tôi rằng: “Này đại đức, tôi đã vi phạm tội làm xuất ra tinh dịch có sự cố ý. Chớ thông báo cho bất cứ ai.”
- Này đại đức, có phải đại đức đã che giấu về tội ấy?
- Này đại đức, đúng vậy.
Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu dầu biết vẫn che giấu tội xấu xa của vị tỳ khưu?
…(như trên)…
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi dầu biết vẫn che giấu tội xấu xa của vị tỳ khưu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi dầu biết vẫn che giấu tội xấu xa của vị tỳ khưu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào dầu biết vẫn che giấu tội xấu xa của vị tỳ khưu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[645] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Của vị tỳ khưu nghĩa là của vị tỳ khưu khác.
Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.
Tội xấu xa nghĩa là bốn tội pārājika (bất cộng trụ) và mười ba tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Che giấu: Vị (nghĩ rằng): “Sau khi biết được điều này, các vị sẽ quở trách, các vị sẽ nhắc nhở, các vị sẽ rầy la, các vị sẽ chê bai, các vị sẽ làm cho xấu hổ; ta sẽ không thông báo,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[646] Tội xấu xa, nhận biết là tội xấu xa, vị che giấu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Tội xấu xa, có sự hoài nghi, vị che giấu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Tội xấu xa, (lầm) tưởng là tội không xấu xa, vị che giấu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị che giấu tội không xấu xa thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị che giấu sự vi phạm xấu xa hoặc không xấu xa của người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Tội không xấu xa, (lầm) tưởng là tội xấu xa, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Tội không xấu xa, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Tội không xấu xa, nhận biết là tội không xấu xa, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[647] Vị (nghĩ rằng): “Sẽ có sự xung đột, hoặc sự cãi cọ, hoặc sự tranh luận, hoặc sự tranh cãi đến hội chúng” rồi không thông báo, vị (nghĩ rằng): “Sẽ có sự chia rẽ hội chúng hoặc là sự bất đồng trong hội chúng” rồi không thông báo, vị (nghĩ rằng): “Vị này hung bạo thô lỗ sẽ gây nguy hiểm đến mạng sống hoặc nguy hiểm đến Phạm hạnh” rồi không thông báo, trong khi không nhìn thấy các tỳ khưu thích hợp khác rồi không thông báo, vị không có ý định che giấu rồi không thông báo, vị (nghĩ rằng): “Sẽ được nhận biết do hành động của chính vị ấy” rồi không thông báo, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tư.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[648] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, trong thành Rājagaha có nhóm mười bảy thiếu niên là bạn bè. Thiếu niên Upāli là thủ lãnh của họ.
Khi ấy, cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Có phương cách gì để sau khi chúng ta từ trần, Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc?” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli có thể học chữ viết, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli học chữ viết thì các ngón tay sẽ bị đau.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli có thể học tính toán, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli học tính toán thì ngực sẽ bị đau. Nếu Upāli có thể học hội họa, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli học hội họa thì các con mắt sẽ bị đau. Còn những sa-môn Thích tử này có giới luật thoải mái, có sở hành thoải mái, sau khi thọ thực thức ăn ngon rồi nằm ngủ trên những cái giường kín gió, nếu Upāli có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.”
[649] Thiếu niên Upāli đã nghe được cuộc nói chuyện trao đổi này của cha mẹ. Sau đó, thiếu niên Upāli đã đi đến gặp những thiếu niên ấy, sau khi đến đã nói với những thiếu niên ấy điều này:
- Này các bạn, hãy đến, chúng ta sẽ xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử.
- Này bạn, nếu bạn sẽ xuất gia, như thế chúng tôi cũng sẽ xuất gia.
Sau đó, những thiếu niên ấy đã đi đến gặp cha mẹ của từng người một và đã nói điều này:
- Hãy cho phép chúng con rời nhà xuất gia sống không nhà.
Khi ấy, cha mẹ của những thiếu niên ấy (nghĩ rằng): “Tất cả những đứa trẻ này có cùng ước muốn, có ý định tốt đẹp” rồi đã chấp thuận. Chúng đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã cho chúng xuất gia và đã cho tu lên bậc trên. Các vị ấy, vào lúc hừng sáng của đêm, sau khi thức dậy khóc lóc rằng:
- Hãy cho cháo, hãy cho bữa ăn, hãy cho vật để nhai.
Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các sư đệ, hãy chờ đến khi trời sáng, [1]nếu có cháo thì các đệ sẽ húp cháo, nếu có bữa ăn thì các đệ sẽ ăn, nếu có vật để nhai thì các đệ sẽ nhai; còn nếu cháo, hoặc bữa ăn, hoặc vật để nhai không có, thì các đệ sẽ ăn sau khi đi khất thực.
Mặc dầu được các tỳ khưu nói như thế, các tỳ khưu (thiếu niên) ấy cũng vẫn khóc lóc rằng:
- Hãy cho cháo, hãy cho bữa ăn, hãy cho vật để nhai.
Rồi đã tiêu tiểu ở chỗ nằm ngồi.
[650] Đức Thế Tôn sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm đã nghe được tiếng của các đứa trẻ, sau khi nghe đã bảo đại đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda, tiếng của các đứa trẻ ấy là gì vậy?
Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại rồi đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu dầu biết vẫn cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy dầu biết vẫn cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi vậy? Này các tỳ khưu, người chưa đủ hai mươi tuổi không có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, người đã được hai mươi tuổi có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào dầu biết vẫn cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi thì người ấy chưa được tu lên bậc trên và các vị tỳ khưu ấy bị chê trách; đây là tội pācittiya (ưng đối trị) trong trường hợp ấy.”
[651] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.
Người chưa đủ hai mươi tuổi nghĩa là người chưa đạt được hai mươi tuổi. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ cho tu lên bậc trên” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu), hoặc vị tuyên ngôn (ācariya), hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, thầy tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[652] Người chưa đủ hai mươi tuổi, nhận biết là chưa đủ hai mươi tuổi, vị cho tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người chưa đủ hai mươi tuổi, có sự hoài nghi, vị cho tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người chưa đủ hai mươi tuổi, (lầm) tưởng là tròn đủ hai mươi tuổi, vị cho tu lên bậc trên thì vô tội.
Người tròn đủ hai mươi tuổi, (lầm) tưởng là chưa đủ hai mươi tuổi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người tròn đủ hai mươi tuổi, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người tròn đủ hai mươi tuổi, nhận biết là tròn đủ hai mươi tuổi thì vô tội.
[653] Vị cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi (lầm) tưởng là tròn đủ hai mươi tuổi, vị cho tu lên bậc trên người tròn đủ hai mươi tuổi khi nhận biết là tròn đủ hai mươi tuổi, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.[2]
Dứt điều học thứ năm.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[654] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có đoàn xe nọ có ý định đi về phía tây của thành Rājagaha. Có vị tỳ khưu nọ đã nói với những người ấy điều này:
- Tôi cũng sẽ cùng đi với quý vị.
- Thưa ngài, chúng tôi sẽ đi vòng tránh trạm thuế.
- Này các đạo hữu, các người hãy biết lấy.
Những viên chức đã nghe được rằng: “Nghe nói đoàn xe sẽ đi vòng tránh trạm thuế” nên họ đã canh giữ các con đường. Sau đó, những viên chức ấy đã bắt được đoàn xe ấy, đã tịch thu, rồi đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Thưa ngài, vì sao ngài biết vẫn đi chung với đám người đạo tặc?
Họ đã giữ lại rồi thả cho đi. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến thành Sāvatthi và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu dầu biết vẫn hẹn trước rồi đi chung đường xa với đám người đạo tặc?
…(như trên)…
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi dầu biết vẫn hẹn trước rồi đi chung đường xa với đám người đạo tặc, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi dầu biết vẫn hẹn trước rồi đi chung đường xa với đám người đạo tặc vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào dầu biết vẫn hẹn trước rồi đi chung đường xa với đám người đạo tặc ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[655] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.
Đám người đạo tặc nghĩa là bọn trộm cướp có các hành động đã được thực hiện, hoặc có các hành động chưa được thực hiện, hoặc là họ đi trộm của các vị vua, hoặc đi vòng tránh trạm thuế.
Với: cùng chung.
(Sau khi) hẹn trước: Vị hẹn trước rằng: “Này các đạo hữu, chúng ta hãy đi. Thưa ngài, chúng ta hãy đi. Thưa ngài, chúng ta hãy đi. Này các đạo hữu, chúng ta hãy đi. Hôm nay hoặc hôm qua hoặc ngày mai chúng ta hãy đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Ngay cả từ làng này sang làng khác: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng khoảng cách nửa yojana.[3]
[656] Đám người đạo tặc, nhận biết là đám người đạo tặc, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Đám người đạo tặc, có sự hoài nghi, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Đám người đạo tặc, (lầm) tưởng không phải là đám người đạo tặc, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì vô tội.
Vị tỳ khưu hẹn trước còn đám người không hẹn trước thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là đám người đạo tặc, (lầm) tưởng là đám người đạo tặc, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là đám người đạo tặc, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là đám người đạo tặc, nhận biết không phải là đám người đạo tặc thì vô tội.
[657] Sau khi không hẹn trước rồi đi, đám người hẹn trước còn vị tỳ khưu không hẹn trước, vị đi ngoài giờ hẹn ước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ sáu.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[658] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đi đến thành Sāvatthi ở trong xứ sở Kosala đã đi ngang qua cổng làng nọ. Có người đàn bà nọ sau khi gây gỗ với chồng đã đi ra khỏi làng, sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đã nói điều này:
- Thưa ngài, ngài đại đức sẽ đi đâu?
- Này chị gái, tôi sẽ đi thành Sāvatthi.
- Tôi sẽ cùng đi với ngài đại đức.
- Này chị gái, cô có thể đi.
Sau đó, chồng của người đàn bà ấy đã đi ra khỏi làng và đã hỏi dân chúng rằng:
- Này quý vị, quý vị có nhìn thấy người đàn bà hình dáng như vầy không?
- Này ông, cô ấy đi với vị xuất gia rồi.
Sau đó, người đàn ông ấy đã đuổi theo và nắm lấy vị tỳ khưu ấy, đã đánh đập, rồi thả ra. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy trong lúc giận dỗi đã ngồi xuống ở gốc cây nọ. Khi ấy, người đàn bà ấy đã nói với người đàn ông ấy điều này:
- Này ông, vị tỳ khưu ấy đã không dụ dỗ tôi đi, mà chính tôi đi chung với vị tỳ khưu ấy. Vị tỳ khưu ấy không làm gì cả. Hãy đi đến và xin lỗi vị ấy.
Khi ấy, người đàn ông ấy đã xin lỗi vị tỳ khưu ấy. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến thành Sāvatthi và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu lại hẹn trước rồi đi chung đường xa với người nữ?
…(như trên)…
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi hẹn trước rồi đi chung đường xa với người nữ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại hẹn trước rồi đi chung đường xa với người nữ vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào hẹn trước rồi đi chung đường xa với người nữ ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị),
[659] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữ nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có hiểu biết, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là dâm dật và không dâm dật.
Với: cùng chung.
(Sau khi) hẹn trước: Vị hẹn trước rằng: “Này chị gái, chúng ta hãy đi. Thưa ngài, chúng ta hãy đi. Thưa ngài, chúng ta hãy đi. Này chị gái, chúng ta hãy đi. Hôm nay hoặc hôm qua hoặc ngày mai chúng ta hãy đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Ngay cả từ làng này sang làng khác: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng khoảng cách nửa yojana.
[660] Người nữ, nhận biết là người nữ, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ, có sự hoài nghi, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tỳ khưu hẹn trước còn người nữ không hẹn trước thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu hẹn trước rồi đi chung đường xa với nữ dạ-xoa, hoặc với ma nữ, hoặc với người vô căn, hoặc với loài thú cái hình người ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là người nữ, (lầm) tưởng là người nữ, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ thì vô tội.
[661] Sau khi không hẹn trước rồi đi, người nữ hẹn trước còn vị tỳ khưu không hẹn trước, vị đi ngoài giờ hẹn ước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ bảy.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[662] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapin$ḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu tên Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”
Nhiều vị tỳ khưu đã nghe được rằng:
- Nghe nói tỳ khưu tên Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”
Sau đó, các tỳ khưu ấy đã đi đến gặp tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng, sau khi đến đã nói với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng điều này:
- Này đại đức Ariṭṭha, nghe nói đại đức đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành,” có đúng không vậy?
- Này các đại đức, đúng như vậy. Theo như tôi hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.
- Này đại đức Ariṭṭha, chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này đại đức Ariṭṭha, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại ấy có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành. Đức Thế Tôn đã giảng giải rằng dục tình chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là miếng thịt, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là cây đuốc cỏ, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là hố than cháy rực, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là giấc mơ, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là vật vay mượn, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là trái trên cây, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là lò sát sanh, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là mũi lao nhọn, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn.
Khi được các tỳ khưu ấy nói như thế, tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng do có sự ngoan cố, chấp giữ, và bảo thủ tà kiến ác ấy nên vẫn phát biểu giống như thế:
- Này các đại đức, đúng như vậy. Theo như tôi hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.
Như thế, các tỳ khưu ấy đã không thể giúp cho tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng thoát khỏi tà kiến ác ấy. Sau đó, các tỳ khưu ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng rằng:
- Này Ariṭṭha, nghe nói tà kiến ác đã sanh khởi ở ngươi như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành,” có đúng không vậy?
- Bạch ngài, đúng như vậy. Theo như con hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại hiểu Pháp được ta thuyết giảng là như thế? Này kẻ rồ dại, không phải ta đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành? Dục tình đã được ta giảng giải là chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được ta giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được ta giảng giải như là miếng thịt, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là cây đuốc cỏ, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là hố than cháy rực, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là giấc mơ, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là vật vay mượn, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là trái trên cây, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là lò sát sanh, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là mũi lao nhọn, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Này kẻ rồ dại, hơn nữa ngươi không những vu khống ta do sự hiểu biết sai lạc của bản thân mà ngươi còn làm tổn hại chính bản thân và tích lũy vô số điều bất thiện nữa. Này kẻ rồ dại, bởi vì điều ấy sẽ đem lại cho ngươi sự thất bại và khổ đau lâu dài. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nói như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Đại đức chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này đại đức, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu mà vị tỳ khưu ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[663] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Nói như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”
[664] Vị tỳ khưu ấy: là vị tỳ khưu nói như thế.
Bởi các tỳ khưu: bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Đại đức chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này đại đức, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Đại đức chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này đại đức, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[665] Vị tỳ khưu ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ tà kiến ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[666] Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[667] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[668] Vị chưa được nhắc nhở, vị dứt bỏ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tám.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[669] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapin$ḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dầu biết vẫn hưởng thụ chung, vẫn cộng trú, vẫn nằm chung chỗ ngụ với tỳ khưu Ariṭṭha là vị phát ngôn như thế, là vị không thực hành thuận pháp và không dứt bỏ tà kiến ấy.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư dầu biết vẫn hưởng thụ chung, vẫn cộng trú, vẫn nằm chung chỗ ngụ với tỳ khưu Ariṭṭha là vị phát ngôn như thế, là vị không thực hành thuận pháp và không dứt bỏ tà kiến ấy?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi dầu biết vẫn hưởng thụ chung, vẫn cộng trú, vẫn nằm chung chỗ ngụ với tỳ khưu Ariṭṭha là vị phát ngôn như thế, là vị không thực hành thuận pháp và không dứt bỏ tà kiến ấy, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi dầu biết vẫn hưởng thụ chung, vẫn cộng trú, vẫn nằm chung chỗ ngụ với tỳ khưu Ariṭṭha là vị phát ngôn như thế, là vị không thực hành thuận pháp và không dứt bỏ tà kiến ấy vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào dầu biết vẫn hưởng thụ chung, hoặc vẫn cộng trú, hoặc vẫn nằm chung chỗ ngụ với vị tỳ khưu là vị phát ngôn như thế, là vị không thực hành thuận pháp, và không dứt bỏ tà kiến ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[670] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.
Vị phát ngôn như thế: là vị nói như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”
Không thực hành thuận pháp nghĩa là bị phạt án treo, chưa được phục hồi.
Với vị không dứt bỏ tà kiến ấy: với vị không dứt bỏ tà kiến đó.
(Hoặc vẫn) hưởng thụ chung: sự hưởng thụ chung nghĩa là có hai sự hưởng thụ chung: Sự hưởng thụ chung về vật chất và sự hưởng thụ chung về Pháp. Sự hưởng thụ chung về vật chất nghĩa là vị cho hoặc thọ nhận vật chất thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sự hưởng thụ chung về Pháp nghĩa là vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng. Vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng theo câu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một câu. Vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng theo từ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một từ.
Hoặc (vẫn) cộng trú: Vị thực hiện lễ Uposatha hoặc lễ Pavāraṇā hoặc hành sự của hội chúng cùng với vị bị phạt án treo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc (vẫn) nằm chung chỗ ngụ: Ở chỗ chung mái che, khi vị bị phạt án treo đang nằm vị tỳ khưu nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Khi vị tỳ khưu đang nằm, vị bị phạt án treo nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Hoặc cả hai nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi đứng dậy, (cả hai) lại nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[671] Vị bị phạt án treo, nhận biết là bị phạt án treo, vị hưởng thụ chung hoặc cộng trú hoặc nằm chung chỗ ngụthì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bị phạt án treo, có sự hoài nghi, vị hưởng thụ chung hoặc cộng trú hoặc nằm chung chỗ ngụthì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị bị phạt án treo, (lầm) tưởng là không bị phạt án treo, vị hưởng thụ chung hoặc cộng trú hoặc nằm chung chỗ ngụthì vô tội.
Vị không bị phạt án treo, (lầm) tưởng là bị phạt án treo, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị không bị phạt án treo, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị không bị phạt án treo, nhận biết là không bị phạt án treo thì vô tội.
[672] Vị biết rằng: “Vị không bị phạt án treo,” vị biết rằng: “Vị đã bị phạt án treo và đã được phục hồi,” vị biết rằng: “Vị đã bị phạt án treo và đã dứt bỏ tà kiến ấy,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ chín.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[673] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapin$ḍika. Vào lúc bấy giờ, sa di tên Kaṇḍaka sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”
Nhiều vị tỳ khưu đã nghe được rằng:
- Nghe nói sa di tên Kaṇḍaka đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”
Sau đó, các tỳ khưu ấy đã đi đến gặp sa di tên Kaṇḍaka, sau khi đến đã nói với sa di tên Kaṇḍaka điều này:
- Này sa di Kaṇḍaka, nghe nói ngươi đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành,” có đúng không vậy?
- Thưa các ngài, đúng như vậy. Theo như tôi hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.
- Này sa di Kaṇḍaka, chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này sa di Kaṇḍaka, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành. Đức Thế Tôn đã giảng giải rằng dục tình chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là miếng thịt, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là cây đuốc cỏ, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là hố than cháy rực, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là giấc mơ, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là vật vay mượn, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là trái trên cây, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là lò sát sanh, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là mũi lao nhọn, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn.
Khi được các vị tỳ khưu ấy nói như thế, sa di Kaṇḍaka do có sự ngoan cố, chấp giữ, và bảo thủ tà kiến ác ấy nên vẫn phát biểu giống như thế:
- Thưa các ngài, đúng như vậy. Theo như tôi hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.
Như thế, các vị tỳ khưu ấy đã không thể giúp cho sa di Kaṇḍaka thoát khỏi tà kiến ác ấy. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi sa di Kaṇḍaka rằng:
- Này Kaṇḍaka, nghe nói tà kiến ác đã sanh khởi ở ngươi như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành,” có đúng không vậy?
- Bạch ngài, đúng như vậy. Theo như con hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại hiểu Pháp được ta thuyết giảng là như thế? Này kẻ rồ dại, không phải ta đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành? Dục tình đã được ta giảng giải là chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được ta giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được ta giảng giải như là miếng thịt, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là cây đuốc cỏ, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là hố than cháy rực, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là giấc mơ, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là vật vay mượn, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là trái trên cây, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là lò sát sanh, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là mũi lao nhọn, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Này kẻ rồ dại, hơn nữa ngươi không những vu khống ta do sự hiểu biết sai lạc của bản thân mà ngươi còn làm tổn hại chính bản thân và tích lũy vô số điều bất thiện nữa. Này kẻ rồ dại, bởi vì điều ấy sẽ đem lại cho ngươi sự thất bại và khổ đau lâu dài. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này kẻ rồ dại, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như thế thì hội chúng hãy trục xuất sa di Kaṇḍaka. Và này các tỳ khưu, nên trục xuất như vầy: “Này sa di Kaṇḍaka, kể từ hôm nay không được tuyên bố đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của ngươi nữa. Ngay cả việc các sa di khác được hưởng là việc nằm chung chỗ ngụ với các tỳ khưu hai ba đêm, việc ấy không có cho ngươi nữa. Hãy đi chỗ khác, hãy biến mất đi.”
Sau đó, hội chúng đã trục xuất sa di Kaṇ$ḍaka.
[674] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dầu biết vẫn dụ dỗ, vẫn bảo phục vụ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ với sa di Kaṇḍaka là kẻ đã bị trục xuất như thế. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư dầu biết vẫn dụ dỗ, vẫn bảo phục vụ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ với sa di Kaṇḍaka là kẻ đã bị trục xuất như thế?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi dầu biết vẫn dụ dỗ, vẫn bảo phục vụ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ với sa di Kaṇḍaka là kẻ đã bị trục xuất như thế, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi dầu biết vẫn dụ dỗ, vẫn bảo phục vụ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ với sa di Kaṇḍaka là kẻ đã bị trục xuất như thế? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Nếu có vị sa di nói như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị sa di ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như sau: ‘Này ông sa di, ngươi chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này ông sa di, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Và khi được các tỳ khưu nói như vậy mà vị sa di ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị sa di ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như sau: ‘Này ông sa di, kể từ hôm nay không được tuyên bố đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo sư của ngươi nữa. Ngay cả việc các sa di khác được hưởng là việc nằm chung chỗ ngụ với các tỳ khưu hai ba đêm, việc ấy không có cho ngươi nữa. Hãy đi chỗ khác, hãy biến mất đi.’ Vị tỳ khưu nào dầu biết vẫn dụ dỗ, hoặc vẫn bảo phục vụ, hoặc vẫn hưởng thụ chung, hoặc vẫn nằm chung chỗ ngụ với vị sa di là kẻ đã bị trục xuất như thế thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[675] Vị sa di nghĩa là vị sāmaṇera được nói đến.
Nói như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”
[676] Vị sa di ấy: là vị sa di nói như thế.
(Bởi) các tỳ khưu: (bởi) các tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Này ông sa di, ngươi chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này ông sa di, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị sa di ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì vị sa di ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như sau: “Này ông sa di, kể từ hôm nay không được tuyên bố đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo sư của ngươi nữa, và việc các sa di khác được hưởng là việc nằm chung chỗ ngụ với các tỳ khưu hai ba đêm, ngay cả việc ấy không có cho ngươi nữa. Hãy đi chỗ khác, hãy biến mất đi.”
[677] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.
Đã bị trục xuất như thế: đã bị trục xuất như vậy.
Vị sa di nghĩa là vị sāmaṇera được nói đến.
(Hoặc vẫn) dụ dỗ: Vị dụ dỗ (nói rằng): “Ta sẽ cho ngươi bình bát hoặc y hoặc sự đọc tụng hoặc sự thẩm vấn” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
(Hoặc vẫn) bảo phục vụ: Vị chấp nhận bột tắm hoặc đất sét hoặc gỗ chà răng hoặc nước rửa mặt của vị (sa di) ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
(Hoặc vẫn) hưởng thụ chung: sự hưởng thụ chung nghĩa là có hai sự hưởng thụ chung: Sự hưởng thụ chung về vật chất và sự hưởng thụ chung về Pháp. Sự hưởng thụ chung về vật chất nghĩa là vị cho hoặc thọ nhận vật chất thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sự hưởng thụ chung về Pháp nghĩa là vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng. Vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng theo câu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một câu. Vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng theo từ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một từ.
Hoặc (vẫn) nằm chung chỗ ngụ: ở chỗ chung mái che, khi vị sa di bị trục xuất đang nằm vị tỳ khưu nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Khi vị tỳ khưu đang nằm, vị sa di bị trục xuất nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Hoặc cả hai nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi đứng dậy, (cả hai) lại nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[678] Vị bị trục xuất, nhận biết là bị trục xuất, vị dụ dỗ hoặc bảo phục vụ hoặc hưởng thụ chung hoặc nằm chung chỗ ngụthì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bị trục xuất, có sự hoài nghi, vị dụ dỗ hoặc bảo phục vụ hoặc hưởng thụ chung hoặc nằm chung chỗ ngụthì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị bị trục xuất, (lầm) tưởng là không bị trục xuất, vị dụ dỗ hoặc bảo phục vụ hoặc hưởng thụ chung hoặc nằm chung chỗ ngụthì vô tội.
Vị không bị trục xuất, (lầm) tưởng là bị trục xuất, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị không bị trục xuất, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị không bị trục xuất, nhận biết là không bị trục xuất thì vô tội.
[679] Vị biết rằng: “Vị (sa di) không bị trục xuất,” vị biết rằng: “Vị (sa di) đã dứt bỏ tà kiến ấy,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười.
Phần Có Sinh Vật là phần thứ mười.
*******
Tóm lược phần này:
Cố ý đoạt mạng sống,
có sinh vật, khơi lại,
che giấu tội xấu xa,
chưa đủ hai mươi tuổi,
đám người, và hẹn trước,
Ariṭṭha, án treo,
sa di Kaṇḍaka,
đây là mười điều học.
*******
[1]Yāva ratti vibhāyati: đến khi đêm lộ vẻ rạng rỡ (các thiền viện ở Miến Điện dọn bữa điểm tâm vào lúc này).
[2]Vì là trường hợp đầu tiên nên nhóm mười bảy thiếu niên ấy vẫn là tỳ khưu dầu chưa đủ hai mươi tuổi. Chính vì thế, các vị này thường khóc lóc khi bị các tỳ khưu nhóm Lục Sư hiếp đáp hoặc vẫn còn những hành động của trẻ nít như giỡn nước, đi xem lễ hội, để đồ đạc bừa bãi, v.v...
[3]Tài liệu The Buddhist Monastic Code cho biết khoảng cách của nửa yojana là 8 km hoặc 5 miles.
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[680] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, đại đức Channa hành xử sai nguyên tắc. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này đại đức Channa, chớ có hành động như thế, điều này không được phép.
Vị ấy nói như vầy:
- Này các đại đức, tôi sẽ không thực hành điều học này cho đến khi nào tôi còn chưa hỏi vị tỳ khưu khác kinh nghiệm rành rẽ về Luật.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao khi được các tỳ khưu nói theo Pháp đại đức Channa lại nói như vầy: “Này các đại đức, tôi sẽ không thực hành điều học này cho đến khi nào tôi còn chưa hỏi vị tỳ khưu khác kinh nghiệm rành rẽ về Luật”?
…(như trên)…
- Này Channa, nghe nói khi được các tỳ khưu nói theo Pháp ngươi lại nói như vầy: “Này các đại đức, tôi sẽ không thực hành điều học này cho đến khi nào tôi còn chưa hỏi vị tỳ khưu khác kinh nghiệm rành rẽ về Luật,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao khi được các tỳ khưu nói theo Pháp ngươi lại nói như vầy: “Này các đại đức, tôi sẽ không thực hành điều học này cho đến khi nào tôi còn chưa hỏi vị tỳ khưu khác kinh nghiệm rành rẽ về Luật”? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào khi được các tỳ khưu nói theo Pháp lại nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi sẽ không thực hành điều học này cho đến khi nào tôi còn chưa hỏi vị tỳ khưu khác kinh nghiệm rành rẽ về Luật’ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).’ Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu trong lúc học tập nên hiểu rõ, nên thắc mắc, nên suy xét. Đây là sự đúng đắn trong trường hợp ấy.”
[681] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Bởi) các tỳ khưu: (bởi) các vị tỳ khưu khác.
Theo Pháp nghĩa là điều gì đã được đức Thế Tôn quy định là điều học, điều ấy gọi là theo Pháp. Khi được vị kia nói, vị nói như vầy: “Này các đại đức, tôi sẽ không thực hành điều học này cho đến khi nào tôi còn chưa hỏi vị tỳ khưu khác kinh nghiệm rành rẽ về Luật” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[682] Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị nói như thế thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị nói như thế thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị nói như thế thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi được nói về điều không được quy định (nghĩ rằng): “Thực hành điều này không đưa đến sự đoạn trừ, không đưa đến sự từ bỏ, không đưa đến sự hoan hỷ, không đưa đến sự giảm thiểu, không đưa đến sự ra sức nỗ lực” rồi nói như vầy: “Này đại đức, tôi sẽ không thực hành điều học này cho đến khi nào tôi còn chưa hỏi vị tỳ khưu khác kinh nghiệm rành rẽ về Luật, thông thái, trí tuệ, nghe nhiều, Pháp sư;” vị nói phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi được người chưa tu lên bậc trên nói về điều đã được quy định hoặc không được quy định (nghĩ rằng): “Thực hành điều này không đưa đến sự đoạn trừ, không đưa đến sự từ bỏ, không đưa đến sự hoan hỷ, không đưa đến sự giảm thiểu, không đưa đến sự ra sức nỗ lực” rồi nói như vầy: “Này đại đức, tôi sẽ không thực hành điều học này cho đến khi nào tôi còn chưa hỏi vị tỳ khưu khác kinh nghiệm rành rẽ về Luật, thông thái, trí tuệ, nghe nhiều, Pháp sư;” vị nói phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
[683] (Với) vị trong lúc học tập: (với) vị có ý muốn học tập.
Nên hiểu rõ: nên biết rõ.
Nên thắc mắc: “Thưa ngài, điều này là thế nào, ý nghĩa của điều này là gì?”
Nên suy xét: nên suy nghĩ, nên cân nhắc.
Đây là sự đúng đắn trong trường hợp ấy: đây là sự hợp lý trong trường hợp ấy.
[684] Vị nói rằng: “Tôi sẽ biết, tôi sẽ học tập,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[685] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức thuyết giảng về Luật (Vinaya) cho các tỳ khưu, ngợi khen về Luật, ngợi khen sự nghiên cứu về Luật, ngợi khen đại đức Upāli như thế này như thế khác. Các tỳ khưu (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức thuyết giảng về Luật, ngợi khen về Luật, ngợi khen về sự nghiên cứu Luật, ngợi khen đại đức Upāli như thế này như thế khác. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy học thông thạo về Luật từ đại đức Upāli.” Và các vị ấy gồm nhiều tỳ khưu trưởng lão, mới tu, và trung niên học thông thạo về Luật từ đại đức Upāli. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã bàn bạc điều này: “Này các đại đức, hiện nay nhiều vị tỳ khưu trưởng lão, mới tu, và trung niên học thông thạo về Luật từ đại đức Upāli. Nếu các vị này được thành tựu kiến thức về Luật, họ sẽ lôi và quay chúng ta theo như ý thích. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy chê bai Luật.” Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi đến gặp các tỳ khưu và nói như vầy:
- Được việc gì với các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng được đọc tụng này? Chúng chỉ đem lại sự ăn năn, sự bực bội, sự bối rối thôi!
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại chê bai Luật?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi chê bai Luật, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại chê bai Luật ? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng, vị tỳ khưu nào nói như vầy: ‘Được việc gì với các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng được đọc tụng này? Chúng chỉ đem lại sự ăn năn, sự bực bội, sự bối rối thôi!’ Khi có sự chê bai điều học thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[686] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng: trong khi đang đọc tụng, hoặc trong khi đang bảo (người khác) đọc tụng, hoặc trong khi đang học.
Nói như vầy: Vị chê bai Luật đến vị đã tu lên bậc trên rằng: “Được việc gì với các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng được đọc tụng này? Chúng chỉ đem lại sự ăn năn, sự bực bội, sự bối rối thôi! Những ai học thông thạo việc này các vị ấy có sự ăn năn, có sự bực bội, có sự bối rối. Những ai không học thông thạo việc này các vị ấy không có sự ăn năn, không có sự bực bội, không có sự bối rối. Phần này là không được đọc tụng, phần này là không được học tập, phần này là không được học thông thạo, phần này là không được duy trì, Luật hãy biến mất hay là các tỳ khưu này hãy là những người không được thành tựu kiến thức” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[687] Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị chê bai Luật thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị chê bai Luật thì phạm tội pācittiya.
Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị chê bai Luật thì phạm tội pācittiya.
Vị chê bai Pháp khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị chê bai Luật hoặc Pháp khác đến người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa.
Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
[688] Vị không có ý định chê bai rồi nói rằng: “Này, đến khi nào ngươi học thông thạo về các bài Kinh hoặc các bài kệ hoặc Vi Diệu Pháp rồi sẽ học thông thạo về Luật sau,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhì.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[689] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi hành xử không đúng nguyên tắc(nghĩ rằng): “Hãy để các vị hay biết rằng: ‘Chúng ta đã phạm tội vì không biết,’” rồi trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng lại nói như vầy:
- Ngay giờ đây chúng tôi mới hay biết rằng điều học này đã được truyền lại trong giới bổn, đã được đầy đủ trong giới bổn, và được đưa ra đọc tụng vào mỗi nửa tháng.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng lại nói như vầy: “Ngay giờ đây chúng tôi mới hay biết rằng điều học này đã được truyền lại trong giới bổn, đã được đầy đủ trong giới bổn, và được đưa ra đọc tụng vào mỗi nửa tháng”?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng các ngươi nói như vầy: “Ngay giờ đây chúng tôi mới hay biết rằng điều học này đã được truyền lại trong giới bổn, đã được đầy đủ trong giới bổn, và được đưa ra đọc tụng vào mỗi nửa tháng,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng các ngươi lại nói như vầy: “Ngay giờ đây chúng tôi mới hay biết rằng điều học này đã được truyền lại trong giới bổn, đã được đầy đủ trong giới bổn, và được đưa ra đọc tụng vào mỗi nửa tháng”? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng vào mỗi nửa tháng lại nói như vầy: ‘Ngay giờ đây tôi mới hay biết rằng điều học này đã được truyền lại trong giới bổn, đã được đầy đủ trong giới bổn, và được đưa ra đọc tụng vào mỗi nửa tháng.’ Nếu các vị tỳ khưu khác biết rõ về vị tỳ khưu ấy rằng: ‘Vị tỳ khưu này trước đây đã có ngồi hai hoặc ba lần trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng, ai đó nói ra thì còn nhiều hơn nữa.’ Vị tỳ khưu ấy không có được sự vô tội vì không biết. Và trong trường hợp đó, (vị ấy) đã vi phạm tội nào thì nên được hành xử theo pháp về tội ấy. Hơn nữa, sự ngu dốt nên được khẳng định đối với vị ấy rằng: ‘Này đại đức, ngươi đây không có sự lợi ích, ngươi đây đã nhận lãnh điều xấu là việc trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng ngươi lại không khéo chăm chú và tác ý. Đây là tội pācittiya (ưng đối trị) trong sự ngu dốt ấy.”
[690] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vào mỗi nửa tháng: vào mỗi kỳ lễ Uposatha.
Trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng: trong khi (các vị) đang đọc tụng.
Nói như vầy: Sau khi hành xử không đúng nguyên tắc,vị (nghĩ rằng): “Hãy để các vị hay biết rằng: ‘Ta đã phạm tội vì không biết,’” rồi trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng lại nói như vầy: “Ngay giờ đây tôi mới hay biết rằng điều học này đã được truyền lại trong giới bổn, đã được đầy đủ trong giới bổn, và được đưa ra đọc tụng vào mỗi nửa tháng” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[691] Nếu các vị tỳ khưu khác biết rõ về vị tỳ khưu có ý định giả vờ ngu dốt ấy rằng: “Vị tỳ khưu này trước đây đã có ngồi hai hoặc ba lần trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng, ai đó nói ra thì còn nhiều hơn nữa.” Vị tỳ khưu ấy không có được sự vô tội vì không biết. Và trong trường hợp đó, (vị ấy) đã vi phạm tội nào thì nên được hành xử theo pháp về tội ấy. Hơn nữa, sự ngu dốt của vị ấy nên được khẳng định. Và này các tỳ khưu, nên khẳng định về sự ngu dốt như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) không khéo chăm chú và tác ý trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên khẳng định về sự ngu dốt của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) không khéo chăm chú và tác ý trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng. Hội chúng khẳng định về sự ngu dốt của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc khẳng định về sự ngu dốt của vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự ngu dốt của vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng khẳng định. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[692] Khi sự ngu dốt chưa được khẳng định, vị giả vờ ngu dốt thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi sự ngu dốt đã được khẳng định, vị giả vờ ngu dốt thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[693] Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị giả vờ ngu dốt thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị giả vờ ngu dốt thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, vị giả vờ ngu dốt thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp thì vô tội.
[694] Vị chưa được nghe (giới bổn được đọc tụng) một cách đầy đủ, vị đã được nghe (giới bổn được đọc tụng) một cách đầy đủ chưa tới hai hoặc ba lần, vị không có ý định giả vờ ngu dốt, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[695] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nổi giận, bất bình rồi tung cú đánh vào các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư. Các vị ấy khóc lóc. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đại đức, vì sao các vị khóc lóc vậy?
- Thưa các đại đức, các tỳ khưu nhóm Lục Sư này nổi giận, bất bình rồi tung cú đánh vào chúng tôi.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư khi nổi giận, bất bình lại tung cú đánh vào các tỳ khưu?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi nổi giận, bất bình rồi tung cú đánh vào các tỳ khưu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi khi nổi giận, bất bình lại tung cú đánh vào các tỳ khưu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nổi giận, bất bình rồi tung cú đánh vào vị tỳ khưu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[696] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vào vị tỳ khưu: vào vị tỳ khưu khác.
Nổi giận, bất bình:không được hài lòng, có tâm bực bội, sanh khởi lòng cay cú.
Tung cú đánh: vị tung cú đánh bằng thân, hoặc bằng vật gắn liền với thân, hoặc vật ném ra, ngay cả bằng lá sen thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[697] Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị nổi giận bất bình rồi tung cú đánh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị nổi giận bất bình rồi tung cú đánh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị nổi giận bất bình rồi tung cú đánh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị nổi giận bất bình rồi tung cú đánh vào người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[698] Khi bị hãm hại bởi bất cứ người nào vị có ý định thoát thân rồi tung cú đánh, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tư.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[699] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nổi giận, bất bình rồi giơ tay dọa đánh các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư. Các vị ấy dầu được thoát khỏi cú đánh vẫn khóc lóc. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đại đức, vì sao các vị khóc lóc vậy?
- Thưa các đại đức, các tỳ khưu nhóm Lục Sư này nổi giận, bất bình rồi giơ tay dọa đánh chúng tôi.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư khi nổi giận, bất bình lại giơ tay dọa đánh các tỳ khưu?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi nổi giận, bất bình rồi giơ tay dọa đánh các tỳ khưu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi khi nổi giận, bất bình lại giơ tay dọa đánh các tỳ khưu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nổi giận, bất bình rồi giơ tay dọa đánh vị tỳ khưu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[700] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu: vị tỳ khưu khác.
Nổi giận, bất bình:không được hài lòng, có tâm bực bội, sanh khởi lòng cay cú.
Giơ tay dọa đánh: vị đưa lên (phần) thân (của mình), hoặc vật gắn liền với thân, ngay cả bằng lá sen thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[701] Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị nổi giận bất bình rồi giơ tay dọa đánh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị nổi giận bất bình rồi giơ tay dọa đánh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị nổi giận bất bình rồi giơ tay dọa đánh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị nổi giận bất bình rồi giơ tay dọa đánh người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[702] Khi bị hãm hại bởi bất cứ người nào vị có ý định thoát thân rồi giơ tay dọa đánh, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ năm.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[703] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bôi nhọ vị tỳ khưu về tội saṅghādisesa (tăng tàng) không có nguyên cớ.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại bôi nhọ vị tỳ khưu về tội saṅghādisesa không có nguyên cớ?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi bôi nhọ vị tỳ khưu về tội saṅghādisesa không có nguyên cớ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại bôi nhọ vị tỳ khưu về tội saṅghādisesa không có nguyên cớ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào bôi nhọ vị tỳ khưu về tội saṅghādisesa không có nguyên cớ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[704] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu: vị tỳ khưu khác.
Không có nguyên cớ nghĩa là không được thấy, không được nghe, không bị nghi ngờ.
Về tội saṅghādisesa: về bất cứ tội nào thuộc nhóm mười ba tội.
Bôi nhọ: vị buộc tội hoặc bảo (người khác) buộc tội thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[705] Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị bôi nhọ về tội saṅghādisesa không có nguyên cớ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị bôi nhọ về tội saṅghādisesa không có nguyên cớ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị bôi nhọ về tội saṅghādisesa không có nguyên cớ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bôi nhọ với sự hư hỏng về hạnh kiểm hoặc với sự hư hỏng về tri kiến thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị bôi nhọ người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[706] Vị buộc tội hoặc bảo (người khác) buộc tội theo sự nhận biết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ sáu.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[707] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư cố ý gợi lên nỗi nghi hoặc ở nơi các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư (nói rằng):
- Này các đại đức, điều học đã được đức Thế Tôn quy định rằng: “Không được cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi.” Và các ngươi chưa đủ hai mươi tuổi đã được tu lên bậc trên, phải chăng các ngươi không phải là người chưa được tu lên bậc trên?
Các vị ấy khóc lóc. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đại đức, vì sao các vị khóc lóc vậy?
- Thưa các đại đức, các tỳ khưu nhóm Lục Sư này cố ý gợi lên nỗi nghi hoặc ở nơi chúng tôi.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại cố ý gợi lên nỗi nghi hoặc ở nơi các tỳ khưu?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi cố ý gợi lên nỗi nghi hoặc ở nơi các tỳ khưu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại cố ý gợi lên nỗi nghi hoặc ở nơi các tỳ khưu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào cố ý gợi lên nỗi nghi hoặc ở nơi vị tỳ khưu (nghĩ rằng): ‘Như thế sẽ làm cho vị này không được thoải mái dầu chỉ trong chốt lát,’ sau khi thực hiện chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[708] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Ở nơi vị tỳ khưu: ở nơi vị tỳ khưu khác.
Cố ý: sự vi phạm trong khi biết, trong khi có ý định, sau khi đã suy nghĩ, sau khi đã khẳng định.
Gợi lên nỗi nghi hoặc: Vị gợi lên nỗi nghi hoặc (nói rằng): “Ta nghĩ rằng ngươi chưa đủ hai mươi tuổi mà đã được tu lên bậc trên, ta nghĩ rằng ngươi đã thọ thực lúc sái thời, ta nghĩ rằng ngươi đã uống men say, ta nghĩ rằng ngươi đã ngồi với người nữ ở chỗ kín đáo” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Sau khi thực hiện chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác: không có bất cứ nguyên nhân nào khác để gợi lên nỗi nghi hoặc.
[709] Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị cố ý gợi lên nỗi nghi hoặc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị cố ý gợi lên nỗi nghi hoặc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị cố ý gợi lên nỗi nghi hoặc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị cố ý gợi lên nỗi nghi hoặc ở nơi người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[710] Vị không có ý định gợi lên nỗi nghi hoặc rồi nói rằng: “Ta nghĩ rằng ngươi chưa đủ hai mươi tuổi mà đã được tu lên bậc trên, ta nghĩ rằng ngươi đã thọ thực lúc sái thời, ta nghĩ rằng ngươi đã uống men say, ta nghĩ rằng ngươi đã ngồi với người nữ ở chỗ kín đáo. Này ngươi hãy biết lấy, ngươi chớ có nghi hoặc về sau này,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ bảy.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[711] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư xung đột với các tỳ khưu hiền thiện. Các tỳ khưu hiền thiện nói như vầy:
- Này các đại đức, các tỳ khưu nhóm Lục Sư này không có liêm sỉ, không có thể xung đột với các vị này được.
Các tỳ khưu nhóm Lục Sư nói như vầy:
- Này các đại đức, vì sao các vị lại nhục mạ chúng tôi bằng lời nói là không có liêm sỉ?
- Này các đại đức, các vị đã nghe ở đâu?
- Chúng tôi đã đứng lắng nghe các đại đức.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đứng lắng nghe các tỳ khưu đang xảy ra sự xung đột, đang xảy ra sự cãi cọ, đang có sự tranh luận?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đứng lắng nghe các tỳ khưu đang xảy ra sự xung đột, đang xảy ra sự cãi cọ, đang có sự tranh luận, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại đứng lắng nghe các tỳ khưu đang xảy ra sự xung đột, đang xảy ra sự cãi cọ, đang có sự tranh luận vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào đứng lắng nghe các tỳ khưu đang xảy ra sự xung đột, đang xảy ra sự cãi cọ, đang có sự tranh luận (nghĩ rằng): ‘Những người này nói điều gì, ta sẽ nghe lời ấy,’ sau khi thực hiện chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[712] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Của) các tỳ khưu: (của) các vị tỳ khưu khác.
Đang xảy ra sự xung đột, đang xảy ra sự cãi cọ, đang có sự tranh luận: đang xảy ra sự tranh tụng.
Đứng lắng nghe: “Sau khi lắng nghe những người này, ta sẽ quở trách, ta sẽ nhắc nhở, ta sẽ làm cho hối lỗi, ta sẽ làm cho nhớ lại, ta sẽ làm cho xấu hổ” rồi đi đến thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Tại nơi nào, vị (ấy) đứng và nghe được thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đang đi ở phía sau, vị đi nhanh hơn (nghĩ rằng): “Ta sẽ lắng nghe” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Tại nơi nào, vị (ấy) đứng và nghe được thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đang đi ở phía trước, vị đi chậm lại (nghĩ rằng): “Ta sẽ lắng nghe” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Tại nơi nào, vị (ấy) đứng và nghe được thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Sau khi đi đến chỗ đứng hoặc chỗ ngồi hoặc chỗ nằm của vị tỳ khưu, nên tằng hắng, nên báo hiệu cho vị đang nói biết. Nếu không tằng hắng hoặc báo hiệu cho biết thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Sau khi thực hiện chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác: không có bất cứ nguyên nhân nào khác để đứng lắng nghe.
[713] Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị đứng lắng nghe thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị đứng lắng nghe thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị đứng lắng nghe thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đứng lắng nghe người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[714] (Nghĩ rằng): “Sau khi lắng nghe những người này, ta sẽ hạn chế, ta sẽ kềm chế, ta sẽ dập tắt (sự việc), ta sẽ tự mình thoát ra” rồi đi đến, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tám.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[715] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi hành xử sai nguyên tắc lại phản đối trong khi hành sự của mỗi một vị đang được thực hiện.
Vào lúc bấy giờ, hội chúng đã tụ họp lại do công việc cần làm nào đó. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong lúc đang làm y đã trao ra sự tùy thuận đến một vị. Khi ấy, hội chúng (bàn bạc rằng): “Này các đại đức, chỉ có mỗi một vị tỳ khưu nhóm Lục Sư đã đi đến, vậy chúng ta hãy thực hiện hành sự cho vị ấy” rồi đã thực hiện hành sự cho vị ấy. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu nhóm Lục Sư. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, hội chúng đã làm gì?
- Này các đại đức, hội chúng đã thực thi hành sự đến tôi.
- Này đại đức, chúng tôi đã không trao ra sự tùy thuận vì mục đích của việc ấy (là việc): “Sẽ thực hiện hành sự cho đại đức.” Này đại đức, nếu chúng tôi biết rằng: “Sẽ thực hiện hành sự cho đại đức” chúng tôi đã không trao ra sự tùy thuận.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi trao ra sự tùy thuận cho những hành sự đúng pháp sau đó lại tiến hành việc phê phán?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sau khi trao ra sự tùy thuận cho những hành sự đúng pháp sau đó lại tiến hành việc phê phán, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi sau khi trao ra sự tùy thuận cho những hành sự đúng pháp sau đó lại tiến hành việc phê phán vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi trao ra sự tùy thuận cho những hành sự đúng pháp sau đó lại tiến hành việc phê phán thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[716] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Hành sự đúng pháp nghĩa là hành sự công bố, hành sự với lời thông báo, hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai, hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư được thực hiện theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo Sư; việc này gọi là hành sự đúng pháp. Sau khi trao ra sự tùy thuận, vị phê phán thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[717] Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị sau khi trao ra sự tùy thuận rồi phê phán thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị sau khi trao ra sự tùy thuận rồi phê phán thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, vị sau khi trao ra sự tùy thuận rồi phê phán thì vô tội.
Hành sự sai pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp thì vô tội.
[718] Vị phê phán trong khi biết rằng: “Hành sự đã được thực hiện sai pháp hoặc theo phe nhóm hoặc đến vị không đáng bị hành sự,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ chín.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[719] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, hội chúng đã tụ họp lại do công việc cần làm nào đó. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong lúc đang làm y đã trao ra sự tùy thuận cho một vị. Khi ấy, hội chúng (bàn bạc rằng): “Hội chúng đã tụ hội lại vì mục đích của hành sự nào thì chúng ta sẽ thực hiện hành sự ấy” rồi đã xác định lời đề nghị. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nói rằng):
- Các vị này thực hiện hành sự đến mỗi một vị giống y như vầy. Các đại đức sẽ thực hiện hành sự đến vị nào đây?
Sau khi không trao ra sự tùy thuận rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và bỏ đi. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao trong khi lời quyết định đang được tuyên bố ở hội chúng vị tỳ khưu không trao ra sự tùy thuận lại từ chỗ ngồi đứng dậy và bỏ đi ?
…(như trên)…
- Này tỳ khưu, nghe nói trong khi lời quyết định đang được tuyên bố ở hội chúng ngươi không trao ra sự tùy thuận rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và bỏ đi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao trong khi lời quyết định đang được tuyên bố ở hội chúng, ngươi không trao ra sự tùy thuận lại từ chỗ ngồi đứng dậy và bỏ đi vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào, trong khi lời quyết định đang được tuyên bố ở hội chúng, không trao ra sự tùy thuận rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và bỏ đi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[720] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Trong khi lời quyết định (đang được tuyên bố) ở hội chúng nghĩa là sự việc đã được kể ra nhưng chưa được quyết định, hoặc là lời đề nghị vừa mới được xác định, hoặc là tuyên ngôn của hành sự chưa được hoàn thành.
(Sau khi) không trao ra sự tùy thuận rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và bỏ đi: (Nghĩ rằng): “Làm cách nào để hành sự này là không thể duy trì, là theo phe nhóm, không thể thực hiện” rồi đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị lìa xa khỏi tập thể một tầm tay (1,25 mét ) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi đã lìa khỏi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[721] Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị không trao ra sự tùy thuận rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và bỏ đi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị không trao ra sự tùy thuận rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và bỏ đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, vị không trao ra sự tùy thuận rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và bỏ đi thì vô tội.
Hành sự sai pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp thì vô tội.
[722] Vị (nghĩ rằng): “Sẽ có sự xung đột, hoặc sự cãi cọ, hoặc sự tranh luận, hoặc sự tranh cãi đến hội chúng” rồi đi, (nghĩ rằng): “Sẽ có sự chia rẽ hội chúng hoặc là sự bất đồng trong hội chúng” rồi đi, (nghĩ rằng): “Hội chúng sẽ thực hiện hành sự hoặc là sai pháp, hoặc là theo phe nhóm, hoặc là đến vị không xứng đáng với hành sự” rồi đi, vị bị bệnh rồi đi, vị đi vì công việc cần làm đối với vị bị bệnh, vị bị khó chịu vì đại tiện hoặc tiểu tiện rồi đi, vị không có ý định làm xáo trộn hành sự (nghĩ rằng): “Ta sẽ quay trở lại” rồi đi, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI MỘT:
[723] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, đại đức Dabba Mallaputta phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng. Và vị đại đức ấy có y đã tàn tạ. Vào lúc bấy giờ, có một y được phát sanh đến hội chúng. Khi ấy, hội chúng đã cho y ấy đến đại đức Dabba Mallaputta. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các tỳ khưu trao phần lợi lộc thuộc về hội chúng thuận theo sự quen biết.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư cùng với hội chúng hợp nhất đã cho y sau đó lại tiến hành việc phê phán?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi cùng với hội chúng hợp nhất đã cho y sau đó lại tiến hành việc phê phán, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi cùng với hội chúng hợp nhất đã cho y sau đó lại tiến hành việc phê phán vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào cùng với hội chúng hợp nhất đã cho y sau đó lại tiến hành việc phê phán rằng: ‘Các tỳ khưu trao phần lợi lộc thuộc về hội chúng thuận theo sự quen biết’ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[724] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Hội chúng hợp nhất nghĩa là có sự đồng cộng trú được thiết lập trong cùng ranh giới (sīmā).
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
(Sau khi) đã cho: sau khi đích thân cho.
Thuận theo sự quen biết nghĩa là thuận theo tình bạn bè, thuận theo sự đồng quan điểm, thuận theo sự thân thiết, thuận theo sự có chung thầy tế độ, thuận theo sự có chung thầy dạy học.
Thuộc về hội chúng nghĩa là đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.
Lợi lộc nghĩa là các vật dụng như là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh, ngay cả cục bột tắm, gỗ chà răng, nắm chỉ rời.
Sau đó lại tiến hành việc phê phán: Khi y đã được cho đến vị đã tu lên bậc trên được hội chúng chỉ định làm vị phân bố chỗ trú ngụ hoặc làm vị sắp xếp bữa ăn hoặc làm vị phân chia cháo hoặc làm vị phân chia trái cây hoặc làm vị phân chia thức ăn khô hoặc làm vị phân chia vật linh tinh, vị phê phán thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[725] Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị phê phán khi y đã được cho thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị phê phán khi y đã được cho thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, vị phê phán khi y đã được cho thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị phê phán khi vật dụng khác đã được cho thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi y hoặc vật dụng khác đã được cho đến vị đã tu lên bậc trên không được hội chúng chỉ định làm vị phân bố chỗ trú ngụ hoặc làm vị sắp xếp bữa ăn hoặc làm vị phân chia cháo hoặc làm vị phân chia trái cây hoặc làm vị phân chia thức ăn khô hoặc làm vị phân chia vật linh tinh, vị phê phán thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi y hoặc vật dụng khác đã được cho đến người chưa tu lên bậc trên được chỉ định hoặc không được chỉ định bởi hội chúng làm vị phân bố chỗ trú ngụ hoặc làm vị sắp xếp bữa ăn hoặc làm vị phân chia cháo hoặc làm vị phân chia trái cây hoặc làm vị phân chia thức ăn khô hoặc làm vị phân chia vật linh tinh, vị phê phán thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[726] Vị phê phán (hội chúng) đang hành động theo thói thường vì ưa thích, vì sân hận, vì si mê, vì sợ hãi rằng: “Lợi ích gì với việc cho đến vị ấy? Khi nhận được rồi (vị ấy) sẽ phí phạm, sẽ không bảo quản đúng đắn;” vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười một.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI HAI:
[727] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, bữa trai phạn có dâng y đến hội chúng của phường hội nọ trong thành Sāvatthi đã được chuẩn bị (thông báo rằng): “Sau khi mời thọ thực, chúng tôi sẽ dâng y.” Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục sư đã đi đến gặp phường hội ấy, sau khi đến đã nói với phường hội ấy điều này:
- Này các đạo hữu, hãy dâng các y này cho các vị tỳ khưu này.
- Thưa các ngài, chúng tôi sẽ không dâng. Bữa trai phạn có dâng y đến hội chúng hàng năm của chúng tôi đã được thông báo.
- Này các đạo hữu, hội chúng có nhiều thí chủ, hội chúng có nhiều bữa trai phạn, các vị này sống ở đây nương nhờ vào quý vị, trông ngóng nơi quý vị. Nếu quý vị sẽ không bố thí đến các vị này, giờ còn ai sẽ bố thí cho các vị này? Này các đạo hữu, hãy dâng các y này cho các vị tỳ khưu này.
Khi ấy, trong lúc bị các tỳ khưu nhóm Lục Sư ép buộc phường hội ấy đã dâng y được chuẩn bị như thế đến các tỳ khưu nhóm Lục Sư rồi dâng vật thực đến hội chúng. Các vị tỳ khưu biết được bữa trai phạn có dâng y đến hội chúng đã được chuẩn bị mà không biết rằng: “(Y) đã được dâng đến các tỳ khưu nhóm Lục Sư,” các vị ấy đã nói như vầy:
- Này các đạo hữu, hãy dâng y đến hội chúng.
- Thưa các ngài, không có y như đã chuẩn bị; các ngài đại đức nhóm Lục Sư đã thuyết phục dâng cho các ngài đại đức nhóm Lục Sư.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư dầu biết lợi lộc đã được khẳng định là dâng đến hội chúng lại thuyết phục dâng cho cá nhân?
… (như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi dầu biết lợi lộc đã được khẳng định là dâng đến hội chúng vẫn thuyết phục dâng cho cá nhân, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi dầu biết lợi lộc đã được khẳng định là dâng đến hội chúnglại thuyết phục dâng cho cá nhân vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào dầu biết lợi lộc đã được khẳng định là dâng đến hội chúng vẫn thuyết phục dâng cho cá nhân thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[728] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc là những người khác nói cho vị ấy, hoặc là vị kia nói.
Dâng đến hội chúng nghĩa là đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.
Lợi lộc nghĩa là các vật dụng như là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh, ngay cả cục bột tắm, gỗ chà răng, nắm chỉ rời.
Đã được khẳng định nghĩa là lời nói đã được phát ra rằng: “Chúng tôi sẽ dâng, chúng tôi sẽ làm.” Vị thuyết phục dâng cho cá nhân thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[729] Khi đã được khẳng định, nhận biết là đã được khẳng định, vị thuyết phục dâng cho cá nhân thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã được khẳng định, có sự hoài nghi, vị thuyết phục dâng cho cá nhân thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được khẳng định, (lầm) tưởng là chưa được khẳng định, vị thuyết phục dâng cho cá nhân thì vô tội.
Khi đã được khẳng định là dâng đến hội chúng, vị thuyết phục dâng đến hội chúng khác hoặc bảo tháp thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được khẳng định là dâng đến bảo tháp, vị thuyết phục dâng đến bảo tháp khác, hoặc hội chúng, hoặc cá nhân thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được khẳng định là dâng cho cá nhân, vị thuyết phục dâng cho cá nhân khác, hoặc hội chúng, hoặc bảo tháp thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa được khẳng định, (lầm) tưởng là đã được khẳng định, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa được khẳng định, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa được khẳng định, nhận biết là chưa được khẳng định thì vô tội.
[730] Khi được hỏi rằng: “Chúng tôi dâng nơi nào?” vị nói rằng: “Nơi nào mà pháp bố thí của quý vị có thể đạt được sự hữu dụng, có thể được làm vật sửa chữa, có thể tồn tại lâu dài, hoặc nơi nào tâm của quý vị được hoan hỷ thì hãy dâng nơi đó,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười hai.
Phần Theo Pháp là phần thứ tám.
*******
Tóm lược phần này:
Theo Pháp, và chê bai,
vờ ngu dốt, cú đánh,
giá tay, không nguyên cớ,
cố ý, và lắng nghe,
ngăn cản, không tùy thuận,
Dabba, thuyết phục dâng.
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[731] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã ra lệnh cho người giữ công viên rằng:
- Này khanh, hãy đi và làm sạch sẽ công viên. Ta sẽ đi đến công viên.
- Tâu đại vương, xin vâng.
Rồi người giữ công viên nghe lệnh đức vua Pasenadi xứ Kosala, trong lúc làm sạch sẽ công viên đã nhìn thấy đức Thế Tôn đang ngồi ở gốc cây nọ, sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp đức vua Pasenadi xứ Kosala, sau khi đến đã tâu với đức vua Pasenadi xứ Kosala điều này:
- Tâu bệ hạ, công viên đã được sạch sẽ. Tuy nhiên, đức Thế Tôn đang ngồi ở đó.
- Này khanh, hãy vậy đi. Chúng ta sẽ thăm viếng đức Thế Tôn.
Sau đó, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã đi đến công viên và đã đi đến gần đức Thế Tôn. Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ đang ngồi thăm viếng đức Thế Tôn. Đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nhìn thấy nam cư sĩ ấy đang ngồi thăm viếng đức Thế Tôn, sau khi nhìn thấy đã hoảng sợ đứng lại. Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã khởi ý điều này: “Theo như việc người đàn ông này thăm viếng đức Thế Tôn thì không phải là kẻ ác” nên đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, nam cư sĩ ấy do sự tôn kính đức Thế Tôn đã không cúi lạy đức vua Pasenadi xứ Kosala cũng không đứng dậy chào. Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã không được hài lòng (nghĩ rằng): “Tại sao người đàn ông này lại không cúi lạy cũng không đứng dậy chào khi ta đi đến?” Khi ấy, đức Thế Tôn nhận biết sự không hài lòng của đức vua Pasenadi xứ Kosala nên đã nói với đức vua Pasenadi xứ Kosala điều này:
- Tâu đại vương, vị nam cư sĩ này là vị nghe nhiều, kinh điển đã được truyền thừa, và tham ái trong các dục đã được đoạn tận.
Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã khởi ý điều này: “Nam cư sĩ này quả không phải là thấp thỏi. Đức Thế Tôn còn khen ngợi người này”rồi đã nói với nam cư sĩ ấy điều này:
- Này nam cư sĩ, ngươi có thể nói lên vì việc ấy có lợi ích.
- Tâu bệ hạ, rất đúng.
Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Pasenadi xứ Kosala bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
[732] Vào lúc bấy giờ, đức vua Pasenadi xứ Kosala đang ngự ở tầng trên của tòa lâu đài. Đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nhìn thấy nam cư sĩ ấy tay cầm dù đang đi ở trên đường, sau khi nhìn thấy đã ra lệnh mời đến rồi đã nói điều này:
- Này nam cư sĩ, nghe nói ngươi nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa. Này nam cư sĩ, tốt thay ngươi hãy nói Pháp cho các cung phi của trẫm.
- Tâu bệ hạ, điều thần biết được là nhờ vào các ngài đại đức. Chính các ngài đại đức sẽ nói Pháp cho các cung phi của bệ hạ.
Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala (nghĩ rằng): “Nam cư sĩ đã nói đúng” nên đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, tốt thay xin đức Thế Tôn hãy chỉ thị một vị tỳ khưu là vị sẽ nói Pháp cho các cung phi của trẫm.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Pasenadi xứ Kosala bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda, như thế thì ngươi hãy nói Pháp cho các cung phi của đức vua.
- Bạch ngài, xin vâng.
Rồi đại đức Ānanda nghe theo đức Thế Tôn đã đi vào lần này lần khác và đã nói Pháp cho các cung phi của đức vua.
Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Ānanda đã mặc y cầm y bát đi đến tư dinh của đức vua Pasenadi xứ Kosala. Vào lúc bấy giờ, đức vua Pasenadi xứ Kosala đang nằm cùng với hoàng hậu Mallikā. Hoàng hậu Mallikā đã nhìn thấy đại đức Ānanda từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã vội vàng đứng lên. Tấm hoàng bào sáng chói đã rơi xuống. Khi ấy, đại đức Ānanda ngay tại chỗ đó đã quay lại, đi trở về tu viện, và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Ānanda khi chưa được báo tin trước lại đi vào hậu cung của đức vua?
…(như trên)…
- Này Ānanda, nghe nói ngươi khi chưa được báo tin trước lại đi vào hậu cung của đức vua, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này Ānanda, vì sao ngươi khi chưa được báo tin trước lại đi vào hậu cung của đức vua vậy? Này Ānanda, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
[733] Này các tỳ khưu, đây là mười điều nguy hiểm trong việc đi vào hậu cung của đức vua. Thế nào là mười?
Này các tỳ khưu, trường hợp đức vua đang ngồi với hoàng hậu. Vị tỳ khưu đi vào nơi ấy. Hoặc là khi nhìn thấy vị tỳ khưu hoàng hậu nở nụ cười, hoặc là khi nhìn thấy hoàng hậu vị tỳ khưu nở nụ cười. Trong trường hợp ấy, đức vua khởi ý như vầy: “Rõ ràng giữa những người này đã xảy ra chuyện, hoặc họ sẽ làm ra chuyện.” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ nhất trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua có nhiều phận sự có nhiều công việc cần phải làm, sau khi đi đến với người đàn bà nào đó rồi không nhớ. Do việc ấy, cô ấy mang thai. Trong trường hợp ấy, đức vua khởi ý như vầy: “Ở đây, không có người nào khác đi vào ngoại trừ vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ hai trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, trong hậu cung của đức vua có vật báu nào đó bị mất trộm. Trong trường hợp ấy, đức vua khởi ý như vầy: “Ở đây, không có người nào khác đi vào ngoại trừ vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ ba trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, trong hậu cung của đức vua các chuyện nội vụ đang được giữ kín lại bị tiết lộ ra bên ngoài. Trong trường hợp ấy, đức vua khởi ý như vầy: “Ở đây, không có người nào khác đi vào ngoại trừ vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ tư trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, trong hậu cung của đức vua, hoặc là con muốn giết cha hoặc là cha muốn giết con. Họ khởi ý như vầy: “Ở đây, không có người nào khác đi vào ngoại trừ vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ năm trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua đưa người có địa vị thấp lên địa vị cao. Những người không hài lòng với điều ấy khởi ý như vầy: “Đức vua thân cận với vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ sáu trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua đưa người có địa vị cao xuống địa vị thấp. Những người không hài lòng với điều ấy khởi ý như vầy: “Đức vua thân cận với vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ bảy trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua điều động quân đội không đúng thời. Những người không hài lòng với điều ấy khởi ý như vầy: “Đức vua thân cận với vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ tám trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua điều động quân đội đúng thời, giữa đường lại quay trở về. Những người không hài lòng với điều ấy khởi ý như vầy: “Đức vua thân cận với vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ chín trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, hậu cung của đức vua là đông đúc với những voi, đông đúc với những ngựa, đông đúc với những xe, các sắc thinh hương vị xúc đều gợi lên sự đắm nhiễm không thích hợp cho vị xuất gia. Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ mười trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, đây là mười điều nguy hiểm trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
[734] Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách đại đức Ānanda bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, về sự khó khăn trong việc ăn uống, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào khi chưa được báo tin trước mà vượt qua ngưỡng cửa (phòng ngủ) của đức vua dòng sát-đế-lỵ đã được đội lên vương miện lúc đức vua chưa đi khỏi lúc báu vật (hoàng hậu) chưa lui ra thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[735] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Dòng sát-đế-lỵ nghĩa là hậu duệ thuần khiết được khéo sanh ra từ cả hai bên là từ dòng bên mẹ và từ dòng bên cha cho đến bảy thế hệ tổ tiên, không bị gièm pha, không bị chỉ trích khi nói về nguồn gốc.
Đã được đội lên vương miện: đã được đăng quang với lễ phong vương của dòng sát-đế-lỵ.
Lúc đức vua chưa đi khỏi: đức vua chưa ra khỏi phòng ngủ
Lúc báu vật (hoàng hậu) chưa lui ra: hoàng hậu chưa ra khỏi phòng ngủ hoặc cả hai chưa ra khỏi.
Chưa được báo tin trước: chưa được thỉnh mời (đi vào).
Ngưỡng cửa nghĩa là ngạch cửa của phòng ngủ được đề cập đến.
Phòng ngủ nghĩa là bất cứ nơi nào được quy định là chỗ nằm của đức vua, thậm chí chỉ được bao quanh bằng khung màn che.
Vượt qua ngưỡng cửa: vị vượt qua ngạch cửa bước thứ nhất thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vượt qua bước thứ nhì thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[736] Khi chưa được báo tin, nhận biết là chưa được báo tin, vị vượt qua ngưỡng cửa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa được báo tin, có sự hoài nghi, vị vượt qua ngưỡng cửa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa được báo tin, (lầm) tưởng là đã được báo tin, vị vượt qua ngưỡng cửa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã được báo tin, (lầm) tưởng là chưa được báo tin, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được báo tin, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được báo tin, nhận biết là đã được báo tin thì vô tội.
[737] Khi đã được báo tin, đức vua không phải là dòng sát-đế-lỵ, chưa được đăng quang với lễ phong vương của dòng sát-đế-lỵ, đức vua đã ra khỏi phòng ngủ, hoàng hậu đã ra khỏi phòng ngủ, hoặc cả hai đã ra khỏi phòng ngủ, không phải ở trong phòng ngủ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[738] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ tắm ở giòng sông Aciravatī. Có người bà-la-môn nọ sau khi bỏ xuống trên bờ túi xách có năm trăm (đồng tiền) rồi tắm ở giòng sông Aciravatī, sau đó đã quên lửng rồi ra đi. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đây là túi xách của người bà-la-môn ấy, chớ để bị mất cắp” rồi đã giữ lấy. Sau đó, người bà-la-môn ấy khi nhớ ra đã vội vã chạy trở lại và đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này ông, vậy ông có nhìn thấy túi xách của tôi không?
- Này Bà-la-môn, đây này. Rồi đã trao cho.
Khi ấy, người bà-la-môn ấy đã khởi ý điều này: “Bằng phương kế gì để ta khỏi phải biếu vị tỳ khưu này một bình bát đầy?” (nên đã nói rằng):
- Này ông, của tôi không phải là năm trăm, của tôi là một ngàn.
Sau khi giữ lại rồi đã thả ra. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu lại nhặt lấy vật quý giá?
…(như trên)…
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi nhặt lấy vật quý giá, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại nhặt lấy vật quý giá vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[739] Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāvatthi có lễ hội. Dân chúng chưng diện trang điểm đi đến công viên. Bà Visākhā mẹ của Migāra cũng chưng diện trang điểm (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến công viên.” Sau khi đi ra khỏi làng (nghĩ rằng): “Ta sẽ làm gì sau khi đi đến công viên? Hay là ta nên thăm viếng đức Thế Tôn?” rồi đã tháo ra đồ trang sức, dùng thượng y buộc lại thành gói rồi trao cho người tớ gái (nói rằng):
- Này em, hãy cầm lấy gói đồ này.
Sau đó, bà Visākhā mẹ của Migāra đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà Visākhā mẹ của Migāra đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, bà Visākhā mẹ của Migāra đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Khi ấy, cô tớ gái ấy đã quên lửng gói đồ ấy và ra đi. Các tỳ khưu đã nhìn thấy rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, như thế thì các ngươi hãy nhặt lấy và để riêng ra.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện rồi để riêng ra (nghĩ rằng): “Là của ai, người ấy sẽ đem đi.” Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ ở trong khuôn viên tu viện.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[740] Vào lúc bấy giờ, trong xứ Kāsī có ngôi làng là nơi thương mãi của gia chủ Anāthapiṇḍika. Và vị gia chủ ấy đã dặn dò viên quản lý rằng: “Nếu các ngài đại đức đi đến, ngươi có thể dọn bữa ăn.” Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu trong khi đi du hành trong xứ Kāsī đã đi đến ngôi làng là nơi thương mãi của gia chủ Anāthapiṇḍika. Người đàn ông ấy đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã đảnh lễ các vị tỳ khưu ấy và đã nói điều này:
- Thưa các ngài, xin các ngài đại đức hãy nhận lời bữa ăn của gia chủ vào ngày mai.
Các vị tỳ khưu ấy đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, khi trải qua đêm ấy người đàn ông ấy đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ. Vị ấy sau khi tháo ra chiếc nhẫn đeo ngón tay rồi đã dâng bữa ăn đến các vị tỳ khưu ấy (nói rằng):
- Các ngài đại đức sau khi thọ thực xin cứ việc đi. Tôi cũng sẽ đi làm công việc.
Rồi đã quên lửng chiếc nhẫn đeo ngón tay và ra đi. Các vị tỳ khưu sau khi nhìn thấy (nghĩ rằng): “Nếu chúng ta đi, chiếc nhẫn đeo ngón tay này sẽ bị mất trộm” nên đã ngồi lại ngay tại chỗ ấy. Sau đó, người đàn ông ấy khi xong công việc quay trở lại đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy nên đã nói điều này:
- Thưa các ngài, tại sao các ngài đại đức ngồi lại ngay tại chỗ này?
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho người đàn ông ấy rồi sau khi đi đến thành Sāvatthi đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong khuôn viên chỗ ngụ rồi để riêng ra (nghĩ rằng): “Là của ai, người ấy sẽ đem đi.” Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ trong khuôn viên tu viện hoặc trong khuôn viên chỗ ngụ. Vị tỳ khưu sau khi nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong khuôn viên chỗ ngụ nên để riêng ra (nghĩ rằng): ‘Là của ai, người ấy sẽ đem đi.’ Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy.”
[741] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vật quý giá nghĩa là ngọc trai, ngọc ma-ni, ngọc pha lê, ngọc xa-cừ, đá quý, ngọc san hô, vàng, bạc, hồng ngọc, ngọc mắt mèo; vật này gọi là vật quý giá.
Vật được xem là quý giá nghĩa là vật gì được dân chúng ưa chuộng và bảo quản,vật này gọi là vật được xem là quý giá.
Ngoại trừ trong khuôn viên tu viện hoặc trong khuôn viên chỗ ngụ: trừ ra khuôn viên tu viện (và) khuôn viên chỗ ngụ.
Khuôn viên tu viện nghĩa là bên trong tu viện đối với tu viện đã được rào lại, là vùng phụ cận đối với tu viện không được rào lại.
Khuôn viên chỗ ngụ nghĩa là bên trong chỗ ngụ đối với chỗ ngụ đã được rào lại, là vùng phụ cận đối với chỗ ngụ không được rào lại.
Nhặt lấy: tự mình nhặt lấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Bảo nhặt lấy: bảo người khác nhặt lấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[742] Vị tỳ khưu sau khi nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong khuôn viên chỗ ngụ nên để riêng ra: sau khi ghi nhận hình dáng hoặc đặc điểm rồi để riêng ra và nên thông báo rằng: “Ai có vật bị mất, người ấy hãy đi đến.” Trong trường hợp ấy, nếu có người đi đến nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, vật của đạo hữu như thế nào?” Nếu mô tả đúng hình dáng hoặc đặc điểm thì nên trao cho. Nếu không mô tả đúng thì nên nói rằng: “Này đạo hữu, hãy tìm kiếm.” Vị sắp sửa rời khỏi trú xứ ấy, nên trao lại tận tay của những vị tỳ khưu thích hợp ở tại nơi ấy rồi ra đi. Nếu không có những vị tỳ khưu thích hợp, nên trao lại tận tay của những vị gia chủ thích hợp ở tại nơi ấy rồi ra đi.
Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy: đây là sự hợp lý trong trường hợp ấy.
[743] Vị sau khi nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong khuôn viên chỗ ngụ rồi để riêng ra (nghĩ rằng): “Là của ai, người ấy sẽ đem đi,”vị lấy vật được xem là quý giá theo lối thân thiết, vị lấy trong một thời hạn, vị nghĩ là vật quăng bỏ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhì.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[744] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi vào làng lúc sái thời rồi ngồi ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức vua, chuyện kẻ trộm, chuyện quan đại thần, chuyện binh lính, chuyện kinh dị, chuyện chiến trường, chuyện thức ăn, chuyện nước uống, chuyện vải vóc, chuyện giường nằm, chuyện vòng hoa, chuyện hương thơm, chuyện thân quyến, chuyện xe cộ, chuyện làng xóm, chuyện thị trấn, chuyện thành thị, chuyện quốc gia, chuyện đàn bà, chuyện người hùng, chuyện đường xá, chuyện về chỗ có hũ (của cải chôn giấu), chuyện ma quỷ, chuyện linh tinh, chuyện tiên đoán về thế gian, chuyện tiên đoán về đại dương, chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại đi vào làng lúc sái thời rồi ngồi ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức vua, chuyện kẻ trộm, chuyện quan đại thần, chuyện binh lính, chuyện kinh dị, chuyện chiến trường, chuyện thức ăn, chuyện nước uống, chuyện vải vóc, chuyện giường nằm, chuyện vòng hoa, chuyện hương thơm, chuyện thân quyến, chuyện xe cộ, chuyện làng xóm, chuyện thị trấn, chuyện thành thị, chuyện quốc gia, chuyện đàn bà, chuyện người hùng, chuyện đường xá, chuyện về chỗ có hũ (của cải chôn giấu), chuyện ma quỷ, chuyện linh tinh, chuyện tiên đoán về thế gian, chuyện tiên đoán về đại dương, chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy giống như các người tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đi vào làng lúc sái thời rồi ngồi ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức vua, ...(như trên)... chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đi vào làng lúc sái thời rồi ngồi ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức vua, ...(như trên)... chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại đi vào làng lúc sái thời rồi ngồi ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức vua, ...(như trên)... chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào đi vào làng lúc sái thời thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[745] Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu trong lúc đi đến thành Sāvatthi thuộc xứ Kosala đã đi đến gần ngôi làng nọ vào lúc chiều tối. Dân chúng sau khi nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy đã nói điều này:
- Thưa các ngài, xin hãy vào.
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đi vào làng lúc sái thời” rồi trong lúc ngần ngại đã không đi vào. Bọn đạo tặc đã cướp đoạt các vị tỳ khưu ấy. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đi đến thành Sāvatthi và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đi vào làng lúc sái thời khi đã thông báo. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào đi vào làng lúc sái thời không thông báo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[746] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đi đến thành Sāvatthi thuộc xứ Kosala đã đi đến gần ngôi làng nọ vào lúc chiều tối. Dân chúng sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đã nói điều này:
- Thưa ngài, xin hãy vào.
Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đi vào làng lúc sái thời không thông báo” rồi trong lúc ngần ngại đã không đi vào. Bọn đạo tặc đã cướp đoạt vị tỳ khưu ấy. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến thành Sāvatthi và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đi vào làng lúc sái thời khi đã thông báo vị tỳ khưu hiện diện. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào đi vào làng lúc sái thời không thông báo vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[747] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị rắn cắn. Vị tỳ khưu khác (nghĩ rằng): “Ta sẽ mang lại lửa” rồi đi đến làng. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đi vào làng không thông báo vị tỳ khưu hiện diện” rồi trong lúc ngần ngại đã không đi vào. Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, trong trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế ta cho phép đi vào làng lúc sái thời không thông báo vị tỳ khưu hiện diện. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào đi vào làng lúc sái thời không thông báo vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế.”
[748] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu hiện diện nghĩa là có thể có sự thông báo để đi vào (làng).
Vị tỳ khưu không hiện diện nghĩa là không thể có sự thông báo để đi vào (làng).
Lúc sái thời nghĩa là từ lúc đã quá nửa ngày cho đến rạng đông (ngày hôm sau).
Đi vào làng: vị vượt qua hàng rào của ngôi làng được rào lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị đi vào vùng phụ cận của ngôi làng không được rào lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Ngoại trừ trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế: trừ ra trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế.
[749] Vào lúc sái thời, nhận biết là vào lúc sái thời, vị đi vào làng không thông báo vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế.
Vào lúc sái thời, có sự hoài nghi, vị đi vào làng không thông báo vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế.
Vào lúc sái thời, (lầm) tưởng là vào lúc hợp thời, vị đi vào làng không thông báo vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế.
Vào lúc hợp thời, (lầm) tưởng là lúc sái thời, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc hợp thời, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc hợp thời, nhận biết là lúc hợp thời thì vô tội.
[750] Trong trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế, có thông báo vị tỳ khưu hiện diện rồi đi vào (làng), không có vị tỳ khưu hiện diện rồi đi vào (làng) không có thông báo, vị đi đến tu viện ở giữa làng, vị đi đến ni viện của các tỳ khưu ni, vị đi đến chỗ ngụ của các tu sĩ ngoại đạo, vị đi trở về, con đường đi ngang qua ngôi làng, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[751] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đã được người thợ làm đồ sừng nọ thỉnh cầu rằng : “Các ngài đại đức nào có nhu cầu về ống đựng kim, tôi sẽ dâng ống đựng kim.” Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu yêu cầu nhiều ống đựng kim. Những vị có các ống đựng kim nhỏ thì yêu cầu các ống đựng kim lớn. Những vị có các ống đựng kim lớn thì yêu cầu các ống đựng kim nhỏ. Khi ấy, trong lúc làm nhiều ống đựng kim cho các tỳ khưu, người thợ làm đồ sừng ấy không thể làm hàng khác để bán nên không nuôi nổi bản thân, ngay cả vợ con của người này cũng phải chịu khổ sở. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều ống đựng kim? Người này trong lúc làm nhiều ống đựng kim cho các vị này không thể làm hàng khác để bán nên không nuôi nổi bản thân, ngay cả vợ con của người này cũng phải chịu khổ sở.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều ống đựng kim?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi không biết chừng mực và yêu cầu nhiều ống đựng kim, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều ống đựng kim vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào bảo làm ống đựng kim bằng xương, hoặc bằng ngà, hoặc bằng sừng thì (ống đựng kim ấy) nên được đập vỡ và phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[752] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Xương nghĩa là bất cứ loại xương gì.
Ngà nghĩa là ngà voi được đề cập đến.
Sừngnghĩa là bất cứ loại sừng gì.
Bảo làm: Vị (tự) làm hoặc bảo làm, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì nên đập vỡ rồi nên sám hối tội pācittiya (ưng đối trị).
[753] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị nhận được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[754] Trong trường hợp hột nút, đồ đánh lửa, cái khóa thắt lưng, [1]hộp đựng thuốc cao, que bôi thuốc cao,[2]cán dao cạo, đồ gạt nước,[3]vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tư.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[755] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya nằm giường cao. Khi ấy, đức Thế Tôn trong lúc đi dạo quanh các chỗ trú ngụ cùng với nhiều vị tỳ khưu đã đi đến trú xá của đại đức Upananda con trai dòng Sākya. Đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin hãy đi đến. Xin đức Thế Tôn hãy nhìn xem cái giường của con.
Khi ấy, đức Thế Tôn ngay tại chỗ ấy đã quay lại và bảo các vị tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, kẻ rồ dại cần được chỉ bảo về chỗ nằm.
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách đại đức Upananda con trai dòng Sākya bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trong lúc cho thực hiện giường hoặc ghế mới, vị tỳ khưu nên bảo làm chân cao tám ngón tay theo ngón tay của đức Thiện Thệ[4]ngoại trừ phần khung giường ở bên dưới. Nếu vượt quá mức ấy thì nên cắt bớt và phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[756] Mới nghĩa là có liên quan đến việc làm (giường hoặc ghế) được đề cập.
Giường nghĩa là có bốn loại giường: giường lắp ráp (masārako), giường xếp (bundikābaddho), giường chân cong (kulirapādako), giường có chân tháo rời được (āhaccapādako).
Ghế nghĩa là có bốn loại ghế: ghế lắp ráp, ghế xếp, ghế chân cong, ghế có chân tháo rời được.
Trong lúc cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo làm.
Nên bảo làm chân cao tám ngón tay theo ngón tay của đức Thiện Thệ ngoại trừ phần khung giường ở bên dưới: trừ ra phần khung giường ở bên dưới. Vị (tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya (ưng đối trị).
[757] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[758] Vị làm theo kích thước, vị làm thấp hơn, do người khác làm quá kích thước sau khi đạt được thì cắt bớt rồi sử dụng, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ năm.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[759] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư cho thực hiện giường ghế độn bông gòn. Dân chúng trong lúc đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại cho thực hiện giường ghế độn bông gòn giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại cho thực hiện giường ghế độn bông gòn?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi cho thực hiện giường ghế độn bông gòn, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại cho thực hiện giường ghế độn bông gòn vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào bảo thực hiện giường ghế độn bông gòn thì (bông gòn) nên được móc ra và phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[760] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Giường nghĩa là có bốn loại giường: giường lắp ráp, giường xếp, giường chân cong, giường có chân tháo rời được.
Ghế nghĩa là có bốn loại ghế: ghế lắp ráp, ghế xếp, ghế chân cong, ghế có chân tháo rời được.
Bông gòn nghĩa là có ba loại bông gòn: bông gòn từ cây, bông gòn từ dây leo, bông gòn từ cỏ.
Bảo thực hiện: vị (tự) làm hoặc bảo làm, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì nên móc ra rồi nên sám hối tội pācittiya (ưng đối trị).
[761] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[762] Trong trường hợp vị làm đồ băng bó, dây buộc lưng, dây đeo vai, túi đựng bát, đồ lọc nước, gối kê; sau khi đạt được (giường ghế) do người khác làm thì móc ra rồi sử dụng, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ sáu.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[763] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tọa cụ đã được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Tọa cụ đã được đức Thế Tôn cho phép” nên đã sử dụng các tọa cụ không theo kích thước. Các vị treo ở phía trước và phía sau của giường và của ghế. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại sử dụng các tọa cụ không theo kích thước?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sử dụng các tọa cụ không theo kích thước, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại sử dụng các tọa cụ không theo kích thước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trong lúc cho thực hiện tọa cụ, vị tỳ khưu nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài hai gang tay, chiều rộng một gang rưỡi theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (tọa cụ) nên được cắt bớt và phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[764] Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi có thân hình to lớn. Vị ấy khi sắp đặt tọa cụ ở phía trước đức Thế Tôn cứ kéo căng ra khắp các phía rồi mới ngồi xuống. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Này Udāyi, vì sao sau khi sắp đặt tọa cụ ngươi cứ kéo căng ra khắp các phía giống như là căng ra tấm da bị nhăn vậy?
- Bạch ngài, bởi vì theo như tấm tọa cụ đã được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu thì quá nhỏ.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đường viền của tọa cụ là một gang. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trong lúc cho thực hiện tọa cụ, vị tỳ khưu nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài hai gang tay chiều rộng một gang rưỡi, đường viền một gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (tọa cụ) nên được cắt bớt và phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[765] Tọa cụ nghĩa là có đường viền được nói đến.
Trong lúc cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo làm.
Nên bảo làm theo kích thước: Ở đây, kích thước này là chiều dài hai gang tay, chiều rộng một gang rưỡi, đường viền một gang theo gang tay của đức Thiện Thệ.[5]Vị (tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya (ưng đối trị).
[766] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[767] Vị làm theo kích thước, vị làm nhỏ hơn, sau khi đạt được (tọa cụ) do người khác làm quá kích thước thì cắt bớt rồi sử dụng, vị làm mái che hoặc tấm lót nền hoặc khung màn chắn xung quanh hoặc nệm hoặc gối kê, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ bảy.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[768] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, y đắp ghẻ đã được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Y đắp ghẻ đã được đức Thế Tôn cho phép” nên đã sử dụng các y đắp ghẻ không theo kích thước. Các vị trong lúc để lòng thòng ở phía trước và phía sau rồi đi đó đây. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại sử dụng các y đắp ghẻ không theo kích thước?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sử dụng các y đắp ghẻ không theo kích thước, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại sử dụng các y đắp ghẻ không theo kích thước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trong lúc cho thực hiện y đắp ghẻ, vị tỳ khưu nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn gang tay, chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (y đắp ghẻ) nên được cắt bớt và phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[769] Y đắp ghẻ nghĩa là nhằm mục đích băng bó cho vị có ghẻ hoặc mụt nhọt hoặc vết thương hoặc bệnh lở loét ở phía dưới lỗ rún và ở phía trên đầu gối.
Trong lúc cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo làm.
Nên bảo làm theo kích thước: Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn gang tay chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ (1m x 0,5 m). Vị (tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya (ưng đối trị).
[770] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[771] Vị làm theo kích thước, vị làm nhỏ hơn, sau khi đạt được (y đắp ghẻ) do người khác làm quá kích thước thì cắt bớt rồi sử dụng, vị làm mái che hoặc tấm lót nền hoặc khung màn chắn xung quanh hoặc nệm hoặc gối kê, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tám.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[772] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, vải choàng tắm mưa đã được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Vải choàng tắm mưa đã được đức Thế Tôn cho phép” nên đã sử dụng các vải choàng tắm mưa không theo kích thước. Các vị trong lúc để lòng thòng ở phía trước và phía sau rồi đi đó đây. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại sử dụng các vải choàng tắm mưa không theo kích thước?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sử dụng các vải choàng tắm mưa không theo kích thước, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại sử dụng các vải choàng tắm mưa không theo kích thước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trong lúc cho thực hiện vải choàng tắm mưa, vị tỳ khưu nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài sáu gang tay, chiều rộng hai gang rưỡi theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (vải choàng tắm mưa) nên được cắt bớt và phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[773] Vải choàng tắm mưa nghĩa là nhằm nhu cầu của bốn tháng mùa mưa.
Trong lúc cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo làm.
Nên bảo làm theo kích thước: Ở đây, kích thước này là chiều dài sáu gang tay chiều rộng hai gang rưỡi theo gang tay của đức Thiện Thệ (1,50 m x 0,625 m). Vị (tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya (ưng đối trị).
[774] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[775] Vị làm theo kích thước, vị làm nhỏ hơn, sau khi đạt được (vải choàng tắm mưa) do người khác làm quá kích thước thì cắt bớt rồi sử dụng, vị làm mái che hoặc tấm lót nền hoặc khung màn chắn xung quanh hoặc nệm hoặc gối kê, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ chín.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[776] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Nanda con trai người dì của đức Thế Tôn là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái, và thấp hơn đức Thế Tôn bốn ngón tay. Vị ấy mặc y có kích thước y của đức Thiện Thệ. Các tỳ khưu trưởng lão đã nhìn thấy đại đức Nanda từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đi đến” rồi đã rời chỗ ngồi đứng dậy. Các vị ấy sau khi nhận ra người đang đi đến liền phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Nanda lại mặc y có kích thước y của đức Thiện Thệ?
…(như trên)…
- Này Nanda, nghe nói ngươi mặc y có kích thước y của đức Thiện Thệ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này Nanda, vì sao ngươi lại mặc y có kích thước y của đức Thiện Thệ vậy? Này Nanda, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào cho thực hiện y có kích thước y của đức Thiện Thệ hoặc rộng hơn thì (y ấy) nên được cắt bớt và phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Trong trường hợp này, kích thước y của đức Thiện Thệ dành cho đức Thiện Thệ là chiều dài chín gang tay, chiều rộng sáu gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. Đây là kích thước y của đức Thiện Thệ dành cho đức Thiện Thệ.”
[777] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Kích thước y của đức Thiện Thệ nghĩa là chiều dài chín gang tay, chiều rộng sáu gang theo gang tay của đức Thiện Thệ.[6]
Cho thực hiện: vị (tự) làm hoặc bảo làm, trong lúc thực hiện phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya (ưng đối trị).
[778] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[779] Vị làm nhỏ hơn, sau khi đạt được (y) do người khác làm quá kích thước thì cắt bớt rồi sử dụng, vị làm mái che hoặc tấm lót nền hoặc khung màn chắn xung quanh hoặc nệm hoặc gối kê, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười.
Phần Báu Vật là phần thứ chín.
*******
Tóm lược phần này:
Của vua, vật quý giá,
vị hiện diện, kim may,
(chân) giường, độn bông gòn,
tọa cụ, và ghẻ lở,
(choàng tắm) thuộc mùa mưa,
và (y) đức Thiện Thệ.
*******
[780] Bạch chư đại đức, chín mươi hai điều pācittiya (ưng đối trị)đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Chương Pācittiya (Ưng Đối Trị).
*******
[1]Vidha được đề cập ở Tiểu Phẩm - Cullavagga, V, [165].
[2]Añjanī, añjanīsalākā được đề cập ở Tiểu Phẩm - Cullavagga, V, [160].
[3]Udakapuñchanī được đề cập ở Tiểu Phẩm - Cullavagga, V, [100].
[4]Sugataṅgulena: theo ngón tay của đức Thiện Thệ. Theo từ điển của Childers, aṅgula là bề rộng của ngón tay, tương dương 1 inch =2,54 cm; vậy 8 aṅgula = 2,54 x 8 = 20,32 cm. Tài liệu The Buddhist Monsatic Code cho biết chiều dài của 8 aṅgula vào khoảng 16,6 cm; đó là nói về chân giường (pādakaṃ). Tuy nhiên, do câu sau: “ngoại trừ phần khung giường ở bên dưới” nên chân giường được tính từ dưới đất lên phần bên dưới mối nối của thanh ngang và chân giường, hay nói cách khác 8 aṅgula chính là khoảng hở giữa mặt đất và thanh ngang của khung giường. Hiểu theo cách này thì chỗ nằm cách mặt đất bao nhiêu cũng không được xác định rõ, có thể là 40 cm hoặc 50 cm tùy theo bề rộng của thanh ngang (độ cao như vậy xét ra cũng hợp lý). Nếu tính ngón tay của đức Thiện Thệ có chiều dài gấp ba lần ngón tay của người bình thường thì giường nằm có vẻ hơi cao (tối thiểu là 70 cm nếu tính thanh ngang của giường có bề rộng là 20 cm).
[5]Với những kích thước của tọa cụ, y đắp ghẻ, và y tắm mưa, độ dài gang tay của đức Thiện Thệ nên lấy số đo là 25 cm tức là độ dài gang tay của người nam bậc trung thay vì gấp ba lần (xem thêm điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ 6 về làm cốc liêu). Như thế, kích thước tọa cụ căn bản không đường viền là 50 cm x 37,5 cm. Đức Phật cho phép đường viền là 25 cm, chúng tôi nghĩ là viền cả bốn cạnh; nhưng khi đọc lời trình bày về tọa cụ có kèm theo hình vẽ của ngài Mahāsamaṇa Chao trong tài liệu Vinayamukha vấn đề xem ra phức tạp hơn nhiều, quý vị nên tìm đọc để suy nghiệm.
[6]2,25 m x 1,50 m, theo kích thước này thì lớn hơn y nội nhưng nhỏ hơn y vai trái đang sử dụng hiện nay.
Bạch chư đại đức, bốn điều pāṭidesanīya này được đưa ra đọc tụng.
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[781] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ sau khi đi khất thực ở trong thành Sāvatthi đến lúc đi trở về đã nhìn thấy vị tỳ khưu nọ và đã nói điều này:
- Này ngài đại đức, hãy nhận lãnh vật thực.
- Này sư tỷ, tốt lắm!
Rồi đã nhận lãnh hết tất cả. Khi thời giờ đã kề cận, vị ni ấy đã không thể đi khất thực nên bữa ăn đã bị lỡ.
Sau đó, vào ngày thứ nhì…(như trên)… vào ngày thứ ba, vị tỳ khưu ni ấy sau khi đi khất thực ở trong thành Sāvatthi đến lúc đi trở về đã nhìn thấy vị tỳ khưu ấy và đã nói điều này:
- Này ngài đại đức, hãy nhận lãnh vật thực.
- Này sư tỷ, tốt lắm!
Rồi đã nhận lãnh hết tất cả. Khi thời giờ đã kề cận, vị ni ấy đã không thể đi khất thực nên bữa ăn đã bị lỡ.
Sau đó vào ngày thứ tư, vị tỳ khưu ni ấy run lập cập đi trên đường. Người gia chủ đại phú đang đi xe ngược chiều đã nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này ni sư, hãy tránh ra.
Vị ni ấy trong lúc bước xuống đã bị té ngã ngay tại chỗ ấy. Người gia chủ đại phú đã xin lỗi vị tỳ khưu ni ấy:
- Thưa ni sư, xin hãy thứ lỗi. Ni sư đã bị tôi làm té ngã.
- Này gia chủ, không phải ta đã bị ngươi làm té ngã mà chính vì ta đây đuối sức.
- Thưa ni sư, vì sao ni sư đuối sức?
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho người gia chủ đại phú. Người gia chủ đại phú ấy đã đưa vị tỳ khưu ni ấy về nhà, dâng thức ăn, rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các ngài đại đức lại nhận lãnh vật thực từ tay của tỳ khưu ni? Là người nữ có lợi lộc khó khăn!
Các tỳ khưu đã nghe được người gia chủ đại phú phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu lại nhận lãnh vật thực từ tay của tỳ khưu ni?
…(như trên)…
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi nhận lãnh vật thực từ tay của tỳ khưu ni, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
- Này tỳ khưu, là nữ thân quyến của ngươi hay không phải là nữ thân quyến?
- Bạch Thế Tôn, không phải là nữ thân quyến.
- Này kẻ rồ dại, người nam không phải là thân quyến không biết điều gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì làm hài lòng hay không làm hài lòng người nữ không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại nhận lãnh vật thực từ tay tỳ khưu ni không phải là thân quyến vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm từ tay tỳ khưu ni không phải là thân quyến đã đi vào xóm nhà, rồi nhai hoặc ăn thì vị tỳ khưu ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có lợi ích, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”
[782] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Người nữ) không phải là thân quyến nghĩa là người nữ không có liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Xóm nhà nghĩa là con đường có xe cộ, ngõ cụt, giao lộ, căn nhà.
Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần còn lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, súp, bánh, cá, thịt. Vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi một lần nuốt xuống thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Không phải là nữ thân quyến, nhận biết không phải là nữ thân quyến, vị tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm từ tay của vị ni đã đi vào xóm nhà rồi nhai hoặc ănthì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Không phải là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, vị tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm từ tay của vị ni đã đi vào xóm nhà rồi nhai hoặc ănthì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Không phải là nữ thân quyến, (lầm) tưởng là nữ thân quyến, vị tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm từ tay của vị ni đã đi vào xóm nhà rồi nhai hoặc ănthì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Vị nhận lãnh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời vì mục đích vật thực thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi một lần nuốt xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi nhận lãnh từ tay của vị ni tu lên bậc trên từ một hội chúng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi một lần nuốt xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Nữ thân quyến, (lầm) tưởng không phải là nữ thân quyến, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Nữ thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Nữ thân quyến, nhận biết là nữ thân quyến thì vô tội.
[783] Từ vị (tỳ khưu ni) là nữ thân quyến, (vị ni) bảo (người khác) trao cho chứ không tự trao cho, (vị ni) sau khi để xuống rồi cho, ở trong tu viện, ở chỗ trú ngụ của các tỳ khưu ni, ở chỗ ngụ của các tu sĩ ngoại đạo, khi đang đi trở về, (vị ni) mang từ làng về rồi cho, (vị ni) cho vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời (nói rằng): “Hãy thọ dụng khi có duyên cớ,” từ cô ni tu tập sự, từ sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[784] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu được thỉnh mời đang thọ thực ở các gia đình. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đứng hướng dẫn sự phục vụ đến các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nói rằng):
- Hãy dâng xúp ở đây, hãy dâng cơm ở chỗ này.
Các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực theo như ý thích. Các tỳ khưu khác thọ thực không được như ý. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư không ngăn cản các tỳ khưu ni đang hướng dẫn sự phục vụ?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi không ngăn cản các tỳ khưu ni đang hướng dẫn sự phục vụ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại không ngăn cản các tỳ khưu ni đang hướng dẫn sự phục vụ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp các tỳ khưu được thỉnh mời thọ thực ở các gia đình. Nếu có vị tỳ khưu ni đứng tại nơi ấy hướng dẫn sự phục vụ (nói rằng): ‘Hãy dâng xúp ở đây, hãy dâng cơm ở chỗ này.’ Vị tỳ khưu ni ấy nên bị từ chối bởi các tỳ khưu ấy (nói rằng): ‘Này sư tỷ, hãy lui ra cho đến khi nào các tỳ khưu thọ thực xong.’ Nếu không một vị tỳ khưu nào lên tiếng để từ chối tỳ khưu ni ấy (nói rằng): ‘Này sư tỷ, hãy lui ra cho đến khi nào các tỳ khưu thọ thực xong’ thì các tỳ khưu ấy nên thú nhận rằng: “Bạch chư đại đức, chúng tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có lợi ích, cần phải thú nhận; chúng tôi xin thú nhận tội ấy.’”
[785] Trường hợp các tỳ khưu được thỉnh mời thọ thực ở các gia đình: Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình sát-đế-lỵ, gia đình bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.
Được thỉnh mời thọ thực: được thỉnh mời thọ thực loại vật thực nào đó thuộc về năm loại vật thực.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
(Vị ni) đang hướng dẫn sự phục vụ nghĩa là (nói rằng): “Hãy dâng xúp ở đây, hãy dâng cơm ở chỗ này” thuận theo tình bạn bè, thuận theo sự đồng quan điểm, thuận theo sự thân thiết, thuận theo sự có chung thầy tế độ, thuận theo sự có chung thầy dạy học; điều này gọi là (vị ni) đang hướng dẫn sự phục vụ.
Bởi các tỳ khưu ấy: bởi các vị tỳ khưu đang thọ thực.
Vị tỳ khưu ni ấy: là vị tỳ khưu ni đang hướng dẫn sự phục vụ. Các tỳ khưu ấy nên từ chối vị tỳ khưu ni ấy (nói rằng): “Này sư tỷ, hãy lui ra cho đến khi nào các tỳ khưu thọ thực xong.” Nếu không một vị tỳ khưu nào từ chối, vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi nhận lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi một lần nuốt xuống thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
[786] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị không ngăn cản vị ni đang hướng dẫn sự phục vụ thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị không ngăn cản vị ni đang hướng dẫn sự phục vụ thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm tưởng) là chưa tu lên bậc trên, vị không ngăn cản vị ni đang hướng dẫn sự phục vụ thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Vị không ngăn cản vị ni tu lên bậc trên từ một hội chúng đang hướng dẫn sự phục vụ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm tưởng) là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên thì vô tội.
[787] (Vị tỳ khưu ni) bảo (người khác) dâng chớ không tự dâng bữa ăn của bản thân, (vị ni) tự dâng chớ không bảo dâng bữa ăn của những người khác, (vị ni) bảo dâng vật chưa dâng, (vị ni) bảo dâng nơi nào chưa được dâng, (vị ni) bảo dâng đồng đều cho tất cả, cô ni tu tập sự hướng dẫn sự phục vụ, vị sa di ni hướng dẫn sự phục vụ, trừ ra năm loại vật thực còn tất cả (các thức khác) không phạm tội, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhì.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[788] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, ở trong thành Sāvatthi có gia đình nọ cả hai (vợ chồng) đều mộ đạo, tăng trưởng về đức tin, và dứt bỏ về của cải. Ở trong gia đình ấy, khi có vật thực cứng hoặc vật thực mềm gì phát sanh trước bữa ăn, họ đều phân phát tất cả vật thực ấy đến các vị tỳ khưu, đôi lúc họ không còn gì (để ăn). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại thọ lãnh không biết chừng mực? Những người này sau khi bố thí cho các vị này đôi lúc không còn gì (để ăn).
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, (trường hợp) gia đình nào tăng trưởng về đức tin và dứt bỏ về của cải, ta cho phép ban cho sự công nhận là bậc hữu học đến gia đình có hiện trạng như thế bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ nhì. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Gia đình tên (như vầy) tăng trưởng về đức tin và dứt bỏ về của cải. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự công nhận là bậc hữu học đến gia đình tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Gia đình tên (như vầy) tăng trưởng về đức tin và dứt bỏ về của cải. Hội chúng ban cho sự công nhận là bậc hữu học đến gia đình tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho sự công nhận là bậc hữu học đến gia đình tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự công nhận là bậc hữu học đã được hội chúng ban cho đến gia đình tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học, vị tỳ khưu nào tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học theo hình thức như thế, rồi nhai hoặc ăn thì vị tỳ khưu ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có lợi ích, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[789] Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāvatthi có lễ hội. Dân chúng thỉnh mời các tỳ khưu rồi dâng vật thực. Gia đình ấy cũng đã thỉnh mời các tỳ khưu. Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học rồi nhai hoặc ăn.” Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Cuộc sống của chúng tôi có điều gì khiến các ngài đại đức không thọ lãnh của chúng tôi?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, với vị đã được thỉnh mời ta cho phép tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học rồi nhai hoặc ăn. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học, vị tỳ khưu nào không được thỉnh mời trước, tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học theo hình thức như thế, rồi nhai hoặc ăn thì vị tỳ khưu ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có lợi ích, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[790] Vào lúc bấy giờ, có tỳ khưu nọ là vị thường lui tới với gia đình ấy. Khi ấy vào buổi sáng, vị tỳ khưu ấy đã mặc y cầm y bát đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Vào lúc bấy giờ, vị tỳ khưu ấy bị bệnh. Khi ấy, những người ấy đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Thưa ngài, xin hãy thọ thực.
Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán vị không được thỉnh mời tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học rồi nhai hoặc ăn” trong lúc ngần ngại đã không thọ lãnh và đã không thể đi khất thực nên bữa ăn đã bị lỡ. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi về tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, với vị tỳ khưu bị bệnh ta cho phép tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học rồi nhai hoặc ăn. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học, vị tỳ khưu nào không được thỉnh mời trước, không bị bệnh, tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học theo hình thức như thế, rồi nhai hoặc ăn thì vị tỳ khưu ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có lợi ích, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”
[791] Trường hợp các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học: Đã được công nhận là bậc hữu học nghĩa là gia đình nào tăng trưởng về đức tin, dứt bỏ về của cải, và sự công nhận là bậc hữu học bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ nhì đã được ban cho gia đình có hiện trạng như thế.
Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học theo hình thức như thế: ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học theo hình thức như vậy.
Không được thỉnh mời nghĩa là không được thỉnh mời vào ngày nay hoặc ngày mai. Họ thỉnh mời khi (vị tỳ khưu) đi vào vùng phụ cận của ngôi nhà; việc này gọi là không được thỉnh mời.
Được thỉnh mời nghĩa là được thỉnh mời vào ngày nay hoặc ngày mai. Họ thỉnh mời khi (vị tỳ khưu) không đi vào vùng phụ cận của ngôi nhà; việc này gọi là được thỉnh mời.
Không bị bệnh nghĩa là có thể đi khất thực.
Bị bệnh nghĩa là không thể đi khất thực.
Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần còn lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, súp, bánh, cá, thịt. Vị không được thỉnh mời, không bị bệnh (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi một lần nuốt xuống thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
[792] Đã được công nhận là bậc hữu học, nhận biết đã được công nhận là bậc hữu học, vị không được thỉnh mời, không bị bệnh, tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm rồi nhai hoặc ăn thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Đã được công nhận là bậc hữu học, có sự hoài nghi, vị không được thỉnh mời, không bị bệnh, tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm rồi nhai hoặc ăn thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Đã được công nhận là bậc hữu học, (lầm tưởng) chưa được công nhận là bậc hữu học, vị không được thỉnh mời, không bị bệnh, tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm rồi nhai hoặc ăn thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Vị nhận lãnh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời vì mục đích vật thực thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi một lần nuốt xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Chưa được công nhận là bậc hữu học, (lầm tưởng) đã được công nhận là bậc hữu học, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Chưa được công nhận là bậc hữu học, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Chưa được công nhận là bậc hữu học, nhận biết chưa được công nhận là bậc hữu học thì vô tội.
[793] Vị đã được thỉnh mời, vị bị bệnh, vị thọ thực phần còn lại của vị đã được thỉnh mời hoặc của vị bị bệnh, vật thực đã được sắp đặt tại nơi ấy là của những người (thí chủ) khác, (gia đình ấy) sau khi đem ra khỏi nhà rồi dâng, bữa ăn thường kỳ, bữa ăn theo thẻ, vào mỗi nửa tháng, vào ngày Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng, (người ấy) dâng vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời (nói rằng): “Hãy thọ dụng khi có duyên cớ,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[794] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, các nô lệ của dòng Sākya nổi loạn. Các người nữ dòng Sākya muốn làm bữa trai phạn ở những chỗ trú ngụ trong rừng. Các nô lệ của dòng Sākya đã nghe được rằng: “Nghe nói các người nữ dòng Sākya có ý định làm bữa trai phạn ở những chỗ trú ngụ trong rừng.” Chúng đã canh giữ các con đường. Các người nữ dòng Sākya đã mang thực phẩm thượng hạng loại cứng loại mềm đi đến chỗ trú ngụ ở trong rừng. Các nô lệ của dòng Sākya đã xuất hiện, cướp đoạt, và làm nhục các người nữ dòng Sākya. Những người dòng Sākya đã xuất hiện bắt giữ bọn cướp cùng với các đồ đạc rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các ngài đại đức không thông báo về bọn cướp đang ẩn náu trong tu viện?
Các tỳ khưu đã nghe được những người dòng Sākya phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm đem lại sự an lạc cho hội chúng, ...(như trên)... nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp những chỗ trú ngụ ở trong rừng được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng, vị tỳ khưu nào trong khi đang sống ở những chỗ trú ngụ có hình thức như thế, sau khi tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm chưa được báo tin trước ở trong khuôn viên tu viện, rồi nhai hoặc ăn, thì vị tỳ khưu ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có lợi ích, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[795] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ ở những chỗ trú ngụ trong rừng bị bệnh. Dân chúng mang vật thực cứng vật thực mềm đi đến chỗ trú ngụ trong rừng. Khi ấy, những người ấy đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Thưa ngài, xin hãy thọ thực.
Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán sau khi tự tay thọ lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở những chỗ trú ngụ trong rừng rồi nhai hoặc ăn” trong lúc ngần ngại đã không nhận lãnh. Vị ấy đã không thể đi khất thực nên bữa ăn đã bị lỡ. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, với vị tỳ khưu bị bệnh ta cho phép sau khi tự tay thọ lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở những chỗ trú ngụ trong rừng rồi nhai hoặc ăn. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp những chỗ trú ngụ ở trong rừng được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng, vị tỳ khưu nào trong khi đang sống ở những chỗ trú ngụ có hình thức như thế, sau khi tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm chưa được báo tin trước ở trong khuôn viên tu viện, không bị bệnh rồi nhai hoặc ăn thì vị tỳ khưu ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có lợi ích, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”
[796] Những chỗ trú ngụ ở trong rừng nghĩa là chỗ trú ngụ ở trong rừng cách (căn nhà) cuối cùng khoảng cách 500 cây cung. [1]
Có sự nguy hiểm nghĩa là trong tu viện hoặc trong vùng phụ cận tu viện, chỗ cắm trại của bọn cướp được thấy, chỗ ăn được thấy, chỗ đứng được thấy, chỗ ngồi được thấy, chỗ nằm được thấy.
Có sự kinh hoàng nghĩa là trong tu viện hoặc trong vùng phụ cận tu viện, dân chúng bị giết bởi bọn cướp được thấy, bị cướp giật được thấy, bị đánh đập được thấy.
Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.
Ở những chỗ trú ngụ có hình thức như thế: ở các chỗ trú ngụ có hình thức như vậy.
Chưa được báo tin nghĩa là đã được báo tin đến năm hạng (người đồng đạo);[2]điều này gọi là chưa được báo tin. Đã được báo tin (ở các nơi khác) ngoại trừ tu viện hoặc vùng phụ cận tu viện; điều này gọi là chưa được báo tin.
Đã được báo tin nghĩa là bất cứ người nữ nào hoặc người nam nào đi đến tu viện hoặc vùng phụ cận tu viện rồi thông báo rằng: “Thưa ngài, vật thực cứng hoặc vật thực mềm của người tên (như vầy) sẽ được mang lại.” Nếu có sự nguy hiểm, nên nói rằng: “Có sự nguy hiểm.” Nếu có sự kinh hoàng, nên nói rằng: “Có sự kinh hoàng.” Nếu (người ấy) nói lại rằng: “Thưa ngài, hãy vậy đi. Sẽ được mang lại” thì nên nói với bọn trộm cướp rằng: “Dân chúng đi đến nơi đây, hãy lui ra.”
Khi đã được báo tin liên quan đến cháo, vật phụ thuộc của cháo được mang lại; điều này nghĩa là đã được báo tin. Khi đã được báo tin liên quan đến bữa ăn, vật phụ thuộc của bữa ăn được mang lại; điều này nghĩa là đã được báo tin. Khi đã được báo tin liên quan đến vật thực cứng, vật phụ thuộc của vật thực cứng được mang lại; điều này nghĩa là đã được báo tin. Khi đã được báo tin liên quan đến gia đình, những người trong gia đình ấy mang lại vật thực cứng hoặc vật thực mềm; điều này nghĩa là đã được báo tin. Khi đã được báo tin liên quan đến ngôi làng, những người trong ngôi làng ấy mang lại vật thực cứng hoặc vật thực mềm; điều này nghĩa là đã được báo tin. Khi đã được báo tin liên quan đến phường hội, những người trong phường hội ấy mang lại vật thực cứng hoặc vật thực mềm; điều này nghĩa là đã được báo tin.
Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần còn lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, súp, bánh, cá, thịt.
Khuôn viên tu viện nghĩa là bên trong tu viện đối với tu viện đã được rào lại, là vùng phụ cận đối với tu viện không được rào lại.
Không bị bệnh nghĩa là có thể đi khất thực.
Bị bệnh nghĩa là không thể đi khất thực. Vị không bị bệnh (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận (vật thực) chưa được báo tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi một lần nuốt xuống thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
[797] Khi chưa được báo tin, nhận biết là chưa được báo tin, sau khi tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở trong khuôn viên tu viện, vị không bị bệnh nhai hoặc ăn thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Khi chưa được báo tin, có sự hoài nghi, sau khi tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở trong khuôn viên tu viện, vị không bị bệnh nhai hoặc ăn thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Khi chưa được báo tin, (lầm) tưởng là đã được báo tin, sau khi tự tay nhận lãnh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở trong khuôn viên tu viện, vị không bị bệnh nhai hoặc ăn thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Vị nhận lãnh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời vì mục đích vật thực thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi một lần nuốt xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được báo tin, (lầm) tưởng là chưa được báo tin, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được báo tin, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được báo tin, nhận biết là đã được báo tin thì vô tội.
[798] Khi đã được báo tin, vị bị bệnh, vị thọ thực phần còn lại trong trường hợp đã được báo tin hoặc của vị bị bệnh, vị thọ lãnh ở bên ngoài tu viện rồi thọ thực ở bên trong tu viện, vị thọ thực rễ cây hoặc vỏ cây hoặc lá cây hoặc bông hoa hoặc trái cây sanh trưởng tại nơi ấy, vị thọ dụng vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời khi có duyên cớ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tư.
*******
[799] Bạch chư đại đức, bốn điều pāṭidesanīya (ưng phát lộ)đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Chương Pāṭidesanīya (Ưng Phát Lộ).
*******
Bạch chư đại đức, các sekhiyā dhammā [1](ưng học pháp) này được đưa ra đọc tụng.
HAI MƯƠI SÁU ĐIỀU VỀ SỰ ĐỨNG ĐẮN - PHẦN TRÒN ĐỀU:
[800] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư quấn y (nội)[2]để lòng thòng phía trước và phía sau. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại quấn y (nội) để lòng thòng phía trước và phía sau giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại quấn y (nội) để lòng thòng phía trước và phía sau?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy sau khi thuyết Pháp thoại đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi quấn y (nội) để lòng thòng phía trước và phía sau, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại quấn y (nội) để lòng thòng phía trước và phía sau vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Ta sẽ quấn y (nội) tròn đều” là việc học tập nên được thực hành.
Nên quấn y (nội) cho tròn đều với việc che kín vòng bụng nơi lỗ rún và vòng đầu gối. Vị nào quấn y (nội) để lòng thòng ở phía trước hoặc phía sau do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[801] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trùm y (vai trái)[3]để lòng thòng phía trước và phía sau. ...(như trên)... “Ta sẽ trùm y (vai trái) tròn đều” là việc học tập nên được thực hành.
Nên trùm y (vai trái) cho tròn đều sau khi đã làm bằng nhau cả hai mép y. Vị nào trùm y (vai trái) để lòng thòng ở phía trước hoặc phía sau do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[802] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư để hở thân rồi đi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Mặc y chỉnh tề, ta sẽ đi ở nơi xóm nhà” là việc học tập nên được thực hành.
Vị mặc y chỉnh tề (mới) nên đi ở nơi xóm nhà. Vị nào để hở thân rồi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[803] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư để hở thân rồi ngồi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Mặc y chỉnh tề, ta sẽ ngồi ở nơi xóm nhà” là việc học tập nên được thực hành.
Vị mặc y chỉnh tề (mới) nên ngồi ở nơi xóm nhà. Vị nào để hở thân rồi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[804] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư múa máy tay chân khi đi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Khéo thu thúc, ta sẽ đi ở nơi xóm nhà” là việc học tập nên được thực hành.
Vị khéo thu thúc (mới) nên đi ở nơi xóm nhà. Vị nào múa máy tay chân khi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[805] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư múa máy tay chân khi ngồi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Khéo thu thúc, ta sẽ ngồi ở nơi xóm nhà” là việc học tập nên được thực hành.
Vị khéo thu thúc (mới) nên ngồi ở nơi xóm nhà. Vị nào múa máy tay chân khi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[806] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nhìn chỗ này chỗ nọ khi đi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ đi ở nơi xóm nhà với mắt nhìn xuống” là việc học tập nên được thực hành.
Nên đi ở nơi xóm nhà với mắt nhìn xuống thấy khoảng cách bằng cái cày.[4]Vị nào nhìn chỗ này chỗ nọ khi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[807] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nhìn chỗ này chỗ nọ khi ngồi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ ngồi ở nơi xóm nhà với mắt nhìn xuống” là việc học tập nên được thực hành.
Nên ngồi ở nơi xóm nhà với mắt nhìn xuống thấy khoảng cách bằng cái cày. Vị nào nhìn chỗ này chỗ nọ khi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[808] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi ở nơi xóm nhà với sự vén y lên. ...(như trên)... “Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với sự vén y lên” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên đi ở nơi xóm nhà với sự vén y lên. Vị nào vén y lên một bên hoặc cả hai bên khi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[809] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ở nơi xóm nhà với sự vén y lên. ...(như trên)... “Ta sẽ không ngồi ở nơi xóm nhà với sự vén y lên” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên ngồi ở nơi xóm nhà với sự vén y lên. Vị nào vén y lên một bên hoặc cả hai bên khi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Tròn Đều là phần thứ nhất.
*******
PHẦN CƯỜI VANG:
[810] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư cười tiếng cười lớn khi đi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với tiếng cười vang” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên đi ở nơi xóm nhà với tiếng cười vang. Vị nào cười tiếng cười lớn khi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị chỉ mỉm cười khi có sự việc đáng cười, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[811] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư cười tiếng cười lớn khi ngồi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ không ngồi ở nơi xóm nhà với tiếng cười vang” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên ngồi ở nơi xóm nhà với tiếng cười vang. Vị nào cười tiếng cười lớn khi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị chỉ mỉm cười khi có sự việc đáng cười, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[812] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư gây tiếng động ồn tiếng động lớn khi đi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ đi ở nơi xóm nhà với giọng nói nhỏ nhẹ”[5]là việc học tập nên được thực hành.
Nên đi ở nơi xóm nhà với giọng nói nhỏ nhẹ. Vị nào gây tiếng động ồn tiếng động lớn khi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[813] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư gây tiếng động ồn tiếng động lớn khi ngồi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ ngồi ở nơi xóm nhà với giọng nói nhỏ nhẹ” là việc học tập nên được thực hành.
Nên ngồi ở nơi xóm nhà với giọng nói nhỏ nhẹ. Vị nào gây tiếng động ồn tiếng động lớn khi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[814] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư khom người khiến thân đung đưa khi đi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa thân” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa thân. Nên giữ thân ngay thẳng rồi đi. Vị nào khom người khiến thân đung đưa khi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[815] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư khom người khiến thân đung đưa khi ngồi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ không ngồi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa thân” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên ngồi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa thân. Nên giữ thân ngay thẳng rồi ngồi. Vị nào khom người khiến thân đung đưa khi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đã đi đến chỗ ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[816] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư uốn cong cánh tay khiến cánh tay đung đưa khi đi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa cánh tay” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa cánh tay. Nên giữ yên cánh tay rồi đi. Vị nào uốn cong cánh tay khiến cánh tay đung đưa khi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[817] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư uốn cong cánh tay khiến cánh tay đung đưa khi ngồi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ không ngồi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa cánh tay” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên ngồi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa cánh tay. Nên giữ yên cánh tay rồi ngồi. Vị nào uốn cong cánh tay khiến cánh tay đung đưa khi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đã đi đến chỗ ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[818] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư khum đầu khiến đầu đung đưa khi đi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa đầu” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa đầu. Nên giữ đầu ngay thẳng rồi đi. Vị nào khum đầu khiến đầu đung đưa khi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[819] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư khum đầu khiến đầu đung đưa khi ngồi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ không ngồi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa đầu” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên ngồi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa đầu. Nên giữ đầu ngay thẳng rồi ngồi. Vị nào khum đầu khiến đầu đung đưa khi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đã đi đến chỗ ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Cười Vang là phần thứ nhì.
*******
PHẦN CHỐNG NẠNH:
[820] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chống nạnh khi đi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với tay chống nạnh” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên đi ở nơi xóm nhà với tay chống nạnh. Vị nào chống nạnh một bên hoặc hai bên rồi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[821] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chống nạnh khi ngồi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ không ngồi ở nơi xóm nhà với tay chống nạnh” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên ngồi ở nơi xóm nhà với tay chống nạnh. Vị nào chống nạnh một bên hoặc hai bên rồi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đã đi đến chỗ ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[822] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trùm y luôn cả đầu rồi đi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với đầu trùm lại” là việc học tập nên được thực hành.
Vị trùm đầu lại không nên đi ở nơi xóm nhà. Vị nào trùm y luôn cả đầu rồi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[823] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trùm y luôn cả đầu rồi ngồi ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ không ngồi ở nơi xóm nhà với đầu trùm lại” là việc học tập nên được thực hành.
Vị trùm đầu lại không nên ngồi ở nơi xóm nhà. Vị nào trùm y luôn cả đầu rồi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đã đi đến chỗ ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[824] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót. ...(như trên)... “Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót. Vị nào đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đã đi đến chỗ ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[825] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ôm đầu gối ở nơi xóm nhà. ...(như trên)... “Ta sẽ không ngồi ôm đầu gối ở nơi xóm nhà” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên ngồi ôm đầu gối ở nơi xóm nhà. Vị nào ngồi ôm đầu gối bằng tay hoặc ôm đầu gối bằng miếng vải ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đã đi đến chỗ ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
BA MƯƠI ĐIỀU LIÊN QUAN ĐẾN VẬT THỰC:
[826] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ lãnh đồ khất thực không nghiêm trang như là có ý muốn đổ bỏ. ...(như trên)... “Ta sẽ thọ lãnh đồ khất thực một cách nghiêm trang”[6]là việc học tập nên được thực hành.
Nên thọ lãnh đồ khất thực một cách nghiêm trang. Vị nào thọ lãnh đồ khất thực không nghiêm trang như là có ý muốn đổ bỏ do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[827] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nhìn chỗ này chỗ nọ khi thọ lãnh đồ khất thực. Ngay cả trong lúc vung vãi lẫn trong lúc làm tràn ra ngoài các vị đều không hay biết. ...(như trên)... “Chú tâm ở bình bát, ta sẽ thọ lãnh đồ khất thực” là việc học tập nên được thực hành.
Nên thọ lãnh đồ khất thực với sự chú tâm ở bình bát. Vị nào nhìn chỗ này chỗ nọ khi thọ lãnh đồ khất thực do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[828] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư, trong khi thọ lãnh đồ khất thực, thọ lãnh quá nhiều xúp. ...(như trên)... “Ta sẽ thọ lãnh đồ khất thực với lượng xúp tương xứng” là việc học tập nên được thực hành.
Xúp nghĩa là có hai loại xúp: xúp đậu mugga và xúp đậu māsa là nên được mang đi bằng tay. Nên thọ lãnh đồ khất thực với lượng xúp tương xứng. Vị nào thọ lãnh quá nhiều xúp do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, khi (xúp) có thêm nhiều món khác nhau để tăng hương vị, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, do vật sở hữu của bản thân, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[829] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ lãnh đồ khất thực được làm vun đầy lên. ...(như trên)... “Ta sẽ thọ lãnh đồ khất thực vừa ngang miệng bình bát” là việc học tập nên được thực hành.
Nên thọ lãnh đồ khất thực vừa ngang miệng bình bát. Vị nào thọ lãnh đồ khất thực được làm vun đầy lên do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Chống Nạnh là phần thứ ba.
*******
PHẦN NGHIÊM TRANG:
[830] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ dụng đồ khất thực không nghiêm trang như là không có ý muốn ăn. ...(như trên)... “Ta sẽ thọ dụng đồ khất thực một cách nghiêm trang” là việc học tập nên được thực hành.
Nên thọ dụng đồ khất thực một cách nghiêm trang. Vị nào thọ dụng đồ khất thực không nghiêm trang như là không có ý muốn ăn do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[831] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nhìn chỗ này chỗ nọ khi thọ dụng đồ khất thực. Ngay cả trong lúc vung vãi lẫn trong lúc làm tràn ra ngoài các vị đều không hay biết. ...(như trên)... “Chú tâm ở bình bát, ta sẽ thọ dụng đồ khất thực” là việc học tập nên được thực hành.
Nên thọ dụng đồ khất thực với sự chú tâm ở bình bát. Vị nào nhìn chỗ này chỗ nọ khi thọ dụng đồ khất thực do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[832] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư lựa chọn món này món nọ rồi thọ dụng đồ khất thực. ...(như trên)... “Ta sẽ thọ dụng đồ khất thực theo tuần tự” là việc học tập nên được thực hành.
Nên thọ dụng đồ khất thực theo tuần tự. Vị nào lựa chọn món này món nọ khi thọ dụng đồ khất thực do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị lựa chọn trong lúc bố thí đến những vị khác, vị lựa chọn trong lúc sớt qua vật đựng khác, (khi lấy ra) các món đặc biệt (uttaribhaṅga như bơ lỏng, dầu ăn, v.v...), trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[833] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư, trong lúc thọ dụng đồ khất thực, thọ dụng quá nhiều xúp. ...(như trên)... “Ta sẽ thọ dụng đồ khất thực với lượng xúp tương xứng” là việc học tập nên được thực hành.
Xúp nghĩa là có hai loại xúp: xúp đậu mugga và xúp đậu māsa là nên được mang đi bằng tay. Nên thọ dụng đồ khất thực với lượng xúp tương xứng. Vị nào thọ dụng quá nhiều xúp do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, khi (xúp) có thêm nhiều món khác nhau để tăng hương vị, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, do vật sở hữu của bản thân, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[834] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư vun lên thành đống rồi thọ dụng đồ khất thực. ...(như trên)... “Ta sẽ không vun lên thành đống rồi thọ dụng đồ khất thực” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên vun lên thành đống rồi thọ dụng đồ khất thực. Vị nào vun lên thành đống rồi thọ thực do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi gom chung phần ít ỏi còn sót lại làm vun lên rồi thọ dụng, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[835] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dùng cơm che lấp xúp và thức ăn với ý muốn được nhiều hơn. ...(như trên)... “Ta sẽ không dùng cơm che lấp xúp hoặc thức ăn với ý muốn được nhiều hơn” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên dùng cơm che lấp xúp hoặc thức ăn với ý muốn được nhiều hơn. Vị nào dùng cơm che lấp xúp hoặc thức ăn với ý muốn được nhiều hơn do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, các thí chủ phủ kín lại rồi bố thí, không có ý muốn được nhiều hơn, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[836] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư yêu cầu xúp và cơm vì nhu cầu của bản thân rồi thọ thực. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại yêu cầu xúp và cơm vì nhu cầu của bản thân rồi thọ thực? Khi được đầy đủ ai mà không vừa ý? Đồ ngon ngọt ai lại không thích thú?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại yêu cầu xúp và cơm vì nhu cầu của bản thân rồi thọ thực?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi yêu cầu xúp và cơm vì nhu cầu của bản thân rồi thọ thực, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại yêu cầu xúp và cơm vì nhu cầu của bản thân rồi thọ thực vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Ta sẽ không yêu cầu xúp và cơm vì nhu cầu của bản thân rồi thọ thực” là việc học tập nên được thực hành. Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[837] Vào lúc bấy giờ, có các tỳ khưu bị bệnh. Các tỳ khưu thăm hỏi bệnh tình đã nói với các tỳ khưu bị bệnh điều này:
- Này các đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?
- Này các đại đức, trước đây chúng tôi yêu cầu xúp và cơm vì nhu cầu của bản thân rồi thọ thực, nhờ thế chúng tôi được thoải mái. Giờ đây, (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán,” trong lúc ngần ngại nên không yêu cầu, vì thế chúng tôi không được thoải mái.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được yêu cầu xúp và cơm vì nhu cầu của bản thân rồi thọ thực. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi không bị bệnh, ta sẽ không yêu cầu xúp và cơm vì nhu cầu của bản thân rồi thọ thực” là việc học tập nên được thực hành.
Vị không bị bệnh không nên yêu cầu xúp và cơm vì nhu cầu của bản thân rồi thọ thực. Vị nào không bị bệnh mà yêu cầu xúp và cơm vì nhu cầu của bản thân rồi thọ thực do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, do vật sở hữu của bản thân, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[838] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nhìn vào bình bát của các vị khác với ý định tìm lỗi. ...(như trên)... “Ta sẽ không nhìn vào bình bát của các vị khác với ý định tìm lỗi” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên nhìn vào bình bát của các vị khác với ý định tìm lỗi. Vị nào nhìn vào bình bát của các vị khác với ý định tìm lỗi do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, (nghĩ rằng): “Ta sẽ cho” hoặc “Ta sẽ bảo (người khác) cho” rồi nhìn, vị không có ý định tìm lỗi, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[839] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư làm vắt cơm lớn. ...(như trên)... “Ta sẽ không làm vắt cơm quá lớn” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên làm vắt cơm quá lớn. Vị nào làm vắt cơm quá lớn do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, các vật thực cứng, các thứ trái cây, các món ăn đặc biệt, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[840] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư làm những nắm cơm dài rồi thọ thực. ...(như trên)... “Ta sẽ làm nắm cơm tròn đều” là việc học tập nên được thực hành.
Nên làm nắm cơm tròn đều. Vị nào làm nắm cơm dài do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, các vật thực cứng, các thứ trái cây, các món ăn đặc biệt, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Nghiêm Trang là phần thứ tư.
*******
PHẦN VẮT CƠM:
[841] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư há miệng ra khi vắt cơm chưa được đưa đến. ...(như trên)... “Ta sẽ không há miệng ra khi vắt cơm chưa được đưa đến” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên há miệng ra khi vắt cơm chưa được đưa đến. Vị nào há miệng ra khi vắt cơm chưa được đưa đến do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[842] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đưa trọn bàn tay vào miệng trong lúc thọ thực. ...(như trên)... “Ta sẽ không đưa trọn bàn tay vào miệng trong lúc thọ thực” là việc học tập nên được thực hành.
Trong lúc thọ thực, không nên đưa trọn bàn tay vào miệng. Vị nào đưa trọn bàn tay vào miệng trong lúc thọ thực do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[843] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nói khi miệng có vắt cơm. ...(như trên)... “Ta sẽ không nói khi miệng có vắt cơm” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên nói khi miệng có vắt cơm. Vị nào nói khi miệng có vắt cơm do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[844] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục.[7]...(như trên)... “Ta sẽ không thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục. Vị nào thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, các vật thực cứng, các thứ trái cây, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[845] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực theo lối cắn vắt cơm từng chút một.[8]...(như trên)... “Ta sẽ không thọ thực theo lối cắn vắt cơm từng chút một” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thọ thực theo lối cắn vắt cơm từng chút một. Vị nào thọ thực theo lối cắn vắt cơm từng chút một do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, các vật thực cứng, các thứ trái cây, các món ăn đặc biệt, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[846] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực theo lối làm phồng má (do cơm bị độn vào). ...(như trên)... “Ta sẽ không thọ thực theo lối làm phồng má” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thọ thực theo lối làm phồng má. Vị nào làm phồng má một bên hoặc hai bên rồi thọ thực thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, các thứ trái cây, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[847] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự vung rảy bàn tay. ...(như trên)... “Ta sẽ không thọ thực có sự vung rảy bàn tay” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thọ thực có sự vung rảy bàn tay. Vị nào thọ thực có sự vung rảy bàn tay do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị vung rảy bàn tay khi rủ bỏ vật dơ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[848] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự làm rơi đổ cơm. ...(như trên)... “Ta sẽ không thọ thực có sự làm rơi đổ cơm” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thọ thực có sự làm rơi đổ cơm. Vị nào thọ thực có sự làm rơi đổ cơm do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, cơm bị rơi rớt trong lúc rủ bỏ vật dơ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[849] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự le lưỡi. ...(như trên)... “Ta sẽ không thọ thực có sự le lưỡi” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thọ thực có sự le lưỡi. Vị nào thọ thực có sự le lưỡi do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[850] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có làm tiếng chép chép. ...(như trên)... “Ta sẽ không thọ thực có làm tiếng chép chép” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thọ thực có làm tiếng chép chép. Vị nào thọ thực có làm tiếng chép chép do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Vắt Cơm là phần thứ năm.
*******
PHẦN TIẾNG SỘT SỘT:
[851] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, ở tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, món nước sữa được chuẩn bị cho hội chúng bởi người bà-la-môn nọ. Các vị tỳ khưu uống sữa làm tiếng kêu sột sột. Có vị tỳ khưu nọ trước kia là kịch sĩ đã nói như vầy:
- Tôi nghĩ rằng toàn thể hội chúng (Saṅgha) này bị lạnh.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu lại làm trò đùa giỡn liên quan đến đức Tăng (Saṅgha)?
…(như trên)…
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi làm trò đùa giỡn liên quan đến đức Tăng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại làm trò đùa giỡn liên quan đến đức Tăng vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên làm trò đùa giỡn liên quan đến đức Phật, hoặc đến đức Pháp, hoặc đến đức Tăng; vị nào làm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách vị tỳ khưu ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Ta sẽ không thọ thực có làm tiếng sột sột” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thọ thực có làm tiếng sột sột. Vị nào thọ thực có làm tiếng sột sột do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[852] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự liếm tay. ...(như trên)... “Ta sẽ không thọ thực có sự liếm tay” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thọ thực có sự liếm tay. Vị nào thọ thực có sự liếm tay do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[853] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự nạo vét bình bát.[9]...(như trên)... “Ta sẽ không thọ thực có sự nạo vét bình bát” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thọ thực có sự nạo vét bình bát. Vị nào thọ thực có sự nạo vét bình bát do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi gom chung phần ít ỏi còn sót lại vét ra ngoài rồi thọ dụng, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[854] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự liếm môi. ...(như trên)... “Ta sẽ không thọ thực có sự liếm môi” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thọ thực có sự liếm môi. Vị nào thọ thực có sự liếm môi do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[855] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại xứ Bhagga, trong thành Susumāragira, ở rừng Bhesakalā, chỗ vườn nai. Vào lúc bấy giờ, ở tòa lâu đài của Kokanada các vị tỳ khưu thọ lãnh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại thọ lãnh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu lại thọ lãnh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi thọ lãnh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại thọ lãnh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Ta sẽ không thọ lãnh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thọ lãnh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn. Vị nào thọ lãnh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị thọ lãnh (nghĩ rằng): “Ta sẽ rửa” hoặc “Ta sẽ bảo (người khác) rửa,” trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[856] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại xứ Bhagga, trong thành Susumāragira, ở rừng Bhesakalā, chỗ vườn nai. Vào lúc bấy giờ, ở tòa lâu đài của Kokanada các vị tỳ khưu đổ bỏ nước rửa bình bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại đổ bỏ nước rửa bình bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu lại đổ bỏ nước rửa bình bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đổ bỏ nước rửa bình bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại đổ bỏ nước rửa bình bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Ta sẽ không đổ bỏ nước rửa bình bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên đổ bỏ nước rửa bình bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà. Vị nào đổ bỏ nước rửa bình bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đổ bỏ sau khi đã vớt ra (các hột cơm) hoặc sau khi làm nhừ nát hoặc vào trong đồ chứa đã được đem lại, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
MƯỜI SÁU ĐIỀU LIÊN QUAN ĐẾN THUYẾT PHÁP:
[857] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có dù ở bàn tay. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại thuyết Pháp đến người có dù ở bàn tay?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi thuyết Pháp đến người có dù ở bàn tay, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại thuyết Pháp đến người có dù ở bàn tay vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Ta sẽ không thuyết Pháp đến người có dù ở bàn tay” là việc học tập nên được thực hành. Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[858] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại thuyết Pháp đến người bị bệnh có dù ở bàn tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại không thuyết Pháp đến người bị bệnh có dù ở bàn tay?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thuyết Pháp đến người bị bệnh có dù ở bàn tay. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có dù ở bàn tay” là việc học tập nên được thực hành.
Dù nghĩa là có ba loại dù: dù trắng, dù bằng sậy, dù bằng lá được buộc theo vòng tròn, được buộc bằng các thanh cây dẹp.
Pháp nghĩa là được giảng bởi đức Phật, được giảng bởi các vị Thinh Văn, được giảng bởi các vị ẩn sĩ, được giảng bởi chư Thiên có liên quan đến mục đích có liên quan đến Pháp bảo.
Thuyết: vị thuyết theo câu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo mỗi một câu. Vị thuyết theo từ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo mỗi một từ.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có dù ở bàn tay. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh có dù ở bàn tay do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[859] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có gậy ở bàn tay. …(như trên)…
“Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có gậy ở bàn tay” là việc học tập nên được thực hành.
Gậy nghĩa là gậy dài bốn cánh tay của người đàn ông bậc trung (khoảng hai mét), dài hơn không phải là gậy, ngắn hơn không phải là gậy.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có gậy ở bàn tay. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh có gậy ở bàn tay do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[860] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có dao ở bàn tay. …(như trên)…
“Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có dao ở bàn tay” là việc học tập nên được thực hành.
Dao nghĩa là vũ khí có lưỡi một bên, có lưỡi hai bên.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có dao ở bàn tay. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh có dao ở bàn tay do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[861] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có vũ khí ở bàn tay. …(như trên)…
“Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có vũ khí ở bàn tay” là việc học tập nên được thực hành.
Vũ khí nghĩa là cây cung, cây nỏ.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có vũ khí ở bàn tay. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh có vũ khí ở bàn tay do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Tiếng Sột Sột là phần thứ sáu.
*******
PHẦN GIÀY DÉP:
[862] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có mang giày. …(như trên)…
“Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có mang giày” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có mang giày. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh có mang giày do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[863] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có mang dép. …(như trên)…
“Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có mang dép” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có mang dép. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh có mang dép do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[864] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người ở trên xe. …(như trên)…
“Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh ở trên xe” là việc học tập nên được thực hành.
Xe nghĩa là xe bò, xe kéo, xe hàng, xe ngựa, kiệu khiêng, ghế khiêng.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh ở trên xe. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh ở trên xe do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[865] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người đang nằm. …(như trên)…
“Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang nằm” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang nằm. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang nằm cho dù ở trên nền đất do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[866] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người ngồi ôm đầu gối. …(như trên)…
“Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi ôm đầu gối” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi ôm đầu gối. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi ôm đầu gối bằng tay hoặc ôm đầu gối bằng miếng vải do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[867] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người đội khăn ở đầu. …(như trên)…
“Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh đội khăn ở đầu” là việc học tập nên được thực hành.
Đội khăn ở đầu nghĩa là sau khi không để lộ ra tóc ở bên trong rồi đội khăn lên.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh đội khăn ở đầu. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh đội khăn ở đầu do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi bảo mở tóc ở bên trong ra rồi thuyết giảng, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[868] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có đầu được trùm lại. …(như trên)…
“Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có đầu được trùm lại” là việc học tập nên được thực hành.
Có đầu được trùm lại nghĩa là đề cập đến đầu đã được (y) trùm lên.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có đầu được trùm lại. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh có đầu được trùm lại do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi bảo tháo vật trùm đầu ra rồi thuyết giảng, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[869] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ở nền đất rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi. …(như trên)…
“Ta sẽ không ngồi ở nền đất rồi thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi trên chỗ ngồi” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên ngồi ở nền đất rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi. Vị nào ngồi ở nền đất rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[870] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
[871] Này các tỳ khưu, vào thời trước đây ở thành Bārāṇasī (Ba La Nại) cô vợ của người hạng cùng đinh nọ đã mang thai. Này các tỳ khưu, khi ấy người vợ hạng cùng đinh ấy đã nói với người chồng hạng cùng đinh ấy điều này:
- Này tướng công, thiếp muốn ăn xoài.
- Không có xoài, không phải mùa xoài.
- Nếu thiếp không có, thiếp sẽ chết.
Vào lúc bấy giờ, đức vua có cây xoài ra trái liên tục. Này các tỳ khưu, sau đó người hạng cùng đinh ấy đã đi đến nơi cây xoài ấy, sau khi đến đã leo lên cây xoài ấy rồi ngồi yên ẩn nấp. Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua đã đi đến cây xoài ấy cùng với viên quan tế tự người bà-la-môn, sau khi đến đã ngồi trên chỗ ngồi cao học thuộc lòng bài chú thuật. Này các tỳ khưu, khi ấy người hạng cùng đinh đã khởi ý điều này: “Cho đến cả đức vua này mà còn sai trái bởi vì sau khi ngồi trên chỗ ngồi cao lại học thuộc lòng bài chú thuật. Và người bà-la-môn này là sai trái bởi vì sau khi ngồi ở chỗ ngồi thấp lại dạy bài chú thuật đến người ngồi trên chỗ ngồi cao. Và ta là sai trái khi ta vì nguyên nhân đàn bà rồi trộm xoài của đức vua. Và toàn bộ việc này là luẩn quẩn!” rồi đã rơi xuống ngay tại chỗ ấy (nói rằng):
Cả hai không thấy Pháp,
không biết điều lợi ích,
vị dạy bài chú thuật,
vị học đều sai trái.
(Vị bà-la-môn đáp lại):
Ta ăn cơm sālī
trộn lẫn thịt tinh khiết,
ta không thực hành Pháp
các Thánh nhân ca ngợi.
(Bồ Tát đáp rằng):
Bà-la-môn, xấu thay
sở hành danh lợi ấy!
là hành động sai trái
bị đọa vào khổ cảnh.
Này Đại Phạm, thoát nhanh
chúng sanh bị đọa đày,
chớ hành phi pháp ấy
như đá làm chum vỡ.
[872] Này các tỳ khưu, ngay cả khi ấy ta đã là không hài lòng (người) ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi dạy bài chú thuật đến người ngồi trên chỗ ngồi cao thì bây giờ sẽ là không hài lòng đến mức nào đối với (người) ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Ta sẽ không ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi trên chỗ ngồi cao” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao. Vị nào ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[873] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đứng thuyết Pháp đến người ngồi. …(như trên)…
“Ta sẽ không đứng thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi” là việc học tập nên được thực hành.
Không nên đứng thuyết Pháp đến người không bị bệnhngồi. Vị nào đứng thuyết Pháp đến người không bị bệnhngồi do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[874] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi đang đi phía sau thuyết Pháp đến người đang đi phía trước. …(như trên)…
“Khi đang đi phía sau, ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi phía trước” là việc học tập nên được thực hành.
Vị đang đi phía sau không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnhđang đi phía trước. Vị nào trong khi đang đi phía sau thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi phía trước do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[875] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi đang đi bên đường thuyết Pháp đến người đang đi giữa đường. …(như trên)…
“Khi đang đi bên đường, ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi giữa đường” là việc học tập nên được thực hành.
Vị đang đi bên đường không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnhđang đi giữa đường. Vị nào trong khi đang đi bên đường thuyết Pháp đến người không bị bệnhđang đi giữa đường do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
BA ĐIỀU LINH TINH:
[876] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đứng đại tiện và tiểu tiện. …(như trên)…
“Khi không bị bệnh, ta sẽ không đứng đại tiện hoặc tiểu tiện” là việc học tập nên được thực hành.
Khi không bị bệnh, không nên đứng đại tiện hoặc tiểu tiện. Vị nào không bị bệnh đứng đại tiện hoặc tiểu tiện do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[877] Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ trên cỏ cây xanh. …(như trên)…
“Khi không bị bệnh, ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trên cỏ cây xanh” là việc học tập nên được thực hành.
Vị không bị bệnh, không nên đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trên cỏ cây xanh. Vị nào không bị bệnh đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trên cỏ cây xanh do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đã thực hiện ở chỗ không có cỏ cây xanh rồi khỏa cỏ cây xanh ra che lại, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[878] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước” là việc học tập nên được thực hành. Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[879] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu bị bệnh ngần ngại đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Khi không bị bệnh, ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước” là việc học tập nên được thực hành.
Khi không bị bệnh, không nên đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước. Vị nào không bị bệnh đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi thực hiện trên đất rồi xối nước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Giày Dép là phần thứ bảy.
*******
Bạch chư đại đức, các sekhiyā dhammā (ưng học pháp) đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Chương Sekhiya (Ưng Học).
*******
[1]Sekhiya: (phân từ vị lai thể thụ động, từ ngữ căn √sikkh) dịch là cần được học tập, nên được rèn luyện.
[2]Động từ nivāseti áp dụng cho antaravāsaka (y nội) nên được dịch là “quấn y (nội).”
[3]Động từ pārupati áp dụng cho uttarāsaṅga (thượng y, y vai trái) nên được dịch là “trùm y (vai trái).”
[4]Theo ngài Buddhaghosa thì nhìn phía trước ở mặt đất khoảng cách 4 hattha (tương đương 2 mét).
[5]Appasaddo: dịch sát nghĩa là “ít tiếng động, tiếng động nhỏ.” Chú Giải cho ví dụ về tiếng động nhỏ như sau: “Trong căn nhà dài 6 mét có ba vị trưởng lão ngồi, một vị ngồi đầu này, một vị ngồi giữa, một vị ngồi đàng cuối (như vậy vị ngồi giữa cách đều hai vị kia một khoảng cách là 3 mét). Khi vị thứ nhất nói nhỏ nhẹ thì vị ngồi ở giữa nghe và biết được nội dung, còn vị kia ngồi cách 6 mét nghe tiếng nói nhưng không biết được nội dung.”
[6]Ngài Buddhaghosa giải thích “sakkaccanti satiṃ upaṭṭhapetvā” là “sau khi đã an trú niệm.”
[7]Cụm từ “piṇḍukkhepakaṃ” đượcdịch sát nghĩa là “sự thảy lên cục (cơm).” Tuy nhiên, khi xem đến phần không phạm tội với các vật thực cứng và các thứ trái cây, chúng tôi hiểu lời giải thích “piṇḍukkhepakanti piṇḍaṃ ukkhipitvā ukkhipitvā” của ngài Buddhaghosa theo cách được ghi lại như trên.
[8]Cụm từ “kabaḷāvacchedaka” đượcdịch sát nghĩa là “sự cắn vắt cơm làm hai.” Cũng như điều trên, khi xem đến phần không phạm tội với các vật thực cứng, các thứ trái cây, các món ăn đặc biệt, chúng tôi hiểu lời giải thích “kabaḷāvacchedakanti kabaḷaṃ avacchinditvā avacchindivā” của ngài Buddhaghosa theo cách được ghi lại như trên, nói nôm na là “ăn theo lối nhâm nhi.”
[9]Từ “nillehakaṃ” nghĩa là sự liếm, vét trong ba cụm từ “hattha-nillehakaṃ, patta-nillehakaṃ, oṭṭha-nillehakaṃ” liên quan đến tay, bình bát, và môi. Sở dĩ chúng tôi không dịch là “liếm bình bát” vì điều ấy không thể thực hiện được nên ghi là “nạo vét.” Nếu vị tỳ khưu thọ thực trong đĩa thì từ “liếm” có thể áp dụng.
[10]Phần chi tiết được ghi lại ở Tiểu Phẩm - Cullavagga, chương IV.
(ADHIKARAṆASAMATHĀ DHAMMĀ)
Bạch chư đại đức, bảy pháp dàn xếp tranh tụng[10]này được đưa ra đọc tụng.
[880] Nhằm đưa đến sự dàn xếp, nhằm đưa đến sự giải quyết các sự tranh tụng đã sanh khởi hoặc chưa sanh khởi, nên áp dụng cách hành xử Luật với sự hiện diện (sammukhāvinayo), nên áp dụng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ (sativinayo), nên áp dụng cách hành xử Luật khi không điên cuồng (amūḷhavinayo), nên phán xử theo sự thừa nhận (paṭiññāya), thuận theo số đông (yebhuyyasikā), theo tội của vị ấy (tassapāpiyasikā), cách dùng cỏ che lấp (tiṇavatthārako).
Bạch chư đại đức, bảy pháp dàn xếp tranh tụng đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt các Pháp Dàn Xếp Tranh Tụng.
*******
[881] Bạch chư đại đức, phần mở đầu (nidāna) đã được đọc tụng, bốn điều pārājika (bất cộng trụ) đã được đọc tụng, mười ba điều saṅghādisesa (tăng tàng) đã được đọc tụng, hai điều aniyata (bất định) đã được đọc tụng, ba mươi điều nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị) đã được đọc tụng, chín mươi hai điều pācittiya (ưng đối trị) đã được đọc tụng, bốn điều pāṭidesanīya (ưng phát lộ) đã được đọc tụng, các sekhiyā dhammā (ưng học pháp) đã được đọc tụng, bảy adhikaraṇasamathā dhammā (pháp dàn xếp tranh tụng) đã được đọc tụng.
Bấy nhiêu của đức Thế Tôn ấy đã được truyền lại trong giới bổn, đã được đầy đủ trong giới bổn, được đưa ra đọc tụng vào mỗi nửa tháng. Chính tất cả (chư đại đức) nên học tập các điều học ấy với sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ.
Phân Tích Giới Tỳ Khưu được chấm dứt.
*******
[10]Phần chi tiết được ghi lại ở Tiểu Phẩm - Cullavagga, chương IV.