Bậc Ba Minh Dạy Luyện Tĩnh Giác

LỜI GIỚI THIỆU

Bậc Ba Minh Dạy Luyện Tĩnh Giác là một tập sách dạy thực hành pháp thiền xả tâm li dục li ác pháp của Phật Giáo Nguyên thủy.

Nguyên Thiện dựa vào những lời giảng dạy và kinh sách của Thầy biên soạn, rồi viết ra từ kinh nghiệm bản thân trong bước đầu tu tập của mình. Vì thế tập sách có giá trị thực hành rất cao, giúp cho những người mới tu tập có căn bản vững vàng, khi thực hành không còn sợ tu tập sai lệch, rơi vào những pháp tưởng của tà giáo ngoại đạo; của chỗ ức chế tâm, làm rối loạn thần kinh.

Tập sách này cũng giúp cho những người tu tập lâu năm đang giậm chân tại chỗ, con đường tu tập không tiến tới được. Sách còn giúp cho hành giả thấy được chỗ tu sai lạc, chỗ mất căn bản, chỗ ức chế tâm, chỗ bị tưởng che khuất, chỗ bị buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê, mất ý thức tấn công, v.v... Nhờ ánh sáng tập sách soi rọi con đường tu hành theo Phật Giáo để hành giả đi đến đích làm chủ sanh tử giải thoát luân hồi mà không còn khó khăn, không còn mệt nhọc.

Tập sách này càng đọc càng thấy pháp hành của Phật Giáo cụ thể, rõ ràng, từ thấp đến cao, từ gần đến xa, từ cạn đến sâu. Do đó sự tu tập xả tâm thường đem lại cho thân tâm thanh thảnh an lạc và vô sự, một trạng thái tâm lí mà người tu hành cần phải luôn luôn bảo vệ, giữ gìn. Có tu tập được như thế mới gọi là chứng đạo quả A-la-hán.

Thấy sự lợi ích rất lớn của tập sách này đối với những người tu hành theo giáp pháp của Phật Giáo Nguyên Thuỷ nên Thầy giới thiệu cùng quý vị Phật tử để sự tu tập không phí mất thời gian vô ích mà kết quả được mỹ mãn. Nó là tập sách không phải đọc một lần mà đọc nhiều lần, càng đọc quý vị mới thấy rõ pháp hành tuyệt vời của Phật Giáo, nhất là tu tập đến đâu có kết quả giải thoát đến đó.

Kính ghi,

Trưởng Lão Thích Thông Lạc.

Tu Viện Chơn Như, Tây Ninh, Việt Nam.

Tháng 3 năm Phật lịch 2550

LỜI ĐẦU SÁCH

Kính thưa chư vị độc giả,

Tập sách này được ghi viết lại những lời dạy của Trưởng Lão Thích Thông Lạc cho một đệ tử cư sĩ từ băng ghi âm để tập luyện tĩnh giác là giai đoạn tập luyện đầu tiên trên lộ trình dẫn tới Thiền Chánh Định và trí tuệ Ba Minh (trí tuệ siêu việt vượt thoát sự hạn hẹp của thời gian và không gian). Tuy đây là những lời dạy cá biệt phù hợp với đặc tướng của một người, nhưng nhận thấy có rất nhiều điều thích hợp cho nhiều người tập luyện theo Giáo Pháp mà đức Phật Thích Ca đã tu luyện thành công và dạy lại cho các hàng đệ tử cũng đã tập luyện được thành công, nên chúng tôi ghi lại và trình xin Trưởng Lão cho phổ biến để làm lợi ích cho những hành giả đang phân vân trước quá nhiều pháp tập luyện không chân chánh của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trưởng Lão dạy “Ai có đủ nhân duyên họ sẽ gặp Chánh pháp. Các con hành động thì nhân quả sẽ tác động”.

Đây là tập sách ghi lại hầu hết những lời dạy thực hành các pháp tu tập của Thầy cho một trò đang quỳ thọ pháp trước mặt nên hành văn rất đơn giản mà rõ ràng, đầy đủ chi tiết thực hành, không nặng phần lý thuyết. Do ghi lại trung thực lời dạy nên rất nhiều ý hoặc đoạn văn được lặp lại nhiều lần trong suốt tập sách mục đích là để người đệ tử thấm nhuần lời Thầy, hiểu được vững chắc lời dạy trong những vấn đề xưa nay bị giảng dạy sai lầm, khác lạ ý Phật bởi những Tổ chưa đạt đến chứng đắc cuối cùng.

Diễn tả cho rõ ràng những điều chứng nghiệm để người chưa chứng nghiệm hiểu được, biết được, tập luyện theo được là một việc khó làm, nên chỉ những ai đang tập luyện, mong cầu tập luyện thì nên nghiên cứu. Điều cần thiết đặc biệt là nên tập luyện dưới sự giám sát giúp đỡ của một vị Thầy thật sự đã chứng đắc rốt ráo. Thu thập những hiểu biết được truyền đạt trong tập sách này, không tập luyện để tự chứng nghiệm, mà chỉ để khua lý luận văn là điều không nên làm vì đó là ác pháp; càng nguy hại hơn nữa khi dựa trên kiến giải phi Chánh Đạo. Ngoài ra, sách này là lời dạy của bậc Thầy đầy đủ ba Minh nên không có sự đối chiếu ý của bậc Thầy xuất xứ từ kinh nào của các tạng kinh nguyên thủy Phật giáo; người đệ tử đã thấu rõ trước giáo lý của đức Phật, để đến khi được dạy tức khắc tự biết lời Thầy tương hợp với ý Phật. Niềm tin vào Thầy của người đệ tử đặt trên lòng tin Người là bậc Thầy chứng đạo đầy đủ 4 Thiền và 3 Minh, thông ý Phật, hiểu nghĩa kinh, khi người đệ tử tự thân chứng nghiệm lời Thầy dạy hoàn toàn hợp lí và sáng tỏ, không chút gì lờ mờ, tập luyện có kết quả cụ thể đúng theo lời dạy của Phật trong kinh.

Tĩnh giác là giai đoạn đầu tiên nhất thiết phải đạt thành, thuộc 4 Chánh Cần (ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện), của lộ trình tập luyện Thiền Chánh Định. Khi thực hành tập luyện có bốn pháp môn: Định Kinh Hành Tĩnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, Định Thư Giãn và Định Vô Lậu; trong đó Định Vô Lậu là pháp quán dùng tri kiến quán xét vạn vật vô thường, khổ, vô ngã không được ghi chép trong tập sách này (xin xem bài giảng ở lớp Chánh Kiến 2005-2006), chỉ ba pháp định kia mới được ghi ra ở đây. Hành giả cần phải thực hành đầy đủ cả bốn pháp môn mới đạt được Thiền Chánh Định, bằng không thì không đúng đường.

Đức Phật thấy rõ con đường, đã sống đúng theo và Ngài đem ra dạy cho mọi người nhằm thực hiện nền đạo đức nhân bản nhân quả chân thật của cuộc sống. Hoàn tất những pháp tập luyện về đức hạnh sẽ đạt được khả năng làm chủ sự sống chết, chấm dứt khổ đau luân hồi, thành đạt Trí Tuệ, chứ Đức Phật không chú trọng tới những vấn đề siêu hình trừu tượng hay thần thông pháp thuật. Chỉ có những ai đã hoàn tất thực hành sống đúng cả ba pháp Giới, Định, Tuệ thì chính là bậc Giải Thoát như đức Phật.

Mong rằng những hướng dẫn đầy đủ, rõ ràng trong sách này sẽ giúp nhiều người nắm bắt được cách tu tập căn bản và nương vào để mở cửa Thiền Chánh Định mà từ rất lâu không ai có được hiểu biết chân thật.

Kính ghi,
Nguyên Thiện.
Xuân Bính Tuất, tháng 3 năm Phật lịch 2550.

LỜI TÁC BẠCH (Cho ấn bản năm 2008)

Kính thưa chư vị độc giả,

Sau thời gian ấn bản photocopy của tập sách này được phổ biến nội bộ huynh đệ trong Tu Viện Chơn Như, chúng tôi nhận được nhiều ý kiến xây dựng nên tập sách được sắp xếp thay đổi theo cách thức mà quý vị đang có trong tay.

Lần biên tập lại này, nội dung tập sách được chia làm hai phần: Phần tổng quát và phần thực hành các pháp tu tập. Sự sắp xếp này làm sáng tỏ những lời dạy rất tâm huyết của một bậc Thầy chí tình mong người đệ tử cố công chứng đạt chân lý của đức Phật qua các pháp hành mà Người đã chứng đạt. Tuy việc ghi chép chưa được đầy đủ đúng theo lời dạy của Thầy nhưng từng pháp hành theo sự trình bày đổi mới trong sách sáng tỏ hơn để giúp quý vị tự mình xét nghiệm trình độ và lập chương trình tu tập đúng theo năng lực của quý vị (cần thiết phải có sự chỉ dạy của bậc Thầy-tâm-vô-lậu), không bị chi phối bởi căn cơ của Nguyên Thiện, đồng thời giảm thiểu những lời dạy trùng lặp của Trưởng Lão trong lần biên tập năm 2006.

Phần Phụ Lục chỉ còn giữ lại “Giới Hành Niệm Hơi Thở Ra Hơi Thở Vô”.

Trong sách này có hai từ TĨNH GIÁC và TỈNH THỨC nhấn mạnh đến hai giai đoạn tu tập:

- Tĩnh giác là giai đoạn từ tâm loạn động được chế ngự để được yên tịnh theo dõi và biết rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ, biết rất kĩ lưỡng, biết không mờ mịt một chút xíu nào về đối tượng đang tu tập. Đây là mục đích chánh của giai đoạn Tứ Chánh Cần, là đối tượng của tập sách này.

- Tỉnh thức là trạng thái tâm tĩnh giác mà bất động, không có pháp nào khác ngoài tâm bất động này, được phòng hộ để chủ động sự sống chết, chấm dứt luân hồi. Chỉ khi đã tĩnh giác mới TỈNH THỨC, lúc đó tâm hoàn toàn tỉnh táo trong trạng thái thanh thản an lạc vô sự, mới đủ khả năng để tu tập đúng pháp môn 4 Niệm Xứ. Những lời dạy của Trưởng Lão Thích Thông Lạc trong lớp Chánh Tư Duy và lớp Bốn Niệm Xứ các năm 2006-2007 về giai đoạn này, được biên tập trong sách “Bậc Ba Minh Dạy Tu Tỉnh Thức Chánh Niệm”.

Xin quý vị hoan hỉ đóng góp ý kiến xây dựng để tập sách, trong lần ấn bản tới, càng đáp ứng được nhu cầu tu tập của nhiều người.

Kính tác bạch,
Nguyên Thiện.
Tháng 5 năm Phật lịch 2552.

PHẦN I: CHUNG CÁC PHÁP HÀNH

CƠ BẢN

Đức Phật dạy từ chỗ thấp mới đến chỗ cao, chứ không phải đi ngang. Hiện giờ Thầy chưa có thời giờ nên chưa soạn giáo án cho người cư sĩ được. Chỉ khi trong vị trí của người cư sĩ tập luyện được kết quả rồi thì mới nên tiến qua giai đoạn của người tu sĩ. Có như thế mới hợp. Chứ khi đang còn mang bản chất tham, sân, si thô quá mà xuất gia và tu tập liền theo trình độ của một người tu sĩ thì căn bản chưa được đầy đủ, nên dễ đổ gãy, hoặc bị cái danh cái lợi của tôn giáo làm mờ mắt.

Nếu xuất gia với vị thầy đang đứng trong vị trí danh lợi, có chùa sang lớn, Phật tử vào các chùa đó họ kính trọng ông thầy có uy tín đó thì đám học trò của ông thầy cũng được hưởng cái danh cái lợi của thầy. Thế rồi họ cũng hãnh diện mình có ông thầy như vậy. Phần Phật tử đến chùa họ cũng nghĩ đệ tử của ông thầy này nhất định “phải hay, phải giỏi” thôi. Từ đó, do cái tâm của người tu sĩ này còn đời cho nên dễ nhiễm, bị nhiễm. Thay vì nhiễm vị giải thoát của đức Phật thì trái lại, họ nhiễm cái danh, cái lợi của ông thầy. Vì ông thầy này giàu sang, sung sướng, hưởng đủ thứ lợi, nên tâm các học trò cũng hướng về danh lợi giàu sang, muốn có Phật tử đông. Cho nên số người biết xuất gia tu hành lại nhiễm danh lợi mới. Họ quên đi con đường tu hành là làm chủ sự sống chết mà chỉ nhắm đạt những kết quả danh lợi như vị thầy của họ đang có. Danh lợi đời thì phải làm bằng nước mắt, mồ hôi của mình. Bây giờ vô trong danh lợi đạo thì chẳng thấy cực khổ gì hết, mà cứ phây phây học, rồi lên từng cấp của sự học mà ngạo mạn người ta và quý trọng mình. Cuối cùng thì lên hàng gọi là cao cấp của Phật giáo chứ công hạnh tu hành thì...

Phải chi người mới xuất gia đó nương vào được vị thầy khổ hạnh, sống tu giữ đúng giới luật thì nhờ căn bản đó vị đệ tử này có được ảnh hưởng tốt của thầy sẽ trở thành tốt. Nhưng làm sao được, trong hiện giờ con thấy những vị thầy có uy tín đều có những cơ sở lớn vĩ đại trong một khu rừng hay trong một vùng nhưng vị thầy đó chỉ có sở học mà không có chứng đắc được gì.

Vậy con là những cư sĩ khi muốn vào những cơ sở như thế để tu học thì phải chuẩn bị cho mình một giáo trình cư sĩ rồi học thật đầy đủ, từ Bốn Chánh Cần, ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, cho đến li dục li ác pháp, rồi tập luyện trong thế của người cư sĩ cho đến khi đạt được sự thuần thục từ ngăn ác diệt ác pháp cho đến pháp li dục li ác pháp thật vững vàng. Lúc xong rồi mới nên vào con đường tu học thật sự. Dù ở chỗ nào con cũng thấy dễ dàng tiến tu.

Nếu không chuẩn bị kĩ càng như vậy mà vào tập luyện ngay thì chắc chắn đổ vỡ sự tu hành. Ở đây, mấy năm nay, Thầy thấy sắp đặt vô giới thì đổ hết, nghĩa là người nào chịu được chỉ trong một năm thì họ đều đi vào đường tu tập ức chế sai lầm. Từ lâu họ bị đưa vào pháp sai lạc bởi lẽ bất kỳ ai tu tập lâu cũng đều ở trong pháp Đại Thừa là pháp ức chế. Họ ức chế cho hết vọng tưởng. Một số người vào đây tu họ cũng chỉ ngồi nhiếp tâm ức chế cho hết vọng tưởng.

Pháp của Phật đâu có phải như vậy. Pháp của Phật nhằm mục đích li tham dục. Trong lúc tu tập, pháp của Phật muốn cho không có vọng tưởng thì người ta dẫn tâm vào chỗ không có vọng tưởng, đâu cần phải ức chế tâm như vậy. Nhưng không có vọng tưởng đâu thành đạt cái gì. Trong pháp Định Niệm Hơi Thở có những câu tác ý tập luyện để cho hết vọng tưởng trong trường hợp tâm mình bị động mà muốn cho nó tịnh. Tịnh đó không thành đạt cái gì hết, chỉ ở trong trạng thái tịnh đó thôi. Thí dụ trong pháp đi kinh hành, kết quả nhiếp tâm trong khi đi là khi đi không niệm khởi; nhưng không khéo bước đi mà ức chế. Vậy làm sao để đi không niệm khởi mà không ức chế? Cũng như Định Niệm Hơi Thở, làm sao ngồi hít thở nhiếp tâm vào hơi thở mà không ức chế.

Đó là giai đoạn tập luyện của người cư sĩ. Người cư sĩ sống trong ác pháp nên họ có duyên để xả bỏ. Họ dùng Định Vô Lậu để quán xét, dùng tri kiến để giải quyết các chướng ngại. Họ thấm nhuần phương pháp của Phật, nên nhiếp tâm mà không ức chế.

Còn người tu sĩ thì họ đã nắm vững những cái này rồi, qua khỏi giai đoạn này rồi. Đến giai đoạn tu sĩ thì người tu sĩ đã quen, đã thành thục giai đoạn đầu, cho nên chỉ ngồi quét tâm trên thân, thọ, tâm, pháp. Trên bốn chỗ này, nếu chỗ nào có chướng ngại pháp xẩy ra thì người tu sĩ dùng câu pháp hướng của đề mục thích ứng để quét sạch chướng ngại pháp đó. Thí dụ có một thọ khổ nào xẩy ra trên thân thì người tu sĩ dùng câu pháp hướng của đề mục “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Thế mà thọ khổ trên thân được đẩy lui, được đoạn trừ, được tiêu diệt, và sẽ cảm thấy được an.

Thọ đến trên thân thì người tu sĩ ngồi thoải mái như thế này và tác ý câu trên. Cứ ngồi mà tác ý như vậy chứ không ức chế tâm chỗ nào hết, thế mà thân an, mà tâm tịnh. Đó là Định Niệm Hơi Thở. Cho nên Phật dạy chúng ta phương pháp 4 Niệm Xứ, quán thân trên thân, quán tâm trên tâm, quán thọ trên thọ, quán pháp trên pháp; suốt ngày cứ ngồi tác ý tâm như vậy mà ta được thân an, mà ta có niệm, ta có định, cuối cùng thiền định tới, rồi chuyển qua Thân Hành Niệm quét sạch vi tế tham, sân, si để 7 Giác Chi xuất hiện, tức 7 năng lực thiền định.

Hiện giờ con làm sao biết cách quét, làm sao con có khả năng để quét thọ trên thân hay tâm được. Mục đích chánh của giai đoạn đầu này là con cần tập thành thục thân hành nội tức ngồi tập chú ý vào hơi hít thở và thân hành ngoại tức khi đi thì chỉ lưu ý bước đi.

Lúc đầu thì có thể như vầy, khi ngồi tập luyện Định Niệm Hơi Thở con lưu ý khi nào sắp buồn ngủ tới thì trước lúc đó phải đứng dậy đi. Đi nhưng chỉ lưu ý hơi thở, chú ý vào hơi thở, đừng phân tâm xuống bước đi, nghĩa là sử dụng thân động để tâm không buồn ngủ, nhưng tâm bám chặt vào hơi thở, vì trong thời này con đang tập luyện Định Niệm Hơi Thở, chỉ biết hơi thở thôi.

Còn trong pháp môn thân hành ngoại, con đi; đi một lúc thì thấy chân mỏi. Con ngồi xuống một chỗ mà vẫn tập luyện thân hành ngoại bằng cách tay đưa ra đưa vào như vầy, tâm theo dõi tay, không theo dõi gì khác. Đi thì lưu ý bước đi, ngồi thì lưu ý chuyển động vào ra của cánh tay đưa vào đưa ra. Đó là tập luyện thân hành ngoại trong khi đi và trong khi ngồi.

Tập luyện thân hành nội hay thân hành ngoại cũng đều là tập luyện thân hành niệm, thân hành của mình trở thành niệm cho tâm của mình. Khi đi thì các bước đi đều đặn, bước nào cũng như bước nấy, đều đặn, nhịp nhàng. Còn hơi thở thì cũng đều đặn, không thở cái dài, cái ngắn. Hơi thở đều đặn như con thoi đưa tới, đưa lui, nhẹ nhàng. Thật ra chỉ khi nào Niệm Giác Chi xuất hiện thì mới được như vậy.

Khi vô thất, con tập luyện cho rốt ráo hạnh li dục li ác pháp, để đạt cho được bất động tâm, vào cho được bất động tâm, tức là tâm thanh thản an lạc vô sự. Hiện giờ tâm còn tham, sân, si, cho dù có cảm thấy thanh thản an lạc vô sự thì cái thanh thản an lạc vô sự đó chỉ là của tham, sân, si, chưa phải là của tâm giải thoát. Khi đã li dục li ác pháp thì tâm mới được giải thoát. Khi đó con cảm thấy tâm mình rỗng rang, thanh thản, nhẹ nhàng.

Trạng thái của cụm từ thanh thản an lạc vô sự có từng cấp, từng bậc. Tập luyện càng sâu, càng li dục li ác pháp thì mới kinh nghiệm được cái này. Li dục và li ác pháp càng nhiều thì tâm và thân mới đạt trang thái thanh thản an lạc vô sự ngày càng sâu. Người đời không thể biết được mùi vị của trạng thái tâm giải thoát này đâu. Người thật tu và có tu chứng thì thân tâm của họ nhẹ nhàng lắm.

Càng tập luyện thì cơ thể ít bị bệnh, nhưng có thọ hành. Ví như chân này bình thường như vậy, nhưng tự nhiên cảm thấy đau như bị bong gân. Thực sự không phải đau đâu, đó là thọ hành. Tập luyện Thân Hành Niệm thì có thọ hành.

Có cô Kim Tiên từ bên Mỹ về đây tập luyện, mỗi bước chân cô cảm thấy thốn từ gót lên tới đầu, đau chịu không nổi. Đó là thọ hành. Đây cũng có cô Nguyên Thanh, mỗi khi tập luyện Định Niệm Hơi Thở thì cô cảm thấy mặt bị ngứa rất khó chịu. Thầy bảo phải gan dạ, gan lì, không gãi, không quào. Thế mà nó hết.

Khi có những cảm thọ như vậy, con phải tác ý như vầy “Một là chết, hai là chứng quả Thánh. Ta không sợ đau đâu”, rồi bước đi thật mạnh, để chân thật mạnh thì nó sẽ hết. Hãy cắn răng chịu đựng một lúc, một thời tu. Nếu cứ sợ, chẳng dám đi mạnh, chẳng dám bước mạnh, chẳng dám chịu đựng thì còn đau hoài. Nội lực của con người kinh khủng lắm, cho nên đức Phật nói “Cảm thọ tận cùng của sinh mạng”. Phải gan dạ chịu dựng và thẳng mặt đối phó với cảm thọ thì nó sẽ chạy mất.

Thầy lưu ý đặc biệt điều này cho người quyết tâm tập luyện, quyết chiến đấu với mặt trận sanh tử. Thầy sẽ hướng dẫn tận tình cho những người đó. Còn những người chỉ vào đây tu cho biết, tu chơi, thì cứ để tự nhiên cho họ. Họ chỉ là người muốn tìm hiểu cho thỏa ý tò mò, thỏa sự hiểu biết. Dù vậy, Thầy cũng giảng cho họ thỏa mãn. Tu chưa tới mà cứ hỏi Tam Minh Lục Thông để làm gì. Chỉ tò mò, mất thì giờ thôi. Họ chỉ được sáng tỏ hiểu biết chứ không tu nổi.

Người nào đã tập luyện thuần thục phương pháp của vị thầy nào rồi, khi pháp tập luyện đã trở thành thói quen rồi thì không xả bỏ được. Thí dụ ở đây có người tập luyện theo pháp thiền phình xọp bụng của ngài Mahasi, hay pháp của người nào khác thì khó tập luyện pháp của Phật do Thầy triển khai. Cho nên thật may mắn cho người nào ngay từ lúc mới bắt mà tu tập đúng Chánh Pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thầy cũng bị dẫn lạc hướng bao năm trời.

Tuỳ theo đặc tướng của từng người mà Thầy dạy. Có những người có thể áp dụng theo cách thức Thầy dạy cho con, họ tập luyện có kết quả. Có người không có kết quả thì họ theo cách thức Thầy dạy cho người khác vì họ có đặc tướng riêng gần giống với người khác này. Sau này có thể tổng hợp những kinh nghiệm khác nhau Thầy đã dạy để giúp cho mọi người có định hướng mà tập luyện trong trường hợp không có ai hướng dẫn.

HIỂU BIẾT TRONG KHI TẬP

1. Thiện Xảo Vừa Sức

Trong khi tập luyện con thấy pháp Tác Ý và Định Niệm Hơi Thở có những đề mục để giúp ta vượt qua khó khăn. Thí dụ thân bị mỏi mệt, đau nhức đâu đó thì sử dụng đề mục Định Niệm Hơi Thở để giúp thân trở về sự an ổn, rồi mới tiếp tục tập luyện. Nhưng cũng phải khéo léo, không tập luyện quá sức, phải biết thiện xảo, chứ không thì sẽ sinh ra buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê, mỏi mệt đủ cách. Phải tập luyện vừa sức thôi.

Phải thiện xảo đối với mỗi pháp môn mà căn bản là đừng để tâm phóng dật. Các pháp tập luyện không có tính cách giáo điều. Có tính cách giáo điều là sai. Phương pháp phải thiện xảo cho đúng với đặc tướng của mình. Đức Phật đã nói “Tấc bóng thời gian một tấc vàng”. Tập luyện là phải có chất lượng; tập luyện mà không có chất lượng là uổng lắm: uổng cả thời gian và uổng cả công tập luyện. Cho nên Thầy thường nói tập luyện từng hơi thở. Tập luyện một hơi thở mà có chất lượng thì hay hơn ngồi 30 phút mà không có chất lượng. Vậy khi tập luyện thì phải có chất lượng trong từng hơi thở. Hơi thở này được rồi mới tập tiếp hơi thở khác.

Đức Phật xác định: “Pháp ta không có thời gian, đến để mà thấy” nghĩa là khi mình tập luyện xong, xả ra mà thấy thoải mái dễ chịu, không thấy gì là tập luyện đúng cách, tốt. Ngược lại xả ra mà thấy căng chỗ này, đau chỗ kia là tập luyện sai, phải sửa chữa lại. Nếu xả ra mà thấy lười biếng, không muốn tập luyện thì đó là tập luyện ít, dưới sức. Còn xả ra mà thấy ham tập luyện, cơ thể còn sung mãn, thích tập luyện thêm nữa thì đó là tập luyện đúng pháp, vừa sức. Nhưng phải thiện xảo nghĩa là phải nghỉ. Chỉ tập luyện tới đó thôi để còn thích, lát sau vô sẽ tập nữa.

2. Đúng Với Trạng Thái Tâm

Phải biết các trạng thái thân tâm như thế nào để biết tâm lí mà tập luyện. Tập luyện mà không thấy chán thì được, còn nếu sắp tới giờ tập mà ngán, thấy chán nản thì đó là tập luyện sai. Vả lại trên đường tập luyện có đạt được kết quả gì thì mới ham thích tập luyện, tin tưởng tập luyện; chứ không kết quả thì sẽ sinh chán nản, thối chuyển, tập luyện chỉ có hình thức thôi. Bên ngoài thì có vẻ tập luyện nhưng bên trong tâm lí đã thay đổi, không còn nồng nhiệt như lúc ban đầu.

3. Kiểm Điểm Kết Quả

Sau một thời tu tập cần kiểm điểm lại xem, dù kết quả nhỏ tuy thế nó vẫn sách tấn nhiều. Có thấy tiến bộ sẽ làm con tích cực tập luyện, ham tập luyện. Thỉnh thoảng so sánh ngày hôm qua, ngày hôm kia với ngày nay, thấy hôm nay có tiến bộ, dù nhỏ nhưng nó vẫn khích lệ rất lớn. Thí dụ so sánh kiểm điểm thời đầu hôm với thời sáng thấy thân tâm đều được an. Con ghi nhận cách thức tập luyện các pháp hành như vậy và trạng thái tâm như vậy thì sẽ tinh vi rút tỉa kinh nghiệm tại sao đêm nay tập luyện mà được kết quả như vầy hay tại sao không được. Rút kinh nghiệm đó áp dụng cho các thời tập luyện sau. Ngày này, sáng đối chiếu với chiều, kiểm điểm lại. Cứ như vậy thì con sẽ tiến bộ nhiều lắm.

4. Lắng Tâm Thanh Tịnh

Những pháp tập luyện liên tục đó giúp cho tâm càng ngày càng li dục li ác pháp cho thanh tịnh. Tâm thanh tịnh rồi thì tác ý gì nó cũng thực hiện được; vừa tác ý là nó hiện ra tướng ấy liền. Tâm còn dục, còn ác pháp, còn ô nhiễm, nói chung là chưa thanh tịnh, tập luyện thì nó lắng dần cũng như nước lắng dần thì phải trong. Tâm trong thì tâm hiện ra, chưa trong thì nó chưa hiện. Có vậy thôi. Cho nên chính khi tập luyện là lúc lắng tâm. Lắng đúng cách thì nó trong, lắng không đúng cách thì không trong, còn đục hoài. Tập luyện sai thì làm sao mà tâm thanh tịnh được.

Theo những điều trình bày thì con đã tập luyện đúng rồi, nhưng còn phải chịu khó siêng năng theo đúng cách Thầy đã dạy thì từ từ nó sẽ lắng xuống, không có cách nào khác, không ai làm cho nó lắng được. Chính các pháp đó sẽ lắng tâm của người chuyên cần luyện tập.

Con tập quán trong mỗi bữa ăn: “Thực phẩm là bất tịnh. Chỉ ăn để nuôi thân tứ đại bất tịnh, để tu học. Đừng tham ăn nhiều. Đừng tham ăn ngon. Ăn để sống, sống để tu tập”. Quán như vậy rất tốt. Hằng ngày cứ quán như vậy thì nhờ đó mới thấy ăn chỉ để sống. Con tập quán lâu dần sau này mới quen có sự tư duy khi ăn, thấm nhuần vào nhân quả.

Nghi thức thọ trai Thầy soạn để các con tập dần dần sẽ thấm nhuần, sẽ có sự tư duy khi ăn.

Ngủ con cũng tác ý “Thân tâm ngủ cho an lành, không được mộng mị chiêm bao”. Tác ý vài lần khi nằm xuống ngủ. Mới đầu thì chưa có tác dụng gì, nhưng lâu ngày sẽ yên lặng, ngủ ngon, an lành trong giấc ngủ, không còn ác mộng hay mộng mị nhiều.

Những gì Thầy dạy, con cứ thực hành rồi từ từ sẽ có kết quả tốt cho thân tâm của con. Phải có thời gian trong quá trình tập luyện để tạo thành kết quả. Trong khoảng thời gian từ 3 năm mà đừng phá vỡ hạnh độc cư, suốt ngày cứ các pháp đó chuyên lo tập luyện trì chí thì sẽ tiến bộ kinh khủng.

Con ráng tập đi! Đó là pháp Phật!

5. Xác Định Đặc Tướng

Biết cách tập luyện là biết đặc tướng của mình. Dù pháp tập luyện được dạy đúng mà không biết đặc tướng thì tập luyện bị hao hụt năng lượng nên tập luyện hoài mà không đưa đến kết quả của pháp.

Dựa vào lời Thầy dạy, con tự nghiên cứu lại trong thân và tâm để biết rõ đặc tướng của con. Thí dụ, con có thể tập luyện trong 30 phút không niệm, hay trong 10 phút, hay 5 phút không niệm thì đó là đặc tướng của con. Đặc tướng là có người trong một thời gian lâu không niệm khởi, có người mới vào là đã có niệm. Cũng như có người mới vô ngồi liền bị buồn ngủ, ngủ gục lên gục xuống nhưng ngồi lâu một lát thì hết gục; có người thì ngồi một lúc lâu mới bị ngủ gục. Đó là đặc tướng của từng người.

Với ví dụ này con sẽ thấy được pháp tập luyện thích hợp với con hay không. Một người mới vào ngồi đã bị buồn ngủ, ngủ gục liền là người này bị si nhiều nên hiện tướng buồn ngủ, ngủ gục, ngủ mê sớm. Do đó họ nên đi kinh hành nhiều, đi kinh hành tốt hơn. Còn người ngồi tỉnh táo cho đến 30 phút hay lâu hơn mới thấy buồn ngủ, như vậy người này si ít cho nên ngồi tập luyện tốt hơn.

Như vậy tùy theo đặc tướng của từng người mà ngồi nhiều hay đi nhiều. Cần suy nghiệm để biết được đặc tướng mà tập luyện cho đúng pháp, đúng cách. Chỉ khi nhận ra đúng đặc tướng, rồi nhờ vậy mà biết trong các pháp đó nên tập luyện pháp nào nhiều, pháp nào ít hơn. Con hiểu chỗ này chứ?

Nhưng điều đó không quan trọng mà điều quan trọng là ở chỗ tập luyện các pháp đúng hay không.

6. Tập Luyện Đúng Đặc Tướng

Điều cần ở giai đoạn đầu này là phải biết cách không ức chế, chứ ức chế thì thất bại. Con cần biết trong giai đoạn này phải tập luyện để đạt mục đích gì, pháp gì sẽ được tập luyện để đạt được mục đích đó.

Những pháp mà Thầy đã giảng, đã giải thích thì con biết cần tập luyện pháp nào trước, pháp nào sau; pháp nào nên tập luyện nhiều, pháp nào nên tập luyện ít để đạt mục đích lúc này.

Thí dụ như bị buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê, mà con chọn pháp tập luyện ngồi rồi ngồi nhiều. Như vậy là tập luyện trật đặc tướng, là sai. Trái lại, đi kinh hành nhiều thì hợp. Nếu ít buồn ngủ mà cứ đi kinh hành hoài, như vậy làm mất sự an tịnh của tâm, vậy phải tập luyện pháp ngồi và do ngồi nhiều, năng lượng hợp đặc tướng nên nó được sung mãn, được kết quả.

7. Pháp Chế Ngự, Pháp An Trú

Tập luyện các pháp Định Niệm Hơi Thở, Định Thư Giãn, Kinh Hành Tỉnh Giác, Thân Hành Niệm đều có những đối tượng tập luyện khác nhau làm cho con luôn luôn thay đổi đối tượng tập luyện, vì vậy mà không hoặc chỉ căng mặt, năng đầu chút ít; không bị ức chế, chỉ chế ngự thôi.

Tập luyện bất kỳ pháp nào cũng lấy sự chế ngự làm cách thức chánh. Tập luyện thái quá là ức chế. Đừng thái quá thì không ức chế. Đạo Phật hay ở chỗ là không ức chế, chỉ chế ngự, nên ngay lúc mới bắt đầu tập luyện là đã cảm thấy được an lạc, không bị đau nhức, thân và tâm ngày càng được sung mãn năng lực, không hề có chướng ngại trong thân. Tập luyện đúng pháp Phật, ta được giải thoát ngay từ phút đầu. Nếu sau khi tập luyện mà thấy cơ thể bị rối loạn, có cái gì không đúng, làm căng chỗ này, chỗ kia là do tập luyện không đúng nên nó mới sanh ra như vậy.

Khi ngủ ngon thì năng lượng trong người được phục hồi trở lại, được tăng thêm nên khi dậy cảm thấy rất khoẻ. Pháp Phật tập luyện cũng vậy, tập luyện đúng rồi thì năng lượng ngày càng được sung mãn. Xả ra, thấy trong người khoẻ khoắn thích thú, mà trong khi tập luyện thì được an vui, an lạc. Căn bản là ngay từ lúc đầu tập luyện phải biết cách chế ngự cho đúng, đừng rơi vào ức chế mà cho là chế ngự.

Thường sáu thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý bị ức chế thì tưởng thức mới hoạt động. Sự ức chế là nguyên do, là động lực làm tưởng thức hoạt động. Cho nên cần lưu ý kĩ vấn đề này để tránh thiệt hại trong đường tập luyện.

Đời sống của con mà nếu không biết cách sống cho đúng thì cũng bị ức chế, đừng nói chi pháp tập luyện. Thí dụ đang ăn ngày ba bữa, mà ăn ngày một bữa liền là ức chế. Có sự thay đổi mạnh quá là ức chế, sẽ sanh bệnh. Thay vì ăn ngày một bữa liền thì nên giảm bớt một bữa ăn của thói quen hằng ngày tức là chế ngự; bữa thứ hai hay thứ ba thì giảm lượng bớt, hay thay đổi thức ăn nhẹ hơn. Rồi sau một thời gian khi thấy đã quen được thì bỏ bữa ăn phụ đó, chỉ giữ bữa ăn chánh, ngày một bữa. Đó là chế ngự. Thân tâm được an lạc.

Đến khi tập luyện mà an trú được thì con ăn thế nào cũng được, các pháp tập luyện sẽ làm thân sung mãn năng lượng. Từ từ tập luyện cho tâm trú được vào các pháp. Sau khi tâm trú được thì nó sẽ được an. Khi an trú được thì tập luyện năng lượng không hao mà còn được bồi dưỡng thêm. Cho nên vấn đề ăn không quan trọng đối với người ở giai đoạn tâm an trú này. Như những người tu ở trong núi, họ có ăn gì đâu ngoài rau rừng và cây trái rừng thế mà họ vẫn khoẻ, vẫn tu hành thành công. Nhưng vấn đề là không được ức chế. Chế ngự thì đúng. Mình phải tập. Bất kỳ vấn đề gì cũng phải tập từ từ cho quen để cho không bị phản ứng, không bị thay đổi đột ngột, không ức chế.

Thầy nói các pháp hay lắm. Nhưng tập luyện thì phải có thời gian, có giai đoạn, đâu thể muốn hay liền mà có thể đạt được. Không ai giỏi được nếu không trải qua thời gian cố gắng tập luyện.

Con hãy thực hiện tập luyện cho thuần thục hai phần nhiếp phục tâm và an trú tâm. An trú thì phải có an trú thật sự. Ngay cả muỗi châm đốt mà mình cũng không hay nếu đang trong lúc an trú.

8. Vọng Niệm

Nhiếp tâm là khi tâm hoàn toàn không có một niệm nào khởi. Vậy thì khi đi kinh hành hay khi ngồi luyện Định Niệm Hơi Thở phải làm sao cho đạt tới kết quả không niệm trong thời gian 5 phút. Nhưng phải nhớ khi luyện tâm nhiếp trên hơi thở hay luyện tâm nhiếp trên bước đi mà còn niệm thì phải biết con cần tập luyện pháp nào cho nó không còn niệm, chứ không phải ngay trên pháp trong hơi thở hay trong bước đi mà làm cho nó không niệm. Làm thế là ức chế.

Phải suy nghĩ tại sao cố gắng nhiếp tâm trong 5 phút mà còn có niệm xẹt? Như vậy là pháp tác ý đang còn yếu đây, phải trở lại pháp tác ý “Tâm như cục đất, li hết tham sân si đi!”. Phải trở về tập luyện cái nào nhiều nhất? Hãy tác ý “Li tham hết đi! Li sân hết đi! Li si hết đi!”. Con tác ý thêm “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, rồi mới đi.

Niệm khởi là do bởi tâm còn tham sân si. Chưa li tham sân si thì phải có niệm. Con đừng ức chế tâm mà chỉ tác ý bảo nó li. Chừng li tham sân si được thì đi hay ngồi thở niệm tự thưa dần cho đến không còn niệm. Cứ tác ý li ra thì pháp ám thị đó làm tâm li tham sân si và tâm hết vọng tưởng.

Nếu khởi vào tập luyện bước đi, con chú ý vào bước đi ngay, hay khởi ngồi tập luyện hơi thở, chú ý vào hơi thở ngay là coi chừng bị ức chế, khi muốn nó không còn vọng tưởng. Nếu con tác ý “Tâm phải hết vọng tưởng! Chỉ biết hơi thở thôi!” như vậy là tác ý mà ức chế – ám thị ức chế – Cũng có thể tác ý “Tâm li tham sân si!”, xong tác ý thêm “Tâm hãy dứt hết vọng niệm, chỉ biết bước đi!”. Rồi trong khi đi có niệm khởi, con đứng lại tác ý li tham sân si nữa. Tác ý li tham sân si càng nhiều càng tốt. Đang đi mà có niệm thì đứng lại tác ý. Cứ luyện riết một thời gian sau sẽ hết niệm là do chính xả tâm tham sân si.

Chính chỗ này là pháp xả tâm. Chính chỗ này mà vào sự thanh tịnh. Chính chỗ này mà tâm được tỉnh giác, tâm được định.

Nhưng tác ý sai là trật đường. Chỗ này là chỗ tối quan trọng. Nhiều người bị kẹt chỗ này vì không biết cách tập luyện pháp tác ý. Bị kẹt mà không biết. Pháp Như Lý Tác Ý là pháp tuyệt vời, nhưng phải biết sử dụng nó chứ không thì sẽ bị ức chế. Phải nhớ như vậy.

9. Tâm Còn Tham Sân Si

Muốn biết tâm còn hay hết tham sân si thì xét xem trong bữa ăn có còn muốn ăn cái gì, thèm ăn cái gì không. Nếu thấy không còn thèm ăn cái gì hết thì đó là điểm gần gũi để biết tâm không còn tham. Tâm tham của cải khởi lên ở nhiều góc độ cho nên ta phải cẩn thận, phải dè dặt. Chỉ khi đã tĩnh giác mới nhận ra được các trạng thái vi tế của nó. Thí dụ thấy y áo đẹp, bút đẹp hay cái gì mà khởi ra ý thích thì đó là tâm tham còn. Trái lại, khi thấy tâm không ham muốn gì, ăn ngon ăn dở mặc lòng, tuy vẫn biết ngon nhưng không tham luyến cái ngon, biết dở mà không buồn nản cái dở. Đó là tâm tham đã hết.

Tâm sân thì có những đối tượng khác để biết tâm sân còn hay hết. Thí dụ bị một con kiến cắn, nhưng vẫn thương nó là hết tâm sân. Nếu khi bị nó cắn đau quá, vội chà lên nó, làm nó chết hay bị thương tổn là còn tâm sân. Khi muỗi mòng châm chích cũng vậy, nếu vội vàng chà lên, đánh đập nó là tâm sân còn. Tâm sân còn hay không còn là ở chỗ này cho nên đức Phật nói tâm từ đối trị tâm sân. Khi bị cắn đau như thế mà vẫn thương chúng, không làm tổn thương chúng, thì đó là từ tâm đối trị tâm sân. Còn khi bị nó cắn mà vò lên nó một cái, đập nó một cái là tâm sân còn. Con thấy nó vi tế phải không? Đâu thấy mình sân, nhưng chính hành động đo là hiện tướng của sân, tâm hãy còn sân.

Tâm si chỉ hết khi nào hết buồn ngủ, hết ngủ gật, hết lười biếng; còn buồn ngủ, còn lười biếng là còn tâm si.

Cho nên muốn biết tâm tham sân si còn hay không thì phải tĩnh giác quan sát lại nơi chính mình. Vì vậy khi đức Phật nói “Pháp ta không có thời gian, đến để mà thấy” thì Ngài giải thích câu nói này “Tâm tôi có tham, tôi biết tâm tôi có tham. Tâm tôi không tham, tôi biết tâm tôi không tham. Tâm tôi có sân tôi biết tâm tôi có sân. Tâm tôi không sân tôi biết tâm tôi không sân. Tâm tôi có si tôi biết tâm tôi có si. Tâm tôi không si tôi biết tâm tôi không si”. Đó chính là pháp thiết thực hiện tại, nghĩa là biết được mình có tham hay biết được mình không tham; biết được mình co sân hay biết được mình không sân; biết được mình có si hay biết được mình không có si.

Khi biết được tham, sân, si là ác pháp thì nương Tứ Chánh Cần để ngăn và diệt các ác pháp, phải không? Cho nên khi ngăn và diệt ác pháp hết hoàn toàn thì tự nhiên trở về thiện pháp, chỉ còn thiện pháp thôi. Muốn ngăn và diệt ác pháp thì đức Phật trang bị cho ta phương pháp Định Niệm Hơi Thở là pháp môn đầy đủ để khắc phục được tham, sân, si. Do vậy, tập luyện pháp Định Niệm Hơi Thở để giúp tâm không còn tham, sân, si. Tâm không còn tham, sân, si thì sẽ sống mãi trong trạng thái của tâm không tham sân si tức là giải thoát, không có gì khác lạ nữa.

10. Hơi Thở Bị Chướng Ngại

Nếu bị chướng ngại hơi thở, mặc dù còn nhẹ, thì phải xả hơi thở, đừng tập luyện nó nữa, để tránh các nguy hại khi bị rối loạn hơi thở thật sự.

Nếu thấy hơi thở có sự khác lạ thì con nên ngồi kiết già mà đưa tay ra, đưa tay vô và theo dõi kĩ chuyển động vô ra của cánh tay. Khi cánh tay đưa vô hít vô; khi cánh tay đưa ra thở ra, nhưng chỉ theo dõi cánh tay chuyển động mà không lưu ý hay điều khiển hơi thở. Hãy nhiếp tâm vào chuyển động của cánh tay. Nếu nhìn cánh tay đưa ra đưa vô mà có cảm giác nặng đầu hay nặng ngực thì đừng nhìn cánh tay nữa mà nhìn tới trước mặt một khoảng xa xa. Khi cảm giác đó hết, mới nên lưu ý trở lại chuyển động của cánh tay.

Khi đưa tay ra, tác ý “Đưa tay ra tôi biết tôi đưa tay ra”; và khi đưa tay vô, tác ý “Đưa tay vô tôi biết tôi đưa tay vô”; và nếu có nặng đầu, nặng ngực, tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra; an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô”. Khi đưa tay ra thì tưởng tượng sự nặng đầu theo cánh tay đưa ra mà chạy ra ngoài, khi đưa vào thì tưởng tượng đầu nhẹ nhàng thanh thản. Tập liên tục một thời gian thì đầu sẽ không còn căng (hay ngực không còn nặng, với tưởng tượng sự nặng ngực ra theo cánh tay đưa ra), sẽ nhiếp phục được chướng ngại đó. Đó là dùng tưởng lực để quét sạch chướng ngại pháp thọ trên thân.

Nếu có chướng ngại ở đâu, đa số người có chướng ngại phần lớn là ở trên thân, hãy tùy theo đặc tướng và sự khéo léo sáng ý tìm ra cách để xả, để đẩy lui chướng ngại nhưng vẫn ở trong pháp đang tập luyện. Hoặc đi, hoặc đưa tay, đưa chân... tùy theo đặc tướng mà chọn cách thức cho phù hợp, hoặc để hơi thở tự nhiên mà dùng tưởng để xả như cách con đã làm. Làm thế nào để cách thức đó đem lại sự an trú. Nếu không an trú được tức là cách đó không đúng với đặc tướng, phải tìm cách khác.

Định Niệm Hơi Thở rất quan trọng, nhưng chỉ những người không bị rối loạn hơi thở mới tập luyện được dễ mà kết quả rất tốt đẹp, rất lợi ích.

Hơi thở là thân hành nội nên đối với những người đã bị rối loạn hơi thở thì họ không nên tiếp tục tập hơi thở nữa, mà chỉ nên tập thân hành ngoại thôi. Người tu tập hơi thở bị thần kinh căng, tức họ tập trung quá nhiều trong hơi thở, làm cho hơi thở bị lệch lạc. Người bị cảm thọ qua hơi thở như bị tức ngực, khô cổ, hoặc có những trạng thái bệnh do tập luyện hơi thở quá ức chế, vận dụng hơi thở nhiều qua nên hơi thở bị rối loạn thì người đó lúc này bắt buộc không được đụng tới hơi thở, đừng nên tập luyện pháp hơi thở nữa. Bởi nếu tập trung vô hơi thở là nó bắt đầu rối loạn trở lại, rối loạn thêm vì các chướng ngại đó xẩy ra.

Trường hợp đó người này phải ngưng tập hơi thở, chỉ tập luyện thân hành ngoại, tức là kinh hành thôi. Luyện thân hành ngoại cho đến khi rất thuần thục, rất tự nhiên, được định tĩnh và thực hành thuần thục những pháp Như Lý Tác Ý mà đức Phật đã dạy. Lúc nào các pháp này giúp tâm người đó trở lại bình thường, biết bước đi mà tâm không tập trung, đi rất tự nhiên, hơi thở không còn bị rối loạn nữa lúc đó mới nên trở về tập hơi thở, và tập luyện những cái cần thiết cho đường tu tập.

Những người đã bị rối loạn hơi thở mà vẫn tập trung luyện 5 hơi thở thì không ích gì đâu, chỉ sinh bệnh thôi. Còn những người không bị chướng ngại thì họ phải tập hơi thở cho đàng hoàng, đúng cách thức, đạt cho được căn bản thì mới lợi ích lớn, dễ dàng tập luyện các đề mục của Định Niệm Hơi Thở. Phải nghe lời Thầy.

VẤN ĐỀ TÁC Ý

1.-Tác Ý

Cách thức tác ý phải như thế nào để năng lực của câu tác ý phát triển, tăng trưởng cao, chứng đạt được kết quả?

Chìa khóa chính của vấn đề là chỉ khi nào tâm được an trú thì năng lực của câu tác ý hiện khởi rất nhanh. Khi đó có trạng thái an trú thật sự chứ không phải an trú là lúc thấy tâm an thân tịnh. Không phải vậy. Tâm an trú có trạng thái an trú hiện ra. Nhưng trạng thái an trú chỉ hiện ra sau một thời gian tập luyện lâu dài và từ khi nó hiện ra cho đến khi tâm an trú được trong trạng thái đó thì cũng phải tập luyện một thời gian khá lâu nữa. Khi đã an trú trong trạng thái đó rồi, nếu muốn cái gì thì chỉ cần tác ý hướng tâm, lực tác ý sẽ thực hiện điều đó nhanh chóng. Tâm lúc bấy giờ rất thanh tịnh.

Nhưng đây chưa phải là ở trong giai đoạn 4 Như Ý Túc, vì 4 Như Ý Túc là giai đoạn phải có 7 Giác Chi. Ở đây chỉ có trạng thái an trú và lực hướng tâm thôi. Sử dụng lực hướng tâm để vào các đề mục của Định Niệm Hơi Thở. Lực này chỉ là lực ngầm của tự kỷ ám thị chứ thân tâm chưa li dục li ác pháp. Khi tâm an trú rồi thì lực này hiện ra rõ ràng. Khi tác ý đề mục 5 “An tịnh toàn thân, tôi biết tôi hít vô; an tịnh toàn thân, tôi biết tôi thở ra” thì có ý ngầm tạo ra lực trong lúc đó. Đầu tiên khi tác ý an tịnh – sau mỗi 5 hay 10 hơi hít thở – thì tâm nhận lệnh của tác ý. Nó quan sát để thay đổi điểm trụ, dời điểm trụ đi. AN, quan sát thân an; TỊNH, lắng nghe tâm tịnh. Cho nên không bị kẹt chỗ nào, không bị ức chế.

Có tập lắng nghe thì nó mới xuất hiện ra trạng thái an tịnh thật. Chừng khi có trạng thái an tịnh rõ ràng thật mới được xem câu tác ý an tịnh có kết quả. Tác ý an tịnh là làm cho tâm trú vào cái an ổn của thân. Khi tâm đã an trú vững vàng rồi thì bắt đầu từ lúc này tập qua các đề mục sau (từ đề mục 6 trở đi) sẽ dễ dàng.

Tu tập Định Niệm Hơi Thở khi tác ý li tham, hay li sân, hay li si, mỗi cái LI thì hít vô và khi thở ra thì cảm nghĩ như có tâm tham, hay tâm sân, hay tâm si theo hơi thở mà đi ra. Con có cảm tưởng như thế. Tập luyện như vậy thì mới có kết quả thực tế, chứ còn tác ý mà không có cảm tưởng gì hết thì không ích lợi gì đâu. Đây là tập luyện phải dùng tưởng một ít. Vậy mà ta hết tham, sân, si.

Biết sử dụng tưởng thì rất hay, nó đưa con vào đúng pháp, chứ cái tưởng tự sanh thì sai. Cũng như quán thực phẩm bất tịnh, quán thân bất tịnh có kết quả thì rất hay. Con tưởng ra chứ thật sự không có cái nào bất tịnh ở đó. Còn khi hít thở, tưởng li tham, tưởng li sân, tưởng li si cũng tưởng ra, chứ hơi thở làm gì có tham, sân, si trong đó. Nhưng ta tưởng mà nó li tham, sân, si thật sự, bởi vì khi huân vô bằng cái tưởng, thì bây giờ li ra cũng bằng cái tưởng. Tưởng lâu ngày sinh ra năng lực. Năng lực tưởng mạnh lắm và có sức tác dụng vô cùng đặc biệt. Các loại khí công, khinh công, bùa chú đều dùng năng lực tưởng.

Kinh Hành Tĩnh Giác khi nhiếp tâm xong thì tác ý mỗi bước “An”, “Tịnh”. Sau khi trạng thái an tịnh hiện ra rồi thì tác ý “An – Trú”. An là trạng thái của thân, còn trú là trạng thái của tâm trú vào sự an ổn đó, không còn bung ra, không còn phóng dật. Đây là tâm định trên thân, là tâm trú trên thân yên ổn của nó. Nếu thân không yên ổn, không an thì tâm chỉ trú một lúc lại bung ra.

Khi tác ý trong lúc kinh hành li ngũ triền cái, diệt ngũ triền cái, đoạn ngũ triền cái, mục đích là để tạo một năng lực ngầm trong người thôi; mãi tới lúc tập luyện 4 Niệm Xứ mới có năng lực thật của tâm (năng lực 7 Giác Chi). Bây giờ chỉ có năng lực ngầm, tạo thành một lực ngầm nhưng cũng thay đổi câu tác ý để không bị nhàm do tác ý lâu chỉ một câu. Thí dụ quán li tham..., quán diệt tham..., quán đoạn tham....

Khi nào thì thay câu tác ý “An, Tịnh” sang câu tác ý “An, Trú” trong khi kinh hành?
- Bắt đầu, tác ý từng bước đi. Bước thứ nhất “An”, bước thứ hai “Tịnh”, cứ vậy tác ý “an – tịnh”; “an – tịnh”... Lúc đầu mới tập thì chỉ dùng nó để nhiếp tâm thôi, tác ý theo bước chân để đừng có vọng tưởng. Thí dụ khi đi kinh hành lâu thì có vọng tưởng cho nên dùng câu tác ý theo từng bước để nhiếp tâm, cũng như cái lệnh theo từng bước. Đây là ta luyện Định Diệt Tầm Giữ Tứ trong khi đi để vọng tưởng hoàn toàn không vô.

Vừa tác ý, vừa nhiếp tâm, vừa tĩnh giác, mà cũng vừa cảm nhận sự an ổn. Câu tác ý có công dụng như vậy. Nhưng sau khi thấy an ổn thật sự thì tập thưa tác ý ra. Thí dụ trong 5 hay 7 ngày con quyết định tập cứ mỗi bước đều tác ý “an-tịnh – an-tịnh”. Tập luyện như vậy cho đến khi nào thấy tác ý đã nhuần, không bao giờ quên, cứ mỗi bước đi đều tác ý an – tịnh. Nếu khi ngồi lại hay trong khi đi mà không nghe trong đầu tác ý, chỉ khi có tác ý, có ra lệnh mới nghe thì con vẫn dùng câu tác ý đó. Còn nếu vừa mới bước đi mà nghe nó khởi nói tự động an-tịnh – an- tịnh thì phải dừng lại, không tác ý nữa, nhưng lắng nghe sự an tịnh trong thân trong khi vẫn đi 5, 10 bước đi chứ không thì thành thói quen cứ tác ý trong đầu “an-tịnh – an-tịnh” mỗi khi bước đi. Như vậy không được, sai rồi. Nó làm động con.

Ở đây rất dễ bị quen rồi sanh ra tưởng. Thành thói quen cứ tác ý trong đầu mỗi khi bước đi, cho nên không có sự an tịnh mà bị động. Không tác ý mà nó cứ tự động tác ý thì làm động. Đức Phật có nhắc nhở phải thiện xảo tùy theo khả năng của mình làm sao phải đạt cho được chất lượng của câu tác ý theo đề mục. An trú tâm chỉ có khi không được có niệm vọng tưởng. Còn vọng tưởng thì chưa thể có an trú tâm được.

Con cần phải tập cho tới chỗ tâm bất động, tức phải đạt cho được sự bất động tâm. Khi đã đạt được sự an tịnh bất động tâm rồi mà trong thân, trong tâm còn sanh cái gì ra thêm, thấy có những cái gì khác nữa thì phải mau mau xả li. Khi tâm chưa an thì xả lâu, nhưng khi an được thì xả mau lắm vì câu tác ý có lực. Tâm an rồi thì xem như trên mức của tự kỷ ám thị, nó có lực của như lý tác ý, thuộc ý thức lực, nhưng chưa tới lực của 7 Giác Chi. Khi nào thực hiện 4 Niệm Xứ hoàn toàn viên mãn, 7 Giác Chi hiện ra rõ ràng thì mới bắt đầu có năng lực thực hiện 4 Như Ý Túc.

Chỉ mới đạt được bất động tâm mà trong thân đã cảm thấy khoẻ, không còn thấy mệt nhọc gì, ham thích tập luyện lắm. Đến chừng chứng đạt được Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thì mỗi Thiền lại cho mình những trạng thái an trú càng lúc càng cao, năng lượng càng tăng lên nhiều hơn, càng thấy khỏe hơn.

2.-Phương Pháp Như Lý Tác Ý

Nói chung phương pháp Như Lý Tác Ý, là đường lối tập luyện Thiền của đạo Phật, có 3 giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất của Như Lý Tác Ý là dẫn tâm vào trạng thái giải thoát. Dẫn tâm là tâm đang ở môi trường ác, đưa nó, dẫn nó vào môi trường thiện.

Giai đoạn thứ nhì của Như Lý Tác Ý là hướng tâm, là tâm hoàn toàn thiện rồi hướng nó đi vào hướng nào thì nó làm việc theo hướng đó. Không phải tâm còn ác mà hướng. Hướng như vậy sẽ hướng tâm ác hết. Vì thế cần hiểu rõ điều này để thực hiện Như Lý Tác Ý đúng theo Phật giáo.

Tu tập có được thiền định, có được giải thoát hết tham, sân, si đều do pháp Như Lý Tác Ý. Như Lý Tác Ý là thực phẩm ăn hằng ngày của một người tu tập 7 Giác Chi, tức 7 trạng thái Giải Thoát, hay 7 Bồ Đề. Pháp môn Như Lý Tác Ý là món ăn của 7 Giác Chi. Muốn 7 Giác Chi mạnh khoẻ và tăng trưởng thì Như Lý Tác Ý là thực phẩm của nó. Không có Như Lý Tác Ý thì 7 Giác Chi không bao giờ có.1

Muốn được như thế thì phải phân biệt rõ ràng giữa pháp dẫn tâm và pháp hướng tâm.

Pháp dẫn tâm thứ nhất là tự kỉ ám thị: tác ý một câu mà hoàn toàn như là không có đối tượng nào hết. Thí dụ tâm trong lúc không có tham, sân, si, đang sáng suốt, không ham muốn gì hết mà tác ý “Tâm như cục đất; li tham, li sân, li si hết đi!” thì đó là dẫn tâm, dẫn tâm vào chỗ không tham sân si. Nên nhớ kĩ là trong điều kiện bình thường, khi luôn nhớ và tác ý, như vậy là tự kỉ ám thị để đưa tâm vào chỗ không tham sân si.

Pháp dẫn tâm thứ hai là nó đang ở chỗ tham sân si mà nhớ và nhắc để nó hết bị tham, sân, si chi phối. Khi nhắc như vậy thì tâm có ý thức để giải trừ khỏi trạng thái tham, sân, si đang có.

Pháp dẫn tâm thứ ba: Khi tác ý theo từng hành động của thân thì đó không phải là pháp dẫn tâm nữa mà là truyền lệnh. Thí dụ ra lệnh bảo “Cánh tay mặt đưa lên!” thì cánh tay đưa lên. Đó cũng là Tác Ý nhưng khi lệnh được đưa ra thì hành động thân phải làm theo. Có lệnh truyền “Hít” – “Thở” thì phải hít, phải thở. Đây chính là pháp Như Lý Tác Ý.

Còn các pháp tự kỷ ám thị vừa nói trên chỉ được gọi là pháp Tác Ý. Pháp Tác Ý là pháp không có hành động của thân tâm ngay tức thì.

Cả ba pháp này đều được gọi là pháp Dẫn Tâm: dẫn tâm vào Đạo và dẫn tâm theo lệnh. Dẫn tâm vào Đạo (Tác Ý) có năng lực thấp hơn dẫn tâm theo lệnh (Như Lý Tác Ý).

Sau khi pháp Như Lý Tác Ý thuần thục rồi, nhu nhuyến rồi thì bệnh đau trong thân, con chỉ bảo “Thọ là vô thường, hãy đi đi!” là bệnh đau hết. Cũng giống như hành động của cánh tay đưa ra khi được lệnh “Đưa ra!” thì nó đưa ra; hay khi bảo chân “Đi” thì nó đi. Khi người ta đang chửi mắng, con bị sân thì bảo “Sân hãy li ra” thì sân li liền.

Giai đoạn thứ ba là giai đoạn đủ 7 Giác Chi xuất hiện thì đây gọi là giai đoạn Hướng Tâm. Hướng tâm nhập 4 Thánh Định, hướng tâm thực hiện ba Minh. Chỉ khi có sự xuất hiện đủ 7 Giác Chi mới hướng tâm được; nếu 7 Giác Chi chưa xuất hiện đủ thì đừng mong hướng được tâm. Như vậy Hướng Tâm chỉ thực hiện trong giai đoạn này và dùng trong hai nhiệm vụ chính yếu của sự giải thoát theo Phật Giáo: nhập 4 Thánh Định và vào 3 Minh.

Có người nghe nói nhập Thiền thứ tư là tịnh chỉ hơi thở. Chưa có 7 Giác Chi mà bảo “Hơi thở tịnh chỉ” – ngưng thở – rồi cố gắng để nín thở vì vậy mà bị sặc ra máu thì đó là tại tác ý sai. Chưa có 7 Giác Chi mà tác ý nín thở thì không nín thở được. Pháp phải dùng để tịnh chỉ hơi thở là pháp Hướng Tâm chứ không phải là Tác Ý hay Như Lý Tác Ý. Tác ý bảo “Hơi thở ngưng đi” là Như Lý Tác Ý, là tác ý không đúng cách.

Khả năng chưa có mà bảo “Diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền đi!” thì không phải là pháp hướng tâm. Hướng tâm chỉ nhẹ nhàng hướng thôi, không tác ý hay truyền lệnh như vậy.

Như Lý Tác Ý là hành động ra lệnh bảo, như “Dở gót lên!” thì gót dở lên, “Đưa chân tới!” thì chân đưa tới. Con cần phải biết rõ chỗ này.

Tóm lại, pháp môn Như Lý Tác Ý có ba giai đoạn tập luyện, phải thực hiện tập luyện cho đủ cả ba giai đoạn: giai đoạn Tác Ý, giai đoạn Như Lý Tác Ý và giai đoạn Hướng Tâm. Cả ba giai đoạn của pháp Như Lý Tác Ý đều áp dụng trên pháp 4 Niệm Xứ cũng như trên pháp Thân Hành Niệm.

Nhưng cần phải biết rõ tâm hết hay chưa hết tham, sân, si để tu tập pháp Như Lý Tác Ý. Vậy làm thế nào để xét tâm mình? Đó là nếu khi luyện pháp Thân Hành Niệm mà vẫn còn niệm xẹt vô xẹt ra. Trên Thân Hành Niệm thì phải hoàn toàn không có niệm. Nếu có niệm vọng tưởng thì biết là tâm mình chưa sạch các niệm vi tế tham, sân, si. Lúc đó phải quay trở về luyện 4 Niệm Xứ. Mặc dù tập luyện Thân Hành Niệm có những lợi ích như dễ dàng đẩy lui các chướng ngại pháp, không bị tác động bởi thời tiết nóng lạnh, thì cũng phải giảm tập luyện Thân Hành Niệm lại, tập ít thôi, mà dồn hết nỗ lực cho luyện 4 Niệm Xứ.

Tóm lại: pháp môn Như Lý Tác Ý đầu tiên là ám thị, kế là Như Lý Tác Ý là tác ý hành động nào thì thân làm ngay hành động đó theo lệnh ý thức đưa ra. Ám thị là tác ý tâm mình, như “Tâm như cục đất, li tham sân si!” hay “Tâm phải vô ngã, xem thân này không phải của ta!”. Đó là những pháp tác ý mà ám thị.

Như Lý Tác Ý là tập luyện trên pháp THÂN HÀNH. Nó tác ý trên hành động của thân, luyện cái thân, còn ám thị là tập luyện trên pháp TÂM HÀNH, nó tác ý về cái tâm, luyện cái tâm. Hai cái này phải liên tục tập luyện, đừng có lơi. Ngồi yên là tác ý; ngồi yên là tác ý. Tác ý, tác ý hoài.

Bên cạnh tác ý thì phải khéo léo dùng tưởng nữa. Thí dụ như “Quán li tham...” thì khi nương vào hơi thở tưởng như hơi thở đi ra mang theo bao nhiêu cái tham, sân, si đi hết ra theo. Ngồi quán mà thiếu tưởng thì không được. Biết dùng tưởng nhưng đừng tưởng sai. Đạo Phật có tưởng chứ không phải không tưởng nhưng phải tưởng đúng chứ không tưởng sai được. Cho nên khi bước đi, mỗi bước đều tác ý “Li”, “Tham” thì con tưởng tất cả cái tham trong lòng theo bước chân mà ra ngoài.

Phải luôn luôn tập tác ý. Tập riết thì sẽ trở thành thói quen. Phải tập cho trở thành thói quen tác ý. Sau đó mỗi bước đi thì chân bước đi nhưng cảm giác tham sân si li ra. Tác ý như vậy mà THẤY nó lìa ra chứ không phải chỉ lưu ý bước đi thôi, PHẢI CẢM NHẬN như có cái tham trong lòng mình ra theo bước chân.

Tập luyện được như vậy thì con sẽ tu tập tới nơi, tâm sẽ hết tham sân si. Tâm hết tham sân si là tâm vô lậu, là tâm của quả A-La-Hán. Dù không có Thầy cũng chứng quả A-La-Hán được.


1 Xem thêm bài kinh “Các thức ăn” trong kinh Tương Ưng và Những Lời Gốc Phật Dạy

HẠNH ĐỘC CƯ

1.-Sống Độc Cư

Khi vô thất rồi thì phải hoàn toàn sống trong hạnh độc cư. Hằng ngày chuyên cần tập luyện các pháp. Ôm pháp mà tập luyện, giữ gìn tâm để nó không có duyên phóng ra, thì tự động nó bắt đầu từ từ quay vô. Cuối cùng con sẽ đạt được tâm rất thanh tịnh, sẽ sống trong trạng thái thanh tịnh đặc biệt. Giây phút nào tâm cũng ở trong trạng thái thanh tịnh đó hết. Ngồi chơi tâm cũng ở trong trạng thái thanh tịnh đó.

Đức Phật nói thiện xảo nhập định; thiện xảo an trú trong định; thiện xảo sống trong định. Chính độc cư là pháp để giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý cho tâm không có niệm. Do đó pháp phòng hộ các căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý là thiện xảo sống trong định. Chỉ độc cư mới là phương pháp đúng để phòng hộ sáu căn, mới là thiện xảo sống trong định. Không ai biết thiện xảo sống trong định là sao hết. Đi gặp người này, người kia nói chuyện thì đó là phá độc cư, là làm mất thiện xảo rồi, cho nên không sống trong định được. Phá độc cư thì không thiện xảo được.

Khi tâm đã thanh tịnh thì dù không tập luyện gì, ngồi chơi thôi thế mà tâm vẫn ở trong trạng thái đó, không ra. Chính nhờ đời sống độc cư mà được vậy. Mắt sắp chạy theo gì thì lôi mắt trở về; tai nghe gì thì lôi tai vào.... Độc cư trọn vẹn là phòng hộ sáu căn nghiêm túc. Khi chỉ còn nghe thấy trong tâm thôi, không nghe thấy gì bên ngoài thì đó là độc cư trọn vẹn, chứ không phải gói mình trong phòng mới gọi là độc cư.

Muốn cho sáu căn hướng nội thì phải tác ý hằng ngày để dẫn nó vô, chứ không thì nó luôn luôn chạy ra. Không cho sáu căn phóng ra tiếp duyên sáu trần, lôi nó vào hết. Độc cư tới giai đoạn này thì phải luôn luôn phòng hộ. Tuy đi kinh hành như vậy nhưng mắt phải nhìn xuống, không ngó qua ngó lại. Khi tập luyện tới đó Thầy sẽ dạy rõ ràng hơn.

2.-Hạnh Độc Cư Là Phương Pháp Chế Ngự

Hạnh độc cư có ba giai đoạn tập luyện, không thể vượt bỏ giai đoạn nào được. Không phải mới vô liền ôm pháp độc cư giai đoạn 2 hay giai đoạn 3, làm vậy thì chỉ như bị nhốt, bị giam cầm, như vậy là quá ức chế. Quá ức chế thì sẽ rất tai hại, chỉ làm cho mình khổ mà rốt cuộc thì không có độc cư, không có kết quả gì hết.

Hạnh độc cư chỉ là phương tiện để phòng hộ tai, mắt, mũi, miệng, thân, ý. Pháp độc cư là để phòng hộ sáu căn, qua đó giúp cho tâm không phóng dật. Chính nhờ tâm không phóng dật mà đức Phật thành đạo quả.

Cần lưu ý các danh từ đức Phật dạy “chế ngự” và “ức chế”. Chế ngự là làm giảm bớt lại từ từ cho tới khi đi đến chỗ hoàn toàn phòng hộ được tai, mắt, mũi, miệng, thân, ý. Vì vậy mà tập luyện từng chút, từng chút, nên mọi người đều tập luyện được. Nhưng vì nhiều người muốn cho nhanh, cho mau nên họ khép chặt vào độc cư thì bị lọt vào chỗ ức chế. Nếu chỉ giảm dần, giảm dần thì độc cư mà không ức chế. Đó là cách thức chế ngự tâm.

Nếu quá hăng say trong pháp độc cư thì bị ức chế chứ không phải chế ngự. Thí dụ lúc trước tiếp giao, tiếp xúc với mọi người là 10 hay 100 lần, nhưng khi vào Tu Viện con giảm xuống bớt. Đó là độc cư. Từ hôm con vào đây và sống tập luyện như thế là một cách độc cư nhỏ. Nó hạn chế bớt những điều kiện sống ngoài đời. Nếu đứng trong góc độ độc cư trọn vẹn, từ chỗ nhiếp phục tâm tới chỗ an trú tâm, mặc dù chưa đạt được gì hết, nhưng con cũng đã bắt đầu có chế ngự.

Do chỗ độc cư chế ngự một phần nên trong sự tập luyện các pháp môn như Kinh Hành, Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, tức thân hành niệm nội và thân hành niệm ngoại, con chỉ chế ngự. Nếu đi vào chỗ sai lầm làm cho tâm không niệm ngay liền, là ức chế. Nghĩa là ngồi 30 phút hay 1 giờ hay 2 giờ cố gắng giữ tâm không khởi niệm nào, thì đó là ức chế. Trái lại con đã thực sự chỉ chế ngự thôi. Nghĩa là mọi lần khi chưa tập luyện, con ngồi rồi nghĩ lung tung, nhưng hôm nay nghĩ ít hơn, rồi lần lượt ít hơn nữa. Đó là phương pháp chế ngự.

Thời gian đầu mới vào, con tập đề mục 1 Định Niệm Hơi Thở, đức Phật dạy “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra”. Biết hơi thở ở một điểm tại nhân trung ngay chỗ hơi thở vô ra. Lúc con tác ý cứ sau mỗi 5 hơi thở một lần là tập luyện chế ngự để tâm dần dần bớt phóng dật. Đó là tập nhiếp phục tâm từ từ cho quen chứ không phải ức chế. Nếu cố gắng tập trung vào hơi thở để tâm không phóng dật thì bị lạc đường, tức là ức chế.

Giai đoạn đầu này rất khó, không được ức chế tâm mà chỉ chế ngự. Tức là lúc đầu mới vào 5, 3 phút có thể không có niệm khởi, nhưng sau đó con thấy tâm có khởi niệm. Dù vậy, cứ để mặc nó. Có niệm thì có niệm chứ đâu hại gì. Niệm đến thì để nó đến, niệm lui thì để nó lui; chỉ cần tập luyện đúng pháp để nhiếp phục tâm thôi. Như vậy cách thức và phương pháp mà con đang tập luyện là chế ngự tâm. Con không cố gắng tập trung nên không bị nặng đầu, nhức đầu, hoặc căng mặt. Đó là không ức chế. Không sai. Pháp ở đây là tâm không lay chuyển trước mọi niệm. Trong khi tu 4 Niệm Xứ thì cũng sống với thiện pháp, giữ tâm thanh thản an lạc vô sự, khi có ác pháp thì dùng Định Niệm Hơi Thở đẩy lui.

3.-Muốn Sống Độc Cư Phải Suy Xét Hoàn Cảnh

Mỗi người đều có hoàn cảnh riêng. Như bây giờ hoàn cảnh của con, mới vô mà khép độc cư hoàn toàn liền thì không được cho nên phải độc cư giai đoạn 1, con giữ gìn bằng cách chế ngự tâm. Do vậy còn tiếp duyên.

Sau khi thấy các ngoại duyên hết rồi thì qua giai đoạn 2. Chưa thể vào giai đoạn 3 được đâu, con hiểu chứ? Sống ở giai đoạn 2 để thử thách xem nội tâm chịu đựng nổi sự độc cư này không. Nếu ức chế để vào giai đoạn 3 thì nó sẽ phản ứng sanh ra bệnh, làm cho con bị thế này, thế khác. Nếu bệnh thì con phải đủ năng lực Như Lý Tác Ý – do tập luyện ở giai đoạn 1 và 2 – để đẩy lui những chướng ngại của thọ tạo bệnh này, bằng không đủ năng lực thì phải đi bác sĩ, bệnh viện, tức là phá độc cư.

Như vậy con phải suy xét từng chút hoàn cảnh xem có cho phép chấm dứt tiếp xúc với mọi người để hoàn toàn độc cư giai đoạn 2 thì mới sống độc cư.

Thí dụ sau khi giải quyết xong, về thất khép mình trong khuôn khổ tập luyện theo các pháp tức là giữ độc cư. Giữ độc cư là sống theo pháp tu hành để tâm không còn phóng dật. Đó là mục đích của sự độc cư. Hoàn cảnh của con còn có chuyện này chuyện nọ thì con giải quyết, không sao hết. Vả lại con còn phải học đọc kinh Nguyên Thủy Nikaya; còn phải nghe, phải hiểu biết những lời dạy của Thầy để nắm cho vững, hiểu cho rõ để khi đến giai đoạn 3 độc cư thì hoàn toàn không còn tiếp duyên. Ở đây hầu hết chưa có ai độc cư giai đoạn 3, chỉ ở giai đoạn 2 thôi. Ai cũng còn hỏi Thầy thì họ còn phóng dật.

Bây giờ cần sắp xếp thế nào để hoàn cảnh không làm động đến con nữa. Thời gian này là thời gian sắp xếp các chuyện như anh em, chị em... Mục đích vô đây là phải tập luyện, phải đạt cho được theo ý nguyện. Ý mình muốn giải thoát là phải đạt cho bằng được.

Nếu hoàn cảnh của con chưa sắp đặt xong mà vào giai đoạn 2 độc cư liền thì mọi người phiền trách, kế đó con bị ức chế. Ngồi tập luyện mà thấy trong lòng như có sự áy náy, ráng tập luyện mà cứ bị phân tâm. Bởi vậy con cần giải quyết cho xong mọi mặt. Nó có đạo đức hẳn hòi nghĩa là làm cho mọi người vui hết. Sau đó, khi mọi việc đã ổn định được rồi mới bắt đầu vô độc cư để tập luyện thì lúc đó con ôm pháp mới trọn.

 Đó, hiểu biết như vậy thì tùy sức con. Khi thấy đủ điều kiện để sống độc cư giai đoạn 2 thì con sống chứ Thầy không ép điều này đâu. Nếu Thầy bảo con sống độc cư giai đoạn 2 ngay bây giờ thì con bị ức chế, mà ta chỉ nên chế ngự thôi, không được ức chế. Ức chế thành ra ngoại đạo.

Đức Phật 6 năm khổ hạnh là 6 năm ức chế cho nên hoàn toàn không thành tựu. Trái lại khi Ngài trở về tập luyện li dục li ác pháp là chế ngự chứ không ức chế. Pháp tự nhiên, tâm tự nhiên, cách thức tự nhiên cho nên đạt kết quả. Vậy tuỳ theo hoàn cảnh, xét thấy thuận sống độc cư giai đoạn nào, lúc nào thì xếp mình theo lúc ấy mà sống thì nó thích hợp.

Trong pháp tập luyện, Thầy đưa ra ba giai đoạn độc cư. Con vừa mới về trong Tu Viện tập luyện thì đang ở giai đoạn đầu, cho nên ai nói gì mặc ai, phần con chỉ biết tác ý: “Tôi biết tôi cần tập luyện từng phần. Nếu tôi tập luyện ngay như mấy ông được thì tôi bị ức chế, tôi tập luyện sai. Cho nên để khỏi sai, khỏi ức chế, tôi không cố gắng gò bó cho giống với mấy ông. Tôi tập luyện như vầy là tôi chế ngự tâm. Nó giảm thiểu các niệm thì tôi tiến lên tập luyện các pháp khác để nhiếp phục tâm tôi cho được, rồi an trú cho được. Đầu tiên tôi chỉ nhắm mục đích nhiếp tâm và an trú tâm thôi, chỉ cần tập luyện bấy nhiêu thôi”.

Khó lắm, không phải dễ được an trú đâu nghe con!

4.-Sống Độc Cư Để Giữ Gìn Năng Lượng

Con lưu ý điểm này: Khi tâm còn phóng dật thì khi tập luyện, năng lượng trong người còn tiêu hao. Khi tâm hết phóng dật thì năng lượng không bị tiêu hao mà còn được tăng trưởng lên cho đến khi trọn vẹn sung mãn thì lúc đó 7 Giác Chi xuất hiện.

Vậy cần biết khi nào tập luyện có được năng lượng, sức khoẻ tăng trưởng, hay khi nào tập luyện sức khoẻ tổn giảm, năng lượng hao hụt.

Khi nào tập luyện thấy nhọc nhằn thì lúc đó con dùng năng lượng của con để tập luyện. Đó là nguyên nhân của sự hao hụt năng lượng. Khi đã hao hụt năng lượng thì con sẽ dễ bị buồn ngủ vì giấc ngủ mới phục hồi năng lượng bị hao hụt.

Đến khi tập luyện tâm được an trú, con thấy an ổn, thì đó là lúc năng lượng tăng lên. Sau khi tập luyện xong con thấy không mệt mỏi, không buồn ngủ là năng lượng sung mãn. Vì thế, những người tập luyện thông suốt đến cuối cùng thì người ta không buồn ngủ là vì năng lượng được bổ sung đầy đủ trong khi luyện tập, chứ không thì buồn ngủ phải sinh.

Khi còn khởi niệm suy nghĩ gì thì lúc đó phải sử dụng năng lượng nên năng lượng bị tiêu hao. Khi nào thân và tâm được an trú, tức không phóng dật thì năng lượng không bị tiêu hao mà lại được tăng trưởng.

Vậy trong thời gian tập luyện, con xét xem đã được an trú chưa. Nếu chưa thì còn tiêu hao năng lượng. Còn tiêu hao năng lượng thì phải ngủ. Khi đã được an trú thì bắt đầu từ chỗ đó năng lượng tăng trưởng nhiều lên, lần lần cái ngủ giảm xuống, bởi ngủ để phục hồi năng lượng. Cho nên người nào ráng thức để tập luyện cho được thì người này còn tiêu hao năng lượng. Chỉ khi nào an trú được, năng lượng tăng lên thì buồn ngủ, ngủ gật sẽ giảm. Người tập luyện đến khi năng lượng đầy đủ thì họ không cần ăn uống hoặc chỉ ăn uống rất ít, rất đơn sơ, không cần bổ dưỡng. Mình tập luyện chưa tới thì thiếu năng lượng nên phải ăn, phải ngủ. Đó là khía cạnh khoa học.

Nhưng vấn đề là phải biết cách tập luyện đúng phương pháp, đúng pháp môn. Cho nên tập luyện đúng cách, đúng pháp của Phật, tâm được an trú thì dù ăn ngày một bữa nhưng thân tâm vẫn thường an ổn. Năng lượng được chuyển hoá từ thức ăn rất thường thành chất bổ dưỡng cho cơ thể. Còn khi chưa đủ sức an trú thì dù mình ăn nhiều chất bổ dưỡng nó cũng tiêu hao hết.

Vậy sống độc cư là để phòng hộ, giữ gìn cho năng lượng khỏi bị mất. Con khởi một niệm thì hao một chút năng lượng; khởi ra nhiều niệm thì hao hụt nhiều năng lượng. Còn cơn sân cơn giận thì hao năng lượng nhiều hơn. Người hay giận hờn thì hao năng lượng nhiều cho nên dễ bị bệnh. Không giận hờn thì ít hao năng lượng, người khoẻ mạnh vui vẻ. Chỉ sống độc cư mới phòng hộ tránh được ngoại ác pháp, mới li dục li ác pháp được dễ.

5.-Hạnh Sống Và Pháp Môn Tu Tập

Giai đoạn đầu của người tập luyện là giai đoạn rất khó. Làm sao li dục li ác pháp để sau khi li hết dục và ác pháp thì sẽ an trú trong một tâm không có niệm khởi, không phóng dật, không phóng tâm . Đó là chỗ đặc biệt của tâm thanh tịnh.
Không có tâm nào tương tự tâm này được.

Nếu tâm chưa li dục li ác pháp thì phải cố gắng tinh cần tập luyện nữa, cho đến khi nào pháp tập luyện li và hạnh sống li được giữ gìn trọn vẹn thì sẽ đạt được kết quả mục đích tập luyện, tức giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử. Người tập luyện lâu ngày mà không đạt được mục đích là do hạnh sống chưa đúng hay pháp tập luyện không đúng, tâm không an trú được. Còn người vừa sống hạnh đúng vừa tập luyện pháp mà an trú được thì thời gian đạt mục đích rất nhanh. Cho nên tập luyện phải cẩn thận để không bị sơ sót trong hai pháp này.

Khi hạnh sống chưa đúng nhưng pháp tập luyện đúng để li dục li ác pháp thì cũng an trú được. Nhưng sự an trú không kéo dài. An trú được vài phút thì nó bung ra trở lại. Khi đó phải xem xét lại hạnh sống. Thà chết chứ nhất định không phạm giới tức không phạm vào cái hạnh thì sau đó tâm được an trú dài ra trong pháp tập luyện đó. Tóm lại pháp an trú được nhưng hạnh sống sơ sót thì không kéo dài sự an trú ra được. Hạnh không trọn thì an trú không được. Đó, con cần lưu y điều này.

Khi dù có hạnh sống đúng mà pháp tập luyện không đúng để li dục li ác pháp thì hạnh đó bị ức chế, không li dục được. Dục bị ức chế. Nếu bây giờ sống hạnh sống đúng, mà tập luyện pháp 4 Niệm Xứ này thấy tâm không an trú được là do lỗi tập luyện không thiện xảo, tập luyện sai, không đúng cách tập luyện của pháp. Nghĩa là tập luyện ức chế, tập luyện cầm chừng cho qua ngày tháng vì thế nên tâm an trú không hiện ra được. Nếu an trú không được mà hạnh giữ trọn là pháp tu bị ức chế, cũng không xong.

Khi hạnh sống đúng, tập luyện pháp đúng thì sự an trú ngày càng được kéo dài, tăng dần lên cho đến khi đúng mức thì 7 Giác Chi xuất hiện. Khi 7 Giác Chi xuất hiện sẽ giúp kéo dài sự an trú ra được 12 tiếng đồng hồ. Luyện một thời gian cho kéo dài lên 24 tiếng, hay một ngày đêm. Khi kéo dài sự an trú lên 24 giờ được, thì kéo dài an trú suốt một tuần lễ cũng sẽ được, không còn khó khăn gì nữa. Làm được vậy là chứng Đạo, là tu xong.

Do vậy ta thấy hai hạnh này rất cần thiết và sự an trú này rất căn bản. Con đường tập luyện để thân tâm thanh tịnh thì nương vào giới hạnh và giới hành. Nương cả hai. Giới hành là các pháp tập luyện. Giới hạnh là các đức giới. Con phải thông suốt các đức giới để sống không vi phạm, phải giữ gìn Thánh Giới Đức thì mới có kết quả tốt. Tập luyện phải cẩn thận để không bị sơ sót bên nào hết vì sơ sót bất kỳ bên nào thì sự tập luyện cũng không đi đến thành tựu được.

Con muốn tập luyện để kéo dài sự an trú, thế nhưng tiếp duyên tức là phá hạnh độc cư, là phạm vào giới không ca hát và không nghe ca hát, tức là Giới Đức Thầm Lặng Độc Cư. Đức Thầm Lặng Độc Cư bị vi phạm thì con bị khuyết điểm bởi tâm bị phóng dật do tiếp duyên nên tâm chỉ an trú được trong thời gian ở trong pháp mà thôi, xả ra thì mất an trú, không an trú. Như thế là sống trong an trú không được, tức không thiện xảo sống trong định.

Muốn sống trong an trú được thì phải hoàn toàn độc cư, nhờ vậy tâm li dục li ác pháp hoàn toàn cho đến khi hoàn tất các pháp tập luyện. Tâm li dục li ác pháp được thành tựu, được an trú thì hoàn tất đường tập luyện.

Hai kết quả đầu tiên phải tranh thủ đạt cho được, bắt buộc phải tập cho được ở giai đoạn độc cư thứ nhất đó là nhiếp phục tâm và an trú tâm trong hơi thở và trong kinh hành. Chỉ hai cái này thôi vì chúng sẽ đi kèm với các pháp tu tập khác. Mười chín đề mục Định Niệm Hơi Thở là đủ hết các pháp để con tập luyện. Mỗi đề mục cần phải tập luyện cho đạt được các kết quả mới đủ năng lực để đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân tâm, tức là các ác pháp, vì thế con nên tập luyện thật kĩ. Độc cư là điều kiện giúp con tập luyện thành công 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở, nhất là khi giữ giới không ăn phi thời thì li dục được.

6.-Xưa, Tỳ Kheo Khất Thực, Độc Cư

Trong thời đức Phật, các vị tỳ khưu phải đi khất thực, như vậy là còn có tiếp duyên thì làm sao họ có thể sống độc cư trọn vẹn? - Chính nhờ pháp độc cư có ba giai đoạn.

Trước tiên, họ đi nhưng biết cách phòng hộ các căn tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý.

Sống đời tu sĩ khất thực thì chờ gần giờ ăn mới đi xin, không đi quá sớm, và khi khất thực xong phải ăn trước ngọ. Họ đi chầm chậm, phòng hộ các căn. Nếu có ai cúng dường thì họ đứng lại nhận sự cúng dường. Sau khi bát đã đậy nắp mà có người muốn cúng dường thì vị tỳ khưu chỉ lắc đầu chứ không nói chuyện. Chỉ khi nào nắp bát còn mở, thấy như vậy, người muốn cúng dường tới xá vị tỳ khưu một xá có nghĩa là họ xin được cúng dường thì vị tỳ khưu đứng lại trong khi người thí chủ vào nhà lấy thí vật. Sau khi sớt bát cúng dường xong họ xá vị tỳ khưu một xá rồi đi vào nhà. Khi thí chủ đi xong, vị tỳ khưu ước nguyện cho người cúng dường rồi mới bước đi. Cũng đi chầm chậm như vậy và khi thấy đã đủ cho mình ăn thì đậy nắp bát lại, đi chầm chậm trở về. Nếu bát còn mở nắp thì người ta còn cúng dường. Thường người ta đã quen, khi thấy nắp bát đã đậy thì không đến cúng dường nữa.

Nhận tất cả mọi thí vật, không nói là mình ăn được hay không ăn được. Sau khi tới chỗ để thọ thực, cái nào ăn được thì ăn, cái nào không ăn được thì bỏ. Thí dụ mình không ăn thịt cá thì lấy thịt cá bỏ đi, để ở một nơi nào cho con vật khác ăn. Chỉ ăn vừa no, còn bao nhiêu cũng đổ bỏ, không mang về thất. Ăn không tập trung một chỗ mà trên đường đi về họ ngồi ăn dưới một gốc cây hay chỗ nào đó. Ăn xong rửa bát mới về thất hay tới chỗ tập luyện. Khi ăn không cúng bái tụng niệm gì hết.

Như vậy là đi khất thực, và đó là cái hạnh của người tu sĩ khất thực.

Đó là độc cư giai đoạn đầu, giai đoạn thứ nhất của tu sĩ.

Qua giai đoạn độc cư thứ hai, người tu sĩ sẽ được người khác xin về chia lại, không còn tự mình đi xin nữa. Đây là giai đoạn bắt đầu độc cư trọn vẹn.

Sau một thời gian thấy các pháp tu tiến bộ thì mới xin Phật cho mình rời khỏi chúng vào rừng sâu tập luyện để sống độc cư trọn vẹn giai đoạn 3, không tiếp xúc, không nói chuyện với ai hết để tâm quay trở vô, ngay cả không cần thiết thấy ai khác để tâm không còn vọng động.

Khó hàng phục tâm lắm, không phải dễ đâu.

Phải có tổ chức để lo phần ăn uống cho những người tập luyện chuyên sâu này. Phải có môi trường như vậy mới tập luyện chuyên sâu được, bằng không thì tập luyện chuyên sâu không đạt kết quả.

Ngay ở giai đoạn đầu của độc cư, người ta đã không nói chuyện với nhau rồi. Đi khất thực còn thấy đi chung nhưng không nói chuyện với nhau, không nói chuyện với người cho. Tuy còn sống chung trong Tăng Đoàn, nhưng không nói chuyện với ai. Sống trong khu vực có nhiều người là để mình tập phòng hộ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sau khi thấy mình đã phòng hộ được, muốn sống độc cư hơn nữa để tiến hơn nữa thì xin ở riêng khỏi khu vực mà chúng Tăng đang ở để sống trong khu rừng nào đó. Đức Phật chấp nhận theo lời xin.

Các vị tỳ khưu đó có tổ chức với nhau, ai hộ trợ cho ai thì họ sống gần nhau, hay trong Tăng Đoàn có vị nào nguyện hộ trợ cho vị này thì vị đó đi xin về sớt lại cho vị này. Vị này chỉ sống trong thất tập luyện, tới giờ ra ăn phần cơm đã được sớt lại.

Trong bài kinh Khu Rừng Sừng Bò nói rõ hạnh độc cư của ba vị tôn giả trong việc đi xin ăn, chia lại phần ăn, chừa lại phần ăn, làm việc nặng nhọc cần sự trợ giúp của bạn. Mọi việc đều diễn tiến trong im lặng, không nói thành lời, không trình bày cái đã tu tập chứng đạt. Chỉ khi tôn giả Anuruddha (A-na-luật) trình bày với đức Phật họ mới biết mức độ tu chứng của nhau. Như vậy mới thật sự độc cư.

Trong kinh có nói đến một vị tỳ khưu, vị này thiếu phước, đi xin không ai cho, trong khi Sariputta (Xá Lợi Phất) là người có phước đi xin ăn được đầy đủ. Sariputta nói với vị tỳ khưu này để tôi đi xin về cho ông ăn. Tôn giả đó không chấp nhận nói tại nhân quả của tôi vậy phải chấp nhận, xin có thì ăn, không có thì thiền duyệt thực. Cho đến giờ chết, ông cũng chết đói. Đó là vì nhân quả đời trước do lòng ích kỷ mà bị vậy. Đời nay gặp Phật pháp, ông lấy thiền duyệt thực mà sống chứ ít dùng thực phẩm chúng sanh, cho nên khi tu chứng ông nhập Niết Bàn. Ông không có duyên với chúng sanh, ông cắt đứt luôn, bởi kiếp trước ông bủn xỉn ích kỉ. Ở ngoài đời thì ông sẽ làm gì cũng không được, sẽ chết đói, nhưng may gặp đức Phật dạy nên ông dùng pháp Thiền mà sống tu, sống bằng Pháp, cho nên vẫn an ổn khoẻ mạnh. Đến khi sắp chết, Sariputta nói để tôi đi xin cho Ngài một bữa. Đó là bữa ăn cuối cùng của vị tôn giả đó.

Có mấy Sư Nguyên Thủy về đây tập luyện, họ nói thế này: Mỗi người có một bát, buổi sáng họ đem bát xuống nhà bếp để đó cho nhà bếp sớt bát, nhưng các thức ăn được gói riêng từng món. Khi đến mang bát về, nếu thấy không đủ bữa thì xin thêm ngay lúc đó, còn nếu thấy đủ rồi thì mang về ăn, mở các gói đó ra, để chung lại trong bát, trộn lên, múc từng muỗng mà ăn, không để riêng từng món. Giản dị và gọn cho đời sống của mình nhưng vẫn đầy đủ chất bổ. Ăn trộn chung thì tốt hơn ăn từng món.

Ở đây trong Tu viện, con bưng mâm về cũng làm vậy, trộn chung lại trong bát chứ không nên ăn riêng từng món như ngoài đời, không đúng cách của một tu sĩ. Khi ăn thì ngồi quay mặt ra ngoài cho đủ ánh sáng. Ăn không chạy theo ngon dở mà phải nhiếp tâm tĩnh giác trong hành động múc, nhai thức ăn...

Thờ Phật phải thờ nơi trang nghiêm, không nên thờ trong thất. Thất là chỗ ăn, ở, ngủ nghỉ.

NHIẾP TÂM - AN TRÚ TÂM

1.- Điều Kiện Nhiếp Tâm – An Trú Tâm

Giai đoạn này tập luyện để đạt cho được sự tĩnh giác trong chánh niệm, nghĩa là nhiếp tâm trong hơi thở, trên bước đi kinh hành và trong Thân Hành Niệm. Nhiếp cho được, đừng để bị thất niệm, tức là đừng quên. Quên không theo dõi hơi thở hay bước đi hay thân hành một tí xíu thôi thì cũng là bị thất niệm rồi. Dù niệm đó là thân hành, hơi thở hay bước đi đều là niệm của thân là Thân Hành Niệm. Vì vậy Thầy nói tập luyện từng hơi thở, từng hành động của niệm thân hành.

Nhưng đây chỉ là giai đoạn đầu thôi, đừng nghĩ xa hơn là nhiếp tâm vào trong hơi thở để đi vào định. Chưa tới giai đoạn định đâu. Đây chỉ là giai đoạn tập luyện để được tĩnh giác và nhiếp được tâm vào trong niệm của thân hành để có được niệm thôi.

Khi nhiếp được tâm trong niệm của thân hành, rồi sau đó mới tập làm sao để an trú tâm trong niệm thân hành. Nghĩa là tập để tâm nhiếp được vào trong hơi thở, rồi làm sao cho tâm được an trú trong hơi thở. Tức làm cho cả thân và tâm được an trú. Để đạt được điều này thì phải tập luyện trải qua hai giai đoạn : một là nhiếp phục tâm, hai là an trú tâm. An trú không có nghĩa là giữ đừng cho có niệm kéo dài trong thời gian thật dài. Không phải vậy. Khi biết hơi thở hít vô thở ra mà cảm thấy toàn thân an ổn vô cùng thì lúc đó là đã an trú trong hơi thở.

Nhưng muốn an trú tâm kéo dài ổn định thì điều kiện là đời sống phải sống cho đúng giới luật. Sống không đúng cách, sống không đúng giới luật thì nó không chịu kéo dài an trú đâu. Tại sao vậy? –Tại vì tâm không thanh tịnh. Khi tiếp duyên, nói chuyện, làm động tâm, phá hạnh độc cư, thì không an trú được. Nếu có cảm giác an là tại vì tập luyện có tưởng, chỉ an trú tưởng. Khi không ức chế, tức khi trở về 4 Niệm Xứ mà có an trú thì đó mới thật được an trú.

Nhiều người mới tập luyện mà có trạng thái hỉ lạc an trú thì các trạng thái đó đều là tưởng hết. Trong tập 5 Giáo Án Tu Tập của Người Cư Sĩ, những người trình kết quả tập luyện của họ, đó là những sự an trú tưởng, không phải an trú thật.
An trú thật là dẫn nó vào. Còn đây họ nhiếp tâm ức chế nên nó hiện tướng đó ra. Đó là họ an trú theo kiểu ức chế tâm. Họ nói họ dẫn nhưng thật sự không phải.

Bây giờ cần nhớ kĩ việc tập luyện chính của con là nhiếp phục tâm trong hơi thở hay trong bước đi kinh hành và an trú cho được thân và tâm vào trong hơi thở và trong bước đi, chỉ cần 5 phút. Chỉ bấy nhiêu thôi. Nhiếp phục được tâm trong 5 phút hay 3 phút tức là chế ngự được tâm trong thời gian chỉ 5 hay 3 phút để được an trú mới hội đủ điều kiện tập luyện cái khác. Không phải nhiếp phục được tâm kéo dài trong 1 giờ, hay 2, 3 giờ là để cho hết vọng tưởng. Không phải vậy. Chỉ vào tới Lậu Tận Minh mới hết vọng tưởng.

Tập luyện nhiếp phục và an trú tâm là mục đích phải đạt trong thời gian này. Nếu chưa nhiếp phục tâm và chưa an trú tâm là còn lấy sức của mình để tập luyện tức còn bị hao năng lượng. Khi nhiếp phục và an trú tâm được rồi thì bắt đầu từ đó sự tập luyện sẽ phát sinh ra năng lượng, không còn bị hao hụt năng lượng nữa. Lúc đó nó sẽ tự động làm cho con giảm giờ ngủ lại, tăng giờ tập luyện lên. Con sẽ đạt được kết quả vững vàng, sung mãn và thâm sâu trong các pháp và sức tĩnh giác tăng cao.

Để nhiếp phục tâm mà phải trải qua thời gian dài tập luyện thì bị hao năng lượng. Và cố gắng tập nhiều giờ thì năng lượng tiêu hao nhiều hơn. Hậu quả là buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê, sức khoẻ suy kém, lần lần sự tập luyện bị thối chuyển, hoặc là cảm thấy yếu đuối, mất sức nhiều vì phải vận dụng tập luyện nhiều giờ. Phải tránh không để xẩy ra tình trạng này.

Cho nên cần tập luyện từng hơi thở cho có chất lượng. Làm sao trong 5 phút phải nhiếp phục và an trú tâm cho được. Nếu sau 5 phút mà chưa nhiếp phục và chưa an trú tâm được thì cũng tạm ngưng vài phút, rồi lập lại tập 5 phút khác. Đừng tập luyện liên tục một lèo 30 phút. Có hại, không có lợi. Khi đã nhiếp phục và an trú tâm được trong từng hơi thở thì nối kết dần từ hơi thở này đến hơi thở tiếp sau liên tục từ một phút tới lâu nhất là 30 phút thôi, không vượt qua thời gian này. Thật ra nếu tâm an trú được trong suốt khoảng thời gian 5 phút không gián đoạn là đủ dài lâu, chứ không cần gì kéo dài an trú đến 30 phút đâu.

Cũng không phải bó buộc tập luyện cho đủ 30 phút theo ấn định của mỗi pháp môn, mà tùy theo sức khoẻ của con. Thí dụ trọn thời tập luyện là 30 phút, con chia ra làm 4 lần tập luyện 5 phút và 4 lần nghỉ xả. Như vậy, trong một thời tập luyện 30 phút chia ra nhiều đoạn 5 phút, cách khoản nhau bằng vài ba phút nghỉ xả. Nhưng khi tập được 2 lần hay 3 lần 5 phút mà thấy mệt thì nên nghỉ xả, không bắt buộc tập đủ 4 lần 5 phút. Cho dù tập chỉ 5 phút thứ nhất của 4 lần 5 phút mà đạt được chất lượng nhiếp phục và an trú tâm hoàn toàn thì đủ rồi; dù thời gian còn lại của pháp môn là 25 phút nữa cũng nghỉ xả; không buộc, không cần thiết tập luyện thêm nhiều hơn, nếu cảm thấy mệt.

Khi đã nhiếp phục được tâm thì cũng có thể an trú được tâm. Nếu thời tu nào tập cũng nhiếp tâm được như vậy thì Thầy sẽ dạy thêm để an trú trong hơi thở hay trên bước đi cũng trong 5 phút đó. Còn tập luyện nhiều mà chưa an trú thì năng lượng bị hao nhiều. Đó là cái sai, con cần tránh.

Bây giờ con chỉ cần tập luyện cho đạt được sự an trú đó, còn nhiếp tâm thì đã nhiếp được rồi vì theo sự trình bày cách tập luyện hơi thở thì con đã nhiếp tâm được. Dù tập luyện ít mà nhiếp được tâm trong hơi thở, như đức Phật nói đừng để thất niệm, là đã nhiếp tâm được rồi. Thầy nghĩ chỉ nên tập làm sao trong thời gian 5 phút phải đạt được sự an trú tâm. Khi hết 5 phút thì phải nghỉ một vài phút rồi tiếp tục tập 5 phút khác. Nếu kéo dài lâu hơn 5 phút thì hao năng lượng nhiều quá. Cố gắng nhiếp phục và an trú tâm lâu như thế sẽ trở thành ức chế chứ không phải chế ngự tâm. Tập luyện 5 phút là chế ngự, nhiều hơn 5 phút là ức chế.

2.- Mục Đích Nhiếp Tâm và An Trú Tâm

Mục đích nhiếp tâm và an trú tâm để làm gì? – Đó là khi nhiếp tâm và an trú tâm được thì mới đẩy lui được chướng ngại pháp trên 4 chỗ thân, thọ, tâm, pháp, tức là đủ năng lực để chuyển qua tập luyện 4 Niệm Xứ.

Đức Phật nói “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu; trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu; trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu; trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu”. Tham ưu là các chướng ngại pháp, tức là những gì xẩy tới trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp làm cho con khó chịu, phiền não, đau khổ, nhức nhối gì đó thì làm sao đẩy lui cho được bằng pháp 4 Niệm Xứ. Đẩy lui được mới gọi là khắc phục tham ưu. Nếu chưa có khả năng an trú tâm này thì hãy khoan, đừng tập luyện 4 Niệm Xứ.

Điều này không mấy ai biết, cho nên ở nơi khác dạy 4 Niệm Xứ mà các con không được dạy để có khả năng khắc phục tham ưu. Người ta cứ nghĩ khắc phục tham ưu là cứ ở trên đó mà quán. Thí dụ quán bất tịnh, quán từ bi hoặc là hít thở này kia. Thật sự không phải vậy. Hoàn toàn không phải vậy.

Khi bắt đầu tập luyện thì trên thân tâm thoải mái không có gì. Nhưng đến khi ngồi bị muỗi đốt, hay tê chân, hay đau tay thì đó là bị ác pháp rồi. Khi đó phải khắc phục đẩy nó ra, không được để trên thân, thọ, tâm, pháp của con. Nhưng nếu không có năng lực do nhờ luyện Định Niệm Hơi Thở thì không đẩy lui được. Buộc lòng phải tập luyện Định Niệm Hơi Thở cho đạt kết quả trước. Muốn tập luyện Định Niệm Hơi Thở thì phải luyện Chánh Niệm Tĩnh Giác. Muốn tập pháp tĩnh giác đó thì cần phải đi kinh hành.

Khi ngồi mà ngủ gục tới gục lui thì đó là mất tĩnh giác, không còn được tĩnh giác. Quên tập trung vào đối tượng, mới ngủ gục. Nếu không đẩy lui được chướng ngại quên tập trung này, không có cách thức nào để đẩy nó lui thì chỉ ngồi đó mà gục tới gục lui rồi ngủ thôi. Khi còn ngủ gục thì không phải là lúc tập luyện 4 Niệm Xứ. Không thể tập luyện trong tình trạng như vậy được. Cho nên buộc lòng phải tập nhiếp tâm và an trú tâm cho đến khi được rồi thì mới tập luyện 4 Niệm Xứ.

Đó chính là hướng buộc lòng phải đi để có khả năng đẩy lui cho được các chướng ngại pháp. Chừng đó mới đủ năng lực để tập luyện 4 Niệm Xứ trong thời gian 7 ngày, 7 tháng, 7 năm giúp đạt được chứng quả. Chỉ có pháp 4 Niệm Xứ mới chứng quả được thôi, không có pháp nào khác. Trong bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp mà được thanh thản an lạc vô sự, và tất cả thời đều thanh thản an lạc vô sự không bị gián đoạn, kéo dài từ ngày thứ nhất cho tới lâu lắm là ngày thứ bảy thì chứng đạo.

Nếu ngày thứ nhất trong suốt từ 12 giờ cho đến 24 giờ mà trạng thái thanh thản kéo dài được như vậy, không bị gián đoạn, tâm không còn phóng niệm phóng dật nữa, thì năng lực của 7 Giác Chi, tức 7 trạng thái Bồ Đề, cũng là 7 trạng thái Giải Thoát xuất hiện. Chỉ khi năng lực đó xuất hiện thì mới sử dụng nó để tập luyện 4 Như Ý Túc. Bởi 4 Như Ý Túc mà không có năng lực 7 Giác Chi thì không tập luyện được. Chỉ có năng lực 7 Giác Chi này mới tạo thành được 4 Như Ý Túc, mà chỉ có 4 Niệm Xứ mới làm xuất hiện năng lực 7 Giác Chi này.

Còn pháp Thân Hành Niệm kiên cố như cỗ xe sẽ sử dụng tới, nếu sau khi giữ tâm thanh thản an lạc vô sự kéo dài liên tục suốt thời gian 24 giờ nói trên mà năng lực 7 Giác Chi này chưa xuất hiện, lúc đó cần phải dùng pháp Thân Hành Niệm, con tác ý trong từng hành động của thân để lực tác ý sanh khởi lực hướng tâm đặng nó làm cho năng lực 7 Giác Chi xuất hiện. Nếu ngồi 4 Niệm Xứ giữ tâm thanh thản an lạc vô sự được mà năng lực 7 Giác Chi xuất hiện đủ thì khỏi tập luyện Thân Hành Niệm. Thân Hành Niệm là pháp trợ giúp cho năng lực 7 Giác Chi xuất hiện nhanh lên thôi.

Nhưng pháp Thân Hành Niệm không phải là pháp có thể thực hành tập luyện ngay liền bây giờ được, bởi vì khi thực hành tập luyện nó mà 4 Niệm Xứ chưa viên mãn thì bị phản ứng. Nếu tập luyện nhiều thì bị đau này kia, bởi vì các tâm dục ác pháp còn mà dùng Thân Hành Niệm là ức chế quá độ nên nó phản ứng bằng cách làm bị đau. Cho nên bây giờ tập luyện pháp này là chỉ để biết cách thức, tập làm quen, rồi để dành cho phần sau khi đã tập luyện 4 Niệm Xứ rốt ráo sau này.

3.- Cách Nhiếp Phục, An Trú Tâm

Chữ an trú trong kinh và sự an trú trong các pháp tập luyện có ý nghĩa như thế nào? Cụ thể là trong Kinh Hành Tĩnh Giác sự an trú là sao, làm thế nào để không bị ức chế?

An trú vào hơi thở không có nghĩa là ngồi xuống rồi hít thở ngay liền. Đó chỉ là biết hơi thở. Đi mà tập trung hết tâm ý vào bước đi để các niệm không có thể khởi ra là đang hoạt động nhiều. Đó chỉ mới trú mà chưa an.

Đây là điểm mà đức Phật dạy là thiện xảo an trú. Khi đi biết bước chân đang đi là TRÚ chứ chưa an. Phải AN TRÚ mới đúng nghĩa. Đầu tiên phải trú cho được, sau mới tới an. Trú tức là cái tâm ở trong niệm kinh hành hoặc hơi thở, tức là nhiếp tâm vào bước đi hay hơi thở. Khi ngồi hay đi mà chốc lại có niệm này, chốc lại co niệm kia, tức là không trú được, chưa trú được. Nó phải nhiếp, phải ở được một thời gian cần thiết mới có trạng thái yên ổn, tức an trú.

Muốn được an trú vào trong hơi thở hay khi kinh hành thì phải biết thiện xảo. Trú là phải dẹp hết, không làm gì nữa, nhưng chưa vô hơi thở đâu. Mọi việc phải từ từ, không gì vội vàng. Phải làm cho rảnh rang cả tâm và thân, phải tập như vầy:
Trước tiên ngồi thẳng lưng, kiết già, thu xếp tay chân thân mình cho yên ổn, không còn chướng ngại gì, với mục đích là phải an trú. Ngồi yên lặng cho thân yên ổn rồi quan sát tâm thấy cũng yên tịnh, một lúc độ 3 – 5 phút, giữ cho thân tâm đều an, không có gì hết, sau đó tác ý để cho tâm nhiếp vào trong hơi thở thì nó sẽ an trú vô trong hơi thở. Tức ngồi giữ thân bất động, giữ tâm không niệm khởi, rồi tác ý an trú. Con phải biết và nhớ điều này. Đó là cách an trú. Khi mới vô ngồi thì giữ tâm dễ lắm, chưa có vọng tưởng đâu. Còn nếu vừa ngồi xuống, tâm còn lăng xăng mà đã lo chú tâm hít thở thì tâm không nhiếp được, không an trú được.

Khi làm đúng vậy thì con sẽ an trú nghĩa là lúc đó cảm thấy an lạc thật sự. An trú đúng thì có trạng thái an lạc, trạng thái của sự an trú. Một giờ mà an trú được thì đó mới đạt kết quả của một giờ tập luyện. Nếu an trú không được mà cố gắng làm cách này cách kia cho an thì chẳng qua ức chế mà thôi. Không phải ngồi yên là có sự an trú. Ngồi yên chỉ có sự yên ổn thôi. Cho nên nói an trú trên hơi thở hay an trú trên thân hành thì trước tiên phải làm cho thân tâm an tịnh hoàn toàn, rồi mới vào an trú được.

Thầy chỉ rõ cách thức an trú như thế, chừng áp dụng vào tập luyện vài lần thì con sẽ biết cách vào an trú được.

Vì tập luyện bị hao năng lượng nên con cần phải giữ giờ giấc tập luyện và ngủ nghỉ cho nghiêm chỉnh và phải ngủ đủ mới phục hồi lại năng lượng để tập luyện cho đạt được sự nhiếp phục và an trú tâm. Ngay cả khi đang đi mà vọng tưởng tới dồn dập thì nên đứng lại, giữ yên lặng một lúc cho tâm ổn định rồi tập trung tâm ý tập luyện lại. Tập luyện đi 20 bước xong đứng lại chuẩn bị cho 20 bước kế tiếp. Làm vậy là tập luyện kĩ, rất kết quả, hơn là đi liên tục suốt 30 phút hay liên tục từng 20 bước. Đó là cách thiện xảo để an trú cho được tâm trên thân hành. Có nhiều cách thức để thiện xảo tùy theo đặc tướng của mỗi người.

Khi đi Kinh Hành Tĩnh Giác, nếu có tạp niệm xen vào nhiều, con đã sử dụng câu tác ý “An tịnh tâm hành tôi biết tôi đang đi” thì đúng rồi. Đó là những câu mà đức Phật trang bị sẳn để khi tâm không an dẫn cho nó an, tâm không tịnh dẫn cho nó tịnh. Cũng như khi thân không an thì cũng có pháp trang bị làm cho an. Đức Phật trang bị đủ hết mọi điều kiện, chỉ có mình chịu ôm pháp tập luyện hay không thôi. Phải siêng năng và tập luyện đúng pháp thì mọi chướng ngại, chướng pháp sẽ bị dẹp hết.

Người muốn tu tập theo đạo Phật cần có 5 điều kiện, trong đó có điều kiện người này phải có trí. Có nghĩa là khi được nghe nói thì phải tư duy, phải hiểu ý nghĩa của điều được nghe. Trong kinh, đức Phật nói các danh từ nghe dường như rất dễ hiểu nhưng thật ra rất khó thực hành.

4.- Tinh Tấn Tập Luyện

Vừa tập luyện xong Định Niệm Hơi Thở thì chuyển qua Định Thư Giãn để có thời gian nghỉ ngơi, rồi Chánh Niệm Tỉnh Giác, rồi Định Thư Giãn lại. Như vậy là tập luyện liên pháp, liên tục, không có nghỉ. Nghỉ là tập luyện Định Thư Giãn. Giữa hai pháp kia xen Định Thư Giãn vào. Cách thức thư giản không phải dễ thực hành đâu, coi chừng bị ức chế mà không hay.

Khi đã ấn định thời gian 30 phút cho mỗi pháp thì chỉ tới 30 phút thôi, không nên vượt quá. Phải tập cho quen sự nghiêm chỉnh giờ giấc này. Đó cũng là sự tập luyện: tập luyện sự làm chủ. Nếu ấn định 30 phút thì trong 30 phút đó dù có cái gì, thọ lạc, thọ khổ, cũng cứ ôm chặt pháp đủ trong giới hạn thời gian đó. Gặp trường hợp gì cũng phải giữ, phải ôm chặt pháp trong 30 phút. Khi có thọ lạc, muốn đi kinh hành lâu hơn cũng không được đi, nhất định phải ngừng. Hay ấn định một giờ là chỉ một giờ, đúng 1 giờ, không vượt quá, cũng không dưới xa mức ấn định đó. Dù khó khắc phục cũng phải vượt tới 1 giờ, tức dù đau chân, tê chân, cũng phải đến một giờ mới được xả nghỉ.

Khi tập luyện không chấp nhận thọ nào, dù là thọ lạc, là thọ khổ, mà phải giữ đúng pháp, ôm pháp. Thông thường nhiều người bữa nào tốt, tập luyện khoẻ thì họ hay tăng giờ lên, bữa nào dở thì giảm xuống. Như vậy không nên. Dù tập luyện tốt lành hay yếu dở cũng phải ráng giữ cho đúng giờ. Đừng nghĩ rằng khi tốt lành thì tập luyện thêm là có lợi ích. Không phải vậy đâu. Chừng nào con thấy đủ sức tăng lên thì mới tăng lên cho tất cả mọi thời tu. Phải chủ động điều khiển tập luyện trên pháp.

5.- Phải Tĩnh Giác Trong Khi Tập

Muốn được lúc nào cũng tĩnh giác thì phải lúc nào cũng nhiếp phục được tâm trong thân hành nội là hơi thở, và trong thân hành ngoại là hành động của tay, chân, thân hình. Để được vậy thì phải luyện sự  an trú tâm  trong thân hành đạt chất lượng ít nhất phải trong  30 phút , mà phải là không ức chế. Ức chế là sai, quá sức rồi, không được.

Khi nhiếp tâm và an trú tâm là phải thấy thoải mái trong thân hành trong 30 phút. Tập luyện tĩnh giác thì phải tĩnh giác trên niệm thân hành. Đầu tiên phải đạt cho được sự tĩnh giác tức là nhiếp phục và an trú tâm trên các thân hành. – Đó mới chỉ tĩnh giác thôi. Sau đó khi xả ra và trong sự phòng hộ của con thì đó là tỉnh thức, có nghĩa là khi có TĨNH GIÁC mà được phòng hộ thì đó là TỈNH THỨC , tức là khi áp dụng 3 cái Thánh: Thánh Giới Uẩn, Thánh Phòng Hộ Các Căn, Thánh Chánh Niệm Tĩnh Giác, đó là Thánh Tỉnh Thức. Thiếu tĩnh giác thì không áp dụng được, không đạt được kết quả gì cả. Cần phân biệt rõ hai giai đoạn này trong khi tập luyện.

Khi đi Kinh Hành, hay Định Niệm Hơi Thở hãy sử dụng cái biết rõ ràng, đừng để cái gì xen vào làm cái biết không rõ, bị lờ mờ. Trạng thái tĩnh giác sẽ phát sinh khi tập luyện với cái biết thật rõ, thật tỉnh táo, đầy đủ ý thức. Tập luyện kinh hành trong đêm tối thì cũng thật tỉnh táo, sáng suốt như ban ngày. Đừng luyện các pháp cùng chung với tưởng nhiều dù tập luyện trong bóng tối hay trong ánh sáng. Phải dùng tối đa sức cảm biết trong ý thức sáng suốt để tập luyện . Ban ngày tập luyện như thế nào thì ban đêm như thế ấy.

Mức độ tĩnh giác càng cao thì khi tập luyện các động tác diễn tiến càng chậm hơn. Như trong Kinh Hành Tĩnh Giác, hồi trước con đi tốc độ 60, 70 bước một phút, nay chậm lại độ dưới 40 bước mỗi phút, theo dõi sát kĩ các động tác của chân. Các động tác tập Thân Hành Niệm cũng chậm hơn nhiều, theo dõi sát kĩ các động tác của toàn thân theo lệnh của ý đưa ra. Chậm mà tâm cẩn thận bám sát không bỏ sót chuyển động của thân hành là đúng cách. Không sai đâu.
Thí dụ lúc trước tập luyện theo các pháp, các thân hành của con nhanh, mặc dù cố gắng để đạt sự tĩnh giác không có niệm khởi, nhưng không phải dễ làm. Bây giờ chậm hơn, con cũng tập luyện để đạt sự tĩnh giác chủ động theo dõi mọi chuyển động của thân hành nhưng ít cố gắng hơn, trong khi nhẹ nhàng quan sát tâm để biết rõ từng tâm niệm. Cái này mới là cái chánh, cái quan trọng mà Thầy hay nhắc nhở. Giai đoạn này không nên làm cho ý thức bị chìm đi, tạo cơ hội để tưởng hiện ra. Cho nên con phải luôn luôn dùng ý thức mà tập luyện. Tập luyện với sức tĩnh giác cao, đừng để lọt vào tưởng, cũng đừng để bị buồn ngủ, ngủ gật. Chậm lại để có sự quan sát kĩ. Con tập ít, tập kĩ. Thì giờ còn lại, ngồi quan sát, tư duy suy nghĩ, hoặc ngồi chơi cho thư giãn xem có những niệm nào khởi. Đó là suy tìm đạo lý.

6.- Suy Tìm Đạo Lý

Đâu phải tập luyện Chánh Niệm Tĩnh Giác chuyên suốt hoài được. Sau khi xả ra thì bắt đầu suy tìm đạo lý. Ngồi mà tư duy, bởi tư duy giúp triển khai tri kiến, làm cái biết được thực hiện trên đạo đức. Triển khai tri kiến ra mới thấy được cái sai cái đúng của con từ xưa tới giờ nó như thế nào. Con nhớ lại, thấy lại những việc xẩy đến trong cuộc đời của con. Khi ngồi tư duy thấy suốt từ hồi mới biết cho đến bây giờ có những cái thiện, cái ác như thế nào. Với sự tư duy đó làm cho tri kiến được mở rộng ra, có tầm nhìn đúng. Hồi nào tới giờ sống mà chưa có cái nhìn như vậy cho nên thấy cái nào cũng đúng. Bây giờ ngồi lại suy tư mới thấy những cái sai trong số những cái đó. Thí dụ cách đây 5, 10 năm có chuyện gì đó có cái sai này mà bây giờ con mới thấy. Chính sự tư duy đó làm cho con có lợi ích hướng tới tương lai và đồng thời thấy được hướng áp dụng cho tương lai mà niệm không bị ác pháp chen lấn vô. Có tư duy những cái gì đã xẩy ra thì mới có cái nhìn hiểu thấu suốt. Còn nếu không chịu quán quá khứ để thấy được cái sai cái đúng thì tương lai không định hướng được đâu. Đây là dùng tri kiến làm chủ trong giai đoạn Giới.

Đó là cách thức suy tìm đạo lý. Thấy cái sai thì con cố gắng khắc phục; còn thấy đúng mà con đã làm được thì không khoe khoang với ai hết. Chính đó là chỗ chủ động bằng ý thức và tri kiến giải thoát để nâng cao giá trị đạo đức, nâng cao được tâm li dục li ác pháp để rồi lấy ý thức mà tập luyện.

Trong 8 Chánh Đạo có Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định thì Chánh Tư Duy quan trọng nhất. Gặp đối tượng ta mới nhìn được, dùng Chánh Tư Duy mà suy tư thì nó hoá giải các đối tượng đó tức khắc, vì vậy mà biến ra lời nói Chánh Ngữ, biến ra hành động Chánh Nghiệp, là hành động thân của ta. Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp nói chung là cái thân mạng của chúng ta. Thân và tâm an ổn đó là Chánh Mạng, còn thân tâm đau khổ, giao động thì đó đâu phải chánh mạng. Tự làm đau khổ là thiếu đạo đức đối với bản thân. Cho nên đạo Phật xác định rất rõ. Bắt đầu trong đạo lý của Chánh Kiến, Chánh Tư Duy suy diễn mà tới cái quả của nó là Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp tức là biến ra hành động. Nếu nó thiện thì có Chánh Mạng, còn không thiện là Tà Mạng, là khổ đau.

Phải có nền tảng để tư duy, phải dựa trên những gì đức Phật dạy, để có cơ bản, có tầm nhìn theo đạo giải thoát. Hiểu sự giải thoát theo lời đức Phật dạy, lấy đó làm tiêu chuẩn để nắm vững mà tư duy. Nên con cần nghiên cứu, học đọc kinh Nguyên Thủy Nikaya. Nếu không lấy kinh Nguyên Thủy Nikaya làm nền tảng thì vẫn theo thói quen tư duy theo thế gian, thế tục, hay thế tục hóa theo các lập luận Phật giáo phát triển, chứ không tư duy theo hướng giải thoát tri kiến đúng của Phật.

Vả lại có những việc xẩy ra mà trong kinh không nói tới cho nên không phân định được thiện hay ác thì con cần phải có vị Thầy tu chứng, có đủ trí tuệ mới nhìn thấy chỗ thiện chỗ ác. Có những bài kinh nhìn ra thì đúng mà sao ở trường hợp này con không truy tìm ra tiêu chuẩn để nhìn lại hoàn cảnh đang xẩy ra thì hãy mau mau hỏi vị Thầy của con; đừng hỏi ai khác vì họ đưa ý kiến của họ, coi chừng bị lạc hướng. Chỉ vị Thầy tu chứng mới xác định đây là cái gì thì con mới quyết định được đâu thiện đâu ác, rồi mới tăng trưởng nó hay ngăn và diệt nó. Có vậy mới đem lại niềm.

7.- Luyện Thân Tâm An Tịnh

Phật dạy Định Niệm Hơi Thở đề mục 5 “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” và đề mục 7 “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Vậy thì “an tịnh” là gì, bằng cách nào, làm thế nào để được an tịnh? Nương vào hơi thở là thế nào, làm sao để nương vào hơi thở. Từ đó những căn bản được đặt ra, suy nghĩ làm sao cho nó an. Cho đến khi đạt được kết quả an tịnh thì đã phải nhiều lần suy tư, quán xét, áp dụng cách này cách khác. Nhờ có sự suy tư và tập luyện như vậy cho nên khi nghe lời vị Thầy nói kinh nghiệm của ông thì mình mới thấy, mới biết cách thức để thiện xảo. Còn nếu không suy tư, không tập luyện thì khi nghe vị Thầy nói mình không lưu ý đâu; có chăng thì chỉ hiểu chung chung thôi, chứ không hiểu rốt ráo để tập luyện.

Khi muốn cho thân an tịnh thì làm sao? Tịnh có nghĩa là thanh tịnh, còn an là an ổn. Giai đoạn này chỉ tập luyện để có trạng thái an tịnh của thân, chưa đến giai đoạn an tịnh của tâm. Trong Định Niệm Hơi Thở, phần an tịnh của thân có đề mục riêng, phần an tịnh của tâm có đề mục riêng. Bây giờ những cảm thọ của thân là đau nhức chỗ này chỗ kia trong thân mà muốn cho nó an tịnh, tức là muốn không còn đau nữa thì phải an trú cho được các cảm thọ này.

Trước khi an trú được bệnh đau thì phải an trú thân cho được. Vậy cần tập luyện từng hơi thở. Mỗi khi con tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Tác ý như vậy để làm gì? – Để khi hít vô lắng nghe thân có an tịnh hay không, chứ không phải cái an tịnh ở đâu bên ngoài đến với thân. Không phải nó đến mà tự con lắng nghe thấy rõ ràng thân có an thật sự, không động đậy, không nhúc nhích chỗ nào hết. Tịnh là yên lặng mà thanh tịnh, tức là không bị động chút nào hết, hoàn toàn yên lặng. Đó là thân vừa an mà vừa tịnh, không bị chướng ngại gì hết. Như vậy là tốt.

Do đó khi hít vô con lắng nghe theo hơi thở thì thấy thân an; thở ra cũng như hít vô, thấy thân an. Lắng nghe đủ 5 hơi thở, tác ý lại lần nữa. Lắng nghe để xem thân an tịnh. Con đang chú ý sự an tịnh thì cứ tác ý để sự an tịnh lúc nào cũng hiện khởi trong thân, không để nó bị mờ dần. Mỗi lần tác ý là một lần “hâm nóng lại”, làm cho nó đứng lại đó. Không tác ý, không lắng nghe thì sự an tịnh lịm dần và sẽ biến mất. Khi lắng nghe như vậy thì niệm vọng tưởng, tức là niệm không phải niệm an tịnh mà ta đang lắng nghe, sẽ không có, không được có. Và khi đó, khi con đang lắng nghe và thấy an tịnh, thì dường như từ trong thân phóng xạ một từ trường bảo vệ thân không bị muỗi mòng quấy phá. Do đó phải tập luyện từng hơi thở và lắng nghe. Nếu con có được hơi thở dài thì dễ đủ thời giờ lắng nghe toàn thân hơn.

Trạng thái an của thân khi lắng nghe được rồi thì khi nhiếp vào hơi thở nó sẽ rất an tịnh. Rất an tịnh có được rồi thì sự lắng nghe sự an tịnh đó làm cho tâm gom rất mạnh, tức là nhiếp phục tâm. Chỉ khi an tịnh có được rồi thì thân mới có cảm giác im lặng mà sáng tỏ, lại yên ổn. Thật khó diễn tả bằng lời trạng thái này ngoại trừ con cũng vào được trạng thái an tịnh này mới hiểu biết rõ. Lúc đó thấy thân khoẻ khoắn lạ thường, không có một chút gì gọi là mỏi mệt, dù ngồi bao lâu hay ngồi cả ngày đi nữa cũng không có dấu hiệu khó chịu nào, mà chỉ thoải mái dễ chịu thôi. Khi đó không có cảm thọ nào trên thân đánh mình được. Đó là trạng thái hoàn toàn an trú trong sự an ổn của thân.

Để thân được an tịnh thì con còn lắng nghe. Đó là giai đoạn an tịnh của thân. Nhưng khi thân có sự an trú thì khỏi cần lắng nghe nữa, tự nó có an trú rồi.

Nếu tập luyện mà không chịu lắng nghe sự an tịnh tức là sự thanh tịnh an ổn trong thân (cũng như sự thanh tịnh của tâm) thì – mặc dù chúng có đó – nhưng do con không nhận ra, hay không biết được sự an ổn thanh tịnh đã hiện khởi, nên chúng bị mờ nhạt và biến mất, hay chúng không hiện khởi trong thân cho con tập luyện. Còn con cố công lắng nghe, từ phút này qua phút khác thì càng ngày sự an ổn thanh tịnh càng hiện ra. Chúng là những cái cần thiết phải đạt cho được trước khi có thể li dục li ác pháp. Nhờ có chúng, tức sự thanh tịnh an ổn trong thân và sự thanh tịnh của tâm, cho nên khi cảm thọ đến thì con làm chủ cảm thọ được.

Tại sao đức Phật nói con mắt và các vật (sắc) không dính nhau đâu. Vật không cám dỗ mắt mà mắt cũng không thu hút vật, nhưng tại sao nó dính? – Tại cái thức của ta nó vừa biết vật này là nó khởi lên ái dục liền, nên nó bị dính. Có sự ham muốn là có dính. Khi phòng hộ được mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý thì dù có thấy vật nhưng mắt không bị dính là do tâm không muốn. Đó là li dục (tâm không muốn chính là tâm xả li). Làm cho mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý là sáu căn và sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không dính là li. Tâm li dục và li ác pháp được rồi thì lúc đó tâm thanh thản an lạc vô sự; tâm trở về trạng thái an ổn vô sự (là tâm 4 Niệm Xứ).

Khi tập luyện được vậy rồi, tức là không còn dính mắc nữa, thì đương nhiên có sự an trú. Có được sự an trú thì lúc bấy giờ con không còn buồn ngủ bởi vì buồn ngủ là sự an trú của dục. Ăn mà có sự an trú của dục mới tìm sự ăn ngon. Ngủ mà có an trú của dục mới tìm cầu ngủ nghỉ. “Chính vì không biết cách tập luyện để an tâm cho nên chúng sanh mới đi tìm lạc của dục”, Đức Phật nói hay quá!

Trong Tu Viện, người nào an trú được thì họ sống một mình thôi, còn ai chưa thì họ phải đi tìm dục lạc, họ đi nói chuyện này kia. Đó là vì không an trú. Ta thấy thì biết liền.

Trong các bộ kinh, Thầy thích đọc nhất là bộ Tương Ưng (Samyutta Nikaya, do HT. Minh Châu dịch) vì trong kinh này chuyên dạy li dục li ác pháp. Chính bộ Tương Ưng cứu Thầy khỏi tự sát.

8.- Thất Niệm

Trong kinh đức Phật thường dạy ta đừng để thất niệm.

Trên thân có ác pháp mà tác ý đẩy lui thì không phải thất niệm, vì ta chủ động. Còn khi đang ngồi tập Định Niệm Hơi Thở, bổng dưng có một niệm khởi thì niệm theo dõi hơi thở bị gián đoạn, bị mất thì đó là thất niệm, thất cái niệm đang tập luyện.

Ác pháp thì phải đẩy lui, hoặc ngăn hoặc diệt. Có ác pháp mà cố gắng chịu đựng, cam chịu đựng trong khi có thể tránh được là ức chế, là sai với đường lối của Phật.

Thí dụ: Khi một con kiến cắn, thì mình khởi tâm từ đừng giết nó, tìm cách đẩy nó đi. Đó là phương pháp đẩy lui chướng ngại pháp trên thân, đừng để nó ở đấy, cho nên đức Phât nói “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”.

Khi bị một con muỗi đốt trong khi đang ngồi tập luyện, con chủ động cách để ác pháp đó không tác động nữa bằng cách đuổi nó đi hay dùng câu tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” để làm cho thân cảm nhận sự an tịnh mà quên đi cảm nhận của con muỗi đốt thì đó là thay đổi niệm chứ không phải thất niệm. Đó là chủ động khắc phục tham ưu, không phải là thất niệm.

Con tập luyện từ từ theo lời Thầy dạy, làm thế nào để đạt cho được sự nhiếp tâm và an trú tâm trong thời gian tu tập ngắn. Đừng tu tập dài lâu, dài là ức chế. Tập luyện Định Niệm Hơi Thở chỉ 5 hơi, tác ý xả, rồi tập luyện 5 hơi khác. Kinh Hành Tĩnh Giác cũng vậy, đi 10 bước, hay 20 bước, đứng lại tác ý xả. Có ác pháp thì tác ý đẩy lui. Cứ tác ý dù chúng có lui hay không. Bây giờ thì chưa có sức gì, nhưng chắc chắn ngày nào đó tác ý sẽ có sức đẩy lui ác pháp, miễn là liên tục tập luyện bền chí tác ý không gián đoạn.

Điều quan trọng là làm sao tập nhiếp tâm và an trú tâm trong hơi thở cho quen. Thầy biết con đã quen được sự nhiếp tâm trong bước đi, cũng như trong hơi thở rồi, bây giờ tiếp tục tập an tịnh cho được. An tịnh được mới tới an trú.

Khi đi kinh hành con tập tĩnh giác cho tâm lắng trong bước đi, có nghĩa là khi đi không tác ý gì khác ngoài sự chú tâm theo dõi bước đi. Đi đủ 20 bước đứng lại tác ý.

Thầy nhắc lại, ở vị trí của người mới tập luyện, sự nhiếp tâm và an trú tâm là phần cơ bản nhất cần đạt cho được. Đức Phật dạy ta phải chế ngự tâm, làm sao cho thân tâm an trú được trong hơi thở. Muốn được vậy thì thân và tâm phải an tịnh tức là quán sát thân tâm để nhận biết ngay lúc nó vừa có được an tịnh. An tịnh được thì an trú mới được.

Chỉ tập cho đạt sự an trú kéo dài trong 10 phút thôi, sau đó chuyển qua các đề mục khác của Định Niệm Hơi Thở là quán li tham... quán li sân... Mục đích của các đề mục này là khi có ác pháp tham, sân, si thì ở trên hơi thở dùng đề mục đo mà đẩy lui; còn không có thì không cần tập luyện, chỉ cần giữ tâm thanh thản an lạc vô sự (tâm 4 Niệm Xứ).

Khi không có ác pháp thì tâm ở trong Bất Động Tâm (tâm thanh thản an lạc vô sự). Mặc dù có được tâm thanh thản an lạc vô sự, tức là tâm li dục li bất thiện pháp, nhưng chưa nhập Sơ Thiền, chưa vào được Sơ Thiền. Nghĩa là chỉ mới có bất động tâm tức là chỉ mới li dục li ác pháp trong bất động tâm chứ chưa phải vào Sơ Thiền. Chỉ đang bước vào giai đoạn luyện 4 Niệm Xứ, chỉ bắt đầu có Chánh Niệm và chỉ mới được Bất Động Tâm chứ chưa vào định (cho dù là định do li dục li ác pháp sanh hỉ lạc – Sơ Thiền). Muốn vào định thì phải có đủ năng lực của 7 Giác Chi. Có năng lực của 7 Giác Chi mới nhập được Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền.

Đừng nghe nói li dục li ác pháp nhập Sơ Thiền rồi tập li dục li ác pháp nhập Sơ Thiền. Không phải vậy đâu. Ức chế thấy nó im lặng vậy chứ sự thật không phải là Sơ Thiền. Chưa hoàn mãn Chánh Niệm tức chưa sung mãn 4 Niệm Xứ thì đừng mong thực hiện Chánh Định. Pháp 4 Niệm Xứ mà sung mãn được rồi thì phải có năng lực 7 Giác Chi.

9.- Thời Giờ Tập Luyện

Các pháp môn tập luyện, không bó buộc chúng có giờ tập luyện bằng nhau. Thí dụ một pháp nào tập luyện 30 phút thì không bó buộc các pháp khác cũng tập luyện trong 30 phút.

Định Niệm Hơi Thở nhiếp tâm được trong 30 phút thì pháp này tập luyện kéo dài trong 30 phút, còn Kinh Hành Tĩnh Giác nhiếp tâm lâu hơn, thí dụ là 1 giờ thì đi 1 giờ được.

Tuỳ pháp nào con tập luyện mà được an lạc an trú thì pháp đó tăng dần lên. Còn pháp nào chưa an trú được thì cứ giữ giờ tập luyện cho đến khi được an trú. Thí dụ có pháp con tập luyện 10 phút mà vẫn chưa an trú, trong khi có pháp đã an trú được nên con tập nó trong 1 giờ. Cái này được, không sao, không e ngại. Hay có thể an trú lên hơn nữa, thí dụ 2 giờ, 3 giờ thì con cũng tăng lên tới mức đó. Còn pháp kia chỉ 10 phút mà chưa được an trú thì không được tăng lên thêm, đủ 10 phút phải nghỉ xả, tập luyện pháp khác. Pháp tập luyện mà an trú được, hợp với con thì mặc dù giờ tập tăng dần lên nhưng con vẫn nhiếp tâm trong đó, ôm chặt pháp đó.

Giữ thời gian đã tăng cho cố định, không lùi lại sau khi đã tăng lên. Không bỏ pháp môn nào. Khi pháp này tăng lên được thì chẳng bao lâu sau pháp kia cũng tiến bộ được nhờ sự trợ giúp của pháp này. Ví dụ hơi thở tập luyện hoài 10 phút mà không thấy tốt trong khi pháp kinh hành tốt, được tăng lên thì rồi pháp hơi thở cũng nhờ đó mà càng tốt ra.

Nhưng không phải pháp nào cũng tập luyện với thời gian bằng nhau. Thí dụ 30 phút đều tất cả các pháp. Không phải vậy. Phải linh động khéo léo. Bởi có người đi kinh hành rất tốt nhưng có người kinh hành dở thì họ phải ngồi lâu. Chỉ tuỳ theo đặc tướng của từng người.

Khi nâng thời gian tập luyện thì lưu ý như vầy: Mỗi thời khóa là 3 giờ, con thu xếp tập luyện các pháp môn như thế nào đó mà đầy 3 giờ rồi. Khi nâng một pháp môn lên, thí dụ 15 phút thêm nữa thì khóa tập luyện trở thành 3 giờ 15 phút mỗi khóa và khóa tập luyện nào cũng là 3 giờ 15 phút. Vậy mới được xem là nâng pháp đó lên, chứ không phải nâng giờ pháp này lên mà giảm giờ các pháp kia lui.

Làm vậy là thất bại, không tiến bộ. Các pháp kia phải giữ y giờ đã tập luyện chúng từ trước cho đến đó; còn pháp này thêm giờ thì nâng đều trong các thời khóa lên bằng vậy. Cho nên giờ của thời khóa phải tăng thêm. Chừng khi các pháp kia cũng được tăng, thì giờ tập luyện của thời khóa lại tăng thêm lên nữa, lâu hơn nữa, có thể mỗi thời khóa kéo dài đến 3 giờ 30 hay 4 giờ và thời nào cũng dài như vậy.

Do sự tăng thêm giờ này mà tâm con hết phóng dật dần dần nhờ nương vào giờ tập luyện được kéo dài trong mọi thời khóa. Và đến chừng khoảng nghỉ xả hơi giữa hai thời khóa không còn nữa là con đã tập luyện liên tục 8 giờ mỗi khóa và chỉ còn tập luyện hai khóa trong ngày, nghỉ xả hơi có hai lần trưa và khuya, trong mỗi lần cũng chỉ nghỉ 2 giờ. Lúc đó tâm con đã gần được thanh tịnh.

Pháp tập luyện được tốt tức là phù hợp với đặc tướng, hay không được tốt cũng phải tập luyện cẩn thận kĩ lưỡng, không được bỏ pháp nào mà cũng không chỉ ôm pháp nào vì pháp của Phật là 37 Phẩm Trợ Đạo, cái nào cũng quý, cũng lợi ích rất lớn nhưng vì đặc tướng của con mà dễ tiến bộ ở pháp này, chậm tiến bộ ở pháp kia. Cho nên phải giữ hết, không được bỏ một pháp nào.

Điều đặc biệt quan trọng cần lưu ý là chỉ nâng giờ tập luyện pháp môn nào lên khi trong suốt thời gian tập luyện của pháp môn đó hoàn toàn được nhiếp tâm và an trú tâm, không một phút giây nào bị thất niệm. Nếu chưa được vậy mà nâng lên thì sẽ bị nó quật ngược trở lại làm thành những chướng ngại rối loạn, tập luyện không tiến được.

Trong thời gian đầu đang tu tập Tứ Chánh Cần này, tập luyện mỗi pháp 30 phút là lâu rồi, không được cho cái nào lên hơn 30 phút hết. Sau đó khi thấy pháp môn nào nhiếp tâm vô dễ dàng con nâng nó lên, các pháp kia vẫn giữ ở thời gian cũ đó.

Sau thời gian tập luyện, con kiểm soát thấy đã được kết quả nhiếp phục được tâm vào trong thân hành (hoặc đi, hoặc hơi thở) rồi bắt đầu tập cho an trú. Thí dụ như hơi thở nhiếp chưa được, mà chỉ nhiếp và an trú được trên bước đi. Do nhiếp và an trú được ổn định trong bước đi thì pháp kinh hành được tăng lên đến một giờ mà các pháp kia chỉ giữ ở 10 phút thôi. Sau khi ổn định nhiếp và an trú tâm trong bước đi, chừng đó quay qua hơi thở con sẽ thấy nó có khác biệt nhiều. Nếu chỉ mới nhiếp tâm trên bước đi thì chưa có gì khác ở hơi thở đâu.

Muốn thấy rõ được sự tập luyện tiến bộ như thế nào thì con có thể so sánh mức độ hiện nay với tháng trước hoặc nhiều tháng trước, chứ so sánh sau một vài ngày thì không nhận ra rõ ràng được.

10.- Phá Buồn Ngủ, Ngủ Gục

Khi bị ngủ mê khá nặng, Thầy sẽ chỉ dạy cách thức để đối trị nó. Con đã áp dụng câu tác ý “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi đi kinh hành” nhưng chưa có kết quả. Vậy trước khi ngủ, vừa nằm xuống, nên tác ý câu “Thân và tâm phải hoàn toàn định tỉnh khi ngủ cũng như khi thức, phải biết đúng giờ giấc!” Con cứ tác ý mỗi khi đi ngủ, lâu dần tâm sẽ rõ biết. Cứ tác ý mãi cho đến khi nào có kết quả. Phải bền chí.

Nguyên nhân khác khiến bị ngủ mê là do tập luyện chưa đạt được sự an trú của tâm vào các pháp môn. Khi được an trú, khi mất nên nội lực chưa đủ, chưa phát triển, bị hao năng lực nhiều nên mỏi mệt và ngủ mê. Khi tập luyện đã an trú được thì nội lực có, sẽ không hoặc ít bị hao năng lực của bản thân. Vậy thì làm sao cho khi mới vô tập luyện phải an trú được ngay liền thì nội lực đã không mất mà nó còn được bồi bổ thêm.

Lại nữa tập luyện càng có tiến bộ nhiều thì chướng ngại – còn gọi là ác ma – tới quấy phá, làm mình không tập luyện được, làm mình vi phạm giới luật để rồi thối thất tập luyện. Khi tập luyện thì cần quyết tâm chiến thắng các ác ma (buồn ngủ, ngủ mê, tâm phóng dật, phá hạnh độc cư,...). Lúc đầu thì có thể nhờ người giúp để giữ đúng giờ giấc, nhưng phải tập dần dần để quen tự chủ.

Con áp dụng câu tác ý và thực hành với sự tĩnh giác cao trong lúc tập luyện như vậy là tốt. Nếu không bị căng đầu, căng mặt là hợp với đặc tướng của con, sức chịu đựng được, đủ khả năng, đủ lực để nhiếp phục tâm, để dẫn nó vào an trú.
Không căng mặt, không kéo dài thời gian tập luyện quá lâu là nhiếp phục. Nếu căng mặt, nặng đầu là ức chế, là trật.

Muốn biết cách phá si như thế nào thì cần phải biết nghĩa và các tướng trạng của các loại ma chướng buồn ngủ (hôn trầm), ngủ mê (thùy miên), mất chú ý (vô ký) và mất ý thức (ngoan không) này. Khi các loại ma chướng này sắp xẩy ra thì có những tướng trạng, là những báo động để nhận biết trước chúng. Khi chúng đã xẩy ra thì không còn biết được cho đến một lúc lâu sau tùy theo từng loại ma chướng. Khi tập luyện người ta gặp chúng nhiều lần nên rất dễ biết chúng để phá. Người chưa kinh nghiệm thì không thể thấy được tướng trạng báo trước của các loại ma này đâu.

Ngủ gục là hôn trầm. Đang ngồi tập luyện mà buồn ngủ, thiếp gục xuống. Ngủ gục thì chỉ mới gục xuống là giật mình tỉnh lại. Buồn ngủ, ngủ gục dễ biết nên không bị nó kéo dài.

Khi có tướng trạng buồn ngủ xẩy ra thì đừng ngồi nữa, ngồi tiếp sẽ bị gục tiếp, gục hoài. Phải đứng dậy đi kinh hành, hay dùng pháp môn khác mà phá cái buồn ngủ này. Không nên ngồi lì.

Làm sao để biết là mình đã phá được buồn ngủ? Đó là lúc ngồi tập luyện các pháp môn mà không còn bị thiếp gục xuống, thời tập nào cũng tỉnh táo suốt toàn thời. Ngày nào, thời nào cũng được vậy thì đó là đã hết bị buồn ngủ, phá được buồn ngủ, ngủ gục. Nếu còn gục là phá buồn ngủ chưa xong. Nhưng cần lưu ý khi buồn ngủ hết thì bắt đầu mất ý thức tới. Hãy tĩnh giác mà đề phòng. Ma chướng không đánh chúng ta bằng sự ngồi ngủ mê (thùy miên) mà đưa chúng ta vào mất ý thức (ngoan không).

Ngồi ngủ mê là ngủ thật, nghẻo cổ ngủ, gục đầu ngủ, gập người ngủ, ngủ say mê. Trước khi ngủ mê như vậy thì có dạng hơi thở lặng lặng kiểu như ru ngủ. Hơi thở đi nhè nhẹ vô. Khi thấy hơi thở thay đổi thì coi chừng sắp chìm vào cơn ngủ mê. Khi đã bị chìm vào cơn ngủ mê rồi thì phải sau ít ra nửa giờ, hay 20 phút mới biết đã bị ngủ mê. Nó lặn vô lặng im làm mình thấy an ổn, rồi đi luôn với an ổn đó. Đến chừng giật mình thức dậy thì đã qua nửa giờ, 20 phút rồi. Ngủ ngon lành; ngủ ngon thiệt! Nhưng ít khi bị ngồi ngủ mê, thường bị ngủ gật nhiều hơn.

Ngồi ngủ mê thì đã bị ngủ rồi mới tỉnh thì đâu có cách nào phá nó; chỉ tập cho quen để biết tướng trạng báo động bằng hơi thở lặng lặng mà đứng dậy, đi kinh hành để phá, không được ngồi tiếp. Hay khi thấy hơi thở thay đổi nhẹ nhẹ của cơn ngủ thì hãy thở mạnh lại để phá nó. Dùng hơi thở thì con ra khỏi trạng thái ngủ mê liền, cho nên khỏi phải đi kinh hành để phá ngồi ngủ mê. Nếu không biết đây là ngủ mê thì người ta thường đi kinh hành. Cái gì cũng đi kinh hành là người không biết phân biệt tướng trạng để dùng cách thức khác nhau mà đối trị. Người tập luyện sắp bị ngồi ngủ mê có trạng thái báo biết trước khi ngủ. Đó là hơi thở lặng lặng.

Khi vào giấc ngủ bình thường, nếu tỉnh con sẽ thấy hơi thở từ từ nhẹ dần, hơi thở phải lặng dần dần thì mới vào giấc ngủ. Chứ nếu hơi thở còn tỉnh thức mà bảo ngủ, không ngủ được đâu. Trước khi ngủ nó có báo. Tại mình không tĩnh giác nên khi vào giấc ngủ không biết được. Người tập luyện thì khi muốn ngủ có trạng thái muốn ngủ báo động qua hơi thở. Nó yên, nó lặn vào hơi thở theo kiểu ngủ. Hai loại hơi thở khi thức và khi ngủ khác nhau. Có người ngủ ngáy, còn mình ngủ không ngáy thì hơi thở nhè nhẹ, chứ không phải giống như lúc thức.

Nắm vững các trạng thái cùng cách đối trị thì nó không đánh được.

Mất chú ý : Bị giật mình là bị mất chú ý tức là bị quên, quên pháp đang tập luyện. Bị mất chú ý là khi bị thất niệm nó mới vô được. Mất chú ý là dạng của thất niệm, quên. Mất chú ý còn bị xem là không tĩnh giác.

Trạng thái mất chú ý thì hay giật mình. Khi thấy như thế thì hãy đứng dậy đi kinh hành, đừng ngồi nữa. Khi giật mình thì tự rõ biết sự mất chú ý tới, mà mất chú ý thì không bao giờ dẹp hết vọng tưởng đâu. Mất chú ý là quên tập trung ý thức trên đối tượng nên vọng tưởng xẹt vô. Đứng lên đi kinh hành để đừng mất chú ý nữa. Chú ý bước chân hoặc tác ý liên tục từng hơi thở thì không có kẽ hỡ để mất chú ý xen vô được.

Mất ý thức là ngồi tỉnh nhưng nó không ngơ, không biết gì hết, giống như ngủ, nhưng con thấy con tỉnh. Ngủ thì có dạng khác của sự buồn ngủ, còn không ngơ là mình ngồi tập luyện mà như nhập định. Đó là mất ý thức.

Mất ý thức thì báo động bằng trạng thái an lạc. Tỉnh và an lắm. Bị vài lần thì con sẽ nhận ra được sự an lạc của mất ý thức. Khi còn biết thì thấy nó an lạc lắm nhưng cái an này nó sẽ đẩy mình vào không.

Khi biết được sắp bị mất ý thức thì gồng mình lên cho mất cái an đó. Cái an sẽ đưa liền tới cái không, giờ mình phá cái an đó thì cái không không tới được. Gồng cho cơ bắp tay chân mất an, cho trở lại trạng thái bình thường, rồi ôm pháp tập luyện lại.

11.- Giữ Giới – Giữ Tâm Bất Động

Nếu con hiểu được đường lối tập luyện của đức Phật, của Thầy, con tập luyện và sống cho đúng giới hạnh thì mới vô thiền định dễ. Bí quyết thiền định chính là hạnh sống. Nó là Thánh Giới Đức, thuộc về Thánh Hạnh. Sống không đúng Thánh hạnh thì tập luyện li dục không được. Đúng giới mới li dục được. Cho nên Giới sanh Định là đó. Giữ gìn giới đúng, tu tập đúng pháp thì tâm tự li dục chứ không có cách nào khác mà li được.

Ăn, ngủ, độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng đều chỉ nhắm mục đích li dục. Tất cả những cái đó đều là những Thánh hạnh. Cố khép mình chặt trong giới luật thì quyết chắc đạt được chí nguyện thôi. Không cách nào không đạt. Những pháp Thầy dạy là những pháp rất căn bản.

Đức Phật chỉ dạy cho chúng ta biết mục đích giải thoát là Bất Động Tâm, là Tâm Thanh Thản An Lạc Vô Sự. Tập luyện để trước các ác pháp, trước các đối tượng của tâm mà tâm bất động là đúng. Nhưng phải nhớ kĩ không tập luyện sai để kết quả không sai. Ức chế là vô tưởng, là hỏng. Tập luyện phải hiểu sức mình ở mức độ như thế nào.

Bất kỳ trạng thái nào xẩy ra cũng phải đừng chấp. Trạng thái thân khinh an, hay có thần thông gì gì thì phải dẹp nó đi. Kinh hành mà có cái lực gì đẩy thì thôi dừng dừng. Các cái đó không phải của Phật đâu. Không đúng đâu. Pháp giải thoát của Phật là tâm bất động, là tâm thanh thản an lạc vô sự. Sơ thiền thì li dục li ác pháp nhưng nó có 5 chi thiền. Còn Tâm Bất Động là đối trước các ác pháp, các cảm thọ mà tâm không giao động, thản nhiên, cho nên gọi là Tâm Thanh Thản An Lạc Vô Sự. Phải nắm vững chỗ này mới biết kết quả tập luyện, chứ không rõ thì coi chừng vô các trạng thái không đúng mà chấp đúng, là sai.

Như có những người tự thấy mình chứng Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Họ biết gì về bốn Thiền đó mà dám tuyên bố. Khi chưa đủ năng lực để nhập các Thiền, tức là sức tĩnh giác chưa có, Chánh Niệm chưa xong tức 4 Niệm Xứ chưa hoàn tất, thì làm sao có đủ năng lực nhập định mà họ dám nói họ nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền... Những người đó thấy có trạng thái an trú, họ lầm tưởng đó là Sơ Thiền, Nhị Thiền... Nếu đọc được những gì Thầy giảng ra thì họ bắt chước nói theo. Họ tập luyện chưa chứng mà nói vọng ngữ. Cho nên Thầy chỉ giảng Thiền Căn Bản ở chỗ nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, còn sự chứng nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, chưa nói tới để tránh cho họ khỏi vọng ngữ. Họ hay nói theo tưởng để lòe, để họ lừa đảo người khác. Cái đó nguy hiễm cho cả người nói và người nghe.

12.- Thánh Giới Uẩn

Giới là ranh giới, là phạm vi. Qua khỏi ranh giới là phạm giới. Ở trong ranh giới của pháp tập luyện thì không bị phạm. Giới là như vậy.

Thánh Giới Uẩn là lấy 5 uẩn làm giới để giữ gìn tâm. Nói uẩn thì nói cả 5 uẩn. Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Uẩn gồm tất cả 5 uẩn này mà Thánh Giới là cách thức giữ gìn cả 5 uẩn đó. Đó gọi là Thánh Giới Uẩn.

Thí dụ sắc uẩn, tức thân tứ đại. Ở trong thất độc cư thì giữ gìn thân cho đúng, ra khỏi thất cũng phải giữ gìn thân cho đúng. Khi ra ngoài thất có tiếp duyên thì phải giữ gìn rất dè dặt cẩn thận trước các ác pháp, trong đó có ác pháp dục gợi tham muốn và khiến chúng ta dễ phiền não tức giận. Do đó ta phải phòng hộ thân. Khi bị người ta nói điều gì gây phiền não thì phải cố gắng giữ gìn tâm, đừng để lộ ra qua sắc tướng của ta. Đó là giữ gìn Sắc giới uẩn Sắc thân khi đi ra ngoài tiếp xúc với mọi duyên. Còn khi ở trong thất, khi tập luyện các pháp thì các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi trong khi tập luyện phải giữ gìn sắc giới uẩn của chúng ta sao để đi, đứng, nằm, ngồi đúng với các pháp. Thí dụ tập luyện Thân Hành Niệm, 4 Niệm Xứ thì thân phải như thế nào, thì đó là giữ gìn sắc giới uẩn.

Cho nên người đang tập luyện, mỗi khi cầm muỗng để ăn cơm, hoặc mang bát, mặc y thì phải giữ gìn, tư duy. Nếu oai nghi nào không đúng thì không nên làm, chỉ làm oai nghi nào đúng. Lần lượt trong thất tự rèn luyện thì con sẽ thành tựu những giới hạnh. Nếu bộ Giới Hạnh Thầy soạn viết xong, con nghiên cứu về Sắc Giới Uẩn thì mới có thể đầy đủ chứ không thể nói trong 10 phút, nửa giờ mà đủ được giới hạnh, giới hành của Sắc Giới Uẩn này được.

Vậy trong khi chờ có sách, con về thất nhập tu thì tự con sáng ý ra mà tập luyện. Đến khi Thầy viết xong bộ Giới Hạnh mà đức Phật đã dạy thì lúc đó con nghiên cứu kĩ để giữ gìn Sắc Giới Uẩn khi ở trong thất cũng như khi đi ra ngoài. Đó là cách thức tập luyện về Thánh Giới Uẩn. (Năm 2006, Thầy Thông Lạc đã viết xong tập 1 và 2 trong số 6 tập thuộc bộ Giới Hạnh và đã được Nhà Xuất Bản Tôn Giáo cho in dưới tựa “Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống”)

Về thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy, luôn luôn cẩn thận dè dặt giữ gìn như Sắc Giới Uẩn để không hề bị vi phạm. Khi đau thì không nên vì lý do nào để trở nên như người thế tục, như đi nhà thương, đi bác sĩ, hay giải phẩu. Phải gan dạ hơn, giữ gìn thọ giới uẩn để đừng làm theo kiểu phàm phu tục tử khi có thọ thân hay khi có thọ tâm. Khi chúng ta lo lắng sợ hãi, thương ghét, phiền não thì phải phòng hộ cho kĩ ngũ uẩn của chúng ta.

Thầy nói tổng quát đại ý như vậy, con theo đó mà giữ gìn cho trọn vẹn thì ở trong thất tập luyện càng ngày càng kết quả. Chừng khi sách dạy về Giới Luật Tỳ khưu viết xong Thầy sẽ gởi cho con. Con nên ráng học tập rèn luyện trong những Thánh Hạnh đó, nhất là giới luật về thân giới uẩn của người đang tập luyện. Giữ cho được trọn vẹn thì sự li dục li ác pháp sẽ thực hiện rất rõ ràng. Nhờ những Thánh Giới Uẩn đó chúng sẽ giúp cho con rất tĩnh giác trên từng hành động của thân, của tâm khi có pháp tác động vào. Chúng giúp con bình tỉnh, rất vững vàng, không bị rối loạn, không bị sa ngã hay sợ hãi.

Thầy nhắc lại, khi ở trong thất tập luyện các pháp môn như Kinh Hành Tĩnh Giác, Thân Hành Niệm, Định Niệm Hơi Thở, Quán Vô Lậu... thì giữ gìn oai nghi cho đúng với pháp môn con đang tập luyện. Thí dụ như khi Kinh Hành Tĩnh Giác mà hôn trầm tới thì con cũng phải đi từ từ, đi nhẹ nhàng theo hạnh của người tập luyện trong pháp môn đó. Đừng chạy nhảy là không đúng Giới Hạnh Thánh Giới Uẩn. Ngay cả để khắc phục buồn ngủ mà đi một đường quyền là không đúng Thánh Giới Uẩn. Phá buồn ngủ thì phải đi đúng cách của pháp cùng với các tác ý là đúng.

Chứ có người đã dùng các cách không đúng Thánh Giới Uẩn như là lấy kim chích vào thịt cho đau cho tỉnh ngủ, hoặc cách này cách khác là không giữ đúng Thánh Giới Uẩn, sai pháp, không đúng cách. Phải áp dụng Thánh Giới, Thánh Hạnh vào tất cả 5 uẩn cho đúng với pháp tập luyện và cho đúng với đặc tướng. Vậy mới gọi là giữ gìn Thánh Giới Uẩn.

Khi tập luyện các pháp môn mà con có những tư tưởng gợi lại tình cảm hay nhớ lại hình ảnh hành động bất tịnh thì phải mau mau tác ý để phá trừ vì nó là những điều kiện phạm giới, không để chúng lưu lại trong tâm một phút giây nào. Phải giữ gìn Thánh Giới Uẩn trong từng tâm niệm. Phải dùng tất cả những phương pháp con đã tập luyện để diệt trừ tâm niệm ác pháp khi chúng vừa xuất hiện. Diệt chúng càng sớm càng tốt, đừng để kéo dài 5, 3 phút là quá lâu, là vi phạm giới.

Đối với người đang tập luyện thì phải giữ gìn Thọ Giới Uẩn, phải luôn cẩn thận, thấy tâm niệm nào phạm giới thì phải phá trừ nó cho tan liền. Xác định được tâm niệm nào là phạm giới thì phải phá trừ để khỏi bị các hậu quả về sau làm cho ta bị phạm giới. Đây là căn bản tập luyện Thánh Giới Uẩn.

Thánh Giới Uẩn lúc nào cũng kèm theo Thánh Hộ Trì Các Căn, tức là các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, là những cánh cửa mở tiếp xúc các pháp. Thánh Phòng Hộ là phòng hộ như Thánh để ác pháp không chiếm sáu căn của chúng ta. Tất cả ba cái: Thánh Giới Uẩn, Thánh Phòng Hộ Các Căn và Thánh Chánh Niệm Tĩnh Giác lúc nào cũng đi chung nhau, không thể thiếu một Thánh nào mà đạt thành kết quả được. Hiểu biết Thánh Giới Uẩn thì sẽ Thánh Phòng Hộ; phòng hộ muốn được thành đạt thì phải tập luyện Thánh Chánh Niệm Tĩnh Giác. Mà khi có được sự tĩnh giác của bậc Thánh thì phòng hộ các căn như là một bực Thánh; mà phòng hộ các căn theo bậc Thánh là giữ gìn được Thánh Giới Uẩn.

Con nhớ khi trở về trú xứ thì phải hoàn toàn sống độc cư mà tập luyện trọn vẹn cả ba Thánh đức hạnh này.

Khi được đọc “MƯỜI GIỚI ĐỨC THÁNH SA DI”, (Tập 1. Văn Hoá Phật Giáo Truyền Thống, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo) con nghiên cứu để sống đúng Giới Đức. Khi hiểu Giới Đức thì giữ gìn hành động sống hằng ngày để bắt đầu thực hiện các pháp thiền định. Khi người ta nói Thánh hạnh như vậy như vậy thì lẽ ra phải đưa pháp hành ra theo để người tu sống cho được trong Thánh hạnh đó nhờ pháp hành. Nhưng vì không đưa pháp hành nên không ai sống tu đúng Thánh hạnh được.

Những pháp mà Thầy đã giảng dạy cho con tập luyện đều giúp thực hiện các Thánh đức hạnh này. Bây giờ con cần phối hợp để hiểu đây là Thánh đức hạnh nó như vầy như vầy, hằng ngày phải làm như vậy. Muốn làm được như vậy thì phải sống cho đúng, đừng vi phạm.

Từ đầu Thầy đã dạy 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở và Thân Hành Niệm, những cái đó giúp cho con sống đúng Thánh hạnh, tâm hoàn toàn li dục li ác pháp. Sau khi đọc Mười Giới Đức Thánh Sa Di con sẽ biết giới đó là Thánh hạnh như thế.

Từ lâu nay con biết đức Phật cấm ca hát và nghe ca hát nhưng đâu hiểu giới đức này để làm gì. Nay mới biết đó là Giới Độc Cư. Một tu sĩ sống độc cư mà ca hát, nghe ca hát thì đâu còn sống độc cư; hay gõ mõ tụng kinh thì đâu còn trầm lặng.

Mục đích trầm lặng độc cư là để tâm không phóng dật. Đó là bí quyết thành công của thiền định.

Con tu hành mà không thực hiện pháp hành này thì tập luyện chỉ uổng công. Một ông Thánh mà ngồi ca hát thì không phải là ông Thánh rồi. Con có thấy ông Thánh nào ngồi ca hát không?

Đức Phật cấm uống rượu, không cho mình uống rượu là muốn cho mình có Thánh Hạnh Minh Mẫn. Một người minh mẫn thì không ham thích loại dục lạc đó cho nên không uống rượu. Trái lại, người đời thì ham thích say mê dục lạc, lấy rượu làm vui nên người ta gọi là tiên tửu. Thật sự làm gì có tiên tửu. Ở Trung Hoa có nhà thơ Lý Bạch, mỗi khi uống rượu say thì ông làm thơ rất hay cho nên người đời gọi ông là ông tiên. Thật sự ông ta đâu phải là tiên gì, chẳng qua ông chỉ là một “tửu thi sĩ”, rượu kích thích ông làm thơ hay. Ông ta chỉ là một phàm phu. Tiên có khi nào phạm giới tiên. Tiên cũng có giới luật của tiên chứ!

Ở trong giới, sống đúng giới, điều đó xác định phân biệt như thế nào là Phật, như thế nào là Thánh, như thế nào là Tiên. Không nắm vững giới luật thì không hiểu Phật là sao, Thánh là sao, Tiên là sao. Người ta chỉ tưởng tượng ra thôi. Có thể nào chăng trên trời còn nấu rượu Đào tiên để Tiên uống? Đó là do người ta hiểu sai thế giới của chư Tiên. Do ở đời cái tâm tham muốn không đáy, người ta tham muốn đủ thứ. Nếu trên trời mà còn có lòng tham muốn đủ thứ, muốn gì có nấy thì chắc chắn đó không phải là cõi tiên, không phải là chư Tiên. Tiên thì phải hết dục, chứ đâu còn nhiều dục quá vậy?

Vậy khi đã tu tập thì con phải giữ giới luật cho nghiêm chỉnh. Sống tu tập mà không giữ giới thì tập luyện không tới đâu hết. Giới là Thánh hạnh. Muốn tập luyện thiền định là muốn làm Thánh. Chỉ có Thánh mới có chánh thiền định. Phàm phu làm sao có chánh thiền định là thiền định của bậc Thánh được. Do vậy muốn đạt được chánh thiền định thì Thánh hạnh phải có. Cho nên giới luật của nhà Phật ai đụng đến cũng sợ hết, sống không đúng giới được. Nhưng mình muốn làm Thánh thì không sợ. Ôm toàn bộ giới đi vào. Vững vàng, chững chạc, chắc chắn, tự tin.

13.- Cách Ôm Pháp

Nếu trong lúc tập luyện ở giai đoạn đầu này mà có thọ khinh an thì nguy hiểm, không có lợi đâu vì nó thuộc tưởng. Đức Phật không chấp nhận 3 loại cảm thọ: thọ lạc, thọ bất lạc bất khổ, thọ khổ; chỉ chấp nhận pháp mà thôi, tức là sức tĩnh giác trên niệm thân hành của chúng ta. Nghĩa là niệm thân hành của chúng ta làm sao thì chúng ta phải tĩnh giác trên niệm thân hành đó là đúng, còn bất kỳ cái gì khác tới cũng không chấp nhận vì có thể bị sai. Bởi khi chấp nhận nó, nếu là thọ lạc sẽ sinh ra thích rồi ôm thọ lạc đó trong khi thọ lạc đó là tưởng thọ, nguy hiểm. Chỉ ôm pháp, biết rõ ràng pháp thôi (đi biết bước chân đi; Định Niệm Hơi Thở đề mục 1 biết hơi thở vô ra; đề mục 2 hay 3 biết độ dài độ ngắn của hơi thở; đề mục 4 biết cảm giác toàn thân,...), tức là ôm phao vượt biển; tất cả các cái khác chỉ là sóng, chỉ là gió. Dù sóng gió có đem tới an lạc cũng đừng vì vậy, ôm nó mà bỏ pháp. Thọ lạc làm chúng ta thấy an lạc, thích thú nên vừa vào thấy nó không niệm rồi chúng ta cho như vậy là đạt được, rồi ôm cảm thọ lạc này. Không phải vậy.

Đức Phật nói lấy pháp làm hòn đảo, pháp là chỗ nương tựa. Chúng ta nương tựa pháp, không nương tựa thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ. Khổ là đau nhức, mõi mệt, đi không nổi; thọ lạc thì thoải mái thích thú. Cả hai không nên ôm cái nào, chỉ ôm pháp thôi. Hãy nhớ kĩ điều này thì không bao giờ tập luyện mà bị lạc đường lạc lối, xa rời pháp.

Và điều quan trọng nhứt cần lưu ý là khi tập luyện thì phải ôm pháp; khi không tập luyện, ở trạng thái bình thường thì phải bình thường.

Điều này rất quan trọng, đây là lời Phật dạy Thầy đã ghi ra trong “Những Lời Phật Dạy”. Chính điểm này mà Thầy đã tập luyện trong 6 tháng được thành tựu Đạo Quả. Thầy không tu pháp thì ngồi giữ tâm thanh thản an lạc bất động nhìn trời, nhìn đất và tác ý hướng tâm: “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự”“Tâm như cục đất, li tham, li sân, li si ra!”. Thầy thường thường ngồi như vậy mà khi khởi có một niệm thì không để nó dừng ngang hay tác ý cho nó dừng mà suy tìm niệm đó xem nó có đúng đạo lý không, nghĩa là suy xét xem niệm đó có mang tính chất tham sân si, có mang tính chất thương ghét giận hờn không. Nếu có thì phải lập tức bỏ liền không được để trong tâm giây phút nào (tức xả tâm). Cứ như vậy mà 6 tháng thì Thầy thành công.

Tâm không còn niệm thì đó là tâm hết phóng dật, là thành công, không cần tập luyện các pháp kia. Cái này rất quan trọng. Nghĩa là tâm không ở pháp nào cho nên tâm bình thường như mọi người nhưng nó không phóng dật (tức nó tự động khộng khởi bất kỳ niệm nào, đó là tâm xả). Thường tâm ta có hai trạng thái, một là động, hai là tịnh. Khi có khởi niệm là động. Tịnh là không khởi niệm nhưng vì vậy mà rất dễ ngủ gật, ngồi ngủ mê (hôn trầm, thùy miên).

Bây giờ con an trú trong pháp, không phóng niệm phóng dật gì hết, nhưng tâm còn “bị pháp”. Nhưng nếu không luyện tập giai đoạn này thì giai đoạn quan trọng vừa nói trên con không xả được; vì vậy con phải tập các pháp đó. Giai đoạn sau cùng lúc tâm bình thường rất khó duy trì (duy trì tâm xả) nếu không tập luyện thật thuần thục các pháp của giai đoạn Tứ Chánh Cần này.

Con ngồi mà suy tìm đạo lý, xem tâm có công đức gì, tức thiện pháp, hay tâm có ác pháp nào tức là có dục, có tham ái. Có ác pháp thì ngăn, thì diệt, mà có công đức thì nhất định không nói. Nếu có ác pháp mà đuổi không được, nó cứ trở lui trở tới hoài, không chịu đi, là do còn có kiến chấp gì đó mà con không hiểu biết được thì phải mau mau tìm thiện hữu tri thức, tìm Thầy, để thưa hỏi, để được dạy cách thức đuổi ác pháp đó đi.

Cho nên cần hiểu nghĩa của câu: có lỗi lầm nào (tức là có ác pháp) thì phải phát lồ sám hối , tức đuổi mà nó không đi là chúng ta có lỗi lầm. Còn có công đức gì (tức là tập luyện mà thấy thanh thản an lạc vô sự) thì không nói ra cho ai biết hết, im lặng như Thánh. Đó là điều kiện giữ tâm. Như vậy đó, con sống bình thường chứ không có ôm pháp gì hết. Khi luyện rốt ráo các pháp 4 Chánh Cần rồi thì cũng phải từ pháp tâm bình thường này mà đắc Đạo, diệt tận lậu hoặc. Cho nên Thầy thường nói ngồi tựa cửa mà nhìn trời là tập luyện cái đó.

Thầy tu thiền Đông Độ mất 9 năm trời, đạt Thức Vô Biên Xứ mà không diệt được lậu hoặc. Thế mà chỉ mất 6 tháng ôm pháp này mọi lậu hoặc bị diệt tận, đắc được 3 Minh. Đó là kinh nghiệm chân thật. Đức Phật tu 6 năm khổ hạnh mà không giải thoát trong khi sau đó chỉ 49 ngày là 49 ngày tâm bình thường này thôi, không gì khác hết. Cho nên bài kinh rất ngắn gọn mà nói về kinh nghiệm tu rất thực tế. Qua kinh nghiệm tu của Thầy mới biết được như vậy.

Nhưng nếu không tập luyện các pháp kia, thí dụ như đức Phật không qua 6 năm khổ hạnh mà vào ôm pháp tâm bình thường này tập luyện thì không tập luyện nổi. Nghĩa là ngồi không mà ôm pháp thì bị ngủ gật, ngồi ngủ mê nên không đạt kết quả giải thoát được.

Ngồi không mà giữ độc cư, không tiếp duyên ai hết, rất dễ bị ngủ gật, ngủ mê. Ngồi một hồi là ngủ. Nếu tập luyện các pháp kia cho thật sự thuần thục một thời gian để phá ngủ gật, ngủ mê cho thật sạch thì ngồi mới tỉnh, ngồi không mới được.

Chín năm trời Thầy tập luyện pháp Tri Vọng lọt trong thiền tưởng rồi Thầy ngồi mới chịu nổi. Giờ con còn lơ mơ mà ngồi thì nó vật ngã liền. Cho nên con phải nỗ lực tập luyện trong những ngày này cho đến lúc đó, lúc đã TỈNH THỨC, con vô mới chịu nổi. Nghĩa là khi tâm bình thường mà nó bất động, chứ khi có ôm pháp thì bất động mà khi rời pháp thì nó động là chưa phải thời. Đó chỉ mới tĩnh giác thôi.

Con phải tập luyện đầy đủ hết các đề mục Định Niệm Hơi Thở, mới qua pháp này được.

14.- Ba Lần Tuôn Trào Tâm

Khi tâm vào 4 Niệm Xứ thì thấy tâm thanh thản an lạc vô sự. Sau đó sẽ trải qua ba giai đoạn tuôn trào của tâm, tức là những niệm ký ức ẩn chứa trong tâm, hiện bày trở lại. Có trải qua tuôn trào tâm thì mới vào được trạng thái kéo dài thời gian liên tục tâm không phóng niệm, không phóng dật. Chưa tuôn trào thì tâm không bao giờ hết phóng niệm phóng dật. Dù con có kềm chế mức độ mạnh mẽ thì nó chỉ không có niệm khi nào ở trong pháp tập luyện chứ xả ra thì có niệm liền. Còn trái lại khi tâm tuôn trào rồi thì bất cứ lúc nào, dù là khi ngồi thiền hay khi xả ra ngồi chơi tâm cũng vẫn im re, không có niệm nào.

Lần đầu khởi niệm liên tục độ một tuần. Mỗi niệm đều mang một lý lẻ để phá con tu tập. Nhưng nếu con giữ hạnh độc cư trọn vẹn thì sau thời gian tuôn trào đó nó tự nhiên quay vô ngưng lại, không tuôn nữa. Khi nó bắt đầu tuôn trào, nếu con tiếp tục giữ độc cư trọn vẹn, giữ tâm bất động, cứ để cho nó tuôn ra liên tục. Khi nó tuôn, con không buồn ngủ, cũng không mệt. Lúc đó đừng lo sợ, đừng lo lắng, cứ để tự nhiên cho nó tuôn, vì ta có làm gì, có tác ý dừng nó cũng không dừng. Nó cứ tuôn ra như vậy, nó lập đi lập lại các niệm đó nhiều lần cho đến cả tuần lễ thì ngưng. Khi ngưng rồi thì tâm trở nên im lặng, không phóng dật, không phóng niệm nữa. Im vắng, thích thú lắm.

Rồi chừng một tháng sau thì nó lại bắt đầu tuôn trào lần thứ hai. Lần này nó kéo dài ít hơn, độ 24 giờ hay 3, 4 ngày thì dứt. Cũng vậy, khi tâm dứt tuôn trào con thấy yên lặng thoải mái, luyện 4 Niệm Xứ thấy sung mãn, lúc nào tâm cũng ở trên thân hành, cũng ít buồn ngủ. Đây là lúc si bị phá. Hiện giờ con chỉ mới phá si ở tầng thô bên ngoài, chứ gốc si, mà kinh gọi là si tùy miên hãy còn nguyên vẹn. Chỉ tới lúc này si tùy miên mới bị phá.

Lần thứ ba của tuôn trào tâm thì nhanh hơn, độ chỉ trong vòng một ngày hay một đêm, hoặc cả một ngày đêm, 24 giờ thôi. Cũng không buồn ngủ. Thời gian này thì năng lực 7 Giác Chi xuất hiện đầy đủ dần. Và khi niệm dừng lại, trở vào, không tuôn trào phóng ra nữa thì cùng lúc toàn bộ năng lực đầy đủ của 7 Giác Chi xuất hiện. Con cảm thấy có thần lực lạ lùng, cơ thể thì nhẹ nhàng, sức lực nghe tràn đầy. Như con đưa tay ra thì cảm thấy tay nhẹ như bông chứ không cảm thấy nặng nề như trước. Lúc đó cơ thể rất nhẹ nhàng, rất thanh tịnh. Không thể diễn tả được trạng thái này đâu, khó nói đúng lắm.

Khi như vậy nếu con hướng tâm cái gì thì nó làm theo cái ấy liền. Đến lúc này con biết là con đủ lực rồi. Đủ lực tức là con có Định Như Ý Túc, thì đi vào 4 Định. Lúc bấy giờ muốn nhập Sơ Thiền thì con chỉ cần hướng tâm thôi.

Lúc đó con nên nhanh chóng về gặp Thầy. Nếu không đủ duyên về thì con nên như thế này: Để tâm cho nó tự nhiên muốn làm gì thì làm, cứ giữ tâm thanh thản thôi. Rồi từ trong 4 Niệm Xứ sung mãn đó con nhẹ nhàng hướng tâm vào các tầng Định theo các câu pháp hướng như trong kinh dạy thì nó dẫn con vào Định. Con không cần làm gì hết. Các Định nào nó chưa làm được thì bây giờ nó tự dẫn con vào Định, nó làm theo sự hướng tâm của con. Cho nên kinh nói nhập 4 Thánh Định: “Không khó khăn, không mệt nhọc, không phí sức”. Tâm con không còn phàm phu nữa. Nó li dục li ác pháp rồi. Nó bất động. Nó có hướng đi rõ ràng lắm, vì thế nó không đi sai đường. Tâm hoàn toàn thanh tịnh, sạch rồi nên nó dẫn con đi tới chỗ sâu xa, tới ba Minh, tới chỗ chấm dứt luân hồi.

Thầy cũng nhờ như thế mà đến chứ Thầy đâu biết làm thế nào. Cho nên Thầy biết khi đức Phật đến thăm ba vị tôn giả trong khu rừng Sừng Bò lần sau thì cả ba vị tu xong rồi chứ đâu có đợi đức Phật đến dạy đâu. Khi tập luyện 4 Niệm Xứ được sung mãn rồi thì Trạch Pháp Giác Chi sẽ tự động dẫn đường cho con đi.

SƠ LƯỢC VỀ BẢY GIÁC CHI

Nếu không hiểu rõ đức Phật thì mình sẽ tu sai. Nghe kinh nói tu tập 7 Giác Chi thì phải hiểu pháp này là pháp rất quan trọng bởi vì nó có phương pháp riêng và đồng thời có năng lực, vì vậy nó có tên là Bồ Đề. Nó giải thoát thì phải có năng lực. Nếu nó không có năng lực thì không giải thoát được. Nhưng chỉ khi tâm đã an trú kéo dài ổn định và cùng lúc sung mãn 4 Niệm Xứ thì 7 Giác Chi mới có năng lực của Bồ Đề Giải Thoát. Còn khi chỉ mới an trú, chưa tu tập đúng cách của 4 Niệm Xứ, thì 7 Giác Chi này chưa có năng lực gì cả.

Thí dụ bây giờ con nhiếp tâm, an trú được, nghĩa là dù chỉ an trú trong một phút thôi hay một giây thôi thì bảy Giác Chi cũng xuất hiện ngay lúc có an trú. Cùng lúc có đủ cả 7 Giác Chi chứ không phải chỉ một. Bằng không thì không an trú được. Không an trú thì không bao giờ có 7 Giác Chi . Khi cảm thấy được khinh an thì có đủ 7 Giác Chi vào lúc đó: Tinh tấn Giác Chi, Khinh an Giác Chi, Hỉ Giác Chi, Niệm Giác Chi, Định Giác Chi, Xả Giác Chi và Trạch Pháp Giác Chi.

Mới vô đầu thì con phải chọn pháp mà tu, đó là Trạch Pháp Giác Chi. Trạch pháp là chọn lựa pháp. Muốn tác ý câu gì thì phải chọn nó. Chọn là trạch pháp. Con tác ý là niệm câu đó, là Niệm Giác Chi. Niệm Giác Chi thành tựu thì sẽ cảm thấy được khinh an, là Khinh An Giác Chi. Có Khinh An Giác Chi thì có ngay Hỉ Giác Chi. Nhận ra Khinh An vì nó làm cho con thích thú. Khi con thích thú thì sẽ siêng năng tức Tinh Tấn Giác Chi. Khi tâm bám vào trong, con không còn lưu ý ra ngoài thì đó là Định Giác Chi. Khi tâm giữ trong trạng thái thanh thản nhẹ nhàng là Xả Giác Chi.

Như vậy nó kéo nhau ra liên tục 7 Giác Chi. Vậy đừng có hiểu tôi phải tu cho tới cuối cùng mới hiện ra 7 Giác Chi. Không phải vậy. Hễ an trú được một giờ thì có 7 Giác Chi một giờ. Cho nên 7 Giác Chi cùng xuất hiện, làm cho con có năng lực, mặc dù rất nhỏ. Tu càng cao thì năng lực càng lớn.

Bảy Giác Chi sẽ có lực mạnh chỉ khi nào ta viên mãn đầy đủ 4 Niệm Xứ, chừng đó nó mới xuất hiện Định Giác Chi của Sơ Thiền trở lên. Chữ Định không phải chỉ nói riêng về bốn Thánh Định. Bốn Thánh Định là Chánh Định, còn ở giai đoạn đầu bốn Niệm Xứ là Chánh Niệm, nhưng Chánh Niệm vẫn có Định cho nên đức Phật nói Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu... Như khi có một lời nói nào làm phiền não, cơn sân khởi lên, con quán cho hạ cơn sân xuống thì đó là Định Giác Chi của tâm định. Nhờ có nó thực hiện mới phá sân được. Nhờ có nó mới phá si được. Con nên biết Đức Phật dùng chữ Định có nghĩa rộng rãi lắm. Chữ định vừa nói ở trên không phải là Định Giác Chi của 4 Thiền, đó chỉ là Định Giác Chi nằm trong nhóm của Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, nghĩa là Định trong giai đoạn 4 Chánh Cần, là giai đoạn đầu của bốn Niệm Xứ.

Còn định thuộc thân định là định tướng, nó mới thật sự là Định Giác Chi của Chánh Định 4 Thiền. Bắt đầu có Chánh Định thì định đầu tiên là Định Sơ Thiền là định của tâm li dục li ác pháp, là Định của tâm “do li dục sanh hỉ lạc ”. Qua Định Nhị Thiền thì định thuộc về thân, nó thuộc về thân định cho nên kinh nói do định sanh hỉ lạc , không còn do li dục nữa: “diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỉ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm”. Tam Thiền, Tứ Thiền là định của thân cho nên từ những định này lần lượt tịnh chỉ các hành cho thân bất động “ly hỉ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba”; “xả lạc, xả khổ, diệt hỉ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh”. Tới Tứ Thiền tịnh chỉ hơi thở xong là hết giai đoạn Định, chừng đó qua giai đoạn Tuệ. Bắt đầu từ đây mới gọi là Tuệ (Tuệ đúng nghĩa của ba Vô Lậu Học: Giới-Định-Tuệ). Đó là tuệ 3 Minh: Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh và Lậu Tận Minh.

Do đó chúng ta thấy rõ trước tiên là Định trong Chánh Niệm, định trên niệm cho nên chúng ta nhiếp tâm trên niệm, chứ không phải định trong thân định. Cái tâm mình an ổn là định, hay là định tĩnh, tĩnh giác. Con cần phân biệt rõ, đừng để lộn xộn. Phải thông suốt đây là Định Tĩnh, đây là Thiền Định.

Nhưng khi con tu tập hoàn mãn 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở, nghĩa là lúc viên mãn đầy đủ 4 Niệm Xứ, thì 7 Giác Chi sẽ có lực mạnh, chừng đó sẽ xuất hiện năng lực 7 Giác Chi.

Nếu khi tập luyện thấy năng lực của đủ 7 Giác Chi xuất hiện rõ; nghĩa là khi nào đi kinh hành mà thấy có cái lực của Tinh Tấn Giác Chi đẩy thân đi lướt lướt. Con bước nhịp nhàng bình thường cũng như người bình thường bước nhưng thân của con nhẹ quá, lực đẩy giống như có gió sau lưng thổi mạnh đẩy con đi lướt trên mặt đất, dường như chân không chạm mặt đất. Đó là Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện làm thân nhẹ đi. Lúc đó con đi trong lực đẩy của Tinh Tấn Giác Chi. Khi có lực của Tinh Tấn Giác Chi thì đi trên đất bằng hay đi trên nước, lực đó cũng đẩy đi như vậy. Con có thể lướt đi trên mặt nước, chân không chạm mặt nước. Con cảm thấy đi trên mặt nước không có gì sai khác với khi đi trên đất bằng. Đi như vậy chứ trong tâm không hề khởi ham muốn thị hiện thần thông. Nhưng có người nghĩ người tập luyện đang thực hiện thần thông. Kỳ thật tại khi tập luyện đạt đến mức tâm an tịnh thì xuất hiện trạng thái Tinh Tấn Giác Chi. Đó chỉ là do lực của Tinh Tấn Giác Chi mà người tu thành tựu. Người luyện Thân Hành Niệm sung mãn, 7 Giác Chi xuất hiện thì đều thực hiện lực này được. Tập luyện 1 giờ chưa có thì 2 giờ, 3 giờ... cho đến khi lực Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện, sẽ thấy nó đẩy đẩy. Con dở chân lên nó đẩy lên; để chân xuống nó hút xuống. Thấy rất rõ ràng, chỉ cần đi vài bước là nó xuất hiện rồi. Đó là Tinh Tấn Giác Chi.

Còn Khinh An Giác Chi làm cho con cảm thấy thân nhẹ nhàng sung mãn, làm cho thân không cảm thấy bị đau nhức, mỏi mệt chỗ nào hết.

Hỉ Giác Chi thì có niềm vui trong hành động của mình. Đi, hay ngồi, hay tập luyện bất kỳ pháp gì cũng thích lắm. Chỉ một mình mà vui thích. Ai làm gì cũng không thèm lưu tâm tới.

Niệm Giác Chi thì con ngồi mà thấy trong thân có những hành nhịp nhàng. Tự nó có cái trạng thái nhịp nhàng đó chứ con không vận dụng nó. Tự nó thở nhịp nhàng đều đặn. Thân của con hiện giờ thở không đều đặn đâu, khi vầy, khi khác. Niệm Giác Chi là niệm trên thân cho nên khi có Niệm Giác Chi thì các hành của thân đều đặn, hành động nhịp nhàng.

Khi Định Giác Chi xuất hiện thì tâm bám chặt vào thân, không còn bung ra ngoài, ai làm gì cũng không còn lưu ý. Thấy, nghe nhưng không lưu ý. Có Định Giác Chi thì tâm bám vào trong, định trong thân; tức tâm định trong hơi thở khi ngồi, định trên bước đi khi đi. Nó chỉ lưu ý trên thân nó thôi, giống như khi đang say mê làm việc gì đó, không biết gì bên ngoài hết. Nó say mê trên thân hành của nó là Định Giác Chi. Đây chỉ mới được định tĩnh theo hành thôi mà tâm bám chặt như vậy đó. Chưa phải là Chánh Định của 4 Thiền đâu. Trong khi có Định Giác Chi thì con ra lệnh cái gì nó liền làm theo cái ấy. Thí dụ con ra lệnh “Đi trên sông!” thì nó đẩy con đi trên sông mà không chìm. Nếu con bảo “Đi luôn qua bên kia sông!” thì nó đẩy đi luôn qua bên bờ kia sông, bước đi trên mặt nước (Người ta nói ông này là ông Thần rồi!). Trong thân có bệnh đau gì thì nó cũng đẩy bật ra hết, không còn đau bệnh nữa.

Cho dù Giác Chi nào sanh khởi thì cũng đừng lưu ý tới nó. Nó sanh ra thì cứ để tự nhiên cho nó sanh, con cứ ôm pháp mà tập luyện. Các trạng thái năng lực của Giác Chi trợ giúp con tập luyện thôi. Khi lưu ý tới nó, thấy nó hay hoặc dở là con bị phân tâm. Cứ theo hành động nhịp nhàng đó, ôm pháp mà tập luyện thì càng ngày lực 7 Giác Chi càng tăng trưởng.

Nhưng khi tâm chưa li dục li ác pháp hoàn toàn, nghĩa là luyện 4 Niệm Xứ chưa viên mãn, mà thấy lực đẩy xuất hiện, thì coi chừng bị ma. 10 Lực này là 10 Lực MA, nó làm cho mình bị nguy hại như thấy vui mừng, thích được nổi tiếng, muốn biểu diễn cho người ta biết. Đó là lục thông, ngũ thông của ngoại đạo. Những cái đó làm cản lối, không phát triển các Thần lực Thân Hành Niệm lên được. Nó chận đứng lại, không tăng thêm lực được nữa.

Khi thấy có lực như vậy thì phải dừng pháp Thân Hành Niệm lại vì chưa viên mãn 4 Niệm Xứ. Phải trở lại luyện 4 Niệm Xứ để quét sạch chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm, pháp cho xong rồi trở lại pháp Thân Hành Niệm thì mới được tốt đẹp. Sau khi hoàn mãn 4 Niệm Xứ nghĩa là khi tâm không còn phóng niệm nữa mà không phải bị ức chế, lúc nào cũng thấy thân tâm nhẹ nhàng thanh thản trong mọi tình huống oai nghi; đi thì biết đi, chẳng cần dụng ý mà ý chỉ như người gác cửa thôi. Lúc đó mới là lúc chuyển qua Thân Hành Niệm thì năng lực 7 Giác Chi xuất hiện ngay liền. Dùng tâm thanh thản thanh tịnh của hoàn mãn 4 Niệm Xứ mà luyện pháp Thân Hành Niệm thì lực truyền của nó giúp cho năng lực đủ 7 Giác Chi xuất hiện. Chỉ khi luyện pháp Thân Hành Niệm đúng thời thì nó mới thực hiện 10 Thần Lực Như Lai (tức 4 Như Ý Túc). Không phải luyện lâu đến 12 giờ đâu.

Tuy đức Phật nói pháp ta không dạy thần thông, nhưng sự thật có thần thông mà vì thần thông đó không phải là mục đích của đạo Phật. Các năng lực thần thông này được thực hiện chỉ để giúp tâm có đủ sức mạnh nhập các Định. Chỉ năng lực 7 Giác Chi mới đủ sức mạnh để diệt tầm diệt tứ, mới đủ sức mạnh để diệt được các trạng thái tưởng của tâm, mới đủ sức mạnh để tịnh chỉ hơi thở và tịnh chỉ các hành trong thân. Nếu không có năng lực 7 Giác Chi thì các cái đó không tịnh chỉ, không diệt được.

TUỆ BA MINH

Túc Mạng Minh thuộc Tuệ 3 Minh (gồm có Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) không có vấn đề thời gian và không gian. Cái biết của Túc Mạng Minh quá khứ cũng như hiện tại đều là HIỆN TẠI BIẾT. Người ta không hiểu điều này nên họ nói dùng trí tuệ Túc Mạng Minh nhớ lại. Họ nghĩ là dùng ý thức nhớ lại, tương tự như chuyện xẩy ra ngày qua, nay chúng ta nhớ lại. Đó là ý thức nhớ lại. Tuệ Túc Mạng Minh không nhớ lại như vậy.

Khi nói tuệ Túc Mạng Minh không có thời gian và không gian, điều này rất khó hiểu. Chẳng hạn khi muốn biết một việc gì ở quá khứ thì họ liền sống trong thời gian quá khứ đó. Vì họ là người đã tu chứng đạo nên tâm họ luôn sống trong trạng thái định bất động tâm của 4 NIỆM XỨ, chứ không phải sống như tâm trạng của người phàm phu. Cho nên khi ý thức họ muốn thực hiện TÚC MẠNG MINH trở về đời sống quá khứ thì liền đó họ sống trở lại ngay thời điểm đó trong quá khứ đó, họ biết rõ như thật sự việc đã xẩy ra, diễn ra, trong khi họ đang sống hít thở không khí trong đời sống hiện tại. Nói gọn là không phải nhớ mà sống trở lại. Cũng không phải như người đang ngủ nằm mộng vì người này đang sống trong mộng, đang sống trong tưởng thức. Cho nên nói khi thực hiện TÚC MẠNG MINH vị này nhớ lại là sai mà nói như sống trong mộng cũng là sai. Tuệ Túc Mạng Minh là tâm thức hoạt động, chứ không phải ý thức và tưởng thức . Ý thức và tưởng thức ngưng họat động thì tâm thức mới hoạt động. Thí dụ khi Thầy muốn biết về một sự việc nào vào thời điểm nào trong quá khứ, ở tại đâu thì Thầy là người chứng đạo đang ở trong định Bất Động Tâm nên hướng tâm sống lại trong lúc đó ở chỗ đó rất dễ dàng. Thầy dùng Túc Mạng Minh là Thầy sống lại trong thời đó mặc dù việc đó đã xẩy ra cách đây 100 năm hay 1,000 năm, nếu muốn biết nó thì Thầy sống trở lại thời gian đó ngay liền vào lúc sự việc đó đang xẩy ra. Đó gọi là tuệ Túc Mạng Minh. Vì thời gian của Tuệ Túc Mạng Minh không có nên nó rất nhanh, và muốn lúc nào tức thì nó trở về ngay thời điểm đó. Chỉ một tích tắc thôi là cả một đời sống trong đó.

Khi chứng 3 Minh thì nghiệp ác không còn, chỉ duy nhất còn có nghiệp thiện, nhưng nghiệp thiện ấy không phải thiện hữu lậu mà thiện vô lậu. Người chứng 3 Minh dù làm tất cả những việc thiện hữu lậu nhưng tâm luôn trở về thiện vô lậu. Nói như vậy con phải hiểu: MINH tức là VÔ LẬU. Với tâm vô lậu làm việc thiện thì việc thiện nào cũng trở thành thiện vô lậu. Con có biết thiện vô lậu là gì không? Là tâm thanh thản an lạc và vô sự. Đó là trạng thái LẬU TẬN MINH. Vì thế cái biết 3 Minh không liên quan chi tới nghiệp tái sanh, không liên quan chi tới cái thân nhân quả này.

Trong kinh Bát Thành có tám pháp độc nhất tu tập để chứng đạt chân lí. Tám pháp này tu tập dẫn đến đạt được mục đích tâm vô lậu hoàn toàn: “tâm vị ấy chưa giải thoát được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt…” (Kinh số 52, kinh Bát Thành, Trung Bộ II, trang 34). Nói đến vô lậu là nói đến 7 Giác Chi; nói đến 7 Giác Chi là nói đến 3 Minh; nói đến 3 Minh là nói Tâm Vô Lậu. Chúng chỉ khác tên chứ tính chất không khác.

Trong bộ não của chúng ta có ba nhóm tế bào: nhóm tế bào não ý thức, nhóm tế bào não tưởng thức và nhóm tế bào não tâm thức. Cả ba nhóm tế bào não này chứa đựng và thực hiện cái biết của một người còn sống. Khi đang còn thân nhân quả này thì chúng ta sử dụng tế bào não thuộc tâm thức cho trí tuệ 3 Minh. Khi chúng ta chết rồi, tế bào não thuộc tâm thức vật chất chết rồi, cùng với các nhóm tế bào khác của não, thì cái biết của ý thức, của tưởng thức, của tâm thức không còn, tức là 3 Minh không còn. Nhưng lực không tham, sân, si, mạn, nghi là lực của 3 Minh vẫn còn. Lực không tham sân si này hoàn toàn do pháp Như Lý Tác Ý tạo thành. Khi tập luyện pháp môn Như Lý Tác Ý thì phải dựa vào bộ não (ý thức), mà khi thành tựu Lực Như Lý Tác Ý rồi thì nó là  Năng Lực 7 Giác Chi . Năng Lực 7 Giác Chi là 4 THẦN TÚC. 4 Thần Túc là 3 Minh.

Trong 3 Minh có LẬU TẬN MINH. Lậu Tận Minh là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ hay nói cách khác là  tâm thanh thản, an lạc, vô sự . Nhưng tâm thanh thản, an lạc, vô sự là DIỆT ĐẾ. Diệt Đế là một trong 4 chân lí KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO của Đạo Phật; trong đó Diệt Đế là NIẾT BÀN. Cho nên thân tâm có hoại diệt nhưng Niết Bàn không hoại diệt.

Khi chúng ta chết rồi, cái biết của ý thức, của tưởng thức và của tâm thức không còn vì chúng phụ thuộc bộ não, nhưng cái lực của tâm không tham sân si do ý thức tu tập theo pháp Như Lý Tác Ý thì vẫn còn, không mất. Điều này không khác với nghiệp lực tham, sân, si, mạn, nghi do thân tâm VÔ MINH tạo thành. Bởi lẽ khi thân tâm hoại diệt thì nghiệp lực do tâm tham, sân, si, mạn, nghi này tạo thành vẫn còn và nó tương ưng (trùng hợp và lôi cuốn) với từ trường thiện- ác mà tái sanh luân hồi. Cho nên khi lìa bỏ thân này thì cái 3 Minh vẫn còn, không biến mất theo với sự hủy hoại của tế bào não bộ (vì nó cũng là nghiệp nhưng là nghiệp toàn thiện). Lực của tâm không tham sân si chính là lực của 7 Giác Chi được tạo thành do ý thức tu tập như Thầy đã nói. Tuy thân này không còn, nhưng lực của tâm không tham sân si tức lực 7 Giác Chi điều khiển được cái biết. Lực của 7 Giác Chi là lực của tâm không tham sân si, là lực vô lậu. Trong 3 Minh có Lậu Tận Minh. Vì thế Lậu Tận Minh là cái TÂM VÔ LẬU.

Khi luyện 4 Niệm Xứ được hoàn toàn sung mãn rồi thì năng lực 7 Giác Chi xuất hiện ra. Năng lực 7 Giác Chi là lực của tâm không tham sân si. Cho nên tâm dù còn chỉ một chút xíu tham sân si thì năng lực 7 Giác Chi đúng mức không xuất hiện ra đâu. Lực của tâm không tham sân si là lực của 7 trạng thái Bồ Đề giải thoát, nó điều khiển bởi Trạch Pháp Giác Chi. Mặc dù lúc đó thân này đã bị hủy hoại rồi, nhưng lực 7 Giác Chi đó vẫn còn. Khi nó không cần thể hiện trong dạng này hay dạng khác thì nó thanh thản an lạc vô cùng. Nó tương ưng với mọi tâm không tham sân si, tức mười phương chư Phật, chư vị A-La-Hán.

Năng lực 7 Giác Chi của các tâm không tham sân si không khác nhau, như một, cho nên người ta lầm tưởng nó là Đại Ngã, rồi Tiểu Ngã là từng cá nhân. Nhưng không phải thế. Năng lực 7 Giác Chi của các tâm không tham sân si tương ưng nhau. Có giống nhau mới tương ưng. Khi hai người giống hệt nhau thì không có gì để nói có khác nhau.

Ba Minh cũng vậy, nó tương ưng với nhau nhưng vẫn hai người, vẫn là nhiều người chứ đâu có hoà lẫn nhau thành một khối được. Nó chung khối nhưng không hoà. Con không tham sân si, Thầy cũng không tham sân si, hai người vẫn là hai người chứ đâu thành một được. Chẳng khác gì hai đứa sanh đôi, gương mặt chúng không có gì sai khác nhau nhưng hai đứa chứ đâu phải một, nó chỉ giống nhau thôi. Ở đây ý thức phàm phu không thể hiểu được và cũng không có ngôn ngữ để diễn đạt “Mình với tôi tuy hai mà một, tôi với mình tuy một mà hai.”

Lực của 7 Giác Chi bằng nhau, không khác, không nhiều hay ít hơn. Trong 7 Giác Chi thì có Khinh An Giác Chi. Khi nó muốn biết khinh an thì nó dùng Trạch Pháp Giác Chi để trạch pháp cho Khinh An Giác Chi xuất hiện ra, thì nó biết khinh an. Khi không cần biết khinh an thì Khinh An Giác Chi vẫn còn đó. Cho nên nó hay lắm. Khi không cần thiết thì không có cái biết ở trong đó. Khi nó không thành cái biết thì nó không biết, nhưng khi nó trạch ra thành cái biết thì nó biết.

Khi lực 7 Giác Chi muốn biết một cái nó cần biết, thí dụ nó muốn biết khinh an thì nó xuất hiện trạng thái khinh an liền. Nó thực hiện các Giác Chi mà không cần cái thân nhân quả này đâu. Nó hay ở chỗ đó. Nó không có cái biết, nhưng khi muốn biết thì nó trạch pháp ra nó biết bởi vì trong 7 Giác Chi có Trạch Pháp Giác Chi mà Trạch Pháp Giác Chi thì có năng lực trạch ra các pháp.

Như bây giờ Thầy nhập Tứ Thiền thì trạng thái Tứ Thiền có trạng thái không thở, nghĩa là hơi thở tịnh chỉ. Chỉ người có năng lực 7 Giác Chi, trong đó có Trạch Pháp Giác Chi, mới nhập được Tứ Thiền. Khi Trạch Pháp Giác Chi tác ý ra hơi thở thì bắt đầu có hơi thở thở liền! Tại hơi thở là Pháp của 7 Giác Chi mà vì thân lúc bấy giờ đang không thở nên nó trạch pháp hơi thở là thân có hơi thở chút xíu, từ đó hơi thở bắt đầu, rồi thân bắt đầu thở chầm chậm.

Ngược lại, nghiệp lực tham sân si do ý thức bị vô minh chạy theo ngũ dục lạc tạo thành. Tham sân si thì có lực tham sân si. Lực tham sân si tương ưng với mọi người, mọi loài thú vật, tương ưng với tái sanh, vì còn có tham, sân, si thì còn tái sinh. Có tham, sân, si là có hợp duyên của cái biết trong vô minh. Và nghiệp lực  tham, sân, si điều khiển  cái nghiệp  tham, sân, si đi tái sanh . Nếu nó không tái sanh thì chắc chắn là nghiệp tham sân si này không có và nghiệp tham, sân, si này không thể tồn tại được ở trạng thái không tái sanh. Chung quanh nó toàn là nghiệp tham sân si vì thế nó tương ưng nhau cho nên hợp duyên sanh ra, mới có cái biết trong tham sân si. Khi hợp duyên đủ có thân người thì liền có ba cái biết (y thức, tưởng thức và thức thức). Cái có tham sân si thì nó cuốn theo tham muốn chứ không thể không tham muốn, không thể không tham sân si như 7 Giác Chi thanh tịnh được. Cho nên còn nghiệp tham sân si này thì không thể có lực 7 Giác Chi nên không có được cái biết của 7 Giác Chi. Chỉ khi có tu tập và tu tập đúng Chánh Pháp Phật mới thành tựu lực 7 Giác Chi. Lực không tham sân si, tức lực 7 Giác Chi, tuy không còn thân người nhưng vẫn có.

DUYÊN ĐỘ CHÚNG SINH

Khi chưa li hết dục thì dục sai mình làm bậy. Mấy người tâm còn dục, tâm chưa li dục li ác pháp hoàn toàn mà ra làm Thầy thì làm sao dạy đạo được. Khi nào li dục li ác pháp hết, tức là hoàn mãn 4 Niệm Xứ , 4 Thiền nhập được, thực hiện được 3 Minh. Chừng nào có 3 Minh, thì lúc đó mới quan sát xem nhân duyên của mình có làm thầy được hay không, độ chúng sanh được hay độ không được. Nếu có duyên thì làm việc có ích lợi cho Phật pháp, làm lợi ích cho người dễ dàng.

Nếu chưa chứng đạt 3 Minh mà cũng dạy đạo cho người thì coi chừng cả đám dẫn nhau đi vào chỗ chết mà cuối cùng không ai được lợi ích gì hết. Thí dụ con cất chùa thì coi chừng cái dục của con là ma, nó sai con làm tầm bậy. Ngoại đạo thường thường bị kẹt chỗ này hết.

Cũng có thể tạo duyên hóa độ chúng sanh được nhưng rất cực khổ. Thương chúng sanh mà tạo duyên thì phải chấp nhận khổ, không hạnh phúc gì đâu. Bởi vì cái danh lợi hết rồi mà bây giờ tạo duyên tức tạo danh thì phải thọ khổ, không thể thoát được. Có danh mới là duyên thuận lợi để dạy chúng sanh. Còn duyên tức là duyên của mình với chúng sanh có, vì vậy phải trả cho hết. Đó gọi là trả nợ.

Khi không có duyên mà muốn độ người ta, dù mình dạy đúng nhưng họ tập luyện cũng thành trật. Họ làm theo kiểu của họ, họ nhận ra cái khác, không nhận ra điều mình dạy. Chẳng hạn như Thầy nói độc cư, người ta nghe có hiểu nhưng xem nhẹ, coi thường, không sống theo. Đó là vì không duyên. Họ phải đi từ cái sai rồi sửa dần lên, sửa dần cho đến khi họ độc cư trọn vẹn mới được. Không duyên thì phải giảng tới giảng lui, nói đi nói lại cho đến khi họ thấm nhuần, họ tập luyện rồi thấy được cái tướng trạng do tập luyện có được, chừng đó họ mới tin. Không duyên, họ tập luyện trật lên trật xuống, sanh tưởng này kia đủ loại. Mình phải trải qua thời gian dài cực khổ với họ.

Còn nếu có duyên thì độ nhanh lắm. Khi nghe nói độc cư là vậy thì người ta ôm chặt độc cư, tu tập cho đến kết quả. Có duyên thì người ta chờ mình sẳn, mình chỉ khảy móng tay là họ nghe, họ ôm chặt pháp là đi vô được liền, họ chứng đạo nhanh lắm. Cũng như trong thời đức Phật, các tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất), Moggallàna  (Mục  Kiền  Liên),  Rahula  (La  Hầu  La),  Kassapa  (Ca  Diếp), Anuruddha (A Na Luật Đà)... Tất cả những vị này có duyên với Phật nên chờ khi đức Phật tu chứng, chỉ khảy móng tay là họ tu chứng, họ tu nhanh.

Khi tu chứng 3 Minh rồi thì Thầy biết được duyên của mình với chúng sanh như thế nào bằng cách dùng tuệ 3 Minh quan sát chúng sanh hiện nay có hay không có duyên với mình ở quá khứ của mình. Khi có duyên thì biết người này đang chờ, tức là họ cũng đã tu đến mức độ sắp sửa chứng, đã sẳn sàng rồi. Đó là có duyên với nhau, cho nên gặp nhau, khảy móng tay là chứng, nói một lời là ngộ liền. Họ ôm chặt pháp trong vòng nửa tháng, một tháng, hay 7 tháng là tu xong.

Nếu nói mình không duyên rồi không độ chúng sanh thì ai là người co duyên đây? Phải tạo cho họ cái duyên. Đời quá khổ, không lẽ mình tu xong, rồi bỏ đi thì tội cho đời, tội cho chúng sanh, cho nên Thầy cố gắng để dựng lại. Nhưng cố gắng thì cũng phải tạo cho có duyên chứ không phải cố gắng mà làm đại.

Nếu Hoà Thượng Thanh Từ không yêu cầu Thầy ở lại thì Thầy đã ra đi rồi. Bởi Hoà Thượng nói lời quá tha thiết “Một người tu mà chứng Đạo thì Phật pháp mới còn, chứ dù trăm vạn người tu mà không có người chứng Đạo thì cũng coi như Phật pháp không có”. Lời nói quá tha thiết. Hoà Thượng đã thấy sự lợi ích của sự tu chứng. Bây giờ mình đã làm được, lẽ nào đành lòng ra đi. Đó là cái duyên đã gieo từ khi Thầy tu chưa xong, làm cho Thầy mạnh dạn mà tu. Nếu không có duyên đó thì khi Thầy tu xong: “Ôi đời này khổ quá, không có gì đáng lưu luyến”.

Bởi vì có duyên đó nên trong tiềm thức của Thầy có một dấu ấn tình cảm, không thể bỏ đi được. Thầy mà còn ngồi đây, các con cần biết là ơn của Hoà Thượng rất lớn. Mặc dù mấy lâu nay Hoà Thượng nói Thầy đủ lời (không hay) chứ ơn của Hoà Thượng rất lớn: sách tấn Thầy tu và khi tu xong lại không bằng lòng để Thầy bỏ đi. Phải nói cái duyên hay thiệt. Người tu xong rồi thì người ta suy nghĩ cái duyên qua khía cạnh tốt thôi, không bao giờ có ý nghĩ xấu.

Thật sự ra câu nói của Hoà Thượng cũng chỉ vô tình thôi. Hoà Thượng nói theo cảm nghĩ của Hoà Thượng trong một lúc Thầy trò đang ngồi nói chuyện tâm tình như Thầy và con bây giờ chứ không phải Hòa Thượng chủ ý sách tấn riêng Thầy hay ai khác, mà thầm ý nói Hoà Thượng cũng là người sẽ tu chứng trong pháp môn Hoà Thượng đang giảng dạy. Thường người dẫn đường đã đến nơi hay biết rõ đường mới dẫn người khác đi. Nhưng khi nghe Hoà Thượng nói vậy Thầy mới quyết tâm vì Phật pháp mà nỗ lực tu tập.

Còn bây giờ chính Thầy chủ ý, chủ tâm sách tấn các con đó. Bằng mọi cách lúc này lúc khác, hình thức này hình thức khác để các con thấy được Chánh Pháp của Phật mà nỗ lực tập luyện.

SƠ LƯỢC ĐƯỜNG LỐI TU HỌC PHẬT GIÁO

Đây là đại cương đường lối tu học Phật giáo. Một giáo trình tu học từ cư sĩ tới tu sĩ.

Thầy thấy muốn giúp đỡ cho người tu học Phật giáo thì cần thiết phải soạn thảo một giáo trình tập luyện từ lớp thấp trong chiếc áo người cư sĩ cho tới lớp chuyên sâu trong chiếc áo của người tu sĩ. Giáo trình này phải có đủ 8 giai đoạn học tập tu luyện theo đúng chân lý của 8 Chánh Đạo thì mới đúng đường lối Phật Giáo.

Người cư sĩ sẽ vào học đầu tiên là lớp Chánh Kiến, xây dựng cho người cư sĩ có cái nền cuộc sống đạo đức. Các oai nghi tế hạnh cũng chỉ bắt đầu có từ lớp Chánh Kiến và Chánh Tư Duy. Giáo trình những lớp đó dựa vào những bài kinh nào. Thí dụ muốn soạn giáo trình cho lớp Chánh Kiến thì ta thấy trong những bộ kinh Nguyên Thuỷ đâu có phân chia sẳn những bài kinh nào thuộc lớp Chánh Kiến. Phải đọc rồi phải tư duy xem bài kinh nào là Chánh Kiến, bài nào là Chánh Tư Duy,... rồi lấy những bài kinh đó ra. Sau khi kết hợp những bài kinh đó thành một nhóm thuộc lớp Chánh Kiến rồi lập thành một giáo trình. Việc này không phải là việc dễ dàng của chỉ một vài người. Công trình này không khác gì công trình của Bộ Giáo Dục. Nếu giáo trình này được hoàn tất thì nó sẽ mang lại lợi ích lớn cho mọi người.

Người cư sĩ vào học những lớp này khi ra lại đời sống thế gian thì gia đình họ rất hạnh phúc. Đạo Phật là chân lý của cuộc đời, nếu được triển khai và đưa vào áp dụng trong đời sống thì quá hay. Nhưng từ xưa cho đến giờ các Tổ, Thầy của chúng ta đi lạc đường nên không làm. Chứ phải chi đạo Phật từ khi ra đời đã có người làm cái này thì bây giờ công việc nhẹ nhiều lắm. Giờ đây Thầy mới bắt đầu khởi sự để Phật giáo đi vào cái có nề nếp thật sự, không còn bị sai lạc nữa.

Ngày xưa người ta nghĩ tu rồi người ta ảnh hưởng thế này thế khác, trong khi đó đức Phật đưa ra chân lý Đạo Đế có 8 lớp thì người ta lờ đi, không dùng 8 Chánh Đạo này. Người ta cũng nói 8 Chánh Đạo nhưng nói trong cái chung chung, cho nên mọi người không biết đâu là đường hướng để tu học. Bây giờ, sau khi tu xong rồi, Thầy mới thấy trách nhiệm quá nặng mà nếu Thầy không chỉnh đốn thì tội nghiệp cho nhân loại, mà chỉnh đốn thì Thầy phải chịu vất vả. Nếu Thầy không làm thì không ai làm đâu vì đâu ai biết mà làm.

Thầy sẽ khởi đầu rồi sau này sẽ có người tiếp tục, chứ công việc này là việc lớn lao. Đây là công trình giáo dục con đường giải thoát, nhưng hiện giờ không có người có khả năng làm. Thật sự thì có nhiều người có khả năng tổ chức như các chùa, trình độ họ đủ để làm những việc đó. Nhưng đường giải thoát là đứng trong ngành đào tạo giáo dục, không phải ngành tu trong các chùa như hiện giờ.

Nếu đợi cho các con tu xong thì thật ra giới là điều quá khó đối với các con vì nó khép chặt các con trong khuôn khổ. Đó là điều mà đức Phật đã nói “Đừng buông bỏ gánh nặng thiện pháp” , phải ôm cái thiện này mà đi. Thiện pháp nặng lắm cho nên dễ buông bỏ. Ví như ăn ngày một bữa nó nặng lắm, ngủ thức giờ giấc nghiêm chỉnh, nó nặng lắm chứ đâu phải nhẹ; sống độc cư trầm lặng cũng nặng lắm. Tất cả những cái như thế là những thiện pháp, chúng rất nặng, chúng làm cho người ta khó theo. Người tu bây giờ không chịu nổi gánh nặng thiện; nếu là gánh nặng ác pháp thì chắc chắn ai cũng sợ, không ai không buông; đằng này gánh nặng thiện cho nên họ không ôm được, dễ buông ra.

Thật sự đó là thiện pháp, nên từ ngày mở Tu Viện Thầy mong đào tạo chừng 5, 10 người để phụ giúp với Thầy xây dựng giáo trình này mà mọi người đều “buông bỏ gánh nặng thiện pháp” cho nên không có người chứng đạo, thành ra cuối cùng Thầy phải chịu một mình.

Bây giờ Thầy xây dựng đạo đức cho con người tại vì chưa có người để cùng Thầy xây dựng giáo trình tu học Tám Chánh Đạo, từ Chánh Kiến đến Chánh Định. Chưa có người, thôi thì Thầy soạn bộ sách “Đạo Đức Làm Người” này may ra người ta biết được đạo đức nhân bản nhân quả thì chắc cũng đỡ được phần nào. Thầy chỉ hi vọng vậy thôi. Các con tu xong được rồi thì đó là cái phước rất lớn cho chúng sanh. Lúc đó sẽ chia công tác ra làm. Những người đó đều chứng Tam Minh, đưa cho mỗi người cả 4 bộ kinh: Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ. Lúc đó người này chọn bài kinh nào là thuộc về Chánh Kiến, còn người khác thì chọn bài kinh nào là thuộc về Chánh Tư Duy... Mỗi người nghiên cứu tạng kinh Nguyên Thủy, xáo trộn hết và sắp xếp lại, rút ra những bài kinh nào liên quan lớp nào của Bát Chánh, gom lại để đưa cho người nào phụ trách lớp đó. Rồi mỗi người soạn thảo giáo trình của từng ngành Bát Chánh. Người nào làm phần nấy. Ai lãnh phần Chánh Kiến thì soạn giáo trình lớp Chánh Kiến; ai Chánh Tư Duy thì lo giáo trình lớp Chánh Tư Duy; rồi Chánh Ngữ; Chánh Nghiệp; Chánh Mạng; Chánh Tinh Tấn; Chánh Niệm; Chánh Định, để dạy người ta thông hiểu sao gọi là Chánh Kiến, sao là Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định. Người nào muốn vào lớp Chánh Định thì phải học vậy học vậy, nhưng phải qua lớp Chánh Niệm mới vô lớp Chánh Định được. Lớp Chánh Niệm có những gì thì đã được người phụ trách soạn ra rồi. Đấy, đi như vậy thì cuối cùng người ta phải đến giải thoát thôi.

Như vậy là lập ra sơ đồ con đường tu học, đầy đủ các lớp, đầy đủ nội dung từng lớp.

Thầy dạy cho các con tập luyện là đúng với Chánh Pháp của Phật. Thực tế và trực tiếp, ngay trên tham, sân, si mà đẩy lui nó bằng sức tĩnh giác, bằng sự tĩnh giác rõ ràng, chứ không phải lơ mơ, không phải ức chế để không niệm. Tâm đi dần cho đến không niệm thì nó thanh tịnh.

Trong vấn đề tập luyện, các con phải rõ, không nên mù mờ. Các con tu như hiện giờ là vô ngang mà thôi chứ không phải có trường lớp hẳn hòi, từ lớp thấp lên lớp cao. Lẽ ra người mới vào thì phải đi từ lớp Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ... phải học từng bước mỗi cái đó, chứ không phải mới vô mà đưa ngay Chánh Niệm và tập luyện ngay Định Niệm Hơi Thở liền. Không phải vậy. Như vậy là sai, là mất căn bản. Nhưng bây giờ tạm thời dạy như vậy để người nào quyết chí giữ gìn đúng những đức hạnh thì đưa những người này đi tới, cũng như những người này vượt lớp. Còn những người nào phạm giới thì chẳng khác gì là những người lót đường cho người đi sau. Nghĩa là những người sau mà không chấp nhận phải có giới như vậy mới tập luyện thành công được thì chỉ cho họ thấy gương những người đi trước này đã phạm giới như thế nào và sự tập luyện của họ bị thất bại như thế nào.

Không phải mình bắt người đó hi sinh lót đường, nhưng khi vô trong Tu viện tu tập là họ tự ý phải giữ giới. Họ không giữ giới là tự làm vật lót đường cho người sau. Có vậy thì Phật giáo mới bật sáng lên được. Đó là sự khéo léo hiểu biết của Thầy ở điểm này. Thầy nghĩ tới đâu, làm tới đâu thì nó đúng y, rõ ràng lắm. Thầy biết cách để chuẩn bị trước mọi việc. Cho nên có người nói trước kia Thầy dạy khác, bây giờ Thầy dạy khác. Không phải vậy. Thầy dạy trước sau như một, không khác. Nếu người nào vô đây cũng giữ đúng hạnh, đúng giới luật hết thì làm sao có những chuyện thất bại đã xẩy ra được. Cái thất bại của người đi trước lại là cái gương sáng cho người đi sau.

Còn pháp quán bất tịnh, quán xương trắng tức tư duy, suy nghĩ Chánh Kiến thì nó ở lớp thứ hai rồi. Đây là ở chỗ ngăn ác diệt ác của 4 Chánh Cần. Nó thuộc Định Vô Lậu mới tư duy quán xét. Nó không nằm trong 4 Niệm Xứ, nên nếu tập luyện theo 4 Niệm Xứ thật sự thì sai. Tuy quán thân bất tịnh thì cũng phải trên thân quán thân, tức ở trên 4 Niệm Xứ, nhưng quán này thuộc Định Vô Lậu tức là nằm trong lớp Chánh Kiến, chớ không phải là lớp Chánh Niệm.

Phật pháp rất rõ ràng. Khi nào giáo trình và giáo án viết xong thì tất cả các thứ lớp mới hiện ra rõ. Chưa ai soạn nên người ta không thấy. Tuy Thầy biết như thế, nhưng trong lúc này chưa làm hết công việc được.

Trong Tương Ưng có kinh nói về tham dục. Bây giờ mình nói thân, thọ, tâm, pháp này không phải của mình. Nói như vậy được nhưng không phải chỉ nói như thế mà tham dục diệt. Không diệt được tham dục đâu. Không diệt được thì tham dục là của mình, tức có ngã rồi. Cho nên đức Phật nói chỉ cần hết tham dục thôi thì ngay đó quả A-la-hán tới liền. Vì khi thân, thọ, tâm, pháp không còn là của mình nữa thì đó là chứng quả.

Thí dụ bây giờ tâm khởi muốn đi, muốn nói chuyện tức là dục. Đó là tham dục. Tham dục có là có cái ngã của mình liền, chứ không thể vô ngã được. Cho nên phải chận tham dục, phải cắt đứt tham dục ngay liền thì sắc, thọ, tưởng, hành, thức này cũng sẽ bị hủy diệt luôn, không còn có nữa, không còn tác động gì được hết. Cái đó rất hay mà ngắn gọn.

Tu, phải nói rất là tuyệt vời. Khi đã tu rồi thì thấy bài kinh nào cũng hay, pháp nào cũng tuyệt; mà không tu thì thấy mấy bài đó cô đọng quá, chỉ có một đoạn ngắn như vậy thì hay chỗ nào. Không hiểu nổi kinh để áp dụng tập luyện đâu.

Muốn đạt kết quả đường tu thì các con cần tập luyện Định Vô Lậu là định quán xét phải xong trước. Sau đó mới tới những định khác, từ Định Niệm Hơi Thở cho tới Thân Hành Niệm, thì mới thấy pháp Phật thật là quá tuyệt vời! Nếu cái căn bản là quán Định Vô Lậu không có, thì ngăn chặn tham dục không nổi, không thấy được tham dục nữa chứ nói chi đến ngăn chặn. Đức Phật đúng là người đầy đủ kinh nghiệm trong sự ngăn chặn tham dục.

Lớp quán bất tịnh phải quán cho xong trước. Nó là lớp đầu tiên. Khi bắt đầu mới vô người ta dạy cho mình cách thức quán, dùng tưởng để quán. Mặc dù đoạn kinh đó nằm bên 4 Niệm Xứ nhưng là 4 Niệm Xứ của giai đoạn 4 Chánh Cần, tức là lúc mới bắt đầu tập luyện.

Nói chung con đường tập luyện đều nằm trên 4 Niệm Xứ hết. Nhưng 4 Niệm Xứ ở giai đoạn đầu thì có 4 Chánh Cần (ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp), có Định Vô Lậu.

Cho nên khi phân nhóm pháp tập luyện để dạy trong các cấp lớp thì cần biết pháp đó nằm trong nhóm nào, rồi lấy nó ra, đưa vào đúng lớp đó.

Đây là 4 Niệm Xứ nhưng nằm trong nhóm 4 Chánh Cần. Rồi 4 Niệm Xứ nằm trong nhóm Niệm Hơi Thở. Bởi hơi thở cũng nằm trên thân. Do đó mình phân các pháp ra thành từng nhóm cho rõ ràng.

Theo pháp Phật thì có: Định Thư Giãn, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Vô Lậu, Định Niệm Hơi Thở. Đức Phật dạy trong bài kinh 4 Niệm Xứ thì các cái này đều nằm trong 4 Niệm Xứ đó. Tất cả đều nằm trên 4 Niệm Xứ.

Bây giờ con học các kinh thì thấy dường như tu hành dẫm chân tại chỗ, không biết đường nào để tập luyện lên. Nhưng khi giáo trình được soạn xong, con sẽ thấy rõ ràng vô cùng. Thí dụ căn cứ vào chân lý 4 Diệu Đế thì chúng ta xác định được phương pháp của tất cả 37 phẩm Trợ Đạo đều nằm trong Đạo Đế, tức 8 Chánh Đạo.

Bốn Niệm Xứ cũng nằm trong 8 Chánh Đạo, chớ không ngoài. Nên nhớ khi nói 4 Niệm Xứ thì đức Phật xác định nó là Chánh Niệm, mà Chánh Niệm là một trong 8 Chánh Đạo. Khi nói 4 Thiền hay 4 Thánh Định thì đức Phật nói định trong Chánh Định. Còn nói 4 Chánh Cần thì đức Phật nói Chánh Tinh Tấn. Thật là quá rõ ràng.

Tu tập 4 Chánh Cần, cũng như tu tập Chánh Niệm thì có nhiều pháp trong đó; nhưng mỗi pháp lại ở trong nhiều nhóm, chứ không phải chỉ ở trong một nhóm. Mỗi nhóm có cách thức tập luyện riêng của nhóm đó. Nếu không biết thì cứ tập luyện lẫn lộn, tới lui hoài. Cứ lúc nào cũng ngồi quán thân, quán thọ, quán tâm, quán pháp, rồi nói tu chứng. Đâu biết phân chia các pháp tu theo từng giai đoạn.

Không phải hiểu theo kiểu như thế rồi cứ ngồi tập luyện nhóm đó hoài. Cần phải biết nhóm đó tập luyện ở giai đoạn nào, lúc khởi đầu hay cuối cùng. Không phải muốn tập luyện là ngồi tập luyện ngang thế được. Tại người ta không (có) kinh nghiệm tu chứng mà chỉ phân tích chữ nghĩa rồi cứ tập luyện theo kiểu hiểu chữ nghĩa thành ra không đi tới đâu hết. Cuối cùng không ông nào biết đường, đành dẫm chân tại chỗ, tập luyện không kết quả.

Khi đã được chia nhóm rồi thì ở trên 4 Niệm Xứ lúc này đức Phật nói vậy thì phải tu học như thế nào. Rồi tới bài Thân Hành Niệm thì phải biết khởi đầu tu tập Thân Hành Niệm như thế nào, đến cuối của Thân Hành Niệm tu tập như thế nào; 4 Niệm Xứ khởi đầu là những pháp gì, đến cuối là những pháp gì. Phải phân nhóm ra, nhóm đó học ở lớp nào. Nhóm 4 Niệm Xứ này thì ở lớp Chánh Kiến; nhóm 4 Niệm Xứ này lại ở lớp Chánh Tư Duy; nhóm 4 Niệm Xứ này lại ở lớp Chánh Ngữ...

Chúng ta sẽ đưa ra chương trình như vậy. Chứ đâu phải tập luyện lộn xộn như hiện nay. Tập luyện 4 Niệm Xứ mà cứ tập lung tung, không ở trong 8 Chánh Đạo. Chánh Đạo thì phải trong 8 Chánh Đạo, chứ không thể nằm ngoài 8 Chánh Đạo được.

Cho nên các con cần nhớ khi tu tập đến 4 Niệm Xứ mà thật sự là 4 Niệm Xứ thì không phải ngồi mà quán. Bởi vì hiện giờ người ta dạy tập luyện 4 Niệm Xứ thì quán nào bất tịnh, nào thực phẩm trái cây bất tịnh, nào xương trắng bất tịnh, này kia đủ thứ... Rồi tới pháp Thân Hành Niệm thì cũng dạy vậy. Kinh Hành Tĩnh Giác thì đi kinh hành tới lui đủ thứ này kia. Định Niệm Hơi Thở thì chỉ có nói phần hơi thở thôi. Vì họ căn cứ vào văn từ chữ nghĩa. Ở trong 4 Niệm Xứ cũng dạy hơi thở, mà ở bài Thân Hành Niệm cũng dạy hơi thở. Thấy cái nào cũng gần giống nhau hết. Cho nên người ta bị rối ren, không biết ở trên 4 Niệm Xứ phải tập luyện như thế nào, hoặc tập luyện Định Niệm Hơi Thở, hay Thân Hành Niệm phải như thế nào. Người ta tổng hợp hết tất cả mọi cái, cái nào cũng tương tự nhau, cũng quán xương trắng, cũng quán bất tịnh thì biết tập luyện làm sao.

Thật ra không phải thế. Khi đức Phật nói Thân Hành Niệm cấu kết như cỗ xe thì nó khác rồi. Nó không còn ở trong 4 Niệm Xứ theo kiểu 4 Niệm Xứ ngồi chơi. Không còn tập luyện như vậy nữa đâu.

Vì thế, công việc của Thầy quá nhiều. Sau khi bộ Đạo Đức Làm Người tức là nền tảng đạo đức của Phật Giáo được ra đời xong rồi thì Thầy mới soạn thảo giáo trình các lớp.

Nhóm nào ở trong 4 Niệm Xứ mà được học ở lớp Chánh Kiến. Thầy mới lấy ra, đưa vào trong lớp Chánh Kiến. Nhóm nào của 4 Niệm Xứ mà thuộc lớp Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định, Thầy đưa ra đủ từng cấp lớp hết để người ta tập luyện. Sau khi đạt kết quả của nhóm đầu mới được vào tập luyện nhóm kế. Cũng như ngoài đời các trẻ học lớp 1 xong, nhờ căn bản lớp 1 này mới vào học lớp 2 và lần lượt các lớp kế tiếp. Lớp này xong mới lên lớp trên. Có vậy mới học được. Giáo trình đạo Phật cũng thế, cũng có từng lớp, từng cấp; tu học xong lớp thấp mới lên lớp cao hơn; tu học xong lớp cao mới lên lớp cao hơn nữa. Khi các con tu học xong các lớp Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng thì người ta không làm động các con được, mà các con cũng không làm động người ta.

Vì thế khi tu xong Thầy thấy như đứng trên chóp núi nhìn xuống. Thấy từ ngàn xưa, sau khi đức Phật nhập diệt, cho đến ngày nay, nếu có người thật sự tu chứng đạt 3 Minh thì chúng ta đã có giáo trình 8 lớp đúng theo 8 Chánh Đạo để tập luyện rồi. Chúng ta khỏi bị điên đảo như hiện giờ. Vì chưa có người tu chứng nên không có người làm được. Bây giờ Thầy là người mới khởi sự đầu tiên cho nên công việc rất nhiều, rất bề bộn. Thầy ráng giữ gìn sức khoẻ để kéo dài tuổi thọ đến đâu hay tới đó. Thầy mong có một vài người tu xong sớm để cùng Thầy làm việc này và nhiều việc khác nữa.

TÀ THIỀN VÔ SẮC VÀ CHÁNH THIỀN HỮU SẮC

“Kính xin Thầy có thể cho con biết trong 9 năm Thầy tu theo pháp Tri Vọng đạt được Không Vô Biên Xứ rồi đạt luôn Thức Vô Biên Xứ; vậy công trình đó làm sao Thầy làm được, Thầy đã làm thế nào để lọt vào Không Vô Biên và Thức Vô Biên?”

Từ chỗ ức chế không niệm thiện niệm ác mà vào nên nó lọt vào Không. Không đó không nằm yên chỗ không mà sau đó chuyển tới Thức tức là cái biết của chúng ta, nhưng cái biết đó không phải là ý thức mà chỉ là tưởng thức, vì vậy nó có 6 cái tưởng hiện ra (sắc tưởng, thanh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng). Thức Vô Biên Xứ chẳng qua là pháp tưởng, nó hiện ra thì thông suốt hết tất cả, cái gì cũng ở trong sự thông suốt; kinh sách gì, câu nói gì khó hiểu, nó cũng hiểu qua được hết; công án nó cũng phá vỡ hết. Nó tuyệt vời thế đó, cho nên trong nhà thiền lầm tưởng cái trí tuệ siêu việt tưởng đó là trí tuệ thực. Thật ra nó chỉ hiểu biết trong cái tưởng thức mà thôi, không chân thực hiểu thật tướng của vạn pháp.

Để lọt vào Không Vô Biên thì khi ngồi tu cố gắng ức chế để không còn một niệm thiện niệm ác nào trong đầu của chúng ta, rồi kéo dài cái niệm đó mà không lặn vô buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê. (Ghi thêm: Trong Tạng Thư Sống Chết –bản dịch của Ni Sư Trí Hải- có giải thích cái Định là kéo dài khoảng hở giữa niệm đi trước và niệm đi sau. Kéo dài và trú vào khoảng hở đó là đạt được định. Như vậy không khác với Không Vô Biên Xứ mà Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã đạt).

- “Nhưng làm sao ức chế để không có niệm khởi. Con xin được hiểu cách thức”.

Muốn tu tập không niệm khởi, Thiền Tông có nhiều cách thức tu ức chế tâm như: Sổ tức, Tùy tức, Chỉ tức, Tri Vọng, Chăn trâu, Gọi ông chủ, Tham thoại đầu, Tham công án, Niệm Phật nhất tâm, v.v... Nam Tông có pháp môn ức chế Minh Sát Tuệ (phình xẹp nơi cơ bụng).

Thầy có cái duyên đặc biệt. Hồi ra Chơn Không tu, Thầy đang là một tăng sinh chưa bao giờ tu thiền, được Hoà Thượng dạy “Biết Vọng Liền Buông”, không phải nương vào hơi thở. Vậy mà ngay giờ đầu ngồi thiền đó Thầy đã đạt được suốt 30 phút không có một niệm khởi. Tự nhiên Thầy đã có căn bản cao vậy đó. Người ta ngay cả chỉ vài phút không niệm thôi mà họ còn làm không được dù có cố gắng cao, trong khi Thầy dễ dàng làm được trong suốt cả nửa giờ. Như vậy con thấy sức tập trung của Thầy cao như thế nào. Thầy đã có một hệ thần kinh vững vàng không ai biết. Cho nên nó đã thâm sâu sẵn rồi Thầy mới vô được vậy. Thế mà với căn bản đó, Thầy đã phải trải qua suốt 9 năm trời cật lực ra công tu tập thực hiện cho bằng được pháp Tri Vọng của Hoà Thượng. Đến khi nó xuất hiện đủ 18 loại hỉ tưởng thì lúc đó là lúc pháp tưởng xuất hiện ra. Thầy thấy toàn bộ các công án bị phá vỡ hết. Thầy hiểu tất cả. Khi đó Thầy biết đã tu xong pháp Tri Vọng rồi. Nhưng lúc xả thiền ra, nhìn lại thì tâm tham sân si vẫn còn. Thầy đau lòng hết sức, hận mình đã tu với toàn lực cố gắng, cuối cùng được kết quả này mà sao nó chẳng hết tham sân si.

- “Thưa Thầy, trạng thái tâm của Không Vô Biên Xứ có tương tự với trạng thái tâm thanh tịnh của bốn Thánh Định hay khác nhau?”

Không niệm của Bốn Thánh Định thì khác hơn. Trạng thái tâm thanh tịnh của bốn Thánh Định là trạng thái không niệm dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu của Bất Động Tâm chứ không phải không niệm thiện niệm ác. Không niệm thiện niệm ác chỉ là không niệm, là không. Trạng thái tâm thanh tịnh mà không do li dục li ác pháp thì đây chỉ là trạng thái ý thức không niệm. Từ ý thức không niệm này đi vào Không Vô Biên Xứ mới được. Người này tâm phàm tục vẫn còn, chỉ đạt được ý thức không khởi vọng niệm thôi. Từ chỗ ý thức không vọng niệm thì trạng thái Không mới hiện ra, chứ không phải khi đạt được trạng thái ý thức không niệm mà nó đứng đó hoài. Tới đó thì hiện ra trạng thái Không, là trạng thái Không Ngơ, hoàn toàn không có cái gì hết, nhưng ta vẫn biết cái Không đó. Nó không nhà, không cửa, không cây cối người vật. Không mọi thứ. Nó biết rõ hết nhưng nó chỉ biết Không, ngoài ra không còn biết gì nữa hết. Tự trạng thái đó làm cho ta thấy không hết, không có niệm, không có khởi ý ra, thí dụ “À, giờ tôi muốn biết cái này, hay cái kia”. Không khởi ý được. Không biết được. Không là nó không thôi. Ở đó chỉ còn cái biết Không thôi chứ không còn cái gì nữa hết.

- “Và trạng thái tâm thanh tịnh của Thân Hành Niệm khi xuất hiện và trạng thái tâm Không này?”

Khác xa nhau. Thân Hành Niệm không niệm mà có cái lực hiện ra. Khi tâm không niệm thanh tịnh, nó vắng lặng rồi, nhưng các pháp khác tác động ta vẫn nhận biết và còn xuất hiện lực của 7 Giác Chi ra nữa, nghĩa là con có cái tâm vắng lặng thanh tịnh mà nhận biết được tất cả mọi việc. Ví dụ: nước hồ mùa thu trong veo, nhìn thấy tận đáy: cá, tôm, rùa, ốc, sỏi đá đều thấy tất cả, không có một vật gì mà không thấy. Tâm vắng lặng thanh tịnh Thân Hành Niệm cũng trong sáng có cái biết đầy đủ rõ ràng như thế. Tâm của Thân Hành Niệm không khởi niệm, thanh tịnh mà nó còn nhận biết ra cái này cái kia được. Cái lực đẩy (lực của Tinh Tấn Giác Chi) nó cũng biết; nó biết lực đó ra sao, lực đó đẩy ra sao. Niệm khác ra sao nó cũng biết được rõ ràng. Khinh an, hỉ lạc xẩy ra trong thân ta ra sao nó cũng nhận biết rõ. Nó biết hết nhưng mà nó vắng lặng vì nó không khởi niệm. Ở mức này có thể hiểu được như là trạng thái thanh tịnh của tĩnh giác. Sự Thanh Tịnh Tĩnh Giác này có được là do công phu tu tập của nhiều pháp môn đưa lại kết quả này và đồng thời nó có lực là do pháp Như Lý Tác Ý sanh ra. Bởi vì trong pháp Thân Hành Niệm có pháp Như Lý Tác Ý, khi hướng tâm là ta làm chủ, ta muốn cái gì là làm được cái ấy. Trạng thái này đức Phật gọi là Tâm Bất Động hay Bất Tử Tâm.

Còn Không Vô Biên Xứ cho dù có cái lực đẩy đó (không thể có được, đây chỉ thí dụ thôi) nó cũng không biết. Nó chỉ biết không thôi, không nhận biết được cái gì cả. Toàn bộ chỉ biết không thôi, tại thức của ta lúc đó chỉ biết nhận biết Không mà không còn nhận biết được bất kỳ cái gì nữa. Cho nên mới gọi là Không Vô Biên Xứ.

Tâm Thanh Tịnh Tĩnh Giác và Không Vô Biên Xứ cách tu hoàn toàn khác xa nhau, hoàn toàn không có gì giống nhau, xa rời hoàn toàn. Vì thế người tu Không Vô Biên không có điều kiện để làm chủ sanh tử được. Bên Không Vô Biên Xứ vô Không rồi thì không thể khởi ý muốn cái gì được, không làm được cái gì cả vì nó chỉ nhận biết không thôi. Nó không có cái thức nhận ra được cái gì thì làm sao muốn làm cái gì được, và làm sao làm được cái gì. Đây chính là căn bản mà Đức Phật xem nó và tất cả các bậc thiền Vô Sắc là Tà (tà định: Không Vô Biên, Thưc Vô Biên, Vô Sở Hữu, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng) vì không đưa đến giải thoát luân hồi. Cho nên mặc dù đức Phật đã gia công tu tập chứng đạt tất cả các bậc thiền vô sắc này chẳng khác gì các vị thầy dạy đức Phật, nhưng Ngài đã vất bỏ tất cả để tìm đường khác và Ngài đã tự tìm ra Thiền Hữu Sắc, tức 4 Thánh Định gồm Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền, mới diệt tận tham sân si để giải thoát sanh tử luân hồi.

- “Thưa Thầy như vậy thì từ Không Vô Biên nó chuyển hướng về Thức Vô Biên; từ Thức Vô Biên nó chuyển về Vô Sở Hữu; từ Vô Sở Hữu nó chuyển về Phi Tưởng Phi Phi Tưởng?”

Chỉ đi hướng đó thôi, không có cách nào nữa hết. Mà lúc Thầy vào Thức Vô Biên, phải nói cái tưởng kinh thật, nó thực hiện kinh thật chứ không phải tầm thường...

Đức Phật nói khi chứng được Thiền Hữu Sắc rồi thì vào các Thiền Vô Sắc rất dễ. Quả đúng vậy. Bởi vì khi tác ý bằng Lệnh Tác Ý thì nó vào các trạng thái Thiền đó liền, rất dễ, rất đúng, không trật. Muốn vào Định nào thì nó vô ngay là vì ta có Định Như Ý Túc, ta có Lệnh Tác Ý, nói đúng cái tên Định nào thì nó vô ngay Định đó. Bảo “Vào Không Vô Biên Xứ” hay “Vào Thức Vô Biên Xứ” thì nó thực hiện cho ta vào ngay Không Vô Biên Xứ hay Thức Vô Biên Xứ. Chỉ nói tên của Định nào thì nó tự đưa ta vào dù ta chưa kinh nghiệm các trạng thái đó ra sao hết.

Trong tâm của ta đã cấu kết sẳn hết các trạng thái Định rồi. Khi tu xong Thầy mới thấy rõ các ông Tổ này...

–  HẾT PHẦN 1 –

PHỤ LỤC: GIỚI NIỆM HƠI THỞ RA, HƠI THỞ VÔ

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống Giới Hành Niệm Hơi Thở Ra, Hơi Thở Vô nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: Giới Đức, Giới Hạnh và Giới Hành của nó.

Giới Đức Giới Hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh Nghiệp.

Giới Hạnh Giới Hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô là những lời dạy về Phạm Hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh Nghiệp.

Trước khi muốn tu tập về giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô thì ta hãy lắng nghe lời đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập về niệm hơi thở vô, hơi thở ra, làm cho sung mãn, nên được quả lớn, được lợi ích lớn.
Và này La Hầu La, thế nào là tu tập niệm hơi thở ra, hơi thở vô làm cho sung mãn nên được quả lớn, được lợi ích?”.

Vậy làm cho sung mãn như thế nào? Được quả lớn, được lợi ích lớn như thế nào?

Chữ sung mãn có nghĩa là đầy đủ, sung túc, tràn đầy, dư thừa không thiếu hụt. Trước khi thực hiện nghĩa này thì phải tập an trú tâm trọn vẹn trong hơi thở tức là biết hơi thở vô, hơi thở ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái, an lạc. Đó là làm cho tràn đầy sung túc, dư thừa, không thiếu về niệm hơi thở.

Quả lớn có nghĩa là kết quả to lớn của sự tu tập về hơi thở vô, hơi thở ra. Quả lớn còn có nghĩa là kết quả của sự tu tập đạt được sự giải thoát một cách cụ thể rõ ràng, hay nói cách khác là làm chủ được sanh, già, bệnh, chết tức là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.

Được lợi ích lớn là gì?

Lợi ích lớn có năm nghĩa là:
1: Đời sống được an vui, hạnh phúc không có ác pháp nào làm giao động được tâm, tâm luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự, thường thản nhiên trước mọi dục lạc thế gian, mọi sự cám dỗ vật chất, mọi ác pháp, v.v...
2- Làm chủ được tuổi già có nghĩa là khỏe mạnh quắc thước như một thanh niên cường tráng.
3- Làm chủ được mọi bệnh tật không sợ ốm đau như người thường tục.
4- Làm chủ được sự sống chết, muốn sống thì sống, muốn chết thì chết.
5- Chấm dứt tái sanh luân hồi.

Đây là năm điều lợi ích lớn của kiếp sống làm người do tu tập hơi thở vô, hơi thở ra mang lại.

Vậy trước khi muốn tu tập giới hành hơi thở vô, hơi thở ra thì chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Ở đây này La Hầu La, vị Tỳ khưu đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô, tĩnh giác vị ấy thở ra”.

Khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống là địa điểm để tu tập, có nghĩa là tìm nơi chốn yên tịnh, vắng vẻ để tu tập hơi thở vô, hơi thở ra. Nếu địa điểm không tìm được như đức Phật đã dạy, thì sự tu tập về hơi thở vô hơi thở ra rất khó khăn. Quý vị lưu ý và xin nhớ kĩ những lời dạy này, vì rất cần thiết cho sự tu tập. Quý vị đừng cho rằng bất cứ nơi đâu tu cũng được. Nếu vậy thì đức Phật dạy điều này để làm gì? Có quan trọng đức Phật mới dạy như vậy. Đừng nghe theo những lời nói: “Bất cư chỗ nào tu cũng được, tu trong bốn oai nghi, tu trong công việc làm”. Lời nói này đi ngược lại lời dạy của đức Phật, và chỉ nói suông, không tu tập được.

Ngồi kiết già là tư thế ngồi xếp bằng tréo hai chân đan vào nhau. Đó là tư thế ngồi của người tu thiền định. Tư thế ngồi này rất vững chắc để thân tâm dễ gom vào một đối tượng thân hành nội (hơi thở).

Đi, đứng, nằm, ngồi, co tay, duỗi chân, ngước nhìn, nói, nín, ăn, nhai, nuốt, hơi thở vô, hơi thở ra, v.v... đều là thân hành, nhưng phải biết rõ tất cả thân hành của thân là thân hành ngoại chỉ trừ có hơi thở là thân hành nội. Phải hiểu rõ mới có thể tu tập được.

An trú chánh niệm là ở yên ổn trong niệm chân chánh. Niệm chân chánh là gì?

Trong đạo Phật có bốn chỗ niệm chân chánh:
1/ Niệm thân.
2/ Niệm thọ.
3/ Niệm tâm.
4/ Niệm Pháp.

Chữ chánh niệm ở đây gồm chung 4 niệm, như vậy an trú chánh niệm tức là an trú trong bốn niệm. Vậy an trú trong cả bốn niệm một lần có được không? An trú bốn niệm một lần là tu tập 4 Niệm Xứ. Cho nên 4 Niệm Xứ còn gọi là 4 Chánh Niệm.

Ngoài bốn niệm thân, thọ, tâm, pháp còn có niệm nào khác nữa không?

Trên thân gồm có hai niệm:
1/ Thân hành niệm nội.
2/ Thân hành niệm ngoại.

Trên thọ gồm có ba niệm:
1/ Niệm thọ lạc.
  2/ Niệm thọ khổ.
3/ Niệm thọ bất lạc bất khổ.

Trên tâm gồm có hai niệm:
1/ Niệm tịnh.
2/ Niệm động.

Trên pháp gồm có hai niệm:
1/ Niệm thiện.
2/ Niệm ác.

Bài kinh này đức Phật đang dạy La Hầu La về hơi thở vô, hơi thở ra, vì thế chánh niệm ở đây phải hiểu là thân hành niệm nội, tức là hơi thở vô hơi thở ra. Vậy an trú chánh niệm trước mặt tức là an trú hơi thở vô, hơi thở ra ở trước mặt.

Tĩnh giác nghĩa là gì? Tĩnh giác nghĩa là biết rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ, biết rất kĩ lưỡng, biết không có mờ mịt một chút xíu nào cả. Ở đây chúng ta nên hiểu đức Phật dạy La Hầu La phải biết rất kĩ từng hơi thở vô, từng hơi thở ra.

Người giữ gìn giới hành hơi thở vô hơi thở ra có nghĩa là tu tập an trú trong hơi thở vô hơi thở ra, phải biết rất rõ ràng, không được để quên, để mất, để mờ mịt hơi thở vô ra.

Vì tâm chúng ta hay quên (vô ký) nên phải dùng pháp tác ý dẫn tâm tĩnh giác mãi mãi, làm cho tâm sáng suốt thấy biết rất rõ ràng từng hơi thở vô, ra: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. An trú được trong hơi thở là đạt được căn bản về phương pháp tu Định Niệm Hơi Thở.

Để thực hiện giới hành này chúng ta nên theo lời đức Phật dạy Tôn Giả La Hầu La mà tu tập như sau: Trước tiên chúng ta tìm nơi vắng vẻ, yên tịnh, rồi tập ngồi kiết già lưng thẳng. Sau khi tập ngồi kiết già lưng thẳng được có nghĩa là ngồi tréo chân mà không thấy khó chịu, hoặc đau hoặc tê chân chừng nửa tiếng đồng hồ thì mới đặt niệm hơi thở vô, hơi thở ra trước mặt và tác ý như sau: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Khi tác ý xong câu này ta truyền lệnh: “Hít”, truyền lệnh xong mới hít vô, tĩnh giác theo dõi rất kĩ hơi thở vô. Sau khi hơi thở vô hết ta truyền lệnh “Thở”, khi truyền lệnh xong mới thở ra và phải sáng suốt tĩnh giác theo hơi thở ra. Cứ như vậy mà tu tập 1 phút.

Nếu tu tập 1 phút mà sức tĩnh giác rất tốt, có nghĩa là trong một phút không bao giờ quên hơi thở, cũng không có một niệm vọng tưởng nào xen vào. Phải thật thuần thục ở mức một phút rồi tăng dần lên từng phút một cho đến khi đạt được 10 phút. Trong thời gian tăng dần này phải rà soát xét xem toàn bộ cơ thể có xảy ra trạng thái gì không. Ví dụ: nặng đầu, nặng mặt, choáng váng chóng mặt, v.v... Nếu có bất kỳ trạng thái nào xảy ra thì đó là đã bị ức chế tâm, khiến thân cơ bắp và thần kinh rối loạn, v.v.... Hãy nên báo cho Thầy biết để kịp thời sửa lại cho đúng cách tu tập.

Trong giới hành về hơi thở vô, hơi thở ra có 19 đề mục tu tập:

Đề Mục Thứ Nhất : “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”.

Đó là đề mục để tu tập nhiếp tâm trong hơi thở. Đề mục này tập trung tâm tại nhân trung giữa hai lỗ mũi, biết hơi thở ra vô tại chỗ đó, chứ không được theo hơi thở vô lồng ngực và ngược lại, hơi thở từ lồng ngực chạy ra. Hay đưa hơi thở chạy xuống bụng hay bất kỳ chỗ nào khác trong cơ thể. Nếu nhiếp tâm được 30 phút mà không quên hơi thở tức là không có tạp niệm xen vào thì đã tu tập viên mãn đề mục thứ nhất. Khi tu tập viên mãn đề mục thứ nhất thì nên xin Thầy kiểm tra hơi thở để biết đúng thời tu tập đề mục thứ hai.

Đề Mục Thứ 2: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tối biết tôi thở ra dài”.

Đề mục này có mục đích làm giảm nhẹ nơi tập trung tâm. Theo Phật giáo không được tập trung tâm một chỗ, vì rất có thể làm rối loạn các cơ và thần kinh, gây ra bệnh tưởng.

Khi tu tập đề mục này thì chú ý vào hơi thở chậm và nhẹ, vì khi tác ý như vậy thì hơi thở bắt đầu thở chậm và nhẹ một cách tự nhiên, không dùng các cơ vận dụng để thở chậm và nhẹ. Dùng là sai. Chỉ cần tác ý thì tự động hơi thở sẽ thở chậm nhẹ.

Đề Mục Thứ 3 : “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn; thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn”.

Đây là cách điều khiển hơi thở ngắn bằng pháp như lý tác ý.

Xin các bạn lưu ý: Tu tập về hơi thở thì phải làm chủ được hơi thở. Muốn thở dài thì hơi thở phải dài, muốn thở ngắn thì hơi thở phải ngắn.

Xin nhớ kĩ: Khi nào chúng ta thở dài, thở ngắn mà không thấy có sự rối lọan hô hấp thì điều đó cho biết chúng ta đã làm chủ hơi thở. Đề mục thứ hai và ba chỉ tu tập khi đã hoàn toàn làm chủ được hơi thở.

Khi tu tập để nhiếp tâm và an trú tâm vào hơi thở (đề mục thứ nhất) thì chỉ nên tu tập hơi thở bình thường, không nên dùng cơ vận dụng hơi thở dài hoặc hơi thở ngắn.

Đề Mục Thứ 4: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”.

Đây là đề mục dời tụ điểm không còn thấy hơi thở ra vô tại nhân trung nữa. Mỗi lần hít thở cảm nhận sự rung động toàn thân. Trong pháp Thân Hành Niệm dạy: “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra”.

Khi nào từng hơi thở đều cảm nhận được sự rung động của toàn thân thì đo là kết quả của đề mục này.

Đề Mục Thứ 5 : “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”.

Đây là đề mục rất quan trọng trong sự tu tập mà đức Phật thường nhắc nhở: “Nhiếp tâm và an trú tâm”. Từ đề mục thứ nhất đến đề mục thứ tư là những đề mục nhiếp tâm, còn đề mục thứ năm này là đề mục an trú tâm. Đề mục này rất quan trọng và lợi ích to lớn trong việc đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm và pháp. Đề mục này tu xong thì tất cả cảm thọ không thể tấn công được. Đây là phương pháp làm chủ bệnh mà 4 Niệm Xứ thường dạy: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”, “Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu”, “Trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu”, “Trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu”.

Quý vị nên lưu ý đề mục này rất quan trọng trong sự tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

Đề Mục Thứ 6 : “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra”.

Đề mục này là để hướng dẫn chúng ta ý thức nhận xét sự hoạt động của tâm theo từng hơi thở ra vô chứ không phải biết hơi thở ra vô bình thường. Do đó mỗi lần hít vô hay thở ra đều lắng nghe tâm đang có niệm hay không niệm. Khi tu tập lắng nghe tâm từng hơi thở mà thấy tâm lặng lẽ bất động không một niệm xen vào trong suốt 30 phút hay 1 giờ là đã đạt được kết quả tu tập về đề mục này.

Đề Mục Thứ 7: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”.

Khi tâm chúng ta đang bị động mà không có cách nào làm cho nó an được, thì hãy sử dụng ngay đề mục này bằng phương pháp như lý tác ý. Cứ mỗi lần tác ý, chúng ta cảm nhận như tâm có một sự an ổn trong im lặng và mỗi lần hơi thở ra vô là tràn ngập sự an ổn của thân và tâm. Nếu kết quả này kéo dài từ một giờ đến hai giờ là chúng ta đã hoàn thành đề mục này.

Đề Mục Thứ 8: “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra”.

Khi thân tâm được an trú trong hơi thở vô, hơi thở ra thì suốt trong thời gian tu tập hơi thở các bạn thỉnh thoảng tác ý câu “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra”. Nương vào hơi thở vô ra và tác ý như vậy thì giúp cho các bạn có một nội lực mạnh mẽ thấy thân vô thường thật sự. Từ đó thân kiến kiết sử bị đoạn dứt. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở kết hợp với 4 Niệm Xứ.

Đề Mục Thứ 9: “Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thọ vô thường tôi biết tôi thở ra”.

Đề mục này tu tập như đề mục thứ tám quán thân vô thường để thấm nhuần thọ vô thường thật sự khiến khi thân có bệnh tật khổ đau tâm không giao động sợ hãi. Đó là mục đích của đề mục này. Vậy muốn tâm bất động trước các cảm thọ thì đề mục này phải cần siêng năng tu tập không được biếng trể. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với 4 Niệm Xứ.

Đề Mục Thứ 10 : “Quán tâm vô thường tôi biết tôi hít vô; quán tâm vô thường tôi biết tôi thở ra”.

Người ở ngoài đời cũng như các tôn giáo khác đều cho tâm này là linh hồn, là Phật tánh, là Tánh Không, là Chơn như, là trí tuệ Bát Nhã, là bản thể của vạn hữu v.v... Đó là sự hiểu biết lầm lạc bằng ảo tưởng.

Tâm là một xứ trong 4 Niệm Xứ: Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Cho nên quán tâm vô thường cũng như quán thọ hay quán thân vô thường vậy.

Hằng ngày quán tâm vô thường để chúng ta không bị kiến chấp Linh hồn, Phật tánh thường hằng của tà giáo ngoại đạo. Và luôn nhờ có quán tâm vô thường nên từng tâm niệm sanh khởi chúng ta không bị dính mắc và chấp đắm. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở kết hợp với 4 Niệm Xứ.

Đề Mục Thứ 11 : “Quán các pháp vô thường tôi biết tôi hít vô; quán các pháp vô thường tôi biết tôi thở ra”.

Đây là một đề mục tu tập hơi thở trong pháp môn 4 Niệm Xứ để thấm nhuần các pháp đều vô thường, nhờ thế các pháp đến đều buông xả sạch, Đề mục này siêng năng tu tập thấm nhuần thì có ích lợi rất lớn, đó là nhìn các pháp mà không dính mắc, không chấp trước. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở kết hợp với 4 Niệm Xứ.

Đề Mục Thứ 12: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô; quán ly tham tôi biết tôi thở ra”.

Theo lời đức Phật dạy chỉ cần từ bỏ được tâm tham là nhập vào Niết Bàn, chấm dứt tái sanh luân hồi. Như vậy hằng ngày thường tác ý câu: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô; quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Khi tâm tham đã được ly ra thì tâm luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

Đề Mục Thứ 13: “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô; quán ly sân tôi biết tôi thở ra”.

Nếu một khi tâm sân đã được từ bỏ sạch thì Niết Bàn ở tại đó. Chỉ cần chuyên tu tập một đề mục này từ bỏ được tâm sân thì con đường tu của Phật giáo đâu mấy khó khăn. Đức Phật đã đem lời dạy này ra bảo đảm: “Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A La Hán nói đến. Và tôi đã được nghe. Này các Tỳ khưu hãy từ bỏ một pháp, Ta bảo đảm cho các Ngươi không đi đến lại (tái sanh). Thế nào là một pháp? Sân, này các Tỳ khưu là một pháp các Ngươi hãy từ bỏ. Ta bảo đảm cho các Ngươi không đi tái sanh. Thế Tôn nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến”. Theo lời dạy trên đây chúng ta chỉ cần tu tập một đề mục này cũng đủ chứng đạo quả giải thoát, chấm dứt tái sanh luân hồi chỉ trong một đời này mà thôi.

Đề Mục Thứ 14 : “Quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi thở ra”.

Đề mục này tu tập cũng giống như đề mục “Quán ly tham...”, nhưng ở đây “Từ bỏ” mạnh hơn. Vậy khi tu tập ly được tâm tham thì chúng ta kế tiếp tu tập từ bỏ tâm tham thì lại thấm nhuần nhiều hơn và tâm tham sẽ bị diệt trừ.

Đề Mục Thứ 15 : “Quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi thở ra”.

Đề mục này tu tập cũng giống như đề mục “Quán ly sân” nhưng ở đây nó mạnh hơn là do “Quán từ bỏ tâm sân”. Nếu người nào bền chí tu tập, chỉ một đề mục này cũng đủ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

Đề Mục Thứ 16 : “Quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi thở ra”.

Đề mục tu tập này có một sự quyết liệt mạnh mẽ hơn những đề mục trên vì “đoạn diệt tâm tham”. Ở trên chỉ có “ly” và “từ bỏ” mà thôi. Tại sao chỉ có tâm tham mà phải ba đề mục tu tập cẩn thận như vậy?

Tâm tham dục là một nguyên nhân sinh ra muôn thứ khổ đau của loài người. Vì thế nó quan trọng đệ nhất trong các pháp ác. Cho nên tu tập tới đề mục này các bạn phải có sự quyết định mạnh mẽ không thể dễ dãi với tâm tham dục được.

Đề Mục Thứ 17 : “Quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi thở ra”.

Đề mục này cũng có sự quyết định cuộc đời tu hành của mình được hay không được. Nếu một người tu hành mà tâm sân còn thì có nghĩa lý gì là một tu sĩ. Sân là một tính rất xấu và cực ác. Lúc sân, người đó có thể giết người hay làm bất cứ việc gì; lúc sân cũng không sợ bất cứ một thứ gì. Biết sự nguy hiểm của tâm sân như vậy, nên chúng ta quyết liệt đoạn diệt tâm sân tận gốc không còn để một chút xíu trong tâm. Phải chấm dứt ngay liền. Chính dứt được tâm sân là Niết bàn ngay liền tại đây, đâu có xa gì?

Đề Mục Thứ 18 : “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”.

Đây là đề mục phá tâm si. Phải cố gắng tu tập với đề mục tu tập này cho nhuần nhuyễn. Khi tu tập đã nhuần nhuyễn thì không bao giờ có buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê và mất ý thức. Nếu tu tập đề mục này chưa nhuần nhuyễn thì sẽ bị buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê và mất ý thức đánh gục. Buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê và mất y thức là một pháp cực ác đối với những người thực hành theo Phật giáo.

Đề Mục Thứ 19 : “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra”.

Đây là đề mục cuối cùng của Định Niệm Hơi Thở, khi tất cả các đề mục trên đều đã hoàn tất viên mãn thì đến đề mục này là tâm bất động hoàn toàn, có nghĩa là tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm ở trạng thái không phóng dật. Đức Phật đã xác định cho chúng ta biết trạng thái này là cứu cánh Niết Bàn: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật, muôn pháp lành cũng đều nơi đó sinh ra.”

PHẦN 2: CÁC PHÁP HÀNH

A.- ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ

Luyện đề mục trước có kết quả rồi mới nên chuyển qua đề mục kế tiếp. Nếu đề mục trước chưa kết quả mà chuyển lên tập luyện đề mục sau thì không thể có kết quả, chỉ tu tập chơi thôi, không lợi ích đâu. Có kết quả của đề mục trước làm nền tảng để tập luyện đề mục sau. Rồi đề mục sau này có kết quả, mới dùng kết quả đó tập luyện cho đề mục kế nữa. Không theo cách như vậy thì sự tu tập không có kết quả nào hết. Đó là sai.

Đây là bảng liệt kê 19 đề mục của Định Niệm Hơi Thở. Con khởi tập với đề mục số 1.

Đề Mục 1: Tĩnh Giác Đếm Không Lộn

1.- Giải Thích Căn Bản

Khi tập đề mục 1 của Định Niệm Hơi Thở, chỉ nhắm vào đếm không lộn. Nếu có niệm hiện khởi trong trí, trong tâm thì kệ nó, đừng lưu ý. Tâm chỉ bám vào hơi thở, biết hơi thở, đếm đủ số 5 hơi, nín thở tác ý. Không quan trọng về niệm mà quan trọng về pháp dẫn, tức pháp tác ý. Mục đích của pháp dẫn hơi thở là đếm đừng lộn, tức là tĩnh giác, chứ không phải ức chế cho tâm hết vọng tưởng. Nếu cố gắng làm cách này hay cách khác cho không có vọng tưởng, cho hết vọng tưởng là sai, là ức chế tâm. Không cần lưu ý có hay không có vọng tưởng, mà chỉ một bề theo dõi hơi thở và đếm số hơi thở, đủ năm hơi lặp lại câu tác ý của đề mục. Đó là dùng hơi thở, dùng tĩnh giác trong hơi thở để chế ngự tâm. Con nên hiểu pháp Phật là pháp chế ngự, không phải ức chế. Hai pháp khác biệt nhau rất xa.

Niệm vọng tưởng là một sự tự nhiên đối với người mới tập luyện. Có “vọng tưởng” hay không có “vọng tưởng” không quan trọng, không quan hệ gì. Vọng tưởng có xẩy tới trong khi đếm hơi thở thì khi tác ý chắc chắn vọng tưởng phải bị cắt đoạn, phải bị tiêu trừ. Thí dụ đếm đến hơi thở thứ ba thì có niệm vọng tưởng xen vô, nếu tĩnh giác tác ý ở hơi thở thứ năm thì vọng tưởng bị ngưng, hết vọng tưởng. Vì khi tác ý thì tĩnh giác trong câu tác ý, rồi tĩnh giác biết hơi thở. Tĩnh giác ở chỗ nhớ đếm, và tĩnh giác biết hơi thở vô ra. Cứ như vậy mà tập luyện.

Người ta bị lầm lạc bằng cách dùng hơi thở để tác ý cho hết vọng tưởng. Đo là sai. Con cứ để tự nhiên, chỉ biết hơi thở vô ra và đếm đừng lộn. Đừng cố gắng cùng lúc tập trung đếm hơi thở và tập trung giữ không niệm. Hãy để tâm tự nhiên, chỉ giữ đúng 5 hơi thở thì lặp lại câu tác ý.

Đừng quên nhắc câu tác ý. Quên lập lại câu tác ý thì ý thức bị chìm vào trong tưởng thức, do kẽ hở đó Ma Tưởng xen vào. Cũng không nên đếm kéo dài lên tới 10 hay 20 hơi thở, vì chắc chắn sẽ bị tưởng chi phối. Chỉ chăm chú năm hơi thở thôi, phải tác ý để hoàn toàn tĩnh giác. Lúc này có hay không có niệm không quan trọng bởi tới đề mục thứ 7 là phương pháp dẫn tâm vào yên tịnh, không niệm khởi.

2.- Thực Hành Tập Luyện Đề Mục 1

Hãy để tâm nhẹ nhàng biết hơi thở vô ra và tập gom tâm.

Hãy làm như vầy: Ngồi kiết già (ngồi tréo chân). Nếu ngồi kiết già chưa được thì tạm thời bán già, (và rảnh rỗi thì tập ngồi kiết già cho quen. Khi ngồi kiết già lâu khoảng 30 phút không thấy tê chân thì mới được ngồi kiết già để tập hơi thở). Hai tay úp trên đầu gối; hoặc buông thỏng trước hai ống chân; hoặc đặt trên hai gót chân, bàn tay để ngửa chồng lên nhau tựa sát bụng. (Khi đã an trú tâm vào hơi thở thì hai tay để ngửa chồng lên nhau sát bụng là tư thế tốt nhất). Nói chung tay để đâu cũng được miễn thấy thoải mái. Không nhúc nhích động đậy, nhưng không được gồng cứng cơ bắp. Ngồi như thế và giữ yên tịnh toàn thân thoải mái từ 2 tới 5 phút.

Bắt đầu từ từ hít vào một hơi thở chậm, nhẹ và dài, đầy ngực (hơi nâng người lên, không phình bụng). Khi hít vào hết sức thì thở ra cũng chậm nhẹ và dài. Hơi thở này nhằm mục đích gom tâm về một điểm và làm cho đầu, thân và lưng thẳng đứng mà không ưỡn tới trước hay khòm xuống theo thói quen. Giữ tư thế này của thân trong suốt buổi ngồi thiền. Sau đó thì trở lại hơi thở bình thường.

Mắt nhìn phớt chót mũi nhưng tập trung hoàn toàn sự chú ý vào một điểm ở nhân trung, gần chân mũi, tâm nhẹ nhàng biết hơi thở vô ra ngang qua điểm này. Con nên lưu ý: Trong khi chưa quen với sự tập trung trong hơi thở – nói chung đối với mọi người mới tập – lúc đầu phải tập trung hai mắt nhìn chóp mũi và ý tập trung ở nhân trung để thấy hơi thở ra vô – nếu bị nhức mắt do điều tiết mạnh thì có thể lâu lâu nhìn điểm nối thẳng từ mắt-chót-mũi xuống mặt sàn, hay nhìn thẳng tới trước mặt một lúc nhưng tâm thì vẫn gắn chặt vào điểm ở nhân trung. Nhờ đó mà bớt căng mặt, mà sức gom lại mạnh hơn là cứ nhìn chăm chăm vào chóp mũi.

Nín thở và tác ý thầm: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Tác ý xong thì đếm "Một". Để cơ thể hít vô thở ra một cách tự nhiên và theo dõi nhận biết hơi thở đi vô, rồi hơi thở đi ra. Chú ý kĩ luồng hơi đi vô khi hít vô, đi ra khi thở ra, cảm nhận biết luồng hơi thở đi ngang qua điểm ở nhân trung gần chân mũi (không được dẫn sự chú ý chạy theo hơi thở vào lồng ngực rồi từ lồng ngực chạy ra). Ngắn gọn là tập trung tinh thần, chú ý vào hơi thở đi vô, đi ra ngang qua nhân trung, hoàn toàn không lưu tâm đến bất kì điều gì khác. Tâm phải tỉnh táo sáng suốt biết rất rõ và theo dõi kĩ từ lúc hơi thở bắt đầu đi vô cho đến khi hơi thở đi ra chấm dứt. (gọi là tĩnh giác nhận biết rõ hơi thở vô, ra).

Sau khi dứt hơi thở ra thì đếm “Hai” (đếm ngay trước khi hít vô), và tiếp tục theo dõi hơi thở đi vô rồi đi ra như hơi thở số “Một”. Theo dõi và đếm như vậy 5 lần. Sau mỗi 5 lần hít thở thì lại nín thở lập lại thầm câu tác ý: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Rồi lại đếm từ “Một” tới “Năm”. Chỉ nên hít thở nhẹ nhàng bình thường, lưu ý gom tâm biết rõ hơi thở đi ngang qua điểm nhân trung và đếm không lộn. Cứ đếm đủ 5 hơi, tác ý; không quên là đúng.

Hơi thở chỉ dài vừa sức nghĩa là hơi thở như thế nào thì giữ như vậy, không nên thay đổi dài ra ngắn, ngắn ra dài; mạnh làm yếu đi, yếu làm mạnh lên. Không làm gì đăc biệt. Hãy để tự nhiên, không làm mất tự nhiên. Không thay đổi thói quen.

Nếu thấy câu tác ý “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra” dài, phải nín thở lâu, cảm thấy khó chịu thì tuỳ nghi cắt bớt cho ngắn để có thể nín thở tác ý mà không thấy thân có khó khăn gì. Thí dụ con có thể tác ý như vầy “Hít vô.
Thở ra”
hay “Hít vô, tôi biết. Thở ra, tôi biết”. Nếu câu tác ý dài, cần nín thở lâu để tác ý cho hết câu, thì đến khi hít vô và thở ra sự chú tâm theo dõi hơi thở đi vô và hơi thở đi ra kĩ hơn, rõ sát hơn. Câu tác ý dù như thế nào, dài hay cắt ngắn bớt, khi tác ý xong, thì:

Tâm theo dõi kĩ hơi thở đang hít vô, rồi hơi thở đang thở ra, từ lúc khởi động vô, kéo dài cho đến khi ngưng hít vô, rồi bắt đầu thở ra, kéo dài cho đến khi hết thở ra.

Phải tác ý đủ cả câu “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra”, đừng cắt làm hai, phần hít vô, rồi phần thở ra. Nếu cắt làm hai, con nín thở tác ý phần hít vô xong hít vô, lại nín thở để tác ý phần thở ra. Nín thở và tác ý trong khi ngực đầy hơi sẽ sinh ra sự tồn hơi trong ngực, lâu ngày sẽ sanh bệnh. Ở đây nín thở tác ý khi ngực hết hơi sẽ không có hại gì mà tâm bám sát được hơi thở đi vào và đi ra.

Nhớ phải giữ đúng 5 hơi thở vô ra tác ý một lần, đều đặn như vậy, không được đếm lố lên 6, 7. Đếm lố lên 6, 7 hơi thở là thiếu tĩnh giác. Phải tĩnh giác trong từng hơi thở, trong suốt 5 hơi thở. Chỉ khi thiếu tĩnh giác, bị quên, mới đếm thiếu, đếm lộn, đếm dư.

Khi mới tập thì chỉ nên tập từ 1 đến 5 phút, nghỉ 5 phút rồi tập tiếp. Khi nghỉ xả giữa hai lần tập thì ngồi thoải mái, không làm gì khác, không suy nghĩ gì nhiều. Trong khi tập phải kiểm soát xem cơ thể có trạng thái khác lạ khó chịu gì xảy ra không, như nặng đầu, nặng mặt, choáng váng, ù tai... Nếu có thì ngưng tập vì đó là hiện tượng ức chế tâm sinh rối loạn hệ thần kinh, cơ bắp.

Hãy luyện như vậy một thời gian cho quen thuộc, cho thuần thục ít nhất cũng một tuần lễ. Khoan thay đổi gì hết dù cái biết hơi thở không bị gián đoạn do tạp niệm xen vào trong thời gian 5 phút đó.

Một ngày tập luyện bốn thời: sáng, chiều, tối, khuya. Khi đang tập hơi thở mà cảm thấy sắp buồn ngủ thì đứng dậy đi. Thí dụ thời sáng con lưu ý thấy đúng vào một giờ nào đó trạng thái buồn ngủ xảy tới thì trước lúc tới giờ đó, độ 1, 2 phút, con đứng dậy đi kinh hành. Kinh hành nhưng vẫn giữ pháp môn Định Niệm Hơi Thở. Đừng chờ cho đến khi buồn ngủ, ngủ gục rồi mới đứng dậy đi là quá trể. Lúc đó con đi mà tâm trí vẫn ở trạng thái mê mê, bước cao bước thấp, lũi qua lũi lại.

3.- Tập Hơi Thở Khi Ngồi Buồn Ngủ

Khi bị buồn ngủ, ngủ gật, con sử dụng cách đi để tập Định Niệm Hơi Thở. Phối hợp giữa hành đi và hít vô, thở ra đều đặn, phối hợp tác ý sau mỗi 5 hơi thở. Đó là cách thức thiện xảo trong bước đi và hơi thở. Do ngồi bị buồn ngủ nên phải tập Định Niệm Hơi Thở trong khi đi, vì đi làm thân động nên tỉnh táo hơn ngồi, ích lợi nhiều hơn. Sử dụng được thân hành đi và hơi thở nhịp nhàng thì tránh được buồn ngủ, ngủ gật (hôn trầm), mất hay không chú ý (vô ký) và lười biếng.

Trước khi cơn buồn ngủ tới thì đứng dậy đi nhưng tập thì giống như khi đang ngồi. Khi đó tâm bị phân ra vừa biết hơi thở mà cũng vừa biết bước đi. Phải tập như thế nào để tâm chỉ biết hơi thở thôi, chứ không để nó vừa biết bước đi mà cũng biết hơi thở.

Trước khi đi, phải tác ý: “Tâm phải biết hơi thở, không được biết bước đi!”, rồi mới tập trung vào hơi thở. Khi đi mà tập trung nhìn ở nhân trung thì khó đi, nên phải nhìn ra bên ngoài, hãy nhìn tới trước, trên đường đi kinh hành một khoảng độ 2 thước, nhưng tâm hoàn toàn tập trung vào hơi thở. Đó là điều đức Phật thường dạy “thiện xảo”. Cứ mỗi lần thấy tâm bị phân ra vừa biết hơi thở, vừa biết bước chân đi thì nhắc câu tác ý để nó quay trở về với hơi thở. Vừa đi chậm chậm vừa nhiếp tâm vào trong hơi thở. Như vậy con vẫn giữ đúng thời gian tập luyện hơi thở và đồng thời huấn luyện được pháp hướng tâm nữa.

Pháp Định Niệm Hơi Thở, đề mục 1 kết quả của nó chỉ là sự tĩnh giác thôi. Nhưng khi chuyển sự tĩnh giác đó qua kinh hành thì nó phụ trợ cho bước đi kinh hành để phá buồn ngủ. Khi đếm đến 6, 7 là bị quên, thiếu tĩnh giác. Không lộn là đã tĩnh giác. Khi đã được tĩnh giác trong hít thở rồi thì ứng dụng kết quả qua Chánh Niệm Tĩnh Giác tức đi kinh hành. Nhờ tĩnh giác đó mà đi càng được tỉnh. Vậy nên khi bị buồn ngủ, ngủ gật, hãy đi để động thân và dùng pháp tác ý để phá cho được. Khi luyện như thế sẽ có nội lực, dùng nội lực quét cho hết si, cho thật được tĩnh giác.

Con cứ đi tới đi lui nhưng vẫn tu tập Định Niệm Hơi Thở, vẫn dùng các câu tác ý của Định Niệm Hơi Thở mà tập. Các đề mục 1, 2, 3, đó mang lại kết quả ở trong tâm chứ không phải ở trong chỗ ngồi yên lặng. Ngồi chỉ là điều kiện để gom tâm cho dễ mà thôi, không phải ngồi để tâm thanh tịnh. Đi hoặc ngồi đều là điều kiện tốt giống nhau để tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là do chỗ xả tâm.

Giai đoạn này con cần luyện li dục li ác pháp ở trong tâm chứ không phải ở trong thân, cho nên đi hoặc ngồi không là vấn đề quan trọng, mà mục đích làm sao tập gom tâm cho được (tức an trú tâm vào hơi thở). Khi tập luyện tới thân thì giới là định, lúc đó con cần dừng một hành nào đó của thân. Thí dụ hành thân thuộc về tầm tứ, giờ muốn dừng nó thì mắt, tai, mũi, miệng không được hoạt động nữa. Pháp đó thuộc về thân thì bắt buộc thân phải ngồi, chứ thân đứng hay đi thì không làm sao tu tập được. Hành dừng thì thân làm sao đi được. Còn bây giờ pháp tu tập là cái tâm, con đi thì cũng tập luyện cái tâm, con ngồi thì cũng tu tập cái tâm. Hiểu như vậy thì không tập luyện sai đâu. Cứ ôm đúng pháp mà tu tập, khi đi cũng giống như khi ngồi. Cần phải tĩnh giác trong khi tập luyện.

Luyện Định Niệm Hơi Thở trong khi đi thì hơi thở động mà thân cũng động nữa. Tâm phải phân trên hai hành động đó nên tu tập hơi khó. Tập để tâm chỉ biết hơi thở mà thân vẫn đi thì hơi thở không còn bình thường như khi ngồi, vì khi ngồi tâm dễ gom và hơi thở nhẹ nhàng hơn. Còn khi đi, luôn luôn có tướng động của thân do đó tâm khó gom hơn so với khi ngồi. Nhưng nương vào hơi thở khi đi là để luyện các đề mục hơi thở này cho có kết quả trong khi ngồi bị buồn ngủ, ngủ gật. Mặc dù hơi thở có thay đổi nhưng con chỉ nương vào hơi thở thôi. Hơi thở là phụ mà những đề mục trong Định Niệm Hơi Thở là chánh.

Nếu bị buồn ngủ quá nặng trong khi tập luyện hơi thở thì nên tập ngược trở lại. Ngồi được một tác ý không buồn ngủ thì ngồi. Khi có buồn ngủ thì đứng dậy đi. Ngồi được hai tác ý không buồn ngủ thì ngồi hai tác ý... Cứ vậy mà tập cho đến chừng ngồi mà không còn buồn ngủ, ngủ gật nữa là thành công ngồi suốt thời khóa. Tập như vậy là thiện xảo. Khi tập luyện nên thiện xảo khéo léo trong mọi trường hợp, linh động để đạt cho được mục đích của pháp đang luyện. Không phải pháp này ngồi là phải ngồi; pháp kia đi là phải đi. Không bắt buộc như vậy.

Khi bị buồn ngủ thì đi theo cách thức như sau: Đưa chân thẳng tới, dở cao, hạ xuống, và tác ý câu:  “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi đi kinh hành” trong khi đi. “Biết” tác ý cho mạnh. Nếu sử dụng câu này trong khi đi mà đã có hiệu quả, có kết quả tỉnh táo thì trong khi ngồi bị buồn ngủ, con cũng tác ý câu đó: “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”. Tác ý và cố giữ tâm cho tỉnh táo. Thật ra thì tâm lúc đó đã bị mê mờ. Tuy nhiên cố gắng làm sao để càng được tỉnh táo càng hay. Cứ mỗi một hơi thở tác ý một lần rồi thở cho thật sạch thì có thể phá buồn ngủ được nhưng không bằng cách đi kinh hành. Kinh hành dễ phá buồn ngủ hơn. Tuy nhiên nếu đi nhẹ nhẹ cũng khó phá được. Thí dụ như khi thức dậy, không còn buồn ngủ nhưng có uể oải, lười biếng, thì con ra sân đi kinh hành dở cao chân và đạp mạnh xuống, chỉ độ 20 lần cũng phá được lười biếng này rồi. Đó là những cách cần thiết để phá trạng thái si ám trong người. Người nào cũng có cái si này.

Tu tập đúng pháp thì lấy pháp để trị chứ không lấy gì khác. Trị buồn ngủ, ngủ gật mà chạy thì không đúng pháp. Phải tác ý “Không buồn ngủ nữa nghe! Phải tỉnh! Đi phải biết bước đi!” . Cứ nhắc câu tác ý hoài cho có lực. Tập tĩnh giác và tác ý để hai pháp này kết hợp với nhau ta mới dẹp được giặc si này, đó là giặc sanh tử, đối tượng của sự tu tập. Khi tu tập thì sự buồn ngủ, ngủ gật là lực của giặc sanh tử hiện ra đánh mình.

4.- Phá Trừ Cảm Giác Tưởng

Dù cho không có trạng thái khó chịu gì xẩy ra, nhưng cũng đừng gom tâm nhiều. Khi gom nhiều thì có thể có cảm giác ở nhân trung nằng nặng. Nếu bị vậy thì tác ý bảo “Nhân trung không được có cảm giác nặng gì hết! Hãy bình thường đi!”. Tác ý vậy thì cảm giác nạng đó biến mất, không bị sanh ra cảm giác tưởng. Cái tưởng dựa vào chỗ mình gom tâm tạo thành cảm giác tưởng. Thí dụ nó làm cho mình càng lúc càng cảm giác nặng nhiều lên; càng ngày càng nặng nhiều thêm ở chỗ đó. Nếu không biết cách giải trừ thì nó bành trướng ra. Do vậy, khi thấy cái gì không đúng thì dùng ý thức lực mà giải trừ, mà ngăn chặn. Con tác ý “Cảm giác nặng này hãy dừng, không được hiện ra”, xong mới tác ý đề mục 1 Định Niệm Hơi Thở. “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra”

Trên đường tu tập từ đây về sau, con thấy trong người có hiện tượng gì lạ thì dùng ý thức tác ý cho nó hết. Luôn luôn phải ở trong pháp thôi, còn các trạng thái hỉ lạc, khinh an gì gì, đừng quan trọng với nó. Chỉ ôm pháp thôi, cho tới khi luyện các đề mục tạo ra cảm giác nào mà có cảm giác đó thì mới là kết quả thật của đề mục. Bây giờ con cần biết hơi thở vô và hơi thở ra, cứ 5 hơi tác ý và chỉ biết hơi thở thôi, không biết cảm giác nào khác.

Trong khi tập luyện Định Niệm Hơi Thở đề mục 1 và 2 hay 3 cũng như đề mục 4, không nên ngồi nhiều mà phải đi, vì ngồi nhiều sẽ bị tưởng. Khi đi, thân hoạt động nên tưởng không xuất hiện được. Con ôm chặt các đề mục của Định Niệm Hơi Thở mà luyện cho có kết quả để nó đem lại lợi ích rất lớn sau này khi gặp chướng ngại trên thân, thọ, tâm, pháp khi tu tập 4 Niệm Xứ. Nếu cứ ngồi yên lặng để gom tâm thì sẽ bị tưởng, không sao tránh khỏi. Đó là tập luyện sai pháp. Khi đã tu tập sai pháp thì bất kỳ lúc nào muốn nhiếp tâm vào hơi thở, tưởng cũng dễ dàng xuất hiện.

5.- Cẩn Thận Khi Tập Luyện

Con tập hơi thở dài được thì rất tốt. Tập luyện hơi thở được thì sự tu tập nói chung sẽ tiến bộ nhanh. Tuy nhiên cần phải nhận định đúng theo tình trạng cơ thể của mình, đừng gò bó, đừng dằn ép.

Đạo Phật là đạo giải thoát, cho nên trong khi tập luyện có chướng ngại thì phải ngưng liền, tìm cách thay đổi cách tu tập . Bất kỳ lúc nào thấy thân tâm không an ổn thì phải ngưng. Làm đúng vậy thì sẽ không bao giờ có trở ngại. Vì có người thiếu nhận xét, không thay đổi cách tập luyện kịp thời cho nên bị tu tập sai lầm thành một chướng ngại lớn, mỗi khi họ khởi tập pháp môn hơi thở thì hơi thở bị rối loạn, phải ngưng. Họ chỉ có thể đi kinh hành thôi, mà kinh hành thì chỉ có ngoại lực vì đó là pháp môn luyện thân hành ngoại. Tập hơi thở là luyện thân hành nội mới có nội lực. Tập luyện hơi thở không được thì không tạo thành nội lực. Đường tu tập cần phải kết hợp nội lực và ngoại lực mới thành tựu kết quả.

Pháp Phật lúc nào cũng đúng, chỉ do mình áp dụng thực hành không đúng mới nảy sinh chướng ngại. Tu tập phải rút kinh nghiệm. Thí dụ hơi thở dài ta hít rất dài và thở rất chậm nhưng nó làm rối loạn cơ thể. Vậy phải tìm cách nào để cũng thở chậm dài nhưng không đưa lại rối loạn cơ thể như tức ngực, nặng đầu...

6.- Điểm Gom Tâm

Giai đoạn đầu cần tập gom tâm cho nên cần thiết có một điểm để gom tâm vào đó. Không có một điểm nhất định thì rất khó gom tâm. Điểm tại nhân trung thích hợp. Chỗ đó hơi thở đi vô đi ra đều phải đi ngang qua và nó nằm ngoài thân, khi gom tâm vào đó sẽ không trở ngại gì cho cơ thể. Khi gom tâm được và thuần thục thì sẽ có cảm tưởng như là hơi thở từ đó đi vào thân và từ đó đi ra ngoài. Phải bằng mọi cách làm cho tâm gom được trên tụ điểm nhân trung . Phần lớn người nào có thần kinh yếu mà gom như vậy sẽ bị nặng đầu.

Khi nhắc câu tác ý “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra” là để nới bớt sự gom tâm mà lại phá được các niệm khởi, sẽ không bị nhức đầu hay đau đầu. Khi luyện gom tâm, cứ mỗi 5 hơi thì tác ý. Có hay không có niệm khác xen vô không sao, miễn đúng 5 hơi phải tác ý và đếm không lộn lần nào.

Khi gom tâm được thì có cảm giác của sự gom này. Có gom tâm được mới có cảm giác. Phải gom tâm cho kỹ, cho chặt vào điểm đó trong suốt 30 phút. Cứ 5 hơi lại tác ý. Vậy mà lúc đầu có người còn bị nặng đầu, huống nữa là chỉ gom tâm mà không tác ý thì chắc chắn không ai mà không bị nặng đầu. Khi gom mà thấy nặng đầu là do pháp tu tập. Còn khi gom không thấy nhưng khi xả ra mới thấy cảm giác nặng đầu là do khi xả không tác ý xả cho nên thần kinh vẫn còn làm việc, còn gom tâm.

Điểm tại nhân trung chỉ sử dụng để gom tâm theo đề mục 1 và 2 hay 3 của Định Niệm Hơi Thở. Qua đề mục khác thì không còn gom tâm tại chỗ đó nữa, bởi vì đâu chỉ có biết hơi thở vô ra tại đó đâu, mà còn những điều kiện khác để chế ngự tâm trong Định Niệm Hơi Thở. Ví dụ tới đề mục 4 “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”, thì khi hít thở đâu còn cảm giác hơi thở vô ra tại nhân trung nữa mà phải cảm giác từ trên đầu xuống tới chân. Như vậy hơi thở hay tâm đâu còn dính ở mũi nữa. Nếu tạo một cái gì ở chỗ mũi thì làm sao cảm giác tới dưới chân được.

Mỗi đề mục đều cần phải thay đổi cách tập luyện, vậy không nên tạo dính mắc vào điều kiện của một đề mục cứng ngắc nào. Đề mục 1 chỉ luyện một thời gian cho đến khi đếm không lộn là đã thuần thục nó, đi tới đề mục thứ 2 hay 3. Đề mục 2 hơi thở dài hay đề mục 3 hơi thở ngắn, thì tâm theo dõi độ dài, độ ngắn của hơi thở. Đề mục 4 cảm giác toàn thân thì tâm ở thân. Đề mục 6 cảm giác tâm hành thì tâm đã ở tâm rồi. Tất cả mọi đề mục, tâm đều ở những vị trí khác nhau, tâm đâu còn ở nhân trung nữa đâu. Như vậy tập luyện Định Niệm Hơi Thở, tâm không cố định ở một chỗ chung cho tất cả các đề mục. Người ta không hiểu cách tu tập Định Niệm Hơi Thở, họ cứ bắt buộc người tập tập trung ở mũi hay ở bụng hay ở đâu đó. Bắt buộc nó ở suốt mãi một chỗ là ức chế. Đức Phật đã xác định tập luyện Định Niệm Hơi Thở không cho tâm ở một vị trí nào hoài, phải thay đổi liên tục. Nó không ở hoài chỗ nào nhưng ta phải  nương  hơi thở vô ra chứ không phải chỉ  biết hơi thở vô ra cho tất cả mọi đề mục.

Khi luyện đề mục 1 này xong rồi thì từ đây cho tới giai đoạn chót không còn tập trung tâm tại nhân trung nữa.

Trong khi tập Định Niệm Hơi Thở mà đi thì con hãy gom tâm ở tại một điểm ở nhân trung, đừng cho nó bung ra. Nếu gom không chặt thì nó sẽ bung ra vừa biết bước đi vừa biết hơi thở làm sức gom tâm bị yếu. Con hãy tác ý “Tâm gom lại tại tụ điểm nhân trung!”. Khi gom mạnh, có cảm giác nặng cả vùng rộng thì cần tác ý “Cái tưởng này hãy đi đi, không có nặng nữa”. Đó không phải là cảm giác đâu. Nó là tưởng dưới hình thức cảm giác. Cứ tác ý hoài cho đến chừng nào không có cảm giác như thế nữa mới thôi. Bền chí tập luyện và tác ý cho tâm gom lại, cho đến khi chỉ còn biết hơi thở, bằng không thì nó bung ra, phân ra chạy xuống biết bước đi.

Trong trường hợp có nhịp tim đập ngoài vị trí của tim thì đó là cảm giác tưởng. Hãy tác ý để dẹp trừ cảm giác tưởng này bằng câu tác ý “Nhịp tim hãy trở về tim, không xuất hiện ngoài tim” hay “Cảm giác tưởng tim đập này hãy dừng, không xuất hiện nữa”. Con phải bắt buộc tưởng ngưng để hoàn toàn chú tâm vào pháp tu tập. Cứ 5 hay 3 hơi thở tác ý bảo nó dừng, tạm thời không tác ý hơi thở, tức là không tác ý “Tôi thở tôi biết tôi thở” nữa mà phải nương hơi thở tác ý tưởng phải dừng. Chừng nào nó dừng, chừng đó mới trở về với pháp luyện hơi thở, bằng không thì trạng thái tưởng cứ trở lui trở tới hoài.

Khi tu tập Định Niệm Hơi Thở, trong khi ngồi hít thở mà con không cảm nhận hơi thở vô ra, trường hợp này cũng xẩy ra cho một vài người khi họ tu tập hơi thở một thời gian thì bổng nhiên không thấy hơi thở nữa, mất hơi thở. Con đừng quan tâm tới hiện tượng này. Có người muốn dán một miếng keo ở mũi để biết hơi thở vô ra. Làm như vậy sẽ tạo nên một sự ức chế tâm không đúng đâu. Cứ để tự nhiên. Chỉ cần nghĩ tưởng tâm bám ngay tụ điểm ở chỗ nhân trung đó và đừng quan tâm thấy biết hay không thấy biết hơi thở vô ra. Thấy hơi thở vô ra cũng tốt, không thấy hơi thở vô ra cũng chẳng sao. Có cảm giác mát tại đó để biết có hơi thở hay không cảm nhận gì hết cũng đừng quan tâm, chỉ cần biết con đang hít thở và hơi thở vô ra tại điểm ở nhân trung. Chỉ tập trung sự chú tâm tại chỗ đó. Đừng tạo thế này hay thế khác. Đừng tạo thành một đề mục tại chỗ đó để khỏi bị gom tâm trong ức chế. Cứ một mực tác ý “Tâm phải biết hơi thở! Không được không biết!”. Cứ nhắc tâm như vậy rồi tác ý đề mục “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra”. Rồi lắng nghe. Nếu vẫn còn chưa thấy hơi thở thì tác ý cho mạnh câu “Tâm phải biết hơi thở! Phải thấy hơi thở! Không được không thấy!”. Cứ tác ý sau mỗi 5 hơi thở, hay 3 hay 2 hơi thở một lần, cho đến khi nào thấy lại hơi thở. Không biết, không thấy hơi thở là do tâm cảm nhận của con mất đi, tức là một trạng thái nào đo làm cho không thấy hơi thở. Hơi thở không thể mất được, chỉ bị mất cảm nhận thôi. Đừng nghĩ tưởng sai là con ngưng được hơi thở (tịnh chỉ hơi thở) hay hơi thở tự ngưng. Không đúng đâu.

Bình thường ta thấy luồng hơi thở vô ra ở điểm đó hoặc ấm, hoặc mát hoặc như thế nào đó theo cảm nhận của ta. Khi tập luyện mà thấy dường như mất hơi thở là vì có một trạng thái tưởng che đậy. Vậy bằng những câu tác ý, con dùng ý thức để lôi nó trở lại không cho tưởng che khuất nữa thì sẽ biết rõ lại hơi thở vô ra. Thầy đâu nghe đức Phật bảo chúng ta làm gì. Đức Phật bảo chúng ta tác ý thì chúng ta cứ tác ý. Bất cứ cái gì cản trở thì chúng ta cứ tác ý cho cái đó biến mất đi, hoặc tác ý để giữ trạng thái đó không bị biến đổi. Đó là phương pháp đức Phật dạy. Giờ không thấy hơi thở thì con tác ý cho thấy hơi thở. Đó là đúng đường lối đức Phật dạy mà không tạo thêm những phương pháp khác.

7.- Định Diệt Tầm Giữ Tứ

Nếu có khó khăn để nhiếp tâm trong hơi thở thì làm như thế này: Trong Thân Hành Niệm lệnh truyền tới đâu thì thân hành động theo tới đó. Còn trong hơi thở thì tùy theo đặc tướng từng người. Nếu ai tập Định Niệm Hơi Thở đề mục 1, theo cách thức đã hướng dẫn mà trong suốt buổi tập luyện không có niệm vọng tưởng, không có niệm tạp xen vô, trong khi biết rõ hơi thở là họ không bị loạn tưởng.

Còn ngược lại, nếu bị loạn tưởng, cách đó không thích hợp, thì cần thay đổi cách khác: Cũng nhìn chóp mũi, cũng tập trung chú ý vào tụ điểm ở nhân trung, cũng tác ý câu “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra”như thế, nhưng khi chú ý vào hơi thở thì tập luyện từng hơi. Hít vô thì ra lệnh hơi vô “Hít!”; thở ra thì ra lệnh hơi ra “Thở!”, ngay trước mỗi chặng hít vô, mỗi chặng thở ra. Hít vô thở ra theo lệnh một cách rất tự nhiên, liên tục.

Tác ý liên tục mỗi chặng hít vô thở ra như vậy cho đủ số 5 hơi thở thì nín thở tác ý lại “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra” rồi tác ý ra lệnh tiếp “Hít”, hít vô. “Thở”, thở ra. “Hít”, hít vô. “Thở”, thở ra. Làm sao cho sự ra lệnh, đếm, và hít thở được đều đặn tự nhiên. Trong lúc đầu có bận tâm một chút xíu, nhưng sau khi quen thì sự ra lệnh và hít thở nhịp nhàng. “Một, Hít”, “Thở”; “Hai. Hít”, “Thở”; “Ba. Hít”, “Thở”... thì sẽ chủ động điều phục, nhiếp phục được tâm vào hơi thở qua tác ý.

Đó là thiện xảo nhiếp phục tâm không có một niệm nào xen vô được, bởi khi tác ý liên tục và chú tâm kĩ vào hơi thở như vậy thì không thể khởi niệm khác được. Đây là Định Diệt Tầm Giữ Tứ.

Trong suốt thời tập luyện, cứ tập hít thở như thế, theo khả năng, theo sức của con. Mỗi khoảng thời gian chừng 3 hay 5 phút, xả nghỉ, rồi tập lại, đừng tu tập quá lâu. Cứ kiên trì tập. Khi đã quen, con sẽ thấy lệnh tới đâu hít thở tới đó, loạn tưởng không vô được. Sau khi không còn bị loạn tưởng, lúc đó con bỏ lệnh “Hít”, “Thở”, chỉ còn tác ý “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra”, theo dõi kĩ toàn bộ hơi thở vô ra của mỗi 5 hơi hít thở. Cứ làm kĩ như vậy con sẽ đạt được kết quả nhiếp tâm rồi an trú tâm vào hơi thở.

Thật ra thì trong kinh không dạy rõ ràng mà chỉ nói lên danh từ “Định Diệt Tầm Giữ Tứ”. Nếu người nào không hiểu danh từ này thì họ có thể không hiểu cách thức tập luyện Định Diệt Tầm Giữ Tứ như thế nào. Ý nghĩa Định Diệt Tầm Giữ Tứ là phải giữ TỨ liên tục thì TẦM không vô được. Đó là thiện xảo. Đến khi thuần thục, kết quả của Định đạt được thì không còn tác ý “Hít” – “Thở” liên tục nữa, mà nó vẫn yên lặng vậy. Con ngồi xuống hít thở là cái tâm bám vào hơi thở liền, không còn đi trật đường nữa, là vì nó đã quen rồi. Khi tâm chưa biết cách bám vào hơi thở mà muốn bám vào thì bám trật vuột. Nó tức hơi nên cứ nhảy vô, nhảy ra mà có niệm.

Đề Mục 2 Và Đề Mục 3: Hơi Thở Chuẩn Là Hơi Thở Bình Thường

Khi luyện đề mục thứ nhất thuần thục, đếm hơi thở không lộn trong suốt thời ngồi thiền và thời nào cũng được như vậy là đã đạt được kết quả bước đầu của đề mục 1. Lúc đó, hơi thở sẽ thông suốt không bị chướng ngại và nó sẽ hiện tướng khi dài khi ngắn. Nếu là hơi thở dài thì hơi thở chầm chậm đi vô, đi ra, độ dưới 10 hơi thở một phút. Còn hơi thở ngắn thì nó như con thoi, hít vô thở ra nhanh, trên 10 hơi thở một phút. Khi nhận ra trạng thái đó của hơi thở thì chuyển qua tập đề mục 2 hay đề mục 3 tùy theo hiện tướng của nó.

Khi biết độ ngắn, độ dài của hơi thở và nương vào hơi thở dài, hay hơi thở ngắn thì thì chỉ tác ý câu dài “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài” đối với hơi thở dài, hay “Hít vô ngắn, tôi biết tôi hít vô ngắn; thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn” đối với hơi thở ngắn, và chú ý vào mức độ dài hay ngắn của hơi thở. Không còn bám chỗ tụ điểm nhân trung nữa, chỉ quan sát hơi thở thôi. Theo dõi độ dài hay độ ngắn của hơi thở trong khi hít thở chầm chậm và hãy nhớ cứ mỗi 5 hơi thở tác ý một lần.

Đề mục số 2 Định Niệm Hơi Thở hít thở dài, hay số 3 hít thở ngắn là để giữ hơi thở ổn định, không được dài quá, ngắn quá mà phải theo đặc tướng. Hai đề mục này để giữ hơi thở ổn định. Khi biết được hơi thở đặc tướng, nghĩa là khi con thấy hơi thở đó là an ổn, không có gì chướng ngại cho thân thì lấy hơi thở đó làm chuẩn. Từ đây giữ hơi thở duy nhất này mà tập luyện. Không được cho nó trở thành dài hơn cũng không được cho nó ngắn bớt, không được thay đổi nó hay để nó tự thay đổi, vì sẽ làm rối loạn hơi thở hoặc rối loạn cái tưởng, tưởng tức sẽ hiện ra phá, do đó bị ma chướng của tưởng. Hơi thở phải ở trong dạng con đang luyện. Khi luyện đã ổn định độ dài hay độ ngắn của hơi thở rồi thì về sau này có bất kỳ hơi thở nào khác lạ tới con lấy pháp Như Lý Tác Ý mà lôi nó trở về ngay liền hơi thở của đề mục này (tức hơi thở dài hay hơi thở ngắn).

Đó là hơi thở bình thường. Người có tu tập mới biết hơi thở bình thường của mình.

Đề Mục 4: Cảm Giác Toàn Thân

Sau khi đã có hơi thở chuẩn, hơi thở bình thường của đề mục số 2 hay 3 rồi, đã chủ động được nó, quan sát được nó, không cho nó thay đổi nữa, lúc bấy giờ mới qua đề mục 4. Trong đề mục này tụ điểm không còn trụ ở mũi nữa mà dời đi trùm khắp cơ thể. Tâm không bám vào đâu hết mà chỉ nương hơi thở vô ra và cảm nhận toàn thân.

Con nín thở tác ý “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”. Khi hít vô thì có độ rung động của thân theo hơi thở (dao động, máy động, phình xọp, nâng lên hạ xuống từng phần hay cả người,...), con quan sát, hay cảm nhận, hay lắng nghe độ rung động hay cảm giác đó. Nương vào sự rung động của thân. Lúc hít vô cảm giác rung động từ trên đầu tới chân và lúc thở ra cảm giác rung động từ chân lên đầu. Dường như khi tập như vậy con thấy tâm theo hơi thở quét từ trên xuống dưới, rồi từ dưới lên trên. Tương tự như lấy mắt nhìn từ trên xuống dưới theo hơi thở vào, rồi ngó từ dưới lên trên theo hơi thở ra.

Dùng tâm quét suốt từ trên đầu xuống tới chân, rồi ngược lại từ chân lên đầu, xem có cảm thọ gì. Nếu không có cảm thọ gì thì đó là cảm thọ bất lạc bất khổ, còn nếu có cảm giác mát, lạnh, nóng hay đau nhức chỗ nào thì đó là cảm thọ khổ. Chỉ ghi nhận thôi, tức là biết thôi, không làm gì hết, có thế nào ghi nhận như vậy. Không cảm thấy gì hết, cũng không cảm nhận gì hết, thì ghi nhân không có. Thấy có cảm giác gì, cảm nhận gì thì ghi nhận có. Có lạc hay có khổ hay có không lạc không khổ. Chỉ tập thấy rất rõ ràng bất kỳ cảm giác nào của toàn thân. Bất kỳ hiện tượng gì, cảm giác gì xẩy ra tại đâu trên thân, từ đầu cổ xuống tay chân, thân mình, chỉ ghi nhận cảm giác đó, dù đó là cảm thọ gì.

Đó là cách ghi nhận cảm nhận. Mới đầu tập như vậy. Khi tập đã quen rồi thì sẽ cảm thấy như có một làn sóng chạy lên chạy xuống theo sự quét của tâm. Nhưng có người lại có cảm giác ngược hướng, hít vào thì có cảm giác luồng sóng chạy từ dưới lên trên, thở ra thì cảm giác luồng sóng đi từ trên xuống.

Đừng dùng tưởng, dùng là trật. Cẩn thận đừng để hơi thở trở thành hơi thở tưởng cho nên từng lúc con thay đổi cách cảm nhận cảm giác đó. Thí dụ như tập trung cảm nhận trong toàn người, suốt từ trên đầu xuống tới ngón chân hay từ ngón chân lên đỉnh đầu. Những phần đối xứng thì đi liền cặp với nhau, như bên trái cảm nhận cùng lúc với bên mặt, đằng trước cảm nhận cùng lúc với đằng sau. Sau một lúc thì thay đổi, chỉ tập trung trong từng phần một của thân thể: khởi từ trên đầu, xuống vai bên mặt, tay mặt từ đầu vai ra tới các ngón tay, qua vai trái, tay trái từ đầu vai ra tới các ngón tay, ngực, bụng, lưng, mông, chân mặt từ đùi xuống tới các ngón chân, chân trái từ đùi xuống tới các ngón chân. Rồi cảm nhận ngược lên. Hay có thể chỉ lưu ý cảm nhận một vài phần của thân. Nội thân và ngoại thân cùng lúc. Nhưng vẫn nương vào hơi thở. Làm như vậy thì cái tưởng sẽ không xẩy ra. Khi cảm nhận như vậy thì không bó buộc chỉ cảm nhận toàn thân nương trong một hơi thở, mà có thể cảm nhận từng phần cơ thể nương trọn đủ một hơi thở vô ra.

Hồi Thầy tu tập, khi cảm nhận toàn thân theo đề mục này Thầy thấy hơi khó vì lúc hít vô thì cảm nhận thấy dường như một luồng sóng từ dưới đi lên, rồi thở ra thì luồng sóng từ trên đi xuống, làm như ngồi võng đu đưa nhè nhẹ. Tất cả những gì xảy ra trên thân Thầy thấy biết rất rõ, ghi nhận rất rõ. Nhưng Thầy cũng cẩn thận để không bị cảm giác tưởng hay hơi thở tưởng bằng cách tác ý theo từng hơi thở để cảm nhận toàn thân, có sự chủ động điều khiển thân và tâm của mình.

Thí dụ để cảm giác toàn thân thì Thầy tác ý thế này “Tâm hãy theo dõi khắp trong cơ thể nương vào từng hơi thở!”. Xong tác ý “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biêt tôi thở ra”. Rồi Thầy hít vô coi thử nó ra sao trên khắp thân. Hít vô thở ra lần thứ nhất; lần thứ hai; lần thứ ba; lần thứ tư; lần thư năm. Rồi nhắc lại câu tác ý.

Đó là cách thức huấn luyện tâm như là huấn luyện voi, như đức Phật đã nói. Nếu không tác ý thì có niệm khác xen vô. Cho nên “cảm giác toàn thân” là cả vấn đề dùng ý thức điều khiển cả thân và hơi thở. Phải hiểu như vậy mới tập luyện đúng lời dạy của Phật. Thầy triển khai vấn đề điều khiển cả thân và hơi thở  để nhiếp phục tâm bằng ý thức như đức Phật đã dạy trong kinh Pháp Cú:

    “Tâm chủ tâm tạo tác.
    “Tâm dẫn đầu mọi pháp”

thì phải dẫn tâm, nhiếp phục tâm lần lần cho quen, sau đó hít vô thở ra thì thấy cảm giác rõ ràng.

Cảm giác toàn thân thì hít vô cảm nhận cho được trong toàn thân, chứ không tập trung bất kì điểm nào. Phải tập luyện cảm nhận cho được. Hơi thở đầu cảm nhận, hơi thở kế không cảm nhận. Năm hơi thở nhưng chỉ có 2, 3 hơi thở cảm nhận được, còn 3, 2 hơi thở kia không cảm nhận mà cũng tính là 5 hơi thở cảm nhận như vậy là không kĩ.

“Tập cảm nhận thì tôi phải cảm nhận cho được. Bắt đầu mới vào thấy khó quá nhưng phải làm cho bằng được. Hít vô cảm nhận bắt đầu từ trên đầu xuống tới chân; thở ra cũng cảm nhận được toàn thân từ chân lên đầu. Vậy là tôi tập luyện có chất lượng, mỗi hơi thở đều phải cảm nhận cho được”. Con tự nói như thế.

Khi dẫn như vậy thì suốt thời gian phải tư duy để dẫn nó từng chút từng chút:  “Thân và hơi thở này tâm phải theo dõi sát nghe!” – Tác ý “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biêt tôi thở ra”. Cứ nhiếp ghi vào trong đó. Cứ nói thầm thầm trong đó. Đó là ý thức chủ động để cảm giác cho được thân theo hơi thở. Khi đã nhiếp phục được như vậy và không còn cần phải dẫn tâm lên xuống theo hơi thở nữa thì sẽ có trạng thái an tịnh xuất hiện. Hơi thở nào cũng cảm nhận toàn thân nghĩa là cảm nhận có trạng thái an lạc của toàn thân . Khi luyện cảm giác được như vậy rồi thì rất tuyệt vời là suốt thời gian 30 phút không niệm khởi, tức là nhiếp phục được tâm vào thân. Lúc đó những tư niệm sẽ tự động dẫn tâm và hơi thở để chúng nhiếp chặt chẽ vào với nhau. Nhưng trạng thái an lúc này chưa thật sự an đâu, chừng đến khi tập tới đề mục 5 bấy giờ mới bắt đầu dẫn an vô tâm.

Nếu cảm nhận không được thì nương qua câu tác ý của Thân Hành Niệm. Bài dạy về Thân Hành Niệm thì đức Phật dạy “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra” bởi vì ở bài này dạy về cảm nhận thân hành nương theo hơi thở. Còn bài Định Niệm Hơi Thở, Nhập Tức Xuất Tức, thì Phật dạy “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra” cho nên hơi khó hơn bài Thân Hành Niệm. Nếu khi tác ý cảm giác thân hành và lúc hít vô thở ra cảm nhận cơ thể có nhịp rung nhè nhẹ nhịp nhàng, ăn khớp với chuyển động của hơi thở đi vào đi ra thì nương vào đó mà cảm nhận thân. Khi luyện đề mục 1 và đề mục 2 hay đề mục 3 có kết quả rồi thì có sự thanh tịnh nên lắng nghe sự rung động này dễ lắm.

Khi cảm nhận toàn thân được rõ ràng mà cũng cảm thấy luồng hơi thở vô, luồng hơi thở ra của từng hơi thở rõ ràng nữa thì đó là đạt kết quả, tức là đã nương vào được trong hơi thở để cảm nhận toàn thân một cách ổn định. Trong khi tập luyện rất tinh cần như vậy, rất kĩ như vậy thì không có niệm nào vô được đâu. Tập luyện ít mà nhiệt tâm tinh cần thì bảo đảm có chất lượng và kết quả đến nhanh. Nếu không tinh cần, không nhiệt tâm thì niệm sẽ vô.

Và trong giai đoạn này, sức tập trung của con còn yếu, không thể kéo dài lâu sức tinh cần được. Vậy phải nhớ kĩ: Khi nhiếp phục tâm như vậy, vận dụng như vậy thì hao năng lượng, cho nên thời gian tập luyện phải ít, nghỉ phải nhiều. Nếu buồn ngủ, ngủ gật thì phải đi ngủ để phục hồi lại năng lượng đã tiêu hao.

Như vậy trong khi luyện đề mục này thì tâm di chuyển từng phần cơ thể hay trùm khắp thân, không còn bám ở chỗ mũi như trong khi tập luyện đề mục 1, 2 hay 3 nữa, và tập để biết được cách thức quan sát bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp trước khi thật sự tập luyện 4 Niệm Xứ sau này. Đến khi thực hành sự quan sát (tức giai đoạn ‘quán’) nếu trên bốn chỗ đó có đối tượng cảm thọ tham ưu gì thì phải dùng đề mục nào cho đúng với cảm thọ ở nơi đó để khắc phục đẩy lui.

Đề Mục 5: An Tịnh Thân, Đẩy Lui Cảm Thọ

Mục đích nhắm đến của đề mục 5 này là tập cho tâm an trú ổn định bằng cách nương vào hơi thở và dùng câu tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Vì tướng trạng an trú đã có sẳn lúc nhiếp phục tâm, nên khi tác ý an trú thì con dẫn đi và nó từ từ hiện ra.

An tịnh thân hành là khi hít vô thở ra thấy thân an thật sự chứ đừng nghĩ tưởng. Nghĩ tưởng sẽ sanh ra xúc tưởng hỉ lạc, là không tốt. Cứ cảm nhận sự an ổn của thân và sự yên tịnh (yên lặng) của tâm không có niệm. Hai cái, khi hít vô thì cảm thấy thân an, không bị động đậy, không bị rung động; khi thở ra thấy tâm không niệm, yên tịnh. Cứ hai cái đó mà cảm nhận thôi. Nếu nhanh thì chỉ trong 4, 5 hơi thở nó sẽ hiện tướng trạng thân an tịnh ra rất rõ. Bất động mà rất thanh tịnh. Thân rất an ổn. Con chỉ ngồi và tác ý như vậy mà không có cái gì làm cho thân đau được, làm cho tâm bất an được.

Trạng thái an ổn hay an tịnh đó lớn dần lên theo pháp hướng tác ý và sự lắng nghe. Nếu tác ý mãi đến 5, 10 lần nó mới hiện ra thì đó là chậm, chưa được. Con cần còn tiếp tục tập cho đến khi nó lớn dần lên đến mức độ mà mới chỉ tác ý một hay hai lần, trạng thái an ổn ấy xuất hiện liền. Đó là nhanh, là đúng, là được. Như vậy là đạt được kết quả của đề mục 5 này. Suốt trong khoảng thời gian từ 5 hay 10 phút mà tâm nhiếp thì trạng thái an ổn đó liên tục lớn dần lên. Tập cho đạt mức sung mãn an tịnh này.

Trong khi ngồi nghỉ xả thư giản mà tác ý xả tâm thì tâm sẽ được thanh tịnh cho nên khi tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, chỉ mới 5 hơi thở thôi thì đã thấy tướng trạng an tịnh hiện ra rồi. Nếu tâm còn chạy theo dục, chạy theo cái này, cái kia, còn lăng xăng thì phải tác ý nhiều phút, phải có thời gian để tướng trạng an tịnh nương vào trong hơi thở. Nó chưa nương vào hơi thở thì chưa hiện ra được.

Lúc luyện đề mục 5 này sẽ có sự an ổn nhẹ nhẹ là đúng, chưa phải sự an ổn nhiều. Nếu có sự an ổn nhiều là sai, phải chấm dứt bằng tác ý bảo nó dừng lại “An ổn này hãy dừng lại. Ta chưa cho an ổn”. Con phải nhắc, phải biết nhiếp phục trong hơi thở. Nếu không tác ý bảo ngưng thì sự an ổn này làm con có một niệm khác hơn là niệm của thân hành trong hơi thở. Chỉ niệm thân hành trong hơi thở mới thật là niệm mục đích của đề mục 5 (tức niệm thấy thân an tịnh nhẹ trong tác động của hơi thở).

Ở giai đoạn này chưa được sử dụng sự an ổn để tăng thêm năng lượng mà chỉ để nhiếp phục cho được tâm thôi, nên phải vận dụng năng lượng của con để nhiếp phục tâm. Tăng thêm năng lượng bằng cách không chủ động thì không được. Sau khi tâm an trú rồi thì con được giảm buồn ngủ, tức là năng lượng đã được phục hồi. Sau này, khi thân có cảm thọ khổ gì, dù ở mức vi tế, thì dùng kết quả đề mục 5 này mà đẩy lui.

Cảm thọ ở mức vi tế rất lợi ích. Người thường chỉ nhận ra được cảm thọ khi nào nó tới mạnh nhiều, lúc mới khởi sự thì không hay biết gì hết. Còn người tu tập cảm nhận toàn thân thì cảm thọ chỉ mới báo động thôi đã biết rồi. Tất cả bệnh đau gì cũng đều có báo động trước. Nhưng người thường luôn luôn bị đời chi phối, tâm chưa tĩnh giác nên không nhận ra, cho đến một hai ngày sau, khi đã thành bệnh, chừng đó mới biết, vì lúc đó đau quá. Nhưng người tu tập có cảm giác rất vi tế, khi ngồi hít thở sẽ cảm nhận thân rõ ràng. Trong thân sắp sửa có bệnh gì đang ủ, đang hình thành, ba bốn ngày nữa mới phát ra, thì ngay bây giờ đã nhận ra được. Khi nhận ra được như vậy con dùng đề mục thứ 5 tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” (cùng với tác ý đẩy lui chướng pháp của thân) thì có cái lực tác ý của đề mục đẩy chướng pháp đó đi. Khi đó chưa phải là bệnh, được khỏi bệnh do ngừa trước, nhẹ nhàng hơn, dễ hơn. Thí dụ sắp có cái nhọt ở đây thì nó có những cảm giác báo động trước, biết liền từ khi nó chỉ mới báo động, không phải đợi đến khi sưng u đỏ lên. Ở giai đoạn này đẩy lui bệnh dễ lắm, chứ khi nó đã tập trung nặng nề thì khó khăn nhiều, có khi không đẩy lui được.

Lúc đầu thì con phải tập luyện từng đề mục. Luyện đề mục 4 cho thành thục, cho nhuần nhuyển. Qua đề mục 5 cũng vậy. Sau đó thì mới phối hợp cả hai đề mục đó lại để đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân. Việc phối hợp cả hai đề mục để đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân đòi hỏi phải có thời gian tập luyện để có được năng lực mạnh mới đạt kết quả. Không có việc mới tập đề mục 4 lại kèm thêm đề mục 5.

Đề Mục 6: Cảm Giác Tâm Hành

Đây là đề mục tập luyện về tâm.

Khi luyện đề mục 5 Định Niệm Hơi Thở nếu tác ý một hay hai lần thôi mà đã có trạng thái thân an tịnh liền thì đó là kết quả an tịnh thân hành đã đạt được rồi. Chừng đó mới qua đề mục 6 “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Nhờ có trạng thái an tịnh của thân nên mới nhận ra được tâm dễ dàng. Khi thân an tịnh sẽ phát sinh hai trạng thái: trạng thái an lạc và trạng thái hoan hỉ. Nhận ra tâm là nhận ra trạng thái hoan hỉ đó.

Khi luyện tới đề mục này mới thấy mình điều khiển tâm chứ không phải ức chế, bởi vì mình nhận ra tâm hành hay tâm không hành và làm cho tâm trở nên không hành. Tâm có hai hành là tịnh và động. Nó khởi ra niệm này niệm kia, nó ở trong cái động. Đó là hành động, là tâm động. Còn tâm không hành là không khởi niệm; không khởi niệm là tâm tịnh. (Thân cảm thấy đau nhức, nóng, lạnh,... là thân hành).

“Cảm giác tâm hành” là xem tâm có hành động gì không. Thí dụ ngồi hít thở mà có niệm khởi thì đó là tâm động, hành động; còn khi hít thở hoàn toàn không niệm khởi là tâm tịnh, hành tịnh. Chỉ ghi nhận cảm giác hành tịnh hay hành động của tâm thôi, chỉ nhận rõ tâm đang tịnh hay đang động.

Bây giờ nương vào chỗ không khởi niệm là nương vào hành tịnh chứ không phải hành động. Khi tác ý  “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra” thì mới thấy rõ cái an, cái hoan hỉ của tâm, cảm thấy rất vui. Nếu chưa có cảm giác vui thì con không nhận ra được cái gọi là cảm giác hỉ đó. Khi ở trong trạng thái an tịnh của tâm thì có niềm hoan hỉ, thích lắm. Thích thú y như khi làm được tốt đẹp cái gì, khiến mình cảm thấy có sự hân hoan mừng rỡ. Tự trong tâm có sự hoan hỉ vui thích. Tập luyện mà tâm thích, ham tập. Khi tác ý cảm giác tâm hành thì con nhận ra niềm hoan hỉ này rất rõ.

Đề Mục 7: An Tịnh Tâm Hành

Sau khi cảm giác tâm hành rõ ràng rồi nghĩa là đã có cảm giác niềm hoan hỉ rất rõ rồi thì con tác ý đề mục 7 “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” để đưa tâm vào trạng thái an tịnh. Lúc đó tâm hoàn toàn tịnh. Ngồi yên lặng rồi quan sát tâm, con sẽ cảm thấy im phăng phắc, cảm thấy tâm ở trong một trạng thái vắng lặng tuyệt vời đặc biệt.

Cứ mỗi lần tác ý là con cảm nhận như tâm có sự an ổn trong im lặng và mỗi lần hơi thở ra vô là thân và tâm tràn ngập sự hoan hĩ an ổn. Chính trạng thái này là năng lực đẩy lui dễ dàng các cảm thọ về tâm.

Khi đạt được kết quả an tịnh tâm hành rồi thì con nên tạo điều kiện để trở về Tu Viện sử dụng pháp 4 Niệm Xứ đẩy lui các chướng ngại pháp. Bốn Niệm Xư tập luyện trong Định Niệm Hơi Thở sẽ đẩy lui hết các tham ưu chướng ngại. Lúc đo thì con chỉ còn luyện duy nhất pháp 4 Niệm Xứ thôi.

Các Đề Mục Thứ 8 Đến 17

Rồi đến đề mục thứ 8 đến 11 về phần hơi thở quán thân, quán thọ, quán tâm vô thường; sau đó, các đề mục thứ 12 đến 17 quán li, quán từ bỏ, quán đoạn diệt tâm tham, tâm sân, đều ở trong trạng thái an tịnh của tâm. Đây là những đề mục mà trong kinh nói là “đẩy lui các chướng ngại pháp”. Ta trở về 4 Niệm Xứ để tập luyện đẩy lui các chướng ngại pháp thì đúng phương pháp.

Sau khi thân tâm đã an trú được ổn định rồi thì lúc đó mới đúng lúc có đầy đủ năng lực để quán 4 Niệm Xứ vô thường “Quán thân (thọ, tâm, pháp) vô thường, tôi biết tôi hít vô”. “Quán thân (thọ, tâm, pháp) vô thường, tôi biết tôi thở ra”(đề mục thứ 8 đến 11); quán tâm tham, tâm sân để li, đoạn, diệt: “Quán li tham tôi biết tôi hít vô; quán li tham tôi biết tôi thở ra”... (đề mục thứ 12 đến 17). Đó là pháp xả tâm. Do nhờ xả tâm như thế con mới có thể bắt đầu nhiếp tâm được.

Đề Mục Thứ 18: Phá Buồn Ngủ

“Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” mặc dù nó là đề mục thứ 18 nhưng bây giờ con cũng tập tác ý đề mục này khi buồn ngủ trong lúc tập luyện Định Niệm Hơi Thở. Hoặc nếu trong khi đi kinh hành mà không tỉnh táo thì con tác ý “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi đi kinh hành”. Cho dù bây giờ chưa buồn ngủ nhưng cũng nên tập đề mục này để khi bị buồn ngủ con tác ý tới liền có hiệu quả, sẽ tỉnh. Nếu bây giờ không luyện, tới chừng bị buồn ngủ con tác y sẽ không có hiệu quả gì đâu.

Đức Phật đưa ra đề mục gì đều nhằm đối trị lại thân hành để thân được an ổn (“Quán thân trên thân...; quán thọ trên thọ...; quán tâm trên tâm...;quán pháp trên pháp dể khắc phục tham ưu ở đời”). Điều cần là phải biết cách tập luyện thì no mới đưa lại lợi ích lớn, kết quả cụ thể.

Đề Mục Thứ 19: ???

CĂN BẢN TU TẬP ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ

1.- Nhiếp Phục Tâm Và An Trú Tâm Vào Hơi Thở

Giai đoạn đầu, con tập luyện Định Niệm Hơi Thở thời gian ít, chỉ 5, 10 phút thôi, đừng lâu, lâu hơn là ức chế. Trong khi 5, 10 phút đó phải tập thật kĩ, biết thật rõ ràng từng hơi thở để an trú cho được trong hơi thở, tức là nhiếp phục được tâm trong hơi thở. Bắt buộc chế ngự “trói” tâm vào trong hơi thở vô, hơi thở ra. Vận dụng hơi thở như thế nào để phù hợp với cơ thể của con, đừng để mệt nhọc (thiếu oxy); phải như cách thức của người quay chỉ, không quay nhanh quá hay chậm qua để sợi chỉ không quá săng hay chùng lơi. Làm sao khéo léo sử dụng hơi thở đúng với cơ thể.

Theo đúng lời Phật dạy mà thiện xảo như vậy thì chắc chắn sẽ an trú được tâm trong hơi thở. Chỉ cần an trú 5 phút thôi là thành công rồi, không cần lâu tới 10 phút đâu.

Sau khi đạt được 5 phút nhiếp và an trú tâm rồi thì đứng dậy đi kinh hành vòng vòng chơi để xả tâm độ 5 phút rồi vô tập luyện tiếp 5 phút khác. Chỉ mỗi lần 5 phút thôi, đừng tập nhiều. Tập nhiều nguy hiểm vì kéo dài thời gian là bị ức chế mà ức chế thì dễ bị lọt vào tưởng, bị mất ý thức, bị buồn ngủ, ngủ gật. Cho nên chưa có hiện tượng cơ thể xẩy ra tưởng thì con đã đứng dậy đi rồi. Đó là con điều khiển hơi thở như người xe chỉ.

Có vậy thôi, không gì khác. Việc này tất cả các con đều làm được. Chỉ 5 phút thì có ai mà không làm được. Đâu có khó khăn gì. Chỉ cần tối đa 5, 6 tác ý là đã đủ 5 phút rồi. Nó rất vừa cho con tập luyện, chứ 10 phút, hay 20, hay 30 phút thì vượt quá sức của con giữ cho ý thức liên tục hiện tiền. Quá sức là có cố gắng. Có cố gắng là ức chế, là trật. (Chỗ này phải lưu ý: Khi tập luyện đã trải qua thời gian lâu rồi thì cũng phải đứng dậy nghỉ xả một lúc ngay khi vừa mất tĩnh giác, có vọng niệm, quên đối tượng đề mục).

Nói chung tâm phải niệm vào trong hơi thở thì đạt được sự nhiếp tâm. Không phải tập luyện lấy có, mà phải tập luyện rất nhiệt tâm từng hơi thở. Từng hơi thở vận dụng sự tập trung chú ý rất nhiệt tâm thì sẽ đạt được kết quả nhiếp tâm.

Người nhiệt tâm mới vô đầu là đã đạt được kết quả rồi, rất dễ dàng không có một niệm nào khởi trong lúc mới vào tập luyện. Không có nhiệt tâm nên có niệm khởi mới an trú không được. An trú có nghĩa là không một niệm nào xen vào trong hơi thở. Hãy nhớ kĩ vậy.

Tập luyện cho có chất lượng trong 5 phút rồi xả nghỉ 5 phút, 3 phút xong tập lại 5 phút khác. Tập luyện vừa đủ thời gian cho mỗi pháp môn là 30 phút nghỉ xả. Mà cũng có thể không nhất thiết đủ thời gian 30 phút bó buộc, chỉ tập vừa sức thôi; thấy mệt là nghỉ, thấy còn khoẻ mới tập luyện.

Luôn luôn phải giữ ý thức. Đừng để mất, đừng để lặn vào chỗ lơ mơ. Phải rõ ràng tĩnh giác. Thà tập luyện thời gian ít mà tập luyện rất miên mật thì chất lượng mới cao. Tập luyện dài lâu mỗi thời mà không miên mật thì không có chất lượng. Nhưng cũng tránh chất lượng cao mà lại thuộc vào ức chế.

Tập một phút phải có chất lượng một phút, nghĩa là không có một niệm nào xen vào trong khi biết hơi thở. Tâm nhẹ nhàng, thoải mái, dễ chịu, chỉ duy nhất biết hơi thở ra vô một cách tự nhiên liên tục không đứt đoạn trong suốt thời gian 5 hơi thở. Mục đích của đề mục 1 là nhiếp phục tâm (tức tâm bám thật kĩ từng hơi thở) và an trú được tâm trong hơi thở (tức không có một niệm nào xen vào trong khi biết rõ sát hơi thở).

Sau khi theo dõi nhiều lần 5 hơi thở trong 5 phút đã quen, không bị gián đoạn, không bị quên thì tăng lên dần nhưng không được lâu quá 30 phút, nghĩa là theo dõi biết hơi thở liên tục không bị đứt đoạn do có niệm khác xen vào làm quên niệm hơi thở trong thời gian đó. Lúc nầy cũng phải nín thở tác ý: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra" sau mỗi 5 hơi thở.

Nếu trong toàn thời gian 30 phút mà đếm không lộn lần nào, cứ 5 hơi thở tác ý, chú tâm theo dõi sát suốt từ đầu đến cuối từng hơi thở vô ra đều đặn, lúc nào cũng biết rõ hơi thở vô hơi thở ra, không có niệm nào khác, như vậy là đã luyện đạt được đề mục số 1 này. Tức đã nhiếp tâm và an trú tâm trong hơi thở được.

Phương pháp của Phật quá hay. Hồi đang tu Thầy chưa biết, đến chừng tu xong mới thấy rõ ràng pháp của Phật, mới thấy do mình tu tập sai, áp dụng không đúng cách mà sinh ra buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê hoặc là thực hành sai sanh ra vấn đề này khác. Theo đường lối tu tập của đạo Phật thì có 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở, trong đó đức Phật dạy chúng ta rất cụ thể và rõ ràng. Đầu tiên chúng ta phải nhiếp phục cho được tâm, mà muốn nhiếp phục tâm thì bốn đề mục đầu tiên của Định Niệm Hơi Thở: Hít vô, thở ra – Hơi thở dài – Hơi thở ngắn – Cảm giác toàn thân – phải luyện cho thuần thục, cho đạt được kết quả ổn định. Đó là những cách thức nhiếp phục tâm. Đến khi luyện đề mục thứ 5 thì tâm mới được an trú.

Người mới tập luyện, đầu tiên phải tập nhiếp tâm cho được, còn li dục thì chưa được vì họ còn đang tiếp nhận cuộc sống của đời thế tục, chưa phải là cuộc sống của người tu hành. Nhiếp phục tâm không phải là việc dễ vì nhiếp phục được tâm mới không có niệm. Nhiếp phục tâm không được thì có niệm xẹt vô xẹt ra. Như vậy người này bị tiêu hao năng lượng mà kết quả nhiếp phục và an trú tâm thì chưa đạt được.

Đích chánh của giai đoạn này là phải nhiếp phục và an trú được tâm trên thân hành, lúc đi cũng như lúc ngồi hít thở. Đó là hai điều quan trọng nhất của người mới tu tập. Do đó thời gian tập luyện của họ không thể đạt ngang thời gian của người tu tập lâu được. Họ chỉ có thể tập luyện trong một khoảng thời gian nào đó thôi để sự hao hụt năng lượng này được giờ ngủ nghỉ phục hồi lại. Chỉ ngủ mới phục hồi năng lượng tiêu hao. Và phải ăn cho đủ dưỡng chất đầy đủ năng lượng để họ không bị buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê trong khi tập luyện để nhiếp phục cho được tâm.

Khi đang trải qua thời gian nhiếp phục tâm thì cần phải tập luyện ít, bởi vì chưa có sự an trú thì năng lượng bị tiêu hao, rất dễ sinh ra buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê. Nếu giữ đúng theo như trong các sách nói về đời sống của Thầy thì mấy người mới tu tập không chịu nổi. Vì ăn ngày một bữa, lượng ăn đã ít mà nếu thực phẩm đơn giản quá thì năng lượng bị hao hụt và bị sụt cân, bị buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê. Nếu tổ chức đúng cách thì người đang tu cần được ăn uống đầy đủ dinh dưỡng trong bữa ăn duy nhất mỗi trưa này của họ. Người mới tập luyện đang bị tiêu hao năng lượng sự sống vào việc tập luyện của họ. Còn người tu tập lâu rồi thì khác.

2.- Chọn Đề Mục Nhiếp Tâm

Đức Phật đưa ra đến những bốn đề mục Định Niệm Hơi Thở số 1, 2, 3 và 4 chỉ nhằm để nhiếp phục cho được tâm. Nếu đề mục thứ nhất chưa đạt được nhiếp phục thì tập đề mục thứ hai hay thứ 3; tập đề mục thứ hai hay thứ 3 chưa đạt thì tập đề mục thứ 4. Không phải bốn đề mục này là bốn giai đoạn tu tập, mà chỉ để xác định đặc tướng người tu tập thích hợp với đề mục nào trong việc nhiếp phục tâm thì họ lấy đề mục đó mà tập luyện nhiếp cho được.

Nếu khi tu tập Định Niệm Hơi Thở, con nhiếp phục được tâm kĩ trong đề mục 1 và trong thời gian tập luyện không thấy gì nhưng khi xả ra thấy nhức đầu, nặng đầu hoặc nghe khó chịu thì bỏ đề mục đó, lấy đề mục thứ 2 hay thứ 3. Khi lấy đề mục thứ 2 hay thứ 3 này để nhiếp phục tâm, tức xem coi hơi thở dài hay hơi thở ngắn được an trú dễ, con sẽ chọn lấy hơi thở đó mà tập luyện. Hít vô thở ra chầm chậm để nắm vững độ dài hay ngắn, độ mạnh hay nhẹ của hơi thở như thế nào mà nhiếp tâm được dễ. Con vận dụng hơi thở này để nhiếp phục và an trú tâm.

Nếu tập trong thời gian 5, 10, hay 15 phút mà không thấy xẩy ra nhức đầu, căng mặt thì đề mục thứ 2 hay thứ 3 này hợp với con. Nếu tập mà có những chướng ngại như trên, hay tâm sinh lười biếng thì phải tức khắc sử dụng đề mục thứ 4 để chế ngự các trạng thái trên, đừng tập dài lâu với đề mục thứ 2 hay thứ 3 này. Đề mục thứ 4 là cảm giác toàn thân. Mới vào tập mà con nhiếp phục tâm được bằng cảm nhận cảm giác thì tốt; nếu không được thì phải nương theo tác ý ở trong đề mục để cảm nhận. Đó là thiện xảo. Khi thay đổi đề mục thì trạng thái si cũng không tác động được.

Một trong bốn đề mục, con hợp với đề mục nào thì chuyên tập luyện ở đề mục đó cho đến khi thuần thục trong việc nhiếp phục và an trú tâm. Đề mục nào dù nhiếp phục được tâm nhưng gây chướng ngại trên thân thì phải bỏ. Phải thưa hỏi Thầy liền. Cả bốn đề mục chỉ nhằm để nhiếp tâm, chỉ để xét nghiệm đặc tướng xem thử hợp với đề mục nào. Trường hợp không biết rõ đề mục nào hợp thì con phải đi từ đề mục số 1, đến đề mục số 2 hay thứ 3, rồi đề mục số 4 để xét nghiệm.Đề mục nào không hợp thì phải xẩy ra trục trặc.

Việc đầu tiên khi tu tập thiền định là phải nhiếp phục cho được tâm trong hơi thở; nếu không chủ động được thì phải thưa hỏi để Thầy chỉ dạy cách thức, rồi tự rút tỉa theo đặc tướng của mình trên kinh nghiệm của vị Thầy mà tập luyện. Sau khi tập luyện, trình lại kết quả nhiếp phục chủ động được cái tâm hay không được để Thầy nói thêm kinh nghiệm cho mà tập luyện. Cứ rút tỉa hoài thì con sẽ nhiếp phục được tâm. Nhiếp phục được tâm thì con đã đi qua được một chặng đường khó.

Nếu hít thở vừa để nhiếp phục vừa để an trú thì dễ sanh tưởng lắm. Chưa nhiếp phục tâm thì chưa đủ sức an trú mà muốn an trú thì phải ức chế cái ý. Vì cái ý chưa đủ sức làm chủ sự an trú mà có sự an trú thì coi chừng tưởng.

3.- Khi Nhiếp Tâm Vào Trong Hơi Thở

Bây giờ luyện cho nhuần nhuyển đề mục số 2 để hơi thở dài hay đề mục số 3 để hơi thở ngắn hiện ra ổn định rồi thì cảm giác toàn thân sẽ dễ nhận ra. Những cảm giác đang có và con vừa trình Thầy, không phải là cảm giác trên thân thì chúng thuộc tưởng thôi.

Khi nhiếp phục tâm vào trong hơi thở rồi thì có sức tĩnh giác rất cao. Những người chưa nhiếp phục được tâm vào hơi thở mà cảm giác thân hành thì cảm giác đó chỉ là cảm giác thuộc tưởng, không ngoài tưởng được. Khi nhiếp tâm vào hơi thở được sung mãn thì sức tĩnh giác quá cao rồi, quá siêu rồi, vì vậy mà khi hít vô, cảm giác khắp thân rất dễ dàng. Chỉ người tu tập tới mức đó mới biết chứ người ngoài đời nghe chỉ tưởng thôi.

Dù có cảm giác như thế nào cũng đừng chấp nó, cứ ở trên đề mục mà tập luyện. Càng lúc càng tĩnh giác, vì nó thuộc về pháp tĩnh giác. Cứ nhiếp vào hơi thở, tức đừng vận dụng hơi thở nhiều, cứ để nó tự nhiên. Bởi vì khi luyện đề mục 2 hay 3 là đã nhận ra được hơi thở tự nhiên của nó dài hay ngắn. Và con nhận thấy hơi thở nào nhiếp phục được tâm dễ, con nương theo độ dài, hay độ ngắn của hơi thở đó chớ không phải dùng cơ vận dụng, tức không gò ép hơi thở cho nó dài ra hay ngắn lại.

Tới đề mục 5, con buông tụ điểm nhân trung ra, không còn bám ở tụ điểm đó nữa. Khi tác ý “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô” thì chỉ biết hơi thở hít vô trong khi cảm thấy toàn thân an ổn, chứ không tìm an ổn chỗ nào hết. Phải tập nhiếp phục tâm cho tới khi thật sự đã thuần quen với hơi thở thì tự nhiên có cảm giác toàn thân đó.

“Nương vào hơi thở” là nhiếp tâm vào trong hơi thở, cho nên tâm không còn bám vào duy nhất một chỗ nào nữa vì bám ở đâu thì chỉ biết ở đó thôi. Tâm không bám ở đâu cho nên khi hít vào con tác ý bảo an tịnh thì thấy từ trên đầu xuống tới chân có cái gì an cả một vùng không gian chứ không phải chỉ an trong thân này thôi. Không khí cũng không còn nóng lạnh gì hết, toàn bộ an. Cả cái thân bây giờ đau nhức mà tác ý bảo “An tịnh!” thì nó cũng an luôn, không còn thấy đau nữa.

Có chủ động được vậy mới thành tựu đề mục thứ 5. Nếu giai đoạn này luyện kĩ như vậy rồi thì sau này sang tới giai đoạn luyện 4 Niệm Xứ thời gian sẽ ngắn và sẽ đẩy lui chướng ngại pháp được dễ.

Bây giờ con tập để nhiếp phục tâm cho bằng được. Nếu trong pháp kinh hành, trong khi bước đi chưa nhiếp phục tâm được, có nghĩa là trên bước đi còn bị thất niệm, lại bỏ qua, không quyết chí nhiếp phục tâm cho bằng được, không để gián đoạn hay sơ sót niệm bước đi mà chỉ cố gắng nhiếp phục tâm trong hơi thở thôi là ức chế. Khi tập luyện hơi thở con ngồi yên tịnh nên không bị thất niệm, còn khi bước đi thân động nên bị thất niệm ở bước đi. Nếu nhiếp phục tâm được cả ở trong hơi thở và ở trên bước đi thì mới bảo chứng được rằng đã nhiếp phục được tâm, vì cả hai thân hành, thân hành nội và thân hành ngoại, đều nhiếp phục tâm được hết.

4.- Thực Hành An Trú Tâm Vào Hơi Thở

Khi con đã nhiếp phục được tâm như vậy rồi thì Thầy mới dạy cách an trú. Chỉ khi nhiếp phục được tâm thì mới đủ điều kiện để an trú tâm. Nếu chưa nhiếp phục được tâm, chưa đủ điều kiện an trú tâm mà dạy cho con cách an trú thì sẽ bị tưởng, là trật đường.

Nếu trong 5 phút con ngồi biết hơi thở vô ra nhẹ nhàng tự nhiên, không thất niệm, không có tạp niệm, hay khi đi cũng thấy từng bước đi kinh hành rõ ràng, không bỏ sót động tác nào của chân, chỉ cần kéo dài đúng 5 phút là đủ điều kiện để thân an trú rồi.

Từ trước tới nay cứ 5 hơi thở tác ý một lần, bây giờ, sau khi đã không còn bị thất niệm trong suốt 5 phút, thì tăng lên 10 hơi thở mới tác ý và giữ cho trong thời gian 10 hơi thở đó không có niệm nào xẹt vô. Rồi tăng dần lên cho tới 5 phút tác ý một lần, cũng giữ không cho bị thất niệm trong thời gian đó.

Con chỉ cần luyện nhiều đoạn 5 phút cho nó trọn vẹn như thế. Tuy thời gian tập ít nhưng giữ đúng cách tập luyện để có chất lượng. Nếu kéo dài liên tục đến 30 phút hay 1 giờ thì quá nhiều mà không ích lợi, vì con không thể giữ tâm nhiếp và an trú lâu dài như vậy được. Sức con không đủ thì phí sức, mất thì giờ nhiều mà không kết quả, do vậy không có chất lượng. Cách tập luyện đúng là lấy tiêu chuẩn 5 phút và lấy 10 hơi thở tác ý, Cứ trong khoảng thời gian 10 hơi thở đó không thất niệm là được của thời gian đó. Cho đến khi đạt được kết quả của thời gian 5 phút là đã có đủ điều kiện để an trú được rồi, trạng thái an trú sẽ xuất hiện ngay. Sau đó con tăng dần số hơi thở lên 20 hơi thở mới tác ý,... cho đến 40, 100 hơi thở mới tác ý,... thì trạng thái an trú càng được mạnh lên và được kéo dài ra.

5.- Cách Kiểm Tra Kết Quả Đề Mục

Khi mới ngồi xuống vừa hít thở mà đã thấy tướng trạng của đề mục nào thì đó là đã viên mãn đề mục đó cùng với tất cả những đề mục khác trước đề mục đang luyện. Cho nên khi đang luyện một đề mục nào thì vừa ngồi xuống là tập ngay đề mục đó vì các đề mục trước đó đã thuần thục, đã đạt được kết quả rồi. Không cần phải trở lại các đề mục trước cho tới đề mục đang luyện.

Như con luyện tới đề mục 7 “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” thì khi vừa ngồi xuống, tâm con chí vô ngay đề mục này liền.

Nếu luyện đề mục 6 “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra” mà cảm giác tâm hành khó khăn thì bởi đề mục 5 chưa kết quả, chưa đạt được sự an tịnh của thân.

Vả lại, nếu còn niệm khởi thì chứng tỏ ngay cả đề mục 1, đề mục 2 hay đề mục 3 cũng chưa xong. Phải trở lại tập luyện chúng. Nếu các đề mục đó có kết quả xong rồi thì không thể nào có niệm khởi lên được.

Kết quả của đề mục 1 và đề mục 2 hay đề mục 3 xong rồi thì đề mục 4 mới dễ luyện thành công; đề mục 4 kết quả xong mới tập luyện thành công đề mục 5...Khi luyện đề mục trước đạt kết quả xong thì tướng trạng đề mục kế đó hiện ra liền; nếu kết quả chưa xong thì nó không hiện ra đâu, không vượt qua để tập đề mục khác sau đó được.

Vậy phải tập luyện nhiếp tâm cho được ở đề mục 1 và đề mục 2 hay đề mục 3 thì mới căn bản chủ động. Nếu vô hơi thở khi thì yên, khi thì có vọng tưởng thì đó là chưa chủ động được. Nếu chủ động được thì khi vừa ngồi xuống hít thở nó vô ngay thân an tịnh cho nên con vô đề mục 5 liền. Cũng như khi tập tới đề mục 7, vừa ngồi xuống hít thở thì vô ngay đề mục 7 liền, thấy tâm yên lặng liền. Không phải tập từ đề mục 1, 2 hay 3 cho đến đề mục 6, 7 đâu. Không phải vậy. Tại vì những lớp trước đó, những kết quả đó đã trải qua, đã có rồi. Vô là vô ngay lớp này chứ không phải trở lại từng cái trước nó. Đã nhiếp tâm được rồi thì chỉ mới tập trung nhiếp là tướng trạng yên lặng an tịnh của thân tâm hiện ra. Đó là xác chứng kết quả tập luyện đã được trọn vẹn.

Trong bất kỳ giai đoạn nào, có khó khăn với đề mục nào thì phải rà soát lại, phải luyện lại các đề mục trước cho kết quả được chắc chắn đạt. Khi kết quả đạt được thì đề mục sau tập rất dễ. Kết quả chưa đạt được thì chỉ tập luyện dẫm chân tại chỗ.

Khó khăn là lúc khởi đầu. Đề mục 1 mà đạt được thì những đề mục kế đó dễ kết quả lắm. Cho nên thiện xảo “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra”– “Hít” – “Thở” – “Hít” - “Thở”. Đó là “Định Diệt Tầm Giữ Tứ”, là cách thức tập luyện nhiếp tâm có chất lượng.

Như thế mỗi lần tập luyện đâu cần thời gian dài, chỉ ngắn thôi. Không cần tập luyện các đề mục này nhiều giờ, dài lâu. Chừng kết quả ổn định rồi, thì lúc luyện 4 Niệm Xứ mới kéo dài là để xả tâm thật sạch, cho đến khi 7 Giác Chi xuất hiện để con nhập Định.

Điều quan trọng và cần thiết là phải thiện xảo trong khi tập luyện. Buổi trưa phải thiện xảo theo buổi trưa; chiều thiện xảo theo chiều; chứ không phải buổi nào cũng y nhau đâu. Vả lại còn theo từng thời tiết nữa. Tu hành tuy khó thật, nhưng nó làm cho con trở nên khéo léo nhiều, biết cách vận dụng. Thí dụ buổi trưa đó con thấy hơi thở trở nên ngắn hơn bình thường. Nó tự ngắn thì thế nào cũng có vọng tưởng. Cũng như vậy, nếu nó có dạng hơi thở dài hơn bình thường thì sẽ có vọng tưởng. Thành ra con phải vận dụng sao đừng cho hơi thở rối loạn, vận dụng làm sao để quân bình cơ thể vượt qua thời tiết vì lúc đó thời tiết làm cho hơi thở như vậy. Ngoài ra khi nó như vậy thì con phải coi chừng, phải thiện xảo, khéo léo, không được tập luyện kéo dài quá lâu.

Định Niệm Hơi Thở là pháp môn đức Phật trang bị cho chúng ta có đủ năng lực để đẩy lui các chướng ngại pháp trên 4 chỗ thân, thọ, tâm, pháp.

6.- Kéo Dài An Trú – Kết Quả An Trú

Khi an trú được trong đề mục thứ nhất của Định Niệm Hơi Thở thì mới thấy được hơi thở dài hay ngắn, chừng đó mới tập qua đề mục thứ 2 hay thứ 3 để điều khiển hơi thở dài ngắn theo sự an trú trong hơi thở đó. Khi chưa an trú thì đâu biết hơi thở của mình dài hay ngắn ra làm sao để điều khiển nó phù hợp với độ dài ngắn đó. Vì thế mới ức chế hơi thở.

Tập luyện thì phải có căn bản, nghĩa là: “Tâm phải an trú cho được vào hơi thở. Phải tìm mọi cách, bằng mọi cách phải làm cho tâm được an trú”. Mỗi người có một đặc tướng cho nên thấy cách nào hợp, an trú được thì lấy cách đó mà an trú. Không hợp thì phải sửa cho hợp, cho an trú. Nếu không tự tìm được thì Thầy sẽ chỉ dạy cách này hay cách khác.

Đây là cách thức để kéo dài sự an trú: Pháp của Phật là pháp dẫn tâm nên phải nhớ câu tác ý nào đã dẫn tâm vào an trú thì lấy câu đó sử dụng lại mỗi khi muốn kéo dài sự an trú, không để nó giảm sụt. Nếu không nhớ, không biết được câu tác ý nào đã đưa lại sự an trú thì không làm sao để kéo dài sự an trú được. Phải nhớ kĩ mới luyện có kết quả. Có an trú được thì từ từ mới có lực an trú hiện ra.

Thí dụ lực an trú hiện ra đang tốt thế mà luyện một lúc thì nó bắt đầu lui ra, lúc đó phải nhớ pháp Như Lý Tác Ý nào đã sử dụng để được an trú thì khi ấy phải lấy pháp Như Lý Tác Ý đó tác ý lại. Trong khi đang an trú thì sử dụng câu tác ý nào cũng được, nhưng khi thấy nó lui ra thì lấy câu tác ý đã đưa lại kết quả an trú, áp dụng câu đó lại để duy trì sự an trú. Đó là cách thức kéo dài sự an trú.

Khi đạt được kết quả nhiếp tâm và an trú tâm như vậy thì bắt đầu từ đó con không thấy đời sống của con kham khổ mà người khác nhìn thấy sống như thế cho là sống kham khổ, bởi vì lúc đó con chỉ ăn rau nước tương mà vẫn khoẻ, chứ ai mới vô tu tập mà ăn như thế thì chỉ được vài bữa là họ cáo chạy ngay.

Khi thân tâm hoàn toàn nhiếp và an trú thì nghe trong thân sung mãn lắm, sau thời tập luyện, xả ra không thấy đói khát, không mệt mõi, không buồn ngủ thì ta đã ở trạng thái khác, lúc đó năng lượng xuất phát từ trong thân nuôi dưỡng sung mãn thân của ta.

Năng lượng dồi dào sẽ biến thành năng lực. Khi năng lực dồi dào mà không biết sử dụng để li dục li ác pháp thì sẽ sanh ra nhiều hiện tượng khác. Nếu người đó không biết hướng về đường tu tập đúng thì nó trở thành trạng thái tưởng mà ta thường coi như là thần thông. Còn người đời khi năng lượng của họ dồi dào do ăn uống, do tuổi tác, thì năng lực của họ sanh ra khiến họ đòi hỏi dục. Khi họ thoả mãn dục thì năng lượng tuôn trào, tiêu hao.

Người tu tập khi thấy hiện ra những tướng trạng tưởng thì phải biết lúc đó năng lượng sung mãn. Đó là lúc bắt đầu dùng năng lượng để tác ý li dục li ác pháp. Lúc tập luyện những đề mục 8, 9,... của Định Niệm Hơi Thở thì phải dùng năng lực của năng lượng dồi dào này để quán, để li.

Nếu Thầy không giải thích điểm này thì không ai hiểu được cách tu đâu. Phật pháp quá vi diệu. Tu xong rồi Thầy mới nhìn thấy. Đức Phật đưa ra những đề mục của Định Niệm Hơi Thở đã xác định quá rõ những mục đích và những chặng đường tu tập. Người ta không biết, cứ tiêu hao năng lực không đúng chỗ, riết rồi người ta bỏ cuộc.

7.- Tập Luyện Phải Đạt Kết Quả

Đề mục Định Niệm Hơi Thở thứ nhất “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra” là biết hơi thở vô ra tại tụ điểm nhân trung. Nếu không đặt tâm tại tụ điểm nhân trung thì con rất khó trong việc theo dõi hoặc không theo dõi được hơi thở đâu. Đến khi nhiếp phục tâm được trong hơi thở, lúc đó hơi thở có bất cứ sự thay đổi nào cũng nhận ra rõ, thấy rõ ràng hơi thở có lúc dài, có lúc ngắn. Đó là nó bắt đầu chuyển qua đề mục thứ 2 hay thứ 3.

Hồi mới tập con không dễ dàng nhận ra hơi thở dài hay ngắn đâu. Bây giờ nhận ra được vậy là để con chuyển qua luyện đề mục thứ 2 hơi thở dài, hay thứ 3 hơi thở ngắn. Khi nhận ra được hơi thở dài, hơi thở ngắn thì cảm thấy thanh thản, đó là lúc con bắt đầu nhiếp được tâm.

Con nhận xét hơi thở nào, hơi thở dài hay hơi thở ngắn, giúp con có sự nhiếp tâm – vì con đang ở giai đoạn nhiếp tâm chứ chưa vào an trú tâm đâu – Nếu thấy hơi thở dài giúp nhiếp tâm được, còn hơi thở ngắn lúc nhiếp được lúc không thì con chọn lấy hơi thở dài. Khi đó nương vào hơi thở dài thôi, ngắt hơi thở ngắn kia ra, đừng cho nó xen vào nữa. Khi đã chọn hơi thở dài rồi thì điều khiển nó bằng câu tác ý hơi thở dài “Hít vô dài, tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài”. Và giữ độ dài cố định như vậy, không thay đổi, không cho tự nó thay đổi.

Thuần thục đề mục thứ 2 (hay thứ 3) thì sẽ có cảm giác cảm nhận toàn thân. Đó là lúc qua đề mục 4. Khi luyện với hơi thở chuẩn được ổn định, không còn xen kẽ hơi thở khác nữa, thì con mới nhận ra được cảm giác toàn thân. Nếu luyện đề mục 2 hay 3 chưa đạt tới kết quả, nghĩa là chưa thuần thục cố định trong hơi thở chuẩn, mà con cứ cố gắng cảm giác toàn thân lúc hít vô, lúc thở ra, thì sẽ đến lúc sinh cảm giác tưởng chứ không thực có.

Chưa nhuần nhuyển trên đề mục 2 hay 3 cho nên chưa thực có cảm giác toàn thân rõ. Cũng như khi nhuần nhuyển trên đề mục 1 thì mới nhận ra được hơi thở dài hay ngắn, tức đối tượng của đề mục 2 hay 3. Nếu chưa nhuần nhuyển đề mục 1 mà ráng thở dài ra thì nó làm cho con mệt vì vận dụng hơi thở nên hao năng lượng. Còn đây đã nhuần nhuyển trên đề mục 1, không do vận dụng mà nó tự đưa tới cái biết hơi thở dài, hay hơi thở ngắn, nên con biết nó đã chuyển qua đề mục 2 hay 3 vì thế chuyển qua tu tập đề mục 2 hay đề mục 3. Có được kết quả đề mục 1 thì nó làm cho pháp tập luyện đề mục thứ 2 hay thứ 3 dễ, kết quả đề mục dễ đạt.

Nói tóm là sung mãn đề mục trước thì nó tự chuyển qua đề mục kế. Sung mãn đề mục kế thì nó chuyển qua đề mục kế nữa. Mỗi lần chuyển đề mục thì phải sử dụng câu tác ý của đề mục đó để pháp tập luyện được đi sâu hơn mới thực hiện được kết quả của đề mục. Chưa có kết quả của lớp này mà lo lên lớp khác thì không tránh khỏi bị tưởng. Cho nên những người không lưu ý lời Thầy dạy thì họ bị tưởng hết. Do kết quả tập luyện nên con mới nhận ra được chỗ dài ngắn của hơi thở và con đã tĩnh giác được rồi nên mới nhận ra hơi thở dài ngắn. Nếu còn dụng công, chưa tĩnh giác thì chưa nhận ra dài ngắn đâu.

Khi sung mãn đề mục 4, nó mới đẩy con đến đề mục 5. Đến đây con mới được thân an, mới tập để thân được an trú. Đề mục 2 hay đề mục 3 chưa sung mãn, đề mục 4 cũng chưa đưa đến sung mãn mà lo tập đề mục 5 thì con sẽ bị an trú tưởng. Không thật, không đúng cách.

Khi đã an trú được thân (đề mục 5), rồi an trú được tâm (đề mục 6) thì con đã tới đề mục 7 của Định Niệm Hơi Thở.

Ngang đây thì con nên dừng lại. Từ đây trở đi là pháp môn li dục li ác pháp, không còn tập luyện trên Định Niệm Hơi Thở nữa mà trở về 4 Niệm Xứ luyện để li dục li ác pháp cho hết. Ác pháp là những sự đau nhức... tác động trên thân, những niệm này niệm kia khởi ra trong tâm. Lúc đó con dùng 4 Niệm Xứ đẩy lui các ác pháp đó đi. Khi an trú được thì đẩy lui được. Cái gì cũng đẩy ra được hết. Đau bệnh trên thân cũng đẩy lui để thân an, tâm khởi niệm cũng đẩy lui để tâm an. Khi không an trú thì không làm sao đẩy lui các ác pháp đó, các cảm thọ đó được. Vì vậy nên đây gọi là khắc phục tham ưu mà trong kinh nói. Con hiểu chứ?

Sau khi đã an trú được thân (đề mục 5), rồi an trú được tâm (đề mục 7) lúc đó phải trở qua 4 Niệm Xứ để luyện tiếp các đề mục còn lại của Định Niệm Hơi Thở. Những đề mục quán vô thường, quán li tham, li sân là luyện bằng pháp 4 Niệm Xứ (từ đề mục thứ 8 trở đi). Có tham, có sân là có ác pháp. Có ác pháp thì mới đuổi, mới li. Phải biết chuyển qua 4 Niệm Xứ đúng lúc, đúng cách.

8.- Tránh Trở Thành Thói Quen

Nhưng coi chừng tập luyện mà trở thành thói quen thì cũng trật. Thí dụ con cứ luyện chỉ 5 hơi thở tác ý, hay bất kỳ khoảng thời gian nào cũng vậy, mà không thay đổi thì lâu ngày thành thói quen, là trật. Khi thấy kết quả an trú đã ổn định thì tăng khoảng cách tác ý dần lên, cho dài lâu hơn để không bị trở thành thói quen.

Tác ý nhằm đẩy lui buồn ngủ và tác ý luyện nhiếp tâm thì đó là ĐỊNH DIỆT TẦM GIỮ TỨ. Đó là giai đoạn 5 hơi thở tác ý một lần. Đến khi tâm hoàn toàn nhiếp vào hơi thở trong suốt từng đoạn 5 hơi thở thế là định Diệt Tầm Giữ Tứ thành công ở đề mục 1 (hay 2 hoặc 3). Sau đó thưa dần câu tác ý, cứ 10 hơi thở, rồi 20, 30 hơi thở,... cứ như vậy cho tới khi 5 phút mới tác ý một lần. Rồi chỉ một lần tác y trong suốt thời gian lên tới 30 phút.

Lúc này con muốn được an trú thì chỉ cần tác ý một lần liền an trú được, không cần phải nhiều lần tác ý liên tục mới an trú, mới đủ điều kiện để an trú xuất hiện như trước kia nữa. Cứ thưa dần câu tác ý mà vẫn nhiếp phục được tâm trong khoảng thời gian đó thì mới đúng cách tập luyện. Đừng tập đứng một chỗ sẽ trở thành thói quen không tốt, không kết quả, mất thì giờ. Nhưng coi chừng tăng quá sức sẽ bị buồn ngủ. Phải giữ không cho tăng lên quá sức, chỉ tu tập ở mức độ vừa sức cho thành thục, cho sung mãn năng lượng để khỏi bị buồn ngủ, ngủ gật vì mất sức. Thế là tiêu chuẩn chủ động an trú con đã đạt được rồi, đã ổn định rồi thì chuyển qua đề mục khác.

Khi đề mục 4 chưa có kết quả của 5 phút hay lâu hơn, thì đề mục 5 chưa thể tập được vì chưa có đủ điều kiện kết quả của đề mục 4 đem lại. Do vậy, hãy khoan ngó tới đề mục 6 và đề mục 7, chúng thuộc phần tâm, liên quan các định chặt chẽ hơn mà phần an trú thân con chưa đạt kết quả ổn định thì không lợi ích để hiểu biết thêm.

Các đề mục 1 cho đến 5 là phần an trú thân hành nội và thân hành ngoại. Sau khi phần này được thuần thục, có được nội lực, được sung mãn năng lượng thì phần tâm ở các đề mục 6 và 7 mới khởi sự. Có vậy sự tập luyện mới căn bản, luyện mới có kết quả.

Nhưng cần lưu ý: tập luyện phải ít thời gian, đừng kéo dài lâu quá. Kế đó phải giữ gìn các giới hạnh cho thanh tịnh, cho nghiêm (tức giữ giới độc cư vắng vẻ trọn vẹn và giờ ăn uống, thức ngủ) . Từ đó tâm tự đi vào an tịnh, chứ giữ giới không trọn thì tâm vẫn bị phóng dật, vẫn bị bất an.

Hiện giờ Tu Viện chưa đủ môi trường tạo sự vắng vẻ cho người chuyên tu, lại thêm có nhiều người không tự vắng vẻ, họ làm động người khác, làm động Tu Viện. Bởi vậy, ngày xưa các ngài Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất muốn tu tập giai đoạn chót, phải đi vào rừng vắng, không thể nào ở trong chúng mà tu tập được. Mục Kiền Liên thì vào một khu rừng vắng để tập luyện một mình, còn ba vị tôn giả nhóm Anuruddha thì xin Phật đi vào khu Rừng Sừng Bò. Điều kiện môi trường đòi hỏi phải đúng mới thực hiện được chiều sâu thiền định.

Hiện giờ, con chỉ đang tập phần căn bản, chưa đi sâu vào thiền định nên điều kiện môi trường vắng vẻ chưa quan trọng lắm.

9.- Vận Dụng Hơi Thở – Đường Dây Hơi Thở

Đầu tiên nếu khi luyện Định Niệm Hơi Thở để hơi thở tự nhiên mà nó không đều, khi dài khi ngắn, khi mạnh khi yếu, xảy ra trong một hai thời tập thì phải vận dụng hơi thở. Đức Phật nói vận dụng hơi thở như một người quay chỉ hay như một người thợ gốm nắn đồ vật trên bàn quay làm cho liền lạc, đều đặn. Ý đức Phật dạy làm thế nào để hơi thở phải đều cũng giống như người quay chỉ phải quay đều đều để chỉ không bị lúc săng lúc chùng lơi. Đường dây hơi thở của chúng ta là sợi chỉ, còn cách quay là cách chúng ta vận dụng. Một người thợ đồ gốm đặt đồ lên bàn quay và họ nắn đồ đó cho đều, cho trơn láng, không lồi lõm, không dày mỏng khác nhau, làm cho liền lạc, thì chúng ta luyện hơi thở cũng vậy, làm sao cho hơi thở đều đặn, suôn sẻ, thông suốt. Chúng ta biết vận dụng cho được vậy thì kết quả nhanh hơn. Còn để tự nhiên cho nó tự đạt thì lâu.

Đề mục 1 thì để tự nhiên. Chừng qua đề mục 2 hay 3 thì phải thực hiện như người thợ quay tơ, như người thợ gốm. Con vận dụng hơi thở như thế nào để đạt được sự an ổn nhiếp tâm trong hơi thở, làm cho nó dài hay làm cho nó ngắn hợp theo đặc tướng của con. Con vận dụng cho nó đều đều chậm chậm – cho hơi thở dài – nếu hơi thở dài phù hợp với đặc tướng tức làm cho con an trú được. An trú được tức là đạt được kết quả tốt, dù hơi thở dài hay hơi thở ngắn cũng không sao.

Khi con vận dụng tác ý để thay đổi hơi thở mà có kết quả an ổn thì được, nhưng cũng có khi vận dụng tác ý mà không có kết quả hay kết quả không như ý là do lực tác ý chưa đủ thì nên vận dụng cơ để điều khiển hơi thở. Vừa vận dụng tinh thần vừa vận dụng vật lý để điều khiển hơi thở, nhưng không phải vận dụng để luyện tập điều khiển hơi thở quá dài, quá chậm đến một phút hay hai phút một hơi thở thì không đúng. Sai. Cứ theo tự nhiên bình thường độ dài hay độ ngắn của nó.

Dùng sức tĩnh giác cao nhất để tập luyện các pháp môn, vậy là con đã thích nghi được các pháp.

Tập Định Niệm Hơi Thở bây giờ con ngồi tuy không bị buồn ngủ tới, nhưng con phải nhiếp tâm vào hơi thở cho được từ 5 tới 10 phút. Con chưa đạt được mức đó, vậy không nên qua đề mục 4, vẫn giữ đề mục 1, 2 hay 3 mà tập luyện. Con xác định được điểm gom tâm, cố gom tâm chặt vào tụ điểm làm cho sức gom tâm mạnh và nhận được hơi thở vô ra rõ hơn, kĩ hơn. Chỉ để ý chỗ gom tâm và hơi thở ra vô, không quan tâm tới những gì khác cho tới khi nào tâm độc trú được trong hơi thở thì chỉ thấy duy nhất hơi thở ra vô, hoàn toàn chỉ một hơi thở duy nhất, không phải hơi thở thay đổi khi vầy khi khác, cũng không xen bất kỳ tạp niệm nào. Tập rất cẩn thận mới đạt được như vậy. Đó là đường dây hơi thở, đó là nền tảng. Phải đạt cho được nền tảng đường dây hơi thở.

Đề mục 1, 2 hay 3 là tập cho tâm nằm trên đường dây hơi thở; sau này nhờ an trú hơi thở trong đường dây này mà thực hiện các đề mục khác theo ý muốn. Người nào tu tập không thuần thục, chưa nắm vững ba đề mục này mà vội đi qua các đề mục 4, 5 là tập mất căn bản. Cách tập luyện như vậy là bị hỏng chân, sau này mặc dù luyện có kết quả nhưng không cụ thể, không ổn dịnh, và có khi bị lọt vào tưởng tức hay tưởng an tịnh. Khi nền tảng tập luyện này vững chắc, có ý thức hướng dẫn thì tưởng không xuất hiện ra được.

10.- Vọng Tưởng Và Định Niệm Hơi Thở

Trong Định Niệm Hơi Thở,đề mục 1 “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra” không phải là đề mục để tập cho tâm hết vọng tưởng mà chỉ luyện để tĩnh giác trong 5 hơi thở tác ý một lần. Khi có tĩnh giác thì đếm không quên, đếm không lộn. Chỉ không tĩnh giác mới quên đếm, đếm lộn, nghĩa là đếm lên tới 6, 7 hay 8 mới nhớ là chưa tĩnh giác. Cứ lúc nào cũng 5 hơi thở tác ý một lần là đã tĩnh giác trên hơi thở, là đạt kết quả. Cũng như đi 20 bước tác ý một lần và ý biết bước đi không gián đoạn trong khi bước đi thì đã tĩnh giác trên bước đi.

Có hay không có vọng tưởng là do chỗ li tham, sân, si chứ không phải do ức chế tâm. Hồi nào tới giờ cứ hiểu khi đi biết đi, đừng cho có vọng tưởng là kết quả. Cũng thế, khi thở cứ nghĩ phải cho đến chừng nào thở mà không có vọng tưởng mới là kết quả, còn chưa hết vọng tưởng cho là chưa có kết quả. Không phải như thế. Lúc này là lúc luyện tĩnh giác, chứ không phải là luyện diệt vọng tưởng, làm cho hết vọng tưởng. Tập tĩnh giác thì cần nhớ 5 hơi thở tác ý một lần, 20 bước tác ý một lần và cái biết hơi thở hay bước đi không bị gián đoạn. Nếu trong 30 phút được tĩnh giác không gián đoạn là đạt kết quả của đề mục tĩnh giác để qua tập đề mục khác. Và đề mục khác sẽ giúp cho đề mục này tĩnh giác hơn nữa. Cho nên khi có kết quả đề mục 1 thì con tiếp tục qua đề mục 2, 3, 4,... hoặc hơn nữa.

Trong Định Niệm Hơi Thở có hai mươi mấy đề mục, nhưng vì quá nhiều nên Thầy tạm giản lược bớt, nhưng khi tu tập thì nên luyện hết tất cả các đề mục. Lần lượt khi tu tập đạt được tất cả kết quả các đề mục này, Thầy sẽ dạy hết các đề mục còn lại, chứ bây giờ đưa ra toàn bộ sẽ làm rối con. Đức Phật dạy thì dạy đủ, không dạy thừa, nhưng nếu bây giờ đưa hết các đề mục ra thì người ta thấy quá nhiều, họ bị phân vân không biết phải tu tập bao nhiêu trong các đề mục đó, cho nên Hoà Thượng Minh Châu tạm thời cô đọng lại 16 đề mục, còn Thầy lấy cho đủ thì 19 đề mục cho các con an tâm mà tập luyện.

Như con biết khi kết tập kinh sách, chưa hẳn là trong kinh nghiệm, bởi sau này các tổ kết tập chứ không phải các vị Alahan kết tập như lần thứ nhất, cho nên sự sắp xếp trong kinh không đúng cách với sự tu chứng đâu. Chỉ những người đã tu chứng mới sắp xếp các đề mục này đúng với hệ thống tập luyện để chứng đạt, chứ không phải muốn tu tập cái nào thì lấy cái ấy tập luyện, hay muốn tập luyện ra sao thì tu tập như vậy. Không được làm vậy. Tu tập phải có kinh nghiệm của người chứng đắc, tập luyện từ đề mục dễ lên đề mục khó, chứ không nên tập luyện đại đề mục nào cũng được.

Luyện tập được coi là được thuần thục thì phải luyện cho đạt tới kết quả ổn định của nó. Chưa có kết quả là chưa thuần thục, hay kết quả chưa ổn định cũng chưa thuần thục.

11.- Cần Phối Hợp Các Kết Quả

Đường lối của đạo Phật có rất nhiều pháp, mỗi pháp đều đưa tới một kết quả; tập hợp các kết quả đó rồi luyện như thế nào cho có nội lực đặng đánh giặc sanh tử.

Kết quả của tất cả 19 đề mục của Định Niệm Hơi Thở là những phương tiện trang bị rất kĩ, rất đầy đủ để chuẩn bị chiến đấu trên 4 Niệm Xứ. Đến khi chiến đấu thật sự trên 4 Niệm Xứ với giặc sanh tử thì những kết quả của Định Niệm Hơi Thở phải đầy đủ, phải thuần thục.

Định Niệm Hơi Thở chính là pháp Đức Phật trang bị cho ta để đẩy lui các chướng ngại pháp. “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” là pháp đẩy lui chướng ngại của thân. “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” là pháp đẩy lui chướng ngại của tâm. Còn “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” là pháp đẩy lui si, đẩy lui sự buồn ngủ, ngủ gật.

Muốn li gì thì phải tập luyện đúng pháp mới có thể li được. Nếu muốn li tâm sân mà chưa dẹp tâm si thì li tâm sân không được, cũng không li tâm tham được. Chúng ta thấy đức Phật dạy rất kinh nghiệm. Phật dạy mới vô đầu phải tu tập tĩnh giác, rồi tập làm sao cho tâm được an lạc, chừng đó mới li tham, li sân, li si. Tâm chưa an lạc tức còn chướng ngại thì không li cái gì được.

Con phải tập rất kĩ, phải thuần thục cho được tất cả 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở, phải đạt kết quả đầy đủ mới đẩy lui chướng ngại của thân và của tâm được. Khi có chướng ngại của thân thì con biết bằng cách nào đẩy lui chúng; có chướng ngại của tâm thì cũng đã biết bằng cách nào đẩy lui chướng ngại của tâm. Có được vậy, tập luyện mới thích thú, chứ còn đẩy lui không được thì đâu có ý nghĩa gì.

Tâm loạn động thì con biết áp dụng đề mục nào để tâm hết loạn động. Tâm bây giờ yên lặng chứ một chốc nữa chưa hẳn đã yên, tâm khởi lăng xăng động quá, những niệm như nhớ thương, tức giận hay gì gì thế mà đẩy lui được thì tâm không niệm, rất an ổn. Con có trạng thái không niệm. Trạng thái không niệm này khác với trạng thái có niệm, nhờ đó con sẽ thấy được sự an lạc của tâm không niệm.

Bây giờ thân tâm tỉnh táo như vầy mà chốc nữa không chừng sẽ buồn ngủ, ngủ gật, tâm bị rớt vào trong trạng thái ngủ mê, mà con có phương pháp đã tập luyện chuẩn bị rồi, con biết áp dụng đề mục “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” để phá, để đối trị nó. Con thấy tập hợp đề mục 1 Định Niệm Hơi Thở và Kinh Hành Tĩnh giác cùng Như Lý Tác Ý thì mới dẹp được buồn ngủ, ngủ gật. Mới chỉ có giặc buồn ngủ thôi mà đã sử dụng tới ba pháp.

Thí dụ đang ngồi quán thân, thọ, tâm, pháp, tức luyện 4 Niệm Xứ, bổng nhiên thấy bị đau nhức chỗ này, con liền biết áp dụng Định Niệm Hơi Thở vào chỗ đó thì hết đau. Thân bị đau nhức ở chỗ này chỗ kia mà đẩy lui được thì thấy rất thoái mái.

Đọc lại bài kinh Nhập Tức Xuất Tức Niệm ta thấy đức Phật đã xác định nhiều lần Định Niệm Hơi Thở có lợi ích rất lớn, nó giúp chúng ta đạt được kết quả của pháp đó. Muốn tập luyện định nào, muốn nhập định nào thì Định Niệm Hơi Thở giúp chúng ta thực hiện điều đó. Chính vì vậy nên đức Phật nói “Định Niệm Hơi Thở có lợi ích rất lớn”.

Trong Đường Về Xứ Phật tập 2 có những lời kinh cô đọng ngắn gọn Thầy đã giải thích chú thích những lời kinh đó cho dễ hiểu. Đường Về Xứ Phật tập 2 là cái duyên sách tấn các con trên đường tu tập. Qua những bài trong đó các con biết cách giữ gìn tâm như thế nào trong khi tập luyện các pháp và biết được Định Niệm Hơi Thở có lợi ích như thế nào để luyện từng đề mục cho kĩ. Do đó, phải thật chuyên cần tập luyện Định Niệm Hơi Thở cho đến khi có kết quả thực sự của đề mục thì đường tu tập mới có lợi ích.

Những pháp Thầy dạy, con đã tập rất đúng, chỉ cần kết hợp lại cho thuần, cho quen mới có lợi ích lớn.

12.- Bài Kinh Xuất Tức Nhập Tức

Khi trở về với pháp Nguyên Thủy của Phật thì Định Niệm Hơi Thở, tức bài kinh Nhập Tức Xuất Tức Thầy nghiên cứu rất kĩ. Thầy tu tập các pháp rất kĩ. Chướng ngại gì nó cũng đẩy lui được hết, không có pháp nào làm được việc này. Nhờ vậy mà Thầy thấy được sự lợi ích rất lớn của Định Niệm Hơi Thở trong sự làm chủ sự sống chết.

Khi tâm tham khởi lên, để hàng phục thì tác ý “Quán li tham tôi biết tôi hít vô; quán li tham tôi biết tôi thở ra” là nó hết tham liền. Thật là vi diệu! Khi đang sân, khởi lên sân cái gì đó thì tác ý “Quán li sân tôi biết tôi hít vô; quán li sân tôi biết tôi thở ra” là giải quyết liền, nghe thân an lạc liền. Pháp quán đúng thật là tuyệt vời! Cho nên đâu phải chúng ta ngồi quán sâu các điều này. Đó là sự thật. Cho nên Định Niệm Hơi Thở lợi ích rất lớn cho cuộc đời tu hành của chúng ta.

Thầy nghiên cứu từng đề mục Định Niệm Hơi Thở thì thấy lời Phật dạy hoàn toàn khác với lời dạy trong các pháp môn Sổ Tùy Chỉ Quán hay Sổ Tức Quán, hay Sổ Tức Quan đếm hơi thở của các tổ. Khi đọc thấy được vậy thì tay chân Thầy bủn rủn  “Trời ơi! Như vậy là Phật dạy chúng ta rất kĩ. Từng đề mục là từng kết quả!”. Cho nên ôm pháp này Thầy nỗ lực. Nhờ những năm tháng sống trọn vẹn độc cư trong thất cho nên Thầy tu rất có kết quả.

Bài kinh Nhập Tức Xuất Tức trong kinh Trung Bộ, Đức Phật đã dạy đầy đủ mọi phương pháp. Kinh Trung Bộ không dài cũng không ngắn, rất dễ hiểu. Những ví dụ làm rõ ràng vấn đề. Còn tất cả những kinh khác thì cô đọng quá, khó cho ta tập luyện. Sau khi nghiên cứu Trung Bộ Kinh xong, thấy pháp Định Niệm Hơi Thở rất tuyệt vời cho nên Thầy ôm pháp này tu luyện đạt các kết quả, rồi lần lượt tới các pháp khác cũng thế. Sau này đọc Người Chiến Thắng tập 2 các con sẽ thấy đường đi của pháp Nguyên Thủy một cách cụ thể qua sự tu tập của Thầy. Các con sẽ thấy trong đó Thầy tu pháp nào và tập luyện ra sao mà đi đến kết quả làm chủ được sự sống chết. Thầy sẽ nói rõ những kết quả đó. Hiện giờ (đầu năm 2003) đứng trước đối tượng của Đại Thừa mà đưa ra Người Chiến Thắng phần 2 thì sớm quá, sẽ không hay.

13.- Lưu Ý Về Hơi Thở

Định Niệm Hơi Thở là pháp môn mà tất cả các pháp môn nào có liên quan đến hơi thở đều lấy nó làm căn bản để đi vào, cho nên Định Niệm Hơi Thở đem lại nhiều kết quả rất lớn, có ích lợi cho chúng ta.

Trong bài kinh Nhập Tức Xuất Tức Niệm (Định Niệm Hơi Thở), đức Phật có nói chúng ta nương vào đường dây hơi thở để thực hiện các pháp khác, bởi vì Định Niệm Hơi Thở chia ra nhiều đề mục, mỗi đề mục nhắm vào việc đẩy lui các chướng ngại pháp, các ác pháp. Cho nên nếu không thuần thục ổn định các kết quả của các đề mục thì trên 4 Niệm Xứ không tập luyện được, không khắc phục được tham ưu trên đó đâu.

Cho nên phải biết rõ rằng khi Định Niệm Hơi Thở được tập luyện thuần thục thì có tầm quan trọng rất lớn. Vậy hễ có thời giờ rảnh, con nên tập thêm Định Niệm Hơi Thở. Có thuần thục, có kết quả vững vàng các đề mục Định Niệm Hơi Thở thì ta mới đương đầu với các pháp chướng ngại được, ta mới đương đầu được trong mặt trận sanh tử của ta.

Lưu ý kĩ rằng điều căn bản là phải nắm cho được hơi thở. Khi pháp Định Niệm Hơi Thở luyện chưa thành thục, chưa nhuần nhuyễn, nghĩa là nắm hơi thở chưa chắc, còn bị trật vuột mà ráng ngồi lâu thì sẽ sanh tê mỏi, đau nhức, thành ra lại tạo thêm phần khác làm cho sự nắm bắt hơi thở càng bị trật vuột thêm. Sau khi nắm được sự an trú tâm trong hơi thở, tâm con lọt vô trạng trái hỉ lạc do hơi thở chủ động sanh ra, lúc đó có cảm thọ thân hỉ lạc làm cho con thích thú ngồi, thì mới bắt đầu đánh cảm thọ. Khi chưa an trú được thì khoan đụng tới cảm thọ.

Vậy người mới tập, nếu ngồi được 5 phút, 10 phút mà cơ thể yên thì ngồi; nếu sau đó cơ thể không yên, sanh tê mỏi hay có cảm giác khó chịu thì xả ra, đứng dậy, và tập đề mục 1, 2, 3 Định Niệm Hơi Thở trong khi đứng, khi đi chứ đâu cần ngồi. Nhưng khi đã nắm được hơi thở rồi, tức an trú tâm trong hơi thở được rồi, thì nhất định không đầu hàng cảm thọ, không đầu hàng cảm giác, để luyện cho thành kết quả. Luyện 30 phút là quyết ngồi đủ 30 phút. Chưa nắm được hơi thở mà ngồi như vậy thì chỉ hành thân hành xác thôi. Ta có ngồi mà pháp thì đã vuột khỏi tâm.

“Tôi luyện pháp hơi thở thì phải nắm hơi thở chứ không phải sợ đau chân tê chân đâu. Đau tê làm vuột hơi thở thì tôi đứng dậy, luyện trong khi đứng, khi đi. Tôi chỉ biết luyện cho đạt được hơi thở thôi, cách nào luyện nắm được hơi thở thì dùng cách đó để nắm, để luyện. Nhưng đến khi đã nắm chắt được hơi thở, đã an trú được trong hơi thở thì đau tê đó không thành vấn đề đối với tôi, không quan trọng đâu, tôi dẹp hết. Tôi bám chặt được trong hơi thở thì chết tôi cũng không sợ”. Con tác ý như vậy. Tu tập như vậy.

Khi đã an trú tâm được trong hơi thở thì không cần phải chờ đợi lâu, con tăng vụt giờ tập luyện lên 1 giờ, 2 giờ mặc dù trước đó chỉ ngồi được 15, 20 phút thôi. Lúc đó con có thể ngồi lâu cho đến khi nào sức chịu đựng làm cho tâm bị loãng, bị dao động, bị phân tâm, không còn bám chặt được trong hơi thở nữa, không còn an trú được nữa, thì phải xả ra.

Tập làm sao để trong thời gian 30 phút ấn định thân được ổn định và nắm cho được hơi thở, khắc phục được cảm thọ lúc ngồi, và con an trú được. Có được vậy, con mới luyện các đề mục khác, cũng trong khoảng thời gian 30 phút thôi, cho có hiệu quả, cho đạt kết quả của đề mục đó mới sang đề mục khác.

Luyện từ 5 phút, 10 phút, rồi 30 phút, tới tối đa 1 giờ. Dưới 30 phút chưa có kết quả gì đâu, phải từ 30 phút trở lên mới có kết quả của đề mục, nhưng không được quá 1 giờ. Chỉ cần lưu ý là lúc nào cũng phải ôm pháp mà luyện, không được bỏ pháp. Bất kỳ cảm thọ lạc hay trạng thái hỉ lạc khinh an gì xẩy ra cũng đừng quan tâm. Nếu chạy theo cảm thọ mới xẩy ra là đã bỏ pháp, buông pháp. Là sai. Phải lúc nào cũng ở trên pháp mà tập luyện.

14.- Định Niệm Hơi Thở Làm Sung Mãn 4 Niệm Xứ

Các đề mục 1 tới 7 của Định Niệm Hơi Thở chuẩn bị cho con đủ năng lực để đi vào 4 Niệm Xứ. Còn các đề mục 8 đến 19 của Định Niệm Hơi Thở không phải ngồi luyện Định Niệm Hơi Thở nữa mà phải trở về với 4 Niệm Xứ thì sẽ thấy cách tập luyện rõ ràng. Khi tâm khởi tham, sân, thì ở trên 4 Niệm Xứ mà quán, dùng kết quả của Định Niệm Hơi Thở tác ý đẩy lui. Phải có tâm an trú thì mới đẩy lui được. Tâm chưa an trú thì đẩy lui chưa được.

Khi đẩy lui được các chướng ngại pháp thì mới giữ được, mới bảo vệ được tâm thanh thản an lạc vô sự, và muốn tâm thanh thản an lạc vô sự kéo dài thì nó mới kéo dài, nhờ vậy mới đạt được kết quả giải thoát. Có nghĩa là khi tâm thanh thản an lạc vô sự kéo dài trong một thời gian cần thiết mà không còn bị chướng ngại pháp trên đó nữa, thì đó là thành tựu sung mãn 4 Niệm Xứ.

Sung mãn 4 Niệm Xứ thì có đủ năng lực 7 Giác Chi. Nếu lúc đó chưa có năng lực 7 Giác Chi thì con sử dụng pháp Thân Hành Niệm kiên cố như cỗ xe, luôn luôn tác ý để làm cho Trạch Pháp Giác Chi xuất hiện. Trạch Pháp Giác Chi hiện ra rồi là toàn bộ tâm nhu nhuyến dễ sử dụng. Chính cái nhu nhuyến dễ sử dụng này gọi là Định Như Ý Túc. Như Ý là theo ý muốn. Muốn nhập định nào là nhập ngay. Tâm thanh thản an lạc vô sự đó bất động thì có cảm giác rất tuyệt vời. Rồi bảo vệ tâm thanh thản an lạc vô sự kéo dài theo ý muốn, lúc đó con sử dụng 4 Như Ý Túc mới được. Lúc bấy giờ mới hướng tâm nhập định Thiền thứ nhất cho tới Thiền thứ tư và 3 Minh. Không phải như bây giờ mà bảo “Li dục li bất thiện pháp nhập Sơ Thiền!”. Nó không li đâu. Con phải luyện 4 Niệm Xứ sung mãn cho có lực 7 Giác Chi sung mãn để có 4 Như Ý Lực mạnh rồi mới bảo li dục li bất thiện pháp nhập Sơ Thiền được.

Chánh Niệm của đạo Phật là 4 Niệm Xứ, mà sung mãn 4 Niệm Xứ tức là Chánh Niệm đã luyện xong, đã sung mãn rồi. Lúc đó qua Chánh Định để nhập từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền. Chờ cho đến lúc 4 Niệm Xứ sung mãn mới tác ý “Tâm phải li dục li ác pháp nhập Sơ Thiền đi!”.  Ngay với lệnh đó thì tướng 5 chi Sơ Thiền: tầm, tứ, hỉ, lạc, nhất tâm hiện ra rất rõ và nhập Sơ Thiền liền bởi tâm đang ở trong trạng thái bất động của 4 Niệm Xứ.

Pháp 4 Niệm Xứ lạ lắm, chỉ luyện sau khi tập luyện 19 đề mục của Định Niệm Hơi Thở đạt kết quả. Bốn Niệm Xứ là pháp tập luyện ngồi rất tự nhiên, coi như mình là người không tập luyện pháp gì hết; chứ nếu còn ôm pháp thì đó chưa phải là luyện 4 Niệm Xứ . Nghĩa là Bốn Niệm Xứ là pháp tập luyện sau khi luyện các phương pháp đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm, pháp được rồi, ngăn và diệt ác pháp được rồi. Những cái đó là những pháp của Định Niệm Hơi Thở. Các đề mục an tịnh thân hành, an tịnh tâm hành có mục đích để thân và tâm an ổn, là cách khắc phục tham ưu trên thân tâm, tức là làm cho 4 Niệm Xứ được an ổn.

Cho nên chỉ luyện 4 Niệm Xứ khi nào luyện xong Định Niệm Hơi Thở. Co luyện xong Định Niệm Hơi Thở thì 4 Niệm Xứ luyện mới dễ. Nếu Định Niệm Hơi Thở chưa xong thì luyện 4 Niệm Xứ rất khó khăn bởi vì đẩy các chướng ngại pháp lui không được.

Nhưng trước khi luyện Định Niệm Hơi Thở thì phải tập quán Định Vô Lậu. Tập quán tức là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy để có sự quán thân bất tịnh đối trị sắc tham; quán tâm Từ Bi trong Tứ Vô Lượng Tâm đối trị tâm sân... làm cho tâm thấm nhuần Chánh Kiến, Chánh Tư Duy. Cho nên bây giờ cần phải tập luyện cùng lúc các định: Định Vô Lậu, Định Thư Giản, Chánh Niệm Tỉnh Giác. Nếu chưa thông những cái này thì không tập luyện Định Niệm Hơi Thở được. Người nào lấy hơi thở làm tiêu chuẩn để tập luyện trước là họ tập luyện sai.

Bốn Niệm Xứ chỉ có đẩy lui chướng ngại pháp trên 4 chỗ thân, thọ, tâm, pháp thôi. Nghĩa là có chướng ngại thì dùng năng lực kết quả của Định Niệm Hơi Thở để khắc phục, tức đẩy cho lui ra khỏi 4 chỗ đó, không có thì ngồi chơi. Tối ngày ngồi chơi. Giữ tâm thanh thản an lạc vô sự. Không cần phải tác ý thân tâm thanh thản an lạc vô sự, không cần phải tác ý tâm li dục li ác pháp, tâm như cục đất nữa, không còn ngồi quán bất tịnh nữa. Những cái này tập luyện trong giai đoạn Định Niệm Hơi Thở, bây giờ chỉ ngồi chơi thôi. Khi có một chướng ngại nào trên 4 chỗ đó thì dùng Định Niệm Hơi Thở đẩy liền tức khắc, đẩy bay ra được hết bởi vì Định Niệm Hơi Thở đã có lực do tu tập thành thục.

Vậy Bốn Niệm Xứ là pháp dùng Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý. Ngồi chơi mà luôn luôn sống với tâm thanh thản an lạc vô sự, không vận dụng tập luyện gì hết, giống như ở không suốt ngày. Đó chính là lúc cần phải sống ĐỘC CƯ TRỌN VẸN của giai đoạn 3 Độc Cư, để đẩy lui hết chướng ngại pháp trên bốn chỗ thân thọ tâm pháp. (Thời gian này tác ý liên tục để li, đoạn, diệt tham, sân, si, mạn, nghi – chúng là ác pháp, chướng ngại pháp – đây là bí quyết, cần nhớ) . Sau khi đẩy lui hết chướng ngại pháp rồi, bấy giờ các thần lực mới hiện ra đủ.

Thật ra không ai nắm vững điều này, chứ nếu họ nắm vững thì sẽ thực hiện đạt kết quả đúng như trong kinh đức Phật dạy tập luyện 4 Niệm Xứ 7 ngày, 7 tháng, 7 năm thì đạt một trong hai quả. Bài kinh đó hay quá, mà quả thật đúng vậy. Mình tập luyện có phương pháp, đạt kết quả rồi, thì không có chướng ngại nào xẩy ra trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp được. Cả 4 chỗ thân thọ tâm pháp, các pháp ngoài không tác động vô được, không còn làm động tâm được. Tôi có Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý là tôi đẩy lui hết. Thân có đau gì cũng không tác động tâm được; thọ nào cũng không làm động tâm được.

Khi tập luyện đề mục 7 Định Niệm Hơi Thở đạt được kết quả thì con tự sống với tâm đó trong khi luyện 4 Niệm Xứ, không còn tập luyện thêm pháp nào nữa. Cho nên đức Phật nói khéo tác ý trong 7 ngày, 7 tháng, 7 năm thì đúng là vậy.

Trong Trung Bộ Kinh nói “Định Niệm Hơi Thở nếu khéo tác ý thì lợi ích rất lớn”. Kinh cứ nhắc câu đó hoài mà người ta không biết cách thức tác ý trong Định Niệm Hơi Thở như thế nào. Bây giờ Thầy ngồi đây, không làm gì hết, nhưng ngay khi có chướng ngại thì dùng Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý là đẩy lui nó liền. No có lợi ích là như thế đó. Cho nên khi tu xong, Thầy thấy trong giai đoạn nào cần tập luyện pháp gì. Có lớp lang, có thứ bậc. Như vậy muốn tu tập có kết quả chắc chắn thì cần sắp xếp thành từng lớp để tập luyện.

Khi Thầy đọc bài kinh này thấy hay quá như thế nên mới bắt đầu tác ý. Tác ý cho đến khi bắt đầu sống được với cái tâm đó thì tâm bắt đầu quay vô. Lúc đó Thầy ngồi chơi thôi, ngồi chơi rồi dùng kết quả của Định Niệm Hơi Thở đẩy lui ác pháp, không còn tác ý nữa. Tác ý để cho đạt được tâm thanh thản an lạc vô sự thì cần phải có thời gian và kiên trì, quyết tâm, cố gắng. Còn khi tác ý 4 Niệm Xứ thì chỉ có mấy ngày thôi. Thanh thản ở trên 4 Niệm Xứ mà quét thì có gì mà không bay. Đây mới chính là giai đoạn luyện pháp 4 Niệm Xứ trên 4 Niệm Xứ.

Phương pháp rất tuyệt vời mà năng lực cũng kinh thật!

Thầy khuyên các con khi tập luyện thì Định Niệm Hơi Thở phải tập cho có căn bản, rất căn bản vì “Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý thì lợi ích rất lớn”. Khéo tác ý là thí dụ khi tay này đau, nương vào hơi thở tác ý đẩy lui sự đau; tâm khởi niệm động thì nương vào hơi thở tác ý để tâm khỏi động. Ổn định, an tịnh lại là nhờ khéo tác ý. Nhưng căn gốc lại là cái tâm phải an trú cho được, nghĩa là phải nhiếp tâm không niệm khởi trong một thời gian cần thiết để trạng thái an trú xuất hiện. An trú tâm được ổn định cho có năng lực mới tác ý có hiệu lực. Khi tất cả các đề mục Định Niệm Hơi Thở con luyện nhiếp tâm và an trú tâm được hẳn hòi, có kết quả chắc chắn, ổn định thì mới bắt đầu tập luyện 4 Niệm Xứ tức là ngồi thư thản bình thường để đẩy lui chướng ngại pháp. Có chướng ngại pháp nào tới thì con dùng Định Niệm Hơi Thở của các đề mục đó mà đẩy chướng ngại ra khỏi thân, thọ, tâm, pháp. Chứ không an trú hay chưa an trú, hay an trú chưa ổn định thì tác ý không có kết quả. Mới nhiếp tâm được chỉ một phút, chưa an trú, mà muốn đẩy lui bệnh nặng thì làm sao đẩy lui được!

Mục đích tập luyện các pháp môn của Đạo Phật là li dục li ác pháp ra hết khỏi thân tâm. Mà li hết tức làm cho thân tâm thanh thản an lạc, làm cho không còn chướng ngại pháp trên đó. Thân tâm không còn chướng ngại pháp thì khi đó hoàn mãn 4 Niệm Xứ. Đến chừng tập luyện, con sẽ thấy đây là con đang luyện 4 Niệm Xứ và con thực sự đã sử dụng 4 Niệm Xứ để khắc phục tham ưu.

Cho nên khi không bị rối loạn hơi thở, tức hơi thở tốt, thì phải tập hơi theo Định Niệm Hơi Thở cho có kết quả. Còn nếu hơi thở bị rối loạn, chỉ có tập thân hành ngoại thì rất khó an trú tâm. Đi khó an trú tâm hơn ngồi. Ngồi tập sẽ nhiếp tâm vào hơi thở dễ hơn lúc đi rất nhiều. Ngồi thì trước hết được thân an tịnh, khi tâm không còn động lăng xăng thì khéo tác ý an trú, nó sẽ an trú dễ lắm.

Vậy trong thời gian này, con đừng ngồi nhiều, cũng đừng đi nhiều. Chỉ đi với sức bình thường của con, ngồi cũng chỉ với sức bình thường của con thôi. Cứ thay đổi các oai nghi, có khi đứng lại tác ý, có khi đứng lại theo dõi từng hơi thở.
Đứng thôi, không cần ngồi, để thấy sự an tịnh trong hơi thở, vì ngồi rất dễ thấy sự an tịnh đó. Khi đứng mà thấy an tịnh rồi thì liên tục tác ý li tham, li sân, li si ở trong trạng thái an tịnh đó, trong cả 4 oai nghi.

Con tập luyện đúng như lời dạy thì Thầy cam đoan chỉ trong thời gian ngắn con làm chủ được thân tâm ngay, tức làm chủ sự sống chết của con. Con ráng nhớ những điểm này mà tuần tự thực hành cho bằng được, thành công cho bằng được. Khi nào thấy rõ ràng tâm con thanh thản an lạc vô sự, lúc nào tâm cũng định trên thân, nghĩa là đi thì nó lưu ý bước đi, ngồi thì nó lưu ý hơi thở. Tự động nó lưu ý chứ con không cần phải làm gì thì lúc đó con ôm pháp Thân Hành Niệm tập trong vài giờ, rồi sẽ thấy cái lực của nó.

Thầy mong con đạt cho được chỉ vậy thôi.

B.- KINH HÀNH TĨNH GIÁC

1.- Những Cách Đi Kinh Hành

Trước khi đi, phải đứng yên lặng vài phút để cảm nhận cái yên tịnh, đừng vội đi sẽ không hay. Ở giai đoạn khởi đầu này, trong khi đi, đừng cúi xuống nhìn chân mà phải nhìn xuống tới trước vài mét. Có bốn cách đi Kinh Hành. Đây là phần thực hành pháp đi kinh hành, Thầy đi, con hãy xem kĩ.

Cách thứ nhất: Ði 20 bước

Sau khi đứng yên vài phút xong, nín thở, tác ý “Tôi đi tôi biết tôi đi” hay “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”. Chỉ chú ý vào bước đi, sự bước đi, đếm đủ 20 bước, đứng lại, nín thở, tác ý lại câu “Tôi đi tôi biết tôi đi” hay “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”. Đi và đếm đủ 20 bước khác, đứng lại và tác ý lại.

Khi đi như vậy thì hãy cảm nhận bước đi, đừng nhìn bước đi. Cứ như vậy tập đủ 30 phút. Nhớ chỉ cần đếm đủ 20 bước, không thiếu, không dư, đứng lại, nín thở, tác ý, đi tiếp. Có hay không có vọng niệm không quan trọng.

Khi lắng nghe bước đi là cảm giác bước đi. Kinh bảo lắng nghe là lắng nghe bước đi, tức là phòng hộ tai không nghe ra bên ngoài. Đi đúng là đi mà ngó thẳng ra đằng trước, tâm thì chú ý vào bước đi, luôn luôn cảm nhận bước đi.

Bây giờ Thầy đi và đếm: “Một”, “Hai”,... “Hai mươi”. Sau khi đếm đủ hai mươi bước thì đứng lại, quay lui và nín thở tác ý “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành” rồi đi hai mươi bước khác. Thầy nhìn ra đằng trước và cảm nhận bước đi một cách tự nhiên chứ không phải nhìn bước đi vì nhìn bước đi thì phải cúi đầu xuống, hoặc nếu lắng nghe thì phải nghiêng cổ. Nhưng đây chỉ là tập bước đi, phải phòng hộ mắt tai mũi miệng thân ý, phải tập trung để biết bước đi. Đi phải tự nhiên chứ không nên gò bó, cứng ngắc. Thỉnh thoảng ngó qua bên này hay qua bên kia nhưng đừng mất cảm nhận bước đi, đừng ngó chăm chăm đằng trước.

Cách thứ hai: Ði 10 bước + Ðứng hít thở 5 hơi

Trước khi đi tác ý “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”. Đi và đếm bước đi: “Một”, “Hai”,... “Mười”. Đứng lại, tác ý “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra”. Chú tâm theo dõi từng hơi hít vô thở ra. Đủ 5 hơi hít thở, tác ý “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành” và đi tiếp mười bước khác...

Trong khi đi, Thầy không chăm chăm nhìn ra đằng trước mà khi nhìn bên này khi nhìn bên kia, tức là có sự động dụng cần cổ làm cho nó không bị mỏi, và hai vai cũng không bị mỏi. Đó là đi kinh hành 10 bước cộng thêm 5 hơi thở trong khi đứng. Hạnh tập luyện như vậy là đúng.

Cách thứ ba: Ði 10 bước + ngồi hít thở 5 hơi

Cũng vậy, đứng yên lặng kiểm soát thân tâm vài phút trước khi đi. Nín thở, tác ý “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”. Đi và đếm đủ 10 bước. Đứng lại. Ngồi xuống, kiết già được thì ngồi kiết già, nếu không thì bán già, sửa y áo đàng hoàng trước sau. Mắt nhìn tới trước, đầu ngửng lên, đừng cúi xuống, cúi là sai, lưng không khòm mà cũng không quá thẳng (đúng với tư thế ngồi thiền). Tác ý “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra”. Hít thở 5 hơi với sự theo dõi sát của tâm. Xong buông chân ra đứng lên, không cần ra lệnh từng động tác một. Sau khi đứng lên xong thì tác ý đi kinh hành và đi tiếp 10 bước khác. Hành động từ tốn, không chậm cũng không nhanh.

Đây là pháp thứ ba kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Cách thứ tư: Thân Hành Niệm

Cách này chỉ mới tập làm quen thôi, chưa thực thụ tập luyện, đó là pháp môn Thân Hành Niệm. (Xin xem phần Thân Hành Niệm, trong cùng sách này.)

2.- Kinh Hành Có Chất Lượng

Khi đi Kinh Hành Tỉnh Giác, hãy đi rất tự nhiên, biết bước chân đi một cách tổng quát. Chỉ biết từng bước chứ không biết vào chi tiết. Đây là tĩnh giác trên hành động đi, không phải đi để biết từng chi tiết của chuyển động bàn chân như ở trong pháp Thân Hành Niệm. Kinh Hành Tĩnh giác là pháp tĩnh giác trên thân hành, không đi vào cảm giác, chỉ biết bước đi, biết sự di chuyển của chân thôi.

Muốn sự tập luyện mỗi bước đi có chất lượng thì phải luyện cẩn thận. Đi 20 bước mà không chú ý kĩ cả 20 bước là đi cho có đi thôi. Như vậy sự tập luyện làm mất thời giờ một cách vô ích. Thà tập ít để có thì giờ nghỉ thoải mái, còn hơn tập luyện bít hết thời giờ của thời khóa mà không kĩ lưỡng, không có chất lượng.

3.- Đi Nhanh Để Phá Buồn Ngủ

Kinh Hành Tĩnh Giác mục đích là để giúp đừng buồn ngủ, phá buồn ngủ, ngủ gật. Đi nhanh mới phá được buồn ngủ, còn đi chậm không phá được đâu. Vậy khi buồn ngủ, ngủ gật hãy dùng kinh hành mà phá. Bây giờ chưa buồn ngủ nhưng luyện tập trước cho thành thục để khi cần thì xài.

Đi trong phòng, trong thất mà không phá được buồn ngủ thì ra ngoài thất để đi. Cảnh vật thay đổi sẽ làm tâm không buồn ngủ. Khi buồn ngủ, dù đi ở đâu, trong phòng hay ra ngoài thì cũng phải tác ý: “Tâm phải tĩnh giác, không buồn ngủ nữa! Phải biết bước chân đi!”. Tác ý cho mạnh một lúc thì sẽ hết buồn ngủ. Phải tác ý cho đến khi tĩnh giác. Chỉ dụng pháp Kinh Hành và tác ý mà luyện, không dụng cái nào khác cho đến khi hoàn toàn tĩnh giác.

Mỗi khi bị cơn buồn ngủ tới thì phải đứng dậy đi và tác ý. Cơn buồn ngủ kéo dài lắm, có khi lâu đến một, hai giờ! Con phải phá, không được đầu hàng. Phải đánh cho đến tận cùng, cho hết buồn ngủ bằng pháp Kinh Hành Tĩnh Giác và tác ý. Luyện riết thì cái si – cơn buồn ngủ là hiện tướng của si – bị phá. Phá được buồn ngủ là pháp Kinh Hành có kết quả. Không ngờ pháp Phật dạy Kinh Hành để tĩnh giác khi buồn ngủ, mà khi đã phá được buồn ngủ thì sức tĩnh giác lại ngày càng cao. Tác ý riết thành lực phá buồn ngủ làm cho sức tĩnh giác tăng lên.

Khi có đối tượng của pháp môn thì dùng pháp đối trị. Có đối tượng thì pháp kinh hành mới có hiệu quả nghĩa là sức tĩnh giác tăng. Ở đây buồn ngủ là đối tượng của pháp kinh hành, phải dùng pháp kinh hành để đối trị. Còn nếu không có buồn ngủ mà tập kinh hành thì có tĩnh giác chứ sức tĩnh giác không tăng. Không phải tập đi kinh hành cho hết vọng tưởng. Không phải thế. Mục đích kinh hành là phá buồn ngủ.

4.- Phá Buồn Ngủ Bằng Kinh Hành Và Tác Ý

Con người mình vốn hay lười biếng, buồn ngủ làm tâm mờ mịt, không tỉnh táo được. Vậy nên phải đi kinh hành nhiều và nếu đi không đủ để phá buồn ngủ thì phải dùng tới các câu pháp hướng. Phải căn cứ trên trạng thái tâm để đặt ra câu pháp hướng cho đúng với trạng thái lúc đó. Thí dụ con bước đi tỉnh táo nhưng tâm lại khởi niệm nhiều, lúc đó con đặt ra câu pháp hướng thích hợp như “Tâm phải vắng lặng! Không được khởi niệm!”, hay có thể dùng câu pháp hướng của đề mục số 7 Định Niệm Hơi Thở mà hướng tâm: “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi đang đi kinh hành”. Tác ý như vậy vì đây là lúc đi, thay chữ hít vô, thở ra bằng chữ đi kinh hành vào câu đó; vì tâm không an con phải bảo cho tâm an. Khi hít thở thì tác ý hít thở. Khi đi kinh hành thì tác ý đi kinh hành. Cứ như thế tác ý hoài thì nó sẽ có kết quả.

Khi tập luyện mà không tác ý hướng tâm là ức chế tâm; tác ý thì không bị ức chế. Đây là phương pháp mà đức Phật đã dạy trong bài kinh Định Niệm Hơi Thở và ta biết thay đổi để áp dụng khi đi. Khi ngồi hít thở thì tác ý “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi đang hít vô; an tịnh tâm hành, tôi biết tôi đang thở ra”. Khi tập luyện đi kinh hành thì ta tác ý tâm theo với pháp đi kinh hành. Không phải pháp này được ghi ở kinh hít thở thì chỉ áp dụng với pháp hít thở. Không phải vậy đâu. Nếu cái gì đức Phật cũng giảng dạy hết trong tất cả mọi điều kiện thì kinh đâu chứa hết, và như thế sẽ đi tới quá chi li tẳn mẳn. Người tập luyện phải biết, phải thấy, phải suy ra để áp dụng vào sự tập luyện của mình mà không sai ý Phật, không trật kinh sách. Điều cần thấy rõ là pháp nhằm đạt tới mục đích gì? Cùng một mục đích mà pháp khác nhau thì ta phải biết dùng phương pháp mà đức Phật đã dạy cho pháp này áp dụng cho mọi pháp khác để đạt được mục đích như Phật đã dạy. Với trí tuệ của người tập luyện, thay đổi câu tác ý cho đúng với trường hợp của pháp đang tập luyện. Thí dụ bây giờ đang ngồi mà thân bất an thì dùng câu tác ý cho thân an; còn khi tâm bất an thì dùng câu tác ý để tâm an và khi tác ý thì tâm có lực.

Khi tác ý như vậy thì tâm của mình theo lệnh của câu tác ý. Thí dụ đang đi kinh hành chưa hết giờ mà cảm thấy thân mỏi mệt nhưng muốn đi cho đủ giờ, lúc đó con bảo “Thân phải an, không được mỏi nữa nghe!”. Con chỉ ra lệnh như vậy và tác ý thì sử dụng là câu “An tịnh thân hành tôi biết tôi đang đi kinh hành”. Sử dụng câu pháp hướng cũng tuỳ theo tâm, có khi nhẹ nhàng khuyên bảo nó; có khi phải mạnh mẽ, cứng rắn la rầy nó, làm cho nó sợ.

5.- Khi Mới Tập Luyện Phải Kinh Hành Nhiều

Người mới tập luyện, nếu cứ ngồi trong thất luyện Định Niệm Hơi Thở nhiều không tốt vì sẽ sinh ra buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê và lười biếng, nên cần phải đi kinh hành, phải thường xuyên đi kinh hành.

Vậy khi về thất, con đừng có ngồi nhiều mà phải đi nhiều. Đừng cố chấp rằng giờ này là giờ ngồi, đi kinh hành là sai. Chỉ mới hơi buồn ngủ là đứng dậy ngay, đi và tác ý thầm câu tác ý hướng tâm. Đi mà vẫn nhiếp tâm vào hơi thở như con đã tập mấy ngày vừa qua. Nếu tác ý thầm mà không hết buồn ngủ thì tác ý lớn tiếng. Câu pháp hướng có lực làm cho sự buồn ngủ biến mất. Con tiến bộ được là nhờ đi kinh hành. Chỉ đi kinh hành thì sự buồn ngủ mới không đánh phá được. Sự buồn ngủ làm tâm mờ mịt. Chỗ mờ mịt này làm tâm không chiến đấu được, mới đưa vào mất sự chú ý (vô kí). Phá được buồn ngủ thì mới phá được mất sự chú ý. Mới tập luyện đừng sợ đi kinh hành nhiều cực.

Đi trong thất được nhưng bị gò bó, ra ngoài trời cho thoái mái, dễ chịu hơn. Mới sống đời sống độc cư mà cứ quanh quẩn trong thất thì gò bó quá, phải ra ngoài đi. Nên thiện xảo, tuỳ theo tình trạng của mình mà luyện đạt cho được sự tĩnh giác.

Khi nào buồn ngủ nặng nề, bằng cách tác ý như thế mà không hết thì theo cách sau đây để phá nó. Chẳng khó khăn gì, cũng dùng bước đi mà phá buồn ngủ. Con đưa chân tới trước, thẳng đầu gối, đưa cao lên rồi đạp mạnh chân xuống. Đi như thế thì các cơ được vận động, làm cho cơ thể chuyển động và cơn buồn ngủ nhờ vậy biến mất, bị đẩy lui. Đức Phật dạy ta phải thiện xảo sử dụng các pháp môn, đừng ra ngoài. Những người, để giảm, để khỏi buồn ngủ, lấy nước rửa mặt, rửa đầu hay tắm, thì cách thức đó là ra ngoài pháp môn. Đang đi kinh hành thì phải thiện xảo sử dụng cách đi, làm sao cho cơ thể tỉnh táo được mà vẫn ở trong cách đi kinh hành.

Bây giờ con hãy đi kinh hành để Thầy xem cách thức con thực hành. Trong lời trình bày của con thì thấy đúng rồi.

Con tác ý thầm trong đầu và đi tốc độ như vậy là được, đúng với pháp Kinh Hành Tỉnh Giác.

6.- Tâm Phóng Dật Phóng Niệm

Phải nhớ kĩ như vầy khi phóng dật phóng niệm thì không thể an trú được. Cho nên khi muốn tập luyện bất kỳ pháp môn nào trước tiên cần phải giữ thân tâm yên lặng một lúc từ 1 phút tới 5 phút, sau đó ôm pháp thì mới an trú được, chứ không phải muốn đi kinh hành mà mới vô là đi liền. Bất kỳ ai tập luyện cũng phải biết và sử dụng điều này, chứ không biết, không áp dụng thì người đó chỉ tập luyện lấy có chứ kết quả khó đạt được.

Khi đang đi mà vọng tưởng tới dồn dập thì nên đứng lại, giữ yên lặng một lúc cho thân tâm ổn định rồi tập trung tâm ý tập luyện lại. Con tập cứ đi 20 bước xong đứng lại chuẩn bị cho 20 bước kế tiếp. Làm vậy thì tập luyện rất kĩ, rất kết quả, hơn là đi liên tục 20 bước này kế tiếp 20 bước khác, hay liên tục suốt 30 phút. Đó là cách thiện xảo để an trú tâm trên thân hành. Có nhiều cách thức để thiện xảo tùy theo đặc tướng của mỗi người.

Khi đi Kinh Hành Tỉnh Giác, nếu có tạp niệm xen vào nhiều, sử dụng câu tác ý “An tịnh tâm hành tôi biết tôi đang đi”. Đó là những câu mà đức Phật trang bị sẳn để khi tâm không an dẫn cho nó an, tâm không tịnh dẫn cho nó tịnh. Khi thân không an thì cũng có pháp trang bị cho thân an. Đức Phật trang bị cho mình đủ hết mọi điều kiện, chỉ có mình chịu ôm pháp mà luyện hay không thôi. Phải siêng năng và tập luyện đúng pháp thì mọi chướng ngại, chướng pháp sẽ bị dẹp hết.

7.- Cách Kinh Hành Nhiếp Tâm – An Trú Tâm

Đi kinh hành để chánh niệm tĩnh giác thì giai đoạn mới bắt đầu tập luyện đừng nhìn xuống chân, vì nhìn xuống chân, sức gom tâm mạnh quá, tập trung quá, mặc dù biết rằng cái biết bước chân đi rất rõ bởi vì mắt ta nhìn ở đâu thì ý tập trung ở đó. Mới tập luyện thì chỉ nên tập để ý thức biết bước đi. Con tác ý “Tôi đi tôi biết tôi đi” rồi ra lệnh “Bước!”, rồi mới bắt đầu đi sau lệnh đó và mắt thì nhìn tới trước độ 2 hay 3 thước nhưng ý thì lắng nghe bước đi.

Nên nhớ ý lắng nghe bước đi còn mắt thì hãy nhìn ra xa để thư giản bớt sự tập trung. Nếu ở giai đoạn mới bắt đầu này mà gom mắt, tai, thân, ý vào bước đi thì ức chế quá. Có người sức tập trung mạnh họ luyện như vậy kéo dài được nhưng bị căng mặt. Họ ức chế. Con phải nhìn ra ngoài mà đi trong khi biết bước chân, nhờ thế sẽ thấy thoải mái dễ chịu nhưng ý không rời biết bước chân.

Đâu, con đi cho Thầy xem.

Con đi như vậy là được rồi. Chỉ ý thức biết bước chân đi thôi, còn mắt thì nhìn ra xa, tai phóng nghe ra ngoài. Giai đoạn này, khi đi mà lúc nào cũng biết bước chân đi, cảm thấy thoải mái dễ chịu, nhưng nó vẫn còn có niệm. Điều này không quan trọng gì hết. Có hay không có niệm không sao.

Sau thời gian luyện độ nửa tháng hay một tháng, lúc đó mới bắt đầu gom mắt vào bước chân, mắt nhìn thấy chân bước. Con sẽ thấy vọng tưởng giảm rất nhiều và cảm thấy dễ chịu trong suốt 30 phút. Lúc đó là con đạt được sự an trú. An trú ở mức độ ngang với sự bớt vọng niệm.

Nửa tháng hay một tháng sau lại gom thêm tai vào. Đi mà mắt nhìn bước chân, tai lắng nghe bước đi, tập trung luôn cả mấy căn vào bước đi. Giai đoạn này là giai đoạn đi 30 phút không một niệm khởi mà không bị căng mặt, nặng đầu.

Con hãy biết luyện từng bước như thế, từng chút như thế. Đây là cách thức luyện chế ngự tâm, không ức chế tâm. Nếu ngay từ lúc đầu con tập trung hết các căn vào bước đi, luôn luôn làm vậy là ức chế. Đừng nghĩ tưởng là luyện tâm theo cách thức ức chế tâm sẽ tiến bộ nhanh và sự căng mặt nặng đầu này phải có, thường có. Điều này thường đem lại nguy hiểm nhiều hơn. Đối với người có thần kinh yếu thì có tác hại không thể sửa chữa được. Chỉ có người có thần kinh mạnh mới có thể may mắn vượt qua. Tuy nhiên đây không phải là pháp Phật dạy. Pháp của Phật dạy mới vào tập luyện là thấy có sự giải thoát ngay liền chứ không có căng mặt, nặng đầu, đau nhức thần kinh.

8.- Luyện Nhiếp Tâm, An Trú Tâm Khi Đi

1.- Giai đoạn 1 nhiếp phục tâm trên bước đi: Kinh Hành Tĩnh Giác con đi như vậy là được rồi. Chậm như vậy là được, cứ thế tiếp tục luyện. Khi đi theo độ chậm như thế thì con tác ý “Bước!”, “Bước!” hay “Trái bước!”, “Mặt bước!” theo từng bàn chân dở lên bước tới, toàn bộ bàn chân hành động chứ không phải từng hành động của bàn chân.

2.- Giai đoạn 2 nhiếp phục tâm trong sự an tịnh của bước đi: Khi tác ý “Bước” như thế cho đến khi nhiếp phục được tâm trong bước đi được, tức không khởi niệm trong thời gian bước đi, thì thay đổi câu tác ý khác, thí dụ bước thứ nhất bảo “An”, bước thứ hai “Tịnh”. Qua giai đoạn 2 này là nhiếp tâm trong sự an tịnh của thân đang bước đi chứ không còn nhiếp tâm trên bước đi nữa.

3.- Giai đoạn 3 an trú tâm trên bước đi: Bây giờ cũng câu tác ý bước đi đó nhưng khi tác ý “An” thì chú ý thân an, không cảm giác khó chịu chỗ nào; còn “Tịnh” thì chú ý cái tâm không khởi niệm gì. Thầy nói rõ: mỗi khi tác ý “An”, “Tịnh” thì không còn tập trung dưới bước đi nữa, mà  “An” là xem thân an, “Tịnh” là xem tâm tịnh, trong khi nương vào bước đi mà lắng nghe thân an và tâm tịnh. Luyện như vậy thì không bị thất niệm. Tức là lúc này tâm luôn luôn ở trên toàn thân.

4.- Giai đoạn 4 an trú tâm trong cái an tịnh: Sau khi an tịnh rồi, tức là thời gian 20 bước đi mà thấy được an tịnh rồi thì tới giai đoạn tập “an trú” để tâm trú trong cái an tịnh đó. Con tiếp tục luyện trên phương pháp thực hành biết toàn thân tâm, cùng lúc biết cả toàn thân và tâm, chứ không phải đi biết đi không thôi đâu!

Khi đã an trú được, tức an tịnh thân tâm được rồi thì không còn bị thất niệm nữa. Khi còn tác ý “Bước. Bước” thì còn thất niệm, nhưng sau khi con làm chủ được, nhiếp phục được tâm không còn niệm khởi thì thay “An, Tịnh ” vào. Khi con chủ động thì không thất niệm. Không thất niệm thì mới an tịnh. Khi tác ý “An”, “Tịnh”, thấy đi suốt thời gian đó mà không có một niệm nào xen vô, thì con phải hướng tâm và tác ý “An”, Trú”, và tập cảm thấy như lúc này tâm trú vào bước đi rất rõ ràng và yên ổn. Như vậy là tu 4 Niệm Xứ trong khi thân di động.

Giai đoạn mới đầu này, con cố gắng tinh cần tập luyện thì bị hao năng lượng rất nhiều nên làm sao bắt đầu vào tập luyện thì phải đạt được chất lượng liền tức là làm sao phải nhiếp phục và an trú tâm trên bước đi cho được, nghĩa là đi mà hoàn toàn không có một niệm nào xen vô làm gián đoạn niệm biết bước đi.

Nếu muốn được như vậy thì trong một thời luyện có nhiều lần 20 bước, sau mỗi lần 20 bước đứng lại nghỉ ngơi chuẩn bị cho 20 bước kế tiếp. Thí dụ như khả năng đi 20 bước mà vọng niệm hãy còn nhá nhá, như vậy trong thời gian đứng nghỉ đó, phải chuẩn bị làm sao cho vọng niệm không còn nhá vào trong 20 bước kế này nữa. Nghĩa là nếu trong 20 bước vừa rồi mà có một niệm xẹt vô – đang biết bước đi, vọng niệm nhá lên mà biết ngay thì nó dừng lại liền, không kéo dài được đâu – Tuy nhiên, khi đó con đứng lại tư duy suy nghĩ, tìm cách làm thế nào để điều khiển 20 bước kế này không có một niệm nào khác niệm biết bước đi xen vô được. Khi nào luyện sai, bị sơ sót là phải suy xét liền vì sao chỗ này có niệm xẹt vô? Đứng lại là để tư duy suy xét rút tỉa kinh nghiệm. Sau khi suy nghĩ rút kinh nghiệm biết tại chỗ này đã hơi lơ là, không chú tâm kĩ vào bước đi nên hồi nãy vọng niệm xẹt vô được. Vậy phải cẩn thận điểm này.

Đó chính là tập luyện kĩ, là tập luyện có chất lượng, dù tập luyện ít mà chất lượng rất cao tức là nhiếp phục được tâm. Khi nhiếp phục được tâm, an trú được tâm thì hạnh phúc lắm, thích thú lắm! Không làm chủ nhiếp được tâm thì lấy gì mà phấn khởi. Dù Thầy chỉ dạy cách gì đi nữa mà con tập luyện không có kết quả thì không thể có niềm tin được. Cho nên phải tự con đạt kết quả để có niềm tin, có sự vui thích trong tập luyện thì mới đưa lại sự tinh tấn.

Khi chưa an trú tâm, không phải khi đạt được nhiếp tâm không niệm khởi trong 20 bước hay trong 10 bước và tất cả mỗi 20 bước đều không niệm khởi thì tăng số đếm bước lên. Không phải vậy. Vẫn giữ số 20 bước và luyện làm sao để tâm được an trú trong số bước đó. Khoan tăng số bước lên.

Nếu trong tất cả mỗi lần 20 bước chất lượng rất cao nghĩa là nhiếp phục được tâm ổn định thì cũng chỉ đi 20 bước thôi và duy trì sự nhiếp tâm cho đến khi trạng thái tâm an trú xuất hiện chỉ trong số 20 bước đó. Bây giờ chưa an trú mà chỉ mới nhiếp phục tâm được trong thời gian rất ngắn, dù vậy, con đã phải tiêu hao năng lượng rất nhiều. Nếu tăng số bước lên thì càng bị hao năng lượng nhiều hơn nữa, như vậy sẽ bị buồn ngủ, ngủ mê không tập luyện được. Kết quả là phải ăn, phải ngủ phi thời, hoặc là bị sụt giảm gầy ốm thành bệnh. Nói chung là không tập luyện được.

Luyện cho đến khi chỉ cần vào vài bước là đã an trú được, có sự an lạc trong thân tâm khi bước đi, nên không bị hao năng lượng. Sự an trú sẽ tăng từ thấp lên cao, càng ngày càng mạnh, rõ ràng và mau đạt được. Vì vậy, khi mới thấy có sự an trú đến thì đừng tăng số bước, đừng tăng thời gian tập luyện lên. Khoan đã. Phải luyện cho sức an trú ngày càng mạnh, càng tăng nhiều lên, cho được ổn định, lực của sức an trú ngày càng tăng cho đến rất sung mãn mới được.

Cái khó của thời gian đầu này là làm sao nhiếp phục được tâm chỉ trong thời gian ngắn nhất. Đừng tham đi nhiều, đừng tham thời gian tập lâu dài. Đừng nghĩ 20 phút, 30 phút gì hết, mà chỉ nghĩ: “Tôi chỉ biết 10 bước, hay 20 bước thôi, làm sao cho tâm được an trú, chỉ bấy nhiêu thôi. Tôi biết sức của tôi”.

Chỉ bấy nhiêu bước mà nhiếp phục tâm được, rồi an trú được. Đừng có đi mãi đến sau 10, hay 15 phút mới có an thì không được, mất thời gian dài, hao năng lượng nhiều quá. Phải vô chừng 5 bước là đã có năng lượng rồi, không còn hao năng lượng của con nữa. Tập luyện 20 bước chứ càng luyện càng khoẻ. Lúc đó con bắt đầu ăn uống ít hơn, không còn ham ăn nữa, bởi vì có sự li dục rồi. Khi năng lượng do tập luyện sinh ra có đủ thì nó tự li dục. Nếu thiếu năng lượng thì nó đòi ăn –tức còn tham dục– mà không thoả mãn thì sinh bệnh này bệnh nọ. Và nó đòi ngủ – vì còn si – mà ráng giữ gìn giờ giấc thì nó phải bệnh chết thôi. Đó là lý do vì sao người ta tập luyện không được. Người ta sai, con phải tránh.

Bởi vậy Thầy khuyên trước nhất phải cố gắng nhiếp phục tâm cho được. Có vọng tưởng mà muốn an trú thì làm sao an trú được. Nhất định phải hoàn toàn chủ động. Muốn nhiếp là nhiếp được. Thầy cho thời gian tập luyện ngắn, chỉ 20 bước, chỉ 5 phút thôi, không hao năng lượng nhiều đâu. An trú chưa được mà tăng giờ lên thì không được đâu. Tăng lên là tự diệt con đó.

Nếu mới khởi đầu thời khóa mà tập luyện Kinh Hành Tĩnh Giác hay Thân Hành Niệm thì trước hết phải lấy Định Niệm Hơi Thở làm chỗ nhiếp phục tâm và an trú tâm, nhờ vậy sẽ ít bị hao năng lượng. Chứ nếu vừa mới vào giờ tập, con đi liền trong khi thân tâm chưa an, thì thời gian đi sẽ làm tiêu hao năng lượng, mặc dù con tập trung dưới chân để đi mà được không niệm khởi đi nữa, nhưng trong khi tâm chưa nhiếp phục, chưa an trú, thì nó vẫn không bổ sung năng lượng được vì không có năng lượng. Năng lượng trong người có bao nhiêu đều đem ra sử dụng vì vậy năng lượng phải hao hụt, làm sao có thể tăng lên được. Khi đi trong trạng thái thân tâm được an trú thì năng lượng đã không tiêu hao mà được tăng lên cho nên không thấy mỏi chân hay mệt nhọc gì, hay buồn ngủ gì hết. Càng đi thì càng thấy thích thú, càng đi thì càng tỉnh táo, càng đi thì sự đi làm cho tâm càng được an trú nhiều nên năng lượng tăng lên nhanh hơn khi ngồi, năng lượng dễ sung mãn.

Vậy muốn đi kinh hành trong an trú thì trước hết phải nhiếp phục tâm cho được. Muốn vậy thì trước khi đi Kinh Hành hay Thân Hành Niệm, hãy ngồi xuống hít thở để tâm nhiếp vào hơi thở, biết được hơi thở ra vô đều đặn trong vòng 5 phút.
Cạnh đó phải an trú cho được thân. Khi ngồi mà được an ổn cả trong hơi thở và trong thân thì khi kinh hành sẽ được rất an và rất dễ dàng tỉnh táo.

Đó là cách thức tập luyện tạo cho mình được sung mãn năng lượng. Từ đó nó làm cho tâm lực mạnh. Ai tập luyện muốn thành tựu đạo giải thoát thì cũng vậy thôi, không khác nhau.

Đó là cách thức nhiếp phục tâm. Đừng để sự dễ dãi, không chủ động điều khiển thân trở thành thói quen. Khi có thói quen đó thì cứ muốn đi cho nhiều, tập luyện cho dài lâu, mà kết quả có chất lượng thì không đạt.

Sau khi đi kinh hành một thời gian, nếu không nhiếp phục tâm trên bước đi được thì phải thưa trình, chứ đừng tập luyện bừa, kẻo thời gian sau dù có nhiếp phục được nhưng nó lại sanh tưởng. Đừng cố gắng tập mà sai pháp sẽ đi trật hướng.

Trường hợp trong khi con đi mà có hai cái biết, cái biết của thân đang đi và cái biết sự đi tách rời khỏi thân thì cái biết sau là cái biết của tưởng. Phải dừng nó lại bằng cách tác ý. Trong kinh Pháp Cú, đức Phật dạy lấy ý điều khiển, đừng có gì rời khỏi ý thức hết.

9.- An Trú Tâm Vào Bước Đi

Phật dạy thế này, thí dụ với nhiếp phục tâm trên hơi thở thì “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Đó là phần thân; còn phần tâm thì “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Ta thấy rõ ràng hai câu này đức Phật dạy tập luyện về hơi thở phải không? Bây giờ nhiếp tâm trên bước đi thì đó là hành động của thân, con tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi đang đi”. Chỉ thay đổi “đi” cho “hơi thở” vì ta đang đi, bởi ta nhiếp phục tâm trên bước đi.

Nhưng đây là câu đức Phật dạy chứ không phải là câu của con. Con phải chọn lựa (trạch pháp), đặt ra câu cho hợp với con. Có thể chọn câu như thế này “Thân tâm phải an trú vào bước đi!” và bước đi đủ số bước, xong tác ý lại câu đó lần khác. Lúc đầu nó chưa an tịnh, chưa an trú, nhưng cứ vững tâm kiên trì tác ý một thời gian sau sẽ có an tịnh, an trú. Con đã qua quá trình thời gian luyện để được nhiếp tâm thì cũng phải qua quá trình thời gian cần thiết để được an trú tâm.
Khi tâm an trú thì có trạng thái an ổn hiện ra trong tâm.

Muốn có sự an trú trong bước đi thì con cần nhớ: Khi nhiếp được tâm vào bước đi con đã sử dụng câu tác ý như thế nào, thí dụ dùng câu “Tâm phải nhiếp vào bước đi!” thì bây giờ muốn được an trú, con thay đổi câu đó bằng cách tác ý “Thân tâm phải an trú vào bước đi!”. Con tác ý như thế. Tiếp tục đi. Cũng với số bước 20 như vậy. Rồi đứng lại tác ý an trú nữa. Đơn giản vậy thôi. Nhưng tâm phải nhiếp phục được, chưa nhiếp phục thì không an trú được.

Vậy chỉ thay đổi câu tác ý đã mang lại kết quả nhiếp tâm bằng câu tác ý tương tự hợp với đối tượng thân tâm an trú. Cứ như vậy luyện một thời gian thì sẽ được an trú. Khi nhiếp tâm thì tác ý nhiếp tâm, còn khi an trú thì tác ý an trú. Chỉ thay đổi câu tác ý này thôi. Số bước đi, cách đi thì giữ y như cũ.

10.- Tác Ý An Trú Thì Tâm Phải Như Thế Nào

Trong khi đi, không tưởng ra trạng thái an như thế này hay như thế khác. Không buộc ý theo dõi chi tiết bước đi, mà chỉ biết bước đi thôi, nương vào bước đi thôi. Khi nhiếp tâm thì con nhiếp tâm trên bước đi, giờ an trú thì cũng an trú trên bước đi. Tác ý thì tác ý an nhưng biết bước đi. Từ trong bước đi tâm đã nhiếp vào được ổn định thì trạng thái an trú sẽ hiện ra khi tác ý. Chỉ có vậy thôi. Cũng đừng để cho niệm khác xen vô. Giữ không khởi niệm như khi nhiếp tâm vậy. Còn câu trạch pháp thì tùy con chọn lựa câu nào cho thích hợp. Hễ câu tác ý phù hợp với đặc tướng của con thì mau an lắm.

Có thể dùng câu “Thân tâm phải an trú trên bước đi!”, tác ý xong thì đi. Trong khi đi đừng nghĩ tưởng an như thế nào hết, bằng không thì sẽ bị tưởng. Chỉ biết bước đi, không cho niệm nào khác xen vô. Cũng nhiếp phục tâm trên bước đi.
Đừng có mù mờ, đừng quên bước đi. Hãy nhớ kĩ như thế và thực hành đúng như thế thì một thời gian sau trạng thái an sẽ xuất hiện. Khi trạng thái an xuất hiện thì thấy năng lượng trong thân sung mãn lên.

Con phải tập luyện cho kĩ ngay từ đầu, chứ tập luyện lơ mơ thì kết quả sẽ không ra gì hết. Bởi vậy, con đừng nên đọc kinh nào hết ngoài các bộ kinh Nguyên Thủy đã được Hòa Thượng Minh Châu dịch từ tạng Pali ra chữ Việt, và những gì Thầy dạy, con sẽ thấy kết quả lần lượt rõ ra.

Kinh Tương Ưng có thể xem như kinh tóm lược hai bộ Trường Bộ Kinh và Trung Bộ Kinh là những bộ với những bài kinh dài và tương đối dài. Kinh Tương Ưng xác định hành động tập luyện từ hai bộ kinh đó, cô đọng lại các vấn đề đã được nói trong hai bộ kinh đó. Tuy nhiên nếu không tập luyện, không thực hành thì cũng không hiểu hết được kinh. Có thực hành tập luyện mới nhận ra được các ý nghĩa cô đọng trong đó. Càng tập luyện thì càng sáng tỏ được những điều Phật dạy. Nếu không đọc, không học kinh, khi gặp khó khăn thì niềm tin dễ bị mất, hoăc khó tiến bộ. Nhờ đã đọc, đã học kinh rồi thì khi tập luyện gặp khó gì con thấy chỗ trật vuột được liền. Con biết chỗ đúng chỗ sai của con thì niềm tin được vững vàng. Cho nên con cần nhiếp phục tâm làm sao cho được, để có đủ niềm tin.

Đầu tiên con được dạy Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ (những đề tài trong Quán Vô Lậu. Xem thêm những giải thích trong tập 2 Đường Về Xứ Phật) để dùng tri kiến mà xả tâm, rồi nhiếp phục và an trú cho được tâm để xả những cảm thọ tức là những ác pháp trên thân và tâm. Sau đó đưa dần đến những kết quả do tu học thì con mới có đủ niềm tin, từ đó năng lực của con mới xuất hiện đủ. Không phải muốn năng lực đến là nó dễ dàng đến được.

Nhiếp phục được tâm là đã bước vào giai đoạn tĩnh giác được rồi. Còn những cái đầu tiên: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, là dùng tri kiến để tư duy quán xét về vô lậu. Nếu tri kiến con tư duy được đúng thì nó giải bày tâm của con. Nhưng đó chỉ mới ở chỗ tri kiến thôi, chứ chưa có tĩnh giác đâu; chỉ khi nhiếp phục được tâm, rồi an trú được tâm thì đó mới là giai đoạn tĩnh giác, sau đó mới tiến tới giai đoạn tỉnh thức, định tỉnh. Phải đi nhiều giai đoạn trên đường tập luyện.

11.- Đếm Số Khi Nào Trong Lúc Bước

Kinh Hành Tĩnh Giác trong 20 bước, tập để biết bước đi trong suốt thời gian 30 phút. Sức tĩnh giác với cái biết bàn chân bước như vậy là khác hẳn nhau ở chỗ đếm số trước và đếm số sau khi bước. Đếm số rơi vào trước lúc bàn chân bước tới có kết quả tĩnh giác tốt hơn.

Đức Phật thường nhắc thiện xảo trên pháp tập luyện trong khi tập luyện, chứ không phải sáng tạo. Khi con nghĩ cách này cách khác thì đó là sáng tạo, tạo cái mới. Còn ở đây là thiện xảo. Thí dụ như về Kinh Hành Tĩnh Giác, đi thì biết đi. Thiện xảo là làm sao để không xẩy ra việc hồi thì nhớ hồi thì quên chú ý bước đi. Vì thế thiện xảo là nghĩ ra cách thức thế nào để khi nào cái ý cũng điều khiển hành động đi của bàn chân.

Trong đời thường mình làm hành động là do nghiệp. Đi là do nghiệp dẫn đi chứ tâm ý không chủ động. Bây giờ trở về với đường lối tập luyện của đạo Phật thì tâm ý phải chủ động, phải làm chủ để dẫn dắt mọi hành động của thân. Cho nên phải tác ý để tâm ý nương hành động của thân để biết cái thân. Cái thân làm theo thói quen, vì vậy tâm ý phải dẫn dắt nó, phải làm các động tác chầm chậm. Con đừng đi nhanh, phải đi chậm, tác ý từng bước đi. “Trái bước!”, “Mặt bước!” rồi dở chân đi và lưu ý từng bước. Nếu đếm trước khi bước đi thì số đếm là một lệnh. Khi ra lệnh để bước thì sức tĩnh giác cao hơn đếm bước sau khi đi.

Con luyện kinh hành như vậy thì năng lực rất cao. Cái ý biết toàn bộ hành động của bước đi, điều khiển tổng thể bước đi. Các động tác đi có sự điều khiển của ý. Ý tác động hành động đi nên nó đi trước hành động thân. Ở đây không phải cái ý điều khiển từng chi tiết của bước đi như trong Thân Hành Niệm.

Đếm số bước hay ra lệnh “Mặt”, “Trái” có dụng đích làm sao trong số bước đó ý phải điều khiển thân để không còn vọng tưởng xen vô. Thí dụ đếm 20 bước đi thì khi con đi 20 bước này lúc nào ý cũng gắn chặt vào bước đi nên không có một vọng tưởng nào xen vào được. Luyện như vậy thì chất lượng rất cao. Bằng nếu đi trong 20 bước mà vọng tưởng vẫn còn thì lùi lại 15 bước; 15 bước vọng tưởng vẫn còn thì lùi lại 10 bước hay 5 bước đi. Như vậy mới tập luyện kĩ. Lúc đầu phải tập cho kĩ mới được. Phải tập ít giờ để cho cái ý điều khiển hành động đi. Không nên kéo dài giờ tập luyện. Tập dài lâu mà ý không điểu khiển được hành động đi thì sẽ trở thành thói quen đi trước khi cái ý điều khiển hay không được cái ý thấy biết.

12.- Li, Đoạn, Diệt Ngũ Triền Cái Khi Đi

Khi đạt được sự an trú tâm trên bước đi rồi; thuần thục ổn định như vậy được rồi thì chuyển qua giai đoạn của cũng hành động đi như vậy nhưng thay bằng tác ý “Li”, “Tham”... ở mỗi bước đi. Đến cuối đường đứng lại, tác ý một câu, thí dụ như “Tâm phải li dục li ác pháp!”, hoặc “Tâm như cục đất, li hết tham sân si đi!”. Tác ý xong, quay lại đi nữa. Cũng tác ý mỗi bước “Li”, “Tham”; “Li”, “Tham”...

Khi đã nhiếp phục tham được rồi – tức không khởi niệm trong thời gian đi thì thay đổi bằng “Li”, “Sân”... rồi kế đến là “Li”, “Si”... “Li”, “Mạn”... “Li”, “Nghi”.

Đó là tập luyện li ngũ triền cái. Sau li thì đến “Đoạn”; sau đoạn, đến “Diệt” ngũ triền cái. Luyện tác ý như vậy một thời gian thì ngầm trong đó sẽ có cái lực li, đoạn, diệt ngủ triền cái. Nó làm cho hết tham, sân, si.

Trong khi đi, con nương vào bước đi, dùng các câu tác ý đó để xả tâm. Đức Phật dạy trong kinh Tương Ưng, chỗ tập luyện Bát Chánh Đạo từ Chánh Kiến đến Chánh Định đều phải li tham sân si, thì bây giờ trong hành động đi, con đang ở chính giai đoạn này, vậy con nương vào bước đi để li tham, sân, si là đúng lời Phật dạy.

Luyện xả tâm trong khi kinh hành được một thời gian, khi xả ra mà ngồi xuống thì tâm thanh thản vô cùng. Tâm không còn giận hờn. Do xả tâm li ngũ triền cái mà vô trạng thái thanh thản chứ không phải do ức chế. Còn nếu ráng ngồi cho hết vọng tưởng rồi cho là li, là diệt tham, sân, si thì không thể được đâu; đừng làm chuyện đó. Ráng ngồi cho hết vọng tưởng là trật.

13.- Sự Chú Tâm Khi Đi

Khi tập luyện Kinh Hành Tỉnh Giác, mắt có thể có hai điều kiện thấy bước chân đi:

- Khi nhìn xuống thì thấy gần hết các động tác chuyển động của chân. Chăm chú nhìn vào bước đi là cách chế ngự tâm vào bước đi, lúc đó mắt nhìn thấy từng động tác của chân dở, co, đưa... động tác của mắt nhìn động tác của chân nhận ra hành động đi của chân.

- Khi nhìn tới trước, không nhìn xuống thì chỉ biết chuyển động của chân qua cảm nhận và hình dung nó ra. Như vậy cách nhìn tới trước, không nhìn xuống chân là thư giản, tức không tập trung nhiều, chỉ bằng cảm nhận thôi. Không nhìn bằng mắt, nhưng cảm nhận động tác của chân dở, co, đưa...

Đó là hai giai đoạn tập luyện: ngó ra ngoài và ngó xuống chân.

Người mới tập thì tâm hay phóng lãng vì vậy phải ngó xuống chân, tập trung hơi nhiều để chế ngự tâm trên bước chân hơn là ngó ra ngoài. Đó là giai đoạn đầu gọi là cách thức nhiếp tâm chế ngự tâm.

Giai đoạn thứ hai là để cảm nhận chứ không dùng mắt nên sức chế ngự bớt đi, đưa đến trạng thái nhẹ nhàng thoải mái hơn. Nhìn bằng mắt gắt quá, luyện nhiều thì căng thần kinh, mệt. Ngó ra xa mà cảm nhận thì nhẹ nhàng hơn.

Tuy đó là cách nhiếp phục tâm để tĩnh giác ở hai giai đoạn đầu và kế nhưng chưa hoàn toàn trọn vẹn trong vấn đề Chánh Niệm Tĩnh Giác. Chánh Niệm Tĩnh Giác vốn nhằm vào li tham li sân li si, chứ không phải chỉ biết bước đi không thôi.

Con đang ở giai đoạn đầu của tĩnh giác, do đó, làm thế nào để nhiếp phục tâm hay chế ngự tâm, làm thế nào để cột chặt tâm vào chân, cho nên cả mắt và cảm nhận phải chăm chăm chú ý vào hành động bước đi. Đó là giai đoạn đầu mới tập.

Nhưng tập ức chế nhiều như vậy thì sợ bị căng mặt, căng đầu, cho nên Thầy không cho tập luyện thời gian dài mà chỉ sau 5 hay 10 phút thay đổi sự tập trung cho nhẹ lại, cho không bị căng.

Khi đã nhiếp tâm được, rồi an tịnh được thì phải lắng nghe sự an ổn của thân tâm. Càng lắng nghe nó thì nó càng an tịnh nhiều. An tịnh nhiều thì lại càng tăng trưởng sức an đó lên. Khi sức an được tăng trưởng rồi thì tâm sẽ an trú. Lúc đó con chỉ mới nhiếp thì nó vô an trú liền, tâm nằm im trong đó. Đó là ở giai đoạn thứ hai.

Khi đã thuần thục ở giai đoạn 2 rồi tức khi đã an trú tâm được rồi thì phải qua giai đoạn xả tâm, cũng ở trên pháp Chánh Niệm Tĩnh Giác đi kinh hành. Khi chế ngự tâm mà không bị căng thần kinh thì mới đi vào giai đoạn xả tâm. Đi kinh hành mà xả tâm. Con có thể li tham, li sân, li si trên mỗi bước chân chứ không còn tập trung trên mỗi bước đi nữa, chỉ tập trung trên pháp LI. Lúc đó chân trái bước thì tác ý “Li”; chân mặt bước thì tác ý “Tham”. Khi tác ý như thế, con cảm nhận tưởng như là tất cả tâm tham, tâm sân, tâm si theo chân bước mà li ra ngoài, không còn nữa. Mỗi bước đi đều tác ý như thế. Có thể sử dụng hai chữ hay một chữ cho một bước đi. Con phải tự suy nghĩ và đặt ra các câu tác ý cho đúng với sự li 5 triền cái, diệt năm triền cái. Sau khi tác ý “Li tham”, thì đến “Đoạn tham”, rồi “Từ bỏ tham”. Đó là giai đoạn li dục li ác pháp trên hành động tĩnh giác trong bước đi. Giai đoạn này mới là chính.

Phương pháp của Phật lúc nào cũng chỉ nhắm ở điểm li dục li ác pháp này, nhưng vì mới tập, chưa nhiếp phục được tâm, chưa an trú được tâm nghĩa là tâm chưa tập trung chặt chẻ vào trong bước đi thì con phải chỉ luyện để biết bước đi thôi. Chừng khi sự tập luyện tiến bộ ổn định thì mới tập tới giai đoạn 2 nhiếp tâm vào bước đi, giai đoạn 3 an trú tâm vào bước đi và giai đoạn 4 xả tâm trong bước đi.

Người ta đã sai lầm là lấy bước đi tập trung trong bước đi để không có niệm khởi thay vì chỉ lấy bước đi để biết bước đi thôi. Pháp Phật lấy bước đi để tĩnh giác biết bước đi thì họ lấy bước đi để chế ngự, ức chế niệm khởi, là họ sai. Cái đó làm sai mất pháp Phật.

14.- Khuyên Dạy Thêm

Về sự ôm pháp tập luyện, càng ngày con đi kinh hành càng chậm lại là đúng. Chậm lại để đúng với sự chú tâm chủ động biết bước đi. Lúc này vẫn có niệm nhưng không quên bước đi. Như vậy là tĩnh giác trên bước đi. Có niệm vì đó là tâm còn động. Tâm còn động thì còn có niệm. Mới tập luyện, tâm chưa li dục li ác pháp thì làm sao hết niệm được. Đừng nghĩ rằng đó là tôi thất niệm. Thất niệm là mất Chánh Niệm Tĩnh Giác. Có niệm mà không mất chánh niệm là đúng.  Cần phân biệt như thế.

Đức Phật thường nói đừng để thất niệm. Thất niệm là mất niệm tĩnh giác. Cho nên sợ thất niệm mà không sợ niệm vọng tưởng. Đừng nghĩ vọng tưởng xen vào là thất niệm; nghĩ như vậy là sai. Thầy nhắc vậy để con biết chỗ thất niệm hay không thất niệm. Vẫn có vọng tưởng nhưng biết rằng không thất niệm. Trường hợp có vọng tưởng mà cũng thất niệm đó là lúc theo vọng niệm mà quên niệm bước đi.

Cứ theo đúng như con đã trình mà luyện. Khi đến giai đoạn bốn, con thường xuyên tác ý “Quán li tham..., quán li sân..., quán li si...” cho đến chừng xả tham, sân, si ra hết thì các vọng niệm sẽ không vô, không cần cố gắng thêm gì khác nữa. Chỉ dùng sức tĩnh giác cao nhất để luyện các pháp môn. Được vậy là con đã thích nghi với các pháp.

C.- THÂN HÀNH NIỆM

1.- Lời Dạy Đầu

Con phải biết đây là pháp tập luyện sau khi 4 Niệm Xứ đã sung mãn, nghĩa là ngồi chơi mà tâm thanh thản an lạc vô sự 12 tiếng đồng hồ, vẫn thản nhiên không khởi một niệm nào. Lúc đó mới bắt đầu ôm pháp Thân Hành Niệm mà luyện. Chỉ trong vòng 3 đến 5 tiếng đồng hồ thì 10 Thần lực, hay 10 Như Lai Lực, tức 4 Thần Túc hay 4 Như Ý Túc, hiện ra đầy đủ, bởi luyện pháp Thân Hành Niệm này tạo ra lực đó. Người tâm chưa li dục li ác pháp mà luyện pháp này thì nó sinh lực tưởng, và từ lực tưởng đó hiện ra những cái rất tai hại, chỉ nguy hiểm cho người tập luyện. Thầy thấy pháp hay nhưng chỉ hay đối với người đã chứng giới luật nghiêm chỉnh, đã li dục li ác pháp. Còn những người chưa chứng giới luật, nghe pháp hay như vậy rồi bắt chước và cố công tập luyện, nếu xẩy ra điều gì thì rất đau buồn. Nếu không có Thầy giúp cho để xả, thì suốt đời ôm bệnh thần kinh rất khổ, khổ cho bản thân và khổ cho gia đình.

“Lúc này Thầy chưa muốn dạy pháp này mà chờ đến khi có người nào giới luật nghiêm chỉnh, lúc đó người này mới được dạy pháp Thân Hành Niệm. Chỉ khi giới luật nghiêm chỉnh thì 4 Niệm Xứ mới được sung mãn, tâm mới được thanh thản an lạc vô sự. Không phải Thầy không muốn cho các con tập luyện pháp Thân Hành Niệm nhưng Thầy không muốn khi được phổ biến, có những người biết pháp đó tuyệt vời quá, nên bắt chước tập luyện mà lẽ ra phải đủ giới luật và dưới sự hướng dẫn của bậc Thầy cho đúng với đặc tướng của người đó thì không bị tai hại. Vậy dừng lại, đừng tập luyện pháp Thân Hành Niệm, trừ khi Thầy cho người đó tập để phá cái gì.” (Trích Lớp Chánh Kiến 2005-2006, Ngày Khai Giảng).

Bây giờ con chỉ tập làm quen với Thân Hành Niệm, mỗi thời chỉ nên tập 10, 15 phút thôi. Còn Chánh Niệm Tĩnh Giác (kinh hành) thì tập 30 phút, dù có an hay không an cũng chỉ tập bấy nhiêu thôi. Tập luyện Định Niệm Hơi Thở cũng vậy, chỉ 30 phút thôi. Tập nhiều quá sẽ quá sức, không có lợi.

Khi đã tập luyện 30 phút trong pháp môn nào thì cứ giữ 30 phút, đừng tập đến một giờ rồi sụt lui lại, không nên.

2.- Cần Thiện Xảo Chọn Tốc Độ

Đi Thân Hành Niệm chậm nhưng không nên chậm quá. Nếu chậm quá thì thừa thời gian, vọng niệm tới tâm sẽ phóng dật, không theo dõi kỹ từng động tác của chân. Thí dụ dở chân lên như vầy, đưa tới như vầy, hạ xuống như vầy... Nếu thân hành vừa đúng với đặc tướng và nhân tướng của con, không nhanh cũng không chậm quá thì sẽ không bao giờ có niệm khác xen vào. Nếu chậm quá sẽ dư thời gian vì thế mà có niệm khác xẹt vô; mà nhanh quá cũng có niệm khác xẹt vô. Làm sao để thiện xảo đến mức độ tập luyện Thân Hành Niệm tâm không phóng dật, không niệm nào xen vào được.

Như cách con đang đi Thân Hành Niệm thì nên đi hơi chậm hơn một chút nữa và khi ra lệnh phải ra lệnh cho mạnh, rõ ràng từng động tác nhỏ của bàn chân. Ra từng lệnh và đi như thế cho sức định đạt, cho tâm bám chặt lệnh và thân hành.

Để tránh sự nghiêng ngã vì thiếu thăng bằng trong khi đi thì nên bước với khoảng cách ngắn lại và không dở bàn chân lên cao quá. Khi một chân giữ trụ và chân kia đưa xa tới trước hay dở cao sẽ bị mất thăng bằng, khó giữ được thăng bằng.

Tập riết thì các hành động đi sẽ nhịp nhàng, từ từ. Tập Thân Hành Niệm dần dần sẽ đi vào hành động vi tế của thân. Nó sẽ cấu kết thành cỗ xe.

3.- Phối Hợp Thân Hành

Tập luyện Thân Hành Niệm làm sao cho nhịp nhàng, các thân hành ăn nhịp chặt chẽ, cấu kết thành một cỗ xe. Thí dụ con đang đi, ra lệnh đứng lại thì làm sao đứng lại không bị lừng khừng, hai chân phải đều ngang nhau, không chân trước chân sau; rồi ngồi xuống; kéo chân vô; đặt chân lên. Tất cả làm sao cho nhịp nhàng, đều đặn, ăn khớp. Có vậy mới thành cỗ xe.

Trong hành động đi, vì chỉ có một hành đi nên dễ ăn khớp, dễ nhịp nhàng. Còn khi cần cấu kết từ hành động đi này với hành động khác như đứng, ngồi..., đòi hỏi sự ăn khớp. Khi đang đi muốn đứng thì làm sao? Đang đứng muốn ngồi thì làm sao, v.v... Mọi hành động của thân phải nối với nhau nhịp nhàng, suôn sẻ, không ngập ngừng, lừng khừng. Có vậy mới thành cỗ xe, mới thành căn cứ địa. Khi được như vậy thì dường như mình quên hết mọi ngoại cảnh, ai làm gì cũng không bận tâm, trời nóng trời lạnh cũng không biết, muỗi cắn mình cũng không còn biết. Khi đó sẽ có một niệm gọi là Thân Hành Niệm, là niệm của thân. Khi đã có được niệm này thì dùng nó để dẫn tâm vào định. Bây giờ con tập làm sao cho mọi hành động đi, đứng, nằm, ngồi... ăn khớp, nhịp nhàng để từ đó mới dần dần đi vào niệm thân hành.

Phải cố gắng chuyên cần tập cho đúng phương pháp mới có được niệm này, chớ không phải dễ dàng đâu. Dù có những hành động sai khác nhau, nhưng làm sao để hành động này ăn khớp với hành động kia. Đó là phương pháp tập luyện. Con cố gắng đạt cho được.

4.- Thực Hành Tập Luyện

Với Kinh Hành Tĩnh Giác, khi ra lệnh chân mặt bước thì cả bàn chân dở lên bước tới chứ không lưu ý tới các động tác nhỏ trong sự di chuyển bàn chân, mục đích là để đạt sự tĩnh giác thôi. Còn trái lại, trong Thân Hành Niệm ra lệnh tổng quát xong còn phải ra lệnh tiếp từng động tác nhỏ của bàn chân di chuyển. Thí dụ: “Chân phải bước!”; “Dở gót lên!”; “Dở chân lên!”; “Đưa chân tới!”; ‘Hạ chân xuống!”;  “Hạ gót xuống!”.  Cứ mỗi động tác là một lệnh. Lệnh đi trước, chân chuyển động theo sau làm sao cho nó nhịp nhàng, để nó trở thành một lực đạo, thành Trạch Pháp Giác Chi, cho đến khi tâm điều khiển toàn bộ thân hành. Cho nên cần phải chậm. Chỉ trong một khoảng ngắn thôi, con có thể đi đến 20 bước. Và khi đi đủ 20 bước thì ra lệnh “Đứng lại!”; “Ngồi xuống!”;... Tập rất kĩ từng hành động đó.

Khi đi kinh hành thì con đâu biết trong động tác đưa chân như vậy có những động tác khác. Cho đến khi tập Thân Hành Niệm thì mới thấy từng động tác nhỏ, vi tế được bao gồm trong động tác di chuyển chân tới trước của mỗi bước. Thân nghiệp rất vi tế, nó làm thành thói quen, nhanh quá nên ý thức mình không nhận thấy kịp, không nhận ra được, không kiểm soát được. Hô bước thì nó (thân nghiệp) bước cái vụt trong khi động tác đó có biết bao động tác khác mà nó làm nhoáng một cái bao gồm hết toàn bộ. Bây giờ phải chẻ nát nó ra, làm thành rõ ràng từng cái, từng cái. Đó là mình bắt đầu làm chủ nó.

Sau khi cấu kết các hành động rồi thì mới đều nên thời gian để đi trong một đoạn đường phải giảm xuống. Thí dụ lúc mới tập Thân Hành Niệm con đi quanh thất chỉ 2 hay 3 vòng trong 30 phút. Nhưng khi đã cấu kết thành cỗ xe chạy đều đặn rồi thì có thể đi tới 5 hay 6 vòng với thời gian 30 phút. Lúc mới đầu mà đi 8 hay 10 vòng thì nhanh quá, không kiểm soát thân hành được. Phải chậm lại để theo dõi từng hành động cho kĩ lưỡng. Phải rất kĩ, không bỏ sót hành động nào. Mới đóng chiếc xe, phải đóng cho kĩ lưỡng. Khi cỗ xe đã cấu kết được rồi, cho chạy thì nó chạy đều đặn, và nhanh hơn vì chạy thì phải nhanh.

Thân Hành Niệm giúp cho tâm định tỉnh hoàn toàn, do vậy mà tiếng động bên ngoài không làm cho tâm phóng đi được. Không phải luyện lơ mơ mà được trạng thái đó. Gom toàn bộ tâm vào động tác của bàn chân theo lệnh. Lệnh đi trước, hành động theo sau. Hành động phải được theo dõi kĩ. Thí dụ bảo “Dở gót lên!” thì gót chân đang nằm yên bắt đầu dở lên. Dở lên xong giữ yên đó không làm thêm động tác nào cho đến khi ra lệnh tiếp “Dở chân lên!” thì chân từ từ dở lên. Rồi “Đưa chân tới!” thì từ từ đưa chân tới. Khi chưa bảo đưa tới thì chân không được đưa tới.

Tập luyện Thân Hành Niệm trong khi đi, đứng, ngồi xuống, đứng lên... được thuần thục rồi thì trong tất cả mọi hành động ngoài giờ tập luyện này cũng tự động được điều khiển và động tác hành động sẽ chậm lại. Sau khi luyện thuần thục Thân Hành Niệm thì ngay khi ngồi ăn cơm tự nhiên các động tác cũng chậm nữa. Như khi muốn múc cơm thì hành động đó cũng được điều khiển trước “Lấy muỗng!”; “Múc cơm!”; “Đưa lên!”... Làm như thói quen, hễ hành động là phải được điều khiển. Điều khiển tất cả mọi hành động.

Đó là Thân Hành Niệm. Cần phải có thời gian tập luyện. Nó đi tới phần rốt ráo. Nó là phần rốt ráo. Khi tâm đã điều khiển mọi thân hành thì tâm cũng điều khiển cái nghiệp nữa. Lúc đó có thể xem như toàn thiện rồi. Khó chứ không phải dễ đâu. Nhưng chuyên cần tập luyện theo thời gian rồi phải quen.

5.- Chọn Đúng Tốc Độ

Thân Hành Niệm phải luyện tập từ từ mới được nhịp nhàng. Hành động bước đi rồi đứng mà không khéo thì bị lọng gọng, lừng khừng. Đứng mà hai chân không ngang nhau, chân trước chân sau. Khi ngồi xuống, khi đứng lên thì đưa tay ra như thế nào để cấu kết nhịp nhàng.

Con hãy trình Thầy xem cách con đi Thân Hành Niệm như thế nào.

Con tập như vậy là gần đúng rồi, gần thành cỗ xe được. Tuy nhiên cần phải chậm hơn nữa để tâm theo sát các động tác cho kĩ. Chậm thì tâm mới theo không bỏ sót, sức định tỉnh mới gom vào trong hành động. Thí dụ bảo “Chân mặt bước!” thì đó là lệnh tổng quát, chưa làm gì hết, chỉ chân mặt chuẩn bị thôi. Đến khi ra lệnh “Dở gót lên!” thì gót chân dở lên từ từ, lưu ý thật kĩ gót dở lên. Từ từ vừa phải. Không quá chậm, cũng không quá nhanh. Làm chầm chậm mỗi động tác, lưu ý kĩ mỗi sự chuyển động của bàn chân trong từng chuyển động, từ khởi đầu đến dứt.

Thân Hành Niệm đi chậm vừa đủ thì kĩ, nhưng chậm quá thì thừa, mà khá nhanh thì ý thức theo không kịp. Con tập từ từ sẽ nhận ra được tốc độ đi như thế nào thì phù hợp với đặc tướng để có kết quả tốt nhất của pháp Thân Hành Niệm.
Lúc đó các hoạt động của thân rất nhịp nhàng, an trú được trong thân hành, nhưng lúc này chỉ an trú được một thời gian ngắn thôi.

Hiện giờ con chỉ tập Thân Hành Niệm để ráp cho thành cỗ xe; chưa thực sự thành cỗ xe để sử dụng đâu, nghĩa là chỉ mới ở giai đoạn tập cho quen với những động tác ra lệnh của Thân Hành Niệm. Nếu chưa quen thì có thể bị sơ hở, bỏ sót hành động, có những hành động bị lướt qua. Khi Thân Hành Niệm đã ráp thành cỗ xe kiên cố rồi và đồng thời con đã nhiếp phục và an trú tâm trên thân hành được nữa, lúc đó cho cỗ xe chạy thì nó sẽ chạy tốt đẹp lắm.

6.- Tập Kỹ Lưỡng

Tập Thân Hành Niệm là phải tập kĩ lưỡng. Theo như cách con đã tập luyện đó, giờ chỉ cần chậm hơn một chút là được. Chậm quá thì thừa thời gian, không cần thiết.

Thầy đi như vầy cho con thấy: “Dở gót lên!”; “Dở chân lên!”; “Đưa chân tới!”; “Hạ chân xuống!”; “Hạ gót xuống!”. Đó, đi như vậy thì định tỉnh lắm. Nó định chặt chẽ trên hành động của thân. Chậm cũng vừa đủ thôi, chậm lắm sẽ dễ mất thăng bằng.

Trong hành động bình thường nhiều chuyển động nhập cuộc với nhau, giờ tập luyện Thân Hành Niệm phải phân ra từng hành động, từng chuyển động một để tác ý theo dõi sát, không bỏ sót, ý bám vào thật kĩ làm cho sức định tỉnh được tăng lên.

Tập thật kĩ lưỡng Thân Hành Niệm thì 7 Giác Chi sẽ xuất hiện, khi đó cảm giác như có một lực điều khiển thân mình hoạt động, không làm theo không được. Lực đó buộc mình hành động theo lệnh truyền ra. Con luyện sẽ thành được thói quen, giúp tâm định tỉnh trên hành động gọi là Thân Hành Niệm, lấy thân hành mà niệm trên đó để được định tỉnh. Sức định tỉnh bám chặt vào hành động của thân, lúc bấy giờ tự nhiên 7 Giác Chi xuất hiện làm cho tâm dính chặt vào thân hành một cách dễ dàng. Khi có đủ 7 Giác Chi thì sẽ có năng lực của Giác Chi, gọi là 4 Thần Túc, để nhập các định.

Bây giờ thì con chưa có định gì hết, chỉ tập để được tĩnh giác thôi. Nếu tập mà không có niệm khởi, không phóng tâm phóng dật thì chỉ mới tĩnh giác mà thôi chứ không có định đâu. Phải tinh tấn nữa cho tới khi 7 Giác Chi xuất hiện thì mới co năng lực của 4 Thần Túc để điều khiển thân mình nhập định, sau khi tâm hoàn toàn xả li mọi tham, sân, si. Nếu không có năng lực 4 Thần Túc của 7 Giác Chi này thì không xả li được tham, sân, si; không nhập định được.

Lúc mới tập luyện con đâu có đi được vậy, nay nhờ qua thời gian tập luyện con mới thấy được và đi được như vậy, chủ động được như vậy. Ý của mình hay cái tâm nhận thức thân hành tức là thân nghiệp. Lúc chưa tập luyện thì nghiệp dẫn thân hành. Làm rồi mới biết hành động đó, tức nghiệp chủ động. Bây giờ cái ý chủ động thân nghiệp. Tác ý rồi mới hành động. Cứ tập luyện chuyên cần lâu ngày con sẽ làm chủ cái nghiệp. Làm chủ được nghiệp thì cũng làm chủ được nhân quả. Nhân quả không dẫn mình được nữa. Nhân quả không còn đưa mình vào các ác pháp được nữa vì mình đã tĩnh giác trên thân nghiệp tức thân hành rồi. Đó là phương pháp để chuyển nhân quả mới, giải thoát mình ra khỏi vòng bao vây của nhân quả, ra khỏi sự khổ đau của nhân quả.

Trong khi tập luyện Thân Hành Niệm con thấy rõ ràng nếu tâm an trú được, năng lượng sung mãn thì con tăng giờ tập luyện lên. Còn nếu không thấy gì thì giữ ở thời gian đó mà tập luyện để không bị hao hụt năng lượng, rồi ngày sau tập tiếp. Tập luyện đúng cách thì năng lượng tăng lên, tập luyện quá sức thì năng lượng bị hao. Nếu tâm không an trú thì không sung mãn năng lượng mà nếu năng lượng không đầy đủ thì 7 Giác Chi không thể xuất hiện đủ. 7 Giác Chi là năng lực nhờ huân tu đúng cách mà năng lượng đó trở thành lực rất mạnh. Mọi người đều có khả năng tạo lập 7 Giác Chi này.

7.- Chú Tâm Trong Thân Hành Niệm

Pháp Thân Hành Niệm thì tập trung ý thức vào từng hành động và theo lệnh tác ý từng hành động đó. Lúc đầu phải nhìn rất kĩ, tác ý rất kĩ . Sau khi lực đẩy xuất hiện, có lực đẩy rồi thì không nhìn kĩ nữa. Khi tác ý thì tự nó bật ra sức đẩy. Thí dụ Thầy bảo “Tay mặt đưa lên” thì lẽ ra theo ý Thầy phải đưa tay lên liền, nhưng ở đây nó tự động điều khiển đưa tay ra, rồi nó tự động điều khiển đưa tay lên. No không theo ý của Thầy. Ý Thầy muốn nó đưa ngay lên, nhưng nó tự đẩy tay ra rồi mới đưa lên, thì đó là cái lực nó tự làm như vậy, không phải là Thầy làm. Cho nên nó muốn cách đó thì nó tự đẩy ra, rồi tự đưa lên. Thầy không sai bảo nhưng nó làm theo kiểu của nó, tại vì nó biết cách điều khiển đúng đắn, nhịp nhàng, ăn khớp các cơ bắp và hệ thần kinh. Ý Thầy cứ làm ngay cách thức có hại cho cơ thể, chỉ có vận dụng cơ bắp mà không phù hợp hệ thần kinh.

Lúc đầu, khi đi con tập trung sự chú ý nhìn dưới bước chân, vừa thấy, vừa cảm nhận hành động của chân thật kĩ. Do tập kĩ lưỡng như vậy được một thời gian thì lực đẩy xuất hiện, lúc đó con không chú ý nhìn hành động thân kĩ như thế nữa, cũng không tác ý ra lệnh nhắc từng chi tiết nhỏ mà chỉ tác ý ra lệnh tổng quát, thí dụ ra lệnh: “Chân mặt bước!” thì chân tự động dở gót lên, dở chân lên, đưa chân tới, hạ chân xuống, hạ gót xuống. Con nhìn ra tới trước, không nhìn xuống chân mà tự động nó đẩy dở gót, đẩy dở chân... Con chỉ ra lệnh tổng quát chân bước thế mà nó tự động làm hết các động tác theo thứ tự để chân bước tới. Đó là giai đoạn Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện mới được vậy, chứ con tự thay đổi thì không đúng cách.

Thay đổi cách nhìn tới trước trong khi đi Thân Hành Niệm mà con vừa trình bày đó là không đúng cách. Lúc này con cứ tập trung, cứ nhìn kĩ xuống chân, đến chừng Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện thì con chỉ ra lệnh tổng quát, trong đầu im phăng phắc thế mà chân tự động dở lên, đưa tới,... chứ không phải trong đầu vẫn ra lệnh như bây giờ. Lúc đó con thấy nó lạ lùng lắm, hay lắm. Khi chân hạ xuống xong mà con không ra lệnh nào khác thì nó đứng yên tại chỗ đó, không làm thêm động tác nào khác khi chưa có lệnh. Nếu con bảo “Chân mặt bước!” thì chân mới bắt đầu dở gót lên rồi tiếp những động tác cần thiết để đưa chân bước tới, chẳng khác gì người của mình trở thành máy móc (robot). Từ chỗ thanh tịnh mà nó có lệnh thì gọi là Trạch Pháp Giác Chi.

Bây giờ con tập luyện Thân Hành Niệm như Thầy đã chỉ dạy. Ra lệnh tổng quát và ra lệnh từng động tác nhỏ của bàn chân. Ra lệnh xong mới từ từ chuyển động chân trong khi tâm chú ý hoàn toàn vào động tác để ghi nhận. Chậm, nhưng không nên quá chậm, quá chậm sẽ thừa thời gian. Mỗi bước hoàn tất không lâu hơn nửa phút. Cấu kết thuần thục các động tác cho tâm gắn chặt chẽ với thân hành. Con tập luyện Thân Hành Niệm với lệnh tác ý từng động tác một cho đến một ngày nào mà con tác ý “Chân phải bước!” nhưng chưa ra lệnh tiếp “Dở gót lên!” thì chân không hành động. Chừng nào trong đầu ra lệnh tiếp như vậy thì chân mới bước. Nó hay đến như vậy đó. Con không ra lệnh thầm nhưng trong đầu cái ý ra lệnh “Dở gót lên!”. Cái đó là Trạch Pháp Giác Chi. Nó rất mạnh. Trạch Pháp Giác Chi ra lệnh rất mạnh. Con thấy con không ra lệnh mà sao trong đầu nó ra lệnh, làm như cái tưởng của con, nhưng không phải là tưởng mà chính là ý thức. Thành ra ngay từ lúc này phải tập ra lệnh rất mạnh. Nhờ thế nó trở thành ý thức lực. Con chưa ra lệnh thì chân chưa dám dở gót, chưa dám bước. Khi ra lệnh thì động lệnh phải mạnh, thí dụ “Chân phải bước!” thì chữ “bước” phải mạnh; “Dở gót lên!” thì chữ “lên”. Con cư tập luyện như vậy cho đến chừng tạo ra lực ý thức, lúc bấy giờ lực ý thức sẽ điều khiển thân con.

Thí dụ cái tay của con mà ý của con muốn thì nó mới hành động chứ ý chưa muốn thì nó không hành động. Mà hễ nó ra lệnh rồi thì có lực đẩy, con muốn dừng lại nó không dừng. Nó ra lệnh “Dở gót lên!” mà con không dở gót không được.  Nó có lực bên trong đẩy gót lên, con không cưỡng chống lại cái lực đó được. Lực đó rất mạnh. Cho nên bước đi mà nghe thân nhẹ nhàng. Nó đẩy thân đi. Nó đẩy chân lên. Nó kéo chân xuống, làm bước đi của con nhịp nhàng. Con cứ tác ý tập luyện như vậy một thời gian thì sẽ có lực ý thức đó hiện ra. Lực ý thức xuất hiện dần dần, mạnh lên dần dần.

Khi sự luyện tập đã thành thục rồi thì con thử chỉ ra lệnh tổng quát thôi. Thí dụ “Chân mặt bước!” Rồi con quan sát chân. Nó sẽ từ từ dở gót, dở chân, bước tới,... Con thấy tuy không còn ra lệnh từng động tác nhỏ của chân nhưng chân tự động làm những động tác y như khi có ra lệnh. Khi tâm an trú được trong hành động đi thì con sẽ cảm thấy có cái lực tuyệt vời. Và sự an trú càng lúc càng tăng trưởng, càng lớn mạnh, nó làm cho mình rất an ổn.

Muốn đạt được như thế thì Định Niệm Hơi Thở không thể nào không đi đầu, tức con cần phải an trú tâm vào trong hơi thở cho được. Con đã biết cách an trú này. Khi an trú vào hơi thở xong thì đứng dậy bắt đầu ra lệnh “Chân trái bước!” Một khi tâm đã an trú và con vừa khởi động luyện Thân Hành Niệm thì sẽ có một lực hiện ra tức khắc, tức là khi con dở chân dường như có một sức đẩy lên; đưa chân tới thì có sức đẩy đưa tới; để xuống, tự nó hút xuống; rồi gót dở lên, để xuống do sức hút mà con không còn phải dùng cơ bắp nữa.

Khi tập luyện Thân Hành Niệm mà chỉ ra lệnh tổng quát, không ra lệnh từng động tác nhỏ của bàn chân, tuy nhiên vẫn còn cái lệnh “vi tế”, dường như vẫn còn ra lệnh. Đến khi con tập luyện thuần thục rồi thì lệnh vi tế không còn mà chỉ còn cái ý bám chặt vào thân hành, chừng đó ý tới đâu thân hành động tới đó, thân không rời khỏi ý mà ý cũng không rời khỏi thân. Lúc đó gọi là “tâm định trên thân ” của Niệm Giác Chi. Tình trạng rất vắng lặng, ý bám rất chặt vào thân hành.

Khi Niệm Giác Chi xuất hiện thì tâm bám chặt trên hành động thân. Cho nên con không ra lệnh mà tâm theo rất chặt, vì vậy mà buộc lòng con phải bước chậm để cho nó theo chứ nhanh nó theo không kịp. Lần lượt con trải qua cái thô rồi mới tới cái vi tế bởi vì từ Niệm Giác Chi mới đi đến Định Giác Chi. Tâm lần lượt bám vào trong hành động rất kĩ. Khi đó mới có định.

Chừng nào tập luyện tới giai đoạn 3 của 4 Niệm Xứ thì con sẽ tập Thân Hành Niệm một giờ qua 4 Niệm Xứ một giờ. Cứ hai pháp môn liên tục thay nhau tập luyện. Lúc đó luyện 4 Niệm Xứ là ngồi để đẩy lui các chướng ngại pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp bằng các tác ý, rồi trở về Thân Hành Niệm là luyện như trên. Và cuối cùng chỉ còn luyện Thân Hành Niệm thôi, không luyện 4 Niệm Xứ nữa. Thân Hành Niệm là NHẤT DẠ HIỀN đó. Nó rất tuyệt vời. Tập luyện Thân Hành Niệm sẽ có 10 Như Lai Lực như trong kinh Phật đã xác định.

Niệm Giác Chi là Thân Hành Niệm, đức Phật nói vậy, tức là niệm của thân. Niệm Giác Chi hiện ra rồi thì thân tự hành động. Khi con ra lệnh bước thì thân con hiện ra bước đi đều đặn, nhịp nhàng, dài ngắn, cao thấp, bước nào cũng như bước nấy, không khác nhau. Khi Niệm Giác Chi chưa có thì sự nhịp nhàng này không có, bước đi thì độ dài ngắn, cao thấp không đồng đều. Niệm Giác Chi hiện ra rồi thì con không vận động thân nữa mà tự động có cái lực bên trong khiến thân hành động nhịp nhàng, đều đặn. Thân tự niệm.

Nhưng bây giờ con dùng ý để niệm thì đây là ý niệm chứ không phải thân niệm. Còn Niệm Giác Chi là thân niệm, không còn ý niệm nữa mà ý điều khiển cái thân cho thân niệm. Thân tự niệm bước đi chứ ý không còn điều khiển bước đi nữa.

8.- Cần Tập Luyện Dưới Sự Chỉ Dạy Của Vị Thầy

Thường thường người tập luyện thiếu sự chỉ dạy từ một bậc Thầy, cứ nghĩ tưởng mình đã làm đúng, đã tập luyện đúng, nhưng thật sự thì chưa, vì khi tập luyện có nhiều sơ sót lắm, rồi sẽ gặp khó khăn. Thí dụ do sự tập luyện sai sót mà sinh chướng ngại, khiến thân đau nhức chứ không phải tập luyện mà sinh đau nhức. Pháp của Phật tập luyện đúng thì bao giờ cũng đẩy lui các chướng ngại pháp, không xẩy ra đau nhức. Nhưng vì tập luyện không đúng nên sự đau nhức mới hiện ra.

Thầy cũng gặp khó khăn trong khi tập luyện vì đâu có vị Thầy nào dạy cho Thầy. Thầy chỉ nương vào lòng tin đối với đức Phật thôi. Chỉ khi thấy quá khó khăn không thể vượt qua được, Thầy mới kêu gọi đức Phật gia hộ. Thầy thầm kêu gọi “Con quyết tâm tập luyện giải thoát, nhưng sao gặp chướng duyên khổ mình. Xin Phật Thích Ca gia hộ giúp con!”. Thầy chỉ biết nguyện trong lòng như vậy, mong Đức Phật trợ giúp, thế mà tự nhiên trong đầu nghĩ ra pháp. Pháp tự nó sáng ra. “À, cái này mới đúng. Cái kia sai rồi”. Trước đó đầu óc mờ mịt nhưng sau khi kêu gọi như vậy thì tự nhiên đầu óc sáng ra. Nhờ vậy, Thầy mới sửa lại hành động tập luyện. Từ đó giải quyết được khó khăn, chứ Thầy đâu biết cái nào đúng sai.

Thầy đâu thấy ông Phật dạy, chỉ trong đầu dạy. Nhưng tại sao trước đó nó không sáng mà sau khi kêu gọi nó mới sáng? Mặc dù không thấy Đức Phật hộ trợ, nhưng Thầy tin Phật đã hộ trợ. Nhờ vậy Thầy mới sửa lần. Từ đó Thầy biết được cách thực hành tu tập pháp Thân Hành Niệm.

Bây giờ con tập luyện được có Thầy bên cạnh chỉ dẫn. Thầy còn sống thì có được kinh nghiệm của Thầy, tập luyện sẽ dễ chứ nếu không có thì con đâu biết hỏi ai. Như ngài Mục Kiền Liên ngày xưa ở nơi hoang vắng thế mà đức Phật đã giao cảm được để tới đó bảo cho Ngài Mục Kiền Liên. Khi thì “Hãy im lặng như Thánh”, khi thì dạy cách phá buồn ngủ.

Con phải có lòng tin chứ chư Phật không thể đến gần con được. Có tiếp nhận từ trường chư Phật được hay không là do mình. Khi Phật nhập diệt rồi thì chỉ còn cơ may tiếp nhận được hay không tiếp nhận được năng lực đó. Nếu tiếp nhận được thì sẽ vượt qua được các khó khăn gặp phải. Nhưng làm sao để hưởng được sự trợ giúp này của năng lực chư Phật? - Do mình thôi, không do nhờ ai khác. Vấn đề là phải có năng lực của lòng tin do sự quyết tâm của mình. Chỉ có vậy thôi.

Bây giờ Thầy nói rõ trước: Tập luyện pháp Thân Hành Niệm này khi xẩy ra pháp tưởng thì nguy hiểm nhiều lắm, nó khiến mình làm thơ, làm văn... Lúc đo Thầy bảo “Phải im lặng như Thánh!” thì phải xả bỏ, không được làm thơ văn gì nữa, đừng viết nữa. Người nào không nghe lời mà cứ viết thì người đó sẽ bị pháp tưởng nguy hiểm vô cùng.

Mình phải có lòng tin ở bậc Thầy và nhiệt tâm, quyết tâm. Lòng tin làm cho mình cố gắng nhiều, không chịu lùi. Kế đó làm sao để giao cảm được với tập hợp từ trường của những bậc đã tu chứng lưu hành trong vũ trụ và đúng lúc thì từ trường này làm cho đầu óc mình sáng tỏ ra.

9.- Thân Hành Niệm Sanh Bảy Giác Chi

Nếu luyện 4 Niệm Xứ chưa sung mãn, nghĩa là khi các niệm tuôn trào nhưng thấy tâm thanh tịnh chưa sung mãn lắm thì con luyện pháp Thân Hành Niệm ngay. Dùng pháp Thân Hành Niệm để cho 7 Giác Chi xuất hiện đầy đủ năng lực.

Khi thấy các niệm quay vô, tâm được bất động mà chưa có cái lực hướng tâm đủ mạnh cho con vào Định nào được, thấy tại sao nó không tác ý mà chỉ giữ thanh thản thôi, không thấy nó đưa con nhập vào các Định tức là con chưa có đủ năng lực 7 Giác Chi. Lúc đó phải sử dụng pháp Thân Hành Niệm liền. Phải quay lại ôm chặt pháp Thân Hành Niệm. Tác ý từng hành động của mỗi bước.

Nên nhớ lúc đó nó tự tác ý ra lệnh chi tiết từng hành động, con chỉ ra lệnh tổng quát thôi. Nó tự động làm. Từ trước đến giờ, con tập phải ra lệnh bảo từng hành động dở lên, để xuống. Còn lúc này thì từng bước nó làm chứ không phải con làm, vì lúc này tâm định tỉnh rồi, tâm không phóng dật nữa. Khi ra lệnh “Bước!” thì tự động chân dở lên, đưa tới, để xuống; nhịp nhàng, đều đặn, nhẹ nhàng, không sai, không sót. Cái ý bám sát từng hành động bởi vì thân định tỉnh rồi cho nên hành động của thân tự thành Niệm Giác Chi. Nó không làm lộn xộn một lần hai ba hành động đâu. Nó không làm gì lướt qua dối trá, che đậy hành động đó. Rất hay.

Khi đó con chỉ duy nhất dùng pháp Thân Hành Niệm. Đi tới, ngồi xuống, đứng lên. Chỉ liên tục luyện trong vòng một giờ thì 7 Giác Chi xuất hiện đủ hết. Trong người dồi dào năng lực làm như đang có sung mãn một lực gì mạnh kinh khiếp. Thí dụ con có thể nghĩ nếu hét la lên một tiếng thì tiếng đó phải làm quả đất sụp. Cảm thấy thần lực mạnh kinh khiếp, không thể nghĩ tưởng được. Đó là lực của tâm thanh tịnh của con người.

Thân Hành Niệm là pháp điều khiển hành động của thân với đầy đủ ý thức. Luyện ở giai đoạn cuối cùng để 7 Giác Chi xuất hiện nên cần phải tỉnh thức. Khi nào con đạt được trình độ tinh tấn đúng mức thì Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện, nó làm cho con siêng năng tập luyện một cách tự nhiên, không thấy có cố gắng chút nào mà tự nhiên thích tập luyện, không còn lười biếng giải đãi. Sau đó Khinh An Giác Chi xuất hiện, con cảm thấy thân hình nhẹ nhàng, bước đi thanh thản, cấu kết các thân hành đi, đứng, nằm, ngồi, đưa tay ra, co tay vào ăn khớp chặt chẻ với tâm của con. Cùng lúc đó con thấy vui vẻ phấn khởi một cách tự nhiên. Đó là Hỉ Giác Chi. Khinh An Giác Chi và Hỉ Giác Chi liền cặp với nhau. Khi Khinh An Giác Chi xuất hiện thì Hỉ Giác Chi cũng xuất hiện ngay sau đó. Từ đây thân và tâm gắn chặt với nhau và Niệm Giác Chi bắt đầu có. Thân trở thành niệm của tâm, hay trong kinh nói “Tâm định trên thân” và con bắt đầu có Định Giác Chi, tâm không còn phóng dật ra nữa. Rồi Xả Giác ChiTrạch Pháp Giác Chi cũng xuất hiện.

Năng lực bảy Giác Chi là năng lực của giải thoát. Chỉ người có năng lực bảy Giác Chi mới biết nó như thế nào, chứ người thường, người chưa có bảy năng lực này không thể hiểu bằng lý trí được.

Nhưng con phải tập luyện 7 đề mục căn bản đầu của Định Niệm Hơi Thở cho đạt được kết quả, chừng đó chuyển qua luyện 7 Giác Chi sẽ được dễ dàng.

10.- Tứ Niệm Xứ – Thân Hành Niệm

Do đặc tướng từng người làm sao để trước nhất họ nhiếp tâm trên bước đi cho được, cho nên Thầy dạy cho người này tập làm quen với pháp Thân Hành Niệm. Khi tập pháp Thân Hành Niệm này họ có được sự nhiếp tâm trên bước đi. Để khi tập luyện pháp môn Kinh Hành Tĩnh Giác hay Định Niệm Hơi Thở thì dễ nhiếp tâm vào bước đi hay hơi thở hơn. Nhờ được tập làm quen Thân Hành Niệm nên họ mới đủ lực để tập luyện các pháp môn đó, rút bớt thời gian để mau đạt được tĩnh giác, không bị vọng niệm khởi nhiều.

Con chỉ mới ngồi được 1 phút là có vọng niệm lộn xộn rồi. Nếu không cho tập nhiếp tâm trong thân hành của Thân Hành Niệm thì con rất mệt mỏi trong việc nhiếp tâm vào Kinh Hành Tĩnh Giác hay Định Niệm Hơi Thở. Nhờ Thân Hành Niệm mà bây giờ vừa mới đi con đã nhiếp tâm được. Chỉ khi nào luyện tất cả các đề mục của Định Niệm Hơi Thở, nhiếp tâm và an trú tâm được có kết quả chắc chắn, ổn định thì mới bắt đầu luyện 4 Niệm Xứ, lúc đó chỉ ngồi thư thả bình thường để đẩy lui chướng ngại pháp. Có chướng ngại pháp nào tới thì dùng kết quả của các đề mục đó của Định Niệm Hơi Thở mà đẩy lui chúng ra khỏi thân, thọ, tâm, pháp. Sau khi đẩy lui hết tất cả chướng ngại thì lúc đó mới thực sự luyện Thân Hành Niệm để có 10 thần lực xuất hiện ra.

Thân Hành Niệm là pháp để luyện 10 thần lực chứ không phải tập luyện Chánh Niệm Tĩnh Giác nữa. Cho nên ai ôm riết pháp Thân Hành Niệm tập trong khi tâm tham sân si chưa đoạn trừ thì sẽ bị phản ứng liền. Nó sinh ra những đau nhức, mỏi mệt đủ thứ, làm cho người này hết còn tập luyện được. Nhưng ở đây con chỉ sử dụng để tập nhiếp tâm thì không sao, con đâu tập Thân Hành Niệm nhiều, chỉ 5 hay 10 phút trong mỗi thời tập luyện thôi. Còn ai tham, nghe nói nó có 10 thần lực mà tập nhiều thì sẽ bị nó vật liền vì tâm tham sân si chưa được xả.

Ngay cả khi con tập làm quen với nó, nếu nhiếp được tâm trong khi đi Thân Hành Niệm nghĩa là khi thấy có lực đẩy thân nhè nhẹ thì phải ngưng ngay, và trở về tập luyện các đề mục của Định Niệm Hơi Thở và Kinh Hành Tỉnh Giác. Nếu không nghe lời, cứ tập tới thì sẽ bị phản ứng cơ thể, tay chân mỏi mệt rụng rời hết.

Khi mới tập luyện Thân Hành Niệm mà có lực đẩy thì đó chỉ là lực của ma. Nếu con cảm thấy hoan hỉ mà cho là Khinh An Giác Chi xuất hiện, làm cho con thích đi, đi hoài từ 1, 2 cho đến 3 giờ mà chưa muốn xả nghỉ nữa. Như vậy là bị nó làm cho xem nó là vật quý, liền khởi tâm tham đắm.

Nhưng nếu khi con hiểu rằng đó là dấu hiệu cho biết con đã đủ trình độ để trở về 4 Niệm Xứ luyện xả tâm thì các lực ma đó không xẩy ra. Và luyện 4 Niệm Xứ cho đến lúc có lực hoan hỉ, hỉ lạc, khinh an. Tiếp tục luyện cho đến khi tâm thanh thản an lạc, thân cũng được an lạc khinh an, không cảm thấy có gì chướng ngại nữa, ngồi lâu không thấy mỏi mệt đau nhức thì biết là 4 Niệm Xứ đã viên mãn. Bốn Niệm Xứ là pháp làm cho thân và tâm bất động, tức là nhập vào Bất Động Tâm Định cho nên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp hoàn toàn im phăng phắc, không gì làm động được. Lúc đó, con đứng lên đi Thân Hành Niệm một lúc thì 10 thần lực đó hiện ra. Đó mới là Thần Lực Như Lai.

Pháp Thân Hành Niệm được tập luyện đúng thì thần lực phải hiện ra vì thần lực là kết quả đích thực của Thân Hành Niệm. Không có thần lực của Thân Hành Niệm thì không làm chủ sự sống chết được.

Đức Phật đưa ra pháp nào cũng thực tế cụ thể chứ không hề có sự mơ hồ. Tập luyện đúng là có kết quả. Bởi vậy Phật nói “Pháp ta không có thời gian, đến để mà thấy”. Nhưng phải tập luyện cho đúng pháp, đúng thời mới được. Cho nên Thầy dạy làm sao thì phải tập luyện làm vậy. Đừng nghĩ và làm theo ý riêng của mình. Thầy bảo pháp này tập 5 phút thì tập 5 phút thôi, pháp kia tập nửa giờ thì tập nửa giờ. Rồi một bữa hay hai bữa đến trình cho Thầy biết con tập luyện vậy mà nó vậy vậy, chứ đừng âm thầm tự suy nghĩ sửa đổi thêm bớt rồi phải tốn công sức và thì giờ lâu để gỡ rối.

Vậy trong thời gian ở giai đoạn đầu này, con tập Thân Hành Niệm thì đi độ 10 – 12 phút cho 20 bước, theo dõi sát các hoạt động của bước chân. Con chỉ tập cho quen tác ý và động tác đi đôi với nhau, vậy đừng nên tập nhiều, không tập lâu. Nếu tập nhiều, tập lâu sẽ không thích nghi với cơ thể khi cơ thể chỉ mới bắt đầu tập luyện, ác pháp còn nhiều, sẽ sinh bệnh tật, mệt mỏi, hoặc làm cho con cảm thấy khó chịu. Chỉ tập từ từ cho nó thích nghi dần. Tập luyện cần phải có thời gian cho cơ thể và tinh thần được thích nghi, đừng có vội gấp.

Bất cứ pháp môn nào cũng không nên tập luyện nhiều quá bằng không thì tự con làm cho cơ thể bị rối loạn. Vậy phải tập luyện chỉ như thăm dò xem cơ thể đã thích nghi hay chưa.

Pháp Thân Hành Niệm rất đặc biệt vì đức Phật nói nó có 10 thần lực, từ đó năng lực của 7 Giác Chi xuất hiện. Phải biết pháp môn đặc biệt thì phải cẩn thận chờ cho đến khi tinh thần và cơ thể thích nghi. Có thanh tịnh mới thích nghi được.
Tinh thần và cơ thể còn quá bất tịnh thì không thể thích nghi. Khi chưa thanh tịnh mà tập luyện quá nhiều, quá dài lâu, bắt ép chịu đựng trên pháp thì tinh thần và cơ thể không thích nghi được, cho nên bị rối loạn. Vậy phải có sự hiểu biết đúng đắn hợp lý, hợp khoa học để không bị các tác hại do làm sai, tập luyện sai, tập luyện quá sức.

Thầy sợ người ta tập luyện Thân Hành Niệm không đúng lúc sẽ sinh ra thần thông tưởng, có hại. Như con thấy, K.T. nhờ tập luyện pháp Thân Hành Niệm nên chỉ cần tác ý ra lệnh thì tiếng động lớn ồn ào mà thấy im phăng phắc, không nghe gì. Nhưng đó chỉ bởi sức ức chế của K.T. rất cao, cho nên tưởng lực rất mạnh. Những người nào có năng lực tưởng mạnh thì có thần thông. Thầy thấy năng lực này nên sợ người ta còn tâm dục mà có thần thông. Thầy thấy nguy hiểm nên bảo K.T. hãy dừng lại, hãy xả tâm trong lúc tập luyện 4 Niệm Xứ.

Luyện 4 Niệm Xứ cho tới khi tâm hết chướng ngại thì nó mới li dục li ác pháp thật sự. Bởi nếu trên 4 niệm xứ còn chướng ngại, còn khởi niệm, còn cảm thọ này, cảm thọ kia thì đó là những ác pháp, nên phải ở trên 4 Niệm Xứ để đẩy lui. Chừng nào con ngồi suốt ngày mà không có gì tác động trên thân tâm con, lúc đó là trình độ đúng mức của người luyện 4 Niệm Xứ. Ngồi kiết già tập luyện suốt ngày không cảm thấy đau chân, mỏi mệt bởi khi đó tâm ở trong trạng thái thanh thản an lạc vô sự hoàn toàn, cho nên không còn cảm thọ dục mà chỉ có cảm thọ hỉ lạc là cảm thọ của người tu 4 Niệm Xứ.

Ở trình độ của con, Thân Hành Niệm giúp giảm nhẹ tâm si, chế ngự tâm si, phá buồn ngủ, nâng sức tĩnh giác, phá loạn tưởng, các vọng tưởng không chen vô được. Và khi tập Thân Hành Niệm cơ thể vận động giống như một bài tập thể dục. Giai đoạn đầu này, chỉ nên tập Thân Hành Niệm để làm quen sự liên tục của các thân hành đi – đứng – ngồi – hít thở.

11.- Thân Hành Niệm: Thần Thông

Thân Hành Niệm tập luyện kết hợp, phối hợp thân hành nội và thân hành ngoại trong cách thức phối hợp các động tác co tay, co chân, ngồi xuống, hít thở, đứng lên, đi tới, đi lui đều phải có tác ý dẫn các hành động của thân. Đó là phương pháp tập sanh nội lực rất lớn. Đức Phật đã dạy luyện pháp Thân Hành Niệm nếu cấu kết thành như cỗ xe, kiên cố như căn cứ địa thì có 7 Thần Lực xuất hiện.

Do vậy nếu khi tâm chưa li tham, sân, si tức chưa li dục li ác pháp hết mà cố luyện Thân Hành Niệm thì những thần lực đó thể hiện những thần thông tưởng, chỉ là Thần Lực Tưởng, thuộc về ma. Những thần lực đó làm cho ta ham thích thì đó là những thần thông hữu lậu chứ không phải là thần thông vô lậu. Cho nên đức Phật xem đó là đồ bỏ, không quan trọng.

Còn khi đã li dục li ác pháp rồi thì chúng ta sử dụng mười thần lực đó để thực hiện làm chủ sự sống chết của chúng ta. Đó là tâm vô lậu. Nếu các thần thông đó có mà còn tâm dục thì đó là thần thông ngoại đạo. Họ có thần thông nhưng vì còn dục nên là hữu lậu. Chúng ta, qua các pháp tập luyện, tâm li dục li ác pháp hết rồi nên thần thông đó là thần thông vô lậu. Ðức Phật dùng ví dụ người ta chửi mình mà không giận là mình thể hiện thần thông. Không giận là mình phải có nội lực gì mới không giận.

Khi luyện Thân Hành Niệm, nội lực thể hiện đầu tiên là có sức đẩy rất mạnh. Nó có thể đẩy cơ thể bay một đoạn. Nếu tâm dục còn thì không làm chủ được sức đẩy này. Bây giờ con tập Thân Hành Niệm chỉ nhằm để tập tĩnh giác và rèn nghị lực của người mới tập luyện thôi. Tức kinh hành theo Thân Hành Niệm 20 bước, ngồi xuống hít thở 5 hơi, chứ không tập kĩ để nó xuất hiện các thần lực đó, vì không có lợi ích gì cho con trong lúc này.

Thân Hành Niệm đức Phật nói cấu kết như cỗ xe là khác với Chánh Niệm Tĩnh Giác, hay Kinh Hành. Qua kinh nghiệm của Thầy thì mới biết thật sự tại sao đức Phật không nói Chánh Niệm Tĩnh Giác có thần lực mà nói Thân Hành Niệm có 10 Như Lai Lực, con thấy rõ chứ? Luyện Thân Hành Niệm sau cùng, đức Phật nói khi nó cấu kết như cỗ xe, như căn cứ địa rồi thì 10 Thần Lực xuất hiện. Thần lực mà Đức Phật nói thì chúng ta đã thấy 5 cái đầu rồi, nhưng 5 cái sau, như ngồi đây mà sờ mặt trăng mặt trời, hoặc một thân biến ra nhiều thân, thì người ta không tưởng tượng nổi. Nhưng đức Phật nói là có chứ không phải không. Phật không nói sai đâu. Pháp Thân Hành Niệm rất tuyệt vời. Thầy biết rất rõ là vì Thầy đã đi qua rồi, Thầy làm được chuyện này.

Năm 2003, khi Thầy viết bức Thư Ngỏ về bộ sách Đường Về Xứ Phật, có ý nói là bây giờ nếu có một vị đạo sĩ nào ở bất kỳ đâu trên thế giới hành tinh này muốn thách đấu thần lực với Thầy thì Thầy không sợ ai hết nghĩa là khả năng của Thầy làm được 10 thần lực đó. Khi Thầy viết bức thư đó Thầy biết rõ việc Thầy làm, bởi vì muốn luận là Thầy sai thì vị đạo sĩ này phải có đủ 10 thần thông đó. Người tập luyện xong rồi thì biết Thầy ở mức độ nào, người ta không tranh luận với Thầy đâu. Ngoại đạo thì không làm gì được.

Ngày xưa ông Ca Diếp bị đức Phật nhận chìm xuống nước. Chuyện này nói ông Ca Diếp chê Phật không có thần thông, chỉ ông mới có, ông nói chuyện trên mây trên trời nên đức Phật đi trên mặt nước, lôi ông ra giữa dòng sông cho ông chìm, đức Phật thị hiện thần thông cho ông thấy. Từ đó ông và toàn bộ đoàn đồ đệ theo đức Phật.

Pháp Thân Hành Niệm khi cô đọng lại thành một cỗ xe, thành như căn cứ địa thì pháp đó rất tuyệt vời. Khó lắm; không dễ đâu. Mới tập luyện mà xuất hiện lực là không đúng, rất nguy hiểm; chỉ khi xuất hiện 10 Thần Lực Như Lai mới là lực đúng của nó. Đức Phật xác định nó có 10 Thần Lực Như Lai thì đâu phải tập chơi chơi mà có thể có được. Thần lực là lực của sức mạnh phi phàm, chứ đâu phải phàm lực.

Vậy cho nên pháp Thân Hành Niệm không phải  là pháp tĩnh giác  bình thường. Đi kinh hành bình thường thì khi đi chỉ cần ý thức bước đi và tĩnh giác trên bước đi thôi. Đi như thế không thể phát sinh thần lực của Thân Hành Niệm.

Luyện thần lực tức là luyện thần thông rồi, đâu phải tập bình thường, cho nên cách thức tập luyện phải khác. Vì vậy mới điều khiển từng hành động, ra lệnh từng hành động, làm từng hành động. Nó hoàn toàn khác với kinh hành.

Trong đi kinh hành, bước đi dù chân uốn éo như thế nào cũng được, chỉ cần biết bước đi thôi. Niệm an trú trong bước đi, không khởi niệm ra ngoài bước đi là đúng, là đủ. Đó chỉ là Chánh Niệm Tĩnh Giác, tĩnh giác trên bước đi thôi.

Còn Thân Hành Niệm không phải chỉ có vậy. Khi con muốn đưa tay ra mà chưa có lệnh thì nó không đưa đâu, bởi lực của nó là vậy, chỉ khi ra lệnh “Đưa tay ra” thì nó mới đưa ra. Khi đã ra lệnh rồi mà muốn ngưng lại thì nó không ngưng đâu. Nó có thần lực đẩy đi. Nó là thần lực rất đặc biệt.

Có nhiều người về đây nói Thầy không có thần thông gì hết. Họ nói Thầy chỉ có trí tuệ A-la-hán Thanh Văn chứ chưa phải là Duyên Giác hay Độc Giác. Nếu Thầy thị hiện thần thông là bị họ sai mình, cho nên Thầy đưa pháp Thân Hành Niệm ra dạy để họ thấy cái lực. Nếu người nào không biết, không tu tập pháp này thì không bao giờ có thần thông. Còn người đã biết cách tu tập pháp này là người đó có thần thông. Cho nên K.T. tập luyện là có thần lực liền; rồi cô M.C. cũng có thần lực; N.T. có thần lực đẩy liền tức khắc; C.T. cũng có thần lực liền.

Thầy dạy nếu tập luyện đúng thì thần lực xuất hiện liền. Thầy xác định pháp Thân Hành Niệm có thần lực, có thần thông. Đó là Thầy báo cho biết rằng tập luyện theo pháp Phật thì mới có thần thông. Nhưng muốn có nó thì tâm phải hết dục. Nếu tâm còn dục thì đó là thần thông ngoại đạo. Cho nên theo pháp Phật thì mọi người buộc lòng phải trở về 4 Niệm Xứ tập để li dục li ác pháp đẩy lui các chướng ngại pháp trên bốn chỗ đó. Con hiểu điểm này chứ! Có vậy mới là Phật pháp. Chứ Phật pháp gì mà vô là ức chế cho có thần thông thì đó là ngoại đạo, là thần thông ngoại đạo. Kiểu như Vô Thượng Sư Thanh Hải, hay như các sư Tây Tạng Mật Tông thôi.

Chúng ta phải thấy như vậy mà phân biệt thần thông hữu lậu và thần thông vô lậu, và chúng ta chỉ thực hiện thần thông vô lậu. Người ta chửi mình mà không giận, ngày ăn một bữa cơm là thị hiện thần thông. Nếu không có nội lực thì ngày ăn một bữa làm sao chịu nổi; nghe chửi làm sao không giận được. Cho nên người ta nói Thầy không có thần thông là người ta nói sai. Không có thần thông mà Thầy sống đúng giới luật được như vầy sao? Đó là thần thông của người tập luyện. Người ta không hiểu được đâu. Con đọc trong Trường Bộ sẽ thấy bài kinh đức Phật nói về thần thông. Đức Phật lý luận rất rõ thần thông hữu lậu và thần thông vô lậu. Ai nói Thầy như thế nào thì Thầy chứng minh cho họ thấy thế ấy. Họ nói Thầy không có thần thông thì Thầy chứng minh bằng cách đem pháp ra cho họ tập để họ có thần thông. Những thần thông theo kiểu ngoại đạo ta đều có. Nhưng không quan trọng. Vấn đề chúng ta nhắm tới là chân lý giải thoát cho mình thoát khỏi khổ. Chính đó mới là thần thông. Nội lực để chúng ta làm chủ sự sống chết y như của đức Phật mới là thần thông của đạo Phật.

Cho nên các con muốn biết Thầy có thần thông hay không thì các con ôm pháp Thân Hành Niệm luyện sẽ biết được.

D.- ĐỊNH THƯ GIẢN (XẢ TÂM)

Giới Thiệu

Mục đích của đạo Phật là tâm hoàn toàn xả. Xả tâm là phải tùy thuận với hết mọi hoàn cảnh, mọi sự việc dù trái ý nghịch lòng. Cho nên “Cái gì cần hiểu phải hiểu cho thông suốt” , đừng có hiểu nửa chừng.

Trước tiên muốn xả tâm là phải nhận thức cho được, có nhận thức được thì mới bắt đầu thấy tâm mình xả. Bởi vậy đức Phật nói tri kiến tức “trí tuệ” là cần thiết cho con đường tu tập của đạo Phật.

Điểm quan trọng nhất của người tập luyện tâm bất động của Định Bất Động Tâm là pháp xả tâm trong giờ nghỉ giữa hai pháp tu. Tập luyện thì phải có giờ nghỉ chứ đâu tập luyện hoài được. Trong khi tập luyện các pháp môn khác là để được tĩnh giác, được định tỉnh. Nhưng không khéo tập luyện sẽ bị ức chế. Chính giờ nghỉ giữa hai pháp tu là giờ quan trọng. Trong giờ nghỉ, tâm khởi lên niệm gì, thí dụ muốn nói chuyện, muốn làm cái này cái kia thì nhất định không làm theo nó. Thí dụ thấy rác hay cỏ mọc đâu đó liền khởi lên ý muốn quét rác hay nhỗ cỏ thì nhất định không làm. Hễ nó sai bảo gì thì đừng làm. Chính đó là xả tâm, là pháp Xả Tâm.

Cái tâm khởi lên sai bảo làm này làm kia mà mình không theo. Nó bảo gì mình cũng không làm: “Giờ này ta đang tập luyện, nhất định không làm gì hết”. Cái tâm nó cứ kiếm chuyện sai sử, mình nói: “Ta biết cách tập luyện rồi, mày không sai sử ta làm gì được nữa”. Cuối cùng, khi nó không sai bảo được mình phải làm cái này cái kia, không khiến nghĩ này, nghĩ nọ là mình phá sạch các dục . Tâm sạch hết các dục, các lậu hoặc thì tâm thanh tịnh.

Thời nào cũng đẩy lui chướng ngại pháp. Tất cả các thời khóa biểu mà đức Phật đã để lại đều nhắc nhở, đều dạy “đẩy lui các chướng ngại pháp”. Cái tâm suy nghĩ, sai sử chính là chướng ngại pháp. Mình cứ đẩy lui những cái này đi, nó làm cho mình không vô sự. Còn những pháp tập luyện này kia chỉ là những pháp phụ (Trợ Bồ Đề).

Tập luyện những cái kia mà không biết cái này chánh thì bị ức chế. Trong giờ tập luyện các pháp thì ôm pháp, nhưng khi ra khỏi pháp, xả nghỉ trong thời gian chuẩn bị tập pháp khác mà bị nó sai đi quét rác, hay làm này làm kia mà làm theo là tập luyện bị ức chế. Cho nên phải nhớ giờ thư giản chính là giờ xả tâm. Thấy được vậy, làm được vậy thì con vô thất tập luyện dễ. Còn không thấy được vậy thì vào thất cứ làm lặt vặt, làm cho khuây khoả, dù trong thời khóa hay ngoài thời khóa, thì đó là phóng dật. Và khi không xả tâm như thế thì chừng vô tập luyện pháp là ức chế, không làm sao khỏi bị ức chế, mà đã ức chế thì 7 Giác Chi không thể xuất hiện được.

Ở trong Tu Viện, thỉnh thoảng người nào đó tạo ra hay xảy ra việc này việc nọ là cơ hội tốt để cho các con xả tâm, nếu các con không biết thì không xả tâm được. Những cái tạo ra đó chính là điều kiện, là những hướng để cho các con xả tâm cho thật sạch. Khi đã xả sạch rồi, các con bắt đầu được tĩnh giác thì rất dễ ôm pháp, không còn khó khăn nữa. Nếu không xả tâm mà ôm pháp thì sẽ ức chế tâm, còn xả tâm hết mới ôm pháp thì sẽ nhập được các tầng định li dục li ác pháp .

Trong kinh dạy đủ hết mọi điều kiện, nhưng có sống, có tập luyện mới hiểu được kinh.

Theo Thầy thấy thì thật sự không cần phải tập luyện pháp gì khác mà tối ngày giữ mình là người vô sự, không làm gì hết, cứ ngồi mà xả tâm thôi . Niệm gì khởi lên cũng xả hết, riết rồi mình có cái lực khiến cho đủ cả 7 Giác Chi xuất hiện.

Đó là điều quan trọng nhất của đời người tập luyện. Thầy gọi là xả tâm, còn đức Phật nói là  “Đẩy lui chướng ngại pháp ”.

Đó là Thầy dạy cho người có quyết tâm tập luyện cho nên trong khi tập luyện cần phải thưa thỉnh để hiểu rõ pháp, tập luyện đúng.

Cách giữ tâm vô sự

Cách giữ tâm vô sự hay thư giãn thì điểm quan trọng cần biết là mỗi niệm khởi lên đều mang theo tính chất sai bảo làm, hoặc không có tính chất sai bảo làm. Trong giờ đang tu, con phải nhớ là khi niệm nào sai bảo làm gì thì nhất định không làm. Không làm theo niệm khiến làm tức là li dục. Niệm muốn mình làm tức là niệm có dục, mà nhất định không làm là li dục. Thí dụ con đang ngồi thư giản mà mắt thấy có màng nhện, liền khởi ý muốn quét màng nhện đó. Khi khởi ý lên thì đồng thời con muốn đứng dậy đi làm ngay. Niệm muốn quét và niệm muốn làm liền là niệm sai bảo. Đó là phóng dật, đó là niệm dục. Bây giờ con biết như vậy thì không làm. Không làm là li dục, là không bị phóng dật.

Thư giãn thì phải trở về cái bình thường của nó nhưng không được ở trong ác pháp. Nó sai bảo mình làm gì thì không làm theo. Đó là li dục. Chỉ có vậy thôi. Phải nắm cho vững cái này. Pháp Thư Giãn cũng là một pháp chứ không phải thư giãn là nằm duỗi tay duỗi chân rồi tập trung trong hơi thở mà cho đó là thư giãn. Không được làm vậy. Cho nên nếu thư giãn đúng, khi xả ra cơ thể trở về bình thường, khoẻ khoắn, rồi bắt đầu vô tập luyện lại mới thích pháp tập luyện.

Cần phân biệt niệm dục và niệm “tào lao”. Niệm “tào lao” là niệm không sai bảo mình làm gì hết. Thí dụ con nhớ bạn bè hay những tư tưởng này kia thì điều đó không quan trọng; chỉ có niệm sai bảo con làm gì thì đó mới là niệm dục. Nó làm cho con không còn vô sự. Trong giờ thư giãn, không có niệm gì hết là tốt. Cứ để cho nó không niệm. Còn khi có niệm thì con phải suy xét coi để phân biệt niệm nào là niệm dục. Trong kinh Song Tầm, mỗi khi tầm ác hiện ra thì dùng một trong năm cách đã được Phật dạy trong kinh để đẩy lui, để xả, để đưa lại sự thư giãn cho được, chứ không phải đưa lại sự biết hơi thở hay biết bước đi. Phải nắm cho vững điều này mới tập luyện Định Thư Giãn được.

Định Thư Giãn hay Tâm Vô Sự nên thực hành tập luyện xen kẽ với các pháp môn khác để tránh bị mệt mỏi hay bất an trên cơ thể. Với đặc tướng của vài người, có thể không xen kẽ cũng được. Nhưng cần xen kẽ vào để tâm nghỉ ngơi, giảm bớt sức căng của thời gian tập luyện các pháp môn kia. Nếu tập luyện liên tục các pháp có xen kẽ định Thư Giãn vào được thì dễ tiến bộ hơn.

Tóm lại, tập luyện Định Thư Giãn thì phải khéo léo để thân tâm trả về trạng thái bình thường của nó là đúng, đừng để bị lôi vào trong các pháp khác. Khi bị vậy thì phải lôi nó trở về, cho nó thư giãn ra.

Cách Thực Hành Tu Tập

Tuy Định Thư Giãn cần được tu tập khi dụng công tu nhiều làm cho thân tâm mỏi mệt, sanh ra lười biếng, trí óc không còn sáng suốt. Nhưng con cũng nên tu Định Thư Giãn trong lúc tâm bình thường, nghĩa là lúc bình thường tâm không tán loạn, không mất tĩnh giác, không nửa tỉnh nửa mê, không bần thần lười biếng, thì dùng pháp hướng tác ý khi đi kinh hành cũng như trong lúc ngồi: "Tâm phải sáng suốt như ban ngày, tâm phải thanh thản, vô sự".

Hoặc thư giãn khi ngồi, con nên ngồi thoải mái, hai chân duỗi thẳng dài ra, hai tay buông thỏng, thả nhẹ xuống, các cơ trong thân không được gồng, tinh thần không được suy nghĩ và tập trung nơi nào cả, chỉ để nó tự nhiên theo tự nhiên của nó. Khi cảm giác thân tâm buông thả mới tác ý hướng tâm: “Toàn thân và tâm đề an tịnh, tôi biết tôi đang thư giãn”. Xong, để thân tâm tự nhiên thư giãn và cảm nhận có an tịnh. Kế tiếp, con lại như lý tác ý nữa:
- “Các cơ trong thân thư giãn, buông xuống, không được gồng; thần kinh trong thân đều thư giãn hết”.
- “ Thân tâm phải thoải mái, nhẹ nhàng, thanh thản, an lạc và vô sự”.
- “Đầu óc phải thư giãn, không được tập trung chỗ nào hết, phải tự nhiên, hồn nhiên với vạn pháp”.

Đó là những câu như lý tác ý và hướng tâm để thư giãn. Trong suốt giờ thư giãn, thỉnh thoảng con nhắc lại câu pháp hướng đó để giúp cho thân tâm nhẹ nhàng thoái mái cho đến hết giờ thư giãn. Con nên nhớ mà tu tập đừng nên biếng trễ.

Nếu khi đã bị ngủ gục, bị ngủ mê, mất tĩnh giác, nửa tỉnh nửa mê thì đừng ngồi nữa mà hãy đứng dậy đi kinh hành và dùng pháp như lý tác ý:
- "Tâm phải tỉnh thức, sáng suốt đêm cũng như ngày".
- "Tâm phải tỉnh táo như ban ngày".
- "Tâm phải sáng suốt như ánh mặt trời".

Ở đây, con dùng câu như lý tác ý, ra lệnh cho các cơ và thần kinh thư giãn.

Khi thư giãn, mặc dù con thấy tâm vẫn sáng suốt mà cơ thể cứ buồn ngủ, đó là thư giãn trong trạng thái mê mờ do bởi tập luyện nhiều quá, trên sức chịu đựng nên khi thư giãn mới bị lặn vào trạng thái mê mờ vì buồn ngủ này. Tập luyện ít lại thì sẽ vượt qua. Khi tập luyện vừa với sức, ngồi lại thư giãn, tác ý thư giãn thì sẽ rất tỉnh. Vậy con nên giảm bớt giờ tập luyện lại, tăng giờ thư giãn lên.

Trong khi ngồi thư giãn mà buồn ngủ thì nên đứng dậy đi tới đi lui cho tỉnh. Thư giãn cũng là giờ tập luyện chứ đâu phải giờ ngồi chơi. Khi tập luyện các pháp thì tâm bám vào các pháp tập luyện. Khi ngồi thư giãn mà thiếu tác ý xả thì tâm vẫn còn bám vào các pháp lúc tập luyện. Phải tác ý xả để thân tâm trở về trạng thái nghỉ ngơi hoàn toàn thì không ức chế. Không phải ngồi lại thư giãn, thấy hơi thở vô ra mà cứ tưởng là tốt. Không phải vậy.

Định Thư Giãn hơi khó thực hành vì khi ngồi yên lặng thì tâm thường gom vào hơi thở, còn nếu đang đi thì nó lại gom vào bước đi. Làm sao để nó không gom về hai cái đó. Khi đi thư giãn thì phải tác ý tâm đừng tập trung tâm dưới bước chân mà nhìn cái này cái kia nếu đi trong thất, còn đi ngoài trời thì nhìn cây cối, trời mây (nhưng đừng nghĩ suy về những cái này). Đừng tập trung nhìn dưới bước chân, cũng đừng lưu ý hơi thở. Đi như người vô sự. Thư giãn thì trở về trạng thái như khi không tập luyện gì hết. Tác ý để cơ bắp, thần kinh lơi ra, thư giãn ra.

Thư Giãn thì phải làm như mình không biết tập luyện là gì hết, phải xả ra. Thư giãn là nghỉ ngơi, phải để thân và tâm hoàn toàn nghỉ ngơi. Phải tác ý cho nó xả, chứ không thì làm như tập luyện mà không có thời gian nghỉ ngơi. Không đúng. Sẽ đi đến chỗ ức chế tâm. Phải tác ý thư giãn, tác ý để không bị kẹt vào các pháp tập luyện khác. Tập cho nó lìa ra khỏi các pháp để nó nghỉ ngơi. Nghỉ thì ra nghỉ; tập luyện thì ra tập luyện. Không phải nói thư giãn là thư giãn được liền đâu. Phải tập thư giãn.

Nói chung thư giãn thì không tập trung trong pháp, phải trở về cái bình thường, cũng không được ở trong ác pháp.

Tuy trong kinh Nikaya Đức Phật dạy phải tưởng tâm sáng suốt như ban ngày, sáng suốt như mặt trời, v.v... nhưng theo kinh nghiệm của Thầy hiểu lời dạy này là một loại thiền định thư giãn các cơ và thần kinh trong thân, nên Thầy gọi là Định Thư Giãn. Định Thư Giãn  tức là phương pháp thư giãn của Đạo Phật , giúp thư giãn thân và tâm, khiến cho các cơ và tinh thần không còn căng thẳng, mỏi mệt sau khi tập luyện các pháp.

Biết được công dụng của định này, do đó mỗi khi tu tập một loại định nào xong, con đều dùng Định Thư Giãn để thư giãn, nhờ đó liên tục tu tập mà thân tâm không thấy mỏi mệt, không mất tĩnh giác. Trái lại, càng tu càng tỉnh thức và càng sáng suốt, càng tu càng thích thú và ưa thích ham tu hơn, càng tu càng thấy tâm hồn thanh thản an lạc và giải thoát rõ ràng. Vừa tập luyện xong Định Niệm Hơi Thở thì qua tập luyện Định Thư Giãn để có thời gian nghỉ ngơi, tiếp tập luyện Chánh Niệm Tỉnh Giác, rồi Định Thư Giãn lại. Như vậy là tập luyện liên tục, không nghỉ. Nghỉ là tập luyện Định Thư Giãn, giữa hai pháp kia cần xen Định Thư Giãn vào giữa. Cách thức thư giản không phải dễ thực hành đâu, coi chừng bị ức chế mà không hay.

Nếu con không biết thực hành loại Định Thư Giãn này thì dễ bị ức chế thân tâm và nếu ức chế thân tâm quá độ thì dễ sanh ra bệnh tật, rối loạn thần kinh, hay điên khùng mất trí.

Tóm lại, cách thức tu Định Thư Giãn là dùng pháp Tác Ý thư giãn các cơ trong thân cũng như thư giãn thần kinh, khiến cho các cơ và thần kinh buông xuống không còn một chút xíu dụng công và ức chế nào, nên thấy cơ thể và tinh thần nhẹ nhàng thoải mái. Khi thư giãn đúng vậy thì sẽ cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng an lạc, thoải mái vô cùng.

Định Thư Giãn sẽ giúp cho tâm mau chóng tĩnh giác, để luôn luôn ở trong chánh niệm nhờ đó mới ly tham đoạn ác pháp. Có ly tham đoạn ác pháp thì mới nhập được Thiền định và chứng đạt Ba Minh.

Nếu không có Định Thư Giãn thì tu hành sẽ rơi vào pháp ức chế tâm, và vì vậy sẽ chỉ nhập định tưởng, sẽ rơi vào tà đạo.

Định Thư Giản Là Tiền Thân 4 Niệm Xứ

Muốn tập luyện 4 Niệm Xứ thành công thì giai đoạn đầu phải tập luyện pháp Thư Giãn này cho có căn bản. Bước qua giai đoạn hai của 4 Niệm Xứ là quét sạch chướng ngại pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp và qua giai đoạn ba là pháp Thân Hành Niệm.

Lúc này con đang tập luyện tĩnh giác ở giai đoạn đầu có nghĩa là tập luyện thư giãn, không được gom tâm vào đâu. Giai đoạn tập đầu tiên này gọi là Định Thư Giãn, nói đúng thì đây là tập luyện 4 Niệm Xứ trên 4 niệm xứ, nhưng gọi là Thư Giãn vì tập luyện các pháp như Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, quá căng thì thư giãn cho thần kinh bớt căng. Thư giãn là tiền thân của 4 Niệm Xứ trên thân quán thân để khắc phục tham ưu. Cho nên khi thần kinh căng, thì thư giãn là pháp khắc phục tham ưu.

Theo phương pháp của Phật, đây là giai đoạn phổ thông cần được tập luyện, để sau khi đến chuyên sâu, vào 4 Niệm Xứ thật sự thì đã có cái căn bản phổ thông này rồi. Định Niệm Hơi Thở là chuẩn bị cách thức để phá chướng ngại trên 4 chỗ thân thọ tâm pháp. Định Vô Lậu cũng là cách thức chuẩn bị để đối phó với chướng ngại trên thân, thọ, tâm, pháp. Thí dụ như con quán tưởng thân bất tịnh để khi luyện 4 Niệm Xứ, nếu trong tâm khởi niệm sắc dục mà không biết cách nào đối trị thì nó làm mình bị chướng ngại. Khi đó phải dùng tưởng quán thân bất tịnh, quán thực phẩm bất tịnh, quán mùi thối hôi (các lãnh vực của Định Vô Lậu). Nghĩa là ta đã được trang bị hết sức đầy đủ. Ba pháp đầu tiên, Định Vô Lậu, Định Niệm Hơi Thở, Định Kinh Hành Tĩnh Giác, là những định trang bị mà Định Thư Giãn là thế chuẩn bị cho giai đoạn đi sâu hơn về sau này. Nó là tiền thân của 4 Niệm Xứ.

Tóm lại, giai đoạn đầu tiên tập luyện Định Thư Giãn thì tập chung chung như thế cho biết để sau này tập tới giai đoạn hai là 4 Niệm Xứ trên 4 niệm xứ mới dễ. Khi bước qua tu 4 Niệm Xứ tức là tập luyện tỉnh thức có nghĩa là “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu” thì ở trên đó quét sạch chướng ngại pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp.

Xả Tâm Trong 4 Niệm Xứ

Xin xem trong sách “Bậc Ba Minh Dạy Tu Tỉnh Thức Chánh Niệm”


2 Xem thêm tập 1 Đường Về Xứ Phật để biết rõ “Cái gì cần hiểu phải hiểu”

3 Kinh Thân Hành Niệm dạy “Các niệm và tư duy về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tỉnh”. Xả tâm chính là xả các niệm và tư duy về thế tục, là pháp ác. Tâm chỉ còn pháp thiện.

 

E.- ĐỊNH VÔ LẬU

Con thực hành pháp quán Vô Lậu theo những đề tài sau:
Đường đi nhân quả
Nhân quả thảo mộc.
Nhân quả con người qua:
    •Thân hành
    •Khẩu hành
    •Ý hành.
Thực phẩm bất tịnh.
Thân bất tịnh.
Các pháp vô thường.
Giới thiệu đạo đức nhân bản nhân quả.
Ái ngữ.
Tứ vô lượng tâm:
    •Tâm từ vô lượng
    •Tâm bi vô lượng
    •Tâm hỉ vô lượng
    •Tâm xả vô lượng
Tất cả các loài hữu tình do các món ăn mà an trú.
Tất cả các loài hữu tình do các hành mà an trú.
Năm triền cái.
Năm tâm hoang vu.
Năm hạ phần kiết sử.
Năm thượng phần kiết sử.
Ít muốn – Biết đủ.
Danh và sắc.
Tàm và quý.
Ba ác hạnh:
    •Thân ác hạnh,
    •Khẩu ác hạnh,
    •Ý ác hạnh.
Ba thiện hạnh:
    •Thân thiện hạnh,
    •Khẩu thiện hạnh,
    •Ý thiện hạnh.
Xin nghe một số các bài làm của các tu sinh trong lớp Chánh Kiến 2006 (Pháp Âm ở trang web www.nguyenthuychonnhu.net hay www.chonlac.org hay www.youtube.com/tuvienchonnhu) để có nhận xét về cách thức quán vô lậu một số đề tài trên.

HẾT PHẦN I: TĨNH GIÁC

(Xin tập luyện tiếp Bậc Ba Minh Dạy Tu Tỉnh Thức Chánh Niệm)

MỤC LỤC