Giáo Án Rèn Nhân Cách: Đức Hiếu Sinh

Sách này chỉ kính biếu, không bán! Quý phật tử hay bạn đọc có nhu cầu thỉnh sách, xin vui lòng liên hệ Ban kinh sách của Tu Viện Chơn Như:

ĐT: (066) 389.2911 (Tu Viện Chơn Như)

098.809.4445 (Hà Nội)

Web: http://chonnhu.net

(Các thông tin đính chính có trên trang Web này)

Email: chonnhu2@gmail.com

Đức Hiếu Sinh (tập 1)

LỜI NÓI ĐẦU

Dựng lại chánh pháp của Phật giáo không phải chỉ giảng dạy suông những bài kinh trong tạng kinh Nikaya cho tu sinh học thuộc lòng. Điều này cũng giống như chúng ta dạy những con chim học nói tiếng người.

Dựng lại chánh pháp của Phật giáo là phải soạn thảo theo chương trình giáo dục đào tạo của các lớp từ Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, Bát Quan Trai Giới cho đến Bát Chánh Đạo.

Trước tiên, người biên soạn phải biết biên soạn giáo án cho cư sĩ tu học vào những lớp đạo đức cơ bản nhất như: các lớp Tam Quy, các lớp Ngũ Giới, các lớp Tu Thập Thiện và các lớp Thọ Bát Quan Trai.

Sau khi hướng dẫn những cư sĩ đã tu học thuần thục trong bốn lớp đạo đức này, thì mới cho họ xuất gia tu học theo các lớp Bát Chánh Đạo. Còn chưa tu học các lớp cơ bản này mà vào tu học các lớp Bát Chánh Đạo thì mất căn bản. Mất căn bản khi vào tu tập thiền định tỉnh giác sẽ bị ức chế tâm.

Bảy lớp đầu tiên của Bát Chánh Đạo là những lớp học về giới luật đức hạnh, nên mỗi lớp phải được biên soạn giáo án rõ ràng cụ thể, để giảng viên hướng dẫn tu sinh rèn luyện nhân cách đạo đức sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh được dễ dàng hơn.

Những việc biên soạn giáo án và đứng lớp dạy là chấn chỉnh Phật giáo, dựng lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả cho loài người.

Đây là Giáo Án rèn luyện nhân cách lớp Ngũ Giới cho mọi người, không chỉ dành riêng cho những người cư sĩ phật tử tu học, mà còn cho tất cả mọi người có tôn giáo hay không tôn giáo, vì nó là đạo đức nhân bản - nhân quả như trên đã nói.

Ngũ Giới gồm có năm đức hạnh:

1- Đức hiếu sinh, lòng thương yêu sự sống, thuộc về đạo đức bản thân.

2- Đức ly tham, từ bỏ lấy của không cho, thuộc về đạo đức bản thân.

3- Đức chung thủy, không gian díu với người khác, thuộc về đạo đức gia đình.

4- Đức thành thật, không nói dối, không nói lời hung ác, không nói lời thêu dệt, không nói lật lọng, thuộc về đạo đức xã hội.

5- Đức minh mẫn, không say sưa rượu chè bài bạc, không nghiện ngập thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện, v.v... thuộc về đạo đức xã hội.

Năm đức này được thực hiện trong ba hành động thân, miệng, ý của một con người, nó mang lại lợi ích rất lớn cho hành tinh này; nó đem lại sự an vui hạnh phúc cho mình, cho người và cho sự sống của tất cả muôn loài vạn vật, cho gia đình và xã hội.

Khi biên soạn giáo án này, chúng tôi mong rằng tất cả mọi người trên hành tinh này đều được học tập và rèn luyện nhân cách, để xứng đáng làm người là một con người có đầy đủ tâm hồn cao thượng, biết bao dung tha thứ mỗi lỗi lầm của người khác, biết yêu thương và ban rải lòng thương yêu ấy đến mọi sự sống trên hành tinh này.

Với việc biên soạn giáo án của Phật giáo là một việc làm quá lớn lao, không thể một người gánh vác trọn vẹn. Cho nên việc làm này không thể tránh khỏi những sự khuyết điểm, mong những bậc thạc đức, trí tuệ cao minh chỉ dạy cho những chỗ sai lầm, để bộ sách Giáo Án dạy đạo đức của Phật giáo được hoàn chỉnh và tốt đẹp hơn.

Cuối cùng, chúng tôi xin có lời thăm và chúc sức khỏe của quý vị phật tử được dồi dào và chân thành tri ân quý vị.

Kính ghi

Tu Viện Chơn Như

ĐỨC BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một ân nhân của nhân loại, Ngài để lại cho loài người một nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người.

PHẦN NGHI LỄ

Bài học thứ 1: NIỆM PHẬT

Giảng viên bước vào lớp học, tất cả tu sinh đều đứng dậy, mặt hướng về tượng Phật.

Khi giảng viên đứng vào vị trí của mình, mặt cũng hướng về tượng Phật và chắp tay lên, thì tất cả các tu sinh khác cũng đều chắp tay.

Giảng viên nói:

- Xin mời tất cả tu sinh hãy niệm hồng danh đức Phật ba lần: “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”.

(Giảng viên niệm trước: “NAM ... MÔ”, đến chữ MÔ thì tất cả tu sinh niệm tiếp chữ MÔ, chứ không đọc chữ NAM lại, để mọi người cùng bắt một nhịp với nhau cho câu niệm Phật phát âm đồng đều) Sau khi niệm Phật xong, giảng viên và tu sinh xá tượng Phật và xá hình Trưởng Lão.

Sau khi xá xong, giảng viên tay vẫn chắp, quay mặt nhìn xuống các tu sinh, đồng thời xá chào nhau. Giảng viên liền nói:

- Xin mời quý sư, quý thầy và quý phật tử ngồi xuống. (Hoặc nói ngắn gọn: “Xin mời tất cả tu sinh ngồi xuống”) Tất cả tu sinh đều ngồi xuống, giữ gìn im lặng, không nên nói chuyện trong giờ học.

Trong buổi học đầu tiên, giảng viên giải thích thêm:

- Phần nghi lễ đến đây là xong, nhưng chúng tôi xin giải thích thêm để quý tu sinh hiểu biết cho rõ ràng hơn, nếu ai có thắc mắc về phần nghi lễ sao đơn giản quá, thì quý tu sinh hãy trả lời cho đúng ý nghĩa.

Đối với tôn giáo, phần nghi lễ như thế này rất đơn giản, gọn gàng, chỉ còn có một câu niệm hồng danh đức Phật ba lần mà thôi, nhưng ý nghĩa câu niệm Phật rất đầy đủ, nói lên được lòng biết ơn sâu sắc và cũng nói lên được lòng cung kính tôn trọng của mọi người đối với đức Phật.

Nói về chương trình giáo dục đào tạo văn hóa đạo đức, thì nghi lễ là hàng đầu. Nghi lễ đầu tiên mà mọi người ai cũng biết, đó là lễ chào quốc kỳ. Khắp nơi trong đất nước, chúng ta đến bất cứ một ngôi trường học nào, cũng đều thấy học sinh chào cờ mỗi sáng trước khi vào lớp.

Quốc kỳ tượng trưng cho non sông, đất nước; quốc ca tượng trưng lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu tổ quốc của mọi người dân trong nước đó. Khi mắt nhìn quốc kỳ, tai nghe bài quốc ca vang lên âm điệu hùng hồn, khiến cho tâm hồn mọi người dân đều xúc động, nhớ đến bao công lao của những anh hùng dân tộc đã xông pha trận mạc, vì tổ quốc hy sinh.

Nhìn quốc kỳ tung bay phấp phới trên nền trời, nghe lời quốc ca trong tiếng nhạc trầm hùng, cùng tiếng bước chân đoàn quân đi dập dồn khiến lòng yêu nước, yêu quê hương tổ quốc dâng cao lên tuyệt vời.

NHỮNG CÂU HỎI

Bây giờ, xin quý tu sinh hãy trả lời những câu hỏi sau đây:

Câu hỏi 1:

Hình tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni trước mặt quý tu sinh là tượng trưng cho ý nghĩa gì? Nghĩ sao quý tu sinh cứ trả lời như vậy, như trên đã nói, chúng ta là những người còn đang tu học, cho nên càng trả lời thì lại càng thấm nhuần ý nghĩa sâu xa của sự tu học.

(Khi hỏi xong, giảng viên chờ tu sinh trả lời. Tu sinh trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa quý tu sinh đã trả lời góp phần làm sáng tỏ hình tượng đức Phật rất hay, và chúng tôi xin đọc câu trả lời để chúng ta cùng nhau tu học)

Trả lời câu hỏi 1:

Theo giáo án dạy, ý nghĩa hình tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni là hình ảnh tượng trưng cho nền đạo đức nhân bản - nhân quả, một nền đạo đức của loài người mà con người không thể thiếu được. Cho nên hình tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni là hình ảnh đạo đức cao thượng sống không làm khổ mình, khổ người, luôn luôn ghi khắc trong tâm hồn của mọi người. Quý tu sinh hãy ghi nhớ hình ảnh này!

Câu hỏi 2:

Vậy câu niệm Phật tượng trưng cho ý nghĩa gì?

(Khi hỏi xong, giảng viên chờ tu sinh trả lời. Khi tu sinh trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Ý nghĩa câu niệm Phật quý tu sinh đã trả lời rất sống động, rất hay, và chúng tôi xin đọc câu trả lời để chúng ta cùng nhau tu học)

Trả lời câu hỏi 2:

Câu niệm Phật tượng trưng cho lòng biết ơn sâu xa của loài người đối với đức Phật, vị ân nhân của nhân loại mà hành tinh này không thể có một người thứ hai như vậy nữa.

Vì thế câu niệm Phật phải có âm điệu như bài quốc ca, vang lên như những lời khuyên nhẹ nhàng, thắm thía tình thương yêu rộng lớn như trời, như biển của Người cha lành đối với tất cả sự sống trên hành tinh này. Hạnh phúc thay cho những ai tìm về nền đạo đức ấy!

Bài học thứ 2: CÁCH XƯNG HÔ TRONG LỚP HỌC

1- GIẢNG VIÊN XƯNG HÔ VỚI TU SINH

Trong lớp học, giảng viên nên xưng hô với học viên bằng cách tự xưng pháp danh của mình, ví dụ như GIA HẠNH, LIỄU HUỆ...

Ví dụ: - Gia Hạnh xin mời Sư Cô.

Ví dụ: - Liễu Huệ dạy theo giáo án của Trưởng Lão Thông Lạc chỉ dạy.

TU SINH LÀ TU SĨ NỮ:

Nếu tu sinh là tu sĩ nữ mặc áo Đại thừa, y vấn Nam tông hoặc Khất sĩ, không biết pháp danh, giảng viên gọi tu sinh này là SƯ CÔ.

Ví dụ: - Gia Hạnh xin mời Sư Cô.

Nếu giảng viên biết pháp danh của tu sinh thì gọi thêm pháp danh.

Ví dụ: - Liễu Huệ xin mời Sư Cô Liễu Nhẫn.

Ví dụ: - Xin mời Sư Cô Liễu Nghĩa.

TU SINH LÀ TU SĨ NAM:

Nếu tu sinh là tu sĩ nam mặc áo Đại thừa, không biết pháp danh, giảng viên gọi tu sinh này là THẦY.

Ví dụ: - Gia Hạnh xin chào Thầy.

Nếu giảng viên biết pháp danh của tu sinh thì gọi thêm pháp danh.

Ví dụ: - Liễu Huệ xin chào Thầy Minh Tánh.

Nếu tu sinh là tu sĩ nam mặc y vấn Nam tông hoặc Khất sĩ, không biết pháp danh, giảng viên gọi tu sinh này là SƯ.

Ví dụ: - Gia Hạnh xin chào Sư.

Nếu giảng viên biết pháp danh của tu sinh thì gọi thêm pháp danh.

Ví dụ: - Liễu Huệ xin chào Sư Minh Nhẫn.

TU SINH LÀ CƯ SĨ:

Đối với tu sinh là cư sĩ nam hay nữ, không biết pháp danh, giảng viên gọi chung nhiều người hay gọi riêng từng người đều dùng từ PHẬT TỬ, hay dùng danh xưng bác, cô...

Ví dụ: - Xin phật tử cho biết pháp danh để việc xưng hô dễ dàng.

Ví dụ: - Xin bác cho biết pháp danh để việc xưng hô dễ dàng.

Ví dụ: - Xin cô cho biết pháp danh để việc xưng hô dễ dàng.

Nếu giảng viên biết pháp danh của tu sinh thì gọi thêm pháp danh có danh xưng chú, bác, cô, anh, chị, em, cháu, v.v... để tạo sự thân mật trong danh từ xưng hô của tiếng Việt Nam.

Ví dụ: - Xin mời Chú Minh Thiện.

Ví dụ: - Xin mời Cô Liễu Minh.

Ví dụ: - Xin mời Bác Liễu Tâm.

Ví dụ: - Xin mời Anh Tâm Minh.

Ví dụ: - Xin mời Chị Liễu Minh.

Ví dụ: - Xin mời Em Liễu Châu.

2- HỌC VIÊN XƯNG HÔ VỚI GIẢNG VIÊN

Trong lớp học, học viên xưng hô với giảng viên bằng cách tự xưng pháp danh của mình, ví dụ như LIỄU THANH, MINH THÀNH...

Ví dụ: - Thưa Cô, Liễu Thanh xin hỏi.

Ví dụ: - Minh Thành có điều này muốn xin thưa hỏi Thầy.

GIẢNG VIÊN NỮ:

Nếu giảng viên là tu sĩ nữ mặc y áo Đại thừa, y vấn Nam tông hoặc Khất sĩ, không biết pháp danh, thì học viên gọi giảng viên là SƯ CÔ.

Ví dụ: - Thưa Sư Cô, Minh Thành xin hỏi.

Ví dụ: - Liễu Thanh có điều này muốn xin hỏi Sư Cô.

Nếu học viên biết pháp danh của giảng viên thì gọi thêm pháp danh.

Ví dụ: - Thưa Sư Cô Liễu Nhẫn.

Nếu giảng viên là cư sĩ, không biết pháp danh, thì học viên gọi giảng viên là CÔ.

Ví dụ: - Thưa Cô, Liễu Hạnh xin thưa hỏi.

Nếu học viên biết pháp danh của giảng viên thì gọi thêm pháp danh.

Ví dụ: - Thưa Cô Từ Hạnh.

GIẢNG VIÊN NAM:

Nếu giảng viên là tu sĩ nam mặc y áo Đại thừa thì học viên gọi là THẦY. Hoặc giảng viên là cư sĩ nam thì học viên cũng nên gọi là THẦY.

Ví dụ: - Thưa Thầy, Minh Thành xin hỏi.

Nếu học viên biết pháp danh của giảng viên thì gọi thêm pháp danh.

Ví dụ: - Thưa Thầy Minh Nghĩa.

Nếu giảng viên là tu sĩ nam mặc y vấn Nam tông hoặc Khất sĩ, không biết pháp danh, học viên gọi là SƯ.

Ví dụ: - Liễu Thanh xin hỏi Sư.

Nếu học viên biết pháp danh của giảng viên thì gọi thêm pháp danh.

Ví dụ: - Thưa Sư Tâm Nhẫn.

3- GIỮ GÌN OAI NGHI TRONG GIỜ HỌC

Tu sinh phải có mặt trước giờ học là 5 phút, không được đến trễ giờ học. Khi vào lớp, tu sinh vào ngay ghế của mình ngồi, không ngồi ghế của người khác. Khi giảng viên bước vào cửa lớp thì tất cả tu sinh đứng dậy, nghiêm chỉnh hướng về tượng Phật. Khi giảng viên đứng vào vị trí của mình thì cả lớp làm nghi lễ niệm Phật như đã trình bày trong phần 1. Sau khi xá chào nhau thì giảng viên mời các tu sinh ngồi xuống để bắt đầu buổi học.

Trong buổi học, tất cả tu sinh đều giữ gìn im lặng, không nên nói chuyện riêng. Khi phát biểu ý kiến hiểu biết của mình về bài học đức hạnh, thì bằng cách xưng hô như sau:

Ví dụ: - Kính thưa cô (thầy...)! Kính thưa toàn thể tu sinh! Theo Mỹ Linh hiểu đạo đức của câu hỏi này như sau...

Sau khi tu sinh trả lời xong thì tất cả tu sinh và giảng viên đồng vỗ tay khuyến khích.

Sau đó, giảng viên tiếp tục gọi tu sinh khác trả lời.

Mỗi khi học viên trả lời câu hỏi nào trong bài học đều phải đứng dậy, trừ những người già, tật nguyền không đứng được, giảng viên cho phép ngồi.

Đứng dậy trả lời là một hành động tôn kính những người có mặt trong lớp học, tôn kính giảng viên, tu sinh, và nhất là tôn kính hình tượng đức Phật và bài pháp giới luật đức hạnh mà tất cả tu sinh đều đang học.

Trong kinh Nikaya có nói về chủ khách, đức Phật không chấp nhận chủ ngồi mà khách đứng nói chuyện, tiếp chuyện với nhau như vậy là thiếu đạo đức lễ độ.

Một hôm có một Bà La Môn tên là Ambattha đến chỗ Phật, Ông không ngồi mà đứng, đi qua, đi lại, lời nói nhát gừng vấn nạn Phật, đức Phật quở trách đó là một hành động thiếu đạo đức tôn kính. (Kinh Trường Bộ tập I, trang 164) Nếu đức Phật ngồi, vị Bà La Môn cũng ngồi một bên thấp hơn, đó là hành động chủ khách ngồi tôn kính, nhưng khi thưa hỏi một điều gì thì đứng lên hoặc quỳ xuống thưa hỏi, đó là hành động đạo đức tôn kính Phật và pháp, còn khi đức Phật chưa cho phép ngồi mà ngồi thưa hỏi là thiếu đạo đức tôn kính.

Các con đọc kinh Nikaya lướt qua không nhận xét rõ ràng, cho Phật giáo bình đẳng thì không có đạo đức tôn ti trật tự, nên phát biểu theo tưởng giải của mình mà vô tình phạm vào nền đạo đức lễ nghĩa văn hoá của Phật giáo thật đáng tiếc! Sự hiểu kinh sách của các con như vậy là cái hiểu nông cạn, khiến cho người đời sau hiểu Phật giáo sai lạc. Khi nào các con tu chứng mới hiểu kinh Nikaya đúng nghĩa.

Trong phòng họp Quốc hội, các dân biểu có ý kiến đều đứng lên phát biểu, không có ai ngồi mà phát biểu bao giờ, đó là một lễ độ lịch sự mà con người có văn hoá không thể nào thiếu được.

Nói chung tất cả các buổi họp từ ấp, xã, huyện, tỉnh và các buổi họp Giáo Hội Phật Giáo, khi phát biểu đều đứng dậy, đó là một đạo đức văn hoá lễ độ mà loài người đều công nhận.

Chúng ta nên xét lại đạo đức lễ nghĩa trong các trường học, nơi mà đào tạo giáo dục con người có kiến thức và văn hoá, mà lễ nghĩa không có thì biết rằng nền giáo dục đó còn thiếu khuyết.

Cho nên càng học lên lớp cao thì học sinh và sinh viên càng thiếu đạo đức tôn trọng thầy, cô giáo và bạn bè.

Tiểu học, khi cô giáo bước vào cửa lớp thì trưởng lớp hô: “Nghiêm!” Tất cả học sinh đều đứng dậy nghiêm chỉnh. Cô giáo đứng vào vị trí của mình liền đưa tay ra dấu bảo:

- Các em ngồi xuống.

Trung học đệ nhất cấp và đệ nhị cấp còn giữ lễ nghĩa tôn trọng ấy.

Đại học thì lễ nghĩa tôn trọng ấy không còn. Như vậy chúng ta biết rằng: nền giáo dục còn thiếu văn hóa đạo đức lễ độ rất nhiều. Vì thế chúng ta nên lo lắng cho nền giáo dục hiện tại của đất nước, quê hương.

Đạo đức đang xuống cấp.

Chúng ta là người Việt Nam, không nên dùng Hán Việt chưa được Việt hoá như: Hiền giả, Hiền huynh, Hiền tỷ, Hiền đệ, Sư huynh, Sư tỷ, Sư đệ, Đạo hữu, Đạo huynh, Tôn giả, Thánh giả, v.v...

Sau ba tháng học tập đạo đức hiếu sinh, tu sinh được dự thi lên lớp RÈN NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC LY THAM TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO, bằng những bài luận:

- Tháng thứ nhất với chủ đề “Đạo Đức Hiếu Sinh Ý Hành”.

- Tháng thứ hai với chủ đề “Đạo Đức Hiếu Sinh Khẩu Hành”.

- Tháng thứ ba với chủ đề “Đạo Đức Hiếu Sinh Thân Hành”.

- Sau ba tháng có kỳ thi tổng kết với chủ đề “Đạo Đức Hiếu Sinh Thân, Khẩu, Ý Hành”.

Kết quả bốn kỳ thi và có sự ứng dụng thực hành đạo đức đã học trong lớp học, trong đời sống hằng ngày được giảng viên theo dõi kỹ lưỡng, ghi thành tích học tập của tu sinh để tuyển chọn lên lớp mới. Nếu tu sinh chưa đủ điểm lên lớp thì được ở lại học lớp cũ.

TAM QUY có 3 lớp học.

NGŨ GIỚI có 5 lớp học.

THẬP THIỆN có 10 lớp học.

Sau khi hết giờ học, giảng viên nói:

- “Buổi học của chúng ta chấm dứt ở đây, xin quý tu sinh đứng dậy chắp tay xá chào nhau rồi chúng ta về thất”.

Nói xong, giảng viên và tu sinh xá chào nhau rồi giảng viên ra trước, các tu sĩ có hạ lạp cao và lớn tuổi ra trước, kế tiếp những tu sĩ có hạ lạp thấp ra kế, rồi đến cư sĩ lớn tuổi ra trước và nhỏ tuổi theo sau.

(Hết giờ học, giảng viên và tu sinh không nên đọc bài hồi hướng và niệm hồng danh đức Phật. Chỉ chào nhau rồi theo thứ tự về thất trong sự im lặng và trang nghiêm)

4- CÁCH CHÀO HỎI KHI ĐI NGOÀI ĐƯỜNG VÀ TRONG LỚP HỌC

1: Hai người đi khất thực ngược chiều nhau, hai tay ôm bát thì không chào nhau, nhưng khi đi cách nhau chừng hai bước mỗi người đều dừng lại, thời gian chỉ một hơi thở ra vào thì bước đi trở lại trong im lặng.

2: Người ôm bát và người không ôm bát cùng đi ngược chiều cách nhau chừng 2 bước hai người đều dừng lại, người không ôm bát chắp tay lên xá chào người ôm bát, người ôm bát chỉ đứng im lặng cúi đầu, người kia xá xong thì hai người tiếp tục đi trong im lặng.

3: Hai người đi ngược chiều, tay không ôm bát, đi cách nhau hai bước thì dừng lại, chắp tay cúi đầu chào nhau thật sâu rồi im lặng bước đi.

4: Tu sĩ với tu sĩ ở trong lớp học khi chào nhau hai người đều đứng dậy chắp tay, cúi đầu chào nhau trong im lặng, không nên nói ra tiếng, dù là tiếng chào.

5: Tu sĩ với tu sĩ ở ngoài đường đi ngược chiều, khi cách nhau chừng hai bước mỗi người đều dừng lại chắp tay, cúi đầu chào nhau trong im lặng, không nên nói ra tiếng, dù là tiếng chào.

6: Cách chào nhau của tu sĩ với cư sĩ ở trong lớp học cũng như ở ngoài đường giống như tu sĩ với tu sĩ.

7: Cách chào nhau của cư sĩ với cư sĩ ở trong lớp học cũng như ở ngoài đường giống như tu sĩ với tu sĩ.

8: Cách chào nhau của tu sĩ nam với tu sĩ nữ ở trong lớp học cũng như ở ngoài đường chào nhau giống như tu sĩ với tu sĩ.

Nam nữ chào nhau phải bình đẳng, nhưng trong các pháp yết ma thì quy định tu sĩ nữ chắp tay chào tu sĩ nam còn tu sĩ nam không chào lại, đó là theo Bát Kỉnh Pháp. Theo Thầy thiết nghĩ, một người khác chào mình, dù là đệ tử của mình thì cũng phải chắp tay chào lại, huống là mọi người đồng đệ tử Phật, dù nam hay nữ chào nhau nên giữ bình đẳng là tốt nhất.

9: Cách chào nhau của tu sĩ nam với cư sĩ nữ ở trong lớp học cũng như ở ngoài đường chào nhau giống như tu sĩ với tu sĩ.

Sự chào nhau phải bình đẳng là lễ độ văn hóa kính trọng nhau.

10: Nam chào trước hay nữ chào trước? Theo đúng pháp yết ma thì cư sĩ nữ chào trước cư sĩ nam, tu sĩ nữ chào trước tu sĩ nam, nhưng ở đây thì bình đẳng nên chào nhau đồng một lượt.

11: Một người cầm đồ đạc trên tay, một người không cầm đồ đạc thì người không cầm đồ đạc chào trước.

Sự chào hỏi không mất hạnh độc cư, chỉ khi nào đi đến thất hoặc đi ngoài đường nói chuyện với nhau mới là phá hạnh độc cư.

Trong tu viện, mỗi tu sinh giới tướng phải nghiêm chỉnh, không đươc vi phạm, oai nghi tế hạnh phải hẳn hoi khi đi, đứng, nằm, ngồi.

Còn giới thể, tu sinh phải đến lớp học đức giới, hạnh giới, để thấu triệt và thấm nhuần giới thể thì mới xứng đáng là đệ tử Phật, nếu không học giới đức thì giới thể không bao giờ có trọn vẹn.

Đây là một chương trình giáo dục đào tạo giới luật đức hạnh, cho nên bài học rất sống động, mọi tu sinh đều đóng góp nhiều ý kiến đạo đức nhân bản - nhân quả, nếu những ý kiến đó chưa được ngã ngũ thì giảng viên xin viết thư hỏi ý Thầy, chứ không được cắt ngang dẹp bỏ những ý kiến đó, kẻo lớp học sẽ mất hết ý nghĩa đào sâu đạo đức. Nhưng những tu sinh góp ý đừng góp ý ngoài đề, phải nhắm vào chủ đề đạo đức của bài học.

Lớp học cần có những ý kiến trái nghịch nhau trong chủ đề, để làm sáng tỏ nền đạo đức nhân bản - nhân quả, khiến cho lớp học càng sống động hơn, nhờ đó mà tu sinh càng học càng tiến bộ, càng thấu triệt và thấm nhuần đạo đức nhiều hơn.

Giới luật đức hạnh chưa thấm nhuần, chưa thông suốt mà muốn ngồi thiền, nhập định để có Tam Minh thì đó là một ảo tưởng. Vì thế trải qua hơn 2000 năm, đã xác định rõ ràng không có ai tu chứng quả A La Hán, vì bỏ giới luật mà tìm thiền định thì không bao giờ có chánh thiền định.

Hôm nay lớp học giới luật đức hạnh được triển khai để đào tạo, rèn luyện tu sinh trở thành những bậc giới luật đức hạnh vô lậu, vậy mà có một số tu sinh cố chấp ngồi tu trong thất thật là tội nghiệp. Nếu ngồi trong thất tu được thì hơn 20 năm qua đã có nhiều người tu chứng quả A La Hán vô lậu rồi. Ngồi trong thất tu mà giới luật vi phạm thì làm sao tu chứng quả A La Hán được.

Bên hệ phái Khất sĩ, người tu sĩ rất khiêm hạ, họ thường xưng là trò. Sư Giác Toàn trụ trì Trung Tâm Tịnh Xá của hệ phái Khất sĩ thường xưng là “Trò Con”.

Chúng ta ở đây toàn là anh em, chị em với nhau, nên phải biết cách xưng hô cho hợp lý.

Các tu sinh nam cũng như nữ nên biết đoàn kết, biết thương nhau như con một nhà, biết tha thứ mỗi lỗi lầm của nhau, chị ngã em nâng.

Bài học thứ 3: GIỚI THIỆU RÈN NHÂN CÁCH LÒNG YÊU THƯƠNG CỦA PHẬT GIÁO

Hôm nay chúng ta học bài thứ nhất trong năm giới: “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH”. Không nên giết hại chúng sinh là một lời khuyên của đức Phật từ ngàn xưa được lưu giữ trong kho tàng kinh điển nguyên thủy bằng tiếng Pàli tại Tích Lan.

Lời dạy này đi ngược lại đời sống con người trên hành tinh này. Vậy chúng ta tự hỏi: Tại sao đức Phật lại khuyên chúng ta không nên giết hại chúng sinh như vậy? Như quý tu sinh đã biết: khắp nơi trên hành tinh này không có nơi nào, không có ngày nào mà con người không giết hại chúng sinh để ăn thịt. Máu của chúng sinh chảy như sông, xương của chúng sinh chất như núi.

Sự đau khổ lăn lộn dưới dao trên thớt của loài người, sự chết chóc ghê rợn của chúng sinh trùng trùng, điệp điệp vô lượng vô biên, làm sao chúng ta kể cho hết những hình ảnh đau thương ấy. Ôi! Đau thương vô cùng tận, biết nói làm sao bây giờ. Và nói với ai đây? Vì sự sống của con người đã huân tập thành một thói quen ác độc giết hại các loài động vật mà không chút lòng thương xót, nhất là thói quen ăn thịt động vật.

Nhìn thấy được sự chết chóc đau khổ của chúng sinh, với lòng thương yêu rộng lớn vô bờ bến như trời, như biển của đức Phật, làm sao Ngài không có lời khuyên ngăn chúng ta:

“KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH”. Lời khuyên ấy là vì đức Phật thương xót loài người như người cha thương đứa con một, nếu con người giết hại chúng sinh ăn thịt sẽ gặt lấy quả khổ đau.

Đức Phật còn thấy rất rõ do nhân quả ác nghiệp của con người, vì vô minh con người không thấy nên tạo ra vô vàn ác pháp, vì thế phải thọ lãnh những quả khổ đau từ vô lượng kiếp, nên mỗi lần sinh ra cho đến khi chết, cuộc sống hoàn toàn khổ đau, khổ đau vô cùng, vô tận.

Đứng trước cảnh vô minh con người tự tạo nhân quả ác rồi tự gặt lấy những quả khổ đau cho chính mình, vì thế đức Phật thương xót bảo: “Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển”. Mình tự làm điều ác thì mình phải tự chuốc lấy mọi sự khổ đau, làm sao có ai cứu mình được!? Muốn hiểu rõ điều này, chúng ta hãy quán xét tư duy và tự hỏi cho đúng nghĩa sự đau khổ này do từ đâu sinh ra? Do từ sự giết hại chúng sinh để ăn thịt.

Đúng như vậy, đó là do nhân giết hại và ăn thịt chúng sinh mà phải trả quả quá đắt, là chịu mọi sự khổ đau suốt từ đời này sang kiếp khác, chứ không phải chỉ riêng cho một kiếp này.

Trong góc độ nhân quả ai cũng nhìn thấy:

từ nhân ác mà phải chịu mọi sự khổ đau; từ nhân thiện mà hưởng được sự an vui và hạnh phúc. Khổ vui trên đời này đều là do nhân quả. Do nhân quả thiện ác khổ vui như vậy, nên các pháp trên thế gian này thay đổi liên tục, do thay đổi liên tục nên gọi các pháp là vô thường. Các pháp trên thế gian vô thường thay đổi liên tục, nên sự khổ đau của loài người cũng triền miên bất tận từ khổ đau này đến khổ đau khác.

Con người không hiểu quy luật nhân quả thay đổi như vậy, nên cho các pháp là thường hằng, bất biến, là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Do hiểu sai lầm nên đắm mê chạy theo dục lạc vật chất vô thường của thế gian, cho rằng những vật chất là có thật, nên lấy đó để cung cấp và phụng dưỡng cho cái ngã, tạo biết bao nhiêu điều tội ác và biết bao nhiêu điều tội lỗi.

Với đôi mắt của đức Phật nhìn thấy mọi sự sống trên hành tinh đều do các duyên nhân quả tác thành, vì thế mới có sự thay đổi liên tục, đó là sự tất yếu không thể phủ nhận, do sự thay đổi ấy mà mọi sự sống của tất cả các loài vật trên hành tinh này hoàn toàn phải chịu mọi sự khổ đau. Con người cũng là một loài động vật đều có sự cảm nhận đau khổ, sống chết như nhau. Vì thế đức Phật khuyên: “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH”, thật là thấm thía biết bao.

Phải không quý tu sinh? Ý nghĩa câu: “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” còn mang theo một hành động đạo đức cao đẹp tuyệt vời của con người, đó là ĐỨC HIẾU SINH. Đức Hiếu Sinh có nghĩa là lòng thương yêu sự sống trên hành tinh này.

Đây chính là bài học rèn luyện nhân cách đạo đức đầu tiên của lớp NGŨ GIỚI Phật giáo, để chúng ta biết cách sống làm người với một tâm hồn cao thượng, một con người đầy lòng tha thứ và yêu thương mọi sự sống của nhau trên hành tinh này. Vì vậy, khi hiểu như thế nào thì quý cô cứ trả lời như vậy. Như trên đã nói, chúng ta là những người còn đang tu học, cho nên càng trả lời thì lại càng thấm nhuần ý nghĩa sâu xa của sự tu học; càng trả lời lại càng huân tập lòng thương yêu rộng lớn. Người có lòng thương yêu rộng lớn là người có hạnh phúc nhất trần gian.

NHỮNG CÂU HỎI

Bây giờ, quý tu sinh hãy trả lời những câu hỏi sau đây:

Câu hỏi 1:

Tại sao đức Phật lại có lời khuyên chúng ta “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH”?

Khi hỏi xong, giảng viên chờ tu sinh trả lời. Tu sinh trả lời xong thì giảng viên khuyến khích:

- Các tu sinh hãy cho một tràng pháo tay.

- Những ý nghĩa trả lời của tu sinh góp ý làm sáng tỏ đạo đức nhân bản - nhân quả câu “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý về câu hỏi này để chúng ta cùng nhau tu học và rèn luyện nhân cách.

Trả lời câu hỏi 1:

Đức Phật có lời khuyên chúng ta “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH”.

Vì người biết rất rõ quy luật của nhân quả, nếu ai làm những điều ác giết hại và ăn thịt chúng sinh thì phải gặt lấy những hậu quả khổ đau. Do lòng thương yêu chúng sinh nên đức Phật khuyên chúng ta: “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH”.

Không nên giết hại và ăn thịt chúng sinh là một hành động thương yêu, thương yêu tất cả sự sống trên hành tinh này, đó là đạo đức hiếu sinh mà mỗi người đều phải học tập, trau dồi và rèn luyện cho thấm nhuần đạo đức này, để cuộc sống không còn làm khổ cho nhau nữa; để biến cuộc sống thế gian này thành cuộc sống an lạc, yên vui trên cõi Thiên Đàng, Cực Lạc.

Giết hại và ăn thịt chúng sinh là một tội rất nặng, đó là cướp lấy mạng sống của sự sống.

Hành động giết hại và ăn thịt chúng sinh là một hành động làm cho cuộc sống trên thế gian này bất an, làm cho hành tinh này máu chúng sinh chảy như sông, xương chúng sinh chất như núi. Vì thế, hành tinh này lúc nào cũng biến động, biết bao nhiêu tai họa thảm khốc xảy ra: thiên tai, động đất, lũ lụt, sóng thần, bão tố, v.v... Những công trình của loài người bao nhiêu công lao, bao nhiêu năm tháng xây dựng chỉ trong một phút giây động đất, bão tố thì để lại đống gạch vụn ngổn ngang; biết bao nhiêu năm tháng để xây dựng chỉ trong vòng tíc tắc tan tành như mây khói; biết bao công trình của con người xây dựng từ xưa đến nay mà loài người hãnh diện cho đó là những kỳ quan thế giới, nhưng một trận động đất, một cơn bão tố thì đâu còn gì nữa? Bởi vậy, con người cứ giết hại và ăn thịt chúng sinh thì không thể nào tránh khỏi những hậu quả thảm khốc.

Câu hỏi 2:

Do nguyên nhân gì mà con người phải chịu sự khổ đau?

Khi hỏi xong, giảng viên chờ tu sinh trả lời. Tu sinh trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa tu sinh đã trả lời góp ý làm sáng tỏ “nguyên nhân gì mà con người phải chịu sự khổ đau” rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý trả lời câu 2, để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 2:

Do nguyên nhân vô minh, không hiểu biết, không thông suốt luật nhân quả nên con người giết hại và ăn thịt chúng sinh, ngoài ra còn tạo vô vàn ác pháp khác nữa, từ những hành động ác của mọi người mà những từ trường ác phóng xuất trong không gian, vì vậy con người phải chịu muôn vàn sự khổ đau, từ đời này sang đời khác không bao giờ dứt.

Câu hỏi 3:

Do nguyên nhân gì các pháp thường thay đổi?

Khi hỏi xong, giảng viên chờ tu sinh trả lời. Tu sinh trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa tu sinh đã trả lời góp ý làm sáng tỏ “nguyên nhân gì các pháp thường thay đổi” rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận, trả lời câu 3 và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 3:

Do nguyên nhân các pháp vận hành theo quy luật nhân quả từ thiện sang ác, từ ác sang thiện tạo thành ra thời gian và không gian trong sự thành, trụ, hoại, không. Vì thế các pháp thường thay đổi từng sát na, nên kinh sách Phật giáo gọi các pháp trong vũ trụ là pháp VÔ THƯỜNG. Các pháp không có ngã do duyên hợp tạo thành nên sinh diệt liên tục. Do các pháp sinh diệt liên tục nên con người phải chịu khổ đau từ kiếp này đến kiếp khác không bao giờ dứt.

Vô thường là chỉ cho các pháp thường thay đổi, không đứng yên một chỗ, cho nên trong đời sống của con người không có pháp nào bất di bất dịch cả. Cho nên ngày nay như thế này, ngày mai như thế khác.

Câu hỏi 4:

KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” la đạo đức gì?

Khi hỏi xong, giảng viên chờ tu sinh trả lời. Tu sinh trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa tu sinh đã trả lời góp ý làm sáng tỏ câu “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH là đạo đức gì” rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin trả lời câu 4 và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 4:

“KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” là đạo đức hiếu sinh, tức là lòng yêu thương tất cả chúng sinh, thương tất cả sự sống trên môi trường sống của hành tinh này. Vì thế chúng ta không nên giết hại và ăn thịt chúng sinh nữa, giết hại và ăn thịt chúng sinh rất tội nghiệp, chúng sinh bao giờ cũng tham sống sợ chết như chúng ta vậy.

Câu hỏi 5:

Rèn nhân cách “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” bằng cách nào?

Khi hỏi xong, giảng viên chờ tu sinh trả lời. Tu sinh trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa tu sinh đã trả lời góp ý làm sáng tỏ phương pháp rèn nhân cách “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin trả lời câu 5 và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 5:

Rèn nhân cách “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” bằng cách triển khai tri kiến lòng yêu thương chúng sinh (tâm từ, bi). Con người ai cũng có lòng thương yêu, nhưng vì lòng tham, sân, si, mạn, nghi che khuất nên họ chỉ còn biết thương cá nhân họ mà thôi, xem mình trên đời này là trên hết, cho mình là quan trọng nhất. Vì thế mọi sự khổ đau lại đổ trên đầu họ. Muốn thoát ra mọi sự khổ đau trên thế gian này thì phải thực hiện theo những phương pháp sau đây:

1- Muốn thực hiện lòng yêu thương chúng sinh thì phải ly dục ly ác pháp, lìa tất cả tâm tham, sân, si, mạn, nghi (ngũ triền cái) của mình.

2- Rèn nhân cách “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” bằng cách triển khai tri kiến nhân quả luôn luôn ngăn ác, diệt ác pháp và sống trong thiện pháp.

3- Rèn nhân cách “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” bằng cách triển khai tri kiến đạo đức nhân bản nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.

4- Rèn nhân cách “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” bằng cách triển khai tri kiến về phương pháp tác ý: “Tất cả mọi người, mọi loài vật trên hành tinh này đều có sự sống như nhau, đều sợ chết, sợ khổ đau như nhau. Vậy chúng ta hãy thương yêu tất cả mọi người, mọi loài vật trên hành tinh này như thương yêu chính chúng ta, như người mẹ thương con vậy”.

5- Rèn nhân cách “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” bằng cách triển khai tri kiến tỉnh thức trong mỗi hành động thân, miệng, ý không làm khổ mọi người và tất cả chúng sinh.

6- Rèn nhân cách “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” bằng cách triển khai tri kiến tỉnh thức bằng bốn cách đi kinh hành tỉnh giác đi, đứng, ngồi, nằm, ăn, uống, nói, nín, v.v... đều không làm những người khác và tất cả chúng sinh khổ đau.

7- Rèn nhân cách “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” bằng cách triển khai tri kiến về hơi thở ra, hơi thở vô tác ý xả tâm ly tham, sân, si, mạn, nghi.

8- Rèn nhân cách “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” bằng cách triển khai tri kiến Tứ Vô Lượng Tâm TỪ, BI, HỶ, XẢ.

Có rèn luyện được lòng yêu thương như vậy ta mới thấy lòng thương yêu là một tâm hồn cao thượng luôn luôn không làm khổ mình, khổ người.

Câu hỏi 6:

Tại sao con người giết các loài động vật mà không chút lòng thương xót?

Khi hỏi xong, giảng viên chờ tu sinh trả lời. Tu sinh trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa tu sinh đã trả lời góp ý làm sáng tỏ câu hỏi “tại sao con người giết các loài động vật mà không chút lòng thương xót” rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 6:

Con người giết các loài động vật mà không chút lòng thương xót là vì chấp ngã quá to lớn, chỉ biết có mình, còn tất cả các loài vật khác chỉ sinh ra để phục vụ cho con người.

Cho nên người xưa nói: “Vật dưỡng nhân”, đó là một tư tưởng sai lầm thiếu đạo đức hiếu sinh mà người xưa vì quen ăn thịt chúng sinh nên đã gieo sâu vào lòng người những tư tưởng tội lỗi. Vật dưỡng nhân đã thành cội rễ trong tư tưởng, nên con người giết hại và ăn thịt chúng sinh không chút lòng thương xót.

Thật đáng chê trách những tư tưởng sai lầm đánh mất tính thiện của loài người.

Con người giết các loài động vật không chút lòng thương xót vì không hiểu biết quy luật nhân quả thiện ác: Khi giết hại chúng sinh thì phải trả quả khổ đau bệnh tật, tai nạn hoặc bị giết hại lại. Chính những người giết hại và ăn thịt chúng sinh cũng không lưu ý sự khổ đau, sợ chết, tham sống, sợ hãi của chúng sinh như chính bản thân của họ vậy, nên vô tình giết hại chúng sinh mà không thương xót.

Con người giết các loài động vật mà không chút lòng thương xót vì không có lòng thương yêu sự sống của những loài động vật khác, vì không có đức hiếu sinh, thiếu lòng từ bi đối với muôn loài vật.

Trong cuộc sống hằng ngày trên thế gian này, con người có lòng yêu thương chân thật thì mới mang lại sự bình an cho trái đất, thiếu lòng thương yêu thì trái đất này sẽ nổi sóng và con người sẽ chịu mọi sự khổ đau tận cùng cho kiếp làm người.

Câu hỏi 7:

Tại sao con người và loài vật sinh ra cùng sống trong một môi trường như nhau mà lại giết nhau và ăn thịt nhau?

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ câu hỏi “tại sao con người và loài vật sinh ra cùng sống trong một môi trường như nhau mà lại giết nhau và ăn thịt nhau” rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 7:

Con người và loài vật sinh ra cùng sống trong một môi trường như nhau mà lại giết hại và ăn thịt nhau là do vô minh, do sự không hiểu biết nên mới giết hại ăn thịt lẫn nhau.

Chính sự vô minh là mầm sinh ra làm nhiều điều ác, vì thế mà phải thọ chịu nhiều sự đau khổ trong sự sống của mỗi cá nhân trên hành tinh này.

Trong vòng tròn mười hai nhân duyên, VÔ MINH là duyên thứ nhất, do VÔ MINH mới có HÀNH ĐỘNG VÔ MINH thiện hay ác, có thiện ác mới gọi là nhân quả; do HÀNH ĐỘNG VÔ MINH mới có THỨC VÔ MINH; do THỨC VÔ MINH mới có DANH SẮC VÔ MINH; do DANH SẮC VÔ MINH mới có LỤC NHẬP VÔ MINH; do LỤC NHẬP VÔ MINH mới có XÚC VÔ MINH; do XÚC VÔ MINH mới có ÁI VÔ MINH; do ÁI VÔ MINH mới có HỮU VÔ MINH; do HỮU VÔ MINH mới có THỦ VÔ MINH; do THỦ VÔ MINH mới có SANH Y VÔ MINH; do SANH Y VÔ MINH mới có ƯU BI, SẦU KHỔ, SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT. Như vậy, tất cả sự sống trên hành tinh này đều do VÔ MINH chủ động gây ra muôn vàn sự khổ đau và sinh, già, bệnh, chết của chúng sinh, của muôn vật.

Muốn chấm dứt vô minh chỉ có con đường duy nhất là con đường Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo là chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người của Phật giáo. Như vậy, quý vị tu thiền theo Phật giáo là quý vị biết phải tu cái gì không? Đó là tu GIỚI LUẬT, trong giới luật thì đức hiếu sinh là đức thứ nhất, tu đức hiếu sinh tức là tu lòng yêu thương. Khi nào quý vị thực hiện được lòng yêu thương ban rải khắp mọi nơi thì chừng đó quý vị chứng tâm vô lậu.

Chứng tâm vô lậu là chứng thiền định của Phật giáo.

Cho nên chỉ có tu tập lòng yêu thương mà quý vị chứng đạo, đâu có gì là khó khăn.

Câu hỏi 8:

Trong môi trường sống chúng ta phải đối xử như thế nào?

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ câu hỏi “trong môi trường sống chúng ta phải đối xử như thế nào” rất hay, ...

(giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 8:

Trong môi trường sống chúng ta phải đối xử với nhau bằng đức hiếu sinh, bằng tình thương yêu rộng lớn như trời, như biển, lúc nào cũng chỉ biết có yêu thương như mẹ thương con, như tình thương của ông Phú Lâu Na không lấy gì so sánh được. Ông Phú Lâu Na là một vị đại đệ tử của đức Phật, một bậc A La Hán.

Lòng yêu thương của chúng ta là một phương pháp xả tâm tuyệt vời, nếu người nào luôn luôn sống với đức hiếu sinh thì không có một ác pháp nào làm động tâm được. Bởi vậy trong giới luật Phật thì giới không nên giết hại chúng sinh là giới thứ nhất. Đó là dạy chúng ta đức hiếu sinh để chúng ta thoát khổ. Vì thế có thương yêu sự sống của muôn loài thì chúng ta mới không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Nhờ lòng thương yêu chúng ta thoát khổ, chính là chúng ta thoát khỏi tất cả tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình.

Nhờ lòng thương yêu chúng ta chứng thánh quả A La Hán vô lậu; nhờ lòng thương yêu chúng ta ngăn ác, diệt ác pháp, sinh thiện, tăng trưởng thiện pháp; nhờ lòng thương yêu chúng ta ly dục, ly ác pháp hoàn toàn; nhờ lòng thương yêu chúng ta sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh; nhờ lòng thương yêu chúng ta nhập Tứ Thánh Định; nhờ lòng thương yêu chúng ta có Tứ Thần Túc và thực hiện được Tam Minh không có khó khăn, không có mệt nhọc.

Bởi vậy đức hiếu sinh rất tuyệt vời, chúng ta chỉ cần triển khai, rèn luyện và học tập để lúc nào cũng trưởng dưỡng nó; để lúc nào nó trưởng thành, nó là chúng ta, chúng ta là nó thì thế gian này là Niết Bàn, là Cực Lạc.

Nhờ đó không còn một ác pháp nào và một người nào làm động tâm chúng ta được nữa.

Chính nó là thiền định của Phật giáo.

Bài học thứ 4: ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH: NHỮNG BÀN TAY VẤY MÁU

Muốn rèn luyện nhân cách biết thương yêu sự sống của muôn loài trên hành tinh này thì chúng ta phải sống trong ý hành như thế nào? Một hôm chúng tôi đi ngang qua một chợ nhóm dọc theo hai bên lề đường, thấy một người phụ nữ đang bắt từng con ếch cắt cổ lột da, khi chiếc dao của người phụ nữ kê vào cổ con vật thì hai chân trước của nó chắp lại giống như người chắp hai tay lạy cầu van xin tha mạng, nhưng người phụ nữ rất thản nhiên, không có chút gì động lòng thương xót trước sự van xin của con vật. Lưỡi dao sắc bén cứa ngang qua cổ con vật một cách “ngọt sớt”, hai chân trước con ếch vẫn còn chắp lại để cầu xin tha mạng, hai chân sau run rẩy tuyệt vọng trong những phút giây cuối cùng của kiếp làm con vật. Trông thấy cái chết thê thảm đau khổ của con vật thật đáng thương, nhưng biết làm sao hướng dẫn mọi người có lòng yêu thương để nhỏ những giọt nước mắt thương đau trong cảnh đầu rơi, máu đổ của những con vật yếu đuối trong gọng kiềm của bàn tay ác độc người phụ nữ.

Giờ phút ấy có ai rơi những giọt nước mắt đau thương trong cái chết thê thảm của loài chúng sinh không? Giờ phút ấy có ai nghĩ rằng con người độc ác hơn loài ác quỷ, hơn loài ác thú không? Đúng vậy, hình ảnh một con vật yếu đuối như con ếch hai chân trước chắp lại như lạy để van xin cầu tha mạng, mà người phụ nữ ấy sao lại nỡ nhẫn tâm đến thế! Đành lòng cầm dao cắt cổ, lột da cho được. Thật là vô tâm, hay tâm đã chai lì trước cảnh thịt rơi, máu đổ của loài chúng sinh? Đứng trước hình ảnh cái chết thảm thương của con ếch bé nhỏ mà con người không chút lòng thương xót thì chúng ta không biết định nghĩa con người thuộc về loài gì cho đúng nghĩa? Trông hình dáng con người đâu có nanh gút, đâu có vằn vện, đâu có vẻ hung dữ như loài ác thú, đâu có gương mặt như loài ác quỷ, dạ xoa. Thế sao mà cắt cổ con gà, lột da con ếch, đâm cổ con heo, đập đầu con bò, moi óc con khỉ, v.v... Như vậy con người có hung ác không? Xin quý học viên suy ngẫm.

Hình dáng con người trông hiền lành, mặt mày xinh đẹp, đâu có nanh vuốt như hùm beo, đâu có vằn vện như cọp sói, thế sao mà hung dữ và ác độc hơn hùm beo lang sói.

Duyên hợp tạo ra con người hình dáng hiền lành không hung ác, nhưng vì lòng ích kỷ, nhỏ mọn hẹp hòi, chỉ biết sự sống của riêng mình, còn tất cả sự sống của người khác, loài vật khác chỉ xem như cỏ rác, như không có.

Cho nên mới biến con người trở thành hung ác.

Hằng ngày báo chí đăng tin tức cướp của, giết người, giựt túi xách ngoài đường. Đạo đức xã hội đang xuống cấp, có một số người chỉ còn biết của cải vật chất tiền bạc, ăn uống và sự sống của riêng mình; còn sự sống của người khác, loài vật khác thì không quan trọng, chết sống mặc tình. Con người đối xử với con người còn như vậy, huống là đối xử với tất cả các loài vật khác thì còn có nghĩa lý gì. Phải không quý học viên? Đầu con ếch lìa khỏi thân, bàn tay ác độc của con người lần lượt lột da. Trong vòng một phút, con ếch chỉ còn là một miếng thịt đỏ tươi với bốn chân trơ xương, còn run run một hồi rồi im lặng.

Con ếch này chết một cách thảm thương, rồi đến con ếch khác cũng chết như vậy.

Những diễn biến tấn tuồng độc ác cứ lập đi, lập lại mãi như thế. Một đống thịt ếch nằm ngổn ngang trong chiếc thau. Ôi! Thật đáng sợ sự độc ác của con người và đau thương, xót xa cho kiếp làm chúng sinh.

Hành động cắt cổ, lột da con ếch là nhân ác thì kết quả con người phải chịu lấy những cái chết thương đau như cảnh chiến tranh bom đạn, xác người chết nằm ngổn ngang không thua gì thau thịt ếch, rồi cảnh thiên tai hỏa hoạn, lũ lụt, sóng thần, bão tố, động đất, v.v... Nhất là hiện giờ đủ các loại bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ngặt nghèo, mà thời đại hôm nay gọi là bệnh thế kỷ. Ai có dịp bước chân vào các bệnh viện thì sẽ chứng kiến những bệnh nhân thật là hãi hùng, kinh sợ và khiếp đảm.

Suy nghĩ cho cùng, nên người xưa nói: “Ác lai ác báo”, con người làm ác thì con người phải chịu lấy những quả khổ đau. Những người sống theo bờ biển chuyên chài lưới bắt cá câu tôm thì sóng thần, bão tố lôi xuống đáy biển làm mồi cho cá tôm ăn thịt, chết một cách thê thảm. Nhà cửa, của cải bão tố quét sạch, sụp đổ tan hoang, nằm ngổn ngang một đống gạch vụn như một bãi rác bẩn. Còn những người sống trong rừng sâu, núi thẳm, chuyên săn bắn, chặt cây đốt rừng thì lũ lụt, gió to, núi sạt lở lôi nhà cửa sụp đổ ngổn ngang, người chết hãi hùng sắp lớp.

Những hình ảnh đau thương trên đây là những hình ảnh để chúng ta tư duy suy ngẫm và kết luận: Trên cuộc đời này chỉ có “ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH”, tức là tình yêu thương sự sống của muôn loài là duy nhất đem lại sự bình an cho hành tinh này.

Đây là đức hiếu sinh ý hành mà mọi người cần phải tư duy quán xét, mỗi khi mắt thấy tai nghe những hình ảnh thương tâm, những việc làm ác để suy ngẫm, để khởi tâm yêu thương.

Chính nhờ có suy tư về những hình ảnh của chúng sinh trước khi chết sợ hãi run rẩy, giẫy giụa, kêu la, rên rỉ, chảy nước mắt đầm đìa rất là thảm thương. Nhờ có tư duy quán xét về những hình ảnh này mà chúng ta rất đau lòng và thương xót cho kiếp làm thân chúng sinh; nhờ có tư duy quán xét những hình ảnh này mà chúng ta quyết tâm từ bỏ không bao giờ giết hại và ăn thịt chúng sinh nữa; nhờ có tư duy quán xét về những hình ảnh đau thương này mà lòng thương yêu của chúng ta trỗi dậy vô bờ bến đối với sự sống của tất cả chúng sinh, ngự trị trong lòng chúng ta mãi mãi; nhờ có tư duy quán xét về những hình ảnh đau thương này mà lời dạy của đức Phật “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH” rất thấm thía về cuộc sống hiện tại của loài người.

Với những hành động độc ác của con người đã đánh mất tình thương yêu, khiến cho họ trở thành những con thú ác độc không còn nhân tính hiền lành, nên nỡ nhẫn tâm đập đầu, cắt cổ, nhổ lông, v.v... Nhìn thấy cảnh này khiến cho chúng ta khởi lên lòng yêu thương và quyết tâm từ bỏ những hành động ác làm khổ đau chúng sinh, và thương yêu những người làm ác đang giết hại chúng sinh, chỉ vì họ vô minh.

NHỮNG CÂU HỎI

Bây giờ, xin quý học viên hãy trả lời những câu hỏi sau đây:

Câu hỏi 1:

Hình ảnh con ếch bị cắt cổ, lột da là do nguyên nhân nhân quả gì? Câu hỏi này quý phật tử hiểu sao cứ trả lời như vậy, để chúng ta cùng tu, cùng học cho thấm nhuần những nghĩa lý và thông suốt quy luật nhân quả nghiệp báo. Cũng tư chỗ thông hiểu chúng ta mới khởi lòng yêu thương mình, yêu thương tất cả chúng sinh một cách chân thật.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ câu hỏi hình ảnh con ếch bị cắt cổ, lột da là do nguyên nhân nhân quả gì rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 1:

Hình ảnh con ếch bị cắt cổ lột da là do nhân quả đời trước làm người cũng cắt cổ, lột da những con ếch như vậy, nên đời này phải làm con ếch cho người khác cũng cắt cổ, lột da lại. Đó là nhân quả trả vay, vay trả mà không có một người nào tránh khỏi, vì luật nhân quả rất công bằng. Những hình ảnh trả vay có ba cách:

1- Trả vay bằng từ trường nhân quả nghiệp hiện tại tương ưng, một hành động ác phải trả quả bị giết hại 10 lần, 100 lần.

2- Trả vay bằng từ trường cận tử nghiệp quá khứ tương ưng. một hành động ác phải trả quả bị giết hại 10 lần, 100 lần.

3- Trả vay bằng từ trường nhân quả hiện tại thân chịu, hay con cái chịu bệnh tật tai nạn xảy ra thọ lấy quả khổ vô lượng.

Trên đây là những quy luật nhân quả, nếu ai làm ác sẽ bị quy luật này chi phối, vì vậy phải chịu biết bao sự khổ đau. Con ếch đang bị cắt cổ chính là từ trường của nghiệp ác của người phụ nữ giết con ếch, như vậy người phụ nữ đang cắt cổ mình, đang giết mình mà không biết. Thật là vô minh.

Câu hỏi 2:

Hình ảnh con ếch chết một cách thảm thương có đáng cho chúng ta thương xót không? Tiếp tục quý học viên trả lời câu hỏi thứ hai.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Tình thương của các học viên trước hình ảnh con ếch chết một cách thảm thương rất đáng trân trọng, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những tình cảm ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 2:

Nhìn hình ảnh con ếch bị cắt đầu lột da.

Nhất là chắp hai chân trước lại giống như người chắp tay lạy để cầu xin tha mạng. Nhớ đến hình ảnh ấy thì hai giọt nước mắt chúng tôi không thể cầm giữ được, lăn dài trên má.

Nghiệp báo đời trước của con ếch như thế nào không cần biết, nhưng cái chết của con ếch hiện giờ là một hình ảnh thảm thương, nhìn thấy con ếch chỉ còn là miếng thịt đỏ tươi, lòng chúng tôi vô cùng xúc động và thương xót vô cùng. Thương cho con ếch chết một cách thảm thương tội nghiệp, và thương cho người cầm dao giết con ếch rồi đây giết một mà trả nợ máu này phải gấp 10 lần, 100 lần, 1000 lần. Một nhân đâu có một quả, do đó một hành động ác đâu có một quả khổ, mà phải chịu nhiều quả khổ. Ôi! Thật là ghê gớm, biết nói với ai bây giờ! Có ai chịu hiểu để mình nói đâu.

Câu hỏi 3:

Hình ảnh người phụ nữ cầm dao cắt cổ con ếch có phải là một hành động ác không? Tiếp tục quý học viên trả lời câu 3.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Đánh giá của các học viên về hình ảnh người phụ nữ cầm dao cắt cổ con ếch rất có ý nghĩa, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 3:

Hình ảnh người phụ nữ cầm dao cắt cổ con ếch là một hành động ác mà không ai có thể phủ nhận được.

Là con người không có người nào không có tình cảm, lòng thương yêu, bằng chứng lòng yêu thương đó thị hiện qua tình thương cha mẹ, tình thương chồng vợ, tình thương con cái, tình thương bản thân mình, v.v... Nhưng tình thương ấy không được triển khai để nó được rộng lớn như trời, như biển, phủ trùm vạn vật. Trái lại, nó không triển khai mà chỉ còn gói gọn nhỏ hẹp, ích kỷ cho cá nhân mình nên mới cầm dao cắt cổ, lột da con ếch, đâm cổ con heo, đập đầu con cá, con bò, cắt cổ con gà, con vịt, bẻ chân con ếch, con còng, v.v...

Câu hỏi 4:

Trước cảnh nhân quả của con người va con ếch, quý học viên có răn nhắc cảnh giác về mình những điều gì không? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 4, cứ nghĩ sao quý vị cứ trả lời như vậy. Đó là góp thêm phần ý nghĩa lòng yêu thương của con người càng mang tính chất đạo đức cao thượng hơn.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những răn nhắc cảnh giác về mình của các học viên trước cảnh nhân quả của con người và con ếch rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 4:

Trước cảnh nhân quả người và con ếch, quý học viên cần nên răn nhắc cảnh giác về mình:

1- Không nên giết hại chúng sinh 2- Phải thương yêu tất cả chúng sinh.

3- Lìa xa những hành động ác, không nên làm đau khổ chúng sinh.

4- Phải học lòng thương yêu chúng sinh như ông Phú Lâu Na.

5- Phải ngăn ác, diệt ác pháp trong tâm và thường sống với nội tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

6- Nguyện một đời sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.

Câu hỏi 5:

Nhìn thấy con ếch chắp hai chân trước lạy cầu xin tha mạng, quý học viên nghĩ sao? Trong lòng có thương xót không? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 5, nghĩ sao quý học viên cứ trả lời như vậy. Đó la góp thêm phần ý nghĩa lòng yêu thương của con người càng mang tính chất đạo đức cao thượng hơn.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Cảm nghĩ của các học viên trước hình ảnh con ếch chắp hai chân trước lạy cầu xin tha mạng rất đáng trân trọng, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 5:

Thấy con ếch chắp hai chân trước lạy cầu xin tha mạng, chúng tôi không thể cầm được nước mắt, lòng rất xúc động và xót thương cho con ếch, không biết nó mang nghiệp ác gì mà bây giờ phải chịu chết một cách thê thảm. Nhìn hình ảnh này mà ai không thương, phải không quý tu sinh? Chỉ có những người lòng yêu thương chai lì, trơ trơ như đá mới không xót thương trước cảnh con ếch chắp tay cầu xin tha mạng sống. Tuy nó không nói thành lời, nhưng qua hành động van xin đó chúng ta cũng nhận ra nó đang tha thiết muốn sống. Chúng ta muốn sống bao nhiêu thì con ếch cũng muốn sống bấy nhiêu, nhưng làm sao được thay đổi nhân quả, khi mà người phụ nữ đã không thấy nhân quả của chính mình, nên tự cắt cổ mình mà không chuyển đổi. Đó là một sự vô minh không riêng gì người phụ nữ này, mà tất cả mọi người. Thật đáng thương vô cùng.

Câu hỏi 6:

Hình ảnh con ếch chết một cách thảm thương có đáng nhắc nhở chúng ta đừng làm điều ác hay không? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 6, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ câu hỏi “hình ảnh con ếch chết một cách thảm thương có đáng nhắc nhở chúng ta đừng làm điều ác hay không” rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 6:

Hình ảnh con ếch chết một cách thảm thương luôn luôn nhắc nhở chúng ta đừng nên làm điều ác. Chính con ếch ngày xưa là một con người như chúng ta, bấy giờ cũng đã từng cắt cổ, lột da biết bao nhiêu con ếch, nên ngày nay phải chịu trả quả báo như vậy.

Càng thấy hình ảnh này, chúng ta càng nhắc nhở và răn mình không nên làm những điều ác, luôn luôn làm những điều lành. Sống thường đem hạnh phúc, an vui cho mọi loài.

Câu hỏi 7:

Người phụ nữ cầm dao cắt cổ con ếch chết một cách thảm thiết có đáng cho chúng ta thương hay không? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 7, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ câu hỏi “người phụ nữ cầm dao cắt cổ con ếch chết một cách thảm thiết có đáng cho chúng ta thương hay không” rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 7:

Người phụ nữ cầm dao cắt cổ con ếch chết một cách thảm thiết là một người phụ nữ hung ác. Người phụ nữ có những hành động độc ác như vậy không đáng cho chúng ta thương. Bàn tay của họ dính đầy máu của loài vật mà lòng họ không chút xót thương. Tâm địa con người như vậy thật là tâm địa của ác quỷ. Tâm địa ác độc của con người như vậy có đáng cho chúng ta thương không? Tâm hồn chứa đựng đầy những sự giết hại chúng sinh sẽ đánh mất giá trị hình dáng xinh đẹp bên ngoài của người phụ nữ. Cái đẹp của lòng thương yêu con người mà muôn đời người ta vẫn nhớ mãi không quên; cái đẹp của lòng thương yêu con người sẽ ban cho mọi loài mà không cầu mong ai cho lại mình, là cái đẹp tuyệt vời.

Nói đi nhưng chúng ta còn xét lại: người phụ nữ cầm dao cắt cổ con ếch chết một cách thảm thiết là người phụ nữ vô minh, họ không hiểu biết luật nhân quả; họ là người mù, có mắt mà chỉ thấy có một màu đen tối; họ là người điếc không bao giờ sợ súng. Thật đáng thương! Thật đáng thương! Rồi đây họ sẽ phải trả quả, suốt nhiều đời phải thọ lấy những tai nạn khổ ách.

Người phụ nữ cầm dao cắt cổ con ếch chết một cách thảm thiết là người phụ nữ đáng thương chứ không đáng ghét: Họ là người vô phước không gặp chánh pháp của Phật, sống trong đêm tối ác pháp mà không biết; họ là người vô phước quá lớn nên không được học tập và rèn luyện nhân cách làm người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh; họ là người phước mỏng duyên bạc, không được tôi luyện trong Tứ Vô Lượng Tâm. Thật đáng thương xót vô cùng!

Câu hỏi 8:

Hình ảnh người phụ nữ cầm dao cắt cổ con ếch một cách độc ác có đáng cho chúng ta tránh xa hành động ác đó không? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 8, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ câu hỏi “hình ảnh người phụ nữ cầm dao cắt cổ con ếch một cách độc ác có đáng cho chúng ta tránh xa hành động ác đó không” rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 8:

Như trên đã nói, người phụ nữ cầm dao cắt cổ con ếch một cách độc ác là người phụ nữ đáng thương, vì họ không hiểu biết đạo đức nhân bản - nhân quả. Cho nên chúng ta không nên tránh xa họ, mà hãy tìm mọi cách thân cận để giúp đỡ và khiến cho họ thông hiểu được đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.

Nhờ đó, chúng ta mới có cơ duyên gần gũi, giúp đỡ người phụ nữ này để họ hiểu biết nhân quả, sống trong thiện pháp, chuyển đổi nghiệp ác thành nghiệp thiện, nhờ đó người phụ nữ này sẽ sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả những loài chúng sinh.

Câu hỏi 9:

Hình ảnh con ếch chết một cách thảm thương là do nhân quả gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 9, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ câu hỏi hình ảnh con ếch chết một cách thảm thương là do nhân quả gì rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 9:

Hình ảnh con ếch chết một cách thảm thương là do nhân quả đời trước không có lòng thương yêu sự sống của muôn loài, thường giết hại và ăn thịt chúng sinh, xem thân mạng chúng sinh như đồ ăn, thức uống, như cỏ rác, như đồ bỏ, v.v...

Trong hiện kiếp còn sống, nhưng những từ trường ác đó tương ưng tái sinh thọ lấy quả khổ vô cùng, không phải một con ếch mà nhiều con ếch, không phải một người mà nhiều người.

Câu hỏi 10:

Người phụ nữ cầm dao cắt cổ con ếch chết một cách thảm thương là nhân quả gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 10, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ câu hỏi người phụ nữ cầm dao cắt cổ con ếch chết một cách thảm thương là nhân quả gì rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 10:

Người phụ nữ cầm dao cắt cổ con ếch chết một cách thảm thương là nhân quả vay trả, trả vay, trước kia người phụ nữ này là con ếch bị người giết hại, bây giờ làm người giết hại lại con ếch. Cho nên khi giết con ếch chết mà chẳng có chút lòng thương xót. Đó là do năm cái màn ngăn che (Ngũ Triền Cái) “THAM, SÂN, SI, MẠN, NGHI” khiến cho con người không thấy, không biết nhân quả nghiệp báo. Vì thế, giết chúng sinh mà vẫn thích thú trong những dục lạc ác nghiệp tạo ra vô vàn sự đau khổ. Tất cả nghiệp lực nhân quả trả vay khổ vui đều theo từ trường nhân quả tương ưng mà trả quả báo.

Câu hỏi 11:

Do đâu mà có nhân quả như vậy? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 11, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ câu hỏi “do đâu mà có nhân quả như vậy” rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 11:

Do vô minh mà có nhân quả này, muốn diệt trừ vô minh thì chỉ có con đường BÁT THÁNH ĐẠO. Con đường Bát Thánh Đạo là chương trình giáo dục đào tạo những con người có đạo đức nhân bản - nhân quả. Người nào sống có đạo đức nhân bản - nhân quả là phá vỡ vô minh. Ngoài con đường Bát Thánh Đạo thì không có con đường nào khác phá trừ vô minh.

Muốn tu học theo Phật giáo là muốn sống đạo đức làm người để không làm khổ mình, khổ người khác và khổ cả hai. Mục đích của Phật giáo là đem lại cho con người một nền đạo đức để sống an vui và hạnh phúc mới gọi là đạo giải thoát; mới gọi là đạo từ bi, vì lấy lòng thương yêu mà đối xử với nhau.

Câu hỏi 12:

Người cầm dao giết con ếch đáng thương chỗ nào, đáng trách chỗ nào?

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ câu hỏi “người cầm dao giết con ếch đáng thương chỗ nào, đáng trách chỗ nào” rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu 12:

Người cầm dao giết con ếch rất đáng thương, vì họ là người vô minh không hiểu rõ luật nhân quả. Họ đâu biết rằng một hành động ác giết con ếch là không thể nào tránh khỏi những sự đau khổ trong hiện kiếp:

1- Bệnh tật.

2- Tai nạn.

3- Bị người khác cầm dao đâm chém.

Từ trường hành động ác giết con ếch tương ưng tái sinh thành con ếch để người khác giết lại. Cho nên họ là người đáng thương hơn là đáng trách.

Người cầm dao giết con ếch rất đáng thương, vì không được học đạo đức nhân bản hiếu sinh nên họ nhẫn tâm giết hại con ếch đang chắp tay van lạy cầu xin tha mạng.

Thật là tội nghiệp cho họ làm một điều ác mà không biết mình làm ác, cho nên chẳng chút lòng thương xót.

Câu hỏi 13:

Người giết con ếch vì sự sống hay vì nhân quả trả vay?

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ câu hỏi “người cầm dao giết con ếch vì sự sống hay vì nhân quả trả vay” rất hay, ... (giảng viên xưng pháp danh) xin ghi nhận những ý kiến ấy và góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu 13:

Vì sự sống giết con ếch là không đúng, có nhiều người sống với thực phẩm thực vật như những nhà tu, những người có đức hạnh hiếu sinh, do lòng yêu thương sự sống của muôn loài động vật họ không nỡ nhai nuốt thịt chúng sinh mà họ vẫn sống.

Theo luật nhân quả thấy nhân hiện tại liền biết về quả quá khứ; thấy nhân hiện tại liền biết về quả tương lai. Ví dụ: Người cầm dao giết con ếch thì chúng ta liền biết về quả quá khứ họ là con ếch cũng bị giết hại, còn hiện tại người cầm dao giết con ếch thì chúng ta biết về quả tương lai họ sẽ tái sinh làm con ếch. Đó là luật nhân quả trả vay, vay trả rất công bằng, không một ai làm việc ác mà tránh khỏi quả khổ.

Nhân quả có ba thời gian: hiện tại, quá khứ và vị lai. Lấy thời gian hiện tại mà xét ba thời gian kia.

Thấy quả hiện tại thì biết nhân ở quá khứ, hiện tại và vị lai.

Ví dụ 1: Thấy quả hiện tại của một người đang giàu sang thì biết nhân quá khứ là người này thường hay bố thí.

Ví dụ 2: Thấy quả hiện tại một người đang nghèo đói thì biết nhân quá khứ là người này bỏn xẻn ích kỷ, không bố thí.

Ví dụ 3: Thấy nhân hiện tại của một người đang bố thí thì biết quả vị lai là người này sẽ giàu sang.

Ví dụ 4: Thấy nhân hiện tại một người đang sống ích kỷ, bỏn xẻn không dám bố thí thì biết quả vị lai là người này sẽ nghèo đói.

Ví dụ 5: Thấy quả hiện tại một người đang nghèo đói thì biết nhân hiện tại là người này bỏn xẻn ích kỷ.

Cho nên nhân quả không thể che đậy, dối trá người khác được. Thấy nhân biết quả, thấy quả biết nhân.

Luật nhân quả không vị tình một ai cả, luôn luôn phân xử công minh, nó thuộc về tòa án lương tâm nên không có một hành động ác nào mà che dấu được.


1 Ý hành: sự tư duy, suy nghĩ, sự hoạt động của ý, sự làm việc của ý, sự quán xét trong tâm.

Bài học thứ 5: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: NGƯỜI VỢ TRẺ GIẬN CHỒNG, ĐỐT NHÀ, GIẾT CON

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường chứng kiến những sự xung đột, ẩu đả, chửi mắng, đánh nhau, v.v... Do những tâm giận dữ, không kiềm chế được đã biến thành thù hận, nên thường xảy ra những sự xung đột, ẩu đả. Những sự xung đột, ẩu đả ấy có thể đi đến chỗ giết người không chút lòng thương xót. Vì thế, hàng ngày báo chí thường đăng tin tức xảy ra những vụ án giết người vì cơn giận dữ, thù hận.

Khi gặp những trường hợp này xảy ra với những người khác thì quý phật tử hãy tư duy, suy nghĩ cho thật kỹ và còn tác ý để nhắc nhở tâm mình: Nếu gặp người nào muốn đánh mình, chửi mình hay nói xấu mình thì quý phật tử hãy tập im lặng như Thánh, và cố gắng tránh trước những sự xung đột, đừng để xảy ra là tốt nhất. Nhịn người không phải là quý phật tử hèn nhát, đó là một sự chiến thắng với nội tâm của mình rất lớn. Trong kinh Pháp Cú thời xa xưa đức Phật dạy:

Thắng trăm trận không bằng thắng mình”.

Đúng vậy, thắng mình khó lắm. Khi nghe người ta nói xấu, vu khống, vu oan giáng họa cho mình điều này, thế kia. Thường người thế gian ăn miếng trả miếng, cho nên họ minh oan, bào chữa và nói xấu kẻ khác lại. Ở đây quý phật tử là đệ tử của Phật giáo nên không bào chữa, không minh oan, vẫn thản nhiên, im lặng như Thánh, mọi người hiểu sao cũng được, nhưng thời gian ai đúng, ai sai sẽ trả lời họ. Quý phật tử cứ ung dung tự tại sống thanh thản, an lạc và vô sự cho thân tâm mình. Đó là chiến thắng mình. Khi người ta gây gổ cố ý muốn đánh mình thì mình lo chạy trước, không chống cự lại. Đó là chiến thắng mình. Còn quý phật tử tức giận đánh lại họ thì đó là một việc thường tình của người thế gian, ai làm chẳng được, ăn miếng trả miếng như trên đã nói rất dễ dàng.

Cho nên khi họ đánh mình, mình không đánh lại mà chỉ lo chạy đi, đó là người khôn ngoan nhất, người sống có đạo đức thương mình, thương người. Ngay khi thấy người ta nói xấu mình, chửi mình, muốn đánh mình là mình biết ngay những người này là những người có mắt như mù, có sự hiểu biết nhưng vô minh, nông cạn, sự hiểu biết ấy là sự hiểu biết chấp ngã. Họ là những người không có trí tuệ nhân quả. Những người như vậy là những người đáng thương, chúng ta không nên ghét họ.

Bởi chúng ta là những người đang sống và rèn luyện nhân cách đạo đức theo Phật giáo, nên chúng ta biết rất rõ: Một người đang giận dữ là một người mất trí khôn, một người như điên khùng, không còn khôn ngoan, họ tự làm khổ mình, khổ người mà không biết.

Lúc bấy giờ họ chỉ còn biết chửi mắng, đánh đập hoặc giết người cho hả cơn tức giận mà thôi. Chứ họ là người đang sống trong đau khổ, trong địa ngục. Nếu hiểu được như vậy, chúng ta hãy thương yêu và tha thứ cho họ những lỗi lầm.

Bởi họ không còn sáng suốt, mất bình tĩnh, nên tự họ đã biến họ mất nhân tính để trở thành một con ác thú hung dữ; tự họ đã biến họ trở thành con người ngu si, khờ dại.

Khi gặp một người đang giận dữ như vậy, chúng ta nên tư duy suy nghĩ: “Người đang tức giận là người đang thọ quả khổ, ta nên thương xót họ chứ không nên ghét họ. Họ la những người đang ở trong hỏa ngục”. Lửa sân hận đã thiêu đốt họ, họ là những người khổ đau tận cùng.

Tội nghiệp họ lắm! Nếu chúng ta tự đặt mình trong họ và tư duy suy nghĩ được như vậy thì lòng yêu thương sẽ rộng lớn bao la vô cùng, tâm chúng ta sẽ an vui và sung sướng một cách kỳ lạ. Điều này nếu quý vị không tin chúng tôi nói thì quý vị hãy cố gắng thực hiện, và ban cho họ lòng yêu thương ấy thì quý vị sẽ nhận rõ những điều chúng tôi nói là sự thật.

Khi tức giận, một người không học đạo đức nhân bản - nhân quả thì họ phải chửi mắng hoặc đánh người, hoặc nói xấu người, mạ lị mạt sát người, có khi họ còn cầm dao giết người khác một cách dễ dàng mà không sợ sệt gì cả.

Một câu chuyện thương tâm xảy ra ở tỉnh Lâm Đồng Đà Lạt:

“GIẬN CHỒNG, NGƯỜI VỢ TRẺ ĐANG TÂM ĐỐT NHÀ LÀM CON TRAI CHẾT CHÁY”

“Vào lúc 23 giờ ngày 09/10/2006, bà Hồ (64 tuổi, trú tổ 15 khu phố 2 phường 7, thành phố Đà Lạt) vừa chìm vào giấc ngủ, chợt nghe tiếng khóc thét của cháu nội Phan Anh Nhựt (12 tháng 9 ngày tuổi) ở với bố mẹ nhà bên cạnh. Vội vàng mở cửa bước ra, bà điếng hồn khi thấy nhà con trai mình bốc cháy.

Chồng bà, con cháu và hàng xóm cũng vừa kéo đến chứng kiến cảnh tượng hãi hùng:

cháu Nhựt lồm cồm bò, khóc ngất dưới nền gạch với những vết bỏng nặng nơi mặt và thân thể. Ông nội của Nhựt vội bồng cháu ra để mọi người đưa đi cấp cứu. Công, cha Nhựt đi vắng, còn Nguyễn Thị Kim Thùy, vợ Công ngất xỉu nơi góc nhà cũng được chuyển đến bệnh viện. Căn nhà gỗ mái giấy bốc cháy, thiêu rụi tất cả bên trong... 5 giờ ngày 10/10/2006 cháu Nhựt chết vì vết thương quá nặng, Thùy bỏ trốn khỏi bệnh viện lúc nào không ai biết. Chỉ đến khi anh Công nghe tin dữ trở về với nỗi đau tột cùng, mọi người mới biết nguyên nhân vụ cháy mà Thùy chính là thủ phạm, cô chỉ bỏng nhẹ ở tay và ngạt khói. Vì mâu thuẫn với chồng, Thùy đang tâm đốt nhà làm chết con ruột mình.

Thùy quê ở Quảng Ngãi. Gần đây giữa vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn hàng xóm và gia đình bà Hồ thỉnh thoảng lại chứng kiến cảnh hai người gây gổ cãi vã. Mỗi lần như vậy, Thùy đóng cửa lại không cho Công vào, Công bỏ đến chỗ làm rồi ở luôn chỗ đó.

Hôm ấy vợ chồng cãi nhau, Thùy bỏ mặc con nằm khóc, sang nhà mẹ chồng chửi Công một trận rồi về viết đơn ly dị. Công không ký bỏ đi, Thùy ở nhà với con và chuyện xảy ra như đã kể trên”.

Đây là một bài học cảnh báo cho những ai xem nhẹ đạo đức hạnh phúc gia đình. Hậu quả để lại quá lớn đối với những người thân của cháu Nhựt.

Một cơn sân dữ dội, người mẹ đành lòng giết con. Đứa bé có tội tình gì mà phải thọ lãnh một cái chết thương tâm “MẸ GIẾT CON”. Người xưa nói: “Hùm dữ còn không nỡ ăn thịt con”. Sao con người lại đành lòng giết con mình như vậy sao? Nhân quả sao mà quá khắc nghiệt. Trước cảnh này ai mà không đau lòng. Nhất là nỗi đau của những người thân trong gia đình này.

Lương tâm của người mẹ trẻ này sẽ không bao giờ tha thứ và để yên, suốt đời sẽ ân hận cho đến ngày xuống đáy mồ.

Câu chuyện trên đây là một sự thật xảy ra tại tỉnh Lâm Đồng, Đà Lạt, do báo Thanh Niên đăng tin.

NHỮNG CÂU HỎI

Bây giờ, xin quý học viên hãy trả lời những câu hỏi sau đây:

Câu hỏi 1:

Vợ chồng Công gây gổ do nhân quả gì? Thiếu đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi thứ 1, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa nhân quả của vợ chồng Công rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý thêm để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 1:

Vợ chồng Công gây gổ là do một chùm nhân quả đời trước đã do tâm sân hung dữ, mà đời nay phải trả những quả quá khắc nghiệt khổ đau. Nhất là cháu Nhựt, trả nhân quả yểu tử trong cái chết đau đớn vô cùng.

Cho nên kinh dạy: “Nhất niệm tâm sân khởi, bách vạn chướng môn khai”, có nghĩa là một tâm giận dữ thì muôn sự đau khổ xảy đến.

Câu chuyện trên đây là để cảnh giác cho những ai có gia đình phải biết nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi sự việc khi xảy ra; phải biết thương yêu và tha thứ mọi lỗi lầm của nhau; phải biết diệt trừ tâm tham, sân, si. Vì tâm tham, sân, si là một khởi điểm cho muôn vàn ác pháp và mọi sự khổ đau. Khi nó khởi lên không có một việc ác nào mà nó không làm. Cho nên làm người chúng ta rất sợ tâm tham, sân, si, vì tâm tham, sân, si sẽ giết chết mình, chết người và làm khổ đau mình và khổ đau nhiều người.

Con cái là máu mủ của cha mẹ, vậy mà khi giận dữ người mẹ vẫn còn giết con được như thường.

Xét trong trường hợp này, chúng ta thấy quy luật nhân quả quá khiếp đảm, gia đình tan nát, con chết và bản thân còn bị tù tội, hậu quả để lại không lường được, những hậu quả còn kéo dài từ đời này sang đời khác, từ trường này đến từ trường khác, chứ không phải đến đây chấm dứt, nó còn tiếp tục diễn biết bao những điều đau khổ khác nữa, trong biết bao nhiêu đời không thể tính đếm được.

Ví dụ: Trong hiện tại Công quá buồn khổ nên sinh ra rượu chè, bê tha, bệnh tật, tai nạn có thể xảy đến trong hiện kiếp này và tương lai còn tiếp diễn nữa...

Người còn tâm giận dữ là người không có lòng yêu thương rộng lớn, hay nói cách khác là người đã đánh mất tình yêu thương. Câu chuyện trên đây là nói về người mẹ vì giận dữ hại gia đình, giết con ruột của mình; vì giận dữ tạo cho mình cảnh tù tội lao lý; vì giận dữ không sáng suốt nên không nghĩ đến hậu quả kinh khủng để lại trong lòng mọi người thân một sự đau buồn không bao giờ quên.

Chúng ta đã thấy tâm giận dữ là một tai hại quá lớn. Vậy từ đây có ai làm cho chúng ta giận dữ thì chúng ta nên khởi lòng tha thứ và yêu thương họ. Chỉ có lòng tha thứ và yêu thương thì mới diệt trừ tâm giận dữ.

Tâm giận dữ sẽ biến chúng ta trở thành ác quỷ, ác thú, vì tâm giận dữ lồng lộng lên ghê gớm không khác con ác thú, tâm giận dữ chỉ có nhìn thấy máu đổ, người chết thì mới hả cơn tức giận.

Quý học viên hãy nhớ luôn luôn giữ gìn tâm tha thứ và yêu thương thì tâm giận dữ sẽ bị diệt trừ. Tâm giận dữ chỉ có liều thuốc thương yêu thì mới dứt bệnh.

Câu hỏi 2:

Cháu Nhựt chết là do nhân quả gì? Thiếu đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 2, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa nhân quả của cháu Nhựt chết rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 2:

Cháu Nhựt chết bỏng nặng là do nhân quả đốt rừng, nướng cá, chiên nấu thực phẩm động vật, gieo quả yểu tử nên đời nay mới 12 tháng 9 ngày tuổi mà phải chết bỏng một cách thảm thương.

Cháu Nhựt chết bỏng nặng là do nhân quá khứ thiếu đức hiếu sinh, thường hay giết hại chúng sinh bằng cách thiêu đốt.

Câu hỏi 3:

Thùy vợ Công la người phụ nữ đáng thương hay đáng ghét. Câu này dạy đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 3, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa nhân quả của Thùy là người phụ nữ đáng thương rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 3:

Thùy là người phụ nữ đáng thương, vì không học đạo đức nhân bản - nhân quả nên làm theo bản tính sân hận vô minh, ngu ngốc, đến nỗi đốt nhà, giết con, làm khổ mình, khổ mọi người mà không biết, chỉ làm theo quán tính hung dữ đã huân tập nhiều đời, trở thành bản tính hung ác của loài thú dữ. Thật đáng thương.

Thùy là người phụ nữ thiếu đức hiếu sinh nên mới giận dữ không còn thương ai, cả ngay chính bản thân cũng làm cho nó khổ đau. Người thiếu đức hiếu sinh rất là tai hại, đem đến quả khổ cho mình, cho người. Vậy làm người chúng ta hãy nuôi dưỡng lòng yêu thương, nhờ lòng yêu thương chúng ta thoát ra biết bao nhiêu khổ ách, tai nạn, bệnh tật khổ đau.

Câu hỏi 4:

Công la người chồng đáng thương hay đáng ghét. Công thiếu đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 4, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa nhân quả của vợ chồng Công rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 4:

Công là người chồng đáng thương, vì không biết cách đối nhân xử thế; vì không học đạo đức gia đình; vì không học đạo đức nhân bản - nhân quả nên không biết cách sống không làm khổ mình, khổ người. Vì thế khi vợ chồng gây gổ cãi nhau thì bỏ đi chứ không biết cách giải quyết, do đó mới xảy ra cửa mất nhà tan, con chết, vợ ở tù, còn bản thân của mình sống thì như đã chết, nỗi buồn đau đớn dằn vặt này sẽ kéo dài, cho đến khi xuôi tay xuống lòng đất lạnh chưa hẳn nỗi đau buồn này đã tan.

Éo le thay! Nhân quả phải trả vay nên gặp cô vợ chỉ biết tức giận và thực hiện những hành động dại khờ để thỏa cơn tức giận nên đi đến chỗ giết con, làm tan nát gia đình của mình và bản thân còn bị tù tội.

Công là người chồng thiếu đức hiếu sinh nên mới không chuyển đổi nhân quả, nên mới con chết, vợ ở tù, cửa nhà tan nát, thật đáng thương!

Câu hỏi 5:

Do nhân duyên gì mà những người này gặp nhau để chịu nhiều khổ đau? Họ sống thiếu đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 5, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa chùm nhân quả của những người trong gia đình Công để trả vay nhân quả tiền kiếp rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 5:

Nhân quả là một quy luật chung của vũ trụ luôn luôn xét xử rất công minh. Cho nên những ai làm những điều ác sẽ tương ưng với những điều ác, tương ưng với những điều ác thì sẽ gặp nhau trong một không gian, cùng xảy ra trên một thời điểm nhất định chung quanh toàn ác pháp, vì thế họ phải trả vay, vay trả những hành động ác mà đời trước họ đã gieo và hiện giờ họ phải trả những hậu quả ác nghiệt và tàn khốc. Gia đình vợ chồng Công là một bằng chứng nhân quả cụ thể để mọi người lấy đó làm gương, để thực hiện lòng thương yêu mình, thương người và thương tất cả chúng sinh. Chỉ có lòng yêu thương mới diệt trừ tâm sân hận; chỉ có lòng yêu thương mới đem lại sự bình yên cho mình cho người; chỉ có lòng yêu thương mới chuyển đổi được nhân quả ác độc khắc nghiệt.

Một người có đầy đủ nhân cách làm người thì nhân cách tình yêu thương mọi người, mọi sự sống trên hành tinh này là một hành động nhân cách đạo đức hàng đầu trong tất cả nhân cách đạo đức làm người. Vì thế, quý học viên hãy tu tập lòng thương yêu và tha thứ mỗi lỗi lầm của người khác, luôn luôn ban cho họ lòng tha thứ và yêu thương, đó là một hành động đạo đức cao thượng nhất trong tất cả những hành động đạo đức cao thượng khác. Nhờ lòng yêu thương và tha thứ mỗi lỗi lầm nên chuyển đổi được tất cả nhân quả. Thiếu lòng yêu thương nên nhân quả càng lúc càng tăng trưởng cao hơn, khiến cho cuộc sống đã khổ đau lại càng khổ đau hơn.

Câu hỏi 6:

Thùy mắng chửi chồng tại nhà cha mẹ chồng là hành động gì? Thiếu đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 6, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý câu hỏi 6 làm sáng tỏ đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 6:

Hành động chửi mắng chồng là hành động thiếu đức hiếu sinh về khẩu hành. Một người còn nói xấu, nói ly gián, nói không thật, chửi mắng, mạ li, mạt sát người khác là người không có khẩu hành hiếu sinh Khẩu hành hiếu sinh tức là lời nói ái ngữ, lời nói ái ngữ là lòng thương yêu về lời nói.

Thùy mắng chửi chồng là khẩu hành ác, là con người có ác khẩu. Vì thế rèn nhân cách đạo đức hiếu sinh khẩu hành thì chúng ta nên tránh nói xấu, nói li gián, chửi mắng, mạt sát, mạ lị người khác, vì đó là ác ngữ, lời nói ác. Muốn rèn nhân cách khẩu hành thì nên tránh xa và từ bỏ những khẩu hành ác này, luôn luôn phải thực hiện ái ngữ, nói lời ôn tồn, êm dịu, nhẹ nhàng, ngọt ngào mang đầy đủ tính an ủi xoa dịu nỗi đau buồn, tức giận của người khác.

Thùy mắng chửi chồng tại nhà cha mẹ chồng là hành động nhân quả ác khẩu. Một hành động chửi mắng người khác là hành động thiếu đạo đức hiếu sinh khẩu hành.

Câu hỏi 7:

Thùy đốt nhà giết con là hành động gì? Thiếu đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 7, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý câu hỏi 7 làm sáng tỏ đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 7:

Hành động đốt nhà làm con chết là hành động thiếu đạo đức hiếu sinh thân hành, hành động gây ra đau khổ cho mình và cho người là hành động ác, thiếu đức thương mình, thương người.

Làm người phải cảnh giác và chủ động từng hành động thân, miệng, ý của mình, không nên có những hành động gây tác hại cho người khác. Những hành động gây tác hại cho người khác là những hành động thiếu đạo đức hiếu sinh, thiếu lòng yêu thương.

Ở trên đời, nếu ai cũng có lòng yêu thương thì bản thân an ổn, gia đình hạnh phúc và xã hội có trật tự an ninh.

Đạo đức yêu thương là một hành động đức hạnh cao thượng tuyệt vời, vì nó sẽ mang lại hạnh phúc cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh.

Bài học thứ 6: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: THÀNH CÁT TƯ HÃN

Ngày xưa, Thành Cát Tư Hãn đi đâu cũng mang theo một con chim ưng. Một hôm, ông đi săn cùng đoàn tùy tùng, nhưng mải mê săn bắn ông đã lạc vào rừng sâu, con chim ưng rời khỏi tay ông bay đi tìm đường ra, nhưng khi trở về thấy Thành Cát Tư Hãn đang hứng nước từ trên khe đá rỏ xuống để uống, vì sau nhiều giờ quần thảo trên ngựa dưới sức nóng của buổi chiều hè.

Rất lâu mới được nửa cốc nước, trong khi Thành Cát Tư Hãn quá khát nước, vừa kê cốc nước vào miệng để uống thì ngay đó chim ưng bay xuống làm rơi chiếc cốc.

Thành Cát Tư Hãn nhặt chiếc cốc lên và một lần nữa đưa vào hứng từng giọt nước, khi cốc nước vừa được một phần hai, ông định uống thì chim bay xuống làm chiếc cốc rơi đổ nước sạch.

Thành Cát Tư Hãn lắc đầu tức giận, nhưng ông vẫn tiếp tục hứng nước lần nữa.

Và lần thứ ba, khi ông kê cốc nước lên miệng chưa uống được thì chim ưng bay xuống làm đổ cốc nước. Thành Cát Tư Hãn tức giận hét lớn:

- Con vật khốn kiếp. Sao ngươi làm đổ nước của Ta, một lần nữa Ta sẽ chém đầu ngươi đó? Lần này, khi cốc nước kê vào miệng, tay cầm thanh gươm chờ sẵn, nhưng chim ưng vẫn lao xuống hất mạnh ly nước. Một lằn gươm sáng vút lên, thanh gươm đã chém trúng. Con chim đáng thương nằm giãy chết dưới chân chủ nó, rồi im lặng. Trong lúc đó, Thành Cát Tư Hãn còn đang tức giận nên gằn giọng:

- Đồ khốn kiếp, thật xứng đáng với tội láo xược của nhà ngươi.

Lần này, chiếc cốc rơi xuống vực sâu, Thành Cát Tư Hãn không thể lấy được.

Nhưng cơn khát vẫn còn, vì thế ông định theo ngược dòng nước chảy để đến con suối, nhưng khi đến nơi chỉ là một vũng nước nhỏ, và trong vũng nước một con rắn độc đã chết.

Thành Cát Tư Hãn quên cả cơn khát nước, ông hối hận và đau đớn khi nghĩ đến hành động chém chết con chim yêu quý của mình, chỉ vì nó muốn cứu mạng ông. Ông nhìn xác chết con chim và tự nhắc nhở mình đừng bao giờ hành động điều gì trong cơn tức giận.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1:

Hành động con chim ưng làm đổ cốc nước của Thành Cát Tư Hãn la hành động đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi thứ 1, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời câu 1 làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 1:

Hành động con chim ưng hất đổ cốc nước của Thành Cát Tư Hãn là một hành động đạo đức hiếu sinh thân hành. Một hành động rất đáng ca ngợi.

Lòng thương yêu chủ thà chết chứ không để người thân mình chết, nên bốn lần hất đổ cốc nước, khiến Thành Cát Tư Hãn tức giận.

Do tức giận, Thành Cát Tư Hãn không còn sáng suốt tự hỏi: “Tại sao chim ưng lại hất nước uống của ta?” Nếu không tức giận, thì Thành Cát Tư Hãn đã sáng suốt khám phá ra trong nước có chất độc. Vì tức giận nên tâm trí u tối, mới nỡ tâm giết hại con vật thân yêu của mình.

Hành động đạo đức hiếu sinh của con chim ưng đối với người nuôi mình thật đáng khen.

Cái chết của con chim ưng là cái chết dũng cảm vì lòng yêu thương người nuôi mình. Biết mình sẽ bị chết dưới lưỡi gươm của người thân những vẫn lao vào để cứu Thành Cát Tư Hãn. Một hành động đạo đức hiếu sinh cao thượng tuyệt vời. Phải không quý học viên? Loài động vật còn có đức hiếu sinh huống là con người. Vậy mà con người không có đức hiếu sinh thì không chỗ nào để nói. Con người không có đạo đức hiếu sinh thì cuộc đời này đen tối và đau khổ. Có đúng như vậy không thưa quý học viên?

Câu hỏi 2:

Hành động vung gươm giết chết con chim ưng của Thành Cát Tư Hãn là hành động gì? Thiếu đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi thứ 2, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời câu hỏi về hành động vung gươm giết chết con chim ưng của Thành Cát Tư Hãn là hành động tức giận làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 2:

Hành động vung gươm giết chết con chim ưng của Thành Cát Tư Hãn là hành động sân giận dữ dội, là hành động mất trí tuệ, là hành động không sáng suốt, là hành động của người không còn bình tĩnh sáng suốt. Cho nên tất cả những người sân hận là những người không còn sáng suốt, vì thế đạo đức hiếu sinh làm sao ngự trị trong tâm họ được trong những giờ phút này. Đức hiếu sinh không có trong lòng người thì con người là ác quỷ; đức hiếu sinh không có trong lòng người thì biết bao tai họa và muôn sự khổ đau sẽ mang đến cho con người.

Thành Cát Tư Hãn là một vị anh minh lãnh đạo đất nước Mông Cổ, đánh Nam dẹp Bắc, người mở rộng bờ cõi giang sơn cho đất nước Mông Cổ. Cho nên mỗi khi ai nghe danh quân Mông Cổ đến đều khiếp đảm. Vậy mà ông không đủ trí sáng suốt nên giết con chim thân thương dám hy sinh thân mình để cứu ông. Ông và con chim ưng không lìa nhau nửa bước trên khắp mọi chiến trường, thế mà trong cơn tức giận, ông lại giết con chim chết một cách thảm thương.

Nhìn cảnh đau lòng này, chúng ta hãy cố gắng diệt trừ tâm sân hận, tâm sân hận là một ác quỷ đang dẫn mọi người vào chỗ giết người, vào chỗ tù tội mà trong xã hội đang là một tệ nạn đáng cho chúng ta lưu ý.

Câu hỏi 3:

Hành động chửi mắng con chim của Thành Cát Tư Hãn: “Đồ khốn kiếp, thật xứng đáng với tội láo xược của nhà ngươi”, là hành động gì? Thiếu đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi thứ 3, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý về lời mắng chửi con chim ưng của Thành Cát Tư Hãn là làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh khẩu hành rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 3:

Hành động chửi mắng con chim ưng của Thành Cát Tư Hãn: “Đồ khốn kiếp, thật xứng đáng với tội láo xược của nhà ngươi”, là một hành động về lời nói thiếu đạo đức hiếu sinh, lời nói ấy chỉ thỏa mãn cho lòng đang căm tức; lời nói ấy không ái ngữ; lời nói ấy không có tình thương của con người có đạo đức từ bi thương xót chúng sinh; lời nói ấy đầy sức lực căm giận, thù ghét.

Làm người, chúng ta nên từ bỏ và tránh xa những lời không ái ngữ ấy. Chính lời nói ấy là nói lên sự đau khổ của người thốt ra lời nói; lời nói ấy đến tai người nghe là một nỗi đau xót cho người khác. Vì thế quý học viên hãy cố gắng từ bỏ những lời nói không ái ngữ, nói ra những lời nói làm cho người khác buồn phiền khổ đau, không ích lợi gì cho mình, cho người, chỉ có thỏa mãn lòng căm tức sân hận trong lòng mà thôi.

Câu hỏi 4:

Thành Cát Tư Hãn quên cả cơn khát nước, ông hối hận và đau đớn khi nghĩ đến hành động chém chết con chim yêu quý của mình, chỉ vì nó muốn cứu mạng ông. Sự tư duy suy nghĩ của Thành Cát Tư Hãn trên đây là đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi thứ 4, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức nhân quả hối hận hiếu sinh của Thành Cát Tư Hãn rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 4:

Thành Cát Tư Hãn quên cả cơn khát nước, ông hối hận và đau đớn khi nghĩ đến hành động chém chết con chim yêu quý của mình, chỉ vì nó muốn cứu mạng ông. Sự tư duy suy nghĩ của Thành Cát Tư Hãn trên đây là đạo đức HIẾU SINH Ý HÀNH. Đạo đức hiếu sinh ý hành của ông ở đây là lòng hối hận, nên lòng thương yêu của ông trong ý hành đối với con vật đã chết rất là thấm thía vô cùng, là một bài học cho những ai thiếu suy tư trước khi hành động.

Về đạo đức thương yêu ý hành, trước khi muốn làm một điều gì và muốn nói một điều gì thì phải tư duy suy nghĩ cho chín chắn rồi mới nói hoặc hành động. Còn khi thấy mình có tâm sân hận thì không nên nói hay làm một hành động nào cả, mà hãy cố giữ tâm mình im lặng như Thánh. Chỉ có im lặng như Thánh thì chúng ta mới chuyển hóa được nhân quả từ vô lượng kiếp.

Quý học viên nên nhớ, muốn im lặng như Thánh thì chỉ có pháp như lý tác ý là tuyệt vời. Khi lâm trận, dùng pháp như lý tác ý liên tục thì tâm sẽ bất động hoàn toàn mà không một ác pháp nào tác động được.

Câu hỏi 5:

Thành Cát Tư Hãn nhìn xác chết con chim và tự nhắc nhở mình đừng bao giơ hành động điều gì trong cơn tức giận. Đây la hành động đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi thứ 5, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Câu hỏi này rất tuyệt vời, chỉ rõ sự hối hận thương cảm của Thành Cát Tư Hãn là một đạo đức hiếu sinh hối hận thương mình, thương tình nghĩa trung thành của con chim ưng mà phải chết dưới tay của mình.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa Thành Cát Tư Hãn nhìn xác chết con chim và tự nhắc nhở lòng mình đừng bao giờ hành động điều gì trong cơn tức giận rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 5:

Sự tư duy của Thành Cát Tư Hãn là một sự ăn năn hối hận chân thật, để ngăn chặn tính sân hận xấu ác của mình. Đó là đức hạnh hiếu sinh ý hành.

Nếu trong cuộc đời này ai cũng biết hối hận ăn năn như Thành Cát Tư Hãn, khi lỡ làm một điều tội lỗi ác đức nào bằng cách sửa sai những lỗi lầm ấy là thực hiện tình thương yêu và tha thứ mỗi lỗi lầm của người khác.

Trong cuộc sống này nếu ai cũng biết thương yêu và tha thứ những lỗi lầm của kẻ khác thì thế gian này là Thiên Đàng, Cực Lạc, con người sống hạnh phúc biết bao.

Thành Cát Tư Hãn đã thực sự ăn năn sám hối lỗi lầm của mình, nên đã dùng ý hành hiếu sinh tư duy suy nghĩ, thầm nói lên đức yêu thương tận trong đáy lòng mình: “Thành Cát Tư Hãn nhìn xác chết con chim ưng va tự nhắc nhở mình đừng bao giờ hành động điều gì trong cơn tức giận”.

Đây là một gương sáng để soi lại mình, để nhắc nhở lại mình từ bỏ và tránh xa lòng giận dữ, luôn luôn thực hiện đức hiếu sinh.

Một sự hối hận ăn năn trong lòng là một hành động đạo đức hiếu sinh ý hành, thường hối hận về những việc làm sai trái của mình để cố gắng khắc phục, không cho tái phạm những lỗi lầm đó nữa.

Cho nên sự hối hận ăn năn là một đạo đức hiếu sinh ý hành rất tuyệt vời, nếu trên đời này ai có làm lỗi mà biết xấu hổ, ăn năn hối hận và cố gắng khắc phục sửa sai thì người đó là người có đạo đức thương mình, thương người.

Một hành động lầm lỡ mà cố sửa sai là một hành động đạo đức hiếu sinh ý hành rất tuyệt vời mà mọi nguời ở đời cần phải rèn luyện, để đem lại sự bình an cho mình, cho người.

Bài học thứ 7: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: NHỮNG CÂY ĐINH

Mọi người ai cũng có tính hay nóng nảy, hễ ai đụng đến mình là phát cáu lên, biết đó một tính đau khổ, dễ mất thiện cảm với mọi người, nhưng không biết làm sao từ bỏ cho được.

Khi chúng tôi đọc tập sách “Hạt Giống Tâm Hồn”, có một câu chuyện nói về NHỮNG CÂY ĐINH, ý nghĩa của bài này chỉ cho chúng ta biết lòng giận dữ là một tai hại làm mất lòng yêu thương mình, yêu thương người và yêu thương những loài vật khác. Thấy bài này có những lời khuyên nhủ sống đạo đức hiếu sinh bằng ý hành, khẩu hành và thân hành, nên chúng tôi đem ra đây để nhắc nhở quý phật tử làm bài học đạo đức, và cũng để rèn luyện nhân cách lòng yêu thương sự sống:

Một cậu bé tính tình rất nóng nảy và cộc cằn. Người cha biết ý con như vậy, nên mới đưa cho cậu một túi đinh và dặn rằng: “Mỗi khi con nổi nóng hay nặng lời với ai, hãy đóng một cây đinh vào hàng rào gỗ phía sau vườn và suy nghĩ việc mình đã làm”.

Những ngày đầu tiên, câu bé đã đóng 12 chiếc đinh vào hàng rào. Kế những ngày sau, cậu cố gắng kềm chế cơn giận của mình thì số đinh đóng lên hàng rào mỗi ngày một giảm lần.

Cho đến một ngày nào đó, cậu không đóng đinh lên tường rào nữa. Thấy tính tình mình có thay đổi, cậu kể lại với cha, người cha đưa ra ý kiến: “Nếu mỗi ngày gặp chướng ngại mà tâm con không sân giận thì con lại nhổ bớt một cây đinh đã đóng trên hàng rào”.

Nhiều ngày trôi qua, tất cả số đinh đóng trên hàng rào được nhổ sạch. Cậu thông báo cho cha biết. Người cha dẫn cậu đến hàng rào và nói: “Con đã làm tốt rất đáng khen, nhưng con hãy nhìn vào những cái lỗ đinh trên hàng rào sẽ không còn nguyên vẹn như xưa nữa. Những điều con thốt ra trong lúc con giận dữ để lại trong lòng người khác những vết thương giống như những vết đinh này. Cho dù con có nói lời xin lỗi bao nhiêu lần thì vết thương vẫn còn đó. Vết thương tâm hồn rất khó hàn gắn, và chỉ có thể lành được khi có tình thương yêu chân thành va thực sự trong lòng của mọi người”.

Câu chuyện khuyên răn trong sách này chỉ là một lời nói suông, chứ không có pháp hành để xả bỏ tâm sân, nhưng làm cho chúng ta càng hiểu sâu về lợi ích của đức hiếu sinh mà đức Phật đã dạy: “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH”.

Trong kinh Phật dạy lấy lòng yêu thương đối trị tâm giận dữ, tuy lời dạy này cũng là một lý thuyết suông. Làm sao bằng cách nào để triển khai lòng yêu thương? Khi lòng yêu thương ngự trị trong lòng người thì tâm giận dữ không bao giờ có mặt. Vậy chúng ta hãy theo dấu vết lộ trình nào của Phật giáo thì mới thấy sự tu tập rèn luyện nhân cách; thì mới thực hiện lòng yêu thương bằng thân hành, khẩu hành, ý hành.

Muốn đi vào con đường thực hành thì chúng ta hãy nghe những lời khuyên này:

“KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH”, hoặc: “TỪ BỎ GIẾT HẠI CHÚNG SINH”, và: “KHÔNG NÊN ĂN THỊT CHÚNG SINH”. Đó là sự thực hành, quý phật tử hãy cố gắng làm cho bằng được thì lòng yêu thương sẽ đến với quý vị. Vậy ngay từ bây giờ, hằng ngày phải tránh xa hoặc từ bỏ giết hại và không ăn thịt chúng sinh nữa; từ bỏ những hành động làm đau khổ chúng sinh. Tu như vậy chưa đủ, còn phải tu tập thêm sức tỉnh giác để tâm luôn luôn sáng suốt bình tĩnh. Vậy tu tập tỉnh giác như thế nào? Tu tập tỉnh giác là triển khai tri kiến hiểu biết của mình:

1- Những gì cần thông suốt phải thông suốt.

2- Những gì cần tu tập phải tu tập.

3- Những gì cần nhẫn nhục phải nhẫn nhục.

4- Những gì cần tùy thuận phải tùy thuận.

5- Những gì cần bằng lòng phải bằng lòng.

6- Những gì cần tác ý phải tác ý.

Về phần triển khai tri kiến giải thoát có vô lượng cách: Thư giãn quan sát từng tâm niệm của mình, khi tâm có niệm phải biết tâm có niệm, nhưng phải sáng suốt phân loại tâm niệm ác hay tâm niệm thiện, tâm niệm ác thì quyết tâm tác ý diệt bỏ, còn tâm niệm thiện thì tăng trưởng nuôi dưỡng cho lòng thương yêu rộng lớn và nhiều hơn.

Bài học hôm nay là bài học rèn nhân cách lòng yêu thương bằng ý hành, thân hành và khẩu hành, nhưng ý hành là bài học chính của đức hiếu sinh, đó là sự tư duy suy nghĩ để nuôi lớn lòng thương yêu của mình đối với mọi nhân quả ác, khi mắt thấy tai nghe.

Khi lòng yêu thương đã lớn dần trong tâm quý học viên, thì tâm giận dữ sẽ tan biến dần và sẽ không còn nữa.

Chúng ta biết rằng, trong cuộc sống này chỉ có lòng yêu thương là pháp môn đệ nhất đem lại sự bình an cho mọi loài sống trong hành tinh này. Lòng yêu thương đến đâu, dù bất cứ người thiện hay người ác, quý học viên đều thương như nhau. Lòng yêu thương ấy rất bình đẳng, nhưng người đời làm sao hiểu được lòng thương yêu ấy cao thượng như trời như biển.

Muốn được lòng yêu thương rộng lớn như vậy thì chỉ có theo các trường lớp đào tạo rèn luyện nhân cách của Phật giáo, mà Tu Viện Chơn Như sắp mở cửa. Được theo học như vậy thì lòng yêu thương của quý học viên mới mong thực hiện được.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1:

Tính hay nóng nảy, hễ ai đụng đến mình là phát cáu lên, biết đó một tính làm mình đau khổ, dễ mất thiện cảm với mọi người, nhưng không biết làm sao tư bỏ cho được”. Người biết suy nghĩ được câu này là đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi thứ 1, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý câu hỏi, làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu 1:

“Tính hay nóng nảy, hễ ai đụng đến mình là phát cáu lên, biết đó là một tính làm khổ mình, khổ người, dễ mất thiện cảm với mọi người nhưng không biết làm sao từ bỏ cho được”.

Người biết suy nghĩ được câu này là người có đạo đức hiếu sinh ý hành. Đạo đức hiếu sinh ý hành là lòng biết thương mình, thương người bằng ý thức tư duy suy nghĩ.

Khi chúng ta tư duy suy nghĩ một việc thiện đem lại sự an vui cho mình, cho người, đó là lòng yêu thương thuộc về ý hành. Một người có ý thức tư duy các điều thiện là người có đạo đức hiếu sinh.

Quý học viên muốn tu tập lòng thương yêu rộng lớn thì nên tư duy suy nghĩ những điều lành, tránh xa và từ bỏ tư duy suy nghĩ những điều ác. Càng tư duy suy nghĩ những điều lành là càng làm cho lòng yêu thương rộng lớn bao la như trời, như biển, như không gian vũ trụ. Người có lòng thương yêu rộng lớn như vậy là người đã làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi sinh tử; người ấy đã thoát ra khỏi vòng quy luật nhân quả của vũ trụ.

Luận đến đây, quý học viên đã thấy rõ Phật giáo chứng đạo đâu phải khó khăn, nên thảo nào ngày xưa khi mọi người nghe Phật thuyết giảng xong là chứng quả A La Hán vô lậu ngay liền.

Từ chỗ thấy hiểu biết từ bi tâm của Phật phủ trùm vạn hữu, nên khi nghe Phật thuyết pháp liền chứng đạo là phải. Do hiểu Phật và pháp như vậy, nên các vị phát khởi lòng yêu thương rộng lớn sống với mọi loài, nên các Ngài buông xuống tất cả các pháp thế gian, xin Phật xuất gia, trở thành những bậc A La Hán.

Câu hỏi 2:

Người cha biết ý con như vậy, nên mới đưa cho cậu một túi đinh và dặn rằng: “Mỗi khi con nổi nóng hay nặng lời với ai, hãy đóng một cây đinh vào hàng rào gỗ phía sau vườn và suy nghĩ việc con nổi nóng là làm khổ con, khổ người khác có đúng không?” Lời khuyên dạy này là đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 2, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa lời khuyên đạo đức hiếu sinh ý hành rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 2:

Người cha rất tuyệt vời, muốn con mình thực hiện lòng thương yêu đến mọi người, nên tạo điều kiện giúp con bằng một túi đinh:

“Người cha biết ý con như vậy nên mới đưa cho cậu một túi đinh và dặn rằng...”. Hành động đưa một túi đinh là đạo đức hiếu sinh thân hành của người cha thương con.

Thật tuyệt vời, thương con bằng hành động giáo dục đức hiếu sinh thân hành đưa cho con túi đinh để nhiếp phục tâm sân là một hành động ít ai nghĩ đến: “Mỗi khi con nổi nóng hay nặng lời với ai, hãy đóng một cây đinh vào hàng rào gỗ phía sau vườn va suy nghĩ việc con nổi nóng là làm khổ con, làm khổ người khác có đúng không?” Lời khuyên dạy này của người cha là đạo đức hiếu sinh khẩu hành.

Chúng ta hằng ngày thường trau dồi rèn luyện nhân cách đức hiếu sinh thì nên lưu ý ba nơi: thân, miệng, ý, khi chúng làm hay nói một điều lành nào thì đều phải qua ý thức Chánh Tư Duy suy nghĩ rồi mới đến thân hành, khẩu hành. Được ý gạn lọc thì lời nói hay việc làm đều đem lại sự an vui, yên lành cho mình, cho người thì đó là đức hiếu sinh, còn ngược lại làm theo tâm tham, sân, si, mạn, nghi thì mang đến sự khổ đau cho mình, cho người, đó là thiếu đức hiếu sinh, tức là thiếu lòng thương yêu. Người thiếu lòng yêu thương là người sống hoàn toàn những sự khổ đau. Vì thế, thế gian này thiếu lòng yêu thương thì thế gian này là đen tối, là địa ngục, là khổ đau.

Vậy quý học viên hãy cố gắng rèn nhân cách hiếu sinh sống không làm khổ mình, khổ người, thì đó là mục đích giải khổ của Phật giáo đối với quý vị. Xin quý học viên đừng nghĩ những điều cao siêu như Thiền Định, Tam Minh, khi đạo đức hiếu sinh chưa có. Đạo đức hiếu sinh chưa có thì đừng nên nghĩ đến Tam Minh, Lục Thông. Vì có nghĩ đến nó cũng vô ích mà thôi. Tam Minh, Lục Thông không thể dành cho những người thiếu lòng từ bi hay lòng từ bi chưa có. Cho nên đức hiếu sinh rất quan trọng, trên đường tìm chân lí.

Câu hỏi 3:

Những ngày đầu tiên, cậu bé đã đóng 12 chiếc đinh vào hàng rào. Kế những ngày sau, cậu cố gắng kềm chế cơn giận của mình thì số đinh đóng lên hàng rào mỗi ngày một giảm lần. Cho đến một ngày nào đó, cậu không đóng đinh lên tường rào nữa”. Hành động đóng đinh và sự cố gắng của cậu bé để kềm chế cơn sân và không còn đóng cây đinh nào nữa hết là hành động gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 3, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh bằng những hành động cố gắng khắc phục những cơn sân của cậu bé rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 3:

Những ngày đầu tiên cậu bé đã đóng 12 chiếc đinh vào hàng rào. Kế những ngày sau cậu cố gắng kềm chế nhiếp phục cơn giận của mình thì số đinh đóng lên hàng rào mỗi ngày một giảm lần, và giảm lần thấy rất rõ ràng.

Cậu bé rất tin tưởng phương pháp mà người cha đã dạy sẽ mang lại kết quả tốt đẹp như ý nguyện.

Cho đến một ngày nào đó, cậu không đóng đinh lên tường rào nữa. Hành động đóng đinh và sự cố gắng của cậu bé để kềm chế cơn sân và không còn đóng cây đinh nào nữa là hành động đạo đức hiếu sinh ý hành để thị hiện qua đức hiếu sinh thân hành, chứng minh sự cố gắng giữ gìn đức hiếu sinh không làm khổ mình, khổ người rất tuyệt vời.

Nếu mỗi người ai cũng cố gắng như cậu bé này thể hiện đúng đức hạnh hiếu sinh thì thế gian này không còn đau khổ nữa. Chính cậu bé này đã thể hiện cố gắng kềm chế lòng giận dữ, tức là thực hiện lòng thương mình, thương người. Đây là tình thương bằng hành động ý chí cương quyết ngăn chặn lòng sân, chứ không phải chỉ nói thương bằng lời nói suông. Thường ở đời người ta nói thương bằng lời nói suông như: tôi thương cha, thương mẹ, thương anh, thương chị, thương em, v.v...

Còn ở đây, cậu bé thực hiện lòng thương yêu bằng ý chí, ý hành, thân hành và khẩu hành kiên cường, bền chí, gan dạ thật đáng khen. ... (giảng viên xưng pháp danh) ước mong sao quý học viên đều thực hiện tu tập rèn luyện được như vậy, thì không gì hạnh phúc bằng cho tất cả tu sinh trong Tu Viện của mình. Phải không quý tu sinh? Người cha dạy con: “Mỗi khi con nổi nóng hay nặng lời với ai, hãy đóng một cây đinh vào hàng rào gỗ phía sau vườn và suy nghĩ việc con nổi nóng là làm khổ con, làm khổ người khác có đúng không?” Đây là đạo đức hiếu sinh bằng lời nói, chứ không phải là lời nói thương suông không. Cho nên các học viên hãy phân biệt cho rõ ràng để quý học viên thực lòng thương yêu ngày càng rộng lớn hơn, và sẽ đem lại sự an vui cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh.

Câu hỏi 4:

Nếu mỗi ngày gặp chướng ngại mà tâm con không sân giận thì con lại nhổ bớt một cây đinh đã đóng trên hàng rào”. Nhiều ngày trôi qua, tất cả số đinh đóng trên hàng rào được nhổ sạch”. Đoạn văn này dạy ý nghĩa đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 4, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này mà mọi người ai ai cũng mong muốn.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh của câu này rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 4:

Người cha khuyên dạy con bằng đức hiếu sinh khẩu hành rất tuyệt vời: “Nếu mỗi ngày gặp chướng ngại mà tâm con không sân giận, thì con lại nhổ bớt một cây đinh đã đóng trên hàng rào”.

Đến đây, quý học viên đã hiểu lời nói nào là lời nói đạo đức hiếu sinh và lời nói nào không phải là đạo đức hiếu sinh. Như đức Phật dạy: “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH”, đó là đạo đức hiếu sinh bằng lời nói, hay bằng lời khuyên: “TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO”, đó cũng là đạo đức hiếu sinh bằng lời nói, bằng lời khuyên.

Nhờ những lời dạy đạo đức hiếu sinh này mà cậu bé đã diệt trừ tâm sân của mình bằng hành động thương mình, thương người NHỔ ĐINH: “Nhiều ngày trôi qua, tất cả số đinh đóng trên hàng rào được nhổ sạch”.

Câu này chứng tỏ cậu bé đã diệt sạch tâm sân, chỉ còn trong lòng mình một tình yêu thương đang ngự trị, nếu không có lòng thương yêu thì làm sao cậu bé nhổ sạch những cây đinh, tức là không bao giờ cậu nhổ sạch những tâm sân của mình.

Đạo đức hiếu sinh đối trị tâm sân rất tuyệt vời, chỉ những người có quyết chí xa lìa các pháp ác làm khổ mình, khổ người thì nỗ lực, kiên cường khắc phục, nhẫn nhịn, im lặng như Thánh, không để lẫy lừng thì diệt tâm sân không phải khó khăn.

Diệt trừ tâm sân thì ngay trên tâm sân khởi lòng thương yêu ý hành, như vậy thì tâm sân sẽ bị diệt ngay liền tức khắc.

Câu hỏi 5:

Con đã làm tốt rất đáng khen, nhưng con hãy nhìn vào những cái lỗ đinh trên hàng rào sẽ không còn nguyên vẹn như xưa nữa, những điều con thốt ra trong lúc con giận dữ để lại trong lòng người khác những vết thương giống như những vết đinh này. Cho dù con có nói lời xin lỗi bao nhiêu lần thì vết thương vẫn còn đó. Vết thương tâm hồn rất khó hàn gắn, và chỉ có thể lành được khi có tình thương yêu chân thành va thực sự”.

Đoạn văn này dạy ý nghĩa đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 5, để góp phần làm sáng tỏ lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh bằng ý nghĩ, lời nói và hành động rất hay, và ...

(giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 5:

Người cha chỉ vạch ra những điều tai hại của cơn sân, cho người con thấy cơn sân là một tai hại rất lớn và lưu lại mãi mãi trong lòng của mọi người, làm sao người ta quên được khi lời nói và hành động thiếu lịch sự, kém văn hóa, thô lỗ: đánh đập, chửi mắng, la hét, mạt sát, nói xấu, vu khống, nói lời thêm bớt không đúng sự thật, thì những vết thương này làm sao người ta quên được, như trường hợp sân giận của người phụ nữ chửi mắng chồng, đốt nhà, giết con và thân vào tù tội.

Những dấu ấn lòng sân hận này cho đến khi chết xuống lòng đất chưa hẳn đã tan. Cho nên lời khuyên của người cha rất thấm thía vô cùng: “Con đã làm tốt rất đáng khen, nhưng con hãy nhìn vào những cái lỗ đinh trên hàng rào sẽ không còn nguyên vẹn như xưa nữa, những điều con thốt ra trong lúc con giận dữ để lại trong lòng người khác những vết thương giống như những vết đinh này. Cho dù con có hối hận và nói lời xin lỗi bao nhiêu lần thì vết thương vẫn còn đó. Vết thương tâm hồn rất khó hàn gắn, và chỉ có thể lành được khi có tình thương yêu chân thành và thực sự”.

Tóm lại, trên đời này chỉ có tình thương yêu mới mang lại cho mình, cho mọi người và muôn vật đang sống trên hành tinh này một sự bình an trọn vẹn.

Hỡi quý học viên! Chúng ta là những người con Phật, chúng ta rất hãnh diện với lòng từ bi mà đức Phật đã ban cho chúng ta. ... (giảng viên xưng pháp danh) ước mong sao quý học viên học lớp NGŨ GIỚI sống đúng năm đức hạnh mà đức Phật đã dạy cho người cư sĩ. Hoàn thành năm đức hạnh này thì thế gian là Thiên Đàng, Cực Lạc, con người và muôn vật là anh em chung một nhà.

Bài học thứ 8: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: CẬU BÉ NÉM ĐÁ

Trên đường vắng, thỉnh thoảng mới có chiếc xe chạy qua. Bỗng một chiếc xe hơi đang phóng nhanh, đột ngột thắng gấp và tấp vào lề đường. Không biết ai đã ném đá vào cửa xe anh. Bác tài xế bước xuống xe nhìn về phía chỗ xe bị ném thấy một đứa bé đang đứng tại đó. Chắc chắn nó chớ không còn ai. Trước đó thấy nó vẫy tay để đón xe đi nhờ, nhưng bác tài xế không dừng xe, vọt chạy luôn nên nó mới ném đá.

Bác tài xế hét lên:

- Không cho đi nhờ mày ném đá xe tao hả? Đồ nhóc con! Tao sẽ cho mày một bài học biết tay.

Vừa nói, bác tài xế tóm cổ áo thằng bé lôi đi đến bên chiếc xe chỉ cho nó thấy vết trầy.

Cậu bé sợ hãi lắp bắp, giọng nói run run:

- Em...! Em...! xin lỗi anh! Nhưng em không biết làm sao cho xe ngừng? Nếu em không ném vào xe anh thì anh cũng không bao giờ ngừng xe...

Bác tài ngắt lời:

- Mầy thấy xe tao trầy không? Cậu bé tiếp:

- Nãy giờ em đã vẫy biết bao nhiêu xe mà không có xe nào chịu dừng.

Nói đến đó, nước mắt nó giàn giụa lăn dài trên má. Cậu bé nghẹn ngào chỉ tay về phía bên kia vệ đường, có một bà cụ già tật nguyền nằm bên chiếc xe lăn. Cậu bé lại tiếp nói qua hai hàng nước mắt, giọng ngắt quãng, vì em vừa sợ vừa khóc nên tiếng nấc liên tục:

- Em tình cờ đi ngang qua thấy vậy, nhưng em không đủ sức đỡ nổi bà cụ dậy, vì bà ấy nặng quá.

Cậu bé nài nỉ nói tiếp:

- Anh có thể giúp em đỡ bà cụ lên chiếc xe lăn được không? Tội nghiệp bà ấy lắm anh ạ! Dường như bà ấy bị rỉ máu ở mặt và nằm bất động, em gọi mãi bà mới tỉnh dậy, xin anh giúp em, nhé anh! Lời nói của cậu bé khiến bác tài xế không thể thốt lên được lời nào, thấy cổ mình như nghẹn lại vì bất ngờ và xúc động.

Bác tài xế đến đỡ bà cụ bị ngã trở lại ngồi ngay ngắn trên chiếc xe lăn, và cùng cậu bé kéo chiếc xe lăn cho bà cụ lên đường. Bà cụ cảm ơn anh rồi chiếc xe lăn bắt đầu lăn đi về phía ngược chiều với xe anh, cậu bé phụ đẩy phía sau. Bác tài dõi mắt nhìn theo cho đến khi hình ảnh cậu bé và chiếc xe lăn khuất hẳn.

Bác tài xế bước thật chậm về chiếc xe của mình, cảm giác giận dữ trong anh không còn nữa, và những bước chân ngập ngừng cũng không thể diễn tả hết tâm trạng của anh lúc này. Anh quyết định không sửa lại vết trầy trên xe. Anh muốn vết trầy trên xe sẽ nhắc nhở anh về câu chuyện xúc động hôm nay; về một điều mà từ trước đến nay anh không để ý và cũng không có thời gian để nghĩ đến.

Anh đã không nhận ra, không có được lòng trắc ẩn như cậu bé kia, anh đã tiếc thời gian và đi qua nhanh đến nỗi phải có ai đó ném một viên đá mới làm anh dừng lại và thức tỉnh lòng trắc ẩn yêu thương đối với mọi người, mọi vật chung quanh mình.

Lòng trắc ẩn của cậu bé kia đã cho anh bài học đạo đức hiếu sinh rất xúc động, mà suốt cuộc đời không bao giờ quên.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1:

Đại ý bài này nói về đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi thứ 1, để góp phần làm sáng tỏ đức hiếu sinh, tức la lòng thương yêu đối với tất cả sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 1:

Bài học này chỉ rõ đức hiếu sinh thân hành, khẩu hành và ý hành rất rõ ràng của cậu bé, nhờ đức hiếu sinh này đánh thức đức hiếu sinh của người tài xế thật là tuyệt vời.

Bài này đã gây cho chúng ta ấn tượng đức hiếu sinh khó quên.

Bài này nói về đạo đức hiếu sinh, tức là lòng yêu thương của một cậu bé thực hiện lòng yêu thương của mình bằng ý hành, thân hành, khẩu hành.

Một câu chuyện làm mọi người rất xúc động, khiến chúng ta luôn luôn nhớ mãi không quên một cậu bé có tâm hồn cao thượng sống vì mọi người, vì tình người, vì nền đạo đức nhân bản - nhân quả. Ước mong quý học viên là những đệ tử của Phật, mãi mãi sống trong lòng yêu thương không làm khổ mình, khổ người, lúc nào cũng quyết tâm tha thứ những lỗi lầm và luôn luôn thương yêu tất cả mọi người và mọi sự sống trên hành tinh này.

Câu hỏi 2:

Hành động ném đá vào xe đáng trách hay là đáng thương? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 2, để góp phần làm sáng tỏ đức hiếu sinh lòng thương yêu đối với tất cả sự sống trên hành tinh này. Có đóng góp nhiều ý kiến thì lớp học mới sống động, đạo đức hiếu sinh được mổ xẻ tận gốc thì sự hiểu của tu sinh mới thấu triệt, mới thấm nhuần. Còn lớp học không có ý kiến đóng góp thì lớp học chỉ là học tư chương, không sâu sắc về đạo đức, cứ dạy đâu học đó thì sự thực hành kết quả không bao nhiêu.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa hành động ném đá vào xe là đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 2:

Hành động ném đá vào xe là một hành động thông minh của một cậu bé, tìm cách dừng xe để có người giúp mình đưa bà cụ lên xe lăn, một hành động đáng khâm phục, nếu không có trí thông minh thì không thể làm việc này được; một hành động đáng ca ngợi, lòng thương người biến ra hành động thật tuyệt vời! Kể ra cậu bé này cũng gan thật, nếu nhát gan không dám làm điều này.

Câu hỏi 3:

Hành động ném đá vào xe là đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 3, để góp phần làm sáng tỏ đức hiếu sinh lòng thương yêu đối với tất cả sự sống trên hành tinh này. Vậy hành động ném đá vào xe là đạo đức gì?

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý với quý học viên để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 3:

Hành động ném đá vào xe là hành động đạo đức hiếu sinh vì lòng thương yêu người, thương bà cụ tàn tật bị lật xe.

Biết hành động ném đá vào xe là hành động sai, nhưng không còn có cách thức nào khác hơn để có người giúp cậu đưa bà cụ tàn tật lên xe lăn. Đúng là một hành động thông minh, đạo đức thương người.

Câu hỏi 4:

Nước mắt cậu bé giàn giụa lăn dài trên má, cậu nghẹn ngào chỉ tay về phía bên kia vệ đường có một bà cụ già tật nguyền nằm bên chiếc xe lăn”, đó là hành động đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 4, để góp phần làm sáng tỏ đức hiếu sinh lòng thương yêu đối với tất cả sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 4:

“Nước mắt cậu bé giàn giụa lăn dài trên má, cậu nghẹn ngào chỉ tay về phía bên kia vệ đường có một bà cụ già tật nguyền nằm bên chiếc xe lăn”, đó là hành động đạo đức thương người của cậu bé.

Nước mắt của cậu bé vì sợ bác tài xế đánh, nhưng nó nói lên được đức hiếu sinh của cậu thật sự thương người. Lòng thương người như cậu bé này khó có ai làm được, dám làm một điều mà ít có người nghĩ đến.

Câu hỏi 5:

Anh có thể giúp em đỡ bà cụ lên chiếc xe lăn được không?” Lời nói của cậu bé nhờ phụ giúp đỡ bà cụ là đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 5, để góp phần làm sáng tỏ đức hiếu sinh lòng thương yêu đối với tất cả sự sống trên hành tinh này, đối với đề tài đạo đức này, làm cho nó rõ nghĩa hơn.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 5:

“Anh có thể giúp em đỡ bà cụ lên chiếc xe lăn được không? ” Lời nói này là một đạo đức hiếu sinh khẩu hành. Lời nói của một cậu bé đầy lòng yêu thương, nghe xúc động lòng người. Trước tấm lòng hiếu sinh của một cậu bé biết thương người, ai mà không ngẹn ngào thương cảm.

Câu hỏi 6:

Bác tài xế thấy cổ mình như nghẹn lại vì bất ngờ và xúc động”, đó là những hành động đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 6, để góp phần làm sáng tỏ đức hiếu sinh lòng thương yêu đối với tất cả sự sống trên hành tinh này. Lớp học chúng ta cần phải có nhiều ý kiến sống động, mổ xẻ bài học để giúp chúng ta thấu triệt đức hiếu sinh thân hành, khẩu hành và ý hành.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 6:

“Bác tài xế thấy cổ mình như nghẹn lại vì bất ngờ và xúc động” trước hành động thương người của cậu bé. Đó là một hành động đạo đức hiếu sinh ý hành đang trỗi dậy trong lòng bác tài một cách đột ngột, xảy đến không ngờ trước được.

Nghe lời nói của cậu bé, ai mà không xúc động trước lòng trắc ẩn thương người của cậu.

Nó khiến chúng ta nhớ mãi không quên.

Câu hỏi 7:

Bác tài xế đỡ bà cụ bị ngã trở lại ngồi ngay ngắn trên chiếc xe lăn”, đó là hành động đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 7, để góp phần làm sáng tỏ đức hiếu sinh thân hành của bác tài xế. Bài học này giúp chúng ta thực hiện lòng thương yêu đối với tất cả sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 7:

“Bác tài xế đỡ bà cụ bị ngã trở lại ngồi ngay ngắn trên chiếc xe lăn”. Đó là hành động đạo đức hiếu sinh thân hành.

Đọc qua bài này, quý học viên nhận ra từng hành động đạo đức rõ ràng, cụ thể nơi miệng là lời nói; nơi ý thức là suy nghĩ, tư duy; nơi thân là hành động nâng đỡ, dìu dắt, v.v...

Câu hỏi 8:

Bác tài xế dõi mắt nhìn theo cho đến khi hình ảnh cậu bé và chiếc xe lăn khuất hẳn”.

Đoạn này nói hình ảnh bác tài xế trông theo chiếc xe và cậu bé là đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 8, để góp phần làm sáng tỏ hình ảnh đạo đức hiếu sinh đầy lòng thương yêu của bác tài xế. Nếu lòng yêu thương ấy luôn luôn đối với tất cả sự sống trên hành tinh này thì thế gian này đẹp biết mấy.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học.

Trả lời câu hỏi 8:

“Bác tài xế dõi mắt nhìn theo cho đến khi hình ảnh cậu bé và chiếc xe lăn khuất hẳn”.

Hình ảnh cậu bé và chiếc xe lăn là một bài học đạo đức thương người cao đẹp nhất, và cũng là một bài học đạo đức khéo nhắc nhở cho những ai thờ ơ với với nền đạo đức nhân bản - nhân quả, mà luôn luôn lúc nào nó cũng hiện hữu, sống trong lòng của mọi người.

Hình ảnh cậu bé là một hình ảnh đạo đức thương yêu mà suốt đời bác tài xế không thể nào quên được.

Một hình ảnh cậu bé đạo đức hiếu sinh cao vòi vọi phủ trùm vạn vật, còn bé nhỏ đã sống đạo đức như vậy thì người lớn chúng ta so sánh có sống đạo đức hiếu sinh bằng cậu bé này không? Trong cuộc sống trên hành tinh này, nếu mọi người ai cũng sống với lòng yêu thương thì hạnh phúc biết bao. Làm sao còn có sự khổ đau nữa. Phải không quý học viên? Chỉ có đức hiếu sinh tuyệt vời.

Bài học thứ 9: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: CẬU BÉ NÉM SAO BIỂN

Tôi đang dạo bộ trên bãi biển khi hoàng hôn buông xuống, biển đông người, nhưng tôi lại chú ý đến môt cậu bé cứ liên tục cúi xuống nhặt thứ gì lên rồi ném xuống. Tiến lại gần hơn, tôi chú ý thấy cậu bé đang nhặt những con sao biển bị thủy triều đánh giạt lên bờ và ném xuống trở lại với đại dương.

Tôi làm quen hỏi:

- Cháu đang làm gì vậy ? Cậu bé trả lời:

- Những con sao biển này sắp chết vì thiếu nước, cháu giúp chúng.

- Cháu có thấy mình đang mất thì giờ không. Có hàng ngàn con sao biển như vậy.

Cháu không thể nào giúp được tất cả chúng, rồi chúng cũng sẽ phải chết thôi.

Cậu bé vẫn tiếp tục nhặt những con sao biển khác ném xuống biển, và nhìn tôi vui vẻ trả lời:

- Cháu cũng biết như vậy, nhưng chú nghĩ xem, cháu có thể làm được điều gì đó, ít nhất cháu cũng cứu được những con sao biển này!?

First New

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1:

Hành động ném những con sao biển xuống biển của cậu bé là hành động đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi thứ 1, để góp phần làm sáng tỏ đức hiếu sinh lòng thương yêu đối với tất cả sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau rèn luyện và tu học. Bởi đạo đức hiếu sinh rất tuyệt vời, nó luôn mang lại sự bình an cho mình và mọi người.

Trả lời câu hỏi 1:

Hành động ném những con sao biển xuống biển của cậu bé là ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH, tức là lòng thương yêu sự sống của loài sao biển. Còn nhỏ tuổi mà đã có lòng thương yêu như vậy thật là tuyệt vời, cậu bé này cũng đã từng tu tập hạnh từ bi trong Phật giáo nhiều đời nên đời này đã có những hành động đạo đức hiếu sinh không ai ngờ.

Chủ đề của bài này là nói về nhân quả đức hiếu sinh, chứ không nói nhân quả ba đời, xin các tu sinh lưu ý không khéo góp ý lạc đề bài.

Câu hỏi 2:

Ý nghĩa bài này nói về đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 2, để góp phần làm sáng tỏ đức hiếu sinh lòng thương yêu đối với tất cả sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi để làm sáng tỏ nghĩa của bài học đạo đức này.

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học; để thực hiện đức hiếu sinh sự sống cho bằng được.

Trả lời câu hỏi 2:

Ý nghĩa của bài này nói về đạo đức hiếu sinh rất đầy đủ thân hành, ý hành và khẩu hành thể hiện qua cậu bé. Ý hành là sự suy tư, khẩu hành là lời nói và thân hành là hành động của thân.

Câu hỏi 3:

Ít nhất cháu cũng cứu được những con sao biển này”. Lời nói này là đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 3, để góp phần làm sáng tỏ đức hiếu sinh lòng thương yêu đối với tất cả sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học, cùng sống với đạo đức này.

Trả lời câu hỏi 3:

Quý học viên hãy nghe cậu bé nói lời đạo đức hiếu sinh rất hay: “Ít nhất cháu cũng cứu được những con sao biển này”. Lời nói này thể hiện lòng yêu thương sự sống của những loài vật bằng khẩu hành tuyệt vời, cháu không thể cứu hết những con sao biển được, nhưng cháu cũng cứu được những con sao biển này với sức của cháu. Đức Phật không thể cứu hết chúng sinh trong cõi thế gian này, nhưng trong cõi thế gian vẫn có người được đức Phật cứu thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Cậu bé này cũng vậy:

“Ít nhất cháu cũng cứu được những con sao biển này”.

Câu hỏi 4:

Những con sao biển này sắp chết vì thiếu nước, cháu giúp chúng”. Câu này dạy đạo đức gì?” Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 4, để góp phần làm sáng tỏ đức hiếu sinh lòng thương yêu đối với tất cả sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học, cùng sống với đạo đức cao thượng này.

Trả lời câu hỏi 4:

Lời nói này qua ý suy nghĩ rất thực tế của cậu bé: “Những con sao biển này sắp chết vì thiếu nước, cháu giúp chúng”, lời nói này là lời nói đầy lòng đạo đức hiếu sinh khẩu hành thật tuyệt vời.

Câu hỏi 5:

Tác giả viết bài này với dụng ý gì? Dạy đạo đức gì? Quý học viên hãy trả lời câu hỏi 5, để góp phần làm sáng tỏ đức hiếu sinh, lòng thương yêu đối với tất cả sự sống trên hành tinh này.

Khi hỏi xong, giảng viên chờ học viên trả lời. Học viên trả lời xong thì giảng viên kết luận câu hỏi:

- Những ý nghĩa học viên đã trả lời góp ý làm sáng tỏ ý nghĩa đạo đức hiếu sinh rất hay, và ... (giảng viên xưng pháp danh) cũng xin góp ý để chúng ta cùng nhau tu học và cùng rèn luyện nhân cách.

Trả lời câu hỏi 5:

Tác giả viết bài này gợi ý lòng yêu thương sự sống của chúng ta đối với tất cả chúng sinh, nhưng tùy khả năng của mình thể hiện qua ý hành, khẩu hành, thân hành.

Nhất là lời nói của cậu bé để kết luận bài này thật tuyệt vời: “Cháu cũng biết như vậy, nhưng chú nghĩ xem, cháu có thể làm được điều gì đó, ít nhất cháu cũng cứu được những con sao biển này!?” Lời nói này rất đúng, chúng ta làm sao cứu hết chúng sinh được, trong khi chúng sinh đang sống trong ác pháp, nghiệp chồng chất trùng trùng điệp điệp. Chúng ta chỉ biết cứu những người nào hữu duyên, chứ những người vô duyên thì chúng ta cũng đành chịu thôi, biết làm sao hơn. Phải không quý học viên? “Hữu duyên thiên lý năng tao ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng”. Có duyên thì ở đâu cũng gặp nhau, còn vô duyên ở gần bên nhau cũng khó gặp nhau. Lòng yêu thương chúng ta vô bờ bến, không có loài nào chúng ta bỏ, nhưng đồng cảm với lòng yêu thương của chúng ta được mấy người? Điều quan trọng nhất là lòng yêu thương của chúng ta phủ trùm vạn hữu thì chúng ta đã ra khỏi quy luật nhân quả. Và vì vậy, nhân quả không còn chi phối thân tâm chúng ta được.

Vì đức hiếu sinh, vì lòng thương yêu chúng sinh, chúng ta giúp đỡ và làm được những gì cho ai đều quý, chứ không phải đợi giúp cho hết mọi người rồi mới làm.

Bài học thứ 10: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: VỊ TỲ KHEO NHÂN TỪ

Có một vị tỳ kheo đến khất thực tại một nhà kia, được mời vào trong phòng ngồi một mình.

Người chủ lên tiếp chuyện, tay có đeo chiếc nhẫn, nhưng vô ý đánh rơi xuống đất mà không biết. Lúc ấy, có một con ngỗng đi ngang qua nuốt vào bụng. Vị tỳ kheo thấy, nhưng không nói gì. Một lát sau, người chủ mới biết mất chiếc nhẫn, bèn lên tìm hỏi:

- Thưa sư! Sư có thấy chiếc nhẫn con đánh rơi không? Vị tỳ kheo im lặng không đáp. Người chủ nhà sanh nghi hỏi dồn:

- Con mới làm rớt đây! Tại sao lại mất? Vị tỳ kheo vẫn im lặng.

Người chủ nhà không thể nén nổi lòng tức giận, bèn mắng chửi, đánh đập vị tỳ kheo.

Nhưng vị tỳ kheo vẫn thản nhiên cam chịu, không nói một lời, không phân bua lời hơn lẽ thiệt nào, chỉ biết im lặng như Thánh. Lúc ấy, người nhà chạy lên thưa với chủ rằng:

- Không biết vì sao mà con ngỗng của nhà tự nhiên ngã lăn ra chết ngoài sân kia.

Nghe lời nói xong, vị tỳ kheo mới thong thả trả lời:

- Khi nãy sư thấy con ngỗng nuốt chiếc nhẫn.

Người chủ liền bảo người nhà đem mổ bụng con ngỗng thì tìm được chiếc nhẫn.

Người chủ hối hận lên thưa với vị tỳ kheo:

- Bạch sư! Sao hồi nãy sư không nói cho con biết, để đến nỗi con sanh nghi, xúc phạm đến danh thể của sư, con rất lấy làm xấu hổ, mong sư cho con sám hối? Vị tỳ kheo trả lời:

- Ông nghĩ cũng phải, tôi không trách gì, nhưng nếu tôi nói ngay thì con ngỗng sẽ bị ông giết vì lời nói của tôi, việc ấy tôi không bao giờ dám làm cả, dầu có hại đến danh dự hay tánh mạng tôi cũng đành lòng, kẻo con vật chết vì lời nói của mình. Đây cũng là nhân quả của sư thôi, ông đừng quá hối hận và buồn bã, xem như sư đã trả nợ nhân quả kiếp trước vậy. Sư xin thành thật cảm ơn thí chủ.

Sau khi nhận bát cơm thí chủ xong, nhà tư cáo biệt trở về tịnh xá với vẻ ung dung thanh thản, an lạc như không có một việc gì xảy ra.

NHỮNG CÂU HỎI

NHỮNG CÂU HỎI

 

 

Câu hỏi 1:

Bị chửi mắng, mạ lị, mạt sát, vì nghi ngờ lấy chiếc nhẫn, vị tỳ kheo làm thinh không trả lời là đạo đức gì?

Trả lời câu hỏi 1:

Trong khi bị người chủ nhà chửi mắng, mạ lị, mạt sát không tiếc một lời nào, vì nghi ngờ vị tỳ kheo lấy chiếc nhẫn của mình, nhưng vị tỳ kheo vẫn làm thinh không nói một lời nào cả. Đó là đức hiếu sinh nhẫn nhục ý hành.

Sự nhẫn nhục của vị tỳ kheo này rất tuyệt vời. Tại sao vị tỳ kheo này nhẫn nhịn được như vậy? Nhẫn được như vậy vì Ngài có một lòng thương yêu chúng sinh rộng lớn như đất trời. Nhờ lòng yêu thương ấy nên Ngài mới làm thinh một cách kiên cường, anh dũng, trong khi bị người khác mạ lị, mạt sát thậm tệ bằng những lời lẽ thô ác, không những chạm đến cá nhân sư rất nặng, mà còn chạm đến Phật pháp rất lớn. Dũng cảm im lặng như Thánh, Ngài không minh oan một lời nào cả, rất tuyệt vời của đức hạnh hiếu sinh nhẫn nhục mà không thể có một đức hạnh nào hơn được. Tình thương yêu thật tuyệt vời và cao thượng không thể nghĩ lường đối với sự sống của con ngỗng. Danh dự có nghĩa gì phải không quý vị? Mạng sống của con ngỗng mới đáng nói lên. Ở bài này chỉ có giá trị của sự sống, ngoài ra không có giá trị nào hơn được.

Bởi, nếu không có đạo đức hiếu sinh nhẫn nhục thì ngay lúc người chủ nhà hỏi:

- Sư có thấy chiếc nhẫn của tôi ở đâu? Thì nhà sư đã nói ngay liền: “Con ngỗng nuốt chiếc nhẫn”, thì đâu có sự gì phải nói nữa. Phải không quý học viên? Vì thương con ngỗng, nên nhà sư làm thinh chịu đựng, mới để người khác nghi ngờ và chửi mắng mình một cách tệ hại làm mất thể diện người tu sĩ Phật giáo. Mặc cho người chủ nhà chửi mắng bao nhiêu, nhưng lòng yêu thương chúng sinh không cho phép nhà sư nói ra sự thật.

Đức hiếu sinh im lặng như Thánh thật tuyệt vời. Nếu không có lòng thương yêu, chắc không ai có thể nhẫn nhục được như thế.

Bởi vậy, muốn lập đức hạnh nhẫn nhục thì chỉ có lòng thương yêu là pháp đệ nhất. Mong rằng quý học viên tu học đạo đức hiếu sinh thấm nhuần được đức hạnh thương sự sống của muôn loài thì hành tinh này sẽ bình an và hạnh phúc biết bao.

Câu này chúng ta có thể dùng đạo đức hiếu sinh nhân quả chuyển hóa để trả lời cũng được, nhưng lại lạc đề, làm mất ý nghĩa bài học.

Câu hỏi 2:

Bài học này dạy đạo đức gì?

Trả lời câu 2:

Bài học này dạy một gương hạnh ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH NHẪN NHỤC của một vị tỳ kheo.

Một vị tu sĩ Phật giáo mà không giữ được hạnh từ bi (đức hiếu sinh) thì không xứng đáng là tu sĩ Phật giáo. Vị tỳ kheo này rất xứng đáng là tu sĩ Phật giáo, là người đã chứng giới luật, sống với lòng từ bi. Chỉ có giới luật mới giúp cho người tu sĩ ly dục ly ác pháp, mới có tâm từ bi rọng lớn như vậy, mới nhẫn nhục im lặng như Thánh tuyệt vời.

Trong khi bị người khác mạ lị mạt sát những lời nói thậm tệ, nhưng vẫn an nhiên tự tại im lặng, người tu sĩ như vậy mới xứng đáng là tu sĩ Phật giáo.

Câu hỏi 3:

Người chủ nhà mất chiếc nhẫn tức giận nghi ngờ vị tỳ kheo lấy là người thiếu đức hiếu sinh có đúng không? Người nghi ngơ như vậy có đáng thương không?

Trả lời câu 3:

Người chủ nhà mất chiếc nhẫn nghi ngờ cho vị tỳ kheo lấy, nhưng không chịu suy nghĩ kỹ lại, bồng bột, nông nổi tức giận mắng chửi vị tỳ kheo thậm tệ, đó là tạo tội ác rất lớn đối với người tu sĩ Phật giáo đầy đủ giới luật như nhà sư này.

Người có tâm nghi ngờ người này như thế này, người khác như thế kia là người đang ở trong ác pháp tự làm khổ mình, khổ người mà không biết. Thật đáng thương! Quý học viên cứ xét: người sinh tâm nghi ngờ là người phải chịu khổ đau trước, và người bị nghi ngờ thì buồn tủi đau khổ sau, có đúng như vậy không? Người còn tâm nghi ngờ là người không có đức hiếu sinh, không có lòng thương yêu người khác, chỉ biết có của cải, tài sản; chỉ biết thương của cải, tài sản của mình; chẳng biết thương ai cả, xem vàng bạc của cải là trọng hơn người. Người xưa nói: “Đồng tiền như phấn thổ, nhân nghĩa tợ thiên kim”.

Cuộc đời này người ta xem tiền bạc rất lớn, còn tình thương người như đất cát. Cho nên đụng tới tiền bạc là người ta nghi ngờ thế này thế khác, thật là tâm lượng nhỏ hẹp.

Người có tâm nghi ngờ là người thường đau khổ nhất thế gian, người nghi ngờ hay làm điều ác, tạo nhân quả không lành. Vì thế tâm nghi ngờ của họ đã làm cho họ khổ đau.

Khi họ mở miệng ra nói những điều ác khẩu.

Người nghi ngờ thường chịu nhân quả bệnh tật lặt vặt nay đau bệnh này, mai đau bệnh khác, không lúc nào thân họ được bình an và vô sự.

Người chủ nhà nghi ngờ vị tỳ kheo lấy chiếc nhẫn của mình là một điều nghi oan cho người tu hành thì tội rất nặng. Người có tâm nghi ngờ là người đã đánh mất đức hiếu sinh. Mất đức hiếu sinh thì người ấy đầy dẫy sự khổ đau.

Người có tâm nghi ngờ rất đáng thương, vì họ chưa hiểu biết ngũ triền cái; chưa biết luật nhân quả thiện ác; chưa thông suốt đạo đức hiếu sinh lòng thương yêu sự sống trên hành tinh này; chưa hiểu trên đời này chỉ có lòng yêu thương mới xóa tan những phiền não khổ đau; mới đem lại sự bình an cho muôn loài; mới biến cõi thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

Câu hỏi 4:

Tâm nghi ngờ là một ác pháp làm khổ mình, khổ người và làm tăng thêm tội lỗi có đúng không? Nó có phải là đạo đức hiếu sinh không?

Trả lời câu hỏi 4:

Đúng vậy, tâm nghi ngờ là một ác pháp làm khổ mình, khổ người, và làm tăng thêm những tội lỗi. Chính tâm nghi ngờ đã làm tăng thêm cho đời sống bất an, sống luôn luôn lo lắng, sợ hãi người này người kia, luôn sợ họ hại mình, nói xấu, bịa chuyện vu oan, giáng họa cho mình, v.v... Tâm nghi ngờ là một ác pháp, nó đánh mất lòng hiếu sinh của con người, vì có tâm nghi ngờ là đức hiếu sinh không còn.

Lòng nghi ngờ là một tính rất xấu, cực ác.

Nó là một tính trong năm tính xấu ác của ngũ triền cái mà đức Phật đã dạy: 1- Tính tham; 2- Tính sân; 3- Tính si; 4- Tính mạn và 5- Tính nghi. Tính nghi là tính cuối cùng trong năm tính này. Nó cũng ác độc ghê gớm lắm, thường làm cho người ta khổ đau nhiều nhất.

Như trên quý học viên đã thấy tính nghi của ông chủ nhà mất của: vừa nghi ngờ, vừa sân giận, vừa nói lời hung ác chửi mắng mạ lị mạt sát, vừa nói lời không đúng sự thật, nói oan cho người. Một tính nghi mà sinh ra nhiều thứ tội lỗi như vậy, chúng ta là những phật tử không nên nghi ngờ, cần phải từ bỏ và tránh xa tâm nghi ngờ. Người hay nghi ngờ người khác là người tự làm khổ mình, tạo thêm tội ác nói xấu người. Bởi vì tâm nghi ngờ là tâm không thể hiểu đúng sự thật nên thường sai, dù nghi đúng cũng mang đến sự khổ đau cho mình. Cho nên ai có tính hay nghi ngờ thì hãy mau mau buông xuống, nếu không buông xuống thì trước hại mình, sau hại người và làm mình khổ, người khác khổ.

Tâm nghi ngờ thường làm mất lòng thương yêu của chúng ta, hễ có nghi ngờ là có tâm không ưa, không thích. Không ưa, không thích là có sự khổ đau.

Câu hỏi 5:

Kết luận bài này dạy chúng ta không nên nghi ngờ, vì nghi ngờ là một ác pháp làm khổ mình, khổ người. Có đúng không?

Trả lời câu hỏi 5:

Kết luận bài này dạy chúng ta không nên nghi ngờ, vì nghi ngờ là một tính xấu ác làm khổ mình, khổ người, nên cần phải khắc phục từ bỏ tính nghi ngờ của mình và tránh xa những người có tâm tính nghi ngờ.

Bất cứ ai trong cuộc đời này làm những điều mờ ám như: gian tham, trộm cắp, cướp giựt, giết người hay làm bất cứ một việc ác hại nào khác chúng ta cũng đừng nghi ngờ.

Họ làm ác không thể nào trốn tránh khỏi quả đau khổ; không thể nào tránh luật pháp Nhà nước được, còn riêng chúng ta phải giữ tâm mình không nghi ngờ ai hết. Nếu tâm vừa khởi nghi là dẹp xuống liền, đừng để ôm ấp trong lòng.

Dẹp xuống liền bằng cách nào? Dẹp xuống liền bằng cách tư duy suy nghĩ: đức Phật dạy có năm điều ác trong tâm của mọi người, đó là: tham, sân, si, mạn, nghi. Năm tâm ác này chỉ có lòng yêu thương là diệt sạch ngay liền.

Cho nên khi thấy ai đang ở trong ác pháp thì chúng ta khởi lòng yêu thương họ, khi yêu thương họ thì tâm tham, sân, si, mạn, nghi trong lòng chúng ta liền xả sạch.

Lòng yêu thương là đệ nhất pháp xả tâm, nếu ai sống với lòng thương yêu tròn đầy thì người ấy là bậc A La Hán. Bởi đức hiếu sinh là một giới luật ly dục, ly ác pháp đệ nhất, xin quý học viên lưu ý.

Ví dụ: Thấy hai người đang nói chuyện gì về mình, nhưng mình không biết họ đang nói gì về mình nên sinh tâm nghi ngờ họ nói xấu mình, tức là ngay khi mình nghi ngờ như vậy là mình đã làm khổ mình, nếu không biết xả tâm nghi ngờ thì tâm nghi ngờ sinh ra tâm không ưa thích, tâm ghét. Từ tâm không ưa thích nó tự làm khổ mình, khổ người. Cho nên chúng ta cần phải sáng suốt, không nên để tâm nghi ngờ xen vào làm cho cuộc sống bất an, từ người tốt trở thành người xấu, người ác.

Bài học thứ 11: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: MƯỜI MỘT NĂM CÕNG BẠN ĐẾN TRƯỜNG

Đã 11 năm nay, hình ảnh 2 cô bé cõng nhau trên lưng rồi trên xe đã làm cho mọi người vô cùng khâm phục. Đó là em Đỗ thị Hường 17 tuổi, hiện đang học lớp 12C4 và em Nguyễn thị Ngân, 19 tuổi, học sinh lớp 12A3 trường PTTH Yên Lạc 2, tỉnh Vĩnh Phúc.

Cái duyên đưa đẩy hai người bạn này đến với nhau từ năm học lớp 2. Vào một buổi tan trường. Hường thấy một cô bạn gái bé nhỏ đang ngồi chờ người nhà đến đón, nhưng chờ hoài không thấy, sợ quá cô bạn ấy bật khóc.

Hường đã cõng bạn về nhà. Lúc ấy Hường thấy thương bạn quá và chỉ nghĩ giúp bạn một vài lần thôi, không ngờ tình bạn của Hường - đã gắn bó hơn 11 năm nay. Dù mưa hay nắng, suốt 4 năm học ở bậc tiểu học, Hường đã đi bộ đến nhà Ngân rồi cõng bạn đến trường.

Đến khi lên cấp 2 thì mẹ Hường sắm cho chiếc xe đạp đi học và Hường đã dùng chiếc xe đạp ấy để cùng bạn đến trường. Có một điều khá lý thú là gia đình em không ai hay biết chuyện này suốt 10 năm qua. Ông Đỗ Văn Quý, bố của Hường cho biết: “Chúng tôi đi làm bên xóm bên, nghe bà con nói đứa con gái học lớp 11 nhà tôi thường qua bên này chở một con bé tật nguyền đến trường ấy. Tôi rất ngạc nhiên, về nhà hỏi cháu và bàn bạc với gia đình sửa sang lại chiếc xe cho chắc, kẻo chở té con nhà người ta”. Cứ như thế hai cô gái trở thành đôi bạn cùng tiến trong học tập, bạn tâm tình và như hai chị em trong một gia đình. Từ khi học lớp 9, Hường đã phải ra đồng lao động như làm lúa, tra đỗ...

Ngân tâm sự: “Điều em quý nhất ở Hường la đức tính cần cù, chịu khó, nhân hậu và tốt bụng, sẵn sàng chia sẻ với mọi người tất cả mọi điều”. Một tình bạn gắn bó với 11 năm không thể không có lúc mâu thuẫn, giận hờn, nhưng khi cùng nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống thì chính những điều ấy đã đem lại cho Hường, Ngân một chân giá trị của tình bạn.

HỒNG ĐÀO

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1:

Hường thấy một cô bạn gái bé nhỏ đang ngồi chờ người nhà đến đón, nhưng chờ hoài không thấy, sợ quá cô bạn ấy bật khóc. Hường đã cõng bạn về nhà”. Đoạn này chỉ rõ có hai đức hiếu sinh. Vậy đức hiếu sinh ý hành ở đoạn nào? Đức hiếu sinh thân hành ở đoạn nào?

Trả lời câu 1:

Đạo đức hiếu sinh ý hành ở đoạn: “Hường thấy một cô bạn gái bé nhỏ đang ngồi chơ người nhà đến đón, nhưng chờ hoài không thấy, sợ quá cô bạn ấy bật khóc”. Khi nhìn thấy cảnh cô bạn gái bé nhỏ chờ đợi, sợ, khóc, nên ý suy nghĩ rất thương bạn. Ý tư duy suy nghĩ rất thương bạn, đó là đức hiếu sinh ý hành thương người của cháu Hường.

Đạo đức hiếu sinh thân hành ở đoạn này: “Hường đã cõng bạn về nhà”. Hành động cõng bạn là hành động thương người, đó là đạo đức hiếu sinh thân hành thương người tật nguyền của cháu Huờng.

Quý học viên học bài này sẽ hiểu rõ đạo đức hiếu sinh ý hành, khẩu hành và thân hành một cách dễ dàng không có khó khăn.

Phải không quý vị?

Câu hỏi 2:

Dù mưa hay nắng, suốt 4 năm học ở bậc tiểu học, Hường đã đi bộ đến nhà Ngân rồi cõng bạn đến trường”. Đoạn này đạo đức hiếu sinh thân hành ở đâu? Đạo đức nhân quả ở đâu?

Trả lời câu 2:

Đạo đức hiếu sinh thân hành là một tình thương hiếm có trên đời này giữa hai cháu bé học sinh thật đáng ca ngợi. Suốt bốn năm trời cõng bạn dù mưa hay nắng vẫn không bỏ nhau, rồi tiếp tục cho đến 11 năm. Tình thương ấy làm cho mọi người xúc động.

Bất cứ chúng ta làm một điều gì giúp người khác không tính hơn thiệt đều xuất phát từ lòng yêu thương - đức hiếu sinh.

Hai cháu bé này có duyên nhân quả trong tiền kiếp, “chị ngã em nâng, lá lành đùm lá rách”.

Vì thế, hiện nay trong tình thương gắn bó suốt 11 năm vẫn giúp nhau vượt khó.

Nhân quả thường tương ưng, nếu một hành động thiện sẽ tương ưng với những người thiện và gặp nhau giúp nhau trong tình thương, dù gian khổ không bỏ nhau. Còn nếu một hành động ác như: giết hại, chửi mắng, mạ lị, mạt sát, nói xấu, nói li gián, nói vu khống, v.v... sẽ tương ưng gặp những người ác trong hiện kiếp hoặc kiếp sau là những người xa lạ, hoặc những người thân trong gia đình như: vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, v.v... cãi cọ rầy rà chửi mắng nhau, có khi chém giết nhau, nói xấu nhau cũng do từ nhân quả trước mà hiện tại phải trả vay, thiện thì thương nhau, ác thì ghét nhau, thù hận.

Cho nên người hiểu luật nhân quả rất sợ những hành động thân làm những điều ác; miệng nói những lời hung dữ, ý gian xảo nói không thật, nói xấu, nói lời li gián chia rẽ; ý suy nghĩ những điều ác, hoặc tính toán hại người bằng mưu này cách kia, v.v...

Khi hiểu rõ lý nhân quả, quý Phật tử hãy cẩn thận khi suy nghĩ, khi nói, khi làm điều gì đều phải cân nhắc, suy nghĩ kỹ lưỡng rồi mới làm, mới nói thì nhân quả không tác động làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.

Khi đức hiếu sinh tăng trưởng trong lòng thì tất cả ác pháp đều bị diệt sạch. Tất cả ác pháp đều bị diệt sạch thì trong tâm chỉ còn duy nhất là lòng yêu thương. Bởi vậy lòng yêu thương là pháp xả tâm đệ nhất.

Hành động nhân quả đều phóng xuất từ trường. Nhân ác thì phóng xuất từ trường ác; nhân thiện thì phóng xuất từ trường thiện, nhưng từ trường gồm có hai:

1- Từ trường phóng xuất theo duyên nhân quả nghiệp báo hiện tại.

2- Từ trường phóng xuất theo duyên nhân quả nghiệp báo cận tử nghiệp.

Chủ đề của bài học này là dạy về đạo đức nhân bản - nhân quả hiếu sinh hiện tại nghiệp báo. Cho nên học viên phải trả lời ngay chủ đề là phải theo từ trường phóng xuất theo duyên nhân quả nghiệp báo hiện tại mà trả lời là không sai. Còn nếu trả lời theo duyên nhân quả nghiệp báo cận tử nghiệp là sai, là lạc đề.

Học viên trước khi trả lời phải xem lại chủ đề của bài học rồi xác định nhân quả của chủ đề thuộc loại gì? Hiện tại nghiệp báo hay cận tử nghiệp báo. Cho nên bài này học viên nào trả lời theo từ trường phóng xuất duyên nhân quả nghiệp báo cận tử thì không đúng chủ đề.

Không đúng chủ đề mà trả lời câu hỏi là sai, cần phải hiểu rõ chủ đề của bài rồi mới trả lời.

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH

Thư của Kim Quang:

Có một tu sinh Nam gửi cho con một bức thư, nhờ Trưởng Lão trả lời những câu hỏi có liên quan đến những bài học trong giáo án lớp học đạo đức HIẾU SINH, nhưng con nhận xét những câu hỏi này không nằm trong lớp học HIẾU SINH, mà ở những lớp học khác cao hơn, tuy nhiên không lạc đề của bài học, nhưng không ở lớp học mà con đang dạy. Vậy con mong Trưởng Lão từ bi thương xót chỉ dạy và giảng trạch cho các tu sinh hiểu. Đây là bức thư của tu sinh:

“Kính bạch Thầy cho con xin hỏi:

Câu hỏi 1:

Trong bài giảng: “Thầy Tỳ Kheo Nhân Từ”, hành động im lặng của vị tỳ kheo trước những câu hỏi của ông chủ nhà: “Thưa sư! Sư có thấy chiếc nhẫn của con đánh rơi không? Và câu hỏi tiếp: “Con mới làm rớt đây! Tại sao lại mất?” Sự im lặng của sư làm cho ông chủ nhà sinh ra nghi ngờ dẫn đến ác khẩu và có thân hành ác.

Trong lớp có phật tử nêu ra câu hỏi về hành động im lặng của vị tỳ kheo là đúng hay sai, theo phật tử nói rằng: “Đạo Phật la đạo trí tuệ có thiện xảo, có khéo léo. Do đó vị tỳ kheo phải biết rõ là khi mình im lặng nhẫn nhục sẽ làm cho vị chủ nhà sinh ra các ác pháp là nghi ngờ, nóng giận...

Để giải quyết trường hợp này, vị phật tử trả lời thay cho vị tỳ kheo: “Tôi là đệ tử Phật, phải giữ gìn các giới luật: 1- Giới sát sinh; 2- không tham lam trộm cướp; 3- không nói dối”.

Theo con nghĩ: Khi vị tỳ kheo trả lời như vậy là người có trí tuệ biết khéo léo ngăn ngừa các ác pháp xảy đến cho gia chủ va mình. Đó cũng là câu nói có đạo đức hiếu sinh khẩu hành.

Vậy xin Thầy cho ý kiến câu trả lời như vậy có được không? Hay chỉ nên im lặng như Thánh để trả nhân quả?

Trả lời câu hỏi 1:

Khi đọc lại bài này, quý tu sinh sẽ thấy tác giả viết bài này chủ đề nêu cao đức nhẫn nhục hiếu sinh. “SỰ IM LẶNG NHƯ THÁNH” của vị tỳ kheo là tác giả đã đạt được mục đích viết bài, còn trả lời như phật tử trên đây thì lạc đề, lấy đề phụ làm đề chánh của bài.

Bài học này ở lớp NGŨ GIỚI, nên câu hỏi và câu trả lời chỉ nhắm vào chủ đề của bài, chứ không phải như bài học ở lớp THẬP THIỆN. Cái sai của quý tu sinh là không hiểu chủ đề của bài, nên luận về đạo đức đi lạc đề chính, biến thành bài học mất giá trị.

Để trả lời đúng với chủ đề, để thực hiện đức hiếu sinh ở góc độ ĐỨC NHẪN NHỤC HIẾU SINH NHÂN QUẢ, thì nên im lặng như Thánh là đúng chủ đề.

Bài học này đưa ra là dạy về đức nhẫn nhục hiếu sinh nhân quả, chứ không phải dạy đạo đức chuyển hóa nhân quả hiếu sinh.

Trả lời như câu trên là đức hiếu sinh chuyển hóa nhân quả. Bài này không phải mục đích đó.

Trong cuộc sống của chúng ta có nhiều việc xảy ra, bất cứ một việc gì, nếu người ta ở trong ác pháp là họ sẽ chửi mắng, mạ lị, mạt sát và đánh đập chúng ta nữa mà không cần chúng ta phân bua phải trái, trắng đen, v.v...

Bài học đạo đức nhẫn nhục hiếu sinh ở đây là để chúng ta noi theo gương của vị tỳ kheo này, phải tập im lặng như Thánh để thực hiện đức hiếu sinh nhẫn nhục. Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta không phải lúc nào cũng dùng đạo đức hiếu sinh chuyển hóa nhân quả được. Có lúc cần nói thì nói, có lúc không cần nói thì phải im lặng để làm một bài học giá trị đạo đức cho những người tính quá nóng nảy nông nổi thiếu suy tư.

Chủ đề bài học “Thầy Tỳ Kheo Nhân Từ” có hai đức hạnh giá trị:

1- Vị tỳ kheo im lặng như Thánh tức là thực hiện đức hiếu sinh nhẫn nhục.

2- Khi biết rõ sự việc, người chủ nhà rất hối hận về sự nghi ngờ, tức giận nông nổi của mình, tức là đức hiếu sinh ăn năn hối lỗi.

Cho nên bài học “Thầy Tỳ Kheo Nhân Từ” có một giá trị đạo đức rất lớn là lột trần và làm nổi bật hai đức hạnh HIẾU SINH NHẪN NHỤC và HIẾU SINH ĂN NĂN HỐI LỖI. Còn trả lời cách khác thì lạc đề, làm mất giá trị của bài học này.

Cho nên những câu trả lời của các tu sinh thường lạc đề, làm mất giá trị của bài học, biến bài học đạo đức thành một bài học tranh luận. Cái ngã của các tu sinh cho mình là hiểu biết, không ngờ cái hiểu biết của các tu sinh lại để cho người khác thấy cái không hiểu biết của mình.

Bài học “Thầy Tỳ Kheo Nhân Từ” này có hai cách trả lời:

1- Im lặng như Thánh đó là đức hiếu sinh nhẫn nhục ý hành.

2- Tôi là đệ tử Phật phải giữ gìn các giới luật: 1- Giới sát sinh; 2- không tham lam trộm cướp; 3- không nói dối. Đó là đức hiếu sinh khẩu hành chuyển đổi nhân quả ở lớp khác.

Hai câu này trả lời đều đúng nhân quả, nhưng câu 1 ở trên đúng chủ đề của bài học nhẫn nhục; còn câu dưới lạc đề của bài học.

Trong khi thi mà tu sinh trả lời như câu 2 ở trên là thi rớt, các tu sinh có biết không? Khi trả lời câu hỏi thì phải hiểu rõ chủ đề bài học. Chưa hiểu rõ chủ đề bài học trả lời là sai.

Muốn trả lời không sai về đạo đức nhân bản - nhân quả thì phải hiểu rõ nhân quả trong ba thời gian: quá khứ, hiện tại và vị lai. Hiểu như vậy chưa đủ, còn phải hiểu rõ những từ trường tương ưng nhân quả của người còn đang sống (hiện tại nghiệp), của người sắp chết (cận tử nghiệp).

Sau khi lắng nghe từng câu trả lời của tu sinh, thì Thầy thấy các tu sinh hiểu nhân quả còn lờ mờ chưa rõ ràng, giống như những người mù rờ voi, kẻ hiểu chỗ này người hiểu chỗ kia, ai cũng cho mình là hiểu đúng, rồi sinh ra tranh luận hơn thua làm mất ý nghĩa đạo đức hiếu sinh mà mình đang tu học, làm lạc đề bài học, khiến cho những người khác chưa thông suốt đạo đức nhân bản - nhân quả nghe dao động tâm, không biết nghĩa nào đúng, nghĩa nào sai, nhất là ý kiến của các tu sinh làm mất giá trị bài học.

Những bài học đạo đức hiếu sinh này còn học lại ở những lớp học cao hơn, chừng đó các tu sinh đã thông suốt đạo đức nhân bản - nhân quả, mới đủ tri kiến hiểu biết dẫn chứng tất cả đức hiếu sinh ở từng mọi góc độ nhân quả của bài học, nhờ đó để biết áp dụng đức hiếu sinh ấy vào đời sống hằng ngày của các tu sinh, còn bây giờ các tu sinh hãy nhắm vào chủ đề của bài học, đừng góp ý lạc đề làm mất thì giờ vô ích mà nuôi lớn thêm bản ngã.

Các tu sinh có đọc bài những người mù rờ voi chưa? Người rờ cái tai cho con voi là cái thúng; người rờ cái ngà cho con voi là cán cày; người rờ cái đuôi cho con voi là cây chổi; người rờ cái chân cho con voi là cây cột.

Những câu trả lời của các tu sinh về đạo đức nhân bản - nhân quả hiếu sinh hiện giờ giống như những người mù rờ voi này vậy.

Câu hỏi 2:

Khi lớp học bắt đầu, thầy Chơn Thành nói cho chúng niệm hồng danh 5 phút. Con không hiểu ý nghĩa của việc tụng niệm này?

Trả lời câu hỏi 2:

Đó là Thầy Chơn Thành hướng dẫn niệm hồng danh đức Phật cho tu sinh quen để niệm Phật không lỏi chỏi, kẻ đọc trước, người đọc sau. Sau khi thuần thục thì không có niệm như vậy nữa, chỉ niệm hồng danh đức Phật khi mới vào lớp học và đọc suôn sẻ ăn rập với nhau mà thôi, chứ không có tụng niệm ê a như Đại thừa.

Câu hỏi 3:

Mười một năm cõng bạn đến trường...”

Trả lời câu hỏi 3:

Muốn hiểu đạo đức hiếu sinh của bài học này thì phải nhận xét nghiệp báo nhân quả qua hai trường hợp:

1- Từ trường nhân quả thiện ác hiện sinh nghiệp báo phóng xuất tương ưng tái sinh.

2- Từ trường nhân quả thiện ác cận tử nghiệp báo phóng xuất tương ưng tái sinh.

Tuổi tác sinh ra đồng nhau để trả nhân quả trong hiện kiếp là từ trường cận tử nghiệp tái sinh, còn tuổi tác không đồng nhau để trả nhân quả trong hiện kiếp là từ trường nhân quả thiện ác hiện sinh nghiệp báo phóng xuất tương ưng tái sinh.

Hai cháu bé gái này tuổi tác chênh lệch, cõng nhau vượt khó suốt 11 năm thì biết ngay đức hiếu sinh thân hành từ từ trường nhân quả thiện ác hiện sinh nghiệp báo phóng xuất tương ưng tái sinh.

Bài học thứ 12: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: CHỈ CÓ SỐNG ĐẠO MỚI VUI ĐỜI

Một thời, Phật ở tịnh xá Kỳ Hoàn, thuộc thành Xá Vệ. Bấy giờ có ba người cãi nhau về sự khoái lạc. Một người bảo:

- Thân thuộc quyền quý, ca ẩm là khoái lạc.

Một người bảo:

- Tiền của giàu nhiều, vinh quang là khoái lạc.

Một người bảo:

- Thê thiếp đẹp đẽ, đắm mê là khoái lạc.

Cãi cọ phân vân nhau mãi, ai cũng bảo mình nói đúng, đức Phật nghe thế bảo:

Các người chỉ tìm khoái lạc theo sở thích của mình, phát ngôn như vậy, chứ chưa thấy cái khổ của nó. Còn cái vui chung của mọi người làm sao các người biết được.

Các người hãy lắng nghe, Ta sẽ chỉ dạy cho các ngươi hiểu rõ:

1/ Tất cả các pháp trên đời này đều vô thường. Hằng năm đều có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, nhưng Xuân, Hạ, Thu, Đông đều thay đổi liên tục. Ví dụ: Mùa Xuân đến rồi lại đi, sẽ để lại sự điêu tàn nóng bức của mùa Hạ.

Vậy những người thân thuộc sẽ ly biệt và biệt ly mãi không bao giờ trở về. Đó sự sầu khổ chứ vui chỗ nào đâu? 2/ Tiền của nhiều là nhân lo sợ, lo sợ trộm cắp, cướp của giết người. Đó sự sầu khổ chứ vui chỗ nào đâu? 3/ Thê thiếp nhiều sinh ra ghen tuông, trong cuộc sống bất an thường nay cãi cọ chuyện này mai cãi cọ chuyện khác. Đó là thảm họa sầu bi, chứ vui chỗ nào đâu? Và tất cả xoay quanh mình mà xâm phạm, làm đau khổ. Người chí nhân chỉ có một khoái lạc, đó là: “CHỈ CÓ SỐNG ĐẠO MỚI VUI ĐỜI”.

Nhìn nhận sự tương quan sinh tồn, chí nhân khổ cái khổ của người, vui cái vui của muôn loài, nên lợi người trước mình. Cái vui ấy là cái vui vô lượng. Các ngươi hãy đánh đổi sự khoái lạc nhỏ hẹp cho cái vui vô lượng ấy.

KINH PHÁP CÚ

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: Đại ý bài này nói gì? Bài này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 2: Thân thuộc quyền quý, ca ẩm là khoái lạc. Lời nói này có đúng không? Lời dạy này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 3: Tiền của giàu nhiều, vinh quang la khoái lạc. Lời nói này có đúng không? Lời dạy này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 4: Thê thiếp đẹp đẽ, đắm mê la khoái lạc. Lời nói này có đúng không? Lời dạy này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 5: Kết luận bài này nói gì? Lời dạy này dạy đạo đức gì? Hãy làm bài luận nói về “ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH”.

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

Đại ý bài này nói: “CHỈ CÓ SỐNG ĐẠO MỚI VUI ĐỜI”. Vậy sống đạo là sống như thế nào? Như quý học viên đã biết, đạo Phật là đạo TỪ BI, đạo từ bi tức là đạo lấy tình thương làm đầu, tức là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH, đạo thương sự sống của muôn loài. Ý nghĩa của câu này là chỉ sống có tình thương với tất cả mọi người thì đời mới an vui. Câu nói ngắn nhưng ý nghĩa rất đầy đủ của đời sống làm người: “CHỈ CÓ SỐNG ĐẠO MỚI VUI ĐỜI”.

Chữ “ĐẠO” chúng ta đừng hiểu theo nghĩa tôn giáo, mà hãy hiểu theo nghĩa “LÒNG YÊU THƯƠNG”.

1/ Lòng thương yêu sẽ giúp chúng ta không còn giận hờn, oán ghét ai.

2/ Lòng thương yêu sẽ giúp chúng ta tha thứ những lỗi lầm của người khác.

3/ Lòng thương yêu sẽ giúp chúng ta không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.

4/ Lòng thương yêu sẽ giúp chúng ta sống đời sống thanh thản, an lạc và vô sự.

5/ Lòng thương yêu sẽ giúp chúng ta ngăn ác, diệt ác pháp rất dễ dàng.

6/ Lòng thương yêu sẽ giúp chúng ta chuyển đổi nhân quả khổ đau trở thành nhân quả hạnh phúc, an vui.

Ở đâu có lòng yêu thương thì ở đó là Thiên Đàng, Cực Lạc. Lòng yêu thương quan trọng như vậy, nên đức Phật dạy: “CHỈ CÓ SỐNG ĐẠO MỚI VUI ĐỜI”. Chỉ có mọi người sống trong lòng yêu thương thì đời mới có cái vui chân thật.

Người không biết sống trong ĐẠO là người tự làm khổ đau cho mình, cho người, nay chuyện này khổ đau chưa dứt, thì mai lại có chuyện khác khổ đau tiếp nối. Người không biết sống ĐẠO, chỉ biết chạy theo dục lạc, sống trong cái vui thế tục là sống trong cái khổ theo quy luật nhân quả của vũ trụ. Người không biết sống trong ĐẠO chỉ còn tuân theo quy luật đó, chứ không bao giờ làm khác được.

Trả lời câu hỏi 2:

“Thân thuộc quyền quý, ca ẩm là khoái lạc”. Lời nói này không đúng. Thân thuộc quyền quý, ca ẩm là khổ đau. Nếu quý học viên không tin, chúng tôi sẽ giải thích cho quý vị hiểu quy luật nhân quả là quy luật vô thường. Cho nên những người thân thuộc sẽ ly biệt và biệt ly mãi không bao giờ trở về.

Đó sự sầu khổ chứ vui chỗ nào đâu? Có đúng không quý vị? Nhìn lại từ xưa đến nay, tổ tiên, ông bà, cô bác, dì dượng, cậu mợ, cha mẹ, anh em, chị em, có ai còn sống mãi không? Hay họ đã ra đi, chỉ để lại trong lòng chúng ta những thương nhớ sầu khổ, dù là những dòng họ làm vua, làm quan, có những người nào không chết không? Cho nên bảo: “Thân thuộc quyền quý, ca ẩm là khoái lạc”, điều đó rất sai, không đúng.

Người hiểu như thế này là người không hiểu ĐẠO là gì, chỉ hiểu đạo bằng cách cúng bái cầu siêu, cầu an, tụng kinh, ngồi thiền niệm chú, niệm Phật, xin xăm, bói quẻ, xem ngày giờ tốt xấu dựng nhà, xây hướng, cưới vợ gả chồng, xây mồ mả. Đó là hiểu đạo bằng sự mê tín lạc hậu.

Đừng đứng trong dục lạc thế gian mà cho đó là hạnh phúc, an vui, thì thật là người điên đảo tưởng.

Trả lời câu hỏi 3:

“Tiền của giàu nhiều, vinh quang là khoái lạc”. Lời nói này không đúng.

Tiền của nhiều là nhân lo sợ, lo sợ trộm cắp, cướp của giết người. Đó sự sầu khổ chứ vui chỗ nào đâu? Chúng ta thử cứ kê khai những nhà tỷ phú trên hành tinh này để xem những nhà tỷ phú nào không đau khổ, sống toàn là vinh quang, là khoái lạc. Điều này không bao giờ có. Phải không các quý học viên? Người giàu sang của cải nhiều chừng nào thì sự khổ đau nhiều chừng nấy.

Quý học viên cứ tự xét mình càng có của cải nhiều càng lo sợ: lo sợ trộm cắp, cướp giựt, con cái trong nhà phá tán; lo sợ thủy tai hỏa hoạn, động đất, sóng thần, bão tố, v.v...

Cho nên đừng nghĩ tưởng có của cải nhiều là mua tiên cũng được, là hạnh phúc, là khoái lạc.

Biết bao nhiêu người chạy theo tiền của mà vào tù ra khám, mà thân bại danh liệt.

Báo chí đã thường đăng in tức ông giám đốc này vào tù, ông giám đốc kia bị tịch thu tài sản. Một khi mọi việc đã bị bại lộ thì Bộ Trưởng, Thủ Tướng Chính Phủ vẫn bị đi tù và tử hình như thường. Cho nên bảo rằng:

“Tiền của giàu nhiều, vinh quang là khoái lạc”, đó là sống trong tưởng, trong mơ.

Trả lời câu hỏi 4:

“Thê thiếp đẹp đẽ, đắm mê là khoái lạc.” Lời nói này không đúng.

Thê thiếp nhiều sinh ra ghen tuông, trong cuộc sống bất an thường nay cãi cọ chuyện này, mai cãi cọ chuyện khác. Đó là thảm họa sầu bi, chứ vui chỗ nào đâu? Người xưa nói: “Một vợ nằm giường lèo; 2 vợ nằm chèo queo; ba vợ nằm chuồng heo”.

Đúng vậy, câu ca dao này là kinh nghiệm nhiều đời của ông cha chúng ta đổi lấy bằng một giá trị cuộc sống.

Dù ba thê bảy thiếp, trong thời phong kiến người đàn ông có đầy đủ quyền uy trong tay và được luật pháp phong kiến ủng hộ, áp đặt người phụ nữ, nhưng họ là con người chứ không phải con thú vật: “Chồng một thì sống, chồng chung thì đừng”.

Cho nên trong thời Phong Kiến Trung Quốc, Đế Quốc La Mã, tuy pháp luật và chế độ bắt buộc người phụ nữ như con súc vật sống trong Tam cung, Lục viện như một cái chuồng kín cổng cao tường, nhưng vẫn bất an, vẫn chống đối nhau, vẫn giết hại lẫn nhau vì lòng ghen tuông.

Vậy câu trên bảo rằng: “Thê thiếp đẹp đẽ, đắm mê là khoái lạc”. Đúng là con người đắm mê sắc dục nên mới tuyên bố như vậy, thật là người mù không thấy ánh sáng mặt trời, không thấy nam nữ sắc dục là con đường đau khổ, con đường sinh tử luân hồi.

Dù một vợ một chồng nhưng cũng không hạnh phúc đâu! Thường chồng hay vợ khi họ thương nhau tấm lòng họ rất ích kỷ, ti tiện, nhỏ hẹp, muốn chiếm hữu người chồng hay người vợ là của riêng họ. Cho nên khi thấy một người khác phái nói chuyện với vợ hay chồng là họ tức lên lồng lộng, tìm mọi cách để diệt trừ tình địch.

Báo chí thường đăng tin tức xảy ra những vụ đánh ghen đâm chém, rạch mặt hoặc tạt axit để thẹo muôn đời.

Xin quý học viên hãy đọc tập III “GIÁO ÁN RÈN NHÂN CÁCH LÒNG CHUNG THỦY”.

Đó là một bộ sách dạy đạo đức gia đình của Phật giáo, mà trong khóa tu học này tu sinh sẽ được học đạo đức chung thủy ý hành, khẩu hành và thân hành rất phong phú, dạy về đạo đức gia đình.

Phật giáo đã trang bị cho chúng ta những phương pháp rèn luyện nhân cách đạo đức làm một con người rất đầy đủ đức hạnh, chỉ ngại quý học viên không đủ thời gian tu học mà thôi.

Cho nên nói: “Thê thiếp đẹp đẽ, đắm mê là khoái lạc”, đó là một điều hiểu biết quá sai.

Càng đắm mê thì thì lại càng khổ đau.

Quý học viên có nghe cả thế giới báo động bệnh thời đại Sida, AIDS và còn nhiều thứ bệnh khác nữa mà không có thuốc trị. Vậy mà an lạc chỗ nào?

Trả lời câu hỏi 5:

Kết luận bài này nói: “CHỈ CÓ SỐNG ĐẠO MỚI VUI ĐỜI”. Sống đạo tức là sống bằng tình yêu thương rộng lớn, nếu vì người thân thuộc quyền quý, ca ẩm; nếu vì tiền của giàu nhiều, vinh quang; nếu vì thê thiếp đẹp đẽ, đắm mê chạy theo khoái lạc thì tình thương yêu rộng lớn trong ĐẠO bị đánh mất. Cho nên người sống vì lòng thương yêu rộng lớn thì không vì thân thuộc với người quyền quý, ca ẩm; với người tiền của giàu nhiều, vinh quang; với người thê thiếp đẹp đẽ, đắm mê.

Những loại dục lạc trên đây là những loại dục lạc nhỏ hẹp trong thất tình lục dục: hỷ, nộ, ái ố, ai, lạc, dục. Khi một người nào đã vướng vào những loại thất tình lục dục này thì lòng từ bi sẽ không còn nữa, có nghĩa là họ không còn sống với tâm hồn thương yêu rộng lớn nữa. Cho nên câu nói: “CHỈ CÓ SỐNG ĐẠO MỚI VUI ĐỜI” thật tuyệt vời! Người biết sống trong đạo là người biết thương tất cả mọi sự sống trên hành tinh này.

Ước mong sao quý học viên luôn luôn biết sống trong đạo để đem lại cho đời một sự an vui.

Bài học thứ 13: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: GIÁ TRỊ

Trong một buổi diễn thuyết, một giáo sư nổi tiếng mở đầu bài thuyết trình bằng cách giơ lên một tờ giấy 100 đô la và hỏi:

- Nếu tôi sẽ tặng tờ 100 đô la này cho một trong số các bạn, có ai muốn nhận không? Nhiều cánh tay giơ lên trong hội trường.

Giáo sư nói tiếp:

- Tôi sẽ tặng một người, nhưng để tôi làm thế này đã nhé.

Ông vò nhàu tờ đô la, rồi hỏi:

- Còn ai muốn lấy nó không? Nhiều cánh tay vẫn đưa lên. Giáo sư lại tiếp tục:

- Nếu tôi làm thế này thì sao? Ông ném tờ tiền giấy xuống chân mình, chà đạp một cách không thương tiếc. Rồi ông nhặt nó lên, tờ 100 đô la trở nên nhàu nát và dơ bẩn. Ông hỏi:

- Còn ai muốn tờ 100 đô la này không? Nhiều cánh tay vẫn giơ lên.

- Các bạn đã nghiệm ra bài học giá trị này chưa? Dù đồng tiền này có bị vò nhàu hay giầy xéo, các bạn vẫn muốn có nó bởi vì giá trị của nó không thay đổi và giảm đi. Nó vẫn là tờ 100 đô la.

Giá trị con người trong cuộc sống cũng thế.

Lắm khi chúng ta vấp ngã, bị chà đạp, bị vùi dập do hoàn cảnh, do người khác gây ra, hay do sai lầm của chính bản thân. Chúng ta cảm thấy mình thật bất hạnh và thiếu tự tin.

Nhưng dù có chuyện gì đã và đang xảy ra, bạn đừng bao giờ tự đánh mất giá trị của mình.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: Vò nhàu 100 đô la nghĩa la gì? Đạo đức ở chỗ nào?

Câu hỏi 2: Chà đạp 100 đô la là nghĩa lý gì? Đạo đức ở chỗ nào?

Câu hỏi 3: Đại ý bài này nói đạo đức gì?

Câu hỏi 4: Một trăm đô la nguyên vẹn còn mới tinh, chưa bị ô nhiễm một vết bẩn nào, đó là tượng trưng giá trị gì?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

100 đô la mới tinh có một giá trị nhất định phải mua được bao nhiêu vàng, bạc, đá quí, hoặc mua được bao nhiêu đồ vật dụng. Khi nó bị vò nhàu, trông nó không ngay thẳng như lúc còn mới, nhưng giá trị của nó vẫn không mất, vẫn mua sắm bao nhiêu vàng, bạc, đá quí, hoặc mua được bao nhiêu đồ vật dụng y như lúc nó còn mới xanh. Cho đến khi người ta bỏ nó dưới chân chà đạp, giầy xéo tờ giấy 100 đô la làm cho nó nhàu nát và dơ bẩn, nhưng bấy giờ giá trị của nó vẫn không thay đổi, vẫn mua những vàng, bạc, đá quí, hoặc mua được bao nhiêu đồ vật dụng y như lúc nó còn mới xanh.

Một trăm đô la là tượng trưng chỉ cho con người. Còn giá trị 100 đô la là tượng trưng chỉ cho giá trị tâm hồn đạo đức của con người.

Con người dù có bị mọi hoàn cảnh cuộc sống vò nhàu, chà đạp, giầy xéo, hoặc bị mọi dục lạc vật chất cám dỗ danh lợi, tiền bạc, sắc đẹp, v.v... nhưng phải giữ gìn tâm hồn trong sạch đạo đức, đừng để tâm hồn ô nhiễm. Chỉ cần ô nhiễm một chút là đã đánh mất giá trị con người. Đánh mất giá trị con người là đánh mất đạo đức. Cho nên giá trị tâm hồn đạo đức rất quan trọng.

Ví dụ: Một người phụ nữ làm nghề vũ nữ, nhưng không bán dâm, người phụ nữ ấy không mất giá trị phụ nữ. Còn ngược lại, làm vũ nữ mà bán dâm thì mất giá trị người phụ nữ.

Một người nghèo đói nhưng không gian tham, trộm cắp, cướp giựt của người khác, chỉ nhận của người khác cho, người như vậy là không mất giá trị con người.

Một người vợ cũng như một người chồng đều giữ lòng chung thủy không gian dâm với người khác là không mất giá trị con người, ngược lại là làm mất giá trị con người. Mất giá trị con người thì có khác gì là con thú vật.

Có đúng như vậy không quý vị? Vò nhàu 100 đô la có nghĩa là làm cho 100 đô la mất giá trị, nhưng giá trị 100 đô la không mất, tuy tờ giấy đô la bị nhàu một chút thôi. Cũng giống như một người kia bị người khác mạ lị, mạt sát, nói xấu, v.v... nhưng người kia vẫn giữ im lặng, không chửi mắng lại người đã chửi mắng mình, đó là đức hạnh hiếu sinh nhẫn nhục.

Người có đức hạnh hiếu sinh nhẫn nhục là không bị đánh mất giá trị của một con người, cũng như 100 đô la bị vò nhàu nhưng giá trị của nó vẫn là 100 đô la. Trước cảnh bị người khác nói xấu, mạ li, mạt sát, chửi mắng bằng cách dựng lên những hình ảnh hoặc ngôn ngữ hung ác để mọi người tin theo, nhưng người ấy vẫn im lặng như Thánh, không nói một lời, không minh oan một điều gì, luôn luôn giữ gìn một lòng yêu thương người đối xử với mình rất tệ hại.

Trước cảnh người khác chửi mắng mình mà biết giữ gìn đức nhẫn nhục, im lặng không nói một lời nào, thì giá trị con người rất tuyệt, thế mà lại biết im lặng như Thánh, lại còn biết thương người chửi mình thì đức hạnh hiếu sinh còn tuyệt vời hơn đức nhẫn nhục nữa. Phải không quý học viên?

Trả lời câu hỏi 2:

Chà đạp 100 đô la có nghĩa làm cho 100 đô là tan nát không còn giá trị, nhưng cuối cùng 100 đô la tuy có dơ bẩn nhàu nát, nhưng giá trị của nó vẫn là 100 đô, không mất mát một chút nào.

Trong cuộc đời chúng ta cũng vậy, khi vấp ngã, bị chà đạp, bị vùi dập do hoàn cảnh, do người khác gây ra, hay do sai lầm của chính bản thân mà quên mất đạo đức nhân bản - nhân quả làm người, để trở thành người hung dữ đụng ai cũng đánh đập, la hét chửi mắng, gặp vật gì của ai bỏ hơ hỏng là vội trộm cắp lấy, hoặc nói dối, chuyện không nói có, chuyện có nói không, uống rượu say xỉn, sinh ra tà dâm người này người khác. Đó là những người tự đánh mất giá trị đạo đức con người.

Ngược lại khi vấp ngã, bị chà đạp, bị vùi dập do hoàn cảnh, do người khác gây ra, hay do sai lầm của chính bản thân, nhưng vẫn giữ đạo đức hiếu sinh, lúc nào cũng biết thương người, thương tất cả sự sống của muôn loài, biết tha thứ mọi lỗi lầm của kẻ khác, dù những người đã cố ý hại mình, chửi mắng mình, nói xấu mình, v.v... đó là những người không mất giá trị.

Trả lời câu hỏi 3:

Đại ý bài này nói về giá trị của một con người khi đứng trước mọi tình trạng, mọi cảnh huống như thế nào vẫn không đánh mất lòng thương yêu của mình (đức hiếu sinh) đối với sự sống trên hành tinh.

Người có lòng yêu thương sự sống thì dù trước hoàn cảnh nào cũng thà chịu chết chớ không giết hại và ăn thịt chúng sinh; thà chịu nghèo đói chứ không bao giờ lấy của không cho; thà chịu khổ mà chia sẻ ngọt bùi có nhau chớ không bẻ gánh sang ngang; thà chịu chết chứ không nói dối lường gạt người khác; thà chịu bị đánh đập, chửi mắng ngu si, có khi bị giết cũng không bao giờ uống rượu và ăn thịt chúng sinh. Cho nên đạo đức hiếu sinh là một đạo đức tuyệt vời, làm cho giá trị con người mãi mãi trường tồn! Bởi chỉ có lòng yêu thương mới đem lại bình an cho sự sống trên hành tinh này và giá trị con người bất diệt.

Đạo đức HIẾU SINH là đạo đức thứ nhất của Phật giáo, nên nó quan trọng và lợi ích rất lớn với loài người.

Trả lời câu hỏi 4:

Một trăm đô la nguyên vẹn còn mới tinh, chưa bị ô nhiễm một nét nhăn, một vết bẩn nào, đó là tượng trưng giá trị một con người chưa phạm năm giới đức:

1- Không nên giết hại và ăn thịt chúng sinh.

2- Không nên tham lam lấy của không cho.

3- Không nên có chồng vợ còn gian dâm với người khác.

4- Không nên nói dối, chuyện có nói không, chuyện không nói có.

5- Không nên uống rượu. Rượu là một chất độc dược.

Trong năm đức hạnh này, nếu một người chỉ cần phạm một giới đức này mà thôi, thì giá trị con người cũng bị mất, huống là đã phạm luôn cả năm đức thì còn gì để nói đến con người này nữa. Nhân tính họ đâu còn, chỉ còn chờ cơ hội là nó bộc phát tàn sát, giết hại như một loài thú dữ, quỷ dữ.

Quý học viên có tin không? Nếu không tin thì quý vị hãy xem báo chí, truyền hình tin tức thế giới.

Những trận chiến Hồi giáo ở các nước Trung Đông và những cuộc khủng bố thường xảy ra khắp nơi trên thế giới, có phải đó là ác quỷ không?

Bài học thứ 14: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: ĐỪNG HƯỚNG TÌNH THƯƠNG VÀO MỘT CHỖ

Một thời, Phật thuyết pháp tại thành Xá Vệ. Bấy giờ một phú trưởng giả có một người con gái đẹp. Tất cả lòng thương yêu của ông đều hướng về người con gái ấy, nên đem gả cho một thiếu niên dòng thế phiệt. Tất cả tình yêu của đôi vợ chồng thiếu niên ấy chỉ trút cho nhau. Nhưng tuy rất thương vợ mà thiếu niên lại rất ăn chơi. Chơi hết gia tài rồi, thương chàng, vợ chàng về xoay của cha.

Xoay lần này hết lần khác. Nhưng càng cho càng hết, tức quá, ông bèn thầm tính đem con về gả cho người khác. Vì trút hết tình thương cho chồng, nên người con gái ấy thổ lộ và hỏi chồng mưu kế.

Người chồng vô kế khả thi, nhưng bao nhiêu tình thương đều hướng cả về vợ, nghĩ không thể xa nhau được, bèn dụ vợ vào phòng rồi dùng dao giết vợ và tự sát. Theo phép nước thì cả nhà đôi vợ chồng kia và ông phú trưởng giả đều phải tù tội. Nghe thế, ông tuy rất khiếp sợ, nhưng không đau đớn bằng mất người con thương yêu. Ông bèn tìm đến chỗ Phật, người mà xưa nay ông không để ý tới.

Đức Phật dạy:

- Đời khổ chỉ vì người ta hướng lòng thương của mình vào một chỗ. Phóng rộng tình thương, yêu thương tất cả thì cuộc đời làm chi có tự sát và sát hại nhau.

Kinh Pháp Dụ

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: Lòng thương của ông Phú hộ chỉ hướng về người con gái của mình. Cho nên mới xảy ra cái chết đau thương cho con gái, con rể và bản thân bị tù tội. Như vậy lòng thương của ông Phú Hộ là lòng thương yêu gì?

Câu hỏi 2: Vì chỉ có thương chồng nên cô gái mới bàn mưu lập kế với chồng để cha khỏi gả cho người khác, nhưng không ngơ tình thương một hướng về chồng nên cái chết mới xảy ra vô cùng thảm khốc. Như vậy lòng thương chồng của cô gái là lòng yêu thương gì?

Câu hỏi 3: Người chồng vì thương vợ, không muốn vợ mình rơi vào tay người khác, nên đóng cửa giết vợ, giết mình. Đó chỉ la tình thương một chiều hướng, đưa đến cái chết đau thương. Như vậy lòng thương vợ la lòng thương gì?

Câu hỏi 4: Ba người chỉ có đặt tình thương một hướng như: ông Phú Hộ chỉ đặt tình thương hướng về con gái; cô con gái chỉ đặt tình thương một hướng về chồng; người chồng chỉ đặt tình thương một hướng về vợ.

Cho nên cả ba người chỉ đặt tình thương có một hướng. Như vậy cả ba tình thương này thuộc về tình thương gì? Có phải là đức hiếu sinh không?

Câu hỏi 5: Lòng yêu thương đặt nhiều hướng là lòng yêu thương gì? Nó có phải la đạo đức hiếu sinh không?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

Lòng thương của ông Phú Hộ là lòng thương yêu ích kỷ, thuộc về cá nhân nhỏ hẹp. Lòng thương yêu ấy nằm trong thất tình lục dục.

Trong xã hội loài người, vì lòng thương yêu ấy mà người ta có thể đâm giết nhau không gớm tay. Ông Phú Hộ chỉ biết thương con gái mình, đặt tình thương có một chỗ, vì thế vô tình ông đã gián tiếp giết con gái, giết con rể và làm cho mình ở tù. Thật là đáng thương thay!

Trả lời câu hỏi 2:

Lòng thương chồng của cô gái là lòng yêu thương ích kỷ nhỏ hẹp, chỉ đặt có một hướng về chồng. Do đó mới đem đến cái chết do chồng giết.

Lòng yêu thương ấy là lòng thương yêu trong thất tình lục dục chỉ có một hướng, cho nên mới đem đến cảnh chết thương tâm và làm tan nát một gia đình đang hạnh phúc an vui.

Trả lời câu hỏi 3:

Lòng thương vợ là lòng thương ích kỷ nhỏ hẹp trong thất tình lục dục, nên khi gặp những cảnh ngang trái khó khăn không giải quyết được, nên thường đi đến chỗ tự sát hoặc sát hại những người thân. Đó là một thứ tình thương chiếm hữu. Chiếm hữu có nghĩa vợ hay chồng là vật sở hữu của riêng mình, không thể để cho người khác xâm chiếm. Do lòng yêu thương chiếm hữu ích kỷ ấy mà cảnh gia đình tan nát.

Trả lời câu hỏi 4:

Cả ba tình thương này thuộc về tình thương ích kỷ, nhỏ mọn, hẹp hòi, nó thuộc về tình thương trong thất tình lục dục. Tình thương một hướng.

Trả lời câu hỏi 5:

Lòng yêu thương đặt nhiều hướng là lòng yêu thương thuộc về ĐỨC HIẾU SINH TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, nó là một thứ tình thương yêu rộng lớn như trời cao, như biển rộng.

Bởi làm người chúng ta cần phải tu học và rèn luyện nhân cách ĐỨC HIẾU SINH TỨ VÔ LƯỢNG TÂM này, để luôn luôn lúc nào cũng sống với đức HIẾU SINH. Nhờ có sống với ĐỨC HIẾU SINH rộng lớn như vậy mới đem lại sự an vui cho mình, cho người và cho tất cả sự sống trên hành tinh này.

BÀI LÀM: “NÓI VỀ ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH”

Bài học thứ 15: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: BÀI HỌC TỪ MỘT CHUYẾN ĐI

Năm tôi 18 tuổi, một buổi sáng cha tôi nhờ tôi lái xe đưa ông đến một ngôi làng Vĩnh Phúc cách đó khoảng 18 dặm, với điều kiện tôi phải đưa xe đi tu sửa lại tại một nơi sửa xe gần đó. Vừa mới biết lái, lại ít khi được chạy xe nên tôi vui vẻ đồng ý ngay. Tôi đưa cha đến làng Vĩnh Phúc, hứa sẽ quay lại đón ông vào 4 giờ chiều, rồi lái xe đến nơi sửa xe và để lại đó.

Được tự do đến chiều, tôi quyết định đi xem vài bộ phim tại một rạp chiếu bóng cách đó không xa. Những thước phim hấp dẫn đã cuốn hút tôi đến nỗi tôi quên cả thời gian.

Khi bộ phim sau cùng kết thúc, tôi mới giật mình nhìn xuống đồng hồ. Sáu giờ tối! Tôi đã trễ hẹn với cha cả hai tiếng đồng hồ! Chắc cha sẽ giận lắm nếu biết tôi đi coi phim! Ông sẽ không bao giờ cho tôi đi xe nữa. Tôi quyết định sẽ lấy lý do là chiếc xe cần sửa thêm vài thứ, nên đã tốn nhiều thời gian hơn. Tôi đến nơi sửa xe, lấy xe rồi chạy đến nơi hẹn gặp cha. Ông đang đứng kiên nhẫn đợi tôi tại góc đường. Tôi xin lỗi và bào chữa cho mình như đã sắp đặt. Cha nhìn tôi bằng một ánh mắt mà có lẽ sẽ chẳng bao giờ tôi quên! - Ba thất vọng vì con đã nói dối ba, Minh ạ! - Ba nói gì cơ? Con nói thiệt mà ba.

Cha nhìn tôi:

- Khi thấy con đến muộn, ba đã gọi điện cho nơi sửa xe để hỏi xem có chuyện gì không, họ bảo với ba là con chưa tới lấy xe.

Vậy là chiếc xe không bị trục trặc gì cả, đúng không? Một cảm giác tội lỗi vây bủa quanh tôi, tôi lí nhí thú nhận với cha là đã đi đến rạp chiếu bóng, cha lắng nghe, gương mặt hiện lộ vẻ buồn bã.

- Ba không giận con, mà giận chính bản thân mình. Ba đã không làm tròn bổn phận của người cha, khi sau từng ấy năm con vẫn cảm thấy rằng con cần phải nói dối ba. Ba đã thất bại! Bây giờ ba sẽ đi bộ về nhà, và suy nghĩ xem mình đã làm gì không đúng trong suốt bao nhiêu năm qua.

- Nhưng từ đây về nhà đến 18 dặm lận.

Trời đã tối rồi, ba không thể làm điều đó được! Mặc cho tôi can ngăn, xin lỗi và nói gì đi nữa, cha vẫn không hề lay chuyển. Tôi đành phải để cha xuống xe và đón nhận một bài học đau đớn trong đời. Cha bắt đầu đi dọc theo con đường đầy bụi. Tôi nhảy vội lên xe và lái theo sau, hy vọng cha sẽ nghĩ lại.

Những lời biện hộ, ăn năn của tôi suốt dọc đường như chẳng hề lọt vào tai cha, Ông cứ phớt lờ, im lặng và trầm ngâm buồn bã. Tôi đã lái xe theo cha đến hết quãng đường.

Nhìn cha tự vầy vò về thể xác lẫn tinh thần, lòng tôi đau đớn vô hạn. Nhưng đó cũng là bài học thành công nhất của cha tôi.

Tôi không bao giờ dám nói dối cha nữa.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: Minh nói dối với cha là hành động thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 2: Người cha nói: “Ba thất vọng vì con đã nói dối ba, Minh ạ!” Lời nói này la đạo đức gì?

Câu hỏi 3: “Một cảm giác tội lỗi vây bủa quanh tôi, tôi lí nhí thú nhận với cha là đã đi đến rạp chiếu bóng, cha lắng nghe, gương mặt hiện lên vẻ buồn bã”. Câu này nói lên đạo đức gì?

Câu hỏi 4: “Ba không giận con mà giận chính bản thân mình. Ba đã không làm tròn bổn phận của người cha, khi sau từng ấy năm con vẫn cảm thấy rằng con cần phải nói dối ba. Ba đã thất bại!” Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 5: “Ông cứ phớt lờ, im lặng va trầm ngâm buồn bã”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 6: “Nhìn cha tự dày dò về thể xác lẫn tinh thần, lòng tôi đau đớn vô hạn”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 7: “Nhưng đó cũng là bài học thành công nhất của cha tôi. Tôi không bao giờ dám nói dối cha nữa”. Câu này dạy đạo đức gì?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

Minh nói dối với người cha là hành động THIẾU ĐỨC THÀNH THẬT HIẾU SINH KHẨU HÀNH, nó thuộc về bài học lớp học thứ tư: ĐỨC THÀNH THẬT TỪ BỎ NÓI DỐI. Nhưng ở đây, lấy bài học này để chỉ cho người cha dạy con về ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Người nói dối là người không có đức thương mình, thương người, tự mình làm khổ mình và làm khổ người khác. Quý học viên cứ nghĩ rằng: Khi nói dối là người ta không biết sao? Người ta không biết ngay liền, nhưng người ta sẽ phát hiện trong những ngày sắp tới, vì trên đời này không có điều gì che dấu ai được cả. Có khi người ta biết mình nói dối nhưng người ta không nói ra, lòng tin tưởng đối với người nói dối sẽ bị mất. Cho nên người nói dối không thể dối được ai, nhất là không thể dối được mình. Mình nói một điều không có là nói dối, mình chỉ nghi ngờ người khác chứ chưa biết chắc rõ ràng mà nói ra cũng là nói dối.

Trả lời câu hỏi 2:

Người cha nói: “Ba thất vọng vì con đã nói dối ba, Minh ạ!” Lời nói này là THIẾU ĐỨC TIN TƯỞNG HIẾU SINH KHẨU HÀNH, người cha thương con mới nói lời này. Đây là đức hiếu sinh khẩu hành. Lời nói đầy ái ngữ với một lòng yêu thương, mong muốn con trở thành một người có đầy đủ đức hạnh thành thật và đức hiếu sinh.

Một người cha thô lỗ không có đạo đức, khi chờ đợi con suốt 2 tiếng đồng hồ mà biết con nói dối thì tức giận vô cùng, liền chửi mắng:

- Đồ mất dạy, nói dối cha mầy như vậy.

Nếu người cha dùng lời chửi mắng con là những lời ác ngữ thì người cha không có đạo đức hiếu sinh khẩu hành. Ngược lại, người cha dùng lời ngọt nào đầy lòng ái ngữ: “Ba thất vọng vì con đã dối ba, Minh ạ!” Lời nói này rất nghiêm khắc, nhưng rất ái ngữ nhẹ nhàng, ngọt ngào mang đầy lòng yêu thương.

Trả lời câu hỏi 3:

“Một cảm giác tội lỗi vây bủa quanh tôi”.

Câu này nói lên ĐỨC HỐI HẬN HIẾU SINH Ý HÀNH, nói lên một sự tư duy suy nghĩ ăn năn, hối hận của người con.

Khi muốn nói hay làm điều gì thì phải tư duy suy nghĩ hậu quả của nó. Trước khi nói dối cha, Minh không suy nghĩ hậu quả: Nếu khi cha phát hiện lời nói dối của mình thì còn dám nhìn mặt cha nữa hay không? Nếu Minh tự hỏi được câu ấy thì không bao giờ có nói dối với cha, bằng cách thành thật xin lỗi cha vì xem phim lỡ quên giờ rước cha. Người cha sẽ tha thứ và không trách con. Cho nên tội nói dối là tội rất nặng.

“Tôi lí nhí thú nhận với cha là đã đi đến rạp chiếu bóng”. Câu nói này là ĐỨC NHẬN LỖI HIẾU SINH KHẨU HÀNH, thương mình đã biết mình làm tội lỗi dối cha.

“Người cha lắng nghe, gương mặt hiện lên vẻ buồn bã” là ĐỨC THIẾU HOAN HỶ HIẾU SINH Ý HÀNH, người cha thương mình có đứa con thiếu đạo đức hiếu sinh và không thành thật.

Trả lời câu hỏi 4:

“Ba không giận con, mà giận chính bản thân mình. Ba đã không làm tròn bổn phận của người cha, khi sau từng ấy năm con vẫn cảm thấy rằng con cần phải nói dối ba. Ba đã thất bại!” Câu nói này dạy ĐỨC TỰ HỐI HIẾU SINH KHẨU HÀNH rất là tuyệt vời.

Trả lời câu hỏi 5:

“Ông cứ phớt lờ, im lặng và trầm ngâm buồn bã”. Câu này dạy ĐỨC IM LẶNG NHƯ THÁNH HIẾU SINH Ý HÀNH của người cha rất tuyệt vời. Đó là một hành động giáo dục con rất hay.

Trả lời câu hỏi 6:

“Nhìn cha tự vầy vò về thể xác lẫn tinh thần, lòng tôi đau đớn vô hạn”. Câu này dạy ĐỨC HỐI HẬN HIẾU SINH Ý HÀNH, đó là một sự hối hận ăn năn trong lòng người.

Thật là một bài học đạo đức giá trị tuyệt vời cho những ai còn nói dối.

Trả lời câu hỏi 7:

“Nhưng đó cũng là bài học thành công nhất của cha tôi. Tôi không bao giờ nói dám dối cha nữa hay dù bất cứ với ai”. Câu này dạy ĐỨC KINH NGHIỆM HIẾU SINH Ý HÀNH muôn đời không quên cho những ai nói dối.

Bài học thứ 16: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: GIỮ GIỚI ĐƯỢC SINH THIÊN

Một thời, đức Phật ở Xá Vệ, tại tịnh xá Kỳ Hoàn, thuyết pháp cho chư Thiên nghe.

Lúc bấy giờ ở nước La Duyệt Kỳ có hai vị tân học tỳ kheo muốn yết kiến đức Phật, giữa hai nước ấy có một khoảng đồng rộng, không có người ở, lại gặp thời tiết hạn hán, nên suối hồ đều cạn. Hai người đi ngang qua, bị khát nước, chỉ gặp được vũng nước nhỏ nhưng lại bị đầy những loài trùng không thể uống được.

Hai người mới bàn với nhau rằng:

- Chúng ta từ xa lại, cốt trông mong chiêm ngưỡng đức Phật, không ngờ ngày nay lại bị chết khát ở giữa đường.

Một người nói rằng:

- Thôi! Ta hãy tạm uống để khỏi chết, có vậy mới gặp được Phật. Vả lại ta có uống cũng không ai biết cả.

Người kia đáp rằng:

- Giới luật đức Phật chế ra, lấy nhân từ làm gốc. Nếu giết hại chúng sanh để tự sống thì dầu thấy Phật cũng không ích gì. Thà rằng giữ giới chịu chết, chớ không phạm giới mà được sống.

Người đầu theo ý riêng của mình: “Uống nước đỡ khát và đi đến chỗ đức Phật ở”.

Người thứ hai không chịu uống nên phải chết vì khát nên được sanh lên cõi Đao Lợi Thiên.

Thật là do lòng tin mạnh nên phước báo chẳng xa vậy. Nghĩ đoạn ông bèn đem hương hoa đến lễ Phật rồi đứng hầu một bên.

Còn người uống nước, phải cực khổ trải qua nhiều ngày mới đến chỗ Phật ở, thấy đấng Thế Tôn oai nghiêm, liền cúi đầu đảnh lễ, khóc lóc bạch Phật rằng:

- Con còn có người bạn cũng muốn đến yết kiến Phật, nhưng chẳng may giữa đường bị bệnh lâm chung. Dám mong đức Thế Tôn biết cho.

Đức Phật trả lời:

- Ta đã rõ rồi.

Bèn lấy tay chỉ vị tiên nhơn đứng hầu một bên mà nói rằng:

- Tiên nhơn này chính là người bạn của người đó. Người này vì giữ trọn giới luật nên được sanh lên cõi trời và được gặp ta trước người.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn chỉ tay vào ngực và bảo người kia rằng:

- Người tuy thấy hình Ta mà không giữ giới luật của Ta, thời tuy người thấy Ta mà Ta không thấy ngươi. Người kia tuy cách xa Ta vạn dặm nhưng vẫn giữ giới luật, thời người ấy đứng trước mặt Ta.

Lúc bấy giờ đức Phật bèn thuyết bài kệ rằng:

Học nhiều lại nghe nhiều.

Trì giới chẳng sai phạm.

Hai đời được ngợi khen

Chỗ sở nguyện được thành tựu.

Học ít lại nghe ít

Giữ giới không chu toàn

Hai đời bị đau khổ

Chỗ sở nguyện bị táng mất.

Phàm học nên nghe nhiều

Xét lí nhận ý nghĩa

Dầu gặp nhiều tai nạn

Không gì đáng can ngại.

Lúc bấy giờ vị tỳ kheo nghe bài kệ xong tự xấu hổ, cúi đầu xin sám hối, im lặng suy nghĩ lời Phật dạy. Còn vị tiên nhơn tâm sanh hoan hỷ, chứng được pháp nhãn, chúng hội hoan hỷ phụng hành.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: “Thôi! Ta hãy tạm uống để khỏi chết, có vậy mới gặp được Phật”. Lời nói này thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 2: “Vả lại ta có uống cũng không ai biết cả”. Lời nói này thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 3: Người bạn khuyên ngăn không nên uống nước có trùng là phạm giới. Lời nói như vậy là đạo đức gì?

Câu hỏi 4: Người tu sĩ đầu tiên theo ý riêng của mình: “Uống nước đỡ khát và đi đến chỗ đức Phật ở”. Lời nói này thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 5: “Người thứ hai không chịu uống nên phải chết vì khát, nên được sanh lên cõi Đao Lợi Thiên”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 6: “Ngươi tuy thấy hình Ta ma không giữ giới luật của Ta, thời tuy ngươi thấy Ta mà Ta không thấy ngươi. Người kia tuy cách xa Ta vạn dặm nhưng vẫn giữ giới luật, thời người ấy đứng trước mặt Ta”. Đức Phật dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 7: “Lúc bấy giờ vị tỳ kheo nghe bài kệ xong tự xấu hổ, cúi đầu xin sám hối, im lặng suy nghĩ lời Phật dạy”, đó là đạo đức gì?

Câu hỏi 8: “Còn vị tiên nhơn tâm sanh hoan hỷ, chứng được pháp nhãn”, đó là đạo đức gì?

Câu hỏi 9: Bài này nói lên đạo đức gì?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

“Thôi! Ta hãy tạm uống để khỏi chết, có vậy mới gặp được Phật”. Lời nói này là lời nói THIẾU ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH. Trong khi đức Phật dạy “không nên giết hại chúng sinh”, vậy mà chúng ta nỡ lòng nào khi thấy trong nước rất nhiều chúng sinh mà uống nước cho đành. Vả lại giới luật dạy: ‘Thà chết chứ không hề vi phạm giới luật”. Vì đạo đức hiếu sinh không cho phép chúng ta ăn thịt hay uống nước có chúng sinh.

Khi thọ năm giới, người cư sĩ thọ giới nào trước tiên, có phải là GIỚI KHÔNG NÊN SÁT SINH không? Đúng vậy, đầu tiên người cư sĩ tu theo Phật giáo phải chấp nhận thọ và học tập ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH, tức là rèn nhân cách lòng thương yêu sự sống của muôn loài đang sống trên hành tinh này.

Đức Hiếu Sinh là một bộ sách dạy về lòng thương yêu sự sống. Cho nên người cư sĩ còn không vi phạm huống là người tu sĩ. Vậy mà trong bài kinh này, vì muốn gặp Phật, người tu sĩ phải chấp nhận phạm giới sát hại chúng sinh (uống nước có trùng), tức là đánh mất lòng yêu thương chúng sinh. “Đánh mất lòng thương yêu chúng sinh là đánh mất mạng sống của mình”. Người không còn lòng thương yêu là người đã chết rồi chưa chôn, vì có sống cũng bằng sống thừa, sống thường làm khổ mình, khổ người. Sống như vậy để làm gì? Đạo Phật dám xác định rõ ràng: “Người không có lòng thương yêu chúng sinh la người đang sống trong cảnh địa ngục”. Quý phật tử hãy học hai lời dạy trên đây cho thuộc lòng, để khéo nhắc nhở tâm mình đừng bao giờ quên: “Lòng thương yêu đối với tất cả chúng sinh trên hành tinh này là đem lại cho hành tinh một sự sống bình an và hạnh phúc”.

Trả lời câu hỏi 2:

“Vả lại, ta có uống cũng không ai biết cả”.

Lời nói này THIẾU ĐỨC THÀNH THẬT HIẾU SINH KHẨU HÀNH. Người dối trá là người không có đức hiếu sinh thương mình và thương chúng sinh, cho nên nhà sư này phạm tội giết hại chúng sinh nên phải chịu vất vả dầm sương ngủ tuyết, băng qua sa mạc rất là gian nan. Nhưng khi gặp Phật lại nhận được lời kết án về hai tội phạm: một là tội sát sinh; hai là tội vọng ngữ. Hai tội này thuộc về tội Ba La Di, tội Ba La Di là không bao giờ gặp Phật, là tội đứt đầu như tội tử hình vậy.

Tội vọng ngữ là một tội chung thân, suốt đời mình đã tự làm mất lòng tin của mình đối với mọi người; tội rất nặng, vì mình nói dối là tự mình chà đạp lên giá trị của mình, khiến cho người khác không quý trọng mình.

Một nhà vua dù có uy quyền, thế lực làm cho mọi người sợ sệt, chứ không bắt buộc làm cho người ta kính trọng và mến phục mình được.

Nếu nhà vua đó không có đức hiếu sinh thương dân, xem toàn dân như con mình thì một ngày nào đó nhân dân sẽ nổi lên chống đối và lật đổ.

Cho nên đức yêu thương và đức thành thật rất quan trọng đối với giá trị của con người.

Người có yêu thương mình và người khác thì không bao giờ nói dối. Vị tỳ kheo này phạm vào hai giới rất nặng, đó là sát sinh và nói dối.

Vậy quý học viên hãy đề cao cảnh giác, trước khi nói hay làm điều gì thì phải cẩn thận suy nghĩ cho kỹ rồi mới phát ngôn hay làm, nếu chưa suy nghĩ chín chắn thì hãy làm thinh, im lặng như Thánh, để khi nào bình tĩnh và sáng suốt thì mới nói và làm. Có như vậy mới tránh những hậu quả đau buồn làm khổ mình, khổ người.

Trả lời câu hỏi 3:

Người bạn khuyên ngăn không nên uống nước có trùng là phạm giới. Lời khuyên như vậy là ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Có một người bạn tốt biết khuyên ngăn và chính bản thân của người bạn ấy còn can đảm, gan dạ giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, thà chết chứ không uống nước có trùng. Một tấm gương sáng chói đức hạnh giới luật hiếu sinh thật là cao cả và tuyệt vời. Vậy mà có vị tỳ kheo này phạm giới đức hiếu sinh thật đáng chê trách, thật không xứng đáng là đệ tử Phật.

Trả lời câu hỏi 4:

Người tu sĩ đầu tiên theo ý riêng của mình: “Uống nước đỡ khát và đi đến chỗ đức Phật ở”. Lời nói này THIẾU ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH, phạm vào giới cấm sát sinh.

Người tu sĩ phát ngôn phạm vào giới cấm sát sinh thì không còn xứng đáng là đệ tử của Phật.

Như chúng ta ai cũng biết, đức Phật là tượng trưng cho tâm từ bi, tức là lòng yêu thương rộng lớn thênh thang vô bờ bến. Vì thế kẻ nào phạm vào giới sát sinh thì kẻ ấy đánh mất lòng từ bi. Đánh mất lòng từ bi tức là đánh mất đức hiếu sinh rộng lớn như trời biển.

Đứng trước mọi người chúng ta xác định rất rõ:

1- Người nào giết hại và ăn thịt chúng sinh là người không đạo đức hiếu sinh, thường làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.

2- Người nào nói dối, lừa đảo người, nói đâm thọc, nói xấu người khác, nói lời hung dữ là người không đạo đức hiếu sinh, thường làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Những người như vậy không xứng đáng là những đệ tử của Phật.

Trả lời câu hỏi 5:

Người thứ hai không chịu uống nước có trùng nên phải chết vì khát nước. Chết giữ gìn giới luật đức hạnh hiếu sinh, tức là chết trong lòng yêu thương của mình, nên được sanh lên cõi Đao Lợi Thiên. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH không chịu uống nước.

Hành động không chịu uống nước có trùng trong lúc quá khát nước, một hành động đạo đức thương yêu cao thượng thật đáng làm gương cho chúng ta soi. Vị tỳ kheo này gan dạ chấp nhận chết, chứ không vì sự sống của mình mà uống nước giết hại chúng sinh, lòng thương yêu chúng sinh của vị tỳ kheo thật là cao cả thay! Thật là đáng cho chúng ta ca ngợi và tán thán lòng yêu thương ấy.

Vị tỳ kheo ấy rất xứng đáng là đệ của Phật, nhờ lòng thương yêu ấy mà vị tỳ kheo thoát ra mọi sự khổ đau của quy luật nhân quả, nên được sống an vui và thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Trả lời câu hỏi 6:

“Ngươi tuy thấy hình Ta mà không giữ giới luật của Ta, thời tuy ngươi thấy Ta ma Ta không thấy ngươi. Còn người kia tuy cách xa Ta vạn dặm nhưng vẫn giữ giới luật, thời người ấy đứng trước mặt Ta”. Câu này đức Phật dạy QUẢ VỊ ĐỨC HIẾU SINH THÂN, KHẨU, Ý HÀNH. Người nào sống biết thương yêu mọi sự sống trên hành tinh này là người ở gần bên Phật, người nào đánh mất lòng yêu thương là người sống xa Phật. Đó là điều đúng như vậy, vì Phật là lòng thương yêu rộng lớn vô bờ bến, cho nên người nào có lòng yêu thương thì sẽ tương ưng với lòng yêu thương của Phật, tức là sống bên Phật.

Trả lời câu hỏi 7:

“Lúc bấy giờ vị tỳ kheo nghe bài kệ xong tự xấu hổ, cúi đầu xin sám hối”. Câu này đức Phật dạy ĐỨC HỐI HẬN HIẾU SINH Ý HÀNH, đó là sự hối hận tội lỗi về những việc làm sai phạm giới của vị tỳ kheo đánh mất lòng yêu thương của chính mình.

Người nào khi đánh mất lòng yêu thương của mình mà không biết hối hận ăn năn, thì người ấy phải chịu mọi sự khổ đau từ đời này sang đời khác. Khi đánh mất lòng thương yêu là đánh mất hạt giống lành, và người ấy sẽ sống như một đời sống động vật tự làm khổ mình, khổ người khác và khổ tất cả loài vật khác. Người nào khi đánh mất lòng yêu thương của mình là đánh mất mạng sống của mình, sống mà như chết.

Trả lời câu hỏi 8:

“Còn vị tiên nhơn tâm sanh hoan hỷ, chứng được pháp nhãn”, là kết quả của người trì giới. Đó là QUẢ VỊ ĐỨC HIẾU SINH TỪ BỎ GIẾT HẠI CHÚNG SINH.

Chỉ có lòng yêu thương mà con người trở thành một người toàn thiện, một người không còn bị ác pháp chi phối tâm, luôn luôn bất động thật là tuyệt vời.

Chỉ có lòng yêu thương mà con người trở thành một người chứng quả giải thoát vô lậu.

Bởi vậy ông Phú Lâu Na và em ông, Cấp Cô Độc chỉ có thành tựu lòng yêu thương mà chứng quả A La Hán, mà trong kinh sách nguyên thủy thường nhắc đến. Đó là những gương hạnh tu tập TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, tức là tu hạnh HIẾU SINH.

Trả lời câu hỏi 9:

Bài này đại ý nói lên đạo đức HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH và THÂN HÀNH TỪ BỎ GIẾT HẠI CHÚNG SINH.

Bài này căn cứ vào giới luật để xác định người tu sĩ Phật giáo đúng và người tu sĩ Phật giáo sai. Người tu sĩ không phạm giới là người tu sĩ Phật giáo còn người tu sĩ phạm giới là tu sĩ của ngoại đạo mang hình sắc tu sĩ Phật giáo mà thôi, họ không bao giờ được gần Phật, dù có ở bên Phật nhưng vẫn cách xa Phật muôn trùng vạn dặm.

Một người tu sĩ giữ giới luật trọn vẹn liền chứng được PHÁP NHÃN THANH TỊNH; còn một người tu sĩ phạm giới liền đọa ĐỊA NGỤC KHỔ ĐAU.

Như vậy giới luật đức hạnh rất quan trọng, xin quý học viên lưu ý và hãy đề cao cảnh giác, khi tu hành thì đừng để vi phạm vào bất cứ một giới luật nào.

Hãy tôn trọng giới luật đức hạnh, nó là đời sống của người đệ tử Phật. Giới luật là một vị Thầy vĩ đại sẽ hướng dẫn chúng ta đi đến nơi đến chốn bình an và hạnh phúc; giới luật là vòng tay thương yêu của người mẹ hiền. Nó sẽ bảo bọc, chăm sóc chúng ta, trong lúc gặp nhiều khó khăn.

Bài học thứ 17: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: BỎ QUA OÁN HỜN

Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ, có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình.

Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng đó. Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất.

Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách hàng. Khi anh quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất. Người em hỏi người anh:

- Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không? Người anh đáp:

- Không.

Tuy thế, người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi:

- Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó! Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bắt đầu tăng lên giữa hai anh em họ. Sự oán giận cũng theo đấy mà len vào. Không lâu sau, một hố ngăn cách gay gắt và sâu thẳm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào. Cuối cùng, họ quyết định không làm chung với nhau, và một bức tường ngăn cách đã được xây ngay giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình của họ. Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước cửa hàng. Ông ta bước vào và hỏi người bán hàng:

- Anh đã ở đây bao lâu rồi.

Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời.

Vị khách nói tiếp:

- Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước, tôi đã đi xe lửa và tạt vào thị trấn này.

Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn, nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi.

Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này. Anh ta đề nghị:

- Ông có vui lòng sang cửa bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không? Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ.

Trong cuộc sống có những điều nhỏ nhặt vẫn thường xảy ra và vô tình chia cắt con người với nhau, những lời nói vội vàng không suy nghĩ, những lời chỉ trích, buộc tội hay những lời trách cứ oán hờn. Và khi đã bị chia cắt, họ có thể không bao giờ quay lại với nhau được nữa. Phương cách tốt nhất để tránh những tình huống gây tổn thương này là bỏ qua những lỗi lầm nhỏ của nhau. Điều này không dễ dàng, nhưng cũng chẳng phải là quá khó khăn. Bỏ đi những bực dọc rồi bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi thấy mình chẳng mất bao nhiêu năng lượng để xây dựng sự gắn bó với những người bạn yêu mến.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: “Người em hỏi người anh:

- Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không? Người anh đáp:

- Không.

Tuy thế, người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi”. Câu này thuộc về pháp gì trong ngũ triền cái? Câu này thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 2: “Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó!” Lời nói này thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 3: “Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước tôi đã đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau va thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn, nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 4: “Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 5: Người em đề nghị: “Ông có vui lòng sang cửa bên, và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không?” Câu nói này là đạo đức gì?

Câu hỏi 6: “Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 7: “Trong cuộc sống có những điều nhỏ nhặt vẫn thường xảy ra và vô tình chia cắt con người với nhau, những lời nói vội vàng không suy nghĩ, những lời chỉ trích, buộc tội hay những lời trách cứ oán hờn. Va khi đã bị chia cắt, họ có thể không bao giơ quay lại với nhau được nữa”. Đoạn này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 8: “Phương cách tốt nhất để tránh những tình huống gây tổn thương này là bỏ qua những lỗi lầm nhỏ của nhau”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 9: “Điều này không dễ dàng, nhưng cũng chẳng phải là quá khó khăn. Bỏ đi những bực dọc rồi bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi thấy mình chẳng mất bao nhiêu năng lượng để xây dựng sự gắn bó với những người bạn yêu mến”. Câu này dạy đạo đức gì?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

Người em hỏi người anh:

- Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không? Người anh đáp:

- Không.

Tuy thế, người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi nguời anh”.

Câu này thuộc về pháp NGHI trong ngũ triền cái. Nghi có nghĩa là nghi ngờ, nghi ngờ là một pháp ác trong năm pháp ác của tâm. Đó là: 1- THAM; 2- SÂN; 3- SI; 4- MẠN; 5- NGHI. Người em nghi ngờ người anh lấy tiền, nghi người anh tham lam. Câu nói của người em: “Tuy thế, người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi...”. Câu này THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH. Nó là ngòi thuốc nổ khởi sự cho một sự chia rẽ, li gián giữa hai người hoặc nhiều người. Ở đâu có nghi ngờ. ở đó mất đoàn kết; ở đâu có nghi ngờ, ở đó nội lực bị suy yếu; ở đâu có nghi ngờ, ở đó có khổ đau; ở đâu có nghi ngờ, ở đó không có lòng yêu thương. Cho nên lòng nghi ngờ là một ác pháp cực ác, nó đánh mất tất cả đạo đức của con người, nhất là đức hiếu sinh.

Một khi người ta sinh nghi ngờ người khác thì lòng thương yêu sẽ bị đánh mất, lòng yêu thương đánh mất thì chỉ còn tâm ghét cay, ghét đắng, v.v... Chỉ còn lòng căm ghét là nỗi khổ đau tùy miên trong lòng người nghi ngờ.

Cho nên người tu hành theo Phật giáo là phải biết triệt hạ tâm nghi, nếu tâm nghi còn là còn khổ đau. Một người đi tu mà nghi Thầy dạy mình là tự mình giết mình, tự mình chặt đầu mình. Tâm nghi ghê gớm như vậy, chính nó đã đem đến biết bao nhiêu sự đau khổ cho nhau trong cuộc đời này.

Trả lời câu hỏi 2:

Người em xác quyết: “Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó!”

Lời nói này là lời kết tội người anh bằng cách lý luận, bắt bí người khác phải chấp nhận tội lỗi. Đó là một lời nói THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH; lời nói kết tội như tòa án; lời nói làm đau khổ người; lời nói làm chết người.

Tuy lời nói này không thô lỗ nhưng gay gắt kết tội như đinh đóng, như tòa án phán quyết, một lời nói không còn một chút lòng thương yêu nào cả. Lời nói sắc bén hơn gươm đao.

Chỉ có một số tiền nhỏ mọn không ra gì, thế mà làm cho tình anh em đang thương nhau gắn bó như nước với sữa lại trở thành hận thù, hai người không nhìn mặt nhau nữa.

Tiền bạc là chuyện nhỏ mọn vậy mà khiến cho anh em chia lìa. Vì không lấy tiền nên người anh không thể chấp nhận một người em ăn nói đầy vẻ khinh mạn, xem thường người anh ruột của mình chẳng ra gì.

Lòng nghi ngờ mà anh em phải chia lìa 20 năm trời mặt không nhìn mặt nhau kỹ, thật là đau lòng. Phải không quý phật tử? Trong tâm mỗi người chúng ta đều có năm triền cái. Năm triền cái có nghĩa là năm cái màn ngăn che, nếu một trong năm cái màn ngăn che này khởi lên thì đức hiếu sinh sẽ biến mất. Đức hiếu sinh biết mất thì một bầu trời đau khổ hiện ra. Bởi vậy, bất cứ lúc nào khi tâm chúng ta khởi lên niệm THAM, SÂN, SI, MẠN, NGHI thì mau mau phải dập ngay và diệt trừ tận gốc bằng lòng thương yêu của chúng ta. Vì chỉ có lòng yêu thương thì mới diệt trừ năm tâm ác độc này. “LÒNG YÊU THƯƠNG LÀ ĐỆ NHẤT PHÁP DIỆT TRỪ TÂM THAM, SÂN, SI, MẠN, NGHI”. Xin quý phật tử lưu ý, để biết sử dụng lòng yêu thương đúng thời thì lợi ích rất lớn cho quý vị.

Trả lời câu hỏi 3:

Người khách lạ nói: “Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước, tôi đã đi xe lửa va tạt vào thị trấn này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn, nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi”.

Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH LY THAM. Dù trong khi đói, lấy cắp số tiền của người khác suốt 20 năm mà vẫn không quên trở lại, trả số tiền cho người chủ của nó. Người này không phải là người tham lam trộm cắp.

Sự việc xảy ra trên đây đều do quy luật của nhân quả, khiến cho hai anh em nhà kia phải sống chia lìa trong suốt 20 năm đau khổ ôm một mối oan ức, hận lòng. Đó là để trả nhân đời trước vì hai anh em người này đã gieo duyên ly gián.

Trả lời câu hỏi 4:

Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này”.

Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Làm sao không khóc được? Hai mươi năm anh em sống như kẻ thù không bao giờ muốn nhìn mặt nhau. Nỗi đau của tình ruột thịt không làm sao giải tỏa nổi. Đột ngột người khách lạ đến cửa hàng người em nói ra một sự thật cách đây 20 năm để phá tan lòng nghi ngờ, thì dù ai có gan trời cũng phải khóc.

Nước mắt của người em là nước mắt hối hận lòng yêu thương của mình chứng tỏ lòng đau khổ suốt 20 năm trong sự vô minh nghi ngờ của mình.

Trả lời câu hỏi 5:

Người em đề nghị: “Ông có vui lòng sang cửa bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không?” Câu nói này là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH giải tỏa mối nghi ngờ. Nếu không có ông khách lạ này thì không bao giờ giải tỏa mối oan ức hận lòng của người anh, dù chết xuống tuyền đài vẫn không tan. Lời cầu thỉnh ông khách đến cửa hàng của người anh kể lại sự tình xảy ra cách đây 20 năm để giải trừ một nỗi lòng đau khổ của hai anh em nhà kia.

Thật là một việc hy hữu.

Trả lời câu hỏi 6:

“Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được dẹp bỏ”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH. Hai người khóc và ôm nhau, đó là thực hiện lòng yêu thương ý hành thật là thấm thía.

Trả lời câu hỏi 7:

Trong cuộc sống có những điều nhỏ nhặt vẫn thường xảy ra và vô tình chia cắt con người với nhau, những lời nói vội vàng không suy nghĩ, những lời chỉ trích, buộc tội hay những lời trách cứ oán hờn. Và khi đã bị chia cắt, họ có thể không bao giờ quay lại với nhau được nữa.” Đoạn này phân tích từng hành động sẽ đánh mất đạo đức hiếu sinh.

Vậy quý học viên hãy lưu ý và cảnh giác, suy tư từng tâm niệm để rồi mới phát ngôn:

1- Những lời nói vội vàng không suy nghĩ.

2- Những lời chỉ trích, buộc tội.

3- Những lời trách cứ oán hờn.

Câu chuyện trên đây là bài học về ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH LÀM NGƯỜI, đó cũng là những điều cân nhắc để chúng ta lấy đó suy ngẫm cuộc đời, sống như thế nào đúng, sống như thế nào sai.

Trả lời câu hỏi 8:

Phương cách tốt nhất để tránh những tình huống gây tổn thương này là bỏ qua những lỗi lầm nhỏ của nhau”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH. Chỉ có đạo đức hiếu sinh mới là phương cách tốt nhất để tránh những tình huống gây tổn thương, gây chia rẽ và có thể bỏ qua những lỗi lầm nhỏ nhặt của nhau bằng lòng tha thứ và yêu thương.

Trả lời câu hỏi 9:

Điều này không dễ dàng, nhưng cũng chẳng phải là quá khó khăn. Bỏ đi những bực dọc rồi bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi thấy mình chẳng mất bao nhiêu năng lượng để xây dựng sự gắn bó với những người bạn yêu mến”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Muốn bỏ qua những bực dọc ngã mạn, những tức giận thù oán, những điều nghi ngờ, những lòng tham lam không đáy, những mê mờ không sáng suốt thì chỉ có lòng yêu thương thì mới xóa bỏ những trạng thái tâm ác ở trên.

Bất cứ trên đời này có những sự khổ đau như thế nào, có những ác pháp như thế nào, muốn thoát ra mọi sự khổ đau ấy và các ác pháp thì chỉ có lòng yêu thương rộng lớn mới cứu chúng ta thoát khỏi; mới đem chúng ta đến với tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Vì vậy ở đâu có tình thương yêu thì ở đó có sự bình an, yên vui và hạnh phúc.

Vì thế chúng ta nên nhớ: Đức hiếu sinh là một pháp môn ly dục ly ác pháp tuyệt vời.

Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta cần phải phát triển tri kiến đạo đức này, hễ có một ác pháp nào tác động vào thân tâm thì tri kiến đức hạnh ấy sẽ quét sạch ra khỏi thân tâm, nó sẽ mang lại sự bình an cho chúng ta.

Bài học thứ 18: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: LÀM MẸ SAO NỠ NHẪN TÂM GIẾT CON MÌNH?

Đây là một bài trên báo Công An, đăng tin ngày 9/11/2006, nói lên những bà mẹ nỡ tâm giết những đứa con máu mủ của mình.

Bảng tóm lược thống kê trong năm 2006 đã có 18.821 thai nhi được nạo bỏ, thật là đáng thương, con người giết con người. Ai là người chịu trách nhiệm tội ác này. Nếu một người giết một người thì luật pháp hiện hành của nhà nước kết tội tử hình hoặc chung thân. Vậy mà 18.821 thai nhi bị nạo bỏ thì những người mẹ trẻ này xử tội như thế nào? Mời quý phật tử hãy đọc tin tức này thì rõ:

“Mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 1,4 triệu ca nạo phá thai, trong đó 500 ngàn ca ở tuổi vị thành niên, 25% số ca chưa lập gia đình.

Chỉ riêng chín tháng đầu năm 2006 ở bệnh viện Từ Dũ đã có 18. 821 ca nạo phá thai và số trẻ vị thành niên đến đây nạo phá thai rất nhiều”.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: “Báo Công An đăng tin ngày 9/11/2006 đã nói lên những bà mẹ trẻ nỡ tâm giết những đứa con máu mủ của mình”. Đây là hành động thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 2: “Bảng tóm lược thống kê trong năm 2006 đã có 18.821 thai nhi được nạo bỏ, thật la đáng thương, con người giết con người”. Bảng tóm lược trên đây chứng tỏ con người thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 3: Vậy 18.821 thai nhi bị nạo bỏ thì những người mẹ trẻ này xử tội như thế nào?

 

(Sau 18 năm kể từ ngày ra đời, nghĩa trang Anh Hài - nghĩa trang bào thai tại xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, TT-Huế, đã đón nhận hơn 36 ngàn thai nhi bị chối bỏ. Đau lòng hơn, con số này đang tăng nhanh đến chóng mặt... Báo điện tử Dân Trí ngày 05/4/2010)

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1: “Báo Công An đăng tin ngày 9/11/2006 đã nói lên những bà mẹ trẻ nỡ tâm giết những đứa con máu mủ của mình”. Đây là một hành động THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Một hành động tội lỗi rất lớn, người mẹ mà không thương giọt máu của mình, nỡ nhẫn tâm ném bỏ giọt máu ruột thịt của mình như ném bỏ một món đồ phế thải.

Vì danh dự ư?! Nếu vì danh dự mà thành tội ác giết con của mình thì danh dự đó để làm gì. Phải không quý học viên? Danh dự lớn nhất là lòng yêu thương, người có lòng thương yêu biết tha thứ mỗi lỗi lầm của người khác, đem lại sự an vui cho mình, cho người là danh dự lớn nhất trên thế gian này. Người giết con mà có danh dự gì, chỉ che giấu được người khác, chứ làm sao che giấu được tâm mình. Chuyện trai gái, chồng vợ là chuyện rất tầm thường, nhưng con người hơn các loài động vật là lòng chung thủy, biết thương nhau, có trách nhiệm chồng vợ và con cái khi đã hòa hợp cuộc sống với nhau, chứ không phải vì chữ trinh giá đáng nghìn vàng mà làm nên tội giết người, nhất là người mẹ lại giết con của mình thì tội còn nặng nhất trong lịch sử loài người.

Hỡi các cháu gái thân thương! Khi các cháu đã lỡ lầm không làm chủ được tâm mình thì hãy tự thương mình, thương con của mình, đó là danh dự lớn nhất đời của các cháu. Các cháu dám gan dạ vượt qua những dư luận dị nghị thiếu đạo đức của những người ăn không ngồi rồi nói chuyện tào lao thiên hạ. Có xấu gì mà các cháu lại sợ, đó là quy luật con đường nhân quả sinh diệt, tạo ra biết bao nhiêu khổ đau cho loài người. Nếu các cháu biết nhân quả thì các cháu giữ mình, đừng để rơi vào con đường tội ác đầy chông gay và nhiều khổ đau. Nhưng khi đã lỡ bước chân vào đó thì các cháu hãy can đảm gan dạ vượt qua dư luận, đừng tạo thêm tội ác giết mình và con mình. Thì thật tội lỗi lắm các cháu ạ! Nếu các cháu biết thương mình và con mình thì đạp trên dư luận khen chê tốt xấu mà đi. Trên đời này không có điều gì xấu cả, mà chỉ có ác và thiện; ác là đau khổ; thiện là hạnh phúc an vui. Nếu các cháu nạo bỏ thai nhi là các cháu tạo tội lỗi giết người. Các cháu có biết không?

Trả lời câu hỏi 2:

“Bảng tóm lượt thống kê trong năm 2006 đã có 18.821 thai nhi được nạo bỏ, thật la đáng thương, con người giết con người”. Bảng tóm lượt trên đây chứng tỏ con người THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, THÂN HÀNH VÀ KHẨU HÀNH trầm trọng.

Bảng thống kê trong một năm mà số thai nhi bị giết là 18.821 người, thật đáng ghê sợ lòng ác độc của con người, một tội lỗi tày trời giết con trong lúc những thai nhi còn trứng nước đều vô tội. Đạo Phật vì lòng hiếu sinh không chấp nhận những hành động giết người như thế này. Trong nước có trùng còn không uống, thà chết chứ không phạm giới sát sinh. Cho nên người theo Phật giáo đã học đạo đức hiếu sinh thì làm sao nạo bỏ thai nhi cho đành. Phải không quý phật tử?

Trả lời câu hỏi 3:

Vậy 18.821 thai nhi bị nạo bỏ thì những người mẹ trẻ này xử tội như thế nào, xin quý vị định tội.

Những tội giết người này không thể kết án cho các cháu được. Tại sao vậy? Tội lỗi này là tội lỗi chung của xã hội loài người, thiếu giáo dục đạo đức hiếu sinh về mọi mặt của con người. Vì thế tình trạng mẹ giết con mới xảy ra khắp nơi trên thế gian này. Con người giết con người thật ghê gớm, thật kinh khủng.

Tội ác này đã lên án nền giáo dục của con người, nền giáo dục đang thiếu đạo đức trầm trọng, mà người đang nắm vận mạng giáo dục phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những tội ác này. Những người đang nắm vận mạng giáo dục thế giới cần phải lưu ý và quan tâm đến đạo đức hiếu sinh hơn nữa, thì may ra những tội ác này mới chấm dứt.

Về kế hoạch hóa gia đình, hạn chế nạn sinh đẻ đông con, tránh nạn nhân mãn thế giới, thì Phật giáo có những phương pháp giáo dục đào tạo nâng cao đạo đức nhân bản - nhân quả hạn chế tình dục, tâm sinh lý không bị rối loạn, không cần một loại thuốc nào ngừa thai cả, không cần phải đặt vòng, đặt thuốc, châm cứu, cắt thiến, v.v...

Vì những kế hoặch hóa gia đình, hạn chế mức sinh đẻ đông con như trên sẽ sinh ra nhiều chứng bệnh phụ khoa làm mất sức khỏe của giới nữ rất nhiều, và còn làm rối loạn tâm sinh lý của con người, mất chức năng sinh đẻ. Cho nên hiện giờ, những kế hoạch hóa gia đình đó đã lỗi thời, đưa con người trở thành những ác quỷ: người mẹ giết con, đương nhiên pháp luật phải chấp nhận đó là tội giết người. Xin quý vị hãy dự lớp học RÈN LUYỆN NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH lớp thứ ba, NGŨ GIỚI nói về ĐỨC CHUNG THỦY.

Bài học thứ 19: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: CÚNG TẾ VÀ CHỮA BỆNH

Tôi thấy nhiều đạo hữu theo Phật cũng đã lâu, thế sao mỗi khi đau ốm lại cúng tế ồn ào, khấn vái liên miên? Hỏi thì họ nói vâng theo lời Phật dạy. Vậy đạo Phật là mê tín chăng? Nghĩ cũng tội cho đạo Phật thiệt. Ở ngoài người ta nhìn cử chỉ của những người tự xưng là phật tử, rồi dựa theo đó mà phê bình Phật giáo. Có bao giờ họ chịu khó tìm hiểu giáo lý để hiểu thế nào là chân tinh thần đạo Phật đâu? Đạo hữu hãy lắng nghe câu chuyện sau đây, rồi hiểu đạo Phật có phải là đạo cúng tế chữa bệnh hay không? Một thời ở Ấn Độ có ông vua tên là Hòa Mặc, không biết tôn kính Tam Bảo, chỉ thờ quỷ thần, theo bọn phạm chí, giết hại sinh linh để tế lễ. Một hôm mẫu hoàng bị bệnh nặng, các danh y đều phải bó tay, vua phải mời các vị Bà La Môn đến cúng tế, các vị này nói rằng:

“Mẫu hoàng mắc bệnh là vì âm dương không điều hòa, trời đất tinh tú đảo lộn. Vậy phải thuyết đàn tế giao. Dùng 100 con thú, mỗi loài mỗi con và dùng một đứa nhỏ, đem giết để tế thần linh, có vậy mới lành bệnh được”.

Lệnh vua truyền ra, toàn dân trong nước đều khiếp sợ, nhà ai có con nít thì dấu kín trong nhà. Còn các loài thú bị tìm bắt kêu khóc thảm thiết chấn động cả đất trời.

Đức Phật thương hại cho vị quốc vương ngu mê vô trí, bèn cùng với đại chúng đến chỗ tế đàn. Vua thấy Phật đường xa, liền xuống kiệu, cất lọng đảnh lễ. Phật hỏi:

- Đại vương lập đàn làm gì? Vua đáp:

- Mẫu hoàng lâm bệnh, phải lập đàn tế sinh để cầu đảo trời đất quỷ thần.

Đức Phật nói:

- Đại vương hãy nghe kỹ điều này: muốn được lúa phải cày bừa gieo mạ; muốn giàu sang phải bố thí; muốn sống lâu phải làm lành; muốn được trí tuệ phải học hành nghiên cứu. Nghĩa là muốn được quả gì phải trồng nhân ấy, không thể lẫn lộn. Vả lại đã là người giàu có thì không bao giờ dùng đồ ăn uống của kẻ nghèo. Các hàng chư thiên lấy 7 món báu làm cung điện, áo quần ăn uống đầy rẫy, đâu có bỏ những món cam lồ để đến ăn những thức ô uế của loài người cúng tế hay sao? Tế tự cầu đảo chỉ làm mê hoặc chúng sanh, đảo lộn chánh tà: giết sinh mạng cứu sinh mạng làm cho người tiến mau đến cõi chết, tức là tự giết mình.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn thuyết bài kệ rằng:

Làm người muốn sống lâu

Phải làm hạnh đại từ

Không nên thờ quỷ thần

Giết trâu ngựa tế tự”.

Đức Phật thuyết bài kệ xong, vua liền lãnh ngộ được nghĩa đạo, tâm sanh hoan hỷ.

Mẫu hoàng nghe được lời Phật dạy, trong lòng nhẹ nhàng, tiêu trừ được bệnh hoạn, còn các vị Bà La Môn liền ăn năn, sám hối thọ giáo làm đệ tử.

Đạo hữu xem đau bệnh thì uống thuốc, đau bệnh thì nghe pháp để trừ tâm bệnh: muốn sống lâu thì phải cứu mạng cho tất cả sanh linh. Đau bệnh mà cầu đảo thì ngu dốt, giết người để cứu mình thì tự sát. Cho nên người giết loài vật ăn thịt mà mong cầu bổ khỏe bình an thì không bao giờ có.

Lời Phật dạy rõ ràng như ban ngày, chỉ có loài người là ưa bịt mắt để hiểu lầm mình và hiểu lầm mọi người.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: Các vị Ba La Môn nói: “Mẫu hoàng mắc bệnh là vì âm dương không điều hòa, trời đất tinh tú đảo lộn. Vậy phải thuyết đàn tế giao. Dùng 100 con thú, mỗi loài mỗi con và dùng một đứa nhỏ, đem giết để tế thần linh, có vậy mới lành bệnh được”. Lời dạy trên đây của các Bà La Môn là lời dạy thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 2: “Lệnh vua truyền ra, toàn dân trong nước đều khiếp sợ, nhà ai có con nít thì dấu kín trong nhà. Còn các loài thú bị tìm bắt kêu la thảm thiết chấn động cả đất trời”.

Lời truyền lệnh trên đây của vua thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 3: “Đức Phật thương hại cho vị quốc vương ngu mê vô trí, bèn cùng với đại chúng đến chỗ tế đàn”. Câu này nói về đạo đức gì?

Câu hỏi 4: “Đại vương hãy nghe kỹ điều này: muốn được lúa phải cày bừa gieo mạ; muốn giàu sang phải bố thí; muốn sống lâu phải làm lành; muốn được trí tuệ phải học hành nghiên cứu. Nghĩa là muốn được quả gì phải trồng nhân ấy, không thể lẫn lộn”. Lời dạy này của đức Phật thuộc về đạo đức gì?

Câu hỏi 5: “Vả lại đã là người giàu có thì không bao giơ dùng đồ ăn uống của kẻ nghèo. Các hàng chư thiên lấy 7 món báu làm cung điện, áo quần ăn uống đầy rẫy, đâu có bỏ những món cam lồ để đến ăn những thức ô uế của loài người cúng tế hay sao?” Câu này đức Phật dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 6: “Tế tự cầu đảo chỉ làm mê hoặc chúng sanh, đảo lộn chánh tà: giết sinh mạng cứu sinh mạng làm cho người tiến mau đến cõi chết, tức là tự giết mình”. Câu này đức Phật dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 7: “Đạo hữu xem đau bệnh thì uống thuốc, đau bệnh thì nghe pháp để trư tâm bệnh: muốn sống lâu thì phải cứu mạng cho tất cả sanh linh. Đau bệnh mà cầu đảo thì ngu dốt, giết người để cứu mình thì tự sát”. Câu nói này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 8: Đại ý bài này dạy đạo đức gì? Thuộc về đạo đức nhân quả cận tử nghiệp báo hay đạo đức nhân quả hiện tại nghiệp báo?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

Các vị Ba La Môn nói: “Mẫu hoàng mắc bệnh là vì âm dương không điều hòa, trời đất tinh tú đảo lộn. Vậy phải thuyết đàn tế giao. Dùng 100 con thú, mỗi loài mỗi con và dùng một đứa nhỏ, đem giết để tế thần linh, có vậy mới lành bệnh được”. Lời dạy trên đây của các Bà La Môn là lời dạy THIẾU ĐỨC THÀNH THẬT HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Các Bà La Môn dùng lời dối gạt vua để giết hại chúng sinh và giết trẻ con (người):

“Âm dương không điều hòa, trời đất tinh tú đảo lộn”. Làm gì có chuyện âm dương không điều hòa, trời đất tinh tú đảo lộn. Tất cả pháp trong vũ trụ đều theo một quy luật của nhân quả vận hành: thời tiết nóng hay lạnh, mưa hay nắng, gió bão hay không gió bão, thuận hay nghịch đều do nhân quả. Một năm có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông đều do luật nhân quả điều khiển. Điều hòa hay không điều hòa, trời đất tinh tú đảo lộn hay không đảo lộn là do luật nhân quả thiện ác chứ chẳng có ông Thánh, ông Thần nào làm đảo lộn. Vì thế cầu cúng là một sự lừa đảo của các tôn giáo thần quyền. Hành động lừa đảo dối gạt người là hành động vô đạo đức THÀNH THẬT. Người vô đạo đức thành thật là người vô đạo đức HIẾU SINH, vì không biết thương mình, thương người và thương tất cả chúng sinh nên mới tâu vua giết hại chúng sinh để cúng tế Thần, Thánh, Ma, Quỷ, v.v...

Những người này không biết luật nhân quả, không biết sự tương ưng của nhân quả, không biết sự báo ứng của nhân quả nên cả gan dám giết hại chúng sinh để tế đàn. Làm điều ác như vậy sẽ gặt lấy quả khổ đau không trốn đâu cho khỏi.

Bởi các vị Bà La Môn bày vẽ cầu cúng là những người lừa gạt người, tội lỗi rất lớn, họ là những người vô đạo đức hiếu sinh không biết thương mình, thương người, thương tất cả chúng sinh. Giết hại chúng sinh để cầu cúng tế lễ đó là làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, tội ác ấy rất lớn.

Trả lời câu hỏi 2:

“Lệnh vua truyền ra, toàn dân trong nước đều khiếp sợ, nhà ai có con nít thì dấu kín trong nhà. Còn các loài thú bị tìm bắt kêu la thảm thiết chấn động cả đất trời”. Lời truyền lệnh của vua là lời dạy THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH. Lời truyền lệnh ấy là một lời rất ác, giết hại sinh linh và giết luôn cả người (trẻ em).

Một lời truyền lệnh của vua làm cho toàn dân trong nước sợ hãi, thật là một lời ác độc.

Ví dụ: Người cha bảo:

- Hôm nay ngày giỗ ông nội, các con bắt hai con gà và ba con vịt giết để làm cỗ cúng ông bà.

Lời nói như vậy là lời nói ác, lời nói không đạo đức hiếu sinh, lời nói làm cho hai con gà và ba con vịt phải chết.

Chúng ta là những người học đạo đức hiếu sinh, phải yêu thương tất cả chúng sinh, phải cẩn thận từng lời nói, không nên nói những lời ác. Phải từ bỏ và tránh xa.

Trả lời câu hỏi 3:

“Đức Phật thương hại cho vị quốc vương ngu mê vô trí, bèn cùng với đại chúng đến chỗ tế đàn”. Câu này nói về ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Vì lòng yêu thương chúng sinh và trẻ em, nên đức Phật cùng đại chúng đến chỗ nhà vua tế đàn cầu cúng, khuyên ngăn nhà vua đừng làm ác, đó là hành động hiếu sinh cứu khổ chúng sinh tuyệt vời. Chúng ta là những người học đạo đức hiếu sinh thì đâu nỡ lòng nào giết hại và ăn thịt chúng sinh cho đành, nhưng thấy ai còn giết hại và ăn thịt chúng sinh thì chúng ta nên tìm đến khuyên ngăn.

Tìm đến khuyên ngăn tức là đạo đức hiếu sinh thân hành.

Trả lời câu hỏi 4:

Đức Phật khuyên nhà vua: “Đại vương hãy nghe kỹ điều này: muốn được lúa phải cày bừa gieo mạ; muốn giàu sang phải bố thí; muốn sống lâu phải làm lành, đừng giết hại chúng sinh; muốn được trí tuệ phải học hành nghiên cứu. Nghĩa là muốn được quả gì phải trồng nhân ấy, không thể lẫn lộn”. Lời dạy của đức Phật thuộc về ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Lời đức Phật dạy trên đây là lời dạy đạo đức nhân bản - nhân quả: “Muốn được lúa phải cày bừa gieo mạ; muốn giàu sang phải bố thí; muốn sống lâu phải làm lành, đừng giết hại chúng sinh; muốn được trí tuệ phải học hành nghiên cứu”. Lời dạy này xác định rất rõ gieo nhân nào thì gặt quả nấy, một lời dạy rất chân thật, không lừa đảo dối gạt người. Trồng cây ớt thì phải gặt quả trái ớt cay; trồng cây chanh thì phải gặt lấy quả trái chanh chua; trồng cây xoài thì gặt lấy quả trái xoài ngọt , v.v... Đó là quy luật nhân quả đang hoạt động trong vũ trụ, đang chi phối và điều hành mọi sự sinh hoạt của vạn vật mà không có một đấng vạn năng nào làm thay được. Cho nên các vị Bà La Môn cầu cúng tế lễ là dối gạt người, là một hành động vô đạo đức, gieo sự mê tín vào lòng người thật đáng chê trách. Chính những tôn giáo gieo rắc những giáo điều mê tín lạc hậu vào tư tưởng con người, khiến con người sống phi đạo đức nhân bản - nhân quả, chỉ còn biết dựa lưng vào thần, thánh, quỷ, ma, v.v...; khiến con người đánh mất sức tự chủ, chỉ còn tha lực cầu khẩn van xin, luồn cúi, bái lạy.

Lời dạy của đức Phật trên đây là lời dạy đạo đức hiếu sinh khẩu hành nhân quả, nó có một giá trị thiết thực, cụ thể cho đời sống của loài người; nó có một giá trị lợi ích rất lớn là đem lại sự an vui và hạnh phúc cho loài người.

Trả lời câu hỏi 5:

“Vả lại đã là người giàu có thì không bao giờ dùng đồ ăn uống của kẻ nghèo. Các hàng chư thiên lấy 7 món báu làm cung điện, áo quần ăn uống đầy rẫy, đâu có bỏ những món cam lồ để đến ăn những thức ô uế của loài người cúng tế hay sao?” Câu này đức Phật dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH tuyệt vời.

Câu này đức Phật dạy những hành ảnh cụ thể như: Một người giàu có thì không bao giờ ngồi ăn những món ăn của người nghèo khổ.

Thưa quý phật tử, lời dạy này có đúng không? Một người nhà giàu không thể ngồi ăn củ khoai lang, khoai mì, lúa mạch, củ chuối, rau lá cây rừng, v.v... như người nghèo.

Chư thiên, thần, thánh ăn uống đầy rẫy, những món ăn cam lồ, có đâu lại ăn uống những thức ăn cúng tế ác độc giết hại sinh linh và uế trược của loài người.

Sự so sánh những món ăn uống của người giàu và người nghèo, của loài người và chư thiên, rất rõ ràng để chứng minh cho chúng ta thấy sự lừa đảo cúng bái của các tôn giáo là một điều không đúng sự thật, chỉ là một sự lừa đảo mà thôi.

(Hình ảnh thương tâm trong lễ hội đâm trâu hiến tế của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, sau mỗi mùa rẫy hàng năm)

Trả lời câu hỏi 6:

“Tế tự cầu đảo chỉ làm mê hoặc chúng sanh, đảo lộn chánh tà: giết sinh mạng cứu sinh mạng làm cho người tiến mau đến cõi chết, tức là tự giết mình”. Câu này đức Phật dạy là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH, chỉ rõ những sự mê hoặc lừa đảo của tà giáo ngoại đạo để cảnh giác những người chưa hiểu biết về luật nhân quả.

Lời dạy đạo đức hiếu sinh này của đức Phật đã vạch rõ những lời nói dối trá phi đạo đức hiếu sinh của ngoại đạo thật tuyệt vời, khiến cho mọi người không ai mà không hiểu những kinh sách và những giáo điều mê hoặc lừa đảo của kinh sách phát triển Bà La Môn mượn danh là Phật giáo.

Lời dạy đạo đức hiếu sinh khẩu hành của đức Phật trên đây làm sáng tỏ phân biệt đâu chánh, đâu tà, đâu thiện, đâu ác, đâu giả dối, đâu thành thật, đâu đạo đức, đâu phi đạo đức.

Người nào hữu duyên được tu học theo lời dạy đạo đức hiếu sinh này như người mù được sáng mắt, như người đi biển có la bàn, như người đi trong đêm tối có ánh đuốc.

Hạnh phúc thay cho những ai được tu học đạo đức hiếu sinh qua những lời Phật dạy, thật là phước báo vô lượng.

Trả lời câu hỏi 7:

“Đạo hữu xem thân đau bệnh thì uống thuốc, tâm đau bệnh thì nghe pháp để trư tâm bệnh: muốn sống lâu thì phải cứu mạng cho tất cả sanh linh. Đau bệnh mà cầu đảo thì ngu dốt, giết chúng sinh để cứu mình thì tự sát”. Câu nói này Hòa Thượng Minh Châu dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH THƯƠNG MÌNH thật tuyệt vời. Khi có thân bệnh, tu hành chưa đủ đạo lực thì nên uống thuốc, chứ đừng cúng tế cầu an cho tai qua nạn khỏi bệnh tật tiêu trừ là ngu dốt, mê tín, lạc hậu. Khi có tâm bệnh thì dùng đức hiếu sinh xả trừ tham, sân, si, mạn, nghi thì tâm bệnh chấm dứt.

Lời dạy đạo đức hiếu sinh của Hòa Thượng Minh Châu rất tuyệt vời, Người chỉ cho chúng ta một lối đi sáng suốt không còn một kinh sách và một giáo điều nào lừa đảo chúng ta được.

Trả lời câu hỏi 8:

Đại ý bài này dạy đạo đức hiếu sinh khẩu hành tuyệt vời, vạch rõ nhân quả hiện tại nghiệp báo và nhân quả cận tử nghiệp báo cho chúng ta hiểu biết tường tận.

Chỉ rõ những sự cúng tế cầu an, cầu siêu là sai, là mê tín là lạc hậu.

Học bài đạo đức hiếu sinh này sẽ mang nhiều lợi lạc đến với mọi người, từ đây không còn bị ai mê hoặc lừa đảo mình được. Không còn sống trong mê tín lạc hậu nữa. Phải không quý phật tử?

Bài học thứ 20: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: NỖI ĐAU KHÔNG CỦA RIÊNG AI

Chúng tôi đến bệnh viện Từ Dũ vào một buổi sáng cuối tháng mười, mặc dù đã hẹn trước, nhưng các bác sĩ và y tá ở khoa kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) vẫn rất bận rộn. Người ta vào và chờ đợi trước hành lang của khoa đông nghẹt. Trong hàng trăm khuôn mặt đang căng lên vì đợi chờ và lo lắng có những cô gái còn rất trẻ, thân hình chưa qua khỏi cái tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới”, được người thân dẫn đến đây nhờ “giải quyết hậu quả”, chúng tôi cố tìm cho mình một chỗ ngồi để quan sát, nhưng trước dãy phòng khám, phòng tư vấn, các phòng phẫu thuật đều không còn chỗ trống. Một cô bé chừng 16, 17 tuổi cúi đầu rất nhanh, khi ánh mắt chúng tôi vô tình dừng lại nơi cô. Nhìn chiếc váy xanh rộng thùng thình như muốn nuốt lấy thân hình nhỏ thó của em, chúng tôi thấy thật xót xa.

Bác sĩ Nguyễn Thị Kim Dung, người đã công tác ở khoa khá lâu bảo: “Chuyện ở đây kể hoài không hết. Chẳng ngày nào không có những trường hợp mà bác sĩ tư vấn cũng cảm thấy bất lực vì thực trạng đáng buồn của xã hội”. Chị Dung kể, buổi sáng vừa giải quyết hai ca nạo bỏ thai cho hai cô gái tuổi 15, 16.

N.T.H 15 tuổi, nhà ở Quận 8 ngây ngô nói với bác sĩ là em không biết có thai từ khi nào. Trong một lần tan học, đợi mãi không thấy người nhà tới đón, gặp một bạn trai mới quen đứng trước cổng trường rủ đi chơi, H đã cùng người này đi uống cà phê, và sau đó cậu ta chở H vào nhà nghỉ, đến 9 giờ tối mới đưa về.

Một thời gian sau, mẹ H thấy con có triệu chứng khác lạ, hỏi thì H bảo không có kinh nguyệt đã hai tháng. Đưa con vào bệnh viện Từ Dũ khám, trời đất như sụp đổ dưới chân bà, khi bác sĩ cho biết H đang mang thai gần mười tuần tuổi. Gạt nỗi đau sang bên, giấu biệt người nhà, mẹ H đành nhờ bác sĩ giải quyết cho H để em có thể đến trường bình thường.

Còn L.H.V 16 tuổi, ba mẹ ly hôn nên từ nhỏ sống với bà ngoại. Phụ bán hàng ở ga Sài Gòn, V quen biết với nhóm bạn sàn sàn tuổi thường lang thang ở ga. Có lần đi chơi rồi nhậu say, cả nhóm rủ nhau về nhà một người trong nhóm ngủ. Sau một thời gian, V thấy trong người đổi khác, được một người bạn hướng dẫn, V đến bệnh viện Từ Dũ khám và giải quyết hậu quả. Vào đây, V khai mình 19 tuổi, nhưng nhìn dáng dấp của cô bé, các bác sĩ biết V còn nhỏ, nên yêu cầu có người thân đi theo mới làm thủ thuật cho em được. Hôm sau V đành nhờ một người chị họ đi cùng bảo lãnh, để em được giải quyết hậu quả.

Tất cả các trường hợp đến khoa KHHGĐ - bệnh viện Từ Dũ đều được tư vấn rất kỹ về tác hại của việc nạo hút thai, cũng như biện pháp phòng tránh thai, nhưng số người quay lại bỏ thai lần sau vẫn rất nhiều, đông nhất là lứa tuổi 22-26. Có một trường hợp làm các tư vấn viên ở khoa KHHGĐ bệnh viện Từ Dũ nhớ mãi, đó là N.H.A 21 tuổi. Ấn tượng ban đầu về cô là một thân hình nhỏ nhắn, gương mặt rất xinh nhưng xanh xao. H.A đã bỏ thai ba lần ở Hà Nội, vào Từ Dũ lần này là lần thứ tư. H.A bảo, cô chưa có khả năng nuôi con, vì làm công nhân lương rất ít, không đủ chi phí cho bản thân, có con sẽ khổ. Khi được hỏi đã dùng các biện pháp tránh thai nào, H.A cho biết chưa hề thử, vì ... sợ như thế sẽ không có con. Điều H.A không biết là nguy cơ sẽ tăng cao nếu cô nạo phá thai nhiều lần.

Những tai biến dẫn đến vô sinh như hở cổ tử cung, tổn thương trong tử cung, viêm dính buồng trứng không hiếm ở những trường hợp đã từng có tiền sử nạo phá thai. Sau khi được tư vấn, H.A “hứa” với bác sĩ là sẽ dùng biện pháp tránh thai và sẽ không bỏ thai lần nào nữa.

Bỏ thai ngoài ý muốn không ai cấm cản, nhưng có những trường hợp đi kế hoạch hóa, làm những người trong cuộc không biết nên khóc hay nên cười. T.T.T là sinh viên năm thứ hai của một trường Đại học ở thành phố Hồ Chí Minh, vào phá thai lần này là lần thứ hai. T có một nhóm bạn con nhà giàu, thường tụ tập đi nhảy ở các quán bar, vũ trường. Lần đầu tiên T dính bầu là vào hôm sinh nhật 18 tuổi, T đã dâng hiến đời con gái cho người yêu. Sau khi biết cô có mang, anh chàng quất ngựa truy phong khiến T phải một mình đến bệnh viện giải quyết. Lần này T quen người khác, cũng có thai với anh ta, nhưng khi chàng đòi cưới để đứa bé có cha thì T không chịu, cô nhất định giải quyết cái thai vì con đường công danh của cô đang ở phía trước.

Thế là T vác bụng bầu hơn ba tháng vào bệnh viện. Nhìn T mặc áo bầu màu hồng, tay đeo chiếc giỏ da sang trọng tìm lên khoa KHHGĐ, các cô y tá tưởng đi nhầm nên hướng dẫn: “Em ơi! Phòng khám thai ở dưới đất, trên này là nơi bỏ thai”. T trả lời tỉnh bơ: “Không! Em đi bỏ thai đấy chứ”. Cũng vào phòng tư vấn, cũng lên bàn phẫu thuật, nhưng mặt T lạnh như tiền, không một chút e ngại hay lo sợ.

Các Bác sĩ khoa KHHGĐ bệnh viện Từ Dũ cũng khuyên giới trẻ khi bỏ thai ngoài ý muốn nên đến khoa KHHGĐ của các bệnh viện để được làm thủ thuật, đừng bao giờ vì thiếu hiểu biết hoặc sợ gia đình và xã hội dè bỉu rồi tìm đến các cơ sở lậu, nhất là những trường hợp thai quá lớn. Hành động dại dột của các em có khi phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Trường hợp nạo thai lâu dẫn đến thủng tử cung, phải vào bệnh viện cấp cứu không phải là hiếm.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: “Một cô bé chừng 16, 17 tuổi cúi đầu rất nhanh, khi ánh mắt chúng tôi vô tình dừng lại nơi cô. Nhìn chiếc váy xanh rộng thùng thình như muốn nuốt lấy thân hình nhỏ thó của em, chúng tôi thấy thật xót xa”. Câu này nói lên đạo đức gì?

Câu hỏi 2: “Trong một lần tan học, đợi mãi không thấy người nhà tới đón, gặp một bạn trai mới quen đứng trước cổng trương rủ đi chơi, H. đã cùng người này đi uống ca phê, và sau đó cậu ta chở H. vào nhà nghỉ, đến 9 giờ tối mới đưa về”. Câu này nói hành động vô đạo đức gì?

Câu hỏi 3: “Một thời gian sau, mẹ H thấy con có triệu chứng khác lạ, hỏi thì H bảo không có kinh nguyệt đã hai tháng. Đưa con vào bệnh viện Từ Dũ khám, trời đất như sụp đổ dưới chân bà khi bác sĩ cho biết H đang mang thai gần mười tuần tuổi”. Câu này nói lên đạo đức gì?

Câu hỏi 4: “Gạt nỗi đau sang bên, giấu biệt người nhà, mẹ H đành nhờ bác sĩ giải quyết cho H. để em có thể đến trường bình thường”. Câu này nói lên thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 5: “Còn L.H.V 16 tuổi, ba mẹ ly hôn, nên từ nhỏ sống với bà ngoại. Phụ bán hàng ở ga Sài Gòn, V quen biết với nhóm bạn sàn sàn tuổi thường lang thang ở ga. Có lần đi chơi rồi nhậu say, cả nhóm rủ nhau về nhà một người trong nhóm ngủ. Sau một thời gian, V thấy trong người đổi khác, được một người bạn hướng dẫn, V đến bệnh viện Tư Dũ khám và giải quyết hậu quả”. Câu này nói lên đạo đức gì?

Câu hỏi 6: “N.H.A 21 tuổi, ấn tượng ban đầu về cô là một thân hình nhỏ nhắn, gương mặt rất xinh nhưng xanh xao. H.A đã bỏ thai ba lần ở Hà Nội, vào Từ Dũ lần này là lần thứ tư. H.A bảo, cô chưa có khả năng nuôi con, vì làm công nhân lương rất ít, không đủ chi phí cho bản thân, có con sẽ khổ”. Câu này nói lên người mẹ trẻ vô đạo đức như thế nào?

Câu hỏi 7: “T.T.T là sinh viên năm thứ hai của một trường Đại học ở thành phố Hồ Chí Minh, vào phá thai lần này là lần thứ hai. T có một nhóm bạn con nha giàu, thường tụ tập đi nhảy ở các quán bar, vũ trường. Lần đầu tiên T dính bầu là vào hôm sinh nhật 18 tuổi, T đã dâng hiến đời con gái cho người yêu. Sau khi biết cô có mang, anh chàng quất ngựa truy phong”. Câu này nói lên vô đạo đức gì?

Câu hỏi 8: “Khiến T phải một mình đến bệnh viện giải quyết. Lần này T quen người khác, cũng có thai với anh ta, nhưng khi chàng đòi cưới để đứa bé có cha thì T không chịu”. Câu này nói lên vô đạo đức gì?

Câu hỏi 9: “Cô nhất định giải quyết cái thai vì con đường công danh của cô đang ở phía trước. Thế là T vác bụng bầu hơn ba tháng vào bệnh viện”. Câu này nói lên vô đạo đức gì?

Câu hỏi 10: “Em ơi! Phòng khám thai ở dưới đất, trên này là nơi bỏ thai”. T trả lời tỉnh bơ: “Không! Em đi bỏ thai đấy chứ” Cũng vào phòng tư vấn, cũng lên bàn phẫu thuật, nhưng mặt T lạnh như tiền, không một chút e ngại hay lo sợ”. Câu này nói lên vô đạo đức gì?

Câu hỏi 11: “Đừng bao giờ vì thiếu hiểu biết hoặc sợ gia đình và xã hội dè bỉu rồi tìm đến các cơ sở lậu, nhất là những trường hợp thai quá lớn. Hành động dại dột của các em có khi phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Trường hợp nạo thai lâu dẫn đến thủng tử cung, phải vào bệnh viện cấp cứu không phải là hiếm”. Lời khuyên trên đây la đạo đức gí?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

“Một cô bé chừng 16, 17 tuổi cúi đầu rất nhanh, khi ánh mắt chúng tôi vô tình dừng lại nơi cô. Nhìn chiếc váy xanh rộng thùng thình như muốn nuốt lấy thân hình nhỏ thó của em, chúng tôi thấy thật xót xa”. Câu này nói lên ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH của người phóng viên báo Công An TP Hồ Chí Minh, thương xót các cháu gái tuổi còn trẻ quá chưa biết đời là khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển, chưa biết con đường sinh tử là nơi nào.

Tội ác rất nặng là tội giết người. Một cháu bé gái 16, 17 tuổi, vì không biết con đường sắc dục là con đường đau khổ, con đường sinh diệt của nhân quả luân hồi. Người đời có mắt như mù, tưởng sắc dục là hạnh phúc nên mọi người đam mê chạy theo nó. Một cháu bé gái 16, 17 tuổi đến bệnh viện Từ Dũ nỡ tâm giết con mình thật là ghê gớm. Một phút truy hoan theo sắc dục để thành tội giết người, mà lại giết con mình. Thật tội lỗi nặng như núi.

Tội ấy không thể tha thứ được. Cháu bé gái này không tránh khỏi luật nhân quả luân hồi, khi đủ duyên cháu sẽ bị giết chết từ trong trứng nước, như hiện giờ cháu đã nạo thai giết con mình. Các cháu nên nhớ: Không có tội nào nặng hơn là tội giết người, các cháu có biết không? Nhất là người mẹ giết con thì tội ấy còn nặng gấp trăm ngàn lần.

Trả lời câu hỏi 2:

“Trong một lần tan học, đợi mãi không thấy người nhà tới đón, gặp một bạn trai mới quen đứng trước cổng trương rủ đi chơi, H đã cùng người này đi uống cà phê và sau đó cậu ta chở H vào nhà nghỉ, đến 9 giờ tối mới đưa về”. Câu này nói lên hành động THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH của cô gái học sinh không biết thương mình, chỉ ngu si chạy theo con đường truy hoan sắc dục mới để cho chàng trai chở mình. Bởi vậy các cháu gái thật là dại dột, con đường truy hoan sắc dục là để lại hậu quả đau khổ mà chỉ có các cháu gái lãnh đủ. Người xưa nói: “Đàn ông đi biển có đôi, đàn bà bà đi biển mồ côi một mình”.

Con đường sắc dục bao nhiêu sự khổ đau các cháu phải gánh chịu có một mình, các cháu có biết không? Nhất là mẹ giết con tội rất nặng. Các cháu cứ nhìn bệnh viện Từ Dũ, có cháu trai nào đến đấy không? Có cháu trai nào móc thai, nạo thai không? Có cháu trai nào làm tội giết người không? Một phút truy hoan sắc dục, tất cả tội lỗi và mọi khổ đau các cháu gái đều phải gánh chịu cả.

Về phái nữ các cháu nghĩ sao? Các cháu có thương các cháu không? Các cháu vô đạo đức hiếu sinh với mình, các cháu tự làm khổ mình, tự làm cho mình nên tội giết người.

Về phái nam các cháu nghĩ sao? Các cháu là những người chủ mưu gây ra tội giết người, giết con. Các cháu có biết không? Các cháu có biết truy hoan sắc dục là để lại hậu quả khổ đau cho người khác gánh chịu không? Các cháu là những người hèn nhát, gây ra tội ác giết người rồi trốn chạy tội lỗi.

Truy hoan sắc dục là một hành động vô đạo đức hiếu sinh thân hành, không biết thương mình, thương người. Người đam mê truy hoan sắc dục là người không có trí tuệ, ngu si không thấy con đường sắc dục là con đường nhân quả, sinh tử luân hồi đầy đau khổ. Nếu không đau khổ sao các cháu gái đến bệnh viện Từ Dũ để làm gì?

Trả lời câu hỏi 3:

“Một thời gian sau, mẹ H thấy con có triệu chứng khác lạ, hỏi thì H bảo không có kinh nguyệt đã hai tháng. Đưa con vào bệnh viện Từ Dũ khám, trời đất như sụp đổ dưới chân bà, khi bác sĩ cho biết H đang mang thai gần mười tuần tuổi”. Câu này nói lên THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH làm khổ mình, làm khổ mẹ mình, các cháu gái có thấy không? Đấy! Các cháu gái có thấy không? Một phút truy hoan sắc dục của các cháu để lại hậu quả vô cùng to lớn:

1- Làm khổ thân mình: chịu mọi sự khổ đau, mang nhiều chứng bệnh phụ khoa.

2- Làm khổ tâm mình: xấu hổ với mọi người mặt không dám nhìn ai, bị tiếng đời cười chê.

3- Làm khổ cha mẹ.

4- Làm tội giết người: nạo, móc thai.

Các cháu gái cứ suy ngẫm những tội lỗi trên đây có đúng không? Một phút truy hoan sắc dục là vô đạo đức hiếu sinh thân hành, không biết thương mình, thương người, tạo tội ác tày trời.

Trả lời câu hỏi 4:

“Gạt nỗi đau sang bên, giấu biệt người nhà, mẹ H đành nhờ bác sĩ giải quyết cho H, để em có thể đến trường bình thường”. Câu này nói lên người mẹ THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH và đồng lõa tội giết người.

Ghê gớm thật, con người vì danh dự hão, để giữ thể diện, che đậy tội lỗi của con mình mà làm nên tội giết người. Một thai nhi nằm trong bụng mẹ làm nên tội gì mà phải bị giết (nạo, móc bỏ).

Bệnh viện Từ Dũ đã từng chứng kiến và y bác sĩ tiếp tay làm nên tội ác giết người này.

Chỉ thống kê trong một năm 2006 mà số thai nhi bị giết là 18.821. Tội giết người mà không bị luật pháp truy tội. Mỗi năm đều có một số thai nhi bị giết như vậy thật đáng thương, nhưng biết làm sao hơn, khi mà chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản - nhân quả chưa có thì sự giết người này còn nhiều hơn nữa.

Hỡi các cháu gái thân thương! Các cháu hãy cẩn thận, một phút truy hoan sắc dục là các cháu phải chịu mọi sự khổ đau đấy. Các cháu có biết không? Trong sự truy hoan sắc, dục hậu quả khổ đau và mọi sự xấu xa nhơ nhuốc đổ lên đầu các cháu, lúc bấy giờ các cháu gái phải gánh trọn mọi sự khổ đau ấy, không ai kê vai gánh vác cho các cháu đâu. Vì thế khi bước chân vào đời, các cháu phải cẩn thận với những lời đường mật lừa đảo, vô đạo đức hiếu sinh của những người vô trách nhiệm.

Đời có rất nhiều sự đau khổ mà người phái nữ gánh chịu gần hết những sự đau khổ đó, cho nên khi bước chân ra đời đừng làm như con thiêu thân các cháu ạ! Chỉ biết ánh sáng mà không biết hậu quả của ánh sáng. Các cháu cứ xem những bà mẹ đi trước có phút nào người phụ nữ vui trọn vẹn đâu? Vui đó liền khổ đó, vui có một chút mà khổ thì không sao kể hết. Tội nạo thai, móc thai, tội giết con thì ai là người trực tiếp và ai là người gián tiếp các cháu có biết không? Bào thai trong lòng người mẹ mà móc ra bỏ thì các cháu là chủ mưu giết người, còn tất cả người khác như bác sĩ, người mẹ, người bạn trai mà đồng ý móc bỏ thai nhi đều là tòng phạm. Các cháu có biết không?

Trả lời câu hỏi 5:

“Còn L.H.V 16 tuổi, ba mẹ ly hôn nên tư nhỏ sống với bà ngoại. Phụ bán hàng ở ga Sài Gòn, V quen biết với nhóm bạn sàn sàn tuổi thường lang thang ở ga. Có lần đi chơi rồi nhậu say, cả nhóm rủ nhau về nhà một người trong nhóm ngủ. Sau một thời gian, V thấy trong người đổi khác, được một người bạn hướng dẫn, V đến bệnh viện Từ Dũ khám và giải quyết hậu quả”. Câu chuyện này nói lên THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH của những bậc làm cha mẹ.

Trong cuộc đời này có những bậc làm cha mẹ vô trách nhiệm, chỉ biết truy hoan theo sắc dục, sống không chung thủy, nay cặp nguời này, mai cặp người khác; hoặc rượu chè bài bạc say xỉn, hung bạo đánh vợ đập con, khiến gia đình tan nát, đi đến cảnh ly dị, bỏ lại những đứa con thơ dại bơ vơ giữa chợ đời, sống lang thang đầu đường xó chợ, thiếu tình thương yêu bảo vệ, đùm bọc và dạy dỗ của mẹ cha, thật là đáng thương như cháu gái trên đây. Kinh nghiệm đời chưa có làm sao không sa vào cạm bẫy của những người vô đạo đức hiếu sinh, biết truy hoan sắc dục mà chẳng biết chịu trách nhiệm bổn phận làm chồng, làm cha, để cho cháu gái này một thân phải gánh chịu mọi sự khổ đau, mọi sự nhục nhã ê chề và còn thêm tội giết con mình.

Xã hội này mọi người cần phải được giáo dục đào tạo đạo đức hiếu sinh gia đình, cần phải được cắp sách đến trường học đạo đức, từ trẻ em đến những người lớn tuổi. Nếu đạo đức hiếu sinh gia đình không được học tập thì con người sống đối với tình chồng nghĩa vợ, bổn phận với con cái còn kém xa hơn loài thú vật.

Con thiên nga, con chim quốc là hai con vật rất chung thủy, sống có tình chồng nghĩa vợ. Khi con này chết, thì con kia nhịn ăn rồi cũng chết theo, chúng không thể nào sống lẻ bạn và không chấp nhận sống với con chim khác. Loài chim thật là chung tình, chung thủy mà loài người không thể sánh kịp.

Tội nghiệp cho cháu gái này cha mẹ ly dị, sống với bà ngoại, không có người chăm sóc dạy bảo, nên làm sao tránh khỏi bọn con trai vô đạo đức hiếu sinh dùng những lời đường mật gạt gẫm, làm sao cháu gái không sa vào cạm bẫy tội lỗi muôn vàn khổ đau, làm khổ mình, giết con mình.

Qua câu chuyện trên đây, những bậc làm cha mẹ phải thấy bổn phận trách nhiệm đạo đức hiếu sinh gia đình, khi sinh con ra là phải làm tròn bổn phận làm cha, làm mẹ, làm vợ, làm chồng:

- Thứ nhất: Vợ chồng không được ly dị.

Ly dị là một hành động thiếu đạo đức hiếu sinh thân hành. Vợ chồng mà ly dị nhau còn thua loài cầm thú như: chim quốc, thiên nga.

Chim cuốc khi con này chết, con kia kêu suốt thâu đêm và không ăn uống rồi chết theo.

Loài chim còn có lòng chung thủy như vậy, huống là loài người sao lại tệ bạc đổi trắng thay đen, không biết xấu hổ sao? - Thứ hai: Làm chồng không được vũ phu, hung bạo đánh, chửi mắng vợ là điều phi đạo đức hiếu sinh thân hành, khẩu hành. Làm người đàn ông cần phải nên tránh những hành động vũ phu, hung ác vô đạo đức đó, vì những hành động đó chứng tỏ trình độ văn hóa và đạo đức của người đàn ông quá kém.

Người đàn ông chửi mắng, đánh vợ là con thú vật chứ không phải con người.

- Thứ ba: Làm vợ không được mắng chửi chồng, ngược lại người chồng cũng như vậy.

Nếu vợ chồng mắng chửi, đánh đập nhau là hai con thú vật chứ không phải con người.

- Thứ tư: Phải đem tình thương đùm bọc dạy dỗ và bảo vệ con mình đến lớn khôn.

- Thứ năm: Làm chồng phải chung thủy với vợ, không được lang chạ với người khác, ngược lại làm vợ cũng vậy.

- Thứ sáu: Không được nạo, móc bỏ thai, đó là một tội ác giết người.

- Thứ bảy: Làm người là phải biết chế ngự lòng truy hoan sắc dục, vì đó là con đường đau khổ đưa đến làm khổ mình, làm khổ người.

Tóm lại, làm cha mẹ phải làm hết bổn phận thương yêu và bảo vệ con cái từ lúc còn nằm trong bào thai cho đến khi trưởng thành. Có như vậy mới gọi là đạo đức hiếu sinh gia đình.

Trả lời câu hỏi 6:

“N.H.A 21 tuổi, ấn tượng ban đầu về cô la một thân hình nhỏ nhắn, gương mặt rất xinh nhưng xanh xao. H.A đã bỏ thai ba lần ở Ha Nội, vào Từ Dũ lần này là lần thứ tư. H.A bảo, cô chưa có khả năng nuôi con, vì làm công nhân lương rất ít, không đủ chi phí cho bản thân, có con sẽ khổ”. Câu chuyện này nói lên người mẹ trẻ THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH. Ba lần nhẫn tâm làm tội giết con ở Hà Nội và một lần giết con ở thành phố Hồ Chí Minh. Một người mẹ trẻ giết bốn đứa con. Vậy quý phật tử nghĩ sao? Có đáng lên án cháu bé gái này không? Đây, quý phật tử hãy nghe cháu gái này nói: “H.A bảo, cô chưa có khả năng nuôi con, vì làm công nhân lương rất ít, không đủ chi phí cho bản thân, có con sẽ khổ”. Biết có con sẽ khổ, sao lại chạy theo truy hoan sắc dục để thành tội nhân giết người, giết con của mình. Một người phụ nữ như vậy có xứng đáng làm người phụ nữ không? Lời nói của cháu gái này là lời nói phi đạo đức hiếu sinh. Biết lương không đủ nuôi bản thân thì phải ngăn chặn lòng truy hoan sắc dục. Biết ngăn chặn lòng truy hoan sắc dục là đạo đức hiếu sinh thương mình, thương đứa con vô tội của mình. Cả bốn lần giết con thì cháu gái này không còn là con người, mà là một ác quỷ.

Con thú còn biết thương con, cớ sao con người lại tệ hơn con thú. Chúng ta ai cũng biết, bắt đầu mang bào thai là mang đứa con trong người. Tại sao các cháu không thương giọt máu của mình thì chắc gì các cháu thương ai. Một người mẹ giết con thì trong cuộc đời không còn chỗ nào nói. Phải được kết án là những bà mẹ giết con, tội tù chung thân, tử hình.

Một xã hội điên đảo, giết người công khai mà vô tội thật đáng trách. Tại sao ngành giáo dục không giáo dục đào tạo ,hướng dẫn thanh thiếu niên nam nữ, cho chúng thông suốt sự truy hoan sắc dục là tai hại và đau khổ cho bản thân và xã hội; sự truy hoan sắc dục còn là con đường nhân quả, luân hồi sinh diệt mang đến muôn vàn sự khổ đau cho loài người; sự truy hoan sắc dục còn là con đường vô đạo đức hiếu sinh, thường làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai, luôn luôn đem đến mọi sự khổ đau. Cuộc đời này đau khổ phần lớn là do sự truy hoan sắc dục. Xin quý học viên lưu ý.

Trả lời câu hỏi 7:

“T.T.T là sinh viên năm thứ hai của một trường đại học ở thành phố Hồ Chí Minh, vào phá thai lần này là lần thứ hai. T có một nhóm bạn con nhà giàu, thường tụ tập đi nhảy ở các quán bar, vũ trường. Lần đầu tiên T dính bầu là vào hôm sinh nhật 18 tuổi, T đã dâng hiến đời con gái cho người yêu. Sau khi biết cô có mang, anh chàng quất ngựa truy phong”. Câu này nói lên THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Một sinh viên đại học năm thứ hai là trình độ kiến thức rất vững vàng, thế mà không biết ngăn chặn sự truy hoan sắc dục, để trở thành một tội nhân giết người, một người mẹ giết con. Cháu có thấy không? Điều đáng trách là cậu cháu trai này khi truy hoan với người con gái, biết có thai lại nhẫn tâm bỏ trốn: “Sau khi biết cô có mang, anh chàng quất ngựa truy phong”. Làm con trai dám làm phải dám chịu, phải thấy trách nhiệm của mình là người cha để con mình không bị móc bỏ, đó là tội đồng lõa giết con.

Cháu có biết không? Hành động bỏ trốn trách nhiệm như vậy cháu không xứng đáng làm người, con thú vật còn không nỡ giết con, huống cậu là cháu trai mà nỡ lòng nào giết con sao? Thế mà cháu lại bỏ trốn, đó là một điều hèn nhát; là một điều đáng chê trách, không xứng đáng làm người, cháu còn thua xa loài cầm thú. Con thú vật còn biết thương con, liều mình bảo vệ cho con, huống cháu là con người, sao cháu tệ quá vậy? Đức hiếu sinh cháu ở đâu? Cháu có biết không? Cháu là con người hay là ác quỷ? Đây là giới có học thức giết người, giết con. Những sinh viên đại học mà có những hành động phi đạo đức hiếu sinh như vậy thì phải xem lại nền giáo dục của Bộ Giáo Dục các nước trên thế giới.

Chương trình giáo dục đào tạo của Bộ Giáo Dục đang thiếu BỘ MÔN DẠY ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN - NHÂN QUẢ, vì thế con người có tài mà không có đức. Cho nên hầu hết một số sinh viên các trường đại học chạy theo dục lạc tầm thường, truy hoan sắc dục để rồi gánh lấy hậu quả là giết con của mình mang một tội ác rất nặng là tội giết người, mẹ giết con.

Những tệ nạn xã hội dẫy đầy, nạn cướp của giết người, nạn hiếp dâm người lớn và trẻ em khắp nơi, nạn mãi dâm từ thành thị đến nông thôn, nạn nạo thai, phá thai giết trẻ em còn trứng nước. Thật là đau thương vô cùng! Vì sự bình an và hạnh phúc cho loài người trên hành tinh này, chúng tôi xin đề nghị các bộ Giáo Dục của các nước trên toàn cầu hãy xem lại chương trình giáo dục đào tạo của nước mình, nếu còn thiếu BỘ MÔN ĐẠO ĐỨC, thì nên dựa vào nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo mà biên soạn thành giáo trình và giáo án của các lớp từ Tiểu học, Trung học đến Đại học, để giáo dục đào tạo đạo đức cho những học sinh và sinh viên có tài đức song toàn. Có vậy thì những tệ nạn xã hội mới chấm dứt và mỗi gia đình mới có hạnh phúc, xã hội mới có trật tự, đất nước mới có an ninh và phồn vinh, thịnh trị.

Thời điểm khoa học tiến bộ phát triển phục vụ đời sống vật chất cho loài người rất đầy đủ mọi tiện nghi, thì đạo đức cần phải được nâng cao lên trong tinh thần yêu thương, đùm bọc lá lành đùm lá rách; trong tinh thần yêu thương biết tha thứ mọi lỗi lầm của nhau; trong tinh thần yêu thương mọi sự sống trên hành tinh này. Có sống đạo đức được như vậy thì hành tinh này mới được sự bình an.

Trả lời câu hỏi 8:

“Khiến T phải một mình đến bệnh viện giải quyết. Lần này T quen người khác, cũng có thai với anh ta, nhưng khi chàng đòi cưới để đứa bé có cha thì T không chịu”. Câu này nói lên cháu bé gái này THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Con của mình mà nỡ lòng nào đem giết cho đành, trong khi cha đứa bé đòi hỏi cưới để đứa bé có cha. Cháu trai này thật gan dạ, dám làm dám chịu, không trốn tránh trách nhiệm với giọt máu của mình. Cháu trai này có đạo đức hiếu sinh, biết thương mình, thương con của mình và thương vợ mình.

Cháu trai này rất đáng khen, rất đáng khâm phục, như vậy mới xứng đáng làm con trai; mới xứng đáng làm người thật là con người.

Người có đạo đức thì lấy đạo đức làm sự sống của mình thật là tuyệt vời. Nếu ai cũng như cháu trai này thì mọi người đâu có khổ đau. Còn cháu gái này rất đáng chê trách, dám chạy theo dục lạc tầm thường, truy hoan sắc dục mà không dám nhận bổn phận làm mẹ, làm vợ, chỉ biết trốn chạy thật là ích kỷ, nhỏ mọn, hẹp hòi, và còn gây tội ác giết con mình thật đáng chê trách, và đời đời làm gương xấu cho mọi người tránh.

Trả lời câu hỏi 9:

“Cô nhất định giải quyết cái thai, vì con đường công danh của cô đang ở phía trước.

Rhế là T vác bụng bầu hơn ba tháng vào bệnh viện”. Câu này nói lên THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH. Vì công danh mà cháu gái này quyết tâm giết con mình, thật là cay đắng; vì công danh mà làm nên tội ác giết người, thật là ghê gớm.

Cháu gái này là một sinh viên Đại học năm thứ hai. Từ Tiểu học, Trung học đến Đại học, cháu đã học đạo đức gì mà mở miệng nói lời ác đức như vậy: “Cô nhất định giải quyết cái thai, vì con đường công danh đang ở phía trước”. Công danh để làm gì, khi chết rồi cháu có mang theo được những gì công danh không? Còn tội giết con cháu phải mang theo đấy, và cháu phải trả quả giết con, cháu có biết không? Trong cuộc đời con người sống thì chạy theo danh lợi, do chạy theo danh lợi mà làm nên biết bao nhiêu tội ác. Khi chết rồi, tiền của vật chất, nhà lầu xe cộ, danh cao chức phận quan liêu, dù cho làm vua cũng không mang theo một thứ gì cả, chỉ còn mang theo thiện ác. Vậy mà vì công danh sự nghiệp cháu giết con thì cháu không tránh khỏi trả nhân quả này: Từ hành động ác giết con của cháu sẽ tương ưng với người phụ nữ nào cũng nạo thai, móc thai như cháu hiện giờ, thì lúc bây giờ cháu cũng là một bào thai như con cháu hiện giờ bị móc bỏ vậy. Vì sự vô minh cháu nói một lời phi đạo đức hiếu sinh, rồi đây cháu không tránh khỏi những tai họa khổ đau. Thật tội nghiệp cho cháu gái này.

Trả lời câu hỏi 10:

“Em ơi! Phòng khám thai ở dưới đất, trên này là nơi bỏ thai”. T trả lời tỉnh bơ: “Không! Em đi bỏ thai đấy chứ”. Cũng vào phòng tư vấn, cũng lên bàn phẫu thuật, nhưng mặt T lạnh như tiền, không một chút e ngại hay lo sợ. Câu này nói lên THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Đây, quý học viên hãy nghe cháu gái đáp một cách giết con rất tự nhiên mà không còn e dè sợ sệt: “Không! Em đi bỏ thai đấy chứ”.

Thai là cái gì? Có phải là một món đồ phế thải không? Câu nói của cháu gái dường như cháu gái này đem bỏ một món đồ phế thải không còn dùng được nữa.

Thai là một đứa bé nhỏ còn nằm trong bụng mẹ. Cháu gái này là một con người, trước kia cháu cũng là một thai nhi, sao nói lời này thì xã hội đâu còn gì là đạo đức. Phải không cháu? Bởi vậy đời sống của loài người mà có đạo đức thì mới an vui, hạnh phúc. Còn đời sống mà không có đạo đức thì đời là tiếng khóc than khắp nơi trên thế giới.

Đời không có đạo đức thì chúng ta phải cùng nhau bắt tay, hợp sức xây dựng nền đạo đức mà một vĩ nhân ngày xưa đã để lại cho con người. Chỉ vì chúng ta đã bỏ qua, xem nó không có giá trị bằng những vật chất, vì tin tưởng rằng làm ra nhiều của cải vật chất thì sẽ sống đời an vui và hạnh phúc. Đó là sự lầm tưởng của những nhà tư tưởng duy vật biện chứng. Vật chất chỉ là một phần sống của con người. Con người có hai phần sống rõ ràng:

1- Là vật chất mà khoa học đã phát minh và đem lại cho con người đầy đủ mọi thứ tiện nghi.

2- Là tinh thần. Tinh thần là nền đạo đức nhân bản - nhân quả mà loài người đã bỏ quên.

Đứng trước nguy cơ của xã hội loài người, con người sống trong ác pháp giết con mà không chút động lòng yêu thương. Đó là một bằng chứng con người đang thiếu đạo đức trầm trọng.

Còn kịp, ngay bây giờ các bộ Giáo Dục của các nước trên thế giới hãy tập trung đầu tư trí óc vào để biên soạn những bộ sách đạo đức nhân bản - nhân quả từ thấp đến cao cho cả nước mọi người cùng học. Được như vậy là hạnh phúc của loài người biết bao.

Đây là trách nhiệm chung của loài người, không riêng cho một quốc gia nào trên thế giới.

Những nhà trí thức phải thấy bổn phận trách nhiệm của mình hơn bao giờ, vì đó là lợi ích chung cho toàn cầu.

Trả lời câu hỏi 11:

“Đừng bao giờ vì thiếu hiểu biết, hoặc sợ gia đình và xã hội dè bỉu rồi tìm đến các cơ sở lậu, nhất là những trường hợp thai quá lớn. Hành động dại dột của các em có khi phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Trường hợp nạo thai lâu dẫn đến thủng tử cung, phải vào bệnh viện cấp cứu không phải là hiếm”. Lời khuyên trên đây là THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Vì sợ gia đình, xã hội dè bỉu mà nỡ tâm giết con mình sao? Gia đình, xã hội dè bỉu không xấu ác, mà giết con mình mới xấu ác, mới tội lỗi, các cháu gái có biết không? Gia đình, xã hội dè bỉu là một tư tưởng hẹp hòi thiếu đạo đức, không có lối thoát của người xưa. Họ xem người phụ nữ không chồng mà có thai là xấu hổ.

Khi chúng ta không tự làm chủ tâm mình vì không học đạo đức hiếu sinh thương mình, thương con mình, nên không biết phương pháp ngăn chặn lòng ham muốn truy hoan sắc dục, vì thế đã lỡ có thai thì đâu có xấu xa gì.

Lòng ham muốn truy hoan sắc dục là một quy luật của nhân quả sinh diệt, nếu không học đạo đức hiếu sinh thì không thể nào ngăn chặn được nó. Nó là một nghiệp lực rất mạnh, thúc đẩy tất cả các loài động vật, kể luôn cả loài người đều không thoát ra nghiệp lực này. Hầu hết mọi người trên hành tinh này đều bị nghiệp lực truy hoan sắc dục này sai bảo, cho nên từ già chí trẻ, từ trí thức như các nhà bác học cho chí những người tay lấm chân bùn, ít học ngu dốt đều bị quay cuồng trong nghiệp lực này. Cho nên các cháu trai cũng như các cháu gái mới lớn không được học đạo đức nhân bản - nhân quả thì không thể nào tránh khỏi tội giết con mình. Và khi một lần giết con được mà không ai bắt tội thì sẽ có nhiều lần tiếp tục giết con như các cháu gái trong bài báo này.

Bài học thứ 21: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: THÁI TỬ CỨU ĐỘ CHO CON NGỖNG

Một thời, thái tử ở trong cung thành Ca Tỳ La Vệ. Một buổi mai mùa xuân, một đàn ngỗng trắng bay ngang cung liền bị Đề Bà Đạt Đa bắn rơi một con. Thái tử thấy vậy liền đến cứu chữa, ôm ấp vào lòng, rút mũi tên ra và săn sóc một cách rất âu yếm.

Hoàng thân Đề Bà Đạt Đa cho người qua đòi, Ngài không chịu trả. Câu chuyện đem ra cho các lão thần phân xử, mỗi người mỗi ý, không biết đâu mà định đoạt. Giữa lúc ấy, có một ông già thưa rằng:

“Nếu sự sống có giá trị thật, thì người đã cứu sống một con vật đáng gìn giữ hơn là người đã định tâm giết nó. Nên đem chim giao cho người săn sóc nuôi dưỡng”.

Đến kỳ lành mạnh, Ngài liền đem trả lại tự do cho con chim bị nạn.

Thái tử chưa tu hành mà đã sẵn có hạt giống từ bi, thật là một bậc đại hiếu sinh!

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: “Một buổi mai mùa Xuân, một đàn ngỗng trắng bay ngang cung liền bị Đề Bà Đạt Đa bắn rơi một con”. Hành động Đề Bà Đạt Đa bắn rơi một con ngỗng trắng là thiếu đạo đức gì? Hành động ấy có ác không?

Câu hỏi 2: “Thái tử thấy vậy liền đến cứu chữa, ôm ấp vào lòng, rút mũi tên ra và săn sóc một cách rất âu yếm”. Hành động thái tử cứu chữa con ngỗng trắng là đạo đức gì?

Câu hỏi 3: “Hoàng thân Đề Bà Đạt Đa cho người qua đòi, Ngài không chịu trả”. Thái tử không trả con chim là hành động đạo đức gì?

Câu hỏi 4: “Nếu sự sống có giá trị thật, thì người đã cứu sống một con vật đáng gìn giữ hơn là người đã định tâm giết nó. Nên đem chim giao cho người săn sóc nuôi dưỡng”. Câu nói trên đây là đạo đức gì?

Câu hỏi 5: “Đến kỳ lành mạnh, Ngài liền đem trả lại tự do cho con chim bị nạn”. Thái tử trả tự do cho con ngỗng trắng là đạo đức gì?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

“Một buổi mai mùa Xuân, một đàn ngỗng trắng bay ngang cung liền bị Đề Bà Đạt Đa bắn rơi một con”.

Hành động Đề Bà Đạt Đa bắn rơi một con ngỗng trắng là hành động THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH. Hành động như vậy là hành động cực ác.

Một đàn ngỗng trắng đang tự do tung cánh trên nền trời, an vui, hạnh phúc biết bao. Thình lình một con bị bắn rơi xuống, thì tất cả những con khác đều hoảng sợ và đau xót, nhất là ngỗng vợ hoặc chồng, cùng các con của nó làm sao không buồn khổ, các con ngỗng con mất cha hay mất mẹ thì làm sao tìm lại những sự chăm sóc, nuôi dưỡng, âu yếm bảo bọc của cha hay mẹ. Trước cảnh mồ côi không ai bảo vệ, những con ngỗng con sẽ sợ hãi, lo lắng khi bị những con ngỗng khác hoặc những con vật khác hiếp đáp. Nhìn cảnh ấy thật là đau lòng xót dạ.

Một hành động ác của Đề Bà Đạt Đa đã để lại một sự sợ hãi và đau khổ cho một đàn ngỗng trời và có một người đau khổ nữa đó là thái tử Tất Đạt Đa.

Hành động ác của Đề Bà Đạt Đa là một hành động đáng chê trách, một hành động mà người có đạo đức hiếu sinh không thể nào chấp nhận. Chúng ta là những đệ tử của Phật, thì phải sống như thế nào cho xứng đáng với lòng từ bi của Phật giáo.

Trả lời câu hỏi 2:

“Thái tử thấy vậy liền đến cứu chữa, ôm ấp vào lòng, rút mũi tên ra và săn sóc một cách rất âu yếm”. Hành động thái tử cứu chữa con ngỗng trắng là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH. Một hành động thương yêu tuyệt vời, thương con vật như chính thương con mình, thương bản thân mình.

Chúng ta là đệ tử của Người, phải học theo gương hạnh đức hiếu sinh này, khi gặp người hay con vật nào đang bị nạn thì phải ra tay cứu chữa, giúp đỡ, an ủi để vượt qua những khó khăn. Dù con kiến, con trùng... bất cứ con vật nào khi rơi trong vũng nước; khi bị con vật khác đuổi bắt để ăn thịt, thì chúng ta hãy mau mau cứu giúp hết sức mình để cứu thoát con vật yếu đuối hơn.

Ví dụ: Một con kiến rơi trong vũng nước, hay trong hầm cầu, chúng ta hãy mau mau đưa tay vớt lên để cứu chúng thoát chết đuối, đó là đức hiếu sinh thân hành.

Nghe tiếng kêu của một con nhái cầu cứu, chúng ta biết ngay con nhái bị con rắn bắt, nếu không cứu kịp thì con nhái sẽ bị giết chết bằng miệng của con rắn. Vì thế, khi nghe tiếng kêu cầu cứu thì mau mau chạy ra nơi xuất phát tiếng kêu, để rồi dùng cây đập bụi, đập bờ, làm cho con rắn sợ bỏ con nhái.

Lúc bấy giờ con nhái còn sống. nhảy được thì chúng ta nên đi vào lấy một ít thực phẩm đem cho con rắn ăn, còn con nhái không đi được, chúng ta hãy đem con nhái vào chỗ đất ẩm ướt để con nhái nằm an dưỡng, chừng nào con nhái phục hồi sống lại được thì chúng ta cho thêm một ít nước để con nhái uống. Hành động cứu giúp con nhái sống được như vậy gọi là đức hiếu sinh thân hành.

Trong cuộc sống của chúng ta chỉ có lòng thương yêu là đệ nhất pháp xả tâm tuyệt vời.

Vậy Thầy mong các con hãy tu tập cho được lòng yêu thương ấy.

Trả lời câu hỏi 3:

“Hoàng thân Đề Bà Đạt Đa cho người qua đòi, Ngài không chịu trả”. Thái tử không trả con chim là hành động ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Thường người ta bảo: “Chim trời cá nước, ai bắt được là của người đó”. Như vậy con chim này là của Đề Bà Đạt Đa, chứ không phải của thái tử, cớ sao thái tử không chịu trả cho Đề Bà Đạt Đa, như vậy thái tử cướp giựt con chim của người khác ư?! Ở đây thái tử không cướp giựt con chim, mà sợ Đề Bà Đạt Đa giết con chim, nên thái tử không trả, để con chim lại chăm sóc, chừng nào con chim lành vết thương rồi thả con chim về với đàn của chúng. Hành động này là hành động đạo đức hiếu sinh thương yêu và quý trọng tất cả chúng sinh, cũng giống như chúng ta cứu sống con nhái khỏi miệng con rắn vậy.

Khi học đạo đức hiếu sinh, từ đây về sau, chúng ta đứng trước cảnh đau khổ của bất cứ người hay con vật nào thì chúng ta hãy mở rộng vòng tay thương yêu cứu giúp chúng.

Trước cảnh con vật lớn mạnh hiếp đáp con vật bé nhỏ yếu đuối, vì đạo đức hiếu sinh chúng ta can thiệp cứu lấy con vật yếu đuối bé nhỏ hơn, để đem lại sự sống bình an cho nhau.

Một con chim bị bắn chưa chết, một con cá mắc câu, một con nhái bị con rắn bắt sắp ăn thịt, một con kiến rơi vào vũng nước, một người đang bị tai nạn, một người khác đang đói khổ, cùng một người khác đang cơn giận dữ. Tất cả người và loài vật trên đây đang sống trong đau khổ, vậy chúng ta hãy đưa vòng tay thương yêu ra cứu giúp họ, đem lại sự bình an cho họ.

Cho nên khi học đạo đức hiếu sinh, đối với những người mắng chửi, mạ lị, mạt sát, nói xấu chúng ta thì chúng ta nên thương họ nhiều hơn, vì họ cũng giống như con chim bị thương, con cá mắc câu, con kiến rơi trong vũng nước, chỉ cần chúng ta mở rộng vòng tay thương yêu mới cứu họ được. Thực hiện được như vậy mới gọi là đức hiếu sinh.

Trả lời câu hỏi 4:

“Nếu sự sống có giá trị thật, thì người đã cứu sống một con vật đáng gìn giữ hơn la người đã định tâm giết nó. Nên đem chim giao cho người săn sóc nuôi dưỡng”. Câu nói trên đây là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH của một vị quan trong triều lý luận sắc bén và vững chắc, đúng tinh thần đạo đức nhân bản - nhân quả.

Lời nói này lý luận xác định vững chắc về giá trị sự sống của muôn loài. Nếu ai chạm đến sự sống của muôn loài là người vô đạo đức hiếu sinh, không xứng đáng làm con người. Làm con người phải có lòng yêu thương rộng lớn mới được được gọi là con người.

Lời bình luận đức hạnh hiếu sinh và không hiếu sinh rất tuyệt vời: “Nếu sự sống có giá trị thật, thì người đã cứu sống một con vật đáng gìn giữ hơn là người đã định tâm giết nó”.

Muốn câu này nói cho dễ hiểu hơn thì xin nói lại như thế này: “Nếu sự sống có giá trị thật, thì chỉ có lòng thương yêu mới bảo vệ giá trị sự sống ấy được”. Vì sự sống không có lòng yêu thương, nên giá trị sự sống bị chà đạp, bị đánh mất. Trên đời ai cũng có sự sống và muốn sống, nhưng lại xem thường giá trị sự sống, nên vì sự sống mà chà đạp lên sự sống, đành phải đánh mất lòng yêu thương.

Chúng tôi xin nhắc lại, quý vị nên nhớ câu này mãi mãi, vì mỗi khi có gặp mọi chướng ngại trong cuộc đời thì lòng thương yêu sẽ giúp cho quý vị đem lại sự sống bình an.

Trả lời câu hỏi 5:

“Đến kỳ lành mạnh, Ngài liền đem trả lại tự do cho con chim bị nạn”. Thái tử trả tự do cho con ngỗng trắng là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Ôm ấp nuôi dưỡng chăm sóc, chờ cho con ngỗng lành vết thương rồi đem thả về với đàn ngỗng, thật là một hành động thương yêu chúng sinh vô bờ bến! Chúng ta là đệ tử của Người, hãy lấy gương hạnh này mà sống với lòng yêu thương của mọi sự sống, đừng viện cớ một lý do nào để mất lòng thương yêu. Lòng thương yêu mất là quý vị mất mạng. Quý vị sống mà như chết chưa chôn, có thân mà không làm chủ.

Như quý vị đều biết, đức Phật đã dạy TỨ VÔ LƯỢNG TÂM. Tứ vô lượng tâm là bốn pháp, nhưng LÒNG THƯƠNG YÊU (từ tâm) là pháp môn thứ nhất. Trong giới luật đức hạnh đức Phật dạy giới thứ nhất “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH”. Như vậy đạo Phật lấy đức hiếu sinh làm pháp môn thứ nhất để diệt trừ ngũ triền cái, tức là diệt trừ tâm tham, sân, si, mạn, nghi.

Hành động trên đây của thái tử đều thể hiện đức hiếu sinh. Nhờ đức hiếu sinh sẵn có trong tâm, khi thái tử tu hành thành đạo cũng do từ lòng yêu thương này.

Trước tiên chưa tu hành, Ngài thương yêu bản thân mình đang bị sinh, già, bệnh, chết, kế đó thương yêu vợ con mình đang bị sinh, già, bệnh, chết, rồi thương yêu cha mẹ cũng đang bị sinh, già, bệnh, chết, rồi nghĩ xa hơn Ngài thương yêu mọi người cũng đang bị sinh, già, bệnh, chết, và cuối cùng Ngài thương yêu tất cả chúng sinh cũng đang bị sinh, già, bệnh, chết.

Trước cảnh khổ đau của nhân loại như vậy, vì lòng thương yêu Ngài ra đi, từ bỏ ngai vàng, vợ đẹp, con xinh và hy sinh thân mạng của mình, nhất định vượt đời tìm đạo để giải quyết tất cả nỗi khổ đau của loài người, trong LÒNG THƯƠNG YÊU.

Ngài xứng đáng là một người cha lành của nhân loại; là một vị thầy trời người của khắp cõi nhân gian; là một bậc vĩ nhân của nhân loại; là một ân nhân to lớn vô cùng, vô tận trên trái đất này.

Ngài vạch trần chân lí loài người để mọi người đều thông suốt, Ngài để lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh; Ngài để lại lòng thương yêu phủ trùm vạn hữu.

Bài học thứ 22: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: VẾT THẸO

Chú bé đưa cho mẹ một tờ giấy mời họp hội nghị phụ huynh của trường tiểu học. Lạ thay, khi thấy mẹ bảo sẽ tham dự, chú bé lộ vẻ sững sờ! Đây là lần đầu tiên bạn học và cô giáo có dịp gặp mặt mẹ chú, nhưng chú thì chẳng muốn chút nào, chú rất ngượng ngập vì vẻ bề ngoài của mẹ. Mặc dù khá xinh đẹp, nhưng phía bên má phải của bà có một vết sẹo rất lớn. Chú bé chưa bao giờ hỏi tại sao và trong trường hợp nào mẹ lại bị như vậy.

Suốt buổi họp lớp, chẳng ai để ý đến vết thẹo ấy, mà chỉ ấn tượng về vẻ duyên dáng và phong cách cư xử ấm áp của bà. Tuy vậy, chú bé vẫn bối rối và lẩn tránh mọi người.

Tình cờ chú nghe lỏm được câu chuyện giữa mẹ và cô giáo chủ nhiệm. Cô giáo rụt rè hỏi:

- Da, vì sao bà lại bị vết sẹo này trên mặt vậy ạ? Mẹ của cậu bé trả lời:

- Khi con trai tôi còn đỏ hỏn, nó bị kẹt trong căn phòng bị hỏa hoạn. Lửa bén dữ quá nên không ai dám xông vào, thế là tôi liều mình lao đại vào. Vừa chạy tới bên nôi của cháu thì tôi thấy một thanh xà sắp rơi xuống, không kịp suy nghĩ, tôi liền ghé thân che cho con rồi bất tỉnh luôn. May mà một anh lính cứu hỏa đến kịp và cứu hai mẹ con tôi ra. Vết thẹo đã thành vĩnh viễn. Nhưng tôi không bao giờ hối hận về điều đó.

Nghe xong thì chú bé chạy ùa tới, ôm chầm lấy mẹ, nước mắt lưng tròng. Người chú run lên vì xúc động. Đức hy sinh của mẹ thanh cao quá! Cả ngày hôm đó, chú cứ nắm riết lấy tay mẹ không rời.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: “Đây là lần đầu tiên bạn học và cô giáo có dịp gặp mặt mẹ chú, nhưng chú thì chẳng muốn chút nào, chú rất ngượng ngập vì vẻ bề ngoài của mẹ. Mặc dù khá xinh đẹp, nhưng phía bên má phải của bà có một vết sẹo rất lớn”. Đoạn này nói lên sự ngượng ngập xấu hổ của chú bé về vết thẹo trên mặt của mẹ là thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 2: “Khi con trai tôi còn đỏ hỏn, nó bị kẹt trong căn phòng bị hỏa hoạn. Lửa bén dữ quá nên không ai dám xông vào, thế là tôi liều mình lao đại vào”. Câu này nói lên đạo đức gì?

Câu hỏi 3: “Vừa chạy tới bên nôi của cháu, thì tôi thấy một thanh xa sắp rơi xuống, không kịp suy nghĩ, tôi liền ghé thân che cho con rồi bất tỉnh luôn”. Câu này nói lên đạo đức gì?

Câu hỏi 4: “May mà một anh lính cứu hỏa đến kịp và cứu hai mẹ con tôi ra”. Câu này nói lên đạo đức gì?

Câu hỏi 5: “Vết thẹo đã thành vĩnh viễn. Nhưng tôi không bao giờ hối hận về điều đó”. Đoạn này nói lên đạo đức gì?

Câu hỏi 6: “Nghe xong thì chú bé chạy ùa tới ôm chầm lấy mẹ, nước mắt lưng tròng. Người chú run lên vì xúc động”. Hành động chú bé chạy vào, ôm chầm và khóc là đạo đức gì?

Câu hỏi 7: “Đức hy sinh của mẹ thanh cao quá! Cả ngày hôm đó, chú cứ nắm riết lấy tay mẹ không rời”. Đây là hành động đạo đức gì?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

“Đây là lần đầu tiên bạn học và cô giáo có dịp gặp mặt mẹ chú, nhưng chú thì chẳng muốn chút nào, chú rất ngượng ngập vì vẻ bề ngoài của mẹ. Mặc du khá xinh đẹp, nhưng phía bên má phải của bà có một vết sẹo rất lớn”. Đoạn này nói lên sự ngượng ngập, xấu hổ của chú bé về vết thẹo trên mặt của mẹ do sự tư duy cạn cợt, cố chấp về hình dáng bên ngoài, đó là chú THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Chú bé thương mẹ, nhưng xấu hổ với bạn bè và cô giáo, vì trên mặt người mẹ có vết thẹo làm cho gương mặt mẹ xấu xí.

Trí suy nghĩ non nớt của chú bé chỉ chọn cái vẻ đẹp bên ngoài, nên chú đã tạo ra một tội lỗi rất lớn đối với mẹ, chú ngăn chặn không muốn cho mẹ tiếp xúc với ai cả, vì mẹ tiếp xúc với mọi người là chú cảm thấy xấu hổ, vì chú có một bà mẹ trên mặt có một vết thẹo quá xấu.

Dù mẹ mình có hình thể xấu xa bên ngoài, nhưng cũng là mẹ mình; dù mẹ mình có nghèo khổ đi buôn gánh bán bưng kiếm từng lon từng lít, nhưng cũng là mẹ mình; dù mẹ mình có ít học thua kém mọi người, nhưng vẫn là mẹ mình, thì mình phải biết kính trọng, phải biết thương yêu mẹ mình nhiều hơn nữa, vì mẹ mình kém phước nên tật nguyền, trên mặt có thẹo, nên nghèo khổ, nên ít học, v.v...

Mình phải hiểu rõ mỗi khi mẹ tiếp xúc với bất cứ người nào, vết thẹo trên mặt của mẹ mình có thể làm Người mặc cảm, buồn khổ, thì mình phải tìm lời khuyên và an ủi mẹ, để mẹ không buồn khổ, để mẹ khỏi mặc cảm với mọi người thì mới đúng đạo làm người, làm con có hiếu.

Ở đây, chú bé thấy mẹ có vết thẹo trên mặt, thường muốn mẹ đừng tiếp xúc với ai cả, sợ mẹ tiếp xúc với mọi người thì người ta chê cười chú có người mẹ không đẹp. Chú còn bé quá, làm sao chú hiểu luật nhân quả.

Tất cả đều do nhân quả ác nghiệp, vì vô minh không biết thiện ác nên làm theo sự hiểu biết ngu si, do lòng ham muốn thúc giục, nên làm những điều ác, rồi phải gánh chịu những hậu quả, khi sinh ra phải chịu tật nguyền, người xấu xí, khuyết tật, sống trong cảnh thiếu trước hụt sau, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Do nhân quả thiện ác, cuộc đời mới xảy ra tai nạn này, tai nạn khác, vì lòng thương con mà phải hy sinh thân mình cứu con, để rồi phải chịu mang vết thẹo trên mặt suốt đời.

Trong xã hội loài người có rất nhiều người kém phước, do không hiểu biết luật nhân quả thiện ác nên chạy theo lòng ham muốn. Và vì thế bị lòng tham muốn điều khiển, sai khiến làm những điều ác đức, hậu quả phải gánh chịu những nỗi bất hạnh rất đau buồn như mẹ chú bé này vậy, nhưng nhờ lòng yêu thương của bà mà chuyển được quả ác, nên hai mẹ con mới được cứu thoát.

Vì thế ở đời chúng ta cần phải học đạo đức nhân bản nhân - nhân quả, để thông suốt lý nhân quả, để biết đường đi của nhân quả, nhờ đó chúng ta sống chuyển đổi nhân quả xấu ác đau khổ trở thành nhân quả thiện lành an vui, không còn khổ đau nữa.

Câu chuyện Vết Thẹo trên đây cũng xác định rất rõ ràng: chỉ có lòng yêu thương chân thật mà chuyển đổi được nhân quả, lòng yêu thương bù đắp được lòng yêu thương do lòng yêu thương cao thượng.

Trả lời câu hỏi 2:

“Khi con trai tôi còn đỏ hỏn, nó bị kẹt trong căn phòng bị hỏa hoạn. Lửa bén dữ quá, nên không ai dám xông vào, thế là tôi liều mình lao đại vào”. Câu này nói lên ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH tuyệt vời. Chỉ có lòng mẹ yêu thương con mạnh nhất, dám liều chết xông vào cứu con. Đúng vậy, không có người mẹ nào không thương con. Cầm thú, loài nào cũng biết thương con, dám xông pha vào chỗ chết để cứu con, trước miệng hùm nanh sói không loài vật nào bỏ con.Vậy mà thời đại chúng ta hiện nay, đạo đức xuống cấp, hằng ngày biết bao nhiêu bà mẹ trẻ nạo thai móc thai đem bỏ con mình mà chẳng chút lòng xót thương. Thật là đáng trách loài người lòng thương con không bằng loài thú vật.

Nếu mọi người trên hành tinh này đều được học và rèn luyện nhân cách đạo đức hiếu sinh làm người, biết thương yêu con mình, biết thương yêu giọt máu của mình, thì làm gì có những bà mẹ trẻ móc thai, nạo thai. Nếu trên hành tinh này ai cũng có lòng thương yêu, thương mình, thương mọi người, thương mọi chúng sinh, và vì lòng thương yêu nên biết tha thứ mọi lỗi lầm của người khác, do đó cuộc đời này sẽ bình an và hạnh phúc biết bao.

Trả lời câu hỏi 3:

“Vừa chạy tới bên nôi của cháu thì tôi thấy một thanh xà sắp rơi xuống, không kịp suy nghĩ, tôi liền ghé thân che cho con rồi bất tỉnh luôn”. Câu này nói lên ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH rất tuyệt vời. Lấy thân mẹ che đậy cho con, chỉ có người mẹ mới dám làm được điều này, chỉ có người mẹ mới dám hy sinh thân mình cho con mình.

Thật là tình mẫu tử thiêng liêng không gì so sánh bằng! Vậy mà có những bà mẹ trẻ lại nạo thai, móc thai, giết con mình vì công danh, vì sự nghiệp, vì danh dự... thì thật đáng chê trách.

Con thú vật còn không làm điều này.

Hình ảnh người mẹ lấy thân che chắn cho con, bảo vệ con như nhạc sĩ Y Vân đã viết:

“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào...” Trong cuộc đời tu hành của chúng ta, nếu thực hiện được lòng yêu thương mọi người như người mẹ thương con này thì không còn có một chướng ngại nào tác động được vào tâm chúng ta, chỉ có lòng yêu thương mới xả tất cả ác pháp; chỉ có lòng yêu thương mới giúp được tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; chỉ có lòng yêu thương mới diệt ngã xả tâm; chỉ có lòng yêu thương thì tâm hồn mới thanh thản, an lạc và vô sự; chỉ có lòng yêu thương mới bảo vệ và giữ gìn chân lí. Vì thế đạo Phật được gọi là đạo TỪ BI (Đạo thương yêu tất cả muôn loài).

Trả lời câu hỏi 4:

“May mà một anh lính cứu hỏa đến kịp va cứu hai mẹ con tôi ra”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Nhân hy sinh thân mình cứu con thì quả có anh lính cứu hỏa đến kịp và cứu hai mẹ con thoát chết. Đây là nhân quả trong hiện kiếp, nhân thiện có quả lành ngay liền trong tức khắc. Người mẹ hy sinh thân mình để cứu con thì người lính cứu hỏa cứu hai mẹ con thoát khỏi cái chết trong gang tấc.

Thật là quy luật nhân quả sắp xếp thời gian rất tuyệt vời, không sai sót một phút giây nào cả. Cho nên nhân quả xảy ra đều theo đúng lịch trình vay trả thiện ác của nó, không sai một hào li.

Nhân quả thường vay trả trong hiện kiếp hoặc vay trả ngay liền tức khắc như câu chuyện ở trên đây, hoặc xảy ra có thời gian một năm, hai năm hoặc 5, 10 năm sau.

Nhưng nhân quả khứ trong một đời hay nhiều đời thì chỉ còn là một nền tảng của nhân quả hiện tại để trả vay mà thôi. Do đó chúng ta phải tỉnh giác từ thân hành, khẩu hành, ý hành để lúc nào cũng hành động theo nhân quả thiện, tránh những hành động nhân quả ác. Hành động theo nhân quả thiện tránh những hành động nhân quả ác tức là chuyển đổi nhân quả; chuyển đổi nhân quả là làm thay đổi cuộc sống, làm thay đổi cuộc đời của chúng ta, tức là chúng ta sống trong lòng yêu thương của mình đối với mọi người và mọi sự sống trên hành tinh này.

Trả lời câu hỏi 5:

“Vết thẹo đã thành vĩnh viễn. Nhưng tôi không bao giờ hối hận về điều đó”. Đoạn này nói lên ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH của người mẹ, không vì sắc đẹp của mình mà hối hận việc cứu con mình. Thật là một lời nói đầy lòng yêu thương cao thượng của một người mẹ trẻ.

Phụ nữ ai mà không thích sắc đẹp, họ xem sắc đẹp như là một sự sống của họ; như là sinh mệnh của họ, nếu khi mẹ sinh ra mà có một gương mặt xấu xí thì họ rất tủi thân, hoặc có một tai nạn nào xảy đến khiến gương mặt như quỉ thì họ chỉ còn muốn chết. Sống với gương mặt xấu xí là họ khổ tâm vô cùng.

Sống với gương mặt xấu xí là một đời sống đen tối của người phụ nữ. Nhưng ngược lại, người mẹ trẻ này không bao giờ khổ tâm buồn rầu vì gương mặt có vết thẹo, mà người mẹ trẻ này lại thấy mình xứng đáng làm một người mẹ, người mẹ biết thương con, cho nên người mẹ này nói lên lòng thương con của mình tuyệt vời: “Nhưng tôi không bao giờ hối hận về điều đó”.

Người mẹ trẻ này là một phụ nữ đáng quý trọng, đáng làm gương tốt cho tất cả những người mẹ trẻ khác trong xã hội. Một người mẹ có một tâm hồn cao thượng mà người đời sau mãi mãi đều ghi nhớ không quên.

Trả lời câu hỏi 6:

“Nghe xong thì chú bé chạy ùa tới, ôm chầm lấy mẹ, nước mắt lưng tròng. Người chú run lên vì xúc động”. Hành động chú bé chạy ùa tới, ôm chầm lấy mẹ và khóc nức nở là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Chú bé khóc là vì chú thương mẹ lắm, nếu không có mẹ hy sinh, lấy thân mẹ làm tấm bình phong che chắn thì chú đã bị cây đà rơi ngay xuống chỗ chú đang nằm là chú đã chết mất rồi. Người mẹ ấy đã hy sinh gương mặt cứu chú sống. Trước kia chú cũng rất yêu thương mẹ, nên sợ mọi người gặp và chê mẹ xấu xí, làm mẹ khổ tâm buồn bã, khổ nhất là chú cũng có mặc cảm có người mẹ mang vết thẹo xấu xí trên mặt, nên không muốn cho mẹ gặp ai.

Giờ đây chú đã rõ vết thẹo trên mặt mẹ xấu xí là đánh dấu cho một tâm hồn cao thượng, hy sinh nhan sắc của mình để cứu đứa con còn đỏ hỏn.

Bây giờ nhìn thấy vết thẹo trên mặt mẹ là thấy một lòng thương yêu vô bờ bến của mẹ, lòng thương yêu ấy như biển Thái Bình dạt dào. Đức hiếu sinh của một người mẹ thương con thật là tuyệt vời, nếu mọi người trên thế gian này ai ai cũng biết thương yêu nhau như người mẹ thương con, thì loài người hạnh phúc biết bao; thì thế gian này là Thiên Đàng, Cực Lạc.

Cuộc sống con người trên thế gian này được giáo dục rèn luyện nhân cách đạo đức hiếu sinh, thì ai ai cũng sống trong lòng yêu thương chân thật, biết tha thứ mỗi lỗi lầm của nhau thì hành tinh này sẽ được bình an, yên vui và hạnh phúc vô cùng.

Trả lời câu hỏi 7:

“Đức hy sinh của mẹ thanh cao quá! Cả ngày hôm đó, chú cứ nắm riết lấy tay mẹ không rời”. Đây là hành động ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Lòng thương yêu của người mẹ thanh cao quá! Không những đối với chú mà còn là tấm gương soi sáng cho tất cả những bà mẹ trẻ trên thế gian này đừng nạo thai, móc thai.

Bởi vậy, chỉ có lòng yêu thương mới dám hy sinh mình cho người khác, mới đem lại hạnh phúc an vui cho con người trên hành tinh này; chỉ có lòng yêu thương chân thật mới phá tan những hận thù oán ghét; chỉ có lòng yêu thương chân thật mới không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh; chỉ có lòng yêu thương chân thật thì con người mới gần nhau mà không làm khổ cho nhau; chỉ có lòng yêu thương chân thật con người mới đem lại lợi ích cho con người, cho gia đình, cho xã hội, cho đất nước, cho thế giới.

Bởi vậy, đạo đức hiếu sinh rất cần thiết cho loài người trên hành tinh này, nếu đạo đức hiếu sinh vắng bóng thì hành tinh này là địa ngục. Vì thế tiếng kêu la, rên khóc của con người và tất cả loài vật vang dậy thấu trời xanh, máu xương của chúng sinh và của con người chất như núi, chảy như sông. Thế giới toàn là đau khổ.

Bởi đạo đức hiếu sinh quan trọng như vậy, xin mọi người hãy học cho thấu triệt, tu tập rèn luyện cho thấm nhuần.

Bài học thứ 23: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: THÁI TỬ ĐÁNH ĐỔ SỰ GIẾT SINH VẬT ĐỂ TẾ THẦN

Một thời, thái tử đi về thành Vương Xá, giữa đường gặp một đàn cừu bị dắt đưa về thành để vua Tần Bà Ta La làm lễ tế thần.

Ngài đi thẳng đến bàn thờ, vừa gặp vua đang làm lễ và các vị giáo sĩ Bà La Môn đang sắp sửa giết một con cừu để cúng các vị hung thần. Thái tử tự thân đến cởi trói cho con vật khỏi nạn, và giảng giải cho mọi người nghe rằng:

- Ai cũng tham sống, thế mà ai cũng thích giết hại. Ai cũng muốn tạo ra sự sống.

Ngài nói tiếp:

- Dẫu muôn loài có khác nhau, nhưng sự sống chỉ là một. Trong Thánh kinh có dạy:

sau khi giết chết chúng sinh, có người sẽ đầu thai làm thú vật, và có nhiều thú vật sẽ làm người. Người và vật lẫn lộn, lúc làm người, lúc làm vật, vì thế mà vẫn cùng một dây liên lạc như anh em. Không thể lấy máu của thú vật rửa tội cho mình. Xin các vị thiên thần tha tội là một việc vô ích. Nếu các Ngài đều thiện thì các Ngài sẽ không tha thứ cho một việc làm ác như thế. Nếu các người làm ác, thì dầu có giết bao nhiêu thú vật đi nữa để cúng, các người cũng không hết ác được.

Nhưng dầu thiện dầu ác, các Ngài cũng không tha tội cho ai. Tội của người nào thì người ấy phải chịu. Đấy là luật nhân quả, không ai có thể vượt qua. Càng giết hại nhiều lại càng mang lắm họa.

Giảng đến đây, Ngài cất cao giọng và nói một cách tha thiết:

- Ôi, thế giới này sẽ an vui biết bao, và biết bao điều thảm khốc sẽ không còn nữa, nếu nhân loại biết thương đến loài vật mà không nỡ tâm giết chúng để cúng và để ăn; nếu nhân loại chỉ tự nuôi sống với cây cỏ, hoa trái! Ngài nói với một giọng rất đầy thương cảm. Các thầy Bà La Môn nghe xong đều giật hết lễ phục mang trên mình, với hai bàn tay chùi chưa sạch máu. Mấy trăm con cừu được thả ra, vui vẻ chạy rong trên đường phố như vừa thoát khỏi địa ngục mà sự u mê của con người mới tạo ra. Sau đó, vua sai khắc trong đá và chạm vào gỗ đạo dụ này: “Từ xưa đến nay, chúng ta đã phạm một tội lớn là giết súc vật để tế thần và để ăn thịt. Nhưng bắt đầu từ ngày nay, trong dân gian không ai được làm đổ máu một con vật nào, vì chúng sinh cùng chung một sự sống. Và nên nhớ rằng: những điều lành sẽ dành riêng cho những kẻ hiền lương”.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: “Một thời, thái tử đi về thành Vương Xá, giữa đường gặp một đàn cừu bị dắt đưa về thành để vua Tần Bà Ta La làm lễ tế thần. Ngài đi thẳng đến bàn thờ, vừa gặp vua đang làm lễ và các vị giáo sĩ Bà La Môn đang sắp sửa giết một con cừu để cúng các vị hung thần”. Câu trên đây dạy đức hạnh gì?

Câu hỏi 2: Thái tử tự thân đến cởi trói cho con vật khỏi nạn là đạo đức gì?

Câu hỏi 3: “Ai cũng tham sống, thế mà ai cũng thích giết hại. Ai cũng muốn tạo ra sự sống”. Lời dạy này là đạo đức gì?

Câu hỏi 4: “Dẫu muôn loài có khác nhau, nhưng sự sống chỉ là một”. Lời dạy này la đạo đức gì?

Câu hỏi 5: “Sau khi giết chết chúng sinh, có người sẽ đầu thai làm thú vật, và có nhiều thú vật sẽ làm người. Người và vật lẫn lộn, lúc làm người, lúc làm vật, vì thế mà vẫn cùng một dây liên lạc như anh em”. Lời dạy này là đạo đức gì?

Câu hỏi 6: “Không thể lấy máu của thú vật rửa tội cho mình”. Lời dạy này là đạo đức gì?

Câu hỏi 7: “Xin các vị thiên thần tha tội là một việc vô ích”. Lời dạy này là đạo đức gì?

Câu hỏi 8: “Nếu các Ngài đều thiện thì các Ngài sẽ không tha thứ cho một việc làm ác như thế”. Lời dạy này là đạo đức gì?

Câu hỏi 9: “Nếu các người làm ác, thì dầu có giết bao nhiêu thú vật đi nữa để cúng, các người cũng không hết ác được”. Lời dạy này là đạo đức gì?

Câu hỏi 10: “Nhưng dầu thiện dầu ác, các Ngài cũng không tha tội cho ai. Tội của người nào thì người ấy phải chịu. Đấy là luật nhân quả, không ai có thể vượt qua”. Lời dạy này là đạo đức gì?

Câu hỏi 11: “Càng giết hại nhiều lại càng mang lắm họa”. Lời dạy này là đạo đức gì?

Câu hỏi 12: “Ôi, thế giới này sẽ an vui biết bao, va biết bao điều thảm khốc sẽ không còn nữa, nếu nhân loại biết thương đến loài vật mà không nỡ tâm giết chúng để cúng và để ăn; nếu nhân loại chỉ tự nuôi sống với cây cỏ, hoa trái!” Lời dạy này là đạo đức gì?

Câu hỏi 13: “Các thầy Bà La Môn nghe xong, đều giật hết lễ phục mang trong mình với hai bàn tay chùi chưa sạch máu, mấy trăm con cừu được thả ra, vui vẻ chạy rong trên đường phố như vừa thoát khỏi địa ngục mà sự u mê của người mới tạo ra”. Đoạn này nói lên đạo đức gì?

Câu hỏi 14: “Vua sai khắc trong đá va chạm vào gỗ đạo dụ này: “Từ xưa đến nay, chúng ta đã phạm một tội lớn là giết súc vật để tế thần và để ăn thịt. Nhưng bắt đầu tư ngày nay, trong dân gian không ai được làm đổ máu một con vật nào, vì chúng sinh cùng chung một sự sống”. Đoạn này dạy có hai đạo đức nhân quả gì? Khắc trong đá và chạm vào gỗ là đạo đức gì? Những lời khắc vào bia đá là đạo đức gì?

Câu hỏi 15: “Và nên nhớ rằng: những điều lành sẽ dành riêng cho những kẻ hiền lương”. Lời dạy này là đạo đức gì?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

“Một thời, thái tử đi về thành Vương Xá, giữa đường gặp một đàn cừu bị dắt đưa về thành để vua Tần Bà Ta La làm lễ tế thần. Ngài đi thẳng đến bàn thờ, vừa gặp vua đang làm lễ và các vị giáo sĩ Bà La Môn đang sắp sửa giết một con cừu để cúng các vị hung thần”. Câu trên đây dạy ĐỨC DŨNG CẢM HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Lòng thương yêu chúng sinh vô bờ bến, khi đức Phật thấy người ta dẫn một đàn cừu đem về đền vua để giết tế thần, Ngài không nỡ nhìn thấy một đàn cừu chết một cách thảm thương, nên sẵn sàng ôm bát theo đàn cừu về kinh đô gặp nhà vua can ngăn.

Ngài không sợ ai hết, chỉ quyết tâm cứu cho được đàn cừu, tuy biết rằng thuyết phục nhà vua và các giáo sĩ Bà La Môn là một việc khó chứ không phải dễ. Các giáo sĩ Bà La Môn là những đối tượng chống lại Ngài vì bát cơm manh áo của họ.

Nhưng khi đến nơi, thấy các giáo sĩ Bà La Môn đang sắp giết một con cừu, Ngài đến kịp thời mở dây thả con cừu. Đó là những hành động thương yêu cao thượng đối với tất cả chúng sinh, nơi đâu có sự giết hại thì nơi đó có Ngài, Ngài không bỏ qua.

Từ con ngỗng trời bị Đề Bà Đạt Đa bắn, Ngài bắt lấy nhổ mũi tên và ôm ấp chăm sóc nuôi dưỡng cho lành vết thương. Một con cừu con què chân đi theo cừu mẹ không được, Ngài ôm cừu con trong lòng và đi theo cừu mẹ cho đến trại chúng. Còn đây là một đàn cừu sắp đem ra giết để tế thần linh, Ngài quyết tâm ngăn chặn mọi người không nên làm những điều giết hại.

Đức Phật thực hiện lòng thương yêu chúng sinh qua những hành động hiếu sinh vô bờ bến tuyệt vời.

Chúng ta là những đệ tử của Phật, phải lấy gương hạnh Ngài mà sống yêu thương tất cả chúng sinh. Bất cứ lúc nào chúng ta cũng sẵn sàng thực hiện thân hành hiếu sinh.

Thấy người câu cá, chúng ta mua liền con cá mắc câu; thấy người nào sắp bắt rắn, ếch nhái, chàng hiu, cá tôm, rùa trạch thì chúng ta đến khuyên ngăn, đừng để họ giết hại chúng sinh rất tội nghiệp.

Nghe con rắn bắt con nhái, chúng ta cản ngăn, đó là đức hiếu sinh thân hành. Chúng ta hãy sống với lòng yêu thương chúng sinh và mọi người, thì sự bình an sẽ đến với chúng ta mãi mãi.

Trả lời câu hỏi 2:

Thái tử tự thân đến cởi trói cho con vật khỏi nạn là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Hạnh phúc thay cho những người đã cứu sống những con vật sắp bị giết. Trong Tu Viện chúng tôi, có một sư cô đi làm từ thiện đem thực phẩm cho những người nghèo, khi vào một làng nghèo của đồng bào miền núi, thấy đồng bào ở đó cột một con chó chuẩn bị đem giết làm thịt. Cô thương quá, đến thương lượng những người dân ở đó để mua con chó, nhưng không đủ tiền, cô phải đi mượn một người bạn. Cuối cùng, cô mở trói và đã cứu được con chó, từ đó cô đi đâu thì con chó chạy theo cô một bên, con vật còn biết người thương và cứu nó. Thật là hạnh phúc thay, người vật thương nhau, sống bên nhau như anh em chung một nhà! Lòng yêu thương là một tấm lòng vàng mà con người cần phải thực hiện cho bằng được, để đem lại sự bình an cho mình, cho người và vạn vật.

Hạnh phúc lắm các con ạ! Khi chúng ta thực hiện được lòng yêu thương thì hạnh phúc tràn trề trong lòng chúng ta.

Hạnh phúc thay cho những ai có lòng yêu thương chân thật! Lòng yêu thương chân thật trong lòng người là một tâm hồn cao thượng và cao quý vô cùng; lòng yêu chân thật ấy sẽ đem lại sự bình an cho chúng ta mãi mãi.

Trả lời câu hỏi 3:

“Ai cũng tham sống, thế mà ai cũng thích giết hại. Ai cũng muốn tạo ra sự sống”. Lời dạy này là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Làm người ai cũng tham sống sợ chết, nhưng lại thích giết hại và ăn thịt chúng sinh. Đúng là một lời nói đúng tâm trạng của loài người. Con người sống không công bằng, mình muốn sống mà lại ưa thích giết hại loài vật khác thì đó là một sự bất công rõ ràng.

Mình muốn sống thì mọi loài vật cũng muốn sống như mình, có loài vật nào muốn chết bao giờ đâu? Ai cũng tham sống sợ chết như nhau, thế mà nỡ nhẫn tâm lấy sự sống của loài vật làm sự sống cho mình, thật là con người sống như vậy mà sống được, sống phi đạo đức hiếu sinh, sống phi nhân bản, sống như một loài cầm thú, chỉ biết giết hại và ăn thịt nhau như loài hùm beo, lang sói, kên kên, quà quạ, v.v...

Mình muốn sống mà giết hại chúng sinh thì cái sống của mình có bảo đảm hay không? Cho nên mình muốn sống thì phải thương sự sống của người khác, loài vật khác thì sự sống của mình mới bảo đảm. Câu này dạy rất hay. “Ai cũng tham sống, thế mà ai cũng thích giết hại. Ai cũng muốn tạo ra sự sống”.

Con người luôn luôn tạo ra sự sống cho mình, sao lại nỡ nhẫn tâm làm hại sự sống của người khác, vật khác? Luật nhân quả rất công bằng, muốn tạo ra sự sống cho mình mà làm hại sự sống của loài vật khác thì sự sống của mình sẽ không được bảo đảm, bằng chứng sự sống của loài người trên hành tinh này nay không chiến tranh chỗ này thì mai lại có chiến tranh chỗ khác, thiên tai lũ lụt, sóng thần, bão tố, động đất không nước này thì nước khác, cho nên sự sống của loài người đang bị đe dọa. Vậy mà con người có biết do đâu mà ra không? Do giết hại và ăn thịt chúng sinh. Hằng ngày số chúng sinh bị giết trên hành tinh này máu chảy thành sông, xương chất như núi. Ôi! Thật là kinh khủng!

Trả lời câu hỏi 4:

“Dẫu muôn loài có khác nhau, nhưng sự sống chỉ là một”. Câu này là một lời dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH tuyệt vời, đem so sánh loài vật và loài người tuy có khác nhau hình tướng, nhưng sự sống chỉ là một.

Đúng vậy, con người và con vật hình dáng thì khác nhau, nhưng sự sống người vật đâu có khác. Vậy mà loài người nỡ tâm giết loài vật ăn thịt thì mới đáng trách. Tại sao biết thương sự sống của mình mà nỡ lòng làm hại sự sống của loài vật khác? Con người hơn loài vật là có trí tuệ hiểu biết, phân biệt sự sống, sự chết, sự thiện, sự ác, sự khổ đau và sự vui buồn. Nhờ có sự hiểu biết như vậy thì con người cần phải sống thương yêu nhau hơn, cao thượng hơn.

Loài người hãy suy tư lại đi, những việc làm cướp mạng sống của loài vật khác có xứng đáng là lòng thương yêu của con người nữa không? Không có người nào là không có tình thương, nhưng tình thương ích kỷ nhỏ mọn chỉ biết thương mình. Chỉ biết thương mình thì lòng thương ấy không trọn vẹn; chỉ biết thương mình thì lòng thương ấy không bảo đảm sự sống của mình; chỉ biết thương mình thì lòng thương ấy là sợi chỉ mành treo chuông.

Làm người lòng yêu thương phải rộng lớn vô bờ bến thì mới xứng đáng làm người. Làm người mà hẹp hòi ích kỷ, không biết thương những loài vật khác, nỡ tâm giết hại loài vật để ăn thịt thì làm người như vậy có xứng đáng làm người chưa? Bởi căn bản con người sinh ra là người nào cũng có sẵn lòng yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy cần phải được rèn luyện trong nền đạo đức hiếu sinh nhân bản thì con người mới phát triển lòng yêu thương tối đa.

Trả lời câu hỏi 5:

“Sau khi giết chết chúng sinh, có người sẽ đầu thai làm thú vật, và có nhiều thú vật sẽ làm người. Người và vật lẫn lộn, lúc làm người, lúc làm vật, vì thế mà vẫn cùng một dây liên lạc như anh em”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ tuyệt vời. Nếu giết chúng sinh thì đầu thai làm chúng sinh, cho nên hiện giờ là người nhưng kiếp trước là chúng sinh. Chúng sinh và con người chỉ có khác nhau bộ mặt, nay mặt người mai mặt thú, còn tính tình cũng vậy, lúc thì hiền lành, dịu dàng, ôn tồn, nhã nhặn, lời nói toàn là ái ngữ, đúng là con người, nhưng có lúc thì hùng hổ, dữ tợn, la hét, chửi mắng, mạ lị, mạt sát, đánh đập, cào xé, múa tay, đá chân, đúng lúc này là con thú. Cho nên đức Phật dạy:

“Người và vật lẫn lộn, lúc làm người, lúc làm vật”. Lời dạy này rất tuyệt vời: lúc làm người, lúc làm vật hay quá! Con người hiện là như vậy, lúc người lúc thú hiện ra, khi sân hận, tham lam, dữ tợn là thú; khi hiền lành, thương yêu là người. Cho nên hiện giờ chúng ta cứ quan sát một người thì sẽ thấy hai mặt rõ ràng: Người và thú trong một người. Nếu là con người thật là con người thì không có hai mặt này, con người thật con người chỉ có lòng thương yêu hiền lành, không giận dữ.

Còn con người nửa người nửa thú thì nhiều lắm. Có đúng không quý vị? Lời dạy này đức Phật chỉ chúng ta có cái nhìn thực tế, cụ thể vào một con người. Vì thế, chúng ta nhận xét người thú trong một con người quá rõ ràng.

Một con người thật là con người thì không bao giờ có tính hung dữ, cộc cằn, luôn luôn sống trong tình thương yêu và tha thứ mọi lỗi lầm của người khác.

Cho nên chúng ta hiện giờ đang học tập lớp NGŨ GIỚI, rèn luyện nhân cách hiếu sinh để gạt bỏ bản tính hung ác của loài thú vật, để còn lại một người thật là con người, vậy các con hãy cố gắng tu học rèn luyện nhân cách để xa lìa, từ bỏ bản chất hung ác thú vật, chỉ còn lại bản chất hiền lành hiếu sinh con người thật con người.

Trả lời câu hỏi 6:

“Không thể lấy máu của thú vật rửa tội cho mình”. Lời dạy này là lời dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH tuyệt vời. Không thể lấy máu của thú vật rửa tội cho mình! (Hình ảnh đẫm máu, thương tâm trong nghi lễ chém lợn hiến tế tại làng Ném Thượng, Bắc Ninh, mùng 6 Tết Âm lịch) Người giết hại, ăn thịt chúng sinh mà muốn cho mình không bệnh tật đau khổ, không tai nạn hiểm nghèo thì không bao giờ có. Lấy máu của chúng sinh tức là giết hại chúng sinh, làm khổ chúng sinh mà muốn cho mình không tội lỗi thì điều ấy không bao giờ xảy ra. Lời dạy này còn một nghĩa nữa là giết hại chúng sinh cúng tế quỉ thần thì chẳng có thần thánh nào mà rửa tội cho mình được. Lời dạy này là lời cảnh giác, để mọi người đừng bị tà sư ngoại đạo lừa đảo bằng cách giết chúng sinh cúng tế cầu an cầu siêu, cầu tài, cầu lợi, cầu quan, cầu thi đậu, v.v...

Tóm lại, lời dạy này là một đạo đức hiếu sinh khẩu hành rất tuyệt vời, vừa ngăn chặn sự giết hại chúng sinh, vừa khiến cho mọi người đem lại tình thương yêu chan hòa cùng nhau với mọi loài, mọi sự sống trên hành tinh này, và nhất là con người tránh khỏi bị những tôn giáo thần quyền lừa đảo cúng tế thần thánh ban phước, giải trừ tai ách một cách phi đạo đức hiếu sinh.

Trả lời câu hỏi 7:

“Xin các vị thiên thần tha tội là làm một việc vô ích”. Câu này đức Phật dạy ĐỨC CHÂN THẬT HIẾU SINH KHẨU HÀNH. Trong luật nhân quả dạy ai làm lành thì hưởng được phước, ai làm ác thì phải gánh chịu hậu quả đau thương, chứ không có thần thánh nào ban phước rửa tội cho. Cho nên đức Phật khẳng định: “Xin các vị thiên thần tha tội la làm một việc vô ích”. Lời dạy này quý vị nên ghi nhớ: Cầu khẩn cúng bái van xin thánh thần để ban phước cho quý vị là một việc làm vô ích; một việc làm dối trá phi đạo đức.

Hằng năm đi chùa núi Bà Đen Tây Ninh, bà Chúa Xứ Châu Đốc, bà Chúa Kho miền Bắc để cầu tài, cầu lộc, cầu tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ, trúng đề, trúng số, đó là một việc làm vô ích, phi đạo đức nhân bản - nhân quả; một việc làm mê tín, mù quáng, lạc hậu của những người ở vào những thế kỷ xa xưa.

Làm ác, giết người cướp của, hiếp dâm, hằng ngày giết hại mạng chúng sinh để ăn thịt mà đến chùa, đình, điện, miếu để cầu cho được bình an, hạnh phúc yên vui thì không bao giờ có.

Quý vị sống biết thương yêu sự sống của muôn loài, thường sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì cuộc sống của quý vị không cần cầu Thần, Thánh, Tiên, Phật, Ngọc Hoàng, Thượng Đế phò hộ mà vẫn bình an, yên ổn, hạnh phúc. Quý vị có tin không? Có tin nhân quả không? Nếu tin thì quý vị sẽ trở thành những nhà đạo đức nhân bản - nhân quả, những con người đầy lòng thương yêu rộng lớn bao la đối với muôn loài sống trên hành tinh này. Quý vị sẽ là những người hạnh phúc nhất trần gian.

Trả lời câu hỏi 8:

“Nếu các Ngài đều thiện thì các Ngài sẽ không tha thứ cho một việc làm ác như thế”.

Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH NHÂN QUẢ KHẨU HÀNH, và xác định cho thấy nếu có Thần, Thánh, Tiên, Phật thật sự, thì các Ngài phải sống thiện, chứ không bao giờ sống trong ác pháp, mà sống thiện pháp thì làm sao các Ngài chấp nhận những hành động ác giết hại chúng sinh cúng tế.

Nếu thật có chư Thiên, chư Thần, chư Thánh, chư Phật, Ngọc Hoàng Thượng Đế, chư Bồ Tát, chư A La Hán, v.v... những bậc này đều làm thiện, làm thiện thì làm sao chấp nhận những người làm ác giết hại chúng sinh cúng tế cầu phước, cầu an, cầu siêu như các vị Bà La Môn đã làm. Các bậc thánh thiện này sẽ không tha thứ cho những kẻ làm ác. Như vậy rõ ràng sự giết hại chúng sinh cúng tế là một điều phi đạo đức, một điều mà chư Phật, chư Thiên, chư Thánh, chư Thần, v.v... không ai chấp nhận.

Lời dạy này rất hay: “Nếu các Ngài đều thiện thì các Ngài sẽ không tha thứ cho một việc làm ác như thế”. Đúng vậy, khi chúng ta sống trong thiện pháp thì không thể nào tha thứ cho những người làm ác, mà phải tìm cách giúp họ hiểu biết đâu là thiện, đâu là ác, đâu là đúng, đâu là sai, như những lời dạy trên đây để đem lại thiện pháp cho họ. Lời dạy trên đây là lời khuyên lơn cảnh tỉnh cho mọi người biết cái sai, cái đúng trong nhân quả thiện ác để không bị ai lừa đảo. Lời dạy trên đây là một lời dạy đầy lòng thương yêu để ngăn chặn những điều làm ác mà mọi người đã, đang và sẽ lầm lạc mê tín, lạc hậu, tiền mất tật mang do một số tôn giáo hướng dẫn phi đạo đức nhân bản - nhân quả.

Những lời dạy trên đây do một bậc vĩ nhân nói ra, vì thế nó có một trọng lượng ngàn cân, một giá trị rất lớn đối với loài người trên hành tinh này. Lời nói này là một lời nói về sự thật của quy luật nhân quả đang điều hành các pháp trong vũ trụ. Vì chưa thông hiểu nên từ lâu người ta thờ ơ với những hành động thiện ác của mình, thường xem những hành động ác là không quan trọng nên làm những điều ác mà không sợ.

Do đó những thầy cúng, thầy rửa tội nói gì, bày điều gì họ cũng nghe theo. Nghe theo, làm theo mà không cân nhắc kỹ lưỡng nhân quả thiện ác. Cho nên dễ bị những tà sư này lường gạt. Vì thế người đời có bệnh tật hay tai nạn, thường dễ bị lọt vào cạm bẫy mê tín của tà sư ngoại đạo, nên tiền mất tật mang.

Người sống trong đạo đức hiếu sinh thường rất sợ những hành động ác, do thế nên mỗi hành động thân, khẩu, ý rất dè dặt và cẩn thận khi suy nghĩ, khi nói ra, khi làm một việc gì đều cân nhắc kỹ lưỡng rồi mới hành động. Nhờ đó họ sống trong lòng yêu thương rộng lớn bao la như trời bể đối với người thiện cũng như người ác. Bởi vậy chỉ có lòng thương yêu rộng lớn là giúp cho mọi người gần nhau, và mãi mãi gần nhau mà không sợ hại nhau.

Trả lời câu hỏi 9:

“Nếu các người làm ác, thì dầu có giết bao nhiêu thú vật đi nữa để cúng, các người cũng không hết ác được”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH NHÂN QUẢ. Lời khuyên dạy này rất thực tế, nếu chúng ta làm ác, giết bao nhiêu con vật để cầu cúng thì cũng không bao giờ tiêu trừ hết tội ác được, có nghĩa là không bao giờ tiêu tai ách, bệnh khổ được.

Qua lời dạy này, đức Phật đã xác định rõ ràng: nếu người nào làm nghề ác như: cho vay đoạt lãi cắt cổ, nghề đi săn bắn, nghề đi chài lưới, câu tôm, bắt cá, nghề làm đồ tể giết trâu bò, heo, dê, gà, vịt, v.v... nghề buôn bán thịt sống như: cá, tôm, thịt gà, thịt vịt, thịt heo, thịt bò, thịt dê, thịt chó, v.v... nghề buôn bán những thực phẩm chín bằng thịt chúng sinh như phở, cháo lòng, cháo cá, hủ tiếu, cơm sườn, cơm tấm, v.v... nghề buôn bán gian lận cân non, đo thiếu, buôn bán hàng giả, hàng xấu tráo trở nói hàng tốt, v.v...

Làm những nghề ác như vậy mà cầu cúng thần thánh cho có phước báu thì không bao giờ có.

Hiện giờ thấy làm ăn khá giả giàu sang, tưởng là nhờ cầu cúng thần thánh mà được, điều đó không đúng. Hiện giờ thấy làm ăn khá giả giàu sang là nhờ phước thừa của kiếp trước, nếu phước báu ấy hết thì sự giàu sang sẽ tan tành như mây khói. Qua những trận thiên tai, hỏa hoạn, sóng thần, lũ lụt, bão tố, động đất, v.v... sự giàu sang thì chỉ còn một đống gạch vụn, tay trắng sẽ trả về tay trắng.

Trong các cửa hàng buôn bán của họ đều có thờ cúng thần tài, thần hoàng thổ địa, để cầu mua may bán đắt, trong những ngày Tết, ngày lễ vía, ngày rằm lớn đều giết gà, vịt hoặc heo quay, gà quay, vịt quay, v.v... cúng bái cầu an, nhất là cầu mua bán vốn một mười lời.

Hình thức bên ngoài dù những người làm ác có khá giả, giàu có, nhà cao cửa rộng, xe cộ đầy đủ, nhưng trong gia đình của họ con cái không tật nguyền, tai nạn này thì tật nguyền, tai nạn khác, gia đình của họ thường đau ốm xảy ra người này chưa hết đến người kia.

Lời khẳng định trên đây của đức Phật rất rõ ràng: “Nếu các người làm ác, thì dầu có giết bao nhiêu thú vật đi nữa để cúng tế, các người cũng không hết tội ác được”. Đúng vậy, nếu các người làm ác, thì dầu có giết bao nhiêu thú vật đi nữa để cúng tế, các người cũng không rửa hết các tội ác được. Đã làm tội ác thì làm sao rửa hết tội ác đó được. Phải không quý phật tử?

Trả lời câu hỏi 10:

“Nhưng dầu thiện dầu ác, các Ngài cũng không tha tội cho ai. Tội của người nào thì người ấy phải chịu. Đấy là luật nhân quả, không ai có thể vượt qua”. Lời dạy này là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH NHÂN QUẢ, vì thương yêu mọi người nên đức Phật khuyên ngăn và vạch rõ nhân quả để chúng ta hiểu rằng không ai trốn khỏi luật nhân quả. Người làm ác không thể tránh quả khổ đau, nhưng người làm thiện không cầu mà phước báu an vui vẫn đến.

Chư Thiên, chư Thánh, chư Thần, chư Phật, chư Bồ Tát cùng Ngọc Hoàng Thượng Đế, các vị này không tha thứ cho những người làm ác. Cho nên những người làm ác, buôn gian bán lận, những người giết hại chúng sinh, những người ăn thịt chúng sinh thì dù có cầu cúng bao nhiêu các Ngài cũng không rửa tội cho quý vị, cũng không tha thứ cho quý vị được. Chỉ có quý vị từ bỏ không làm những nghề nghiệp ác, từ bỏ ăn thịt chúng sinh, luôn luôn khởi lòng yêu thương tất cả chúng sinh, thương yêu sự sống của muôn loài, sống lúc nào cũng không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì mới chuyển đổi nhân quả thiện lành. Tự quý vị làm thiện là quý vị chuyển đổi nhân quả ác của mình thành phước báu. Nhờ có phước báu mới thọ hưởng được những sự bình an, yên vui và hạnh phúc. Đời người chỉ sống cầu mong làm thiện, đừng làm ác, sống biết thương yêu và biết tha thứ những lỗi lầm của nhau, sống được bấy nhiêu đó cũng là giải thoát rồi.

Trả lời câu hỏi 11:

“Càng giết hại nhiều lại càng mang lắm họa”. Lời dạy này là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH NHÂN QUẢ.

Hằng ngày trên hành tinh này con người giết hại trâu, bò, heo, dê, gà, vịt, cá, tôm, cua, sò, ốc, hến, v.v... không biết số lượng nào mà kể cho hết, xương chúng sinh chất như núi, máu chảy như sông.

Bởi hành động giết hại chúng sinh như vậy làm sao thế gian này được bình an. Lời dạy của đức Phật rất tuyệt vời: “Càng giết hại nhiều lại càng mang lắm họa”. Đúng vậy, thế giới này không ngày nào dứt chiến tranh khủng bố, nay không chỗ này thì mai ở chỗ khác. Vả lại thiên tai lũ lụt, sóng thần, động đất, bão tố, hạn hán, v.v... đó là những tai họa do con người tự tạo ra thì con người phải tự gánh chịu.

Do ăn thịt chúng sinh mà con người sát hại sinh linh trùng trùng điệp điệp, ngày nào máu của chúng sinh đổ ra và cũng chảy như sông, xương chúng sinh chất như núi. Tiếng kêu la thảm thiết của chúng sinh thấu tận trời xanh thì thế gian này loài người làm sao sống bình an cho được? (Hình ảnh rất thương tâm trong nghi lễ chém lợn hiến tế bị nhiều người lên án la “dã man, đẫm máu”, tại Ném Thượng, Bắc Ninh, mùng 6 Tết Âm lịch) Tội ác của con người ghê gớm lắm, giết chúng sinh hằng loạt bằng máy móc mà không chút lòng yêu thương xót xa.

Quý vị hãy xem phim TIẾNG KÊU GÀO CỦA NHỮNG SINH MẠNG do người Mỹ sản xuất thì rõ, thật đau thương vô cùng. Những người Mỹ làm phim này họ kêu gọi chúng ta đừng ăn thịt chúng sinh nữa, đừng uống sữa, ăn pho mát, tất cả những thức ăn này là sự đau khổ quằn quại, rên la thảm thiết của chúng sinh.

Hằng ngày quý vị hãy nhớ lời dạy này để nhắc nhở tâm mình: “Càng giết hại chúng sinh nhiều thì càng mang nhiều tai họa”. Tai họa của con người do chính họ làm những điều ác. Cho nên làm những điều ác sẽ không tránh khỏi những tai họa.

Trả lời câu hỏi 12:

“Ôi, thế giới này sẽ an vui biết bao, và biết bao điều thảm khốc sẽ không còn nữa, nếu nhân loại biết thương đến loài vật mà không nỡ tâm giết chúng để cúng và để ăn, nếu nhân loại chỉ tự nuôi sống với cây cỏ hoa trái!” Lời khuyên dạy này là lời dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH NHÂN QUẢ tuyệt vời.

“Nếu nhân loại chỉ tự nuôi sống với cây cỏ, hoa trái!” thì thế gian này hạnh phúc biết bao, loài người đâu còn khổ đau nữa.

Thịt cá ăn vào miệng chỉ làm thành một thói quen mà chúng ta cho nó ngon. Thịt cá ngon sao con bò, con trâu, con ngựa bỏ vào miệng chúng, chúng lại nhả ra không ăn. Do đó chúng ta biết rất rõ: vì tập thành thói quen trong ăn uống nên tạo thành tội ác mà không biết. Nếu ngay bây giờ chúng ta thực hiện đức hiếu sinh nuôi sống với cây cỏ hoa trái trở thành thói quen ăn uống, như vậy thì thế gian này đâu còn chịu cảnh khổ đau nữa, như trong lời dạy của đức Phật: “Ôi, thế giới này sẽ an vui biết bao, và biết bao điều thảm khốc sẽ không còn nữa, nếu nhân loại biết thương đến loài vật mà không nỡ tâm giết chúng để cúng và để ăn...!” Lời dạy này thiết thực cụ thể, mang lại sự bình an cho mọi người.

Kính thưa quý tu sinh! Quý tu sinh có tin lời dạy này chăng? Một lời dạy về đức hiếu sinh của đức Phật rất tuyệt vời! Chúng ta hãy ghi khắc lời dạy này mãi mãi để thực hiện sống đức hiếu sinh như lời Phật dạy; để không phụ công ơn của Người; để đem lòng yêu thương ban rải chan hòa khắp mọi nơi, mọi loài chúng sinh, mọi sự sống trên hành tinh này. Đó mới chính là lòng yêu thương mình. Quý tu sinh có biết không?

Trả lời câu hỏi 13:

“Các thầy Bà La Môn nghe xong, đều giật hết lễ phục mang trên mình với hai bàn tay chùi chưa sạch máu. Mấy trăm con cừu được thả ra, vui vẻ chạy rong trên đường phố như vừa thoát khỏi địa ngục mà sự u mê của con người mới tạo ra”. Nghe lời dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH NHÂN QUẢ của đức Phật, các vị Bà La Môn cởi bỏ lễ phục và thả cừu, đó là đạo đức minh mẫn hiếu sinh của các vị thầy cúng Bà La Môn, chấp nhận ngay liền lời dạy của đức Phật, thật là tuyệt vời! Các vị Bà La Môn cúng bái tế lễ này rất sáng suốt, khi nghe đức Phật dạy đạo đức hiếu sinh nhân quả, liền dẹp tế đàn thả cừu, không giết hại chúng nữa. Dẹp tế đàn là hành động biết phục thiện, biết thương xót, biết việc làm của mình là sai, là làm ác, gây ra tội lỗi.

Nếu các vị Bà La Môn này cố chấp pháp cúng tế cho là đúng, bèn chống lại lời dạy đạo đức của Phật, không dẹp tế đàn mà còn có những lý luận để bảo thủ như kinh sách phát triển, để duy trì sự vô minh và truyền lại cho đời sau những sự mê tín, dị đoan thì rất tai hại. Nhưng mãi đến 2550 năm, mà đạo Bà La Môn vẫn còn giết chúng sinh cúng tế, chứ có dứt hẳn đâu, thật là một sự truyền thừa vô đạo đức tai hại cho người đời sau rất lớn.

Những bài học đạo đức này đã được dạy cách 2550 năm, nhưng đến giờ này thế gian con người còn vô minh, chưa hiểu biết đâu đúng, đâu sai, đâu thiện, đâu ác, đâu mê tín, đâu chánh tín, nên giết hại sinh vật cúng tế cầu an cầu chư thánh, chư thần ban phước rửa tội, thật là một việc làm đầy tội ác mà không hay biết.

Các vị Bà La Môn trong thời đức Phật rất thông minh, khi nghe Phật nói xong liền dẹp bỏ tế đàn, biết đó là một việc tội ác và làm hao tốn của cải tài sản của con người mà không đem lại lợi ích cho người.

Đúng, giết loài vật cúng tế cầu an, cầu phước là một sự u mê của con người, nên mới có những việc làm vô ích hao tốn tiền của công sức và nhiều tội ác như núi, như non, để rồi hậu quả lại càng khổ đau hơn.

Trả lời câu hỏi 14:

Vua sai khắc trong đá và chạm vào gỗ đạo dụ này: “Từ xưa đến nay, chúng ta đã phạm một tội lớn là giết súc vật để tế thần và để ăn thịt. Nhưng bắt đầu từ ngày nay, trong dân gian không được ai làm đổ máu một con vật nào, vì chúng sinh cùng chung một sự sống”. Lời dạy trên đây là lời dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH VÀ THÂN HÀNH.

Lời nói và bằng hành động khắc chạm trong đá, trong gỗ của một nhà vua truyền lệnh cho dân chúng làm một cuộc cải thiện đời sống “KHÔNG ĂN THỊT CHÚNG SINH”. Nếu tất cả những nhà lãnh đạo mọi đất nước trên hành tinh này sáng suốt, hiểu rõ sự lợi ích không giết hại và ăn thịt chúng sinh như việc làm của nhà vua này, thì mọi nước trên hành tinh này sẽ sống được an cư lạc nghiệp. Và toàn loài người dân trên quả địa cầu rất là hạnh phúc.

Thật là một việc làm vĩ đại mà ít có nước nào làm được như nhà vua này, đem lại cho nhân dân trong cảnh thái bình thịnh trị.

Một vị anh minh như nhà vua Tần Bà Ta La ra đạo dụ khắc lên đá và gỗ lời dạy đạo đức hiếu sinh tuyệt vời: “Vua sai khắc trong đá và chạm vào gỗ đạo dụ này: Từ xưa đến nay, chúng ta đã phạm một tội lớn là giết súc vật để tế thần và để ăn thịt. Nhưng bắt đầu từ ngày nay, trong dân gian không ai được làm đổ máu một con vật nào, vì chúng sinh cùng chung một sự sống”. Vì lòng thương dân, thương nước, nhà vua muốn nhân dân được bình an, được yên vui, an cư lạc nghiệp, nên ra lệnh cấm không cho toàn dân giết hại và ăn thịt chúng sinh, chỉ nuôi sống bằng thực phẩm thực vật, rau cải, hoa trái, đậu mè, v.v...

Trong một đất nước toàn dân sống trong thiện pháp được như vậy thì chỉ có nhà vua ra lệnh cấm toàn dân không cho giết hại và ăn thịt chúng sinh nữa, thì nhân dân trong nước đó sẽ thi hành theo lệnh ấy, thì cuộc sống của toàn dân nước đó sẽ được bình an thịnh trị, tệ nạn xã hội sẽ chấm dứt.

Nạn trộm cướp giết người, xì ke, ma túy sẽ không còn nữa, nhất là tai nạn giao thông cũng sẽ chấm dứt.

Trong nền giáo dục đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người được phổ biến rộng rãi thì chỉ có Bộ Thông Tin - Văn Hóa và Bộ Giáo Dục. Nếu toàn dân được học tập và rèn luyện nhân cách đạo đức hiếu sinh thì nhân dân sẽ sống trong thương yêu rộng lớn, đối xử với nhau thì nhân dân đất nước đó sẽ được sống cảnh thái bình thịnh trị, không còn sợ ngoại bang xâm chiếm, dân chúng nước đó sẽ sống bình an và hạnh phúc.

Trả lời câu hỏi 15:

“Và nên nhớ rằng: những điều lành sẽ dành riêng cho những kẻ hiền lương”. Lời dạy này là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH, một lời khuyên đạo đức rất tuyệt vời! Chỉ có những người hiền lương mới làm những điều lành, không làm những điều ác; chỉ có người hiền lương mới biết sống thương mình, thương người và thương tất cả chúng sinh; chỉ có người hiền lương mới biết sống với tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự; chỉ có người hiền lương mới biết sống với tâm ly dục ly ác pháp; chỉ có người hiền lương mới biết sống bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ. Cho nên lời dạy trên đây của đức Phật rất thấm thía: “Và nên nhớ rằng:

những điều lành sẽ dành riêng cho những kẻ hiền lương”.

Làm sao có kẻ làm ác mà sống trong cảnh yên vui hạnh phúc được. Phải không quý vị? Những sự bình an, yên vui, hạnh phúc giành cho những người hiền lương, chứ không thể nào giành cho kẻ làm ác.

Những sự khổ đau, giận hờn, phiền não, buồn lo, nói xấu người khác, nói lời không thật, hung dữ, chửi mắng, mạ lị, mạt sát, v.v... không giành cho những người hiền lương.

Tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự, bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ, không phóng dật là giành cho những người hiền lương, chứ không thể giành cho những người làm ác.

Lòng thương yêu rộng lớn vô bờ bến như trời biển là giành cho những người hiền lương, chứ không giành cho những người làm ác.

Hôm nay chúng ta tu học và rèn luyện đức hiếu sinh, vì đức hiếu sinh giành cho người hiền lương, chứ không giành cho những người tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi. Cho nên tu sinh còn tham, sân, si, mạn, nghi là đức hiếu sinh chưa có. Đức hiếu sinh có là người ấy sống không làm khổ mình, khổ người. Vì vậy mục đích của đạo Phật đến đây là giúp con người thoát khổ chứ không phải giúp con người làm trò biểu diễn năng lực siêu việt vô hình, để lừa đảo những người ưa thích thần thông.

Vì vậy thần thông và thế giới siêu hình không phải của Phật giáo. Phật giáo chỉ là nền đạo đức nhân bản - nhân quả với lòng thương yêu vô bờ bến.

Bài học thứ 24: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: CHIẾC GIÀY ĐÁNH RƠI CỦA THÁNH GANDHI

Có lần, trong lúc vội bước lên xe lửa, Mahatma Gandhi đánh rơi một chiếc giầy xuống đường ray và không thể nào lấy lên được, vì xe lửa đã lăn bánh. Ông Gandhi bèn cởi ngay chiếc giầy còn lại và ném xuống đường ray, gần nơi chỗ chiếc giầy đã rớt, trước sự ngạc nhiên của những hành khách trên xe.

Một hành khách không kiềm được thắc mắc, đã lên tiếng hỏi ông:

- Tại sao lại làm như vậy? Gandhi đáp:

- Một người nghèo nào đó tìm thấy chiếc giầy trên đường ray thì họ sẽ tìm thấy chiếc thứ hai, và như vậy họ sẽ có đủ cả đôi để dùng.

Vị hành khách bảo:

- Tuyệt vời! Ít ai nghĩ đến.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: “Có lần, trong lúc vội bước lên xe lửa, Mahatma Gandhi đánh rơi một chiếc giầy xuống đường ray và không thể nào lấy lên được, vì xe lửa đã lăn bánh”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 2: “Ông Gandhi bèn cởi ngay chiếc giầy còn lại và ném xuống đường ray, gần nơi chỗ chiếc giầy đã rớt”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 3: “Trước sự ngạc nhiên của những hành khách trên xe. Một hành khách không kiềm được thắc mắc đã lên tiếng hỏi ông:

- Tại sao lại làm như vậy?” Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 4: “Một người nghèo nào đó tìm thấy chiếc giầy trên đường ray thì họ sẽ tìm thấy chiếc thứ hai, và như vậy họ sẽ có đủ cả đôi để dùng”. Câu này dạy đạo đức gì?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

“Có lần, trong lúc vội bước lên xe lửa, Mahatma Gandhi đánh rơi một chiếc giầy xuống đường ray, và không thể nào lấy lên được, vì xe lửa đã lăn bánh”.

Câu này nói lên THIẾU ĐẠO ĐỨC CẨN TRỌNG TỈNH GIÁC, Người có đức hạnh cẩn trọng, tỉnh giác thì không bao giờ đánh rơi giày dép, bóp xách, của cải, tiền bạc. Ông Gandhi vì lật đật bước lên tàu hỏa đánh rơi chiếc giày, đó là nói lên ông Gandhi thiếu đức hạnh cẩn thận tỉnh giác thân hành.

Chúng ta là những người tu hành theo Phật giáo, thì phải sống trong đức hạnh hiếu sinh thương mình, thương người, nên lúc nào cũng phải cẩn thận, tỉnh giác trong mọi tình huống. Người sống trong đức hiếu sinh thương mình, thương người thì không bao giờ thiếu đức hạnh cẩn trọng tỉnh giác thân hành.

Vì thế người có đức hạnh cẩn trọng tỉnh giác là có đức hiếu sinh thương mình, thương người và thương tất cả chúng sinh. Trong cuộc đời này chỉ có đức hiếu sinh mới đem lại sự bình an cho hành tinh.

Ví dụ: Có một người đang chửi mắng mình, mình tức giận chửi mắng lại người ấy.

Trước tiên mình nhận xét thấy mình thiếu đức hạnh cẩn trọng tỉnh giác, mà thiếu đức hạnh cẩn trọng tỉnh giác là mình đánh mất đức hiếu sinh thương mình, thương người. Do đó mình mới chửi lại người. Chửi lại người là mất cả hai đức.

Cho nên đức hiếu sinh thương mình, thương người thì phải có đức hạnh cẩn trọng tỉnh giác. Có đức cẩn trọng tỉnh giác là có tất cả đức hạnh khác, nhất là đức hiếu sinh.

Trong cuộc sống hằng ngày, nếu chúng ta rèn nhân cách đức hiếu sinh thành tựu thì đời sống lúc nào cũng biết thương yêu tất cả mọi người, mọi sự sống trên hành tinh này, thì chúng ta đều có đầy đủ các đức hạnh khác như đức cẩn trọng tỉnh giác, đức ly tham từ bỏ lấy của không cho, đức chung thủy, đức thành thật, đức minh mẫn, v.v...

Chúng ta chỉ cần thấm nhuần một đức hiếu sinh thì chúng ta sẽ trở thành người toàn thiện, không có đức hạnh nào mà chúng ta không có. Xưa ông Phú Lâu Na chỉ có đức hiếu sinh mà đã trở thành bậc A La Hán.

Hiểu biết Phật pháp như vậy, nên chương trình giáo dục đào tạo rèn nhân cách ra đời đem lại sự bình an cho loài người, cho muôn vật. Chỉ còn có một điều là chúng ta chuyên cần đến lớp học tập để tiếp thu những đức hạnh cao thượng tuyệt vời, mà con người từ lâu thờ ơ vì không hiểu biết sự lợi ích của nó.

Đến đỗi đức hạnh cẩn trọng tỉnh giác mà họ cũng chẳng biết, chẳng hiểu. Chỉ biết qua những lời khuyên PHẢI CẨN THẬN.

Trả lời câu hỏi 2:

“Ông Gandhi bèn cởi ngay chiếc giầy còn lại và ném xuống đường ray, gần nơi chỗ chiếc giầy đã rớt”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH thương người nghèo khó. Hành động của thánh Gandhi ít có ai làm được, ít có ai nghĩ đến. Khi chiếc giày rơi không thể lấy lại được, nên ông nghĩ ngay sẽ có người nghèo lượm, nhưng có một chiếc không thể dùng được, vì thế ông ném chiếc còn lại cho người nghèo nào đó khi lượm được chiếc này thì sẽ lượm được chiếc kia, Và như vậy mới có đủ cả hai chiếc. Chiếc giày còn lại ông cũng không mang được, và người khác lượm chiếc giày kia cũng không mang được, vì chỉ có một chiếc. Với lòng yêu thương người, ông xét thấy: người ta mang cũng như mình mang, vì thế ông ném chiếc giày còn lại để người lượm sẽ có được hai chiếc giày. Do lòng yêu thương đã biến ra hành động ném lại chiếc giày khiến cho mọi người ngạc nhiên. Hành động ném chiếc giày xuống xe là đức hiếu sinh thân hành tuyệt vời, mang theo đức hạnh bố thí không phí bỏ vật chất.

Ở đời người ta cứ tưởng nghĩ kêu gọi mọi người đóng góp tiền của gạo thóc, rồi đem cho người nghèo mới gọi là bố thí. Bố thí như thánh Gandhi mới thật tâm bố thí, bố thí có tư duy suy nghĩ hẳn hòi, dù một chiếc giày không có giá trị nhưng có ý thức biết ném bỏ bố thí đúng lúc cho người nghèo lượm. Thánh Gandhi bố thí thật là tuyệt vời. Bố thí bằng ý thức thương người, bằng đức hiếu sinh ý hành.

Nếu đức hiếu sinh đã trở thành sự sống của một con người thì không còn một ác pháp nào tác động vào tâm họ được, thì ngay lúc đó họ là người chứng đạo.

Cho nên đạo Phật tu hành không khó, chỉ cần thấu triệt, thấm nhuần một đức hạnh trong năm đức NGŨ GIỚI này thì sự chứng đạo sẽ ở trong tay.

Một giới đức hiếu sinh thông suốt và thấm nhuần thì tất cả những giới đức khác đều thông suốt. Cho nên chúng ta chỉ học cho thấm nhuần một đức hiếu sinh khi đã trở thành như da thịt của chúng ta, thì lúc bấy giờ đụng đâu cũng là lòng thương yêu của chúng ta, chừng đó tâm chúng ta giải thoát hoàn toàn mà không cần phải tự tu tập một cách khó khăn như trước kia nữa. Trước kia tu tập thường hay phạm giới và bị ức chế tâm sinh ra nhiều chướng ngại, nhiều tưởng giải.

Còn ở đây chỉ học đạo đức hiếu sinh để thấu triệt và thấm nhuần, để thân tâm trở thành một thói quen đạo đức, nhờ đó mà tâm thanh tịnh, hoàn toàn bất động không còn phóng dật. Đây là một phương pháp tu học mới mẻ bằng một chương trình giáo dục đào tạo chứng quả A La Hán hơn là tự tu, tự chứng như từ xưa đã tu tập đến nay, kết quả dường như không đạt được mấy người.

Trả lời câu hỏi 3:

“Trước sự ngạc nhiên của những hành khách trên xe.

Một hành khách không kiềm được thắc mắc, đã lên tiếng hỏi ông:

- Tại sao lại làm như vậy?” Câu này nói lên những hành động THIẾU ĐỨC TỈNH GIÁC SÁNG SUỐT, nên mới có những thắc mắc. Thường những người không có trí thông minh sáng suốt thường có những thắc mắc để tìm hiểu, nhưng lại có một số người muốn tỏ ra mình là người thông minh sáng suốt nên dùng tưởng giải nói không đúng nghĩa của đề tài bài học đạo đức, nói sai sự thật, biến họ trở thành con người vọng ngôn nói dối, nói không đúng sự thật, đưa ra nhiều ý kiến phi đạo đức, phản lại đạo đức.

Mục đích của chúng ta tu học ở đây là triển khai đạo đức hiếu sinh, để tâm thấm nhuần lòng yêu thương, nhờ đó mới diệt ngã xả tâm, quét sạch lòng tham, sân, si, mạn, nghi.

Sự thắc mắc cũng là một đạo đức hiếu học, có đạo đức hiếu học mới thưa hỏi để hiểu biết, có hiểu biết mới trở thành người thông suốt, nhờ thông suốt mới thấm nhuần mọi đạo đức hiếu sinh, ly tham, chung thủy, thành thật và minh mẫn.

Cho nên những người hay thắc mắc thưa hỏi là những người có đức hiếu học. Đức hiếu học cũng rất cần cho tri kiến giải thoát. Vì thế câu dạy trên đây để chúng ta hiểu thêm một đức hạnh mới, đó là đức hiếu học.

Trả lời câu hỏi 4:

“Một người nghèo nào đó tìm thấy chiếc giầy trên đường ray thì họ sẽ tìm thấy chiếc thứ hai, và như vậy họ sẽ có đủ cả đôi để dùng”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, nghĩa là tất cả mọi sự việc luôn luôn phải tư duy suy nghĩ thương những người nghèo khổ: thiếu phước cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc; thiếu phước sống nay đau, mai ốm; thiếu phước sống trong tật nguyền, khuyết tật, câm ngọng, cụt tay, cụt chân, đui mù, rối loạn thần kinh, không bình thường.

Làm một việc gì chúng ta cũng cần phải tư duy suy nghĩ cho kỹ lưỡng. Đó là đức hiếu sinh cẩn trọng tỉnh thức. Bởi vậy, người tư duy suy nghĩ kỹ lưỡng là người có đức cẩn trọng tỉnh thức. Đức cẩn trọng tỉnh thức trợ giúp cho đức hiếu sinh thương mình, thương người không lầm lạc, không sai lệch. Nên người có đức cẩn trọng là sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có như vậy đức hiếu sinh mới trọn vẹn.

Lời nói của thánh Gandhi có tư duy, suy nghĩ kỹ lưỡng: “Một người nghèo nào đó tìm thấy chiếc giầy trên đường ray thì họ sẽ tìm thấy chiếc thứ hai, và như vậy họ sẽ có đủ cả đôi để dùng”. Lời nói đầy đủ đức hiếu sinh thương người mà tất cả hành khách trên xe đều kính trọng con người có lời nói như vậy.

Lời nói tuy tầm thường nhưng mang tính tâm hồn cao thượng.

Đúng là lời nói của một bậc Thánh. Trong cuộc đấu tranh bất bạo động để giành độc lập cho quê hương đất nước, ông là người nêu cao ngọn đuốc đức hiếu sinh sáng chói tuyệt vời.

Bài học thứ 25: ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH: TẠI SAO TA PHẢI NIỆM PHẬT

Thành La Phiệt có một ông hoàng tánh rất hung bạo. Thêm vào đó, quyền thế và địa vị của ông có thể giúp ông thủ tiêu tội ác trước pháp luật, chưa một lời phải nào, một đạo giáo nào cảm hóa được ông.

Một hôm ông gặp Phật, khi Phật du hóa xứ này. Mới nhìn thấy đức Phật, lòng ông bỗng cảm phục như voi dữ trước người quản tượng. Đức Phật dạy ông vài lời sơ lược:

- Hãy tưởng niệm Phật đà, hãy từ bi thương người, hãy hùng lực cứu người.

Ông cung kính vâng lời. Nhưng khi về đến nhà, vừa thấy người hành khất chướng mắt.

Ông liền đùng đùng nổi giận. Lời vàng của Phật không còn trong lòng ông nữa, khi ông toan đánh đuổi người ấy. Bỗng sực nhớ lại hình dáng từ nghiêm của Phật, ông liền dịu lại, như khi bố thí chút đỉnh gì. Tối hôm đó vợ ông lấy làm lạ, gạn hỏi đầu đuôi. Ông bèn tuần tự thuật lại. Nhờ thuật lại, ông nhớ lại rõ ràng hình dung đức Phật và lời Ngài dạy.

Đêm hôm ấy, ông suy nghĩ mông lung, ông nghĩ: “Nhớ Phật phải nhớ đến người nghèo khổ, tưởng Phật phải tưởng đến người nghèo khổ. Nhớ Phật phải nhớ đến người khổ đau, tưởng Phật phải tưởng đến người khổ đau”.

Rồi mới sáng, ông đi tìm Phật. Giữa đường ông gặp một người hành khất ốm liệt bên vệ đường. Không suy nghĩ, ông đến ân cần hỏi han và dốc hết tiền trong túi ra cho. Người ấy e sợ cám ơn rối rít. Nhưng ông chỉ bảo:

- Vì tưởng nhớ Phật nên tôi giúp anh. Anh nhận tiền này khiến tôi được phước, thế là tôi ơn anh chứ nào anh ơn gì tôi? Người hành khất nghe thế, lấy làm lạ vì không lạ gì tính nết của ông và uy danh của đức Phật nữa. Bỗng nhiên người ấy cất tiếng niệm: “NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT” (kính lễ đấng giác ngộ). Ông hoàng cũng bất giác niệm theo và đi mau tìm Phật.

Khi gặp được Ngài, ông thuật rõ đầu đuôi mọi việc. Nghe xong đức Phật mỉm cười hiền từ bảo:

- Phải! Niệm Phật ông phải tưởng niệm người nghèo khó là để giúp đỡ họ. Tưởng niệm người nghèo khó, để giúp đỡ họ là tưởng niệm Phật đó.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: “Thành La Phiệt có một ông hoàng tánh rất hung bạo”. Câu này dạy về thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 2: “Thêm vào đó, quyền thế va địa vị của ông có thể giúp ông thủ tiêu tội ác trước pháp luật”. Câu này dạy về thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 3: “Chưa một lời phải nào, một đạo giáo nào cảm hóa được ông”. Câu này nói về thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 4: “Một hôm ông gặp Phật, khi Phật du hóa xứ này. Mới nhìn thấy đức Phật, lòng ông bỗng cảm phục như voi dữ trước người quản tượng”. Câu này nói lên đạo đức gì?

Câu hỏi 5: “Hãy tưởng niệm Phật đà, hãy từ bi thương người, hãy hùng lực cứu người”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 6: “Ông cung kính vâng lời. Nhưng khi về đến nhà, vừa thấy người hành khất chướng mắt. Ông liền đùng đùng nổi giận. Lời vàng của Phật không còn trong lòng ông nữa, khi ông toan đánh đuổi người ấy”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 7: “Bỗng sực nhớ lại hình dáng từ nghiêm của Phật, ông liền dịu lại, như khi bố thí chút đỉnh gì”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 8: “Tối hôm đó, vợ ông lấy làm lạ, gạn hỏi đầu đuôi. Ông bèn tuần tự thuật lại. Nhờ thuật lại, ông nhớ lại rõ ràng hình dung đức Phật và lời Ngài dạy”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 9: “Đêm hôm ấy, ông suy nghĩ mông lung, ông nghĩ: Nhớ Phật phải nhớ đến người nghèo khổ, tưởng Phật phải tưởng đến người nghèo khổ”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 10: “Rồi mới sáng, ông đi tìm Phật. Giữa đường ông gặp một người hành khất ốm liệt bên vệ đường. Không suy nghĩ, ông đến ân cần hỏi han và dốc hết tiền trong túi ra cho. Người ấy e sợ cám ơn rối rít”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 11: “Vì tưởng nhớ Phật nên tôi giúp anh. Anh nhận tiền này khiến tôi được phước, thế là tôi ơn anh, chứ nào anh ơn gì tôi?” Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 12: “Bỗng nhiên người ấy cất tiếng niệm: “NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT” (kính lễ đấng giác ngộ). Ông hoàng cũng bất giác niệm theo”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 13: “Phải! Niệm Phật ông phải tưởng niệm người nghèo khó để giúp đỡ họ. Tưởng niệm người nghèo khó là để giúp đỡ họ là tưởng niệm Phật đó”. Câu này dạy đạo đức gì?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

“Thành La Phiệt có một ông hoàng tánh rất hung bạo”. Câu này chỉ cho một người hung ác, ông hoàng trong thành La Phiệt sống THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH, chẳng biết thương ai, tính tình hung dữ luôn luôn chửi mắng đánh đập người khác.

Người không có đức hiếu sinh như ông hoàng ở trong thành La Phiệt là người tự làm khổ mình, khổ người, là một người hung ác, là người không có đức hiếu sinh như trên đã nói. Chúng ta là đệ tử của Phật, thấy gương hung ác xấu xa này mà tránh xa, mà từ bỏ và để loại trừ tâm ác luôn luôn giữ gìn đức hiếu sinh thường mở rộng lòng yêu thương với tất cả chúng sinh. Vì chính có lòng yêu thương mới đem lại sự bình an cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh.

Làm người phải sống trong đạo đức hiếu sinh, phải luôn luôn sống biết thương người, thương tất cả loài chúng sinh để mang lại sự an vui cho mình, cho người và cho mọi loài.

Tính hung ác là tính xấu xa, là tính hay làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sinh, vì thế chúng ta nên từ bỏ, xa lìa những tính hung ác ấy, phải sống hiền lành đối với mọi người, mọi loài chúng sinh.

Trả lời câu hỏi 2:

“Thêm vào đó, quyền thế và địa vị của ông, có thể giúp ông thủ tiêu những tội ác trước pháp luật”. Câu này chỉ rõ người nào dựa vào quyền thế và địa vị để làm hại người khác mà pháp luật không làm gì ông ta được.

Đó là một hành động THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Thường ở đời, người nào có quyền thế và có địa vị đều lợi dụng vào đó hiếp đáp làm hại người yếu đuối thế cô, cướp đoạt của cải tài sản của người khác làm những điều tội ác, họ là những người hung dữ ác độc; họ là những người không biết thương ai cả. Những người hung dữ này thường làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Họ là những người vô đạo đức hiếu sinh.

Trả lời câu hỏi 3:

“Chưa một lời phải nào, một đạo giáo nào cảm hóa được ông”. Câu này chỉ rõ ông hoàng là người cố chấp, dựa vào quyền thế, sự giàu sang của mình và cho mình hơn mọi người, trong đời này không ai bằng mình, người nghĩ như vậy là người THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Đoạn kinh này nói lên một người hung ác vô đạo đức hiếu sinh, cố chấp cứng đầu như ông hoàng này thì không một lời nói phải nào, không một đạo giáo nào cảm hóa và giáo dục được ông. Đó là chỉ rõ ông là một người vô đạo đức hiếu sinh, sống trong vô minh cố chấp, cứng đầu. Một bản ngã to lớn, cho rằng trên cuộc đời này luôn luôn chỉ thấy có mình, chẳng thấy có ai khác nữa, xem bầu trời nhỏ như miệng giếng.

Người nào còn mang bản tính kiêu mạn là người còn đầy đủ tánh hung ác, là người chưa biết thương mình, thương người, thường làm khổ mình, khổ người.

Lòng còn ganh tị hơn thua là còn bản ngã; lòng còn tức giận là còn bản ngã; lòng còn nói xấu, vu khống, mạ lị, mạt sát người khác là còn bản ngã. Người nào còn bản ngã là chưa có lòng yêu thương thật sự. Những người này còn phải học hỏi đạo đức hiếu sinh nhiều nữa, nếu cố chấp không chịu học đạo đức thì họ chỉ là một con thú vật hung dữ mà thôi.

Trả lời câu hỏi 4:

“Một hôm, ông gặp Phật khi Phật du hóa xứ này. Mới nhìn thấy đức Phật, lòng ông bỗng cảm phục như voi dữ trước người quản tượng”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH TỪ TRƯỜNG, tức là đức từ bi của đức Phật phóng xuất phủ trùm muôn phương, khiến con người kiêu căng ngã mạn cố chấp như ông hoàng này đều bị nhiếp phục trong từ trường thiện của đức Phật. Bởi vậy, khi chúng ta thực hiện lòng yêu thương mọi hướng thì từ trường thiện phóng xuất khắp mọi nơi, khi gặp tất cả các ác pháp thì từ trường thiện đó sẽ nhiếp phục chuyển hóa ác pháp, bằng chứng cụ thể rõ ràng, khi ông hoàng thành La Phiệt gặp Phật, đức Phật chưa nói một lời nào mà từ trường thiện của Phật đã nhiếp phục ông ta như con voi gặp người quản tượng.

Đoạn kinh này nói rất rõ, từ trường lòng yêu thương sẽ nhiếp phục các ác pháp bên ngoài lẫn các ác pháp bên trong nội tâm của chúng ta, như tâm tham, sân, si, mạn, nghi đều bị từ trường hiếu sinh này nhiếp phục.

Cho nên đạo đức hiếu sinh có công năng rất lớn, vì thế ở đâu có đạo đức hiếu sinh chân thật thì ở đó có tâm ly dục, ly ác pháp; ở đâu có đạo đức hiếu sinh chân thật thì ở đó có sự bình an, yên vui; ở đâu có đạo đức hiếu sinh chân thật thì ở đó có sự tha thứ và yêu thương. Đạo đức hiếu sinh sẽ đem lại sự bình an cho mọi người, mọi loài trên hành tinh này, vì từ trường của đức hiếu sinh rất vĩ đại.

Vậy chúng ta hãy tập sống thương yêu như đức Phật.

Trả lời câu hỏi 5:

“Hãy tưởng niệm Phật đà, hãy tư bi thương người, hãy hùng lực cứu người”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH rất cụ thể và rõ ràng. Ở đây, niệm Phật không cần niệm hồng danh Phật, mà chỉ cần lòng yêu thương mọi người, thương sự sống của chúng sinh là niệm Phật rồi.

Đọc qua lời dạy trên đây, chúng ta mới thấy lời dạy của đức Phật thấm thía làm sao! Ai niệm Phật là niệm lòng yêu thương bằng ý hành, bằng thân hành, bằng khẩu hành đối với tất cả những người khác.

Ví dụ 1: Khi có người chửi mắng mình mà mình thương yêu người ấy, đó là một việc làm rất khó, khó là chỗ không sân giận chửi mắng lại, im lặng như Thánh mà còn đầy lòng tha thứ cho những người hung dữ đó.

Người nào làm được như vậy là người đang niệm Phật; là người đang sống trong đức hiếu sinh ý hành.

Ví dụ 2: Cứu giúp một người bị tai nạn, cứu một con cá mắc câu, thả một vật sắp bị giết, người nào làm được như vậy là người đang niệm Phật; là người đang sống trong đức hiếu sinh thân hành.

Ví dụ 3: Người nào không nói dối, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung dữ, không nói xấu người, thường khuyên người khác làm điều lành, nói lời ái ngữ, v.v... dó là người đang sống trong đức hiếu sinh khẩu hành. Người nào không nghiện ngập rượu chè, cà phê, thuốc lá, thuốc lào, cờ bạc, cá cược, v.v... là người đang sống trong đức hiếu sinh thân hành. Chính họ là người đang niệm Phật. Niệm Phật như vậy mới đúng lời Phật dạy.

Trả lời câu hỏi 6:

“Ông cung kính vâng lời. Nhưng khi về đến nhà, vừa thấy người hành khất chướng mắt. Ông liền đùng đùng nổi giận. Lời vàng của Phật không còn trong lòng ông nữa, khi ông toan đánh đuổi người ấy”. Đoạn này nói lên sự THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Ông hoàng quên niệm Phật, khi thấy người hành khất ngồi trước nhà ông là ông phát nổi chướng, tức giận đùng đùng, dó là thiếu đức hiếu sinh ý hành. Thiếu đức hiếu sinh ý hành là quên niệm Phật. Bởi vậy, niệm Phật là niệm đức hiếu sinh; niệm đức hiếu sinh tức là niệm Phật. Như vậy người nào niệm Phật mà niệm danh hiệu đức Phật là người niệm Phật không đúng lời dạy của Phật. Đọc qua đoạn kinh này chúng ta thấy rất rõ ràng: Người nào sống trong lòng yêu thương đối với mọi người, với mọi loài chúng sinh là người niệm Phật.

Trả lời câu hỏi 7:

“Bỗng sực nhớ lại hình dáng từ nghiêm của Phật, ông liền dịu lại, như khi bố thí chút đỉnh gì”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH rất rõ ràng. Khi chúng ta đang tức giận một người nào mà bỗng nhớ đến đức hiếu sinh là phải thương mình, thương người và thương tất cả chúng sinh, dó là đang sống trong đức hiếu sinh ý hành.

Khi nghĩ như vậy, tâm chúng ta liền không giận dữ mà khởi lòng thương người, đó là ta đang niệm Phật, là ta đang sống trong đức hiếu sinh ý hành. Câu này dạy áp dụng thực hành đức hiếu sinh khởi lòng yêu thương rất thực tế và rất hay: “Bỗng sực nhớ lại hình dáng từ nghiêm của Phật, ông liền dịu lại, như khi bố thí chút đỉnh gì”. Nhớ đến Phật hình dáng nghiêm từ. Câu này dạy đức hiếu sinh ý hành tuyệt vời.

“Ông liền dịu lại, như khi bố thí chút đỉnh gì”. Câu này dạy đức hiếu sinh thân hành rất hay. Tâm vừa dừng tức giận, phiền não thì đức hiếu sinh ý hành hiện ngay tại đó.

Trong lúc chúng ta đang tức giận hay phiền não, bỗng có một ý suy nghĩ khởi lên thương mình: “Mình đang bị dục nên mê mờ, vô minh thúc đẩy tạo tác nhân quả ác khiến tự mình làm khổ mình”. Khi ý nghĩ khởi lên như vậy tức là đức hiếu sinh ý hành.

Đoạn kinh trên dạy thực hành đức hiếu sinh rất tuyệt vời, khi đức hiếu sinh ý hành hiện ra: “Nhớ đến lòng từ của đức Phật”, thì liền ngay đó đức hiếu sinh thân hành hiện ra: “Thương yêu bố thí giúp cho người hành khất”. Đoạn kinh này cũng xác định chỉ rõ ràng có hai đức hiếu sinh cùng sinh ra một lượt, hễ có hiếu sinh ý hành, thì có hiếu sinh thân hành.

Trả lời câu hỏi 8:

“Tối hôm đó, vợ ông lấy làm lạ, gạn hỏi đầu đuôi. Ông bèn tuần tự thuật lại. Nhơ thuật lại, ông nhớ lại rõ ràng hình dung đức Phật và lời Ngài dạy” . Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH, Ý HÀNH làm thay đổi một người hung dữ trở thành người hiền lành, biết thương người bằng cách tư duy suy nghĩ những lời Phật dạy. Đoạn kinh này dạy niệm Phật rất hay, khi làm một việc lành nào là niệm Phật; khi biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trước các ác pháp, trước một người ác là niệm Phật. Người đầy lòng yêu thương tất cả sự sống trên hành tinh này là người niệm Phật. Niệm Phật ở đây không giống như niệm Phật theo kinh sách phát triển. Niệm Phật theo kinh phát triển là niệm Phật ức chế tâm diệt hết vọng tưởng:

“Thất nhựt nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật”. Còn ở đây niệm Phật là niệm lòng yêu thương của chúng ta với tất cả sự sống trên hành tinh này, tức là chúng ta sống với đức hiếu sinh biết thương mình, thương người và thương tất cả những loài vật khác, biết tha thứ mọi người, mọi loài làm chúng ta khổ đau. Đó là niệm Phật.

Muốn thực hiện lòng thương yêu như vậy thì chỉ có sự tư duy theo đạo đức hiếu sinh mà chúng ta đang theo học.

Trả lời câu hỏi 9:

“Đêm hôm ấy, ông suy nghĩ mông lung, ông nghĩ: Nhớ Phật phải nhớ đến người nghèo khổ, tưởng Phật phải tưởng đến người nghèo khổ”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Muốn thực hiện đức hiếu sinh thì phải tư duy như lời Phật đã dạy: “Nhớ Phật phải nhớ đến người nghèo khổ, tưởng Phật phải tưởng đến người nghèo khổ”. Phật dạy quá rõ ràng, chỉ có lòng yêu thương người nghèo khổ là nhớ đến Phật. Bởi người nào sống với lòng yêu thương là đang sống như Phật, nên gọi là niệm Phật.

Sự tư duy lại những lời Phật dạy là người đang sống với đức hiếu sinh ý hành. Cho nên lời dạy trong đoạn kinh này là dạy đạo đức hiếu sinh ý hành rất tuyệt vời.

Theo như lời Phật dạy, chúng ta luôn luôn phải tư duy để sống với lòng yêu thương của mình đối với muôn loài, sự tư duy ấy chính là chúng ta đang niệm Phật. Đang niệm Phật là đang sống trong tình thương bao la rộng lớn của đức Phật. Người tu theo Phật giáo phải lấy đức hiếu sinh làm pháp xả tâm tham, sân, si, mạn, nghi, đó là pháp môn xả tâm tuyệt vời nhất, nhờ đó tâm mới ly dục, ly ác pháp hoàn toàn.

Trả lời câu hỏi 10:

“Rồi mới sáng, ông đi tìm Phật. Giữa đường, ông gặp một người hành khất ốm liệt bên vệ đường. Không suy nghĩ, ông đến ân cần hỏi han và dốc hết tiền trong túi ra cho.

Người ấy e sợ cám ơn rối rít”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH. Từ khi gặp Phật, tư duy những lời Phật dạy, ông hoàng đã trở thành người đạo đức hiếu sinh, mang lòng yêu thương đến với mọi người, gặp ai nghèo khó, bệnh tật là ông sẵn sàng giúp đỡ và an ủi liền.

Một ý nghĩ thương yêu người, vật đến cỏ cây, đất đá, núi sông, hồ ao, v.v... đều là đức hiếu sinh thể hiện qua ý hành; một lời nói ái ngữ khuyên bảo, an ủi ai đó làm điều lành cũng là đức hiếu sinh khẩu hành; một hành động ra tay cứu vớt người, vật, dù là giúp một côn trùng thoát chết khỏi một đàn kiến, hoặc vớt một con kiến khỏi vũng nước, đó đều là đức hiếu sinh thân hành. Nếu hằng ngày chúng ta đều có những hành động thân, miệng, ý thương yêu và tha thứ mỗi lỗi lầm, biết tránh không làm tổn hại sinh mạng sống chúng sinh, không làm đau khổ cho người khác loài vật khác. Đó là đạo đức hiếu sinh thân hành, ý hành và khẩu hành.

Trả lời câu hỏi 11:

“Vì tưởng nhớ Phật nên tôi giúp anh. Anh nhận tiền này khiến tôi được phước, thế la tôi ơn anh chứ nào anh ơn gì tôi?” Câu này đức Phật dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH tuyệt vời! Khi nhớ đến Phật là chúng ta nhớ đến những người nghèo khổ, vì thế mang tiền đến giúp đỡ những người nghèo khó, đó là đức hiếu sinh ý hành thứ nhất. Khi mang tiền đến cho người khác để họ vui vẻ nhận tiền bạc mình cho mà không bị mặc cảm. Muốn được vậy mình phải nói như thế nào? “Anh nhận tiền của tôi giúp anh là tôi được phước, vì vậy tôi mang ơn anh mới phải, chứ nào anh có ơn gì tôi mà anh sợ”. Bố thí mà nói được lời như vậy thật là hay tuyệt.

Lời nói này là đạo đức hiếu sinh khẩu hành.

Cho nên lòng yêu thương của chúng ta đi khắp cùng mọi hướng. Hễ đức hiếu sinh ý hành có thì đức hiếu sinh khẩu hành và thân hành có. Đó là ba nơi xuất phát đức hiếu sinh. Đồng thời ba nơi xuất phát đức hiếu sinh thì đức hiếu sinh ở nơi đâu cũng có. Đức hiếu sinh ở đâu cũng có thì không có các ác pháp nào tác đọng được tâm người đó. Người nào đã sống với đức hiếu sinh như vậy thì họ đã diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp dễ dàng. Họ là người chứng đạo.

Trả lời câu hỏi 12:

“Bỗng nhiên người ấy cất tiếng niệm:

“NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT ” (kính lễ đấng giác ngộ). Ông hoàng cũng bất giác niệm theo”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Niệm Phật tức là niệm lòng yêu thương của mình. Người bố thí cho người nghèo khổ là người niệm lòng yêu thương của mình, người được bố thí cũng là niệm lòng yêu thương. Mỗi mỗi người đều niệm lòng yêu thương thì thế gian này là Thiên Đàng, Cực Lạc, loài người và muôn vật sẽ sống được an vui, hạnh phúc biết bao! Đức hiếu sinh ở đâu thì ở đó có sự bình an và yên vui vô cùng, vô tận.

Trả lời câu hỏi 13:

“Phải! Niệm Phật ông phải tưởng niệm người nghèo khó là để giúp đỡ họ. Tưởng niệm người nghèo khó là để giúp đỡ họ la tưởng niệm Phật đó”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Phật dạy một phương pháp niệm Phật rất tuyệt vời: “Niệm Phật ông phải tưởng niệm người nghèo khó là để giúp đỡ họ. Tưởng niệm người nghèo khó là để giúp đỡ họ la tưởng niệm Phật đó”. Niệm Phật như vậy mới gọi là niệm Phật. Niệm Phật là niệm hành động thương yêu người giúp đỡ cho những người nghèo khổ.

Muốn giải thoát ra khỏi nhà sinh tử luân hồi thì chỉ có đức hiếu sinh là pháp độc nhất giúp chúng ta ra khỏi sông mê, bể khổ của cuộc đời này vậy.

 

HẾT TẬP I

MỤC LỤC

Đức Hiếu Sinh (tập 2)

LỜI NÓI ĐẦU

Sau ba tháng học tập và rèn luyện nhân cách đạo đức hiếu sinh, các tu sinh đã làm quen dần với lối tu tập mới mẻ. Nếu thật tâm một người quyết chí tu hành để tìm cầu sự giải thoát, thì lối tu học này được truyền đạt từ giảng viên đến học viên để thấm nhuần đạo đức mỗi ngày một ít.

Nhưng nhờ nhiều ngày cắp sách đến lớp học tập và trau dồi thân tâm bằng phương pháp thực hành đạo đức hiếu sinh, thì trong một năm, đạo đức hiếu sinh sẽ trở thành con người, con người sẽ trở thành đạo đức hiếu sinh. Chừng đó tu sinh không còn tu pháp nào nữa, vì đã giải thoát, tâm vô lậu thật sự. Được như vậy, tu sinh đã chứng đạo một cách dễ dàng.

Những mẩu chuyện có tính đạo đức nhân bản - nhân quả cao được chúng tôi trích dẫn từ kinh sách Phật, từ sách Tâm Hồn Cao Thượng của Hà Mai Anh dịch từ Pháp ngữ ra Việt ngữ, sách Hạt Giống Tâm Hồn của nhiều tác giả do First News tổng hợp và biên dịch, và những tin tức xảy ra khắp nơi trên thế giới và trong nước do báo Công An, báo Thanh Niên, báo An Ninh Thế Giới, v.v... Nhờ đó, chúng tôi làm tài liệu biên soạn bộ sách đạo đức này.

Mong quý tác giả trong các sách cũng như trong các báo vui lòng cho phép chúng tôi được trích dẫn tác phẩm của các vị, để hoàn thành bộ sách Giáo án dạy đạo đức nhân bản - nhân quả theo giới luật đức hạnh của Phật giáo, để đưa đạo đức Phật giáo vào đời sống với những bài học thực tế đời thường của loài người.

Cuối cùng, chúng tôi xin thành kính tri ân tất cả các tác giả và mọi người đã giúp chúng tôi hoàn thành bộ sách đạo đức làm người, để làm lợi ích cho loài người trên hành tinh này.

Kính ghi

Tu Viện Chơn Như

ĐỨC BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ thực, dưới cội cây tại tu viện Chơn Như.

Bài học thứ 26: THẦY GIÁO MỚI

Tưởng thế, chứ thầy giáo mới của chúng tôi đã khéo làm xứng ý mọi người ngay sáng hôm nay.

Giờ vào học, sau khi thầy đã ngồi vào bàn, chốc chốc lại thấy một người học trò cũ qua cửa cúi chào. Cũng có người vào bắt tay thầy và thăm hỏi một cách rất cung kính. Đủ biết học trò cũ cũng quyến luyến thầy biết dường nào, và như muốn còn được ở gần thầy.

Nhưng chào thì chào, bắt tay thì bắt tay, thầy không nhìn thẳng vào mắt ai, cứ lảng trông ra cửa sổ. Những dấu thân ái và biết ơn ấy tưởng đã làm cho thầy thỏa ý, nhưng trái lại, đã khiến thầy càng mủi lòng.

Đến bài chính tả, thầy xuống bục, đi đi lại lại trong các hàng ghế, đọc cho chúng tôi viết. Thấy một học trò mặt lấm tấm mụn đỏ, thầy ngừng đọc, lại gần lấy tay sờ trán và hỏi: “Con làm sao?”. Thừa lúc thầy quay lưng lại, một anh học trò bàn dưới leo lên ghế, vung vẩy như người trượt băng. Bất đồ, thầy ngoảnh lại bắt gặp, anh chàng vội ngồi ngay xuống, cúi đầu đợi phạt. Nhưng ông Perbôni khẽ đập vào vai anh học trò dại dột kia, bảo rằng: “Không được làm thế nữa!”. Có thế thôi. Rồi thầy bình tĩnh về chỗ đọc nốt bài chính tả.

Khi viết xong, thầy yên lặng nhìn chúng tôi một lúc, rồi ôn tồn nói:

- Các con ơi! Hãy nghe thầy! Chúng ta cùng nhau trải qua một năm học. Chúng ta nên hết sức làm việc để qua năm ấy cho được tốt đẹp. Phải chăm chỉ! Phải ngoan ngoãn! Thầy không có gia đình, các con là gia đình của thầy. Năm ngoái, mẹ thầy còn, bây giờ người đã khuất. Thầy chỉ còn có một mình thầy. Ngoài các con ra, ở trên đời này thầy không còn có ai nữa; ngoài sự thương yêu các con, thầy không còn thương yêu ai hơn nữa.

Các con ví như con thầy. Thầy sẽ yêu dấu các con. Đáp lại, các con phải yêu dấu thầy. Thầy không muốn phạt một người nào cả. Các con phải tỏ ra là những đứa trẻ có tâm hồn.

Trường ta sẽ là một gia đình, các con sẽ là mối an ủi, mối tự hào của thầy. Thầy không cần phải hỏi lại các con, vì thầy tin rằng trong lòng các con, ai ai như cũng “vâng lời”, nên thầy có lời cảm ơn các con.

Thầy nói dứt lời thì người coi trường vào báo hết giờ học. Chúng tôi yên lặng xuống sân. Anh học trò vô lễ ban nãy rón rén lại gần thầy giáo, nói run run:

- Thưa thầy, xin thầy tha lỗi cho con.

Thầy gật đầu, hôn trán anh và bảo:

- Tốt lắm! Cho con về.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: “Tưởng thế, chứ thầy giáo mới của chúng tôi đã khéo làm xứng ý mọi người ngay sáng hôm nay”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 2: “Giờ vào học, sau khi thầy đã ngồi vào bàn, chốc chốc lại thấy một người học trò cũ qua cửa cúi chào”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 3: “Cũng có người vào bắt tay thầy và thăm hỏi một cách rất cung kính”.

Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 4: “Đủ biết học trò cũ cũng quyến luyến thầy biết dường nào, và như muốn còn được ở gần thầy”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 5: “Nhưng chào thì chào, bắt tay thì bắt tay, thầy không nhìn thẳng vào mắt ai, cứ lảng trông ra cửa sổ. Những dấu thân ái và biết ơn ấy tưởng đã làm cho thầy thỏa ý, nhưng trái lại, đã khiến thầy mủi lòng”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 6: “Đến bài chính tả, thầy xuống bục, đi đi lại lại trong các hàng ghế, đọc cho chúng tôi viết”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 7: “Thấy một học trò mặt lấm tấm mụn đỏ, Thầy ngừng đọc, lại gần lấy tay sờ trán và hỏi: “Con làm sao?”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 8: “Thừa lúc thầy quay lưng lại, một anh học trò bàn dưới leo lên ghế, vung vẩy như người trượt băng”. Câu này dạy thiếu đạo đức gì?

Câu hỏi 9: Nhưng ông Perbôni khẽ đập vào vai anh học trò dại dột kia, bảo rằng: “Không được làm thế nữa!”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 10: “Có thế thôi. Rồi thầy bình tĩnh về chỗ đọc nốt bài chính tả”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 11: “Khi viết xong, thầy yên lặng nhìn chúng tôi một lúc rồi ôn tồn nói”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 12: “Các con ơi! Hãy nghe thầy! Chúng ta cùng nhau trải qua một năm học. Chúng ta nên hết sức làm việc để qua năm ấy cho được tốt đẹp. Phải chăm chỉ! Phải ngoan ngoãn!” Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 13: “Thầy không có gia đình. Các con là gia đình của thầy”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 14: “Năm ngoái, mẹ thầy còn, bây giờ người đã khuất. Thầy chỉ còn có một mình thầy”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 15: “Ngoài các con ra, ở trên đời này thầy không còn có ai nữa; ngoài sự thương yêu các con, thầy không còn thương yêu ai hơn nữa. Các con ví như con thầy. Thầy sẽ yêu dấu các con. Đáp lại, các con phải yêu dấu thầy”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 16: “Thầy không muốn phạt một người nào cả. Các con phải tỏ ra là những đứa trẻ có tâm hồn”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 17: “Trường ta sẽ là một gia đình, các con sẽ là mối an ủi, mối tự hào của thầy”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 18: “Thầy không cần phải hỏi lại các con, vì thầy tin rằng trong lòng các con, ai ai như cũng “vâng lời”, nên thầy có lời cảm ơn các con”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 19: “Chúng tôi yên lặng xuống sân. Anh học trò vô lễ ban nãy rón rén lại gần thầy giáo, nói run run”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 20: “Thưa thầy, xin thầy tha lỗi cho con”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 21: “Thầy gật đầu, hôn trán anh và bảo”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 22: “Tốt lắm! Cho con về”. Câu này dạy đạo đức gì?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

Tưởng thế, chứ thầy giáo mới của chúng tôi đã khéo làm xứng ý mọi người ngay sáng hôm nay”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ HIẾU SINH TÙY THUẬN Ý HÀNH LÀM VUI LÒNG NGƯỜI, VUI LÒNG MÌNH.

Thường ở đời, muốn không làm khổ mình, khổ người thì lúc nào chúng ta cũng nhớ nằm lòng lời dạy: “ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ HIẾU SINH TÙY THUẬN Ý HÀNH LÀM VUI LÒNG NGƯỜI, VUI LÒNG MÌNH”. Dù đứng trước những đối tượng thô lỗ, kém văn hóa, hung bạo, dữ tợn, độc ác, họ làm đủ mọi cách chướng ngại gì thì chúng ta chỉ biết duy nhất phải giữ gìn LÒNG THƯƠNG YÊU TÙY THUẬN Ý HÀNH LÀM VUI LÒNG NGƯỜI, VUI LÒNG MÌNH. Thì tất cả các chướng ngại pháp ấy sẽ không còn nữa.

Đứng trước các ác pháp và các chướng ngại pháp chúng ta hãy biết vui lòng, hãy biết tha thứ và thương yêu, chứ đừng biết giận hờn, oán ghét, phiền não, v.v.. Có làm được như vậy mới gọi là người sống “ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ HIẾU SINH TÙY THUẬN Ý HÀNH LÀM VUI LÒNG NGƯỜI, VUI LÒNG MÌNH”.

Người nào sống được với ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ HIẾU SINH TÙY THUẬN Ý HÀNH LÀM VUI LÒNG NGƯỜI, VUI LÒNG MÌNH, thì người ấy phải có một tâm hồn cao thượng; phải là người đệ tử chân chính của Phật giáo; phải là người chứng đạt chân lí; phải là người thành tựu đạo đức hiếu sinh trọn vẹn; phải là người tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

Trả lời câu hỏi 2:

Giờ vào học, sau khi thầy đã ngồi vào bàn, chốc chốc lại thấy một người học trò cũ qua cửa cúi chào”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ LỄ ĐỘ HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Trong cuộc đời này, không có những hình ảnh đạo đức nào rõ nét bằng cuộc giao tiếp hằng ngày với mọi người qua hành động “ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ LỄ ĐỘ HIẾU SINH THÂN HÀNH”. Đó là một hành động biết cung kính tôn trọng mình, cung kính tôn trọng người, gieo vào lòng người một tình cảm sâu sắc khó quên. Đó là một nét đẹp văn hóa loài người, dù con người có ở Đông, Tây, Nam, hay Bắc đều phải chấp nhận, trong đời sống hằng ngày giao tiếp với nhau không thể thiếu được.

Bởi vậy, trong đạo đức hiếu sinh thân hành thì chỉ có đạo đức nhân quả lễ độ khiêm hạ là tuyệt vời nhất, nó là một phương pháp diệt ngã xả tâm, khiến cho tính kiêu căng ngã mạn của chúng ta không còn nữa.

Hình ảnh đẹp đẽ nhất của người Đông phương nói chung, của người Việt Nam nói riêng là “tôn sư trọng đạo”. Đó là học trò biết ơn thầy, nhớ ơn thầy, dù một chữ hay nửa chữ cũng là thầy. Cho nên hình ảnh ở đây:

“Chốc chốc lại thấy một người học trò cũ qua cửa cúi chào thầy”. Đoạn này nói lên hình ảnh tôn sư trọng đạo đẹp đẽ vô cùng. Nhưng đời nay đạo đức xuống cấp, học trò đánh thầy, học trò phần đông là quên ơn thầy, chưa ra khỏi Tu Viện đã nói lời bạc ơn thầy bằng cách này hay bằng cách khác. Cho nên làm một vị thầy thường phải mở rộng lòng tha thứ: “Những buổi chiều tà mưa phủ trắng, thầy cười tha thứ kẻ vong ân”. Thì đó cũng là một “ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ HIẾU SINH VỊ THA Ý HÀNH MỌI LỖI LẦM”. Đúng vậy, một “ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ HIẾU SINH VỊ THA Ý HÀNH” đã đem lại sự bình an cho thầy và cho những người học trò vong ân của mình.

Bởi vì thời nay, học trò không tu học giới luật đức hạnh, mà chỉ lo tu tập thiền định để chứng đạo, để làm Thánh, Hiền, Tiên, Phật, v.v... hoặc ngồi thiền 5, 7 ngày, hoặc 5, 10 tháng không ăn uống, để làm cho mọi người kinh sợ kính nể; để thể hiện thần thông Tam Minh, Lục Thông, làm cho mọi người khiếp đảm. Những lỗi này không phải của học trò, mà của những vị thầy dạy đạo. Cứ lấy thiền định gợi lòng tham đắm của những người ham mê thiền định mà chưa biết thiền định của Phật giáo là gì? Cứ dựa vào thiền định của ngoại đạo ức chế tâm cho hết niệm khởi, đó là một loại thiền tưởng, một loại thiền mê hoặc con người bằng hình tướng ngồi bất động để rơi vào một thế giới ảo tưởng, do từ tưởng uẩn lưu xuất, mà từ xưa đến nay các vị đạo sư và các thiền sư đều cho đó là chứng đạo. Chứng đạo theo kiểu này có ích lợi gì cho loài người đâu, xin quý vị lưu ý: đừng để bị người khác lừa đảo bằng những pháp môn tà giáo, làm phí uổng hết một đời người.

Quý vị hãy chọn những giới luật đức hạnh của Phật mà tu tập, nó có lợi ích rất lớn cho mình. Như quý vị đều biết, giới luật đức hạnh là những pháp môn rất gần gũi với mọi người, khiến cho người tu tập có một tâm hồn cao thượng, không làm khổ mình, khổ người.

Còn những pháp môn tu hành cao siêu, kỳ đặc, tạo nên những trạng thái ảo tưởng, hoặc hiện ra những phép thuật cao siêu, đó là những tà pháp. Nên có một số người dùng nó để dễ dàng lừa đảo mọi người, khiến cho hằng vạn triệu người tu hành theo Phật giáo mà tâm ham muốn vẫn còn thì đều lầm đường lạc lối, tu hành sai pháp.

Vì thế, cách đây hơn 2500 năm qua chưa thấy có ai tu chứng quả giải thoát A La Hán, phần nhiều đều bị chìm đắm trong danh lợi tôn giáo thật đáng thương! Vậy những lỗi lầm ấy thuộc về học viên hay là giảng viên dạy đạo? Chính hôm nay, thầy đã thấy được lỗi của mình dạy cho những tu sinh thực hành pháp thiền định, còn giới luật đức hạnh chỉ nhắc nhở mà thôi, cuối cùng không có tu sinh nào nghiêm trì giới luật được, nên thầy cố gắng vượt lên sóng gió Chơn Như để dựng lại chánh pháp của Phật giáo, triển khai nền đạo đức giới luật nhân bản - nhân quả để khắc phục những lỗi lầm của mình đã làm mất thì giờ của tu sinh.

Khi hướng dẫn tu sinh tu hành, thầy nghĩ rằng tu sinh sẽ giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh như thầy, nhưng không ngờ, nên thầy chuyển biến Phật pháp thành chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản - nhân quả theo từng lớp, từ thấp đến cao, truyền đạt những tư tưởng đạo đức nhân bản - nhân quả. Nhờ đó những tu sinh của thầy sẽ là những nhà đạo đức, thì đâu còn: “Những buổi chiều tà mưa phủ trắng, thầy cười tha thứ kẻ vong ân”. Phải không các tu sinh?

Trả lời câu hỏi 3:

Cũng có người vào bắt tay thầy và thăm hỏi một cách rất cung kính”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ LỄ ĐỘ HIẾU SINH THÂN HÀNH tuyệt vời.

Vì lễ độ là một đạo đức làm người không thể thiếu được, cho nên chúng ta là những đệ tử của Phật thì luôn luôn phải gắn liền với hành động đạo đức lễ độ này trong cuộc sống.

Nhất là hành động “ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ LỄ ĐỘ HIẾU SINH THÂN HÀNH” đối với vị thầy đang dạy đạo đức cho mình, chúng ta càng phải thực hiện lòng cung kính, tôn trọng và biết ơn sâu sắc đối với người đứng lớp đầu tiên dạy đạo đức nhân bản - nhân quả. Vì là lớp học đầu tiên, nên giảng viên gặp biết bao nhiêu sự khó khăn, trở ngại. Những kinh sách và giới luật; những bài thuyết giảng của các sư thầy là những giáo trình thuyết giảng chung chung, không thể đưa vào chương trình giáo dục đào tạo của các lớp học thực tu, thực chứng được. Cũng như học viên gặp biết bao nhiêu trở ngại từ sự tu tập cũ, để chuyển mình qua sự học và tu tập mới mẻ. Nó không phải là một chương trình học tập văn hóa thông thường ở các trường học ngoài đời, mà là một hành động tu tập bằng triển khai tri kiến đạo đức nhân bản - nhân quả hiếu sinh thân hành, khẩu hành và ý hành.

Chương trình học và tu tập này là một chương trình rèn luyện và thực hành nhân cách thân, khẩu, ý. Hằng ngày phải sống đúng đạo đức hiếu sinh mà đã được học tập ở trên, chứ không phải như học văn hóa, chỉ học hiểu và làm bài không lạc đề là có điểm.

Cho nên việc rèn luyện đạo đức để trở thành người đạo đức đòi hỏi người học viên phải rèn luyện tu tập hằng ngày bằng ý hành, bằng thân hành và bằng khẩu hành liên tục không lúc nào ngơi nghỉ, chỉ trừ lúc ngủ mà thôi.

Bài học trên đây là bài học được rút ra từ tập sách Tâm Hồn Cao Thượng của nhà văn EDMONDO DE AMICIS người Ý, do Hà Mai Anh dịch từ Pháp ngữ ra Việt ngữ, là bộ sách đạo đức được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Nhưng đạo đức này dạy như vậy chỉ là những mẩu chuyện đạo đức hay, đẹp, mà thiếu sự học tập đào tạo, rèn luyện thực tế vào bản thân của mỗi học viên; thiếu sự áp dụng thực hành vào đời sống hằng ngày. Vì thế sách ra đời đã quá lâu, nhưng đạo đức con người thì ngày càng xuống cấp.

Bắt tay chào hỏi là lễ độ thân thiện của người Tây phương, cho nên trong đoạn văn này dạy rất rõ: “Bắt tay thầy và thăm hỏi một cách rất cung kính”. Đó là hành động của người học trò tỏ lòng biết ơn công lao dạy dỗ của thầy. Hành động này được xem là một hành động đạo đức hiếu sinh tôn kính lễ độ thân hành.

Biết ơn thầy học là một ơn nghĩa mà người học trò có đạo đức nào cũng không bao giờ quên. Người học đạo đức nhân bản - nhân quả thì “ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ LỄ ĐỘ HIẾU SINH THÂN HÀNH” luôn luôn phải gắn liền trong đời sống, không bao giờ lìa xa nó, vì nó là một hình ảnh đạo đức đẹp đẽ cao cả, cụ thể rõ ràng, mà người đời ai ai cũng có thể nhận ra được người có lễ độ hay không lễ độ một cách dễ dàng.

Trả lời câu hỏi 4:

Đủ biết học trò cũ cũng quyến luyến thầy biết dường nào, và như muốn còn được ở gần thầy”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Qua những sự bắt tay chào hỏi, thầy đã cảm thấy sự quyến luyến của những học trò cũ của mình không muốn xa thầy. Nó đã nói lên tình nghĩa thấm thía giữa thầy trò gắn bó như keo sơn, trong những năm tháng học tập bên nhau. Đúng vậy, trên đời này chỉ có sống đạo đức hiếu sinh mới có tình thương chân thật đối xử với nhau.

Bởi vậy càng học đạo đức, chúng ta mới càng nhận thấy lòng yêu thương sẽ mang lại sự bình an cho mình, cho người. Mà con người lúc nào cũng cần đạo đức đó như cơm ăn, áo mặc hằng ngày. Nếu thiếu nó, chúng ta như thây ma chết mà chưa chôn.

Bởi vậy, chỉ có đạo đức hiếu sinh mới đem lại cho con người một sự sống yên vui, bình an; mới đem lại cho con người một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự.

Biết như vậy, chúng ta hãy cố gắng trau dồi hằng ngày, rèn luyện ít nhất cũng phải sống cho được một hành động đạo đức hiếu sinh. Ngày nào cũng phải có tâm hồn sống yêu thương tất cả sự sống trên hành tinh này, thì thế gian này là Thiên đàng, Cực lạc, chừng đó chúng ta đâu cần phải đi tìm giải thoát nơi đâu xa nữa. Ngay đây, lòng hiếu sinh là cảnh giải thoát của Phật thì chúng ta còn tu tập pháp môn nào nữa. Phải không các tu sinh? Vì thế, khi nghe Phật thuyết pháp xong là các vị chứng quả A La Hán ngay liền. Tại sao chứng dễ dàng như vậy? Tại vì các Ngài hiểu thấu suốt lời Phật dạy, biết rõ các pháp là vô thường, là khổ, là vô ngã, không có pháp nào là của các Ngài cả. Cho nên các Ngài hiểu rõ câu: “Không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta”.

Như vậy trên đời này còn pháp nào là thường hằng đâu. Các Ngài còn hiểu rõ: muốn buông xả các pháp ấy thì chỉ có lòng từ, bi, hỷ, xả.

Lòng từ, bi, hỷ, xả tức là đức hiếu sinh. Đức hiếu sinh tức là lòng yêu thương tất cả sự sống của muôn loài trên hành tinh này, đó là lòng thương yêu nhiều hướng. Mà muốn thương yêu sự sống của muôn loài trên hành tinh này thì chỉ có xuất gia, sống đời sống ba y, một bát, cắt ái, li gia, lìa xa ái dục thì mới thực hiện được lòng yêu thương rộng lớn ấy.

Còn sống trong gia đình vợ con thì rất khó, nhưng vợ con đồng hiểu biết Phật pháp thì không khó.

Cho nên đức hiếu sinh rất vĩ đại về pháp thực hành, về sự rèn luyện nhân cách, vì nó rất rộng lớn vô cùng đối với các pháp.

Trả lời câu hỏi 5:

Nhưng chào thì chào, bắt tay thì bắt tay, thầy không nhìn thẳng vào mắt ai, cứ lảng trông ra cửa sổ. Những dấu thân ái và biết ơn ấy tưởng đã làm cho thầy thỏa ý, nhưng trái lại, đã khiến thầy mủi lòng”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH LỄ ĐỘ THÂN HÀNH CHUYỂN SANG Ý HÀNH CẢM XÚC một cách tuyệt vời.

Những hành động đạo đức hiếu sinh thân hành giữa thầy trò đã gợi lên một tình cảm sâu đậm trong những năm học tập, thầy trò gần gũi cùng sống bên nhau: “Nhưng chào thì chào, bắt tay thì bắt tay, thầy không nhìn thẳng vào mắt ai, cứ lảng trông ra cửa sổ.

Nhưng dấu thân ái và biết ơn ấy tưởng đã làm cho thầy thỏa ý”. Câu này chỉ hành động đạo đức hiếu sinh thân hành rất rõ ràng, và gợi lên một tình cảm sâu đậm trong tâm người thầy, càng làm cho thầy “MỦI LÒNG” thêm.

Thầy trò ở đây họ sống với tình thương chân thật, thầy truyền đạt cho học trò những tình thương của thầy, thầy thương học trò, học trò thương thầy, thật là thấm thía làm sao!!! Ước gì lớp học của chúng ta được như vậy, thầy ban tình thương của thầy với những học viên của mình, và học viên cũng cho lòng thương yêu tôn trọng, cung kính của mình đối với vị thầy. Nhất là chúng ta hiện giờ đang học lớp đạo đức hiếu sinh, thì tình thương thầy trò được gắn liền bên nhau, chia vui sẻ buồn cùng có với nhau thì tốt đẹp vô cùng.

Lớp học của chúng ta là lớp học đạo đức hiếu sinh, thầy lấy sự sống của học trò làm sự sống cho mình, học trò lấy sự sống của thầy làm sự sống cho mình thì lớp học của chúng ta thật tuyệt vời. Phải không các tu sinh? Trong lớp học là một đại gia đình, thầy như người cha, người mẹ, người anh, người chị và người bạn thân; còn học sinh là con, là em, là cháu, là bạn thân, là ông bà, là cô, bác, chú, v.v... Chúng ta vào tu viện tu hành học đạo đức cũng vậy, phải biết yêu thương nhau như người trong một nhà. Tình yêu thương ấy nó là đạo đức hiếu sinh. Trong đạo đức hiếu sinh có rất nhiều đức hiếu sinh như:

đức hiếu sinh nhẫn nhục, đức hiếu sinh tùy thuận, đức hiếu sinh bằng lòng, đức hiếu sinh sống trầm lặng, đức hiếu sinh độc cư, đức hiếu sinh sống ăn ngày một bữa, đức hiếu sinh sống không ngủ phi thời, đức hiếu sinh sống tĩnh giác chánh niệm, đức hiếu sinh sống với tâm vô lậu, đức hiếu sinh sống với tâm thanh thản, an lạc và vô sự, đức hiếu sinh sống với hơi thở ra và hơi thở vào, đức hiếu sinh sống với tâm không phóng dật, đức hiếu sinh sống với tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, đức hiếu sinh sống với tâm ly dục, ly ác pháp, v.v...

Bởi vậy đức hiếu sinh rộng lớn vô cùng, ở đâu cũng có nó. Cho nên một người sống với đức hiếu sinh thì tâm hồn của họ phủ trùm vạn hữu, tức là phủ trùm vũ trụ. Mà nếu sống với tình thương rộng lớn như vậy thì người ấy là Phật, phải không các tu sinh? Chúng ta muốn có lòng thương yêu rộng lớn như vậy thì ngay từ bây giờ phải học đạo đức hiếu sinh, và hằng ngày phải sống với lòng yêu thương chân thật mà mình đã học được trong những bài học đạo đức có nhiều ấn tượng, có nhiều cảm xúc.

Đời khổ do các ác pháp, các pháp vô thường, các pháp vô ngã; đời khổ là do các dục. Vậy muốn thoát khổ của các pháp vô thường và các dục thì chỉ có lòng yêu thương rộng lớn mới xả sạch.

Các đệ tử của Phật thuở xưa đều chứng quả A La Hán nhanh chóng là nhờ vào lòng yêu thương. Vậy chúng ta ngày nay cũng hiểu biết như vậy thì phải cố gắng rèn luyện nhân cách đạo đức hiếu sinh, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ thấm nhuần. Khi tâm đã thấm nhuần lòng yêu thương thì con đường giải thoát của Phật giáo ở ngay trước mắt chúng ta.

Trả lời câu hỏi 6:

Đến bài chính tả, thầy xuống bục, đi đi lại lại trong các hàng ghế, đọc cho chúng tôi viết”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ HIẾU SINH KHẨU HÀNH TRUYỀN ĐẠT VĂN HỌC.

Một hành động làm lợi ích, đem an vui cho người khác, loài vật khác là đạo đức hiếu sinh thân hành. Ở đây giáo viên đã đọc bài chính tả cho học sinh viết, đó là một hành động truyền đạt văn học cho học sinh, đem lại sự hiểu biết về ngôn ngữ, cú pháp, văn phạm. Một hành động đạo đức hiếu sinh khẩu hành của một giáo viên ở lớp học văn học rất bình thường, nhưng nó mang đầy đủ tình yêu thương giữa thầy và học trò, truyền đạt những sự hiểu biết cho nhau một cách chân tình.

Giờ văn học chỉ giúp cho học sinh biết ngôn ngữ chữ nghĩa để diễn đạt tư tưởng, để nói lên được tâm tư nguyện vọng của mình viết trên những trang giấy. Đó cũng là một đạo đức truyền đạt sự hiểu biết ngôn ngữ cho nhau. Nó đem lại sự ích lợi rất lớn cho con người, nhưng sự ích lợi này chưa lớn bằng sự ích lợi đem đạo đức truyền đạt vào tư tưởng con người, thì sự ích lợi này còn lớn gấp trăm ngàn lần. Vì vậy, đạo đức là môn học đem sự bình an cho loài người và muôn loài đang sống trên hành tinh này. Khi chúng ta được học đạo đức nhân bản - nhân quả hiếu sinh sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, nhờ đó chúng ta mới biết cách thức sống đem lại sự bình an, yên vui cho nhau, cho muôn loài, vạn vật. Cho nên môn học đạo đức này có một giá trị to lớn vô cùng, vô tận đối với loài người. Giá trị văn học đạo đức hiếu sinh gấp 100 lần, gấp 1.000 lần giá trị văn học ngôn ngữ. Một người dù có tài văn hay, chữ tốt, nhưng không có đức hạnh thì văn hay, chữ tốt ấy chỉ là một tai hại cho đời, như văn chương đồi trụy, nó cũng chẳng ích lợi gì cho ai, mà còn tai hại rất lớn cho đời! Có đúng như vậy không quý vị? Học được đạo đức hiếu sinh như vậy thì ơn của người giảng viên là đệ nhất, vì thế chúng ta phải tôn trọng và cung kính những người làm công tác truyền đạt tư tưởng đạo đức, đem lại sự bình an cho loài người trên hành tinh này.

Hôm nay chúng ta có đầy đủ phước báu, nên lớp học RÈN LUYỆN NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC NGŨ GIỚI được ra đời, mở cửa đón nhận chúng ta.

Được cắp sách đến lớp học đạo đức Ngũ Giới giống như các cháu nhỏ học văn hóa, thật là hạnh phúc vô cùng cho chúng ta, nhất là được an dưỡng trong tu viện và được học tập đạo đức trong tuổi đời sắp hết, không còn sống bao nhiêu ngày tháng nữa, nhưng lại được sống đạo đức, đem lại sự an vui cho mình, cho người và cho muôn loài vạn vật.

Thật là hạnh phúc và hy hữu vô cùng! Một ngày sống có đạo đức đem lại sự an vui cho mình, cho người, cho tất cả chúng sinh còn hơn sống ngàn ngày mà chẳng ích lợi gì cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh thì thật là không xứng đáng làm người! Thật là đáng chê trách! Thật đáng thương thay!!! Trong các môn học, chỉ có môn học đạo đức hiếu sinh là môn học hàng đầu trong các môn học đạo đức, vì vậy chúng ta hãy cố gắng học tập và thực hành cho bằng được, vì nó là môn học có lợi ích nhất cho sự sống của loài người, cho người tu hành.

Trả lời câu hỏi 7:

Thấy một học trò mặt lấm tấm mụn đỏ, thầy ngừng đọc, lại gần lấy tay sờ trán và hỏi: “Con làm sao?”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH VÀ THÂN HÀNH.

Làm một vị thầy luôn luôn lưu ý đến các học trò của mình như một người mẹ chăm sóc cho con. Một hành động nhỏ của thầy giáo ở đây: “hỏi thăm và sờ trán”, là biểu hiện một hành động yêu thương của người thầy thật là tuyệt vời, luôn luôn lưu ý chăm sóc và an ủi đến những học trò của mình với một lòng yêu thương chân thật, cũng giống như một người mẹ hiền chăm sóc đàn con thơ dại. Hành động sờ trán và lời nói: “Con làm sao?”.

Hành động âu yếm như vậy làm sao không giống như người mẹ hiền chăm sóc đàn con yêu thân thương của mình? Đoạn này dạy một hành động hiếu sinh tuyệt vời: “Thấy một học trò mặt lấm tấm mụn đỏ, thầy ngừng đọc, lại gần lấy tay sờ trán và hỏi: “Con làm sao?”. Bàn tay sờ lên trán và lời nói âu yếm vô cùng: “Con làm sao?”. Một tình thương yêu bao la tràn ngập của một vị thầy dạy về văn hóa mà còn cho những học trò mình một tình thương như vậy, thì thử hỏi quý thầy dạy đạo đức hiếu sinh, lòng thương yêu của quý thầy đối với học viên của mình tuổi tác đã già nua đâu còn sống bao lâu nữa thì còn quan tâm và yêu thương bao la tràn ngập đến ngần nào? Vậy lòng thương yêu ấy của giảng viên đối với học viên của mình phải gia tăng lên gấp 100 lần, 1.000 lần. Vì những học trò của mình nay mai rồi cũng sẽ có kẻ ở người đi. Và đi thì không còn gặp nhau nữa, mãi mãi vĩnh biệt.

Phải không quý vị? Lớp dạy đạo đức hiếu sinh bằng thân giáo, thì giảng viên thường ban lòng yêu thương cho học viên của mình như thế nào!? Cho xứng đáng là một vị thầy dạy đạo đức hiếu sinh.

Một vị giảng viên dạy đạo đức hiếu sinh cũng giống như một người mẹ lúc nào cũng chăm sóc con mình, đứa nào thông minh học hành tốt thì vui mừng; đứa nào u tối học kém thì mẹ học dùm con; đứa nào nhút nhát không dám đi học thì mẹ cùng đi học với con.

Cho nên khi dạy đạo đức hiếu sinh thì giảng viên không nên áp dụng kỷ luật với học viên, mà áp dụng tình thương với học viên. Tìm cách hướng dẫn cho học viên hiểu đạo đức nhân bản - nhân quả để vượt qua những chướng ngại pháp và các ác pháp; tìm phương cách hướng dẫn cho học viên hiểu đạo đức một cách trọn vẹn hơn, để hằng ngày sống cho được với đạo đức hiếu sinh; để có một điểm cao hơn về thực hành và lý thuyết; để được lên lớp học trên. Giảng viên có sự tận tâm hướng dẫn cho học viên như vậy thì không có học viên nào ở lại lớp. Có dạy được như vậy mới xứng đáng là người thầy dạy đạo đức.

Trả lời câu hỏi 8:

Thừa lúc thầy quay lưng lại, một anh học trò bàn dưới leo lên ghế, vung vẩy như người trượt băng”. Câu này chỉ cho một hành động THIẾU ĐỨC TRANG NGHIÊM HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Trong giờ học mà học viên nói chuyện, chạy nhảy, đùa cợt, đi tới đi lui là những học viên mất đạo đức nghiêm trang, người làm mất đạo đức trang nghiêm là người tự làm ồn náo gây ra mất sự im lặng khiến cho mọi người bị phân tâm. Người như vậy là người đánh mất đạo đức hiếu sinh thương mình, thương người; người ấy sẽ ở trong ác pháp và như vậy sẽ gặp nhiều khổ đau.

Cho nên trong lớp học, học viên phải cố gắng giữ im lặng, đừng nói chuyện, đừng làm ồn. Nhờ sự im lặng mới tập trung vào bài học, mới dễ dàng trả lời những câu hỏi không sai, không lạc đề.

Ở lớp học đạo đức hiếu sinh, khi giảng viên bước vào lớp thì tất cả học viên đều phải giữ im lặng để lắng nghe giảng viên giảng dạy, không được làm ồn náo, không được nói chuyện, không được đi qua, đi lại, luôn luôn giữ gìn trật tự lớp học được trang nghiêm và trân trọng. Giữa giảng viên và những học viên phải đối với nhau bằng một tình thương yêu như người mẹ thương con, cũng như người con thương mẹ.

Trả lời câu hỏi 9:

Nhưng ông Perbôni khẽ đập vào vai anh học trò dại dột kia, bảo rằng: “Không nên làm thế nữa!”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH VÀ KHẨU HÀNH.

Mặc dù người học trò ngỗ nghịch làm mất trật tự trong lớp, nhưng giảng viên giống như một người mẹ hiền lành, biết con mình làm sai nhưng không la mắng, rầy con, chỉ vỗ nhẹ vào vai và dùng lời nhỏ nhẹ thân thương:

“Không nên làm thế nữa!”. Đúng là một vị thầy đứng lớp dạy học mẫu mực, đầy đủ đức hạnh hiếu sinh.

Trong giới kinh, Phật dạy: Không nên sát sinh; không nên lấy của không cho, không nên tà dâm; không nên nói dối; không nên uống rượu. Còn ngược lại, trong giới bổn các tổ dạy: Cấm sát sinh; cấm tham lam trộm cướp; cấm tà dâm, cấm nói dối; cấm uống rượu. Danh từ KHÔNG NÊN đã trở thành một lời khuyên nhẹ nhàng mang đầy đủ tính đạo đức hiếu sinh. Còn danh từ CẤM có vẻ bắt buộc, mang tính truyền lệnh thiếu chất lượng đạo đức hiếu sinh. Đem so sánh giới kinh và giới bổn, chúng ta biết ngay giới nào có từ tâm, giới nào thiếu từ tâm rất rõ ràng.

Lớp học đạo đức năm giới của chúng ta cũng vậy, thầy ước mong sao các giảng viên đứng lớp đều thương yêu, chăm sóc và dạy dỗ tất cả học viên trong lớp học của mình giống như người mẹ hiền.

Trả lời câu hỏi 10:

Có thế thôi. Rồi thầy bình tĩnh về chỗ đọc nốt bài chính tả”. Câu này dạy ĐỨC BÌNH TĨNH HIẾU SINH Ý HÀNH tuyệt vời.

Một người học trò ngỗ nghịch mà thầy Perbôni chỉ dùng lời lẽ khuyên: “Không nên làm thế nữa!”. Thầy không tức giận, chỉ nói lời khuyên nhẹ nhàng rồi tiếp tục đọc bài chính tả cho học sinh viết như không có việc gì xảy ra. Đó là đạo đức hiếu sinh thương mình và thương người qua hành động bình tĩnh thật tuyệt vời: “Có thế thôi. Rồi thầy bình tĩnh về chỗ đọc nốt bài chính tả”.

Trong cuộc sống hằng ngày, có nhiều việc khiến chúng ta dễ tức giận, mà khi tức giận thì đạo đức hiếu sinh biến mất. Cho nên một giảng viên dạy đạo đức phải là người gương mẫu, đầy đủ đức hạnh nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng. Như vậy chưa đủ, mà còn phải sáng suốt bình tĩnh trước mọi việc xảy ra.

Muốn có được tâm bình tĩnh sáng suốt thì hằng ngày phải tập sống tỉnh thức thân hành, khẩu hành và ý hành với lòng yêu thương bao la rộng lớn đối với tất cả muôn loài. Lúc nào chúng ta cũng đem lòng yêu thương, tránh không làm tổn thương và khổ đau cho tất cả chúng sinh.

Có tu tập và rèn luyện nhân cách hiếu sinh như vậy thì không có ác pháp nào làm động tâm chúng ta được.

Trả lời câu hỏi 11:

Khi viết xong, thầy yên lặng nhìn chúng tôi một lúc rồi ôn tồn nói”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC Ý HÀNH, tức là ĐỨC ĐIỀM ĐẠM HIẾU SINH Ý HÀNH.

Một người muốn sống với đức hiếu sinh thân hành, khẩu hành và ý hành thì phải tập sống với đức chánh niệm tĩnh giác. Có sống với đức chánh niệm tĩnh giác mới đủ sức bình tĩnh đứng trước các ác pháp. Muốn có chánh niệm tĩnh giác thì phải tu tập sống chú ý từng hành động thân, khẩu, ý đang hoạt động hằng ngày.

Ví dụ: Thân đang làm biết thân đang làm, và làm bất cứ một điều gì đều phải chú ý để tránh vô tình làm đau khổ hay làm chết chúng sinh. Thân đang ngồi biết thân đang ngồi; thân đang đi biết thân đang đi; thân đang nằm biết thân đang nằm; và thân đang đứng biết thân đang đứng. Cho nên đi, đứng, nằm, ngồi đều phải chú ý để tránh vô tình làm đau khổ hay làm chết chúng sinh rất tội nghiệp.

Miệng nói ra lời là phải nói lời ái ngữ êm ái, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, khuyên lơn, khích lệ, sách tấn, khen tặng, ca ngợi, v.v..

chứ không nên nói lời hung dữ, mạ lị, mạt sát, chửi mắng, la hét; nói thô lỗ, tục tĩu kém văn hóa; nói hỗn láo, khoác lác; nói lời chửi thề, v.v... Đừng sai bảo người giết hại chúng sinh, và cũng đừng sai bảo người khác làm đau khổ và hãm hại người khác.

Trước khi làm một điều gì và muốn nói một việc gì đều phải suy nghĩ cho chín chắn, cho kỹ lưỡng rồi mới nói, mới làm, không được nói, làm chưa suy nghĩ, vì nói chưa suy nghĩ là nói theo thói quen; nói theo thói quen là nói theo nghiệp lực; nói theo nghiệp lực là nói trong ác pháp; nói trong ác pháp là làm đau khổ mình, khổ người và làm đau khổ tất cả chúng sinh. Bởi vậy, muốn nói hay làm cần phải suy nghĩ cẩn thận rồi mới nói. Nói có suy nghĩ kỹ lưỡng là nói trong tĩnh giác chánh niệm, còn nói mà không suy nghĩ trước là nói trong sự mất tĩnh giác. Người sống trong đức hiếu sinh thì sự tĩnh giác rất cần thiết.

TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM là ĐỨC HẠNH ĐIỀM ĐẠM giúp cho chúng ta không giận dữ, bình tĩnh trước các ác pháp; giúp cho chúng ta được bình an trong cuộc sống.

Đọc câu này, chúng ta thấy đức điềm đạm rất cần thiết. Trước khi muốn nói một điều gì thì cần phải im lặng suy nghĩ kỹ: “Thầy yên lặng nhìn chúng tôi một lúc rồi ôn tồn nói”.

Đúng là đức điềm đạm hiếu sinh ở đoạn này rất rõ nét, “yên lặng” rồi mới “ôn tồn” nói.

Chúng ta hãy rèn luyện đức điềm đạm hiếu sinh ý hành, tức là ngồi yên lặng một lúc rồi mới tư duy, tập như vậy lâu thành một thói quen rất tốt. Muốn tập yên lặng được như vậy thì nên nương vào hơi thở tác ý tâm thanh thản, an lạc và vô sự, rồi để tự nhiên ý thức hơi thở ra, vào nhẹ nhàng, chừng 5 phút rồi mới suy tư một ý niệm gì hay muốn nói một điều gì hoặc làm một việc gì. Khi tư duy suy nghĩ, chúng ta kèm theo lòng thương yêu đối với mọi người và tất cả chúng sinh. Nhờ đó lòng thương yêu của chúng ta càng ngày càng rộng lớn vô cùng, vô tận.

Trả lời câu hỏi 12:

Các con ơi! Hãy nghe thầy! Chúng ta cùng nhau trải qua một năm học. Chúng ta nên hết sức làm việc để qua năm ấy cho được tốt đẹp. Phải chăm chỉ, phải ngoan ngoãn”.

Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH tuyệt vời.

Một lời tha thiết đầy lòng yêu thương của một vị giảng viên kêu gọi tất cả học viên và chính ngay bản thân của giảng viên cũng phải hết sức làm việc trong một năm. Khi một năm học tập qua là phải đạt cho được những kết quả học tập tốt đẹp. Thầy phải hết sức truyền đạt sự hiểu biết cho học viên, còn học viên phải hết sức chăm chỉ học hành để thấu triệt và thấm nhuần nghĩa lý của bài học, để thâu thập những kiến thức hiểu biết về đạo đức. Mà đối với học sinh, những kiến thức hiểu biết như cánh đồng cỏ xanh tươi tận chân trời xa thẳm.

Đây là một lớp học văn hóa ngoài đời, mà thầy trò còn sống với nhau bằng một tình thương yêu như mẹ thương con, huống là lớp học của chúng ta, một lớp học NGŨ GIỚI rèn nhân cách đạo đức hiếu sinh. Vì thế hiện giờ giảng viên và học viên cần phải thực hiện lòng yêu thương ấy càng nhiều hơn nữa. Phải không quý tu sinh? Nhờ hiểu biết như vậy, nên giảng viên cố gắng khắc phục những cái sai trái mà trước kia mình đã lầm lạc, để trở thành những người bạn tốt của các tu sinh. Vì thế giảng viên quyết đem lòng yêu thương của mình đến với tất cả tu sinh, dù bất cứ người nào.

Đứng trước lớp học đạo đức hiếu sinh này, giảng viên tự thấy mình còn nhiều sơ sót, mong rằng các tu sinh khéo nhắc nhở và bỏ qua cho. Tuy giảng viên đứng lớp thay thầy truyền đạt tư tưởng đạo đức, nhưng giảng viên còn đang tu học và rèn luyện nhân cách của mình như quý tu sinh khác, thì làm sao không thiếu sót được? Sau khi đứng lớp dạy đạo đức nhân bản - nhân quả hiếu sinh, giảng viên chỉ ước mong sao mình chỉ còn một lòng yêu thương những học viên trong lớp học như chính bản thân mình. Vì thế các tu sinh trong lớp nếu có những ưu tư gì hãy cho giảng viên biết để cùng chia sẻ, cùng thương nhau. Đừng vì một lý do gì mà chị em cách biệt. Làm sao cho tình chị em thương nhau mãi mãi, gắn bó với nhau như cá không lìa nước, như cây không lìa cành; luôn luôn dùng lời lẽ ôn tồn, nhã nhặn, ngọt ngào đối xử với nhau như nước với sữa. Đó là điều mong muốn nhất của giảng viên. Và giảng viên cũng nguyện ước lớp học đạo đức này được duy trì mãi mãi, để chị em chúng ta cùng chung sức xây dựng lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo, đem lại lợi ích cho loài người trên hành tinh này.

Trả lời câu hỏi 13:

Thầy không có gia đình, các con là gia đình của thầy”. Câu này dạy ĐỨC GẮN BÓ HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Kết chặt lòng yêu thương của thầy và trò như một gia đình, lời nói này nghe rất xúc động, vì thầy trò là những người xa lạ từ muôn phương trở về cùng sống và truyền đạt, trao cho nhau những điều hiểu biết về văn học. Còn học sinh thì chăm lo học hành để thu thập những điều mới lạ trong văn học, nhưng suốt một năm cùng quây quần bên nhau trong một mái trường như một mái ấm gia đình.

“Thầy không có gia đình, các con là gia đình của thầy”. Lời nói này nghe sao mà thân thương vô cùng, tràn ngập đầy tình thương của một vị thầy. Tình thương ấy gắn bó vô cùng; tình thương ấy không bao giờ tan hoại, luôn luôn mang theo trong lòng mọi người. Lời nói này cách đây 127 năm , tác giả đã chết từ lâu, nhưng tình thương của Người còn vương vấn đâu đây với bao thế hệ sau này. Mỗi khi đọc đến câu này, ai mà không xúc động thương nhớ. Dù tuổi đời chúng ta đã qua những lớp văn học ngày xưa, nhưng trong tâm trí, hình ảnh thầy trò và tình thương nhau quây quần như vẫn còn đâu đây.

Ngày nay chúng ta đang theo lớp học NGŨ GIỚI đạo đức hiếu sinh, thì tình thầy trò lại 1 LBT: Đức Trưởng Lão biên soạn giáo án này năm 2006.

còn gắn bó nhiều hơn nữa, vì chúng ta đang học những tình thương yêu rộng lớn như trời, như biển. Nó phủ trùm luôn cả lòng thương yêu bản thân, gia đình, xã hội, đất nước và thế giới.

Ngoài tình thương yêu bản thân và gia đình thì không bao giờ có tình thương yêu rộng lớn đến với mọi người, mọi loài vật.

Nhưng nếu không có tình thương yêu rộng lớn đến với muôn người, muôn loài vật thì không bao giờ bảo vệ được tình thương yêu bản thân và gia đình. Vì thế, lớp học NGŨ GIỚI đạo đức hiếu sinh ra đời mở màn cho một nền văn hóa đạo đức nhân bản - nhân quả, để kịp thời đáp ứng trong giai đoạn đạo đức con người đang xuống cấp trầm trọng.

Ngay giờ phút này, giảng viên hãy ban lòng yêu thương của mình đến từng học viên, và mỗi học viên hãy ban lại lòng yêu thương của mình với người đứng lớp. Vì giảng viên và học viên đều lấy lớp học đạo đức hiếu sinh làm gia đình, làm một tình thương duy nhất, để cho tình thương ấy mở cửa nhìn ra mọi phương trời bao la vô tận. Một lần nữa, chúng ta hãy đọc lại lời dạy ở trên để cảm nhận lòng yêu thương giữa thầy và trò, một cảm xúc thân thương vô cùng cảm động:

“Thầy không có gia đình, các con là gia đình của thầy”. Một lời nói đầy lòng yêu thương như người mẹ!

Trả lời câu hỏi 14:

Năm ngoái, mẹ thầy còn, bây giờ người đã khuất. Thầy chỉ còn có một mình thầy”.

Câu này dạy đạo đức hiếu sinh ý hành trong sự mất mát tình thương yêu quá lớn.

Lời nói trên đây gây nên một tình yêu thương sâu thẳm trong lòng mọi người, nhất là trong lòng tất cả những học sinh. Những học sinh sẽ nghĩ gì qua lời nói này? Chúng sẽ thương thầy vô cùng, vì thầy bây giờ chỉ có một mình. Ngoài chúng ra thầy đâu còn ai nữa. Lời nói ấy gây một tình thương sâu đậm trong lòng các học sinh, chúng sẽ thương thầy như một người mẹ thứ hai trên đời. Nhờ lời dạy đầy tình cảm của thầy ở trên, nên cả lớp sẽ bước vào một niên học mới đầy tình thương yêu giữa tất cả thầy trò, như trong một đại gia đình.

Còn lớp học đạo đức NGŨ GIỚI đức hiếu sinh của chúng ta như thế nào? Một lớp học mang đầy đủ lòng yêu thương rộng lớn như trời, như biển thì giảng viên lúc nào cũng phải cố gắng truyền đạt tư tưởng đức hiếu sinh cho học viên tiếp nhận thấu triệt mỗi hành động thân, khẩu, ý trong cuộc sống hằng ngày luôn có đạo đức, và luôn luôn hằng ngày áp dụng thực hành, thường xuyên phải trau dồi rèn luyện đạo đức như thế nào để học sinh phải trình bày cho giảng viên chấm điểm tốt và khen thưởng. Đấy là những điều khích lệ cho học viên tu tập rèn luyện cho quen dần, và thấm nhuần thành một thói quen đạo đức, một lối sống đạo đức hiếu sinh.

Có học tập và rèn luyện như vậy thì đời sống mới thực sự là đạo đức. Chứ không chịu rèn luyện và học tập như vậy thì chỉ là học đạo đức suông mà thôi, rồi tật nào sẽ quen với tật nấy. Đạo đức học chỉ như cơn gió thoảng ngoài tai.

Trả lời câu hỏi 15:

Ngoài các con ra, ở trên đời này thầy không còn có ai nữa; ngoài sự thương yêu các con, thầy không còn thương yêu ai hơn nữa.

Các con ví như con của thầy. Thầy sẽ yêu dấu các con. Đáp lại, các con phải yêu dấu thầy”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH TUYỆT VỜI. Ai đọc đến đoạn này cũng đều xúc động, mủi lòng trước lời kêu gọi thiết tha đầy lòng thương yêu chân thật giữa tình thầy trò thấm thía vô cùng.

Chúng ta cũng ước mong sao lớp học NGŨ GIỚI mang tình thương đến với mọi người như tình thầy trò của lớp học văn hóa này vậy.

Ngoài con người, loài động vật và cỏ, cây, đất, đá, núi, sông, v.v.. trên hành tinh này chúng ta còn biết thương ai hơn? Vì vậy, chúng ta cần phải thương yêu nhiều hơn nữa, vì đó là sự sống chung nhau trên hành tinh này. Vì có chúng, chúng ta mới sống, không chúng, chúng ta làm sao sống được, phải không quý tu sinh? Sự sống trên hành tinh này nếu thiếu tình yêu thương thì sự sống là đau khổ. Tiếng kêu la rên rỉ thống khổ thảm thiết của chúng sinh thấu tận trời xanh, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển đều do thiếu lòng yêu thương của chúng ta đến muôn loài.

Ước mong sao lớp học của chúng ta tất cả tu sinh sẽ thành tựu đức hiếu sinh, biết thương yêu nhau, biết tha thứ mọi lỗi lầm của nhau. Như vậy thì Tu Viện Chơn Như sẽ là ngôi nhà chung cho những lòng yêu thương ấy; sẽ là nơi mang lại tình thương cho mọi loài sống trên hành tinh này.

Trên đời này chỉ có lòng yêu thương mới hóa giải mọi sự khổ đau, ngoài lòng yêu thương thì không còn có phương cách nào khác cứu con người ra khỏi sự khổ đau.

Bởi vậy, lớp học rèn luyện nhân cách đạo đức hiếu sinh NGŨ GIỚI là một lớp học cho mọi người, cho mọi lứa tuổi đều được học tập để đem lại sự bình an cho hành tinh này; để đem một cuộc sống yêu thương trong một đại gia đình nhân loại.

Muốn được vậy, ngay từ bây giờ chúng ta hãy cố gắng rèn luyện nhân cách đức hiếu sinh cho thấm nhuần, để trở thành một tình thương yêu rộng lớn như trời, như biển thì hạnh phúc và an lạc biết bao! Trả lời câu hỏi 16:

Thầy không muốn phạt một người nào cả. Các con phải tỏ ra là những đứa trẻ có tâm hồn cao thượng”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH, một lời khuyên rất tuyệt vời! Trong lớp học NGŨ GIỚI đạo đức hiếu sinh, nếu tu sinh nào cũng cố gắng thực hiện đạo đức vào cuộc sống của mình thì những sự đau khổ sẽ không còn nữa, và điểm học tốt của các tu sinh càng ngày càng cao lên, toàn là điểm ưu. Khi tu học như vậy làm gì có điểm xấu, điểm tệ. Tu sinh nào cũng tỏ ra có tâm hồn cao thượng biết thương mình, thương người và tha thứ những lỗi lầm của người khác và biết khắc phục những lỗi lầm của mình.

Lớp học tình thương chỉ có khen chứ không có chê, vì chúng ta là những người yêu thương làm sao mà có chê được. Phải không quý tu sinh? Cho điểm cũng vậy, thường cho điểm ưu, điểm tốt, chứ đâu có cho điểm thấp, điểm xấu. Chính hành động cho điểm cũng là ban lòng yêu thương đến học viên. Bởi vậy có học viên nào chưa hiểu, chưa sống đạo đức được là lỗi của giảng viên chưa tận tình truyền đạt cho học viên hiểu, chưa chỉ dạy cụ thể cho học viên thực hành đức hiếu sinh. Vì thế giảng viên lúc nào cũng thương học viên của mình, tìm mọi cách và mọi phương pháp giúp cho học viên thấu suốt đạo đức, nhờ vậy học viên sẽ không có điểm kém, hoàn toàn điểm tốt và điểm ưu.

Còn học viên siêng năng đến lớp học đạo đức và áp dụng đạo đức hiếu sinh vào cuộc sống của mình, thường thấy lỗi mình không thấy lỗi người, đó là học viên ban lòng yêu thương của mình cho giảng viên.

Cho nên, lời dạy: “Thầy không muốn phạt một người nào cả”. Tức là thầy không muốn cho một điểm xấu cho một học viên nào cả.

Làm một vị thầy dạy học không phải dễ, khi thấy học trò học lực kém, điểm học tệ là giảng viên phải tự xét lại mình, cách thức giảng dạy của mình có đầy đủ chưa? Trình độ sư phạm giảng dạy, truyền đạt, học viên có thông hiểu chưa? Nếu số đông học viên không thông hiểu là do giảng viên kém. Cho nên giảng viên cho điểm kém học sinh là giảng viên cho điểm kém trình độ sư phạm giảng dạy của mình. Thầy dạy giỏi học viên giỏi, thầy dạy dở học viên dở. Xét qua học viên là biết thầy, xét qua thầy là biết học viên.

Cho nên giảng viên cho học viên điểm tệ, điểm xấu là tự giảng viên đã cho điểm tệ, điểm xấu dạy dở của mình. Một thầy giáo dạy tệ quá phải đổi đi trường khác, hoặc phải đi tu nghiệp sư phạm của mình lại.

Cho nên học trò dở là giảng viên phải tự trách mình, chứ không nên trách học trò, còn học trò mà không lo học tập, mà cứ ham chơi nói chuyện tào lao, phá phách làm cho lớp học bất an, không trật tự là lỗi của học trò.

Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy của một giảng viên có trình độ sư phạm, dạy giỏi, đã biết xử dụng tình thương chân thật khích lệ và gắn bó với học sinh của mình, để làm tròn sứ mệnh thiêng liêng sư phạm, truyền đạt và dạy dỗ cho học viên thông suốt, đó là một bậc thầy giỏi. Còn học trò phải làm tròn bổn phận là phải học tập cho thật tốt để trở thành những trò giỏi, ngoan, hiền: “Thầy không muốn phạt một người nào cả. Các con phải tỏ ra là những đứa trẻ có tâm hồn cao thượng”. Đó là một lời khuyên nhưng đầy đủ thấm nhuần tình yêu thương của giảng viên đối với học viên.

Trả lời câu hỏi 17:

Trường ta sẽ là một gia đình, các con sẽ là mối an ủi, mối tự hào của thầy”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH, tình thầy trò gắn bó với nhau rất tuyệt vời! Trong một lớp học, thầy trò gắn bó với nhau trong tình thương yêu. Thầy đem hết khả năng của mình truyền đạt cho học sinh hiểu biết. Còn học sinh thì đem hết khả năng của mình ra học tập để trở thành những học trò ngoan, giỏi, để thương thầy, làm thầy vui lòng.

Học trò học giỏi là thầy nhận biết khả năng dạy của mình giỏi, có trình độ sư phạm.

Còn thầy giỏi mà dạy học trò không hiểu là cái giỏi thành cái dở.

Cho nên vào lớp học mới, giảng viên phải tạo duyên như thế nào để có một lớp học tình thương. Nếu không được vậy thì lớp học sẽ trở thành khô khan và thầy trò cách biệt nhau, khó mà cảm thông nhau.

Chúng ta hãy lắng nghe câu: “Trường ta sẽ là một gia đình, các con sẽ là mối an ủi, mối tự hào của thầy”. Lời dạy đạo đức hiếu sinh khẩu hành gắn bó rất tuyệt vời, với trình độ sư phạm đạo đức của người Ý mà chúng ta phải thầm thán phục. Bộ sách TÂM HỒN CAO THƯỢNG do Hà Mai Anh dịch ra Việt ngữ, ai đọc cũng thấy cảm động, nhưng nó chỉ là những hình ảnh gương hạnh cao thượng đẹp đẽ. Nó không dạy chúng ta bằng những phương pháp thực hành đạo đức hiếu sinh. Nó chỉ gây cho chúng ta những lòng trắc ẩn thương yêu đến rơi nước mắt. Vậy mà cuốn sách này đã nổi tiếng khắp nơi trên thế giới, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Đọc tập sách này, chúng ta thấy con người khắp trên hành tinh đều có đồng một tình thương yêu như nhau, và đồng yêu chuộng, quý kính lòng yêu thương ấy.

Lớp học rèn luyện nhân cách đạo đức hiếu sinh NGŨ GIỚI của chúng ta phải lấy những mẩu chuyện gương hạnh, rồi tập luyện hằng ngày bằng những hành động thương yêu trong đời sống bản thân, gia đình và xã hội.

Vì vậy, quả đúng lời dạy trên đây: “Trường ta sẽ là một gia đình, các con sẽ là mối an ủi, mối tự hào của thầy”. Đúng vậy, làm thầy dạy học là phải lấy lớp học làm gia đình, lấy học viên làm nguồn an ủi, nếu học viên học hành giỏi và sống đúng đạo đức là mối tự hào của thầy. Cho nên làm thầy phải thấy cho rõ điều này mà phải cố gắng khắc phục cái sai của mình, để xứng đáng là một giảng viên dạy đạo đức làm người cho thật tốt.

Trả lời câu hỏi 18:

Thầy không cần phải hỏi lại các con, vì thầy tin rằng trong lòng các con, ai ai cũng “vâng lời”, nên thầy có lời cảm ơn các con”.

Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH TÍN HẠNH rất tuyệt vời! Ở đời, nếu không có lòng tin nhau thì việc lớn chúng ta không thể làm thành công được.

Bởi vì có tin nhau mới giao trách nhiệm to lớn cho nhau, và có tin nhau mới đem hết sức mình ra làm việc. Việc học tập đạo đức cũng như vậy. Vì tin nơi các học viên là những người có quyết tâm tìm cầu sự giải thoát để ra khỏi bốn sự khổ đau của kiếp người, vì thế thầy mới biên soạn giáo án này để dạy mọi người rèn luyện nhân cách đức hiếu sinh, để sống không làm khổ mình, khổ người, nhờ đó mới xả được tâm tham, sân, si, mạn, nghi; nhờ xả được tâm tham, sân, si, mạn, nghi thì tâm mới thanh tịnh. Tâm có thanh tịnh mới đủ sức làm chủ được bốn sự khổ đau.

Cho nên lớp học đạo đức phải có lòng tin giữa giảng viên và học viên, vì thế giảng viên phải đem hết sức mình truyền đạt tư tưởng đạo đức cho học viên, và học viên phải thấy sự lợi ích của việc học và thực hành đạo đức, nên cũng phải cố gắng học tập và rèn luyện hằng ngày bằng những bài học đạo đức đã được học tập. Nếu học mà không thực hành, không sống với đạo đức thì cũng khó mà thấm nhuần.

Cho nên lời dạy trên đây rất thấm thía lòng tin của giảng viên và học viên: “Thầy không cần phải hỏi lại các con, vì thầy tin rằng trong lòng các con, ai ai cũng “vâng lời”, nên thầy có lời cảm ơn các con”. Đức tin là một đạo đức hiếu sinh giúp cho mọi người gần nhau hơn, thương yêu nhau hơn. Nếu thiếu đức tin thì lòng yêu thương không thành thật, tức là đức hiếu sinh không có.

Vì vậy, trong lớp học đạo đức NGŨ GIỚI thì giảng viên phải tin học viên, và ngược lại, học viên cũng đặt trọn lòng tin nơi giảng viên. Có như vậy thì lớp học đạo đức mới thành tựu tốt đẹp, và tình nghĩa lòng yêu thương giữa thầy trò mãi mãi không phai nhòa.

Trả lời câu hỏi 19:

Chúng tôi yên lặng xuống sân. Anh học trò vô lễ ban nãy rón rén lại gần thầy giáo, nói run run”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH HỐI HẬN.

Ở đời, dù ai có làm lỗi một điều gì mà biết mình làm sai thì nên hối lỗi, cố gắng khắc phục chừa bỏ. Sự hối lỗi, cố gắng khắc phục chừa bỏ là ĐỨC HỐI LỖI. Đức hối lỗi cũng là một hành động đạo đức hiếu sinh thương mình, thương người. Nhờ có hối lỗi nên mình sẽ không làm lỗi đó nữa. Vì thế đức Phật thường dạy chúng ta tu hành phải hết lòng yêu thương mình, thương người: “Thấy lỗi mình, đừng thấy lỗi người”. Thấy lỗi mình, đừng thấy lỗi người là một đức hạnh hiếu sinh ý hành tuyệt vời, nhờ đó mà ác pháp không tác động vào tâm chúng ta được.

Nhưng chúng ta phải hiểu, lỗi mình khó thấy mà thấy lỗi người thì dễ dàng hơn. Chính đời khổ là vì thấy lỗi người. Khi thấy lỗi người là ta đã đánh mất lòng yêu thương mình, thương người.

Một người học trò nhỏ mà còn biết hối lỗi, huống là chúng ta học đạo đức làm người mà không biết hối lỗi sao? Như trên đã nói, hối lỗi là một đạo đức hiếu sinh ý hành. Như vậy, hối lỗi là một hành động đạo đức thì có gì mà chúng ta phải xấu hổ. Khi chúng ta biết xấu hổ để sửa lỗi thì nó là đạo đức, nó là đạo đức thì chúng ta phải hãnh diện vì mình đã sống trong hành động đạo đức thương mình, thương người thì thật là tuyệt vời! Cho nên mỗi lần tìm thấy được lỗi mình là mỗi lần huân tập thêm đạo đức; mà đạo đức càng tăng thêm thì cuộc sống sẽ được an vui, hạnh phúc. Thân tâm đều được thanh thản, an lạc và vô sự.

Còn mỗi lần thấy lỗi người là mỗi lần đánh mất đức hiếu sinh; đánh mất đức hiếu sinh là làm khổ mình, khổ người. Và như vậy cuộc sống là địa ngục tràn đầy mọi sự khổ đau.

Trả lời câu hỏi 20:

Thưa thầy, xin thầy tha lỗi cho con”. Câu này dạy ĐỨC HỐI LỖI HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Đúng, biết lỗi mà xin lỗi là một đạo đức hiếu sinh tuyệt vời. Nếu người ở đời ai cũng sống với đạo đức này thì thế gian này đâu còn khổ đau nữa.

Ví dụ: Từ lâu chúng ta thường giết hại và ăn thịt chúng sinh, nhưng khi thấy loài gia súc bị giết chết trong sự giãy giụa kêu la thảm thiết, chúng ta nhận thấy sao con người quá ác tâm, chúng ta muốn sống sao lại nỡ tâm cướp mạng sống của loài vật khác. Lòng thương yêu chúng sinh và hối hận những việc đã làm ác để nuôi thân mạng mình một cách không bình đẳng, từ đó chúng ta liền từ bỏ không giết hại và không ăn thịt chúng sinh nữa.

Sự hối hận trong lòng khiến chúng ta chấm dứt và từ bỏ không giết hại và ăn thịt chúng sinh. Đó là một hành động đạo đức hiếu sinh ý hành, mà mọi người cần phải học tập và rèn luyện nhân cách thương yêu tất cả chúng sinh thì mới xứng đáng làm người có đạo đức. Sự hối hận là một đạo đức cao đẹp.

Chúng ta phải cố gắng duy trì học đạo đức này để tự sửa sai những lỗi lầm để trở thành người tốt.

Làm người ai mà không có sự lỗi lầm làm sai. Nhiều khi cha mẹ là người sinh đẻ và nuôi dưỡng chúng ta, thế mà chúng ta còn làm cho những bậc ấy không vui thì huống là những người khác. Vì thế lỗi lầm là việc tự nhiên khi chúng ta chưa học đạo đức NGŨ GIỚI, nên còn làm sai lầm nhiều lắm. Bởi vậy sự hối lỗi sửa sai rất cần thiết cho những ai cầu tiến về sự học đạo đức.

Trả lời câu hỏi 21:

Thầy gật đầu, hôn trán người học trò và bảo”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Hành động gật đầu là hành động chấp nhận tha lỗi cho người học trò thân thương của mình; hành động hôn trán người học trò là hành động yêu thương như mẹ thương con.

Hai hành động này nói lên đạo đức hiếu sinh rất tuyệt vời! Hành động đạo đức hiếu sinh này là hành động đạo đức ban cho người học trò lòng yêu thương chân thật của thầy. Bởi vậy khi chúng ta ban cho ai một tình thương yêu thì chúng ta phải có một hành động đi kèm theo, như một người mẹ thương con thì hành động thương con bằng cách hôn con, đó là ban tình thương cho con.

Ví dụ: Khi về thăm cha mẹ, chúng ta muốn thể hiện lòng yêu thương cha mẹ thì bằng hành động tặng một món quà; bằng một sự ôm nhau, nắm tay nhau; bằng một nụ hôn, một lời hỏi thăm, v.v.. Đó là một hành động đạo đức ban cho lòng yêu thương.

Bởi vậy trong cuộc đời của chúng ta, lúc nào lòng thương yêu cũng gắn liền với sự sống. Nếu sự sống thiếu lòng yêu thương thì ngay đó là sự sống khô cằn và khổ đau cho mình, cho người và cho tất cả những loài chúng sinh; nếu thiếu lòng yêu thương thì ngay đó là địa ngục, là sự khổ đau trùng trùng. Có đúng như vậy không hỡi các tu sinh?

Trả lời câu hỏi 22:

Tốt lắm! Cho con về”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH, khích lệ bằng lời khen tặng người học trò biết hối lỗi.

Bởi, cuộc đời ai ai cũng có những lúc phải lầm lỗi, nhưng biết hối lỗi là một điều tốt, một điều đáng khen, vì nó cũng là một hành động đạo đức hiếu sinh như trên đã nói.

Khen tặng một điều làm tốt của người khác cũng là ban tặng lòng yêu thương đến cho họ. Tha thứ mỗi lỗi lầm của người khác cũng là đạo đức hiếu sinh. Cho nên đạo đức hiếu sinh luôn luôn đi kèm theo đức tha thứ.

Vì chính nhờ đức tha thứ mà tâm chúng ta bất động không còn giận dữ, phiền não và đau khổ.

Ví dụ 1: Khi có người nói xấu mình một điều gì, mình khởi lòng yêu thương người đó bằng ý hành suy tư: “Họ là người tốt, người thương mình. Họ nói như vậy là họ nhắc mình đừng làm lỗi đó nữa, hoặc mình chưa làm lỗi đó thì mình nên cảnh giác đừng để phạm lỗi đó. Người nói xấu mình là người ân của mình chứ đâu phải là người ghét mình”.

Do sự tư duy như vậy, đó là đức hiếu sinh ý hành chánh tư duy thương mình, thương người, nhờ đó mà tâm ta được thanh thản, an lạc và vô sự.

Ví dụ 2: Khi có người mắng chửi mình, chúng ta khởi suy tư: “Người mắng chửi mình là người đang tạo duyên ác, nên họ là người đang đau khổ, đang ở trong hỏa ngục. Họ là người đáng thương, phải ra tay cứu giúp họ”.

Sự tư duy suy nghĩ như vậy là đức hiếu sinh ý hành trong ta, nên lúc bấy giờ tâm ta bất động, chỉ còn thanh thản, an lạc và vô sự.

Nhờ có tư duy suy nghĩ như vậy nên tâm ta không giận hờn. Tâm không giận hờn tức là tha thứ và yêu thương. Tâm tha thứ và yêu thương là đức hiếu sinh. Cho nên ở đâu có đức hiếu sinh thì ở đó không có đau khổ. Có đúng như vậy không hỡi quý tu sinh?

Bài học thứ 27: ĐỨC PHẬT ĐỘ CHO NGƯỜI GÁNH PHÂN

Thành Xá Vệ có một người Chiên Đà La sống về nghề đổ phân. Một hôm, đức Phật gặp giữa đường, bèn kêu lại, người đổ phân thưa rằng:

- Con là người gánh phân ô uế không sạch, không dám lại gần Ngài.

Đức Phật nói rằng:

- Ta nay muốn cứu độ cho người.

Rồi đức Phật tự thân dắt người gánh phân xuống sông Hằng, tắm rửa sạch sẽ và đưa về tịnh xá Kỳ Hoàn, cho xuất gia làm Sa môn.

Người gánh phân thành ra tinh tấn, cần khổ chuyên tâm, nên chưa đầy một tuần chứng quả A La Hán, thần thông tự tại. Lúc bấy giờ, vua trong nước nghe tin đức Phật độ cho một người Chiên Đà La, lấy làm bất mãn, cho rằng làm như vậy ô nhục hàng Sa môn và làm khó khăn sự kính lễ của các hàng vua chúa, liền đến tịnh xá để trách đức Phật.

Khi đến chỗ Phật ở thì thấy một vị Sa môn uy nghi, đức hạnh, ngồi thiền trên một tấm đá, hiện nhiều thần thông kỳ diệu. Vua lễ Phật và bạch rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vị Sa Môn kia danh hiệu là gì, sao lại có nhiều thần thông như vậy? Đức Phật bảo rằng:

- Đó là người gánh phân, nhờ công hạnh tinh tấn nên chứng được quả A La Hán.

Rồi đức Phật dùng thí dụ cho vua rõ ràng:

- Như ở trong bùn dơ bẩn, có nở một hoa sen thơm ngát, vậy bệ hạ là người có mắt, bệ hạ có hái lấy đóa hoa kia không? Vua đáp:

- Đóa hoa tuy mọc trong bùn lầy mà thơm ngát hương quý, rất nên dùng để trang sức.

Còn bùn lầy dơ bẩn kia thì nên quán xem như là bào thai của bà mẹ, chính tự trong bào thai mà sinh nở đóa hoa công đức.

Lúc bấy giờ vua bạch Phật rằng:

- Vị A La Hán trước làm nghề đổ phân, nay công quả tu hành viên mãn, chứng được quả bất khả tư nghì. Trẫm nay xin nguyện luôn luôn cúng dường mọi món cần thiết không dám để thiếu thốn.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: “Thành Xá Vệ có một người Chiên Đà La sống về nghề đổ phân”. Câu này đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 2: “Một hôm, đức Phật gặp giữa đường, bèn kêu lại”. Hành động đức Phật kêu người Chiên Đà La lại gần mình là đạo đức gì?

Câu hỏi 3: Người đổ phân thưa rằng: “Con là người gánh phân ô uế không sạch, không dám lại gần Ngài”. Câu trả lời này là đạo đức gì?

Câu hỏi 4: Đức Phật nói rằng: “Ta nay muốn cứu độ cho người”. Lời dạy này là đạo đức gì?

Câu hỏi 5: “Rồi đức Phật tự thân dắt người gánh phân xuống sông Hằng, tắm rửa sạch sẽ”. Hành động tắm rửa là đạo đức gì?

Câu hỏi 6: “Và đưa về tịnh xá Kỳ Hoàn, cho xuất gia làm Sa môn”. Hành động đưa ve tịnh xá cho xuất gia là đạo đức gì?

Câu hỏi 7: “Người gánh phân thành ra tinh tấn, cần khổ chuyên tâm”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 8: “Nên chưa đầy một tuần chứng quả A La Hán, thần thông tự tại”. Câu này dạy đạo đức gì? Câu hỏi 9: “Lúc bấy giờ, vua trong nước nghe tin đức Phật độ cho một người Chiên Đà La, lấy làm bất mãn”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 10: “Cho rằng làm như vậy ô nhục hàng Sa môn và làm khó khăn sự kính lễ của các hàng vua chúa”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 11: “Khi đến chỗ Phật ở thì thấy một vị sa môn uy nghi đức hạnh, ngồi thiền trên một tấm đá, hiện nhiều thần thông kỳ diệu”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 12: Vua lễ Phật và bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Vị Sa Môn kia danh hiệu là gì, sao lại có nhiều thần thông như vậy”? Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 13: Đức Phật bảo rằng: “Đó là người gánh phân, nhờ công hạnh tinh tấn nên chứng được quả A La Hán”. Lời này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 14: Rồi đức Phật dùng thí dụ cho vua rõ ràng: “Như ở trong bùn dơ bẩn, có nở một hoa sen thơm ngát, vậy bệ hạ là người có mắt, bệ hạ có hái lấy đóa hoa kia không?”. Câu này dạy đạo đức gì? Câu hỏi 15: Vua đáp: “Đóa hoa tuy mọc trong bùn lầy mà thơm ngát hương quý, rất nên dùng để trang sức”. Lời dạy này là đạo đức gì?

Câu hỏi 16: “Còn bùn lầy dơ bẩn kia thì nên quán xem như là bào thai của bà mẹ, chính tự trong bào thai mà sinh nở đóa hoa công đức”. Lời dạy này là đạo đức gì?

Câu hỏi 17: “Vị A La Hán trước làm nghe đổ phân, nay công quả tu hành viên mãn, chứng được quả đức bất khả tư nghì”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 18: “Trẫm nay xin nguyện luôn luôn cúng dường mọi món cần thiết không dám để thiếu thốn”. Câu này dạy đạo đức gì?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

Thành Xá Vệ có một người Chiên Đà La sống về nghề đổ phân”. Câu này chỉ ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO QUÁ KHỨ.

Vì nhân tiền kiếp chấp ngã xem mình là hơn hết, thiếu lòng cung kính tôn trọng người khác, lại thêm mang tính bỏn xẻn, ích kỷ, hẹp hòi, ganh tỵ, hay nói xấu người, nói dối không thật, nên hiện kiếp sinh làm người trong giai cấp hạ tiện Chiên Đà La, nghèo khó, bị mọi người khinh chê, không cung kính và tôn trọng.

Muốn không sinh vào những giai cấp hạ liệt, cùng đinh trong xã hội thì trong hiện kiếp phải biết sống tôn trọng, cung kính mọi người; phải biết sống khiêm hạ đối với mọi người. Nhờ sống trong hiện kiếp như vậy, nên những kiếp trong tương lai đều được mọi người cung kính, tôn trọng và được giàu sang danh vọng.

Người sống với lòng cung kính tôn trọng người khác, biết hạ mình khiêm tốn chắp tay cúi đầu chào mọi người trước khi mọi người chào mình, là người biết sống trong ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH NHÂN QUẢ ĐỨC KHIÊM HẠ THÂN HÀNH. Nhờ sống trong đức khiêm hạ cung kính người khác mà kiếp sau mới sinh làm người trong những giai cấp quý tộc, nhờ sinh trưởng trong những gia đình có giai cấp quý tộc nên trong hiện kiếp được mọi người cung kính, tôn trọng và quý mến.

Đoạn kinh này dạy nhân nào quả nấy, để chúng ta biết đức khiêm hạ là một đức hiếu sinh sống đối xử biết cung kính và tôn trọng người khác cũng chính là cung kính tôn trọng mình. Đó là nhân hiện tại, quả hiện tại.

ĐỨC KHIÊM HẠ HIẾU SINH THÂN HÀNH là một đức hạnh tuyệt vời, lúc nào chúng ta cũng áp dụng vào đời sống, bất cứ gặp một người nhỏ tuổi cũng như một người già lớn tuổi, chúng ta đều thực hiện đức khiêm hạ như nhau, thì chúng ta sẽ được mọi người cung kính và tôn trọng. Có tôn trọng người thì người mới tôn trọng lại mình. Mỗi người nên sống khiêm hạ, sau này sẽ thành những thói quen có lễ độ, có văn hóa tốt đẹp.

ĐỨC KHIÊM HẠ HIẾU SINH THÂN HÀNH là một hành động văn hóa lễ độ rất tuyệt vời mà chỉ có con người mới thực hiện được, còn con thú dù có thông minh cỡ nào thì cũng không thực hiện được ĐỨC KHIÊM HẠ HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Trả lời câu hỏi 2:

Một hôm, đức Phật gặp giữa đường, bèn kêu lại”. Hành động đức Phật kêu người Chiên Đà La lại gần mình là một hành động ĐẠO ĐỨC BÌNH ĐẲNG HIẾU SINH NHÂN QUẢ KHẨU HÀNH.

Tất cả mọi người, ai cũng biết đạo Phật là đạo bình đẳng, đạo san bằng giai cấp trong xã hội, chỉ còn có một giai cấp duy nhất, đó là một giai cấp sống bình đẳng như nhau.

Đạo Phật không những bình đẳng với loài người mà còn bình đẳng đến cả loài cầm thú, vì tất cả những loài động vật và các loài thảo mộc đều có một sự sống như nhau. Vì thế đạo Phật là đạo của sự sống. Lúc bấy giờ đức Phật xuất hiện trên đất nước Ấn Độ, nhưng đất nước Ấn Độ chia ra làm bốn giai cấp rõ rệt như sau:

1- Giai cấp Sát Đế Lị (Giai cấp cai trị nước).

2- Giai cấp Bà La Môn (Giai cấp thống trị tinh thần mọi người).

3- Giai cấp thợ thuyền, thương buôn mậu dịch.

4- Giai cấp Chiên Đà La (Giai cấp cùng đinh làm thuê, làm mướn, làm nô lệ).

Hành động kêu gọi những người trong giai cấp cùng đinh, hạ liệt để giúp họ nâng cao giá trị đời sống làm người. Bởi sự sống của con người thì người giàu cũng như người nghèo, người làm vua, người làm quan cho đến người làm dân tầm thường cũng như nhau không có ai hơn ai cả. Cho đến tất cả các loài động vật và thảo mộc trên hành tinh này đều có một sự sống, mà có sự sống thì phải được hưởng bình đẳng như nhau.

Cho nên hành động kêu gọi người Chiên Đà La là đức Phật san bằng giai cấp hạ liệt, cùng đinh của xã hội Ấn Độ bây giờ. Đó là một hành động ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH NHÂN QUẢ BÌNH ĐẲNG, xem tất cả sự sống trên hành tinh này như nhau.

Nếu không có lòng yêu thương thì không bao giờ có sự bình đẳng. Sự bình đẳng tức là đức bình đẳng. Người ta kêu gọi sự tự do bình đẳng, nhưng người ta không có lòng yêu thương thì sự tự do bình đẳng đó không bao giờ có. Cho nên tất cả những đức hạnh khác đều do từ đức hiếu sinh này mà ra. Có đức khiêm hạ thì mới có đức cung kính và tôn trọng, có đức cung kính và tôn trọng thì mới có lòng yêu thương chân thật, có yêu thương chân thật thì mới có xả tâm ly dục, ly ác pháp. Từ đức hạnh này có liên hệ với đức hạnh khác như một chuỗi dài vô tận của đạo đức. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Vì thế chúng ta cố gắng thực hiện cho bằng được đức hiếu sinh như trời, như biển thì tất cả đức đều hiện rõ nơi chúng ta.

Trả lời câu hỏi 3:

Người đổ phân thưa rằng: “Con là người gánh phân ô uế không sạch, không dám lại gần Ngài”. Câu trả lời này THIẾU ĐẠO ĐỨC BÌNH ĐẲNG HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Thường ở đời, những người có sức mạnh thường tạo thế lực để lãnh đạo trong nước rồi chia ra làm nhiều giai cấp. Nhưng hiện giờ có hai giai cấp nổi bật nhất là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.

Do sự bị trị lâu dài của giai cấp thống trị, và bị bắt buộc giai cấp bị trị phải tôn trọng và cung kính giai cấp thống trị, vì thế giai cấp bị trị thường tự xem giá trị của mình thấp kém không bằng giai cấp thống trị. Cho nên lời nói của giai cấp Chiên Đà La: “Con là người gánh phân ô uế không sạch, không dám lại gần Ngài”. Sự phân chia giai cấp đã đánh mất lòng yêu thương bình đẳng của con người.

Con người ai cũng có một sự sống như nhau, cũng buồn vui đau khổ, cũng giận hờn phiền não như nhau, cũng sợ chết và ham sống không khác nhau, cũng ăn uống, cũng đói khát, cũng lo lắng, cũng sợ hãi như nhau, thế sao lại sống không bình đẳng, không thương nhau. Hiện giờ tuy đã san bằng giai cấp, nhưng trong tinh thần con người cũng còn nhiều ranh giới giai cấp như: giai cấp tri thức; giai cấp bình dân; giai cấp lãnh đạo; giai cấp thường dân; giai cấp nông dân; giai cấp thợ thuyền; giai cấp thương buôn, v.v...

Tuy thấy không có sự cách biệt rõ rệt, nhưng hàng rào ranh giới giai cấp vẫn còn e dè, do bản ngã của con người đối xử với con người ở giai cấp này với giai cấp kia còn có vẻ khinh chê.

Một người học giỏi cũng có vẻ khinh chê coi thường người học dở, đó là thiếu đức hiếu sinh bình đẳng. Người có đức hiếu sinh bình đẳng thì đánh mất tính ngã mạn, tính tự cao, tự đại của mình. Cho nên càng học giỏi, học cao thì càng bộc lộ đức khiêm hạ thì học giỏi học cao mới được mọi người quý trọng. Đức khiêm hạ nằm trong đức hiếu sinh. Người có đức hiếu sinh là có đức khiêm hạ. Có đức khiêm hạ là có đức bình đẳng. Có đức bình đẳng thì mới san bằng giai cấp trong xã hội loài người.

Trả lời câu hỏi 4:

Đức Phật nói rằng: “Ta nay muốn cứu độ cho người”. Lời dạy này là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH GIÁO HÓA.

Lời nói yêu thương của đức Phật đối với giai cấp cùng đinh, hạ liệt thật là tuyệt vời! Lời nói yêu thương ấy thể hiện đức giáo hóa bình đẳng cao thượng mà không có một tôn giáo nào có được. Lời nói của Ngài đã đem lại sự sống bình đẳng cho giai cấp hạ liệt trong xã hội.

Đạo Phật là một tôn giáo bình đẳng, lấy sự sống của muôn loài làm mốc bình đẳng, tức là bình đẳng trên sự sống, Vì muốn sống được bình đẳng nên Phật giáo lấy tiêu chuẩn sống Tứ Vô Lượng Tâm, tức là sống với tâm TỪ, BI, HỶ, XẢ. Vậy sống với tâm từ, bi, hỷ, xả như thế nào? Xin quý tu sinh hãy đọc lại bộ sách “Hành Thập Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm” thì sẽ biết cách sống.

Sống theo “Hành Thập Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm” là sống rất đơn giản, chỉ lúc nào cũng thể hiện lòng yêu thương đối với mọi loài. Cho nên đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, suy nghĩ đều lấy đức hiếu sinh làm tiêu chuẩn sống hàng đầu, lúc nào cũng nhớ mọi người đang thương mình và lúc nào mình cũng đang nhớ thương yêu mọi người, mọi loài chúng sinh. Có sống được như vậy mới thể hiện đức bình đẳng hiếu sinh.

Người sống không có giai cấp là người sống với lòng yêu thương chân thật. Xã hội loài người ai cũng sống được như vậy thì chúng ta không cần kêu gọi bình đẳng, nhưng cuộc sống vẫn bình đẳng.

Trả lời câu hỏi 5:

Rồi đức Phật tự thân dắt người gánh phân xuống sông Hằng, tắm rửa sạch sẽ”. Hành động tắm rửa là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Chưa có một vị thầy nào đưa học trò đi tắm rửa như một người mẹ, đúng là một hành động hiếu sinh tuyệt vời của một bậc vĩ nhân mà chúng ta khó tìm thấy trên hành tinh này.

Đức Phật tượng trưng cho lòng thương yêu, nên mỗi hành động nhỏ nhặt thương yêu nào Ngài cũng đều không bỏ qua.

Với một người Chiên Đà La đi gánh phân, thân mình hôi thối, mùi bất tịnh xông ra, thế mà đức Phật đến nắm tay dắt xuống sông Hằng tắm rửa cho sạch sẽ như dắt một đứa bé thơ, thì đủ biết tình yêu thương của đức Phật như thế nào đối với mọi người? Người nào Ngài cũng không bỏ. Cách thức và hành động sống của đức Phật rất gần gũi với mọi người, Ngài không phân biệt giàu sang hay nghèo hèn, vua quan hay dân giã Ngài đều đối xử bình đẳng như nhau.

Đối với những người cùng đinh khốn khổ nghèo đói, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, sinh vào những giai cấp bị trị, chịu nhiều điều bất công. Đó là do nhân quả đời trước đã tạo nhân quả ác xấu, ích kỷ, bỏn xẻn, hẹp hòi, hách dịch, kiêu căng, ngã mạn, tự cao, tự đại, chửi mắng, làm uy, làm quyền, hiếp đáp người khác, nên kiếp này phải chịu sinh vào những gia đình nghèo khó, giai cấp hạ liệt, v.v...

Cho nên nhìn nhân hiện tại mà biết quả hiện tại; nhìn nhân hiện tại mà biết quả quá khứ; nhìn nhân hiện tại mà biết quả tương lai; nhìn quả hiện tại mà biết nhân quá khứ; nhìn quả hiện tại mà biết nhân hiện tại; nhìn quả hiện tại mà biết nhân tương lai.

Thấy quả hiện tại thì biết nhân quá khứ do quá khứ kiêu căng, ngã mạn, cống cao nên hiện tại sinh làm người ở giai cấp hạ liệt, cùng đinh. Nhưng đủ duyên gặp Phật nên quả hiện tại Phật giúp đỡ tắm rửa sạch sẽ, dạy phương pháp tu hành chứng quả A La Hán.

Đấy là nhân gặp Phật hiện tại thì quả hiện tại được giải thoát ra khỏi tâm tham, sân, si.

Nhân quyết tâm tu hành hiện tại thì quả hiện tại được giải thoát.

Cho nên theo qui luật nhân quả, nếu chúng ta tu tập sai trong hiện tại thì quả trong hiện tại của chúng ta cũng sẽ không giải thoát. Do phạm giới, phá giới trong hiện tại mà quả hiện tại bị rối loạn thần kinh. Đó là một chứng cứ rõ ràng, mà không ai chối cãi được. Cho nên người nào phạm vào giới phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý thì tu hành thân tâm không thanh tịnh, làm mất thì giờ rất uổng phí, tức là vi phạm vào giới hạnh độc cư.

Một đời tu hành chỉ có giữ giới độc cư trọn vẹn 7 tháng và tu tập đúng pháp môn Tứ Niệm Xứ thì chứng đạo. Thế mà không có ai làm được, chỉ có một thời gian ngắn nhất, 7 tháng, mà cả bao nhiêu người trong tu viện lại vi phạm, thật là quá tệ. Nếu bắt buộc phải giữ độc cư một năm, hai năm 3, 4, 5, 6, 7 năm hay 10 năm thì bảo rằng giữ gìn không nổi vì thời gian dài quá, còn ở đây chỉ có 7 tháng mà giữ gìn không nổi thì 10 năm làm sao tu nổi với hạnh độc cư.

Nghe tu tập làm chủ sinh tử ai cũng ham, nhưng đụng đến giới độc cư ai cũng bỏ cuộc.

Cho nên theo luật nhân quả, hiện tại tu đúng thì quả hiện tại sẽ được giải thoát.

Thầy dạy các con từng bước tu tập, mà các con không làm đúng lời thầy thì kết quả các con phải gặt lấy không giải thoát. Còn phạm vào giới hạnh độc cư thì làm sao tu hành giải thoát cho được.

Do không giữ trọn hạnh độc cư nên hôm nay tu viện chuyển mình vươn lên tạo thành lớp học dạy đạo đức giới luật, nếu các tu sinh học đạo đức mà không áp dụng thực hành vào đời sống của mình thì không bao giờ có giải thoát, không giải thoát là do các tu sinh, chứ không phải do thầy dạy. Các tu sinh có thấy lỗi chưa? Từ đây đã có lớp học rèn luyện nhân cách đạo đức hiếu sinh, vậy các tu sinh hãy nỗ lực học tập và áp dụng những bài học đạo đức vào cuộc sống của mình. Học đến đâu áp dụng đến đó để huân tập thành một thói quen đạo đức, thì lúc bấy giờ các tu sinh là đức hiếu sinh và đức hiếu sinh là tu sinh.

Chừng đó các tu sinh sẽ thấy sự giải thoát làm chủ sinh, già, bệnh, chết thật là tuyệt vời mà không có người nào ngờ được.

Con đường tu tập này không có ai có thể tu tập cho mình được, chỉ có mình siêng năng hằng ngày tu tập và áp dụng sống với lòng thương yêu và tha thứ, thì con đường giải thoát ở tại nơi đó không còn xa nữa.

Trả lời câu hỏi 6:

Và đưa về tịnh xá Kỳ Hoàn, cho xuất gia làm Sa môn”. Hành động đưa về tịnh xá cho xuất gia là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Từ một giai cấp Chiên Đà La bị mọi người xem thường, khinh rẻ, và cũng chính tự những người trong giai cấp hạ liệt đó, họ vẫn xem thường, khinh rẻ họ. Tự họ bắt buộc họ phải cung kính và tôn trọng những giai cấp khác, nhất là họ không dám lại gần những giai cấp kia. Hôm nay được đức Phật nâng lên thành giai cấp lãnh đạo tinh thần như các vị Sa Môn, khiến cho họ quá sợ sệt và chưa bao giờ họ dám nghĩ.

Hành động yêu thương của đức Phật rất tuyệt vời. Dám nhận giai cấp cùng đinh hạ liệt Chiên Đà La làm đệ tử, thật là bình đẳng không chỗ nói, khiến cho những giai cấp lục sư Bà La Môn đang lãnh đạo tinh thần toàn dân trong nước đều kinh hãi.

Đạo Bà La Môn chấp nhận họ là giai cấp lãnh đạo tinh thần. Vì thế, người đạo sĩ Bà La Môn phải bảy đời truyền thống dòng họ với nhau mới được gọi là Bà La Môn. Đó là cách thức cha truyền con nối, không để cho người khác xen vào giai cấp lãnh đạo tinh thần của mình.

Ở giai cấp cùng đinh, hạ liệt trong xã hội loài người, mà đức Phật đã trợ giúp dạy tu tập để trở thành một vị A La Hán thì chắc chắn mọi người trên hành tinh này ở nơi đâu Ngài cũng không bao giờ bỏ người nào cả.

Chỉ tùy duyên hóa độ. Riêng đức Phật, Ngài mong muốn cho tất cả chúng sinh đều tu hành chứng quả A La Hán.

Ngài mong rằng mọi người đều sống trong giới luật đức hiếu sinh của Ngài để hành tinh này được bình an, yên ổn, và con đường tu học của Ngài còn phải đi xa hơn, cao hơn là phải chứng quả giải thoát làm chủ bốn sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt sinh tử luân hồi.

Ước nguyện to lớn của Ngài là tất cả chúng sinh đều thành Phật, nên Ngài mới tuyên bố: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Ngài biết rất rõ pháp môn của Ngài không phải là pháp môn khó tu, chỉ người tu hành chịu khó hiểu biết cho tường tận rõ ràng những lời dạy của Ngài. Khi hiểu biết rõ và có sự quyết tâm từ bỏ các ác pháp, các dục với lòng yêu thương rộng lớn vô bờ bến đối với tất cả chúng sinh là ngay đó có kết quả giải thoát liền, không phải đợi tu lâu như xưa nay người ta nghĩ.

Bởi vậy, những người trí tuệ bén nhạy khi nghe Phật thuyết giảng hiểu biết, liền ngộ một cách sâu xa, nên liền buông xả sạch. Khi tâm buông xả sạch tức là tâm chỉ còn lòng yêu thương rộng lớn như trời, như biển. Nhờ có lòng thương yêu rộng lớn như vậy nên chứng đạo liền. Chứng đạo của Phật giáo chỉ cần hiểu biết rốt ráo các pháp vô thường, khổ, vô ngã, nhờ hiểu biết như vậy nên buông xả sạch. Buông xả sạch thì đâu còn tu tập cái gì nữa. Cho nên trong thời đức Phật còn tại thế, khi nghe Phật thuyết pháp xong là người ta chứng pháp nhãn thanh tịnh, và chẳng bao lâu chứng quả A La Hán. Đó là một sự nói thật, chứ không phải lừa đảo mọi người.

Cho nên có nhiều người nghe hiểu biết mà không buông xả, nên cố gắng tu tập mà không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không giữ trọn hạnh độc cư, nên tu hoài chẳng đi đến đâu. Thật là tội nghiệp!

Trả lời câu hỏi 7:

Người gánh phân thành ra tinh tấn, cần khổ chuyên tâm”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC TINH CẦN HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Người tu theo Phật giáo chỉ có sự tinh tấn, siêng năng, cần mẫn ngồi lại một mình gạn lọc tâm tư, nếu người nào gạn lọc kỹ lưỡng chỉ trong thời gian ngắn là chứng đạo. Gạn lọc tâm tư tức là quán xét thân tâm. Khi nào thấy tâm không còn bị chướng ngại pháp, lúc nào tâm cũng thanh thản, an lạc và vô sự thì đó mình đã gạn lọc sạch tâm tư.

Tại sao người gánh phân ngu dốt mà lại tu mau chứng quả A La Hán? Người Chiên Đà La là dân nô lệ nên tài sản đâu có gì, chỉ có bản thân, nhưng bản thân cũng không phải của mình mà của những người chủ, của giai cấp khác. Vì thế người chủ bảo sao là thân phải làm ngay, không làm thì bị hành hạ. Cho nên khi được đức Phật cho tu hành thì người hốt phân đâu còn gì để buông xả, mà chỉ còn xả tâm dục của mình mà thôi, nên khi họ hiểu ra Phật giáo chỉ có XẢ TÂM VÔ LƯỢNG thì ngay đó là chứng đạo, chứ đâu có tu thiền, tu định gì nhiều mà phải khổ công luyện tập như các tôn giáo khác. Từ giới sinh định, mà giới luật đức hạnh là pháp xả tâm. Do xả tâm mà thành tựu thiền định; do xả tâm mà được giải thoát.

Người tu theo Phật giáo chỉ có tri kiến hiểu biết, tri kiến hiểu biết là giác ngộ được các pháp vô thường, vô ngã, khổ. Khi ngộ các pháp vô thường, khổ, vô ngã thì biết tất cả các pháp không có pháp gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Hiểu như vậy thì buông xuống dễ dàng và buông xuống sạch. Buông xuống sạch hết là giải thoát. Cho nên khi buông xuống sạch hết ngay đó không cần phải tu tập gì nữa. Chỉ có những người không xả tâm mà cứ lo tu tập thiền định để cầu chứng đạo thì không bao giờ chứng đạo, dù họ có khổ công tu tập, nhưng họ tu tập được những gì, hay chỉ là những thần thông tưởng để lừa đảo lường gạt người khác mà thôi? Vì thế quý vị hãy nhớ, chỉ có giới luật đức hạnh mới giúp quý vị tu hành giải thoát mà thôi.

ĐỨC TINH CẦN HIẾU SINH THÂN HÀNH là một đức hạnh siêng năng để xả bỏ tất cả các ác pháp, mang đến cho chúng ta một tâm ly dục, ly ác pháp. Vậy chúng ta hãy siêng năng tinh cần học giới luật đức hạnh và áp dụng giới luật đức hạnh vào đời sống hằng ngày, trong lúc đến lớp học, khi đi khất thực, cũng như lúc ở trong thất.

Trả lời câu hỏi 8:

Nên chưa đầy một tuần chứng quả A La Hán, thần thông tự tại”. Câu này dạy ĐỨC THÀNH QUẢ HIẾU SINH Ý HÀNH tuyệt vời.

Chỉ chưa đầy một tuần lễ mà đã chứng quả A La Hán đầy đủ thần thông tự tại.

Đúng vậy, đạo Phật đâu có gì kỳ đặc khó khăn như người ta nghĩ: Tu hành phải trở về bản thể vạn hữu, phải kiến tánh thành Phật theo Thiền tông Trung Hoa; tu hành là phải có những năng lực siêu việt như thần thông phép lạ theo Mật tông Tây Tạng; tu hành theo Phật giáo đâu có gì cao siêu huyền bí như thế giới siêu hình Cực Lạc theo Tịnh Độ tông. Phật giáo chỉ là tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ; chỉ là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Nếu tâm ly dục, ly ác pháp, chỉ còn lại một trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự thì tâm đó là tâm chứng đạo. Như vậy bảo sao người Chiên Đà La tu hành không mau chứng quả giải thoát? Tu hành theo Phật giáo có gì đâu, cứ trên Tứ Niệm Xứ quán xét xả hết dục và ác pháp là tu xong.

Đạo Phật không tu thiền định mà có thiền định; không tu thần thông mà có thần thông, chỉ có sống với đúng giới luật đức hạnh hiếu sinh mà ngay đó là thiền định, là thần thông. Có mà không cần tu tập; có mà không cầu mong. Thật là tuyệt vời!

Trả lời câu hỏi 9:

Lúc bấy giờ, vua trong nước nghe tin đức Phật độ cho một người Chiên Đà La, lấy làm bất mãn”. Câu này chỉ rõ nhà vua THIẾU ĐỨC BÌNH ĐẲNG HIẾU SINH.

Phàm người ở đời, nếu ai hơn mình thì sinh ra ganh ghét, tỵ hiềm; ai thua mình thì sinh tâm khinh khi, coi rẻ. Tâm trạng người ở đời rất ích kỷ, hẹp hòi, nhỏ bé. Đó là họ đã đánh mất đức hiếu sinh nên mới sinh tâm như vậy.

Nhà vua này cũng không có đức bình đẳng hiếu sinh, nên khi nghe đức Phật nhận người gánh phân giai cấp Chiên Đà La vào tăng đoàn trở thành một vị Sa Môn thì bất mãn, chống lại hành động đạo đức bình đẳng của Phật. Nhưng đức Phật đầy đủ trí tuệ hiểu biết lòng người đắm mê thần thông, thấy ai thị hiện thần thông xem người đó như thần, như thánh; thấy người nào ngồi thiền 2, 3 ngày không ăn uống là cho họ chứng đạo, chứng thiền. Một cậu bé người Ấn Độ ngồi thiền 6 tháng không ăn uống, báo chí, đài điện thông tin làm cả một thế giới đều bị động. Mọi người đều cho đó là Thánh, Thần, Tiên, Phật, là chứng đạo.

Những trò kỳ lạ, định tưởng có gì lạ, nhưng những điều đó có làm lợi ích gì cho thế gian này đâu, thế mà làm náo động?! Hiện giờ thời đại khoa học kỹ nghệ hóa, con người tiến bộ về mặt khoa học rất xa, nhưng họ chưa xác định được: Thần thông từ đâu, do đâu mà con người có được, làm được? Còn những bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật là những con người như thế nào? Họ sống ra sao? Ở đâu? Họ làm gì? Một số câu hỏi như vậy chưa có ai trả lời đúng.

Hiện nay người ta nghĩ rằng: Người nào dù có tôn giáo hay không có tôn giáo hoặc ở trong bất cứ tôn giáo nào mà thị hiện thần thông biến hóa, tàng hình, biết chuyện quá khứ vị lai, v.v.. là Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Những quan niệm ấy là những quan niệm sai lầm.

Thần, Thánh, Tiên, Phật là những người sống toàn thiện, họ có đầy đủ trí tuệ nhìn thấu suốt các pháp thế gian là vô thường, nên họ không còn dính mắc một pháp nào cả, dù pháp đó nhỏ như hạt vi trần (nhỏ hơn hạt bụi) họ cũng buông xuống sạch. Do buông xuống sạch các pháp ác và tâm dục nên họ là Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Từ chỗ buông xả và làm chủ đó, họ thấy mọi người không chịu buông xuống, còn dính mắc các pháp nên chịu nhiều khổ đau. Vì thế họ rất thương yêu tất cả chúng sinh, vì vô minh không hiểu biết các pháp vô thường mà cứ tưởng là thường nên chấp chặt, tranh đua hơn thiệt nên mọi người đều ở trong ác pháp, chịu biết bao nhiêu sự khổ đau.

Thần, Thánh, Tiên, Phật chỉ là những người đạt đến lòng yêu thương rộng lớn như trời biển, chứ không phải như mọi người nghĩ: Thần, Thánh, Tiên, Phật là phải có thần thông siêu việt.

Nhà vua này vô minh, còn ở trong tâm tư nhỏ hẹp, không thấy sự sống của mọi người, mọi loài đều bình đẳng như nhau, nên mới có ý cản ngăn.

Sự bất mãn của nhà vua đã xác định nhà vua không có đức hiếu sinh bình đẳng, chỉ biết danh dự của mình. Danh dự của mình là gì? Nếu không có lòng yêu thương thì danh dự đó chỉ là một ác pháp làm khổ mình, khổ người. Nhiều khi vì danh dự mà giết con như những cháu gái móc thai, nạo thai; vì danh dự nước này đi chinh phục nước khác, vì danh dự xóm làng ngày xưa khi các cháu gái có chửa hoang đều bị cột trên bè chuối thả trôi sông, hoặc bị ném đá cho đến chết. Tất cả những hành động như vậy thật không có đức hiếu sinh chút nào, khiến cho con người rất khổ đau.

Trả lời câu hỏi 10:

Cho rằng làm như vậy ô nhục hàng Sa môn và làm khó khăn sự kính lễ của các hàng vua chúa”. Câu này nói lên sự cố chấp giai cấp của nhà vua, khiến cho nhà vua đánh mất ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH BÌNH ĐẲNG.

Là con người ai cũng như ai, cũng sống như nhau thì phải bình đẳng như nhau, phải biết tôn trọng lẫn nhau. Cho nên dù làm vua, làm quan, làm dân hay bất cứ là một người nào trong xã hội đều phải sống với đức khiêm hạ. Có đức khiêm hạ thì con người mới đối xử bình đẳng. Càng làm lớn như làm vua, làm quan thì lại càng sống với đức khiêm hạ hơn, có như vậy mọi người mới quý mến và kính trọng.

Quý tu sinh hãy đọc lại lời nói của nhà vua: “Cho rằng làm như vậy ô nhục hàng Sa môn và làm khó khăn sự kính lễ của các hàng vua chúa”. Nâng một con người từ giai cấp hạ liệt, cùng đinh lên bằng giai cấp của mình là ô nhục ư! Lời nói này có đúng không? Lời nói này không đúng, nâng một con người ở giai cấp thấp kém lên bằng giai cấp lãnh đạo tinh thần là làm ô nhục cho đạo Phật thì không có. Đức Phật đã mạnh dạn phá vỡ hàng rào giai cấp, đem một người ở giai cấp cùng đinh hạ liệt vào đạo Phật, nên đã biến Phật giáo là một tôn giáo bình đẳng nhất trên thế gian này.

Đức Phật đã phá vỡ hàng rào giai cấp, nâng giá trị giai cấp hạ liệt cùng đinh Chiên Đà La lên ngang bằng giai cấp tăng lữ, đã không làm ô nhục cho hàng Sa Môn mà còn làm tăng giá trị tăng lữ đầy đủ đạo đức nhân bản bình đẳng trong hàng ngũ Sa Môn. Với việc làm này, đức Phật đã gióng lên tiếng sấm sét, san bằng bốn giai cấp xã hội nước Ấn Độ vang rền lúc bấy giờ.

Đạo Phật có một nền đạo đức nhân bản - nhân quả mang đầy đủ đức hiếu sinh, vì thế nó rất bình đẳng đối với sự sống muôn loài trên hành tinh này. Cho nên vấn đề độ người gánh phân Chiên Đà La tu chứng quả A La Hán là một việc không thể thiếu được.

Đức hiếu sinh đi đến đâu thì đức bình đẳng theo đến đó. Đức bình đẳng đi đến đâu thì đức khiêm hạ theo đến đó. Nhờ đó mà tâm tham, sân, si, mạn, nghi bị diệt trừ. Tâm tham, sân, si, mạn, nghi bị diệt trừ thì sự giải thoát ở tại đó.

Bởi vậy, người tu hành đúng chánh pháp của Phật là tu tập rất dễ dàng, không có khó khăn. Cứ ngay từ giới luật mà sống đúng đức hạnh, nhất là đức hiếu sinh. Ông Phú Lâu Na có cái nhìn hiếu sinh kỳ lạ, luôn luôn thấy mọi người đều thương ông, đều tốt, không có người nào ác xấu, vì thế ông chứng quả A La Hán quá dễ dàng. Còn chúng ta thì sao? Nếu sống với đức hiếu sinh thì làm gì chúng ta không chứng quả A La Hán.

Trả lời câu hỏi 11:

Khi đến chỗ Phật ở thì thấy một vị Sa môn uy nghi đức hạnh, ngồi thiền trên một tấm đá, hiện nhiều thần thông kỳ diệu”. Câu này dạy ĐỨC KHÂM PHỤC Ý HÀNH.

Đức Phật biết rõ tâm niệm của con người, ai ai cũng đều ưa thích thần thông, thấy ai có thần thông đều cho đó là Tiên, Thánh, Phật, nên rất cung kính và tôn trọng.

Biết được tâm niệm này, nên đức Phật sai vị tỳ kheo Chiên Đà La ngồi tại cổng ra vào tịnh xá, chờ nhà vua đến thị hiện những thần thông. Đó là cách thức để nhiếp phục nhà vua, để làm cho nhà vua phải chấp nhận những người trong giai cấp Chiên Đà La tu hành. Đức Phật đã hiểu: ngoài thần thông ra không còn pháp nào thuyết phục được nhà vua.

Đạo Phật không chấp nhận thần thông, nhưng sao ở đây đức Phật lại cho thị hiện thần thông. Đức Phật cho thị hiện thần thông là vì không còn pháp nào thuyết phục nhà vua như trên đã nói. Vì tâm lý của con người, buộc lòng đức Phật phải xử dụng trò ảo thuật thần thông này để nâng một giai cấp hạ liệt lên ngang bằng với những giai cấp khác trong xã hội lúc bấy giờ. Một giai cấp mà tất cả mọi người già trẻ coi rẻ và xem thường.

Muốn san bằng giai cấp trong xã hội thì có nhiều cách khác nhau: như trong thời đại chúng ta muốn nâng một giai cấp nào thì những người trong giai cấp đó phải đi học, phải có tài có đức, phải thi đỗ đạt những cấp bằng cao học: Thạc sĩ, Tiến sĩ và trở thành những nhà khoa học, những ông bộ trưởng hay những ông nguyên thủ quốc gia, v.v...

Thời đức Phật không có trường lớp học hành như hiện nay, và nếu có trường học thì giai cấp Chiên Đà La cũng không ai chấp nhận cho vào học. Lúc bấy giờ đức Phật muốn nâng giá trị của giai cấp Chiên Đà La bằng những giai cấp khác, nên Ngài phải đào luyện người Chiên Đà La tu tập chứng đạo.

Đức Phật đã thành công: “Khi đến chỗ Phật ở thì thấy một vị Sa môn uy nghi đức hạnh, ngồi thiền trên một tấm đá, hiện nhiều thần thông kỳ diệu”. Nhờ thế từ đây không ai dám xem thường giai cấp Chiên Đà La, vì giai cấp Chiên Đà La có người tu chứng quả A La Hán.

Trả lời câu hỏi 12:

Vua lễ Phật và bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Vị Sa môn kia danh hiệu là gì, sao lại có nhiều thần thông như vậy?”. Câu này dạy ĐỨC TÔN TRỌNG KHẨU HÀNH TÀ TÍN.

Khi thấy thần thông pháp thuật cao cường, kỳ lạ của một vị tỳ kheo ngồi thiền trước cổng tịnh xá thị hiện, khiến nhà vua quá khâm phục. Đó là một sự cung kính tà tín, thiếu tri kiến chánh tín mà từ xưa cho đến giờ con người từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc vẫn còn duy trì những tà tín này chưa bỏ được. Vì tâm ham mê thần thông mà con người dễ bị tà đạo lừa đảo.

Ở đây đức Phật dùng trò ảo thuật này để san bằng giai cấp trong xã hội, làm lợi ích cho con người, chứ không phải dùng thần thông để lừa đảo nhà vua, mà để cho nhà vua thấy giai cấp đó cũng thực hiện sự giải thoát như các giai cấp khác trong xã hội loài người.

Thần thông chỉ thị hiện như một trò ảo thuật chơi, chứ chẳng có ích lợi gì cho loài người. Do thiếu tri kiến chánh tín nên mọi người bị một số tà sư ngoại đạo xử dụng thần thông lừa đảo lường gạt, biến họ thành những đệ tử như những con chiên ngoan đạo.

Từ những thần thông này mà trên hành tinh chúng ta có biết bao nhiêu tôn giáo, biết bao nhiêu giáo chủ xuất hiện ra đời, nhưng họ chỉ để lại sự tang thương cho loài người, những dấu ấn “TỬ VÌ ĐẠO”, “THÁNH CHIẾN”, “TỰ SÁT” và “KHỦNG BỐ” rất đau lòng. Con người chết vì tôn giáo không biết bao nhiêu mà kể. Trong các tôn giáo, thần thông đóng một vai trò rất quan trọng để lừa bịp con người là dễ nhất.

Muốn san bằng giai cấp trong xã hội nước Ấn Độ, đức Phật đã biết rõ lòng người ham mê thần thông, nên Ngài xử dụng thần thông để nhà vua không có ý kiến cản trở và ngăn chặn việc làm của Ngài, để Ngài hóa độ cho những giai cấp hạ liệt cùng đinh theo tu học.

Ngài xử dụng thần thông không mê hoặc con người, mà chỉ để giúp con người thoát ra khỏi sự phân chia giai cấp. Ngài không dạy mọi người lừa đảo người khác bằng thần thông, mà chỉ dạy con người thực hiện sống đạo đức nhân bản - nhân quả biết thương nhau; biết tha thứ mọi lỗi lầm của nhau; biết chia sẻ ngọt bùi cay đắng; biết làm chủ tâm mình để ly dục, ly ác pháp; biết sống thanh thản, an lạc và vô sự; biết làm chủ sinh, già, bệnh, chết; biết chấm dứt sinh tử luân hồi; biết không bị người khác lừa đảo bằng những thần thông như: ngồi thiền 5, 7 ngày hoặc 5, 10 tháng không ăn uống, hoặc phóng hào quang, hoặc biết chuyện quá khứ vị lai hoặc tàng hình, biến hóa, độn thổ, đi trên nước, đi trên hư không, v.v...

Trả lời câu hỏi 13:

Đức Phật bảo rằng: “Đó là người gánh phân, nhờ công hạnh tinh tấn nên chứng được quả A La Hán”. Lời dạy này là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH BÌNH ĐẲNG.

Từ một người giai cấp Chiên Đà La hạ liệt cùng đinh vẫn tu hành chứng quả A La Hán dễ dàng, chỉ công phu chưa đầy một tuần lễ.

Rõ ràng pháp Phật tu chứng đạo không phải khó, chỉ vì người ta không hiểu mới kiến tưởng giải ra pháp môn này, pháp môn khác, gây thêm nhiều rắc rối trong sự tu hành chứng quả A La Hán.

Thậm chí các sư thầy, tổ kiến tưởng giải cách thức tu hành bằng những phương pháp ức chế tâm làm cho hết vọng niệm, hoặc luyện tưởng như thế này, thế khác để tạo ra thần thông kỳ lạ khiến cho mọi người kinh hãi bái phục. Khi thấy có người bái phục thì lại tự xưng mình là giáo chủ này, giáo chủ kia để làm tiền những người nhẹ dạ cả tin, để xây dựng chùa to, Phật lớn như cung điện vua chúa thời phong kiến, kế đó hô hào đóng góp làm từ thiện để tạo uy tín và thế lực, để làm tiền tín đồ một cách dễ dàng hơn.

Thật sự giáo pháp của Phật trong kinh sách Nguyên Thủy còn đó, nhưng các sư thầy không biết khởi sự tu tập cái gì trước, cái gì sau, nên cứ nghĩ là phải tu thiền định, chỉ có thiền định là con đường ngắn nhất, hay còn cho pháp môn niệm Phật là pháp môn dễ tu, hợp thời đại. Nhưng xét lại các pháp môn: từ Thiền tông Trung Hoa, Thiền Minh Sát Tuệ cho đến pháp môn niệm Phật, Mật tông đều là những pháp môn ức chế tâm. Cho nên hiện giờ chưa thấy có người nào tu chứng quả A La Hán. Trong khi quả A La Hán tu hành tinh tấn chưa đầy một tuần lễ là đã chứng đạo. Với một người ngu dốt như giai cấp Chiên Đà La, giai cấp không được học thức, thế mà tu chứng đạo một cách dễ dàng.

Trong khi đức Phật đã tuyên bố rõ ràng:

“GIỚI SINH ĐỊNH”. Vậy các sư, thầy lại không học tu tập GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH, mà lại tu tập THIỀN ĐỊNH. Không tu tập GIỚI LUẬT thì biết pháp môn gì mà tu tập THIỀN ĐỊNH. Cho nên quý sư thầy tự chế ra pháp môn tu tập như: Thiền Minh Sát Tuệ, Thiền Trực Chỉ Chơn Tâm Kiến Tánh Thành Phật, Niệm Phật Trực Vãng Tây Phương, Thiền Bá Trúc Cơ, Thiền Đốn Ngộ, Thiền Xuất Hồn, Thiền Vô Vi, Thiền Nhĩ Căn Viên Thông, Thiền Công Án... Khi tu hành chưa chứng đạo thì biết pháp gì mà chế ra để tu THIỀN ĐỊNH và NIỆM PHẬT.

Thiền tông, Mật tông, Tịnh Độ tông tu tập là pháp kiến tưởng giải của các tổ sư, những pháp môn ấy không nói lên được những giáo điều của Phật giáo nguyên thủy nào cả, nên được xem nó là ngoại đạo. Còn có một số sư thầy lấy pháp môn TỨ NIỆM XỨ mổ xẻ ra chia manh, xẻ mún ra làm nhiều pháp như:

trường thiền QUÁN THÂN, trường thiền QUÁN THỌ, trường thiền QUÁN TÂM và trường thiền QUÁN PHÁP.

Pháp môn TỨ NIỆM XỨ chỉ là một pháp môn duy nhất, không được chia cắt ra làm nhiều phương pháp như các sư thầy Nam tông; TỨ NIỆM XỨ là pháp môn CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC để nhiếp phục tham ưu trong cuộc sống hằng ngày; là pháp môn giữ gìn giới luật ly dục, ly ác pháp hoàn toàn, chứ đâu phải ngồi ức chế tâm như Thiền Đông Độ “chẳng niệm thiện niệm ác”, hay Tịnh Độ tông “thất nhựt nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật”.

Các sư thầy Nam tông cũng biến pháp môn TỨ NIỆM XỨ của Phật trở thành pháp môn Thiền tông Trung Hoa và Tịnh Độ tông niệm Phật.

Từ ham mê thần thông dẫn dắt các sư thầy, tổ đi sai lạc con đường tu tập của Phật giáo, nên thảo nào 25 thế kỷ trôi qua chẳng có người tu chứng quả A La Hán. Thật là đáng trách thay!

Trả lời câu hỏi 14:

Rồi đức Phật dùng thí dụ cho vua rõ ràng:

Như ở trong bùn dơ bẩn, có nở một hoa sen thơm ngát, vậy bệ hạ là người có mắt, bệ hạ có hái lấy đóa hoa kia không?”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH BÌNH ĐẲNG TÔN TRỌNG.

Giai cấp của con người được phân chia ra nhiều thành phần giai cấp, đều do con người.

Chính con người làm ra giai cấp, chứ không phải giai cấp làm ra con người, con người chỉ có một giai cấp, đó là giai cấp sống, vì thế ai cũng sống như nhau. Cho đến những loài vật có hình dạng khác nhau, nhưng cũng sống như nhau. Cho nên giai cấp sống là giai cấp bình đẳng, từ loài vật cho đến loài người đều sống như nhau.

Con người, các loài động vật và thảo mộc được sinh ra đều không có người nào, loài động vật nào và loài thảo mộc nào xấu cả.

Người, vật và thảo mộc nào được sinh ra cũng đều là tốt cả, nhưng vì nghiệp thiện ác của nhân quả nên có hình tướng khác nhau, tâm tính khác nhau, giàu sang nghèo hèn khác nhau, uy quyền quan tước khác nhau, ăn uống khác nhau, thực phẩm khác nhau, v.v...

Đức Phật khéo ví dụ: Giai cấp Chiên Đà La như bãi sình lầy, nhưng trong đó con người sẽ vươn lên như những hoa sen thơm ngát. Như vậy giai cấp do con người tự đặt ra cho con người. Hầu hết con người vì theo nghiệp nhân quả mà không chịu chuyển biến thay đổi nhân quả nên chịu nằm dưới bùn nhơ hôi thối; còn những người nào không chấp nhận cuộc sống theo nghiệp lực nhân quả bùn nhơ hôi thối thì chuyển đổi nhân quả vươn lên trở thành những hoa sen thơm ngát mùi hương.

Hiện giờ chúng ta đều sống trong nghiệp lực của mình: làm theo nghiệp lực, vui theo nghiệp lực, khổ đau theo nghiệp lực, bệnh tật theo nghiệp lực, sống chết theo nghiệp lực, thương yêu theo nghiệp lực, sân giận buồn phiền theo nghiệp lực; đi, đứng, nằm, ngồi theo nghiệp lực; nói, nín, ăn, ngủ theo nghiệp lực, v.v... Vì thế mà phải chịu khổ muôn đời.

Trong cuộc đời này chỉ có những người được giác ngộ theo bốn chân lý của Phật giáo mới không chấp nhận sống theo nghiệp lực nhân quả, mà sống theo giới luật đức hạnh của Phật giáo, nên làm thay đổi nghiệp lực.

Làm thay đổi nghiệp lực là sống không theo nghiệp lực mà sống theo đức hiếu sinh; không vui theo nghiệp lực mà vui theo đạo đức hiếu sinh; không đau khổ theo nghiệp lực mà ngăn và diệt đau khổ theo đạo đức hiếu sinh; không bệnh tật theo nghiệp lực mà đẩy lui bệnh tật theo đạo đức hiếu sinh; không thương yêu theo nghiệp lực mà thương yêu theo đức hiếu sinh; không sân giận buồn phiền theo nghiệp lực mà ly dục, ly ác pháp theo đức hiếu sinh; không đi, đứng, nằm, ngồi theo nghiệp lực mà đi, đứng, nằm, ngồi theo pháp môn tĩnh giác chánh niệm đức hiếu sinh; không nói, nín, ăn, ngủ theo nghiệp lực mà nói, nín, ăn, ngủ theo pháp môn tĩnh thức đức hiếu sinh, v.v...

Nhờ sống đúng giới luật đức hạnh hiếu sinh của Phật ở trên, nên bãi sình lầy hôi tanh nghiệp lực nhân quả nở ra những hoa sen thơm ngát mùi hương. Đó là những ví dụ cụ thể để chúng ta thấy rất rõ ràng: chỉ có đạo đức của Phật giáo mới chuyển đổi được nghiệp lực nhân quả, ngoài giới luật đức hạnh ra không có pháp môn nào chuyển được.

Trả lời câu hỏi 15:

Vua đáp: “Đóa hoa tuy mọc trong bùn lầy mà thơm ngát hương quý, rất nên dùng để trang sức”. Lời dạy này là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH MINH MẪN.

Nhà vua phải công nhận lời đức Phật dạy là đúng: Dù là những người sống trong giai cấp nào, nhưng khi đến với đạo Phật thì chỉ còn một giai cấp bình đẳng ngang nhau mà thôi. Đối với đạo Phật, giai cấp cùng đinh hạ liệt và giai cấp vua chúa khi đến với đạo Phật thì hai giai cấp đó chỉ xem như nhau.

Trong đạo Phật chỉ thuần có một giai cấp sống được cung kính và tôn trọng như nhau.

Vì thế từ con người cho đến các loài động vật và cỏ cây, đất đá, núi sông, không khí, thời tiết, mưa nắng, gió bão, v.v.. đều được yêu thương bình đẳng như nhau.

Bởi sự sống trên hành tinh này là sự sống nương tựa vào nhau, cái này đau khổ thì cái kia đau khổ, cái này an vui thì cái kia an vui.

Nếu không có nước và không khí thì con người và muôn vật không thể sống; nếu không có cỏ cây, đất đá thì con người và các loài động vật không thể sống được; nếu không có các loài động vật thì con người cũng không thể sống được; nếu không có người này nương tựa vào người kia thì con người cũng không thể sống được.

Cho nên cuộc sống này là cuộc sống phải thương yêu nhau, chỉ có đức hiếu sinh mới đem lại sự bình an trên hành tinh này.

Đạo Phật ra đời đem lại cho loài người Tứ Vô Lượng Tâm. Tứ Vô Lượng Tâm là bốn đức hạnh rộng lớn vô cùng, để mang lại sự sống trên hành này, một sự sống bình an cho muôn loài. Nếu không có bốn đức này thì cuộc sống của muôn loài sẽ chịu khổ đau vô cùng, vô tận.

Bốn đức ấy là: TỪ, BI, HỶ, XẢ, nếu ai sống trên thế gian mà sống đủ bốn đức này thì không còn khổ đau nữa. Và vì vậy thế gian này là Thiên Đàng, Cực Lạc.

Đức hiếu sinh là một đức hạnh gồm đủ bốn đức Từ, Bi, Hỷ, Xả. Cho nên hôm nay chúng ta tu học giới thứ nhất của Phật giáo: KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH. Không nên giết hại chúng sinh, đó là đức hiếu sinh.

Một đức hạnh đem lại sự bình an cho nhân loại. Vậy chúng ta là những người có đầy đủ phước báu lớn nên hôm nay mới có cơ hội học tập và rèn luyện nhân cách để thực hiện một kiếp người ra khỏi bốn sự khổ đau: sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi.

Đức hiếu sinh đi đến đâu sẽ đem đến sự an vui cho mình, cho người và cho muôn loài vật đến đó. Quý tu sinh có tin điều này không? Quý tu sinh cứ thực hiện đi thì sẽ thấy kết quả ngay liền. Đạo Phật không có tu tập chi nhiều, chỉ có bấy nhiêu đó mà thôi, hãy sống đi rồi sẽ biết lời dạy này không dối người: “TÌNH THƯƠNG LÀ ĐỆ NHẤT PHÁP GIẢI THOÁT”.

Trả lời câu hỏi 16:

Còn bùn lầy dơ bẩn kia thì nên quán xem như là bào thai của bà mẹ, chính tự trong bào thai mà sinh nở đóa hoa công đức”. Lời dạy này là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH CHUYỂN ĐỔI NHÂN QUẢ”.

Đúng vậy, nhân quả nghiệp báo chỉ là cái nôi để sản sinh ra những bậc A La Hán, nếu chúng ta biết cách chuyển đổi nhân quả thì quả A La Hán không phải khó khăn. Chuyển đổi nhân quả chỉ có giới luật đức hạnh, vì giới luật đức hạnh là thiện pháp. Cho nên thiện pháp mới chuyển đổi ác pháp, tức là lấy thiện chuyển ác. Đó là một điều xác định đúng, không còn có ai dám phủ nhận.

Hiện giờ mọi người ai cũng đang ở trong cái nôi nghiệp lực nhân quả, đang quay cuồng bị nghiệp lực sai khiến, đang bị điều khiển.

Con người chỉ là những kẻ nô lệ cho nghiệp lực nhân quả. Hiện giờ chưa có một người nào làm chủ, điều khiển lại nghiệp lực nhân quả này được.

Nhờ theo Phật giáo, hôm nay chúng ta may mắn được tham dự lớp học NGŨ GIỚI rèn luyện nhân cách đạo đức hiếu sinh để chuyển hóa nhân quả nghiệp lực, để làm chủ nghiệp lực nhân quả, để thoát ra cảnh nô lệ của nghiệp lực nhân quả, để thoát ra cảnh làm tay sai cho nhân quả nghiệp lực.

Sau khi tham dự lớp học này, người thông minh hiểu biết liền áp dụng đức hiếu sinh vào đời sống hằng ngày để thoát ra qui luật nhân quả, để chuyển đổi những quả khổ đau thành cuộc sống hiện tại an vui và hạnh phúc.

Lớp học này chỉ chuyên ròng học đạo đức hiếu sinh. Hơn ba tháng nay, nếu mọi người siêng năng học tập và áp dụng ngay vào cuộc sống hằng ngày thì kết quả sẽ vô cùng mỹ mãn, và khi mãn khóa lớp đạo đức hiếu sinh này thì chúng ta lại tiếp tục học lên lớp thứ hai: ĐỨC LY THAM TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO.

Đó là chặng đường học đạo đức thứ hai của chúng ta. Nếu chặng đường thứ nhất chúng ta chưa hoàn chỉnh được đức hiếu sinh, tức là chưa áp dụng thực hành lòng yêu thương đối với sự sống hằng ngày trên hành tinh này, để tâm ly dục, ly ác pháp, thì chặng đường thứ hai chúng ta tu học chỉ còn là học lý thuyết suông, và như vậy thì rất uổng phí thời gian, không ích lợi nhiều. Mỗi chặng đường tu học là một sự thâm nhập vào giới luật đức hạnh để chuyển hóa nhân quả nghiệp báo.

Chúng ta sinh ra từ trong một bào thai nghiệp lực nhân quả bất tịnh, ô uế, hôi thối.

Nếu không có giới luật đức hạnh của Phật giáo thì làm sao chuyển nổi những nghiệp báo nhiều đời, nhiều kiếp, nó đã trở thành một sức lực mạnh mẽ vô cùng. Cho nên chúng ta thấy mọi người sống chung quanh chúng ta đang bị nó sai khiến: Nó bảo người ta bệnh tật là người ta bệnh tật; nó bảo người ta chết là người ta chết; nó bảo người ta sợ hãi là người ta sợ hãi; nó bảo người ta phiền não là người ta phiền não; nó bảo người ta khóc là người ta khóc; nó bảo người cười là người ta cười; nó bảo người ta ăn là người ta ăn; nó bảo người ta không ăn là người ta không ăn; nó bảo người ta tức giận là người ta tức giận; nó bảo người ta nói dối là người ta nói dối; nó bảo người ta giết chúng sinh ăn thịt là người ta giết chúng sinh ăn thịt; nó bảo người ta mắng chửi vợ con là người ta mắng chửi vợ con; nó bảo người ta hút thuốc lá, thuốc lào, uống rượu, cờ bạc, cá cược là người ta hút thuốc lá, thuốc lào, uống rượu, cờ bạc, cá cược; nó bảo người ta đánh giết nhau là người ta đánh giết nhau, v.v...

Cho nên nghiệp lực nhân quả sai bảo làm cái gì thì mọi người đều làm theo, không ai dám cãi lại. Chỉ có những người học đạo đức hiếu sinh như chúng ta thì nó không sai bảo được. Vì chúng ta không làm theo nghiệp lực mà chuyển đổi nghiệp lực, khiến nó làm theo chúng ta. Chúng ta bảo nó làm cái gì thì nó làm theo cái nấy, nó không bao giờ dám cãi lại chúng ta. Bấy giờ chúng ta đã làm chủ nhân quả. Nếu chúng ta không tu học đạo đức hiếu sinh thì chúng ta làm tay sai cho nhân quả, còn học đạo đức hiếu sinh thì chúng ta làm chủ nhân quả nghiệp báo.

Cho nên nó bảo chúng ta sợ hãi là chúng ta không sợ hãi; nó bảo chúng ta phiền não là chúng ta không phiền não; nó bảo chúng ta khóc là chúng ta không khóc; nó bảo người cười là chúng ta không cười; nó bảo chúng ta ăn là chúng ta không ăn; nó bảo chúng ta không ăn là chúng ta ăn; nó bảo chúng ta tức giận là chúng ta không tức giận; nó bảo chúng ta nói dối là chúng ta không nói dối; nó bảo chúng ta giết chúng sinh ăn thịt là chúng ta không giết chúng sinh ăn thịt; nó bảo chúng ta mắng chửi vợ con là chúng ta không mắng chửi vợ con; nó bảo chúng ta hút thuốc lá, thuốc lào, uống rượu, cờ bạc, cá cược là chúng ta không hút thuốc lá, thuốc lào, uống rượu, cờ bạc, cá cược; nó bảo chúng ta đánh giết nhau là chúng ta không đánh giết nhau, v.v...

Học giới luật đức hạnh lợi ích như vậy, chúng ta hãy cố gắng học tập để chuyển đổi nhân quả nghiệp báo xấu; để trở thành lòng thương yêu rộng lớn như trời biển; để đem lại hạnh phúc an vui cho muôn loài, cho hành tinh một màu xanh tươi thắm.

Trả lời câu hỏi 17:

Vị A La Hán trước làm nghề đổ phân, nay công quả tu hành viên mãn, chứng được đạo quả bất khả tư nghì”. Câu này dạy KẾT QUẢ ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH, Ý HÀNH, THÂN HÀNH.

Từ một người giai cấp Chiên Đà La chẳng ra gì, chỉ có siêng năng cần mẫn tu tập thực hiện giới luật đức hạnh chưa đầy bảy ngày mà chứng quả bất khả tư nghì. Thật là tuyệt vời! Đạo Phật không phân biệt người giàu sang, người nghèo hèn; không phân biệt giai cấp nào cả, dù vua chúa, thứ dân; không phân biệt người biết chữ hay người không biết chữ, miễn sao người nào đến với đạo Phật phải siêng năng, cần mẫn tu tập, giữ gìn giới luật đức hạnh nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả, thì ngay trên giới luật đức hạnh đó họ đã chứng đạo vô lậu A La Hán liền.

Người Chiên Đà La là người không biết chữ, vậy mà tu hành chứng đạo nhanh chóng như vậy là nhờ giữ gìn giới luật, sống đúng đức hạnh nghiêm chỉnh. Cho nên sự tu chứng của người Chiên Đà La là một bằng chứng cho chúng ta biết đạo Phật tu hành không khó khăn, người nào tu hành cũng đều chứng đạo cả.

Người đời sau không biết giới luật là pháp môn tu chứng đạo, nên cứ mãi lo nhiếp tâm diệt trừ vọng niệm, tu tập thiền định, khi mà giới luật đức hạnh chưa nghiêm chỉnh mà tu tập thiền định là tu tập sai, tu tập vào thiền tưởng. Tu tập thiền tưởng thì không bao giờ chứng quả A La Hán được, vì đó không phải là pháp môn của Phật giáo.

Trả lời câu hỏi 18:

Trẫm nay xin nguyện luôn luôn cúng dường mọi món cần thiết không dám để thiếu thốn”. Câu này dạy ĐỨC CUNG KÍNH HIẾU SINH CÚNG DƯỜNG KHẨU HÀNH.

Lời nói cung kính tôn trọng của nhà vua là giai cấp thống trị đã tuyên bố như vậy thì giai cấp Chiên Đà La được nâng lên ngang bằng như những giai cấp khác trong xã hội.

Chỉ có Phật giáo mới đem lại sự bình đẳng cho mọi người.

Người giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, sống đời đức hạnh là chuyển sạch nhân quả, nên phước báu vô lượng, ở đâu từ trường thiện cũng phủ trùm nơi đó. Cho nên cơm ăn, áo mặc không thiếu.

Người tu hành phạm giới, phá giới thì phước báu không có, nên không được mọi người cung kính tôn trọng, dù cho có làm đến chức vụ gì, dù có học hành đỗ Thạc sĩ, Tiến sĩ, nhưng giới luật vi phạm thì mọi người cũng không cung kính tôn trọng.

Cho nên quả vị A La Hán là quả vị của kết quả giới luật giữ gìn nghiêm chỉnh, chứ không phải kết quả của thiền định. Người tu hành theo Phật giáo hiện giờ tu sai pháp, không đúng như Phật dạy, nên thảo nào tu mãi mà không chứng quả giải thoát được.

Tu như vậy rất uổng phí một đời, một kiếp người, phí công vô ích, thật đáng thương thay! Tiếc thay! Các tu sinh hãy lưu ý điều này để đừng lầm lạc trên đường tu hành. Phải cố gắng sống đời đức hạnh giới luật cho thật nghiêm chỉnh thì quả vô lậu A La Hán sẽ không phụ công lao tu hành của các tu sinh.

Ước mong rằng lớp học NGŨ GIỚI của chúng ta tất cả tu sinh đều chứng quả giải thoát, không còn ai ở lại.

Bài học thứ 28: ƯỚC MƠ BÌNH THƯỜNG

Những áng văn sau đây được tìm thấy trên lăng mộ của một mục sư người Anh:

Khi tôi còn trẻ, trí tưởng tượng của tôi không giới hạn. Tôi mơ ước có thể thay đổi thế giới.

Khi trưởng thành và già dặn hơn một chút, tôi nhận thấy thế giới chẳng đổi thay gì cả. Vì vậy, tôi thu hẹp ước mơ của mình, và quyết định sẽ làm thay đổi đất nước tôi.

Nhưng dường như cũng chẳng có gì dịch chuyển.

Khi tôi lập thân, tôi thu hết sức bình sinh hòng làm thay đổi gia đình tôi, những người thân thiết nhất của tôi. Nhưng họ chẳng mảy may có ý tưởng gì về điều đó.

Và giờ đây, khi đang hấp hối trên giường, tôi chợt nhận ra: Chỉ khi nào tôi thay đổi được bản thân mình thì tôi mới thay đổi được gia đình tôi. Từ sự cổ vũ, khích lệ của họ, tôi sẽ có ích hơn cho đất nước - và ai mà biết được, không chừng tôi sẽ thay đổi được cả thế giới cũng nên.

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: “Những áng văn sau đây được tìm thấy trên lăng mộ của một mục sư người Anh”. Câu này dạy về đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 2: “Khi tôi còn trẻ, trí tưởng tượng của tôi không giới hạn. Tôi mơ ước có thể thay đổi thế giới”. Câu này dạy về đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 3: “Khi trưởng thành và già dặn hơn một chút, tôi nhận thấy thế giới chẳng đổi thay gì cả”. Câu này dạy về đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 4: “Vì vậy, tôi thu hẹp ước mơ của mình, và quyết định sẽ làm thay đổi đất nước tôi. Nhưng dường như cũng chẳng có gì dịch chuyển”. Câu này dạy về đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 5: “Khi tôi lập thân, tôi thu hết sức bình sinh hòng làm thay đổi gia đình tôi, những người thân thiết nhất của tôi. Nhưng họ chẳng mảy may có ý tưởng gì về điều đó”. Câu này dạy về đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 6: “Và giờ đây, khi đang hấp hối trên giường, tôi chợt nhận ra”. Câu này dạy về đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 7: “Chỉ khi nào tôi thay đổi được bản thân mình”. Câu này dạy về đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 8: “Thì tôi mới thay đổi được gia đình tôi”. Câu này dạy về đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 9: “Từ sự cổ vũ, khích lệ của họ, tôi sẽ có ích hơn cho đất nước”. Câu này dạy về đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 10: “Và ai mà biết được, không chừng tôi sẽ thay đổi được cả thế giới cũng nên”. Câu này dạy về đạo đức nhân quả gì?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

Những áng văn sau đây được tìm thấy trên lăng mộ của một mục sư người Anh”. Câu này dạy về ĐỨC KINH NGHIỆM HIẾU SINH Ý HÀNH, THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH.

Một bia văn ghi lại kinh nghiệm đời sống của một vị mục sư nói về đức hiếu sinh thân hành, khẩu hành và ý hành đã trải qua một đời người lãnh đạo tinh thần tín đồ tôn giáo Tin Lành.

Một bia văn mang đầy đủ ý nghĩa ước vọng của một mục sư từ tuổi trẻ, tuổi trung niên đến tuổi già sắp chết. Đọc qua tấm bia văn này là một bài học đạo đức hiếu sinh thực tế của một đời người, những áng văn này là một lời khuyên nhắc nhở chúng ta:

Những gì ở đây có làm được lợi ích cho mọi người, thì phải làm được lợi ích nơi thân tâm mình trước tiên.

Bài học đạo đức này chỉ nhắc lại, để chúng ta rút ra từ kinh nghiệm bản thân của mình không còn sống mơ mộng mà phải làm những gì ở tuổi nào cho phù hợp với nền đạo đức nhân bản - nhân quả; phải biết ngăn chặn và diệt những thói hư tật xấu, để sửa mình cho đúng theo đường lối sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người; để sửa mình phải sống như thế nào cho phù hợp với thời gian và không gian thì sự lợi ích mới thiết thực, mới cụ thể hơn để đến với mọi người.

Bài bia văn này là một lời khéo nhắc nhở mọi người hãy sống trong thực tế, chứ đừng sống trong mơ mộng ảo tưởng, phải nhận biết rõ khả năng của mình có làm được hay chưa làm được.

Cuộc đời là một trường học tập đạo đức để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Nếu mọi người không chịu học tập đạo đức thì cuộc đời sẽ đen tối và khổ đau chồng chất lên nhau ngút ngàn. Điều này các tu sinh có hiểu chăng? Nếu hiểu thì hãy cố gắng học tập và sống cho đúng những bài học đạo đức thì lợi ích rất lớn.

Trả lời câu hỏi 2:

Khi tôi còn trẻ, trí tưởng tượng của tôi không giới hạn. Tôi mơ ước có thể thay đổi thế giới”. Câu này dạy THIẾU ĐỨC THỰC TẾ HIẾU SINH Ý HÀNH.

Đức Phật dạy:

Quá khứ không truy tìm

Vị lai không ước vọng

Quá khứ đã qua rồi

Vị lai thì chưa đến

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính là đây”.

Vị mục sư tuổi trẻ nông nổi này chỉ sống trong mơ mộng, tưởng mình có thể làm thay đổi thế giới, trong khi mình chưa hiểu thế giới này do duyên gì và cấu tạo như thế nào mà tạo nên vạn vật. Không hiểu mà muốn làm thay đổi thế giới là một điều mơ mộng thiếu thực tế. Chính ngay bản thân mình, mình cũng chưa biết từ đâu sinh ra? Sinh ra để làm gì? Và chết đi về đâu còn chưa biết? Mà muốn làm thay đổi thế giới là một điều không tưởng, đó là một điều không thể có được.

Về quá khứ chưa rõ mình là ai? Còn hiện tại cũng chưa biết mình phải làm gì? Sống như thế nào cho đúng nghĩa của cuộc sống? Sống như thế nào để không làm khổ mình, khổ người? Vậy mà muốn làm thay đổi thế giới. Thật là không tưởng! Một bậc vĩ nhân như đức Phật, khi xuất hiện ra đời Ngài còn nói: “Hóa duyên độ chúng”. Có nghĩa là tạo duyên mới dạy người tu học, nếu không duyên thì không thể nào dạy ai được. Cho nên độ chúng sinh là độ người hữu duyên, chứ độ người không duyên thì không độ được. Vậy độ không được thì làm sao thay đổi thế giới. Chúng sinh khó độ và như vậy làm sao độ hết chúng sinh, mà không độ hết chúng sinh thì làm sao thay đổi thế giới. Cho nên việc làm thay đổi thế giới là một mộng tưởng.

Đạo Phật ra đời với nền đạo đức nhân bản - nhân quả để làm thay đổi thế giới này, nhưng hơn 25 thế kỷ trôi qua con người sống trong các pháp ác, vẫn sống trong các ác pháp có thay đổi được những gì đâu!? Cho nên muốn làm thay đổi thế giới thì chỉ là một ảo tưởng, một giấc mơ mà thôi.

Ngay cả những người gọi là đệ tử của Phật cũng đầu tròn, y vấn, áo vuông mà vẫn chạy theo dục lạc, danh lợi, ăn ngủ phi thời như người thế gian, sống phi phạm hạnh, sống phạm giới, phá giới làm giới luật tan nát, khiến đức hạnh của người tu sĩ Phật giáo không còn, tâm họ giống như người thế gian, thì còn mong gì đạo Phật làm thay đổi thế giới.

Mặc dù trên thế gian này có rất nhiều tôn giáo xuất hiện, nhưng làm lợi ích được những gì cho con người trên hành tinh này. Ác pháp vẫn tràn lan, đạo đức thì xuống cấp, tệ nạn xã hội càng tăng lên: nạn trộm cắp, cướp của, giết người, hiếp dâm, hút xách, xì ke, ma túy, mãi dâm, tai nạn giao thông, rượu chè, cờ gian, bạc lận, v.v... Con người gian tham, xảo trá lường gạt đủ mọi phương cách, đủ mọi âm mưu, thủ đoạn kinh thiên động địa, thật là đau lòng! Sự mơ ước làm thay đổi cuộc sống thế giới này, mà không biết cách dựng được nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người, thì khó mong làm thay đổi thế giới này được.

Trả lời câu hỏi 3:

Khi trưởng thành và già dặn hơn một chút, tôi nhận thấy thế giới chẳng đổi thay gì cả”. Câu này dạy về ĐỨC GIÀ DẶN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Càng từng trải sống trong cuộc đời, quý vị mới thấy qui luật nhân quả vận hành trong vũ trụ thì không thể nào làm thay đổi thế giới này được. Với nghiệp lực nhân quả của mỗi người thì chỉ còn biết tuân theo qui luật đó, chứ không thể làm ngược lại được, huống là làm thay đổi! Sự trưởng thành và già dặn của một vị linh mục không thể làm thay đổi thế giới này được, thậm chí cũng không thể làm thay đổi chính thân tâm ông được, huống là làm thay đổi những người trong gia đình. Cho nên ông chỉ mới thấy mình trưởng thành và già dặn hơn một chút, tức là ông cảm nhận được cuộc đời rất khó khăn, muốn làm cho nó tốt hơn thì phải cẩn thận dè dặt. Nhưng ông chưa biết cách thức nào để làm cho nó thay đổi, vì chính ông cũng không hiểu qui luật nhân quả thì làm sao ông làm thay đổi được. Những điều ông nói chỉ là một giấc mộng. Chính vì từ lâu con người đã hiểu sai lầm: Cho rằng con người được sinh ra từ đấng Tạo Hóa. Sự thật không có đấng tạo hóa nào sinh ra con người cả, mà chỉ có luật nhân quả nghiệp báo theo qui luật vận hành duyên hợp mà tạo thành vạn vật, trong đó có con người.

Khi ông trưởng thành và già dặn thì ông mới nhận ra khả năng của mình đối với thế giới là số không, chỉ làm thay đổi bản thân và tâm hồn ông mà còn chưa được, huống là làm thay đổi cái gì bên ngoài.

Trả lời câu hỏi 4:

Vì vậy tôi thu hẹp ước mơ của mình, và quyết định sẽ làm thay đổi đất nước tôi. Nhưng dường như cũng chẳng có gì dịch chuyển”. Câu này dạy về ĐỨC THẬN TRỌNG HIẾU SINH Ý HÀNH.

Thi hào Horace đã thu hẹp những mơ ước của mình bằng những vần thơ mà nhiều nhà hiền triết và thiền học đã ca ngợi là một triết học, là một thiền học tuyệt vời:

Ai kia sung sướng suốt đời

Vững lòng nói được: Của tôi ngày này

Ngày mai mặc kệ: Mai ngày

Vì tôi đã sống hôm nay đủ rồi”.

Bài thơ này có trước Chúa giáng sinh 30 năm, nhưng sau Phật 500 năm, còn bài kệ dưới đây do đức Phật dạy còn tuyệt hơn:

Quá khứ không truy tìm

Vị lai không ước vọng

Quá khứ đã qua rồi

Vị lai thì chưa đến

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính là đây”.

Trên thế gian này, tất cả những danh nhân, những thiền sư, những triết gia đều có để lại thơ văn, kệ tụng nhắc nhở chúng ta sống trong hiện tại. Lời nói thơ văn thì rất hay, nhưng mấy ai đã làm và sống được, và sống bằng cách nào thì mỗi người đều đi về một nẻo. Nẻo ức chế tâm. Cho nên hiện giờ có ai làm và sống được cũng chỉ ức chế tâm trong một đối tượng nào đó, để được sống trong hiện tại. Cái sống trong hiện tại đó không được tự nhiên.

Thời gian được thu hẹp trong hiện tại của đức Phật là thời gian người ấy đã ly dục, ly ác pháp xong, tức là người ấy phải sống đúng năm giới đức hạnh, còn nếu chưa sống đúng năm giới đức hạnh mà thu hẹp thời gian sống trong hiện tại là sống trong sự ức chế tâm.

Hầu hết mọi người tu hành phải lưu ý điều này, sống trong hiện tại là sống đừng mơ mộng, sống trong thực tế nên gọi là thu hẹp thời gian chỉ còn hiện tại. Biết bao giấy mực đã nói về sống hiện tại, nhưng có mấy ai đã sống trong hiện tại được bao giờ.

Vị mục sư này thu hẹp ý tưởng mình lại, nhưng chưa hết mơ mộng: “Vì vậy tôi thu hẹp ước mơ của mình, và quyết định sẽ làm thay đổi đất nước tôi. Nhưng dường như cũng chẳng có gì dịch chuyển”. Đó là một điều thiếu thực tế, nên còn sống trong mơ mộng “làm thay đổi đất nước tôi”. Tôi chưa thay đổi thân tâm tôi, mà muốn làm thay đổi đất nước thì đó là mơ mộng không thực tế. Còn sống như vậy là sống thiếu đức thực tế hiếu sinh.

Sống như vậy chỉ làm khổ mình mà thôi.

Sống hiện tại là phải sống không làm khổ mình, khổ người; sống không làm khổ mình, khổ người là phải sống thực tế với đức hiếu sinh. Ngoài đức hiếu sinh mà sống hiện tại là sống trong mơ.

Trả lời câu hỏi 5:

Khi tôi lập thân, thu hết sức bình sinh hòng làm thay đổi gia đình tôi, những người thân thiết nhất của tôi. Nhưng họ chẳng mảy may có ý tưởng gì về điều đó”. Câu này dạy THIẾU ĐỨC THỰC TẾ HIẾU SINH Ý HÀNH.

Một người tu theo Phật giáo phải sống với đức thực tế, không nên sống mơ mộng. Người sống mơ mộng là người sống thiếu đức thực tế, thiếu đức thực tế là thiếu đức hiếu sinh.

Người học giới luật đức hạnh của Phật giáo thì phải sống thực tế, mà sống thực tế thì không thể sống cho ngày mai và quá khứ.

Đức Phật đã dạy: “Quá khứ đã qua rồi, còn ngày mai thì chưa đến, chỉ có pháp hiện tại”.

Nhưng thời gian hiện tại chúng ta sống như thế nào, và sống làm sao? Đức Phật dạy: “Tuệ quán chính là đây”.

Muốn sống đức hạnh không làm khổ mình, khổ người thì chỉ có pháp môn duy nhất, đó là quán xét từng hành động thân, miệng, ý trước khi nói hay làm một điều gì đều phải suy nghĩ kỹ lưỡng.

Nói ra điều này thì dễ, nhưng áp dụng vào cuộc sống hằng ngày thì đâu phải dễ dàng như mọi người nghĩ, chúng ta thường nói hay làm theo nghiệp lực nhân quả, tức là nói và làm không suy nghĩ trước. Người nói và làm không suy nghĩ trước là người thiếu đức thận trọng; người thiếu đức thận trọng là người không sống với đức hiếu sinh.

Người nói và làm có suy nghĩ trước, nhưng lại rơi vào suy nghĩ về quá khứ và vị lai; rơi vào quá khứ và vị lai là người sống trong mơ mộng; người sống trong mơ mộng là người thiếu đức thực tế; người thiếu đức thực tế là người thiếu đức hiếu sinh; người thiếu đức hiếu sinh là người làm khổ mình, khổ người.

Vị mục sư này đã sống trong mơ mộng, nên bỏ hết một đời người mà gặt lấy những thất bại: “Khi tôi lập thân, thu hết sức bình sinh hòng làm thay đổi gia đình tôi, những người thân thiết nhất của tôi. Nhưng họ chẳng mảy may có ý tưởng gì về điều đó”. Đó là một sự thất bại hoàn toàn. Đầu tiên, tuổi trẻ hăng hái tưởng mình sẽ làm thay đổi thế giới, đó là giấc mộng quá lớn, nhưng giấc mộng đó không thành. Khi đến tuổi trung niên, ý thức dè dặt hơn, mong sao mình chỉ làm thay đổi những người trong gia đình, nhưng cuối cùng chẳng làm được những gì.

Câu chuyện được ghi vào mộ bia của một vị mục sư để chúng ta suy ngẫm: Nếu chúng ta không làm thay đổi được bản thân và tâm hồn chúng ta thì đừng mong nói làm thay đổi thế giới và gia đình.

Điều mà chúng ta có thể làm được, là làm thay đổi chúng ta, đó là chúng ta nên tập sống với lòng yêu thương đối với sự sống trên hành tinh này. Khi chúng ta sống được với đức hiếu sinh trọn vẹn thì đức hiếu sinh đã làm chúng ta thay đổi hoàn toàn. Nếu chúng ta thay đổi hoàn toàn thì mới có hy vọng những người trong gia đình lần lượt thay đổi và thế giới đổi thay.

Như vậy, chúng ta đã tìm thấy lối đi đến cứu cánh, chỉ có lấy mình làm đối tượng thay đổi, cho nên đức Phật dạy: “Này các tỳ kheo, sau khi Ta diệt độ, cần phải tôn trọng, cung kính GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH, xem giới luật như người mù được thấy, như người nghèo được châu báu. Các người nên biết giới luật đức hạnh là bậc ĐẠI SƯ của các người, cũng giống như Ta ở đời không có sai khác. Giới là chánh thuận, là gốc của giải thoát, cho nên gọi là Ba La Đề Mộc Xoa. Do giới mà sinh định và nhờ trí tuệ mà diệt khổ. Các ngươi nên giữ tịnh giới, chớ có hủy phạm khuy khuyết; nếu giữ tịnh giới thì được những pháp lành; nếu không giữ tịnh giới thời các thiện công đức không thể sinh được.

Các ngươi hãy tinh tấn để tự giải thoát. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. Ta nay sắp nhập Niết bàn, và đó là những lời dạy cuối cùng của Ta”. (Kinh Di Giáo)

Như vậy, muốn làm thay đổi thế giới này, chỉ có làm thay đổi trong ta bằng giới luật đức hạnh. Nhưng giới luật đức hạnh ở đâu, và ai là người đứng ra hướng dẫn, rèn luyện, đào tạo chúng ta giới luật đức hạnh? Khắp cả thế gian này đâu có một ngôi trường nào, một nơi nào dạy dỗ giới luật đức hạnh, thì làm sao và biết ở đâu mà học tập? Biết được sự lợi ích của giới luật đức hạnh như vậy, nên trước đây thầy thường nhắc nhở và sau đó mới dựng lại các lớp giới luật đức hạnh để giúp các con tu hành thoát khổ. Vậy thầy mong rằng các con sẽ cố gắng học tập và sống đúng giới luật đức hạnh, nhất là đức hiếu sinh.

Phật giáo đã sẵn sàng có đầy đủ chương trình giáo dục đào tạo giới luật đức hạnh nhân bản - nhân quả cho mọi người, nhưng các chùa bây giờ chỉ là nơi mê tín, chứ không phải là trường lớp học tập đạo đức, nên rất tiếc! Rất tiếc!

Trả lời câu hỏi 6:

Và giờ đây, khi đang hấp hối trên giường, tôi chợt nhận ra”. Câu này dạy về ĐỨC SÁNG SUỐT HIẾU SINH Ý HÀNH.

Quá trễ, đợi khi nằm trên giường bệnh, gần chết đến nơi vị mục sư mới nhận ra mình đang sống trong mơ mộng. Đang sống trong mơ mộng thì còn làm gì được nữa. Nếu là một tu sĩ Phật giáo trong giờ phút này cũng quá muộn màng, huống là một vị mục sư, dù biết rằng mình sẽ sống với năm đức, mười hạnh, mình sẽ sống đúng giới luật đức hạnh để làm thay đổi bản thân. Làm thay đổi bản thân thì sẽ làm thay đổi thế giới, nhưng bây giờ còn gì nữa, quá muộn màng, chết đến nơi rồi còn làm gì được nữa! Đọc tới đoạn này các tu sinh nghĩ sao? Nếu không ngay từ giờ phút này mà không cố gắng nỗ lực thực hiện sống trong năm đức, mười hạnh thì còn chờ đợi lúc nào nữa. Đoạn văn này cảnh cáo mọi người: nếu trong giờ phút này mà không tu tập áp dụng đạo đức hiếu sinh vào thân tâm, đợi đến khi nằm trên giường bệnh sắp chết chừng đó có hối tiếc cũng đã trễ quá rồi.

Vị mục sư tới giờ sắp chết mới trở về với thực tại, có nghĩa là bây giờ ông sống không còn mơ mộng nữa, nhưng từ đây ông làm những gì để thay đổi thân tâm ông. Ông đang mê mờ mù tịt, ông đâu có phương pháp nào, cách thức nào làm thay đổi ông. Áng văn này chỉ nhắc cho chúng ta biết thế giới và gia đình không bao giờ làm thay đổi được, nếu chưa thay đổi bản thân cá nhân của mình. Áng văn chỉ nhắc nhở chúng ta có bấy nhiêu đó thôi, nhưng cũng là một bản đồ rất đầy đủ chỉ đường.

Như chúng ta đã biết, muốn làm thay đổi bản thân, là phải làm cho thân tâm hết tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Một con người thân tâm hết tham, sân, si, mạn, nghi là một con người đạo đức trọn vẹn. Vì không còn tham, sân, si, mạn, nghi nên không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai, nhờ đó thân tâm của họ lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự.

Người ở đời thường bị ngũ dục lạc lôi cuốn, nên thường sống trong niềm mơ ước, hy vọng bằng cách này hay bằng cách khác. Nhưng khi xuôi tay trở về lòng đất lạnh, thì những ước mơ và hy vọng ấy trở thành mây khói.

Trả lời câu hỏi 7:

Chỉ khi nào tôi thay đổi được bản thân mình”. Câu này dạy về ĐỨC HIẾU SINH THƯƠNG MÌNH Ý HÀNH.

Lời nhắn nhủ của vị mục sư cho chúng ta biết: “Chỉ khi nào tôi thay đổi được bản thân mình”, thì mới làm thay đổi gia đình và thế giới. Nhưng bây giờ trên giường bệnh, ông còn làm gì được nữa mà thay đổi. Ông có biết con người của ông là con người của nhân quả của nghiệp lực THAM, SÂN, SI, MẠN, NGHI chưa? Muốn thay đổi nó là ông phải thay đổi nghiệp lực thành KHÔNG THAM, KHÔNG SÂN, KHÔNG SI, KHÔNG MẠN, KHÔNG NGHI. Nhưng ông có biết phương pháp nào làm cho nó không tham, sân, si, mạn, nghi chưa? Chắc điều này ông không biết rồi, mà không biết thì không thể nào thay đổi bản thân ông được.

Đạo Phật có phương pháp hẳn hoi, có trường lớp đào tạo, có pháp môn chuyển hóa nhân quả thiện ác làm thay đổi con người, khiến con người tâm như đất, như nước, như lửa, như gió. Có những pháp môn như vậy mới làm thay đổi được con người.

Có trường lớp đào tạo, có pháp môn chuyển hóa nhân quả thiện ác mới làm thay đổi con người, khiến con người tâm như đất, như nước, như lửa, như gió. Thế mà mọi người không chịu học tập và không chịu sống và rèn luyện cho đúng giới luật đức hạnh, cho đúng năm đức, mười hạnh thì nhân quả làm sao chuyển được, làm sao thay đổi mình được.

Chuyển đổi cá nhân mình đâu phải dễ, phải từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm, v.v.. phải siêng năng tinh cần, lúc nào cũng tư duy suy nghĩ cái nào là hành động đạo đức giới luật, cái nào là không phải đạo đức giới luật. Có rèn luyện tu tập như vậy thì mới mong làm thay đổi con người.

Tóm lại, muốn làm thay đổi mình thì phải sống đời đạo đức hiếu sinh ý hành, khẩu hành và thân hành.

Trả lời câu hỏi 8:

Thì tôi mới thay đổi được gia đình tôi”. Câu này dạy về ĐỨC HIẾU SINH GIA ĐÌNH Ý HÀNH.

Vị mục sư nghĩ tưởng khi ông thay đổi được ông thì ông sẽ làm thay đổi được gia đình ông. Điều này chưa chắc, vì ông có biết pháp nào làm thay đổi được ông, cho nên việc làm thay đổi gia đình là một việc khó, một việc mà ông không thể làm được. Đến giờ phút sắp lìa đời mà ông còn chấp ngã và mộng tưởng như vậy thì đó là bản chất cố chấp của ông. Do bản chất cố chấp đó cho thấy ông không có thay đổi chút nào cả? Áng văn đó chỉ là một lời nói suông, một bản đồ chỉ đường đi, chứ không có phương tiện đi đến đích.

Lời nói của vị mục sư chỉ là một lời ao ước suông, chứ hiện thực ông chẳng làm được những gì lợi ích cho bản thân ông, huống là lợi ích cho người khác.

Ở đây, các tu sinh trong lớp học đạo đức NGŨ GIỚI phải sáng suốt nhận định cho rõ ràng. Mục đích học đạo đức hiếu sinh để làm thay đổi con người cũ, con người thiếu đạo đức. Vì con người cũ mang đầy ắp những tâm ác pháp: tham, sân, si, mạn, nghi và còn những thói hư tật xấu. Nhờ học và rèn luyện nhân cách đạo đức hiếu sinh, đạo đức ly tham, đạo đức chung thủy, đạo đức thành thật và đạo đức minh mẫn; những đạo đức này thấm nhuần sẽ làm thay đổi thân tâm của các tu sinh.

Nếu chịu khó chuyên cần siêng năng học tập trong một thời gian ngắn, không lâu, các tu sinh sẽ trở thành những nhà đạo đức với một tâm hồn cao thượng sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.

Một mục sư người Anh không biết pháp hành làm thay đổi mình, thay đổi gia đình và thế giới. Vậy mà đến khi ông sắp nhắm mắt lìa đời, những ước mơ còn ôm ấp mãi bên ông. Ông nghĩ rằng: Chỉ có làm thay đổi mình thì mới mong làm thay đổi gia đình và thế giới. Ước mong ấy khó thành hiện thực, chỉ còn là giấc mơ mà thôi. Áng văn này trong ngôi mộ của ông, tức là ông đã ra người thiên cổ từ lâu.

Trả lời câu hỏi 9:

Từ sự cổ vũ, khích lệ của họ, tôi sẽ có ích hơn cho đất nước”. Câu này dạy về ĐỨC HIẾU SINH TỔ QUỐC Ý HÀNH.

Là một người dân trong một nước thì ai lại không có tình yêu thương tổ quốc. Ai cũng ước mong sao tổ quốc mình giàu đẹp, thịnh vượng phú cường; ai cũng muốn đóng góp công sức của mình làm cho dân giàu nước mạnh; làm cho ích nước lợi dân; làm cho tổ quốc mình cường thịnh. Muốn làm được những điều ích nước lợi dân, thì chúng ta phải có tài và còn có đức nữa. Nhờ có đức hạnh mới làm thay đổi bản tính tham, sân, si, mạn, nghi của mình. Có làm thay đổi được như vậy thì mới mong làm thay đổi đất nước.

Những tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, đạo đức xuống cấp trầm trọng: nạn cướp của, giết người; nạn lừa đảo, buôn gian bán lận; nạn buôn hương bán phấn mãi dâm khắp nơi làm mất giá trị nhân phẩm con người; nạn xì ke ma túy gây ra nỗi đau chung của xã hội, nạn rượu chè say xỉn, cờ gian bạc lận đánh vợ chửi con, la làng, la xóm làm mất trật tự trong thôn ấp. Nếu không có pháp luật và không có người thi hành pháp luật thì đất nước này sẽ trở thành hỗn độn.

Muốn những tệ nạn xã hội chấm dứt thì bản thân của mọi người cần phải rèn luyện nhân cách năm đức:

1/ Đức hiếu sinh.

2/ Đức ly tham.

3/ Đức chung thủy.

4/ Đức thành thật.

5/ Đức sáng suốt.

Nếu xã hội, mỗi người dân đều có đạo đức như vậy, thì đất nước này sẽ phồn vinh thịnh trị và tất cả những tệ nạn xã hội sẽ được quét sạch. Người dân ai ai cũng lo làm ăn lương thiện; ai ai cũng lo làm giàu trong tài đức của mỗi người.

Muốn cho đất nước không còn tệ nạn xã hội, thì những người đứng đầu tôn giáo lãnh đạo tinh thần tín đồ thì phải làm thay đổi thân tâm của mình trước, rồi sau mới làm gương sáng cho những tín đồ. Vì thế vị mục sư nói: “Chỉ khi nào tôi thay đổi được bản thân mình, thì tôi mới thay đổi được gia đình tôi, từ sự cổ vũ, khích lệ của họ, tôi sẽ có ích hơn cho đất nước”.

Đất nước thanh bình thì mỗi người dân phải siêng năng lo làm ăn, nhờ đó nước giàu dân mạnh, đất nước cường thịnh.

Còn khi đất nước có chiến tranh thì tất cả mỗi người dân đều phải xông pha ra trận mạc, đánh đuổi giặc ra khỏi biên cương, đem lại sự thanh bình độc lập cho quê hương xứ sở.

Trả lời câu hỏi 10:

Và ai mà biết được, không chừng tôi sẽ thay đổi được cả thế giới cũng nên”. Câu này dạy về ĐỨC HIẾU SINH NHÂN LOẠI Ý HÀNH.

Chỉ có làm thay đổi được mình thì sẽ làm thay đổi cả thế giới. Làm thay đổi được mình phải làm bằng cách nào? Như trên đã nói, chỉ cần sống đúng năm đức, mười hạnh thì thế gian này sẽ trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng, nơi đây không còn tiếng rên la kêu khóc, không còn là địa ngục.

Bởi vậy làm thay đổi mình không khó, vì chúng ta biết chắc Phật giáo có một nền đạo đức nhân bản - nhân quả bằng năm đức, mười hạnh.

Năm đức gồm có:

1/ Đức hiếu sinh.

2/ Đức ly tham.

3/ Đức chung thủy.

4/ Đức thành thật.

5/ Đức sáng suốt.

Mười hạnh gồm có:

1/ Hạnh từ bỏ sát hại chúng sinh.

2/ Hạnh từ bỏ lấy của không cho.

3/ Hạnh từ bỏ tà dâm.

4/ Hạnh từ bỏ nói dối.

5/ Hạnh từ bỏ nói lời hung dữ.

6/ Hạnh từ bỏ nói lời thêu dệt.

7/ Hạnh từ bỏ nói lời lật lọng.

8/ Hạnh từ bỏ tham dục.

9/ Hạnh từ bỏ sân dục.

10/ Hạnh từ bỏ si dục.

Trên đây là những tiêu chuẩn làm thay đổi con người. Nếu ai biết rèn luyện nhân cách để sống với những đức hạnh này thì bản thân, gia đình và xã hội sẽ thay đổi hoàn toàn.

Năm đức và mười hạnh này được triển khai thành mười lăm lớp học chuyên đào tạo đạo đức cho con người thì thế gian này là cõi thanh bình của Trời Phạm Thiên.

Chúng ta được sinh ra làm người là một điều khó, mà gặp được năm đức, mười hạnh còn khó hơn. Thế mà chúng ta gặp được cả hai, mà lại có trường lớp đào tạo, có người hướng dẫn. Đó là một phước báu vô cùng to lớn. Vậy mà chúng ta không học, không rèn luyện nhân cách của mình. Thật là phí bỏ một kiếp người quá uổng! Tất cả tu sinh phải ráng nỗ lực tu học và rèn luyện thân tâm mình để làm thay đổi mình, làm thay đổi gia đình và làm thay đổi thế giới; để đem lại sự bình an cho muôn loài đang sống trên hành tinh này. Phải cố gắng lên các tu sinh ạ! Đừng để thời gian trôi qua quá uổng!

Tấc bóng thời gian một tấc vàng

Tấc vàng tìm được không gì khó

Tấc bóng thời gian khó hỏi han”.

Bài học thứ 29: LÒNG GANH GHÉT CỦA NGOẠI ĐẠO

Xưa có một ông vua tên là Cấm Mỵ, sinh được một người con gái tên là Ma Lê Ni. Khi tuổi đã lớn, nàng thường cúng dường 500 vị Bà La Môn. Không ngày nào quên lãng. Lúc bấy giờ, đức Phật đang ở một khu rừng gần đó. Công chúa thường hay đi dạo chơi, nhưng mỗi khi muốn đến khu rừng ấy thì các người theo hầu đón lại không để vào. Nàng liền hỏi rằng:

- Rừng nào tôi cũng vào chơi được, tại sao khu rừng này lại vào chơi không được? Mà còn phải tránh xa?

Vị hầu cận thưa:

- Rừng này chỉ có ông Sa Môn trọc đầu, tên gọi là Thích Ca Mâu Ni. Công chúa không nên xem làm gì.

Nghe nói thế, công chúa lại còn tò mò muốn biết hơn, nên nàng đi vào xem cho biết.

Đến nơi, nàng thấy sắc tướng oai nghi của đức Phật, từ trường thiện phủ trùm khu rừng khiến cho cỏ cây xanh tươi mát mẻ, thanh tịnh an trụ một cách kỳ lạ, nàng liền sinh lòng ái kính quỳ lạy đức Phật. Sau khi nghe Phật thuyết bốn chân lý, nàng xin thọ Tam quy, Ngũ giới, làm đệ tử Phật.

Nàng lễ tạ Phật ra về. Khi hiểu được Tam quy, Ngũ giới, nàng mới hiểu rằng: “Các vị Bà La Môn không phải là ruộng phước chân chánh, không nên cúng dường làm gì, nên để cúng dường Phật”.

Lúc bấy giờ, các Bà La Môn nghe tin nàng Ma Lê Ni làm đệ tử của đức Phật, lại đem các món quý báu cúng dường đức Phật, nên sanh lòng ganh ghét tức tối.

Một hôm, vua Cấm Mỵ nằm ngủ thấy 11 điều mộng, trong lòng lo sợ, liền triệu quần thần đến đoán. Quần thần tâu xin hỏi các vị Bà La Môn. Các vị Bà La Môn tâu rằng:

- Mộng này là điềm chẳng lành, một là mất nước, hai là bị hại đến tánh mệnh, chỉ có cách là đem trâu, dê, ngựa và nàng Ma Lê Ni cùng 500 người hầu hạ nàng, trong 7 ngày thời bắt ra các ngả đường mà giết để tế trời thì khỏi các tai nạn.

Vua liền làm theo, kêu nàng Ma Lê Ni nói rõ ý định của vua và cho phép nàng trong 6 ngày tiếp, có muốn điều gì thời được tự do đòi hỏi. Nàng thưa rằng:

- Con nay xin vua cha vui lòng tùy thuận con. Chỉ xin nguyện ngày thứ nhất cho phép tất cả nam nữ ở trong thành được đến chỗ Phật ở, lãnh thọ Tam quy, Ngũ giới; ngày thứ hai cho phép tất cả quần thần đều đến chỗ Phật ở; ngày thứ ba cho phép tất cả con trai vua đều đến chỗ Phật ở; ngày thứ tư cho phép tất cả con gái vua đều đến chỗ Phật ở; ngày thứ năm cho phép tất cả các phu nhân thể nữ của vua đến chỗ Phật ở, và ngày thứ sáu, cuối cùng xin vua cũng đến chỗ Phật ở.

Những lời thỉnh cầu của nàng vua đều ưng thuận. Và trong sáu ngày ấy, tất cả vua quan dân chúng ở trong thành đều được lễ Phật, nghe pháp thọ lãnh Tam quy, Ngũ giới. Vua đem những điềm mộng bạch với đức Phật.

Đức Phật giải cho vua rõ tất cả điềm mộng đó không ứng về hiện tại, mà thuộc về các kiếp sau. Không can hệ gì đến vua cả. Vua hiểu ngay ý Phật dạy, liền truyền bãi bỏ tất cả sự giết hại chúng sanh để tế tự, phát nguyện dầu có phải hủy bỏ thân mạng cũng không bao giờ giết hại một ai cả.

(Trích Luật Sa Di)

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: “Xưa có một ông vua tên là Cấm Mỵ, sinh được một người con gái tên là Ma Lê Ni. Khi tuổi đã lớn, nàng thường cúng dường 500 vị Bà La Môn. Không ngày nào quên lãng”. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 2: “Lúc bấy giờ, đức Phật đang ở một khu rừng gần đó. Công chúa thường hay đi dạo chơi, nhưng mỗi khi muốn đến khu rừng ấy thì các người theo hầu đón lại không để vào”. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 3: Nàng liền hỏi rằng: “Rừng nào tôi cũng vào chơi được, tại sao khu rừng này lại vào chơi không được? Mà còn phải tránh xa?”. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 4: Vị hầu cận thưa: “Rừng này chỉ có ông Sa Môn trọc đầu, tên gọi là Thích Ca Mâu Ni. Công chúa không nên xem làm gì”. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 5: “Nghe nói thế, công chúa lại còn tò mò muốn biết hơn, nên nàng đi vào xem cho biết. Đến nơi, nàng thấy sắc tướng oai nghi của đức Phật, từ trường thiện phủ trùm khu rừng khiến cho cỏ cây xanh tươi mát mẻ, thanh tịnh an trụ một cách kỳ lạ, nàng liền sinh lòng ái kính quỳ lạy đức Phật”. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 6: “Sau khi nghe Phật thuyết bốn chân lý, nàng xin thọ Tam quy, Ngũ giới, làm đệ tử Phật”. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 7: Nàng lễ tạ Phật ra về. Khi hiểu được Tam quy, Ngũ giới, nàng mới hiểu rằng: “Các vị Bà La Môn không phải là ruộng phước chân chánh, không nên cúng dường làm gì, nên để cúng dường Phật”. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 8: “Lúc bấy giờ, các Bà La Môn nghe tin nàng Ma Lê Ni làm đệ tử của đức Phật, lại đem các món quý báu cúng dường đức Phật, nên sanh lòng ganh ghét tức tối”. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 9: “Một hôm, vua Cấm Mỵ nằm ngủ thấy 11 điều mộng, trong lòng lo sợ, liền triệu quần thần đến đoán. Quần thần tâu xin hỏi các vị Bà La Môn. Các vị Bà La Môn tâu rằng: Mộng này là điềm chẳng lành, một là mất nước, hai là bị hại đến tánh mệnh, chỉ có cách là đem trâu, dê, ngựa và nàng Ma Lê Ni cùng 500 người hầu hạ nàng, trong 7 ngày thời bắt ra các ngả đường mà giết để tế trời thì khỏi các tai nạn”. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 10: “Vua liền làm theo, kêu nàng Ma Lê Ni nói rõ ý định của vua và cho phép nàng trong 6 ngày tiếp, có muốn điều gì thời được tự do đòi hỏi”. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 11: Nàng thưa rằng: “Con nay xin vua cha vui lòng tùy thuận con. Chỉ xin nguyện ngày thứ nhất cho phép tất cả nam nữ ở trong thành được đến chỗ Phật ở, lãnh thọ Tam quy, Ngũ giới; ngày thứ hai cho phép tất cả quần thần đều đến chỗ Phật ở; ngày thứ ba cho phép tất cả con trai vua đều đến chỗ Phật ở; ngày thứ tư cho phép tất cả con gái vua đều đến chỗ Phật ở; ngày thứ năm cho phép tất cả các phu nhân thể nữ của vua đến chỗ Phật ở, và ngày thứ sáu, cuối cùng xin vua cũng đến chỗ Phật ở”. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 12: “Những lời thỉnh cầu của nàng vua đều ưng thuận. Và trong sáu ngày ấy, tất cả vua quan dân chúng ở trong thành đều được lễ Phật, nghe pháp thọ lãnh Tam quy, Ngũ giới. Vua đem những điềm mộng bạch với đức Phật. Đức Phật giải cho vua rõ tất cả điềm mộng đó không ứng về hiện tại, mà thuộc về các kiếp sau. Không can hệ gì đến vua cả. Vua hiểu ngay ý Phật dạy”. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?

Câu hỏi 13: “Liền truyền bãi bỏ tất cả sự giết hại chúng sanh để tế tự, phát nguyện dầu có phải hủy bỏ thân mạng cũng không bao giờ giết hại một ai cả”. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

Xưa có một ông vua tên là Cấm Mỵ, sinh được một người con gái tên là Ma Lê Ni. Khi tuổi đã trưởng thành, nàng thường cúng dường 500 vị Ba La Môn. Không ngày nào quên lãng”. Câu này dạy ĐỨC BỐ THÍ HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Cúng dường và bố thí đều có nghĩa là đem cho: cho cơm ăn, cho áo mặc, cho tiền, cho của cải, v.v.. nhưng chữ cúng dường có nghĩa là đem cho với lòng tôn kính, tôn trọng. Còn bố thí là đem cho, nhưng không có vẻ tôn kính và trịnh trọng như cúng dường. Người ta đem bố thí cho ăn mày, cho những người nghèo khó, nhưng người ta cúng dường chư Phật, chư Hiền Thánh Tăng, cho những bậc tu hành chân chánh.

Từ xưa, trong kinh sách thường dạy chúng ta cúng dường và bố thí thì được phước báu và công đức vô lượng. Cho nên mọi người đều làm theo lời dạy này. Lời dạy này đã thành một phong tục tốt đẹp, một phong tục đầy đủ đức hiếu sinh, biết thương người nghèo khó.

Cúng dường cũng là cứu giúp cho những bậc chân tu, vì họ đã bỏ hết cuộc đời, chỉ còn sống ngày một bữa đi xin ăn mà thôi. Vì thế sự cúng dường và bố thí đã trở thành một phong tục đạo đức thương người tốt đẹp như trên đã nói. Do tình thương người mới biết cứu giúp mọi người trong cơn hoạn nạn, lá lành đùm lá rách. Nhờ phong tục tốt đẹp đó, đã in sâu vào lòng người từ xưa đến nay.

Công chúa Ma Lê Ni cũng chịu ảnh hưởng này, nên hằng ngày thường cúng dường cho 500 vị Bà La Môn. Với một số lượng người đông như vậy thì phải tốn hao một số tiền rất lớn, mà công chúa vẫn bỏ ra mà không tiếc, thật là đại bố thí! Khi cúng dường là xả tâm ích kỷ, nhỏ hẹp của mình do đức bố thí hiếu sinh, tức là lòng thương yêu đến với những người tu hành, vì họ là những người đã bỏ hết cuộc đời đi tu, nên chẳng còn có gì nữa.

Người cúng dường với số lượng ăn uống tiền bạc cho 500 người như vậy thì làm sao các vị Ba La Môn không quý trọng. Họ xem công chúa Ma Lê Ni là một đại thí chủ.

Hành động của công chúa làm được việc này là ĐỨC BỐ THÍ HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Một đức hạnh thương người, xả lòng ích kỷ bỏn xẻn tuyệt vời.

Nàng có phước được sinh ra trong dòng vua chúa, mà lại có lòng cúng dường bố thí lớn lao như vậy, thật là trên đời rất hiếm có một cô gái tín ngưỡng tôn trọng những người tu hành như vậy.

Trả lời câu hỏi 2:

Lúc bấy giờ, đức Phật đang ở một khu rừng gần đó. Công chúa thường hay đi dạo chơi, nhưng mỗi khi muốn đến khu rừng ấy thì các người theo hầu đón lại không để vào”. Câu này dạy THIẾU ĐỨC HIẾU SINH DUNG HÒA THÂN HÀNH.

Con người vì sợ mất danh, mất lợi nên tìm bằng mọi cách chia rẽ, li gián, ngăn chặn không cho công chúa Ma Lê Ni vào gặp Phật.

Vì họ biết rằng gặp Phật trong trường hợp này là họ sẽ mất một nguồn lợi rất lớn.

Khi ngăn cản như vậy đã làm cho công chúa nghi ngờ, đã nghi ngờ thì phải khám phá cho bằng được. Do đó công chúa đã thành công.

Một hành động ngăn cản như vậy là một hành động sợ hãi đối phương (đức Phật), có nghĩa là các vị Bà La Môn này rất sợ đức Phật. Vì giới luật đức hạnh của đức Phật quá tinh nghiêm, còn các ông không sánh kịp, nhất là pháp môn tu hành quá thiết thực và cụ thể mà các ông không bao giờ có. Pháp của các ông chỉ có tụng niệm cúng bái, tế tự, cầu siêu, cầu an, bói toán, nói chuyện quá khứ vị lai để lừa đảo người khác. Cho nên các ông sợ công chúa đến đó gặp Phật sẽ thay đổi và không còn cúng dường cho các ông nữa.

Đúng vậy, khi gặp Phật, được nghe Phật thuyết pháp về giới luật đức hạnh, thì các pháp của ngoại đạo sẽ lộ tẩy là pháp lừa đảo nên không còn lừa được ai nữa. Cho nên các vị Bà La Môn đối với đức Phật là một cây gai trong mắt.

Cuộc đời hoằng hóa độ sinh của đức Phật gặp rất nhiều gian khổ, Ngài gặp biết bao nhiêu sự hãm hại của ngoại đạo Bà La Môn.

Nào là vu khống nói xấu Ngài đủ điều; nào là gán cho Ngài tội hiếp dâm giết người; nào là lấy người có thai; nào là cho voi say hoặc tên Vô Não giết Ngài, v.v... Cuối cùng Ngài cũng vượt qua tất cả và để lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả cho loài người. Thật là vẻ vang! Một bậc vĩ nhân hiếm có.

Trả lời câu hỏi 3:

Nàng liền hỏi rằng: “Rừng nào tôi cũng vào chơi được, tại sao khu rừng này lại vào chơi không được? Mà còn phải tránh xa?” Lời ngăn cản này nói lên tính ganh tỵ, THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH. Các Bà La Môn hèn nhát, tỏ lộ tính khiếp đảm và sợ hãi đức Phật quá rõ rệt.

Người có tính hơn thua ganh tỵ, không dám cho người khác nghiên cứu suy tầm giới luật đức hạnh và giáo pháp của người khác, đó là tính ích kỷ hẹp hòi.

Ngày xưa đức Phật không cấm mọi người theo các tôn giáo khác, Ngài chỉ nhắc nhở:

Đừng có tin! Đừng có tin bất cứ giáo pháp nào, chỉ nên tin pháp nào thiện, pháp nào làm lợi ích cho mình, cho người thì nên tin, còn pháp nào không làm lợi ích cho mình, cho người thì đừng nên tin theo.

Sự ngăn cản của các Bà La Môn là nói lên sự hèn nhát, sự kém thua xa về đức hạnh giới luật và sự tu hành của đức Phật. Họ biết chắc chắn giáo pháp của họ chỉ là những giáo pháp lừa đảo mọi người, chứ tu hành cũng chẳng đi đến đâu được cả, nhưng vì sự sống và danh dự của họ, nên họ chưa dám buông bỏ.

Có những ngoại đạo cấm và đốt cả những bộ giới luật đức hạnh của Phật giáo. Đó là hành động để bưng bít lối sống phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới của những vị tu sĩ Bà La Môn này; để không cho phật tử tín đồ thấy biết họ sai phạm. Và muốn chắc chắn hơn, họ soạn thảo bộ Bồ Tát Giới cấm không cho tín đồ đọc và học tu những bộ sách Nguyên Thủy của Phật giáo, mà chúng gọi là Tiểu thừa.

Những bộ sách nguyên thủy này chỉ thẳng pháp nào tu đúng, pháp nào tu sai của Phật giáo. Nhờ có đọc những kinh sách như vậy, mọi người mới biết đường tu hành đúng chánh pháp của Phật.

Thời đức Phật, công chúa Ma Lê Ni cũng bị cản ngăn không cho gặp Phật. Nàng gan dạ vào gặp Phật nghe pháp và xin làm đệ tử của Người, thì chẳng bao lâu sau nàng bị kêu án tử hình, chỉ trong 7 ngày nữa phải bị chặt đầu tế thần linh.

Công chúa là con vua, nhưng chỉ cần gặp Phật một chút, mà vẫn phải mang án tử hình. Quý vị nên biết uy quyền của giáo sĩ Bà La Môn dựa vào thần thánh lúc bấy giờ thật ghê gớm. Chỉ cần một lời nói giết người, ngay cả công chúa cũng phải bị giết huống là các loài vật. Họ giết người và vật để tế thần linh không gớm tay, không xót thương chút nào cả. Những Bà La Môn này chỉ còn biết quyền lợi của mình trên hết, còn làm những tội lỗi thì các vị chẳng hề biết đến. Nếu công chúa không khôn ngoan, không nhờ Tam quy, Ngũ giới của Phật thì không sao tránh khỏi cái chết mà các Bà La Môn đã khéo xếp đặt.

Trả lời câu hỏi 4:

Vị hầu cận thưa: “Rừng này chỉ có ông Sa Môn trọc đầu, tên gọi là Thích Ca Mâu Ni. Công chúa không nên vào xem làm gì”. Câu này dạy THIẾU ĐỨC ÁI NGỮ HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Hai chữ Sa Môn “trọc đầu”, đó là ngôn ngữ kém lễ độ, lịch sự, văn hóa mà những vị Bà La Môn dùng chỉ cho đức Phật.

Lòng đố kỵ của những Bà La Môn đối với đức Phật thật kinh khiếp, ngăn chặn mọi mặt không cho mọi người đến với đạo Phật.

Tuy câu chuyện ngắn ngủi, nhưng nói lên sự truyền đạo của đức Phật đâu có dễ dàng. May mắn đức Phật có đầy đủ phước báu, nên ngoại đạo không làm gì và không hại Ngài được.

Khi đức Phật nhập Niết Bàn xong, là chúng khéo léo len lỏi vào tăng đoàn của Phật, phân hóa chia rẽ Phật giáo ngay liền.

Chúng chia năm sẻ bảy Phật giáo ra làm nhiều hệ phái khác để làm suy yếu Phật giáo một cách rõ rệt. Điều quan trọng nhất là một mưu lược diệt Phật giáo kinh khủng mà không ai biết. Đó là một thủ đoạn gian xảo kinh hồn. Họ biết rất rõ giới luật đức hạnh của Phật giáo là đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người, nên khi đức Phật nằm xuống là chúng tìm cách diệt ngay liền bằng cách: “BỎ NHỮNG GIỚI NHỎ NHẶT”. Tất cả kinh sách Phật bị lần lượt thay đổi mà mọi người không hay biết. Chúng dựng lại giáo pháp của Bà La Môn thay thế vào giáo pháp của Phật bằng cái tên kinh sách phát triển. Còn kinh sách Phật chúng gọi là kinh sách ngoại đạo Tiểu thừa, cấm không cho tín đồ phật tử đọc và tu tập (Bồ tát giới).

Thấy tình hình danh lợi và âm mưu của các hệ phái Phật giáo đương thời có thể làm mất giáo lý của Phật, nên lúc bấy giờ hệ phái Thượng Tọa Bộ ôm toàn bộ kinh sách Nguyên Thủy đi về phương Nam để giữ gìn lời dạy gốc nguyên thủy của Phật. Hôm nay chúng ta còn những lời Phật dạy nguyên gốc là phải biết ơn hệ phái Thượng Tọa Bộ.

Tất cả tu sĩ Nam tông hiện giờ tuy họ kiến giải, tưởng giải viết ra rất nhiều sách, nào là Thiền Minh Sát Tuệ, Tìm Hiểu Pháp Môn Niệm Phật, v.v.. nhưng họ không bao giờ dám sửa hay thêm bớt trong tạng kinh sách nguyên thủy của Phật.

Giới luật của Phật là pháp môn tu hành, thì các sư thầy, tổ lại biên soạn theo pháp luật, biến giới luật đức hạnh của Phật giáo thành giới cấm. Chúng ta xét thấy trong giới kinh đức Phật dạy giới luật thứ nhất gọi là: “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH”; còn các sư thầy Bà La Môn sửa lại: “CẤM SÁT SINH”; giới thứ hai đức Phật dạy: “TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO”; Bà La Môn dạy: “CẤM TRỘM CẮP”, v.v.. BÁT CHÁNH ĐẠO là tám lớp dạy đạo đức của Phật giáo, Bà La Môn lại chuyển thành một bài thuyết pháp BÁT CHÁNH ĐẠO.

Nàng công chúa Ma Lê Ni gan thật. Trước sự ngăn chặn của ngoại đạo như vậy, nếu là một người thường dân chắc không ai dám đến khu rừng đó, nhưng nàng nghĩ mình là con vua, ai dám làm gì mình, vì thế nàng mới đi vào thăm Phật và sau đó không cúng dường cho 500 vị Bà La Môn nữa. Do sự chấm dứt không cúng dường khiến chúng càng căm hờn, chờ ngày diệt trừ công chúa. Riêng công chúa đâu ngờ ngày ấy đến.

Trả lời câu hỏi 5:

Nghe nói thế, công chúa lại còn tò mò muốn biết hơn, nên nàng đi vào xem cho biết. Đến nơi, nàng thấy sắc tướng oai nghi của đức Phật, từ trường thiện phủ trùm khu rừng khiến cho cỏ cây xanh tươi mát mẻ, thanh tịnh an trụ một cách kỳ lạ, nàng liền sinh lòng ái kính quỳ lạy đức Phật”. Câu này dạy ĐỨC TƯỚNG PHƯỚC ĐIỀN HIẾU SINH THÂN, KHẨU, Ý HÀNH của Phật.

Công chúa tò mò muốn biết đức Phật Thích Ca như thế nào, mà mọi người bảo nhau là một Sa Môn đầu trọc ghê gớm lắm như một ác quỷ? Khi tận mắt công chúa thấy đức Phật chỉ là một người hành hiền lành, oai nghi tế hạnh đoan trang, dường như nàng cảm nhận được lòng yêu thương rộng lớn của đức Phật đang phủ trùm cả khu rừng tạo nên một sự sống bình an cho mọi người, mọi loài đang sống trên hành tinh này.

Nàng đến bên và đảnh lễ Người mà lòng mừng vô hạn. Nàng không ngờ trên cõi đời này lại có một người hiền đức khó ai sánh bì được.

Đức tướng phước điền hiếu sinh của Phật thật là vi diệu vô cùng. Vì đức Phật là đức hạnh, là giới luật nghiêm chỉnh. Nó khiến cho mọi người nhìn thấy là đã bị nhiếp phục với lòng thương kính đức hiếu sinh đó. Vì thế khi ngồi chơi, khi ngồi thọ thực, khi đi kinh hành, khi ngồi thiền kiết già hay bán già, quý tu sinh hãy ăn mặc nghiêm chỉnh, đừng cởi trần, đừng mặc quần ngắn, mà phải mặc áo tràng và vận y vấn hẳn hoi.

Chính vì ăn mặc nghiêm chỉnh trong khi đi, đứng, nằm, ngồi cũng là nói lên lòng tôn kính giới luật đức hạnh. Trên đời này có gì quý hơn là đức hạnh giới luật, ngoài giới luật đức hạnh không có vật gì sánh bằng được. Do thế, muốn tỏ lòng tôn kính giới luật đức hạnh thì lúc nào cũng phải ăn mặc nghiêm trang, tề chỉnh. Còn những người ăn mặc lôi thôi mà đi học đạo đức giới luật thì đó là phỉ báng đạo đức giới luật.

Hỡi các tu sinh! Đừng vì một lý do gì? Hay một thói quen sống như người nông dân, quanh năm suốt tháng chỉ mặc chiếc quần ngắn, ở trần trùng trục như một loài động vật. Chúng ta là con người đều hiểu biết cơ thể con người dễ thích nghi trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời tiết. Nếu chúng ta ăn mặc nghiêm trang kín đáo, cơ thể sẽ thích nghi dễ dàng và chúng ta cũng cảm thấy thoải mái dễ chịu, còn nếu ở trần như con nhộng thì cơ thể cũng thành thói quen và như vậy con người giống như con thú vật. Cho nên người tu hành theo Phật giáo không có thời gian chơi như người phàm phu. Ngồi chơi của người tu sĩ Phật giáo là ngồi chơi trong oai nghi tế hạnh đức hạnh giới luật của những bậc Thánh Hiền, chứ không phải ngồi chơi theo kiểu phàm phu tục tử, theo người thế gian. Ngồi chơi theo bậc Thánh Hiền thì thân tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Vì thế oai nghi tế hạnh phải được thể hiện rõ ràng bằng những đức hạnh hiếu sinh, ly tham cụ thể rõ ràng.

Trả lời câu hỏi 6:

Sau khi nghe Phật thuyết bốn chân lý, nàng xin thọ Tam quy, Ngũ giới, làm đệ tử Phật”. Câu này dạy ĐỨC TÍN TÂM HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Ai đã được nghe bài thuyết giảng TỨ DIỆU ĐẾ của Phật giáo thì không có một người nào mà không muốn đến với đạo Phật. Bài thuyết giảng Tứ Diệu Đế là một bài kinh rất tuyệt vời. Chúng ta từ lâu sống trong mê mờ tăm tối, chưa biết cuộc sống chúng ta là gì? Ra sao? Nhưng khi nghe xong bài pháp Tứ Diệu Đế, làm cho chúng ta sáng suốt nhận định rõ ràng đời sống con người không có gì là hạnh phúc, an vui. Đời sống chỉ là những chuỗi ngày dài đau khổ.

Cho nên khi nói đến KHỔ ĐẾ, TẬP ĐẾ là nói những điều không ai chối cãi và không dám phủ nhận trong cuộc đời này là không khổ đau. Cuộc đời của con người là một sự khổ đau bất tận. Nhưng khi nghe nói đến DIỆT ĐẾ và ĐẠO ĐẾ thì ai cũng muốn xuất gia tu hành theo Phật, những người còn gia duyên chưa thể xuất gia thì ai cũng muốn thọ TAM QUY, NGŨ GIỚI.

Nàng công chúa Ma Lê Ni cũng vậy, khi thọ Tam quy, Ngũ giới là nàng đã hiểu rõ giáo pháp của Bà La Môn là những pháp môn lừa đảo, lường gạt người.

Do hiểu Phật pháp nên nàng thẳng thắn cắt đứt sự cúng dường. Không ngờ tai họa sẽ giáng lên đầu nàng “TỬ HÌNH”. Nhờ là con vua nên nàng được một đặc ân sống thêm sáu ngày và ước muốn điều gì vua sẽ bằng lòng chấp thuận. Nhờ đó mà nàng thoát chết trong gang tấc.

Phật pháp rất vi diệu, khi thọ Tam quy và Ngũ giới xong, nàng chưa sống trọn vẹn với những đức giới này nhưng nó vẫn chuyển hóa được nhân quả khiến nàng thoát chết. Khi nghe Phật thuyết giảng Tam quy và Ngũ đức giới, lòng nàng cũng đã giảm rất nhiều những hành động ác, và nhờ giảm rất nhiều hành động ác nên chuyển đổi được nhân quả.

Vả lại không riêng gì phước báu của nàng mà nàng thoát chết. Nàng thoát chết cũng nhờ nhiều phước báu hợp lại. Một là phước báu của chính nàng; hai là phước báu của vua; ba là phước báu của thần dân trong nước; bốn là phước của anh, chị, em cùng chung cha mẹ; năm là phước báu của tam cung lục viện. Tất cả đều có duyên với chánh pháp của Phật.

Nếu không duyên với chánh pháp của Phật thì nàng đã bị tử hình. Nhưng dù sao, đây cũng chính nhờ ở thiện pháp nơi lòng nàng, đó là lòng yêu chân thật của nàng đối với vua cha và thần dân khắp đất nước.

Nếu vua và thần dân trong nước này không đủ phước báu thì nàng bị giết không thể nào thoát khỏi, với âm mưu thâm độc của các giáo sĩ Bà La Môn thật là ghê gớm.

Đức tín tâm hiếu sinh ý hành giúp chúng ta chuyển đổi được nhân quả. Do đó chúng ta sống với lòng yêu thương và tha thứ mỗi lỗi lầm của kẻ khác thì tất cả ác pháp không tác động làm chúng ta khổ đau. Đó là chúng ta đã chuyển đổi nhân quả ngay liền.

Trả lời câu hỏi 7:

Nàng lễ tạ Phật ra về, khi hiểu được Tam quy, Ngũ giới, nàng mới hiểu rằng: “Các vị Bà La Môn không phải là ruộng phước chân chánh, không nên cúng dường làm gì, chỉ để cúng dường Phật”. Câu này dạy ĐỨC SÁNG SUỐT HIẾU SINH Ý HÀNH.

Khi nàng Ma Lê Ni nhận ra được chánh pháp của Phật, nàng hiểu rõ Tam quy, Ngũ giới là đức hạnh nhân bản - nhân quả. Cho nên ai làm thiện sẽ hưởng được phước báu, còn ai làm ác sẽ gặt lấy quả khổ đau. Phước báu do chính mình tạo ra, chớ không ai ban cho mình được, cũng như tai họa không ai mang đến cho mình mà chính mình, do chính những hành động ác của mình.

Những người tu hành mà giới luật đức hạnh sống không nghiêm chỉnh thì không bao giờ làm ruộng phước cho ai được, nếu cúng dường cho những người tu sĩ này càng thêm tội, làm hại Phật giáo. Cũng như bố thí cho những người nghèo lương thiện, chứ không bố thí cho những người nghèo làm ác.

Người nghèo do làm ác thì không nên bố thí, bố thí cho người làm ác thì cũng như xúi họ làm ác thêm. Bố thí cho người làm ác thì có tội thêm chứ không có phước.

Cho nên khi cúng dường và bố thí thì phải cẩn thận, đừng ham danh làm nhà “Từ Thiện” mà tai họa cho mình. Thường có những đoàn từ thiện đi làm phước nhưng phước đâu không thấy, mà chỉ thấy tai họa thảm sầu đến với mình và gia đình. Tai nạn giao thông đã cướp đi biết bao sinh mệnh của những đoàn làm từ thiện, các tu sinh có biết không? Những người được cứu trợ là những người làm ác, làm ác thì phải trả nhân quả tan cửa, nát nhà, chết người. Thế mà có một số người không hiểu luật nhân quả cho nên kê vai gánh chịu những nhân quả của người khác, thì tai nạn giao thông xảy đến để cảnh báo những người làm từ thiện. Làm từ thiện không được phước mà gặp họa, đó là làm từ thiện không đúng chánh pháp, như đức Phật dạy: Cúng dường, bố thí cho cá nhân hay tập thể là phải chọn người làm thiện thì mới được hưởng phước báu, còn ngược lại không được phước mà còn lãnh tai họa.

Vì thế nàng Ma Lê Ni chấm dứt không cúng dường cho 500 vị Bà La Môn để trở thành đệ tử của Phật. Do tâm nguyện sống đúng Tam quy, Ngũ giới và cúng dường Phật mà sau này nàng thoát chết.

Trả lời câu hỏi 8:

Lúc bấy giờ các Bà La Môn nghe tin nàng Ma Lê Ni làm đệ tử của đức Phật, lại đem các món quý báu cúng dường đức Phật, nên sanh lòng ganh ghét tức tối”. Câu này dạy THIẾU ĐẠO ĐỨC LY THAM HIẾU SINH Ý HÀNH.

Lòng tham đã làm mờ mắt các vị Bà La Môn, khi không được cúng dường thì các vị sinh lòng căm tức ganh ghét nàng Ma Lê Ni, tìm mọi cách để giết hại nàng.

Một hành động ganh ghét, ghen tức, tỵ hiềm là một hành động hèn hạ, nhỏ hẹp ích kỷ. Người ở đời thường hay có lòng ganh tỵ, hẹp hòi ích kỷ, thấy ai hơn mình thì sinh lòng ganh tỵ; thấy ai kém hơn mình thì khinh chê, đó là tính rất xấu, nó đánh mất đức hiếu sinh. Một người có đức hiếu sinh thì không bao giờ có lòng ganh tỵ hơn thua.

Làm người chúng ta phải tránh xa và từ bỏ lòng ganh tỵ. Lòng ganh tỵ sẽ đưa chúng ta đến chỗ tàn ác, làm đau khổ người hoặc có khi giết người. Lòng ganh tỵ của các Bà La Môn tìm cách giết công chúa, nhưng không phải giết có một mình công chúa, mà giết cả những người theo hầu công chúa; không những giết những người hầu công chúa, mà còn giết bao nhiêu gia súc, ngựa, bò, heo, dê, cừu, gà, vịt, v.v...

Lòng ganh tức chỉ có một mình công chúa mà phải tâu vua xin giết hại bao nhiêu sinh linh, thì đủ biết lòng ganh tỵ sẽ tạo ra nhiều tội lỗi: tội nói dối, tội giết người, giết vật, v.v.. là những tội ác rất nặng.

Tục ngữ có câu: “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất đi một miếng lộn gan trên đầu”.

Những người Bà La Môn này cũng vậy, họ căm tức chờ có dịp trả thù cho hả cơn tức giận.

Ở đời người ta cũng vậy, hễ ghét ai, không ưa ai thì nói xấu người ta đủ điều, đủ chuyện; chuyện có nói không, chuyện không nói có; chuyện ít xít ra nhiều, thường hay thổi phồng câu chuyện để hạ người khác cho thân bại danh liệt, cho ngóc đầu không lên, hoặc có khi dùng mọi thủ đoạn gian ác giết người, giết vật.

Tóm lại, lòng ganh tức là một ác pháp, nó sẽ giết chết lòng yêu thương của chúng ta.

Cho nên chúng ta phải từ bỏ và xa lìa, đừng để nó trong tâm chúng ta trong giây phút nào cả. Khi thấy bóng dáng nó hiện lên trong tâm thì phải dẹp ngay liền. Muốn diệt nó thì có Lòng Yêu Thương mới diệt nó nổi. Các tu sinh hãy nhớ những lời này, để thực hiện đức hiếu sinh cho trọn vẹn.

Trả lời câu hỏi 9:

Một hôm, vua Cấm Mỵ nằm ngủ thấy 11 điều mộng, trong lòng lo sợ, liền triệu quần thần đến đoán. Quần thần tâu xin hỏi các vị Bà La Môn. Các vị Bà La Môn tâu rằng:

- Mộng này là điềm chẳng lành, một là mất nước, hai là bị hại đến tánh mệnh, chỉ có cách là đem trâu, dê, ngựa và nàng Ma Lê Ni cùng 500 người hầu hạ nàng, trong 7 ngày thời bắt ra các ngả đường mà giết để tế trời thì khỏi các tai nạn”. Câu này dạy THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Giấc mộng của nhà vua là một cơ hội để trả thù công chúa. Các vị Bà La Môn lợi dụng lòng tin thần thánh của nhà vua mới bày vẽ gạt vua để giết công chúa: “Mộng này là điềm chẳng lành, một là mất nước, hai là bị hại đến tánh mệnh, chỉ có cách là đem trâu, dê, ngựa và nàng Ma Lê Ni cùng 500 người hầu hạ nàng, trong 7 ngày thời bắt ra các ngả đường mà giết để tế trời thì khỏi các tai nạn”. Nhà vua nghe theo, truyền lệnh 7 ngày nữa sẽ đem công chúa và mọi người ra giết để tế trời.

Đó là một hành động hết sức hèn hạ, nhỏ mọn, ti tiện của những giáo sĩ Bà La Môn, khi không được cúng dường sinh tâm ganh ghét. Nhưng qui luật nhân quả không bao giờ tha thứ cho những kẻ làm ác. Chỉ còn có thời gian họ sẽ phải trả quả đích đáng. Những vị Bà La Môn này không tránh khỏi tội ác lừa đảo nhà vua để giết người.

Đọc đoạn kinh này chúng ta xác định các vị Bà La Môn dùng uy quyền thần thánh ghê gớm thật, dám tâu giết công chúa mà nhà vua vẫn nghe theo thì biết lòng tín ngưỡng thần thánh mù quáng trong thời bấy giờ rất mạnh. Ngày xưa người ta chỉ cần mượn danh thần thánh, từ vua chí dân đều rất sợ hãi.

Ngày nay chúng ta cho đó là mê tín và lạc hậu. Đúng vậy, tất cả những tư tưởng thần thánh, quỷ ma, yêu quái, linh hồn người chết, v.v.. là những điều mê tín lạc hậu từ ngày xưa còn lưu lại đến ngày nay, rất khó bỏ.

Vì mê tín, lạc hậu, nếu không có đức Phật thì công chúa, nhiều người và nhiều loài vật bị giết hại một cách rất oan uổng. Cho nên sự mê tín lạc hậu là một tai hại rất lớn cho loài người. Chúng ta cần phải cẩn thận, khi nghe nói đến thần thánh, quỷ ma, v.v.. thì chẳng nên tin. Người nào tin có thần thánh, quỷ ma, yêu quái là mê tín, là mù quáng.

Trả lời câu hỏi 10:

Vua liền làm theo, kêu nàng Ma Lê Ni nói rõ ý định của vua và cho phép nàng trong 6 ngày tiếp, có muốn điều gì thời được tự do đòi hỏi”. Câu này dạy THIẾU ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Bản án tử hình công chúa đã đưa ra và tuyên bố cho tất cả thần dân trong cả nước đều biết, thì không thể thu hồi được, nhất là lệnh vua đã truyền ban xuống thì công chúa phải chết, nhưng nhà vua lại cho một đặc ân chỉ còn sống 6 ngày và muốn điều gì thì vua đều chấp thuận.

Người làm lành không thể nào gặt quả dữ. Công chúa là người hiền lương, tấm lòng rộng rãi, kính trọng những người tu hành, nên thường cúng dường cho 500 vị Bà La Môn. Do các vị Bà La Môn tà giáo dạy người làm ác thường giết hại chúng sinh để cúng tế thần linh nên phước không có, mà công chúa gặp tai nạn.

Vì vậy, cúng dường không đúng chánh pháp là cúng cho những người làm ác, nên công chúa không được phước mà còn thêm tội. Sự cúng dường không đúng chánh pháp của công chúa là một hành động sai, giúp cho người làm ác lại làm ác hơn. Chúng ta nên tránh xa những sự cúng dường như vậy.

Qua câu chuyện trên đây, cho chúng ta một bài học và nên lấy gương của công chúa cúng dường cho tập thể ác mà soi lại mình, để từ bỏ những việc làm thiện không đúng chánh pháp.

Những đoàn từ thiện đi cứu trợ những người bị cơn bão số 6 năm 2006. Tai nạn giao thông xảy ra, toàn cả xe có 13 người thì chỉ có một người sống sót, còn tất cả đều tan nát.

Có người đầu cổ, tay chân đều đứt lìa, ruột gan đều văng tứ tung, chết một cách thê thảm. Đó là làm từ thiện không đúng chánh pháp.

Làm từ thiện không đúng chánh pháp thì không thiện chút nào, cũng giống như công chúa làm thiện cúng dường cho năm trăm vị Bà La Môn mà phải lãnh án tử hình.

Cho nên muốn làm việc thiện thì hãy xem coi người nhận của cúng dường có phải là những bậc tu hành chân chánh hay không? Hay là những người mượn tôn giáo lừa đảo người. Người mượn tôn giáo lừa đảo người thì đừng cúng dường, vì cúng dường không được phước mà thêm tai họa vào thân. Gương công chúa còn đó, hãy lấy đó mà soi lại mình.

Các vị đi làm từ thiện mang của cải đến giúp đỡ người nghèo khó thì phải xem xét những người nghèo khó này có phải là những người hiền không? Nếu người hiền lương thì nên cứu trợ, còn họ không phải là người hiền lương thì chúng ta đừng cứu trợ, vì cứu trợ cho họ chúng ta sẽ lãnh mọi sự khổ đau của họ về mình. Luật nhân quả rất công bằng, kẻ nào làm ác phải chịu lấy quả khổ đau, còn người làm thiện không đúng đối tượng thì cũng giống như người tiếp tay cho kẻ khác làm ác thêm. Do đó mà người làm thiện phải tan xương nát thịt như những xe đi làm từ thiện.

Theo chúng tôi thiển nghĩ, làm từ thiện là đứng trước cảnh khổ của mọi người, chúng ta đến giúp đỡ và an ủi họ, chứ chúng ta không phân biệt họ làm thiện làm ác. Họ làm thiện hay làm ác chúng ta không cần biết đến.

Chúng ta làm từ thiện bằng tiền của mồ hôi nước mắt của chúng ta làm ra. Có nhiều người mượn danh làm từ thiện mà lại ăn xài tiêu phí trên tiền bạc từ thiện của những người khác. Chính đó mới gây ra tai họa cho mình. Cho nên các nhà làm từ thiện coi chừng, tiêu phí tiền của từ thiện cho cá nhân gia đình mình thì tai họa xảy đến không lường được.

Trả lời câu hỏi 11:

Nàng thưa rằng: “Con nay xin vua cha vui lòng tùy thuận con. Chỉ xin nguyện ngày thứ nhất cho phép tất cả nam nữ ở trong thành được đến chỗ Phật ở, lãnh thọ Tam quy, Ngũ giới; ngày thứ hai cho phép tất cả quần thần đều đến chỗ Phật ở; ngày thứ ba cho phép tất cả con trai vua đều đến chỗ Phật ở; ngày thứ tư cho phép tất cả con gái vua đều đến chỗ Phật ở; ngày thứ năm cho phép tất cả các phu nhân thể nữ của vua đến chỗ Phật ở, và ngày thứ sáu, cuối cùng xin vua cũng đến chỗ Phật ở”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH tuyệt vời!

Khi hiểu được Phật pháp là một pháp bảo chân chánh, nó đem lại lợi ích thiết thật cho mọi người, nàng biết rõ nó là nền đạo đức nhân bản - nhân quả dạy mọi người sống không làm khổ mình, khổ người, nên khi biết mình còn sống chỉ có 6 ngày nữa, nhưng lòng yêu thương của công chúa quá lớn, nàng muốn cho mọi người đều hưởng được phước báu. Vì thế nàng chỉ xin vua cha ngày thứ nhất cho phép tất cả nam nữ ở trong thành được đến chỗ Phật ở, lãnh thọ Tam quy, Ngũ giới.

Cả dân chúng trong thành đều được thọ Tam quy, Ngũ giới. Khi thọ Tam quy, Ngũ giới xong, thì họ phải sống một đời sống đức hạnh thiện pháp. Khi dân trong thành sống đức hạnh thiện pháp như vậy thì làm thay đổi cả thành là một cảnh giới Thiên Đàng.

Yêu cầu thứ hai của công chúa xin vua cha cho tất cả quần thần đều đến chỗ Phật ở. Khi đến nơi Phật ở, những vị quan này đều được nghe những bài thuyết pháp về đức hạnh nhân bản của con người, nên khi làm quan đối với dân như thế nào? Làm cho tất cả quần thần giúp vua trị nước bằng đức hiếu sinh, thương dân như thương con của mình.

Yêu cầu thứ ba của công chúa xin vua cha cho phép tất cả con trai vua đều đến chỗ Phật ở. Khi đến chỗ đức Phật ở, đều được nghe Phật thuyết giảng Tam quy, Ngũ giới về đức hạnh làm người sống biết thương yêu nhau, không làm khổ cho nhau, biết tha thứ mỗi lỗi lầm của nhau trong năm đức hạnh:

Đức Hiếu Sinh; Đức Ly Tham từ bỏ lấy của không cho; Đức Chung Thủy vợ chồng phải thương yêu chia sẻ ngọt bùi cay đắng có nhau, đừng ông ăn chả bà ăn nem thì gia đình tan nát; Đức Thành Thật không nói lời dối trá, không nói thêu dệt, thường nói lời thành thật; Đức Minh Mẫn không nghiện ngập rượu chè say xỉn, cờ gian bạc lận.

Yêu cầu thứ tư của công chúa xin vua cha cho phép tất cả con gái vua đều đến chỗ Phật ở. Được Phật dạy về năm đức công, dung, ngôn, hạnh của người phụ nữ trong năm giới này, khiến cho những người con gái con vua trở thành những người con gái nết hạnh trang nghiêm thanh tịnh.

Yêu cầu thứ năm của công chúa xin vua cha cho phép tất cả các phu nhân thể nữ của vua đến chỗ Phật ở. Khi đến chỗ Phật ở, tất cả các phu nhân thể nữ của vua được nghe Phật thuyết pháp và thọ Tam quy, Ngũ giới, nhờ đó họ đều thay đổi tâm tính trở thành những người hiền lương, những người tốt, có đức hạnh không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sinh.

Và yêu cầu cuối cùng của công chúa là xin vua cha hãy đến chỗ Phật ở. Vua cha vui lòng chấp nhận những yêu cầu của công chúa, để trước khi chết công chúa không oán hận vua cha. Vì vua cha tin có trời định số mệnh, còn các vị Bà La Môn là những người thay trời hành đạo mới dạy vua cúng tế như vậy, thì trăm họ mới bình an và đất nước mới thịnh vượng.

Vua cha chấp nhận những yêu cầu của công chúa, để công chúa mãn nguyện trước khi nhắm mắt lìa đời, không có gì oán trách vua cha sao nhẫn tâm giết con trẻ.

Khi gặp Phật và đã được nghe Phật thuyết Tam quy, Ngũ giới, công chúa biết rằng chỉ có giáo pháp đức hạnh này mới đem lại sự bình an cho muôn người, muôn vật. Vì thế, công chúa quyết định làm cho cả đất nước được thay đổi theo đường lối đạo đức nhân bản - nhân quả trị dân, trị nước, lấy dân làm gốc, giúp vua cha hoàn thành được đường lối cai trị TỀ GIA TRỊ NƯỚC BÌNH THIÊN HẠ, giúp cho dân sống có đạo đức biết thương mình, thương người và thương muôn loài sự sống trên hành tinh này, thì dù nàng có chết nàng cũng vui là đền đáp được công ơn sinh thành của cha mẹ và ơn đất đai thủy tổ đã sinh ra nàng. Nàng chấp nhận cái chết trong niềm hân hoan sung sướng là vì đất nước nàng toàn dân được sống trong nền giáo dục đức hạnh nhân bản tuyệt vời của Phật giáo.

Trả lời câu hỏi 12:

Những lời thỉnh cầu của nàng vua đều ưng thuận. Và trong sáu ngày ấy, tất cả vua quan dân chúng ở trong thành đều được lễ Phật, nghe pháp thọ lãnh Tam quy, Ngũ giới. Vua đem những điềm mộng bạch với đức Phật. Đức Phật giải cho vua rõ tất cả điềm mộng đó không ứng về hiện tại, mà thuộc ve các kiếp sau. Không can hệ gì đến vua cả. Vua hiểu ngay ý Phật dạy”. Câu này dạy ĐỨC THÔNG MINH HIẾU SINH Ý HÀNH.

Trong 6 ngày, từ vua quan đến thứ dân trong tam cung lục viện đều nghe pháp thọ lãnh Tam quy, Ngũ giới. Tất cả mọi người đều có một sự thay đổi rất lớn, nhất là nhà vua sáng suốt nhận định được lời Phật dạy là những lời quý hơn vàng ngọc. Còn những lời của các vị Bà La Môn là mỵ vua, dối gạt để giết một đứa con hiếu hạnh và giết cả bao nhiêu người, và còn giết các loài chúng sinh vô tội. Nếu không nghe theo lời yêu cầu của của công chúa thì giờ này vua cha đã tạo tội lớn như rừng, như biển.

Công chúa đã cứu vua cha thoát khỏi một tội lỗi rất to lớn, cứu mình, cứu 500 người theo hầu mình và cứu tất cả chúng sinh sắp bị giết để tế trời. Công ơn nàng rất lớn. Bởi vậy, đem chánh pháp đến với mọi người là phước báu vô lượng.

Trả lời câu hỏi 13:

Liền truyền bãi bỏ tất cả sự giết hại chúng sanh để tế tự, phát nguyện dầu có phải hủy bỏ thân mạng cũng không bao giờ giết hại một ai cả”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Sau khi nghe Phật pháp với những lời dạy đạo đức hiếu sinh tuyệt vời, nên nhà vua nói: “Dầu có phải hủy bỏ thân mạng cũng không bao giờ giết hại một ai cả”. Từ một ông vua hung ác có thể giết con mình mà không thương xót, còn giết người và các loài vật hằng loạt mà không gớm tay. Thế mà khi học được Phật pháp, liền trở thành một người hiền lương tuyệt vời, mới nói ra một lời ái ngữ rất hay: “Dầu có phải hủy bỏ thân mạng cũng không bao giờ giết hại một ai cả”.

Chánh pháp của Phật đã cảm hóa và làm thay đổi lòng người tuyệt vời! Làm thay đổi cả một đất nước.

Bởi vậy Phật pháp rất tuyệt vời, nghe pháp xong là thay đổi tâm tánh ngay liền.

Còn người thời nay khó quá, thầy cho dạy đạo đức hiếu sinh như vậy mà đến giờ này chưa có ai thực hiện rốt ráo, thật đáng thương thay! Công chúa là một trong những người giống như các tu sinh của lớp học chúng ta. Khi học đạo đức hiếu sinh xong, cảm nghĩ của các tu sinh liền ước muốn cho những nhà lãnh đạo đất nước sáng suốt đem những bài học này vào các trường học và khắp nơi trong dân gian từ hang cùng ngõ cụt, nơi nào cũng được truyền bá đạo đức này. Nhưng làm sao được hỡi các tu sinh? Công chúa làm được là nhờ tâm nguyện thương chúng sinh quá lớn, lấy mạng sống của mình thế chấp trong vòng 6 ngày để cho mọi người được học đạo đức. Công chúa thật là vĩ đại. Lấy thân mình làm lệnh truyền của vua đem đức hạnh đến với mọi người. Còn chúng ta bây giờ không ai làm được phải không các tu sinh? Nếu giáo pháp của Phật không phải là đạo đức hiếu sinh thì liệu công chúa có thoát chết được hay không? Hay bị chém đầu treo nơi ngã ba, ngã tư đường phố người qua, kẻ lại!!! Đọc đoạn kinh này giúp chúng ta nhận xét: Khi nghe vua cha kêu án công chúa tử hình, nhưng công chúa vẫn thản nhiên, tâm không hề giao động, sợ hãi. Được tâm bất động như vậy là nàng nhờ đã giác ngộ những điều Phật dạy: “Các pháp vô thường, khổ, vô ngã, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta”, nên nàng bình tĩnh trước cái chết của mình, mà xin vua cha cho phép tất cả mọi người đều đến chỗ Phật ở.

Bản tính nàng từ lúc sinh ra đến khi lớn lên nàng rất cung kính và tôn trọng những người tu hành, nên sẵn sàng cúng dường không một vật gì nàng tiếc, luôn luôn nuôi 500 chúng Bà La Môn. Đến khi học Phật pháp, nàng đã biết mình cúng dường sai lầm, nên nàng chấm dứt không cúng dường nữa.

Nàng đã làm một điều tốt thiện, nhưng những người thọ dụng của cúng dường không tốt thiện. Họ là những người xấu ác, bằng chứng khi nàng không cúng dường nữa là họ tìm cách giết nàng. Ghê thật lòng người! Từ ân thành oán không mấy khó khăn. Phải không các tu sinh? Đây cũng là một bài học cho những phật tử cúng dường không sáng suốt, bị lừa đảo không được phước mà còn làm thêm tội là nối giáo diệt Phật giáo. Tội đó cũng không nhẹ.

Quý phật tử đã từng thấy các nhà làm từ thiện, từ lâu họ đã bị cảnh cáo cho biết làm thiện không đúng chánh pháp là những tai họa vào thân. Cách đây hơn một năm, một chiếc xe đi làm từ thiện, trong xe toàn là những sư cô đã rơi xuống đèo chết một cách không toàn thây. Và vừa rồi là đoàn cứu trợ đồng bào bị cơn bão số 6 miền Trung. Tai nạn giao thông xảy ra, 13 người đi làm từ thiện chỉ còn sống sót một người. Xe đụng như thế nào mà cơ thể của họ tan nát, đầu cổ, tay chân đều bị cán đứt thành khúc, ruột gan đổ ra lênh láng trông ghê gớm giống như những thớt thịt heo bán ở chợ Bến Thành.

Bởi vậy, làm từ thiện mà không thiện chút nào; làm từ thiện mà chết một cách thảm thương, chết một cách khổ đau khiến cho những người thân nhìn thấy cơ thể nát tan phải chết lên, chết xuống. Hình ảnh cái chết của những nhà làm từ thiện cần phải suy ngẫm, đừng nghĩ rằng làm từ thiện là được phước báu, điều đó là sai. Làm từ thiện là thấy người ta khổ mà mình giúp đỡ, chứ không cầu danh, cầu lợi, cầu phước. Muốn làm từ thiện thì hãy lắng nghe lời Phật dạy:

“Muốn bố thí cúng dường đúng chánh pháp thì cá nhân và tập thể nhận của bố thí cúng dường phải thanh tịnh giới luật, đức hạnh nghiêm túc”.

Tóm lại, công chúa đã làm một việc từ thiện đúng chánh pháp, nên nàng thoát chết và còn giúp biết bao nhiêu người và vật thoát chết. Đúng là lấy thiện chuyển ác pháp. Cho nên công chúa lại còn giúp vua cha hồi tỉnh không còn mê tín, nhất là quan, dân trong thành đều sống toàn thiện. Công ơn của công chúa thật là vĩ đại, mọi người sẽ mãi mãi nhớ ơn. Chúng ta hãy noi theo gương hạnh của công chúa tự giác, giác tha, giác hạnh.

Mình được lợi ích thì cầu mong mọi người khác cũng đều được lợi ích như mình. Thật là cao thượng tuyệt vời, không có gì cao thượng hơn! Đức hiếu sinh của công chúa cao vòi vọi tận trời xanh.

Bài học thứ 30: LÁ THƯ CỦA MẸ

Con thân yêu!

Lâu rồi mẹ không nhận được thư con, lần về thăm nhà, dù con không nói và cố tỏ ra vui, nhưng mẹ đã linh cảm con đang gặp phải một chuyện gì đó không may, con đang rất buồn, thất vọng và đuối sức. Mẹ không lên thăm con vào lúc này, vì mẹ biết con sẽ không thổ lộ với mẹ, muốn tự vượt qua, và sự có mặt của mẹ đôi khi sẽ làm con yếu lòng hơn mà thôi.

Cuộc sống vốn không bằng phẳng như con từng mong ước thời còn đi học hay trên ghế giảng đường. Mọi chuyện đều có thể xảy ra một cách bất ngờ nhất. Mẹ chợt thấy mẹ có lỗi với con khi luôn dành cho con tình yêu thương, chăm sóc mà chưa chuẩn bị cho con tinh thần và cách đối phó khi điều bất hạnh xảy đến. Mẹ không muốn những khó khăn, nỗi đau mà mẹ đã từng trải qua, hay đã từng biết sẽ lại đến với con. Mẹ không sắp xếp được những cảm xúc, suy nghĩ, và những điều mẹ muốn nói với con trong thư này có thể rộng hơn những gì con đang gặp phải, nhưng con hãy đọc và giữ nó, nó có thể sẽ còn cần cho con sau này.

Con hãy đón nhận mọi sự việc bằng sự dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật. Con đừng chạy trốn vị trí của mình, mà hãy biết phân tích với đúng bản chất những gì đã hiện ra.

Hãy tự tin vượt lên, khắc phục và mạnh dạn đấu tranh với những trở ngại bằng tấm lòng thực sự, bằng sự hướng thiện và nhìn rõ những gì mình chưa hoàn thiện. Con đừng bao giờ bỏ cuộc, với cảm giác cuộc sống không còn lối thoát trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Cuộc sống không thể trở nên bế tắc hoàn toàn, một khi con người còn tin vào chính mình.

Hãy biết chấp nhận và tha thứ. Đừng cố gắng bới móc lỗi lầm của người khác, hãy biết tha thứ, nhưng nên nghiêm khắc nhìn lại mình. Con hãy cho mà không cần nhận lại hay tính toán thiệt hơn, ngay cả khi cần được an ủi nhất, con hãy giang rộng vòng tay và chia sẻ, nâng đỡ những người cần cảm thông giúp đỡ xung quanh. Vì trong lúc chia sẻ với người khác, con sẽ tìm lại sức mạnh và niềm tin cho chính mình. Đừng quá thương hại mình, tự thương hại sẽ làm giảm sức mạnh vốn có của con.

Con hãy nhớ rằng còn nhiều người yêu thương con, và cuộc sống của con có giá trị và ý nghĩa với người khác. Con đừng ngại mở lòng với tình yêu, vì chỉ có tình cảm thật sự mới giúp con tìm được chính mình. Hãy chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với người con yêu quý. Tình yêu luôn là điều kỳ diệu, để vượt qua những thử thách, khó khăn! Hãy gìn giữ những ký ức, kỷ niệm đẹp. Một khi lòng yêu thương, tình yêu thuơng gặp trắc trở hay có sự đổi thay, mất mát, thì con đừng vội xóa đi những gì đã từng là của con. Con luôn hiểu là tình yêu thương trong con không thể mất, nó luôn hiện hữu trong tâm hồn, cho dù có thể nó có lúc không còn tồn tại. Khi người khác mang trái tim họ ra đi, thì trái tim người ở lại vẫn còn nguyên vẹn, nhưng người ta có khuynh hướng tự dằn vặt, tự hành hạ cho đến khi trái tim của mình rướm máu, đau đớn tột cùng mới nhìn lại sự việc. Con hãy cố gắng đừng để mất theo những điều không đáng mất khác, như sức khỏe, thời gian, niềm tin ở chính mình và các mối quan hệ khác.

Cuộc sống của con liên quan đến nhiều người, hãy luôn tin ở con người và khám phá những đều tốt đẹp riêng biệt của từng người.

Dù vậy, cũng không nên đặt tất cả niềm tin của con vào một người hay một sự việc mà con chưa nắm vững, và nhìn thế giới qua lăng kính đó, để con không phải vất vả trở về với chính mình, nếu có sự đổi thay xảy ra vì bất kỳ lý do gì.

Con đừng ngại đối diện với nỗi buồn, sự thất vọng và cô đơn. Đôi khi sự cô đơn thật sự sẽ giúp con hiểu và chiêm nghiệm được nhiều điều bổ ích, sâu sắc. Đừng đắm chìm triền miên trong sự than trách yếu đuối. Con đừng vội đi tìm một điều gì đó chưa chắc chắn thay thế, vì con vẫn sẽ phải quay lại vấn đề chưa giải quyết được, đôi khi phức tạp hơn hay với tâm thế không tốt như ban đầu.

Con hãy bắt tay vào công việc mà con yêu thích, ngay cả lúc con chán nản nhất và không muốn làm việc. Vì chỉ có công việc thật sự, chứ không phải sự nhàn rỗi sẽ giúp con tìm lại được niềm vui và niềm tin cuộc sống.

Đừng quá lệ thuộc vào những định ước khuôn mẫu như con đã từng biết: Mất tiền là không mất gì; mất sức khỏe là mất nhiều; còn mất danh dự là mất tất cả. Nhưng với ý chí, nhiều người đã chiêm nghiệm và thực hiện được trong thực tế cuộc sống khác với câu châm ngôn ấy: “Mất tiền thì bạn sẽ có thể làm lại được ra tiền; mất sức khỏe bạn có thể tìm lại được sức khỏe của mình; mất danh dự bạn có thể khôi phục được danh dự, nếu còn có niềm tin và thời gian; mất niềm tin bạn vẫn có thể tìm lại được niềm tin bằng sự cố gắng, nghị lực và tình cảm con người.

Và chỉ khi bạn thôi không cố gắng nữa hay buông xuôi, bạn mới có khả năng mất tất cả”.

Thước đo cho sự thành công hay giá trị của con và người khác không phải là những giá trị vật chất hay danh vọng. Những giá trị về tinh thần và niềm vui mới có giá trị lâu dài. Cuộc đời như một hành trình leo núi đầy khó khăn, hãy luôn hướng về phía trước.

Đừng quay đầu ngoái lại quá lâu với những gì con đã vượt qua, đã làm được, hay đã thất bại. Hạnh phúc là cảm giác thực trên từng chặng đường đi, chứ không phải chỉ là cảm giác tới đích. Nếu có lúc nào đó con cứ loay hoay, trăn trở, dằn vặt khá lâu, thì khi nhận ra được con đừng bận tâm, ân hận vì điều đó, mà hãy mạnh dạn lên đường bước tiếp. Bất kỳ thời điểm nào đều có thể là điểm khởi đầu tốt nhất cho con.

Những câu nói chưa suy nghĩ kỹ có thể bị hiểu nhầm, gây tổn thương người khác, hay làm con mất đi sự tự tin, nên hãy suy nghĩ, tìm hiểu kỹ về những điều, những dự định sắp làm, những gì con sắp hứa, hay những điều con sẽ nói. Đừng ngại nói lời xin lỗi chân thành, hay nhìn nhận những gì mình chưa làm được, chưa hoàn thiện.

Ngay cả lúc thất vọng nhất, con hãy luôn nghĩ về những điều con từng ước mơ, hãy mạnh dạn và hãy tự tin, trầm tĩnh, vững vàng. Con hãy làm theo cách, đi những con đường mà con đã suy nghĩ là đúng, dù có thể chưa ai đi. Sự thử thách càng lớn thì khi vượt qua được thế đứng và tầm nhìn càng cao.

Đừng quá tự dằn vặt hay nuối tiếc những gì đã qua, về những gì con đã làm. Không vấp ngã trong cuộc sống là một điều tốt, nhưng vấp ngã mà đứng dậy đi vững vàng thì là một điều càng tốt hơn. Cuộc đời ai cũng có lần vấp ngã - sau mỗi lần vấp ngã, sai lầm, người ta sẽ có được kinh nghiệm sống quý giá hơn. Không ai đánh giá một giai đoạn vừa qua như một cách sống của con cả. Điều quan trọng là cách con vượt qua; là cuộc sống sau này của con sẽ thế nào. Tất cả tùy thuộc vào con.

Con vẫn có thể nghe lời mẹ khuyên, học tập kinh nghiệm từ người khác, từ những câu chuyện con biết được từ trong sách vở, báo chí, bè bạn và người thân. Nhưng khi chính con trải qua rồi, thì điều đó mới chính thực sự là của con. Có khi thử thách nghiệt ngã và khó khăn như một điều may mắn, vì người ta lớn lên, trưởng thành thực sự chính bằng kinh nghiệm và nghị lực đối đầu với khó khăn. Chứ không ai trưởng thành lên chỉ bằng lý thuyết hay kinh nghiệm của người khác. Trong bất kỳ thời điểm nào, con hãy trân trọng với những gì đang có, và hãy cảm nhận mọi khía cạnh của cuộc sống. Con đừng quy kết cho số phận, mà hãy cố hết sức mình.

Con chớ quên tình cảm luôn là nguồn động viên lớn nhất. Con đừng quên những điều bình dị, những nơi chốn thân thương từng gắn bó với tuổi thơ của mình, những kỷ niệm đẹp, cả những người bạn mà không còn gặp lại, những câu chuyện từng làm con xúc động sâu sắc. Tất cả những điều đó tưởng chừng sẽ làm đau con hơn, nhưng chính những điều đó sẽ giúp con vượt qua khó khăn bằng đôi chân và tâm hồn của chính mình. Nên học hỏi từ người khác, nhưng đừng lấy người khác làm thước đo giá trị của mình. Vì con luôn phải là con với tất cả những điều cần hoàn thiện, những điều bình dị và thật riêng của mình.

Vượt qua được nỗi buồn sẽ giúp con tìm ra những giá trị mới mà trước đây con chưa nhận ra.

Con đừng mong muốn tất cả mọi người phải hiểu mình, chỉ cần chính con hay một người hiểu là đã đủ cho con rồi. Hãy sống thật với cảm xúc của chính mình. Những giọt nước mắt, những lời chân thật từ trái tim, trong một lúc nào đó sẽ giúp con vơi nhẹ nỗi buồn xúc cảm tổn thương. Hãy trầm tĩnh và bao dung với những người đã gây cho con nỗi đau.

Mỗi ngày sẽ là một ngày mới, với những điều tốt lành và bất ngờ nhất sẽ đến cùng với sự cố gắng của mình. Những gì đã qua sẽ trở thành vốn sống của con. Cuộc sống không có điều gì mất đi mà không mang đến cho ai đó điều gì mới mẻ, bổ ích hơn. Nếu con chưa tìm được thì con hãy suy nghĩ sâu sắc, tĩnh lặng để nhận ra điều đó, và đừng lãng phí thời gian một khi con đã hiểu. Những gì con cho đi hôm nay từ trái tim, chắc chắn con sẽ nhận lại được từ trái tim ngày mai hoặc sau này. Và con đừng chỉ cầu mong, ước mơ không mà hãy hành động. Hãy sống giản dị, chân thành và thật lòng.

Con hãy tin là cuộc sống luôn có luật nhân quả, sẽ luôn công bằng, có trước có sau với tất cả mọi người, với những gì mà con có thể làm được và nên làm. Con hãy tin vào điều kỳ diệu và mầu nhiệm của tâm hồn con người, của cuộc sống, và nhất là tin vào chính con. Một ngày mới sẽ mở ra cho con.

Mẹ tin ở con!

Người bạn của con. Mẹ

First New

Hạt giống tâm hồn

NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1: “Con thân yêu! Lâu rồi mẹ không nhận được thư con”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 2: “Lần về thăm nhà, dù con không nói và cố tỏ ra vui”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 3: “Nhưng mẹ đã linh cảm con đang gặp phải một chuyện gì đó không may, con đang rất buồn, thất vọng và đuối sức”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 4: “Mẹ không lên thăm con vào lúc này vì mẹ biết con sẽ không thổ lộ với mẹ”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 5: “Muốn tự vượt qua, và sự có mặt của mẹ đôi khi sẽ làm con yếu lòng hơn mà thôi”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 6: “Cuộc sống vốn không bằng phẳng như con từng mong ước thời còn đi học hay trên ghế giảng đường. Mọi chuyện đều có thể xảy ra một cách bất ngờ nhất”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 7: “Mẹ chợt thấy mẹ có lỗi với con khi luôn dành cho con tình yêu thương, chăm sóc mà chưa chuẩn bị cho con tinh thần và cách đối phó khi điều bất hạnh xảy đến”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 8: “Mẹ không muốn những khó khăn, nỗi đau mà mẹ đã từng trải qua, hay đã từng biết sẽ lại đến với con. Mẹ không sắp xếp được những cảm xúc, suy nghĩ, và những điều mẹ muốn nói với con trong thư này có thể rộng hơn những gì con đang gặp phải, nhưng con hãy đọc và giữ nó, nó có thể sẽ còn cần cho con sau này”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 9: “Con hãy đón nhận mọi sự việc bằng sự dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 10: “Con đừng chạy trốn vị trí của mình, mà hãy biết phân tích với đúng bản chất những gì đã hiện ra”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 11: “Hãy tự tin vượt lên, khắc phục và mạnh dạn đấu tranh với những trở ngại bằng tấm lòng thực sự, bằng sự hướng thiện và nhìn rõ những gì mình chưa hoàn thiện”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 12: “Con đừng bao giờ bỏ cuộc, với cảm giác cuộc sống không còn lối thoát trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Cuộc sống không thể trở nên bế tắc hoàn toàn, một khi con người còn tin vào chính mình”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 13: “Hãy biết chấp nhận và tha thứ”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 14: “Đừng cố gắng bới móc lỗi lầm của người khác, hãy biết tha thứ, nhưng nên nghiêm khắc nhìn lại mình”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 15: “Con hãy cho mà không cần nhận lại hay tính toán thiệt hơn, ngay cả khi cần được an ủi nhất”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 16: “Con hãy giang rộng vòng tay và chia sẻ, nâng đỡ những người cần cảm thông giúp đỡ xung quanh”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 17: “Vì trong lúc chia sẻ với người khác, con sẽ tìm lại sức mạnh và niềm tin cho chính mình”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 18: “Đừng quá thương hại mình, tự thương hại sẽ làm giảm sức mạnh vốn có của con”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 19: “Con hãy nhớ rằng còn nhiều người yêu thương con”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 20: “Và cuộc sống của con có giá trị và ý nghĩa với người khác”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 21: “Con đừng ngại mở lòng với tình yêu, vì chỉ có tình cảm thật sự mới giúp con tìm được chính mình”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 22: “Hãy chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với người con yêu quý”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 23: “Tình yêu luôn là điều kỳ diệu, để vượt qua những thử thách, khó khăn!”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 24: “Hãy gìn giữ những ký ức, kỷ niệm đẹp”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 25: “Một khi lòng yêu thương, tình yêu thương gặp trắc trở hay có sự đổi thay, mất mát, thì con đừng vội xóa đi những gì đã từng là của con”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 26: “Con luôn hiểu là tình yêu thương trong con không thể mất, nó luôn hiện hữu trong tâm hồn, cho dù có thể nó có lúc không còn tồn tại”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 27: “Khi người khác mang trái tim họ ra đi, thì trái tim người ở lại vẫn còn nguyên vẹn”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 28: “Nhưng người ta có khuynh hướng tự dằn vặt, tự hành hạ cho đến khi trái tim của mình rướm máu, đau đớn tột cùng mới nhìn lại sự việc”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 29: “Con hãy cố gắng đừng để mất theo những điều không đáng mất khác, như sức khỏe, thời gian, niềm tin ở chính mình và các mối quan hệ khác”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 30: “Cuộc sống của con liên quan đến nhiều người”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 31: “Hãy luôn tin ở con người và khám phá những điều tốt đẹp riêng biệt của từng người”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 32: “Dù vậy, cũng không nên đặt tất cả niềm tin của con vào một người, hay một sự việc mà con chưa nắm vững, và nhìn thế giới qua lăng kính đó, để con không phải vất vả trở về với chính mình, nếu có sự đổi thay xảy ra vì bất kỳ lý do gì”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 33: “Con đừng ngại đối diện với nỗi buồn, sự thất vọng và cô đơn”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 34: “Đôi khi sự cô đơn thật sự sẽ giúp con hiểu và chiêm nghiệm được nhiều điều bổ ích, sâu sắc”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 35: “Đừng đắm chìm triền miên trong sự than trách yếu đuối”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 36: “Con đừng vội đi tìm một điều gì đó chưa chắc chắn thay thế”. Câu này dạy đạo đức gì? Câu hỏi 37: “Vì con vẫn sẽ phải quay lại vấn đề chưa giải quyết được, đôi khi phức tạp hơn hay với tâm thế không tốt như ban đầu”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 38: “Con hãy bắt tay vào công việc mà con yêu thích, ngay cả lúc con chán nản nhất và không muốn làm việc”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 39: “Vì chỉ có công việc thật sự, chứ không phải sự nhàn rỗi sẽ giúp con tìm lại được niềm vui và niềm tin cuộc sống”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 40: “Đừng quá lệ thuộc vào những định ước, khuôn mẫu như con đã từng biết: Mất tiền là không mất gì; mất sức khỏe là mất nhiều; còn mất danh dự là mất tất cả”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 41: “Nhưng với ý chí, nhiều người đã chiêm nghiệm và thực hiện được trong thực tế cuộc sống khác với câu châm ngôn ấy: “Mất tiền thì bạn sẽ có thể làm lại được ra tiền; mất sức khỏe bạn có thể tìm lại được sức khỏe của mình; mất danh dự bạn có thể khôi phục được danh dự, nếu còn có niềm tin và thời gian; mất niềm tin bạn vẫn có thể tìm lại được niềm tin bằng sự cố gắng, nghị lực và tình cảm con người”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 42: “Và chỉ khi bạn thôi không cố gắng nữa hay buông xuôi, bạn mới có khả năng mất tất cả”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 43: “Những câu nói chưa suy nghĩ kỹ có thể bị hiểu nhầm, gây tổn thương người khác, hay làm con mất đi sự tự tin, nên hãy suy nghĩ, tìm hiểu kỹ về những điều, những dự định sắp làm, những gì con sắp hứa, hay những điều con sẽ nói”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 44: “Đừng ngại nói lời xin lỗi chân thành, hay nhìn nhận những gì mình chưa làm được, chưa hoàn thiện”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 45: “Ngay cả lúc thất vọng nhất, con hãy luôn nghĩ về những điều con từng ước mơ, hãy mạnh dạn và hãy tự tin, trầm tĩnh, vững vàng”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 46: “Con hãy làm theo cách, đi những con đường mà con đã suy nghĩ là đúng, dù có thể chưa ai đi. Sự thử thách càng lớn thì khi vượt qua được thế đứng và tầm nhìn càng cao”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 47: “Đừng quá tự dằn vặt hay nuối tiếc những gì đã qua, về những gì con đã làm”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 48: “Không vấp ngã trong cuộc sống là một điều tốt, nhưng vấp ngã mà đứng dậy đi vững vàng thì là một điều càng tốt hơn”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 49: “Cuộc đời ai cũng có lần vấp ngã - sau mỗi lần vấp ngã, sai lầm, người ta sẽ có được kinh nghiệm sống quý giá hơn”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 50: “Không ai đánh giá một giai đoạn vừa qua như một cách sống của con cả. Điều quan trọng là cách con vượt qua; là cuộc sống sau này của con sẽ thế nào. Tất cả tùy thuộc vào con”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 51: “Con vẫn có thể nghe lời mẹ khuyên, học tập kinh nghiệm từ người khác, từ những câu chuyện con biết được từ trong sách vở, báo chí, bè bạn và người thân. Nhưng khi chính con trải qua rồi, thì điều đó mới chính thực sự là của con”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 52: “Có khi thử thách nghiệt ngã và khó khăn như một điều may mắn, vì người ta lớn lên, trưởng thành thực sự chính bằng kinh nghiệm và nghị lực đối đầu với khó khăn. Chứ không ai trưởng thành lên chỉ bằng lý thuyết hay kinh nghiệm của người khác”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 53: “Trong bất kỳ thời điểm nào, con hãy trân trọng với những gì đang có và hãy cảm nhận mọi khía cạnh của cuộc sống”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 54: Con đừng quy kết cho số phận, mà hãy cố hết sức mình”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 55: “Con chớ quên tình cảm luôn là nguồn động viên lớn nhất”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 56: “Con đừng quên những điều bình dị, những nơi chốn thân thương từng gắn bó với tuổi thơ của mình, những kỷ niệm đẹp, cả những người bạn mà không còn gặp lại”. Câu này dạy đạo đức gì? Câu hỏi 57: “Những câu chuyện từng làm con xúc động sâu sắc. Tất cả những điều đó tưởng chừng sẽ làm đau con hơn, nhưng chính những điều đó sẽ giúp con vượt qua khó khăn bằng đôi chân và tâm hồn của chính mình”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 58: “Nên học hỏi từ người khác, nhưng đừng lấy người khác làm thước đo giá trị của mình. Vì con luôn phải là con với tất cả những điều cần hoàn thiện, những điều bình dị và thật riêng của mình”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 59: “Vượt qua được nỗi buồn sẽ giúp con tìm ra những giá trị mới mà trước đây con chưa nhận ra”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 60: “Con đừng mong muốn tất cả mọi người phải hiểu mình, chỉ cần chính con hay một người hiểu là đã đủ cho con rồi”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 61: “Hãy sống thật với cảm xúc của chính mình. Những giọt nước mắt, những lời chân thật từ trái tim, trong một lúc nào đó sẽ giúp con vơi nhẹ nỗi buồn xúc cảm tổn thương”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 62: “Hãy trầm tĩnh và bao dung với những người đã gây cho con nỗi đau”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 63: “Mỗi ngày sẽ là một ngày mới, với những điều tốt lành và bất ngờ nhất sẽ đến cùng với sự cố gắng của mình”. Câu này dạy đạo đức gì?”

Câu hỏi 64: “Những gì đã qua sẽ trở thành vốn sống của con”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 65: “Cuộc sống không có điều gì mất đi mà không mang đến cho ai đó điều gì mới mẻ, bổ ích hơn”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 66: “Nếu con chưa tìm được thì con hãy suy nghĩ sâu sắc, tĩnh lặng để nhận ra điều đó, và đừng lãng phí thời gian một khi con đã hiểu”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 67: “Những gì con cho đi hôm nay từ trái tim, chắc chắn con sẽ nhận lại được từ trái tim ngày mai hoặc sau này”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 68: “Và con đừng chỉ cầu mong, ước mơ không mà hãy hành động. Hãy sống giản dị, chân thành và thật lòng”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 69: “Con hãy tin là cuộc sống luôn có luật nhân quả, sẽ luôn công bằng, có trước có sau với tất cả mọi người, với những gì mà con có thể làm được và nên làm”. Câu này dạy đạo đức gì?

Câu hỏi 70: “Con hãy tin vào điều kỳ diệu và mầu nhiệm của tâm hồn con người, của cuộc sống, và nhất là tin vào chính con. Một ngày mới sẽ mở ra cho con”. Câu này dạy đạo đức gì?

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Trả lời câu hỏi 1:

Con thân yêu! Lâu rồi mẹ không nhận được thư con”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Người tu sĩ Phật giáo lấy lòng yêu thương của mình đối với tất cả mọi người, mọi vật, phải yêu thương như người mẹ thương con. Nếu ở xa, lâu lâu không nhận được thư con là người mẹ lo lắng, lòng dạ bồn chồn, không biết nay nó ra sao? Lúc nào trong tâm cũng có người con. Đọc đoạn văn này: “Lâu rồi mẹ không nhận được thư con”. Đó là một nỗi nhớ thương con của người mẹ.

Chúng ta học đạo đức hiếu sinh thì phải theo dõi từng lời nói, từng hành động, từng ý suy nghĩ của mình đều hướng đến lòng thương yêu. Nhờ đó, khi ác pháp đến không tác động được tâm. Bởi vậy, chỉ có lòng yêu thương mới đem lại cho chúng ta một sự bình an. Lòng yêu thương là một pháp xả tâm tuyệt vời. Người tu Định Vô Lậu mà không có đức hiếu sinh thì khó có tâm vô lậu.

Tâm vô lậu chỉ có tư duy quán xét theo thiện pháp đức hạnh giới luật thì mới xả được tâm. Còn ngồi tu ức chế tâm, làm cho hết vọng niệm thì làm sao tâm vô lậu được? Đó là tu sai Phật pháp, cần phải sửa đổi pháp tu.

Trả lời câu hỏi 2:

Lần về thăm nhà, dù con không nói và cố tỏ ra vui”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Dù trong lòng có những sự lo lắng, những buồn phiền, hay có những sự đau khổ, chúng ta cũng không nên thổ lộ khiến cho người khác biết, vì biết sẽ làm cho họ buồn phiền hay lo lắng, đau khổ, thì đó chính là chúng ta thiếu lòng yêu thương người, tức là làm khổ người.

Cho nên dù bất cứ những chuyện gì, thì tự cứu mình ra khỏi các ác pháp, để đem lại cho tâm mình một sự bình an, đó là thương mình. Còn nói ra là đem đến cho người khác lo lắng và buồn rầu, thì đó là không thương người. Câu này nói rất rõ: “Dù con không nói và cố tỏ ra vui”, tức là làm vui vẻ để cho người mẹ không biết nỗi buồn lo của mình. Đó là thực hiện lòng thương mẹ, lòng thương người. Ngược lại, ôm ấp trong lòng những nỗi buồn phiền mà không biết xả là làm khổ mình.

Cho nên biết thương mình thì phải thương người và biết thương người thì phải biết thương mình. Ở đây lòng thương yêu chỉ có một hướng, thương mẹ còn mình thì đau khổ, lòng thương này chưa phải là đức hiếu sinh. Nó chỉ là lòng thương yêu một hướng của thế gian mà thôi.

Người học đạo đức hiếu sinh phải hiểu biết rõ ràng để áp dụng vào thân tâm của mình, để tránh không làm khổ mình, khổ người.

Đoạn văn trên đây, chúng ta hiểu rất rõ đó là lòng thương yêu chưa trọn vẹn, lòng yêu thương đó chỉ có một hướng như trên đã nói, lòng yêu thương hạn hẹp còn nằm trong thất tình lục dục. Lòng yêu thương đó còn là lòng yêu thương của những người thế gian; lòng thương yêu đó có một chiều, nó không phải là đức hiếu sinh của Phật giáo. Đức hiếu sinh của Phật giáo soi nhiều hướng, phủ trùm vạn hữu.

Trả lời câu hỏi 3:

Nhưng mẹ đã linh cảm con đang gặp phải một chuyện gì đó không may, con đang rất buồn, thất vọng và đuối sức”. Câu này dạy THIẾU ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Người mẹ nhận xét những nỗi buồn phiền, thất vọng của người con đang che dấu mẹ. Sự nhận xét này nói lên lòng thương yêu của người mẹ.

Nếu người tu hành nào cũng lắng nghe những sự đau khổ, buồn phiền của những người xung quanh mình, và tìm mọi cách an ủi, giúp đỡ và hướng dẫn họ biết phương pháp xả tâm để không còn buồn phiền đau khổ nữa. Hành động giúp đỡ người như vậy là ban cho tình thương đến họ, tức là yêu thương người. Còn người mẹ ở đây biết thương con, nên cố tìm hiểu con mình lo lắng, buồn phiền những điều gì, để giúp con mình thoát khổ. Sự tìm hiểu về sự buồn phiền, đau khổ của con mình, đó là lòng yêu thương của người mẹ ban cho con mình.

Đức hiếu sinh cũng vậy, thường khởi lên trong ý nghĩ, trong lời nói, trong hành động bằng cách ban cho mình, cho người. Đó là áp dụng vào đời sống hằng ngày.

Trả lời câu hỏi 4:

Mẹ không lên thăm con vào lúc này, vì mẹ biết con sẽ không thổ lộ với mẹ”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Mẹ muốn lên thăm con lắm, nhưng mẹ biết con không nói cho mẹ biết những nỗi lo lắng khổ đau trong lòng con, vì có nói ra làm cho mẹ lo buồn. Đó là tình mẹ thương con và tình con thương mẹ. Tình thương này chỉ có một hướng, do thương con mà mẹ khổ (lo lắng); do thương mẹ con không nói ra nên làm khổ mẹ (che dấu).

Các tu sinh thấy chưa? Tình thương ngoài đời là tình thương trong đau khổ, chứ không phải tình thương trong an vui và hạnh phúc cả đôi bên.

Chỉ có đức hiếu sinh mới có sự thương mình, thương người. Thương mà không nói lời “THƯƠNG”, mà chỉ nói bằng lời “ÁI NGỮ”, lời nói êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn, thanh lịch, nhã nhặn, v.v...

Thương mình, thương người bằng những hành động giúp đỡ, bố thí tiền của, thực phẩm, bố thí công sức việc làm, bố thí lời nói an ủi, bố thì từng hành động vuốt ve cho ăn, cho uống, trị bệnh, v.v... Những hành động đó đều là đức hiếu sinh biết thương mình, thương người; là đạo đức cao thượng tuyệt vời. Đời sống con người và các loài vật hằng ngày rất cần những lòng yêu thương này để che chở đùm bọc cho nhau.

Trả lời câu hỏi 5:

Muốn tự vượt qua, và sự có mặt của mẹ đôi khi sẽ làm con yếu lòng hơn mà thôi”. Câu này dạy ĐỨC TỰ LỰC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Gặp những khó khăn trong cuộc đời, trong công việc làm ăn; trong sự chung đụng với mọi người; trong việc tu tập; trong sự học hành; trong các biến cố làm thay đổi cuộc sống; trong những lúc bệnh tật; trong những tai nạn xảy ra thình lình; trong những lúc bị mất mát tiền của, hoặc người thân ra đi vào cõi vĩnh hằng, v.v... Gặp những trường hợp đó, chúng ta đều phải tự lực vươn lên, vượt qua những nỗi khó khăn, những nỗi mất mát đó. Hành động tự lực vươn lên và vượt qua là những hành động thương mình, thương người.

Ở đây, nếu người con vươn lên và vượt qua những khó khăn trong đời sống và trong việc làm của mình, thì người mẹ vui sướng biết dường nào! Đó là sự thị hiện đức hiếu sinh tự lực vươn lên để mang lại sự an vui cho mình, cho người, nhất là đem lại sự bình an cho mình và cho mọi người.

Bởi vậy, mỗi hành động tuy nhỏ nhặt, nhưng nó là đạo đức hiếu sinh, cho nên trong cuộc sống hằng ngày, mỗi mỗi hành động của chúng ta sống đều toát ra lòng thương yêu rộng lớn.

Hằng ngày sống trong lòng yêu thương ấy, nhưng chúng ta không ngờ. Lòng yêu thương bằng hành động mà người đời gọi là “lòng tốt”. Chính chúng ta đang sống trong lòng yêu thương ấy mà chúng ta cũng không biết, chỉ biết thấy người khác khổ là mình giúp đỡ mà thôi.

Trả lời câu hỏi 6:

Cuộc sống vốn không bằng phẳng như con từng mong ước thời còn đi học hay trên ghế giảng đường. Mọi chuyện đều có thể xảy ra một cách bất ngờ nhất”. Câu này dạy ĐỨC CẨN THẬN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Người mẹ khuyên con với những lời có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, bằng một tình thương chan chứa. Nếu trên đời này ai cũng ban tình thương cho nhau như người mẹ thương con này thì thế gian là Thiên Đàng, Cực Lạc.

Đúng là cuộc đời không bằng phẳng, mọi chuyện đều có thể xảy ra một cách bất ngờ.

Người mẹ lấy kinh nghiệm đời sống của mình mà trao cho con mình, để mong con mình thoát khổ.

Rút ra từ kinh nghiệm đời sống những đức hạnh để dạy cho con mình, chứ người mẹ này chưa bao giờ hiểu biết Phật giáo; chưa bao giờ biết rõ các pháp trong thế gian là vô thường.

Nên người mẹ chỉ biết lấy đạo đức kinh nghiệm bản thân dạy cho con mà thôi.

Cuộc đời không bằng phẳng chính do các pháp vô thường, nếu biết các pháp vô thường thì cuộc đời không bằng phẳng là lẽ thường, đương nhiên có gì mà phải bận tâm. Cuộc đời không bằng phẳng thì nay phải có chuyện này, nếu không có chuyện này thì mai phải có xảy ra chuyện khác. Biết các pháp vô thường cho nên chúng ta không còn khổ đau.

Không còn đau khổ là chúng ta đã buông xả sạch. Biết các pháp vô thường là đau khổ, nên chúng ta chỉ còn biết thương yêu mọi người mà không giận hờn hay oán trách, ghét họ. Vì các pháp vô thường, nên nó có thường đâu mà khổ đau. Phải không quý tu sinh? Người học Phật phải thông suốt lý nhân quả và các pháp vô thường, thì tất cả mọi sự khổ đau trong cuộc này không còn tác dụng vào thân tâm được. Không tác dụng vào thân tâm được là giải thoát, là không còn dính mắc, chấp đắm, nhất là tâm tham dục phải bị triệt tiêu, phải được diệt trừ tận gốc. Có đúng như vậy không quý vị? Các pháp vô thường, nhưng chúng ta không biết nên thấy nó thường hằng. Thấy nó thường hằng nên chúng ta đau khổ.

Trả lời câu hỏi 7:

Mẹ chợt thấy mẹ có lỗi với con, khi luôn dành cho con tình yêu thương, chăm sóc mà chưa chuẩn bị cho con tinh thần và cách đối phó khi điều bất hạnh xảy đến”. Câu này dạy ĐỨC BỔN PHẬN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Một người mẹ thương con, chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ con cho nên người chưa đủ, mà còn phải dạy con mình đức kiên nhẫn, đức dũng cảm, đức vượt qua, đức tự tin, đức sáng suốt, đức ly tham, đức chung thuỷ, đức thành thật, đức minh mẫn, đức tùy thuận, đức bằng lòng, đức hiếu sinh, đức kiên trì, đức im lặng, đức tha thứ, đức bao dung, đức tự trọng, đức tôn kính, đức lễ độ, đức quý trọng, v.v... Có dạy con như vậy mới thấy mình làm hết bổn phận làm mẹ.

Mỗi gia đình cần phải thấy và hiểu biết những đức hạnh trên đây, thì bổn phận làm cha mẹ là phải dạy dỗ con cái của mình đầy đủ những đức hạnh ấy. Một người có đầy đủ đức hạnh như vậy thì mới hoá giải được khi gặp những điều bất hạnh; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn; khi gặp những ác pháp đang bủa vây tứ hướng; khi gặp các đối tượng hung bạo.

Học đường cũng vậy, không phải chỉ có dạy văn hoá, nghề nghiệp, mà còn phải trang bị cho các cháu học sinh đầy đủ những đức hạnh trên đây. Nhờ đó, khi ra tiếp xúc với cuộc đời thì các cháu mới có đủ đức hạnh để vượt qua những khúc quanh của cuộc đời, những nỗi bất hạnh, những ác pháp cực ác.

Thấy con trong đau khổ; trong những hoàn cảnh éo le; trong những điều bất hạnh; trong sự hãm hại của người khác, thì người mẹ mới nhận ra mình thiếu bổn phận dạy dỗ con mình những kinh nghiệm bản thân, tức là những đức hạnh kiên cường, nghị lực như lời trong thư đã nói: “chăm sóc mà chưa chuẩn bị cho con tinh thần và cách đối phó khi điều bất hạnh xảy đến”. Chăm sóc nuôi nấng dạy con chưa đủ, mà còn dạy con cách thức đối phó với những điều bất hạnh, những ác pháp.

Đối phó có hai cách:

1- Đối phó trong ác pháp bằng thiện pháp.

2- Đối phó trong ác pháp bằng ác pháp.

Đối phó trong ác pháp bằng thiện pháp là đem đức hạnh để hoá giải tất cả ác pháp, chuyển đổi cuộc sống khó khăn thành cuộc sống an nhiên tự tại và hạnh phúc.

Đối phó trong ác pháp bằng ác pháp là dùng thế lực mạnh đàn áp thế lực yếu, tạo cảnh đau khổ lại càng đau khổ hơn.

Ở đây, chắc người mẹ sẽ hướng dẫn con mình trong các thiện pháp để đương đầu với mọi nghịch cảnh, để đem lại sự bình an cho mình, cho người, tức là bà sẽ dạy con mình với những lòng yêu thương rộng lớn hơn.

Trả lời câu hỏi 8:

Mẹ không muốn những khó khăn, nỗi đau mà mẹ đã từng trải qua hay đã từng biết sẽ lại đến với con. Mẹ không sắp xếp được những cảm xúc, suy nghĩ, và những điều mẹ muốn nói với con trong thư này có thể rộng hơn những gì con đang gặp phải, nhưng con hãy đọc và giữ nó, nó có thể sẽ còn cần cho con sau này”. Câu này dạy ĐỨC KINH NGHIỆM HIẾU SINH Ý HÀNH.

Để đối phó với những nghịch cảnh không có phương pháp nào tốt hơn là những đức hạnh giới luật. Những đức hạnh chúng tôi đã nói ở trên được đem áp dụng vào đời sống hàng ngày thì không có nghịch cảnh nào mà không hoá giải chuyển đổi được.

Đức hiếu sinh ngự trị ở đâu thì ở đó có hạnh phúc và sự bình an, chính đức hiếu sinh sẽ mang đến sự bình an cho chúng ta ngay liền.

Lòng thương yêu của người mẹ đã mang đến cho người con rất nhiều nghị lực, khi đọc bức thư của mẹ. Người mẹ đã ghi lại những kinh nghiệm về đời sống của mình, bà đã phải vượt qua bao thử thách gian lao của cuộc đời. Người con chỉ cần nghiền ngẫm lại những lời khuyên của mẹ, rồi người con sẽ rút ra một bài học ngàn vàng, làm chuyển đổi những nghịch cảnh, những điều bất hạnh.

Người ta nói đến đức hạnh rất nhiều, nhưng có mấy ai sống đúng đức hạnh được.

Sống không đúng đức hạnh nên cuộc sống của họ đau khổ vẫn toàn sự khổ đau.

Con người thường hay sống chịu đựng trong những đau khổ, chứ ít ai chịu sống với đức hạnh hiếu sinh để chuyển đổi, nên khổ lúc nào cũng khổ đau. Nếu chúng ta biết đặt tình thương ở mọi hướng, thì trong cuộc sống hàng ngày không có ác pháp nào không hóa giải được, không thay đổi được. Từ khổ đau, đức hiếu sinh sẽ đem lại sự bình an cho mình và cho mọi người. Bởi trong đạo đức hiếu sinh có đầy đủ những đức hạnh đã kể ở trên.

Ví dụ: Có lòng thương yêu thì phải có đức nhẫn nhục; có nhẫn nhục thì phải có đức tùy thuận; có đức tùy thuận thì phải có đức bằng lòng, nhờ đó mà nó chuyển đổi nhân quả xấu trở thành nhân quả tốt.

Cho nên chúng ta chỉ cần sống với lòng thương yêu là chúng ta có đủ những đức hạnh để làm thay đổi nghịch cảnh thành thuận cảnh, từ đau khổ sẽ chuyển thành an lạc, thanh bình, yên vui, hạnh phúc. Bởi vậy đức hiếu sinh rất cần thiết cho mọi người, nó là một sức sống hạnh phúc cho mình, cho người và cho muôn loài vạn vật đang sống trên hành tinh này.

Trả lời câu hỏi 9:

Con hãy đón nhận mọi sự việc bằng sự dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật”. Câu này dạy ĐỨC DŨNG CẢM HIẾU SINH Ý HÀNH.

Chúng ta đừng hiểu người xử dụng lòng yêu thương là một sự tránh né những ác pháp, những sự khó khăn của cuộc đời. Đó là hiểu sai lệch. Ở đâu có tình thương ở đó sự dũng cảm.

Một người mẹ hy sinh cho con mình, lấy thân mình che chở cho con, dám liều chết xông vào lửa đỏ cứu con, như câu chuyện “Vết Thẹo”. Một con chim ưng vì thương chủ, dám hy sinh thân mạng để cứu lấy mạng sống của “Thành Cát Tư Hãn”. Vì thương bà lão tật nguyền, mà “Chú Bé Ném Đá” vào xe người khác. Vì yêu thương tổ quốc, biết bao nhiêu gương anh hùng liệt sĩ đã bỏ mạng nơi chiến trường...

Bởi vậy, lòng yêu thương ở đâu là đức dũng cảm ở đó. Trong đức trách nhiệm, bổn phận nghề nghiệp đều có mang theo đức hiếu sinh. Như một bác sĩ có trách nhiệm bổn phận là phải cứu bệnh nhân, giành lại mạng sống của bệnh nhân trên tay tử thần. Đó gọi là Y ĐẠO; một người cứu hoả xông vào nơi lửa đỏ để cứu người, bất kể sự sống chết của mình ra sao cũng được, miễn là cứu người.

Làm được việc như vậy goị là ĐỨC NGHIỆP; một ông thầy giáo đem hết kiến thức hiểu biết của mình truyền đạt lại cho học trò với sự tận tâm, tận lực như người mẹ thương các con thì không phải ĐỨC GIÁO sao? Một người lái xe cẩn thận không để xảy ra tai nạn giao thông gọi là người có ĐỨC CẨN THẬN GIAO THÔNG HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Người có đức hiếu sinh giao thông là người biết thương mình, thương người và thương tất cả chúng sinh.

Bởi thế, đức hiếu sinh phủ trùm vạn hữu là vậy, nó ở đâu là ở đó có sự bình an yên lành đến với mọi người, mọi vật. Người làm nghề chài lưới, nghề săn bắn, nghề đồ tể giết trâu, bò, heo, dê, gà, vịt là những người không có lòng yêu thương nhiều hướng, chỉ có lòng yêu thương một hướng. Vì thế họ chưa bao giờ có đầy đủ những đức hạnh cao thượng, nên đời sống của họ có nhiều sự khổ đau, nhiều tai nạn xảy đến. Còn những người có đức hiếu sinh, tức là lòng yêu thương nhiều hướng, thì lúc nào đời sống cũng an vui và hạnh phúc.

Trả lời câu hỏi 10:

Con đừng chạy trốn vị trí của mình, mà hãy biết phân tích với đúng bản chất những gì đã hiện ra”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH KHÔNG TRỐN CHẠY những ác pháp.

Làm người đứng trước những khó khăn mà trốn chạy là người hèn nhát, là người chưa xứng đáng làm người. Một người biết yêu thương mình, thương người thì không trốn chạy, phải nhìn thẳng vào cuộc đời, vào các ác pháp, vào các đối tượng mà vượt qua. Vượt qua bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu gian khổ là người có đức hiếu sinh không trốn chạy.

Một y bác sĩ trị bệnh thiếu y đạo là chỉ biết có tiền mới cứu chữa bệnh nhân, đó là bác sĩ thiếu đức hiếu sinh, không có lương tâm nghề nghiệp, là người tránh né y đạo, lương tâm nghề nghiệp của mình. Một ông thầy giáo dạy học móc nối học sinh về nhà để dạy riêng, là tránh né đức giáo của người thầy, là không có lương tâm nghề nghiệp.

Trong đời này, bất cứ người nào làm không hết trách nhiệm và bổn phận nghề nghiệp của mình là những người tránh né.

Người tránh né là người thiếu đức hiếu sinh thương mình, thương người, là người hèn nhát, tham tiền.

Người có đức hiếu sinh là người gan dạ, dũng cảm, không bao giờ hèn nhát trốn chạy trước một ác pháp, mọi nghịch cảnh nào cả.

Ví dụ: Nghe người khác bị bệnh truyền nhiễm mà mọi người đều tránh né sợ lây bệnh, đó là hèn nhát. Chúng ta là những người đã học về đạo đức nhân quả hiếu sinh sao lại tránh né như vậy. Vậy đức hiếu sinh ở đâu? Học đức hiếu sinh nhân quả là biết rõ nhân quả. Biết rõ nhân quả để làm gì mà phải tránh né như vậy? Thật là hèn nhát đáng trách. Nhất là người thầy dạy đạo đức, không nên tránh né, mà hãy nhìn thẳng con bệnh, đến gần người bệnh để an ủi và xoa dịu, làm cho người bệnh vượt qua những khó khăn, bệnh nặng sẽ trở thành bệnh nhẹ.

Người học đạo đức hiếu sinh phải ban trải lòng từ khắp mọi nơi, mọi người. Cho nên khi thấy ai hoạn nạn thì mang đến lòng yêu thương cho người ấy. Mang đến lòng yêu thương là sự giúp đỡ bằng của cải, tài sản, vật chất, thực phẩm, lời nói an ủi, khuyên lơn, v.v...

Trả lời câu hỏi 11:

Hãy tự tin vượt lên, khắc phục và mạnh dạn đấu tranh với những trở ngại bằng tấm lòng thực sự, bằng sự hướng thiện và nhìn rõ những gì mình chưa hoàn thiện”. Câu này dạy ĐỨC TỰ TIN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Một người quyết chí tu hành phải tự tin nơi mình. Tự tin nơi mình mới có quyết tâm, quyết chí. Có quyết tâm, quyết chí mới có sự gan dạ, dũng cảm. Và như vậy mới dám xác định mình sẽ tu chứng đạo; sẽ làm chủ được thân tâm; sẽ ra khỏi nhà sinh tử luân hồi; sẽ làm chủ được nhân quả. Trên đường tu tập, dù có gặp bất cứ những khó khăn nào, những trở ngại nào cũng đều vượt qua, đó là nhờ đức tự tin. Người tu hành mà mất lòng tự tin nơi mình là không bao giờ tu tập đến nơi đến chốn, chỉ tu chơi, tu có hình thức mà thôi, rất uổng phí một đời tu tập.

Tu hành không phải tu lấy có, mà tu hành phải thật sự. Tu hành để chấm dứt luân hồi, sinh tử, để làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người. Cho nên tu phải thật tình, phải thật sự; tu là cả một sự tranh đấu với thân tâm của mình không ngừng; tu là đi ngược lại với lòng tham muốn thế gian; tu là sống trong thiện pháp; tu là ngăn diệt lòng tham muốn.

Tu hành là những việc làm như vậy, nếu chúng ta không tự tin, không khắc phục, không mạnh dạn, không đấu tranh với những ác pháp, không chuyển đổi được luật nhân quả, không làm thay đổi cuộc sống này thì tu hành chỉ làm phí công, mất thì giờ vô ích mà thôi.

Người mẹ dạy con rất tuyệt vời: “Hãy tự tin vượt lên, khắc phục và mạnh dạn đấu tranh với những trở ngại bằng tấm lòng thực sự, bằng sự hướng thiện và nhìn rõ những gì mình chưa hoàn thiện”. Khi chúng ta tu hành, đều nên nhớ lấy lời dạy này để nhắc tâm, để sửa đổi tâm tính sống toàn thiện.

Muốn sống toàn thiện thì không có pháp nào tuyệt chiêu hơn là pháp hướng tâm và đức hiếu sinh. Trên đời này, muốn sống với tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì ai cũng biết, chỉ có lòng yêu thương mới giúp chúng ta buông xả tận gốc các ác pháp; lòng yêu thương ở đâu thì đức tha thứ và nhẫn nhục ở đó; lòng yêu thương ở đâu thì đức tự tin và dũng cảm ở đó; lòng yêu thương ở đâu thì đức buông xả và lòng hoan hỷ ở đó; lòng yêu thương ở đâu thì đức kiên trì bền chí ở đó.

Cho nên chúng ta muốn sống toàn thiện thì phải sống với đức tự tin lòng yêu thương, nó sẽ mang đến những điều an ổn và bình an cho mình, cho người.

Vậy các tu sinh muốn hướng thiện để sửa tâm tính của mình thì phải tập sống với đức hiếu sinh, chỉ có đức hiếu sinh mới hoàn thiện; chỉ có đức hiếu sinh mới giúp chúng ta ra khỏi luân hồi sinh tử. Vì thế giới luật đầu tiên của Phật giáo là giới KHÔNG NÊN SÁT SINH ra đời để dạy mọi người phải tu học và áp dụng vào cuộc sống bằng giới luật này, tức là đức hạnh hiếu sinh. Cho nên đức hiếu sinh rất quan trọng trong sự tu tập làm chủ sự sống chết. Biết rõ như vậy, các tu sinh phải cố gắng nhiều hơn nữa để sống với đức hạnh cao thượng này.

Trả lời câu hỏi 12:

Con đừng bao giờ bỏ cuộc, với cảm giác cuộc sống không còn lối thoát trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Cuộc sống không thể trở nên bế tắc hoàn toàn, một khi con người còn tin vào chính mình”. Câu này dạy ĐỨC TỰ TIN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Sinh tử luân hồi và bốn sự đau khổ: sinh, già, bệnh, chết là những nỗi khắc khoải trong lòng của mỗi người, chỉ có những người trí mới quyết tâm làm chủ nhân quả, làm chủ thân tâm, làm chủ cuộc sống. Có làm chủ được như vậy thì cuộc đời mới có sự an vui và hạnh phúc, nếu chưa làm chủ thân tâm là một nỗi lo lắng và bất an, vì sinh, già, bệnh, chết nó sẽ đến thăm lúc nào, cần là nó đến ngay. Bởi vậy chưa làm chủ nó thì phải nỗ lực tận cùng chiến đấu và tu tập hết sức mình, chứ không nên tu tập cho có chừng, cho lấy có. Có một số tu sinh khi Chơn Như sóng gió là bỏ cuộc ra đi, hoặc ra đời làm ăn sinh sống như một người bình thường, thật uổng công tu tập từ bấy lâu nay.

Tu hành chỉ có lòng yêu thương là pháp môn thứ nhất để đương đầu với giặc sinh tử luân hồi, nhờ đó mới đem lại những thắng lợi tốt đẹp cho chúng ta. Cho nên những người không có lòng yêu thương mình, thương người và thương các loài vạn vật là những người thiếu đức tự tin và dũng cảm, thiếu ý chí, không kiên cường, gan dạ. Họ là những người rất hèn yếu, nhút nhát không dám đương đầu với những hoàn cảnh khó khăn, với những tai nạn xảy ra thình lình.

Xã hội đầy dẫy nạn tiêu cực là do những người thiếu lòng tự tin, thiếu đức hiếu sinh, không dũng cảm, thiếu ý chí, không kiên cường, gan dạ; chỉ muốn được việc, được lợi cho riêng mình, nên làm băng hoại đạo đức xã hội.

Một người đi tu là biết đời sống thế gian là sự đau khổ, là biết thân phận làm người là vô thường, là nhân quả. Vì vậy mà bỏ đời đi tu, nhưng khi gặp khó khăn lại bỏ lỡ giữa đường, trở về hoàn tục thì những người ấy quá dở, không đủ lòng tin nơi mình, nơi pháp môn tu tập. Người không đủ lòng tin nơi mình thì không làm nên một sự việc gì lớn cả; là người dễ thất bại trước mọi việc làm, huống là đi tu. Có nhiều người cho rằng tu hành khó lắm, khó sao có người tu chứng.

Vậy thì tu đâu phải khó, chỉ vì chúng ta không tự tin nơi mình; không tự tin nơi pháp; không tự tin nơi lời Phật dạy. Người như vậy là người mất hướng đi lên, chỉ còn đi vào bước đường cùng mà thôi.

Trả lời câu hỏi 13:

Hãy biết chấp nhận và tha thứ”. Câu này dạy ĐỨC TÙY THUẬN VÀ THA THỨ HIẾU SINH Ý HÀNH.

Con đường tu tập theo Phật giáo để làm chủ bốn sự đau khổ: sinh, già, bệnh, chết, là một điều lợi ích thiết thực cho con người, thế mà mọi người không tu tập thì uổng phí một đời người. Vì lợi ích lớn cho con người, khi chúng ta đứng trước các pháp dù thiện hay ác chúng ta hãy vui lòng, chấp nhận, thương yêu và tha thứ mọi sự lỗi lầm của kẻ khác. Chính nhờ sự chấp nhận, yêu thương và tha thứ mà chúng ta xả đuợc tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Bởi vậy khi nào chúng ta có đầy đủ lòng thương yêu, chấp nhận và tha thứ thì ngay đó thân tâm chúng ta mới thanh thản, an lạc và vô sự thật sự. Nhờ thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì chúng ta mới có đủ năng lực làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Cho nên muốn được tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì chỉ có lòng yêu thương mới nhiếp phục được các pháp ác.

Con đường tu tập theo Phật giáo không phải khó, chỉ khó là chúng ta không biết chấp nhận, không biết thương yêu và tha thứ, nên không buông bỏ tất cả ác pháp xuống được. Do không buông xả ác pháp mà thân tâm không được thanh thản, an lạc và vô sự.

Vì thân tâm không thanh thản, an lạc và vô sự, nên tu mãi mà không có Tứ thần túc.

Không có Tứ thần túc thì không bao giờ làm chủ sinh, già, bệnh, chết.

Tu hành theo Phật giáo mà không biết buông bỏ xuống tất cả chướng ngại pháp, không biết thương yêu và tha thứ mỗi lỗi lầm của người khác thì dù có ngồi thiền nhập định cả một, hai tháng, một năm hay hai, ba năm cũng chẳng làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

Mục đích tu hành của chúng ta ở đây là nhắm vào chỗ giải thoát ra khỏi nhà sinh tử luân hồi, chứ không phải đi tìm thần thông phép lạ, một thế giới siêu hình hay ngồi thiền nhập định không ăn uống một tháng hay nhiều tháng, ngồi bất động như người chết, như cục đá, gốc cây.

Vì thế đức biết tùy thuận, tha thứ và yêu thương là những phương pháp rất cần thiết cho con đường tu tập giải phóng sinh tử luân hồi của chúng ta.

Trả lời câu hỏi 14:

Đừng cố gắng bới móc lỗi lầm của người khác, hãy biết tha thứ, nhưng nên nghiêm khắc nhìn lại mình”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH NGHIÊM KHẮC CHÍNH MÌNH.

Tha thứ mỗi lỗi lầm đối với người khác, nhưng đối với mình thì phải nghiêm khắc, không được vi phạm những giới luật nhỏ nhặt, vì vi phạm vào những giới nhỏ nhặt là vi phạm vào đức hạnh làm người, khiến cho mình khổ, người khác khổ. Nếu không tự nghiêm khắc mình thì sẽ làm tay sai cho dục lạc và ác pháp. Làm tay sai cho dục lạc và ác pháp là làm sai giới luật đức hạnh. Làm sai giới luật đức hạnh là làm khổ mình, khổ người.

Không tự nghiêm khắc mình trong kỷ luật, trong thiện pháp, trong đức hạnh, tâm sẽ buông lung phóng dật chạy theo dục lạc và các ác pháp thế gian, thì tu hành chẳng ích lợi gì, còn làm thêm tội lỗi. Tu hành không tự nghiêm khắc mình trong kỷ luật, tu hành như vậy chẳng bao giờ đi đến đâu cả, chỉ uổng phí một đời tu hành mà thôi.

Những người tu hành luôn luôn bới móc lỗi lầm của người khác là những người xấu ác, không xứng đáng là những người tu sĩ Phật giáo. Người tu sĩ Phật giáo không bao giờ bới móc những lỗi lầm của người khác. Cho nên các tu sinh phải dè dặt, cẩn thận đừng để vi phạm những lỗi lầm này. Những người vi phạm những lỗi lầm này thì phải xấu hổ chừa bỏ, không nên tái phạm lại nữa. Còn tái phạm là không xứng đáng ở trong tu viện, hãy hoàn tục ra đời như bao nhiêu người khác thì lại ít tội hơn.

Chính đức Phật dạy: “Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người”. Thấy lỗi người là một việc làm sai trong đạo Phật, huống là thấy lỗi người mà còn bới móc các lỗi cho người này người kia biết thì đó là một tội ác quá lớn, quá sai. Thấy lỗi người mà còn bới móc lỗi người là một người không xứng đáng làm người. Hãy từ bỏ ngay những hành động ác pháp đó. Bới móc nói xấu lỗi người làm như vậy có lợi gì cho mình đâu, mà còn làm thêm hại, thêm chướng ngại cho tâm mình, cho con đường tu tập của mình không biết chừng nào xong.

Người tu hành phải thấy cái sai, cái xấu, cái lỗi này. Phải cố gắng khắc phục và tự nghiêm khắc với mình đừng để vi phạm vào những sai lầm này nữa.

Làm người tu sĩ Phật giáo là người tu thiện pháp. Người tu thiện pháp còn bới móc những chuyện xấu của người khác là không phải người tu thiện pháp. Người tu hành như thế chúng ta cần nên cảnh giác tránh xa, vì những người như vậy là những người không xứng đáng cho chúng ta làm bạn tu hành.

Trong bức tâm thư này, người mẹ dạy con:

“Đừng cố gắng bới móc lỗi lầm của người khác, hãy biết tha thứ, nhưng nên nghiêm khắc nhìn lại mình”. Câu này dạy đạo đức rất tuyệt vời, ở đời mà có người mẹ biết dạy con như vậy là phước báu rất lớn. Người ngoài đời dạy còn như vậy, huống chi chúng ta là những người tu hành theo Phật giáo. Sao chúng ta lại bới móc lỗi lầm của nhau? Như vậy thì chúng ta còn xứng đáng là những người đệ tử Phật nữa hay không? Nếu thấy chúng ta tự nghiêm khắc mình trong kỷ luật Phật, sống biết nhẫn nhục tùy thuận và bằng lòng, hoặc sống độc cư trầm lặng một mình trong thất, ăn ngày một bữa và sống thiểu dục tri túc, ít ham ngủ, ít sân hận thì nên ở lại tu viện tu hành, rất xứng đáng, không nợ cơm ăn áo mặc của đàn na thí chủ. Còn sống giới luật không nghiêm chỉnh, không giữ gìn các hạnh, không sống với đức hiếu sinh thì làm sao tâm buông xả cho sạch những ác pháp; thì làm sao thân tâm tìm được sự giải thoát, dù cho có tu bao lâu cũng không giải thoát.

Thấy sức mình tu không nổi thì nên hoàn tục trở về đời sống như mọi người thì không phí uổng cuộc đời, không làm phiền lòng người khác.

Cho nên người tu hành theo Phật giáo đừng cố gắng bới móc lỗi lầm của người khác, hãy biết tha thứ mỗi lỗi lầm và nên nghiêm khắc nhìn lại mình, thì sự tu hành mới đến nơi đến chốn.

Trả lời câu hỏi 15:

Con hãy cho, mà không cần nhận lại hay tính toán thiệt hơn, ngay cả khi cần được an ủi nhất”. Câu này dạy ĐỨC KHÔNG SO ĐO HƠN THIỆT HIẾU SINH Ý HÀNH.

Người hay so đo hơn thiệt là người không có đạo đức hiếu sinh, là người ích kỷ hẹp hòi, là người toan tính thiệt hơn. Cho người một vật gì thì mong người trả lại thiệt hơn từng chút. Ở đây người mẹ dạy con cho mà không cần nhận lại, dù là một lời an ủi.

Chúng ta là những đệ tử Phật giáo, khi cúng dường, bố thí là cầu mong hưởng được phước báu nhân thiên, thì điều đó không đúng với tinh thần Phật giáo. Phật giáo dạy:

Đem cho hay giúp đỡ cho người khác một điều gì là vì người khác đang đau khổ, đang gặp tai nạn, đang gặp sự bất an, v.v...

Đạo Phật dạy bố thí mà không mong cầu trả lại, đó là dạy đem tình thương chân thật đến với mọi người không phân biết kẻ giàu người nghèo, không phân biệt kẻ thân người sơ, kẻ thiện người ác, dù người đó có tâm ác độc, hung dữ chửi mắng, mạ lị mạt sát, muốn hại ta, nói xấu ta; dù người đó có tâm li gián gây chia rẽ chúng ta, nhưng chúng ta phải thương yêu, phải giúp đỡ họ, khi những gì họ đang cần, giúp đỡ họ bằng những ái ngữ an ủi, khích lệ, sách tấn để họ vượt lên mọi khổ đau, giúp họ để xả bỏ tính hung dữ, tính ganh tị, v.v... Người nào đối xử với mình càng tệ, càng hung ác xấu xa thì càng đối xử tốt với họ, để giúp họ ra khỏi sự mọi khổ đau, mọi sự phiền não.

Đạo Phật dạy chúng ta cho mà không cần ai biết ơn mình, cho mà không cần trả ân; cho mà không mong ước cầu được phước báu nhân thiên. Người biết cách thức cho như vậy là người có đầy đủ tình thương yêu nhiều hướng. Chính nhờ có lòng yêu thương nhiều hướng, khi cho mới không cầu mong biết ơn và trả ơn; khi đã cho không so đo hơn thiệt, không tính toán ít nhiều, chỉ biết ban cho, vì lòng thương yêu chân thật tự trong thâm tâm.

Trả lời câu hỏi 16:

Con hãy giang rộng vòng tay và chia sẻ, nâng đỡ những người cần cảm thông giúp đỡ xung quanh”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Chúng ta là những người đệ tử Phật, khi đứng trước những người ác cần phải cảm thông với họ, vì họ là những người đang đau khổ, đang ở trong các ác pháp, đang tự vầy vò mình. Vì thế họ mới la hét, chửi mắng, mạ lị, mạt sát chúng ta được. Họ dùng lời li gián, nói lời chia rẽ, nói xấu chúng ta, là vì họ đang căm tức và họ đang muốn giết chúng ta.

Họ là người bị vô minh che khuất, làm tâm trí mê mờ, chỉ còn biết chạy theo tâm dục tham, dục sân; họ là những người đang đau khổ tận cùng, đáng được mọi người cứu vớt.

Do hiểu biết như vậy, chúng ta hãy ban cho họ lòng tha thứ và thương yêu, hãy giang rộng vòng tay và chia sẻ, nâng đỡ và giúp họ để vượt lên, lìa xa những điều họ đã làm ác ở trên. Nếu chúng ta biết giang rộng vòng tay và chia sẻ, nâng đỡ và giúp họ để vượt lên những hành động ác mà họ đã làm ở trên, thì đây là lòng yêu thương của chúng ta, là đức hiếu sinh ý hành, là tình thương đem đến sự sống cho nhau một sự bình an, yên vui và tràn đầy hạnh phúc.

Đứng trước các pháp ác, chúng ta làm được những điều trên đây, đều do xuất phát từ lòng thương yêu rộng lớn. Nếu không có lòng thương yêu rộng lớn thì không thể giang rộng vòng tay; thì không thể nào chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ họ. Bởi vậy đức hiếu sinh rất tuyệt vời. Ngay khi chúng ta thương yêu thật sự thì đức buông xả có ngay liền; đức buông xả có ngay liền thì lòng tha thứ và sự cảm thông cũng có mặt ngay liền. Cho nên những ác pháp và ác ngữ kia sẽ không tác dụng vào tâm ta được. Vì yêu thương mà tâm ta bình an; vì yêu thương mà ý hành, thân hành và khẩu hành chúng ta không làm ác.

Lòng yêu thương rất tuyệt vời, đứng trước những ác pháp mà tâm ta bất động, không hề giận hờn hay thù oán một ai, dù có ai muốn giết hoặc làm hại ta đau khổ đến tận cùng. Lòng yêu thương sẽ giúp ta bình an và tha thứ; lòng yêu thương sẽ giúp ta thấy biết rất rõ mọi việc, mọi pháp trên đời này đều do nhân quả, đều là vô thường, không có pháp nào là thường hằng, không có pháp nào bất di bất dịch, cho nên cần phải thương yêu nhau hơn, thương yêu nhiều hơn nữa để cho hành tinh bớt sự khổ đau, bớt sự giết hại lẫn nhau; để cho hành tinh còn lại một màu xanh tươi mát; một màu xanh của tình thương yêu.

Trả lời câu hỏi 17:

Vì trong lúc chia sẻ với người khác, con sẽ tìm lại sức mạnh và niềm tin cho chính mình”. Câu này dạy ĐỨC CHIA SẺ HIẾU SINH Ý HÀNH.

Người tu theo Phật giáo bao giờ cũng nhớ rằng: Lúc nào cũng biết thương yêu, dù người đáng ghét nhất, người ác nhất chúng ta cũng chỉ biết thương họ, chứ không vì họ ác độc và hung dữ mà không thương. Biết họ là người hung ác, nhưng lúc nào chúng ta cũng dùng ái ngữ ban rải một lòng yêu thương cho họ, vì họ là những người đáng thương. Bởi chúng ta biết người hung ác là người đau khổ nhất, vì vậy nên chúng ta không tức giận, không oán trách, mà còn tìm cách vui vẻ, im lặng, thương họ, đó cũng là điều chia sẻ nỗi đau với họ.

Khi chúng ta biết mình chưa đủ khả năng thu nhiếp những người ác thì nên xa lánh họ, để không làm khổ mình, khổ người thêm.

Một khi chúng ta chưa đủ lòng tin của mọi người, lời nói chưa đủ giá trị có thể chuyển đổi, làm thay đổi tâm tính ác của họ thì chúng ta không nên gần gũi, mà tránh xa họ như đức Phật thường dạy: “Những gì tránh né cần phải tránh né”. Tuy chúng ta không hàng phục được, không chuyển hóa được họ, nhưng chúng ta vẫn thương họ, không hề có một ý nghĩ gì ghét họ. Đó chính là đức hiếu sinh không làm khổ mình, không làm khổ người.

Những khi họ gặp tai nạn, hay có sự đau khổ, bệnh tật gì xảy đến cho họ, thì chúng ta mau sẵn sàng chia sẻ, an ủi và giúp đỡ với lòng thương chân thật.

Mục đích của người tu hành theo Phật giáo trước tiên là phải biết tha thứ mỗi lỗi lầm của người khác, và sau đó mới giúp đỡ an ủi họ, nhờ đó mà thân tâm chúng ta sẽ được thanh thản, an lạc và vô sự.

Biết tha thứ và chia sẻ với những người khác, đó là đức hiếu sinh. Đức hiếu sinh bằng hành động giúp đỡ, bằng lời nói an ủi, ôn tồn, nhã nhặn, nhẹ nhàng, từ tốn, êm dịu và xoa dịu những vết thương đau của tâm hồn và cơ thể của người khác. Có thực hành được như vậy thì đó mới gọi là thương người, thương mình. Chính nhờ đó mà chúng ta mới sống cho chính mình, mới hiểu mình, mới cứu mình ra khỏi mọi sự khổ đau của cuộc đời.

Người biết thương mình, thương người là người biết buông xả tất cả ác pháp trên thế gian này, là người đã vượt lên tất cả tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình; là người cùng đi một lối đi như Phật. Tâm chỉ biết thương, chứ không còn biết ghét một ai cả, không còn biết ghét một cái gì cả. Vì trên cuộc đời này tất cả các pháp đều vô thường, dù cho chúng ta có ghét cay, ghét đắng một cái gì đó, thì mai kia mốt nọ nó cũng không còn. Khi mà tất cả các pháp đều không còn thì chúng ta ghét cái gì đây? Chính vì sự oán ghét, giận hờn sẽ quay ngược lại, làm cho chúng ta khổ đau thêm, chứ chẳng có ích lợi gì đâu. Phải không quý vị? Bởi hiểu rõ các pháp vô thường nay còn, mai mất, không có pháp nào thường hằng bất di bất dịch, vì thế chúng ta cần phải thương yêu và tha thứ mọi người; cần phải thương yêu và giúp đỡ để mọi người vượt qua những khó khăn và gian khổ; để làm giảm bớt những sự đau khổ của cuộc đời, chính đó là đức hiếu sinh mà mọi người cần phải học tập cho thông suốt, và sống để đem lại cho hành tinh một màu xanh tươi mát với một lòng yêu thương chân thật.

Trả lời câu hỏi 18:

Đừng quá thương hại mình, tự thương hại sẽ làm giảm sức mạnh vốn có của con”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH VÌ NGƯỜI Ý HÀNH.

Người ích kỷ cứ lo cho mình, vì thế mà phải chịu vô vàn đau khổ. Cho nên chúng ta thấy rất rõ trong cuộc đời này, hầu hết mọi người ai cũng lo cho mình. Chúng ta là những người tu hành theo Phật giáo, sống theo gương hạnh của đức Phật, chỉ biết thương yêu mà thôi. Nhưng thương yêu như thế nào không phải là lời nói suông, mà thương yêu bằng hành động giúp đỡ và an ủi, nhất là đem lại sự bình an, yên vui cho mọi người.

Bởi vậy đức hiếu sinh không bao giờ có lòng ích kỷ nhỏ mọn hẹp hòi trong đó. Tâm lượng lòng yêu thương rộng lớn như trời biển, dung chứa tất cả cái xấu cũng như cái tốt, cái dơ cũng như cái sạch, lòng yêu thương ấy vẫn xem như nhau.

Thương mình mà cứ lo cho mình là không thương mình, là làm khổ mình. Còn thương người, lo cho người, giúp đỡ cho người, đó mới chính thương mình, đem lại sự an vui cho mình. Bởi vậy đức hiếu sinh thường quay ra soi chiếu vạn vật như mặt trời, mặt trăng.

Nhưng vì chính nó soi ra nên nó rất vững vàng, không vật gì làm lay động được nó.

Người nào sống với đức hiếu sinh luôn luôn thương yêu mọi người, mọi vật, thì chính họ đã thương yêu họ. Nhờ đó không có một ác pháp nào tác động vào thân tâm họ được.

Họ là con người giải thoát; con người không còn đau khổ nữa; con người vô lậu.

Trả lời câu hỏi 19:

Con hãy nhớ rằng còn nhiều người yêu thương con”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH LÒNG TIN.

Đâu phải mọi người đều ghét chúng ta hết đâu, chính vì còn có nhiều người thương yêu chúng ta. Đây là lời trong thư người mẹ dạy con, nó mang một tình thương mở rộng, nhưng đối với chúng ta là những người tu hành theo Phật giáo, với cái nhìn của chúng ta, không phải còn có nhiều người thương yêu chúng ta, mà tất cả mọi người đều thương yêu chúng ta. Chúng ta hãy nghe ông Phú Lâu Na trả lời với Phật:

- Xứ ấy người ta hung dữ, họ sẽ chửi mắng ông.

- Bạch Thế Tôn! Họ chửi mắng con, nhưng họ còn thương con, vì chưa lấy đá ném con.

- Người ta sẽ lấy đá ném ông.

- Bạch Thế Tôn! Họ lấy đá ném con nhưng họ còn thương con, vì họ chưa lấy dao giết con.

- Họ sẽ lấy dao giết ông.

- Bạch Thế Tôn! Họ lấy dao giết con, nhưng họ còn thương con, vì để thân này sống là con còn khổ đau, do đó họ cầm dao giết con để con hết đau khổ là thương con.

Tất cả mọi ác pháp đến với ông Phú Lâu Na, ông đều thấy chỉ có một lòng thương yêu mà không thấy một cái gì khác. Chính thấy mọi người đều thương ông nên ông không còn khổ đau, ông đã giải thoát hoàn toàn. Chúng ta tu hành theo Phật giáo cũng nên bắt chước ông, cũng nên tập sống như ông. Nếu ai có làm gì cho chúng ta đau khổ thì chúng ta chỉ cần thấy lòng yêu thương của mọi người đến với chúng ta, mà không thấy họ ghét chúng ta. Có tu tập được như vậy chúng ta sẽ chứng quả A La Hán tại nơi lòng yêu thương đó. Tại nơi hiểu biết lòng tốt của mọi người.

Trả lời câu hỏi 20:

Và cuộc sống của con có giá trị và ý nghĩa với người khác”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH DUNG THÔNG.

Cuộc sống của mọi người, mọi vật trên hành tinh đều có một sự sống liên kết chặt chẽ với nhau, người này nương tựa vào người kia, người kia nương tựa vào người này mà sống; người nương với vạn vật mà sống, vạn vật nương tựa vào người mà sống. Nếu chúng ta không biết sự sống có liên kết với nhau như vậy nên thường nghĩ rằng: Trên đời này chỉ có mình là trên hết, xem mọi người, mọi vật không ra gì, lúc nào cũng dữ tợn, la hét, chửi mắng, nói nặng, nói nhẹ, đánh đập người khác, còn đối với loài vật thì giết hại và ăn thịt, luôn luôn chà đạp lên sự sống của người khác, vật khác. Do không hiểu biết sự sống có sự liên kết chặt chẽ với nhau, chúng ta mới làm khổ mình, khổ người và khổ muôn loài vạn vật, cho đến cỏ cây, đất đá, núi sông.

Bởi vậy, chỉ có đức hiếu sinh mới dung thông người này với người kia, người kia với người nọ; loài vật với con người, con người với loài vật; loài vật với cỏ cây, cỏ cây với loài vật. Nhờ có hiểu biết thương yêu và sống dung thông với nhau như vậy, nên mới đem lại sự bình an cho nhau. Ngoài đức hiếu sinh ra, thì không có một phương pháp nào dung thông mọi người, mọi vật gần gũi, gắn bó, liên kết với nhau được.

Trong sự sống của người này thì có sự sống của người kia, trong sự sống của con người có sự sống của vạn vật, trong sự sống của vạn vật có sự sống của con người. Cho nên chúng ta chà đạp lên sự sống của người khác, chính là chà đạp lên sự sống của chúng ta. Chúng ta làm khổ người khác chính là chúng ta làm khổ chúng ta. Quý vị có biết không? Chúng ta thương yêu người khác chính là chúng ta thương yêu chúng ta. Bởi vậy chỉ có đức hiếu sinh là đệ nhất pháp đem đến sự bình an cho mọi người, mọi vật. Hạnh phúc thay, ai đã sống với lòng yêu thương chân thật!

Trả lời câu hỏi 21:

Con đừng ngại mở lòng với tình yêu thương, vì chỉ có tình cảm thật sự mới giúp con tìm được chính mình”. Câu này dạy ĐỨC CHÂN THẬT HIẾU SINH Ý HÀNH.

Chỉ có lòng yêu thương mọi người, chúng ta mới tìm thấy lại chính mình. Đúng vậy, lời người mẹ dạy con rất đúng: “Con đừng ngại mở lòng với tình yêu thương, vì chỉ có tình cảm thật sự mới giúp con tìm được chính mình”.

Trên đời này chỉ có lòng yêu thương mọi người, mọi vật, mọi sự sống trên hành tinh này thì chúng ta mới hiểu mình. Có hiểu được mình, chúng ta mới cảm thông được với mọi người, mọi vật. Có hiểu được mình và sự sống của muôn loài, thì chúng ta mới sống cho mình chân thật. Còn nếu chưa có lòng yêu thương chân thật, thì chúng ta sẽ sống một cách giả dối với mình, với người. Một khi mà lòng yêu thương chân thật không có, thì cuộc sống trở nên vô nghĩa, có nhiều sự giả dối, có nhiều gian ý xảo trá, không những đối với mọi người, mà ngay cả bản thân của chúng ta vẫn bị nó lừa đảo. Cho nên người tu hành chân chánh lúc nào cũng quý trọng lòng yêu thương. Chính lòng thương yêu sẽ giúp họ hoàn thành con đường tu tập đi đến cứu cánh giải thoát.

Chỉ vì con người thiếu lòng yêu thương nên họ chẳng biết họ là ai? Có đúng như vậy không? Vậy ai là người hiểu mình, hãy trả lời theo những câu hỏi sau đây:

1- Anh là ai?

2- Từ đâu sinh vào đây?

3- Đến đây để làm gì?

4- Bao lâu nữa mới chết?

5- Chết đi về đâu?

Ai là người đã hiểu biết mình thì hãy trả lời những câu hỏi này đi! Chúng tôi tin chắc rằng mọi người sinh ra trên hành tinh này chưa ai trả lời đúng những câu hỏi này. Chưa trả lời đúng những câu hỏi này là chưa có đức hiếu sinh, vì chưa có đức hiếu sinh nên họ không làm sao hiểu được họ. Thường thường người ta sống theo bản năng thói quen, tức là sống theo nghiệp báo của nhân quả, chứ không phải sống theo sự tự chủ điều khiển thân tâm, nhưng họ cứ nghĩ tưởng rằng mình đang sống tự chủ. Kỳ thực, họ sống theo tâm tham, sân, si, mạn, nghi; họ sống theo các dục, chứ chẳng có gì là sống cho họ cả. Họ là những người nô lệ cho nghiệp báo; họ là những tay sai cho giặc sinh tử luân hồi; họ là một con người mất tự chủ, mất tự do, mất quyền sống. Chính vì họ không hiểu họ, có đúng như vậy không quý vị? Ví dụ: Họ muốn ăn là họ sống theo dục ăn, chứ đâu phải họ sống chủ động theo ăn của họ; họ muốn đi nói chuyện là họ đi nói chuyện, đó là họ sống theo dục nói chuyện, chứ đâu phải họ sống cho họ; họ muốn ngủ là họ đi ngủ, đó là họ sống theo dục chứ đâu phải phải họ sống cho họ đâu. Họ đâu biết cái ăn, cái ngủ, cái vui chơi, cái nói chuyện là cái dục của nhân quả nghiệp báo từ vô lượng kiếp của họ. Do nhân quả nghiệp báo này che khuất, nên làm sao họ biết họ là gì? Là ở đâu đến...? Người nào muốn biết mình là ai, ở đâu đến, thì hãy sống với lòng thương yêu rộng lớn như đất trời, thì mới biết mình từ đâu đến, và như vậy họ mới sống cho mình. Còn không thì họ cứ phải sống theo nghiệp báo nhân quả mãi.

Trả lời câu hỏi 22:

Hãy chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với người con yêu quý”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH CHAN HÒA TÌNH THƯƠNG.

Mọi người sống trên đời này đều là những người mà chúng ta cần phải yêu quý. Chúng ta đừng thấy họ hung ác, dữ tợn mà ghét cay, ghét đắng họ. Thấy người hung dữ, chúng ta lại còn yêu thương họ nhiều hơn nữa, vì họ đang ở trong ác pháp, đang chịu nhiều đau khổ. Chúng ta hãy xem họ là những chướng ngại pháp nghịch duyên để giúp chúng ta suy xét lại chính mình, hiểu lại chính mình hơn; họ là tấm gương để soi lại mình, để mình tránh những tánh tình hung ác dữ tợn. Nhờ đó, chúng ta mới thấy chính mình có sống với đức hiếu sinh hay chưa sống. Qua sự nghịch duyên chướng ngại pháp, mình mới thấy rõ mình. Nếu không có nghịch duyên chướng ngại pháp thì mình rất khó thấy mình. Có đúng như vậy không quý vị? Cho nên chúng ta nói yêu thương người, nhưng thường là nói trong thuận cảnh, nói bằng lời nói suông, chớ nói trong nghịch cảnh mới biết rõ lòng mình có thương hay không thương.

Cho nên đức hiếu sinh bao gồm cả thiện pháp và ác pháp. Câu trên dạy: “Hãy chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với người con yêu quý”.

Niềm vui là thiện pháp, nỗi buồn là ác pháp, nhưng đối với người có đức hiếu sinh, gặp vui thì chia sẻ với mọi người, gặp buồn thì chuyển đổi làm cho mình và mọi người cùng vui.

Đức hiếu sinh đến đâu là phải có trí tuệ sáng suốt đến đó, vì thế gặp ác pháp thì nó chuyển đổi thành thiện pháp. Cho nên đức Phật dạy: “Tri kiến ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu là tri kiến ở đó”. Lời dạy này có nghĩa là: “Lòng yêu thương ở đâu thì tri kiến ở đó, tri kiến ở đâu thì lòng yêu thương ở đó”. Có hiểu biết thì mới có lòng yêu thương chân thật, nhưng lòng yêu thương của con người bị vô minh che khuất nên làm sao hiểu biết được, và do đó lòng yêu thương của con người chỉ còn có một hướng; vì một hướng nên thường làm khổ mình, khổ người.

Người tu học đức hiếu sinh thường áp dụng vào đời sống thì cuộc sống không còn khổ đau, phiền muộn nữa; không còn lo lắng, sầu khổ nữa. Các tu sinh hãy cố gắng tu học đức hiếu sinh, vì nó đem lại lợi ích rất lớn, nó giúp cho các tu sinh chứng đạo vô lậu.

Trả lời câu hỏi 23:

Tình yêu thương luôn là điều kỳ diệu, để vượt qua những thử thách, khó khăn!”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH VƯỢT QUA.

Đức hiếu sinh là một tình thương yêu kỳ diệu, nó vượt qua mọi sự thử thách gian nan, mọi sự khó khăn gian khổ.

Chúng ta là những người theo Phật giáo tu hành, nên nay đã đủ duyên lành mới được dự vào lớp học đạo đức NGŨ GIỚI như thế này.

Nó là một lớp học đạo đức cụ thể rõ ràng, mang đến sự lợi ích to lớn vô cùng cho mình cho người. Nếu chúng ta biết rõ như vậy, thì nên cố gắng và rèn luyện nhân cách của mình hằng ngày, đừng để phí bỏ thời gian tuổi đời sắp hết:

* Thứ nhất là phải biết sống với ĐỨC NHẪN NHỤC HIẾU SINH Ý HÀNH, để đối trị các ác pháp đang tấn công quyết tử với chúng ta, trong mặt trận sinh tử luân hồi, bằng cách phải tư duy:

1- “Đây là NGHIỆP NHÂN QUẢ vay trả, ta hãy vui vẻ im lặng như Thánh, chấp nhận trả quả báo tâm không được tức giận hay buồn phiền, và đây cũng là sự nhắc nhở cho ta từ bỏ những hành động thân, khẩu, ý ác, mà phải sống thân, khẩu, ý toàn thiện”.

2- “Đây là người đang tạo nhân ác, họ phải gặt lấy quả khổ đau, sau này không thể tránh khỏi bệnh tật, tai nạn, và người khác mắng chửi lại, v.v... Vậy ta phải thương yêu họ, vì họ đang chửi mắng ta là họ đau khổ lắm, họ đang ở trong địa ngục”.

Khi quán xét tư duy như vậy thì tâm chúng ta sẽ bất động, không còn phiền não tức giận nữa.

* Thứ hai là phải biết sống với ĐỨC NHẪN NHỤC HIẾU SINH KHẨU HÀNH, để đối trị các ác pháp đang tấn công quyết tử với chúng ta, trong mặt trận sinh tử luân hồi, bằng cách phải nói hoặc im lặng như Thánh:

1- “Chúng ta là bạn bè cùng nhau, nếu tôi có sai điều gì không phải với các bạn, thì xin các bạn thứ lỗi cho”.

2- “Các cháu có làm cho bác không vui điều gì, tôi là cha chúng nó, xin bác vui lòng thứ lỗi cho, tôi sẽ rầy dạy các cháu lại. Mời bác vào nhà uống với tôi một chén trà cho vui”.

Đây là hai ví dụ xin lỗi để các tu sinh nghiên cứu, vì xin lỗi cũng là một đức hạnh hiếu sinh khẩu hành diệt ngã xả tâm rất tuyệt vời.

Bất cứ một điều gì xảy ra, nếu chúng ta cứ thấy lỗi của mình, đừng thấy lỗi của người khác, luôn luôn thành khẩn xin lỗi thì mọi việc đều an vui và chuyển đổi được nhân quả một cách dễ dàng.

* Thứ ba là phải biết sống với ĐỨC NHẪN NHỤC HIẾU SINH THÂN HÀNH, để đối trị các ác pháp đang tấn công quyết tử với chúng ta, trong mặt trận sinh tử luân hồi, bằng cách phải sống với những hành động nhẹ nhàng:

Lúc thấy người khác đang nóng giận lấy cây, gậy gộc, dao mác, rựa để đánh chúng ta, thì ngay lúc đó chúng ta chạy đi, bảo người nhà phải im lặng như Thánh, dù họ có đập phá nhà cửa cũng không được đánh lại với nhau, mà chỉ nhờ chánh quyền địa phương đến để giữ gìn trật tự an ninh trong xóm ấp mà thôi.

Nếu người ấy có lỗi, bị chánh quyền phạt vạ, thì mình nên xin chánh quyền bãi nại và chịu tiền phạt thay ông ta.

Trả lời câu hỏi 24:

Hãy gìn giữ những ký ức, kỷ niệm đẹp”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH LƯU GIỮ.

Thường kinh sách Phật dạy:

Quá khứ không truy tìm

Vị lai không ước vọng

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính là đây...”.

Ví dụ: Cái chết của con chim ưng vì hy sinh mạng sống cứu Thành Cát Tư Hãn, vết thẹo trên mặt của người mẹ vì hy sinh che chở cho con, lòng nhân từ của vị tỳ kheo, v.v... Làm sao chúng ta quên được những lòng yêu thương ấy.

Công ơn cha mẹ sinh thành chịu biết bao cực khổ nuôi dạy cho chúng ta nên người:

Từng nụ hôn của mẹ của cha, từng những buổi hoàng hôn mẹ ngồi tựa cửa trông con đi học hoặc đi làm về, mẹ có món ăn ngon nào cũng để dành cho con, v.v... Những hành động như vậy làm sao chúng ta quên được.

Một hành động dắt một bà lão hay một em bé qua đường, giúp một bát cơm cho người đang đói, vớt một con kiến thoát chết trong vũng nước, v.v... Tất cả những hành động hiếu sinh này làm sao chúng ta quên được.

Phải không quý vị? Càng nhớ những hành động này, chúng ta lại khởi lòng yêu thương hơn, vì chúng ta đem lại sự an vui cho người, cho vật. Một sự sống bình an tươi đẹp.

Cho nên đối với đức hiếu sinh, những kỷ niệm, những hồi ức thương yêu đã qua giúp cho chúng ta lấy làm đà phát triển lòng yêu thương cho hiện tại. Cho nên Định Vô Lậu đi vào tâm thanh tịnh bằng con đường tri kiến giải thoát, vì thế đức Phật đã dạy: “Tri kiến làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh tri kiến”. Chứ đâu phải đi con đường tỉnh thức như từ lâu chúng ta chỉ hiểu một cách đơn điệu: Sự giải thoát chỉ có sống trong hiện tại. Sự thật chưa phải vậy. Vậy mà có số người chẳng hiểu Phật pháp ra sao cả, chỉ hiểu theo xu hướng tưởng giải của mọi người rất nông cạn, triển khai pháp hiện tại để tu tập; để sống trong hiện tại. Họ chỉ ức chế tâm mà không biết, thật là ngu si vô cùng.

Pháp hiện tại chỉ có Pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác và pháp Thân Hành Niệm. Các pháp đó tu tập để an trú thân tâm khi thân có bệnh, chứ đâu phải pháp tu tập để giải thoát tâm vô lậu. Xin quý vị nên lưu ý: Xe trước sụp lầy xe sau phải tránh.

Trả lời câu hỏi 25:

Một khi lòng yêu thương, tình yêu thương gặp trắc trở hay có sự đổi thay, mất mát, thì con đừng vội xóa đi những gì đã từng là của con”. Câu này dạy ĐỨC LƯU GIỮ HIẾU SINH Ý HÀNH.

Đức hiếu sinh lúc nào cũng ở trong chúng ta, nó chính là ta, ta chính là nó. Cho nên dù chúng ta có gặp những sự trắc trở khó khăn, hay có sự đổi thay thình lình nào, thì đừng vội quên lòng yêu thương, vì quên lòng yêu thương là mọi ác pháp sẽ tấn công và làm chúng ta đau khổ nhiều hơn. Đứng trước mọi hoàn cảnh, mọi sự thay đổi dù khó khăn như thế nào, chúng ta luôn luôn giữ gìn đức hiếu sinh như bóng không rời hình. Nếu đức hiếu sinh có mặt thì các ác pháp không bao giờ có; ác pháp không có mặt là tâm chúng ta bất động; tâm chúng ta bất động là chúng ta đã tìm được mục tiêu cứu cánh cho chính mình.

Cho nên lòng thương yêu ở đâu là sự giải thoát ở đó. Quý vị nên nhớ kỹ, dù có gian nan, lao khổ nhọc nhằn đến đâu, cũng không nên lìa lòng yêu thương của quý vị. Quý vị có nhớ không?

Trả lời câu hỏi 26:

Con luôn hiểu là tình yêu thương trong con không thể mất, nó luôn hiện hữu trong tâm hồn, cho dù có thể nó có lúc không còn tồn tại”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH LÀ MÌNH, MÌNH LÀ ĐỨC HIẾU SINH.

Lòng thương yêu lúc nào cũng hiện hữu trong chúng ta, nó không bao giờ mất, nhưng chỉ vì lòng tham dục, sân dục, si dục, mạn dục, nghi dục che khuất, như mặt trăng, mặt trời bị mây đen che mà thôi. Cho nên các ác pháp như đám mây đen, còn lòng yêu thương như mặt trời, mặt trăng. Muốn mặt trời, mặt trăng hiện rõ, thì chỉ cần dẹp sạch những đám mây đen, cũng như muốn có lòng yêu thương thì chỉ cần phá dẹp tâm tham, sân, si, mạn, nghi mà thôi. Tâm hết tham sân, si, mạn, nghi thì lòng yêu thương sẽ hiện bày.

Bởi những người tu theo Phật giáo là những người muốn tìm đường thoát bốn nỗi khổ: sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi, thì việc đầu tiên là phải bảo vệ TÂM, tức là bảo vệ tinh thần, lúc nào cũng phải giữ gìn tâm được thanh thản, an vui và vô sự.

Muốn được tâm lúc nào cũng được thanh thản, an lạc và vô sự thì phải giữ gìn lòng thương yêu rộng lớn như đất trời, lúc nào cũng hiện hữu lòng yêu thương không được mất, dù trong một phút, một giây nào cũng không được mất; dù trong cảnh thuận hay cảnh nghịch cũng không được đánh mất. Nói chung là tất cả thời gian nào, hoàn cảnh nào và các ác pháp nào cũng không được để cho tâm bất an, mà phải bảo vệ tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Các tu sinh nên ghi nhớ: Lòng yêu thương của đạo đức nhân quả lúc nào nó cũng cân bằng hai vế: “THƯƠNG MÌNH, THƯƠNG NGƯỜI”, nếu chỉ thương có một vế, đó là lòng yêu thương một hướng; còn có đủ cả hai vế thì đó là là lòng yêu thương nhiều hướng.

Người tu hành cần phải có lòng yêu thương nhiều hướng. Chính nó là pháp môn cứu cánh, trợ giúp chúng ta ly dục, ly ác pháp, đem lại sự bình an cho mình, cho người, cho tất cả chúng sinh và cỏ cây đất đá núi sông, thời tiết khí hậu. Vì thế đức hiếu sinh rất quan trọng cho đời sống hiện hữu của chúng ta, đem lại sự bình an cho hành tinh.

Trả lời câu hỏi 27:

Khi người khác mang trái tim họ ra đi, thì trái tim người ở lại vẫn còn nguyên vẹn”. Câu này dạy ĐỨC TỒN TẠI HIẾU SINH Ý HÀNH.

Lời dạy này rất tuyệt vời, khi một người không còn yêu thương ta nữa, nhưng lòng yêu thương chúng ta không bao giờ mất đối với họ. Đó mới được gọi là đức hiếu sinh.

Ví dụ: Họ chửi mắng, mạ lị, mạt sát, v.v..

chúng ta, chúng ta phải có hai phần tư duy và xác định:

- Một là vì họ yêu thương chúng ta có một hướng, nên họ đòi hỏi sự thương yêu của chúng ta cũng giống như họ, khi không đạt được ý muốn như vậy nên họ thành sân hận, ghét giận chúng ta.

- Hai là vì họ đánh mất lòng yêu thương nhiều hướng đối với chúng ta, nên thành ra họ ghét và căm tức chúng ta.

Dù cho họ có yêu thương chúng ta hay không thương yêu chúng ta, đó là họ tự làm khổ họ, nhưng riêng chúng ta quyết định phải giữ lòng thương yêu nhiều hướng. Chính vì lòng yêu thương nhiều hướng, giúp chúng không ghét ai hết, không nghĩ xấu ai hết, nhờ đó đứng trước người ác, người oán ghét, người thù hận chúng ta vẫn an nhiên bất động tâm. Chúng ta vẫn thản nhiên chẳng hề có chút lòng oán ghét, thù hận, vì lòng thương yêu có trong chúng ta, thì làm sao có sự thù hận, oán ghét người khác được.

Lòng yêu thương tuyệt vời như vậy, dù ai có thương mình hay không thương mình, nhưng riêng mình nhất định phải ôm chặt lòng thương yêu, không bao giờ buông xả nó; không bao giờ lìa xa nó, vì chỉ có lòng yêu thương mọi người mà chúng ta có được thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Lòng yêu thương là DỤNG của sự giải thoát, của Niết Bàn. Còn tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự là THỂ của sự giải thoát, của Niết Bàn.

Cho nên lòng yêu thương có mặt là Niết Bàn có mặt, Niết Bàn có mặt là lòng yêu thương có mặt.

Đạo Phật là đạo từ bi, từ bi là lòng thương. Như vậy đạo Phật là đạo yêu thương yêu mọi người, mọi vật. Bởi có yêu thương là có yên vui, có yên vui là có giải thoát, có giải thoát là có ly dục, ly ác pháp. Có đúng như vậy không quý vị?

Trả lời câu hỏi 28:

Nhưng người ta có khuynh hướng tự dằn vặt, tự hành hạ cho đến khi trái tim của mình rướm máu, đau đớn tột cùng mới nhìn lại sự việc”. Câu này dạy ĐỨC BẢO TRÌ HIẾU SINH Ý HÀNH.

Đời sống hằng ngày phần đông con người không hiểu đức hiếu sinh, nên lòng thương yêu của họ chỉ có một hướng, lòng thương yêu một hướng, nên khi đặt không đúng hướng, đúng chỗ theo ý họ, thì họ đâm ra căm tức và oán ghét. Do đó khi nào không đạt được ý muốn là họ trở nên đau khổ phiền não. Khi đau khổ và phiền não là tự họ dằn vặt, hành hạ họ. Càng dằn vặt, hành hạ là họ tự làm khổ họ nhiều thêm. Lúc bấy giờ họ đã tự đánh mất đức hiếu sinh. Cho nên khi thấy ai to tiếng, la hét, giận hờn là biết ngay họ đã đánh mất lòng yêu thương. Thật tội nghiệp! Đoạn văn này nghe đến những chữ “trái tim rướm máu”. Trái tim rướm máu là nói đến sự đau khổ tận cùng của con người, khi yêu thương mà bị đánh mất yêu thương thì trái tim phải rướm máu chứ sao? Người ta tự nghi ngờ người này không tốt đối với mình; nghi người kia nói xấu mình; nghi người nọ tham lam trộm cắp, v.v... Sự nghi ngờ như vậy là tự mình đánh mất lòng yêu thương của mình; đánh mất lòng yêu thương của chính mình là tự làm khổ mình.

Khổ nhất của họ là luôn luôn cứ để mắt theo dõi người này người kia, trong lòng bất an, lo sợ người ta nói xấu mình.

Khi mình không tin một người nào thì mình đã đánh mất lòng yêu thương; lòng yêu thương đánh mất thì những hành động làm đau khổ cho mình, cho người càng tăng thêm trùng trùng, ác pháp sẽ vây quanh mình, khiến cho thân tâm mình bất an, không có phút nào thân tâm được thanh thản, an vui và vô sự. Thật tội nghiệp! Chúng ta hãy nghe người mẹ dạy con:

“Nhưng người ta có khuynh hướng tự dằn vặt, tự hành hạ cho đến khi trái tim của mình rướm máu, đau đớn tột cùng mới nhìn lại sự việc”. Người ngoài đời họ làm sao biết đức hiếu sinh. Họ chỉ biết thương với lòng thương yêu chiếm hữu một hướng.

Ví dụ: Cha mẹ thương con, họ muốn con họ phải làm theo ý họ, nhưng chưa chắc ý của cha mẹ là hoàn chỉnh. Bởi vậy cha mẹ chỉ có lòng thương yêu một hướng, bắt con mình cũng theo hướng đó, vì thế làm cho con mình rất khổ.

Lòng yêu thương của mọi người hiện nay là lòng yêu thương theo kiểu truyền thống “cha truyền con nối”. Do đó, càng yêu thương nhiều càng khổ đau nhiều; càng yêu thương nhiều càng làm cho mình khổ, người khác khổ. Vì thế, chúng ta học theo Phật giáo thì phải thương yêu nhiều hướng. Nhờ có lòng thương yêu nhiều hướng mà chúng ta không làm khổ mình, khổ người; nhờ có lòng thương yêu nhiều hướng nó mới phá và dẹp sạch những ác pháp, diệt trừ tất cả tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Lòng yêu thương nhiều hướng có lợi ích rất lớn như vậy, nó đem lại sự sống bình an cho mọi người.

Các tu sinh phải suy xét cho kỹ, khi nào thấy tâm mình NGHI NGỜ ai đó thì biết mình đã đánh mất lòng yêu thương của mình, và chính mình đang tự hành hạ dằn vặt chính mình; khi nào thấy tâm mình THAM DỤC, thì biết đó là mình đã đánh mất lòng yêu thương của mình và chính mình đang tự hành hạ dằn vặt mình; khi nào thấy tâm mình SÂN HẬN ai đó thì biết mình đã đánh mất lòng yêu thương của mình và chính mình đang tự hành hạ dằn vặt mình; khi nào thấy tâm mình SI MÊ thì biết đó là mình đã đánh mất lòng yêu thương của mình và chính mình đang tự hành hạ dằn vặt mình; khi nào thấy tâm mình KIÊU MẠN, xem mọi người không bằng mình thì biết đó là mình đã đánh mất lòng yêu thương của mình và chính mình đang tự hành hạ dằn vặt mình; khi nào thấy tâm mình NGHI NGỜ thì biết đó là mình đã đánh mất lòng yêu thương của mình và chính mình đang tự hành hạ dằn vặt làm đau khổ mình.

Cho nên đánh mất lòng thương yêu của mình là đánh mất linh hồn và sức khỏe của chính mình.

Trả lời câu hỏi 29:

Con hãy cố gắng đừng để mất theo những điều không đáng mất khác, như sức khỏe, thời gian, niềm tin ở chính mình và các mối quan hệ khác”. Câu này dạy ĐỨC BẢO TRÌ HIẾU SINH Ý HÀNH.

Khi người ta đánh mất lòng yêu thương là người ta đã mất tất cả như: tinh thần, sức khỏe, niềm tin và các mối quan hệ khác nữa.

Vì thế lòng thương yêu rất quan trọng. Nó là linh hồn, là mạng sống của chúng ta.

Người ở đời không thấy, không biết, không nghe đến đức hiếu sinh bao giờ, nên vì thế họ luôn luôn sống trong đau khổ, thường làm khổ mình, khổ người và khổ muôn loài vạn vật.

Học đến đây, quý vị tu sinh mới thấy đức hiếu sinh là một pháp môn xả tâm tuyệt vời, không có phương pháp xả tâm nào hơn nó được.

Tứ Vô Lượng Tâm lòng từ là đệ nhất pháp, cho nên có rất nhiều đệ tử của Phật do lòng từ mà chứng quả A La Hán như ông Phú Lâu Na, em ông Cấp Cô Độc, v.v...

Hiện giờ quý tu sinh đang theo học đức hiếu sinh, nhưng có mấy ai nhiệt tâm nhiệt tình sống với nó đâu. Học đức hiếu sinh thấy biết rất rõ, rất hay, nhưng luôn luôn để vuột tay, vì thế lúc bình thường tưởng như mình sống với đức hiếu sinh, nhưng khi hữu sự thì đức hiếu sinh chạy đâu mất, chỉ còn một tâm sân giận, hoặc một sự phiền não không thể nói ra được.

Người hay nói xấu người khác cũng là người đánh mất đức hiếu sinh của mình. Họ quyết tâm hại người khác bằng miệng lưỡi, làm cho thân bại danh liệt không ngoi đầu lên được, không nhìn thấy mặt ai, nhưng họ quên khi nói xấu người khác thì chính họ là người xấu. Họ tưởng nói xấu người khác họ là người tốt lắm sao? Tự họ đã giết chết họ, giết chết lòng yêu thương của họ, giết chết lòng tin của họ với mọi người. Những người có đức hiếu sinh rất thương yêu cho những người này, vì nhân quả họ phải trả vay, thọ khổ nhiều kiếp. Ngay cả kiếp này họ đang nói xấu người khác là họ đã khổ đau. Họ lo lắng từng phút, từng giây; họ nghi ngờ người này, người kia, rồi tiếp tục nói xấu, và cứ thế tâm họ bất an. Họ sống trong đau khổ mà họ không biết. Họ tưởng nói xấu người khác là họ danh dự lắm sao! Các tu sinh học đức hiếu sinh thì nên cố gắng tránh nghi ngờ, vì chính nghi ngờ là sẽ nói xấu người khác. Nghi ngờ rất là tai hại vô cùng, nó giết chết con người ghê gớm.

Trả lời câu hỏi 30:

Cuộc sống của con liên quan đến nhiều người”. Câu này dạy ĐỨC ĐOÀN KẾT HIẾU SINH Ý HÀNH.

Cuộc sống của chúng ta có liên quan mật thiết với mọi người, mọi vật xung quanh. Nếu tâm chúng ta khởi lên những niệm bất thiện, thì ngay đó chúng ta đã tự làm khổ mình, khổ người, vì thế lòng thương yêu không cho phép chúng ta nghĩ xấu người nào hết. Tất cả mọi người đều tốt, dù cho họ đối xử với ta như thế nào chúng ta cứ xem họ là người tốt.

Chúng ta có nghe ông Phú Lâu Na không? Ai làm hại ông cách nào, nhưng đối với ông họ đều là người tốt; là người còn thương ông. Chính đó là đức hiếu sinh phủ trùm tất cả ác pháp, khiến cho ác pháp phải triệt tiêu, phải chấm dứt.

Cho nên đức hiếu sinh rất tuyệt vời, nó sống chung với mọi người mà không làm khổ mọi người; nó sống chung với mọi người mà không làm khổ mình.

Vậy tất cả các tu sinh học đức hiếu sinh phải xem đức hiếu sinh là của báu của mình, tuy nó không riêng của ai cả, nhưng ai ai cũng phải tự giữ gìn. Ai đã được sinh ra làm người là phải bảo vệ nó như bảo vệ con mắt của mình.

Trên đời này không vật gì quý giá bằng đức hiếu sinh. Đức hiếu sinh là vàng, là ngọc, là kim cương, là một vật trên đời này không có vật gì so sánh hơn được. Vậy chúng ta hãy cố gắng giữ gìn và bảo vệ đừng để đánh mất.

Đức hiếu sinh là một pháp môn vi diệu nhất, hễ nó có mặt thì tất cả các ác pháp đều bị diệt trừ, vì vậy chúng ta hãy bảo vệ và giữ gìn nó, luôn luôn sống với nó như hình với bóng.

Trả lời câu hỏi 31:

Hãy luôn tin ở con người và khám phá những điều tốt đẹp riêng biệt của từng người”. Câu này dạy ĐỨC CHÁNH TÍN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Đức tin là một sức mạnh kinh thiên động địa. Đức tin rất mạnh, không có một sức mạnh nào hơn được. Các nhà làm chính trị cũng như các nhà tôn giáo gieo vào lòng người dân và vào lòng tín đồ một lòng tin mãnh liệt, thì chừng đó trước cái chết mọi người sẽ lăn xả vào mà không hề sợ, họ sẽ không chùn bước trước những sự gian nan, khó khăn nào. Cho nên các cuộc thánh chiến của các tôn giáo, khiến biết bao nhiêu sinh mạng tín đồ phải chịu chết, cái chết một cách oan uổng, chết lớp này thì lớp khác tiến tới không hề chùn bước, không hề sợ hãi. Có như vậy mới biết lòng tin là một sức mạnh kinh khủng.

Người có lòng tin thì làm tất cả công việc đều thành công. Người tu hành biết chọn pháp đúng và đặt trọn lòng tin vào pháp tu hành đó, thì người ấy sẽ tu chứng đạo vô lậu không có khó khăn, không có mệt nhọc.

Đức hiếu sinh cũng vậy, nếu ai đặt trọn lòng tin vào đức hiếu sinh, luôn luôn giữ gìn cho trọn vẹn, thì việc xả tâm ly dục, ly ác pháp rất dễ dàng.

Đức Chánh Tín Hiếu Sinh Ý Hành là một pháp môn tuyệt vời, nó sẽ mang đến cho con người một tâm hồn giải thoát an vui; một tâm hồn vô lậu hoàn toàn thanh tịnh. Đức chánh tín hiếu sinh ý hành sẽ đánh dẹp tâm tham, sân, si, mạn, nghi, khiến con người không còn một chút xíu nào những tâm ác đó.

Nếu lòng tin không có đối với đức hiếu sinh, thì sự tu hành không bao giờ có kết quả. Vậy các tu sinh phải lưu ý: Nếu thấy mình chưa đủ lòng tin với đức hiếu sinh thì nên rời lớp học càng sớm càng tốt, vì phước duyên mình không đủ để tu học theo Phật giáo.

Như quý vị đều biết, đạo Phật là đạo yêu thương (Đạo Từ Bi). Vậy quý vị không sống được với tình yêu thương thì thử hỏi quý vị theo đạo Phật tu hành để làm gì? Có ích lợi gì? Khi quý vị sống không có tín tâm với đức hiếu sinh thì quý vị lấy pháp gì mà tu tập thiền định. Muốn bước vào tu tập thiền định của Phật giáo thì quý vị hãy ly dục, ly ác pháp; nhưng ly dục, ly ác pháp thì chỉ có giới luật đức hạnh. Vậy mà quý vị không tin giới luật thì quý vị lấy pháp nào tu tập thiền định. Ngoài giới luật ra quý vị không còn pháp nào tu tập thiền định. Cho nên quý vị sống phạm giới, phá giới là quý vị tu hành sai pháp.

Cho nên ngay bây giờ, quý vị hãy đặt trọn lòng tin nơi đức hiếu sinh, nơi ánh đuốc hiếu sinh nó sẽ soi đường cho quý vị đi trong đêm tối; nó là la bàn cho quý vị đi biển biết đường vào bờ.

Trả lời câu hỏi 32:

Dù vậy, cũng không nên đặt tất cả niềm tin của con vào một người, hay một sự việc mà con chưa nắm vững, và nhìn thế giới qua lăng kính đó, để con không phải vất vả trở về với chính mình, nếu có sự đổi thay xảy ra vì bất kỳ lý do gì”. Câu này dạy ĐỨC CHÁNH TÍN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Nếu lòng tin quý vị đặt sai pháp, nó sẽ biến quý vị trở thành những người mê tín, lạc hậu; nó biến quý vị trở thành những người sống trong thế giới ảo tưởng, thế giới mơ mộng Cực Lạc, Thiên Đàng, Niết Bàn.

Nếu quý vị có lòng tin thì phải đặt cho đúng pháp, đúng chỗ, đừng đem lòng tin đặt vào chỗ không đúng, chỗ sai pháp. Vậy làm sao biết chỗ nào đúng, chỗ nào sai? Làm sao biết pháp nào đúng, pháp nào sai? Đức Phật đã dạy: “Đừng có tin! Đừng có tin!... mà hãy tin những pháp nào đem lại lợi ích cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh; những pháp nào là đạo đức, là thiện pháp không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì hãy đặt lòng tin nơi pháp đó”.

Bởi vậy khi có lòng tin, chúng ta còn phải suy tư tìm tòi nghiên cứu các tôn giáo và các pháp cho kỹ lưỡng.

Có nhiều pháp tưởng như thiện, nhưng coi chừng nó không thiện, như khí công, nhân điện, ăn gạo lứt muối mè hay nhịn ăn trị bệnh...

Pháp nhân điện trị bệnh, pháp nhịn ăn trị bệnh, pháp gạo lứt muối mè trị bệnh, pháp dưỡng sinh trị bệnh, pháp thiền Yoga trị bệnh, v.v.. đều là tà pháp, bởi khi chúng ta tu tập, hay dùng các phương pháp này để trị bệnh thì lại thành một thói quen mới, giống như người nghiện ngập: còn dùng pháp thì hết bệnh, hết dùng thì bệnh trở lại. Cho nên những pháp này đều dùng lực tưởng để lừa đảo thiên hạ.

Như trên đã nói, những pháp này cũng giống như thuốc lá, thuốc phiện, thuốc lào, rượu, chè, cà phê, v.v.. khi chưa nghiện ngập thì thôi, nhưng khi đã nghiện ngập thì rất khó bỏ.

Ví dụ: Thân có một loại bệnh nào đó, chúng ta ăn cơm gạo lứt muối mè, ăn để trị bệnh đó, nhưng khi bệnh đó hết, thì chúng ta đã trở thành bệnh nghiện ngập gạo lứt muối mè, lúc bấy giờ không ăn gạo lứt muối mè thì các loại bệnh lại đổ ra.

Nhân điện cũng vậy, khi trị bệnh này hết thì có bệnh khác lại đổ ra, có bao giờ hết bệnh đâu? Đó toàn là những ác pháp, nếu chúng ta chưa bị nhiễm mà đặt lòng tin nơi các pháp đó rồi tu tập rèn luyện thì sẽ bị ô nhiễm.

Cho nên lòng tin cần phải đặt cho đúng chỗ, đúng pháp thì mới có lợi ích cho mình, cho người. Người hay nghi ngờ là người không có lòng tin; không có lòng tin thì làm việc lớn không thành, tu hành không chứng quả. Người đánh mất lòng tin với chánh pháp của Phật là người đánh mất đường tu.

Chánh pháp của Phật giáo là GIỚI, ĐỊNH, TUỆ. Nếu giới luật đức hạnh không tu tập, mà tu tập thiền định thì không bao giờ chứng đạo giải thoát, chỉ chứng thiền tưởng chẳng lợi ích gì cho ai cả.

Lòng tin rất quan trọng, nhưng phải biết đặt nó cho đúng pháp. Lòng tin mà đặt đúng pháp tức là đặt đúng vào đức hiếu sinh, thì ngay đó chúng ta liền tìm thấy con đường thoát khổ.

Con đường thoát khổ là con đường không còn dục và ác pháp. Muốn đạt sự giải thoát này thì duy nhất chỉ có giới đức hiếu sinh như chúng tôi đã thường nhắc nhở ở trên.

Đức hiếu sinh rất tuyệt vời, nó biến chúng ta trở thành những con người có tâm hồn cao thượng, biết thương yêu và tha thứ, không bao giờ làm khổ một ai.

Trả lời câu hỏi 33:

Con đừng ngại đối diện với nỗi buồn, sự thất vọng và cô đơn”. Câu này dạy ĐỨC ĐƯƠNG ĐẦU HIẾU SINH Ý HÀNH.

Người tu hành theo Phật giáo đừng ngại đương đầu với mọi hoàn cảnh khó khăn. Có đương đầu với các ác pháp mới thấy mình có xả tâm hay không? Có đương đầu với nghịch cảnh, với chướng ngại pháp mới thấy mình có giữ gìn lòng yêu thương hay không? Gặp chướng ngại pháp và ác pháp mà tâm vẫn thản nhiên và bình an thì đó là đức hiếu sinh.

Đức hiếu sinh dám đối diện đương đầu với bất cứ ác pháp nào, khi đức hiếu sinh có mặt là các pháp sẽ bị tiêu diệt, cho nên đức hiếu sinh đến đâu là ác pháp tan biến đến đó.

Đức hiếu sinh có công năng diệt trừ các ác pháp rất lớn, đem lại sự bình an cho chúng ta. Người tu hành theo Phật giáo là phải thấy được điều này, khi thấy được điều này thì hằng ngày chúng ta thường xử dụng đức hiếu sinh để đương đầu và dẹp trừ các ác pháp.

Nếu quý vị lìa xa đức hiếu sinh thì thân tâm quý vị sẽ bất an.

Trả lời câu hỏi 34:

Đôi khi sự cô đơn thật sự sẽ giúp con hiểu và chiêm nghiệm được nhiều điều bổ ích, sâu sắc”. Câu này dạy ĐỨC ĐỘC CƯ HIẾU SINH Ý HÀNH.

Chỉ có đức độc cư mới giúp cho chúng ta hiểu được chính mình, mới sống cho mình.

Người có sống cô đơn môt mình mới gọi thương mình thật sự. Bởi vì có sống độc cư mới có thời gian nhìn lại mình, nhìn lại mình mới xét thấy mình rõ ràng. Trong cuộc sống này, ít ai lưu ý đến sự sống cô đơn một mình, họ thường sống chạy theo tâm bên ngoài, sống theo sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Do đó tâm phóng dật chạy theo lòng dục nên gây ra nhiều điều ác pháp, làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.

Những người hay nói chuyện, hay hội họp, sống tiếp giao bên ngoài là những người không sống cho mình, là những người đang bị ngoại cảnh chi phối, đang bị lôi cuốn trong tâm tham, sân, si, mạn, nghi.

Biết bao nhiêu người về Tu Viện tu hành, nhưng chỉ có giới đức độc cư thế mà mọi người đều vi phạm. Nghe tưởng chừng như không có vi phạm hạnh độc cư, nhưng sự thật là vi phạm như vậy. Cho nên sống một mình rất khó chứ không phải dễ.

Bí quyết thành công tu tập thiền định là đời sống độc cư, nhưng có ai sống độc cư được? Vì sống độc cư là sống quay lại với chính mình, nhìn lại mình, hiểu chính mình.

Có người sống độc cư nhưng lại sợ cô đơn, nên xử dụng câu niệm hồng danh Phật hay niệm ân đức của Phật, đó là lối ức chế tâm khiến cho tâm không khởi niệm. Tâm không khởi niệm họ cho đó là thiền định: “Chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền”. Họ đã lầm! Sống độc cư là sống để quán xét tâm mình có sống với đức hiếu sinh hay không? Có tha thứ và thương mọi người, mọi vật hay không? Có đủ lòng tin con đường mình đang tu theo hay không? Có can đảm, gan dạ dám đương đầu với các ác pháp và các chướng ngại pháp hay không? Có sống với tâm thanh thản, an lạc và vô sự được chưa? Mục đích sống độc cư là sống cho mình, sống trong tình thương yêu ban rải cho mọi người, sống để xem từng tâm niệm của mình còn có bị những ác pháp chi phối hay không? Vì thế sống độc cư ít có ai biết cách thức sống như thế nào đúng, như thế nào sai.

Người nào sống đúng phương pháp độc cư là người đang tu tập thiền định của Phật giáo, đang tu tập chánh định.

Trả lời câu hỏi 35:

Đừng đắm chìm triền miên trong sự than trách yếu đuối”. Câu này dạy ĐỨC VƯỢT QUA HIẾU SINH THÂN HÀNH.

Người tu hành theo Phật giáo bất cứ gặp một ác pháp nào chúng ta đều phải vượt qua, buông xuống, đừng để tâm triền miên trong đau khổ. Người để tâm trong sự triền miên đau khổ là một người không trí tuệ, không sáng suốt. Trong đau khổ, phiền não, giận hờn, thù oán, ghét cay, ghét đắng, v.v.. mà cứ để tâm trạng khổ đau đó triền miên mãi là người vô minh, mê muội, dại khờ, không trí tuệ, không biết thương mình, không biết thương người. Ai cũng biết nhờ có thương người mới xả bỏ tâm ác, tâm đau khổ, nếu không xả bỏ mà cứ dằn vặt để cho mình khổ đau là người điên khùng.

Đừng để chìm đắm triền miên trong tâm tham, sân, si, mạn, nghi, có nghĩa là khi tâm chúng ta đang tham muốn một điều gì thì chúng ta nên chấm dứt lòng tham muốn đó ngay liền, đừng để tâm chìm đắm trong lòng tham muốn đó.

Ví dụ: Tâm ham muốn có một chiếc xe hơi nên lúc nào thấy xe hơi là tìm xem đẹp xấu; tìm xem giá cả bao nhiêu, mắc rẻ, đó là tâm tùy miên trong lòng tham muốn xe hơi. Khi biết được tâm như vậy liền tác ý: “Tất cả các pháp trên thế gian này đều vô thường, không có vật gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta, đừng để tâm chìm đắm ham mê, mà phải chấm dứt ngay liền”.

Ví dụ: Tâm muốn mua vé số thì hãy dừng ngay liền bằng phương pháp tác ý: “Đây là tâm THAM, hãy buông xuống ngay liền, đừng để tâm triền miên trong ham mua vé số, vì mua vé số cũng là một hình thức bài bạc”.

Ví dụ: Tâm khởi lên sân hận, tức giận, thì phải chấm dứt ngay liền bằng tri kiến quán sát và tác ý: “SÂN là ác pháp, phải dừng ngay liền, đừng để tâm chìm đắm triền miên trong sân hận tức giận, vì sân giận là pháp ác khổ đau”.

Ví dụ: “Tâm hôn trầm, thùy miên thì phải chấm dứt ngay liền”, và bằng cách đi kinh hành chánh niệm tĩnh giác.

Ví dụ: Tâm khoe khoang tỏ ra mình hơn người thì biết đó là tâm MẠN. “Tâm mạn là một ác pháp, phải dừng ngay liền”, bằng phương pháp như lý tác ý.

Ví dụ: Thấy ai cũng nghi ngờ, sợ họ sẽ làm hại mình hay nói xấu mình, lúc nào tâm cũng chìm đắm triền miên trong nghi ngờ lo sợ. Biết tâm NGHI NGỜ là ác pháp nên chấm dứt ngay liền bằng phương pháp như lý tác ý; bằng phương pháp quán vô lậu thì ngay đó liền xả bỏ tâm nghi.

Người tu hành theo Phật giáo không nên để tâm chìm đắm triền miên trong các ác pháp, khi các ác pháp vừa đến là diệt ngay liền bên ngoài, không để ác pháp lọt vào tâm. Có tu tập như vậy mới thấy Phật pháp là cứu cánh, là đem lại sự an vui cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh. Hành động làm được như vậy gọi là đức hiếu sinh, tức là lòng thương mình, thương người.

Trả lời câu hỏi 36:

Con đừng vội đi tìm một điều gì đó chưa chắc chắn thay thế”. Câu này dạy ĐỨC BỀN CHÍ HIẾU SINH Ý HÀNH.

Người tu hành theo Phật giáo phải bền lòng vững chí, không được nay tu tập pháp môn này, mai tu tập pháp môn kia; nay tu tập pháp môn niệm lục tự Di Đà theo kinh phát triển đại thừa, mai tu tập pháp môn niệm 9 công đức của Phật giáo theo nguyên thủy Nam tông; nay tu tập thiền tri vọng Thiền tông, mai tu tập niệm chú bắt ấn Mật tông; nay tu tập thiền Minh Sát Tuệ Miến Điện, mai tu tập thiền giữ tâm như mặt hồ tĩnh lặng của thiền sư Thái Lan A Chan Cha; nay tu tập Tứ Niệm Xứ quán THỌ, mai tu tập Tứ Niệm Xứ quán TÂM, mốt tu tập Tứ Niệm Xứ quán THÂN, v.v...

Tất cả phương pháp tu hành trên đây quý vị có biết chắc là pháp môn của Phật không? Tất cả pháp môn này chỉ có cái tên là của Phật giáo, còn nội dung tu tập không phải của Phật giáo nữa. Tại sao vậy? Vì các thầy tổ tu hành mà không có người tu chứng hướng dẫn, nên theo kinh tự mò theo kiến tưởng giải mà tu. Tu như vậy cũng giống như người mù rờ voi, rờ thấy giống cái gì của con voi là cho con voi giống cái nấy.

Bây giờ người tu theo Phật giáo cũng vậy.

Khi Phật dạy niệm Phật là “SỐNG” với những đức hạnh giới luật của Phật, chứ không phải niệm danh hiệu Phật suông.

Nhưng các tổ không hiểu biết nghĩa chữ niệm là “SỐNG”, mà hiểu chữ niệm là ý thầm niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà. Gần đây có một nhà sư Nam tông cũng không hiểu ý Phật dạy, nên vị sư ấy lấy 9 công đức của Phật tiếng Pali đọc mỗi âm lần một hột chuỗi, biến thành pháp môn niệm công đức Phật theo 108 hột chuỗi.

Nên Phật dạy một đàng mà các tổ tu một nẻo. Tu như vậy chỉ có ức chế tâm không niệm khởi để đi vào thế giới ảo tưởng, chứ có ích lợi gì cho ai đâu.

Bởi vậy họ là những người mù rờ voi. Phật dạy con đường tu tập rất rõ ràng GIỚI, ĐỊNH, TUỆ. Vậy mà họ niệm Phật kiểu đó thì giới luật ở đâu? Tu giới luật là tu chỗ nào? Niệm Phật là sống một đời sống đức hạnh như Phật, mà sống đức hạnh như Phật là sống giới luật. Cho nên niệm Phật là sống đúng giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, chứ không phải niệm danh hiệu và công đức Phật như các sư thầy, tổ đã dạy.

Các sư thầy, tổ kiến giải pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh của Phật làm sai nghĩa lý lời Phật dạy thì các sư thầy, tổ sẽ chịu tội với bao nhiêu người bỏ công sức ra tu hành mà chẳng ích lợi gì, còn bị lạc vào ảo tưởng.

Câu này ý dạy đừng nên thay đổi pháp tu, mà phải trì chí ôm giới luật đức hạnh tu tập.

Chỉ có giới luật là khởi sự cho bước đầu tu tập của Phật giáo, ngoài giới luật đức hạnh ra mà tu pháp nào thì đều là tu sai pháp cả.

Pháp Tứ Niệm Xứ là pháp tu giới luật đấy quý vị! Cho nên người nào nỗ lực thực hiện giới luật nghiêm trì không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào là phải 7 năm chứng đạo.

Đối với những người nghe hiểu biết giới luật mà chưa buông bỏ các pháp được, vì thế phải trên Tứ Niệm Xứ giữ gìn thân tâm không phạm giới, dù là những giới nhỏ nhặt thì trong 7 tháng chứng đạo. Còn người nào nghe xong liền buông bỏ sạch thì sáng nghe pháp chiều chứng đạo, hoặc tối nghe pháp sáng chứng đạo.

Cho nên ở đây chỉ cần hiểu các pháp là vô thường, là nhân quả, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Người nghe Phật thuyết pháp hiểu rõ thật như vậy, sáng nghe thuyết pháp và quyết tâm buông xả sạch thì chiều chứng đạo; tối nghe thuyết pháp và quyết tâm buông xả sạch thì sáng chứng đạo. Người nào hiểu giới luật là pháp buông xả các ác pháp thì sự tu tập chứng đạo không phải khó khăn đối với họ.

Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là 37 pháp môn dùng để tu tập giới luật, chứ nó không phải thiền định gì cả.

Tứ Niệm Xứ cũng là pháp tu giới luật, nhờ Tứ Niệm Xứ mà giới luật thanh tịnh.

Phật giáo chỉ có GIỚI, ĐỊNH, TUỆ, nhưng khi tu GIỚI thành tựu thì có ĐỊNH, khi có định là có TUỆ. Vậy ĐỊNH, TUỆ đâu cần tu.

Trong BÁT CHÁNH ĐẠO, hết bảy lớp đều tu giới luật, chỉ có một lớp tu tập ĐỊNH, như vậy ĐỊNH chỉ có thể thể hiện chứ có tu tập những gì đâu.

Đoạn này người mẹ khuyên con: “Con đừng vội đi tìm một điều gì đó chưa chắc chắn thay thế sẽ tốt đẹp hơn”. Ngoài đời người ta làm nghề nghiệp để sống, thế mà khi gặp thất bại người ta còn không thay nghề đổi nghiệp khác. Vì nghề nghiệp khác chưa chắc mình chuyên môn hơn, thì tốt nhất ngay trong nghề cũ mình rút ra từng kinh nghiệm thất bại mà sửa lại thì thành công tốt đẹp dễ dàng hơn.

Bởi vậy, chỉ có đức bền chí mới làm nên mọi sự nghiệp. Bền chí mới thành công trong sự nghiệp tu hành. Dù trên bước đường tu hành có gặp nhiều trở ngại khó khăn, nhưng chỉ có bền chí sẽ vuợt qua mọi khó khăn, mọi thử thách.

Trả lời câu hỏi 37:

Vì con vẫn sẽ phải quay lại vấn đề chưa giải quyết được, đôi khi phức tạp hơn hay với tâm thế không tốt như ban đầu”. Câu này dạy ĐỨC THẬN TRỌNG HIẾU SINH Ý HÀNH.

Bất cứ làm một việc gì đều phải thận trọng, huống là việc tu tập rèn luyện nhân cách để ra khỏi bốn sự khổ đau của kiếp người thì lại còn thận trọng nhiều hơn nữa.

Có thận trọng chúng ta mới tu hành đúng pháp. Xưa kia các sư thầy, tổ thiếu thận trọng suy xét khi mình kiến tưởng giải ra pháp tu hành có đúng với lời Phật dạy hay không? Thiếu thận trọng so sánh những kiến tưởng giải của mình về các pháp môn niệm Phật, rồi đến các pháp môn thiền định. Vì thế tu sai Phật pháp mà không biết, kết quả không giải thoát, nhưng để lại cho đời sau một giáo pháp sai lạc, một hậu quả vô cùng khốc hại, biết bao nhiêu công sức của con người tu tập mà chẳng có ích lợi gì, chỉ sống trong mộng ảo mà thôi.

Bởi vậy đức thận trọng hiếu sinh ý hành rất cần thiết cho sự tu tập của chúng ta.

Muốn thực hiện cho được lòng yêu thương mình, thương người và tất cả loài vật khác, thì phải thận trọng từng ý suy nghĩ, phải nghĩ những điều thiện, không nên suy nghĩ những điều ác; từng lời nói không được nói đại, nói đùa, nói lời thô lỗ, nói tục tĩu, nói lời kém văn hóa, nói lời không ái ngữ, nói lời thiếu ôn tồn, nhã nhặn; từng hành động phải nhẹ nhàng, phải tỉnh thức, phải quan sát kỹ lưỡng không để xảy ra vô tình làm đau khổ chúng sinh; không để xảy ra vô tình làm mất danh dự mình; không để xảy ra vô tình làm mình khổ, người khác khổ và chúng sinh khổ.

Có làm được như vậy mới gọi là đức thận trọng hiếu sinh.

Đức thận trọng hiếu sinh thân, khẩu, ý hành là đức hạnh rất quan trọng trong việc rèn luyện nhân cách. Khi chúng ta muốn tu tập một pháp môn nào thì đức thận trọng là hàng đầu. Các tu sinh phải nhớ lời dạy này.

Người có đức thận trọng là làm việc gì bao giờ cũng dễ thành công hơn những người thiếu thận trọng. Mọi người lái xe đều có đức thận trọng thì tai nạn giao thông không thể xảy ra được; không thể xảy ra được thì sẽ không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.

Người tu hành có đức thận trọng thì tu hành rất kỹ lưỡng, tu hành không sai. Nhờ tu hành kỹ lưỡng không sai nên giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả. Người có đức thận trọng tu hành chứng đạo dễ dàng không có khó khăn, không có mệt nhọc.

Bởi vì, người nào tu theo Phật giáo chỉ biết áp dụng ĐỨC THẬN TRỌNG HIẾU SINH Ý HÀNH vào sự tu tập của mình thì giới luật đều nghiêm chỉnh không hề sai phạm. Người tu hành mà giới luật nghiêm chỉnh là chứng đạo ngay trước mắt.

Trả lời câu hỏi 38:

Con hãy bắt tay vào công việc mà con yêu thích ngay cả lúc con chán nản nhất và không muốn làm việc”. Câu này dạy ĐỨC KIÊN NHẪN HIẾU SINH Ý HÀNH.

“Cố công mài sắt có ngày nên kim”, đó là câu tục ngữ dân gian thường nhắc nhở mọi người cần phải có sự kiên nhẫn, bền chí thì làm việc gì cũng thành công.

Ở đây là ĐỨC KIÊN NHẪN HIẾU SINH Ý HÀNH, nếu ai đứng trước một công việc dù có khó khăn bao nhiêu mà biết áp dụng đức hạnh này vào đời sống và việc làm thì thành công dễ dàng, không có khó khăn mệt nhọc.

Người tu hành cũng vậy, phải cố công hàng phục tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Muốn dẹp sạch tâm tham, sân, si, mạn, nghi, thì không phải việc chỉ làm trong một ngày mà phải nhiều ngày. Mà nhiều ngày thì phải có đức kiên nhẫn.

Chúng ta ai cũng biết tâm tham, sân, si, mạn, nghi trùng trùng, lớp lớp, chứ không phải chỉ có một tâm tham là một tâm tham mà thôi, nó trùng trùng tâm tham như: tham cái này cái nọ, rồi tham cái kia, v.v... Sắc pháp trùng trùng duyên khởi thì tâm tham cũng theo đó mà trùng trùng chạy theo.

Nếu một người tu tập không có đức kiên nhẫn thì không bao giờ dẹp hết tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Khi chúng ta ngồi lại một mình, quán xét nhìn lại trên bốn chỗ THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP của Tứ Niệm Xứ, thì chúng ta mới thấy tâm tham, sân, si, mạn, nghi hoạt động trên THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP trùng trùng điệp điệp, ý này khởi ra chưa hết liền có ý khác, cho nên chúng ta muốn có một phút giây an ổn là một điều rất khó; muốn có một phút giây tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì đâu phải dễ. Trên đường tu hành để diệt trừ tâm tham, sân, si, mạn, nghi, nếu không có đức kiên nhẫn hiếu sinh ý hành thì chúng ta khó mà chiến thắng nó được.

Đức kiên nhẫn hiếu sinh ý hành giúp chúng ta rất lớn trong công việc đẩy lui các ác pháp. Khi tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ thì đức kiên nhẫn phải được áp dụng ngay liền, vì trong khi tu tập Tứ Niệm Xứ thì nên để tâm tự nhiên quán xét trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp, chứ không được vận dụng tập trung ức chế vào một đối tượng hay nhiều đối tượng để dẹp trừ vọng niệm khởi là tu sai pháp. Do để tâm quan sát tự nhiên như người ngồi chơi vô sự thì mới thấy niệm tham, sân, si, mạn, nghi khởi lên trùng trùng điệp điệp.

Cho nên người tu tập chỉ có kiên nhẫn ngày này qua ngày khác không chấp nhận, không làm theo tâm tham, sân, si, mạn, nghi thì chúng tự dẹp, tự đi mất.

Khi chúng ta kiên nhẫn tu tập như vậy là chúng ta đã diệt sạch tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Khi đã dẹp sạch tâm tham, sân, si, mạn, nghi là tu chứng đạo vô lậu (A La Hán).

Tu chứng quả A La Hán đâu phải khó khăn, mệt nhọc, mà chỉ có kiên nhẫn không chấp nhận và không làm theo tâm tham sân, si, mạn, nghi là thành công trên đường tu tập. Người tu tập theo Phật giáo phải thấy ĐỨC KIÊN NHẪN HIẾU SINH Ý HÀNH là một pháp môn cần thiết cho sự tu tập của mình.

Trả lời câu hỏi 39:

Vì chỉ có công việc thật sự chứ không phải sự nhàn rỗi sẽ giúp con tìm lại được niềm vui và niềm tin cuộc sống”. Câu này dạy ĐỨC CẦN MẪN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Người tu hành lười biếng thì không làm sao chứng đạo được. Tu hành giờ khắc phải nghiêm chỉnh.

Ví dụ: Sáng 7 giờ vào lớp học, khi về thất thì phải áp dụng bài học đức hiếu sinh vào đời sống ngay liền: đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, nói, nín đều sống với đức hiếu sinh.

Chiều 2 giờ tu tập phải áp dụng bài học đạo đức hiếu sinh buổi sáng đã học để thực hành vào Định Niệm Hơi thở, vào Định Thư Giãn Sáng Suốt và vào Định Chánh Niệm Tĩnh Giác đi kinh hành; tối 7 giờ và khuya 2 giờ đều tu tập như trên, chứ không phải đến lớp học rồi về thất đi nói chuyện tào lao.

Mới 9 giờ tối là đi ngủ đến 3, 4 giờ sáng mới dậy tu tập. Tu tập như vậy biết chừng nào chứng đạo. Người học đạo đức hiếu sinh là phải biết áp dụng thực hành đạo đức vào đời sống hằng phút, hằng giây, hằng ngày, đâu dám biếng trễ, chứ không phải học suông như học trò học bài và làm bài xong là đi chơi.

Bởi vậy có siêng năng tu tập áp dụng bài học đạo đức hiếu sinh khi về thất thì mới được gọi là ĐỨC CẦN MẪN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Người đời có siêng năng cần mẫn làm việc thì mới làm nên sự nghiệp vĩ đại, còn những người lười biếng thì làm sao làm nên việc lớn được.

Trong đạo cũng vậy, tuổi đời các tu sinh có người không còn bao lâu nữa, vậy mà còn thích nói chuyện, còn thích ăn ngon, ăn uống phải có thực đơn như thế này, như thế khác để lo phần sức khỏe, thì đó không phải là tâm giải thoát, mà đó là tâm đời, tâm dục lạc thế gian.

Sức khỏe của tu sinh đều do ảnh hưởng tinh thần trong sự tu tập, chứ ăn uống chỉ là một phần nhỏ, không quan trọng như mọi người nghĩ.

Nếu tinh thần ôm đầy ác pháp tham, sân, si, mạn, nghi thì dù có ăn ngủ đầy đủ thì không khác nào như một người ngoài đời, đang nằm trong vòng luân hồi sinh tử của nhân quả.

Vì thế, người tu hành đối với sự ăn uống không quan trọng, mà quan trọng ở việc áp dụng bài học đạo đức hiếu sinh vào đời sống khi về thất. Bởi tu hành như vậy thì tu sinh đâu còn giờ nào nữa rảnh rỗi mà lo ăn, lo ngủ hay vui chơi, hội họp nói chuyện.

Siêng năng cần mẫn tu hành phải đúng cách, đúng pháp mới được gọi là ĐỨC CẦN MẪN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Trả lời câu hỏi 40:

Đừng quá lệ thuộc vào những định ước khuôn mẫu như con đã từng biết: Mất tiền là không mất gì; mất sức khỏe là mất nhiều; còn mất danh dự là mất tất cả”. Câu này dạy ĐỨC DANH DỰ HIẾU SINH Ý HÀNH.

Đạo đức đã dạy chúng ta rất rõ ràng: “Mất tiền là không mất gì; mất sức khỏe là mất nhiều; còn mất danh dự là mất tất cả”. Đó là đạo đức của người thế gian mà họ còn quan tâm đến DANH DỰ như vậy, huống chúng ta là những tu sĩ Phật giáo, thì danh dự của người tu sĩ rất quan trọng, vì danh dự của tu sĩ là danh dự của Phật giáo, mà nói đến danh dự của Phật giáo là nói đến đức hạnh giới luật của Phật giáo.

Một người tu sĩ Phật giáo nói dối, người ta phát hiện ra người này nói không thật là người tu sĩ đó tự làm mất danh dự của mình và của Phật giáo. Vì thế không nói thì thôi, mà khi đã nói ra là phải nói đúng sự thật, đúng 100%. Lời nói rất quan trọng như vậy, lời nói là một danh dự của con người cho nên muốn nói phải cân nhắc suy nghĩ kỹ lưỡng rồi mới nói, chứ không được nói đại, nói tiểu.

Danh dự có hay không là do ở chỗ lời nói.

Vậy các tu sinh khéo giữ gìn ĐỨC DANH DỰ HIẾU SINH Ý HÀNH, thì giá trị của con người sẽ được mọi người quý trọng.

Khi mình nghi ngờ một người nào mà không cân nhắc kỹ lưỡng, vội nói ra không đúng sự thật là nói xấu người khác, coi chừng mình đã đánh mất danh dự của mình. Chứ mình đừng nghĩ rằng nói xấu người khác là mọi người đều tin nghe theo mình cả. Cho nên nói dối và nói xấu người khác là tự mình đánh mất giá trị danh dự của mình.

“Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Thường con người bị khẩu nghiệp quá nặng, thường hay nói lời không thật hoặc hay nói xấu người khác để thỏa mãn lòng căm tức, hay cơn giận hờn thù ghét mà đánh mất danh dự của mình.

Người làm mất danh dự của mình là người không thương mình. Đạo đức hiếu sinh đã xác định rõ điều ấy. Cho nên người nào tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi là người sẽ đánh mất đức danh dự hiếu sinh của mình.

Trả lời câu hỏi 41:

Nhưng với ý chí, nhiều người đã chiêm nghiệm và thực hiện được trong thực tế cuộc sống khác với câu châm ngôn ấy: “Mất tiền thì bạn sẽ có thể làm lại được ra tiền; mất sức khỏe bạn có thể tìm lại được sức khỏe của mình; mất danh dự bạn có thể khôi phục được danh dự, nếu còn có niềm tin và thời gian; mất niềm tin bạn vẫn có thể tìm lại được niềm tin bằng sự cố gắng, nghị lực và tình cảm con người”. Câu này dạy ĐỨC TỰ TIN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Ngoài đời cũng như trong đạo, nếu ai có đức tự tin thì sẽ làm thay đổi mọi sự việc, dù cho gặp nhiều gian nan thử thách, nhưng lòng tin sẽ giúp chúng ta chuyển đổi được tất cả, làm nên mọi sự việc, không chịu đầu hàng trước mọi nghịch cảnh.

Khi chúng ta nghiên cứu kỹ lưỡng Phật pháp, biết chắc chắn rằng: những pháp này chính Phật dạy; những pháp này tu tập sẽ làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi, nên quyết tâm, tự tin mình sẽ tu tập đến nơi đến chốn hoàn thành.

Người tu hành theo Phật giáo dễ chứng đạo là do lòng tin. Khi nghe Phật thuyết pháp xong là người có lòng tin chứng đạo ngay liền, đó đều là do lòng tin. Như trong kinh Phật dạy: Sáng nghe thuyết pháp chiều chứng đạo, tối nghe thuyết pháp sáng chứng đạo. Điều này nghe khó tin lắm, nhưng nó là một sự thật mà trong kinh thường nhắc đi nhắc lại.

Ví dụ: Khi nghe Phật dạy: “Các pháp là vô thường, là khổ, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta”. Nếu một người nghe pháp xong có lòng tin thật sự vào lời dạy trên đây là họ xin Phật xuất gia ngay liền, họ không còn luyến tiếc một chút gì trên đời này nữa, họ buông bỏ sạch như nhà cửa, sự nghiệp, vợ con, cha mẹ, bà con quyến thuộc và chính ngay bản thân của họ, họ cũng ném bỏ như ném bỏ một nắm rác bẩn thỉu. Thân tâm này là một khối duyên hợp, là một khối nghiệp khổ đau, là một khối vật chất bất tịnh uế trược, càng ôm mang nó, càng chiều chuộng nâng niu nó, thì nó càng khổ đau phiền não nhiều hơn nữa. Cho nên người nào hiểu rõ như vậy thì phải mau mau buông xuống. Có buông xuống sạch thì ngay đó là chứng đạo.

Xét qua người thời nay, khi nghe một thời pháp nói về các pháp vô thường, khổ, vô ngã rất tuyệt vời, không có ai phủ nhận, chống trái và bài bác được. Bài pháp ấy thật hay, nhưng nhìn lại không có người nào buông xả; do không buông xả nên không có ai chứng đạo ngay liền. Tuy họ nghe rất đúng, không có chỗ nào họ bảo sai được, nhưng họ không đủ lòng tin nên không thể buông bỏ. Cho nên những người nào đi tu mà còn lo bảo dưỡng sức khỏe, lo ăn uống cho có chất bổ dưỡng, là họ chưa có lòng tin các pháp là vô thường, là khổ, là vô ngã, là không phải ta, là không phải của ta, là không phải bản ngã của ta.

Ai cũng bảo rằng: tôi tin, nhưng sự thật lòng tin còn cạn cợt. Tin các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, nhưng khi bị người khác chửi hay nói nặng lời là mình tức giận ầm ầm như vậy. Tin các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, nhưng khi có tai nạn xảy đến thì lo sợ, khổ đau phiền não. Tin các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, sao còn thích ăn ngon mặc đẹp? Tin các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, sao còn thích đi nói chuyện ham vui? Tin các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, sao không thấy lỗi mình mà cứ thấy lỗi người? Tin các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, sao lại tranh chấp hơn thua, ganh tỵ từng lời nói, v.v...

Cho nên đức tín lực hiếu sinh ý hành rất quan trọng trong vấn đề tu tập theo Phật giáo. Ai cũng nói mình tin, nhưng lòng tin ấy chưa đủ, chưa có lực, nên buông xả các pháp xuống chưa trọn vẹn.

Lời người mẹ dạy con: “Mất tiền thì con sẽ có thể làm lại được ra tiền; mất sức khỏe con có thể tìm lại được sức khỏe của mình; mất danh dự con có thể khôi phục được danh dự, nếu con có niềm tin và thời gian; mất niềm tin con vẫn có thể tìm lại được niềm tin bằng sự cố gắng, nghị lực và tình cảm con người”.

Nhờ có lòng tin, chúng ta mới cố gắng hết mình vượt qua những khó khăn, gian nan và thử thách. Nhờ có lòng tin, chúng ta mới có nghị lực kiên gan bền chí, dũng cảm dời non lấp biển.

Nhưng lòng tin mất, chúng ta có thể phục hồi lòng tin lại bằng sự tư duy quán xét, giúp cho tri kiến thấy rõ các pháp vô thường, vô ngã và khổ đau như thật, hoặc chúng ta hết sức công phu vào các pháp thực hành để có một sức tĩnh giác thấy rõ các pháp vô thường, vô ngã là thật, thì lòng tin lại càng gia tăng. Cho nên người tu sĩ Phật giáo đừng để đánh mất lòng tin. Mất lòng tin là mất tất cả; mất tất cả thì cuộc đời này chỉ còn buông xuôi theo qui luật nhân quả, và như vậy chỉ còn một sự đau khổ triền miên bất tận.

Đúng vậy, hiện giờ loài người đang sống theo dòng sông định mệnh của nhân quả.

Không có ai chuyển biến làm thay đổi nhân quả, nên khổ đau lại càng khổ đau hơn, chỉ vì họ chưa có lòng tin với chánh pháp của Phật.

Trả lời câu hỏi 42:

Và chỉ khi bạn thôi không cố gắng nữa hay buông xuôi, bạn mới có khả năng mất tất cả”. Câu này dạy ĐỨC KHÔNG THỐI CHUYỂN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Còn cố gắng tu tập là chưa mất tất cả, hãy cố gắng đứng lên chiến đấu tận cùng với mặt trận sinh tử luân hồi. Nếu chúng ta thối chuyển, không tiến bước nỗ lực tu hành thì không ai cứu khổ cho chúng ta được.

ĐỨC KHÔNG THỐI CHUYỂN HIẾU SINH Ý HÀNH sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn gian khổ trong bước đường tu tập, để chiến thắng giặc sinh tử luân hồi.

Xin quý tu sinh hãy lưu ý: Trên đời này không có việc gì khó, cái khó là do ở chúng ta không có tín lực. Người có đức tự tin thì không bao giờ thối chuyển bỏ cuộc, dù bất cứ việc gì khó khăn và khó khăn đến bâc nào họ cũng vượt qua và hoàn thành xuất sắc.

Bởi vậy, những ai có ĐỨC KHÔNG THỐI CHUYỂN HIẾU SINH Ý HÀNH là có tín lực.

Nếu không có tín lực thì tâm thối chuyển sẽ hiện hành, và như vậy thì cuộc đời sẽ trôi nổi theo dòng nhân quả và sự tu hành cũng chẳng tới đâu. Bằng chứng có một số người về Tu Viện tu tập, nhưng thiếu lòng tin nên hiện giờ mục đích chứng đạo của họ chẳng còn nữa, và con đường tu hành của họ cũng chẳng đi đến đâu cả, chỉ lang bang nói những pháp chắp vá mình chưa làm được. Mang tiếng là tu sĩ, và cũng một thời tu hành mà tu hành có ra gì? Không nghe lời dạy của thầy, nên phải chịu trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi khổ đau vô cùng tận. Cho nên làm người không đi tu thì thôi, mà đã đi tu thì phải tu tới nơi tới chốn, quyết định thà chết chứ không lùi bước.

Nhất là tu hành thì phải nghe lời dạy của một vị thầy có kinh nghiệm đã trải qua và đã tu chứng đạo. Chọn được thầy như vậy thì thầy dạy sao phải tu hành đúng như lời dạy của Người. Ví dụ: Thầy bảo sống đôc cư mà lại đi nói chuyện, thì như vậy là tu hành sai; tu hành như vậy không đi đến đâu.

Thầy bảo đến lớp học đức hạnh giới luật và về thất sống độc cư, áp dụng đức hạnh vào thân tâm của mình để xả bỏ tâm tham, sân, si, mạn, nghi, nhưng ngược lại không đến lớp học đạo đức, hoặc đến lớp học nhưng về thất lại đi nói chuyện, không áp dụng đạo đức đã học ở lớp vào sự tu hành để xả tâm, thì như vậy là tu học sai.

Tu học là phải nghe lời dạy của thầy, phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, có tu tập như vậy mới tu tập đúng pháp, không được tu tập sai.

ĐỨC KHÔNG THỐI CHUYỂN HIẾU SINH Ý HÀNH là một đức hạnh luôn chiến đấu không lùi bước, dù bất cứ chúng ta gặp tất cả những hoàn cảnh khó khăn và gian nan, khổ đau đến mức nào, cũng phải vượt qua để đạt cho được mục đích mà mình đã nhắm đến.

Trả lời câu hỏi 43:

Những câu nói chưa suy nghĩ kỹ có thể bị hiểu nhầm, gây tổn thương người khác hay làm con mất đi sự tự tin, nên hãy suy nghĩ, tìm hiểu kỹ về những điều, những dự định sắp làm, những gì con sắp hứa, hay những điều con sẽ nói”. Câu này dạy ĐỨC CẨN THẬN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Người tu sĩ Phật giáo rất kỹ lưỡng khi bắt tay vào sự tu hành dù một pháp nào, một giới luật nào nhỏ nhặt đến đâu họ đều cẩn thận suy nghĩ kỹ lưỡng rồi mới tu tập. Khi tu tập họ cũng cẩn thận kỹ lưỡng tu tập từng hành động, khi hành động này tu tập xong có kết quả thì họ mới tu tập hành động kế tiếp. Còn về tu tập hơi thở, khi tu tập đề mục hơi thở này xong thì mới tu tập đề mục hơi thở khác, chứ không tu tập lấy có, tu tập hình thức, tu tập rất kỹ lưỡng từng hơi thở một. Sự tu tập kỹ lưỡng như vậy mới gọi là ĐỨC CẨN THẬN HIẾU SINH Ý HÀNH. Người tu tập kỹ lưỡng là dễ chứng đạo.

Trong tu viện chúng ta có rất nhiều tu sinh tu hành, nhưng tu hành không cẩn thận kỹ lưỡng. Người tu hành không cẩn thận kỹ lưỡng nên thường vi phạm những giới luật nhỏ nhặt.

Ví dụ: Khi đứng dậy bước đi mà không để ý quan sát trước sau đó là thiếu ĐỨC CẨN THẬN HIẾU SINH Ý HÀNH. Người thiếu đức cẩn thận hiếu sinh ý hành là phạm giới, là người thiếu tĩnh giác. Người thiếu tĩnh giác là người không làm nên sự nghiệp lớn, tu hành cũng chẳng đi đến đâu.

Ví dụ: Khi muốn nói một điều gì mà nói đại, nói không có suy tư trước. Khi nói ra rồi lấy lại rất khó. Lời nói không suy nghĩ dù người đó có tài trí đến đâu cũng không làm nên sự nghiệp được. Muốn nói ra một điều gì mà nói không suy nghĩ là người thiếu ĐỨC CẨN THẬN HIẾU SINH Ý HÀNH. Người thiếu đức cẩn thận hiếu sinh ý hành là người hay làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh.

Tóm lại, đức cẩn thận hiếu sinh lúc nào cũng thực hiện nơi thân, khẩu, ý, để suy nghĩ tư duy trước khi nói một việc gì; trước khi làm một việc gì đều phải cẩn thận cân nhắc kỹ lưỡng rồi nói, rồi làm. Hành động cẩn thận cân nhắc kỹ lưỡng như vậy là đức cẩn thận hiếu sinh thương mình, thương người và thương yêu tất cả chúng sinh. Vì lợi ích cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh, chúng ta quyết tâm giữ gìn ĐỨC CẨN THẬN HIẾU SINH Ý HÀNH, không để đánh mất dù trong bất cứ những trường hợp nào.

Trả lời câu hỏi 44:

Đừng ngại nói lời xin lỗi chân thành hay nhìn nhận những gì mình chưa làm được, chưa hoàn thiện”. Câu này dạy ĐỨC HỐI LỖI HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Có làm lỗi thì hãy đứng trước mọi người nói lời xin lỗi. Đó là hành động đạo đức tuyệt vời, đó là thực hiện ĐỨC HỐI LỖI HIẾU SINH KHẨU HÀNH. Hành động đứng ra xin lỗi là đạo đức thương mình, thương người; hành động đạo đức cao thượng làm cho mình an vui, người khác cũng an vui.

Cho nên một lời xin lỗi là một hành động đạo đức hiếu sinh khẩu hành; một sự hối hận trong tâm của mình cũng là đạo đức hiếu sinh ý hành.

Trong các pháp Yết Ma của Phật giáo có ngày BỐ TÁT. Ngày ấy tất cả chúng tăng hội họp để phát lồ sám hối, nếu tu sĩ nào có làm điều sai phạm giới luật thì phải đứng ra nói hết những lỗi lầm của mình và xin sám hối trước đại chúng. Hành động ngày Bố Tát của tu sinh là hành động đạo đức HỐI LỖI HIẾU SINH KHẨU HÀNH.

Hành động đứng ra trước mọi người xin phát lồ sám hối là một hành động đạo đức hiếu sinh thân hành và khẩu hành tuyệt vời trong Phật giáo; một hành động biết thương mình để uốn nắn mình trở thành người tốt, người thiện, người không phạm giới, người không làm khổ mình, khổ người rất rõ ràng và cụ thể. Hành động đứng ra trước mọi người xin phát lồ sám hối còn là một hành động thương người để cho người khác không còn buồn phiền mình vì mình đã làm chướng ngại cho họ.

ĐỨC HỐI LỖI HIẾU SINH KHẨU HÀNH là một đức hạnh cao thượng tuyệt vời, mà mỗi con người chúng ta đều phải học và thực hiện trong đời sống hằng ngày của mình, để rèn luyện nhân cách của mình ngày một tốt đẹp hơn.

Trả lời câu hỏi 45:

Ngay cả lúc thất vọng nhất, con hãy luôn nghĩ về những điều con từng ước mơ, hãy mạnh dạn và hãy tự tin, trầm tĩnh, vững vàng”. Câu này dạy bốn ĐỨC MẠNH DẠN, TỰ TIN, TRẦM TĨNH, VỮNG VÀNG.

Để thực hiện con đường đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, thì chúng ta phải xử dụng bốn đức: ĐỨC MẠNH DẠN, ĐỨC TỰ TIN, ĐỨC TRẦM TĨNH, ĐỨC VỮNG VÀNG.

Ngoài đời khi gặp những lúc thất vọng nặng nề, nếu chúng ta biết đem bốn đức này ra đương đầu với mọi việc khó khăn thì chúng ta cũng dễ thành công.

Người tu sĩ Phật giáo lúc nào cũng sống với ĐỨC TRẦM TĨNH trước các ác pháp, trước các cảm thọ và trước những sự khiếp đảm và sợ hãi. Đức trầm tĩnh sẽ triệt tiêu tất cả chướng ngại pháp. Nhờ ĐỨC TRẦM TĨNH, chúng ta mới có đủ trí tuệ sáng suốt mà diệt trừ các ác pháp, cảm thọ và tâm khiếp đảm sợ hãi, thì mới đem lại sự bình an cho mình, cho người, cho tất cả chúng sinh. Nếu không đủ ĐỨC TRẦM TĨNH thì chúng ta khó mà diệt trừ được tâm tham, sân, si, mạn, nghi.

Nếu muốn một tâm hồn có ĐỨC TRẦM TĨNH thì chúng ta phải có ĐỨC TỰ TIN. Tự tin nơi mình sẽ làm được những gì người khác chưa làm được. Tự tin nơi mình sẽ tu chứng quả A La Hán. ĐỨC TỰ TIN rất cần thiết cho đời sống tu hành của chúng ta, nếu đánh mất ĐỨC TRẦM TĨNH và ĐỨC TỰ TIN thì con đường tu tập của chúng ta cũng mất theo. Xin quý tu sinh lưu ý: Nó là một vật rất quý báu nhất cho người tu hành theo Phật giáo.

Vừa rồi Tu Viện mở khóa tu 7 tháng chứng quả A La Hán, nhưng hầu hết tu sinh đều không tự tin mình tu hành trong 7 tháng chứng đạo. Do không tự tin mình tu chứng đạo nên mọi tu sinh tụ họp với nhau nói chuyện phá hạnh độc cư. Do đó 7 tháng trôi qua, mọi tu sinh không chứng đạo. Thật xấu hổ! Tất cả tu sinh đều thi rớt, chỉ còn vớt vát lại hai người. “Thi không ăn ớt thế mà cay”.

Nhưng nào có ai cay đâu, tất cả tu sinh đều cho Phật pháp tu hành quá khó, nên đành xuống lớp học lại giới luật đức hạnh. Nếu lớp học giới luật này không tự tin nơi mình, mà không áp dụng đạo đức hiếu sinh vào sự sống hằng ngày thì sẽ ở lại lớp I mãi mãi, không bao giờ lên lớp khác được. Và như vậy sẽ bỏ sự tu tập, và trở về đời sống thế gian thì cuộc đời đau khổ lại toàn đau khổ. Đó là những tu sinh đánh mất ĐỨC TRẦM TĨNH và ĐỨC TỰ TIN của mình.

ĐỨC TỰ TIN không có thì làm sao có ĐỨC MẠNH DẠN được. Nếu không có ĐỨC MẠNH DẠN thì làm sao có ĐỨC VỮNG VÀNG. Khi chúng ta đã hiểu các pháp là vô thường, là khổ, là vô ngã, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta, thì chúng ta MẠNH DẠN buông xả sạch, chỉ còn chấp nhận đời sống ba y, một bát đi xin ăn, lấy gốc cây làm giường nằm, lấy nhà mồ nghĩa địa làm nhà ở; đời sống thiểu dục tri túc, tinh thần trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không.

Người nào tu theo Phật giáo mà MẠNH DẠN buông xả sạch đời sống thế gian, không còn một chút tiếc rẻ nào thì người ấy đã chứng đạo. Bởi vậy đức MẠNH DẠN mà có sự hiểu biết không vững vàng thì chỉ làm khổ cho mình mà thôi.

Người nào có đầy đủ những đức như sau:

ĐỨC MẠNH DẠN, ĐỨC TỰ TIN, ĐỨC TRẦM TĨNH, ĐỨC VỮNG VÀNG, thì làm những việc gì cũng dễ thành công, tu hành thì cũng dễ chứng đạo. Tu sinh tại tu viện Chơn Như thiếu bốn đức này nên phạm giới, phá giới, tu hành không chứng đạo. Đến bây giờ tu sinh vẫn còn lang thang trong lớp học giới luật đức hạnh, thế mà tu sinh lại không áp dụng đức hiếu sinh vào cuộc sống, mà cứ mãi chạy theo tâm tham, sân si, mạn nghi để hơn thua tranh chấp, thật là đau lòng. Phải không các tu sinh? “Cuộc đời còn có gì đâu Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì”.

Ôn Như Hầu Cuộc đời là vô thường, như vậy có gì đâu mà không chịu buông bỏ xuống cho sạch, còn tham đắm làm chi, hỡi các tu sinh!?

Trả lời câu hỏi 46:

Con hãy làm theo cách, đi những con đường mà con đã suy nghĩ là đúng, dù có thể chưa ai đi. Sự thử thách càng lớn, thì khi vượt qua được thế đứng và tầm nhìn càng cao”. Câu này dạy ĐỨC CHÁNH TƯ DUY HIẾU SINH Ý HÀNH.

Muốn làm một điều gì, nói một điều gì chúng ta cần phải tư duy suy nghĩ kỹ càng rồi mới làm, mới nói. Đó là Chánh Tư Duy.

Người nào làm và nói có Chánh Tư Duy thì không bao giờ gặp thất bại. Thường hay gặp thất bại là chỗ chúng ta không chịu suy tư kỹ càng trước khi nói hay làm.

Sống trong đạo cũng như ở đời, muốn có được sự an vui và hạnh phúc; muốn cho tâm mình bất động trước các ác pháp và tất cả các cảm thọ; muốn cho tâm mình được thanh thản, an vui thì phải sống trong giới luật đức hạnh của Phật giáo; muốn sống trong giới luật đức hạnh thì phải dùng đức chánh tư duy.

Bởi muốn tu chứng đạo hay muốn làm một việc lớn thành công đều phải bằng thiện pháp, tức là sống trong giới luật đức hạnh; sống trong giới luật đức hạnh đều phải có sự tư duy suy nghĩ chín chắn. Nếu không có sự tư duy suy nghĩ chín chắn thì việc làm sẽ là một việc làm bất thiện, một việc làm đau khổ cho mình, cho người.

Chúng ta hãy xem một người làm giàu có, có cơ sở sản nghiệp vĩ đại đều nhờ vào sự tư duy suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi bắt tay vào việc làm. Nhưng việc làm ác hay thiện đều do chánh tư duy hay tà tư duy.

Lời dạy trên đây là lời dạy ĐỨC CHÁNH TƯ DUY HIẾU SINH Ý HÀNH của người mẹ để giúp con mình vượt qua những khó khăn, gian nan trong bất cứ mỗi lãnh vực nào trong cuộc đời.

Chúng ta là những tu sĩ Phật giáo thì ĐỨC CHÁNH TƯ DUY HIẾU SINH Ý HÀNH rất cần thiết cho sự tu tập của chúng ta. Nhờ nó tâm chúng ta mới vô lậu; nhờ nó chúng ta mới rèn luyện đức hiếu sinh mọi hướng.

Muốn có được đức Chánh Tư Duy thì phải học tập những gương hạnh trong Tam Quy, 5 đức trong Ngũ Giới, 10 hạnh lành trong Thập Thiện, 8 oai nghi tế hạnh trong Tám Giới. Đó là những đức hạnh cơ bản nhất mà người tu sĩ Phật giáo nào cũng cần phải học tập và rèn luyện nhân cách của mình. Đức Chánh Tư Duy bao gồm những đức hạnh đó, nên khi nó tư duy hay suy nghĩ một điều gì thì đều nằm trong những đức hạnh đó.

Một người có đầy đủ ĐỨC CHÁNH TƯ DUY HIẾU SINH Ý HÀNH thì phải thông suốt gương hạnh trong Tam Quy, 5 đức trong Ngũ Giới, 10 hạnh lành trong Thập Thiện, 8 oai nghi tế hạnh trong Tám Giới. Có thế thì tâm người ấy mới vô lậu hoàn toàn. Bởi vậy người tu sĩ Phật giáo cần phải học tập và rèn luyện đức hạnh giới luật nhiều hơn nữa thì mới mong chứng đạt chân lý.

Trả lời câu hỏi 47:

Đừng quá tự dằn vặt hay nuối tiếc những gì đã qua, về những gì con đã làm”. Câu này dạy THIẾU ĐỨC AN ỦI HIẾU SINH Ý HÀNH.

Trong cuộc đời khi gặp phải một sự thất bại về công ăn việc làm, cũng như gặp phải những tai nạn mất mát làm cho tâm hồn tan nát. Lúc bấy giờ, chúng ta đừng tự dằn vặt mình trong tâm trạng khổ đau đó, mà hãy tự an ủi mình. An ủi mình để tâm được bình tĩnh và sáng suốt nhìn mọi việc, mọi pháp thấy như thật vô thường, khổ, vô ngã của nó.

Ngày hôm nay nó như vầy, ngày mai nó sẽ khác, chứ không bao giờ có pháp nào đứng yên một chỗ đâu, luôn luôn thay đổi liên tục.

Vì thế, khi thấy có lỗi hay làm sai một điều gì thì phải mau mau cố gắng sửa lại, hàn gắn lại, làm cho cuộc sống ngày càng có đạo đức tốt đẹp hơn.

Người tu hành theo Phật giáo chúng ta cần phải sống với đức tự an ủi mình để tâm mình vững vàng, bình tĩnh trước những chướng ngại pháp, trước những nghịch cảnh, trước những khó khăn, gian khổ.

Cứ mỗi lần có việc gì khó khăn, đau buồn, khó giải quyết là chúng ta đã tự mình dằn vặt mình, làm cho mình phải chịu thêm nhiều khổ đau hơn. Đó là một điều rất sai, rất sai mà người ở đời thường hay vấp phải.

Người có Chánh Tri Kiến bao giờ gặp chướng ngại pháp họ đều buông xả liền, bằng những đức hạnh tự an ủi mình như trên chúng ta đã học.

Biết các pháp đều vô thường, khổ, vô ngã, không có pháp nào là thường hằng bất biến không đổi thay, thì ngay đó là chúng ta thoát khổ, bởi chúng ta buông xuống các ác pháp rất dễ dàng.

Đạo Phật có một lối tư duy tuyệt vời, đó là tư duy trong đạo đức nhân bản - nhân quả, cho nên không có pháp ác nào mà nó không buông xả được.

Đạo Phật có một hàng rào chánh tư duy đức hiếu sinh, vì thế mỗi ác pháp đến với nó đều bị hóa giải, chuyển thành thiện pháp ngay liền.

Từ những tâm tham, sân, si, mạn, nghi, mà có chánh tư duy đức hiếu sinh xen vào thì những tâm kia đều bị diệt trừ ngay tức khắc.

Chánh Tư Duy là một pháp an ủi đệ nhất, nó giải trừ tất cả mọi sự khổ đau của con người thế gian.

Trả lời câu hỏi 48:

Không vấp ngã trong cuộc sống là một điều tốt, nhưng vấp ngã mà đứng dậy đi vững vàng thì là một điều càng tốt hơn”. Câu này dạy ĐỨC SỬA LỖI HIẾU SINH Ý HÀNH.

Người tu hành càng gặp nhiều chướng ngại pháp mới biết được mình, mới sửa sai những lỗi lầm. Chứ không phải mỗi lần gặp chướng ngại pháp, hoặc mỗi lần có làm sai điều gì thì cứ tìm cách che đậy, đó là tự mình làm khổ lấy mình, tự mình dằn vặt lấy mình mà không giải quyết được những gì, lại còn thêm làm mình khổ đau.

Biết lỗi mà sửa lỗi điều đó là một điều tốt đẹp, điều đó là một bước tiến trên đường đạo.

Nếu ngày ngày biết sửa những lỗi lầm của mình, đó là rèn luyện nhân cách để trên đường đạo càng tiến gần trong nền đạo đức nhân bản - nhân quả.

Biết sửa lỗi là biết khắc phục tâm mình đi trong lãnh vực đạo đức làm người. Cho nên vấn đề sửa lỗi rất quan trọng trong Phật giáo.

Biết sửa lỗi là tự dẫn dắt mình từ phàm phu trở thành những bậc Thánh Hiền, cho nên trong đạo Phật dạy: “THẤY LỖI MÌNH ĐỪNG THẤY LỖI NGƯỜI”. Thấy lỗi mình, mình mới có sửa đổi, còn thấy lỗi người thì lấy đâu mà sửa lỗi mình. Người thấy lỗi mình là người sống trong chánh tư duy, còn thấy lỗi người là người sống trong tà tư duy. Người sống trong tà tư duy là người hay làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Người sống trong chánh tư duy là người đem lại sự an vui cho mình, cho người và cho tất cả mọi sự sống trên hành tinh này.

Bởi vậy tà tư duy rất tai hại, khiến cho mọi người đau khổ lại càng đau khổ hơn nữa.

Câu nói rất ngắn gọn nhưng ý nghĩa đạo đức nhân bản của nó rất đầy đủ: “THẤY LỖI MÌNH ĐỪNG THẤY LỖI NGƯỜI”, thật tuyệt vời.

Hỡi các tu sinh trong tu viện Chơn Như! Chúng ta hãy sống như lời Phật dạy: “THẤY LỖI MÌNH ĐỪNG THẤY LỖI NGƯỜI”, đó là một đức hạnh cao thượng tuyệt vời. Ngày ngày nên áp dụng đức hạnh này vào đời sống để lúc nào chúng ta cũng có một niềm hoan hỷ, an lạc và hạnh phúc vô cùng.

Tại sao người ở đời lại thấy lỗi người khác mà không thấy lỗi mình? Tại vì họ không thấy sự khổ đau, họ ôm đau khổ mà không biết mình khổ. Ví dụ:

Mình nói không thật mà mình không biết mình nói không thật thì điều đó vô lý. Nhưng biết lời nói không thật là lời nói sai, là lời nói làm mất uy tín, vậy mà sao lại không chịu sửa, không chấm dứt đừng nói nữa có phải đạo đức hơn không? Cho nên biết mình làm sai thì nên ngăn chặn liền, chứ không ngăn chặn, cứ để làm sai là một người vô minh hết chỗ nói; là một người ngu si cứ để mình làm sai trái, làm mất giá trị con người của mình. Hành động nói không thật là một hành động tệ hại làm mất uy tín mình rất lớn, người ta tưởng mình nói không thật mà người khác không biết hay sao? Nói ra là người ta biết ngay liền, nhưng người ta không nói ngay trước mặt mình là vì lịch sự, chứ họ xem rẻ mình lắm, bất tín nhiệm lắm. Một người nói không thật là một tai hại rất lớn cho đời sống của mình.

Nói lời hung dữ, dùng lời nói xấu người, nói lời thêu dệt, nói lời lật lọng, nói lời li gián đều là những người không thấy lỗi mình.

Trả lời câu hỏi 49:

Cuộc đời ai cũng có lần vấp ngã - sau mỗi lần vấp ngã, sai lầm, người ta sẽ có được kinh nghiệm sống quý giá hơn”. Câu này dạy ĐỨC KINH NGHIỆM HIẾU SINH Ý HÀNH.

Cứ mỗi lần sửa sai những lỗi lầm của mình là mỗi lần có kinh nghiệm. Những kinh nghiệm như vậy được gọi là ĐỨC KINH NGHIỆM HIẾU SINH Ý HÀNH.

Người nào luôn luôn biết sống với những kinh nghiệm đức hiếu sinh ý hành thì thân tâm họ được an lạc và thanh thản, không có một ác pháp nào tác động vào thân tâm họ được. Họ là người sống bất động tâm.

Mục đích của đạo Phật là sống thanh thản, an lạc và vô sự, cho nên tất cả các ác pháp đến với họ đều được chuyển đổi, hóa giải trở thành thiện pháp. Thân tâm họ thanh tịnh và vô lậu hoàn toàn. Họ là người đang sống như mọi người, nhưng họ đang ở trong Niết Bàn. Nói Niết Bàn là nói theo danh từ kinh sách, chứ thật sự họ là những người phi thường, phi thường vì không còn tâm tham, sân, si, mạn, nghi như nguời thế gian; phi thường vì tâm họ không còn lăng xăng tham đắm bất cứ một vật gì trên thế gian này; phi thường vì tâm họ không còn ô nhiễm bởi những pháp dục trên thế gian này; phi thường vì họ biết sống với lòng yêu thương rộng lớn như trời biển đối với tất cả chúng sinh; phi thường vì tâm họ bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; phi thường vì tâm họ không phóng dật chạy theo sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; phi thường vì mọi người còn thấy lỗi người còn họ chỉ thấy lỗi mình; phi thường vì đời sống của họ trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không. Cho nên thấy họ tầm thường nhưng họ phi thường, vì giới luật đức hạnh là họ và họ là giới luật đức hạnh.

Tất cả những sự sống phi thường trên đây đều nhờ vào giới luật đức hạnh của Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, Bát Quan Trai Giới.

Các tu sinh phải nhớ những điều này để thực hiện một đời sống giới luật đức hạnh. Bởi vậy chỉ có giới luật đức hạnh mới tìm thấy con đường giải thoát của Phật giáo. Các tu sinh đừng lầm giới luật đức hạnh là giới luật đức hạnh, thiền định là thiền định. Không phải vậy đâu. GIỚI LUẬT LÀ THIỀN ĐỊNH, thiền định được sinh ra từ trong giới luật đức hạnh.

Là một tu sĩ Phật giáo, nghe đến giới luật đức hạnh của Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, Bát Quan Trai Giới, không có ai mà không biết, nhưng sống được với các giới cho nghiêm túc là một việc làm không phải dễ dàng. Cho nên chúng ta hằng ngày phải học tập cho thấm nhuần giới luật đức hạnh, và luôn luôn còn phải nhớ rèn luyện nhân cách của mình bằng những giới luật đức hạnh này thì có ngày mới trở thành con người thật là con người.

Con người khi sinh ra đều mang bản chất của loài động vật, lớn lên nhờ học và sống trong giới luật đạo đức thì mới thật sự là con người. Nhưng bản chất giới luật đức hạnh của những con người này là bản chất đạo đức của NGŨ GIỚI, nên rất dễ nhận xét họ. Còn với mọi người thế gian thì bản chất loài động vật vẫn còn sót lại không mất.

Chúng ta cũng như mọi người, vì vậy chúng ta cố gắng tu học 5 đức hạnh của NGŨ GIỚI và thường xuyên áp dụng vào đời sống hằng ngày. Do nỗ lực tu học như vậy, bản chất của loài động vật sẽ buông xuống sạch.

Con người có đầy đủ 5 giới luật đức hạnh này là con người Thánh Thiện; là những con người đem lại cho loài người một sự bình an, yên vui và hạnh phúc, biến hành tinh này thành hiện thực là một hành tinh đầy lòng yêu thương.

Cho nên Ngũ Giới rất quan trọng cho kiếp sống của loài người, thế mà loài người xem thường Ngũ Giới không chịu tu học, không chịu rèn luyện. Vì thế con người xa dần Ngũ Giới: HIẾU SINH, LY THAM, CHUNG THỦY, THÀNH THẬT, MINH MẪN, và tiến dần đến với các ác pháp tham, sân, si, mạn, nghi. Bỏ Ngũ Giới, con người càng chuốc thêm mọi sự khổ đau, càng xa lìa bản chất con người và tiến gần bản chất loài thú vật.

Nhờ có đức Phật ra đời khai mở NGŨ GIỚI đức hạnh, làm thay đổi con người độc ác thành những con người hiền lương nhân hậu tuyệt vời.

Được sinh làm người được gặp chánh pháp của Phật đâu phải là một việc dễ? Thế mà có người không biết trân trọng quý kính, lại xem thường giới luật đức hạnh chánh pháp của Phật, nên đành lòng chịu một đời mang bản chất của loài động vật, thọ biết bao nhiêu là sự khổ đau. Thật đáng thương thay!

Trả lời câu hỏi 50:

Không ai đánh giá một giai đọan vừa qua như một cách sống của con cả. Điều quan trọng là cách con vượt qua; là cuộc sống sau này của con sẽ thế nào. Tất cả tùy thuộc vào con”. Câu này dạy ĐỨC TÙY THUỘC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Khi vào lớp học đạo đức hiếu sinh thân, khẩu, ý hành, chúng ta nhận xét: Giới luật đạo đức là một pháp môn xả tâm tuyệt vời, giúp chúng ta có đủ năng lực làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Khi nhận xét đúng như vậy, nhưng khi chúng ta muốn áp dụng thực hành giới luật đức hạnh hay bất cứ một pháp môn nào thì đều TÙY THUỘC vào chúng ta cả. Nếu chúng ta không TỰ TIN mình thì cũng khó mà đạt được mục đích. Cho nên ĐỨC TÙY THUỘC vào chúng ta để tu tập giới luật đức hạnh rất quan trọng.

Học giới luật đức hạnh thì dễ dàng, nhưng sống được với giới luật đức hạnh là một điều khó như trên đã nói. Nếu chúng ta không biết lấy giới luật đức hạnh làm chỗ nương tựa vững chắc cho mình, thì sự tu hành của chúng ta cũng khó thành công.

Cho nên một người tu tập để tâm được vô lậu là phải tự tin nơi giới luật đức hạnh, lấy giới luật đức hạnh làm hòn đảo; lấy giới luật đức hạnh làm chỗ nương tựa vững chắc cho mình. Giới luật đức hạnh còn là mình còn, giới luật đức hạnh mất là mình mất.

Biết rõ như vậy, thì ngay từ bây giờ chúng ta học giới đức hiếu sinh là áp dụng vào đời sống hằng ngày như đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, ăn uống, ngủ nghỉ; làm tất cả mọi việc như đi khất thực, đi về thất, ngồi ăn cơm, uống nước hoặc ngồi chơi hay nằm đều phải áp dụng giới đức hiếu sinh. Có tu hành được như vậy mới gọi lấy giới luật đức hạnh làm hòn đảo, lấy giới luật đức hạnh làm chỗ nương tựa vững chắc cho mình.

Một người tu hành đúng như vậy thì sáng nghe pháp chiều đã chứng đạo; tối nghe pháp sáng đã chứng đạo. Cho nên sự tu hành đều TÙY THUỘC vào chúng ta, có giải thoát hay không giải thoát còn tùy thuộc vào chúng ta cả. Sự quyết tâm, tự tin nơi mình rất quan trọng, làm được hay không làm được đều tùy thuộc vào chúng ta cả. Nếu chúng ta biết áp dụng đúng phương pháp là chứng đạo ngay liền.

Những điều tu tập trên đây các tu sinh có hiểu không? Có biết lớp học đạo đức NGŨ GIỚI là lớp học đào tạo những người tu chứng quả VÔ LẬU không? Hãy tự tin mình là hòn đảo, là chỗ nương tựa vững chắc trên đường tu tập sẽ làm được như lời dạy trên đây, sẽ đi đến nơi đến chốn giải thoát hoàn toàn. Các tu sinh nên nhớ:

Giới luật đức hạnh là mạng sống của người tu sĩ, giới luật đức hạnh mất là mạng sống người tu sĩ mất.

Trả lời câu hỏi 51:

Con vẫn có thể nghe lời mẹ khuyên, học tập kinh nghiệm từ người khác, từ những câu chuyện con biết được, từ trong sách vở, báo chí, bè bạn và người thân. Nhưng khi chính con trải qua rồi, thì điều đó mới chính thực sự là của con”. Câu này dạy ĐỨC THỰC HIỆN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Dù chúng ta có học cho nhiều giới luật đức hạnh, mà không áp dụng thực hành vào đời sống, thì cái học giới luật đức hạnh đó chẳng có lợi ích gì cho chúng ta. Điều quan trọng ở đây là phải biết áp dụng thực hành vào thân tâm như trên đã nói: Giới luật đức hạnh là mạng sống của mình. Nếu giới luật còn là mạng sống còn, giới luật mất là mạng sống mất. Hiểu biết giới luật đức hạnh quan trọng như vậy, nên giới luật đức hạnh ở đâu là chúng ta ở đó; chúng ta ở đâu là giới luật đức hạnh ở đó. Giới luật đức hạnh làm thanh tịnh chúng ta; chúng ta phải biết áp dụng thực hành làm thanh tịnh giới luật đức hạnh.

Giới luật đức hạnh là hình bóng của chúng ta; chúng ta ở đâu là hình bóng chúng ta ở đó.

Bởi vậy sự tu hành giới luật đức hạnh rất cần thiết, cho nên chúng ta cần phải học kỹ lưỡng, đừng xem thường giới luật đức hạnh.

Từ xưa đến nay, người tu sĩ phần đông coi trọng thiền định và xem thường giới luật, cho nên tu mãi mà không ai chứng đạo quả giải thoát A La Hán.

Xem thường giới luật đức hạnh, nên người tu sĩ nào cũng phạm giới. Do tu hành phạm giới thì làm sao thanh tịnh giới luật được? Mà giới luật không thanh tịnh thì làm sao tâm ly dục, ly ác pháp được, vì vậy mọi người tu hành ngàn đời muôn kiếp cũng chẳng đi đến đâu cả, thật là uổng phí một đời tu hành mà chẳng ra gì? Thật đáng thương thay! Như trên đã nói, giới luật là mạng sống của tu sinh, nếu tu sinh lìa giới luật là lìa mạng sống; lìa mạng sống là như chết chưa chôn. Các tu sinh có biết chưa? Chỉ vì các tu sinh không nghe lời dạy bảo của thầy, phá giới hạnh độc cư, khiến cho thầy phải rời bỏ tu viện.

Bây giờ các tu sinh học giới luật đức hạnh, chỉ ở trên giới luật đức hạnh lý thuyết suông mà không chịu thực hành thì đừng trách thầy đóng cửa và giải thể các lớp học. Thầy sẽ vào Niết Bàn, chứ ở lại đây có làm ích lợi gì cho ai đâu! Các tu sinh nên nhớ: Giới luật của các tu sinh mất là các tu sinh sẽ mất thầy. Thầy sẽ từ giã các tu sinh đi vào cõi vĩnh hằng.

Trả lời câu hỏi 52:

Có khi thử thách nghiệt ngã và khó khăn như một điều may mắn, vì người ta lớn lên, trưởng thành thực sự chính bằng kinh nghiệm và nghị lực đối đầu với khó khăn. Chứ không ai trưởng thành lên chỉ bằng lý thuyết hay kinh nghiệm của người khác”. Câu này dạy ĐỨC NGHỊ LỰC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Chỉ có giới luật đức hạnh mới chuyển đổi được nhân quả thiện ác, nhưng nếu đứng trước nhân quả nghiệp báo quá nặng nề, mà chúng ta không có kinh nghiệm trong giới luật đức hạnh, thì cũng khó khăn cho chúng ta giữ gìn giới luật và đức hạnh nghiêm túc trọn vẹn. Muốn giữ gìn giới luật nghiêm túc và đức hạnh trọn vẹn, thì chúng ta phải có đầy đủ nghị lực.

Ví dụ: Muốn từ bỏ giết hại và ăn thịt chúng sinh, để thể hiện đức hiếu sinh chuyển đổi những nghiệp quả khổ đau, gia đình bất an, v.v.. mà không có nghị lực thì không thể nào ăn chay được. Ăn chay không được thì làm sao chuyển đổi nhân quả nghiệp báo ác độc được.

Khi chúng ta quyết định ăn chay, không giết hại và ăn thịt chúng sinh nữa, thì nghiệp quả ác không để chúng ta yên ổn. Cho nên khi ăn chay thì nghiệp ác đổ ra ngăn cản khiến cho thân bệnh đau, tai nạn xảy ra, rồi đến gia đình vợ con, cha mẹ, anh em, chị em cản ngăn, khóc than bàn ra, nói vào không cho chúng ta ăn chay. Khi chúng ta về sống với thiện pháp ăn chay thì trường hợp này thường xảy ra. Nếu ai không có nghị lực, không gan dạ trong lúc này thì không thể nào ăn chay được. Người quyết sống trong đạo đức hiếu sinh, nhất định thà chết không ai cản ngăn được, và bệnh đau chết bỏ chứ không chấp nhận ăn thịt chúng sinh nữa.

Người như vậy mới là người có đức nghị lực hiếu sinh thân hành.

Ví dụ: Khi ăn chay được rồi, bây giờ tiếp tục ăn ngày một bữa thì chúng ta còn gặp biết bao nhiêu trở ngại như: Cơ thể sụt cân, gầy ốm rồi bệnh đau, rồi người thân và bác sĩ cản ngăn.

Tất cả mọi sự trở ngại xảy ra khiến chúng ta khó thực hiện sống giới luật đức hạnh ăn ngày một bữa được. Nếu chúng ta không gan dạ, không nghị lực kiên quyết thì chúng ta không bao giờ thực hiện được giới luật đức hạnh. Cho nên người tu hành phải biết rút ra từ những kinh nghiệm bản thân của mình, rồi áp dụng đạo đức hiếu sinh trong cuộc sống hằng ngày một cách có ý chí, có quyết tâm và đầy đủ nghị lực thì mới mong sống một đời sống giới luật đức hạnh của Phật.

Một người tu hành Phật giáo phải có nghị lực để vượt qua những lúc khó khăn, những ác pháp cản trở. Nếu thiếu nghị lực, khi gặp khó khăn thì liền chùn bước ngay, liền đầu hàng ác pháp. Vậy muốn có nghị lực thì chúng ta phải làm sao? Muốn có nghị lực, thì chúng ta nên tập luyện pháp môn CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC: ĐI MƯỜI BƯỚC NGỒI XUỐNG KIẾT GIÀ HAY BÁN GIÀ, HÍT THỞ NĂM HƠI THỞ RỒI ĐỨNG LÊN TIẾP TỤC ĐI KINH HÀNH MƯỜI BƯỚC NỮA, VÀ CỨ NHƯ THẾ TIẾP TỤC TU TẬP TỪ 30’ ĐẾN 1 GIỜ.

Người nào chịu khó tu tập như trên đã dạy là sẽ có đầy đủ nghị lực. Vì sự đứng lên ngồi xuống làm cho người tu hành rất cực nhọc, mà khi vượt qua những sự cực nhọc khó khăn đó là người ta phải có nghị lực, phải bền chí, phải kiên gan, phải nhẫn nại, v.v...

Bởi sống đúng giới luật đạo đức không phải là một việc dễ làm, bằng chứng tại Tu Viện chỉ có sáu giới đức: ăn, ngủ, độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Vậy mà tất cả tu sinh không đủ nghị lực, không kiên gan, bền chí sống với những đức hạnh này, hầu hết người nào cũng vi phạm. Xem thế mới biết nghị lực của họ không có. Nghị lực không có thì con đường tu tập rất khó chứng đạo.

Trả lời câu hỏi 53:

Trong bất kỳ thời điểm nào, con hãy trân trọng với những gì đang có, và hãy cảm nhận mọi khía cạnh của cuộc sống”. Câu này dạy ĐỨC TRÂN TRỌNG HIẾU SINH Ý HÀNH.

Mỗi pháp tu hành của Phật chúng ta đều phải trân trọng, xem như là vật quý báu nhất trên đời của chúng ta thì sự tu hành của chúng ta mới cẩn thận, kỹ lưỡng; thì kết quả mới thành công mỹ mãn.

Bởi vậy, ĐỨC TRÂN TRỌNG HIẾU SINH Ý HÀNH rất cần thiết cho sự tu tập của chúng ta.

Ví dụ: Hôm nay chúng ta học giới đức hiếu sinh ý hành, do đó chúng ta phải biết trân trọng mỗi sự suy nghĩ của mình, vì mỗi sự suy nghĩ đều mang đầy đủ tính đạo đức nhân bản, tức là chánh tư duy; còn nếu chúng ta không trân trọng sự suy nghĩ của mình thì chúng ta sẽ suy nghĩ trong tà tư duy. Suy nghĩ trong tà tư duy là đánh mất đức hiếu sinh ý hành.

Người tu hành phải biết trân trọng sự tư duy suy nghĩ ý hành, nhờ đó nó sẽ giúp chúng ta suy tư một cách chín chắn, suy tư một cách cẩn thận, kỹ lưỡng. Chính nhờ đó chúng ta mới thực hiện đức hiếu sinh trong tất cả mọi hướng, mọi pháp.

Trên đây là sự trân trọng đối với pháp môn tu hành, còn trân trọng đối với mọi người thì sao? Để thực hiện đức hiếu sinh đối với mọi người thì chúng ta đều phải có sự trân trọng.

Nếu sự trân trọng đối với mọi người không có thì lòng yêu thương chỉ là lòng yêu thương một hướng, chứ không có lòng yêu thương nhiều hướng. Cho nên đức hiếu sinh lúc nào cũng đi kèm theo đức trân trọng, có đức trân trọng thì có đức hiếu sinh.

Chúng ta là những người học đức hạnh hiếu sinh thì lúc nào cũng phải xử dụng đức trân trọng, cung kính với những người khác bằng ý hành, thân hành và khẩu hành.

Một người chửi mắng mình, nói xấu, mạ nhục mình, mình cũng nên trân trọng cung kính người ấy. Tại sao vậy? Tất cả những lời nói ác kia, đều là những lời nhắc nhở chúng ta phải trân trọng răn nhắc mình đừng để chúng ta sai phạm theo những lời nói ác đó. Và chúng ta cũng cần tự răn mình đừng nói những lời ác như vậy, vì lời nói như vậy không xứng đáng là người học đạo đức; nói những lời ác như vậy sẽ làm khổ mình, khổ người. Người học đạo đức cần nên tránh nói những lời ác đó, vì những lời ác đó sẽ làm khổ thân mình; vì mình trở nên người hung dữ, người không thiện, người thiếu đức hạnh hiếu sinh.

Người tu học đạo đức hiếu sinh bao giờ cũng trân trọng quý kính tất cả mọi người, dù người hung ác hay người thiện. Người hung ác sẽ cho chúng ta một bài học hung ác, người hiền lương sẽ cho ta một bài học đạo đức hiếu sinh. Bài học hung ác cũng như bài học đạo đức hiếu sinh đều giúp chúng ta trên con đường tu tập đến chỗ giải thoát hoàn toàn. Bài học hung ác giúp chúng ta sống không làm theo, và ngăn chặn diệt trừ các ác pháp đó không cho xâm chiếm vào tâm; còn bài học đạo đức hiếu sinh thì chúng ta làm theo và thực hiện sống trong cuộc sống hằng ngày như hình với bóng.

Cho nên dù ác pháp hay thiện pháp, người tu học đạo đức hiếu sinh đều trân trọng quý kính, nhưng sáng suốt biết cần theo pháp nào hay không theo mà còn ngăn và diệt. Nhờ thế đối với người ác chúng ta không giận hờn, mặc dù họ chửi mắng, nói xấu, nặng lời, mạt sát, mạ lị, vu oan chúng ta, nhưng chúng ta vẫn thấy thương họ và thương họ nhiều hơn, vì họ là những người ân nhân giúp chúng ta vượt ra khỏi những ác pháp và cũng không bị sai phạm theo những pháp ác đó.

Trả lời câu hỏi 54:

Con đừng quy kết cho số phận, mà hãy cố hết sức mình”. Câu này dạy ĐỨC GẮNG SỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Trong cuộc đời này không có số phận, số mệnh, mà chỉ có nhân quả thiện ác, nhưng nhân quả thiện ác sẽ chuyển đổi được. Muốn chuyển đổi nhân quả phải ngăn chặn và diệt trừ ác pháp, luôn luôn lúc nào cũng tăng trưởng những thiện pháp, tức là chúng ta phải sống đúng giới luật đạo đức. Sống đúng giới luật đạo đức là sống với đức hiếu sinh; sống với đức hiếu sinh là sống bằng những hành động thiện lành đối với muôn loài muôn vật, bằng những hành động thương yêu và tha thứ đối với mọi nguời, không phân biệt thân sơ.

Muốn được vậy thì phải cố gắng sống trong thiện pháp, không nên lìa thiện pháp.

Cho nên số phận hay số mệnh là do những người tiêu cực khi đứng trước các pháp ác, gặp việc gian nan, khó khăn không dám đương đầu, mới đặt ra số phận, số mệnh để tránh né, trốn chạy hay che dấu những hành động hèn kém, nhút nhát của mình.

Người tu sĩ Phật giáo không bao giờ tin có số phận hay số mệnh, mà tin có nhân quả và tin rằng mình sẽ làm thay đổi nhân quả. Do đó, nhờ sự hiểu biết cương quyết này, người tu sĩ Phật giáo làm thay đổi thế giới này một cách dễ dàng? Người tu sĩ Phật giáo biết rất rõ các pháp trên thế gian này có mặt là do duyên hợp theo qui luật nhân quả mà sinh ra, và cũng do qui luật nhân quả duyên tan mà diệt mất.

Sinh diệt, tan hợp là những hiện tượng vô thường thay đổi của các pháp, của vạn vật.

Vậy mà bảo rằng có số phận và số mệnh thì làm sao đúng được, phải không quý tu sinh? Vì thế tất cả những sự bói khoa, chiêm tinh, dịch số không thể đoán đúng được, nó là những tư tưởng tiêu cực, mê tín xa lìa thực tế, xa lìa nhân quả.

Biết được các pháp vô thường hay thay đổi từng sát na liên tục, nên chúng ta có thể làm thay đổi cả vụ trụ thế gian này. Dù mưa không thuận, gió không hòa, thiên tai, lũ lụt, hạn hán, bão tố, sóng thần, động đất, v.v...

Mà muốn cho mưa thuận, gió hòa; muốn thiên tai, lũ lụt, hạn hán, bão tố, sóng thần, động đất, v.v.. chấm dứt, và đem lại sự bình an cho hành tinh này thì chúng ta dựa vào qui luật nhân quả hành thiện là sẽ chuyển đổi được những nhân quả nghiệp báo xấu ác, khổ đau. Nhờ đó chúng ta mới đem lại sự bình an, yên vui, hạnh phúc cho sự sống trên hành tinh này.

Những hành động thiện lành là giới luật đức hạnh. Giới luật đức hạnh là một sự sống làm thay đổi thế giới và vũ trụ, nhưng nó là một sự sống đi ngược lại với những gì mà con người đang sống. Con người đang sống là đang chạy theo dục lạc thế gian, nên làm tất cả mọi điều ác, thường làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Cho nên muốn sống đúng giới luật đức hạnh là một việc khó làm. Nói khó là nói theo nghiệp lực của mọi người đã từng sống và tạo thành những thói quen độc ác như: huân tập hằng ngày giết hại và ăn thịt chúng sinh; huân tập lòng ái dục, cái gì cũng muốn cho riêng mình; huân tập tâm tham, sân, si, mạn, nghi, nên đời sống luôn luôn giận hờn, phiền não, tham ăn, tham uống, nghi ngờ chuyện này, chuyện khác; nghi ngờ người này người khác; kiêu căng ngã mạn cống cao, cho mình là trên hết.

Do những hành động tham, sân, si, mạn, nghi mà con người tạo ra vô vàn biết bao tội ác làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.

Trả lời câu hỏi 55 và 56:

Con chớ quên tình cảm luôn là nguồn động viên lớn nhất. Con đừng quên những điều bình dị, những nơi chốn thân thương từng gắn bó với tuổi thơ của mình, những kỷ niệm đẹp, cả những người bạn mà không còn gặp lại”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.

Trong cuộc đời này, muốn vượt qua tất cả mọi sự khó khăn, mọi sự gian nan thử thách thì chỉ có tình yêu thương. Tình yêu thương đến đâu thì tất cả mọi ác pháp và mọi sự đau khổ đều tan biến, như ánh sáng mặt trời soi rọi đến đâu thì bóng đêm sẽ tan biến đến đó.

Điều khó nhất là chúng ta phải làm sao giữ gìn trọn vẹn lòng yêu thương với mình, với mọi người và với tất cả chúng sinh. Mọi người nói đến đức hiếu sinh thì ai nói cũng được, nhưng khi sống với nó thì sao mọi người thấy khó vô cùng.

Thấy đức hiếu sinh khó là vì chúng ta chưa hiểu đức hiếu sinh. Các tu sinh có thấy nó khó không? Thấy nó khó là các tu sinh chưa hiểu nó cho rõ ràng. Chứ hiểu nó không khó đâu, chúng tôi sẽ cho một vài ví dụ thì tất cả mọi người sẽ hiểu dễ dàng.

Ví dụ: Thấy một cành hoa mai nở vàng trông rất đẹp, muốn có cành mai đó để làm đẹp phòng khách, nhưng khi cầm nhành mai không nỡ tâm bẻ nó, nên ngắm nghía cành hoa mai một lúc rồi ra về. Hành động không nỡ bẻ cành mai là đức hiếu sinh, như vậy đức hiếu sinh đâu gì khó hiểu. Phải không quý vị? Ví dụ: Từng mỗi bước đi quý vị đều chú ý kỹ lưỡng tránh không giậm đạp lên những chúng sinh ở dưới chân, đó là đức hiếu sinh thân hành. Như vậy có khó hiểu không? Ví dụ: “Thưa Thầy! Thiện Quang xin sám hối những lỗi lầm phá hạnh độc cư, từ nay về sau Thiện Quang sẽ quyết không làm lỗi đó nữa”, đó là đức hiếu sinh khẩu hành, các tu sinh thấy có khó không? Chỉ một lời xin lỗi là thực hiện được đức hiếu sinh rồi, có gì khó hiểu đâu? Ví dụ: Hôm nay sao lại nhức đầu và chóng mặt, Minh Thiện tác ý: “Thọ là vô thường, lúc nãy không đau bây giờ đau, bây giờ đau thì một lúc nữa sẽ không đau. Minh Thiện sẽ tréo chân lên ngồi kiết già, lưng thẳng, nhiếp tâm vào hơi thở ra, vô, và cho tất cả cảm thọ sẽ bị diệt ngay”. Tác ý và ngồi kiết già nhiếp tâm trong hơi thở, đó là đức hiếu sinh khẩu hành và thân hành.

Ví dụ: Người ta chửi mình mà mình không giận, không buồn mà còn khởi lòng thương yêu người chửi mình thì đó là đức hiếu sinh ý hành. Như vậy sống đạo đức đâu có khó khăn gì, phải không các tu sinh? Người ta nói xấu mình với người khác, người khác nói lại cho mình nghe, nhưng mình không giận không ghét, mà còn tìm mọi cách giúp đỡ và có vật gì đều ban cho họ bằng một tình thương yêu chân thật. Như vậy đức hiếu sinh đâu có gì khó hiểu đâu.

Cho nên mỗi thân hành, khẩu hành và ý hành không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, đó là tình thương yêu đang sống trong lòng chúng ta và đang sống trong lòng mọi người. Cho nên thương yêu bằng hành động là lòng thương yêu chân thật.

Tình cảm bi lụy khóc than là một thứ tình cảm làm khổ mình, khổ người và làm khổ cả hai. Đó là thứ tình cảm thuộc tà tri kiến, loại tình cảm này phải chấm dứt ngay liền, phải triệt tiêu chúng. Còn có một loại tình cảm bằng chánh tri kiến, đó là thứ tình cảm bắt nguồn từ lòng yêu thương chân thật, từ lòng tha thứ, từ sự hối hận những điều làm ác của mình.

Chúng ta là những tu sĩ Phật giáo, hãy cố gắng sống đúng đức hiếu sinh trong cuộc sống hằng ngày thì con đường tu tập của Phật giáo sẽ tìm thấy sự giải thoát ngay. Chỉ có đức hiếu sinh mà ai sống trọn vẹn thì chứng đạo ngay liền, đâu cần phải tu tập pháp môn gì nữa cả.

Đức hiếu sinh này là mình và mình là đức hiếu sinh thì người tu hành đã chứng quả vô lậu A La Hán rồi. Chứng đạo đến đây thì có đủ Tứ Thần Túc làm chủ bốn sự khổ đau và chấm dứt sinh tử luân hồi, đó là sự giải thoát ngay liền.

Muốn được như vậy thì ngay từ bây giờ các tu sinh hãy áp dụng đức hiếu sinh vào cuộc sống, từ sự tiếp giao với mọi người; từ sự đi đứng, nằm, ngồi, ăn, ngủ, nói, nín, đều thể hiện đức hiếu sinh, không được lơi lỏng. Phải luôn luôn nhớ kỹ từng hành động thân, miệng, ý mà thực hiện đức hiếu sinh.

Có áp dụng đức hiếu sinh được như vậy thì mới thấm nhuần, mới thành một thói quen; có như vậy đức hiếu sinh là mình và mình là đức hiếu sinh. Nếu không áp dụng vào đời sống hằng ngày thì học đạo đức chỉ là học đạo đức hiếu sinh lý thuyết suông mà thôi.

Cho nên đức hiếu sinh là mình và mình là đức hiếu sinh thì phải thực hành từng phút, từng giây không được biếng trễ, không được bỏ lãng phí những phút giây nào cả.

Trả lời câu hỏi 57:

Những câu chuyện từng làm con xúc động sâu sắc. Tất cả những điều đó tưởng chừng sẽ làm đau con hơn, nhưng chính những điều đó sẽ giúp con vượt qua khó khăn bằng đôi chân và tâm hồn của chính mình”. Câu này dạy TÍNH XÚC ĐỘNG HIẾU SINH Ý HÀNH.

Những bài học trong giáo án đã từng làm tu sinh xúc động, chính những bài học đó đã gây một xúc động sâu sắc, đánh thức lòng thương yêu của chúng ta, khiến cho chúng ta khó quên, nhờ đó không thực hành đức hiếu sinh mà đã thực hành đức hiếu sinh; nhờ đó tự nó thấm nhuần vào tận tâm hồn của chúng ta và biến ra hành động hiếu sinh phản ứng một cách tự nhiên.

Cho nên những câu chuyện đạo đức từng làm xúc động tâm mọi người là những bài học đạo đức tuyệt vời.

Khi biên soạn giáo trình hay giáo án thì cũng nên chọn đề tài phải thực tế, thường xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của mọi người, bài học phải sống động gây cảm xúc cho mọi người để nêu cao đức hiếu sinh. Có như vậy đạo đức mới đi sâu vào lòng người.

Chúng ta hãy đọc lại lời người mẹ khuyên con thật là thấm thía: “Những câu chuyện từng làm con xúc động sâu sắc. Tất cả những điều đó tưởng chừng sẽ làm đau con hơn, nhưng chính những điều đó sẽ giúp con vượt qua khó khăn bằng đôi chân và tâm hồn của chính mình”. Đúng vậy, những câu chuyện đạo đức gây xúc động vào lòng người mới là những bài học đạo đức có giá trị. Những bài học giản dị nhưng nó giúp cho chúng ta vượt qua bao nhiêu chướng ngại của ác pháp, nó giúp cho chúng ta thấm nhuần những hành động thương mình, thương người, nhờ đó để xả bỏ những ác pháp như: tham, sân, si, mạn, nghi.

Bởi vậy chỉ có lòng yêu thương mới ly dục, ly ác pháp hoàn toàn; mới đưa chúng ta đến bờ giác ngộ nhanh chóng.

Trả lời câu hỏi 58:

Nên học hỏi từ người khác, nhưng đừng lấy người khác làm thước đo giá trị của mình. Vì con luôn phải là con với tất cả những điều cần hoàn thiện, những điều bình dị và thật riêng của mình”. Câu này dạy ĐỨC TỰ TIN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Tuy những bài học đạo đức rất hay, nhưng chúng ta không biết áp dụng vào đời sống hằng ngày của mình thì những bài học đạo đức kia trở thành một bài học suông không có giá trị đối với bản thân của mình. Cho nên sự áp dụng đạo đức vào bản thân của mình là một điều rất cần thiết, chính vì biết áp dụng vào bản thân nên nó làm thay đổi chúng ta từ một con người phàm phu bình thường; nó sẽ giúp chúng ta trở thành những con người phi thường, những bậc thánh nhân.

Học đạo đức hiếu sinh là chỗ biết ứng dụng vào từng hành động sống hằng ngày, mỗi mỗi đều thị hiện đức hiếu sinh, tức là áp dụng lòng yêu thương vào cuộc sống này thì sẽ đem lại sự bình an vô cùng.

Hỡi các tu sinh! Hãy nhớ những bài học đạo đức hiếu sinh này; hãy lấy nó làm sự sống cho mình; hãy xem nó là một vật quý giá nhất trên đời này; hãy xem nó là một vị thần hộ mạng; hãy xem nó là linh hồn của mình, mất nó là mình mất linh hồn; hãy xem nó là bậc cứu tinh của mình. Hỡi các tu sinh, hãy nhớ lấy những lời dạy này! Cho nên đạo đức hiếu sinh rất cần cho sự sống của loài người, nó như cơm ăn áo mặc, thiếu nó con người sẽ khổ đau vô cùng và chết mất.

Một bằng chứng cụ thể con người đã đánh mất đạo đức, nên thế gian này sống bất an.

Nay chiến tranh nước này, mai chiến tranh nước khác, con người giết con người không gớm tay; con người giết chết muôn loài động vật để ăn thịt, tiếng kêu la thảm thiết khắp nơi trên hành tinh này, ngày nào, giờ nào mà không có tiếng kêu la thảm thiết ấy. Vì con người sống ác như vậy thì bảo sao không có thiên tai, bão lụt, động đất, sóng thần, hạn hán và thời tiết không hòa thuận, khiến mưa gió thất thường, mùa màng mất trắng.

Con người vốn sinh ra trong đau khổ, lại sống trong ác pháp khiến con người đau khổ lại còn đau khổ hơn. Hỡi các tu sinh có nghe thấy điều này chăng?! Đức hiếu sinh của loài người ở đâu? Sao nỡ để cảnh tàn sát giết lẫn nhau (chiến tranh)? Sao lại nỡ giết hại và ăn thịt chúng sinh? Ôi! Đau thương vô cùng! Đã đến lúc chúng ta cần phải quay trở lại với nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và không làm đau khổ chúng sinh.

Trả lời câu hỏi 59:

Vượt qua được nỗi buồn sẽ giúp con tìm ra những giá trị mới mà trước đây con chưa nhận ra”. Câu này dạy ĐỨC VƯỢT QUA HIẾU SINH Ý HÀNH.

Từ lòng yêu thương chúng ta mới vượt qua tất cả ác pháp, nhờ đó chúng ta mới tìm ra ánh sáng chân lý soi rọi lại cuộc đời tăm tối của mình. Đúng vậy, nếu không có ánh sáng chân lý thì cuộc đời chúng ta sẽ trôi lăn trong lục đạo (sáu nẻo), liên tục luân hồi.

Đời người luân hồi từ trạng thái này sang trạng thái khác rất rõ ràng: Có lúc thì làm Trời tâm tính hiền lành thập thiện; có lúc làm A Tu La hung dữ, ghê tợn hơn quỷ la sát; có lúc thì làm Người năm đức rõ ràng, đầy lòng yêu thương và tha thứ; có lúc làm Ngạ Quỷ đói khát khổ sở vô cùng tận; có lúc thì làm loài Bàng Sinh tính tình ích kỷ, hẹp hòi, nhỏ mọn, ti tiện; có lúc thì rơi vào Địa Ngục rên la, đau nhức, khổ sở vô cùng. Trong một ngày một đêm có thể con người luân hồi trong sáu trạng thái như vậy. Cho nên có buồn, có vui, có rên la, có giận dữ, có đói khát, có bệnh tật khổ đau liên tục từ ngày này sang ngày khác, cứ sáu nẻo này luân hồi lặp đi lặp lại. Nếu chúng ta không biết vượt qua thì cuộc đời sẽ chìm đắm trong vô minh mê mờ, trong đau khổ triền miên bất tận.

Còn biết bao nhiêu người không đủ duyên gặp được chánh pháp của Phật, không đủ duyên gặp giới đức hiếu sinh, nên không biết tu tập; không biết sống trong đạo đức hiếu sinh; không vượt qua khỏi sáu nẻo luân hồi, nên đành cam chịu sống trong sáu cảnh giới khổ đau mãi mãi.

Người ta nghĩ tưởng có sáu cõi luân hồi thật sự như: 1- cõi Trời; 2- cõi Người; 3- cõi A Tu La; 4- cõi Ngạ Quỷ; 5- cõi Bàng Sinh; 6- cõi Địa Ngục. Đó là một sự tuởng tượng của con người hiểu qua lời Phật dạy.

Phật dạy sáu cõi luân hồi là sáu trạng thái của một con người, vì thân tâm con người là pháp vô thường nên thay đổi liên tục. Sự thay đổi thường xảy ra trong sáu trạng thái này mà trong kinh gọi là luân hồi.

Luân hồi không có nghĩa là chết đi và tái sinh trở lại mới gọi là luân hồi. Luân hồi là từ trạng thái này chuyển qua trạng thái khác. Khi nhập Tứ Thánh Định, thực hiện Tam Minh, chúng tôi dùng Thiên Nhãn Minh quan sát xem xét vũ trụ, tìm thế giới siêu hình và sáu cõi luân hồi thì chúng tôi chẳng thấy có sáu cõi nào cả, mà chỉ thấy từ trường những trạng thái cảm thọ và những trạng thái tưởng từ con người còn sống lưu xuất phóng ra.

Biết rõ sáu nẻo luân hồi như vậy, nên đức Phật dạy:

Đứng lại thì chìm xuống

Tiến tới thì trôi dạt

Chỉ có biết vượt qua”.

Vậy vượt qua là vượt qua cái gì? Vượt qua là vượt qua sáu cõi luân hồi. Bởi vì con người từ lúc sinh ra cho đến khi lìa đời và tiếp tục tái sinh đều ở trong sáu trạng thái lục đạo này.

Giới luật đạo đức của Phật dạy chúng ta không ngoài mục đích là để vượt qua sáu cảnh giới này. Người nào vượt qua sáu trạng thái này là chứng đạo.

Trong sáu trạng thái này đức Phật chọn cho chúng ta 2 trạng thái thiện, đó là trạng thái cõi Trời (Thập Thiện), và trạng thái cõi Người (Ngũ Giới), để chúng ta dựa vào trạng thái cõi thiện mà vượt qua bốn cõi ác kia. Khi vượt qua bốn cõi ác kia thì chúng ta cũng bỏ luôn hai cõi thiện này, lúc bấy giờ chỉ còn ở trong trạng thái cảnh giới Niết Bàn là tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự.

Bởi ĐỨC VƯỢT QUA HIẾU SINH Ý HÀNH là một đức hạnh tuyệt vời, nó giúp chúng ta tiến vào cõi giới Niết Bàn một cách dễ dàng mà không cần phải tu tập một pháp môn nào khác nữa.

Trả lời câu hỏi 60:

Con đừng mong muốn tất cả mọi người phải hiểu mình, chỉ cần chính con hay một người hiểu là đã đủ cho con rồi”. Câu này dạy ĐỨC TỰ TIN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Con người ở đời rất sợ mọi người chê cười, khinh rẻ, nên làm một điều gì sai trái xấu xa đều che đậy, còn ngược lại, làm một điều gì tốt đẹp thì khoe khoang muốn cho mọi người đều biết, đó là một căn bệnh háo danh của con người từ khi có mặt trên hành tinh này.

Cho nên có ai nói xấu mình thì rất sợ, dù mình có làm hay không làm nhưng vẫn tìm cách phản kháng, chống trả lại hoặc minh oan.

Khi bị người khác nói xấu thì cố gắng biện minh bằng cách này, bằng cách khác, để mọi người hiểu mình là người tốt, người trong sạch. Do hiểu tâm lý này nên người mẹ mới dạy con: “Con đừng mong muốn tất cả mọi người phải hiểu mình, chỉ cần chính con hay một người hiểu là đã đủ cho con rồi”. Lời dạy này rất tuyệt vời! Mình làm ác, làm thiện mình đều biết cả; mình làm gian, làm dối mình đều rõ hơn ai cả. Nếu mình không có làm sai quấy hoặc chuyện xấu xa gì thì mình cũng biết mình rất rõ hơn ai hết, thì cần gì mọi người phải biết!? Ví dụ: Có một người nói mình với ông A làm ăn gian xảo lường gạt người, nhưng mình không có làm những điều gian xảo thì người biết rõ mình hơn ai hết là ông A. Cho nên tất cả những chuyện xấu ác chỉ cần có một người biết rõ mình là đủ.

Người tu hành theo Phật giáo phải cố gắng rèn luyện nhân cách đạo đức giới luật nhân bản, nhất là đức hiếu sinh thường mang lại sự an vui cho mình, cho người.

Trong cuộc đời này, có những người thường hay nói xấu người khác để hạ uy tín, nhưng chúng ta đừng vì danh lợi của thế gian, đừng vì uy tín nhỏ mọn của cá nhân mà tranh luận hơn thua với họ. Hiện giờ chúng ta chỉ biết thương họ và giúp đỡ họ vượt qua những gì họ đang bị ác pháp chi phối và đang cố chấp một định kiến sai lầm. Chúng ta hãy thương yêu họ thật sự để hướng dẫn họ đi vào con đường đạo đức nhân bản - nhân quả, để họ tìm thấy con đường giải thoát; để họ thoát khỏi mọi khổ đau, vì vô minh cố chấp nên họ mới tạo ra những điều ác đó.

Chỉ có đức hiếu sinh sẽ giúp chúng ta tha thứ và yêu thương họ, giúp họ vượt qua mọi khó khăn. Đức Phật thường dạy: “Lấy tình thương mà rửa hận thù thì hận thù sẽ tiêu tan”. Đúng vậy, không có gì quý hơn lòng thương yêu và tha thứ, lòng yêu thương và tha thứ đi đến đâu thì các ác pháp sẽ rơi rụng như lá vàng mùa thu.

Hỡi các tu sinh! Hãy mau mau tu học đức hiếu sinh và áp dụng vào đời sống hằng ngày của mình, nó sẽ là con đường dẫn chúng ta chứng đạo không còn xa. Vì ĐỨC HIẾU SINH mang đầy đủ bốn đức trong TỨ VÔ LƯỢNG TÂM. Đó là đức TỪ, đức BI, đức HỶ, đức XẢ.

Bốn đức này tạo thành một năng lực mạnh mẽ vô cùng, không có pháp nào mạnh hơn nó được. Nó là một pháp môn ly dục, ly ác pháp tuyệt vời; nó bảo vệ và giữ gìn tâm bất động.

Cho nên không có một chướng ngại nào, một pháp ác nào mà nó xả không được. Hầu hết những bậc Thánh tăng trong thời đức Phật đều chứng đạo bằng con đường đức hiếu sinh này, bằng chính những giới luật đức hạnh này.

Trả lời câu hỏi 61:

Hãy sống thật với cảm xúc của chính mình, những giọt nước mắt, những lời chân thật từ trái tim trong một lúc nào đó sẽ giúp con vơi nhẹ nỗi buồn xúc cảm tổn thương”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH CHÂN THẬT Ý HÀNH, tức là lòng yêu thương chân thật từ trong trái tim của mình đối với sự sống của con người và của muôn vật.

Chỉ khi nào chúng ta ban tặng cho mọi người lòng yêu thương chân thật, tận nơi tâm hồn sâu thẳm của chúng ta thì mới thấy hiệu quả xả tâm tuyệt vời của đức hiếu sinh này.

Chúng ta nói thương yêu chứ thật lòng chưa chắc chúng ta đã thương yêu. Chúng ta cứ xét lại xem có đúng như vậy không? Tình thương yêu hiện giờ có trong chúng ta chỉ là tình thương yêu một hướng, có nghĩa là lòng yêu thương ấy dễ bị mất. Bình thường không có ác pháp thì thấy nó yêu thương, nhưng khi có ác pháp nó liền biến mất và nhường lại cho tâm chúng ta những cơn sân dữ tợn, những nỗi buồn khổ đau da diết từ ngày này sang ngày khác. Cho nên ai cũng có tình thương yêu, nhưng tình thương yêu ấy chưa sâu thẳm trong tận tâm hồn. Vì thế chúng ta học đức hiếu sinh, chứ chúng ta chưa có đức hiếu sinh. Hiểu được như vậy chúng ta cần phải rèn luyện và áp dụng vào đời sống hằng ngày nhiều hơn nữa.

Khi áp dụng tình thương yêu vào đời sống thì chúng ta hãy xem xét lại thân, khẩu, ý mình cho kỹ càng, rồi lần lượt tâm ấy sẽ hiện rõ trong chúng ta. Và khi nó hiện rõ trong chúng ta thì không có một ác pháp nào hay một chướng ngại pháp nào đến với chúng ta được. Những ác pháp đến đều bị nó quét sạch ra ngoài, không bao giờ bỏ sót một ác pháp nào cả, dù pháp ấy rất vi tế. Do đó tâm chúng ta bất động hoàn toàn với sự thanh thản, an lạc và vô sự một cách tự nhiên.

Trả lời câu hỏi 62:

Hãy trầm tĩnh và bao dung với những người đã gây cho con nỗi đau”. Câu này dạy ĐỨC TRẦM TĨNH BAO DUNG HIẾU SINH Ý HÀNH.

Chỉ có đức trầm tĩnh thương yêu và bao dung tha thứ bất cứ người nào gây đau khổ cho chúng ta, thì ngay đó cũng chuyển đổi những nhân quả khổ đau thành nhân quả an vui. Chính đức trầm tĩnh với lòng yêu thương chân thật đã đem lại sự bình an cho cuộc sống chung nhau trên hành tinh này.

Muốn có đức trầm tĩnh thì chúng ta cần phải tu tập tâm định tĩnh. Tập tâm định tĩnh bằng cách nào? Tập tâm định tĩnh có hai phương pháp:

1- Đi kinh hành tập Chánh Niệm Tỉnh Giác.

2- Ngồi kiết già lưng thẳng nương vào hơi thở vô và hơi thở ra.

Hai phương pháp trên đây tu tập phải kỹ lưỡng mới có kết quả. Trước khi đi kinh hành phải tác ý: “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, tác ý xong liền bước đi. Đi kinh hành đúng 20 bước phải đứng lại tác ý một lần nữa: “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”.

Cứ tác ý rồi bước đi kinh hành như vậy từ 30’ đến 1 giờ mới xả nghỉ.

Về hơi thở thì phải ngồi kiết già hoặc bán già lưng thẳng, khi cơ thể ngồi an ổn rồi mới tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Tác ý xong hít vô, thở ra 5 hơi thở rồi lại tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, và tiếp tục hít vô thở ra 5 hơi thở nữa. Cứ tiếp tu tập như vậy từ 30’ đến 1 giờ rồi mới xả nghỉ.

Có tu tập tỉnh thức đi kinh hành và hơi thở như vậy thì tâm chúng ta mới trầm tĩnh trước ác pháp. Các ác pháp rất nghiệt ngã, nó có một sức hút rất mạnh, khi gặp tâm người nào còn tham, sân, si, mạn, nghi thì người ấy không còn đủ sức bình tĩnh nữa.

Nếu biết tâm mình còn tham, sân, si, mạn, nghi thì lúc ấy nên nhiếp tâm và an trú vào hơi thở để vượt qua lực hút quá mạnh của các ác pháp.

Các tu sinh nên nhớ: Ít nhất sự tu tập tỉnh thức này phải từ 30’ đến 1 giờ. Nhờ hằng ngày siêng tu tập tỉnh thức như vậy, khi gặp ác pháp tâm mới trầm tĩnh. Khi tâm trầm tĩnh thì mới đủ sáng suốt chánh tư duy.

Còn tâm chưa đủ trầm tĩnh sáng suốt là tà tư duy. Khi tâm được bình tĩnh, mới thấy rõ đâu là ác pháp, đâu là thiện pháp; đâu là tình yêu thương nhiều hướng, đâu là tình yêu thương một hướng; đâu là tham, sân, si, mạn, nghi; đâu là Tứ Vô Lượng Tâm; đâu là nhân, là quả; đâu là ái kiết sử; đâu là các pháp vô thường, khổ, vô ngã, v.v...

Nhờ có đức trầm tĩnh, chúng ta mới đủ sức hộ trì lòng yêu thương đương đầu với tất cả ác pháp, nhờ đó mới đem lại sự bình an cho thân tâm chúng ta.

ĐỨC TRẦM TĨNH BAO DUNG HIẾU SINH Ý HÀNH là một đức hạnh quan trọng và cần thiết cho những người tu hành tìm cầu sự giải thoát, nhưng nó phải tu tập, chứ không phải tự nhiên mà có được. Vậy tất cả các tu sinh phải tinh tấn siêng năng tu hành rèn luyện đức trầm tĩnh bao dung từng phút, từng giây thì mới có được, chứ không phải dễ. Xin lưu ý!

Trả lời câu hỏi 63:

Mỗi ngày sẽ là một ngày mới, với những điều tốt lành và bất ngờ nhất sẽ đến cùng với sự cố gắng của mình”. Câu này dạy ĐỨC CHUYỂN HÓA HIẾU SINH Ý HÀNH.

Nếu chúng ta cứ sống trong tình yêu thương, không bao giờ lìa xa đức hiếu sinh thì mỗi ngày qua là một sự thay đổi rất lớn trong thân tâm, một sự thay đổi không thể ai ngờ được: Thân bắt đầu thay đổi ít bệnh, và nếu trong thân có những bệnh nan y, ngặt nghèo thì nó lần lần tự điều phục không còn bệnh nữa; còn tâm thay đổi nên ít muốn biết đủ, không bao giờ còn ham muốn cái này cái kia nữa; nhất là ăn uống ai cho ăn cái gì thì ăn cái nấy, không còn thèm ăn cái này, cái khác nữa; ngủ thì không chiêm bao và tâm lúc nào cũng hiền hòa, luôn luôn mở rộng lòng tha thứ và thương yêu mọi người, mọi vật.

Bởi vậy, người tu tập đức hiếu sinh thì lòng thương yêu sẽ mang đến cho chúng ta những lợi lạc lớn như vậy. Có thân mà ít bệnh và bệnh cũng rất nhẹ nhàng. Có tâm nhưng tâm không biết giận hờn, oán ghét ai hết. Đó là những điều hạnh phúc nhất trên cuộc đời này, nếu ai sống được với đức hiếu sinh và lòng tha thứ.

Bởi vậy cái nhìn, cái thấy và sự hiểu biết của ông Phú Lâu Na khác thường hơn mọi người, vì ông sống với lòng yêu thương chân thật tự trong trái tim của ông, cho nên ông đối với mọi người đều thấy ai cũng là người tốt. Ông có cái tâm tuyệt vời, chỉ duy nhất thấy mọi người thương ông, chứ không có người nào ghét ông.

Đúng, ông là một người chứng quả A La Hán mới có cái thấy kỳ lạ như vậy; cái thấy người nào cũng thương mình. Dù người ấy làm bất cứ một điều gì đau khổ cho ông, ông cũng thấy họ thương ông. Một người bình thường không làm sao có cái nhìn như ông được. Nên cả một thế gian này có được mấy người như ông?! Bởi vậy đức hiếu sinh là duy nhất, là tuyệt vời, làm thay đổi từ một người phàm phu trở thành một bậc Thánh nhân vô lậu. Chúng ta hôm nay là người đã đủ duyên phước được sinh làm người, được học và tu tập để sống trong đạo đức hiếu sinh. Vậy chúng ta hãy cố gắng trau dồi và rèn luyện nhân cách đạo đức hiếu sinh, để làm thay đổi một con người đang làm nô lệ cho nghiệp báo nhân quả trở thành một con người làm chủ nghiệp báo nhân quả.

Khi nào làm chủ được nghiệp báo nhân quả thì lúc bấy giờ chúng ta là người chiến thắng. Đó là một nguồn vui vô cùng, vô tận.

Trả lời câu hỏi 64:

Những gì đã qua sẽ trở thành vốn sống của con”. Câu này dạy ĐỨC TÍCH LŨY HIẾU SINH Ý HÀNH.

Muốn làm chủ nghiệp báo nhân quả thì mỗi ngày phải tích lũy lòng yêu thương của mình. Trong cuộc sống hằng ngày đừng bỏ qua một phút giây nào cả, lúc nào cũng siêng năng, chuyên cần tích lũy lòng yêu thương của mình đối với cỏ cây, đất đá, các loài động vật dù con vật nhỏ nhất, chúng ta cũng quan tâm để góp nhặt thêm lòng thương yêu, ngày nào cũng góp nhặt, giờ nào cũng góp nhặt, phút nào cũng góp nhặt. Có siêng năng tu tập góp nhặt như vậy thì chúng ta mới trở thành đức hiếu sinh và đức hiếu sinh mới trở thành chúng ta.

Bởi có tu tập như vậy một tháng, hai tháng hoặc ba tháng, năm tháng, hay một năm, hai năm hoặc ba năm thì mới thành một thói quen đạo đức hiếu sinh. Chừng đó không nói ra thì thôi, mà đã nói ra là nói ra lời êm ái dịu dàng, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, làm cho người nghe có thiện cảm ngay liền. Còn những lời nói sai, nói xấu người, nói oan ức người, nói lời không đúng sự thật, nói lời hung dữ, chửi mắng, mạ lị, mạt sát người thì không bao giờ nói, vì đó là những lời nói độc ác. Những lời nói như vậy là những giọt máu đau khổ của người khác.

Cho nên khi nói ra cần phải cẩn thận, dè dặt không được nói ra những lời ác như vậy.

Người có đạo đức hiếu sinh không thể có những lời nói như vậy. Những người không học tập rèn luyện đạo đức hiếu sinh thì thường tích lũy những lời nói ác thiếu đạo đức, thiếu văn hóa. Hằng ngày thường huân tập nên nó đã thành một thói một quen thiếu đạo đức, khi họ không nói ra thì thôi, mà đã nói ra là nói những lời thô ác, hung dữ, bẩn thỉu, chửi bới, thề thốt, v.v...

Người có huân tập đạo đức hiếu sinh thì mỗi hành động đều chững chạc cẩn thận, không vội vàng hấp tấp, làm việc gì cũng nhìn trước ngó sau, không bao giờ có thể để sơ sót dù một hành động nhỏ nhặt nào, nhờ đó mà thể hiện đức điềm đạm.

Bởi sự tu tập rèn luyện nhân cách nào cũng bắt nguồn từ sự tích lũy đức hạnh, nếu không tích lũy thì không bao giờ có tình thương yêu. Cho nên đức tích lũy hiếu sinh rất quan trọng và cần thiết để trở thành một lòng yêu thương chân thật. Chỉ có lòng yêu thương chân thật mới giúp chúng ta ly dục, ly ác pháp; mới giúp chúng ta thành tựu con đường tu tập giải thoát và ra khỏi những sự khổ đau của kiếp người.

Hỡi các tu sinh có nghe thấy lời dạy này không? Ngay bây giờ, chúng ta đừng bỏ phí một thời gian nào cả, dù một sát na, vì thời gian trôi qua không lấy lại được. Được thân người là khó, được gặp chánh pháp còn khó hơn. Cho nên thời gian hiện giờ rất là quý báu vô cùng. Như chúng ta đã biết, học đạo đức không phải là học thuộc lòng, mà là một sự tích lũy từng hành động đạo đức để huân tập thành một thói quen đức hạnh, nhờ đó mới biến chúng ta thành Thánh Hiền.

Trả lời câu hỏi 65:

Cuộc sống không có điều gì mất đi mà không mang đến cho ai đó điều gì mới mẻ, bổ ích hơn”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH LÀM THAY ĐỔI CUỘC SỐNG Ý HÀNH.

Như chúng ta đã biết, một thiện pháp tăng trưởng là một ác pháp bị tiêu diệt, cho nên trong câu hỏi, lời người mẹ khuyên con rất tuyệt vời: “Cuộc sống không có điều gì mất đi mà không mang đến cho ai đó điều gì mới mẻ, bổ ích hơn”. Đúng vậy, càng sống trong đức hiếu sinh thì ác pháp sẽ bị triệt tiêu để thay thế vào một thiện pháp, một lòng thương rộng lớn vô bờ bến.

Điều này là một điều tất nhiên, vì đúng theo qui luật duyên hợp của nhân quả cái này diệt thì cái kia sinh, cho nên sự sinh diệt liên tục. Do hiểu biết qui luật nhân quả duyên tan hợp, nên đức Phật dạy chúng ta: “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”. Vì thế, các pháp của Ngài dạy tu tập đều là giới luật đức hạnh thiện pháp để làm thay đổi sự sống trên hành tinh này. Nhưng con người không hiểu giáo pháp của Phật, nên bỏ giới luật đức hạnh không tu tập mà lại tu tập theo các pháp thiền và các pháp cầu cúng, tụng niệm kinh, chú theo ngoại đạo Bà La Môn. Từ đó giới luật đức hạnh của Phật giáo chỉ còn tụng đọc suông chơi, chứ chẳng có ý nghĩa tu hành đạo đức gì cả. Thật là quá uổng! Có của báu mà không biết giữ gìn, không biết xử dụng.

Trả lời câu hỏi 66:

Nếu con chưa tìm được thì con hãy suy nghĩ sâu sắc, tĩnh lặng để nhận ra điều đó, và đừng lãng phí thời gian một khi con đã hiểu”. Câu này dạy ĐỨC TĨNH LẶNG HIẾU SINH Ý HÀNH.

Chỉ có sự tĩnh lặng trước mọi khó khăn, gian khổ; trước mọi ác pháp nghiệt ngã thì chúng ta mới đủ sức thực hiện đức hiếu sinh.

Còn nếu thiếu sự tĩnh lặng thì chúng ta không đủ trí sáng suốt. Không đủ trí sáng suốt thì lúc bấy giờ chúng ta có dùng đức hiếu sinh cũng chỉ là phương pháp ức chế tâm mà thôi. Vậy muốn có sự tĩnh lặng thì phải tu tập phương pháp nào? Muốn có sự tĩnh lặng thì phải tu tập pháp môn Định Niệm Hơi Thở đề mục thứ bảy:

“An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Tác ý câu này xong liền hít thở 5 hơi thở rồi tác ý trở lại.

Cứ như vậy tu tập 30’. Tu tập thấy không có vọng niệm khởi thì tác ý lần đầu rồi để tự nhiên tâm biết hơi thở ra vô nhẹ nhàng. Lúc bấy giờ chỉ còn một sự tĩnh lặng sáng suốt vô cùng. Tu tập như vậy chỉ nên kéo dài sự tĩnh lặng trong 1 giờ, chứ không nên tu tập nhiều hơn nữa. Sức tĩnh lặng trong một giờ đủ sức giúp chúng ta xử dụng đức hiếu sinh để chuyển hóa làm thay đổi nhân quả ác thành nhân quả thiện, cuộc sống đang khổ đau thành cuộc sống an vui và hạnh phúc.

Sự tu tập có lợi ích lớn như vậy, vì thế chúng ta phải cố gắng tu tập cho nhiều hơn nữa. Hằng ngày, lúc nào cũng tìm mọi cách để sống với đức hiếu sinh từ thân, khẩu, ý, luôn luôn đều thể hiện đức hiếu sinh, không được bỏ qua một giây phút nào cả, mỗi phút giây đi qua mà không tu tập là quá uổng.

Trả lời câu hỏi 67:

Những gì con cho đi hôm nay từ trái tim, chắc chắn con sẽ nhận lại được từ trái tim ngày mai hoặc sau này”. Câu này dạy ĐỨC BỐ THÍ HIẾU SINH Ý HÀNH.

Chúng ta hãy ban tình thương cho mọi người, thì điều đó chắc chắn mọi người sẽ học tình thương của chúng ta, và vì vậy mọi người sẽ ban tình thương lại cho chúng ta.

Trong Áo Nghĩa Thư có dạy:

Từ tình thương chúng ta được sinh ra

Do tình thương chúng ta được nuôi lớn

Nhờ tình thương chúng ta được an vui”.

Đức hiếu sinh là một bài học đạo đức thứ nhất trong giới luật của Phật giáo. Bài học này có một giá trị và lợi ích rất lớn đối với những người tu hành làm đệ tử Phật. Nếu ai muốn tu hành để tìm cầu sự giải thoát làm chủ sự sống chết thì phải áp dụng giới luật đức hiếu sinh này ngay từ lúc bắt đầu học đạo đức hiếu sinh. Bài học đạo đức hiếu sinh này bất cứ một hành động nào nơi thân, khẩu, ý của mình đều phải được áp dụng ngay liền, thì ngay đó sẽ tìm thấy được sự an vui.

Và vì vậy không còn có một ác pháp nào tác động vào thân tâm chúng ta được nữa.

Hôm nay chúng ta được học và tu tập rèn luyện đạo đức hiếu sinh, thì hãy cố gắng tu tập rèn luyện hết sức mình. Vì đức hiếu sinh là mạng sống của chúng ta, mất đức hiếu sinh là chúng ta mất mạng, cho nên phải siêng năng chuyên cần tu tập, rèn luyện đừng biếng trễ.

Sau khi mất thân rồi không biết có còn sinh làm người nữa được hay không? Nếu được sinh làm người mà biết có may mắn gặp được chánh pháp đạo đức này hay không? Ngàn năm một thuở! Chúng ta hãy nhìn lại đi: Hiện giờ có bao nhiêu người về Tu Viện tu học đạo đức? Còn biết bao nhiêu người, hàng vạn triệu triệu người không nghe, không biết đạo đức này, thì lấy chi tu tập để thoát ra sáu nẻo luân hồi; để chấm dứt sinh tử khổ đau?

Trả lời câu hỏi 68:

Và con đừng chỉ cầu mong, ước mơ không mà hãy hành động. Hãy sống giản dị, chân thành và thật lòng”. Câu này dạy ĐỨC GIẢN DỊ VÀ CHÂN THÀNH HIẾU SINH Ý HÀNH.

Đức hiếu sinh giản dị và chân thành lúc nào nó cũng gần gũi bên chúng ta, chúng ta dễ xa lìa nó, chứ nó không bao giờ xa lìa chúng ta. Hễ chúng ta cần là nó có mặt ngay liền. Chỉ vì tâm chúng ta còn tham, sân, si, mạn, nghi quá nhiều, nên đức hiếu sinh phải đành biết mất.

Một người tu hành sống giản dị ít muốn biết đủ, đó cũng là thực hành đức hiếu sinh thương mình, thương người. Một nguời sống với đời sống ba y, một bát đi xin ăn ngày một bữa, ai cho gì ăn nấy không khen chê, đó là đức hiếu sinh thân hành. Một người tâm hồn phóng khoáng như hư không, trắng bạch như vỏ ốc, tâm lúc nào cũng thanh thản, an vui và vô sự, đó là đức hiếu sinh. Một người sống độc cư trầm lặng một mình trong thất tu tập Định Niệm Hơi Thở, tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác, tu tập Thân Hành Niệm, tu tập Tứ Niệm Xứ, đó là người sống với đức hiếu sinh thân hành. Ăn ngày một bữa, sống biết nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi người, đó là người sống với đức hiếu sinh thân hành, ý hành, khẩu hành.

Mọi hành động thân, khẩu, ý hành đều không làm khổ chúng sinh, đó là sống với đức hiếu sinh thân, khẩu, ý hành.

Đức hiếu sinh rất giản dị và chân thành với mỗi hành động của chúng ta. Vậy nó có gì khó áp dụng vào đời sống của chúng ta đâu? Chỉ chúng ta có quyết tâm quyết chí tìm cầu sự giải thoát ra khỏi con đường sinh tử luân hồi, thì hằng ngày chỉ có gia công thực hiện ngay trong cuộc sống của chúng ta mà thôi.

Còn không quyết tâm, quyết chí rèn luyện đức hiếu sinh thì chúng ta đành chịu, đành chấp nhận khổ đau.

Tu hành không khó, chỉ khó là chúng ta chưa muốn bỏ những dục lạc ở thế gian. Nhất là chúng ta còn quyến luyến chưa muốn bỏ danh lợi, vật chất thế gian mà thôi. Cho nên xả bỏ buông xuống không phải khó. Chúng ta biết rất rõ đời còn có nhiều vật chất đầy cám dỗ dục lạc, nhưng chúng ta có biết đâu những dục lạc thế gian là những thuốc độc.

Ví dụ: Ai cũng biết rượu, thuốc lá, thuốc phiện, sắc dục là những chất độc dễ khiến cho cơ thể thành bệnh tật, nhưng mấy ai tránh khỏi, không vướng thứ này thì vướng mắc phải thứ kia. Thật là đáng buồn! Biết độc mà không muốn bỏ.

Ai cũng biết thân tâm này vô thường, là khổ, là vô ngã, không có gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta, thế mà có mấy ai bỏ nó được chưa? Biết mà không bỏ, không dẹp nó được, thì cái biết? Cái nói của chúng ta cũng như con chim học tiếng người, chứ có ích lợi gì.

Phải không hỡi các tu sinh? Vì bỏ không được nên mọi người phạm giới, phá giới, nên không áp dụng đức hiếu sinh vào cuộc sống hằng ngày, do đó sự đau khổ lại còn đau khổ nhiều hơn nữa. Hơn ba tháng học đạo đức đã trôi qua, chúng ta không sống với đức hiếu sinh được là tệ lắm. Phải không các tu sinh? Trả lời câu hỏi 69:

Con hãy tin là cuộc sống luôn có luật nhân quả, sẽ luôn công bằng, có trước có sau với tất cả mọi người, với những gì mà con có thể làm được và nên làm”. Câu này dạy ĐỨC NHÂN QUẢ HIẾU SINH Ý HÀNH.

Ai cũng biết qui luật nhân quả điều hành tất cả vạn vật trong vũ trụ, không một vật gì vượt qua khỏi sự điều hành này, nhưng có một hành động ĐỨC NHÂN QUẢ HIẾU SINH Ý HÀNH, THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH sẽ không những vượt qua mà còn làm chủ qui luật nhân quả này. Quý vị có tin lời nói này không? Đức hiếu sinh như quý vị đều biết, nó là tâm TỪ, BI, HỶ, XẢ của Phật giáo, nó là một phương pháp làm chủ nhân quả thân hành, khẩu hành và ý hành của mọi người. Nếu một người quyết tâm tìm cầu sự giải thoát, thì phải thấy giá trị của đức hiếu sinh này.

Biết giá trị giải thoát của nó như vậy thì không thể nào tu tập lơ là, tu tập lấy có, mà phải tu tập thật sự, tu tập hết sức mình và phải cố gắng nhiều hơn nữa.

Tu tập đức hiếu sinh phải tích cực, nỗ lực áp dụng đức hiếu sinh vào từng hành động lúc làm việc, lúc nói chuyện với mọi người, cũng như lúc ở trong thất một mình, lúc ăn cơm, lúc uống nước, lúc ngồi chơi một mình, v.v.. lúc nào cũng tu tập.

Như quý vị đều biết: Đức hiếu sinh là đệ nhất thiện pháp của tất cả thiện pháp, nên khi nó hiện hữu thì không có ác pháp nào mà nó không chuyển hóa được. Đó là đứng về mặt nhân quả, còn đứng về mặt đạo đức thì nó là một hành động đạo đức nhân bản cao thượng đẹp đẽ tuyệt vời, nó đi đến đâu là đem đến sự an vui cho mọi người, mọi loài vật đến đó.

Trả lời câu hỏi 70:

Con hãy tin vào điều kỳ diệu và mầu nhiệm của tâm hồn con người, của cuộc sống, và nhất là tin vào chính con. Một ngày mới sẽ mở ra cho con”. Câu này dạy ĐỨC TỰ TÍN HIẾU SINH Ý HÀNH.

Bảng tuyên ngôn danh dự của loài người mà cách đây hơn 2550 năm, đức Phật đã dõng dạc tuyên bố:

Thiên thượng, thiên hạ

Duy ngã độc tôn

Nhất thiết thế gian

Sinh, lão, bệnh, tử”.

Bốn câu kệ này có nghĩa là:

Trên trời, dưới trời

Khắp trong thế gian

Ta người duy nhất

Làm chủ: Sinh, già, bệnh, chết”.

Vậy chúng ta là con người như Phật, Phật đã làm chủ sinh, già, bệnh, chết được thì chúng ta cũng làm chủ sinh, già, bệnh, chết được.

Một lần nữa đức Phật đã dạy chúng ta: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là người hướng dẫn đường mà thôi” .

Lại một lần nữa đức Phật đã dạy chúng ta: “Đừng tin ai, hãy tự tin mình, hãy lấy mình làm hòn đảo, làm chỗ nương tựa vững chắc...”.

Chúng ta hãy tự tin vào lòng yêu thương của chúng ta sẽ chuyển hóa và làm thay đổi nhân quả sự sống của chúng ta hiện giờ.

Chỉ có đức tin, nhưng không tin vào ai cả, mà hãy tin nơi mình. Mình là con người, mà con người sẽ làm nên những chuyện vĩ đại.

Điều này quý vị có tin không? Một đức Phật Thích Ca Mâu Ni và còn biết bao nhiêu vị A La Hán nữa, họ đã làm được thì chúng ta cũng sẽ làm được như họ.

Tóm lại, bài học này đã dạy cho chúng ta ở mọi góc độ đức hạnh hiếu sinh qua lời dạy của người mẹ nói lên lòng thương yêu cao cả như trời biển.

Nhạc sĩ Y Vân với bài LÒNG MẸ đã nói lên được tình thương cao cả của người mẹ:

“Lòng mẹ thương con như biển Thái Bình dạt dào”.

Nói đến lòng yêu thương thì lòng mẹ thương con là tuyệt vời: “Mẹ rất nhớ thương con, nhưng sợ có mẹ một bên thì lòng con sẽ yếu mềm không vượt qua những khó khăn, những khúc quanh trong cuộc đời đang chờ con”.

Con buồn khổ thì mẹ có vui đâu, con gặp tai nạn thì mẹ khóc hết nước mắt; con bệnh tật thì mẹ thức suốt đêm bên con. Tất cả những hành động này là lòng thương yêu của người mẹ.

Chúng ta hôm nay học đạo đức hiếu sinh là học tình thương của một người mẹ, dù con mình như thế nào, nó cũng là con mình. Phải yêu thương tận tình, phải giúp đỡ nó hết sức mình, để cho nó vượt qua những lúc gặp chuyện khó khăn, gian nan, khốn khổ.

Chúng ta sống với lòng yêu thương mọi người, mọi vật như lòng thương của người mẹ thương con. Người hung ác nói xấu, mạ lị, mắng chửi, mạt sát chúng ta. Chúng ta nghe, thấy những điều nói xấu ác đó rất rõ ràng, nhưng tâm chúng ta lại nghĩ rằng những điều nói xấu ác đó là nhân quả, mà người nói ấy đang bị nhân quả sai khiến. Vì vậy chúng ta nên thương họ nhiều hơn, vì họ là người đang đau khổ, họ là người đáng thương. Trong lúc đó, nếu chúng ta chỉ cần hiểu sai lòng thương yêu một chút xíu là tâm phiền não của chúng ta nổi lên; chỉ một chút xíu thôi là chúng ta cũng bị nhân quả chi phối ngay liền. Chúng ta biết chắc người đang bị nhân quả sai khiến như vậy họ là người đang đau khổ ghê gớm lắm, vì vậy chúng ta nên khởi lòng yêu thương họ như người mẹ thương con. Lòng yêu thương ấy sẽ giúp chúng ta chuyển đổi nhân quả một cách dễ dàng. Chỉ có lòng thương yêu thật tình như mẹ thương con thì nhân quả không còn tác động vào tâm chúng ta được, và chúng ta sẽ sống thanh thản, an lạc và vô sự.

Trên đường tìm chân lí, quý vị đừng nghĩ rằng nó quá xa vời. Nó không quá xa vời đâu, nếu quý vị dốc lòng thực hiện đúng đạo đức hiếu sinh trong cuộc sống hằng ngày thì mục tiêu sẽ đạt được không có khó khăn, không có mệt học.

Sau ba tháng học đạo đức hiếu sinh, chúng tôi tin chắc rằng quý tu sinh đều có những kết quả, chứ không phải không.

“Có một cậu bé ra công đào một cái hố, một người đi ngang qua hỏi:

- Cháu đào hố để làm gì? Cậu bé trả lời:

- Cháu định đào con đường đi xuyên qua trái đất.

- Cháu làm một điều không tưởng.

Cậu bé chỉ tay vào đống đất, đá và nói:

- Dù cháu không đào được đến bên kia trái đất, nhưng cháu cũng giúp ba cháu có đất, đá xây nhà.

Mục tiêu của câu bé có thể quá xa vời, nhưng nó đã làm cho cậu bé dốc lòng thực hiện. Và đó chính là ý nghĩa của mục tiêu.

Mục tiêu sẽ làm cho ta đi đúng hướng mà ta đã chọn. Nhưng không phải lúc nào ta cũng hoàn thành tốt đẹp những điều đã đặt ra.

Không phải mối quan hệ nào cũng bền vững.

Không phải tình yêu nào cũng vĩnh cửu.

Không phải nỗ lực nào cũng được đền bù.

Không phải ước mơ nào cũng thành sự thật.

Nhưng khi không đạt được mục đích, ta có thể nói: “Đúng, dù không thành công, nhưng hãy nhìn xem ta có được gì nào. Hãy nhìn những thứ tuyệt vời đã đến với ta trên chặng đường ấy, nó đã bù đắp cho những nỗ lực của ta, vì không nản chí”.

Khi chiến đấu cho mục tiêu của mình là khi ta sống thật nhất. Và tôi cho rằng, chính niềm vui trên từng chặng đường đi, chứ không phải là đích đến, mới là điều quan trọng”.

(Phỏng theo Niềm Vui Trên Đường Đời, trong tập sách Sự Giàu Có Tâm Hồn, trang 46) Các tu sinh có nhận ra những điều chúng ta đang tu học chưa? Mục tiêu chúng ta nhắm là phải làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

Nhưng trên những chặng đường tu tập, chúng ta đã thu nhặt những kết quả không phải ít.

Nếu các tu sinh thật lòng tu tập thì kết quả làm chủ sinh, già, bệnh, chết rất rõ ràng, không phải là một chuyện mơ hồ, trong tưởng.

Bài học thứ 31: SỰ HY SINH CAO CẢ

Ngày 14 tháng 4 năm 1912, trong hành trình lần đầu tiên đến châu Mỹ, con tàu chở khách sang trọng Titanic mang số hiệu “Con tàu không bao giờ chìm” đã va vào một tảng băng trôi và thân tàu dần chìm xuống.

Trên tàu, hơn 2.200 hành khách bắt đầu nhốn nháo trong nỗi kinh hoàng, thuyền cứu hộ chỉ cứu được rất ít người, ưu tiên cứu phụ nữ và trẻ em. Lúc này, một phụ nữ trung niên gào lên nói với đội cứu sinh trên chiếc thuyền đã đầy ắp người: “Có ai có thể cho tôi một vị trí không? Hai con tôi đang ở trên đó”.

Có người trả lời: “Không còn chỗ nữa, phải lên, phải lên bớt người, thuyền cứu hộ chìm mất!”.

“Mẹ!”. Hai đứa trẻ khóc òa lên, người phụ nữ thấy trong lòng đau như dao cắt.

Một cô gái lạ ngồi bên cạnh hai đứa trẻ từ từ đứng lên, rời khỏi thuyền cứu hộ trở lại con tàu đang bị chìm, nói với người mẹ đang đau khổ tuyệt vọng: “Bây giờ bên các con chị có một chỗ trống, chị mau sang bên đó đi. Tôi chưa kết hôn, chưa có con!”.

Sau hai giờ, tàu Titanic chìm xuống, cô gái lạ đã không may gặp nạn cùng với hơn 1.500 người. Không có ai hiểu nhiều, chỉ nghe cô ấy gọi: “Evin, tự mình ngồi trên tàu, chuẩn bị về ngôi nhà đầy sóng vỗ, bố sẽ đón con”.

(Phan Thanh Anh - biên soạn 149 câu chuyện thấm đậm tình người, trang 88, bài 45 - Sự Hy Sinh Cao Cả)

NHỮNG CÂU HỎI

1- “Ngày 14 tháng 4 năm 1912, trong hành trình lần đầu tiên đến châu Mỹ, con tàu chở khách sang trọng Titanic mang số hiệu “Con tàu không bao giờ chìm” đã va vào một tảng băng trôi và thân tàu dần dần chìm xuống”. Câu nói về duyên tan cộng nghiệp nhân quả của con tàu Titanic.

2- “Trên tàu, hơn 2.200 hành khách bắt đần nhốn nháo trong nỗi kinh hoàng, thuyền cứu hộ chỉ cứu được rất ít người, ưu tiên cứu phụ nữ và trẻ em. Lúc này, một phụ nữ trung niên gào lên nói với đội cứu sinh trên chiếc thuyền đã đầy ắp người: “Có ai có thể cho tôi một vị trí không? Hai con tôi đang ở trên đó”. Câu này nói về nghiệp báo nhân quả của 2.200 hành khách trên tàu.

3- “Có người trả lời: “Không còn chỗ nữa, phải lên, phải lên bớt người, thuyền cứu hộ chìm mất!”.

Mẹ!”. Hai đứa trẻ khóc òa lên, người phụ nữ thấy trong lòng đau như dao cắt”. Câu này chỉ cảnh địa ngục trần gian.

4- “Một cô gái lạ ngồi bên cạnh hai đứa trẻ từ từ đứng lên, rời khỏi thuyền cứu hộ trở lại con tàu đang bị chìm, nói với người mẹ đang đau khổ tuyệt vọng: “Bây giờ bên các con chị có một chỗ trống, chị mau sang bên đó đi. Tôi chưa kết hôn, chưa có con!”. Câu này dạy đức hiếu sinh cứu người một hướng khẩu hành, thân hành tuyệt vời.

5- “Sau hai giờ, tàu Titanic chìm xuống, cô gái lạ đã không may gặp nạn cùng với hơn 1.500 người. Không có ai hiểu nhiều, chỉ nghe cô ấy gọi: “Evin, tự mình ngồi trên tàu, chuẩn bị về ngôi nhà đầy sóng vỗ, bố sẽ đón con”. Câu này dạy đức hy sinh hiếu sinh một hướng thật tuyệt vời.

Đây là đạo đức hiếu sinh một hướng tuyệt vời, cô Evin đã biết hy sinh mình để cho hai cháu bé không mất mẹ. Một hành động cao thượng đáng ca ngợi và đáng khâm phục.

Ở đây, chúng ta đang học đức hiếu sinh từ một hướng đến nhiều hướng, để biết phân biệt rõ ràng.

Đạo đức hiếu sinh một hướng thường có sự hy sinh bản thân thân mình để đem lại sự an vui cho người khác. Đó là nhân quả nghiệp báo đời trước.

Cho nên cô Evin tuy hy sinh mình chết theo con tàu Titanic cho hai em bé không mất mẹ, nhưng trước khi chết cô nhớ thương bố cô lắm! Cô gọi bố đón cô. Có lẽ bố cô đã ra người thiên cổ.

Câu chuyện hy sinh sự sống của mình để cho người khác sống thật là cao cả, khiến mọi người đều xúc động. Từ câu chuyện Vết Thẹo người mẹ hy sinh cứu con mình, đến chuyện con chim ưng hy sinh mình để cứu chủ - Thành Cát Tư Hãn, rồi cô gái Evin hy sinh mình để hai em bé không mồ côi mẹ. Những hy sinh ấy thật là cao cả, nhưng nó là đức hiếu sinh một hướng của nhân quả quá nghiệt ngã.

Vì thế đạo Phật ra đời xây dựng nền đạo đức nhân bản - nhân quả với đức hiếu sinh nhiều hướng để chuyển hóa, làm thay đổi nhân quả nghiệt ngã, để đưa con người ra khỏi mọi sự khổ đau.

Hỡi các tu sinh! Đây chỉ là một đạo lộ duy nhất để làm thay đổi nhân quả, nếu không đi con đường này thì chẳng còn có con đường nào khác nữa.

Con đường này không ai đi thay thế cho ai được, mọi người phải tự đi cho mình. Dù như cha mẹ có thương con, có hy sinh cho con bằng cả sinh mạng của mình, cũng không giúp ích gì cho con được, mà chính người con phải tự đi cho mình.

Vì thế đức Phật dạy: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi...”. Đó là con đường đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, nên nhân quả nghiệp báo đã chuyển hóa từ quả ác khổ đau chuyển thành quả thiện an vui, thì làm sao còn có cảnh hy sinh trong tình thương cao cả bằng nước mắt chia ly kẻ ở, người đi.

Đúng, đạo Phật rất tuyệt vời, đem lại tình thương trong an lạc, chứ không phải đem lại tình thương trong nước mắt! Hiểu được như vậy, chúng tôi mong rằng tất cả tu sinh hãy nỗ lực sống với đức hiếu sinh, lấy đức hiếu sinh làm sự sống cho mình.

NHỮNG LỜI SAU CÙNG

Hôm nay, chúng tôi biên soạn bộ sách giáo án rèn nhân cách đạo đức hiếu sinh lớp NGŨ GIỚI tập II đến đây tạm dừng, vì đức hiếu sinh là những hành động sống hằng ngày của mọi người thì biết viết đến bao giờ cho hết. Theo chúng tôi nghĩ, từ đây về sau sẽ có nhiều bộ sách dạy về đức hiếu sinh ra đời, do các tu sinh lớp học NGŨ GIỚI của Tu Viện Chơn Như sẽ tiếp nối vòng tay với chúng tôi dựng lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả đức hiếu sinh.

Bằng chứng chúng tôi đã đọc những Giáo Án Đức Hiếu Sinh của các tu sinh biên soạn rất chuẩn, đó là một niềm tự hào của chúng tôi khi thấy các đệ tử của mình trưởng thành trên đức hạnh giới luật. Hãy biên soạn nhiều nữa để bộ sách đạo đức hiếu sinh được đầy đủ hơn, và các tu sinh xứng đáng thay thầy dạy đạo đức.

Bắt đầu bộ sách Giáo án rèn nhân cách đạo đức ly tham lớp NGŨ GIỚI thứ II ra đời.

Chúng tôi sẽ biên soạn tập I và kế tiếp các tu sinh hãy cố gắng giúp chúng tôi biên soạn tập II, III.

Việc biên soạn giáo án là một việc làm rất cần thiết để mở màn cho một nền đạo đức nhân bản - nhân quả. Nếu hôm nay chúng ta có sẵn đủ 5 bộ sách giáo án dạy 5 lớp NGŨ GIỚI thì đỡ nhọc nhằn biết bao nhiêu.

Sau khi được tuyển chọn lên lớp II này, quý tu sinh hãy cố gắng tu học hơn nữa, nhất là áp dụng vào đời sống đức hiếu sinh cho trọn vẹn.

Sau cùng, chúng tôi thành tâm chúc các tu sinh thành tựu viên mãn đức hiếu sinh, để chuyển sang một đức hạnh khác cũng không kém đức hiếu sinh, đó là đức ly tham.

Kính ghi

Tu Viện Chơn Như

MỤC LỤC

Đức Hiếu Sinh (tập 3)

LỜI NÓI ĐẦU

Mỗi bài học trong tập sách này đều là những hành động thân, miệng, ý nói lên đức hạnh nhân bản - nhân quả trong cuộc sống hằng ngày của con người. Chính nhờ những hành động đạo đức sống động này đã đem lại cho mọi người có một cuộc sống bình an, yên vui và hạnh phúc.

Hình ảnh cậu bé Brian đi bắt từng con sâu bỏ vào hang của chúng để tránh khỏi những em bé vô tình giậm chết. Thật là cậu bé thực hiện đức hiếu sinh đa hướng tuyệt vời! Với một cậu bé mới 7 tuổi mà đã làm được những hành động đạo đức hiếu sinh mang đầy đủ tính chất tình thương yêu cao cả. Như vậy, đức hiếu sinh của ông, bà, cô, bác, anh, chị, em, v.v.. chúng ta có sánh với cháu bé Brian này được chăng? Không ai dạy, thế mà cậu bé tự mình nghĩ ra và yêu thương những con sâu tội nghiệp, rồi ra công cứu giúp chúng với những hành động nhẹ nhàng mang một tình thương hồn nhiên trong trắng của tuổi thơ ngây.

Lại một hình ảnh của một cậu bé ăn nửa hộp kem, còn một nửa hộp kem bố thí cho ông cụ già và em bé ăn xin đứng trước cửa hàng cô bán kem. Hình ảnh bố thí nhịn ăn để cho ngưới khác thật là tuyệt vời.

Một hành động ban lòng yêu thương cao cả của một cậu bé thơ ngây không lấy gì so sánh được.

Bố thí với một lòng thương yêu chân thật của cậu bé đối với những người bất hạnh trong xã hội thì không thể có ai ngờ được, mà cũng không hề có cha mẹ nào dạy cậu.

Nếu cháu làm việc bố thí qua lời dạy của người lớn thì đâu có mang ý nghĩa thương yêu bố thí xuất phát từ trong trái tim. Đó chẳng qua là sự bắt buộc bố thí theo tiếng gọi của các tổ chức từ thiện, của cha mẹ. Nó không không mang ý nghĩa của tình thương chân thật từ trong trái tim của mỗi người.

Hành động nhịn ăn nửa hộp kem để bố thí, đó là lòng thương yêu từ trong trái tim đã dạy cậu bé có những hành động hiếu sinh bố thí cao thượng mà trên đời này không lấy vật gì so sánh được. Phải không quý vị? Lại còn một hình ảnh hiếu sinh nữa, một cậu bé ngây thơ ấy cứ ngỡ rằng cậu sẽ cho em gái hết tất cả máu của mình để cứu em, rồi cậu sẽ phải chết. Và cậu bé đã sẵn sàng để làm điều đó. Thật tuyệt vời, một tình thương cao cả, một người anh tuổi còn thơ ngây trẻ con dám hy sinh sự sống của mình để cứu người em gái ruột thịt trong cơn bệnh ngặt nghèo. Thật không thể nào có bút mực diễn tả hết những hình ảnh đạo đức cao thượng mà chỉ có con người làm nên.

Trong tập sách còn biết bao hành động đạo đức khác, trông thì rất bình thường, nhưng thực sự rất cao cả như: Đức lễ, đức chấp nhận, tùy thuận, bằng lòng, v.v...

Mong rằng cuốn sách nhỏ này sẽ mang đến cho mọi người những sự thay đổi tốt đẹp trong cuộc sống hằng ngày, để cho tinh thần luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự.

Cuối cùng, chúng tôi xin thành kính tri ân tất cả các tác giả và mọi người đã giúp chúng tôi hoàn thành bộ sách đạo đức làm người, để làm lợi ích cho loài người trên hành tinh này.

Kính ghi

Tu Viện Chơn Như

ĐỨC LỄ

Tiên học lễ, hậu học văn”. Đọc lời dạy này, chúng ta thấy rất rõ người xưa đã quý trọng đạo đức như thế nào, trong nền giáo dục đào tạo con người.

Trong thời đại chúng ta, người ta ít quan tâm đến đạo đức, chỉ quan tâm đến nền khoa học công kỹ nghệ hóa thời đại để phục vụ đời sống vật chất. Vì thế đạo đức đang xuống cấp trầm trọng. Nếu ngay bây giờ, chúng ta không chấn chỉnh nền đạo đức thì tệ nạn xã hội sẽ dẫy đầy.

Trong gia đình, con cái chẳng kể cha mẹ, chửi mắng hỗn láo không chừa một ai. Dòng họ thân tộc, cô bác, con cháu chẳng còn coi ai ra gì, luôn luôn gọi cô bác bằng thằng này, thằng kia, con nọ. Một thời đại văn hoá vô đạo đức mà con người trở thành như loài cầm thú không có tôn ti trật tự, không biết phân biệt cô bác, người trên, kẻ dưới. Thật là đau lòng!

Bài 32: CẬU BÉ BRIAN

Brian là một cậu bé bảy tuổi. Cậu là người hay mơ mộng và luôn làm cho cô giáo của mình tức giận. Cô giáo của cậu lại là một người rất nghiêm khắc.

Một hôm, Brian đến trường trễ một tiếng đồng hồ. Ngay khi cậu vừa đến lớp, cô giáo của cậu vội ra khỏi lớp học, xuống văn phòng trường và gọi điện thoại cho mẹ Brian. “Hôm nay Brian đi học trễ một tiếng đồng hồ”, cô giáo nói. “Tôi gần như hết chịu nổi rồi!”.

Cả ngày hôm ấy, mẹ Brian hết sức lo lắng.

Cuối cùng, Brian cũng về đến nhà.

- Brian, có chuyện gì xảy ra ở trường vậy con? - Con đi học trễ. Cô giáo của con rất giận.

- Mẹ biết rồi. Cô ấy đã gọi điện cho mẹ. Mà chuyện gì đã xảy ra vậy con?

“Dạ”, Brian bắt đầu kể lại câu chuyện của mình: “Chắc trước đó trời có mưa, con thấy có rất nhiều sâu ở hai bên vỉa hè”. Cậu ngưng lại một lúc rồi nói tiếp: “Con biết các em nhỏ sẽ giậm lên chúng, nên con cố đem bỏ chúng lại vào trong những cái lỗ”.

Cậu ngước nhìn mẹ: “Con mất rất nhiều thời gian để làm việc đó, vì chúng không chịu đi mẹ ạ!”.

Người mẹ ôm cậu vào lòng và nói: “Mẹ yêu con lắm, Brian à!”.

Jay O’Callahan

 

BÀI LÀM

1- Đại ý:

Bài này nói về đức hiếu sinh của cậu bé Brian đối với loài sâu.

2- Phân đoạn:

Bài này chia làm 9 đoạn:

1- “Brian là một cậu bé bảy tuổi. Cậu là người hay mơ mộng và luôn làm cho cô giáo của mình tức giận ”. Câu này dạy đạo đức gì?

2- “Cô giáo của cậu lại là một người rất nghiêm khắc ”. Câu này dạy đạo đức gì? 3- “Một hôm, Brian đến trường trễ một tiếng đồng hồ. Ngay khi cậu vừa đến lớp, cô giáo của cậu vội ra khỏi lớp học, xuống văn phòng trường và gọi điện thoại cho mẹ Brian.

Hôm nay Brian đi học trễ một tiếng đồng hồ”, cô giáo nói. “Tôi gần như hết chịu nổi rồi! ”. Câu này dạy đạo đức gì?

4- “Cả ngày hôm ấy, mẹ Brian hết sức lo lắng. Cuối cùng, Brian cũng về đến nhà”. Câu này dạy đạo đức gì?

5- “Brian, có chuyện gì xảy ra ở trường vậy con? ”. Câu này dạy đạo đức gì?

6- “Con đi học trễ. Cô giáo của con rất giận”. Câu này dạy đạo đức gì?

7- “Mẹ biết rồi. Cô ấy đã gọi điện cho mẹ. Mà chuyện gì đã xảy ra vậy con? ”. Câu này dạy đạo đức gì?

8- “Dạ”, Brian bắt đầu kể lại câu chuyện của mình: “Chắc trước đó trời có mưa, con thấy có rất nhiều sâu ở hai bên vỉa hè. Cậu ngưng lại một lúc rồi nói tiếp: “Con biết các em nhỏ sẽ giậm lên chúng, nên con cố đem bỏ chúng lại vào trong những cái lỗ ”. Cậu ngước nhìn mẹ: “Con mất rất nhiều thời gian để làm việc đó, vì chúng không chịu đi, mẹ ạ!”. Câu này dạy đạo đức gì?

9- Người mẹ ôm cậu vào lòng và nói: “Mẹ yêu con lắm, Brian à!”. Câu này dạy đạo đức gì?

3- Đáp án:

Bài này có 9 đức hạnh:

1- Thiếu đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng ý hành.

2- Tính nghiêm khắc ý hành.

3- Thiếu đức nhẫn nhục ý hành, khẩu hành.

4- Thiếu đức nhân quả ý hành.

5- Đức điềm tĩnh ý hành.

6- Đức thành thật khẩu hành.

7- Đức tìm hiểu ái ngữ khẩu hành.

8- Đức hiếu sinh đa hướng khẩu hành.

9- Đức cảm thông lòng yêu thương.

4- Giải trình án:

ĐỨC THỨ NHẤT THIẾU ĐỨC NHẪN NHỤC, TÙY THUẬN, BẰNG LÒNG Ý HÀNH

Đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng ý hành là một đức hạnh nhân bản - nhân quả giúp cho mọi cá nhân con người diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp, tức là giúp cho mọi người không còn tức giận phiền muộn; không còn to tiếng la lối chửi mắng người khác; không còn dùng những lời nói tục tĩu, kém văn hóa, chửi thề, mạt sát, mạ lị, v.v.. làm mất ái ngữ đối với những người khác; không còn những hành động thô bạo, hung dữ, múa tay, múa chân, xỉa xói, chỉ vào mặt, v.v.. những người khác.

Đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thường đem lại cho chúng ta một sức bình tĩnh kỳ lạ khi đứng trước những lời mạ nhục, vu khống hoặc nói xấu, v.v.. của những người khác. Bởi đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng giúp tâm chúng ta bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Muốn tâm chúng ta được như vậy là nhờ vào phương pháp như lý tác ý.

Theo phương pháp như lý tác ý, khi chúng ta bị người khác vu khống, nói oan ức, nói lời mạ nhục, chửi mắng, xỉa xói, v.v.. thì chúng ta chỉ cần tác ý: “Tâm bất động như đất, tất cả các pháp xảy ra là do nhân quả thiện ác, đều vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Vậy ta hãy buông xuống, buông xuống cho thật sạch, chỉ còn tâm thanh thản, an lạc và vô sự mới thật là an vui giải thoát; mới thật sự cuộc sống có ý nghĩa làm người. Ngoài ra trên đời này không có pháp nào có ý nghĩa cao thượng không làm khổ mình, khổ người. Vì thế, không nên để pháp nào tác động vào tâm chúng ta được. Nếu để tác động vào tâm chúng ta là chúng ta ngu si, mê mờ vô minh, thiếu trí tuệ sáng suốt, thiếu chủ động, làm nô lệ, tay sai cho nhân quả”. Khi tác ý như vậy, tâm chúng ta trở nên bình tĩnh, thản nhiên, không còn tức giận một cách lạ thường. Vì thế không một lời nói ác nào tác động vào tâm ta được. Cho nên chúng ta lúc nào cũng giữ gìn lời nói ôn tồn, nhẹ nhàng, nhã nhặn đầy ái ngữ tình yêu thương và tha thứ.

Làm người nếu không sống với đức hạnh nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng thì sự khổ đau sẽ không thể nào tránh khỏi, đời sống sẽ trở nên đen tối, thường sống trong cảnh địa ngục trần gian.

Đoạn văn trên đây dùng chữ mơ mộng để chỉ tính tình cậu bé Brian là không đúng. Vì cậu bé này không sống mơ mộng, mà sống bình đẳng với tình thương yêu trong sự sống của muôn loài. Tình yêu thương ấy cậu bé Brian đã thể hiện qua đức hạnh hiếu sinh đa hướng. Vì thế cậu thực hiện tình yêu thương ấy bằng đức dũng cảm. Mặc dù cậu biết rằng đi học trễ sẽ bị cô giáo tức giận, phạt, hay còn bị cô giáo đánh đòn và báo cho mẹ cậu biết, do điều này làm mẹ cậu buồn phiền, nhưng trước cảnh chết chóc của loài sâu, cậu không thể nào làm ngơ trước những con sâu bị các em bé giậm chết. Vì thế, cậu đi lượm từng con sâu bỏ vào trong những chiếc hang của chúng, để chúng khỏi chết. Một cậu bé mà có lòng yêu thương như vậy thì người lớn có sánh kịp chăng? Một cậu bé có lòng yêu thương như vậy không thể cho cậu là một đứa bé sống mơ mộng viển vông.

Lòng yêu thương loài sâu bọ qua hành động của cậu bé Brian đã dạy cho chúng ta một bài học đạo đức hiếu sinh vô giá, không lấy một vật gì so sánh được, khiến cho chúng ta không bao giờ quên. Phải không quý vị? Trong bài học học ấy toát lên được đức dũng cảm gan dạ phi thường, mà chỉ có lòng yêu thương chân thật từ trong trái tim mới dám làm.

Cô giáo là một người tính nóng nảy, thiếu đức trầm tĩnh, nên khi thấy cậu đi học trễ liền gọi điện thoại về báo cho mẹ cậu biết là cậu đi học trễ một giờ. Đó là hành động nông nổi, hấp tấp vội vàng làm phiền lòng người khác. Nếu cô giáo của cậu có đức trầm tĩnh, hỏi han: “Brian, cớ sao em đi học trễ như vậy?”. Khi hiểu ra sự việc, chắc cô giáo sẽ thương yêu người học trò nhỏ có lòng nhân ái mà trong đời này ít có người nào có đức nhân ái như vậy.

Trong đoạn này chúng ta rút ra được những bài học đức hạnh nhân bản - nhân quả rất cụ thể và rõ ràng:

1- Đức trầm tĩnh, không nóng nảy hấp tấp.

2- Đức ái ngữ, lời nói ôn tồn, nhã nhặn, êm dịu.

3- Đức nhân ái, hiền lành, thương yêu và tha thứ.

Nếu mọi người đều biết sống với ba đức này thì xã hội là Thiên Đàng, gia đình là nơi tổ ấm, bản thân đôn hậu sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.

ĐỨC THỨ HAI TÍNH NGHIÊM KHẮC Ý HÀNH

Tính nghiêm khắc là một tính hạnh khiến cho người khác không dám xem thường. Vì thế khi nghiêm khắc phải nghiêm khắc với những người đang theo học với mình. Bởi mình phải có trách nhiệm hướng dẫn họ vào đời sống bằng một sự thi hành theo mệnh lệnh, như luật của quân đội để họ không làm sai. Cho nên sự nghiêm khắc luôn luôn làm cho người ta sợ hãi hơn là cởi mở với lòng yêu thương.

Đoạn văn trên đây dùng chữ nghiêm khắc để chỉ cho tính nghiêm khắc của cô giáo rất đúng.

Nhưng chúng ta cũng nên biết, tính nghiêm khắc luôn luôn thiếu lòng yêu thương và tha thứ, vì chữ nghiêm khắc có nghĩa là nghiêm nghị và khắc nghiệt. Người có tính nghiêm khắc là người hay tức giận, thường làm khổ mình, khổ người. Tính nghiêm khắc không bao giờ đi đôi với lòng thương yêu, tha thứ và sự cởi mở, vui vẻ để giúp cho mọi người có thiện cảm, gần gũi với mình nhiều hơn.

Tính nghiêm khắc khiến cho ai cũng cảm thấy có một sự cách biệt giữa người lớn và kẻ nhỏ; giữa giai cấp này và giai cấp khác; giữa người làm quan và kẻ làm dân; giữa người làm thầy và kẻ làm học trò. Tính nghiêm khắc quá độ khiến cho dân và quan cách xa nhau; khiến cho học trò và thầy giáo không gần gũi nhau; khiến cho cha mẹ và con cái có một hàng rào ngăn cách không thể gần gũi trau đổi tình yêu thương chan hòa. Cho nên khi chúng ta sống với tính nghiêm khắc là tự chúng ta làm khổ mình, làm khổ người. Ngược lại, chúng ta sống với đức nghiêm nghị thì lại khác. Người nghiêm nghị không bao giờ nói đùa nói giỡn; không bao giờ cười cợt khiếm nhã; không bao giờ nói lời thô lỗ, hung dữ, cộc cằn; không bao giờ nói lời tục tĩu, chửi thề; không bao giờ to tiếng mắng chửi ai; không bao giờ xưng hô phách lối “mày, tao, mi, tớ...”; không bao giờ múa tay, múa chân, xỉa xói vào mặt người khác, v.v.. như muốn đánh họ.

Người có tính nghiêm nghị luôn luôn mang theo tình thương yêu và tha thứ, vì thế nghiêm nghị nhưng rất cởi mở và hoan hỷ, không cười cợt, nói đùa, nói giễu, nói châm biếm, nói những lời vô ích, v.v...

Người có tính nghiêm nghị luôn luôn nói lời thẳng thắn, chân thật, không bao giờ nói dối, nói lời xảo trá, nói lời khinh bỉ, chê bai hay chỉ trích, nói xấu, nói oan, nói vu khống người khác.

Người có đức nghiêm nghị hoan hỷ thì mới dễ gần gũi mọi người, trong nghiêm nghị vui vẻ giao tiếp với mọi người nhưng lời nói lúc nào cũng chân thật, thẳng thắn, vì thế mọi người dễ cảm thông, nên mến thương nhau nhưng lại kính trọng nhau. Ngược lại, nghiêm nghị nhưng không hoan hỷ là tính nghiêm khắc. Tính nghiêm khắc khiến cho người ta xa nhau.

Người có đức nghiêm nghị nhưng biết lễ nghĩa cung kính tôn trọng mọi người bằng những lời nói khiêm tốn, khiến cho mọi người không thấy mình bị coi rẻ, nhất là những người thân trong gia đình. Do nghiêm nghị mà thiếu đức khiêm tốn thì nghiêm nghị trở thành tính nghiêm khắc và đang tỏ ra bản ngã. Đó là thị hiện bản ngã kẻ trên, người dưới. Còn ngược lại, nghiêm nghị khiêm tốn mới thật là đức nghiêm nghị diệt ngã, xả tâm. Nhờ có đức nghiêm nghị khiêm tốn thì trong xã hội loài người mới có đức lễ cung kính, tôn trọng lẫn nhau bằng sự sống bình đẳng trong cuộc đời này.

Muốn cho mọi người không khinh thường nhau thì phải nghiêm nghị trong lời nói, nhưng rất hoan hỷ tùy thuận trong mọi ý kiến của mọi người, và còn phải biết tỏ ra cung kính, tôn trọng những điều người ta nói thẳng, nói thật.

ĐỨC THỨ BA THIẾU ĐỨC NHẪN NHỤC Ý HÀNH, KHẨU HÀNH

Đức nhẫn nhục là một đức hạnh giúp cho chúng ta vượt qua những ác pháp, khiến cho tâm chúng ta trở nên yên ổn và an lạc. Cho nên đức nhẫn nhục rất cần thiết cho những người mới tu tập xả tâm ly dục, ly ác. Vì nó khiến tâm chúng ta được bình tĩnh hơn; nhờ có tâm bình tĩnh chúng ta mới nhẫn nhục được trong các nghịch cảnh; nhờ nhẫn nhục được chúng ta mới tư duy quán sát từng ác pháp, nên mới ngăn và diệt được các ác pháp một cách rất dễ dàng; nhờ ngăn và diệt được ác pháp dễ dàng nên tâm chúng ta mới bất động. Nhờ tâm bất động chúng ta mới sống trong chân lí giải thoát của Phật giáo, TÂM THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ. Đó là một trạng thái chân thật của thân tâm giải thoát hoàn toàn các ác pháp, vì thế trong trạng thái chân lí này nhân quả không còn chỗ đất đứng.

Ở đây, cô giáo thiếu đức bình tĩnh nhẫn nhục, nên vừa thấy cậu bé Brian đi học trễ là vội vàng gọi điện thoại báo tin cho mẹ cậu bé biết. Đó là một điều rất dở của cô giáo. Là một cô giáo, người truyền đạt kiến thức văn hóa và đạo đức cho học trò, thì cô giáo phải mang tình thương yêu đến với học trò của mình, giống như tình thương yêu của một người mẹ hiền.

Muốn được vậy thì cô giáo nên tập luyện đức bình tĩnh nhẫn nhục. Nhờ có đức bình tĩnh nhẫn nhục trong tình yêu thương học trò, cô giáo mới để tâm tìm hiểu lý do như thế nào mà cậu bé Brian đi học trễ. Đấy là cô giáo mới thật sự xứng đáng là người dạy học, người truyền đạt tư tưởng văn hóa đạo đức; người trăm năm trồng người.

Khi biết rõ lý do đi học trễ của học trò mình, cô giáo mới khuyến khích hoặc khuyên dạy cậu bé Brian học tập tốt hơn. Trách nhiệm của một cô giáo là phải tìm hiểu người học trò của mình để an ủi và giúp đỡ, chớ không phải chỉ có biết phạt vạ, răn đe khiến cho học sinh mất sự cảm mến và yêu thương thầy cô giáo của mình. Và vì vậy, cô giáo và học trò dễ dàng xa cách, không cảm thông và gần gũi nhau thì khó giáo dục và truyền đạt những gì tốt đẹp cho học trò của mình.

Nhờ cô giáo có tình thương yêu như người mẹ thương con thì học trò và cô giáo rất gần gũi nhau. Nhờ có tình cảm gần gũi như người chị và các em, như người mẹ và các con thì sự truyền đạt văn hóa và đạo đức cho học trò mới dễ dàng tiếp thu, tiếp thu trong sự ham thích học hành của tình yêu thương, nhờ đó các em mới nâng cao trình độ kiến thức văn hóa ngày một tiến lên. Bởi vậy, tình thương của cô giáo với học sinh phải giống như tình thương của cha mẹ thì học sinh mới học hành chăm chỉ, không còn biếng trễ.

Cho nên đức nhẫn nhục rất cần thiết cho mọi người. Nó mang lại cho mọi người một sức bình tĩnh to lớn để cùng nhau sống trong một gia đình, một xã hội mà có trật tự và an vui hạnh phúc và chia sẻ nhau trong những nỗi nhọc nhằn gian khổ của kiếp làm người. Con người sinh ra và lớn lên trong nhân quả, nên thọ chịu biết bao là đau khổ. Nhờ con người biết sống trong nền đạo đức nhân bản - nhân quả, nên đã chuyển nghiệp sống khổ đau thành nghiệp sống an vui và hạnh phúc. Bởi vậy, đạo đức nhân bản - nhân quả rất cần thiết cho loài người, nhờ đó mà loài người mới sống bình an, yên vui và hạnh phúc, với tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự.

Đức nhẫn nhục rất quan trọng như vậy, nếu bản thân nhẫn nhục được thì tâm sẽ dễ dàng bất động, và sự giải thoát của Phật giáo có ngay liền nơi đó.

Trong gia đình mà mọi người biết nhẫn nhục thì gia đình đó sẽ an vui vô cùng vô tận, không bao giờ có bạo lực gia đình. Nhẫn nhục là một đức hạnh rất cần thiết cho mọi người cùng chung sống nhau trong một gia đình. Chính hạnh phúc gia đình có được là nhờ vào đức nhẫn nhục, tùy thuận và vui lòng trước những cảnh trái ý nghịch lòng.

Ngoài xã hội, mọi người biết sống với đức nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng thì xã hội luôn luôn có trật tự, có sự an ổn và con người không làm khổ cho nhau nữa.

ĐỨC THỨ TƯ THIẾU ĐỨC NHÂN QUẢ Ý HÀNH

Đạo đức nhân quả là mười điều thiện, nếu ai sống đúng mười điều thiện thì làm gì nhân quả tác động được, chỉ vì mọi người chưa sống đúng mười điều lành của nhân quả, nên sân giận, nên lo lắng và sợ hãi.

Khi nghe tin con đi học trễ, cô giáo tức giận, thì người mẹ nào lại không lo lắng cho con, có nhiều bà mẹ còn tức giận con, chờ con về la mắng. Riêng mẹ của cậu bé Brian chỉ lo lắng suốt ngày hôm ấy, vì tình mẹ thương con.

Đọc qua bài này, chúng ta thấy ít có người mẹ nào như mẹ của cậu bé Brian, tuy lo lắng cho con nhưng rất bình tĩnh, không hề tỏ ra một chút giận dữ nào đối với con cả. Bà bình tĩnh khi con về đến nhà, dùng lời nói ôn tồn, nhẹ nhàng nhưng đầy lòng yêu thương và âu yếm.

Trên đời này thật hiếm có người mẹ nào có sự bình tĩnh như thế.

Như chúng ta đã biết, tất cả mọi sự việc trên đời này xảy ra đều do nhân quả, nếu một người am tường đạo đức nhân quả thì không bao giờ sợ hãi hay lo lắng một điều gì cả. Bởi vì mọi vật đều theo qui luật của nhân quả mà đến mà đi, dù cho có lo lắng thì cũng không sao tránh khỏi.

Đứng trước mọi sự việc xảy ra, người được trang bị kiến thức đạo đức nhân quả thì không bao giờ sợ hãi. Dù là bệnh đau hay cái chết trước mắt, tinh thần họ rất dũng cảm, không bao giờ nao núng. Cho nên, sự hiểu biết đạo đức nhân quả cho bản thân của mọi người rất cần thiết, vì đó là một loại kiến thức hiểu biết để trang bị sức bình tĩnh trước các ác pháp.

Người sống trong đạo đức nhân quả luôn luôn biết cung kính, tôn trọng mọi người, nên luôn dùng ái ngữ, lời nói ôn tồn nhã nhặn, từ tốn, khiêm hạ, do đó gia đình rất hạnh phúc yên vui, vì không ai làm nghịch ý, trái lòng nhau.

Người sống đúng đạo đức nhân quả thì chuyển được những tai nạn bệnh tật, những việc tranh tụng thưa kiện, những sự tranh chấp hơn thua, những âm mưu giết hại lẫn nhau, tránh được những tai nạn giao thông và thoát khỏi những kẻ trộm cắp cướp của giết người. Bởi vậy, đạo đức nhân quả rất cần thiết cho cuộc sống mọi người trong cộng đồng xã hội.

Chúng ta là những tu sĩ Phật giáo luôn luôn phải giữ gìn và sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả, thì tâm chúng ta sẽ bất động trước các pháp ác và các cảm thọ. Đó là sự giải thoát của Phật giáo, chứ không phải còn tu tập pháp môn nào khác nữa, nếu có pháp môn nào tu tập khác nữa đó là pháp môn của ngoại đạo, chứ Phật giáo chỉ khuyên mọi người nên sống với nền đạo đức nhân bản - nhân quả đã có sẵn từ lâu, từ trước khi đức Phật ra đời.

ĐỨC THỨ NĂM ĐỨC ĐIỀM TĨNH ÁI NGỮ KHẨU HÀNH

Người nào biết sống với đức điềm tĩnh ái ngữ thì không bao giờ làm khổ người khác, vì lời nói nhẹ nhàng, êm dịu, ngọt ngào. Mẹ của cậu bé Brian thật là đầy đủ đức điềm tĩnh nên hỏi con một cách ngọt ngào. Lời nói đầy ái ngữ của bà với một tình yêu thương con trọn vẹn, rất xứng đáng là một người mẹ hiền nhân hậu: “Brian, có chuyện gì xảy ra ở trường vậy con?”. Chúng ta chỉ đọc câu hỏi này đã nhận thấy toát ra một tình yêu thương từ trong trái tim của người mẹ hiền nhân ái.

Trên đời này, nếu có ai làm sai một điều gì, hoặc làm chướng ngại tâm chúng ta, thì chúng ta nên luôn luôn giữ gìn đức điềm tĩnh ái ngữ, thì những đối tượng của chúng ta sẽ chuyển biến thay đổi những ác pháp khiến cho mọi người sẽ gần gũi và yêu thương nhau hơn. Do đó trong xã hội này đâu có ai sân giận chửi mắng, đánh nhau. Phải không quý vị? Không còn có ai sân hận chửi mắng, đánh nhau thì xã hội sẽ có trật tự an ninh, người trên kính nhường kẻ dưới, kẻ dưới cung kính tôn trọng người trên. Và như vậy trong một xã hội con người biết tôn trọng cung kính lẫn nhau thì xã hội ấy là cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Lúc bấy giờ thế gian là cảnh giới Cực Lạc, Thiên Đàng, thì còn ai niệm Phật cầu vãng sinh nữa.

Nếu trong gia đình mọi người ai ai cũng đều giữ gìn đức điềm tĩnh ái ngữ thì làm sao có bạo lực gia đình; thì làm sao có cơm không lành canh không ngọt; thì làm sao có vợ chồng chửi mắng, đánh nhau, li dị nhau. Mọi người đều sống với đức điềm tĩnh ái ngữ thì gia đình bình an và hạnh phúc biết bao.

Về phần cá nhân mọi người phải siêng năng tập sống với đức điềm tĩnh ái ngữ, thì lời nói sẽ không làm khổ mình, khổ người, luôn luôn đem lại sự bình an cho mình, cho người. Bởi vậy, đức điềm tĩnh ái ngữ khẩu hành rất cần thiết cho mọi người. Làm người chúng ta nên quyết tâm sống cho bằng được với những đức hạnh này.

Một đức hạnh rất tuyệt vời, đem lại sự sống chung nhau an lành trên hành tinh này. Một tình thương yêu hòa chan trong từng trái tim của mọi người.

ĐỨC THỨ SÁU ĐỨC THÀNH THẬT KHẨU HÀNH

Trên đời này, người thành thật không bao giờ dối trá với một người nào hết, biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, có làm lỗi thì thành thật nói lỗi mình ra. Nói lỗi mình ra đừng sợ ai cười chê. Người biết nói lỗi để sửa lỗi là người biết cầu tiến trên đường đạo đức để trở thành người toàn thiện. Người dám nói lỗi mình ra là người gan dạ, có đầy đủ dũng cảm. Người như vậy được mọi người đều quý trọng, thương yêu.

Khi nghe mẹ hỏi, cậu bé Brian thành thật nói cho mẹ biết, không giấu diếm tội lỗi của mình chút nào: “Con đi học trễ, cô giáo con tức giận”. Lời nói quá thành thật, khiến cho người mẹ càng thương con mà không tức giận. Bởi vậy lời nói thành thật, không dối trá là lời vàng, lời ngọc. Chính lời nói chân thật làm cho mọi người đặt trọn lòng tin nơi mình hơn, nếu mình nói không thật thì còn ai tin mình nữa, phải không? Đức thành thật khiến mọi người không nghi ngờ. Vợ hay chồng nghi ngờ nhau nên mới có sự ghen tuông. Nếu tin nhau thì làm sao có ghen tuông? Do đối xử nhau không thật nên có dấu hiệu gì là nghi ngờ nhau. Từ chỗ nghi ngờ, vợ hay chồng dễ đi đến chỗ cãi cọ đánh nhau, rồi ra tòa xin li dị không mấy khó khăn. Bởi vậy nói dối là một điều rất xấu xa, đem đến những sự đau khổ mãi mãi cho mình, cho người.

Đức thành thật là một đức hạnh luôn luôn bảo vệ gia đình, đem lại sự bình an cho mình và cho mọi người thân trong gia đình.

Đức Phật dạy: Một người không thành thật thì không một điều ác nào họ không làm được.

Cho nên ngay từ lúc bây giờ, chúng ta nên giữ gìn đức thành thật, vì có thành thật thì không đánh mất giá trị con người.

Đức thành thật quan trọng như vậy đối với con người, nếu có thành thật thì mới tin tưởng nhau, còn không thành thật thì không tin tưởng nhau. Khi không tin tưởng nhau mà sống chung nhau là cảnh sống địa ngục.

Một người dối trá là tự mình không tin nơi mình là người tốt. Không tin nơi mình là người tốt nên bất cứ điều ác nào mình cũng làm được.

Vì thế mình không bao giờ chịu sửa những điều sai, do đó sự đau khổ ngày càng chồng chất cao lên ngút ngàn.

ĐỨC THỨ BẢY ĐỨC TÌM HIỂU ÁI NGỮ KHẨU HÀNH

Người có đạo đức muốn tìm hiểu một điều gì thì cần nên dùng những câu hỏi mang tính ái ngữ giống như lời hỏi thăm, chứ không nên dùng lời cật vấn hăm dọa đòi đánh, đòi đá, đòi đạp như các điều tra viên, thường hỏi vặn, hỏi vẹo để bắt bí người khác. Khi cật vấn điều tra hỏi han như vậy làm cho người khác sợ hãi, thì đó không còn là đạo đức ái ngữ tìm hiểu, mà là ác ngữ thiếu đạo đức. Trên cuộc sống chung nhau trong thế gian này, chúng ta nên dùng đức ái ngữ tìm hiểu để thực hiện tình người, tình yêu thương con người với con người. Vì chính con người sinh ra trên đời này không ai là không đau khổ, muốn làm giảm sự khổ đau ấy thì chỉ có đức hiếu sinh, mà đức hiếu sinh thì trong ấy có đức tìm hiểu ái ngữ để hiểu nhau trong tình yêu thương, chứ không tìm hiểu nhau trong trong ác pháp, trong đau khổ. Cuộc đời vốn đau khổ mà lại làm gia tăng sự khổ đau, thay vì chúng ta nên làm giảm bớt sự đau khổ để đời sống được tươi đẹp hơn; được hạnh phúc, an vui hơn.

Để so sánh hai câu hỏi tìm hiểu. Một câu ác ngữ và một câu ái ngữ. Trên đây là câu nói của bà mẹ trong bài học đạo đức này mới thật chính là đức ái ngữ tìm hiểu: “Mà chuyện gì đã xảy ra vậy con?”. Câu hỏi tìm hiểu bằng lời nói ái ngữ nghe êm dịu và ngọt ngào làm sao, với lòng yêu thương và đầy tha thứ của một người mẹ dạy con. Nếu trên đời này ai cũng giống như bà mẹ của cậu bé Brian thì thế gian này là Thiên Đàng. Phải không quý vị?

Câu hỏi để tìm hiểu của bà mẹ Brian nghe sao mà chứa chan tình yêu thương mẹ con, thấm thía làm sao! Câu hỏi tìm hiểu nhưng chứa chan tình người, mang đầy đủ tính chất tình cảm với nhau thật là tuyệt vời. Nhờ câu hỏi ái ngữ tìm hiểu mà con người gần gũi nhau hơn, thương yêu nhau hơn. Chính nhờ đó mà cuộc sống tràn đầy niềm vui.

Ngược lại, câu hỏi tìm hiểu sau đây là ác ngữ: “Tại sao mầy đi học trễ?”. Câu hỏi nghe không ngọt ngào, mà phách lối, cay cú, hung dữ; không có tình người, mà thiếu đức hiếu sinh. Câu hỏi tìm hiểu này làm cho người ta rất sợ hãi. Vì thế, người không dối trá khi nghe câu hỏi này cũng sinh ra dối trá.

Đức ái ngữ tìm hiểu là một đạo đức làm cho mọi người ngày ngày trở nên đạo đức tốt đẹp hơn, trở nên những người tốt cho bản thân, cho gia đình và xã hội.

Đạo đức ái ngữ tìm hiểu rất quan trọng cho đời sống con người. Vì con người cần phải tìm hiểu nhau. Tìm hiểu nhau mà không biết dùng đức ái ngữ tìm hiểu thì cuộc sống của mọi người làm sao tin tưởng nhau được.

Tìm hiểu nhau được mới cảm thông nhau, mới yêu thương nhau chân thật, mới chia sẻ nhau những cay đắng ngọt bùi trên cuộc đời này. Người mẹ của Brian đã tìm hiểu được con mình nên bà không buồn phiền con, mà lại thương con nhiều hơn. Việc đi học trễ là một lỗi lầm rất lớn của các em học sinh, thế mà cậu bé Brian vì lòng thương yêu cao thượng giúp cho loài sâu thoát chết mà phạm lỗi đi trễ học. Lỗi đi học trễ để cứu loài sâu có đáng cho chúng ta phạt cậu bé Brian này không, thưa quý vị?

ĐỨC THỨ TÁM ĐỨC HIẾU SINH ĐA HƯỚNG KHẨU HÀNH

Cậu bé Brian thành thật trả lời cho mẹ biết tại sao mình đi học trễ, cậu bé không nói mình thương yêu loài sâu bọ, nhưng nói lên những hành động cậu đi bắt từng con sâu bỏ vào hang của chúng, để tránh các em bé khác đi giẫm lên, sẽ làm những con sâu phải chết. Những hành động nói lên lòng yêu thương loài vật tuyệt vời của một cậu bé mới bảy tuổi. Lòng yêu thương ấy đối với chúng ta, là những người lớn, mà so sánh đức hiếu sinh với cậu bé này thì không thể nào chúng ta hơn được. Khi hiểu biết rõ như vậy chúng ta phải cố gắng hơn, luôn luôn sống với tình yêu thương rộng lớn với mọi người, mọi loài vật. Và nhờ vậy tình yêu thương của chúng ta sẽ không thua kém chú bé Brian.

Chính cậu bé Brian đã dạy cho chúng ta một bài học đạo đức hiếu sinh về loài vật có một giá trị tình thương yêu cao thượng, nhất là cậu can đảm dám bỏ một giờ học, để làm một việc cao cả cứu sống biết bao nhiêu là con sâu. Tuy cậu biết rằng sẽ bị cô đánh hay bị phạt, và bị cô báo cho mẹ biết. Biết vậy, nhưng cậu không nỡ bỏ mặc cho những con sâu phải chết một cách thảm thương dưới bước chân của các em bé. Thật là một tình thương cao cả, gan dạ, dám hy sinh mình cứu chúng sinh. Thật là tuyệt vời, không có lòng yêu thương nào hơn được! Nghe cậu bé Brian thuật lại những hành động giúp đỡ loài sâu thoát chết cho mẹ nghe, làm chúng ta rất xúc động và tự nghĩ lòng thương yêu của mình còn kém xa đối với cậu bé này.

Hiện chúng ta còn giết hại và ăn thịt chúng sinh, không một chút lòng thương xót khi loài vật giãy giụa trên dao dưới thớt. So sánh như vậy, đức hiếu sinh chúng ta có bằng cậu bé này không? Với những con sâu nhỏ bé như vậy cậu còn thương yêu thay, huống là với những loài vật khác. Phải không quý vị? Trên cuộc đời này, chỉ có đức hiếu sinh mới đem lại sự hòa bình cho loài người. Những điều trước mắt chúng ta biết đức hiếu sinh sẽ đem lại sự bình an cho mình, cho mọi người và cho mọi loài vật trên hành tinh này. Ngoài đức hiếu sinh ra, không còn có đức hạnh nào hơn được. Chúng ta là con người thì phải lấy đức hiếu sinh làm đầu trong cuộc sống. Vì cuộc sống có bình yên, an vui và hạnh phúc đều nhờ vào đức hiếu sinh cả. Cho nên đức hiếu sinh rất quan trọng trong cuộc sống hằng ngày của con người đối với con người, và con người đối với các loài vật.

ĐỨC THỨ CHÍN ĐỨC CẢM THÔNG LÒNG YÊU THƯƠNG KHẨU HÀNH, THÂN HÀNH

Có một đứa con biết thương yêu loài vật như vậy, làm sao người mẹ không ôm con vào lòng, tỏ ra một lòng yêu thương vô bờ bến. Con đi học trễ chỉ vì thực hiện lòng yêu thương, thì làm sao lại có người mẹ nào mắng con hay đánh con cho đành. Nếu cô giáo có đức điềm tĩnh, cặn kẽ hỏi cậu bé Brian; “Sao hôm nay em đi học trễ như vậy?”. Thì chắn chắc cô sẽ ngạc nhiên vô cùng. Khi đứng trước lòng từ ái yêu thương của cậu học trò mình, mới bảy tuổi mà thể hiện lòng yêu như vậy khó có ai nghĩ đến.

Hiểu được lòng yêu thương ấy thì cô giáo làm sao phạt hay rầy mắng người học trò thân thương của mình được. Phải không quý vị? Bởi vậy, trên đời này đức cảm thông hiếu sinh rất cần thiết cho mọi người. Vì có cảm thông sự khổ đau của người khác, cho nên chúng ta mới thương yêu và tha thứ. Có thương yêu và tha thứ mà không có sự cảm thông thì sự thương yêu tha thứ ấy không thành thật. Cho nên đức cảm thông hiếu sinh rất cần thiết cho mọi người. Vì có thương yêu, cảm thông những nỗi đau khổ của người khác, thì chúng ta mới buông xả những điều chướng ngại trong tâm mình.

Có cảm thông những người thân trong gia đình thì gia đình mới có hạnh phúc và sự an vui chân thật. Không cảm thông nhau thì gia đình là địa ngục.

Trong xã hội, mọi người đều cảm thông nhau thì tệ nạn xã hội không có. Vì có cảm thông nhau chúng ta mới giúp đỡ tận tình. Giúp đỡ nhau tận tình bằng cách xóa đói giảm nghèo thì những tệ nạn xã hội đâu còn nữa. Vì thế, trong xã hội mọi người đều cảm thông nhau thì cuộc sống sẽ chan hòa tình yêu thương nhau, lá lành đùm bọc lá rách.

Bài 33: HỘP KEM

- Chị ơi, xin lỗi chị, chị có thể đổi lại cho em hộp kem loại năm ngàn được không ạ? Cô chủ quán lộ vẻ khó chịu khi đang định đặt hộp kem loại 10 ngàn xuống cho vị khách nhỏ.

Như không để ý đến ánh mắt xem thường của cô gái, chỉ sau một loáng, cậu bé đã ăn hết hộp kem. Tiến đến quầy trả tiền với tờ mười ngàn duy nhất trên tay, cậu bé nói nhỏ với cô gái:

- Chị vui lòng gởi phần tiền còn lại cho bác có đứa con nhỏ đang đứng trước cửa quán giúp em nhé! Cậu bé quay lưng đi, cô gái chợt lặng người.

Người đàn ông mù cầm cây đàn đang đứng cạnh đứa con gái bé nhỏ mà ít phút trước đó đã bị cô mời ra khỏi quán.

First New

BÀI LÀM

1- Đại ý:

Đại ý bài này nói về đức hiếu sinh của một cậu bé giành một nửa hộp kem của mình cho một cụ già và em bé ăn xin. Hành động một cậu bé làm được như vậy thật là tuyệt vời, chỉ có những tâm hồn cao thượng.

2- Phân đoạn:

Bài này có 4 đoạn:

1- Chị ơi, xin lỗi chị, chị có thể đổi lại cho em hộp kem loại năm ngàn được không ạ?

2- Cô chủ quán lộ vẻ khó chịu, khi đang định đặt hộp kem loại 10 ngàn xuống cho vị khách nhỏ.

3- Như không để ý đến ánh mắt xem thường của cô gái, chỉ sau một loáng, cậu bé đã ăn hết hộp kem. Tiến đến quầy trả tiền với tờ mười ngàn duy nhất trên tay, cậu bé nói nhỏ với cô gái:

- Chị vui lòng gởi phần tiền còn lại cho bác có đứa con nhỏ đang đứng trước cửa quán giúp em nhé!

4- Cậu bé quay lưng đi, cô gái chợt lặng người. Người đàn ông mù cầm cây đàn đang đứng cạnh đứa con gái bé nhỏ mà ít phút trước đó đã bị cô mời ra khỏi quán.

3- Đáp án:

Bài này có 4 đức:

1- Đức lễ.

2- Thiếu đức bằng lòng.

3- Đức hiếu sinh bố thí.

4- Đức hối hận.

4- Giải trình án:

ĐỨC THỨ NHẤT ĐỨC LỄ

Đạo đức giao tiếp và đối xử nhau duy chỉ có đức lễ là những hành động đẹp đẽ nhất của con người. Cậu bé trước tiên muốn đổi lại một hộp kem 10 đồng bằng hộp kem 5 đồng, cậu nói: “Chị ơi, xin lỗi chị...”. Lời nói rất lịch sự, nghe ngọt ngào dễ thương, v.v.. đó là đức lễ.

Đức lễ là một hành động khẩu hành, lời nói rất êm dịu, ngọt ngào, lịch sự. Cho nên lời nói về đức lễ có rất nhiều như:

1- Lời nói xin lỗi.

2- Lời nói cảm ơn.

3- Thưa chú! Thưa bác!

4- Kính thưa quý vị!

5- Kính thưa các vị đại biểu!

6- Kính thưa chánh quyền các cấp!

7- Cháu vui lòng giúp bác một việc làm này được không?

8- Cảm ơn cháu đã giúp bác.

9- Ba mẹ cháu có mạnh khoẻ không?

10- Chị ơi! Xin lỗi chị…

11- Mà chuyện gì xảy ra ở trường vậy con?

12- Thưa ba, thưa mẹ ăn cơm.

13- Xin mời bác xơi nước, v.v...

Tất cả những hành động trên đây thuộc về đức lễ. Người sống với đức lễ khiến cho chúng ta trở thành người lịch sự, có đạo đức biết tôn trọng và cung kính mọi người.

Đức lễ là sự tôn kính lẫn nhau, người này biết tôn kính người kia; người kia biết tôn kính người này. Chính sự tôn kính như vậy tức là tôn kính sự sống của nhau. Vì sự sống của mọi người và mọi loài vật trên hành tinh này đều có quyền sống bình đẳng như nhau, cho nên không có một người nào có quyền cướp sự sống của người khác, loài vật khác. Người biết tôn trọng sự sống của mình thì phải tôn trọng sự sống của người khác và của những loài vật khác.

Trên đời này chỉ vì mọi người không biết tôn trọng sự sống của nhau, nên mới cướp sự sống của người khác và những loài vật khác, do đó không hiểu đạo đức nhân bản - nhân quả sống của muôn loài, nên thường vì sự sống của mình mà mang lại cho nhau những nỗi thống khổ.

Người biết giữ gìn đức lễ không những đem lại sự bình an cho mình, cho người, mà còn có những hành động mà mọi người đều quý mến và kính trọng.

Đức lễ thường mang lại sự an vui, hạnh phúc cho gia đình, vì chồng biết tôn kính vợ và vợ biết tôn kính chồng. Do sự tôn kính ấy, nên chồng không bao giờ đánh hay chửi mắng, nặng nhẹ vợ con. Và vợ cũng vậy, không bao giờ chửi bới, mạt sát chồng.

Bởi vậy, đức lễ rất cần thiết cho cuộc sống gia đình. Vợ hay chồng muốn có an vui, hạnh phúc thì đức lễ không thiếu được. Nó là bùa hộ mạng cho mỗi gia đình.

Đức lễ đối với xã hội rất cần thiết, vì xã hội có trật tự an ninh là do mọi người biết cung kính, tôn trọng lẫn nhau. Mọi người biết cung kính, tôn trọng lẫn nhau thì xã hội tự nhiên có trật tự an ninh. Vì biết cung kính, tôn trọng lẫn nhau thì không ai làm đau khổ cho ai.

Vì thế đức lễ cần phải được phổ biến rộng rãi đến với mọi người, mọi nơi.

Hai người bắt tay nhau hay chắp tay trước ngực rồi cúi đầu chào nhau, đó là họ đều sử dụng đức lễ. Hai người khi gặp nhau ôm nhau, hôn nhau tỏ lòng thương yêu nhau, đều là thực hiện đức lễ.

Khi đi đâu đều chắp tay cúi đầu và nói:

“Thưa ba mẹ, con đi với bạn con”, hay: “Thưa ba mẹ, chúng con đi Thành phố”, v.v… Khi trở về nhà đến gặp cha hay mẹ đều chắp tay cúi đầu chào và nói: “Thưa ba mẹ chúng con mới về”.

Còn người lớn giữ gìn đức lễ thì sao? Khi cha hay mẹ muốn đi đâu liền đến gặp các con và nói: “Ba mẹ đi thành phố các con ạ!”, hoặc: “Ba đi ra công sở các con ạ!” Khi người chồng muốn đi đâu đều đến gặp vợ và nói: “Anh đi làm em ạ!”, đầu hơi cúi chào vợ. Người vợ cũng vậy: “Em đi chợ anh ạ!”, và cũng hơi cúi đầu chào chồng.

Đó là đức lễ mà mọi người cần phải học tập để trở thành một thói quen rất tốt đẹp của một người có văn hóa đạo đức, nhất là người Việt Nam. Người Á đông chịu ảnh hưởng một nền đạo đức lễ nghĩa của nho giáo rất tuyệt vời, mà không có một dân tộc nào hơn Việt Nam.

Khi có người mang quà biếu cho chúng ta, chúng ta liền nói lời cảm ơn; hoặc có người giúp mình làm công việc gì, khi làm xong chúng ta nói lời cảm ơn. Đó cũng là đức lễ trong lời nói đẹp đẽ, lịch sự, có văn hóa và đạo đức, không còn ai dám chê được.

Khi chúng ta mang quà biếu cho người khác và nói: “Con kính gửi biếu bác bộ sách đạo đức, để có dịp rảnh bác nghiên cứu”, hoặc: “Con xin gửi biếu cô một ít trái cây ăn lấy thảo với ba mẹ con”. Đó cũng là đức lễ trong hành động và lời nói có lịch sự, văn hoá và đạo đức, trong sự cung kính, tôn trọng lẫn nhau.

Nếu làm người mà không thực hiện đức lễ như vậy thì đó là một người kém văn hóa và đạo đức. Người kém văn hóa đạo đức là người thô lỗ, là người ít ai muốn thân cận.

Khi bước chân vào một khu ấp văn hóa mà còn thấy nhiều người mở miệng nói ra những lời chửi thề thô tục, bẩn thỉu, thì biết rằng ấp văn hóa đó chỉ ở trên bảng đề, trên giấy trắng mực đen mà thôi.

Văn hóa và đạo đức phải thực hiện ra hành động và lời nói của mọi người, chứ không thể văn hóa và đạo đức chỉ trên sách vở, bài học hoặc trên bảng đề ẤP VĂN HÓA, mà người dân ở đó có văn hóa được sao? Nói văn hóa, đạo đức là nói đến những người trong ấp đó phải có những hành động biết cung kính và tôn trọng lẫn nhau.

Về vấn đề văn hóa và đạo đức thì chúng ta không nên đổ lỗi cho gia đình, mà cũng đừng đổ lỗi cho xã hội. Còn gia đình và xã hội phải có trách nhiệm và bổn phận giáo dục mọi người có văn hoá và đạo đức.

Trẻ em còn nhỏ từ 3 đến 8 tuổi thì gia đình chịu trách nhiệm hoàn toàn, vì tuổi này trẻ em sống gần gũi những người thân trong gia đình nên chịu ảnh hưởng gia đình rất nhiều. Nếu gia đình có văn hóa đạo đức thì các em có văn hóa đạo đức. Nếu gia đình thiếu văn hóa đạo đức thì các em thiếu văn hóa đạo đức. Khi các em từ 8 đến 17 là tuổi học trò, nên học đường chịu trách nhiệm, vì tuổi này các em thường xuyên học tập trong nhà trường, gần gũi bạn bè, thầy cô giáo, nên chịu ảnh hưởng giáo dục của trường học.

Nếu nhà trường dạy văn hóa và đạo đức thì các em trở thành những người có văn hóa và có đạo đức; bằng ngược lại thì các em thiếu văn hoá và đạo đức. Từ 18 tuổi trở lên, các em thường tiếp xúc với nhiều thành phần trong xã hội, khi đi làm trong các nhà máy, xí nghiệp hay trong các cơ quan văn phòng. Nếu xã hội có văn hóa, có đạo đức thì các em trở thành những người có văn hóa, có đạo đức. Bằng ngược lại, xã hội mọi người thiếu văn hóa, thiếu đạo đức thì các em sẽ chịu ảnh hưởng xấu đó mà trở thành những người thiếu văn hóa và đạo đức. Cho nên gia đình, học đường và xã hội phải thấy trách nhiệm của mình, chứ không được đổ trút cho gia đình:

“Ông bà mẫu mực con cháu thảo hiền”, đó là sai. Vì ông bà mẫu mực đối với con cháu từ 3 đến 8 tuổi, đó là tuổi trẻ em còn ở trong gia đình. Còn khi đến trường học, thì đây là trách nhiệm của trường học, vì các em tiếp xúc môi trường mới đó là trường học. Còn các em từ 18 tuổi trở lên thì xã hội chịu trách nhiệm, vì các em thường tiếp xúc với mọi người trong xã hội, nên dễ chịu ảnh hưởng xấu hay tốt của xã hội.

Làm người sống trong xã hội, ai cũng muốn bản thân, gia đình và xã hội đều có văn hóa đạo đức tốt đẹp, để bản thân được yên vui, gia đình được hạnh phúc và xã hội được có trật tự, an ninh.

ĐỨC THỨ HAI THIẾU ĐỨC BẰNG LÒNG

Bằng lòng là một đức hạnh đi sau đức nhẫn nhục và tuỳ thuận. Muốn bằng lòng một điều trái ý nghịch lòng thì phải biết nhẫn nhục, tùy thuận. Nếu không biết nhẫn nhục, tùy thuận, thì không thể bằng lòng được. Không bằng lòng được mọi ác pháp thì sẽ làm khổ mình, khổ người. Thầy giáo Kaplan nói câu nói rất tuyệt vời: “Người nào không biết cách chấp nhận sẽ làm tổn thương đến người khác, cũng như đến chính mình”. Khi nhà trường sa thải, ông rời trường học với một tư cách ung dung, thong dong không có một chút nào sợ hãi và hối tiếc.

Đúng là một vị thầy đầy đủ đức tùy thuận, bằng lòng. Đức tùy thuận, bằng lòng thật là cao thượng, mà thầy Kaplan đã thực hiện. Cô chủ quán bán kem thiếu đức tùy thuận nên lộ vẻ khó chịu khi đặt hộp kem 5 ngàn. Bởi cô chủ quán bán kem thiếu đức tùy thuận, bằng lòng, nên tự làm khổ mình. Tuy sự khổ đau không có gì đáng kể, nhưng không chủ động được tâm mà tạo cho cô những phút giây khó chịu. Đó là một sự vô minh, không sáng suốt thật tội nghiệp. Người không sống với đức tùy thuận, bằng lòng, nên mới chịu lấy những sự khổ đau như vậy, thật đáng thương! Với bản thân người biết sống với đức tùy thuận, bằng lòng, khi đứng trước các ác pháp, các đối tượng bất thiện và các hoàn cảnh nghịch ý, trái lòng, thì người ấy tâm luôn luôn bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Tại sao vậy? Tại vì, nhờ biết sống tùy thuận, bằng lòng, nên tâm mới an vui, thanh thản như vậy. Cho nên đức tùy thuận bằng lòng thật là tuyệt vời, nó luôn luôn đem lại sự bình an, yên vui và hạnh phúc cho mình, cho người.

Đức tùy thuận, bằng lòng rất cần thiết cho mọi người cùng sống chung nhau trong một gia đình, trong một xã hội. Nó thường mang lại cho mọi người một tình thương yêu chan hòa từ người trên đến kẻ dưới; từ người già tuổi cao tác lớn, đến các cháu bé trẻ thơ không bao giờ chống trái nhau; không bao giờ giận hờn chửi mắng nhau. Nó mang lại cho mọi người một cuộc sống chung hòa hợp đoàn kết yêu thương không bao có trái ý nghịch lòng; không bao giờ chia rẽ li gián, ganh tỵ hơn thua. Chỉ cần sống với đức tùy thuận, bằng lòng là chúng ta cảm thấy hạnh phúc vô cùng.

Trong xã hội loài người, nếu ai ai cũng biết sống với đức tùy thuận bằng lòng thì xã hội đó là Thiên Đàng, Cực Lạc, không còn ai tranh hơn, tranh thua nhau nữa.

Vì thế, trên đời này nếu ai ai cũng sống với đức tùy thuận, bằng lòng thì cuộc sống này sẽ được an vui và hạnh phúc, không còn có ai làm khổ cho ai. Có đúng vậy không quý vị? Đức tùy thuận, bằng lòng, nói thì dễ, nhưng làm được thì rất khó, nên ít ai làm được. Muốn sống được với những đức hạnh này thì người ấy phải có đủ sức bình tĩnh; nhờ có đủ sức bình tĩnh chúng ta mới lìa xa những ác pháp trong tâm; nhờ lìa xa những ác pháp trong tâm chúng ta mới tùy thuận, bằng lòng được những chướng ngại pháp xung quanh chúng ta.

Biết tùy thuận, bằng lòng nhưng không bị lôi cuốn vào ác pháp. Muốn hiểu rõ điều này, chúng tôi xin đem một vài ví dụ để quý vị dễ hiểu.

Ví dụ 1: Có một người bạn mời chúng ta uống rượu, nhưng rượu là một chất độc và trong giới luật Phật cấm uống rượu, vì uống rượu rất tai hại cho mình và cho người khác. Nên nếu tùy thuận, bằng lòng uống rượu theo người khác tức là chúng ta bị lôi cuốn trong ác pháp. Trước nghịch cảnh như vậy, chúng ta chọn cách tùy thuận nhưng không bị lôi cuốn trong ác pháp, đó là vui lòng nhận ngồi chung với các bạn, nhưng từ chối uống rượu vì lý do bệnh phải kiêng cữ rượu. Khi chúng ta bảo phải kiêng cữ rượu vì bệnh thì không còn ai mời chúng ta uống nữa.

Phải vậy không quý vị? Ví dụ 2: Nhà có cúng giỗ ông bà hay ngày tư, ngày Tết, mọi người đều thắp hương cúng và lạy, riêng chúng ta tùy thuận bằng lòng nhưng không bị lôi cuốn vào ác pháp mê tín phí tiền vô ích, bằng cách chúng ta chắp tay và quỳ lạy, nhưng không mua hoa tươi đem cúng, hoặc thắp hương hoặc đốt tiền vàng mã v.v... Đó là việc làm tùy thuận nhưng không bị lôi cuốn vào ác pháp.

Cho nên biết tùy thuận, bằng lòng nhưng không để bị lôi cuốn vào ác pháp, đó là một phương cách sống rất thiện xảo hết sức để giữ gìn những đức hạnh cho trọn vẹn, nhờ đó mới đem lại sự bình an cho mình, cho người; nhờ đó chúng ta mới mong dẫn dắt mọi người vào thiện pháp, mới mong thực hiện đức chấp nhận, tùy thuận, bằng lòng trong muôn vàn ác pháp và những hoàn cảnh khó khăn vô cùng.

ĐỨC THỨ BA ĐỨC HIẾU SINH BỐ THÍ

Bố thí là một đức hiếu sinh thương người, nhưng bố thí có nhiều cách như:

1- Bố thí công sức.

2- Bố thí tiền của.

3- Bố thí thực phẩm.

4- Bố thí lời nói.

5- Bố thí pháp.

Ở đây, cậu bé này bố thí tiền bằng cách nhịn ăn một nửa hộp kem mười ngàn, còn lại năm ngàn để cho ông già và con bé ăn xin. Nhịn ăn để bố thí cho người khác, khi chỉ là một cậu bé tí tẹo thì thật là tuyệt vời.

Dắt một bà cụ đi qua đường cũng là đức hiếu sinh bố thí ra công đưa người qua đường.

Nhường chỗ ngồi trên xe bus cho bà cụ già hay cho một người phụ nữ có con còn nhỏ đều là đức hạnh hiếu sinh bố thí. Nhường phần lợi cho người, nhận phần ít về mình cũng là đức bố thí, như Khổng Dung nhường lê. Nhường đường cho người khác đi cũng là đức bố thí. Dỗ dành một em bé đang khóc, làm cho em không khóc nữa cũng là bố thí tình thương yêu. Giúp người xách hay mang, hoặc gánh những vật nặng đỡ cho người khác cũng đều là đức bố thí. Cho nên bố thí rất nhiều mặt. Cậu bé bố thí bằng lời nói nhỏ nhẹ, ngọt ngào, khiến cho cô gái bán kem phải lặng người: “Chị ơi! Chị vui lòng gởi phần tiền còn lại cho bác có đứa con nhỏ đang đứng trước cửa quán giúp em nhé!”. Câu nói sao mà lễ độ, nhẹ nhàng êm ái, nghe qua ai mà không nhận ra tình thương của cậu bé đã gửi gắm trọn trong lời nói ấy, khiến nó trở thành một bài học đạo đức cho tất cả mọi người, chứ không riêng gì cho cô gái bán kem, phải không quý vị? Bố thí có rất nhiều cách, nhưng mỗi cách thức đều mang theo tính chất đạo đức hiếu sinh.

Từ lòng yêu thương chân thật chúng ta mới bố thí tất cả công sức, tiền của, lời khuyên và sự an ủi của mình đến với mọi người.

Đức bố thí giúp chúng ta mở rộng tấm lòng, buông xả vật chất, sống không còn ích kỷ, bỏn xẻn, hà tiện, keo kiệt, v.v...

Đức bố thí giúp chúng ta không còn coi trọng tiền của vật chất, luôn luôn nghĩ đến nỗi bất hạnh của người khác. Do đó thường tăng trưởng lòng yêu thương người khác nhiều hơn nữa. Vì cuộc đời còn nhiều người đau khổ. Đau khổ vì cơm ăn áo mặc; đau khổ vì nhà hư dột nát; đau khổ vì bệnh tật; đau khổ vì thua kém những người khác. Chương trình xóa đói giảm nghèo của Nhà nước, bố thí giúp vốn cho những người nghèo khó vươn lên để có cuộc sống không còn đói cơm khát nước nữa, đó cũng là nói lên được tình yêu thương lá lành đùm lá rách.

Trong đức bố thí đều có đầy đủ đức hiếu sinh. Chứ nếu không có đức hiếu sinh thì làm việc bố thí chỉ là một thủ đoạn làm danh làm lợi.

Cho nên bố thí phải xuất phát từ lòng thương yêu, ngoài lòng yêu thương mà bố thí thì không có ý nghĩa từ thiện.

Bởi vậy trên thế gian này có rất nhiều nhà từ thiện, mà từ thiện vì lòng yêu thương đối với những người bất hạnh trong xã hội thì đó là việc làm từ thiện tốt, nhưng lại có những nhà làm từ thiện để mưu cầu danh và lợi. Số đó không phải là ít. Cho nên, không phải tất cả những nhà từ thiện đều trong sạch, đều thiện cả.

ĐỨC THỨ TƯ ĐỨC HỐI HẬN

Người làm sai mà biết hối hận là người biết sửa sai, sửa lại những lỗi lầm của mình. Hối hận là một đức hạnh tuyệt vời, nó luôn luôn tự khắc phục những điều làm ác của mình, để trở thành con người không làm những điều ác nữa.

Vì vậy, nó còn được gọi là ĐỨC HẠNH BIẾT SỬA MÌNH.

Người không biết hối hận là người không biết sửa sai những lỗi lầm của mình. Người ấy đã làm cho mình khổ, người khác khổ hoặc những loài vật khác khổ. Người không biết hối hận là người không biết cải thiện đời sống của mình, không biết làm cho đời sống của mình đẹp đẽ và an vui hơn. Muốn biết cụ thể vấn đề này, chúng tôi cho một vài ví dụ thì quý vị sẽ thấy phần đông ít ai quan tâm đến đức hối hận biết sửa mình.

Ví dụ 1: Một người giết hại và ăn thịt chúng sinh, nhưng khi đã học đạo đức hiếu sinh, biết rõ sự sống phải bình đẳng như nhau, không ai có quyền cướp sự sống của nhau. Thế mà cứ vẫn giết hại và ăn thịt chúng sinh, thì đó là người không có đức hối hận. Người không có đức hối hận là người không biết sửa sai những lỗi lầm của mình. Người không biết sửa sai những lỗi lầm của mình thì đời sống của họ lúc nào cũng đen tối và đầy những sự đau khổ.

Ví dụ 2: Một người hay nói dối mà không biết hối hận, sửa sai những lỗi lầm nói dối không thành thật của mình, thì người ấy không bao giờ trở thành người tốt, người thành thật.

Người không thành thật là người không còn ai tin tưởng, lời nói của họ chẳng có giá trị.

Ví dụ 3: Một người hay la lối, to tiếng hung dữ, nói lời kém văn hóa, chửi thề, văng tục... mà không biết hối hận với những lời nói làm khổ mình, khổ người như vậy, thì thật là một người đáng trách. Một người có lời nói kém văn hóa thiếu đạo đức mà không chịu hối hận, khắc phục sửa sai những lỗi lầm ấy thật là người rất tệ, rất đáng thương.

Ví dụ 4: Một người làm sai và có thể đi đến những điều thất bại, khi được người thân chỉ cho biết đó là việc làm sẽ thất bại, nhưng người ấy cố gắng bào chữa sự sai của mình, chớ không chịu hối hận sửa sai. Đó là những người cố chấp. Họ không đáng ghét, chỉ vì tính quá cố chấp nên thật đáng thương.

Trên đời này không ai mà không có lỗi lầm, nhưng có lỗi lầm thì phải biết hối hận; biết hối hận thì phải biết cố gắng khắc phục sửa sai và từ bỏ, không dám làm những điều sai đó nữa, thì người ấy là người tốt, người biết chuyển mình trở thành người có đạo đức và văn hóa tốt đẹp hơn.

Khi lỡ lời nói không thật thì chúng ta phải biết hối hận, vì nói dối là một hành động xấu, là một hành động làm mất lòng tin của mình với những người khác. Người biết hối hận về sự nói dối của mình là người sẽ không bao giờ còn nói dối nữa. Chỉ có những người không biết hối hận nên mới nói dối mãi, và như vậy là những con người ấy không bao giờ tiến bộ trên nền đạo đức nhân bản - nhân quả. Cuộc đời họ phải chịu muôn vàn sự khổ đau, lời nói của họ không có giá trị, không còn ai tin tưởng nữa.

Người lỡ nói lời thô lỗ, cộc cằn hoặc chửi thề, la lối lớn tiếng với những người khác mà biết hối hận, thì người ấy không còn nói lời thô lỗ, cộc cằn, la lối lớn tiếng, chửi thề nữa. Người ấy sẽ trở thành người có đạo đức tốt, người biết sống không làm khổ mình, khổ người. Người ấy là người thật đáng khen, đáng mến. Vì người ấy là người biết phục thiện để chuyển mình trở thành người tốt, người có đức hạnh. Và như vậy nhờ đức hối hận, người ấy sẽ trở thành người toàn thiện, người sống không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sinh.

Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, còn biết bao nhiêu điều làm cho chúng ta hối hận, nhưng khi biết hối hận là biết sửa sai. Biết sửa sai là biết chuyển mình trở thành người có đạo đức, người tốt. Cho nên hối hận là một đức hạnh rất cần thiết cho mọi người để chấn chỉnh sửa sai, khiến cho gia đình hạnh phúc và xã hội đều được an ninh, trật tự.

Người lỡ nói xấu, vu khống người khác mà biết xấu hổ thì không bao giờ nói xấu hay vu khống người khác nữa, đó là người biết hối hận.

Một người có lòng ganh tị với người khác mà không biết hối hận sửa sai thì người ấy phải chịu khổ đau, đêm nằm không ngủ được.

Một người xả rác làm cho môi trường sống ô nhiễm, gây ra nhiều thứ bệnh khổ cho mọi người mà không biết hối hận sửa sai, cứ ung dung tự tại làm mất vệ sinh như vậy thì thật là con người đáng trách.

Chúng ta hãy nghe câu chuyện của cháu bé gái 6 tuổi đã thực hiện đức vệ sinh tuyệt vời, nó là một bài học sống động cho những ai không biết giữ vệ sinh chung trong môi trường sống của hành tinh, cứ làm sai mà không biết hối hận sửa sai thì thật là xấu hổ. Hình ảnh cháu bé giữ gìn vệ sinh là một bài học cho những ai sống bừa bãi thiếu đức hạnh vệ sinh. Họ nên lấy đó làm một bài học để xấu hổ và hối hận với cháu bé 6 tuổi. Bởi vì mình là người lớn mà không bằng cháu bé. Vả lại, chúng ta là con người chứ không phải là con thú vật, đụng đâu xả rác đó.

Phải vậy không quý vị? Nhất là tu sinh tại tu viện Chơn Như hãy giữ gìn đức vệ sinh môi trường sống xung quanh tu viện, cũng như xung quanh thất của mình ở. Có bọc ni lông, có hộp xốp bằng nhựa, có những bao nhựa đựng xi măng rải tung tóe bừa bãi trông rất dơ bẩn, mất vệ sinh, hãy thu góp nhặt lại có nơi, có chỗ để thiêu đốt, làm cho sạch đẹp môi trường sống thì mới được gọi là nơi tu hành có văn hóa văn minh. Ăn ở thiếu đức vệ sinh thì đâu được gọi là tu sinh của tu viện Chơn Như.

Tu sinh tu viện Chơn Như phải làm gương đức hạnh vệ sinh cho mọi người, chứ đâu xả rác làm dơ bẩn như người ở ngoài đời. Khi về thăm tu viện mà thấy bao bọc ni lông tung tóe khắp nơi thì thầy biết ngay là các con không noi theo gương hạnh của đức Phật. Thật là đáng trách! Đây là câu chuyện đức vệ sinh mà một ông cậu thuật lại đứa cháu gái của mình sống ở Hong Kong, nghỉ hè được về Việt Nam chơi:

Người cậu dắt cháu đi dạo ở trung tâm Sài Gòn và mua cho mấy cái kẹo. Khi bỏ viên kẹo vào miệng rồi, cháu cứ cầm mãi cái vỏ kẹo. Người cậu giục quăng đi, cháu nhìn quanh rồi phụng phịu: “Không thấy thùng rác nào gần đây đâu, cậu ạ!”. Cứ thế, cháu nắm chặt cái vỏ kẹo trong tay, cho đến khi tìm được thùng rác thì bàn tay đã ướt đẫm mồ hôi. Ở nước ta, hình như các lớp mẫu giáo cũng dạy thiếu nhi giữ gìn vệ sinh công cộng, nhưng người lớn xả rác bừa bãi thì trẻ con làm sao noi gương?

Những người xả rác hãy noi theo gương hạnh đạo đức vệ sinh của cháu bé này mà hối hận sửa sai. Thử hỏi quý vị xả rác có bằng cháu bé này không? Chiếc vỏ kẹo cầm trên tay không bao giờ bỏ bậy, chờ đến thùng rác mới chịu bỏ. Một hành động đạo đức vệ sinh của cháu bé thật tuyệt vời! Một bài học sống động cho những ai còn sống xả rác dơ bẩn, thiếu đức vệ sinh giống như con thú vật đụng đâu bài tiết đó.

Bước vào thôn, xóm, ấp, thỉnh thoảng có nơi đề bảng ấp văn hóa to tướng, mà hai bên lề đường và xung quanh nhà dân, ngay cả bảng đề ẤP VĂN HÓA mà bọc ni lông đựng đầy rác bẩn quăng ném tứ tung, trông bẩn thỉu ghê gớm. Vậy mà đăng ký ấp văn hóa là văn hoá ở chỗ nào? Làm sao gọi là ấp văn hóa được phải không, thưa quý vị? Có dịp đi du ngoạn ra bãi biển Long Hải để nghỉ ngơi và tắm biển, hít thở không khí trong lành, nhưng không ngờ, những bọc ni lông đựng thực phẩm ôi thối đã ăn xong lại ném bừa bãi dưới cội phi lao và dọc theo bờ biển, trông rất bẩn thỉu, hết muốn tắm và nghỉ mát nơi đây.

Thời đại văn minh, con người tiến bộ hơn về khoa học công nghệ kỹ thuật, nhưng đạo đức lại xuống cấp, văn hóa đồi trụy đưa con người đi đến chỗ tha hóa hư hỏng. Vì thế trong mỗi gia đình, ai có con cái thì cần phải lưu ý cảnh giác, để giúp cho con cháu mình trở thành người có đạo đức, người tốt. Đừng nên giao phó hết cho nhà trường, cho xã hội, mà phải thấy trách nhiệm, bổn phận của mình trong việc dạy dỗ con cái.

Khi thấy một việc làm sai, một việc làm khổ mình, khổ người thì phải hối hận, ăn năn chừa bỏ, không nên lập lại những điều sai đó nữa.

Đây là câu chuyện thứ hai:

Về nhà, người cậu khen đứa cháu gái 6 tuổi ngay trước mặt đứa cháu trai 7 tuổi: “Bé là thần tượng của cậu về ý thức bảo vệ môi trường!”. Không ngờ thằng cháu trai không được khen nên giận, không thèm nói chuyện với người chú suốt cả buổi chiều. Sáng hôm sau, thằng cháu vừa gặp chú đã nhe răng cười: “Cháu không ghét chú nữa!”. Người chú hỏi tại sao, không ganh tị nữa à? Thằng cháu lắc đầu:“Ghét chú làm đêm qua cháu khó ngủ quá. Ghét người ta thì mình cũng mệt lắm. Từ nay cháu không ghét ai nữa...”. Thú thật, người chú không thể ngờ lại nhận được hai bài học thấm thía nơi hai đứa cháu nhỏ dại.

Qua lời nói của đứa cháu trai 7 tuổi, chúng ta biết rõ cậu bé nhỏ dại mà còn biết hối hận sửa sai khi sinh tâm ganh tị với đứa em gái 6 tuổi của mình, bởi như vậy là tự làm khổ. Thì chúng ta là những người lớn, chúng ta nghĩ sao? Hay cứ để tự mình làm đau khổ cho mình. Người tự làm mình đau khổ và làm cho người khác đau khổ mà không biết hối hận sửa sai những điều làm đau khổ đó là người quá tệ, quá vô minh, tức là người không sáng suốt. Họ tự làm ra mọi sự khổ đau và phải gánh chịu mọi khổ đau ấy, thật là đáng trách!

Bài 34: CÒN AI NÓI LỜI CẢM ƠN

Câu chuyện của một người vợ, ngày nọ, chị chợt nhớ ra lâu nay mình đã quên nói lời cảm ơn chồng… Đó là vấn đề của một người hay của nhiều người chồng, người vợ? Bảy năm rồi, tôi vẫn nhớ rõ gương mặt hớn hở của người chồng, như trẻ con được quà, hôm anh vào viện đón hai mẹ con về nhà. Bó hoa tươi thắm chuyển vào tay tôi: “Cám ơn em đã sinh cho anh đứa con xinh xắn!” Ngày bụng tôi kềnh càng, tuần nào anh cũng mua cua, kỳ cạnh về giã để “em ăn cho con cứng xương”... Bao năm qua, anh vẫn nói lời cảm ơn vợ khi nhờ tôi đón con hoặc mua thứ này, thứ khác... Còn tôi quá kiệm lời cảm ơn với chồng.

Chẳng phải tôi không cảm động trước những việc anh đã làm cho tôi, cho gia đình. Chỉ là thấy quá quen nhau rồi nên đâu cần phải cảm ơn. Thậm chí tôi còn nghĩ lời cảm ơn có vẻ khách sáo xa cách lắm... Bạn tôi cũng bảo:

nhiều lúc nói lời cảm ơn trực tiếp với vợ khi vợ tặng quà, chăm sóc, nhưng sao thấy khó thế.

Đành phải dùng điện thoại nhắn tin cảm ơn vợ.

“Tớ nghĩ người lạ mới cần cảm ơn. Người trong nhà với nhau đâu cần cầu kỳ thế. Đến bố mẹ tớ còn chẳng cảm ơn bao giờ mà”.

Tôi còn nhớ ngày 8-3 năm nào, chồng hớt hải chạy về cho kịp giờ cơm, bó hoa trên tay xơ xác tặng hai mẹ con ngày lễ. Anh thanh minh:

“Xếp hàng mãi mới mua được hoa. Mà ngày hôm nay đông thật đấy!”. Tôi chỉ cằn nhằn: “Về thì muộn, mua hoa làm gì cho đắt...” Rồi một 8- 3 năm khác, chồng tặng tôi phong bì, trong là hóa đơn điện thoại đã được thanh toán có dòng chữ nắn nót: “Tặng em, chúc em luôn vui vẻ và mặt không được ủ rũ”. Tôi phì cười nói: “Hâm quá, ngày này tặng hoa quà chứ ai tặng thứ này!” Có lần về quê, tôi chợt giật mình khi nghe mẹ chồng nhẹ nhàng cảm ơn bố chồng với việc giúp đỡ rất nhỏ. Thấy mẹ chồng giật sợi dây lạt từ xe đạp không nổi, bố chồng liền cầm ra cái dao, bảo: “Bà cầm dao mà cắt giật thế bao giờ ra”. “Vâng, tôi cảm ơn ông”. Chính điều này làm tôi giật mình. Một người văn hóa đại học, sống ở thành phố lớn như tôi mà không cảm ơn chồng vì những việc vặt như thế bao giờ.

Hằng ngày, tôi vẫn dạy con phải biết nói “cảm ơn”, “xin lỗi”, mà bản thân lại quên xử dụng chúng với chính chồng mình. Tôi thường bắt con cảm ơn khi tôi lấy hộ quyển truyện, đồ chơi, và con tôi nghiêm chỉnh chấp hành. Vậy mà những lời cảm ơn chồng trong hàng ngàn việc anh giúp mình, tôi lại chẳng thốt ra được! Lục vấn lại, thấy văn hóa cảm ơn của tôi vẫn có và vẫn thể hiện hằng ngày, nhưng là với...

người dưng! Đi chợ người ta cho thêm cọng hành nấu canh, buột miệng cảm ơn ngay. Hay chủ quán nước lấy hộ cái ghế ân cần, cảm ơn rất nhanh và thoải mái. Người đi đường nhắc cái chân chống xe chưa gạt, cũng với theo cảm ơn.

Sao những lời cảm ơn như thế lại nói dễ vậy? Có phải là do suy nghĩ đối với người lạ dễ cảm ơn hơn và cần phải thể hiện văn hóa hơn? Còn với người thân, với vợ, với chồng, quá văn hóa thì không... gần gũi? Lời cảm ơn sao khó nói với người mình thương yêu thế, nhưng lời cắn đắng thì lại quá dồi dào! Những lần chồng về muộn, những buổi lỡ hẹn làm tôi phải chở con đi chơi một mình, chuyện quần áo bừa bãi, chuyện bóng đèn chưa thay...

Ngày tôi 20 tuổi, bà ngoại bảo vợ chồng là phải “tương kính như tân” - lúc nào cũng kính trọng nhau như những ngày đầu thì cuộc sống mới lâu bền, dễ chịu. Ngày đó tôi đã phì cười cho là bà cổ lỗ... Nhưng nhìn cảnh mẹ chồng tôi mới hiểu: lời cảm ơn đâu chỉ tỏ lòng biết ơn, mà còn là bày tỏ tình yêu dành cho nhau.

Đừng đổ lỗi cho cuộc sống hối hả khi ta quên cảm ơn chồng, vợ. Đừng quên cảm ơn người thân khi vẫn còn cơ hội. Bạn kể tôi nghe một kỷ niệm ân hận, day dứt tận bây giờ. Trời hôm đó mưa to lắm, sáng bạn quên không mang áo mưa.

Vợ bạn đi xe ôm tới, đem cho bạn áo mưa vì sợ chiều về chồng bị ướt. Bạn cằn nhằn: “Mưa thế đến làm gì cho ướt hết người. Khổ quá, sao mà lẩn thẩn thế!”. Rồi ngày vợ bạn mất vì bệnh ung thư, bạn thì thầm bên vợ đâu còn nghe thấy! Vợ, chồng làm việc tốt cho nhau vì tình yêu thương, chẳng hề mong nhận lại lời cảm ơn.

Cảm ơn vợ chồng chẳng bao giờ là lời khách sáo. Đó là sự thể hiện lòng biết ơn, tôn trọng người bạn đời của mình. Khi cuộc sống gia đình thiếu sự tôn trọng lẫn nhau, sự bền vững chỉ còn đếm bằng giờ.

Biết cảm ơn bạn sẽ nhận được nhiều thứ hơn cả vàng bạc...

Vân Khánh

Báo Tuổi Trẻ, Chủ Nhật 17/02/2008

BÀI LÀM

1- Đại ý:

Bài này đại ý nói về đức lễ “LỜI CẢM ƠN” với những người thân trong gia đình sao khó quá.

2- Phân đoạn:

Bài này có 13 đoạn:

1- Bảy năm rồi, tôi vẫn nhớ rõ gương mặt hớn hở của người chồng, như trẻ con được quà, hôm anh vào viện đón hai mẹ con về nhà. Bó hoa tươi thắm chuyển vào tay tôi và nói: “Cám ơn em đã sinh cho anh đứa con xinh xắn! ”

2- Ngày bụng tôi kềnh càng, tuần nào anh cũng mua cua, kỳ cạch về giã để “em ăn cho con cứng xương ”...

3- Bao năm qua, anh vẫn nói lời cảm ơn vợ khi nhờ tôi đón con hoặc mua thứ này, thứ khác… Còn tôi quá kiệm lời cảm ơn với chồng.

4- Chẳng phải tôi không cảm động trước những việc anh đã làm cho tôi, cho gia đình. Chỉ là thấy quá quen nhau rồi nên đâu cần phải cảm ơn. Thậm chí tôi còn nghĩ lời cảm ơn có vẻ khách sáo xa cách lắm... Bạn tôi cũng bảo: nhiều lúc nói lời cảm ơn trực tiếp với vợ khi vợ tặng quà, chăm sóc, nhưng sao thấy khó thế. Đành phải dùng điện thoại nhắn tin cảm ơn vợ. “Tớ nghĩ người lạ mới cần cảm ơn. Người trong nhà với nhau đâu cần cầu kỳ thế. Đến bố mẹ tớ còn chẳng cảm ơn bao giờ mà”.

5- Tôi còn nhớ ngày 8-3 năm nào, chồng hớt hải chạy về cho kịp giờ cơm, bó hoa trên tay xơ xác tặng hai mẹ con ngày lễ. Anh thanh minh: “Xếp hàng mãi mới mua được hoa. Mà ngày hôm nay đông thật đấy!” Tôi chỉ cằn nhằn: “Về thì muộn, mua hoa làm gì cho đắt...” Rồi một 8-3 năm khác, chồng tặng tôi phong bì, trong là hóa đơn điện thoại đã được thanh toán có dòng chữ nắn nót: “Tặng em, chúc em luôn vui vẻ và mặt không được ủ rũ ”. Tôi phì cười nói: “Hâm quá, ngày này tặng hoa quà chứ ai tặng thứ này!”.

6- Có lần về quê, tôi chợt giật mình khi nghe mẹ chồng nhẹ nhàng cảm ơn bố chồng với việc giúp đỡ rất nhỏ. Thấy mẹ chồng giật sợi dây lạt từ xe đạp không nổi, bố chồng liền cầm ra cái dao, bảo: “Bà cầm dao mà cắt giật thế bao giờ ra ”. “Vâng, tôi cảm ơn ông”.

7- Chính điều này làm tôi giật mình. Một người văn hóa đại học, sống ở thành phố lớn như tôi mà không cảm ơn chồng vì những việc vặt như thế bao giờ.

8- Hằng ngày, tôi vẫn dạy con phải biết nói “cảm ơn ”, “xin lỗi ”, mà bản thân lại quên xử dụng chúng với chính chồng mình. Tôi thường bắt con cảm ơn khi tôi lấy hộ quyển truyện, đồ chơi, và con tôi nghiêm chỉnh chấp hành. Vậy mà những lời cảm ơn chồng trong hàng ngàn việc anh giúp mình, tôi lại chẳng thốt ra được!

9- Lục vấn lại, thấy văn hóa cảm ơn của tôi vẫn có và vẫn thể hiện hằng ngày, nhưng là với... người dưng! Đi chợ người ta cho thêm cọng hành nấu canh, buột miệng cảm ơn ngay.

Hay chủ quán nước lấy hộ cái ghế ân cần, cảm ơn rất nhanh và thoải mái. Người đi đường nhắc cái chân chống xe chưa gạt, cũng với theo cảm ơn. Sao những lời cảm ơn như thế lại nói dễ vậy?

10- Có phải là do suy nghĩ đối với người lạ dễ cảm ơn hơn và cần phải thể hiện văn hóa hơn? Còn với người thân, với vợ, với chồng quá văn hóa thì không... gần gũi? Lời cảm ơn sao khó nói với người mình thương yêu thế, nhưng lời cắn đắng thì lại quá dồi dào! Những lần chồng về muộn, những buổi lỡ hẹn làm tôi phải chở con đi chơi một mình, chuyện quần áo bừa bãi, chuyện bóng đèn chưa thay...

11- Ngày tôi 20 tuổi, bà ngoại bảo vợ chồng là phải “tương kính như tân ” - lúc nào cũng kính trọng nhau như những ngày đầu thì cuộc sống mới lâu bền, dễ chịu. Ngày đó tôi đã phì cười cho là bà cổ lỗ... Nhưng nhìn cảnh mẹ chồng tôi mới hiểu: Lời cảm ơn đâu chỉ tỏ lòng biết ơn, mà còn là bày tỏ tình yêu dành cho nhau.

12- Đừng đổ lỗi cho cuộc sống hối hả khi ta quên cảm ơn chồng, vợ. Đừng quên cảm ơn người thân khi vẫn còn cơ hội. Bạn kể tôi nghe một kỷ niệm ân hận, day dứt tận bây giờ. Trời hôm đó mưa to lắm, sáng bạn quên không mang áo mưa. Vợ bạn đi xe ôm tới, đem cho bạn áo mưa vì sợ chiều về chồng bị ướt. Bạn cằn nhằn:

Mưa thế đến làm gì cho ướt hết người. Khổ quá, sao mà lẩn thẩn thế!”. Rồi ngày vợ bạn mất vì bệnh ung thư, bạn thì thầm bên vợ đâu còn nghe thấy!

13- Vợ, chồng làm việc tốt cho nhau vì tình yêu thương, chẳng hề mong nhận lại lời cảm ơn. Cảm ơn vợ chồng chẳng bao giờ là lời khách sáo. Đó là sự thể hiện lòng biết ơn, tôn trọng người bạn đời của mình. Khi cuộc sống gia đình thiếu sự tôn trọng lẫn nhau, sự bền vững chỉ còn đếm bằng giờ.

Biết cảm ơn bạn sẽ nhận được nhiều thứ hơn cả vàng bạc...

3- Đáp án:

Bài này có 13 đức:

1- Đức cảm ơn khẩu hành.

2- Đức chăm sóc thân hành.

3- Thiếu đức cảm ơn khẩu hành.

4- Quen mặt xem thường, thiếu đức cảm ơn khẩu hành.

5- Thiếu đức cảm ơn khẩu hành.

6- Đức cảm ơn khẩu hành.

7- Đức hối hận ý hành.

8- Thiếu đức lễ cung kính, tôn trọng khẩu hành.

9- Quen mặt thiếu đức cung kính cảm ơn.

10- Thiếu đức cung kính, tôn trọng khẩu hành.

11- Đức cảm ơn, bao gồm đức cung kính hiếu sinh.

12- Đức hối hận khẩu hành, ý hành.

13- Đức lễ cung kính và tôn trọng.

4- Giải trình án:

ĐỨC THỨ NHẤT ĐỨC CẢM ƠN KHẨU HÀNH

Lời cảm ơn là một đức hạnh nói lên được sự cung kính, tôn trọng và thân thương đến với mọi người, vì thế lời nói cảm ơn rất cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta với mọi người, nhất là những người thân trong gia đình.

Mỗi khi có ai giúp đỡ chúng ta những việc làm nặng hay nhẹ, chúng ta đều cảm ơn họ.

Cũng như mỗi khi có ai tặng một món quà gì, dù ít, dù nhiều, nhưng tượng trưng tình người, nó đều nói lên được lòng yêu thương quý mến của những người khác với chúng ta. Vì thế, chúng ta phải nói lời cảm ơn, vì lời nói cảm ơn là một lời nói hết sức lịch sự và đầy đủ ý nghĩa biết ơn và yêu thương, nhưng trong lời nói cảm ơn ấy còn có sự tôn trọng và cung kính nhau.

Người chồng vì biết cung kính tôn trọng vợ, biết thương yêu nên tỏ ra những hành động cung kính tôn trọng và thương yêu của mình bằng những bó hoa tươi thắm, bằng những lời nói cảm ơn. Chúng ta hãy đọc lại đoạn văn này:

“Bảy năm rồi, tôi vẫn nhớ rõ gương mặt hớn hở của người chồng, như trẻ con được quà, hôm anh vào viện đón hai mẹ con về nhà. Bó hoa tươi thắm chuyển vào tay tôi và nói: “Cám ơn em đã sinh cho anh đứa con xinh xắn!”. Lời nói tuy đơn giản, mộc mạc, nhưng đầy đủ ý nghĩa tình thương và biết ơn.

Trong gia đình mọi người đều phải biết cung kính và tôn trọng lẫn nhau, thì lời nói cảm ơn với những người thân trong gia đình lại giúp mọi người gần gũi và tình yêu thương gắn bó nhiều hơn. Nhất là lời nói cảm ơn lại giúp mọi người tỏ ra lòng tôn kính và quý trọng lẫn nhau một cách cụ thể rõ ràng.

Bài này đã xác định rất rõ do mọi người trong gia đình vì quá quen mặt, thân thuộc nên thiếu sự cung kính tôn trọng lẫn nhau, vì thế lời nói cảm ơn rất gượng gạo, khó nói. Còn trẻ con dễ nói lời cảm ơn là vì cha mẹ dạy sao nói vậy.

Nhất là trẻ con tính chất còn thơ ngây, chưa biết chấp bản ngã nên sự cung kính và tôn trọng với người lớn, cũng như với những đứa trẻ khác bằng tuổi hoặc nhỏ hơn vẫn thực hiện một cách trôi chảy mà không thấy có gì khó khăn và trở ngại cả.

Với những người thân, người lớn tuổi như ông bà, cha mẹ thì nói lời cảm ơn rất dễ dàng, còn với chồng, với vợ là những người ngang nhau, hoặc con cái trong gia đình là những người nhỏ hơn nên nói lời cảm ơn rất khó, vì đó là mang tính chất chấp ngã, xem như mình là người lớn.

Trong những hành động đạo đức nào cũng vậy, chỉ nên hằng ngày tập luyện để trở thành những thói quen, những thói quen tốt, những thói quen sống không làm khổ mình, khổ người, đó là những thói quen sống đem lại sự bình an cho mình, cho người và cho muôn vật.

ĐỨC THỨ HAI ĐỨC CHĂM SÓC THÂN HÀNH

Hành động chăm sóc giúp đỡ cho người khác là đức hiếu sinh chăm sóc, nếu chăm sóc cho người để lấy tiền thì không phải là hành động đạo đức hiếu sinh chăm sóc.

Đức hiếu sinh chăm sóc là đem công sức mình ra làm giúp đỡ cho người khác mà không tính tiền, tính công cán, như cha hay mẹ chăm sóc con cái; như con cái chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ. Những hành động chăm sóc đó đều gọi là đức hiếu sinh chăm sóc.

Người vợ lo làm bữa ăn hoặc may vá quần áo cho chồng, con là đức hiếu sinh chăm sóc.

Người chồng đi làm về cùng làm phụ với vợ, dọn cơm và thực phẩm hay lau nhà, rửa bát, chén, đĩa. Những hành động đó là đạo đức hiếu sinh chăm sóc.

Như đoạn văn này: “Ngày bụng tôi kềnh càng, tuần nào anh cũng mua cua, kỳ cạnh về giã để “em ăn cho con cứng xương”. Đó là người chồng chăm sóc sức khỏe khi người vợ mang thai. Hành động làm như vậy là đạo đức hiếu sinh chăm sóc. Nhưng nếu người vợ là người có đạo đức, lễ nghĩa thì liền nói: “Cảm ơn anh đã chăm sóc cho em”. Lời nói nghe đơn giản mà lại gieo vào lòng người một tình yêu thương chan chứa của hai người, khiến cho tình yêu thương càng bền chặt nhiều hơn, càng thêm khăng khít khó quên.

Đạo đức quá xuống cấp, người vợ thật tệ, vì quá quen mặt, nên sự tôn kính lẫn nhau đã quên mất, vì vậy người vợ không thốt ra lời nói cảm ơn chồng.

Cuộc sống hằng ngày của chúng ta luôn luôn phải thực hiện đạo đức hiếu sinh chăm sóc lẫn nhau cho những người thân trong gia đình, có như vậy gia đình mới yên vui và hạnh phúc.

Những hành động đạo đức thường gắn liền trong cuộc sống không có phút nào lơi lỏng, nếu lơi lỏng không sống trong đạo đức thì khổ đau sẽ đến ngay liền. Bởi vậy, chỉ có đạo đức mới đem lại sự bình an cho mình và cho người, nếu chúng ta quên đi chỉ trong một phút giây không đạo đức là chúng ta gặp ngay sự đau khổ không những trong tâm, mà còn bản thân phải thọ lấy vô cùng đau khổ, bệnh tật hay tai nạn này, tai nạn khác, hoặc nói nặng lời nhau gây ra nhiều điều phiền não.

Những hành động chăm sóc cho nhau là những hành động đạo đức mà người ở đời cần nên có. Nhưng chăm sóc không đúng cách như mua rượu hay thuốc lá cho chồng con uống hay hút là những hành động sai, đó không phải đạo đức chăm sóc mà là hành động hại chồng con, khiến cho họ nghiện ngập trở thành người bệnh tật.

Hành động biết nhường nhịn nhau từng lời nói, không nói những lời gay gắt, không nói những lời dữ dằn, cộc cằn khiến cho những người thân trong gia đình buồn phiền. Đó là những lời nói thiếu đức hiếu sinh chăm sóc cho nhau.

Chăm sóc hiếu sinh không phải ở hành động làm việc này, việc khác giúp nhau, mà chăm sóc hiếu sinh còn là lời nói. Lời nói đem lại sự an vui cho mình, cho người là lời nói đạo đức hiếu sinh chăm sóc cho nhau.

Cho nên hành động đạo đức hiếu sinh chăm sóc cần phải cẩn thận, không khéo sẽ trở thành người thiếu đạo đức hiếu sinh chăm sóc. Chăm sóc như thế nào đúng và như thế nào sai, xin quý vị lưu ý và còn phải học hiểu nhiều hơn.

Trong cuộc đời, biết sống có đạo đức hiếu sinh chăm sóc từ hành động việc làm đến hành động lời nói thì con người trên hành tinh này không bao giờ khổ đau.

ĐỨC THỨ BA THIẾU ĐỨC CẢM ƠN KHẨU HÀNH

Cảm ơn là một đức lễ tuyệt vời, vì nó luôn luôn gắn liền với đời sống của con người, nên khi mới lớn lên, cha mẹ đã dạy chúng ta cảm ơn mỗi khi có ai cho một cái gì, làm giúp một điều gì thì câu cảm ơn phải thực hiện ngay liền, chứ không phải làm thinh nhận quà biếu mà không nói lời nào thì thật là đạo đức văn hóa quá kém khuyết, quá dở tệ, đáng trách là người biết ăn mà không biết nói.

Câu nói cảm ơn rất gần gũi với con người, nên khi có người hỏi thăm sức khoẻ của cha hay mẹ:

- Ba mẹ con có khỏe không? - Dạ, cảm ơn bác, ba mẹ con vẫn khỏe mạnh.

Người thiếu đức cảm ơn là người thiếu lòng cung kính, tôn trọng và biết ơn người khác.

Ví dụ như người vợ trong gia đình này, họ kiệm lời cảm ơn với chồng tức là họ giảm sự cung kính tôn trọng chồng. Cho nên, người vợ không nói lời cảm ơn với chồng được, họ xem như lời nói cảm ơn với chồng con đó là lời khách sáo ngoài đầu môi chót lưỡi, không thành thật. Dù có nói ra cũng đầy vẻ gượng gạo khó nói: “Còn tôi quá kiệm lời cảm ơn với chồng”.

Như trên đã nói: khó nói lời cảm ơn tức là đã giảm lòng cung kính và tôn trọng chồng.

Người chồng biết ơn và cung kính tôn trọng vợ, nên thường thấy vợ làm giúp cho mình một việc gì trong gia đình thì người chồng cảm ơn vợ ngay liền: “Bao năm qua, anh vẫn nói lời cảm ơn vợ khi nhờ tôi đón con hoặc mua thứ này, thứ khác...” Lời nói cảm ơn của người chồng tỏ ra người chồng rất thương yêu và tôn trọng vợ, không coi thường vợ, đúng là người chồng gương mẫu, trong xã hội ngày nay khó tìm ra một người chồng như vậy.

Vợ chồng có tôn trọng và cung kính lẫn nhau thì lời nói cảm ơn lúc nào cũng thể hiện trong mọi thời gian, nếu có dịp thì bộc lộ ngay liền, khiến cho gia đình càng thương mến yêu nhau hơn và càng ngày càng thêm khăng khít, luôn luôn không muốn lìa nhau, vì những người thân của mình lịch sự, lễ độ, sống có văn hóa đạo đức, khiến ai nghe thấy được cũng phải trầm trồ mong muốn có đời sống gia đình như vậy.

Chúng ta là những con người được sinh ra trong giai đoạn đạo đức của loài người đang xuống cấp trầm trọng, nhưng lại có người ra công dựng lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả, đem ánh sáng đạo đức cho bình an cho loài người thì đó là một điều may mắn hết sức. Vì thế chúng ta phải nỗ lực thực hiện đạo đức làm người sống không làm khổ mình, khổ người, để xứng đáng công ơn với những người làm nên trang sử đạo đức nhân bản - nhân quả. Bởi vậy ơn nghĩa ấy chúng ta làm sao quên được. Muốn không quên được ơn nghĩa ấy thì chúng ta phải luôn luôn sống trong đạo đức nhân bản - nhân quả để không phụ ơn nghĩa của bậc ân nhân nhân loại.

ĐỨC THỨ TƯ QUEN MẶT XEM THƯỜNG, THIẾU ĐỨC CẢM ƠN KHẨU HÀNH

Cái sai của con người là vì quá quen mặt nên quên đạo đức cảm ơn, do sự sống chung nhau sinh ra lờn mặt nên không thực hiện hành động đạo đức cảm ơn. Không thực hiện đạo đức cảm ơn đối với những người thân của mình là một điều đáng trách. Nhất là điều đáng trách, đáng chê hơn nữa là tự mình dối mình bằng những lý luận để che đậy những hành động thiếu đạo đức của mình đối với người thân của mình: “quá quen, đâu cần phải cảm ơn, lời cảm ơn có vẻ khách sáo xa cách lắm, người trong nhà với nhau đâu cần cầu kỳ thế”. Lời nói trên đây là lời lý luận để khéo che đậy bản ngã của mình; lời nói trên đây chính là mình đã xem thường và không còn kính trọng những người thân trong gia đình của mình nữa. Tuy những lời nói rất chân tình, đúng là tâm trạng của mọi người hiện nay đang thiếu đạo đức nhân bản - nhân quả trong gia đình.

Đó là một sự thật, khi đạo đức xuống cấp thì mọi người khi sống thiếu đạo đức thường dùng mọi lời lẽ để bào chữa những cái sai, để sống theo những thói quen thiếu đạo đức. Trong khi sống thiếu đạo đức thì chịu biết bao sự đau khổ phiền não nhưng có mấy ai đã lưu ý, họ chỉ cho những sự đau khổ phiền não đó là tự nhiên.

Trong khi mọi sự đau khổ phiền não trên cuộc đời này chỉ vì sống thiếu đạo đức.

Chúng ta hãy đọc đoạn văn sau đây thì sẽ rõ con người hiện nay đang sống thiếu đạo đức, nhất là đức lễ cung kính và tôn trọng lẫn nhau.

Vì thế gia đình nào cũng cũng có những sự việc xảy ra đều đau khổ, nhất là đạo đức về lời nói cảm ơn không thực hiện được đối với những người thân: “Chẳng phải tôi không cảm động trước những việc anh đã làm cho tôi, cho gia đình. Chỉ là thấy quá quen nhau rồi nên đâu cần phải cảm ơn. Thậm chí tôi còn nghĩ lời cảm ơn có vẻ khách sáo xa cách lắm... Bạn tôi cũng bảo: nhiều lúc nói lời cảm ơn trực tiếp với vợ khi vợ tặng quà, chăm sóc, nhưng sao thấy khó thế. Đành phải dùng điện thoại nhắn tin cảm ơn vợ. “Tớ nghĩ người lạ mới cần cảm ơn. Người trong nhà với nhau đâu cần cầu kỳ thế. Đến bố mẹ tớ còn chẳng cảm ơn bao giờ mà”.

Đọc đoạn văn này chúng ta thấy rõ ràng con người hiện nay đang sống thiếu đạo đức lễ nghĩa, vì thế sự cung kính và tôn trọng lẫn nhau một cách chân thật không còn, chỉ còn một hình thức lễ nghĩa xã giao mà thôi, chứ trong thâm tâm của họ thật sự cung kính và tôn trọng người khác thì không còn nữa. Vì thế, trong xã hội thường xảy ra những con người dám giết con người, chỉ vì một vài chỉ vàng; chỉ vì một vài tấc đất; chỉ vì hơn thua một vài lời nói là có thể đánh nhau và giết nhau, ngay cả những người thân trong gia đình cũng có thể giết nhau mà không chút xót thương. Đạo đức xuống cấp đến như vậy thì con người là ác quỷ.

Gia đình không có hạnh phúc, xã hội không có trật tự an ninh là do con người thiếu đạo đức.

Bởi vậy những ai là người lãnh đạo đất nước thì hãy sáng suốt đem nền đạo đức nhân bản - nhân quả đến với mọi người, bằng cách đưa vào chương trình giáo dục văn hóa từ thấp đến cao học.

Sự sống rất quý, mất đi sự sống là mất đi tất cả, vậy mà mọi người sao lại không quý trọng sự sống, lại chà đạp lên sự sống của nhau, không biết cung kính và tôn trọng sự sống, lại hời hợt xem nhẹ với những hành động đạo đức cung kính và tôn trọng. Nhất là những người thân trong gia đình lại còn xem nhẹ lời nói cảm ơn, khi chia vui xẻ buồn; khi kê vai cùng gánh nặng nhẹ có nhau sao mọi người lại không nói lời cảm ơn. Vì thế lời cảm ơn họ cũng tiết kiệm, không dám nói ra. Thật đáng trách thay! Đáng buồn thay!

ĐỨC THỨ NĂM THIẾU ĐỨC CẢM ƠN KHẨU HÀNH

Vì thiếu đức cảm ơn nên sự tôn trọng và cung kính sự sống của nhau không còn nữa.

Cuộc sống hiện nay mọi người xem thường không thực hiện đức lễ, vì thế tự làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.

Lời cảm ơn từ xưa đến nay có ai nghĩ rằng nó là đạo đức hiếu sinh cung kính, tôn trọng đâu? Và cũng có ai nghĩ rằng đó là đạo đức thành thật biết ơn đâu? Người ta chỉ nghĩ rằng nó là lời nói khéo léo xã giao với mọi người trong xã hội. Vả lại còn có người cho rằng đó là lời khách sáo ngoài đầu môi chót lưỡi, chứ lời nói cảm ơn đâu có nghĩa lý gì? Hiểu lời nói cảm ơn như vậy là sai, vì lời cảm ơn nói lên được tình thương và biết ơn người cho mình vật gì hay giúp mình làm việc gì. Lời nói cảm ơn là đức hạnh thật sự cung kính tôn trọng người khác. Khi nói ra lời cảm ơn đối với người khác nghe nhẹ nhàng, êm ái, chan hòa một thứ tình thương yêu quý mến và tôn trọng lẫn nhau, làm cho người được cảm ơn cũng hân hoan vui vẻ đón nhận một cách chân tình, khiến cho mọi người trong gia đình vốn gần gũi nhau lại càng gần gũi nhau hơn.

Người không nói lên được lời cảm ơn tức là không hiểu tình thương của người khác đang đem đến cho mình. Người ta có quý trọng thương mình thì mới đem biếu cho mình vật này vật kia, nếu không thương mến mình thì ai đem vật dụng cho mình làm chi, có thương mới quà biếu, quà biếu là tượng trưng cho lòng thương yêu. Chúng ta hãy đọc đoạn văn dưới đây: “Tôi còn nhớ ngày 8-3 năm nào, chồng hớt hải chạy về cho kịp giờ cơm, bó hoa trên tay xơ xác tặng hai mẹ con ngày lễ. Anh thanh minh: “Xếp hàng mãi mới mua được hoa. Mà ngày hôm nay đông thật đấy!” Tôi chỉ cằn nhằn: “Về thì muộn, mua hoa làm gì cho đắt...” Rồi một 8-3 năm khác, chồng tặng tôi phong bì, trong là hóa đơn điện thoại đã được thanh toán có dòng chữ nắn nót:

“Tặng em, chúc em luôn vui vẻ và mặt không được ủ rũ”. Tôi phì cười nói: “Hâm quá, ngày này tặng hoa quà chứ ai tặng thứ này!”. Đọc đoạn văn này, chúng ta thấy rất rõ người vợ không nghĩ đến công lao khó nhọc của người chồng phải xếp hàng mua hoa về tặng vợ, người vợ không một lời nói cảm ơn chồng mà còn cằn nhằn, thật là một người vợ thiếu đức hạnh cung kính và tôn trọng đối với người chồng. Nhưng người chồng một mực yêu thương và cung kính tôn trọng vợ, tuy bị vợ cằn nhằn nhưng không một lời trách mắng vợ, nhất là lòng yêu thương của người chồng chứng tỏ qua bó hoa xơ xác.

Một gia đình thiếu đạo đức này là một điển hình cho bao nhiêu gia đình khác đang sống thiếu đạo đức trong xã hội, nhất là đức lễ, đức cảm ơn. Họ không biết tri ân người đã ban tình thương cho mình. Bó hoa là tượng trưng cho tình thương của người chồng, quý vị có biết không?

ĐỨC THỨ SÁU ĐỨC CẢM ƠN KHẨU HÀNH

Cảm ơn là một hành động đạo đức tuyệt vời. Nó nâng cao giá trị con người một cách rõ ràng, dù là người ít học, một nông dân chất phác tay lấm chân bùn, nhưng biết thực hiện đạo đức thì còn hơn một người có bằng cao học. Dù có bằng tiến sĩ hay thạc sĩ, mà không có hành động đạo đức thì giá trị làm người cũng chẳng bằng ai.

Một con người mà thiếu đạo đức nhân bản thì có khác nào là con thú vật, dù người đó có học vị cao. Học vị cao mà thiếu đạo đức thì có khác nào là con vật thông minh, cho nên đạo đức sẽ nâng cao giá trị từ một loài động vật mới trở thành con người. Bởi vậy, chỉ có lấy đạo đức làm tiêu chuẩn xác định con người hay con thú.

Đời vô đạo đức thì con người là con thú vật, là ác quỷ. Mà con thú vật và ác quỷ thì luôn tự mình làm khổ mình, làm khổ người và làm khổ tất cả chúng sinh, đôi khi họ còn làm khổ cả hai, cả nhiều người, nhiều vật.

Các bạn hãy đọc đoạn văn dưới đây mà tự so sánh lại mình với những bà mẹ quê ở nông thôn tay lấm chân bùn, không có trình độ học thức cao mà vẫn sống có đạo đức trong gia đình rất tuyệt vời: “Có lần về quê, tôi chợt giật mình khi nghe mẹ chồng nhẹ nhàng cảm ơn bố chồng với việc giúp đỡ rất nhỏ. Thấy mẹ chồng giật sợi dây lạt từ xe đạp không nổi, bố chồng liền cầm ra cái dao, bảo: “Bà cầm dao mà cắt giật thế bao giờ ra”. “Vâng, tôi cảm ơn ông”.

Đây là một bài học cho những ai xem thường đạo đức. Đạo đức không cần phải có trình độ học thức cao. Trong gia đình chỉ có mọi người sống có đạo đức thì mới đem lại hạnh phúc an vui cho nhau. Học thức cao mà thiếu đạo đức thì chỉ tạo cho con người cống cao ngã mạn, khinh dễ mọi người mà thôi.

Học thức cao, một cụ già 75 tuổi, ông Nguyễn Văn Ân có bằng thạc sĩ, từng dạy tại các trường ĐH ở TP HCM và nhiều tỉnh thành khác mà còn có bồ nhí tuổi 15 đáng cháu, chít, thì còn gì đạo đức trong xã hội này nữa. Cho nên quý vị đừng nghĩ rằng có học thức cao là có đạo đức. Điều này không đúng quý vị ạ! Chương trình giáo dục đào tạo văn hóa và nghề nghiệp, Bộ Giáo Dục Đào Tạo đã quên đi vấn đề giáo dục đào tạo rèn luyện nhân cách đạo đức nhân bản - nhân quả của con người, nên ngày nay xã hội con người đạo đức đang xuống cấp trầm trọng, vì thế tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông càng ngày càng gia tăng, nạn bạo lực gia đình ngày càng thêm chứ không thấy bớt.

Vợ chồng cãi nhau như cơm bữa, thật là đau xót vô cùng!

ĐỨC THỨ BẢY ĐỨC HỐI HẬN Ý HÀNH

Khi làm sai một điều gì khiến cho mình buồn khổ hay cho người khác buồn khổ, hoặc cướp mạng sống của loài vật làm thực phẩm để ăn uống thì nên hối hận những việc làm ác ấy và từ bỏ. Người biết hối hận từ bỏ không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh là người có đạo đức hiếu sinh hối hận.

Người làm những điều ác, như tức giận la lối, chửi mắng; như nói dối không thật; như tham lam lấy của không cho; như không chung tình, chung thủy, ngoại tình gian díu người này, người khác; như rượu chè say sưa, hút chích, bài bạc, cá cược; như giết hại chúng sinh và ăn thịt v.v.. mà không biết hối hận thì thật là đáng trách.

Làm con người phải biết hối hận ăn năn trong những việc làm ác của mình thì con người ấy sẽ tiến bộ trên đường đạo đức. Bởi đức hối hận ăn năn giúp chúng ta sửa sai để không còn lầm lỗi nữa.

Khi nghe người mẹ chồng cảm ơn bố chồng khiến cho người vợ trẻ này hối hận. Với một trình độ văn hóa kiến thức đại học, sống giữa thành phố lớn như Hà Nội mà đạo đức không bằng một bà già ở thôn quê đối với chồng, khi chồng đưa cái dao để cắt sợi dây. “Vâng, tôi cảm ơn ông”. Lời cảm ơn của một bà nhà quê đối với chồng thật là tuyệt vời. Chính hành động đạo đức cảm ơn này đã làm cho cô gái thành phố có học thức phải giật mình.

Vậy quý vị hãy đọc lại đoạn văn này thì rõ:

“Chính điều này làm tôi giật mình. Một người văn hóa đại học, sống ở thành phố lớn như tôi mà không cảm ơn chồng vì những việc vặt như thế bao giờ”. Cho nên đâu phải học cao mà có đạo đức. Học cao mà không có đạo đức là do chương trình giáo dục đào tạo văn hóa không quan tâm đến đạo đức. Vì thế, những người học cao vẫn thiếu đạo đức. Hiện giờ biết bao nhiêu sinh viện tốt nghiệp đại học các ngành nghề kỹ sư, kiến trúc sư, luật sư, bác sĩ, tiến sĩ, thạc sĩ sư phạm ra trường, nhưng đạo đức vẫn không thông suốt, nhất là ngành y, ngành sư phạm. Do đó, những thế hệ trẻ sau này làm sao sống có đạo đức được.

Bởi vậy đạo đức rất cần thiết cho con người, nhất là đạo đức hối hận, nhờ có đạo đức hối hận con người mới ăn năn, sám hối sửa sai; nhờ có sửa sai nên con người mới trở nên tốt đẹp hơn; mới trở nên sống không làm khổ mình, khổ người.

Giải trình án về đạo đức hối hận này, chúng tôi mong rằng mọi người khi có lỡ làm sai một điều gì thì nên hối hận ăn năn, cố gắng khắc phục đừng để làm sai nữa, vì làm sai sẽ làm khổ mình, khổ người, và như vậy cuộc đời sẽ thêm u ám và đen tối hơn.

ĐỨC THỨ TÁM THIẾU ĐỨC LỄ CUNG KÍNH, TÔN TRỌNG KHẨU HÀNH

Người thiếu đức lễ là thiếu lời cảm ơn. Ví như cha mẹ sinh và nuôi dưỡng chúng ta lớn khôn nên người, thì công ơn ấy như trời biển, không thể lấy gì sánh được. Vậy mà từ khi chúng ta lớn lên nên người, nhưng chưa bao giờ chúng ta nhắc đến để tỏ lời cảm ơn ấy với cha mẹ. Chúng ta thật là quá tệ, quá đáng trách. Biết ơn thì biết, nhưng nói lời cảm ơn với cha mẹ sao mà khó nói quá! Phải không quý vị? Đó là vì chúng ta quá quen thân nên nói lời cảm ơn giống như người xa lạ, khách sáo, cầu kỳ, kiểu cách mất vẻ thân thiện.

Tại sao đối với người xa lạ chúng ta nói lời cảm ơn rất dễ dàng. Lời cảm ơn đối với người xa lạ rất dễ dàng, là do chúng ta có một thói quen hay nói lời cảm ơn là để tỏ ra mình là người lịch sự, biết xã giao, chứ trong thâm tâm chúng ta chưa hẳn cung kính, tôn trọng hay biết ơn người ấy một cách chân thành. Vì thế lời cảm ơn chỉ ở ngoài đầu môi chót lưỡi mà thôi, nói rồi như gió thổi ngoài tai, như nước chảy qua cầu.

Lời cảm ơn đâu còn lưu lại trong tâm người khác nữa.

Nghĩ như vậy là sai, khi chúng ta mang một vật gì đến cho một người khác, đó là chúng ta có cảm tình thương mến người đó. Do thương mến người đó chúng ta mới đem cho, nếu không thương mến làm gì chúng ta đem cho. Phải không quý vị? Do cảm tình thương mến, người khác mới nhận và cảm ơn chúng ta. Lời cảm ơn ấy xuất phát từ tâm thương mến cung kính, tôn trọng và biết ơn chân thật, chứ không phải là lời nói cảm ơn ngoài đầu môi chót lưỡi, đẩy đưa cho qua chuyện như người ta đã nghĩ. Cho nên lời nói cảm ơn xuất phát từ tình thương yêu chân thật trong trái tim của con người đối với con người, chứ không thể cho lời nói cảm ơn là lời khách sáo, xã giao trong giao tiếp. Hiểu như vậy là những người chưa học đạo đức, chưa biết đạo đức. Vì đạo đức nào cũng xuất phát từ đức hiếu sinh, nếu không có đức hiếu sinh thì ai đem cho mình vật này, vật kia; nếu không đức hiếu sinh thì ai nhận quà của người khác. Khi nhận quà của người khác là chúng ta đã có tình thương mến giữa hai người, cho nên lời cảm ơn cũng xuất phát từ tình thương mến.

Đạo đức đang xuống cấp trầm trọng là người ta không hiểu biết đạo đức, chứ không phải người ta không muốn sống trong đạo đức.

Chúng ta hãy đọc đoạn văn này, người mẹ dạy con “cảm ơn và xin lỗi”, nhưng người mẹ không bao giờ cảm ơn và xin lỗi chồng, khi người chồng luôn luôn cảm ơn và xin lỗi vợ:

“Hằng ngày, tôi vẫn dạy con phải biết nói “cảm ơn” và “xin lỗi”, mà bản thân lại quên xử dụng chúng với chính chồng mình. Tôi thường bắt con cảm ơn khi tôi lấy hộ quyển truyện, đồ chơi, và con tôi nghiêm chỉnh chấp hành. Vậy mà những lời cảm ơn chồng trong hàng ngàn việc anh giúp mình, tôi lại chẳng thốt ra được!”.

Đọc qua đoạn văn này, chúng ta biết ngay người vợ vẫn nhận ra lỗi mình thiếu đức lễ cung kính và tôn trọng chồng, nên không nói lời cảm ơn với chồng được.

Khi biết mình sai thì cố gắng khắc phục sửa sai, đừng để mình trở thành người vô đạo đức, người vô đạo đức là con thú vật. Cho nên con người thì phải sống sao cho ra con người, chứ không thể con người là con thú vật.

Xã hội đạo đức đang xuống cấp, tệ nạn xã hội đang dẫy đầy thì do con người thiếu đạo đức. Vì thiếu đạo đức nên con người có khác gì con thú. Muốn con người thật là con người thì con người phải sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai, thì đó mới là con người.

Đạo đức rất cần thiết cho cuộc sống loài người, vì đạo đức sẽ đem lại cho loài người một cuộc sống bình an, yên vui và hạnh phúc. Cuộc sống con người vô đạo đức thì con người phải chịu khổ vô cùng, vô tận.

Muốn bản thân, gia đình và xã hội có đạo đức, thì Bộ Giáo Dục phải đưa bộ môn đạo đức nhân bản - nhân quả vào chương trình giáo dục đào tạo văn hóa và nghề nghiệp cho học sinh từ Tiểu học, Trung học và Đại học. Có giáo dục như vậy thì con người sẽ không thành những con thú vật, sẽ không thành những loài ác quỷ, nhờ đó tệ nạn xã hội sẽ chấm dứt và tai nạn giao thông sẽ không còn xảy ra nữa.

ĐỨC THỨ CHÍN QUEN MẶT THIẾU ĐỨC CUNG KÍNH CẢM ƠN

Như trên đã nói, quen mặt, lờn mặt nói lời cảm ơn rất khó, nhưng người ta không thấy do quen mặt, lờn mặt người ta không còn cung kính và tôn trọng nhau, vì vậy nói lời cảm ơn rất khó.

Tại sao người lạ lại nói lời cảm ơn dễ dàng, đây là tâm sự của tác giả bài này: “Lục vấn lại, thấy văn hóa cảm ơn của tôi vẫn có và vẫn thể hiện hằng ngày, nhưng là với... người dưng! Đi chợ người ta cho thêm cọng hành nấu canh, buột miệng cảm ơn ngay. Hay chủ quán nước lấy hộ cái ghế ân cần, cảm ơn rất nhanh và thoải mái. Người đi đường nhắc cái chân chống xe chưa gạt, cũng với theo cảm ơn. Sao những lời cảm ơn như thế lại nói dễ vậy?” Với người lạ nói lời cảm ơn dễ dàng là vì lịch sự xã giao, chứ trong thâm tâm chưa hẳn chúng ta đã cung kính tôn trọng họ. Bởi vậy, khi đức cảm ơn thực hiện qua lời nói thì phải có đầy đủ lòng yêu thương, đức lễ cung kính và tôn trọng, thì mới thật sự đó là đức cảm ơn, còn thiếu một phần nào thì không thể gọi là đức cảm ơn được.

Một người biết xử dụng đức cảm ơn từ trong trái tim lưu xuất thì đó là đạo đức nhân bản. Trẻ con cảm ơn là do cha mẹ bắt buộc, chứ thực tâm nó cũng chẳng biết gì về đạo đức cảm ơn cả.

Chính người lớn dạy nó cảm ơn còn không hiểu nghĩa trọn vẹn của đạo đức này.

Đối với đạo đức nhân bản - nhân quả, khi chúng ta áp dụng thực hiện vào đời sống hằng ngày thì phải thông suốt những hành động đạo đức đó, nó xuất phát từ trong tâm hồn yêu thương chân thật của chúng ta, nên mỗi hành động hay lời nói đạo đức không có sự bắt buộc hay giả dối bằng những hành động đạo đức đầu môi chót lưỡi.

Cũng một lời nói cảm ơn, mà lời nói có đạo đức và lời nói không đạo đức. Ví dụ như có một người bác mang đến cho cháu bé một bộ quần áo mới, người mẹ bảo con: “Cám ơn bác đi con!”. Đứa bé nói lời cảm ơn nhưng trong đầu nó chẳng có gì là biết ơn cả; chẳng có gì là cung kính tôn trọng bác cả. Cháu bé nói lời cảm ơn như con chim học nói tiếng người.

Về đạo đức nhân bản - nhân quả, nó xuất phát từ sự hiểu biết bằng ý thức, nên biết phải làm gì và không nên làm gì.

Hành động đạo đức nhân bản - nhân quả được điều khiển bằng ý thức của chúng ta, vì vậy mỗi khi làm một điều gì gọi là đạo đức thì nó kiểm tra rất chặt chịa, chứ không phải làm theo thói quen làm lấy có. Cho nên khi đạo đức nhân bản - nhân quả được thực hiện thì người lạ cũng như người quen, không có gì mà khó khăn cả. Bởi vì đạo đức là một hành động chân thật, nếu hành động giả dối thì làm sao gọi là đạo đức cho được. Phải không quý vị?

ĐỨC THỨ MƯỜI THIẾU ĐỨC CUNG KÍNH, TÔN TRỌNG KHẨU HÀNH

Trong gia đình, vợ chồng thường hay cắn đắng nhau đều do không tôn trọng và cung kính nhau.

Ngày mới về nhà chồng, vợ chồng còn cung kính và tôn trọng nhau nên lời nói nhẹ nhàng, ôn tồn nhã nhặn, xưng hô anh hay em ngọt ngào như đường phèn, nhưng khi đã quen mặt nhau rồi thì không còn xưng hô anh và em nữa. Đôi khi tức giận thì xưng hô mầy tao, mi tớ một cách vô văn hóa như trẻ con. Cho nên ông bà xưa dạy con cháu: vợ chồng phải đối xử với nhau như lúc mới về nhà chồng “TƯƠNG KÍNH NHƯ TÂN”. Vì mới về nhà chồng, vợ chồng còn xa lạ nên khéo giữ lễ độ cung kính và tôn trọng nhau, nên không bao giờ cằn nhằn cãi cọ. Khi vợ chồng không còn cung kính và tôn trọng nhau thì gia đình mới có lục đục, mới có sự đau khổ.

Vì thế, đức lễ cung kính và tôn trọng nhau rất cần cho mỗi gia đình và xã hội, vì đức lễ sẽ mang đến cho gia đình có một cuộc sống hạnh phúc an vui và xã hội có trật tự an ninh. Gia đình và xã hội được như vậy là vì ai ai cũng biết cung kính và tôn trọng lẫn nhau.

Chúng ta hãy lắng nghe tác giả bài này tâm sự: “Có phải là do suy nghĩ đối với người lạ dễ cảm ơn hơn và cần phải thể hiện văn hóa hơn? Còn với người thân, với vợ, với chồng, quá văn hóa thì không... gần gũi? Lời cảm ơn sao khó nói với người mình thương yêu thế, nhưng lời cắn đắng thì lại quá dồi dào! Những lần chồng về muộn, những buổi lỡ hẹn làm tôi phải chở con đi chơi một mình, chuyện quần áo bừa bãi, chuyện bóng đèn chưa thay...” Có sự tư duy suy nghĩ mà tác giả không nhận ra nguyên nhân là vì tác giả không nhận ra mình chưa thông suốt đạo đức nhân bản - nhân quả, nên tác giả không thể kết luận bài này một cách đúng đắn.

Những điều khó khăn và những tệ nạn của xã hội, cũng như những điều khó khăn của gia đình và những bạo lực gia đình thường xảy ra là do con người sống thiếu đạo đức nhân bản - nhân quả. Vì thế có nhiều nhà xã hội và nhiều nhà lãnh đạo đất nước họ đau đầu không biết phải làm cách nào để đem lại sự bình an cho nhân dân, cho mọi gia đình. Họ đã tốn hao biết bao nhiêu giấy mực để soạn thảo những đạo luật này và những đạo luật khác để ngăn chặn những tệ nạn xã hội và những bạo lực gia đình, nhưng không bao giờ thấy giảm mà còn có thể gia tăng.

Tại sao các nhà xã hội và các nhà lãnh đạo đất nước không nghĩ đến nền đạo đức nhân bản - nhân quả? Có lẽ họ cũng chẳng bao giờ nghe đến tên của nền đạo đức này, huống là thông hiểu từng hành động đạo đức của nó. Hôm nay các tu sinh tại tu viện Chơn Như có đủ duyên mới được học hiểu, nhưng chỉ mới bắt đầu, chứ chưa có ai đã am tường nền đạo đức này. Hiện giờ quý tu sinh được học tới đâu thì hiểu biết đến đó.

Nền đạo đức nhân bản - nhân quả nó sâu rộng bao la không cùng tận, mỗi hành động của con người là mỗi hành động đạo đức. Nó mang lại cho con người niềm an vui hạnh phúc chân thật. Còn ngược lại, những hành động thiếu đạo đức thì sẽ làm khổ cho nhau.

Nền đạo đức nhân bản - nhân quả này dễ nhận ra. Nếu mọi người còn khổ là mọi người còn sống thiếu đạo đức. Nếu mọi người hết khổ là mọi người đang sống trong nền đạo đức.

Bởi vậy sống giữa thế gian loài người, đức cung kính và tôn trọng luôn luôn phải thực hiện.

Có được như vậy thì loài người sống trong thế gian này là cõi Cực Lạc, Thiên Đàng hay Niết Bàn.

 ĐỨC THỨ MƯỜI MỘT ĐỨC CẢM ƠN, BAO GỒM ĐỨC CUNG KÍNH HIẾU SINH hư trên đã nói, đức cảm ơn bao gồm đức cung kính tôn trọng và thương yêu. Tác giả đã tự nhắc nhở mình qua đoạn văn dưới đây:

“Ngày tôi 20 tuổi, bà ngoại bảo vợ chồng là phải “tương kính như tân” - lúc nào cũng kính trọng nhau như những ngày đầu thì cuộc sống mới lâu bền, dễ chịu. Ngày đó tôi đã phì cười cho là bà cổ lỗ... Nhưng nhìn cảnh mẹ chồng tôi mới hiểu: lời cảm ơn đâu chỉ tỏ lòng biết ơn, mà còn là bày tỏ tình yêu dành cho nhau”. Đúng vậy, lời cảm ơn đâu phải chỉ có biết cảm ơn, mà còn tỏ ra lòng thương yêu nhau trong sự cung kính và tôn trọng nhau.

Nếu ai cũng hiểu được đạo đức nhân bản - nhân quả như vậy thì sự sống của loài người an vui và hạnh phúc biết bao.

Qua bài này, chúng ta rút ra được một bài học đạo đức rất thấm thía trong cuộc sống của con người.

ĐỨC THỨ MƯỜI HAI ĐỨC HỐI HẬN KHẨU HÀNH, Ý HÀNH

Đức hối hận đã có dịp chúng tôi dạy ở trên, xin quý vị hãy lật lại những bài học cũ.

Đức hối hận là một hành động biết sửa sai những lỗi lầm của mình. Đó là một đức hạnh sẽ giúp chúng ta làm thay đổi từ con người xấu để trở thành những con người tốt. Trên đời này không ai muốn cho mình là một người xấu ác, một người vô đạo đức. Có đúng như vậy không quý vị? Ai cũng muốn mình là con người tốt, con người thiện, con người sống có đạo đức, nhưng làm con người thì làm sao tránh khỏi những điều sai sót, những điều thiếu đạo đức. Nhưng khi đã lỡ làm sai, làm những điều tội lỗi, những điều làm khổ mình, khổ người thì phải hối hận, ăn năn sám hối, cố gắng khắc phục sửa sai. Thường người ta làm lỗi mà không hối hận ăn năn, lại đổ lỗi cho người khác. Đó là phần đông những người trong xã hội hiện nay. Chúng tôi xin thuật lại một câu chuyện để quý vị lấy đó làm bài học đừng đổ lỗi cho ai cả: “Tôi gặp gia đình của Jane White khi tôi bước vào năm đầu tiên của đời sinh viên. Tôi và cô ấy học chung một lớp.

Lần đầu tiên tôi đến nhà Jane, tôi đã cảm thấy không khí ấm áp như ở nhà mình, dù gia đình họ hoàn toàn chẳng có chút gì giống gia đình tôi.

Trong gia đình tôi, khi có bất cứ chuyện gì không hay xảy ra, điều đầu tiên và quan trọng nhất cần làm là tìm ra người nào phạm lỗi.

Đứa nào bày ra như thế này?”. Mẹ tôi sẽ hỏi ngay như vậy khi thấy nhà bếp bề bộn ngổn ngang.

Cái này chắc là tại Catherine hết đây!”.

Cha tôi sẽ khẳng định như vậy khi chiếc xe hơi bị hư hay máy rửa chén ngừng chạy.

Ngay từ hồi còn nhỏ, mấy chị em tôi đã quen việc mách tội của nhau. Chúng tôi đã dành hẳn một chỗ cho việc đổ lỗi tại bàn ăn.

Nhưng gia đình họ White này thì không như vậy. Họ chẳng quan tâm đến việc ai phạm sai lầm gì. Họ lướt qua những lỗi lầm của nhau và vẫn vui vẻ tiếp tục sống. Vẻ đẹp đáng quý ấy đã thấm vào trong tôi vào cái mùa hè mà Jane chia tay cuộc sống.

Gia đình White có sáu người con: 3 trai và 3 gái. Một người con trai đã chết yểu từ bé, có lẽ chính vì thế mà năm anh em còn lại rất gần gũi nhau.

Đó là một ngày tháng 7, mấy chị em của Jane và tôi quyết định lái xe lên New York chơi.

Từ Florida, nơi họ ở, đến New York khá xa. Lúc ấy, Amy, con gái út trong nhà, mới tròn 16 tuổi.

Cô bé mới lấy được bằng lái xe nên rất hãnh diện và hào hứng khi được lái xe trên đường đi.

Amy vui vẻ khoe tấm bằng của mình với mọi người nó gặp.

Ban đầu chị Sarah và Jane thay nhau xem chừng Amy lái, nhưng đến những quãng đường vắng vẻ, họ đã để Amy tự lái một mình. Chúng tôi dừng lại ăn trưa. Sau đó, Amy tiếp tục cầm lái. Đến một giao lộ, khi đèn đỏ bật lên, chẳng biết do bối rối hay lơ đễnh không trông thấy, Amy vẫn tiếp tục chạy qua. Một chiếc xe tải đã đâm sầm vào xe chúng tôi.

Jane chết ngay tức khắc. Tôi chỉ bị xây xát nhẹ. Và điều khó khăn nhất mà tôi phải làm lúc ấy là gọi về nhà Jane để báo tin dữ. Mất một người bạn, tôi đã thấy đau đớn lắm rồi, với bố mẹ Jane, chẳng biết họ sẽ khó khăn đến dường nào.

Khi hai ông bà đến bệnh viện, thấy ba chúng tôi nằm chung phòng, họ đã ôm chúng tôi mà khóc, vừa đau đớn vừa mừng. Mừng vì Sarah và Amy còn sống. Sarah bị thương ở đầu còn Amy thì bị gãy chân. Họ lau nước mắt cho hai cô con gái, và còn chọc Amy vài câu khi trông cô bé tập mang cây nạng.

Họ chỉ nói đi nói lại với hai cô con gái, và đặc biệt với Amy đơn giản rằng: “Các con còn sống là ba mẹ mừng rồi!” Tôi thật ngạc nhiên. Chẳng một lời trách móc hay buộc tội nào! Sau này, có một lần tôi hỏi mẹ Jane tại sao họ không bao giờ đả động gì đến việc Amy lái xe vượt đèn đỏ, bà ngậm ngùi trả lời rằng:

- Jane đã đi rồi, bác nhớ nó vô cùng. Có nói gì cũng chẳng mang nó về lại được. Còn Amy có cả một quãng đời phía trước. Làm sao nó sống vui vẻ và hạnh phúc được, khi nó cứ mang nặng cảm giác tội lỗi là chính nó đã gây ra cái chết cho chị mình? Bà nói đúng. Giờ đây, Amy đã tốt nghiệp đại học và đã lập gia đình. Amy làm giáo viên cho một trường khuyết tật và hiện đang là mẹ của hai cô con gái nhỏ, đứa con đầu lòng cũng mang tên Jane.

Tôi đã học được bài học từ gia đình Jane rằng việc đỗ lỗi cho ai vì bất cứ chuyện gì là không quan trọng. Đôi khi, nó chẳng có tác dụng gì”. Khi đọc xong câu chuyện trên khiến tôi xúc động vô cùng, nhưng nó là một bài học cho mỗi người trong chúng ta.

Người ta ở đời thường hay đổ lỗi và vạch lỗi nhau, không ai dám thẳn thắng nhận lỗi của mình. Đã không nhận lỗi của mình thì làm gì có hối hận, không hối hận thì làm sao mà sửa sai.

Như vậy con người xấu ác sẽ trở thành con người xấu ác và xấu ác mãi mãi. Lời nói của đức Phật từ ngàn xưa còn vang mãi bên tai chúng ta: “THẤY LỖI MÌNH ĐỪNG THẤY LỖI NGƯỜI”.

Lời dạy này tuyệt vời! Nếu mọi người đều thấy lỗi mình thì còn có người nào vạch lỗi người khác nữa không? Thì còn có ai đổ lỗi cho người khác nữa không? Có điều gì xảy ra và làm cho bất an trong gia đình thì thường đổ lỗi cho người này, người kia hoặc đổ lỗi cho hoàn cảnh. Đó là một điều thiếu đạo đức hết sức, một điều đáng trách.

Người vợ sợ trời mưa chồng đi làm về bị ướt nên mang áo mưa đến trao cho chồng, nhưng người chồng thiếu đạo đức hiếu sinh cung kính, tôn trọng cảm ơn vợ, nên dùng lời lẽ cằn nhằn.

Người vợ làm thinh thui thủi ra về, vẻ mặt buồn dàu dàu. Thật là tội nghiệp. Chúng ta hãy đọc đoạn văn dưới đây thì sẽ rõ: “Đừng đổ lỗi cho cuộc sống hối hả, khi ta quên cảm ơn chồng, vợ.

Đừng quên cảm ơn người thân khi vẫn còn cơ hội. Bạn kể tôi nghe một kỷ niệm ân hận, day dứt tận bây giờ. Trời hôm đó mưa to lắm, sáng bạn quên không mang áo mưa. Vợ bạn đi xe ôm tới, đem cho bạn áo mưa vì sợ chiều về chồng bị ướt. Bạn cằn nhằn: “Mưa thế đến làm gì cho ướt hết người. Khổ quá, sao mà lẩn thẩn thế!”.

Rồi ngày vợ bạn mất vì bệnh ung thư, bạn thì thầm bên vợ đâu còn nghe thấy!” Qua những câu chuyện trên đây đều ghi đậm một dấu ấn trong tâm hồn chúng ta. Một tai nạn giao thông xảy ra do sự bất cẩn thiếu đạo đức hiếu sinh cẩn thận giao thông, làm cho một người chị chết mà cả gia đình không đổ lỗi, mà còn tránh không nói những lỗi lầm đó, để cho người làm lỗi không quá hối hận. Sự đối xử nhau như vậy thật là tuyệt vời, mang đầy đủ ý nghĩa đạo đức nhân bản - nhân quả “thấy lỗi mình không thấy lỗi người” như lời đức Phật đã dạy. Trong cuộc đời này, mọi người đừng vạch lỗi của nhau mà tự nhận thấy lỗi mình để sửa thì đời tốt đẹp biết bao.

Còn câu chuyện thứ hai, nếu người chồng có đức cảm ơn, biết tôn trọng vợ thì đâu có hối hận trong tâm khi người vợ mất. Một sự hối hận trong tâm biết bao giờ phai mờ. Bởi vậy, lời nói cảm ơn là một hành động đạo đức tuyệt vời, nó mang lại cho chúng ta đầy đủ ý nghĩa lòng yêu thương chân thật, cung kính và tôn trọng lẫn nhau đối với những người thân trong gia đình.

Nếu mọi người trong gia đình đều thực hiện đức cảm ơn được như vậy thì gia đình trong ấm ngoài êm, trên dưới hòa thuận nhau, hạnh phúc gia đình luôn luôn bền vững, không ai lay chuyển được. Nếu gia đình mọi người đều thực hiện đức cảm ơn thì không bao giờ có bạo lực gia đình.

ĐỨC THỨ MƯỜI BA ĐỨC LỄ CUNG KÍNH VÀ TÔN TRỌNG

Tình yêu thương giữa vợ và chồng mà biết thực hiện đạo đức thì lời cảm ơn không bao giờ là lời khách sáo, mà đó là sự thực hiện lòng yêu thương, cung kính và tôn trọng lẫn nhau. Vợ chồng biết tôn trọng và cung kính nhau thì vợ chồng không bao giờ to tiếng cằn nhằn lời qua, tiếng lại, cãi cọ, giận hờn, ghen tuông, v.v... Bạo lực gia đình cũng từ rượu chè, bài bạc, ghen tuông mới xảy ra.

Trong cuộc sống hằng ngày, nếu chỉ sống một mình thì không có điều gì phải nói cả, nhưng khi hai người cùng sống chung nhau thì có hai tư tưởng khác nhau. Hai tưởng khác nhau mà muốn hòa hợp sống chung nhau thì phải biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Muốn nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng mà không cung kính, tôn trọng nhau thì làm sao nhẫn nhục được.

Đức cung kính, tôn trọng rất cần thiết cho nhiều người cùng sống chung nhau, nhờ đó mà mọi người mới có đoàn kết và yêu thương nhau.

Nhưng thể hiện đức cung kính, tôn trọng nhau bằng cách gặp nhau chào hỏi thì chưa đủ. Cho nên, mỗi khi có ai giúp đỡ mình hoặc cho mình một vật gì, thì lời cảm ơn nó thị hiện lòng cung kính, tôn trọng và biết ơn.

Đức cảm ơn khi thực hiện đối với những người lạ, cũng như những người thân trong gia đình thì chúng ta đừng nghĩ rằng lời nói cảm ơn là lời nói khách sáo. Không đâu quý vị ạ! Nó không có nghĩa khách sáo, mà lời nói cảm ơn là nói từ trong trái tim thật tình cung kính, tôn trọng người khác. Chúng ta hãy đọc đoạn kết của bài này, để thấy tác giả cùng có một tâm niệm như chúng ta: “Vợ, chồng làm việc tốt cho nhau vì tình yêu thương, chẳng hề mong nhận lại lời cảm ơn. Cảm ơn vợ, chồng chẳng bao giờ là lời khách sáo. Đó là sự thể hiện lòng biết ơn, tôn trọng người bạn đời của mình. Khi cuộc sống gia đình thiếu sự tôn trọng lẫn nhau, sự bền vững chỉ còn đếm bằng giờ.

Biết cảm ơn bạn sẽ nhận được nhiều thứ hơn cả vàng bạc...” Lời cảm ơn là tỏ lòng biết ơn và tôn trọng những người thân trong gia đình của mình.

Người sống có đạo đức như vậy thì dù đem vàng bạc, châu báu cũng không đổi được.

Bởi vậy, bản thân có đạo đức thì tâm hồn mới thanh thản, an vui, và gia đình mới thương yêu, gắn bó, chia sẻ ngọt bùi, cay đắng có nhau.

Lời cảm ơn tuy rất đơn giản, nhưng mang đầy đủ ý nghĩa hành động đạo đức thương yêu chan hòa tình người. Trên đời này, chính vì nguời ta không lưu ý đến những hành động đạo đức sống hằng ngày, nên xem thường lời nói cảm ơn là một lời khách sáo ngoài đầu môi chót lưỡi. Nhưng với những người sống đạo đức thật sự, thì họ xem lời nói cảm ơn là một hành động thương yêu có đầy đủ lòng cung kính và tôn trọng, nhất là sự biết ơn.

Vì thế, đạo đức cảm ơn là một hành động ngôn ngữ đối xử nhau mang tình yêu thương đến với mọi người thật là tuyệt vời, mà không có hành động đạo đức nào hơn được. Vì nó là những hành động rất gần gũi của mọi người, nên chúng ta đừng e ngại nó là lời nói khách sáo ngoài đầu môi chót lưỡi. Không đâu quý vị ạ! Người giả dối xử dụng đức cảm ơn là lời nói khách sáo ngoài đầu môi chót lưỡi. Ngược lại, người có đạo đức nhân bản thì lời nói cảm ơn là thể hiện một tình thương yêu chân thật.

Bài 35: LỜI CẢM ƠN MUỘN MÀNG

Khi Mark, con trai tôi, đang học lớp ba, nó đã biết để dành tất cả tiền quà của mình suốt hơn hai tháng để mua quà giáng sinh cho những người mà nó yêu mến. Nó tích góp được tổng cộng hai mươi đô la. Vào ngày thứ Bảy của tuần thứ ba, cả nhà cho rằng nó đã lên danh sách những người mà nó sẽ tặng quà.

Tôi lái xe chở con đến cửa hàng tạp hóa nằm trong thị trấn, một kiểu cửa hàng hiện đại mà trước đây chúng tôi thường gọi là “cửa hàng năm và mười xu”. Mark cầm lấy một cái giỏ và tự mình đi thẳng vào cửa hàng, trong khi tôi kiên nhẫn đọc một quyển sách chờ thằng bé ở bên ngoài. Phải mất hơn 45 phút, Mark mới chọn xong những món quà mà chắc hẳn nó rất tâm đắc.

Nó tiến đến quầy tính tiền với nụ cười thật hân hoan trên gương mặt. Nhân viên thu ngân lần lượt cầm những món hàng Mark mua đưa qua máy tính tiền. Mark đã cố gắng chọn mua những thứ có giá trị vừa đủ với số tiền của mình, nó cho tay vào túi quần lấy tiền ra trả.

Không còn xu nào trong túi cả! Túi quần của thằng bé bị thủng một lỗ và tiền mất hết, không còn lấy một xu.

Mark bối rối đứng giữa quầy với giỏ hàng trên tay, nước mắt lăn dài xuống má. Cả người thằng bé rung lên cùng với những tiếng nấc. Tôi không biết phải xử trí thế nào, vì trong túi tôi chỉ có vài đồng. Tôi bối rối vô cùng. Lúc đó, một điều thật ngạc nhiên đã xảy ra. Một vị khách trong cửa hàng tiến về phía Mark.

Cô ấy quỳ xuống thấp ngang tầm với Mark, dịu dàng ôm thằng bé vào lòng và nói: “Cô sẽ rất vui, nếu con để cô giúp con trả tiền những món hàng này. Đó sẽ là món quà tuyệt vời nhất mà con có thể tặng cho cô. Cô chỉ mong rằng, một ngày nào đó, con cũng sẽ làm được điều tương tự. Một ngày nào đó, khi con lớn khôn, cô mong con sẽ tiếp tục giúp đỡ người khác như cô đối với con bây giờ vậy. Khi con giúp đỡ người khác, cô chắc rằng con sẽ cảm thấy vui vẻ như chính cô đang cảm nhận lúc này”.

Mark rụt rè nhận lấy số tiền, cố lau nước mắt và cảm ơn người phụ nữ tốt bụng, rồi chạy thật nhanh đến quầy tính tiền. Giáng sinh năm đó, tất cả chúng tôi đều rất vui khi nhận được những món quà từ Mark. Niềm vui đó cũng nhiều như chính niềm vui của Mark khi trao những món quà ấy cho chúng tôi.

Còn tôi muốn được nói lời cảm ơn đến người phụ nữ tuyệt với ấy. Tôi muốn kể cho cô ấy nghe rằng, bốn năm sau lần gặp gỡ đó, Mark vẫn luôn nhớ đến cô, và nó đã đi đến từng nhà để quyên góp chăn mền, quần áo cho những nạn nhân của trận hoả hoạn thảm khốc ở Oakland.

Cũng như Mark, tôi thường nghĩ về cô mỗi lần đem thức ăn đến cho những gia đình vô gia cư.

Và tôi muốn hứa với cô ấy rằng, Mark và tôi sẽ không bao giờ quên tiếp tục thực hiện những điều tốt đẹp này với nhiều người khác nữa.

Laurie Pine

BÀI LÀM

1- Đại ý:

Bài này nói về hành động cảm ơn thiết thực của Mark bằng việc làm đi quyên góp, bố thí giúp cho những người bất hạnh trong xã hội.

2- Phân đoạn:

Bài này có 4 đoạn:

1- Khi Mark, con trai tôi, đang học lớp ba, nó đã biết để dành tất cả tiền quà của mình suốt hơn hai tháng để mua quà giáng sinh cho những người mà nó yêu mến.

2- Nó tích góp được tổng cộng hai mươi đô la. Vào ngày thứ Bảy của tuần thứ ba, cả nhà cho rằng nó đã lên danh sách những người mà nó sẽ tặng quà.

Tôi lái xe chở con đến cửa hàng tạp hóa nằm trong thị trấn, một kiểu cửa hàng hiện đại mà trước đây chúng tôi thường gọi là “cửa hàng năm và mười xu”. Mark cầm lấy một cái giỏ và tự mình đi thẳng vào cửa hàng, trong khi tôi kiên nhẫn đọc một quyển sách chờ thằng bé ở bên ngoài. Phải mất hơn 45 phút, Mark mới chọn xong những món quà mà chắc hẳn nó rất tâm đắc.

Nó tiến đến quầy tính tiền với nụ cười thật hân hoan trên gương mặt. Nhân viên thu ngân lần lượt cầm những món hàng Mark mua đưa qua máy tính tiền. Mark đã cố gắng chọn mua những thứ có giá trị vừa đủ với số tiền của mình, nó cho tay vào túi quần lấy tiền ra trả.

Không còn xu nào trong túi cả! Túi quần của thằng bé bị thủng một lỗ và tiền mất hết, không còn lấy một xu.

3- Mark bối rối đứng giữa quầy với giỏ hàng trên tay, nước mắt lăn dài xuống má. Cả người thằng bé rung lên cùng với những tiếng nấc. Tôi không biết phải xử trí thế nào, vì trong túi tôi chỉ có vài đồng. Tôi bối rối vô cùng. Lúc đó, một điều thật ngạc nhiên đã xảy ra. Một vị khách trong cửa hàng tiến về phía Mark.

Cô ấy quỳ xuống thấp ngang tầm với Mark, dịu dàng ôm thằng bé vào lòng và nói: “ Cô sẽ rất vui, nếu con để cô giúp con trả tiền những món hàng này. Đó sẽ là món quà tuyệt vời nhất mà con có thể tặng cho cô. Cô chỉ mong rằng, một ngày nào đó, con cũng sẽ làm được điều tương tự. Một ngày nào đó, khi con lớn khôn, cô mong con sẽ tiếp tục giúp đỡ người khác như cô đối với con bây giờ vậy. Khi con giúp đỡ người khác, cô chắc rằng con sẽ cảm thấy vui vẻ như chính cô đang cảm nhận lúc này ”.

4- Mark rụt rè nhận lấy số tiền, cố lau nước mắt và cảm ơn người phụ nữ tốt bụng, rồi chạy thật nhanh đến quầy tính tiền. Giáng sinh năm đó, tất cả chúng tôi đều rất vui khi nhận được những món quà từ Mark. Niềm vui đó cũng nhiều như chính niềm vui của Mark khi trao những món quà ấy cho chúng tôi.

Còn tôi muốn được nói lời cảm ơn đến người phụ nữ tuyệt với ấy. Tôi muốn kể cho cô ấy nghe rằng, bốn năm sau lần gặp gỡ đó, Mark vẫn luôn nhớ đến cô, và nó đã đi đến từng nhà để quyên góp chăn mền, quần áo cho những nạn nhân của trận hoả hoạn thảm khốc ở Oakland.

Cũng như Mark, tôi thường nghĩ về cô mỗi lần đem thức ăn đến cho những gia đình vô gia cư.

Và tôi muốn hứa với cô ấy rằng, M ark và tôi sẽ không bao giờ quên tiếp tục thực hiện những điều tốt đẹp này với nhiều người khác nữa.

3- Đáp án:

Bài này có 4 đức:

1- Đức hiếu sinh quà tặng thân hành.

2- Thiếu đức cẩn thận kiểm tra ý hành, thân hành.

3- Đức hiếu sinh khẩu hành cao thượng.

4- Đức cảm ơn bằng sự quyên góp, bố thí thân hành.

4- Giải trình án:

ĐỨC THỨ NHẤT ĐỨC HIẾU SINH QUÀ TẶNG THÂN HÀNH

Đem một món quà tặng cho người khác là đem tình thương đến cho người, món quà tuy không là bao nhiêu, nhưng tình thương thắm thía đối với người mình tặng. Lời nói yêu thương không bằng một bó hoa, một cuốn sách, một cái bánh, một trái cây mang đến biếu cho người tuy không nói lời yêu thương, nhưng món quà đã xác định lòng yêu thương rất cụ thể, rõ ràng.

Nếu chúng ta nói lời yêu thương thì nó trừu tượng, không cụ thể. Một người mẹ nói lời yêu con nhưng cụ thể nhất là người mẹ ôm con hôn.

Hành động hôn con là thương con bằng hành động, cho nên người mang quà tặng cho người khác là đem tình thương. Mark thương bạn bè nên nhịn ăn quà dành tiền mua quà giáng sinh biếu cho những người bạn thương mến. Đó là đức hiếu sinh quà tặng thân hành, tức là hành động yêu thương cụ thể như đoạn văn dưới đây:

“Khi Mark, con trai tôi, đang học lớp ba, nó đã biết để dành tất cả tiền quà của mình suốt hơn hai tháng để mua quà giáng sinh cho những người mà nó yêu mến ”.

Một hành động đơn giản, nhưng nói lên được tình thương yêu thắm thía vô cùng. Nếu trong gia đình, thỉnh thoảng chồng biếu cho vợ hoặc vợ biếu cho chồng một bó hoa, một cái bánh hay một ít trái cây mà vợ hay chồng ưa thích, điều này nói lên tình yêu thương trong gia đình thật là ấm cúng.

Nếu một người biết sống để đem lại an vui cho mình, cho người, thì những hành động đạo đức không thể nào thiếu được. Nhiều khi người sống trong những hành động đạo đức hằng ngày đối xử nhau mà họ không biết mình đang sống trong đạo đức. Ví như lời nói cảm ơn, đem quà biếu tặng cho người khác, cẩn thận trong việc làm, trong những bước chân đi, giữ gìn tâm nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trước mọi việc, mọi hoàn cảnh để tâm thanh thản, an lạc và vô sự, thì đó là những hành động đạo đức.

Đạo đức là những hành động sống đem lại sự bình an cho mình, cho người thiết thực, cụ thể.

Cho nên làm người mà không biết sống với những hành động đạo đức là tự mình làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Thật là đáng trách, đáng chê! Chúng ta là con người, mà con người thì ai là những người không muốn sống đạo đức. Phải không quý vị? Đạo đức ai cũng muốn sống, nhưng vốn không hiểu biết đạo đức thì làm sao biết đâu mà sống.

Đạo đức có học mới hiểu, không học làm sao hiểu. Vậy học đạo đức ở đâu? Những môn đạo đức từ xưa được để lại cho nhiều thế hệ sau này. Nhưng nó lỗi thời, không còn thích ứng theo kịp thời đại khoa học phát triển công kỹ nghệ hiện đại hóa con người.

Vì thế tìm một ngôi trường, một ông thầy dạy đạo đức nhân bản - nhân quả trong thời đại này không phải dễ. Vả lại ít có ai hiểu biết đến nền đạo đức này, nên sự quan tâm giáo dục đào tạo con người có đạo đức thì dường như không có.

Trên cả hành tinh này, chỉ có tu viện Chơn Như đang triển khai nền đạo đức này, và đang biên soạn những bộ sách đạo đức nhân bản - nhân quả, nhất là đang mở ra các trường lớp học đạo đức, giúp cho mọi người có duyên học tập để trở thành những người sống không làm khổ mình, khổ người.

Trong xã hội hiện nay, đạo đức rất cần thiết cho sự sống của con người như cơm ăn, áo mặc.

Vì không thể thiếu nó được, thiếu nó con người sẽ khổ đau vô cùng, vô tận.

ĐỨC THỨ HAI THIẾU ĐỨC CẨN THẬN KIỂM TRA Ý HÀNH, THÂN HÀNH

Cẩn thận là một đạo đức mà mọi người cần phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày, vì chính đức cẩn thận sẽ mang lại sự bình an cho mình và cho mọi người. Ví dụ như về giao thông đường bộ, mọi người đều giữ gìn đức cẩn thận giao thông thì không bao giờ xảy ra tai nạn giao thông, do đó làm sao có sự mất mát đau lòng xót dạ. Phải không quý vị? Nếu mọi người biết giữ gìn đức cẩn thận từng bước đi thì không bao giờ bị vấp ngã, bị đạp miểng chai, gai góc hoặc đạp nhầm rắn độc, bò cạp, rít và các loại côn trùng khác, v.v... Nếu biết giữ gìn đức cẩn thận trong công việc làm thì việc làm nào cũng dễ thành công, không bao giờ gặp thất bại. Nếu biết giữ gìn đức cẩn thận, đề cao cảnh giác thì không bao giờ bị người khác lừa đảo, lường gạt mình được, không bao giờ bị kẻ trộm cắp móc túi, chôm chỉa và cũng không bao giờ bị kẻ khác hãm hại mình được.

Có người ta bảo rằng cẩn thận cảnh giác là có tâm nghi ngờ, mà có tâm nghi ngờ thì không thể gọi là đức hạnh được. Vì nghi ngờ là một tâm ác trong ngũ triền cái, nó thuộc về ác pháp thứ năm. Ác pháp thứ năm này thường làm cho người ta đau khổ nhiều nhất. Vì thế cẩn thận không phải là đức hạnh, mà là một hành động nghi ngờ làm cho mình khổ và nghi oan cho kẻ khác, đó là một hành động tội lỗi. Cho nên Phật dạy phải lìa xa tâm ngũ triền cái mới có giải thoát.

Người hiểu như vậy là hiểu sai. Cẩn thận là một hành động chánh niệm tỉnh giác. Vì cẩn thận từng hành hành động của mình nên mới có sức tỉnh giác. Nhờ sức tỉnh giác chúng ta mới phân biệt được pháp nào thiện, pháp nào ác, người nào tốt người nào xấu, chứ không phải chúng ta nghi ngờ ai cả. Nhờ có sức tỉnh giác chúng ta mới không làm sai, làm đau khổ cho mình cho người. Nhờ có tỉnh giác nên không ai lường gạt chúng ta được. Mà tỉnh giác là do sự cẩn thận. Vì vậy, sự cẩn thận thường mang đến sự bình an cho mình, cho người và cho tất cả loài vật đang sống chung quanh chúng ta. Nên nó là đạo đức nhân bản - nhân quả của con người.

Ở đây, cậu bé vì thiếu đức cẩn thận nên không kiểm lại tiền bạc trước khi vào siêu thị mua hàng hóa. Khi hàng hóa đã được tính tiền xong, cậu bé mới vỡ lẽ túi bị thủng tiền mất sạch. Đó cũng là một bài học cho những ai thiếu đức cẩn thận. Nếu cậu bé cẩn thận thì sự việc đâu có xảy ra như vậy: “Nó cho tay vào túi quần lấy tiền ra trả. Không còn xu nào trong túi cả! Túi quần của thằng bé bị thủng một lỗ và tiền mất hết, không còn lấy một xu”. Nếu cậu bé cẩn thận thì đâu có đau khổ tận cùng đứng giữa bao nhiêu người trong gian hàng buôn bán tạp hóa: “Mark bối rối đứng giữa quầy với giỏ hàng trên tay, nước mắt lăn dài xuống má. Cả người thằng bé rung lên cùng với những tiếng nấc”. Thiếu đức cẩn thận, cậu bé phải chịu khổ một mình. Quý vị có thấy không? Chỉ sơ sót một chút, thiếu đức cẩn thận mà tai họa giáng lên đầu. Vậy sự đau khổ này do ai, có phải do tự mình thiếu đức cẩn thận mà tự mình làm khổ mình.

Đức cẩn thận rất cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Vì vậy chúng ta không bao giờ được lìa xa đức hạnh này. Nó là hành động sống để nuôi dưỡng tinh thần thanh thản, an lạc và vô sự của chúng ta hằng ngày như cơm ăn áo mặc. Nên chúng ta không thể lìa xa những hành động đạo đức này trong phút giây nào cả.

Muốn có đức cẩn thận thì hằng ngày chúng ta phải tập luyện chánh niệm tỉnh giác. Nhờ có chánh niệm tỉnh giác chúng ta mới sống cẩn thận. Sống cẩn thận tức là sống không làm khổ mình, khổ người. Quý vị nên nhớ lời dạy này:

“Đức cẩn thận là một hành động thương mình, thương người tuyệt vời”.

ĐỨC THỨ BA ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH CAO THƯỢNG

Lòng yêu thương cao thượng của một cậu bé xông vào lửa đỏ để cứu thoát một em bé trong cơn hoả hoạn; một người mẹ hy sinh cứu con trong lửa đỏ để lại một vết thẹo trên mặt suốt đời; một cô bé hy sinh mình ở lại trên tàu đang đắm dần xuống biển để hai mẹ con đoàn tụ trên tàu cứu hộ, v.v... Những hành động đạo đức dám hy sinh mình để cứu sống người khác thật tuyệt vời.

Trong cuộc đời này, còn biết bao gương hạnh đầy lòng yêu thương cao thượng của con người đối với con người, mà không có lời ca ngợi nào nói hết vẻ đẹp tuyệt vời của những hành động đạo đức cao cả con người ban tặng cho nhau.

Dưới đây là một hành động cao thượng của một người khách đi mua hàng đã cảm thông được nỗi xót xa mất tiền của cậu bé, nên cô quỳ xuống ôm cậu bé vào lòng như ôm con mình, một tình thương chan hòa qua một hành động thương yêu chân thật từ trong trái tim của một người phụ nữ xa lạ: “Lúc đó, một điều thật ngạc nhiên đã xảy ra. Một vị khách trong cửa hàng tiến về phía Mark.

Cô ấy quỳ xuống thấp ngang tầm với Mark, dịu dàng ôm thằng bé vào lòng và nói: “Cô sẽ rất vui nếu con để cô giúp con trả tiền những món hàng này. Đó sẽ là món quà tuyệt vời nhất mà con có thể tặng cho cô. Cô chỉ mong rằng, một ngày nào đó, con cũng sẽ làm được điều tương tự như vậy. Một ngày nào đó, khi con lớn khôn, cô mong con sẽ tiếp tục giúp đỡ người khác như cô đối với con bây giờ vậy. Khi con giúp đỡ người khác, cô chắc rằng con sẽ cảm thấy vui vẻ như chính cô đang cảm nhận lúc này ”.

Lời nói và hành động thương yêu của cô mua hàng trong siêu thị thể hiện trọn vẹn một tâm hồn cao thượng, nhất là hành động cô ôm cậu bé đang khóc nức nở, khiến cho ai nấy đọc đến đoạn này cũng phải cảm xúc rơi lệ. Đứng trước lòng yêu thương của một tâm hồn cao cả, ai mà không kính mến và tôn trọng. Phải vậy không quý vị? Đức hiếu sinh nhân quả thiện sao mà tuyệt vời, khi người nào sống thiện mà gặp khổ đau là có người lành đến giúp đỡ và an ủi ngay liền.

Lịch sử loài người từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc đã có biết bao nhiêu sách vở ghi lại những gương anh hùng dũng cảm hiếu sinh đã xông pha vào những nơi dầu sôi lửa bỏng để giúp người thoát chết trong gang tấc.

Đạo đức nhân bản - nhân quả luôn luôn lúc nào cũng lấy đức hiếu sinh là ngọn đuốc soi đường cho mọi người đi, nhờ đó mà cuộc đời này bớt khổ đau; nhờ đó mà con người mới chân thật gần gũi nhau hơn. Nếu không có đức hiếu sinh thì con người là ác quỷ hung hăng, dữ tợn, luôn luôn lúc nào cũng muốn ăn tươi nuốt sống người khác. Chỉ vì chấp ngã mà sẵn sàng giết hại người để phục vụ cho cá nhân mình mà thôi.

Trên đời này, nếu đức hiếu sinh không có thì trái đất sẽ khô cằn và con người sống trong cảnh lầm than khổ đau vô cùng vô tận. Sự sống trên hành tinh này sẽ như một bãi chiến trường sơ xác, vạn vật tiêu điều.

Con người có mặt trên trái đất này đều do tình thương sinh ra và trưởng thành cũng do tình thương nuôi lớn. Nên con người không ai mà không có tình thương. Nhưng tình thương ấy là tình thương của nhân quả nghiệp báo, chứ không phải do học thức và trau dồi trong nền đạo đức nhân bản - nhân quả. Vì thế, mọi người tuy chưa học đạo đức hiếu sinh nhưng vẫn có thể thực hiện đạo đức hiếu sinh một cách tuyệt vời.

Khi mọi người đã được học tập đạo đức hiếu sinh thì tự con người đã biến hành tinh sống này trở thành một cõi Thiên Đàng, Cực Lạc.

ĐỨC THỨ TƯ ĐỨC CẢM ƠN BẰNG SỰ QUYÊN GÓP, BỐ THÍ THÂN HÀNH

Đây là một bài học đạo đức hiếu sinh cao thượng tuyệt diệu, làm sao chúng ta quên được từ hành động yêu thương đến ngôn ngữ lời nói của cô mua hàng thật là tuyệt vời. Muốn cho cậu bé nhận tiền giúp đỡ của mình, cô đã dạy không riêng cho cậu bé, mà cho cả tất cả chúng ta một bài học đạo đức hiếu sinh làm người mà không có một thứ vàng bạc hay châu báu nào đem sánh được. Khi đọc bài này, chúng ta ghi khắc mãi trong tim những lời dạy quý báu vô giá; lời dạy đạo đức của cô mua hàng sao mà thắm thía tình thương vô cùng vô tận từ người này đến người khác: “Một ngày nào đó, khi con lớn khôn, cô mong con sẽ tiếp tục giúp đỡ người khác như cô đối với con bây giờ vậy. Khi con giúp đỡ người khác, cô chắc rằng con sẽ cảm thấy vui vẻ như chính cô đang cảm nhận lúc này”.

Đức hiếu sinh không thể lấy một thứ đạo đức nào so sánh hơn được. Chúng ta thử bỏ ra ngoài tất cả vật chất, của cải, tiền bạc, ngọc ngà, châu báu, danh lợi, v.v.. thì chúng ta chỉ còn lại một thứ tốt đẹp nhất, đó là đức hiếu sinh, tức lòng yêu thương. Nếu trên đời này mọi người đều sống trong tình yêu thương bằng đạo đức nhân bản - nhân quả hiếu sinh, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ muôn loài chúng sinh, thì muôn loài sống trên thế gian này sẽ có một sự sống bình an, yên vui và hạnh phúc tuyệt vời, không có ngôn ngữ nào, bút mực nào diễn tả được.

Hành động giúp tiền cho cậu bé Mark mua quà giáng sinh biếu bạn bằng lời nói mang đầy đủ tình yêu thương, khiến cho cậu bé nhận tiền mà không thấy mặc cảm: “Cô ấy quỳ xuống thấp ngang tầm với Mark, dịu dàng ôm thằng bé vào lòng và nói: “Cô sẽ rất vui nếu con để cô giúp con trả tiền những món hàng này. Đó sẽ là món quà tuyệt vời nhất mà con có thể tặng cho cô”. Giúp tiền cho người khác mà lời nói ưu ái thật tuyệt vời, không làm mất giá trị của người nhận tiền. Mỗi khi chúng ta muốn cho ai một điều gì, thì chúng ta nên nhớ lời nói rất đạo đức của người phụ nữ mua hàng này.

Một việc làm bố thí đầy lòng yêu thương của cô mua hàng đã chuyển hóa hai mẹ con của Mark trở thành những nhà từ thiện. Tuy còn bé nhỏ, nhưng cậu bé mãi mãi nhớ ơn cô mua hàng, người phụ nữ phúc hậu đã giúp cậu ngày đó, nên cậu bé đi vận động xin chăn mền, quần áo cho những người bất hạnh, nạn nhân của trận hỏa hoạn ở Oakland và mang thực phẩm đến giúp cho những gia đình nghèo khó. Nhớ gương hạnh hiếu sinh của người phụ nữ mua hàng, hai mẹ con của Mark luôn luôn tích cực tham gia vào việc từ thiện để xứng đáng nói nên lời cảm ơn với lòng yêu thương người phụ nữ mua hàng xa lạ năm xưa: “Còn tôi muốn được nói lời cảm ơn đến người phụ nữ tuyệt với ấy. Tôi muốn kể cho cô ấy nghe rằng, bốn năm sau lần gặp gỡ đó, Mark vẫn luôn nhớ đến cô, và nó đã đi đến từng nhà để quyên góp chăn mền, quần áo cho những nạn nhân của trận hoả hoạn thảm khốc ở Oakland. Cũng như Mark, tôi thường nghĩ về cô mỗi lần đem thức ăn đến cho những gia đình vô gia cư. Và tôi muốn hứa với cô ấy rằng, Mark và tôi sẽ không bao giờ quên tiếp tục thực hiện những điều tốt đẹp này với nhiều người khác nữa”.

Đức hiếu sinh rất tuyệt vời, nếu chúng ta biết bố thí tiền bạc, vật chất và ái ngữ bằng một tình thương chân thật từ trong trái tim xuất phát ra thì mọi người sẽ trở thành người tốt trong xã hội.

Bài 36: CÓ PHẢI CHÁU SẼ CHẾT NGAY BÂY GIỜ KHÔNG?

Một bé gái mắc phải một bệnh rất hiếm gặp. Để có cơ hội được cứu sống, cô bé cần được truyền máu của cậu anh trai năm tuổi - cũng mắc phải căn bệnh ấy nhưng lại sống được, nhờ cơ thể cậu bé có thể tự sản sinh được một loại kháng thể.

Bác sĩ giải thích điều đó với anh trai của cô bé, và hỏi cậu có sẵn sàng cho máu để cứu em gái mình không. Cậu bé do dự một lát, cậu hít thở sâu và nói: “Cháu sẽ đồng ý, nếu điều đó giúp em cháu có thể khoẻ lại được!”.

Khi đang truyền máu, hai anh em nằm trên hai giường gần nhau. Cậu bé mỉm cười khi nhìn thấy đôi má em gái mình bắt đầu lấy lại được sắc hồng. Rồi gương mặt cậu anh tái đi và nụ cười tắt dần. Cậu nhìn bác sĩ, run run hỏi: “Cháu sắp chết rồi phải không bác! Bác cố gắng cứu sống em cháu nhé!”.

Cậu bé ngây thơ ấy cứ ngỡ rằng, cậu sẽ cho em gái hết tất cả máu của mình để cứu em, rồi cậu sẽ phải chết. Và cậu bé đã sẵn sàng để làm điều đó.

Tuệ Nương

BÀI LÀM

1- Đại ý:

Tình thương em của một cậu bé trai năm tuổi tuyệt vời. Cậu dám hy sinh thân mình để cứu đứa em gái.

2- Phân đoạn:

Bài này có 6 đoạn:

1- Một bé gái mắc phải một bệnh rất hiếm gặp.

2- Để có cơ hội được cứu sống, cô bé cần được truyền máu của cậu anh trai năm tuổi - cũng mắc phải căn bệnh ấy nhưng lại sống được, nhờ cơ thể cậu bé có thể tự sản sinh được một loại kháng thể.

3- Bác sĩ giải thích điều đó với anh trai của cô bé, và hỏi cậu có sẵn sàng cho máu để cứu em gái mình không. Cậu bé do dự một lát, cậu hít thở sâu và nói: “Cháu sẽ đồng ý, nếu điều đó giúp em cháu có thể khoẻ lại được! ”.

4- Khi đang truyền máu, hai anh em nằm trên hai giường gần nhau. Cậu bé mỉm cười khi nhìn thấy đôi má em gái mình bắt đầu lấy lại được sắc hồng.

5- Rồi gương mặt cậu anh tái đi và nụ cười tắt dần. Cậu nhìn bác sĩ run run hỏi: “Cháu sắp chết rồi phải không bác! Bác cố gắng cứu sống em cháu nhé! ”.

6- Cậu bé ngây thơ ấy cứ ngỡ rằng, cậu sẽ cho em gái hết tất cả máu của mình để cứu em, rồi cậu sẽ phải chết. Và cậu bé đã sẵn sàng để làm điều đó.

3- Đáp án:

Bài này có 6 đức:

1- Thiếu đức nhân quả thiện.

2- Đức nhân quả thiện chuyển nghiệp.

3- Đức bố thí hiếu sinh.

4- Đức hân hoan thân hành.

5- Đức hiếu sinh khẩu hành.

6- Đức hy sinh thân hành.

4- Giải trình án:

ĐỨC THỨ NHẤT THIẾU ĐỨC NHÂN QUẢ THIỆN

Người không sống trong thiện pháp, luôn làm điều ác thì trong ba thời hiện tại, quá khứ và vị lai đều gặp nhiều tai nạn khổ ách. Đó là theo qui luật nhân quả: làm ác thì phải gặt lấy quả khổ đau, làm lành thì hưởng những điều may mắn. Cháu bé gái mắc phải bệnh hiểm nghèo cũng là do nhân quả đời trước, nên đời sống hiện tại của cháu vừa mở mắt chào đời là phải trả quả báo. Thật là tội nghiệp, vì sự vô minh không hiểu biết luật nhân quả nên vô tình lại nợ nhân quả trả vay, vay trả đời này sang đời khác.

Vì vậy chúng ta hãy đề cao cảnh giác từng hành động của mình, nếu hành động ác không sao tránh tai ương nạn khổ. Luật nhân quả không tha thứ một ai, dù một hành động ác nhỏ nó cũng không bỏ qua.

Vì hiểu rõ luật nhân quả, nên đức Phật dạy chúng ta hằng ngày nên ngăn ác, diệt ác pháp, sinh thiện, tăng trưởng thiện pháp. Pháp môn tu tập như vậy gọi là Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần có nghĩa là bốn việc cần phải siêng năng làm, tức là ngăn và diệt ác pháp hằng ngày trong cuộc sống, từ ngày này sang ngày khác, chứ không phải chỉ có tu tập một lúc mà thôi. Nhờ sống tu tập Tứ Chánh Cần như vậy mà cuộc sống của chúng ta chuyển từ quả khổ đau thành quả an vui và hạnh phúc.

Được sinh ra làm người, được gặp chánh pháp của Phật là một điều may mắn nhất trên đời. Vì gặp được chánh pháp của Phật sẽ làm thay đổi cuộc sống, từ cuộc sống đau khổ của thế gian và dẫy đầy ác pháp được thay thế vào cuộc sống thiện pháp, luôn luôn không làm những điều ác, thường làm những điều thiện. Đó là sống không làm khổ mình, khổ người và làm khổ chúng sinh. Vì thế mà cuộc sống không còn mình, người và chúng sinh khổ đau nữa.

Trong cuộc sống trên thế gian này, nếu ai cũng sống trong thiện pháp, làm những điều thiện, không còn ai làm khổ cho ai thì thế gian là Thiên Đường, Cực Lạc; thì thế gian này làm gì còn có những tệ nạn xã hội, còn có những tai nạn giao thông, còn có sự cướp của giết người nữa, v.v...

Người sống trong hiện tại làm việc thiện thì quả quá khứ và tương lai đều tốt đẹp, đều được an lành. Người sống trong hiện tại làm nhiều điều ác thì quả quá khứ và vị lai đều xấu, đều bất an.

Bởi vậy, đứng trong luật nhân quả mà suy xét, thì cứ ngay trong nhân và quả hiện tại của mọi người mà xét thì không bao giờ xét sai ai cả. Cứ lấy sự sống trong hiện tại mà xét quá khứ và vị lai. Nếu thấy quả hiện tại an vui, bình an, yên ổn thì biết quá khứ đã gieo nhân thiện. Nếu quả hiện tại đau khổ, bệnh tật, phiền não lo sợ, v.v.. thì biết nhân quá khứ làm những điều ác.

Cũng nên xét nhân hiện tại thì biết quả tương lai. Nếu nhân hiện tại làm điều thiện thì quả tương lai sẽ hưởng phước báu an lành. Nếu nhân hiện tại làm điều ác thì quả tương lai sẽ thọ lấy quả khổ đau. Đó là qui luật của nhân quả rất công bằng và công lý. Không thể làm thay đổi định luật này được.

Vì định luật nhân quả công minh chính trực không thể thay đổi, vì thế một người làm thiện thì luôn luôn sống trong cảnh yên vui và hạnh phúc, còn người làm ác thì phải thọ chịu những quả khổ đau từ đời này đến đời khác.

Luật nhân quả là một đạo luật vận hành trong vũ trụ, không riêng ở hành tinh sống của chúng ta, mà tất cả vô lượng, vô biên những hành tinh khác cũng đang vận hành theo qui luật nhân quả. Dù bất cứ một hành tinh nào đang vận hành theo quỹ đạo thái dương hệ của nó, nhưng vẫn không ra ngoài qui luật nhân quả. Luật nhân quả vận hành điều khiển không sai một hào li nào cả. Nếu sai một hào li thì tai nạn giao thông trong vũ trụ này sẽ xảy ra giữa hành tinh này và hành tinh khác. Cho nên luật nhân quả giao thông của những hành tinh trong không gian thật là tuyệt vời. Bởi vì những hành tinh và ngôi sao trên trời nhiều hơn xe trong thành phố Hồ Chí Minh, thế mà thành phố kẹt xe liên tục còn trong vũ trụ không bao giờ có hành tinh nào bị kẹt. Bởi vậy luật giao thông của con người không bằng luật giao thông của nhân quả. Do sự suy tư này, chúng ta thấy rất rõ luật nhân quả vận hành trong vũ trụ thật là tuyệt vời, với đầu óc của con người không thể điều hành được những điều đó. Dù có thông minh đến đâu cũng không thể điều khiển công bằng và công lý như vậy được.

ĐỨC THỨ HAI ĐỨC NHÂN QUẢ THIỆN CHUYỂN NGHIỆP

Con người sinh ra trong đời là do nghiệp thiện ác của nhân quả đời trước. Như cháu bé gái trên đây được sinh ra đã mang một chứng bệnh hiểm nghèo không thuốc trị. Nếu không có dòng máu kháng thể của người anh trai năm tuổi thì cháu bé gái không thể sống thêm được. Đấy cũng là duyên nhân quả. Cùng một dòng máu của cha mẹ sinh ra, nhưng cháu bé trai có dòng máu kháng thể nên vượt qua bệnh hiểm nghèo.

Nhờ dòng máu đó mới chuyển đổi được nhân quả của cháu bé gái.

Bởi vậy mọi người cần phải thông hiểu về đạo đức nhân quả. Đạo đức nhân quả là những hành động thân, khẩu, ý của con người sống trong thiện pháp, không sống trong ác pháp.

Nhờ con người sống trong thiện pháp nên làm chuyển biến thay đổi cuộc sống từ khổ đau, bệnh tật, tai nạn, bất hạnh trở thành cuộc sống bình an, yên vui và hạnh phúc.

Kính thưa quý vị! Quý vị đừng hiểu rằng con người sinh ra là do SỐ MỆNH đã định sẵn. Tin vào thuyết SỐ MỆNH đã định sẵn là sai. Thuyết này do một số người tiêu cực, mất sức tự chủ, không tự lực chuyển đổi cuộc sống của mình; chấp nhận cuộc sống như thế nào thì đành chịu, không tự lực vươn lên, nên dựa vào tha lực Trời, Phật, Tiên, Thánh, Thần, quỷ, ma, v.v... Những hạng người này thường cúng tế, cầu cạnh để an ủi tinh thần khi bị suy sụp.

Hầu hết những người vô minh không thông hiểu biết về đạo đức nhân quả nên tự đặt ra SỐ MỆNH để an ủi thân phận của mình. Còn thuyết THIÊN MỆNH cũng do con người tự đặt ra, khi có những việc đau khổ buồn hay vui đều cho rằng là do TRỜI ĐỊNH. Thuyết này cũng mơ hồ không đúng sự thật. Trời là ai mà định số mệnh của con người? Ngọc Hoàng Thượng Đế ư? Không đúng! Các vị này ở đâu? Khi chúng tôi tu hành có Tam Minh, dùng Thiên Nhãn Minh quan sát vũ trụ thì không thấy nơi đâu có các vị này. Cho nên thuyết THIÊN MỆNH và thuyết ĐỊNH MỆNH là do ảo tưởng của con người. Vì những người này họ không hiểu qui luật nhân quả nên mới sản xuất định luật SỐ MỆNH và THIÊN MỆNH. Từ đó truyền thừa từ đời này đến đời khác nên đã ăn sâu vào tư tưởng của con người hơn mấy ngàn năm.

Khi đã thông hiểu đạo đức nhân quả thì mỗi người nên sống thiện, làm điều thiện. Đó là sự tích luỹ những điều thiện trong hiện tại, tương lai và quá khứ, thì cuộc sống hằng ngày của quý vị sẽ không làm khổ mình, khổ người và khổ đau tất cả chúng sinh nữa. Nhờ đó cuộc sống của quý vị sẽ được bình an, yên vui và hạnh phúc.

Ngay trong hiện tại, chúng ta sống với đức hiếu sinh thương yêu và giúp đỡ cho mọi người trong khi họ đang lâm nạn. Nhờ đó chúng ta xa lìa những điều làm ác. Nhờ xa lìa không làm những điều ác, chúng ta tích luỹ những điều lành, những điều tốt, những điều không làm khổ người khác và tất cả các loài khác. Do vậy khi chúng ta sinh ra làm người đều gặp nhiều điều may mắn.

Cháu bé gái trong kiếp quá khứ đã khéo vun trồng điều lành, nên người anh trai tuy mới năm tuổi đầu mà biết thương em gái mình, dám hy sinh sự sống của mình để cứu em mình trong cơn bệnh ngặt nghèo hiểm nguy.

Một cậu bé năm tuổi gan dạ dám hy sinh mình để cứu đứa em gái bé bỏng. Thật là gan dạ vô cùng! Cậu chấp nhận lời của bác sĩ để lấy máu mình truyền cho đứa em gái và trong đầu cậu nghĩ, nếu cho máu em mình xong là mình phải chết, nhưng chết mà cứu em mình được sống là một niềm vui vô cùng. Bởi vậy, cậu bé sẵn sàng cho em máu mà không hề hối tiếc. Từ khi sinh ra và lớn lên, cậu chỉ có hai anh em mà thôi, thà cậu chết mà em gái cậu được sống thì cậu mãn nguyện lắm rồi. Làm được việc này chính là lòng yêu thương của con người, lòng yêu thương ấy thật là cao quý tuyệt vời. Chỉ có con người mới có mà thôi.

Thường trên đời này anh em ruột thịt một cha, một mẹ, sống chung nhau một nhà, lúc bé thơ một nửa cái bánh còn cắn chia nhau ăn.

Nhưng khi lớn lên, lòng tham lam phát triển nên nghĩ đến cá nhân mình nhiều hơn, vì thế anh em ít ai nghĩ đến nhau như lúc còn bé. Khi có gia đình riêng tư, anh em thường tranh giành của cải tài sản của cha mẹ. Đôi khi vì danh lợi riêng tư có thể anh em cãi cọ nhau, đặt ra nhiều điều nói xấu nhau, bêu riếu mạt sát khắp nơi để anh mình hay em mình không còn nhìn mặt ai được nữa.

Đôi khi còn thậm tệ hơn nữa là đánh đập, chửi mắng nhau hoặc thưa kiện, có khi giết hại nhau.

Thật là tương tàn, nồi da xáo thịt, trên đời này chẳng có ai khen, họ còn chê trách.

Nhân quả nghiệp báo ai có thân cũng có bệnh. Bệnh do duyên giết hại và ăn thịt chúng sinh. Do đó, nhìn mọi người đang sống quanh chúng ta, người nào cũng có bệnh, không ai là không bệnh, không bệnh này thì cũng bệnh khác. Đó chính là do đời trước đã tạo nhiều duyên ác giết hại và ăn thịt chúng sinh. Giết hại và ăn thịt nhiều thì bệnh càng nặng và hiểm nghèo nan y, còn giết hại và ăn thịt ít thì bệnh nhẹ, bệnh sơ sài, bệnh không quan trọng.

Nếu ai muốn thân này không bệnh khổ thì nên ngay từ lúc này, phải nuôi sống thân mạng bằng ăn thực phẩm thực vật, tránh ăn thực phẩm động vật, tránh giết hại chúng sinh và luôn luôn khởi lòng yêu thương sự sống của mình, của mọi người và của mọi loài vật. Dù là con kiến, con trùng, con sâu, con bọ, con rầy, v.v.. chúng ta cũng không nên giết. Phải thương yêu chúng như chính bản thân chúng ta. Cháu bé gái mới sinh, một hai tuổi làm gì nên tội mà mắc cơn bệnh ngặt nghèo rất hiếm. Chúng ta hãy đọc lại đoạn văn này sẽ rõ nhân quả, và như vậy sẽ không ai trốn thoát qui luật này: “Một bé gái mắc phải một bệnh rất hiếm gặp. Để có cơ hội được cứu sống, cô bé cần được truyền máu của cậu anh trai năm tuổi - cũng mắc phải căn bệnh ấy nhưng lại sống được, nhờ cơ thể cậu bé có thể tự sản sinh được một loại kháng thể”.

Đấy không phải là duyên nhân quả thiện trong kiếp quá khứ sao? Nên nay trong kiếp hiện tại vẫn gặp may mắn có người anh năm tuổi có dòng máu kháng thể để cứu thoát một bệnh tật hiếm gặp.

Làm ác phải trả quả khổ, dù bất cứ trong đời nào: quá khứ, vị lai hay hiện tại, hễ đủ duyên thì không bao giờ tránh khỏi quả khổ đau. Còn ngược lại, làm thiện thì trong thời nào: quá khứ, vị lai hay hiện tại cũng gặp may mắn vượt qua những khổ ách. Bằng chứng cụ thể cháu bé gái trong bài học hôm nay.

Câu chuyện đức hiếu sinh của cháu bé trai tuy đơn sơ, nhưng nói lên được đức hy sinh để thực hiện lòng yêu thương đứa em gái bé bỏng của mình. Câu chuyện đáng nói ở đây là một câu bé năm tuổi mà lòng thương em của mình, người lớn đầy đủ trí tuệ tư duy chưa chắc dám hy sinh mạng sống để cứu những người thân ruột thịt của mình. Phải không thưa quý vị? Một người mẹ dám hy sinh hai vành tai cho con mình, cho đến khi qua phần người con mới biết.

Một vết thẹo trên mặt suốt đời của một người mẹ dám hy sinh cứu con trong dầu sôi lửa bỏng.

Thật đáng cho chúng ta khâm phục! Đó là những lòng yêu thương con của một người mẹ. Còn ở đây là một cậu bé mới năm tuổi, đâu có hiểu biết gì về lòng yêu thương, nhưng lại hy sinh máu của mình để cứu đứa em gái. Trong trí non nớt của cậu bé nghĩ rằng:

“Cho hết máu của mình để em mình sống, còn mình sẽ phải chết”. Thật là đức hiếu sinh tuyệt vời! Trong đức hiếu sinh có sự hy sinh, vậy sự hy sinh có làm đau mình hay không? Đã dám hy sinh cho người khác, chết còn không sợ huống là khổ đau. Khi tinh thần dám hy sinh thì không còn sợ hãi, không còn sợ đau khổ. Chứ còn sợ đau khổ, còn sợ chết thì không dám hy sinh.

Phải không quý vị? Cho nên mới gọi là đức hiếu sinh tuyệt vời.

Cậu bé năm tuổi chưa bao giờ học đức hiếu sinh mà vẫn thực hiện đức hiếu sinh một cách tuyệt vời. Như vậy chứng tỏ đức hiếu sinh trong mỗi con người đều có, chúng ta chỉ có phát triển cho nó ngày một lớn mạnh hơn.

Ở đây có nhiều người cho rằng: “Hy sinh không phải là đức hiếu sinh, vì hy sinh là làm khổ mình”. Sự hiểu biết đức hiếu sinh như vậy là hiểu biết về hình thức, còn nông cạn, chứ họ chưa hiểu đức hiếu sinh về tinh thần. Hiểu biết đức hiếu sinh về tinh thần mới thâm sâu. Một người dám hy sinh cứu người khác để mình chịu chết hay chịu khổ thì tinh thần của họ rất hân hoan vui sướng vì đã làm một việc nghĩa vĩ đại.

Như vậy họ có khổ không? Cái khổ của cơ thể chỉ như hạt cát đối với tinh thần. Phải không quý vị? Khi tinh thần hân hoan vui sướng thì cái khổ của cơ thể đâu còn nữa, cho nên đức hy sinh mang đầy đủ đức hiếu sinh là đúng. Quý vị cứ suy ngẫm có đúng như vậy không? Đức hiếu sinh không ranh giới, không phân biệt chủng tộc, không phân biệt nước này nước khác. Chúng tôi xin kể lại một câu chuyện xảy ra trên đất nước Việt Nam, trong cuộc chiến tranh giữ gìn đất nước quê hương mà những người lính Mỹ đã trực tiếp tham gia trong cuộc chiến tranh này. Những hình ảnh chết chóc đau thương của dân tộc Việt Nam là một dấu ấn xót xa cho những người lính Mỹ có lòng nhân đạo, không bao giờ quên được.

Trước khi chết, ông Rick Bradshaw di chúc:

“Khi ông chết nên đem thiêu hài cốt, lấy nắm tro tàn rải trên thượng nguồn sông Thu Bồn để ông cùng chia sẻ những nỗi đau thương với dân tộc Việt Nam. Đây, chúng ta hãy đọc đoạn văn này, chúng tôi đã trích trong báo Thanh Niên số 121 ngày 30/4/2008, do phóng viên Trương Điện Thắng viết:

Trong những chuyến trở lại Việt Nam, giáo sư Hermann đã đưa các sinh viên Mỹ đến thắp hương ở nhiều nghĩa trang liệt sĩ ở miền Trung Việt Nam - “nơi yên nghỉ của những kẻ thù hôm qua, đã chiến đấu để bảo vệ quê hương họ”, thăm những người dân quê từng trải qua những đau khổ của chiến tranh mà ông và đồng đội từng góp phần gây ra. Câu chuyện cảm động nhất là khi ông mang tro hài cốt của một cựu binh tên Rick Bradshaw - chết tại Mỹ vì di chứng chiến tranh ở Việt Nam - rải trên thượng nguồn sông Thu Bồn, theo di chúc của anh, trong sự ngậm ngùi của những sinh viên Mỹ lẫn người dân Việt Nam chứng kiến.

(Giáo sư Kenneth Hermann và một em bé nạn nhân chất độc da cam ở Đà Nẵng)

Bài thơ của Rick Bradshaw để lại như một di chúc mà giáo sư Hermann đã đọc lại vào phút ấy có những câu cảm động:

Một mai khi tôi chết

Tôi muốn tro tàn xác thân tôi

Theo gió núi rải đi khắp cao nguyên Trung phần Việt Nam

Từ nơi này tâm hồn tôi

Sẽ dõi nhìn vẻ đẹp cuộc đời

Và dòng nước của trời sẽ gọt rửa tâm hồn tôi

Mang đến những thửa ruộng bậc thang

Mọc lên bên sườn đồi...

Tôi sẽ sống ở đây mãi mãi...

Để mỗi ngày sẽ trồi lên trong những cánh hoa rừng...

Những gì đã theo tôi đến mảnh đất này

Đến cái nơi mà tôi không thể nào dứt bỏ khỏi trái tim tôi...”

T.D.T

Đọc bài thơ của một người Mỹ - ông Rick Bradshaw, tình yêu thương dân tộc Việt Nam của ông sao mà thắm thía vô cùng, khiến cho mọi người đọc đoạn văn trên phải ngậm ngùi xúc động.

Đúng vậy, đức hiếu sinh không phân biệt màu da thứ tóc, không phân biệt nước này nước khác, chỉ biết thương yêu sự sống bình đẳng như nhau, như con một nhà, như con một cha, một mẹ, v.v... Thật là chỉ có tình thương yêu mới tuyệt vời như vậy, mới phá vỡ hàng rào ngăn cách của lòng người.

ĐỨC THỨ BA ĐỨC BỐ THÍ HIẾU SINH

Bố thí là một hành động đạo đức giúp cho những người khác trong khi họ gặp những nỗi đau thương, khó khăn trong đời sống.

Bố thí là làm một việc gì mà không tính công lao, không tính tiền bạc, không tính của cải, nhà cửa ruộng vườn. Bố thí cao nhất là bố thân mạng. Một người xông pha vào lửa đỏ để cứu một em bé thoát chết, đó là bố thí thân mạng.

Một cậu bé năm tuổi sẵn sàng cho máu để cứu sống em mình. Trong đầu cậu nghĩ khi cho hết máu rồi thì mình chết. Biết mình chết mà dám cho máu em mình thì đó là đức bố thí cao cả. Cho nên đức bố thí thật là tuyệt vời: “Bác sĩ giải thích điều đó với anh trai của cô bé, và hỏi cậu có sẵn sàng cho máu để cứu em gái mình không. Cậu bé do dự một lát, cậu hít thở sâu và nói: “Cháu sẽ đồng ý, nếu điều đó giúp em cháu có thể khoẻ lại được!” Đâu có ai nghĩ rằng đức bố thí lại là đức hy sinh cao cả vô cùng. Cô bé Enveni bố thí thân mạng để cho hai mẹ con người kia sống sum họp trên chiếc tàu cứu hộ, còn riêng mình, vị thuyền trưởng và con tàu từ từ chìm xuống đáy biển. Thật là cao thượng thay đức bố thí thân mạng cứu người.

Cho nên đức bố thí từ một lời nói, một hành động, một bát cơm, một đồng bạc đến thân mạng của mình để giúp người khác thật là hành động bố thí vĩ đại. Thật đáng mọi người ca ngợi và mãi mãi nhớ công ơn bố thí ấy khó quên.

Ngày xưa, trong một kiếp quá khứ, khi chưa tu chứng đạo, đức Phật nhìn thấy cảnh đói khát của đàn cọp con, Ngài không nỡ ngồi nhìn, nên đã bố thí thân mạng cho cọp ăn. Thật là lòng yêu chúng sinh của đức Phật tuyệt vời! Ngày xưa, đức Phật thí thân mạng mình cho chúng sinh ăn. Còn ngày nay, con người lại đi bắt chúng sinh giết và ăn thịt một cách tàn nhẫn không chút lòng thương xót, trước những tiếng kêu la giãy giụa của loài vật. Thật là đáng chê trách. Lòng thương yêu sự sống của loài người ngày này chỉ còn là số “không”. Những hành động ác của loài người ngày nay thật đáng nhắc nhở cho chúng ta lưu ý: “Đây là những con người hay là những ác thú...???”. Những con thú mang mặt người khiến cho chúng ta cần phải cảnh giác nhiều hơn, cần phải đề phòng nhiều hơn, vì những người này họ đã mất nhân tính, giết loài vật ăn thịt được thì giết người không khó khăn. Chỉ vì con người không giết nhau ăn thịt là nhờ có pháp luật của các nhà lãnh đạo trong các nước trên thế giới đặt ra.

Có người cho rằng, đức bố thí thân mạng để cứu người là không có đức hiếu sinh, vì đức hiếu sinh không làm khổ mình mà hy sinh thân mạng là làm khổ mình. Ý nghĩ này chúng tôi đã trả lời qua đức hy sinh, vì bố thí thân mạng là hy sinh thân mạng mình, cho nên đức bố thí thân mạng là đức hy sinh. Vậy quý vị hãy đọc lại đức hy sinh thì sẽ rõ. Trong đức hy sinh có mang theo một mục đích to lớn vì tổ quốc, vì sự sống của người khác, chứ không phải vì danh vì lợi tầm thường của thế gian, biết chỉ phục vụ cho cá nhân mình thì ở đây không có nghĩa là đức hy sinh.

ĐỨC THỨ TƯ ĐỨC HÂN HOAN THÂN HÀNH

Hân hoan là một sự vui mừng khi mình làm nên một việc gì có lợi ích cho mình, cho người. Niềm hân hoan của chúng ta là đem lại sự bình an cho mình, cho người khác, tức là những hành động, lời nói đem lại sự che chở khiến cho người khác không còn lo sợ, không còn buồn rầu, không còn đau khổ, không còn giận hờn phiền não. Niềm hân hoan là một đức hạnh giúp cho mình yêu đời hơn, vì đời sống con người trong thế gian này không có gì cho chúng ta đáng trách. Bởi vạn pháp trong thế gian đều do qui luật nhân quả tác thành thì mọi người, mọi vật phải theo đó mà sống, mà vui, mà khổ đau, mà ham muốn chạy theo dục vọng.

Họ còn biết cách nào làm khác hơn. Hiểu biết được như vậy thì chúng ta lại thương yêu và tha thứ mọi người, mọi vật. Mọi người, mọi vật có chủ động trong cuộc sống này không? Chủ động sao? Có ai bao giờ muốn cho thân mình bệnh tật, thế mà bệnh tật không sao tránh khỏi? Có ai bao giờ muốn cho mình chết. Phải không quý vị? Thế mà mọi người đều phải chết, không ai làm chủ trước cái chết được. Cho nên trong cuộc sống này không ai làm chủ mình được.

Vì không làm chủ được cuộc sống và hiểu biết rõ qui luật nhân quả điều khiển mọi vật vận hành trong vũ trụ nên chúng ta hân hoan đón nhận bất cứ một việc gì, dù thuận duyên hay nghịch duyên với một niềm vui thương yêu và tha thứ. Chính nhờ thế, chúng ta mới làm cho mình vững vàng trong cuộc sống hơn.

Một người hân hoan lúc nào trong lòng cũng vui vẻ, lạc hoan yêu đời. Họ nhìn đời như một buổi bình minh tươi sáng.

Cậu bé hân hoan khi nhìn thấy em mình đã phục hồi sự sống bằng những dòng máu của mình: “Khi đang truyền máu, hai anh em nằm trên hai giường gần nhau. Cậu bé mỉm cười khi nhìn thấy đôi má em gái mình bắt đầu lấy lại được sắc hồng”. Làm người mà đã giúp đỡ hay làm một điều gì có lợi ích, có sự an vui, có sự bình an cho mọi người thì người ấy phải hân hoan vô cùng.

Hân hoan là một đức hạnh giúp cho cơ thể khỏe mạnh hơn, giúp cho tinh thần sảng khoái dễ chịu hơn. Dù trước mắt có nhiều chông gai, khó khăn gian khổ, nhưng đức hân hoan khiến cho chúng ta không bao giờ chùn bước, không bao giờ đầu hàng trước nghịch cảnh, luôn luôn thẳng tiến, quyết tâm làm đến nơi đến chốn, nguyện sẽ thành công trong niềm hân hoan với những việc làm lợi ích mình, lợi ích người.

Trước những hoàn cảnh khó khăn, nhưng chúng ta luôn luôn sẵn sàng hân hoan đón nhận mà không chút phiền hà trong lòng, đấy cũng là những đức tính cao thượng vì lợi ích mình, lợi ích người, mà mọi người trong chúng ta ai cũng cần nên học tập và trau dồi rèn luyện hằng ngày.

ĐỨC THỨ NĂM ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH

Đức hiếu sinh là một đức hạnh rất tuyệt vời, nếu ai biết sử dụng đức hiếu sinh trong mọi trường hợp nó sẽ đem lại sự bình an cho mình, cho người. Nhưng ở đây, bài học nói về một cậu bé mới có năm tuổi, với tuổi này chưa có ý thức như người lớn, thì làm sao hiểu được đức hiếu sinh. Vậy mà cậu bé năm tuổi đã thực hiện đức hiếu sinh bằng một tình thương em mình chân thật tự trong trái tim. Như vậy, đức hiếu sinh sẵn có trong mỗi con người.

Nghe nói đến cái chết thì trẻ em nào không sợ, chính người lớn còn sợ thay huống là trẻ em, phải không quý vị? Vậy mà cậu bé này khi nghe bác sĩ giải thích truyền máu của mình để cứu sống em gái thì cậu bé nghĩ rằng nếu lấy hết máu của mình thì mình phải chết, nên cậu do dự một lúc, nhưng rồi cậu sẵn sàng chấp nhận chết để cứu em mình. Sự suy nghĩ nông cạn của một đứa bé và sự chấp nhận hy sinh mạng sống của mình để cứu em gái thật là tuyệt vời: “Bác sĩ giải thích điều đó với anh trai của cô bé, và hỏi cậu có sẵn sàng cho máu để cứu em gái mình không? Cậu bé do dự một lát, cậu hít thở sâu và nói: “Cháu sẽ đồng ý, nếu điều đó giúp em cháu có thể khoẻ lại được!”.

Với trí suy nghĩ hiểu biết non nớt của cậu bé mà dám hy sinh thân mạng mình để cứu đứa em, thật là một việc làm vĩ đại rất đáng khen. Nếu là một người khác hiểu như vậy, chắc không ai dám hy sinh.

Do tình thương mà người ta dám hy sinh mạng sống cứu người khác. Khi có một sự việc xảy ra bất cập, thì người ta xông vào lửa đỏ nước sôi để cứu người, chứ ít ai nghĩ rằng do động lực lòng yêu thương người mà họ không sợ chết. Nghe tiếng kêu cứu trong ngôi nhà đang cháy mà ai nỡ lòng nào đứng nhìn. Do không nỡ lòng nào là đức hiếu sinh.

Như trên đã nói, đức hiếu sinh sẵn có trong mỗi người, chỉ cần chúng ta hằng ngày triển khai rèn luyện thì đức hiếu sinh luôn luôn sẽ ở trong mỗi hành động thân, khẩu, ý. Nhờ có đức hiếu sinh nên không có một ác pháp nào dám bén mảng vào tâm chúng ta được.

Bởi vậy đức hiếu sinh ngăn ác, diệt ác pháp rất tài tình mà không có một pháp môn nào xả tâm ly dục, ly ác pháp hơn được.

Đức xả tâm ly dục, ly ác pháp của Phật giáo chỉ có đức hiếu sinh. Đức hiếu sinh là giới pháp đầu tiên trong năm giới cấm của người con Phật (giới sát sinh). Cho nên, người đệ tử Phật không phân biệt tu sĩ hay cư sĩ đều phải giữ gìn và sống đúng giới đức này thì cuộc sống mới có bình an, yên vui và hạnh phúc.

ĐỨC THỨ SÁU ĐỨC HY SINH THÂN HÀNH

Hy sinh là một đức hạnh cần thiết cho mọi người, vì có hy sinh công sức mới giúp nhau tận tình; vì có hy sinh tiền bạc, của cải mới giúp người trong cảnh đói khát lầm than; vì có hy sinh mới đem sinh mạng mình cứu giúp người trong cơn hoạn nạn hiểm nguy; vì có hy sinh mình mới cứu người trong lửa đỏ; vì có hy sinh mình cứu thoát 13 người đắm thuyền trên sông.

Cậu bé rất tội nghiệp, thương em nên quyết cứu em mình sống, nhưng khi nghĩ đến mình cho máu hết chắc phải chết. Là con người ai cũng sợ chết, nên khi nghĩ đến cái chết cậu bé run sợ và nụ cười tắt dần, nhưng tình thương em của cậu rất mãnh liệt và tha thiết, nên cậu vượt qua sợ hãi và nói với bác sĩ: “Cháu sắp chết rồi phải không bác! Bác cố gắng cứu sống em cháu nhé!”. Câu nói đầy lòng yêu thương như lời trối của người sắp chết đến nơi, khiến cho ai đọc đến đây cũng xúc động trước tình thương cao cả của người anh trai bé bỏng.

Đến khi sắp chết, cậu vẫn mong muốn và gửi gắm em mình được sống. Tình thương em của cậu bé này thật là tuyệt vời, khó có người anh trai nào dám liều chết hy sinh cho em mình sống như thế. Thật đáng khen! Một cậu bé năm tuổi có những hành động đạo đức cao thượng, đó là một tấm gương sáng cho mọi người soi. “Anh em như thể tay chân, từ trong bác mẹ một lòng mà ra”.

Đức hy sinh là một hành động thực hiện lòng yêu thương của mình đối với người khác. Một nhà từ thiện vì lòng yêu thương những người bất hạnh trong xã hội nên đã đem của cải tài sản ra giúp đỡ cho người khác trong cơn hoạn nạn nghèo đói. Bỏ công sức của mình ra giúp đỡ cho người khác cũng là đức hy sinh. Đức hy sinh trong đức bố thí, người không có đức hy sinh thì không dám bố thí. Bởi vậy, trong đức bố thí vẫn đầy đủ đức hy sinh, nhưng trong đức hy sinh vẫn có đầy đủ đức bố thí.

Nhưng chúng ta cần phải hiểu rõ hơn về đức hạnh: “Nếu con người không có đức hiếu sinh thì không bao giờ có đức hy sinh. Đức hy sinh không có thì không làm sao có đức bố thí”. Cho nên, nói về đạo đức là nói đến một chuỗi then chuyền đạo đức. Ở đây nên hiểu đức hiếu sinh là gốc, từ gốc mới sinh ra đức hy sinh và đức bố thí, v.v...

Một người lính xông pha vào trận mạc chiến đấu với giặc để bảo vệ tổ quốc, chẳng may anh đã chết giữa sa trường, đó là đức hy sinh mình vì tổ quốc.

Một cháu bé chăn trâu bên bờ sông đã hy sinh mình cứu sống 13 người chết đuối trên chiếc tàu đò, và cứu thoát người cuối cùng thì sức cùng lực kiệt, cháu bị nước cuốn trôi đi và đã chết trên dòng sông. Đó là đức hy sinh mình cứu người.

Vì sự sống của người khác mà chúng ta dám xông vào chỗ chết để cứu họ, không kể đến mạng sống của mình, đó là đức hy sinh. Đức hy sinh cao thượng hơn tất cả các đức hạnh khác.

Xin nhắc lại, dám xông pha vào chỗ chết để cứu người đó là đức hy sinh. Dám nhận cái chết về mình để người khác được sống. Cậu bé Duy Duyệt nhường chỗ trên tàu cứu hộ để cháu gái Maria về đoàn tụ với gia đình. Cháu gái Enveni nhường chỗ trên tàu cứu hộ cho hai mẹ con cô Lyskey sum hợp. Cháu Cricot chạy ôm bà chịu lưỡi dao oan nghiệt của bọn cướp. Cháu Encrico đứng lên nhận lỗi thay cho bạn mình, v.v... Tất cả những gương hạnh trên đây đều là những người sống với đức hy sinh. Đức hy sinh thật là cao thượng khiến cho chúng ta càng trân trọng hơn.

Bài 37: NGƯỜI TẠO DỰNG NIỀM TIN

Năm mười bốn tuổi, tôi chẳng làm được trò trống gì, ngoại trừ việc quậy phá nổi tiếng trong trường. Tôi thường bỏ dở giữa chừng các môn học mà chẳng thèm quan tâm đến việc có bị cấm túc, kỷ luật hay bị đuổi học hay không.

Tất cả những điều đó hoàn toàn thay đổi khi tôi được học với thầy Kaplan. Trẻ tuổi đẹp trai, thầy đứng dựa vào tấm bảng, áo sơ mi cổ bé, tay đút trong túi quần jeans, như thể chẳng quan tâm đến bất cứ thứ gì trên đời này. Dưới mái tóc vàng mềm mại, đôi mắt ánh lên màu xanh thép đầy cương nghị của thầy lại nói lên điều ngược lại. Ông thầy có dáng vẻ “ngầu đời” này có cái nhìn như muốn nói: “Đừng có mà lộn xộn với tôi đấy!”. Hơi thích thú và phần e dè, tôi nghĩ có lẽ là phải đàng hoàng trong lớp học này.

“Chào các em”, thầy lên tiếng và bước dọc theo lối đi giữa hai hàng ghế, “tôi tên là Kaplan, và chúng ta sẽ cùng nhau thực hiện một chuyến đi dài.” Có cái gì đó cồn lên trong bụng, tôi tự hỏi không biết mình bị sao nữa, và rồi chợt nhận ra đó là cảm giác thích thú. Thầy bước nhanh quay lại bàn làm việc. Tôi mỉm cười hy vọng rằng đây sẽ là một môn học hấp dẫn.

Đột nhiên, thầy nhảy phắt lên đứng trên bàn.

“Các em nghe đây!”, thầy nói với cả lớp bằng một giọng đầy nhiệt huyết, “tôi không nói về trường học. Đây là việc học tập và niềm vui trong công việc, nếu các em tìm thấy niềm vui trong học tập chắc chắn các em sẽ học tốt”.

“Tôi nói các em đấy”, thầy tiếp tục nhảy từ trên bàn xuống đất, nhẹ nhàng như một con báo.

“Và em nữa”, thầy vừa nói, vừa chỉ vào từng học sinh và lập lại những từ này.

Khi ngón tay của thầy chỉ đến tôi, tôi chợt thấy tim ngừng lại một nhịp. Xưa nay tôi chưa bao giờ cho rằng học là một niềm vui. Và cũng chưa bao giờ nghĩ rằng tôi có thể học được.

Và rồi bằng một giọng thì thầm, thầy nói tiếp: “Lịch sử là một điều bí mật, và chúng ta là một phần trong bí mật đó”.

Lớp học im lặng như tờ, thậm chí có thể nghe được tiếng vỗ cánh của một con ruồi khi nó bay ngang qua.

“Chúng ta sẽ không ngồi đây hôm nay nếu tổ tiên chúng ta không chiến đấu cho niềm tin của họ, cho độc lập của quốc gia. Chắc chắn chúng ta sẽ không phải là những con người tự do”.

Thầy tuyên bố bằng một giọng nói nghiêm túc đến mức tôi cảm thấy có nghĩa vụ phải lắng nghe thầy.

Thầy nắm chặt bàn tay giơ lên trước mặt, giọng rền vang: “Tất cả các em đều có một lịch sử. Chúng ta có trách nhiệm ghi nhớ những gì đã xảy ra và phải rút ra được bài học từ trong lịch sử”.

Tôi phải kềm chế lắm mới khỏi hô to lên “quá đã!” “Bây giờ tôi sẽ đưa các em đi cùng tôi trong chuyến du hành dài ngày này. Các em đã sẵn sàng chưa? Nếu có đủ can đảm, hãy đứng dậy và đẩy hết bàn ghế ra hai bên”.

Đó là một lời thách thức. Thầy yêu cầu chúng tôi phải tích cực tham gia vào bài học, không đơn giản ngồi chờ cho hết giờ. Chỉ trong vài phút, lớp học đã được dọn trống.

“Được rồi”, thầy nói, “giờ các em hãy nằm xuống đất và nhớ là phải nằm thật sát vào nhau”.

Lớp học nãy giờ im lặng, giờ đây vang đầy những tiếng cười khúc khích khi chúng tôi loay hoay nằm xuống bên nhau trên nền nhà. Tay đứa này đụng vào người đứa kia, thậm chí có đứa còn đụng đầu nhau côm cốp, nhưng rồi cuối cùng cũng nằm thành một đám hỗn độn trên sàn nhà.

Thầy xoa cằm nhìn chúng tôi, như thể đang ngắm nhìn tác phẩm điêu khắc mới nhất của mình rồi nói: “Tốt lắm, các em hãy nhích sát vào nhau chút nữa”.

Chúng tôi lại vừa rúc rích cười vừa nhích sát vào nhau hơn. Mặc dù khá thích thú, nhưng rồi chúng tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu vì chật chội và nóng bức, mồ hôi bắt đầu tuôn chảy trên người và không khí có vẻ ngột ngạt hơn khi cả đám chen chúc sát vào nhau trên sàn nhà.

‘Tốt”, thầy vừa nói vừa đi quanh chúng tôi, “bây giờ các em hãy tưởng tượng rằng mình đang bị xích vào nhau trong một căn phòng mà hầu như không thể đứng lên được, với một khuôn cửa sổ bé tí xíu. Nhiệt độ nóng bức và không khí ngột ngạt đến nỗi không thể thở được. Hãy tưởng tượng các em chỉ được cho ăn những thứ chỉ để dùng nuôi súc vật vào cuối mỗi ngày, nếu lúc đó chưa bị chết vì nóng, vì mùi hôi thúi và sự đánh đập dã man. Hãy tưởng tượng rằng các em phải ngủ chồng lên nhau trên nền đất cứng, tệ hơn rất nhiều với những gì mà các em đang phải chịu đựng”.

“Hãy tưởng tượng về cơn ác mộng đó”, thầy nói tiếp, đôi mắt ánh lên những tia căm phẫn.

Và thầy nói bằng giọng nói của một người như đang trong cơn hấp hối: “Đó là tình cảnh của những người Phi Châu bị chở dưới hầm tàu sang Mỹ. Để rồi khi đến nơi, họ bị đem bán giữa chợ như một bầy súc vật, và sẽ phải làm việc cho đến kiệt sức, chết đi trên các đồn điền. Các em đang diễn lại trong lớp này. Được rồi, các em đứng lên đi. Đây chỉ là màn khởi đầu cho cơn ác mộng nô lệ triền miên trong lịch sử”.

Tôi chợt hiểu ra: Thầy Kaplan đang giảng cho chúng tôi bài học về lịch sử bằng cách của riêng thầy, không phải bằng những cuốn sách dày cộp với câu chữ khô khan lạnh lùng; không phải bằng những lời rao giảng triền miên, sáo rỗng. Thầy đã thổi hồn vào bài học này, làm cho nó trở nên sinh động và rất dễ tiếp thu. Chúng tôi đã cùng thầy bước vào cuộc hành trình tìm về cội nguồn lịch sử bằng một chuyến đi vô cùng hấp dẫn. Và đó chỉ là ngày đầu tiên.

Cứ như vậy hết ngày này sang ngày khác, tuần này sang tuần khác, chúng tôi đã tìm ra đủ mọi cách để tái hiện lịch sử: Khi thì biến bàn ghế thành con tàu Nina, Pinta và Santa Maria để cùng Christophe Columbus băng qua những cơn sóng dữ tìm đến Châu Mỹ, khi thì cả lớp chia thành hai đạo quân Nam - Bắc để đánh nhau trong cuộc nội chiến bằng những khẩu súng giấy do chúng tôi tự chế tạo. Một hôm khác, chúng tôi hoá trang thành những nghị sĩ để soạn thảo và ký tên vào bản tuyên ngôn độc lập, và tôi rất hãnh diện khi được đóng vai John Adams.

Tôi đã học được rất nhiều điều trong môn của Thầy. Chúng tôi cũng phải đọc được một số sách và làm bài kiểm tra, nhưng vì tôi quá thích thú môn học này, nên đã cố gắng làm tốt những việc mà trước đây tôi không hề làm. Tôi luôn trông chờ để được học môn này, không phải vì Thầy Kaplan trẻ tuổi, đẹp trai và “rất ngầu đời”, mà vì thầy thật sự là một giáo viên xuất sắc, biết tạo sự say mê học tập cho học sinh của mình.

Tôi tôn trọng những lời dạy của thầy, và khi thầy nói rằng mọi môn học đều quan trọng trong hành trình của cuộc sống, tôi đã cố gắng đi học đầy đủ các môn khác. Và mỗi ngày tôi đều háo hức chờ đến giờ đi học.

Khỏi phải nói bạn cũng biết cha mẹ tôi mừng đến mức nào. Họ tự hỏi không biết ông thầy giáo đó có ma lực gì mà khiến cho một đứa con gái ương ngạnh như tôi trở thành một học sinh gương mẫu. Tất cả phụ huynh học sinh và đồng nghiệp trong trường đều yêu mến thầy Kaplan.

Đặc biệt là tôi.

Do đó, khi có tin đồn thầy bị nhà trường sa thải đã không một ai tin. Thầy Kaplan là giáo viên giỏi nhất ở trường chúng tôi. Tại sao người ta lại sa thải một giáo viên chỉ vì đã làm cho môn lịch sử trở thành một môn học vô cùng sống động và dễ nhớ đối với học sinh; một giáo viên đã làm cho học sinh ngày càng say mê học tập hơn? Tôi càng thất vọng hơn khi biết tin đồn này là có thật. Thầy Kaplan bị sa thải do đã không chịu đi theo lối mòn cứng nhắc. Điều quan trọng đối với hội đồng nhà trường không phải là chất lượng giảng dạy, mà phương pháp của thầy không mang tính chính thống nên không được chấp nhận.

Là một người luôn lạc quan, thầy Kaplan chấp nhận việc này một cách rất bình tĩnh. Thầy khuyên chúng tôi phải “chấp nhận thay đổi”. Vì theo thầy, người nào không biết cách chấp nhận sẽ làm tổn thương đến người khác cũng như đến chính mình. Dù những lời thầy nói là đúng, nhưng chúng tôi cũng không cam tâm ngồi nhìn thầy ra đi. Suy cho cùng, chính thầy đã dạy rằng tổ tiên chúng tôi biết chiến đấu để giữ vững niềm tin của mình. Do đó, chúng tôi đã bàn định kế hoạch biểu tình vào ngày thầy Kaplan ra đi.

Những người tham gia đều phải hứa giữ bí mật.

Nhưng rồi tin tức cũng lộ ra, và thầy hiệu trưởng cũng thông báo trên loa phóng thanh rằng học sinh nào tham gia vào cuộc biểu tình sẽ bị đuổi học.

Cuối cùng thì ngày đó cũng đến, khi chuông báo hết giờ vang lên, đám học sinh chúng tôi khoác tay nhau bước ra cổng trường và tập hợp thành hàng ở đó, học sinh các lớp dưới cũng tham gia. Thoáng chốc, ngôi trường gần như không còn bóng một học sinh nào. Thầy Kaplan đã truyền cho chúng tôi lòng dũng cảm chấp nhận mọi việc để chiến đấu cho niềm tin của mình. Bất chấp những lời đe doạ, chúng tôi đồng thanh hô vang: “Không được để thầy Kaplan ra đi! Hãy giữ thầy ở lại”.

Các bậc phụ huynh sau đó cũng kéo đến và thay vì la mắng con, họ đã cùng nắm tay nhau, tạo thành một hàng rào bao xung quanh và cùng hô vang theo chúng tôi. Thầy Kaplan xuất hiện ở cửa sổ, nước mắt tuôn trào trên gương mặt, thầy vẫy tay chào chúng tôi và nói: “Cảm ơn các em”, rồi bước khuất vào bên trong.

Bất chấp những nỗ lực của chúng tôi, thầy Kaplan vẫn bị sa thải. Nhưng nhờ sự ủng hộ nhiệt tình của phụ huynh và giới báo chí, nên không học sinh nào trong trường bị đuổi học.

Thầy đến dạy trong một trường tư ở một tiểu bang khác. Những trường học loại này ngày nay rất nổi tiếng. Khi nghe nói về một ngôi trường nào như thế. Tôi nghĩ ngay đến thầy Kaplan. Và tôi vô cùng biết ơn người thầy phi thường, tận tụy đã chấp nhận rủi ro sử dụng mọi kiến thức, sự sáng tạo và tính hài hước để mang đến cho những học sinh vốn thờ ơ với việc học như tôi món quà quý nhất của đời học sinh: “Niềm vui thích và say mê trong học tập”.

Người Thắp Sáng Ước Mơ - Kỳ Thư Tổng hợp & biên dịch

ĐẠI Ý:

Bài này nói về đức chấp nhận trách nhiệm của một giảng viên truyền đạt tư tưởng văn hóa, lịch sử, đạo đức, v.v.. rất sống động, cụ thể, thực tế, khiến cho học viên tiếp thu một cách dễ dàng.

HƯỚNG DẪN:

Muốn phân đoạn thì nên gạch đít những từ quan trọng chỉ những hành động đạo đức trong bài. Khi gạch đít xong, quý vị xem những từ nào chỉ cho đức hạnh hay thiếu đức hạnh thì quý vị nên xác định đức hạnh ấy rõ ràng.

Ví dụ: Như trong bài này, quý vị nên gạch đít những từ sau đây: quậy phá nổi tiếng, thường bỏ dở giữa chừng các môn học, có khi bị cấm túc, kỷ luật hay bị đuổi học, thì quý vị biết ngay người học sinh lười biếng, không chăm chỉ học hành. Vì thế phân đoạn này là đoạn thứ nhất và đáp án là Thiếu Đức Hiếu Học Ý Hành.

BÀI LÀM

1- Phân đoạn:

Bài này có 11 đoạn:

1- Năm mười bốn tuổi, tôi chẳng làm được trò trống gì, ngoại trừ việc quậy phá nổi tiếng trong trường. Tôi thường bỏ dở giữa chừng các môn học, mà chẳng thèm quan tâm đến việc có bị cấm túc, kỷ luật hay bị đuổi học hay không.

2- Tất cả những điều đó hoàn toàn thay đổi khi tôi được học với thầy Kaplan. Trẻ tuổi đẹp trai, thầy đứng dựa vào tấm bảng, áo sơ mi cổ bẻ, tay đút trong túi quần jeans, như thể chẳng quan tâm đến bất cứ thứ gì trên đời này. Dưới mái tóc vàng mềm mại, đôi mắt ánh lên màu xanh thép đầy cương nghị của thầy lại nói lên điều ngược lại. Ông thầy có dáng vẻ “ngầu đời ” này có cái nhìn như muốn nói: “Đừng có mà lộn xôn với tôi đấy! ”.

3- Hơi thích thú và phần e dè, tôi nghĩ có lẽ là phải đàng hoàng trong lớp học này.

Chào các em”, thầy lên tiếng và bước dọc theo lối đi giữa hai hàng ghế, “tôi tên là Kaplan, và chúng ta sẽ cùng nhau thực hiện một chuyến đi dài”.

Có cái gì đó cồn lên trong bụng, tôi tự hỏi không biết mình bị sao nữa, và rồi chợt nhận ra đó là cảm giác thích thú. Thầy bước nhanh quay lại bàn làm việc. Tôi mỉm cười hy vọng rằng đây sẽ là một môn học hấp dẫn.

Đột nhiên, thầy nhảy phắt lên đứng trên bàn.

Các em nghe đây!”, thầy nói với cả lớp bằng một giọng đầy nhiệt huyết, “tôi không nói về trường học. Đây là việc học tập và niềm vui trong công việc, nếu các em tìm thấy niềm vui trong học tập, chắc chắn các em sẽ học tốt”.

4- “Tôi nói các em đấy”, thầy tiếp tục nhảy từ trên bàn xuống đất, nhẹ nhàng như một con báo. “Và em nữa”, thầy vừa nói, vừa chỉ vào từng học sinh và lập lại những từ này.

Khi ngón tay của Thầy chỉ đến tôi, tôi chợt thấy tim ngừng lại một nhịp. Xưa nay tôi chưa bao giờ cho rằng học là một niềm vui. Và cũng chưa bao giờ nghĩ rằng tôi có thể học được.

Và rồi bằng một giọng thì thầm, Thầy nói tiếp: “Lịch sử là một điều bí mật, và chúng ta là một phần trong bí mật đó ”.

Lớp học im lặng như tờ, thậm chí có thể nghe được tiếng vỗ cánh của một con ruồi khi nó bay ngang qua.

Chúng ta sẽ không ngồi đây hôm nay, nếu tổ tiên chúng ta không chiến đấu cho niềm tin của họ, cho độc lập của quốc gia. Chắc chắn chúng ta sẽ không phải là những con người tự do”. Thầy tuyên bố bằng một giọng nói nghiêm túc đến mức tôi cảm thấy có nghĩa vụ phải lắng nghe thầy.

Thầy nắm chặt bàn tay giơ lên trước mặt, giọng rền vang: “Tất cả các em đều có một lịch sử. Chúng ta có trách nhiệm ghi nhớ những gì đã xảy ra, và phải rút ra được bài học từ trong lịch sử ”. Tôi phải kềm chế lắm mới khỏi hô to lên “quá đã!”

5- “Bây giờ tôi sẽ đưa các em đi cùng tôi trong chuyến du hành dài ngày này. Các em đã sẵn sàng chưa? Nếu có đủ can đảm, hãy đứng dậy và đẩy hết bàn ghế ra hai bên”.

Đó là một lời thách thức. Thầy yêu cầu chúng tôi phải tích cực tham gia vào bài học, không đơn giản ngồi chờ cho hết giờ. Chỉ trong vài phút, lớp học đã được dọn trống.

Được rồi”, thầy nói, “giờ các em hãy nằm xuống đất, và nhớ là phải nằm thật sát vào nhau”.

Lớp học nãy giờ im lặng, giờ đây vang đầy những tiếng cười khúc khích khi chúng tôi loay hoay nằm xuống bên nhau trên nền nhà. Tay đứa này đụng vào người đứa kia, thậm chí có đứa còn đụng đầu nhau côm cốp, nhưng rồi cuối cùng cũng nằm thành một đám hỗn độn trên sàn nhà.

Thầy xoa cằm nhìn chúng tôi, như thể đang ngắm nhìn tác phẩm điêu khắc mới nhất của mình rồi nói: “Tốt lắm, các em hãy nhích sát vào nhau chút nữa”.

Chúng tôi lại vừa rúc rích cười vừa nhích sát vào nhau hơn. Mặc dù khá thích thú, nhưng rồi chúng tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu vì chật chội và nóng bức, mồ hôi bắt đầu tuôn chảy trên người và không khí có vẻ ngột ngạt hơn khi cả đám chen chúc sát vào nhau trên sàn nhà.

Tốt”, thầy vừa nói vừa đi quanh chúng tôi, “bây giờ các em hãy tưởng tượng rằng mình đang bị xích vào nhau trong một căn phòng mà hầu như không thể đứng lên được, với một khuôn cửa sổ bé tí xíu. Nhiệt độ nóng bức và không khí ngột ngạt đến nỗi không thể thở được. Hãy tưởng tượng các em chỉ được cho ăn những thứ chỉ để dùng nuôi súc vật vào cuối mỗi ngày, nếu lúc đó chưa bị chết vì nóng, vì mùi hôi thúi và sự đánh đập dã man. Hãy tưởng tượng rằng các em phải ngủ chồng lên nhau trên nền đất cứng, tệ hơn rất nhiều với những gì mà các em đang phải chịu đựng ”.

Hãy tưởng tượng về cơn ác mộng đó”, thầy nói tiếp, đôi mắt ánh lên những tia căm phẫn.

Và thầy nói bằng giọng nói của một người như đang trong cơn hấp hối: “Đó là tình cảnh của những người Phi Châu bị chở dưới hầm tàu sang Mỹ. Để rồi khi đến nơi, họ bị đem bán giữa chợ như một bầy súc vật, và sẽ phải làm việc cho đến kiệt sức, chết đi trên các đồn điền .

Các em đang diễn lại trong lớp này. Được rồi, các em đứng lên đi. Đây chỉ là màn khởi đầu cho cơn ác mộng nô lệ triền miên trong lịch sử.

6- Tôi chợt hiểu ra: Thầy Kaplan đang giảng cho chúng tôi bài học về lịch sử bằng cách của riêng thầy, không phải bằng những cuốn sách dày cộp với câu chữ khô khan lạnh lùng; không phải bằng những lời rao giảng triền miên, sáo rỗng. Thầy đã thổi hồn vào bài học này, làm cho nó trở nên sinh động và rất dễ tiếp thu. Chúng tôi đã cùng thầy bước vào cuộc hành trình tìm về cội nguồn lịch sử, bằng một chuyến đi vô cùng hấp dẫn. Và đó chỉ là ngày đầu tiên.

Cứ như vậy hết ngày này sang ngày khác, tuần này sang tuần khác, chúng tôi đã tìm ra đủ mọi cách để tái hiện lịch sử: Khi thì biến bàn ghế thành con tàu Nina, Pinta và Santa Maria để cùng Christophe Columbus băng qua những cơn sóng dữ tìm đến Châu Mỹ, khi thì cả lớp chia thành hai đạo quân Nam - Bắc để đánh nhau trong cuộc nội chiến bằng những khẩu súng giấy do chúng tôi tự chế tạo. Một hôm khác, chúng tôi hoá trang thành những nghị sĩ để soạn thảo và ký tên vào bản tuyên ngôn độc lập, và tôi rất hãnh diện khi được đóng vai John Adams.

7- Tôi đã học được rất nhiều điều trong môn của Thầy. Chúng tôi cũng phải đọc được một số sách và làm bài kiểm tra, nhưng vì tôi quá thích thú môn học này nên đã cố gắng làm tốt những việc mà trước đây tôi không hề làm.

Tôi luôn trông chờ để được học môn này, không phải vì thầy Kaplan trẻ tuổi, đẹp trai và “rất ngầu đời”, mà vì thầy thật sự là một giáo viên xuất sắc, biết tạo sự say mê học tập cho học sinh của mình. Tôi tôn trọng những lời dạy của thầy, và khi thầy nói rằng mọi môn học đều quan trọng trong hành trình của cuộc sống, tôi đã cố gắng đi học đầy đủ các môn khác. Và mỗi ngày, tôi đều háo hức chờ đến giờ đi học.

Khỏi phải nói bạn cũng biết cha mẹ tôi mừng đến mức nào. Họ tự hỏi không biết ông thầy giáo đó có ma lực gì mà khiến cho một đứa con gái ương ngạnh như tôi trở thành một học sinh gương mẫu. Tất cả phụ huynh học sinh và đồng nghiệp trong trường đều yêu mến thầy Kaplan.

Đặc biệt là tôi.

8- Do đó, khi có tin đồn thầy bị nhà trường sa thải đã không một ai tin. Thầy Kaplan là giáo viên giỏi nhất ở trường chúng tôi. Tại sao người ta lại sa thải một giáo viên chỉ vì đã làm cho môn lịch sử trở thành một môn học vô cùng sống động và dễ nhớ đối với học sinh; một giáo viên đã làm cho học sinh ngày càng say mê học tập hơn? Tôi càng thất vọng hơn khi biết tin đồn này là có thật. Thầy Kaplan bị sa thải do đã không chịu đi theo lối mòn cứng nhắc. Điều quan trọng đối với hội đồng nhà trường không phải là chất lượng giảng dạy, mà phương pháp của thầy không mang tính chính thống nên không được chấp nhận.

9- Là một người luôn lạc quan, thầy Kaplan chấp nhận việc này một cách rất bình tĩnh. Thầy khuyên chúng tôi phải “chấp nhận thay đổi ”. Vì theo thầy, người nào không biết cách chấp nhận sẽ làm tổn thương đến người khác, cũng như đến chính mình.

10- Dù những lời thầy nói là đúng, nhưng chúng tôi cũng không can tâm ngồi nhìn thầy ra đi. Suy cho cùng, chính thầy đã dạy rằng tổ tiên chúng tôi biết chiến đấu để giữ vững niềm tin của mình. Do đó, chúng tôi đã bàn định kế hoạch biểu tình vào ngày thầy Kaplan ra đi.

Những người tham gia đều phải hứa giữa bí mật. Nhưng rồi tin tức cũng lộ ra, và thầy hiệu trưởng cũng thông báo trên loa phóng thanh rằng học sinh nào tham gia vào cuộc biểu tình sẽ bị đuổi học.

Cuối cùng thì ngày đó cũng đến, khi chuông báo hết giờ vang lên, đám học sinh chúng tôi khoác tay nhau bước ra cổng trường và tập hợp thành hàng ở đó, học sinh các lớp dưới cũng tham gia. Thoáng chốc, ngôi trường gần như không còn bóng một học sinh nào. Thầy Kaplan đã truyền cho chúng tôi lòng dũng cảm chấp nhận mọi việc để chiến đấu cho niềm tin của mình. Bất chấp những lời đe doạ, chúng tôi đồng thanh hô vang: “Không được để thầy Kaplan ra đi! Hãy giữ thầy ở lại”.

Các bậc phụ huynh sau đó cũng kéo đến và thay vì la mắng con, họ đã cùng nắm tay nhau, tạo thành một hàng rào bao xung quanh và cùng hô vang theo chúng tôi. Thầy Kaplan xuất hiện ở cửa sổ, nước mắt tuôn trào trên gương mặt, thầy vẫy tay chào chúng tôi và nói: “Cảm ơn các em”, rồi bước khuất vào bên trong.

Bất chấp những nỗ lực của chúng tôi, thầy Kaplan vẫn bị sa thải. Nhưng nhờ sự ủng hộ nhiệt tình của phụ huynh và giới báo chí, nên không học sinh nào trong trường bị đuổi học.

11- Thầy đến dạy trong một trường tư ở một tiểu bang khác. Những trường học loại này ngày nay rất nổi tiếng. Khi nghe nói về một ngôi trường nào như thế. Tôi nghĩ ngay đến thầy Kaplan. Và tôi vô cùng biết ơn người Thầy phi thường, tận tụy đã chấp nhận rủi ro sử dụng mọi kiến thức, sự sáng tạo và tính hài hước để mang đến cho những học sinh vốn thờ ơ với việc học như tôi món quà quý nhất của đời học sinh: Niềm vui thích và say mê trong học tập .

2- Đáp án:

Bài này có 11 đức:

1- Thiếu đức hiếu học ý hành.

2- Đức nghiêm nghị thân hành, ý hành.

3- Đức khuyến học khẩu hành.

4- Đức tri ân tổ quốc khẩu hành.

5- Đức truyền đạt tư tưởng môn sử học thân hành, ý hành.

6- Đức truyền đạt bài học vào cuộc sống.

7- Đức chăm học ý hành, thân hành.

8- Thiếu đức sáng tạo truyền đạt bài học sống động.

9- Đức chấp nhận tuỳ thuận khẩu hành.

10- Đức dũng cảm thân hành, khẩu hành.

11- Đức tri ân ý hành.

3- Giải trình án:

ĐỨC THỨ NHẤT THIẾU ĐỨC HIẾU HỌC Ý HÀNH

Trẻ em chưa nhận thức sự học là để bồi dưỡng tri thức hiểu biết của các em có một tầm sâu rộng và quan trọng về đời sống làm người. Và chính nhờ có học các môn học thì sự hiểu biết mới rộng rãi, và nhất là môn học đạo đức, nó mang lại một sự lợi ích rất lớn cho cuộc sống con người. Đó là sự bình an, yên vui và hạnh phúc cho bản thân, cho mọi người trong gia đình và cho cộng đồng mọi người trong xã hội ở hiện tại và ngày mai.

Chúng ta ai cũng biết, trẻ em ham chơi hơn ham học. Vì cơ thể của trẻ em đang phát triển nên hay năng động, thường quậy phá, khiến cho người lớn bực mình. Tuổi học trò là tuổi vô tư, thích hoạt động chạy nhảy tung tăng quậy phá cái này, cái khác. Cho nên chúng không thể ngồi yên lại học tập, nếu không có sự bắt buộc và gò bó. Vì thế, thầy, cô giáo và cha mẹ thường cho các em là những đứa trẻ lười biếng. Cho các em lười biếng là không đúng, vì các em không thích học. Bài học quá khô khan, không bằng đi hái trộm trái mận của bà hàng xóm, chọc ghẹo bà ta chửi cho một trận còn khoái hơn.

Hiểu được tâm lý năng động của các em, cha mẹ, thầy, cô giáo không xem chúng là những đứa trẻ lười biếng học, luôn luôn tìm cách khơi nguồn cảm hứng đúng tâm lý của các em hướng về những môn học. Muốn được vậy, cha mẹ, thầy và cô giáo phải tạo ra sự thích thú trong các môn học, nhất là đạo đức hiếu sinh. Về đạo đức hiếu sinh, cha mẹ, thầy và cô giáo phải làm gương cho các em, tức là cha mẹ, thầy và cô giáo phải biết thương yêu các em, ban tặng cho chúng những tình thương ấm áp, xem chúng như con. Đừng mắng chửi, đừng phạt dọa, đừng đánh đập chúng, v.v... Lúc nào cũng sáng suốt, nhẫn nại cố gắng tìm hiểu những học trò hay quậy phá; những học trò có điểm học kém; những học trò có hoàn cảnh không may mắn.

Nhờ đó mới hiểu rõ tâm lý của các em; mới tận tâm giúp đỡ, khích lệ và sách tấn các em bằng tình yêu thương, bằng sự ban cho tình thương của một người mẹ, người cha, người thầy, người cô giáo.

Nhờ mang tình thương đến với các em như vậy, nên các em mới thấy mình không bị bỏ rơi, nên cố gắng học tập.

Chúng ta ai cũng biết tuổi trẻ của các em siêng năng học tập là nhờ tình thương của cha mẹ, của thầy cô giáo, chứ các em có ý thức sự học tập có là gì đâu. Các em xem sự học tập là sự gò bó trói buộc, là sự làm khổ các em.

Cho nên những bậc cha mẹ, thầy và cô giáo muốn cho các em siêng năng học tập thì không gì hơn là mang tình thương yêu đến với các em.

Chứ không nên bắt buộc các em phải học tập như thế này, như thế khác, mà hãy để tự các em thích thú siêng năng trong học tập. Vì chỗ nương tựa sự học tập của các em bằng tình thương yêu; bằng những hành động ngọt ngào, êm dịu của cha mẹ, thầy và cô giáo, chứ không phải bằng những hành động phạt dọa, đánh đập, roi vọt, chửi mắng “đồ hư, đồ thối, đồ tồi, đồ mất dạy, v.v...” Lối giáo dục con cái ngày xưa: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho ngào”.

Lối giáo dục con cái như vậy không đúng với tinh thần từ bi bình đẳng trong sự sống của Phật giáo, vì Phật giáo có nền đạo đức nhân bản - nhân quả nên luôn luôn dùng chánh ngữ, chánh nghiệp. Vì chánh ngữ là những lời khuyên dạy nhẹ nhàng, êm dịu, ôn tồn, nhã nhặn, khen tặng, khích lệ, v.v.. chứ không được mắng chửi các em, nạt nộ, hù dọa, la lối với những lời hung dữ thô lỗ. Nhất là cách xưng hô, không được phách lối: “Mầy, tao, mi, tớ, thằng, con hoặc gọi là đồ dốt nát, đồ mất dạy, đồ thiếu văn hóa, đạo đức, v.v...”.

Chánh nghiệp là những hành động nhẹ nhàng, êm ái, xoa dịu những vết thương lòng của các em, khi các em bị mất mát. Cha mẹ, thầy và cô giáo chỉ dạy một cách tận tình, rõ ràng, cụ thể để các em tiếp thu bài học không có khó khăn trong tình yêu thương của thầy, cô giáo cùng cha mẹ.

Người thầy, cô giáo dạy học phải có tình thương như cha, như mẹ thì học trò mới siêng năng học hành. Chứ cứ roi vọt, răn đe phạt dọa làm cho các em vừa sợ hãi, vừa chán ghét sự học tập. Và như vậy, các em sẽ học đến một mức độ nào thì bỏ học.

Chúng ta hãy theo dõi một câu chuyện thật xảy ra trong ngành giáo dục, hiện nay vẫn có thầy, cô giáo thiếu đạo đức hiếu sinh và thiếu đạo đức bình đẳng về sự sống với những học trò của mình: “Bệnh viện đa khoa Lâm Đồng vừa tiếp nhận bệnh nhân đa chấn thương do bị thầy giáo đánh.

Sự việc xảy ra lúc 18h40 ngày 05/4, khi em Nguyễn Hoàng Long, ngụ tại 21B đường Bạch Đằng, P7 Đà Lạt (Lâm Đồng), là học sinh lớp 9A4 trường trung học Đống Đa (Đà Lạt), đến học thêm tại nhà thầy Trương Trần Văn Sơn, ngụ tại 42 Đinh Công Thắng, P7 Đà Lạt, hiện là giáo viên môn toán của trường trung học Ngô Gia Tự (tức trường THPT bán công Dran cũ), huyện Đơn Dương (Lâm Đồng). Khi Long vừa bước vào nhà, thầy Sơn hỏi lý do tại sao không chép bài và còn đi học trễ. Long trả lời em để quên vở ở nhà và bị mệt, nên không thể chép bài được. Liền sau đó, thầy Sơn gọi Long lên nhà trên, chốt chặt cửa rồi dùng cây roi mây dài hơn một mét quất tới tấp vào lưng, đầu và tay em Long. Đánh xong, thầy Sơn bảo Long về gọi cha mẹ đến nói chuyện. Long cố gắng về đến nhà báo cho cha mẹ xong thì ngất xỉu, và được gia đình đưa vào bệnh viện cấp cứu.

Chú ruột của Long là Nguyễn Văn Quang bức xúc: Sau khi cởi áo của cháu ra, tôi hoảng hồn vì thấy vết thương rướm máu đầy khắp người cháu. Tôi chạy qua hỏi thầy Sơn thì thầy và chị của thầy còn nói này kia. Tôi mời công an đến lập biên bản và thu tang vật.

Chị Trương Thị Minh Xuân (mẹ của em Long) cho biết, từ khi cháu Long học lớp 7, gia đình đã nhờ thầy quản lý việc học và dạy kèm toán, lý, hóa cho cháu vào ban đêm. Sự việc vừa xảy ra quá bất ngờ và ngoài sức tưởng tượng của gia đình, cô Nguyễn Thị Hoàng Yên, giáo viên chủ nhiệm của em Long cho biết. Chiều cùng ngày, Long đi học thêm môn Anh văn của cô nhưng để quên vở ở nhà và vào lớp trễ 20 phút. Trước đó 2 buổi học, tại trường Long không chép bài nên bị giáo viên bộ môn văn ghi vào sổ đầu bài, cô Yên đã gọi điện thông báo cho thầy Sơn (người nhận quản lý em Long) biết và nhắc nhở, nhưng không ngờ thầy lại đánh Long. Cô Yên còn lo lắng: Chỉ còn 20 ngày nữa là thi học kỳ 2, sau đó là xét tuyển tốt nghiệp rồi thi vào lớp 10, không biết Long sẽ thế nào! Theo kết quả chẩn đoán của khoa ngoại - Bệnh viện đa khoa Lâm Đồng thì Long bị đa chấn thương phần mềm ở đầu, lưng và hai tay.

Cụ thể sưng bầm ở vùng đầu, lưng và hai tay. Thế nhưng theo người nhà của Long cho biết, dù đã gây hậu quả như vậy, nhưng đến trưa ngày 06/4 chỉ có chị của thầy Sơn đến thăm, còn thầy Sơn vẫn chưa đến thăm hoặc hỏi han gì. Hiện công an phường 7 đã vào cuộc điều tra làm rõ vụ việc.

LV - G.B

(Hàng loạt vết thương trên người em Long)

Nếu đứng theo phương diện đạo đức nhân bản về sự sống của muôn loài thì phải có một đạo đức biết tôn trọng sự sống của nhau, không riêng sự sống của con người đối với con người, mà còn phải đối với sự sống của muôn loài vật.

Ở đây, hành động của thầy Sơn là phi đạo đức nhân bản. Con người mà đánh con người mang thương tích bầm mình khắp người. Chúng tôi xin hỏi thầy Sơn, khi thầy bị người khác đánh như vậy thầy có thấy đau đớn không thưa thầy? Trong khi mình cũng biết đau, sao lại nhẫn tâm đánh người học trò như con của mình như vậy? Đúng, chúng tôi chấp nhận thầy thương em Long, nhưng thương cho roi cho vọt như ông bà ta ngày xưa thì lòng thương ấy là phi đạo đức thầy ạ! Lòng yêu thương ấy chưa đúng. Ỷ mình là thầy, là người lớn, nên đánh em Long tới tấp và còn nghĩ rằng em Long là học trò, là con nít.

Hiểu như vậy là sai. Lòng thương yêu ấy vi phạm đến quyền sống của người khác, vì thế lòng yêu thương ấy không phải là lòng yêu thương, mà là cơn tức giận của thầy Sơn trút đổ lên đầu người học trò của mình. Nhưng lúc ấy, thầy cho rằng đó là bổn phận trách nhiệm của thầy, vì thầy là chủ nhiệm của em Long nên thầy có quyền đánh đập để dạy dỗ em.

Khi đánh đập em Long, thầy phải hiểu: mặc dù Long là một học trò của thầy, nhưng thầy phải biết sự sống của Long và sự sống của thầy đều bình đẳng như nhau, không ai có quyền xâm phạm đến sự sống của nhau. Sao thầy lại dùng roi mây đánh em Long lằn dọc lằn ngang tan nát mình mẩy, đầu cổ tay chân mà không chút lòng xót thương? Cho nên dùng lời nạt nộ, mắng chửi, mạt sát, đánh đập là xâm phạm đến quyền sống của người khác. Những hành động như vậy là phi đạo đức nhân bản - nhân quả. Những hành động như vậy là phi nhân tính. Đó là những hành động của loài động vật chứ con người thì không thể có những hành động và ngôn ngữ như vậy. Con người phải là con người thì con người phải sống đúng năm đức nhân bản của con người mà ngày xưa đức Phật đã dạy rất rõ ràng:

1- Đức thứ nhất là đức hiếu sinh.

2- Đức thứ hai là đức ly tham.

3- Đức thứ ba là đức chung thủy.

4- Đức thứ tư là đức thành thật.

5- Đức thứ năm là đức minh mẫn.

Năm đức hạnh này mới xác định được con người thật là con người nhân bản của Phật giáo.

Ngoài năm đức này ra, con người chưa được gọi là nhân bản.

Người xưa nói: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho ngào”. Lời dạy này có đúng không? Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng ta xác định: “Đâu phải những gì của người xưa dạy đều là đúng cả”. Chúng ta là con người đều có trí suy tư, có đầu óc biết phân minh tốt xấu, trắng đen; biết cái thiện, cái ác; biết cái đúng, cái sai, chứ đâu như những kẻ mù rờ voi, ai nói sao nghe vậy, chẳng phân biệt trái phải.

Dù người xưa là tổ tiên của chúng ta, nhưng cái sai thì chúng ta nên nói sai, còn cái đúng là chúng ta nói đúng. Cái sai thì chúng ta dẹp bỏ, còn cái đúng thì dựng lại cho con cháu của chúng ta học tập sống không làm khổ mình, khổ người. Đó là trách nhiệm, bổn phận của chúng ta, của loài người. Nên chúng ta phải gạn lọc những phong tục tập quán mê tín, lạc hậu thì dẹp bỏ, và những điều dạy phi đạo đức nhân bản như lời dạy trên thì dẹp sạch. Cầm roi đánh con cái của mình mà gọi là dạy, đem cái đau vào thân con cái của mình mà gọi là giáo dục thì thật là đau lòng. Chúng tôi có một người anh bà con ham chơi bỏ học, nên sự học mất căn bản rồi trốn học. Cậu chúng tôi biết việc này, nên bắt người anh ấy đánh cho mấy roi mây lằn dọc lằn ngang trên mông, nhưng người anh ấy vẫn bỏ học và đi làm công cho những người khác. Cho nên giáo dục con cái không thể đánh chúng mà chúng nghe theo, chỉ có đem tình thương thì chúng mới nghe theo mà thôi.

Quý vị nên đọc lại đoạn văn này, nghe cô học sinh tâm sự: “Năm mười bốn tuổi, tôi chẳng làm được trò trống gì, ngoại trừ việc quậy phá nổi tiếng trong trường. Tôi thường bỏ dở giữa chừng các môn học mà chẳng thèm quan tâm đến việc có bị cấm túc, kỷ luật hay bị đuổi học hay không”. Không sợ bị cấm túc, không sợ bị phạt, bị đuổi học lầm lầm, lì lì quậy phá không ai chịu nổi. Đó không phải là lỗi của cô bé này, mà lỗi của cha mẹ, của thầy và cô giáo.

Cha mẹ, thầy và cô giáo không chịu lắng nghe và tìm hiểu con cái và học trò mình, chỉ biết la mắng, phạt dọa, đánh đập, v.v... Cách dạy dỗ như vậy làm sao các em hiểu biết được, mà còn oán trách và căm ghét sự học nhiều hơn.

Các em làm sao có sự hiểu biết như người lớn, cho nên càng ráng ép bắt buộc chúng học tập mà không có phương pháp dạy dỗ, không có tình thương ban cho chúng thì làm cho chúng bất mãn sự học. Rầy la, mắng chửi, đánh đập càng làm cho chúng ngày càng trở thành lì lợm, chẳng sợ ai, chẳng sợ bị cấm túc, chẳng sợ bị phạt mà cũng không sợ bị đuổi học.

Bậc làm cha mẹ và thầy cô giáo phải giáo dục trẻ em bằng tình thương, chứ không nên giáo dục theo uy quyền của người lớn bắt nạt hành hạ trẻ em, mà phải xem trẻ em như người bạn, như những người ngang hàng bằng mình.

Phải có lời ngọt ngào, ôn tồn, phải có sự tôn trọng quyền sống của các em, nhưng phải hướng dẫn các em không nên đi quá xa quyền sống, không nên vi phạm vào đạo đức nhân bản.

Giáo dục trẻ em là một việc làm uốn nắn, như người khéo tay uốn tre, chứ không phải sức mạnh đàn áp bắt buộc phải làm theo như thế này, như thế khác. Lối giáo dục như vậy là lối giáo dục theo phong kiến: “Quân bảo thần tử, thần bất tử, bất trung...”. Chúng ta hiện đang ở vào thời đại đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo, chứ không phải ở trong thời đại Tam cang, Ngũ thường của Nho giáo. Cho nên sự giáo dục trẻ em không ai có quyền cho roi cho vọt (đánh đập trẻ em). Vì đạo đức nhân bản - nhân quả nên không ai có quyền chạm đến sự sống của chúng, dù là cha mẹ, người sinh chúng ra nhưng lại càng không được đánh đập, chửi mắng chúng.

ĐỨC THỨ HAI ĐỨC NGHIÊM NGHỊ THÂN HÀNH, Ý HÀNH

Khi giáo dục các em, cha mẹ và thầy, cô giáo cần phải có đức nghiêm nghị. Đức nghiêm nghị là không nên cười cợt đùa giỡn với trẻ em, lời nói ôn tồn, nhã nhặn, vui vẻ nhưng nghiêm nghị, chứ không phải nghiêm nghị là nói lời khô cằn, cộc lốc và còn có thái độ tỏ ra “ta đây” là người lớn. Những điều nghiêm nghị trên đây thể hiện qua hành động của thầy giáo Kaplan đã khiến cho các học sinh không dám xem thường thầy. Hành động của thầy giáo Kaplan ngay từ buổi học đầu tiên đã khéo ngăn chặn những hành động quậy phá của học sinh. Người ta thường nói: “Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”.

Nếu ngay từ giờ phút đầu tiên gặp các em mà thiếu đức nghiêm nghị thì một năm học không thể ngồi yên với các em được. Chúng ta hãy đọc lại đoạn văn sau đây sẽ thấy cách hành sử của thầy giáo Kaplan với những học trò mới của mình: “Tất cả những điều đó hoàn toàn thay đổi khi tôi được học với thầy Kaplan. Trẻ tuổi đẹp trai, thầy đứng dựa vào tấm bảng, áo sơ mi cổ bé, tay đút trong túi quần jeans, như thể chẳng quan tâm đến bất ký thứ gì trên đời này.

Dưới mái tóc vàng mềm mại, đôi mắt ánh lên màu xanh thép đầy cương nghị của thầy lại nói lên điều ngược lại. Ông thầy có dáng vẻ “ngầu đời” này có cái nhìn như muốn nói: “Đừng có mà lộn xôn với tôi đấy!”. Đúng vậy, nếu không nghiêm nghị mà cười cợt với học sinh thì không còn giáo dục học sinh được nữa.

Cha mẹ sinh con ra, thương các con là đúng nghĩa, là bổn phận, là trách nhiệm, nhưng thương con cái như thế nào cho đúng cách.

Thương con mà con cái đòi cái gì cũng làm theo ý muốn của chúng, thì đó là lòng thương con mà hại con. Bằng ngược lại, mỗi chút mỗi đánh con cũng là làm hại con. Cho nên thương con phải biết dạy con. Nhưng dạy con là phải biết ngăn chặn khi con cái đòi ăn cái này, hoặc đòi mặc cái kia chạy theo thời trang ăn mặc hở hang khiêu dâm gợi dục, chạy theo dục lạc thế gian ăn chơi đồi trụy.

Làm cha mẹ không thể từ bỏ trách nhiệm và bổn phận lòng yêu thương con cái, có công sinh đẻ thì phải có công nuôi dưỡng. Thế mà trong xã hội hiện nay lại có những hạng người biết sinh con, đẻ con nhưng lại chối bỏ trách nhiệm bổn phận làm cha, làm mẹ. Nhân tính họ đã mất nên tình thương yêu con cái không còn. Họ quăng ném con cái vào đời, thiếu tất cả tình thương yêu cha lẫn mẹ, sống bơ vơ trong những trại mồ côi với tình thương yêu của những người xa lạ.

Thật là đau thương! Một bằng chứng hiển nhiên là tình trạng móc thai, nạo thai, ném bỏ thai nhi một cách vô đạo đức nhân bản. Thật đáng lên án những hạng người này. Phải theo pháp luật trừng trị tội giết người. Hiện nay, hằng ngày một số lượng thai nhi bị móc bỏ không phải nhỏ trong các bệnh viện lớn ở thành phố. Cha mẹ tự giết con cái còn trứng nước của mình mà không một chút lòng xót thương. Thật đáng kinh khủng! Đối với trẻ em dễ lờn mặt, khi người lớn như cha mẹ, thầy và cô giáo sống không nghiêm nghị, thường đùa giỡn cười cợt với chúng.

Nhưng khi các em lờn mặt thì người lớn rất khó dạy bảo chúng. Cho nên, bổn phận làm cha mẹ và thầy, cô giáo thì phải nghiêm nghị, không được đùa giỡn cười cợt với trẻ em. Nhờ có nghiêm nghị và lời nói phải đúng như thật, không dối gạt các em, nói một là phải một, không được nói một là hai, nói đâu ra đó, nói đúng không sai. Người có làm được như vậy mới giáo dục trẻ em, còn nếu không làm được như vậy thì đừng mong giáo dục con cái.

Đức nghiêm nghị không có nghĩa là không có tình thương yêu. Nghiêm nghị trong ánh mắt, trong cử chỉ, nhưng lòng yêu thương thể hiện qua những hành động xoa dịu, an ủi, khuyến khích, khen tặng. Khi con cái bất an, gặp những khó khăn thì tìm cách an ủi, giúp đỡ. Khi học trò không hiểu bài, làm bài không được thì tìm mọi cách giúp chúng hiểu bài và làm bài một cách dễ dàng.

Thấy con mình học dốt quá, người thợ cày mới bảo con: “Ba sẽ cùng học với con”. Lời nói sao mà thân thương và gần gũi của một người cha. Đúng là một người cha hiền, một người cha có trách nhiệm với con cái của mình. Kể từ đó, ông kiểm tra lại bài học của con và thấy con mình học mất căn bản, nên ông hướng dẫn con học trở lại chỗ thấp nhất để con dễ tiếp thu. Cuối cùng, con ông thi vào đại học một cách dễ dàng.

(Thầy giáo… thợ cày Hoàng Văn Nam ở làng Đại Lâm, Tam Đa, Bắc Ninh, đã “vực” được lực học của đứa con trai tưởng như thất học trở thành bác sỹ Y khoa; con gái thành cô giáo dạy Toán tương lai và “tiếp sức” cho 18 học sinh khác trong thôn, ngoài làng bước chân vào giảng đường Cao đẳng, Đại học - theo báo Tuần Việt Nam) Bởi vậy, giáo dục con cái không phải chỗ roi vọt, chửi mắng, mà chỗ tình thương; mà chỗ cảm thông. Nhờ chỗ tình thương ban cho con mình; nhờ chỗ cảm thông con cái nên cha mẹ hay thầy, cô giáo giúp cho con mình hay học trò của mình đều vượt qua những khó khăn trong việc học cũng như mọi công việc làm. Trong đời này, nếu con cái có được người cha như vậy thật là hạnh phúc vô cùng.

ĐỨC THỨ BA ĐỨC KHUYẾN HỌC KHẨU HÀNH

Trách nhiệm, bổn phận làm cha mẹ hay thầy, cô giáo là phải yêu thương con cái và học trò của mình. Nhưng yêu thương con cái và học trò của mình thì phải biết sáng tạo lối giáo dục như thế nào cho phù hợp đúng thời đại của con cái hay học trò của mình để chúng dễ tiếp thu những đức hạnh nhân bản - nhân quả; để chúng dễ tiếp thu những bài học văn hóa, lịch sử, toán, lý, hóa, v.v...

Cho nên, làm cha mẹ và thầy, cô giáo luôn luôn phải nghiêm nghị với con cái và học trò của mình, nhưng nghiêm nghị phải gắn liền với tình yêu thương như trên đã nói. Bậc làm cha mẹ, thầy cô giáo thì phải luôn luôn gần gũi và thường trao đổi những cái đúng, cái sai của con cái mình. Không nên cố chấp những cái của mình đều đúng, còn cái ý của con cái và học trò của mình là sai. Nhiều khi mình là những bậc làm cha mẹ, thầy cô giáo đều có cái sai, chứ đâu phải người lớn là đúng hết sao. Cho nên những bậc làm cha mẹ, thầy và cô giáo đều phải biết lắng nghe và tư duy chín chắn mọi việc, rồi mới khuyên dạy con cái cũng như học trò của mình cho chúng thấy rõ ràng cái sai sẽ mang đến hậu quả thất bại và đau khổ như thế nào, và cái đúng sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp ra sao.

Cái đúng của con cái và học trò của mình đều được tán dương, ca ngợi, đó là một sự khích lệ rất lớn đối với các em mà những bậc làm cha mẹ, thầy và cô giáo đừng bỏ qua. Đối với con cái hay học trò của mình nên khích lệ cho chúng làm một việc tốt như chăm học, làm bài giỏi.

Dạy như vậy chưa đủ, mà còn khuyến khích chúng tự tay làm những việc thiện giúp đỡ cho những người bất hạnh trong xã hội. Khi chúng đã làm được những điều đó, thì chúng ta hãy dành cho chúng những lời khen hay những quà tặng đúng ý nghĩa của những hành động thiện chúng đã làm.

Một hành động nhỏ như lời khuyên con cái và học sinh của mình: “Các con không nên sát hại con kiến, con sâu, con trùng, con dế, v.v... Vì giết hại những loài vật ấy rất tội nghiệp, nếu chúng chết bỏ lại con cái của chúng không ai chăm sóc; nếu lỡ chồng hay vợ của chúng bị giết hại thì chúng sẽ đau khổ biết dường nào.

Phải không các con? Cũng như chúng ta mất cha mất mẹ, bơ vơ trong cuộc đời thật là khổ đau vô cùng. Đây, chúng ta hãy nhìn bức tranh minh họa với tựa đề:

“CHA MẸ ƠI MAU VỀ VỚI CON!” Nhìn bức ảnh minh họa mà chúng tôi không cầm được nước mắt. Trong bức ảnh: một con đường quanh co thăm thẳm không biết đi về đâu. Một bé gái chừng bảy tuổi ẵm một em bé ba tuổi đang bước đi trên con đường vô tận ấy bằng tiếng nấc trong tim: “Cha mẹ ơi, mau về với con!” Tại sao người ta lại ly dị với nhau để con cái mình bơ vơ thiếu tình thương cha mẹ? Tại sao người ta lại làm những chuyện phạm pháp như giết người cướp của, hay buôn bán thuốc phiện lậu để vào tù, ra khám, rồi con cái của mình sẽ ra sao? Làm cha mẹ khi sinh con ra là phải có trọng trách nuôi dạy con cái của mình trong tình thương của cha mẹ, bằng những hành động đạo đức nhân bản - nhân quả để con cái của mình không bơ vơ, không thiếu thốn mọi tình yêu thương như bao đứa trẻ khác có đủ cha mẹ và còn thầy cô giáo nữa.

Khi thấy chúng an ủi một con vật bị thương thì chúng ta khen và tặng quà biếu khích lệ. Khi chúng giết một con vật thì chúng ta giải thích cho chúng hiểu sự đau khổ của con vật trước khi chết đau khổ như thế nào.

Mỗi mỗi hành động sống hàng ngày của con cái, chúng ta đều lấy đó làm những bài học đạo đức. Chúng ta nên áp dụng dạy chúng, khuyên chúng đừng bỏ sót những hành động nhỏ nhặt nào. Nhờ đó khi lớn lên, chúng mới trở thành những người có đạo đức.

Thầy Kaplan nghiêm nghị tự giới thiệu, lời nói tràn đầy tình thương yêu các em: “Chào các em”, thầy lên tiếng và bước dọc theo lối đi giữa hai hàng ghế, “Tôi tên là Kaplan và chúng ta sẽ cùng nhau thực hiện một chuyến đi dài. Phải không các em?” “Các em nghe đây!”, thầy nói với cả lớp bằng một giọng đầy nhiệt huyết, “tôi không nói về trường học. Đây là việc học tập và niềm vui trong công việc. Nếu các em tìm thấy niềm vui trong học tập chắc chắn các em sẽ học tốt”.

Lời nói êm ái, nhẹ nhàng khiến cho tình thầy trò gần gũi trong một năm dài đằng đẵng, càng thêm khắng khít nhau hơn.

Một thầy giáo giỏi không phải ở tài dạy học, mà ở chỗ biết ban tình yêu thương của mình đến với các em học sinh. Thầy trò có thương mến nhau thì sự truyền đạt các môn học cho các em thì các em mới dễ tiếp nhận.

Một thầy giáo giỏi trước tiên phải làm sao nhiếp phục được lòng yêu thương của các em học sinh của mình. Muốn được các em yêu thương thì thầy phải ban tặng lòng yêu thương của thầy đến với các em trước. Vì thầy trò sẽ sống và cùng học với nhau suốt một năm, cho nên tình thương yêu là khởi điểm cho niên học mới. Lời nói yêu thương của thầy là một hành động khuyên bảo các em học tập, có một giá trị khích lệ to lớn trong những bài học sắp tới.

Khích lệ học tập bằng tình thương là đúng phương pháp dạy dỗ con cái và các em học sinh của thời đại đạo đức nhân bản - nhân quả hiếu sinh. Còn nếu giáo dục và hướng dẫn con cái và các em học sinh bằng roi vọt, bằng hành động phạt vạ, bằng chửi mắng hoặc dùng những quyền uy bắt buộc con cái và các em học sinh phải học bằng cách này hoặc bằng cách khác là không hợp thời. Đôi khi cha mẹ và thầy cô giáo còn dùng những danh từ thô lỗ, kém văn hóa đối với các em thì đó là lối giáo dục phi nhân bản, phi đạo đức, phi nhân quả. Vì thế, những bậc làm cha mẹ và thầy cô giáo hãy chấm dứt ngay lối giáo dục vô đạo đức mà từ xưa đến nay ông bà chúng ta thường áp dụng, lấy lớn đàn áp nhỏ; lấy mạnh đàn áp yếu. Đó là lối giáo dục phi nhân bản bình đẳng sự sống.

Cho nên đức hiếu sinh khuyến học là một đức hạnh tuyệt vời dùng để giáo dục con cái và các em học sinh. Vì vậy, những bậc phụ huynh và thầy cô giáo cần phải luôn luôn áp dụng đạo đức này trong lúc dạy dỗ con cái và các em học sinh, thì mới mong các em sẽ trở thành những NHÂN TÀI của đất nước. Bởi vì người có tài mà không đức thì không được gọi là NHÂN TÀI .

Người có tài mà có đức mới được gọi là NHÂN TÀI. Chương trình giáo dục đào tạo NHÂN TÀI của nhà nước mà quên giáo dục đạo đức nhân bản - nhân quả là một điều thiếu sót rất lớn trong ngành giáo dục. Vậy chúng tôi xin đề nghị Bộ Giáo Dục hãy quan tâm, lưu ý môn học đạo đức NHÂN BẢN - NHÂN QUẢ .

Muốn ngăn chặn sự xung đột và chiến tranh thì chỉ có đạo đức nhân bản - nhân quả mới chấm dứt. Muốn được vậy thì ngay từ bây giờ, trách nhiệm của Bộ Giáo Dục Đào Tạo phải soạn thảo bộ sách giáo khoa đạo đức nhân bản - nhân quả từ Tiểu học, Trung học và Đại học.

Nhờ đó thế giới mới chấm dứt chiến tranh, con người mới sống được bình an, yên vui và hạnh phúc.

ĐỨC THỨ TƯ ĐỨC BIẾT ÂN TỔ QUỐC KHẨU HÀNH

Biết ân tổ quốc là biết ân tổ tiên của chúng ta. Tổ tiên của chúng ta là những người đã đem xương máu bảo vệ đất nước, là những người khai sinh ra đất nước này, có công dựng nước và giữ gìn đất nước.

Tổ tiên của chúng ta bắt đầu từ vua Hùng cho đến ngày nay. Thời đại bác Hồ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều là những người có công lao rất lớn với đất nước Việt Nam.

Tổ tiên của chúng ta đã đổ biết bao xương máu trên mảnh đất này mới có ngày nay. Ngày mà đất nước độc lập hoàn toàn; ngày mà đất nước có chủ quyền trong tay của toàn dân. Một đất nước muốn độc lập, tự do thì toàn dân phải đứng lên chiến đấu chống giặc ngoại xâm, nếu không chiến đấu chống ngoại xâm thì toàn dân nước đó sẽ bị nô lệ dưới gót giầy ngoại bang.

Muốn giữ gìn một đất nước được độc lập tự do thì máu xương của tổ tiên chúng ta đã đổ trên mảnh đất quê hương này chồng chất lên nhau trùng trùng lớp lớp.

Cho nên biết ân tổ quốc là phải biết giữ gìn quê hương tổ quốc, biết hy sinh giọt máu cuối cùng để bảo vệ tổ quốc quê hương, không để giặc xâm chiếm cai trị đất nước, bắt dân tộc chúng ta làm nô lệ. Đó là biết ân tổ quốc.

Mỗi một thời đại chống giặc ngoại xâm đều được ghi lại những nét vàng son trong lịch sử dân tộc, nhưng cũng có những thời đại vua chúa bán nước cho giặc ngoại xâm, ngồi trên ngai vàng như bù nhìn. Thật là đau lòng, thật là nhục nhã. Những thời đại ấy là những thời đại đen tối nhất của dân tộc. Nhà vua tham đắm ngai vàng, tham quyền cố vị, đem bán đứng dân tộc cho giặc thì thật đáng nguyền rủa, thật đáng phỉ nhổ.

Thời đại ấy là những thời đại có tội với nhân dân, có tội với tổ quốc quê hương. Một thời đại hèn hạ nhút nhát đáng cho dân tộc lên án với những trang sử nhục nhã nhất của đất nước, của dân tộc anh hùng bất khuất Việt Nam.

Chúng ta hãy nghe thầy Kaplan dạy môn sử học tuyệt vời: “Bằng một giọng thì thầm, thầy nói tiếp: “Lịch sử là một điều bí mật, và chúng ta là một phần trong bí mật đó”.

Lớp học im lặng như tờ, thậm chí có thể nghe được tiếng vỗ cánh của một con ruồi khi nó bay ngang qua.

“Chúng ta sẽ không ngồi đây hôm nay nếu tổ tiên chúng ta không chiến đấu cho niềm tin của họ, cho độc lập của quốc gia. Chắc chắn chúng ta sẽ không phải là những con người tự do”.

Thầy tuyên bố bằng một giọng nói nghiêm túc đến mức tôi cảm thấy có nghĩa vụ phải lắng nghe thầy.

Thầy nắm chặt bàn tay giơ lên trước mặt, giọng rền vang: “Tất cả các em đều có một lịch sử. Chúng ta có trách nhiệm ghi nhớ những gì đã xảy ra và phải rút ra được bài học từ trong lịch sử”. Tôi phải kềm chế lắm mới khỏi hô to lên “quá đã!” Đúng vậy, một thầy giáo biết sáng tạo ra phương pháp dạy học, để học sinh dễ tiếp thu những môn học, nhất là những môn học lịch sử của đất nước, phải làm cho môn học này linh động sáng tỏ. Thầy giáo hay cô giáo dạy các em như thế nào để gây lòng căm phẫn đối với giặc xâm lăng cướp nước. Thầy và cô giáo dạy được như vậy là làm cho môn học lịch sử sống động thật là tuyệt vời. Thầy giáo Kaplan đã làm được việc đó. Thật đáng ca ngợi, xứng đáng là một thầy giáo giỏi.

Dạy học là làm cho các em động não. Một bài học có thể giải thích nhiều cách khác nhau, nhiều góc độ khác nhau khiến cho các em càng học càng thích thú các môn học. Nhờ có thích thú các em mới ham học. Ngược lại, thầy và cô giáo dạy học theo kiểu học từ chương, nghĩa lý khô khan thì các em khó tiếp nhận. Từ đó các em bỏ học hay trốn học đều do khả năng sư phạm của thầy và cô giáo chưa đủ sức sáng tạo môn học sống động gây thích thú cho các em.

Cho nên đức biết ơn tổ quốc là một đạo đức rất cần thiết cho mỗi công dân trong một nước độc lập. Trẻ em cần phải học tập, cần phải trau dồi đạo đức từ cấp Tiểu học, Trung học và Đại học để thấm nhuần ơn nghĩa tổ tiên có công dựng nước và giữ nước mãi mãi là một nước độc lập.

ĐỨC THỨ NĂM ĐỨC TRUYỀN ĐẠT TƯ TƯỞNG MÔN SỬ HỌC THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH

Làm một giảng viên không phải đứng lớp dạy học bằng cách thuyết giảng chữ nghĩa suông cho học viên là xong trách nhiệm. Đó là lối học từ chương mà những thầy đồ ngày xưa đã dạy.

Và như vậy khiến cho bài học khô khan cằn cỗi, không sống động. Cho nên Thầy giáo Kaplan đã sáng tạo bài học rất linh động khiến cho học sinh tiếp nhận bài học lịch sử thích thú, biến các em thành những chiến sĩ xông pha trận mạc chống giặc ngoại xâm: “Bây giờ tôi sẽ đưa các em đi cùng tôi trong chuyến du hành dài ngày này. Các em đã sẵn sàng chưa? Nếu có đủ can đảm, hãy đứng dậy và đẩy hết bàn ghế ra hai bên”.

Đó là một lời thách thức. Thầy yêu cầu chúng tôi phải tích cực tham gia vào bài học, không đơn giản ngồi chờ cho hết giờ. Chỉ trong vài phút, lớp học đã được dọn trống.

“Được rồi”, thầy nói, “giờ các em hãy nằm xuống đất và nhớ là phải nằm thật sát vào nhau”.

Lớp học nãy giờ im lặng, giờ đây vang đầy những tiếng cười khúc khích khi chúng tôi loay hoay nằm xuống bên nhau trên nền nhà. Tay đứa này đụng vào người đứa kia, thậm chí có đứa còn đụng đầu nhau côm cốp, nhưng rồi cuối cùng cũng nằm thành một đám hỗn độn trên sàn nhà.

Thầy xoa cằm nhìn chúng tôi, như thể đang ngắm nhìn tác phẩm điêu khắc mới nhất của mình rồi nói: “Tốt lắm, các em hãy nhích sát vào nhau chút nữa”.

Chúng tôi lại vừa rúc rích cười vừa nhích sát vào nhau hơn. Mặc dù khá thích thú, nhưng rồi chúng tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu vì chật chội và nóng bức, mồ hôi bắt đầu tuôn chảy trên người và không khí có vẻ ngột ngạt hơn khi cả đám chen chúc sát vào nhau trên sàn nhà.

“Tốt”, thầy vừa nói vừa đi quanh chúng tôi, “bây giờ các em hãy tưởng tượng rằng mình đang bị xích vào nhau trong một căn phòng mà hầu như không thể đứng lên được, với một khuôn cửa sổ bé tí xíu. Nhiệt độ nóng bức và không khí ngột ngạt đến nỗi không thể thở được. Hãy tưởng tượng các em chỉ được cho ăn những thứ chỉ để dùng nuôi súc vật vào cuối mỗi ngày, nếu lúc đó chưa bị chết vì nóng, vì mùi hôi thúi và sự đánh đập dã man. Hãy tưởng tượng rằng các em phải ngủ chồng lên nhau trên nền đất cứng, tệ hơn rất nhiều với những gì mà các em đang phải chịu đựng”.

“Hãy tưởng tượng về cơn ác mộng đó”, thầy nói tiếp, đôi mắt ánh lên những tia căm phẫn.

Và Thầy nói bằng giọng nói của một người như đang trong cơn hấp hối: “Đó là tình cảnh của những người Phi Châu bị chở dưới hầm tàu sang Mỹ. Để rồi khi đến nơi, họ bị đem bán giữa chợ như một bầy súc vật, và sẽ phải làm việc cho đến kiệt sức, chết đi trên các đồn điền.

Các em đang diễn lại trong lớp này. Được rồi, các em đứng lên đi. Đây chỉ là màn khởi đầu cho cơn ác mộng nô lệ triền miên trong lịch sử”.

Bài học lịch sử như thế này mới thực tế và cụ thể, khiến cho các em càng sôi sục tâm can, cảm thấy như các em đang bị áp bức nô lệ của giặc ngoại xâm. Bài học vừa rồi khiến cho các em nhớ mãi, nhớ mãi không bao giờ quên. Do sự khéo léo sáng tạo cách thức dạy học, các em dễ tiếp thu mà không cần phải học thuộc lòng từng câu, từng chữ. Thật là lối giảng dạy sống động tuyệt vời.

Khi nói hai chữ “nô lệ” đã hiện lên trong đầu các em những hành động dã man tàn ác của giặc xâm lăng mà người dân bị nô lệ chịu muôn vàn sự khổ đau. Chúng bóc lột công sức bằng mọi cách: cướp của, đất đai, ruộng vườn, vàng bạc, ngọc ngà, châu báu, v.v... Chúng còn cướp sức lao động của những người dân nước nô lệ. Khi làm không vừa ý, chúng bắt bỏ tù giam cầm, tra khảo, giết chóc, sát hại, hiếp dâm, v.v... Nghĩ đến những điều đó là các em vùng dậy đứng lên chiến đấu bảo vệ quê hương tổ quốc, không để dân mình làm nô lệ cho giặc ngoại xâm.

ĐỨC THỨ SÁU ĐỨC TRUYỀN ĐẠT BÀI HỌC VÀO CUỘC SỐNG

Một bài học trong các môn học của chương trình giáo dục đào tạo được giảng dạy trong các lớp học từ Tiểu học, Trung học và Đại học. Muốn cho bài học sống động, thực tế, cụ thể để các em dễ tiếp nhận, nhất là bài học có một tầm quan trọng lợi ích lớn cho mọi người trong xã hội, thì thầy và cô giáo phải biết cách áp dụng bài học đó vào thực tế đời sống hằng ngày của mọi người, mọi gia đình và xã hội.

Đây, chúng ta hãy đọc lại đoạn văn dưới đây để thấy thầy giáo Kaplan đưa bài học lịch sử vào đời sống một cách thực tế và cụ thể: “Tôi chợt hiểu ra: Thầy Kaplan đang giảng cho chúng tôi bài học về lịch sử bằng cách của riêng thầy, không phải bằng những cuốn sách dày cộp với câu chữ khô khan lạnh lùng; không phải bằng những lời rao giảng triền miên, sáo rỗng. Thầy đã thổi hồn vào bài học này, làm cho nó trở nên sinh động và rất dễ tiếp thu. Chúng tôi đã cùng thầy bước vào cuộc hành trình tìm về cội nguồn lịch sử bằng một chuyến đi vô cùng hấp dẫn. Và đó chỉ là ngày đầu tiên.

Cứ như vậy hết ngày này sang ngày khác, tuần này sang tuần khác, chúng tôi đã tìm ra đủ mọi cách để tái hiện lịch sử: khi thì biến bàn ghế thành con tàu Nina, Pinta và Santa Maria để cùng Christophe Columbus băng qua những cơn sóng dữ tìm đến Châu Mỹ, khi thì cả lớp chia thành hai đạo quân Nam - Bắc để đánh nhau trong cuộc nội chiến bằng những khẩu súng giấy do chúng tôi tự chế tạo. Một hôm khác, chúng tôi hoá trang thành những nghị sĩ để soạn thảo và ký tên vào bản tuyên ngôn độc lập, và tôi rất hãnh diện khi được đóng vai John Adams”. Đây là sự giảng dạy rất mới mẻ mà thầy Kaplan đã thực hiện những trang sử sinh động vô cùng.

Những môn học khác, nếu chúng ta biết áp dụng giảng dạy vào đời sống hằng ngày thì cũng không kém phần linh động, thực tế và cụ thể.

Bài học đem lại cho các em một sự hiểu biết lợi ích thiết thực về tinh thần cũng như vật chất.

Chính nhờ đó mà các em dễ tiếp thu và thích thú siêng năng học tập nhiều hơn.

Chúng ta hãy đọc thêm một đoạn báo Tuổi Trẻ ra ngày 23/01/2008:

Thầy giáo... Người thợ cày, Hoàng Văn Nam.

“HỌC LÀ ĐỘNG NÃO” Để dạy các con, ông đọc sách rồi vận dụng những kiến thức mình đã học ngày trước và áp dụng: “Tôi mở sách toán lớp 10, 11, 12 và giải từng bài trong đó. Có bài tôi xoay được ba cách giải khác nhau. Tôi phải luôn đi trước các con tôi mười bước, nhưng biết rằng kiến thức mình rồi cũng có hạn, tới lúc nào đó chúng sẽ vượt qua, nên tôi dạy các con phương pháp học!”, ông kể.

Phương pháp của ông Nam là không “nén” kiến thức vào đầu con, vì “như thế sẽ chỉ biến con mình thành... một tủ sách”. Do vậy, ông dạy con phải biết động não, sáng tạo, tìm tòi phát hiện và phản biện. Mỗi khi đêm về, sau khi các con ôn bài ở lớp, cha mở sách ra dạy con những kiến thức mới và cùng trao đổi, tranh luận. Có những đêm khuya quá, người vợ phải trở dậy tắt đèn, bắt ba cha con đi ngủ.

Sau “sự kiện” hai người con Thành và Duyên thi đỗ vào hai trường Đại học lớn ở Hà Nội. (Thành đỗ vào trường Đại học Y và Duyên thi đỗ vào khoa toán, Đại học Sư Phạm Hà Nội 1). Nhờ đó danh tiếng anh thợ cày Hoàng văn Nam nổi danh khắp xã. Hàng xóm dắt con đến năn nỉ nhờ ông... dạy học cho con họ, với lời gửi gắm mộc mạc rằng giúp các cháu giỏi giang như thằng Thành, cái Duyên ấy. “Còn mấy sào ruộng thì được bà con tranh nhau làm giúp để tôi có thời gian bảo ban các cháu”, ông cười nói.

Một nông dân cày ruộng tay lấm chân bùn, vì thương con nên đã “CÙNG HỌC” với con và cuối cùng hai đứa con, một trai, một gái đều đỗ vào Đại học.

Đấy là tấm gương đạo đức hiếu sinh của người cha. Người phải chịu cực nhọc tự học tập để dạy con mình. Thật là một tấm gương sáng, đáng ca ngợi trong đời này.

Nếu trên đời này, cha mẹ và thầy, cô giáo biết thương con cái và học sinh của mình như vậy, thì nên lấy gương “Thầy giáo... Người thợ cày Hoàng văn Nam” mà giáo dục con cái của mình. Chắc chắn con cái của mình sẽ thành đạt không mấy khó khăn.

ĐỨC THỨ BẢY ĐỨC CHĂM HỌC Ý HÀNH, THÂN HÀNH

Một khi đã thích thú học tập thì không có môn học nào còn khó khăn, nên các em siêng năng học tập lại càng siêng học tập hơn. Những gương siêng năng chăm chỉ học hành trong nước ta không phải ít như: Lê Quý Đôn, Đặng Trần Côn, v.v...

Muốn con cái mình chăm học, ngoan hiền thì chỉ có dùng tình thương mà dạy con cái, nhất là tìm cách nào cho con cái của mình hiểu bài và làm bài đúng, giải trình nhiều cách khiến cho bài học nghĩa lý rõ ràng, nhờ đó các em mới thích thú trong bài học; mới động não vận dụng trí óc của mình xây ra nhiều hướng để đáp án, làm cho môn học càng gần gũi và lợi ích cho đời sống con người, bản thân, gia đình và xã hội.

Các em siêng năng học tập là nhờ hiểu bài, biết phương pháp làm bài, nhất là những môn đạo đức nhân bản - nhân quả khiến cho các em biết cách tương quan giao tiếp với mọi người mà không làm khổ mình, khổ người và tất cả muôn loài thú vật.

Chúng ta hãy lắng nghe em học trò của thầy Kaplan tâm sự: “Tôi đã học được rất nhiều điều trong môn của Thầy. Chúng tôi cũng phải đọc được một số sách và làm bài kiểm tra, nhưng vì tôi quá thích thú môn học này nên đã cố gắng làm tốt những việc mà trước đây tôi không hề làm. Tôi luôn trông chờ để được học môn này, không phải vì thầy Kaplan trẻ tuổi, đẹp trai và “rất ngầu đời”, mà vì thầy thật sự là một giáo viên xuất sắc, biết tạo sự say mê học tập cho học sinh của mình. Tôi tôn trọng những lời dạy của thầy, và khi thầy nói rằng mọi môn học đều quan trọng trong hành trình của cuộc sống, tôi đã cố gắng đi học đầy đủ các môn khác. Và mỗi ngày, tôi đều háo hức chờ đến giờ đi học.

Khỏi phải nói, bạn cũng biết cha mẹ tôi mừng đến mức nào. Họ tự hỏi, không biết ông thầy giáo đó có ma lực gì mà khiến cho một đứa con gái ương ngạnh như tôi trở thành một học sinh gương mẫu. Tất cả phụ huynh học sinh và đồng nghiệp trong trường đều yêu mến thầy Kaplan. Đặc biệt là tôi”.

Chúng ta biết rằng: trách nhiệm của cha mẹ, thầy và cô giáo là dạy con cái hay học trò của mình là dạy như thế nào để các em dễ hiểu và thích thú trong những môn học mà các em đang học.

Báo Tuổi Trẻ, trang Giáo Dục có bài viết: “CẢM ƠN CÔ GIÁO” của Trinh Thơ (Phan Thiết, Bình thuận):

“Tuần rồi đi họp phụ huynh. Giáo viên chủ nhiệm sau khi thông báo tình hình học tập của học sinh và việc chuẩn bị cho kỳ thi học kỳ 2, cô xin phép phụ huynh học sinh cho cô đọc lên những ý kiến của học sinh lớp mình.

Chẳng là cứ đến tiết sinh hoạt lớp, cô đều dành 20 phút để học sinh tự bạch. Các em cứ thoải mái viết ra giấy tâm sự nguyện vọng của mình mà không cần ghi tên người viết, rồi nộp lên cho cô. Và cô “thu hoạch” được khá nhiều những suy nghĩ, quan niệm của học sinh để hiểu và gần gũi hơn với các em, đồng thời cũng là một cách phối hợp giáo dục giữa nhà trường và gia đình.

Có em viết: “Em muốn đi học nhưng gia đình quá khó khăn, không biết em còn ngồi trên ghế nhà trường năm học sau nữa hay không?”, hay: “Ba mẹ em thường cãi nhau. Em chẳng còn tâm trí để học bài, làm bài”; “giáo viên dạy toán giảng bài mau quá, đôi khi chúng em theo không kịp”... Và giáo viên chủ nhiệm lưu ý phụ huynh nên quan tâm đến con em mình nhiều hơn nữa để kịp thời uốn nắn, phát hiện, nhất là các em ở tuổi dậy thì, lứa tuổi rất dễ “nổi loạn”.

Nghe cô giáo đọc, tôi và các phụ huynh khác có lẽ cũng tự giật mình. Bấy lâu nay cùng mang tiếng là lo đến việc ăn, việc học của con đấy, nhưng hiếm khi để ý đến tâm tư, nguyện vọng của con mình. Cảm ơn cô giáo nhiều lắm!” Đọc qua bài báo này, chúng ta rút ra được một kinh nghiệm biết lắng nghe ý kiến của các em học sinh. Nhờ đó mới biết hoàn cảnh gia đình của các em, mới biết các em học với giáo viên nào dạy hiểu bài và với giáo viên nào dạy không hiểu bài, v.v... Hiểu như vậy để làm gì? Hiểu như vậy để chúng ta giúp cho các em vượt khó. Hiểu như vậy để chúng ta chia sẻ những nỗi mất mát đau thương của các em. Hiểu như vậy để chúng ta sáng tạo phương pháp truyền đạt môn học cho các em dễ tiếp thu và thích thú học hành.

Các em tuổi còn trẻ thơ, chưa hiểu biết đời khổ là gì nên chỉ biết vui chơi mà thôi. Vì thế, các em đều phải nhờ vào cha mẹ, thầy và cô giáo hướng dẫn, dạy bảo từng bước đi vào đời.

Do đó cha mẹ, thầy và cô giáo phải cảm thông được tâm tư, hoàn cảnh và nguyện vọng của các em, thì mới mong đưa đường, dẫn lối các em đến nơi an toàn của cuộc sống. Nhất là cách thức hướng dẫn các em rèn luyện nhân cách để sau này sẽ trở thành những nhân tài của đất nước, quê hương.

Điều cần thiết là giúp cho các em thích thú các môn học. Nhờ có thích thú các em mới nỗ lực chăm chỉ học hành. Chúng ta ai cũng biết các em tuổi trẻ ham chơi hơn ham học. Nhờ chúng ta biết sáng tạo các môn học trở thành những trò chơi, trò chơi mà lại học tập, học tập mà lại trò chơi, chính chỗ đó mới giúp các em siêng năng cố gắng học hành. Còn nếu không thích thú các em sẽ lười biếng và bỏ học.

Muốn được vậy, cha mẹ, thầy và cô giáo cần phải biết cách sáng tạo giảng dạy bài học ứng dụng vào đời sống thực tế, cụ thể bằng một tình thương yêu trao tặng cho con cái và các em học sinh.

Trên đời này chỉ có tình yêu thương mới đem lại sự bình an cho mọi người; chỉ có giáo dục tình yêu thương thì con cái của chúng ta mới trở thành những con người tốt, những con người sống trong thiện pháp. Và chúng ta nên nhớ những điều này. Những điều này rất quan trọng với tương lai của con cái chúng ta.

ĐỨC THỨ TÁM THIẾU ĐỨC SÁNG TẠO TRUYỀN ĐẠT BÀI HỌC SỐNG ĐỘNG

Trong đời người, nếu cái gì thuộc về tinh thần cứ lập đi lập lại mãi nhiều lần thì dễ trở thành một thói quen. Thói quen cũng có cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác, cái không thiện không ác, v.v... Nhưng đã thành thói quen thì rất khó bỏ. Nếu thói quen đó tiếp tục từ cha truyền con nối, từ đời này sang đời khác thì nó trở thành một phong tục tập quán văn hóa ăn sâu vào lòng dân tộc.

Ví dụ: sự cúng bái, tế lễ, cầu siêu, cầu an, đốt tiền vàng mã, xem ngày giờ tốt xấu, xin xăm, bói quẻ, v.v.. đó là những phong tục tập quán văn hóa mê tín, lạc hậu lỗi thời, nhưng đã thành một phong tục tập quán truyền thống, nên mọi người vẫn chấp chặt không bao giờ bỏ được, để rồi người dân phải tốn hao tiền tỷ hàng năm.

Tuy mọi người biết rằng những việc làm đó là mê tín lạc hậu; là hao tốn tiền của không đúng cách, phi khoa học, không lợi ích thiết thực, nhưng muốn bỏ những phong tục ấy thì không đủ gan dạ buông bỏ. Buông bỏ sợ tâm mình và dư luận lên án cho rằng: “Chúng ta ngày nay theo khoa học vô thần, quên tục lệ của tổ tông ông bà, quên cội nguồn, quên gốc gác văn hóa của dân tộc Việt Nam, nay lai căng theo kiểu Nga, Tàu, Mỹ, Nhật, Đức, Ý, v.v...”.

Ngày xưa khi đức Phật ra đời, Ngài tu chứng đạo thấy biết các pháp như thật nên Ngài đã tuyên bố: “Thế giới siêu hình là thế giới của tưởng tri”. (Ba mươi ba cõi trời, cõi ma, quỷ, linh hồn người chết là tưởng tri). Lời nói ấy còn ghi lại trong kinh sách nguyên thủy, nhưng đến giờ này mọi người trên hành tinh vẫn tin có thế giới siêu hình, nên sự cúng tế cầu khẩn, đốt tiền vàng mã, xin xăm, bói quẻ, cúng sao giải hạn vẫn còn duy trì. Cái thực trạng đau lòng nhất là kinh sách phát triển đại thừa gọi là Phật giáo.

Ngay trong kinh sách phát triển đại thừa ấy đã xây dựng một thế giới siêu hình tâm linh vĩ đại.

Hiện giờ chúng ta biết rằng: “Ngay cả lời nói của đức Phật mà người ta còn không tin, huống là lời nói của chúng ta thì còn có giá trị gì”. Khi người ta đã mù quáng, mê tín lạc hậu thì chúng ta chỉ còn biết nhìn họ mà đáng thương và tội nghiệp, chứ không làm sao được cả.

Thầy giáo Kaplan biết sáng tạo môn sử học một cách linh động để học sinh dễ tiếp thu và thích thú, nhưng không theo lối dạy từ chương từ xưa đến nay nên thầy phải chịu Ban Giám Hiệu nhà trường sa thải. Một thói quen dạy học xưa cũ mà cứ ôm mãi không ai dám buông bỏ, hễ thấy ai làm cái gì mới mẻ có khoa học hơn thì lại tìm ngay mọi cách để dìm xuống. Chúng ta hãy đọc lại đoạn văn này sẽ thấy một thầy giáo dạy giỏi, dạy cho các em học sinh dễ hiểu và thích thú với môn sử học mà bị sa thải, thật là đáng thương thay: “Do đó, khi có tin đồn thầy bị nhà trường sa thải đã không một ai tin. Thầy Kaplan là giáo viên giỏi nhất ở trường chúng tôi. Tại sao người ta lại sa thải một giáo viên chỉ vì đã làm cho môn lịch sử trở thành một môn học vô cùng sống động và dễ nhớ đối với học sinh; một giáo viên đã làm cho học sinh ngày càng say mê học tập hơn? Tôi càng thất vọng hơn khi biết tin đồn này là có thật. Thầy Kaplan bị sa thải do đã không chịu đi theo lối mòn cứng nhắc. Điều quan trọng đối với hội đồng nhà trường không phải là chất lượng giảng dạy, mà phương pháp của thầy không mang tính chính thống nên không được chấp nhận”.

Người ta không nhận ra phương pháp giảng dạy sáng tạo của một thầy, cô giáo có trình độ sư phạm không theo lề lối giảng dạy cũ mà đành chấp nhận phải ra đi. Nhưng sự ra đi ấy để lại trong lòng các em học sinh và phụ huynh một nỗi lòng thương kính.

Bất cứ một việc làm gì trong cuộc đời này chúng ta cần phải có sáng kiến để xây dựng cho mình một phát triển mới mẻ để mang lại những kết quả tốt hơn và không phí nhiều sức lực.

Làm người mỗi ngày cần phải học để có một sự hiểu biết mới mẻ và tiến bộ hơn; để giúp mình trong cuộc sống với tâm hồn an vui, thanh thản hơn. Chứ không nên bảo thủ cố chấp những điều lạc hậu, mê tín, những phong tục hủ lậu thường làm hao tốn công sức và tiền của một cách phi lý, một cách không ích lợi.

Sự tiến bộ của con người là do những người biết tiếp thu những sáng tạo mới mẻ của khoa học công kỹ nghệ hiện đại hóa đời sống; biết tiếp thu những nền văn hóa đạo đức nhân bản - nhân quả trong cuộc sống hằng ngày, nên nó đem lại lợi ích thiết thực cụ thể cho mọi người một đời sống an lành.

Đức sáng tạo biến những môn học linh động khéo léo thiện xảo trong sự giáo dục truyền đạt tư tưởng đạo đức nhân bản - nhân quả, tư tưởng toán học, sử học, vật lý học, v.v.. khiến học sinh thông hiểu dễ dàng và thích thú những môn học ấy. Vì những môn học ấy sẽ đem lại lợi ích cho đời sống con người một cách thiết thực cụ thể hơn.

Cho nên đức sáng tạo những bài học sống động rất cần thiết cho nền giáo dục của con người. Vì thế, những nhà sư phạm nên lưu ý như lời Bác Hồ đã dạy: “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Đó là một điều hết sức quan trọng trong vấn đề giáo dục con người.

ĐỨC THỨ CHÍN ĐỨC CHẤP NHẬN TUỲ THUẬN KHẨU HÀNH

Đức chấp nhận tùy thuận là một đức hạnh tuyệt vời, nó sẽ giúp chúng ta không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.

Người biết tùy thuận chấp nhận là người biết làm vui lòng người và vui lòng mình; là người không bao giờ muốn chống đối với một ý kiến gì của ai. Nhưng tùy thuận chấp nhận để làm vui lòng người, lòng mình, chứ không tùy thuận chấp nhận để bị lôi vào ác pháp.

Ví dụ 1: Có một người muốn mời chúng ta uống ruợu, chúng ta vui vẻ nhận ly rượu, rồi đặt xuống bàn không uống nhưng nói lời cảm ơn.

Khi người ấy mời chúng ta cụng ly, chúng ta cũng nâng ly rượu lên và cụng ly với người bạn nhưng không uống, và xin lỗi người bạn vì mình không quen uống rượu. Đó là tuỳ thuận chấp nhận nhưng không bị lôi cuốn vào ác pháp.

Ví dụ 2: Chúng ta, những tu sĩ giữ gìn giới luật nên không ăn phi thời, sáng sớm có người mời chúng ta ăn sáng hoặc mang đến cho chúng ta một ly sữa, chúng ta vui vẻ nhận nhưng không uống. Đó là tùy thuận nhưng không bị lôi cuốn vào phạm giới.

Cho nên tùy thuận là không chống trái với bất cứ một ý tưởng nào của người khác, nhưng rất khéo léo thiện xảo làm vui lòng người mà mình không bị chướng ngại trong tâm.

Thầy giáo Kaplan bị sa thải vì biết sáng tạo phương pháp dạy học mới mẻ khiến học sinh thích thú ham học. Nhưng ngược lại, Ban Giám Hiệu nhà trường do lòng hẹp hòi không thấy xa, không thấy lối dạy từ chương là lỗi thời nên mới mời thầy ra khỏi trường: “Do đó, khi có tin đồn thầy bị nhà trường sa thải đã không một ai tin.

Thầy Kaplan là giáo viên giỏi nhất ở trường chúng tôi. Tại sao người ta lại sa thải một giáo viên chỉ vì đã làm cho môn lịch sử trở thành một môn học vô cùng sống động và dễ nhớ đối với học sinh; một giáo viên đã làm cho học sinh ngày càng say mê học tập hơn? Tôi càng thất vọng hơn khi biết tin đồn này là có thật. Thầy Kaplan bị sa thải do đã không chịu đi theo lối mòn cứng nhắc. Điều quan trọng đối với hội đồng nhà trường không phải là chất lượng giảng dạy, mà phương pháp của thầy không mang tính chính thống nên không được chấp nhận”.

Cuộc đời này ghê gớm thật, hễ ai có sáng kiến phát minh ra một cái gì mới mẻ thì tìm mọi cách dìm nhau, hại nhau. Thật là ích kỷ, ti tiện, hèn hạ v.v...

Đúng là Ban Giám Hiệu cố chấp, thiếu trí sáng suốt, không nhận ra sự sáng tạo giảng dạy của thầy giáo Kaplan là tuyệt vời. Lẽ ra Ban Giám Hiệu phải khen tặng, khích lệ với những thầy và cô giáo có khả năng giảng dạy làm sống động môn học như vậy, đó mới là những thầy và cô giáo giỏi.

Đây là ý kiến của độc giả báo Tuổi Trẻ, Chủ nhật ngày 27/01/2008, tác giả Đỗ Xuân Hòa:

“THẦY GIÁO CÓ TẤM LÒNG CỦA NGƯỜI CHA” “Thầy và cô giáo đâu cần phải có tấm bằng sư phạm, đâu cần đứng trên bục giảng tiện nghi, trường lớp khang trang. Người thầy đúng nghĩa là sau những bài giảng của mình còn phải trăn trở cho hoàn cảnh và những khó khăn của mỗi học sinh, như một người cha trăn trở về tương lai của con, và “người đưa đò” luôn tìm cách để “cứu vớt” kịp thời những ai lỡ sẩy chân trên “chuyến đò” của mình”.

Ý kiến của độc giả Đỗ Xuân Hòa rất hay, “thầy và cô giáo phải có tấm lòng của người cha hay của người mẹ”. Nếu tất cả thầy và cô giáo đang dạy các trường khắp trong nước mà có lương tâm giáo dục học sinh như vậy thì làm sao các em bỏ học; làm sao các em trở thành những học sinh biếng nhác, lười học. Phải không quý vị?

ĐỨC THỨ MƯỜI ĐỨC DŨNG CẢM THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH

Dũng cảm là một đức hạnh giúp chúng ta vượt qua mọi gian nan thử thách, dũng cảm giúp chúng ta vượt qua những hoàn cảnh khó khăn; dũng cảm giúp chúng ta cứu người trong nước sôi, lửa bỏng. Bởi vậy, dũng cảm là một đức hạnh mà mọi người cần phải có, vì nó đem lại sự lợi ích rất lớn cho mình, cho người.

Người nào đứng trước mọi người dám chấp nhận, nói rõ những việc làm sai trái của mình, đó là những người dũng cảm, tự giác, gan dạ; đó là những người biết khắc phục sửa sai những lỗi của mình. Những người như vậy là những người đáng khen, đáng ca ngợi, xứng đáng làm gương hạnh tự nguyện, tự giác sửa sai những lỗi lầm của mình. Hầu hết mọi người đều thấy cái sai của người khác chứ ít ai thấy cái sai của mình.

Và nếu biết mình làm sai thì cũng không dám công nhận mình làm sai, thường làm sai đều tìm mọi cách lý luận để che đậy.

Ở đây, thầy giáo Kaplan dạy học rất đúng đắn, truyền đạt tư tưởng sử học cho các em học sinh dễ hiểu và thích thú môn học. Trong khi các thầy cô giáo khác chưa giáo dục truyền đạt được như vậy. Một nhân tài của sư phạm biết khéo léo sáng tạo môn học, biết tùy thuận chấp nhận, thật đáng cho chúng ta mến phục và kính trọng.

Đây là một hành động tùy thuận chấp nhận của thầy khiến cho mọi người đều thán phục.

Khi Ban Giám Hiệu nhà trường sa thải, thầy vẫn ung dung chấp nhận ra đi không hề có lời chống đối phải trái với bất cứ một người nào. Mặc dù các em học sinh và những phụ huynh học sinh biểu tình chống đối, không chấp nhận việc Ban Giám Hiệu sa thải thầy. Chúng ta hãy đọc kỹ lại đoạn văn dưới đây để thấy đức tùy thuận chấp nhận qua lời nói của thầy thật tuyệt vời: “Là một người luôn lạc quan, thầy Kaplan chấp nhận việc này một cách rất bình tĩnh. Thầy khuyên chúng tôi phải “chấp nhận thay đổi”. Vì theo thầy, người nào không biết cách chấp nhận sẽ làm tổn thương đến người khác cũng như đến chính mình.

Dù những lời thầy nói là đúng, nhưng chúng tôi cũng không cam tâm ngồi nhìn thầy ra đi.

Suy cho cùng, chính thầy đã dạy rằng, tổ tiên chúng tôi biết chiến đấu để giữ vững niềm tin của mình. Do đó, chúng tôi đã bàn định kế hoạch biểu tình vào ngày thầy Kaplan ra đi.

Những người tham gia đều phải hứa giữa bí mật. Nhưng rồi tin tức cũng lộ ra, và thầy hiệu trưởng cũng thông báo trên loa phóng thanh rằng học sinh nào tham gia vào cuộc biểu tình sẽ bị đuổi học.

Cuối cùng thì ngày đó cũng đến, khi chuông báo hết giờ vang lên, đám học sinh chúng tôi khoác tay nhau bước ra cổng trường và tập hợp thành hàng ở đó, học sinh các lớp dưới cũng tham gia. Thoáng chốc, ngôi trường gần như không còn bóng một học sinh nào. Thầy Kaplan đã truyền cho chúng tôi lòng dũng cảm chấp nhận mọi việc để chiến đấu cho niềm tin của mình. Bất chấp những lời đe doạ, chúng tôi đồng thanh hô vang: “Không được để thầy Kaplan ra đi! Hãy giữ thầy ở lại”.

Các bậc phụ huynh sau đó cũng kéo đến và thay vì la mắng con, họ đã cùng nắm tay nhau, tạo thành một hàng rào bao xung quanh và cùng hô vang theo chúng tôi. Thầy Kaplan xuất hiện ở cửa sổ, nước mắt tuôn trào trên gương mặt, thầy vẫy tay chào chúng tôi và nói: “Cảm ơn các em”, rồi bước khuất vào bên trong.

Bất chấp những nỗ lực của chúng tôi, thầy Kaplan vẫn bị sa thải. Nhưng nhờ sự ủng hộ nhiệt tình của phụ huynh và giới báo chí, nên không học sinh nào trong trường bị đuổi học”.

Trong cuộc sống chung đụng với mọi người, chúng ta cần phải biết “tùy thuận chấp nhận những sự thay đổi”. Vì không biết cách tùy thuận chấp nhận thay đổi sẽ làm tổn thương đến người khác cũng như đến chính mình.

ĐỨC THỨ MƯỜI MỘT ĐỨC BIẾT ƠN Ý HÀNH

Đức biết ơn là một hành động cung kính tôn trọng người khác; một hành động mà trong đức lễ không bao giờ thiếu được. Khi nói đến đức lễ là nói đến sự tôn trọng và cung kính.

Từ một hành động nhỏ nhặt giúp người; từ một lời giảng nói khiến cho người khác sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh; từ một món quà nhỏ như: một trái cây, một cái bánh, một cành hoa, một cái khăn, một cây kim, một sợi chỉ, v.v... Tất cả những món quà ấy đều nói lên tình thương yêu.

Do đó, khi chúng ta nhận những món quà ấy thì chúng ta phải có những hành động biết ơn. Hành động biết ơn đầu tiên là lời nói “CẢM ƠN”.

Hành động thứ hai là sự tư duy suy nghĩ của chúng ta: “Người ấy mang tình thương đến chúng ta, chúng ta phải làm sao cho xứng đáng với tình thương ấy?” Hành động thứ ba là chúng ta sẵn sàng có thể làm bất cứ một việc gì hoặc mang một món quà do tự tay mình làm ra đem cho người ấy. Cho lại người ấy không có nghĩa là “bánh sáp đi bánh qui trở lại”. Ở đây không có nghĩa trao đổi, mà có nghĩa sống với tình làng nghĩa xóm. Tình làng nghĩa xóm có nghĩa giúp nhau bằng tình thương yêu. Chúng ta hãy nghe cô bé học sinh nhớ đến công ơn của thầy Kaplan:

“Thầy đến dạy trong một trường tư ở một tiểu bang khác. Những trường học loại này ngày nay rất nổi tiếng. Khi nghe nói về một ngôi trường nào như thế, tôi nghĩ ngay đến thầy Kaplan. Và tôi vô cùng biết ơn người Thầy phi thường, tận tụy đã chấp nhận rủi ro, sử dụng mọi kiến thức, sự sáng tạo và tính hài hước để mang đến cho những học sinh vốn thờ ơ với việc học như tôi món quà quý nhất của đời học sinh:

Niềm vui thích và say mê trong học tập”. Đúng vậy, thầy là một người thầy giáo biết sử dụng mọi kiến thức, mọi sự sáng tạo để biến môn học trở thành một sự cải thiện cuộc sống trong thực tế và cụ thể. Bởi thế, môn học nào cũng có sự lợi ích thiết thực, nếu môn học ấy biết áp dụng đúng mức thì đời sống của mọi người có nhiều thay đổi tiện nghi trong khoa học kỹ thuật công nghệ. Và nhất là đạo đức đã làm cho con người thiểu dục, tri túc (ít muốn, biết đủ), vì thế thân tâm rất an ổn, không ngó lên mà cũng không nhìn xuống với người nào cả, chỉ biết đem sức cần lao tạo thành cuộc sống bình đẳng với bao cuộc sống của mọi người. Người làm được như vậy là thực hiện đức hiếu sinh thương mình.

Thương mình chính là thương mọi người.

Người làm được như vậy chính là thực hiện đức tri ân mọi người, vì có mọi người mới có mình; vì có mình mà có mọi người. Bởi vậy, con người không thể sống đơn độc một mình mà phải sống trong quần thể. Nhờ có quần thể, người này mới nương tựa với người kia, người kia mới nương tựa với người này, đó là cuộc sống trong môi trường sống không thể nào sống khác hơn được, vì sống khác là không thể sống trong môi trường sống này. Vì thế, trong môi trường sống trên hành tinh này không có loài vật nào sống riêng rẽ, mà sống trong tập thể.

Trong cuộc đời này có rất nhiều điều đau khổ, muốn thoát khỏi mọi sự khổ đau này, chỉ có đức hiếu sinh mới đem lại sự sống bình an cho mọi người. Nhưng đức hiếu sinh phải thực hiện bằng sự biết ân. Biết ân cũng là một đạo đức, nên những người biết ân là những người thực hiện đạo đức nhân bản.

Trước tiên, chúng ta nên biết bốn ân nghĩa lớn. Bốn ân nghĩa lớn này gọi là Tứ Trọng Ân:

1- Ân cha mẹ.

2- Ân sư trưởng.

3- Ân tổ quốc.

4- Ân thí chủ.

- Ân cha mẹ là biết ân những người sinh thành dưỡng dục. Công lao của cha mẹ như trời biển, không thể lấy gì so sánh được.

- Ân sư trưởng là biết ân những người đã dạy dỗ cho chúng ta nên người; dạy dỗ chúng ta biết đạo đức nhân bản - nhân quả để đối nhân xử thế, để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh; dạy dỗ chúng ta nghề nghiệp để làm ra sự sống.

- Ân tổ quốc là biết ân tổ tiên, những người đã hy sinh thân mạng để dựng nước và giữ gìn đất nước. Họ đã có công lao để lại cho chúng ta một nền văn hóa đạo đức. Họ đã để lại cho chúng ta một đất nước độc lập thanh bình, hùng cường. Họ đã để lại cho dân tộc chúng ta một tinh thần bất khuất không bao giờ chịu quỳ lụy dưới gót giầy của giặc ngoại xâm, v.v...

- Ân đàn na thí chủ là biết ân những người bố thí cúng dàng thực phẩm để chúng sống tu tập; để chúng ta có nhiều thời gian tu học để được giải thoát.

Làm người chúng ta nên ghi khắc những trọng ân này. Bốn trọng ân này là ân nghĩa sâu dày của con người, cho nên làm người không thể quên bốn ân nặng này được. Phải không quý vị? Ngoài bốn trọng ân này, còn có những ân nghĩa khác nữa như: ân nghĩa bè bạn giúp nhau vượt khó; ân nghĩa chồng nghĩa vợ chia vui, xẻ bùi, cay đắng có nhau; ân nghĩa tình làng nghĩa xóm khi tối lửa tắt đèn, v.v... Cuối cùng, còn có thứ ân nghĩa mà làm người không thể quên được. Đó là ân nghĩa mọi người đối xử nhau biết tôn trọng sự sống bình đẳng của nhau và của muôn loài trong môi trường sống.

Bài 38: ĐIỀU KỲ DIỆU CỦA CUỘC SỐNG

Tôi rất tin vào những phép màu, vì tôi đã chứng kiến rất nhiều điều kỳ diệu.

Còn nhớ một ngày nọ, có một bà lão đã 102 tuổi đến khám tại phòng mạch của tôi. Bà nói:

“Phía dưới hàm răng giả của ta bị đau lắm. Ta đã nói với bác sĩ nha khoa riêng của ta rằng ta không sao, nhưng cậu ấy vẫn buộc ta đến gặp con”.

Bà đi cùng người con trai đã 80 tuổi của mình. Thỉnh thoảng ông định nói thêm cho rõ, nhưng bà luôn gạt phắt đi: “Thôi nào con trai”.

Bà muốn tự mình nói với tôi.

Tôi phát hiện bà bị một khối u khá lớn trên vòm họng. Kiểm tra sinh thiết tiếp theo càng củng cố thêm cho chuẩn đoán ấy - đó là một dạng ung thư đặc biệt nghiêm trọng.

Trong lần hẹn tái khám tiếp theo, tôi đã giải thích cho bà nghe rằng vấn đề rất nghiêm trọng.

Bà ngồi xuống ghế, khẽ siết chặt bàn tay tôi và nói: “Ta biết con lo lắng cho ta. Nhưng ta vẫn khoẻ mà”.

Tôi lại nghĩ khác. Sau rất nhiều nỗ lực của tôi cùng với sự hợp tác rất tốt của bà - vì bà muốn tôi vui - cuối cùng bà cũng đồng ý để tôi chuyển bà đến một bác sĩ chuyên khoa ung thư.

Bà đến gặp ông, nhưng đúng như tôi dự đoán, bà đã từ chối điều trị.

Khoảng sáu tháng sau, bà lại đến phòng khám của tôi.

Tôi hỏi: “Bà thế nào rồi?”. Người con trai của bà vừa định trả lời, lập tức bị bà ngăn lại giống như lần trước.

“Ta khoẻ lắm”. Bà hỏi tôi: “Khi nào thì con mới bắt đầu điều trị chỗ đau dưới hàm răng giả của ta đây?” Tôi ấp úng trả lời bà: “Để con kiểm tra miệng của bà, rồi chúng ta sẽ quyết định”. Tôi vẫn nghĩ rằng sẽ chẳng có cách nào cứu vãn được tình hình của bà.

Tôi không thể tin được vào mắt mình. Những khối u ngày nào từng bao phủ gần hết vòm họng của bà nay đã biến mất, chỉ còn một vài đốm đỏ lấm tấm trên vòm họng mà thôi.

Những chuyện lạ như thế này tôi cũng đã được biết qua nhiều, nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy tận mắt. Tôi ngạc nhiên đến nỗi không thốt nên được lời nào.

“Con thấy chưa? Ta đã nói là ta khoẻ mà”.

Bà vừa nói vừa vỗ nhẹ vào bàn tay đang mang găng khử trùng của tôi.

Giờ đây, tôi đã thực sự tin bà.

Đó là phép màu đầu tiên tôi đã tận mắt chứng kiến. Kể từ đó về sau, tôi còn chứng kiến nhiều trường hợp kỳ lạ khác nữa, bởi vì càng lúc tôi càng dễ nhận ra chúng. Thật ra đối với tôi, phép màu đơn giản là những sự kiện vẫn thường xảy ra mỗi ngày. Bất cứ khi nào tôi hít vào một hơi thở thật dài và sâu, tôi lại nghĩ tới điều kỳ diệu của sự sống. Bản thân mỗi con người đã là một điều kỳ diệu, vì qua họ, ta có thể hiểu rõ bản thân mình và trải lòng ra với mọi người. Ta còn có cơ hội được thể hiện lòng tốt của mình, có cơ hội được cống hiến và nhìn thấy những điều kỳ diệu của nhau.

Kể từ khi chứng kiến điều thần kỳ ấy, tôi dần hiểu ra rằng thời khắc và không gian mà điều kỳ diệu xuất hiện sẽ hoàn toàn do ta quyết định.

Dane E. Smith (Vượt Lên Số Phận)

BÀI LÀM

1- Đại ý:

Bài này nói về sự kỳ diệu của ý chí con người tự quyết định vận mạng của mình.

2- Phân đoạn:

Bài này có 4 đoạn:

1- Tôi rất tin vào những phép màu, vì tôi đã chứng kiến rất nhiều điều kỳ diệu.

Còn nhớ một ngày nọ, có một bà lão đã 102 tuổi đến khám tại phòng mạch của tôi. Bà nói:

Phía dưới hàm răng giả của ta bị đau lắm. Ta đã nói với bác sĩ nha khoa riêng của ta rằng ta không sao, nhưng cậu ấy vẫn buộc ta đến gặp con”.

Bà đi cùng người con trai đã 80 tuổi của mình. Thỉnh thoảng ông định nói thêm cho rõ, nhưng bà luôn gạt phắt đi: “Thôi nào con trai”.

Bà muốn tự mình nói với tôi.

2- Tôi phát hiện bà bị một khối u khá lớn trên vòm họng. Kiểm tra sinh thiết tiếp theo càng củng cố thêm cho chuẩn đoán ấy - đó là một dạng ung thư đặc biệt nghiêm trọng.

3- Trong lần hẹn tái khám tiếp theo, tôi đã giải thích cho bà nghe rằng vấn đề rất nghiêm trọng. Bà ngồi xuống ghế, khẽ siết chặt bàn tay tôi và nói: “Ta biết con lo lắng cho ta. Nhưng ta vẫn khoẻ mà ”.

Tôi lại nghĩ khác. Sau rất nhiều nỗ lực của tôi cùng với sự hợp tác rất tốt của bà - vì bà muốn tôi vui - cuối cùng bà cũng đồng ý để tôi chuyển bà đến một bác sĩ chuyên khoa ung thư.

Bà đến gặp ông, nhưng đúng như tôi dự đoán, bà đã từ chối điều trị.

Khoảng sáu tháng sau, bà lại đến phòng khám của tôi.

Tôi hỏi: “Bà thế nào rồi?”. Người con trai của bà vừa định trả lời, lập tức bị bà ngăn lại giống như lần trước.

Ta khoẻ lắm! ”. Bà hỏi tôi: “Khi nào thì con mới bắt đầu điều trị chỗ đau dưới hàm răng giả của ta đây?” Tôi ấp úng trả lời bà: “Để con kiểm tra miệng của bà rồi chúng ta sẽ quyết định”. Tôi vẫn nghĩ rằng sẽ chẳng có cách nào cứu vãn được tình hình của bà.

Tôi không thể tin được vào mắt mình. Những khối u ngày nào từng bao phủ gần hết vòm họng của bà nay đã biến mất, chỉ còn một vài đốm đỏ lấm tấm trên vòm họng mà thôi.

Những chuyện lạ như thế này tôi cũng đã được biết qua nhiều, nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy tận mắt. Tôi ngạc nhiên đến nỗi không thốt nên được lời nào.

Con thấy chưa? Ta đã nói là ta khoẻ mà ”.

Bà vừa nói vừa vỗ nhẹ vào bàn tay đang mang găng khử trùng của tôi.

Giờ đây tôi đã thực sự tin bà.

4- Đó là phép màu đầu tiên tôi đã tận mắt chứng kiến. Kể từ đó về sau, tôi còn chứng kiến nhiều trường hợp kỳ lạ khác nữa, bởi vì càng lúc tôi càng dễ nhận ra chúng. Thật ra đối với tôi, phép màu đơn giản là những sự kiện vẫn thường xảy ra mỗi ngày. Bất cứ khi nào tôi hít vào một hơi thở thật dài và sâu, tôi lại nghĩ tới điều kỳ diệu của sự sống. Bản thân mỗi con người đã là một điều kỳ diệu, vì qua họ, ta có thể hiểu rõ bản thân mình và trải lòng ra với mọi người. Ta còn có cơ hội được thể hiện lòng tốt của mình, có cơ hội được cống hiến và nhìn thấy những điều kỳ diệu của nhau.

Kể từ khi chứng kiến điều thần kỳ ấy, tôi dần hiểu ra rằng: thời khắc và không gian mà điều kỳ diệu xuất hiện sẽ hoàn toàn do ta quyết định.

3- Đáp án:

Bài này có 4 đức:

1- Đức tự tin.

2- Đức giác ngộ thân vô thường.

3- Đức tự tin tín lực.

4- Đức tự tin ý thức lực.

4- Giải trình án:

ĐỨC THỨ NHẤT ĐỨC TỰ TIN

Có ai tin rằng cơ thể của chúng ta có một sức mạnh đề kháng chống lại các mô bệnh trên thân một cách tuyệt vời không? Có ai tin rằng ý thức của chúng ta có một nội lực đẩy lùi tất cả những bệnh khổ trên thân mà không cần phải uống thuốc thang, đi bác sĩ hay nằm bệnh viện không? Điều này, phần đông mọi người chưa có ai nghĩ đến và tin tưởng, nhưng với một số người rất ít, họ đã chứng kiến được những điều kỳ diệu của cơ thể cũng như tác giả (bác sĩ) trong bài “Điều kỳ diệu của cuộc sống”.

Một bác sĩ đã từng chứng kiến trên lâm sàng bệnh nhân những điều kỳ lạ do cơ thể con người đề kháng chống lại các mô bệnh một cách kỳ diệu như phép mầu: “Tôi rất tin vào những phép màu, vì tôi đã chứng kiến rất nhiều điều kỳ diệu”.

Đúng vậy, cơ thể con người là một bộ máy hoàn hảo nhất, nó có đầy đủ nội lực để chống lại bất cứ một loại vi trùng hay vi khuẩn nào tác động xâm chiếm vào bản của thân nó. Nhưng với điều kiện tinh thần người ấy phải dũng mãnh không sợ hãi, gan dạ trước những bệnh nan y, những cơn bệnh đau nhức cực ác khiến cho người ta phải lăn lộn rên la. Nhưng lúc ấy, với những người có tín lực nơi thân mình có một sức mạnh vĩ đại sẽ đẩy lùi tất cả những bệnh khổ. Với lòng tin ấy tạo nên một ý chí sắt đá quyết liệt ngút ngàn, không hề dao động tâm trước những cơn bệnh ngặt nghèo. Họ thản nhiên bất động xem thường những bệnh nan y, những cơn đau ác liệt thì cơ thể họ mới có một sức đề kháng mạnh mẽ chống lại những mô bệnh một cách thần kỳ. Còn ngược lại, những người có tinh thần yếu đuối quá sợ hãi, không gan dạ thì bệnh nhẹ trở thành bệnh nặng, bệnh thường trở thành bệnh nan y, bệnh tình không đáng kể trở thành bệnh tình hiểm nghèo. Bởi vì tinh thần yếu đuối, ý chí không gan dạ thì sức đề kháng của cơ thể bị giảm sút. Cho nên từ cơ thể có một sức mạnh vĩ đại thì lại bị yếu kém như cây sậy, chỉ một cơn gió thoảng qua đều bị ngã rạp.

Hình ảnh một bà lão 102 tuổi đến bác sĩ nha khoa để trị răng, nhưng bác sĩ nha khoa lại phát hiện và nghi ngờ bà cụ bị bệnh ung thư trong miệng, nên khuyên bà đến một bác sĩ khác chuyên xét nghiệm để chuẩn đoán và xác định bệnh cho rõ ràng, nhưng bà cương quyết mạnh mẽ nói: “Ta không sao”. Đó là một lòng tin mạnh mẽ vào cơ thể của mình không bao giờ có bệnh, chỉ là bệnh đau răng thường mà thôi.

Chúng ta hãy đọc lại đoạn văn này sẽ thấy bà cụ dũng cảm: “Còn nhớ một ngày nọ, có một bà lão đã 102 tuổi đến khám tại phòng mạch của tôi. Bà nói: “Phía dưới hàm răng giả của ta bị đau lắm. Ta đã nói với bác sĩ nha khoa riêng của ta rằng ta không sao, nhưng cậu ấy vẫn buộc ta đến gặp con”.

Bà đi cùng người con trai đã 80 tuổi của mình. Thỉnh thoảng ông định nói thêm cho rõ, nhưng bà luôn gạt phắt đi: “Thôi nào con trai”.

Bà muốn tự mình nói với tôi”. Đúng là một bà cụ gan dạ, ý chí dũng mãnh không hề sợ hãi những bệnh nan y, chỉ tin chắc vào cơ thể mình không có bệnh, nên quyết liệt từ chối các bác sĩ, không chịu chữa trị. Hành động gan dạ như bà cụ thật là hiếm thấy trên xã hội này. Đó mới chính là tín lực, tức là lòng tin bất di bất dịch.

Lòng tin quá mãnh liệt khiến cho bệnh ung thư của bà không phát triển được và bị triệt tiêu thật là tuyệt vời. Lòng tin là một phép mầu, nó sẽ giúp chúng ta vượt qua số phận, vượt qua những sự gian nan thử thách của cuộc đời; lòng tin sẽ giúp chúng ta làm nên những việc phi thường; lòng tin sẽ giúp chúng ta làm chủ nhân quả luân hồi; lòng tin là một thần lực mà không có một sức lực nào hơn được.

ĐỨC THỨ HAI ĐỨC GIÁC NGỘ THÂN VÔ THƯỜNG

Cơ thể con người là một khối vừa tinh thần và vật chất do năm uẩn hợp lại tạo thành:

1- Sắc uẩn (Sắc uẩn gồm có đất, nước, gió, lửa hợp lại tạo thành thân người, sự hoạt động của thân người gồm có mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý).

2- Thọ uẩn (Các cảm nhận khổ hay lạc thuộc về tinh thần và vật chất).

3- Tưởng uẩn (Tưởng uẩn là sự hoạt động trong giấc mộng khi mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý ngưng nghỉ không tiếp xúc sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nữa).

4- Hành uẩn (Hành uẩn là sự hoạt động của cơ thể về vật chất cũng như về tinh thần).

5- Thức uẩn (Thức uẩn là phần hiểu biết phi thường về không gian và thời gian, nó thuộc về tuệ Tam Minh).

Như trên đã nói, năm uẩn này là cơ thể con người, nhưng nó vô thường, từ lúc sinh ra cho đến già chết thường thay đổi liên tục, và bệnh tật thường sinh ra trong cơ thể con người.

Những sự kiện xảy ra như vậy đều là hiện tượng của sự vô thường. Vì thế bác sĩ đã phát hiện trong vòm họng của bà cụ một dạng ung thư đặc biệt: “Tôi phát hiện bà bị một khối u khá lớn trên vòm họng. Kiểm tra sinh thiết tiếp theo càng củng cố thêm cho chuẩn đoán ấy - đó là một dạng ung thư đặc biệt nghiêm trọng”. Cho nên những bệnh trong thân người đều là do sự vô thường thay đổi của thân, nếu ai đã hiểu sự vô thường của thân thì không còn lo lắng và sợ hãi, luôn luôn thản nhiên trước mọi sự vô thường thay đổi của nó. Tuy bà cụ này chưa thông suốt các pháp vô thường, nhưng bà vẫn thản nhiên trước sự lo lắng của các bác sĩ về căn bệnh ung thư quái ác của bà. Bà chỉ đặt lòng tin vào cơ thể không đau ốm gì cả. Khi đau nhức của bệnh ung thư trong vòm họng, bà chỉ nghĩ là đau răng. Đau răng là một thứ bệnh thông thường không đáng kể.

Thân là một pháp cũng như các pháp khác trên thế gian này đều là vô thường, không có pháp nào là thường hằng bất di bất diệt. Vì thế không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta, đó là lời xác định của đức Phật từ ngàn xưa đến nay vẫn còn một giá trị tuyệt đối, không ai dám phủ nhận. Vậy mà có một số kinh sách tưởng ngoại đạo dựng lên một vật thường hằng bất biến “BẢN THỂ VẠN HỮU” để chống đối lại thuyết vô thường vô ngã của Phật giáo, thật là mê mờ thiếu hiểu biết. Các pháp vô thường là một sự thật trong cuộc sống của loài người, không ai dám phủ nhận, chỉ có những người chịu ảnh hưởng mù quáng ảo tưởng của người xưa còn lạc hậu mê tín, nên họ mới xây dựng triết thuyết linh hồn thường hằng bất biến rồi bao nhiêu tôn giáo ra đời cũng dựa vào đó chấp nối theo lối mòn dựng lên các cõi Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn, v.v...

Sự truyền thừa sai lệnh, không đúng sự thật đã ăn sâu vào tư tưởng của loài người, cho nên không thể một ngày, một bữa mà buông bỏ được “LINH HỒN, BẢN THỂ hay các cõi SIÊU HÌNH...” Người chưa biết sống với “ĐỨC GIÁC NGỘ THÂN VÔ THƯỜNG” thì bao giờ cũng tin có thế giới siêu hình, có linh hồn, có Bản Thể Vạn Hữu, v.v... Vì thế gặp tai nạn hay bệnh tật thì họ mất hết lòng tin, ý chí và nghị lực dũng mãnh cũng không còn, do đó bệnh nhẹ trở thành bệnh nặng, bệnh nặng trở thành bệnh nặng hơn. Cho nên làm người chúng ta cần nên giác ngộ thân vô thường, đó là điều quan trọng nhất, nó giúp chúng ta luôn luôn sống trong một cuộc sống bình an, yên ổn mà không có một ác pháp nào tác động được vào thân tâm.

ĐỨC THỨ BA ĐỨC TỰ TIN TÍN LỰC

Tín lực là một lòng tin mạnh mẽ không có một điều gì làm lay chuyển và thay đổi được lòng tin ấy. Lòng tin mạnh mẽ ấy trở thành một sức mạnh vĩ đại, nó quyết định làm một điều gì thì làm điều ấy đến tận cùng. Dù gặp bao nhiêu gian lao thử thách, khó khăn vô cùng, nó cũng vượt qua và không bao giờ lui bước. Tín lực làm thay đổi nhân quả của con người khi nó đặt lòng tin ấy đúng đối tượng. Bác sĩ đã khẳng định bà bị ung thư trong vòm họng, nhưng bà vẫn mạnh mẽ bảo: “Ta vẫn khỏe mà”. Dù bác sĩ bảo gì bà vẫn giữ lập trường “ta vẫn khỏe mà” và luôn luôn từ chối điều trị. Cuối cùng bác sĩ tái khám cứ ngỡ rằng không còn cách nào cứu chữa bệnh của bà nữa, nhưng nào ngờ, tự cơ thể của bà đã có một phép mầu đẩy lui bệnh ung thư trong vòm họng của bà đã tan biến. Thật là một điều kỳ diệu mà trong ngành y khoa không thể nào xác minh được. Phải không quý vị? Chúng ta hãy đọc lại đoạn văn này thì sẽ rõ đức tự tin TÍN LỰC là một phép mầu diệu kỳ mà không có ai ngờ được: “Trong lần hẹn tái khám tiếp theo, tôi đã giải thích cho bà nghe rằng vấn đề rất nghiêm trọng. Bà ngồi xuống ghế, khẽ siết chặt bàn tay tôi và nói: “Ta biết con lo lắng cho ta. Nhưng ta vẫn khoẻ mà”.

Tôi lại nghĩ khác. Sau rất nhiều nỗ lực của tôi cùng với sự hợp tác rất tốt của bà - vì bà muốn tôi vui - cuối cùng bà cũng đồng ý để tôi chuyển bà đến một bác sĩ chuyên khoa ung thư.

Bà đến gặp ông, nhưng đúng như tôi dự đoán, bà đã từ chối điều trị.

Khoảng sáu tháng sau, bà lại đến phòng khám của tôi.

Tôi hỏi: “Bà thế nào rồi?”. Người con trai của bà vừa định trả lời, lập tức bị bà ngăn lại giống như lần trước.

“Ta khoẻ lắm”. Bà hỏi tôi: “Khi nào thì con mới bắt đầu điều trị chỗ đau dưới hàm răng giả của ta đây?” Tôi ấp úng trả lời bà: “Để con kiểm tra miệng của bà, rồi chúng ta sẽ quyết định”. Tôi vẫn nghĩ rằng sẽ chẳng có cách nào cứu vãn được tình hình của bà.

Tôi không thể tin được vào mắt mình. Những khối u ngày nào từng bao phủ gần hết vòm họng của bà nay đã biến mất, chỉ còn một vài đốm đỏ lấm tấm trên vòm họng mà thôi.

Những chuyện lạ như thế này tôi cũng đã được biết qua nhiều, nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy tận mắt. Tôi ngạc nhiên đến nỗi không thốt nên được lời nào.

“Con thấy chưa? Ta đã nói là ta khoẻ mà”.

Bà vừa nói vừa vỗ nhẹ vào bàn tay đang mang găng khử trùng của tôi. Giờ đây, tôi đã thực sự tin bà”.

Đức tự tin nơi bà cụ đã chuyển được nhân quả nơi thân của bà cụ. Một bệnh ung thư là một loại bệnh mà Đông, Tây y đã bó tay đầu hàng. Nhưng với tinh thần bất khuất của bà cụ đã chiến thắng bệnh ung thư quái ác với câu tác ý: “Ta khỏe mà”. Với lòng tin không thay đổi, luôn luôn lúc nào cụ cũng nói: “Ta khỏe mà”. Vậy mà bệnh ung thư đã đẩy lùi, làm cho vị bác sĩ này phải ngạc nhiên kinh dị.

Đúng là tín lực một lòng tin bất di bất dịch, một lòng tin ta là con người khỏe mạnh thì nó sẽ khỏe mạnh, tin ta đau ốm nó sẽ đau ốm. Lòng tin là một sức mạnh vĩ đại. Cho nên đạo Phật có ngũ lực, nhưng trong ngũ lực thì lòng tin là đệ nhất nên gọi nó là TÍN LỰC. Người có lòng tin Phật pháp là phải hiểu rõ Phật pháp là chân lý, là pháp chân thật không hư tưởng, ảo tưởng như các pháp ngoại đạo, vì Phật pháp là một nội lực trong thân tâm của mỗi con người, nên tự lực nó, nó cứu khổ cho thân tâm mình ra khỏi nhà sinh tử luân hồi.

ĐỨC THỨ TƯ ĐỨC TỰ TIN Ý THỨC LỰC

Người ta không ngờ rằng, ý thức của con người khi biết tập luyện đúng như lời Phật đã dạy thì sử dụng nó trở thành một năng lực diệu kỳ, sai khiến thân tâm theo ý muốn của mình (Dục Như Ý Túc). Khi thân bị bệnh, dù bất cứ loại bệnh gì, chỉ cần nhiếp tâm và an trú tâm trong trạng thái bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Khi đã ở trong trạng thái đó liền hướng tâm tác ý về căn bệnh thì bệnh gì cũng sẽ triệt tiêu rất hiệu nghiệm. Nếu người ấy có đầy đủ tín lực nữa thì pháp như lý tác ý trở thành một sức mạnh vĩ đại như cọp mọc sừng, như rồng thêm cánh thì trên đời này không có việc gì khó khăn mà không làm được. Bởi vậy đức Phật đã dạy:

“Có như lý tác ý lậu hoặc chưa sinh thì sẽ không sinh và đã sinh thì bị diệt. Không như lý tác ý lậu hoặc chưa sinh sẽ sinh và đã sinh thì tăng trưởng”. Câu này có nghĩa là khi tâm phiền não, giận hờn thương ghét khởi dậy và tất cả những cảm thọ đau đớn trong thân liền sử dụng pháp như lý tác ý thì tâm phiền não và đau bệnh nơi thân sẽ bị diệt sạch. Nếu lời dạy này ai tin tưởng áp dụng đuổi bệnh, thì tất cả bệnh tật sẽ bị diệt trừ, không có bệnh gì không diệt được.

Muốn đẩy lui được bệnh mà tín lực và an trú tâm không đủ thì việc đẩy lui bệnh cũng trơ trơ.

Cho nên pháp nhiếp tâm và an trú tâm chỉ là một điểm tựa, còn pháp hướng tâm và tín lực là cây đòn bẩy vững chắc, nếu pháp hướng tâm mà không có tín lực thì giống như cây đòn bẩy bằng thứ gỗ xấu tạp nhạp yếu ớt thì bẩy không nổi nhân quả nghiệp báo. Còn ngược lại, có tín lực mà không dùng pháp hướng tâm thì cũng giống như chúng ta có cây gỗ tốt mà không biết dùng làm đòn bẩy thì tín lực cũng không làm nên việc gì cả.

Trong bài này, chúng ta thấy rất rõ bà cụ vì lòng tin vào thân bà luôn luôn khỏe mạnh, không có bệnh gì xâm chiếm vào thân bà cụ được. Bà tin như vậy nên luôn luôn gặp bác sĩ là chỉ dùng một câu nói: “Ta khỏe mà”. Ta khỏe mà đã trở thành pháp như lý tác ý. Trở thành pháp như lý tác ý thì vũ trụ này cũng sẽ bẩy được huống là bệnh tật trên thân con người:

“Đó là phép màu đầu tiên tôi đã tận mắt chứng kiến. Kể từ đó về sau, tôi còn chứng kiến nhiều trường hợp kỳ lạ khác nữa, bởi vì càng lúc tôi càng dễ nhận ra chúng. Thật ra đối với tôi, phép màu đơn giản là những sự kiện vẫn thường xảy ra mỗi ngày. Bất cứ khi nào tôi hít vào một hơi thở thật dài và sâu, tôi lại nghĩ tới điều kỳ diệu của sự sống. Bản thân mỗi con người đã là một điều kỳ diệu, vì qua họ, ta có thể hiểu rõ bản thân mình và trải lòng ra với mọi người. Ta còn có cơ hội được thể hiện lòng tốt của mình, có cơ hội được cống hiến và nhìn thấy những điều kỳ diệu của nhau.

Kể từ khi chứng kiến điều thần kỳ ấy, tôi dần hiểu ra rằng: thời khắc và không gian mà điều kỳ diệu xuất hiện sẽ hoàn toàn do ta quyết định”.

Đạo Phật dạy chúng ta tu tập từ TÍN LỰC trong chánh tín, chứ không phải TÍN LỰC trong mê tín, cho đến pháp NHƯ LÝ TÁC Ý với mục đích là rèn luyện nội lực thân tâm con người để có TỨ THẦN TÚC. Nhờ TỨ THẦN TÚC chúng ta mới làm chủ nhân quả, tức là làm chủ bốn sự đau khổ trên thân: SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT và chấm dứt LUÂN HỒI.

Bài học trên đây là một điều nhắc nhở và tạo dựng cho các tu sinh một niềm tin bất diệt vào những pháp mà Phật đã chỉ dạy trong các kinh nguyên thủy, để sự quyết tâm của tu sinh ngày một tiến bộ hơn nhiều trong đường tu tập làm chủ sinh tử.

Đức tự tin nơi mình, nơi pháp như lý tác ý thì chúng ta sẽ làm chủ được nhân quả, và như vậy nhân quả sẽ không làm chủ sai khiến chúng ta được.

Cho nên một người tu theo Phật mà không làm chủ được SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT thì không phải là người tu theo Phật giáo, mà tu theo ngoại đạo mang nhãn hiệu Phật giáo. Xin quý vị lưu ý phương pháp hành trì của quý vị.

Bài 39: AI THA THỨ CHO AI

Có một người muốn lăng nhục Phật, để xem Phật có phản ứng gì không, và thế là anh liền nhổ một bãi nước bọt lên mặt Phật.

Phật lau mặt rồi hỏi anh ta: “Anh còn có điều gì muốn nói nữa không? Dường như anh đã nói rồi phải không?” Người này bị làm cho lú lẫn, bởi vì anh ta không ngờ lại có câu trả lời như vậy. Anh ta không nói gì rồi bỏ đi. Tối đến, anh ta bị mất ngủ, dần dần anh ta cảm thấy việc mình làm là hoàn toàn sai trái và cảm thấy tội lỗi. Sáng hôm sau anh ta đến, quỳ dưới chân Phật và nói: “Xin hãy tha lỗi cho con”.

Phật cười: “Bây giờ ai tha lỗi cho anh? Người bị anh nhổ bọt không ở đây, mà người nhổ bọt cũng không ở đây. Hai người đều là pháp vô thường, quá khứ đã mất rồi, vị lai thì chưa đến, chỉ có pháp hiện tại, nhưng hiện tại anh có lỗi gì với Phật mà xin sám hối. Hãy quên chuyện đó đi. Hiện tại anh không có làm gì cả. Hai người đó đều đã chết, tất cả đã kết thúc. Phật và anh là con người mới hoàn toàn”.

(Những mẩu chuyện về đời sống của đức Phật Thích Ca Mâu Ni).

 

BÀI LÀM

1- Đại ý:

Bài này chỉ rõ các pháp đều vô thường: có gì đúng, có gì sai, có gì tốt, có gì xấu, có gì trắng, có gì đen, có gì phải, có gì trái? Tất cả đúng, sai, tốt, xấu, phải, trái, trắng, đen đều do con người không hiểu sự vô thường của nó, nên cố chấp dính mắc tạo thành một cuộc sống khổ đau.

2- Phân đoạn:

Bài này có 6 đoạn:

1- Có một người muốn lăng nhục Phật, để xem Phật có phản ứng gì không, và thế là anh liền nhổ một bãi nước bọt lên mặt Phật.

2- Phật lau mặt rồi hỏi anh ta: “Anh còn có điều gì muốn nói nữa không? Dường như anh đã nói rồi phải không?” 3- Người này bị làm cho lú lẫn, bởi vì anh ta không ngờ lại có câu trả lời như vậy. Anh ta không nói gì rồi bỏ đi.

4- Tối đến anh ta bị mất ngủ, dần dần anh ta cảm thấy việc mình làm là hoàn toàn sai trái và cảm thấy tội lỗi.

5- Sáng hôm sau anh ta đến, quỳ dưới chân Phật và nói: “Xin hãy tha lỗi cho con”.

6- Phật cười: “Bây giờ ai tha lỗi cho anh? Người bị anh nhổ bọt không ở đây, mà người nhổ bọt cũng không ở đây. Hai người đều là pháp vô thường, quá khứ đã mất rồi, vị lai thì chưa đến, chỉ có pháp hiện tại, nhưng hiện tại anh có lỗi gì với Phật mà xin sám hối. Hãy quên chuyện đó đi. Hiện tại anh không có làm gì cả. Hai người đó đều đã chết, tất cả đã kết thúc. Phật và anh là con người mới hoàn toàn”.

3- Đáp án:

Bài này có 6 đức:

1- Nhân quả đời trước thiếu đức cẩn thận hiếu sinh ý hành, thân hành.

2- Đức bình tĩnh nhẫn nhục hiếu sinh thân hành, khẩu hành.

3- Đức xấu hổ hiếu sinh ý hành.

4- Đức hối hận hiếu sinh ý hành.

5- Đức sám hối hiếu sinh thân hành, khẩu hành.

6- Đức tri kiến các pháp vô thường buông xả khẩu hành.

4- Giải trình:

ĐỨC THỨ NHẤT NHÂN QUẢ ĐỜI TRƯỚC THIẾU ĐỨC CẨN THẬN HIẾU SINH Ý HÀNH, THÂN HÀNH

Người thông hiểu luật nhân quả nhìn cuộc sống hiện tại sẽ biết nhân quả quá khứ đã làm gì, và cũng từ cuộc sống hiện tại sẽ biết tương lai hưởng quả báo gì. Khi hiểu biết được như vậy, thì ngay trong hiện tại chúng ta phải chọn lấy con đường sống toàn thiện. Có sống toàn thiện thì quá khứ và vị lai sẽ hưởng quả an vui và hạnh phúc.

Do nhân quả quá khứ trong một kiếp đã qua, đức Phật đã phạm phải một lỗi là nhổ nước bọt vào mặt một con vật nào đó, nên hiện kiếp phải trả quả báo. Theo gương này, chúng ta phải ý tứ cẩn thận khi khạc nhổ, phải tránh không được khạc nhổ lên mình chúng sinh. Muốn tránh các duyên vô tình giậm đạp, khạc nhổ hay tiêu tiểu lên chúng sinh, thì chúng ta nên tập tĩnh giác hằng ngày, nhờ tập tĩnh giác hằng ngày mà trở thành một thói quen tĩnh giác. Có tĩnh giác thì đức cẩn thận mới hiện tiền. Đức cẩn thận hiện tiền thì không có ác pháp nào qua mắt chúng ta được.

Khi thông suốt và hiểu biết luật nhân quả rõ ràng thì thời gian hiện tại rất quan trọng cho đời sống của mọi người. Cho nên đức Phật dạy trong bài kệ “NHẤT DẠ HIỀN” (Một đêm sống trong hiện tại làm thánh hiền):

Quá khứ không truy tìm

Vị lai không ước vọng

Quá khứ đã đi qua

Vị lai thì chưa đến

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính là đây”

Bởi vậy, chỉ có sống trong hiện tại với tri kiến diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp, chứ không phải sống trong hiện tại là sống theo kiểu triết học hiện sinh của Krisnamurti, hay theo kiểu sống hiện sinh của thiền tông “Chẳng niệm thiện niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền”.

Phật giáo cũng sống trong hiện tại, nhưng lại “tuệ quán” để ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp. Đó là những cái sai biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác trên hành tinh này.

Do nhân quả đời trước mà kiếp hiện tại đức Phật phải trả quả bị người khác nhổ vào mặt một bãi nước bọt, nhưng đức Phật là người tu chứng, nên Ngài mới thản nhiên và đã thốt ra lời nói có một giá trị xả tâm rất tuyệt vời: “Anh còn có điều gì muốn nói nữa không?”.

Sau những ngày bị lương tâm cắn rứt, anh ta đến xin sám hối với Phật. Nhưng đức Phật lại xác định cho anh thấy rõ các pháp vô thường:

“Bây giờ ai tha lỗi cho anh? Người bị anh nhổ bọt không ở đây, mà người nhổ bọt cũng không ở đây. Hai người đều là pháp vô thường, quá khứ đã mất rồi, vị lai thì chưa đến, chỉ có pháp hiện tại, nhưng hiện tại anh có lỗi gì với Phật mà xin sám hối. Hãy quên chuyện đó đi. Hiện tại anh không có làm gì cả. Hai người đó đều đã chết, tất cả đã kết thúc. Phật và anh là con người mới hoàn toàn”.

Lời xác định này khiến cho mọi người giựt mình, vì từ xưa đến nay ít ai nghĩ đến nghĩa lý này. Có nhiều người đã đọc bài kệ “NHẤT DẠ HIỀN”, nhưng mấy ai đã tư duy quán xét được lý vô thường của các pháp trong ba thời quá khứ, vị lai và hiện tại rất thâm sâu như vậy.

Sự tư duy quán xét của đức Phật rất tuyệt vời, nếu chúng ta ai cũng tư duy quán xét hiểu như vậy thì thế gian này không bao giờ có sự xung đột và chiến tranh.

ĐỨC THỨ HAI ĐỨC BÌNH TĨNH NHẪN NHỤC HIẾU SINH THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH

Đức bình tĩnh nhẫn nhục là một đức hạnh tuyệt vời. Nhờ thấu suốt lý nhân quả nên đức Phật đã bình tĩnh, thản nhiên lau mặt và ôn tồn hỏi: “Anh còn có điều gì muốn nói nữa không?”. Đúng là lời nói của một bậc giải thoát nên tâm rất bình tĩnh và ôn tồn, nhã nhặn khó có ai làm được.

Theo gương hạnh này, chúng ta nên học đức bình tĩnh nhẫn nhục hiếu sinh tuỳ thuận để luôn luôn ứng phó với các ác pháp đang vây quanh chúng ta từng giây, từng phút; đang dẫn dắt chúng ta vào cõi địa ngục từng khắc, từng giờ.

Quý vị có biết không? Đức bình tĩnh nhẫn nhục hiếu sinh rất cần thiết cho đời sống của mọi người để đem lại sự bình an, yên vui. Nếu chúng ta không học đức bình tĩnh nhẫn nhục hiếu sinh thì cuộc sống của chúng ta sẽ không bao giờ thoát khổ. Và như vậy cuộc đời chúng ta sẽ sống trong màn đêm u tối và chẳng biết ngày mai sẽ ra sao.

Người sống với đức bình tĩnh nhẫn nhục hiếu sinh tùy thuận trong hiện tại thì biết rất rõ ngày hôm nay và ngày mai là những ngày bình an, yêu vui và hạnh phúc.

Nhìn mọi người đang sống quanh ta, họ đang ở trong địa ngục, nhưng nào họ có biết họ đang ở trong địa ngục đâu. Sống trong địa ngục mà cứ ngỡ mình ở cõi thiên đàng đang vui chơi và ham thích như trẻ con, thật là tội nghiệp. Chính vì họ vô minh không sống với đức bình tĩnh, nhẫn nhục, hiếu sinh, tùy thuận hiện tại, mà phải chịu lấy một đời khổ đau, một đời sống trong địa ngục.

Người ta mê muội và mờ mịt không biết con người sinh ra để làm gì? Tại sao lại phải chịu khổ đau trước cảnh sinh ly tử biệt? Tại sao lại chịu biết bao bệnh khổ? Tại sao lại dễ giận hờn thương ghét, sợ hãi lo toan? Tại sao con người từ đâu sinh ra và chết đi về đâu? Trong con người có linh hồn hay không? Và linh hồn là cái gì? Và tại sao? Tại sao???? Biết bao nhiêu câu hỏi mà không có câu trả lời thiết thực, cụ thể. Hiện nay người ta vẫn còn mờ mịt chưa giải đáp án được những câu hỏi này. Chúng tôi xin lần lượt sẽ trả lời từng câu hỏi trên đây để quý vị hiểu biết và thấy rằng những hành động sống hằng ngày thiện ác của quý vị là nhân, là duyên để hợp duyên tứ đại:

đất, nước, gió, lửa sinh ra con người và vạn vật trên hành tinh này. Rồi một thời gian ngắn ngủi con người và vạn vật trên hành tinh này theo luật vô thường tứ đại trả về cho tứ đại, chứ không có con người từ đâu sinh ra và chết đi về đâu. Quý vị có nhận hiểu quy luật sinh diệt này chưa? Có dịp chúng tôi sẽ trả lời tiếp những điều gì quý vị cần nên biết. Còn bây giờ xin nhắc lại:

“Những gì cần thiết cho cuộc sống ngày hôm nay và ngày mai này được an vui và hạnh phúc thì ĐỨC BÌNH TĨNH NHẪN NHỤC HIẾU SINH TÙY THUẬN quý vị phải thực hiện ngay, đừng hẹn ngày mai, ngày mốt, vì thời gian không chờ đợi quý vị.

Tấc bóng thời gian một tấc vàng

Tấc vàng tìm được không gì khó

Tấc bóng thời gian khó hỏi han”

Thời gian quý báu vô cùng lắm quý vị ạ! Tuổi đời quý vị không còn bao lâu nữa, phải cố gắng, cố gắng lên tu tập, không ai cố gắng tu tập giúp cho quý vị được, mà chính quý vị phải tự cứu mình thoát ra khỏi biển nghiệp khổ đau.

ĐỨC THỨ BA ĐỨC XẤU HỔ HIẾU SINH Ý HÀNH

Người biết xấu hổ là người biết sửa sai. Người biết sửa sai là người biết khắc phục mình để trở thành người tốt, người toàn thiện, người không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.

Đó là người biết tiến bộ trên đường đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo.

Bởi vậy, đức xấu hổ hiếu sinh là một đức hạnh sửa mình tuyệt vời. Trên đời này nếu ai làm khổ người, khổ mình và làm khổ tất cả chúng sinh mà biết xấu hổ, tự khắc phục sửa sai thì xã hội loài người sẽ không còn khổ đau nữa.

Chỉ vì trên đời này hầu hết mọi làm khổ mình, khổ người và chúng sinh mà không biết xấu hổ sửa sai, lại còn viện cớ này, lý lẽ kia, lý lẽ khác để chống chế, che dấu những sự sai lầm của mình. Thật là đáng chê trách. Vì thế, thiếu sự thành thật với mình, với người nên cuộc đời này là địa ngục khổ đau. Bởi vậy, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển. Đó là một sự thật từ ngàn xưa cho đến ngày nay, chưa có ai biết cách làm thay đổi sự đau khổ này được. Tuy rằng đạo Phật ra đời đã có một nền đạo đức nhân bản - nhân quả thiết thực, cụ thể làm lợi ích cho loài người và muôn loài vạn vật, nhưng chẳng mấy ai hiểu biết và quan tâm triển khai nền đạo đức ấy. Vì thế nền đạo đức ấy bị mai một, chôn vùi dưới nhiều lớp giáo lý của ngoại đạo tà sư.

Hiện giờ, khi người ta nghe nói đến đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, thì họ rất ngạc nhiên. Vì đây là lần đầu tiên nền đạo đức này được xem mới xuất hiện trong thế kỷ thứ XXI.

Đúng vậy, nó mới xuất hiện trong thế kỷ này, nhưng nó đã có từ khi loài người có mặt trên hành tinh này.

Cách đây 2552 năm, có một người đã triển khai nền đạo đức này lần đầu tiên, đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người Ấn Độ tại đất nước Nepal. Từ đó cho đến ngày nay, nền đạo đức này người ta được biết đến qua giáo lý của đạo Phật, có tên là “NGŨ GIỚI và THẬP THIỆN”.

Hôm nay, trên đất nước Việt Nam vào thế kỷ thứ XXI, có một người Việt Nam sống tại tỉnh Tây Ninh dựng lại và chuyển đổi nền đạo đức văn hóa của Ấn Độ trở thành nền đạo đức văn hóa của dân tộc Việt Nam, nên mới có tên “ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN - NHÂN QUẢ, SỐNG KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI VÀ KHỔ TẤT CẢ CHÚNG SINH”.

Đức xấu hổ hiếu sinh là một đức hạnh trong muôn ngàn đức hạnh của nền đạo đức nhân bản - nhân quả. Vì thế, một người làm sai có lỗi lầm mà biết xấu hổ sửa sai là một người có đạo đức hiếu sinh biết thương mình. Người biết thương mình là người biết làm cho mình tốt hơn, biết chuyển hóa cuộc đời của mình ngày một bình an, yên vui hơn.

Nhờ biết sống trong đức xấu hổ sửa sai những lỗi lầm của mình để không còn lầm lỗi nữa. Không còn lầm lỗi nữa có hai sự lợi ích lớn:

1- Trong hiện tại cuộc sống được yên vui và hạnh phúc.

2- Trong tương lai ít có tai nạn, bệnh tật xảy ra.

Nghe nói Phật là một bậc tu giải thoát, không còn sân giận phiền não, nên anh muốn tìm hiểu sự tu hành của Phật có đúng như vậy không? Do muốn tìm hiểu, anh đã dùng một hành động cực ác, đó là nhổ lên mặt Phật một bãi nước bọt, nhưng anh không ngờ sức bình tĩnh nhẫn nhục và lòng yêu thương của Phật tuyệt vời. Sau khi lau mặt xong, đức Phật hỏi: “Anh còn muốn nói gì nữa không?”. Do câu hỏi này mà anh xấu hổ bỏ ra đi.

Biết xấu hổ bỏ đi nên anh rất hối hận vì một hành động quá tội lỗi đối với Phật. Vì thế người biết xấu hổ thì tội nặng thành nhẹ, và biết sám hối sửa sai thì tội lỗi sẽ không còn nữa.

Bởi vậy đức xấu hổ hiếu sinh là một đức hạnh làm chuyển đổi nhân quả ác thành nhân quả thiện. Và như vậy chúng ta nên khắc ghi trong lòng đừng quên, để sống một đời đạo đức nhân bản và rất hãnh diện mình làm người xứng đáng làm người.

ĐỨC THỨ TƯ ĐỨC HỐI HẬN HIẾU SINH Ý HÀNH

Làm một điều gì hay nói một lời nào khiến cho người khác hoặc cha mẹ, vợ con buồn phiền khổ đau thì hối hận ăn năn, tâm thường hối hận ăn năn là trăn trở trong lòng. Người biết hối hận ăn năn là người có đức hối hận.

Đức hối hận là một đức hạnh giúp cho mọi người khắc phục giữ gìn sửa sai những lỗi lầm thường mọi người vô tình hay làm sai trái mà không biết. Tránh tình trạng vô tình sống thiếu đạo đức thì nên cắp sách đến trường lớp tại tu viện Chơn Như học đạo đức nhân bản - nhân quả thì sẽ không còn vô tình làm khổ mình, khổ người và tất cả chúng sinh.

Người đời ít ai biết hối hận những việc làm sai trái của mình, vì thế cứ mãi làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh mà xem như chuyện bình thường, chuyện sống rất tự nhiên.

Ví dụ: Những người sát hại và ăn thịt chúng sinh, họ không biết đó là những việc làm ác nên cứ thản nhiên hằng ngày gây bao tội lỗi. Trong số những người này lại có những người biết đó là những việc làm ác, làm khổ đau loài vật và gây ra bệnh tật cho mình, nhưng thói nào tật ấy không chừa bỏ được, cứ mãi tiếp diễn làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh từ đời này sang đời khác.

Do nhân quả ác giết hại và ăn thịt chúng sinh, những người dân làm nghề chài lưới, đánh cá câu tôm trên sông biển họ có hạnh phúc yên vui bao giờ đâu. Mỗi lần ra sông, ra biển để bắt cá tôm là cả gia đình họ đều lo lắng không yên, đến khi trở về nhà còn sống mới hết lo sợ. Thiên tai lũ lụt, sóng thần đều cuốn trôi nhà cửa tài sản của những người dân làm nghề ác độc này. Quý vị có thấy không? Những điều này xảy ra năm nào cũng có, không nước này thì nước khác, mà dân chài lưới thì lãnh đủ.

Tử thần cứ lăm le đến thăm họ, sự sống chết của họ như chỉ mành treo chuông, nhưng nào họ có biết. Họ sống khổ đau, sống trong ác pháp như thế mà họ không biết hối hận ăn năn với những việc làm ác đức tội lỗi. Hằng ngày họ giết hàng trăm vạn sinh linh vô tội; hằng ngày họ nhai nuốt biết bao nhiêu loài vật trên dao dưới thớt của họ, cơ thể của họ là nghĩa địa, là gò mả, là mồ chôn xác chúng sinh. Tất cả cá, tôm, gà, vịt, heo, dê, bò, trâu, ngựa, chó, mèo, rắn, rít, v.v.. đều chôn tại chỗ đó. Họ đã biến cơ thể của họ trở thành một nơi tội lỗi giết hại biết bao nhiêu sinh vật vô tội. Với việc làm đầy tội lỗi này mà pháp luật các nước trên thế giới không thể bắt tội họ được. Vì từ xưa đến nay, tổ tiên ông bà của chúng ta đã sống một đời sống động vật, nhân tính mất, nên họ giết hại và ăn thịt các loài động vật, có khi ăn thịt luôn cả người nữa, rồi truyền thừa lại con cháu về sau nhiều đời nhiều kiếp cũng sống như vậy. Hiện giờ có một số bộ lạc ở trên những vùng cao nguyên trong rừng sâu đang ăn thịt người. Gần đây có một vài nước văn minh, các đại gia đang tìm thịt trẻ con mới sinh, 5, 10 tháng tuổi để làm món ăn thượng hạng.

Đạo đức nhân bản - nhân quả hiếu sinh, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì chưa ai biết, nên mọi người thường giết hại và ăn thịt những loài động vật khác đã trở thành một nếp sống, một thói quen ăn uống ác độc, nếu bữa ăn không có thịt chúng sinh thì họ ăn uống không ngon. Từ đó cha truyền con nối cứ tiếp tục giết hại và ăn thịt chúng sinh một cách tự nhiên.

Một truyền thừa nếp sống ác đức, đầy tội lỗi nhưng có mấy ai lưu ý; có mấy ai hiểu rằng nhân nào quả nấy; có mấy ai hiểu rằng luật nhân quả chạy đâu tránh khỏi, dù cho bay lên trời hay chui xuống biển cũng không sao tránh khỏi.

Những quả báo khi thời tiết nhân duyên đã đến dù có chư Phật, Bồ Tát cũng đành bó tay.

Luật pháp nhân quả sẽ không tha thứ cho một người nào làm ác, dù người đó là vua quan cũng không trốn khỏi. Cho nên người nào giết hại và ăn thịt chúng sinh thì cơ thể không bệnh đau thế này thì cũng bệnh đau thế khác. Già trẻ lớn bé đều không thoát khỏi bệnh tật là do ăn thịt chúng sinh. Cho nên làm người ai cũng nuôi mạng sống bằng xương máu chúng sinh thì bệnh tật là do nghiệp ác đó. Muốn thoát khỏi bệnh tật chỉ có những người sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì cơ thể sẽ không bệnh tật; thì gia đình sẽ không tai nạn, mọi người đều sống được bình an, yên vui và hạnh phúc.

Thường người ta thấy ai bệnh tật hiểm nghèo thì bảo: “Trời kêu ai nấy dạ”. Người ta không hiểu nhân quả nên nói có luật trời, chứ không có luật trời nào cả, mà chỉ có luật nhân quả. Vì luật nhân quả xử phạt rất công minh và chính trực không sai một li hào nào cả. Chính hành động ác như giết hại và ăn thịt chúng sinh thì trả quả là cơ thể phải bị bệnh đau nhức khổ sở như trên chúng tôi đã nói và thường nhắc đi nhắc lại.

Quý vị có nhớ không? Một lần nữa, chúng tôi xin nhắc lại, vì hằng ngày quý vị nuôi thân mạng bằng sự đau khổ chết chóc của chúng sinh thì thân mạng của quý vị phải bệnh tật khổ đau là đúng luật. Cho nên quý vị giết hại và ăn thịt chúng sinh thì đừng mong thân mạng quý vị không đau bệnh.

Vì thế, gốc bệnh tật khổ đau là do giết hại và ăn thịt chúng sinh. Hễ ai làm một việc tàn ác cướp lấy mạng sống của loài vật khác để nuôi mạng sống thân mình, đó là hành động bất bình đẳng, đáng chê trách, không xứng đáng làm con người. Vì con người phải sống có đạo đức nhân bản của con người, nên không bao giờ giết hại và ăn thịt chúng sinh. Nuôi mạng sống của mình bằng xương máu của các loài vật khác, những người sống như vậy thật đáng cho chúng ta sợ hãi và nên tránh xa.

Xưa nay chỉ có loài thú vật mới ăn thịt nhau, chứ con người thì không thể ăn thịt nhau như vậy. Con người thật con người khi làm một điều ác, làm một điều đau khổ cho bất cứ một loài vật nào tâm cũng cảm thấy xấu hổ, nghĩ mình không xứng đáng làm người. Chỉ có những người mất nhân tính, tâm còn là thú vật nên sự cảm thấy làm khổ người và làm khổ loài vật khác thì thích thú, vui cười hớn hở trên sự đau khổ của người và các loài vật khác.

Hành động nhổ bãi nước bọt vào mặt Phật là một hành động lăng nhục Phật. Khi nhận ra hành động ác độc này, anh ta rất hối hận, suốt đêm không ngủ và cảm thấy việc làm của mình quá sai trái và tội lỗi.

Con người này còn chút nhân tính khi làm một hành động quá ác đối với Phật, anh ta biết hối hận và suốt đêm không ngủ. Bởi vậy đức hối hận ăn năn sẽ giúp con người từ ác trở thành thiện; con người từ xấu trở thành tốt. Cho nên làm người luôn luôn phải biết hối hận ăn năn khi chúng ta làm một điều gì mà có sự buồn phiền hay khổ đau cho mọi người và mọi loài động vật, dù con vật nhỏ như con kiến, con sâu, con bọ, v.v.. lỡ chúng ta vô tình giậm đạp làm hại chúng thì phải hối hận ăn năn, khi đi, đứng, nằm hay ngồi đều phải cẩn thận tránh làm sao không làm đau khổ chúng nữa.

Một cậu bé đi học trễ chỉ vì một đêm mưa gió, loài sâu ra khỏi hang bò ngổn ngang trên lề đường. Thấy những con vật đáng thương này cậu mới đem chúng bỏ vào hang, để chúng tránh khỏi sự giậm đạp của người khác. Người mẹ đang buồn phiền con đi học trễ, nhưng khi nghe xong lời thuật lại lòng nhân ái của con, người mẹ ôm con vào lòng với hai giòng nước mắt thương yêu.

Nếu đem so sánh đức hiếu sinh của cậu bé 7 tuổi đã thực hiện lòng nhân từ tuyệt vời, đôi khi người lớn vô tình không làm được hành động hiếu sinh như vậy. Phải không quý vị? Nếu chúng ta không biết hối hận thì không làm sao sửa sai những lỗi lầm. Trên đời này không ai toàn thiện, cho nên sự lỗi lầm làm sao không xảy ra, nhưng xảy ra mà biết hối hận sửa sai là một hành động đem lại sự bình an cho mình, cho người và cho muôn loài chúng sinh.

Vậy quý vị nên ghi nhớ những lời dạy đạo đức hối hận hiếu sinh này, để mãi mãi cuộc sống loài người và muôn loài vạn vật trên hành tinh là Thiên Đàng, Cực Lạc. Nơi đây không còn thấy sự đau khổ giết hại và ăn thịt chúng sinh nữa, nơi đây không còn thấy sự xung đột và chiến tranh tàn khốc nữa.

Đức hối hận hiếu sinh là một đức hạnh rất cần thiết cho cuộc sống con người, vì nó sẽ đem lại sự bình an, yên vui cho hành tinh này.

ĐỨC THỨ NĂM ĐỨC SÁM HỐI HIẾU SINH THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH

Sám hối là một đức hạnh biết tự nguyện, tự giác, đầy đủ can đảm nói ra sự thật những lỗi lầm của mình đã vi phạm trong giới luật đức hạnh của Phật, thường vi phạm những lỗi lầm trong giới luật đức hạnh của Phật là làm khổ mình, làm khổ người và khổ các loài vật.

Ví dụ: Từ ngày thọ Tam Quy, Ngũ Giới đến nay, người phật tử vẫn còn giết hại và ăn thịt cá, tôm, gà, vịt, heo, dê, v.v.. thì hãy đến trước tượng Phật Thích Ca Mâu Ni hay một vị thầy giới luật nghiêm chỉnh mà xin phát lồ sám hối như sau: “Con pháp danh Thích Minh Hiền xin sám hối trước Thầy, vì từ khi thọ Tam Quy, Ngũ Giới, con không giữ gìn trọn vẹn, đến nay vẫn còn ăn thịt chúng sinh. Vậy cúi mong Thầy chứng minh cho con, từ nay về sau con quyết tâm không giết hại và ăn thịt chúng sinh nữa, một lòng quyết giữ gìn giới luật thanh tịnh”.

Khi nào làm một điều gì hay to tiếng nói lời thô lỗ, hỗn hào dữ tợn hoặc nói nặng lời mắng người như: “Anh sao ngu quá! Đồ ngu! Đồ điên!...” Nếu có lỡ lời nói hay có hành động làm buồn phiền người khác thì hãy quỳ trước một vị thầy có đức độ xin sám hối: “Kính thưa thầy, vừa rồi con không dằn được lòng sân nóng nảy, con đã nặng lời mạ nhục chửi mắng anh ấy hay chị ấy đồ ngu, đồ mất dạy, đồ vô đạo đức... Nên nay con đến đây xin thầy nhủ lòng thương xót, chứng minh cho con thành tâm sám hối những gì con đã làm khổ người, khổ mình. Kể từ đây con không còn tái phạm những lỗi lầm ấy nữa.

Con kính mong thầy chứng minh để con đảnh lễ được tiêu trừ lời nói ác”.

Bất cứ làm hay nói một điều gì mà biết mình làm hay nói là sai trái thì nên đến xin lỗi với người mình đã làm phiền, tức là sám hối để từ đây về sau mình không còn tái phạm nữa, nhất là hiện tại trong tâm mình được nhẹ nhàng thư thái, không còn day dứt dày vò.

Ở câu chuyện trên đây cũng vậy: “Tối đến anh ta bị mất ngủ, dần dần anh ta cảm thấy việc mình làm là hoàn toàn sai trái và cảm thấy tội lỗi”. Anh rất hối hận với việc làm thô lỗ kém văn hóa nên đến xin Phật tha lỗi. Hành động đến xin lỗi Phật là hành động biết sám hối, ăn năn chừa bỏ những lỗi lầm sai trái của mình.

Bởi vậy, đức sám hối là một đức hạnh giúp mình trở thành những con người tốt, những người thiện không làm khổ mình, khổ người và chúng sinh. Con người sinh ra ở đời chắc ai cũng có những lỗi lầm, nhưng có lỗi lầm mà biết sám hối sửa sai thì sẽ trở thành người tốt. Đó là một điều xác quyết chắc chắn không sai.

ĐỨC THỨ SÁU ĐỨC BUÔNG XẢ BẰNG TRI KIẾN CÁC PHÁP VÔ THƯỜNG KHẨU HÀNH, Ý HÀNH

Đức buông xả bằng tri kiến giải thoát là phải thông suốt các pháp vô thường. Muốn thông suốt các pháp vô thường là phải có đức hạnh minh mẫn. Có đức hạnh minh mẫn mới thấy rõ ràng các pháp vô thường như thật.

Mọi người trên hành tinh này còn đang bị một lớp màn vô minh che mờ ý thức, nên không thấy các pháp vô thường như thật. Vì không thấy các pháp vô thường như thật nên lầm chấp các pháp trong thế gian này là thật có: Của cải, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, châu báu, ngọc ngà là những pháp có thật. Rồi đến thân tâm mình cũng cho là có thật, dù có chết đi nhưng tâm này vẫn còn mãi mãi không chết. Do vô minh hiểu một cách lệch lạc như vậy nên tâm sinh ra tham đắm, dính mắc không xả ly được. Do tâm tham dính mắc, không buông xả ly được nên tâm sinh ra ngũ triền cái. Ngũ triền cái gồm có: Tham, sân, si, mạn, nghi. Chính năm cái màn ngăn che này mà con người vốn mê mờ nay lại càng mê mờ hơn nữa. Càng mê mờ hơn nữa thì lại càng khổ đau.

Khi anh ta hối hận việc làm vô cùng tội lỗi với một vị tu hành nghiêm chỉnh như Gotama, càng suy ngẫm anh ta thấy tội lỗi càng nặng hơn. Gotama là một người sinh ra trong giai cấp vua chúa (Xá đế lị), bỏ ngai vàng, vợ đẹp con thơ là một việc làm ít ai làm được, vậy mà anh có những hành động vô lễ hết sức. Khi nghĩ như vậy anh đến xin lỗi, đức Phật cười và khuyên:

“Anh hãy quên chuyện đó đi. Hiện tại anh không có làm gì cả. Hai người đó đều đã chết, tất cả đã kết thúc trong quá khứ. Phật và anh là con người mới hoàn toàn”.

Lời dạy này rất tuyệt vời: “Quá khứ thì đã qua, vị lai thì chưa đến, chỉ có pháp hiện tại”.

Chỉ có pháp hiện tại, hiện tại sống thiện thì tương lai thiện và quá khứ cũng thiện. Tất cả ba thời gian đều thiện thì cuộc đời là Thiên Đàng, loài người không còn xung đột và chiến tranh nữa.

Như vậy thời gian “HIỆN TẠI” rất cần thiết cho đời sống của chúng ta. Khi chúng ta am tường Phật giáo thì nên lấy mốc thời gian “HIỆN TẠI” làm cuộc sống cho mình, cho người và cho chúng sinh. Tức là chúng ta không làm khổ cho mình, cho người và cũng không làm khổ cho tất cả các loài chúng sinh.

Không làm khổ tức là chúng ta đã buông xả sạch, buông xả sạch tức là ly dục ly ác pháp, hay nói đúng hơn là chúng ta đang tu tập trên pháp môn Tứ Chánh Cần từng phút giây ngăn ác, diệt ác pháp, và luôn luôn nhớ kỹ lúc nào cũng ở trong tâm bất động thanh thản, an vui và vô sự, đó là sinh thiện, tăng trưởng thiện pháp.

Cái thấy ở các pháp thiện trong hiện tại là cái thấy đúng không sai, cái thấy đem lại sự bình an cho mình, cho người, cho muôn loài vạn vật.

Cái thấy này thật là tuyệt vời, không còn có cái thấy nào hơn nữa được, tức là cái thấy diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác. Chính nhờ cái thấy này mà người tu sĩ Phật giáo mới làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người, nếu không có cái thấy này thì người tu sĩ Phật giáo dù có tu tập bao nhiêu pháp môn cũng không bao giờ chứng quả A La Hán. Cái thấy ấy chính là tri kiến giải thoát của Phật giáo. Xin quý vị hãy nhớ lấy lời dạy này.

Lời dạy bằng tâm huyết của đức Phật, vì thương chúng sinh như thương con một của mình.

Còn cái tánh thấy của Thiền tông và Đại thừa, cái tánh thấy của ảo tưởng (Phật tánh). Cái thấy này không làm chủ sinh, già, bệnh, chết được. Xin quý vị đừng tin theo.

Bài 40: CHIỀU SÂU CỦA SỰ CHIA SẺ

Sau khi tốt nghiệp, tôi tham gia công tác từ thiện tại địa phương. Công việc của tôi là phân phát thực phẩm cho những gia đình thật sự khó khăn.

Một buổi tối nọ, tôi nhận được tin báo từ Hội Từ Thiện: Có một gia đình có 8 đứa trẻ đang rất cần sự giúp đỡ. Họ không còn gì để ăn từ nhiều ngày qua. Tôi vội vã rời nhà, mang theo một ít gạo và thức ăn trong túi. Đó là một ngôi nhà cũ nát. Trong nhà không có một vật dụng gì đáng giá. Những đứa trẻ quần áo rách rưới, đang run lên vì đói. Nhìn những khuôn mặt vàng vọt, xám xịt lại vì thiếu ăn, tôi không thể cầm lòng được.

Tôi vội vã mở túi, dốc hết gạo và thức ăn ra, rồi thúc giục người mẹ:

- Chị hãy nấu ngay cho bọn trẻ một bữa ăn thật ngon nào! Dường như bà không nghe lời tôi nói, cũng không nhìn thấy ánh mắt nôn nóng, trông chờ của lũ trẻ, bà lập tức chia số gạo và thức ăn ra làm hai phần, để ở nhà một phần và mang phần kia chạy nhanh ra khỏi nhà.

Vài phút sau, bà quay về với vẻ mặt trông rất mãn nguyện, tôi liền hỏi:

- Chị đi đâu thế? - Tôi đem gạo sang người hàng xóm. Họ cũng đang đói như chúng tôi! Tôi thực sự ngạc nhiên trước hành động đầy nhân ái của người phụ nữ. Theo lẽ thường, khi con người đã quá khổ sở với những khó khăn, cơ cực mà mình đang nếm trải, thì sẽ ít, thậm chí không có thời gian và tâm sức để quan tâm đến người khác, cho dù họ cũng có những nỗi đau và khó khăn như mình. Nhưng trong căn nhà cũ nát này, tôi đã thấy điều ngược lại.

Tôi đã học được từ người phụ nữ nghèo khổ ấy nhiều điều ý nghĩa về tình người. Con người luôn có nhu cầu được chia sẻ, cả khi tuyệt vọng nhất hay hạnh phúc nhất. Chỉ cần như thế, nỗi đau sẽ vơi đi một nửa và niềm hạnh phúc sẽ được nhân đôi.

Hạt Giống Tâm Hồn Tập VI, trang 10

BÀI LÀM

1- Đại ý:

Bài này nói về đức hiếu sinh đa hướng thương người bằng cách san sẻ mới chính là thương mình.

2- Phân đoạn:

Bài này có 7 đoạn:

1- Sau khi tốt nghiệp, tôi tham gia công tác từ thiện tại địa phương. Công việc của tôi là phân phát thực phẩm cho những gia đình thật sự khó khăn.

2- Một buổi tối nọ, tôi nhận được tin báo từ Hội Từ Thiện: Có một gia đình có 8 đứa trẻ đang rất cần sự giúp đỡ. Họ không còn gì để ăn từ nhiều ngày qua. Tôi vội vã rời nhà, mang theo một ít gạo và thức ăn trong túi.

3- Đó là một ngôi nhà cũ nát. Trong nhà không có một vật dụng gì đáng giá. Những đứa trẻ quần áo rách rưới, đang run lên vì đói. Nhìn những khuôn mặt vàng vọt, xám xịt lại vì thiếu ăn, tôi không thể cầm lòng được.

4- Tôi vội vã mở túi, dốc hết gạo và thức ăn ra, rồi thúc giục người mẹ:

- Chị hãy nấu ngay cho bọn trẻ một bữa ăn thật ngon nào! 5- Dường như bà không nghe lời tôi nói, cũng không nhìn thấy ánh mắt nôn nóng, trông chờ của lũ trẻ, bà lập tức chia số gạo và thức ăn ra làm hai phần, để ở nhà một phần và mang phần kia chạy nhanh ra khỏi nhà.

Vài phút sau, bà quay về với vẻ mặt trông rất mãn nguyện, tôi liền hỏi:

- Chị đi đâu thế? - Tôi đem gạo sang người hàng xóm. Họ cũng đang đói như chúng tôi! 6- Tôi thực sự ngạc nhiên trước hành động đầy nhân ái của người phụ nữ. Theo lẽ thường, khi con người đã quá khổ sở với những khó khăn, cơ cực mà mình đang nếm trải, thì sẽ ít, thậm chí không có thời gian và tâm sức để quan tâm đến người khác, cho dù họ cũng có những nỗi đau và khó khăn như mình. Nhưng trong căn nhà cũ nát này, tôi đã thấy điều ngược lại.

7- Tôi đã học được từ người phụ nữ nghèo khổ ấy nhiều điều ý nghĩa về tình người. Con người luôn có nhu cầu được chia sẻ, cả khi tuyệt vọng nhất hay hạnh phúc nhất. Chỉ cần như thế, nỗi đau sẽ vơi đi một nửa và niềm hạnh phúc sẽ được nhân đôi.

3- Đáp án:

Bài này có 7 đức:

1- Đức hiếu sinh từ thiện thân hành.

2- Đức bố thí hiếu sinh ý hành, thân hành (được tin mang gạo và thực phẩm).

3- Thiếu đức hiếu sinh bố thí (nhân quả tâm keo kiệt quá khứ).

4- Đức bố thí hiếu sinh thân hành, khẩu hành (mở túi và thúc dục).

5- Đức hiếu sinh bố thí cao thượng thân hành, khẩu hành (chia số gạo và thức ăn ra làm hai phần...).

6- Một tâm hồn cao thượng hiếu sinh.

7- Một bài học đức hiếu sinh tuyệt vời.

4- Giải trình án:

ĐỨC THỨ NHẤT ĐỨC HIẾU SINH TỪ THIỆN THÂN HÀNH

Nếu cuộc đời này ai cũng được như người phụ nữ trong bài này thì đời đâu còn khổ đau nữa. Mọi người đều sống có tình người, biết thương người. Từ những người có đầy đủ phước báu, cơm ăn áo mặc dư thừa đến những người còn thiếu thốn mọi thứ, nhưng đứng trước cảnh những người bất hạnh gặp nhiều khó khăn thì họ tự nguyện, tự giác đem chia sẻ với nhau từng bát cơm, manh áo như người phụ nữ nghèo khó trong câu chuyện trên đây thì xã hội loài người hạnh phúc biết bao, vì mọi người đối xử với nhau tràn đầy tình thương yêu.

Trong đức hiếu sinh có nhiều hành động cao thượng thương người tuyệt vời. Chúng tôi xin kể lại một câu chuyện đức hiếu sinh đơn giản, nhưng làm cho mọi người đều xúc động và khó quên:

MÓN QUÀ TỪ TRÁI TIM”

Khi tôi còn là một thiếu niên, có lẽ khoảng 13 tuổi, mẹ đã dạy tôi một bài học quý giá mà tôi chẳng bao giờ quên được. Một ngày nọ, lúc chúng tôi đang mua tạp hoá ở một cửa hàng nhỏ, thì tôi để ý thấy một gia đình khác cũng vừa bước vào cửa hàng như chúng tôi.

Trông có vẻ đó là một bà mẹ, một cô con gái và một đứa cháu nhỏ. Họ trông khá tươm tất dù quần áo đã củ sờn, và rõ ràng là họ chẳng lấy gì làm giàu có cả. Họ đẩy chiếc xe đi khắp cửa hàng, cẩn thận và cân nhắc lựa chọn từng món hàng. Tôi để ý thấy hầu hết những món hàng họ mua đều là những mặt hàng tầm thường và thực phẩm thiết yếu cho một gia đình.

Mẹ và tôi mua sắm đã xong, hai bên đẩy xe hàng đi thẳng đến quầy để tính tiền. Lúc chúng tôi đến đó, gia đình nọ đã có mặt từ trước, cùng với một người khách khác đang đứng ở giữa, ngay trước chúng tôi, chờ đến lượt mình tính tiền.

Khi nhìn gia đình họ đặt hàng hóa lên băng chuyền, tôi nghe bà mẹ luôn miệng nhờ người thu ngân tính tổng số tiền khi mỗi món hàng được đưa qua máy, bởi bà cần phải dành tiền chi phí cho nhiều việc khác nữa. Việc làm này hơi mất thời gian một chút, và người khách đứng trước tôi lắc đầu tỏ ra mất kiên nhẫn thấy rõ, thậm chí bà ta còn càu nhàu những điều mà tôi đoán chắc là ai cũng có thể nghe được.

Khi cô thu ngân đưa ra tổng số tiền cuối cùng, người đàn bà nọ đã không có đủ tiền mặc dù đã lục hết các túi quần, túi áo, vì thế bà ấy trả bớt lại vài món thực phẩm đã mua. Ngay lúc ấy, mẹ tôi cho tay vào ví, lấy ra tờ 20 đô la cuối cùng của mình và trao cho người đàn bà nọ. Bà ấy tỏ vẻ rất ngạc nhiên và nói: “Tôi không thể nhận được đâu!”. Mẹ tôi nhìn thẳng vào mắt bà, khẽ đáp: “Không sao đâu, chị có thể nhận nó mà. Xin hãy xem đó như một món quà cũng được. Chẳng có món đồ nào trong chiếc xe đẩy mà chị không cần cả, vì vậy xin chị hãy vui lòng nhận”.

Người phụ nữ đó không khỏi xúc động khi nghe mẹ tôi nói chân thành như thế, bà đưa tay ra nhận lấy tờ bạc. Lúc đó, bà nắm chặt tay mẹ tôi một lúc và nước mắt lăn dài trên má, bà xúc động nói với mẹ tôi: “Cảm ơn cô rất nhiều. Cô thật tốt bụng. Trước nay chưa từng có ai đối xử với tôi tốt như thế cả! Tôi thật lòng rất biết ơn cô”.

Tôi biết mình đã rời khỏi cửa hàng với đôi mắt đỏ hoe, và đó sẽ là điều mà tôi mãi mãi gìn giữ trong lòng mình. Bạn biết không, ba mẹ tôi đã phải nuôi dạy sáu đứa con và bản thân họ cũng không lấy gì làm giàu có. Thế nhưng, tôi rất lấy làm hạnh phúc để nói rằng mình đã được thừa hưởng từ mẹ một trái tim nhân hậu.

Nhờ có mẹ, tôi đã biết sống không ích kỷ, và tôi tin rằng đi khắp thế gian này cũng không tìm được cảm giác nào tuyệt vời hơn thế đâu!”

Một việc làm từ thiện xuất phát từ lòng thương yêu những người bất hạnh trong xã hội, những người gặp những hoàn cảnh khó khăn hoặc tai nạn và bệnh tật ngặt nghèo. Vì lòng yêu thương ấy, sau khi tốt nghiệp đại học xong, người sinh viên liền xin gia nhập vào đoàn từ thiện thành phố.

Làm việc từ thiện là một việc làm có ý nghĩa cao đẹp “tình người”; là một hành động đạo đức bố thí đem tình yêu thương đến với mọi người bất hạnh trên toàn cầu mà không có ý nghĩa trao đổi “bánh sáp đi bánh qui trở lại”.

Làm việc từ thiện đó là một điều làm cho chúng ta sung sướng nhất, hạnh phúc nhất; đó là một điều nói lên từ trong trái tim của chúng ta biết chia sẻ những nỗi đau buồn với những người khác. Cho nên đức hiếu sinh bố thí từ thiện chúng ta phải tu học, trau dồi, rèn luyện cho thấm nhuần tất cả những hành động thân, miệng, ý. Nhờ đó con người của chúng ta mới trở thành những con người đức hạnh toàn diện.

Đứng trước cảnh khổ của người khác làm sao chúng ta làm ngơ được. Phải không quý vị? Nếu không làm ngơ được, chúng ta phải xông vào công việc từ thiện giúp người, an ủi người trong cơn hoạn nạn bằng cách kêu gọi mọi người, kẻ ít người nhiều cùng nhau đóng góp những vật dụng cần thiết như: quần áo, cơm gạo, rồi cùng nhau chuyển đến những nơi xảy ra cảnh màn trời chiếu đất. Những người không tiền của thì ra công hợp sức nhau dựng lại từng mái ấm tình thương, đó là những hành động tương thân tương ái lá lành đùm lá rách.

Những việc làm này nói lên tình yêu thương của mọi người với nhau trong môi trường sống trên hành tinh này. Và như vậy mới thắm đượm tình người, mới nói lên được đức hiếu sinh đa hướng từ thiện.

Trên đời này chỉ có đức hiếu sinh mới đem lại sự bình an cho mình và cho mọi người. Vì vậy, chúng ta cần phải học tập và rèn luyện đức hiếu sinh cho thấm nhuần thân hành, khẩu hành và ý hành. Nếu không học tập, trau dồi thì không sao trở thành một con người có đạo đức được.

ĐỨC THỨ HAI ĐỨC BỐ THÍ HIẾU SINH Ý HÀNH, THÂN HÀNH

Chúng tôi vừa nghe tin ở Trung Quốc động đất tại tỉnh Triết Giang, và bão tố lũ lụt ở Manyan nhà cửa sập đổ tan nát, người chết và bị thương quá nhiều. Tin tức này đã loan tin khắp nơi trên thế giới qua các thông tin truyền hình, truyền thanh và trên những trang mạng vi tính.

Từ nước này đến nước kia, mỗi người dân có tâm từ thiện, kẻ ít người nhiều cùng nhau đóng góp để gửi về cứu trợ.

Hiện giờ tình thương của con người không còn biên giới nước này nước khác. Cho nên, bất cứ một nước nào trên thế giới có tai ách, khổ nạn thiên tai lũ lụt, sóng thần, động đất, v.v.. thì mọi người trên thế giới không phân biệt màu da, thứ tóc; không phân biệt tiếng nói, sắc tộc, v.v..

họ đều tập trung, kẻ ít người nhiều tùy khả năng của mỗi người, mỗi gia đình, rồi những món quà đóng góp ấy được gửi đến cứu trợ với đầy đủ tình thương yêu từ trong trái tim của mọi người trên toàn cầu.

Đoàn từ thiện y bác sĩ Việt Nam sang Manyan đem theo dụng cụ y khoa và thuốc thang đến xứ này với tổng trị giá 100.000 USD để chích thuốc trị bệnh và ngừa bệnh cho những nạn nhân thiên tai tại xứ sở này với tình thương yêu tràn đầy tình người.

Con người hôm nay trên hành tinh này sẽ gần gũi nhau hơn nhờ những mạng thông tin, Vì thế, tình thương yêu của họ sẽ ban tặng cho nhau một cách cụ thể qua những món quà nho nhỏ, những gói trọn đầy lòng yêu thương trong đó.

Cho nên bất cứ một nước nào, khi nhân dân ở nước đó có tai nạn xảy ra thì tất cả mọi người dân trên thế giới đều gửi quà, gửi lời thăm viếng và chia sẻ những nỗi đau buồn mất mát. Những gói quà, những lời thăm viếng và những sự chia sẻ sự đau buồn đã nói lên được tình người, tình yêu thương nhân loại. Do đó, tình yêu thương của con người tràn đầy khắp nơi trên thế giới thì thế giới làm sao còn chiến tranh; thì thế giới làm sao còn có nước này đem quân đi xâm chiếm nước kia. Phải không quý vị? Thế giới không hòa bình là vì con người chưa có tình yêu thương, con người chưa có sống trong đạo đức hiếu sinh. Vì thế sự xung đột thường xảy ra hằng ngày khắp nơi, không chỗ này thì chỗ khác.

Đức hiếu sinh bố thí là do từ lòng thương yêu của những người có từ tâm, luôn luôn họ muốn giúp đỡ và chia sẻ với những người có hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh, chứ không vì “DANH” làm từ thiện; chứ không vì “SỰ NGHIỆP LÀM ĂN” mà lợi dụng từ thiện, làm giàu trên danh nghĩa nhân từ; chứ không vì một thế lực nào bắt ép làm từ thiện. Từ thiện xuất phát từ lòng yêu thương mới chính từ thiện. Làm từ thiện chính từ lòng tự nguyện, tự giác; vì lòng yêu thương.

Một câu chuyện có thật trong cuộc đời này xuất phát từ lòng yêu thương bạn:

NĂM NĂM CÕNG BẠN ĐẾN TRƯỜNG”

(Một hình ảnh đẹp của đôi bạn Bình và Phil) “Nguyễn Thái Bình, học sinh lớp 11 trường cấp 2, 3 Bình Khánh, huyện Cần Giờ - TP HCM.

Cuộc sống gia đình Bình cũng không khá giả gì, sau giờ học, em phải làm việc giúp gia đình.

Nhưng bao giờ em cũng dành thời gian cho người bạn cùng lớp thiếu may mắn Quách Văn Phil.

Nhà ở gần nhau, nên Bình luôn cố gắng sắp xếp để có thể ở bên cạnh để giúp đỡ Phil và cùng nhau học tập. Bình bảo: “Em rất thương và nể Phil. Tuy bạn ấy là người kém may mắn, nhưng không bao giờ tự ti mà luôn cố gắng học tập, sống hòa nhã và vui vẻ với mọi người”.

Còn với Phil, Bình là người bạn thân thương và chân thành nhất.

Bạn bè vẫn trêu đùa Bình là đôi chân của Phil. Quả vậy, năm 5 qua, hơn 1.000 ngày, Phil đến trường trên lưng bạn. Không những vậy, Bình còn cõng Phil đi thăm thầy cô, đến tham gia các hoạt động của lớp, cắm trại, dã ngoại...

Ngay cả việc đưa Phil vào nhà vệ sinh trong giờ lên lớp, Bình cũng đảm nhận. Phil đã như một người bạn, người em gắn bó với Bình suốt cả quãng đời học sinh. Thầy cô giáo, bạn bè trong trường cũng như những người dân xã Tam Thôn Hiệp đều biết và thường nhắc đến hình ảnh cõng bạn đến trường của Bình với cả lòng yêu thương và trân trọng”.

Tiểu Quyên

Tình yêu thương xuất từ trái tim con người, ở đây không ai bắt buộc em Bình cõng bạn, mà Bình tự nguyện vì thương bạn mà chịu khó cõng bạn suốt năm 5 liền trong tuổi học trò. Em Bình thể hiện đức hiếu sinh tuyệt vời.

Đấy là em Bình đã thực hiện ĐỨC BỐ THÍ HIẾU SINH THÂN HÀNH. Ở đời, người ta bố thí bằng tiền bạc, của cải, tài sản, cơm ăn, áo mặc, nhà ở, v.v.. nhưng có người bố thí bằng công lao, sức lực thì cũng đâu thua kém gì tiền bạc, của cải, vật chất, v.v.. như em Bình ở đây đã bố thí công sức cõng bạn đi học suốt năm năm liền.

Thật là một gương hạnh đức hiếu sinh bố thí công sức tuyệt vời, không thể lấy vàng bạc, châu báu mà sánh được! Trong đức hiếu sinh bố thí còn mang theo một đức hạnh tuyệt vời nữa, đó là ĐỨC BUÔNG XẢ. Vì thế, người biết bố thí là người biết buông xả tâm ích kỷ, hẹp hòi, bỏn xẻn; người biết bố thí là người biết lìa tâm tham, sân, si. Vì lìa tâm tham, sân, si, mạn, nghi là người ly dục ly ác pháp. Người ly dục ly ác pháp thân tâm sẽ bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Chính đó là ĐỨC HẠNH GIẢI THOÁT CỦA PHẬT GIÁO.

ĐỨC THỨ BA THIẾU ĐỨC HIẾU SINH BỐ THÍ

Nhìn cảnh thiếu trước, hụt sau là biết ngay nhân quả đời trước thiếu đức bố thí. Người thiếu đức bố thí là người sống ích kỷ, bỏn xẻn, hẹp hòi, v.v... Họ chỉ biết lo cho cá nhân của mình, muốn cho mọi thứ, mọi vật trên đời này đều dồn về cho mình, chỉ một mình mình giàu có, còn ai nghèo khổ mặc kệ. Lòng tham muốn của con người giống như chiếc túi không đáy, đựng không bao giờ đầy. Vì thế, lòng ham muốn không bao giờ đạt được thỏa mãn. Vả lại, chúng ta ai cũng biết, ngoài lòng tham muốn của chúng ta, còn có luật nhân quả. Nhưng luật nhân quả có cho phép chúng ta làm thỏa mãn lòng ham muốn đó không? Chắc là không, vì lòng ham muốn của chúng ta là túi không đáy. Túi không đáy làm sao đầy được. Phải không quý vị? Khi còn lòng dục tham muốn thì tâm tạo tác biết bao nhiêu là ác pháp. Do tạo tác các ác pháp nên phải trả những quả ác, như ích kỷ, bỏn xẻn, tham lam, trộm cắp, lấy của không cho thì trả quả phải bị thiên tai sóng thần, bão tố, động đất, hỏa hoạn, lũ lụt, nước trôi, v.v... Do sống trong ác pháp làm ra của cải, tài sản, nên của cải, tài sản ấy phải bị tiêu tan, mất trắng tay. Như vậy, không bao giờ làm thỏa lòng ham muốn được.

Lòng dục ham muốn càng cao thì lại càng nghèo đói hơn. Cho nên chúng ta phải biết xả lòng tham muốn. Xả lòng ham muốn tức là khi chúng ta có một cái gì để sống liền đem chia sẻ cho người nghèo đói như mình. Một người đang nghèo đói, nhưng khi được những nhà từ thiện bố thí thực phẩm liền san sẻ chia làm đôi, đem bố thí cho người khác cùng trong cảnh ngộ như mình.

Những người nghèo mà làm được những điều này chắc chắn những người này sẽ giàu lòng yêu thương mình và yêu thương người.

Nếu trên đời này ai thực hiện được như vậy là người giàu có nhất. Giàu lòng yêu thương.

Người giàu lòng yêu thương là người được đầy đủ hơn, cơm ăn áo mặc không còn thiếu nữa.

Như vậy, đức hiếu sinh bố thí thật là tuyệt vời, luôn đem lại sự bình an cho mình và cho mọi người. Vì thế làm người chúng ta nên học hỏi và trau dồi, rèn luyện đức hạnh này.

ĐỨC THỨ TƯ ĐỨC BỐ THÍ HIẾU SINH THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH

Hành động trên đây của một người mẹ nghèo san sẻ của bố thí cho người khác nghèo như mình. Trong khi cả gia đình mình đang đói khổ mà dám phân chia sự sống của mình cho người khác. Đó là một hành động bố thí trên bố thí, những con người này đã biết buông xả bằng đức hiếu sinh “Thương mình, thương người” như cụ Nguyễn Trãi đã dạy:

Thương người như thể thương thân

Thấy ai đói rét thì thương

Rét thường cho mặc

Đói thường cho ăn”

Lời dạy trên đây là lời dạy chúng ta nên sống với đức hiếu sinh bố thí. Người có lòng bố thí giúp người thì không bao giờ đói khổ, cơm ăn áo mặc dư thừa. Đó là luật nhân quả, nếu sống đức hạnh thì đức hạnh sẽ chuyển quả khổ thành quả yên vui.

Theo quy luật nhân quả thì con người ai cũng có lòng tham dục, nhưng người nào có đức hiếu sinh từ trong lòng từ ái thì tâm tham dục của họ được làm giảm đi rất nhiều. Do đức hiếu sinh lòng từ ái mới biết thương người, thương mình, vì có thương mình thương người nên thấy ai hoạn nạn bất hạnh thì sẵn lòng thương giúp đỡ.

Giúp đỡ bằng công sức hay tiền của, cơm ăn, áo mặc. Tất cả những hành động giúp người như vậy đều gọi là đức bố thí. Cho nên đức bố thí là phương cách thức thể hiện lòng yêu thương.

Khi thấy ai biết bố thí cho người khác là biết người ấy thương mình, thương người. Nhưng chính vì biết thương mình, thương người khác, đó mới thật sự thương mình. Còn cứ nghĩ thương mình mà cứ lo gom góp mọi thứ vào cho mình, còn ai khổ mặc kệ ai, ai đói cũng không cần biết tới. Do không cần biết đến cuộc sống của mọi người nên đã tự làm khổ mình, biến mình trở thành những con người vô đạo đức.

Người ích kỷ, bỏn xẻn lúc nào cũng nơm nớp sợ mọi người sẽ trộm cắp, cướp lấy hay chiếm đoạt của cải, tài sản của mình. Vì thế, người có của cải giàu sang cũng khổ. Khổ vì sợ hao mất tài sản nên ăn không ngon, ngủ không yên giấc; khổ vì phải nghĩ ngợi trăm mưu ngàn kế để làm ra tiền của; khổ vì phải sinh lòng gian tham, dối trá, lừa đảo trăm muôn vạn người để thu tóm danh lợi về một mình.

Người giàu sang biết chia sẻ, giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh trong xã hội thì của cải tài sản không bao giờ hết, không cần giữ gìn cũng không bao giờ mất mát, vì nhân bố thí, nên quả phải giàu sang. Còn người giàu sang mà tính tình bỏn xẻn ích kỷ, không dám bố thí cho ai một đồng một cắc thì của cải sẽ không giữ gìn trọn vẹn. Tại sao vậy? Vì người giàu sang ích kỷ, bỏn xẻn, keo kiệt là người chưa xả lòng tham lam. Chưa xả lòng tham lam là nhân nghèo đói. Hiện giờ giàu sang nhưng không giữ gìn sự giàu sang được bền lâu đâu, đến khi phước báu hết thì của cải sẽ theo con cái hư phá tán, ăn chơi, bài bạc hoặc bệnh tật mà đi sạch, ruộng vườn cũng không còn, trở thành những người nghèo đói.

Đây là một câu chuyện bố thí để nhắc nhở chúng ta, khi bố thí rồi thì không nên ân hận; không nên tiếc rẻ, dù chúng ta bị kẻ khác lừa đảo. Thà bị người lừa đảo còn hơn bỏ qua khi gặp một người có hoàn cảnh khó khăn hoặc có tai nạn, bệnh tật ngặt nghèo cần nên giúp đỡ.

“TIỀN LẺ” là tựa đề của một câu chuyện xảy ra để nhắc nhở chúng ta lúc thực hiện đức hiếu sinh bố thí để thân tâm được thanh thản, an lạc và vô sự. Khi đã bố thí giúp người rồi thì không nên hối tiếc, dù bị người khác lừa đảo:

Trong suy nghĩ của tôi, những người ăn xin luôn tự bịa ra những câu chuyện cực kỳ thuyết phục đến nỗi bạn không thể biết được đâu là thật, đâu là giả. Sau vài lần bị mắc lừa, tôi thật sự bực mình, không phải vì mất mấy đồng tiền lẻ đó mà vì tôi cảm thấy mình giống như một thằng ngốc vậy. Từ đó, tôi tự nhủ sẽ không bố thí cho ai một xu nào nữa.

Ngày nào trên đường đi làm, tôi cũng ghé mua một tách cà phê cappuccino, và lần nào người ta cũng thối lại cho tôi vài đồng tiền lẻ.

Hôm đó, khi tôi chuẩn bị cất những đồng tiền lẻ vào ví thì có một người đàn ông tiến về phía tôi và nói: “Thưa ông, tôi đang trên đường về nhà thì xe bị hết xăng. Chiếc xe của tôi đậu cách đây bốn dãy nhà, và có hai đứa bé đang chờ tôi trong xe. Nếu có thể ông làm ơn...” Nghe thế, tôi bực mình lẩm bẩm: “Lại nữa!”, nhưng rồi vẫn đưa ông ta 10 đô la. Tôi ngồi lại uống hết tách cà phê của mình rồi trở ra xe. Bỗng tôi thấy người đàn ông lúc nãy vội vàng chạy đến, mỉm cười thật tươi: “Rất cám ơn ông, tôi đã đổ đủ xăng để về đến nhà và vẫn còn dư đây 2 đô la để trả lại ông. Ngày mai, tôi sẽ đến gửi trả 8 đô la còn lại cho ông”.

Ở hàng phía sau, hai đứa bé con ông in mũi vào tấm kính xe, trao cho tôi nụ cười thơ ngây.

Cầm hai tờ bạc trong tay, tôi cảm thấy mình như người có lỗi. Từ ngày đó trở đi, tôi không bao giờ còn cảm thấy phiền hà khi có ai đó nhờ giúp đỡ, và tôi cũng luôn cố hết sức có thể để chia sẻ cùng họ trong khó khăn”.

Theo Spare Change (Ngọc Khanh)

Câu chuyện trên đây cũng là một câu chuyện nói đến tâm trạng chung của những ai có lòng thương người, biết bố thí để chúng ta an tâm khi bố thí chia sẻ với những ai gặp hoàn cảnh khó khăn, dù chúng ta có bị kẻ khác lừa đảo lường gạt.

Mặc dù chúng ta có bị lường gạt, nhưng chúng ta đừng nên nghĩ mình bị lường gạt, mà nên nghĩ chúng ta đã giúp cho người bất hạnh là đủ. “Có một cậu sinh viên đến bệnh viện thăm người thân, vừa đến bệnh viện có một người chạy ra xin tiền cậu: “Cậu ơi, cậu hãy giúp cho con tôi 500 đồng để đóng tiền vào phòng cấp cứu, nếu không có thì con tôi phải chết”. Không do dự, cậu sinh viên móc túi đưa cho bà ta 500 đồng. Bà ta cám ơn rối rít và chạy vào bệnh viện.

Lúc bấy giờ, có người nói với cậu sinh viên nọ: “Cậu bị gạt rồi! Có đứa trẻ nào cấp cứu đâu”.

Cậu sinh viên trả lời: “Như vậy cháu rất mừng là không có đứa trẻ nào chết”. Mục đích của cháu là cứu giúp cho em bé thoát chết, và bây giờ không có em bé nào chết là mục đích của cháu đã đạt được. Đó là nỗi mừng thật sự của cháu”.

Với tinh thần yêu thương bố thí là phải nghĩ đến sự cứu giúp người thoát khổ, chứ đừng nghĩ chúng ta bị người khác lừa gạt, mà hãy nghĩ rằng chúng ta giúp người thoát khổ là mình vui mừng.

Cậu sinh viên này có một tri kiến hiếu sinh bố thí tuyệt vời, không bao giờ nghĩ rằng mình bị người khác lừa gạt, mà chỉ biết không có em bé nào chết là mãn nguyện.

Với sự sống của em bé mới có giá trị lớn, còn 500 trăm ngàn đồng của cậu sinh viên chỉ tượng trưng cho tình thương của cậu mà thôi.

Lòng yêu thương bố thí cứu người thoát chết, thoát khổ là mục đích, nên khi biết người khác đang khổ là chúng ta giúp đỡ ngay liền, chứ không chần chờ, đắn đo, suy tư hơn thiệt sợ bị lường gạt hay không bị lường gạt. Người khác lường gạt mình là vay nợ mình, kiếp này không trả thì kiếp sau cũng phải trả. Luật nhân quả không ai trốn đâu cho khỏi. Vì thế bất cứ thấy bất hạnh khổ đau thì nên sẵn sàng giúp đỡ với lòng thương yêu.

Người gian xảo lường gạt không thể qua mắt được người có trí tuệ. Nhờ có trí tuệ và tình thương thì không ai dám lường gạt chúng ta được. Vì thế, chúng ta không sợ bị lường gạt.

Nhưng khi đã bố thí xong thì chỉ biết giúp người thoát khổ, chứ không nên nghĩ mình bị lường gạt. Khi làm một việc từ thiện như bố thí tiền của hay công sức của mình thì chúng ta nên tin rằng sẽ có những người được an ủi trong hoàn cảnh khổ; sẽ có những người thoát chết, thoát nạn, v.v...

Đó là mục đích của việc làm từ thiện bố thí do đức hiếu sinh. Đức hiếu sinh bố thí mới thực sự là làm việc từ thiện, còn ngoài ra, làm việc từ thiện coi chừng mình sẽ lợi dụng danh từ “từ thiện” để làm một việc khác, một việc làm “danh và lợi”. Cho nên quý vị phải nhớ: Làm việc từ thiện phải xuất phát từ đức hiếu sinh.

ĐỨC THỨ NĂM ĐỨC HIẾU SINH BỐ THÍ CAO THƯỢNG THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH

Đức hiếu sinh bố thí cao thượng là một hành động bố thí thân mạng mình để cứu người trong cơn hoạn nạn, v.v... Trong cảnh nghèo đói, nhưng lại biết san sẻ từng sự sống của mình cho người khác thì đó là đức hiếu sinh bố thí cao thượng.

Trong lúc đang nguy kịch, Hoàng Văn Trọng và một số bạn nam đã không ngần ngại lao ra dòng nước dữ cứu các bạn nữ cùng lớp bị sóng cuốn, lún cát; có người may mắn thoát nạn, nhưng có người ra đi mãi mãi, để lại vô vàn thương tiếc... của mọi người. Chúng ta hãy đọc bài: “ANH HÙNG NHỎ TUỔI” trên báo Thanh Niên và Cuộc Sống số 124, Thứ bảy 03/5/2008, tác giả Trương Quang Nam:

Vào 14 giờ ngày 18/02/2007, em Hoàng Văn Trọng và một số bạn cùng lớp rủ nhau đi chơi Tết và chụp ảnh. Để có những tấm hình đẹp, các bạn cùng rủ nhau ra biển lấy vỏ sò, vỏ ốc kết lại và cùng tắm biển tại thôn Bắc Hòa, xã Ngư Thủy Bắc. Nhưng sự việc đáng tiếc không may đã xảy ra, một số bạn nữ trong lúc tắm bị sóng cuốn, lún cát hoảng loạn kêu cứu. Nghe tiếng các bạn kêu cứu, Hoàng Văn Trọng và một số bạn nam nhanh chóng lao về các bạn nữ gặp nạn. Sau một thời gian vật lộn với sóng lớn và cát lún. Hoàng Văn Trọng đã cứu được một nữ vào bờ an toàn và tiếp tục quay ra để cứu tiếp các bạn khác. Nhưng vì đuối sức, lại thêm cát lún và những đợt sóng lớn đã cướp đi sự sống khi em vừa mới 14 tuổi”.

Một tấm gương anh hùng tuổi nhỏ dám hy sinh bố thí thân mạng mình cứu người trong khổ ải. Thật đáng ca ngợi, khen tặng “anh hùng nhỏ tuổi mà gan dạ”.

Trước cảnh khổ của người khác, lúc bấy giờ lòng thương yêu dâng lên cao độ, chúng ta quên mình nên mới dám xông pha vào sóng dữ, gió to để cứu người chết đuối; mới dám xông vào lửa bỏng, nước sôi để cứu người chết cháy. Hành động xông pha vào chỗ hiểm nguy cũng giống như những người lính xông vào trận mạc, vì muốn bảo vệ tổ quốc quê hương; vì thương yêu nòi giống, nên xông pha vào trận mạc, dám hy sinh thân mạng trước lằn tên mũi đạn để cứu dân, cứu nước thoát khỏi ách cai trị nô lệ của ngoại bang. Đó là những người dùng hạnh bố thí thân mạng cho tổ quốc quê hương mà lịch sử còn ghi danh mãi mãi muôn đời muôn kiếp.

Trong bài học trên đây là đức hiếu sinh bố thí trên hạnh bố thí. Khi cả gia đình mình đang trong cơn đói khổ, nhưng khi có được phần bố thí của người khác đem cho. Lúc bấy giờ lại dám đem phần bố thí ấy ra phân chia làm hai, cho người nghèo đói khác, thì người phụ nữ này đang thực hiện đức hạnh bố thí trên đức hạnh bố thí. Đó là một hành động biết thương mình, thương người, ít ai làm được. Nếu trên đời này ai cũng có tấm lòng biết chia sẻ như vậy thì thế gian này tốt đẹp biết bao! Cho nên đạo đức hiếu sinh bố thí rất cần thiết cho mình, cho người, cho các loài thú vật đang sống trên hành tinh này. Trong một xã hội mà mọi người ai cũng đều biết quý trọng sự sống của mình như quý trọng sự sống của người khác và của muôn loài thú vật khác, thì cuộc sống này là Thiên Đàng, Cực Lạc.

Con người chỉ có sống với đức hạnh hiếu sinh bố thí thì con người mới biết san sẻ cho nhau từng sự sống. Nhờ có những hành động này mà thế giới loài người sẽ không còn xung đột và chiến tranh nữa.

Bởi vậy, cuộc sống của loài người trên hành tinh này chỉ có đạo đức hiếu sinh là quan trọng trên hết. Một con người mà không đạo đức, dù là người có tài giỏi, nhưng tài giỏi ấy sẽ không làm lợi ích cho cuộc đời mà còn làm khổ đau cho đời nhiều hơn. Ngược lại, một người không có tài mà có đức thì xã hội này mọi người đối xử với nhau bằng đạo đức thương yêu, đùm bọc, san sẻ, tha thứ, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, v.v... thì sẽ đem lại sự an vui, hạnh phúc cho nhau. Đức hiếu sinh bố thí rất quan trọng cho đời sống của loài người và loài vật, xin quý vị cố gắng rèn luyện nhân cách của mình để mình trở thành là con người hiếu sinh.

ĐỨC THỨ SÁU MỘT TÂM HỒN CAO THƯỢNG HIẾU SINH

Một người có tâm hồn cao thượng là người luôn sống với đức hiếu sinh. Khi sống với đức hiếu sinh thì họ luôn luôn sẵn sàng dám hy sinh thân mạng mình cho sự sống của người khác, dù gặp bao nhiêu gian khổ họ cũng không bao giờ chùn bước hoặc từ nan trước những sự khó khăn và gian khổ.

Một câu chuyện dưới đây, “MỘT NGƯỜI VÌ MỌI NGƯỜI”, để chứng minh cho chúng ta thấy sự dũng cảm gan dạ, trước cái chết người ta vẫn coi thường, xem sự sống của mình nhẹ nhàng như lông hồng. Người dám hy sinh như vậy là người có một tình yêu thương rộng lớn, thấy sự sống của mọi người rất quan trọng. Chỉ có những người xem tiền bạc, châu báu là trên hết, nên mới giết người cướp của mà chẳng chút lòng thương xót. Ngược lại, những người biết quý trọng sự sống trên đời này, xem như không có một vật gì quý báu hơn, thì mới dám hy sinh thân mạng sống của mình, chỉ vì có một ước mong là làm sao cho mọi người được sống bình an, yên vui. Chính vì sự sống bình an, yên vui của mọi người thì mình mới có sự sống yên vui, an ổn chân thật cho mình. “Người vui mình mới có vui, người buồn mình có vui đâu bao giờ”.

Điều này có đúng không quý vị? Những người sống vì mọi người là những người biết đặt tình yêu thương lên hàng đầu trong cuộc sống. Vì biết yêu thương mọi người nên đời sống của mình mới được bình an, yên ổn.

Đây là câu chuyện do một vị linh mục cao tuổi kể lại vào một ngày chủ nhật. Đó là một câu chuyện có thật xảy ra khi ông còn phục vụ trong quân ngũ:

Một ngày nọ, vị trung sĩ huấn luyện cho doanh trại của ông bất thình lình ném một quả thủ pháo vào một nhóm lính trẻ. Tất cả những người lính đó đều bỏ chạy, sau đó vị trung sĩ từ tốn nói rằng: Quả lựu đạn thật ra không được cài kíp nổ, và ông làm vậy chỉ để xem phản ứng của họ như thế nào mà thôi.

Ngày hôm sau, có một tân binh gia nhập vào nhóm lính đó. Vị trung sĩ huấn luyện yêu cầu những người lính không được nói với anh lính mới này về những gì sắp xảy ra. Khi trung sĩ ném quả lựu đạn vào nhóm lính, người lính mới đó không hề biết rằng nó sẽ không nổ, anh đã dũng cảm lao vào đè lên quả lựu đạn trong lòng để ngăn không cho nó gây thương tổn đến những người khác. Anh ấy sẵn sàng hy sinh vì đồng đội của mình.

Năm đó, người lính trẻ ấy được trao tặng huân chương cao quý duy nhất cho lòng can đảm và tinh thần quả cảm của mình, đó là tấm huân chương chưa một ai từng nhận được trong những cuộc chiến trước đó”.

Một tấm gương dũng cảm dám hy sinh bố thí thân mạng của mình để cho mọi người thoát chết. Những người làm được những điều này đều là những người sống với một tâm hồn cao thượng hiếu sinh bố thí thân mạng. Một hành động dũng cảm gan dạ mà ít có người làm được.

Bởi vậy, những ai làm được điều này chúng ta đều nên kính phục và tôn trọng lòng dũng cảm đức hiếu sinh cao thượng bố thí vĩ đại.

Chúng ta làm người cần phải tập những gương hạnh hiếu sinh bố thí cao thượng này để xứng đáng là một con người.

ĐỨC THỨ BẢY MỘT BÀI HỌC ĐỨC HIẾU SINH TUYỆT VỜI

Nói về đạo đức trong cuộc đời này thì không có đạo đức nào hơn “ĐỨC HIẾU SINH”.

Bởi vậy con người chỉ cần đào tạo đạo đức hiếu sinh cho họ thì xã hội này không còn xung đột và chiến tranh nữa như trên đã nói.

Bởi con người sinh ra từ TÌNH THƯƠNG, được nuôi dưỡng lớn lên trong TÌNH THƯƠNG, và muốn có cuộc sống được an vui không làm khổ mình, khổ người thì phải duy trì sự sống bằng TÌNH THƯƠNG.

Chính tình thương mới đem lại hạnh phúc an vui cho con người, cho nên mỗi hành động trong cuộc sống hằng ngày phải thực hiện bằng tình thương. Nếu ai đi ngược lại là người ấy đã tạo sự khổ đau cho mình, cho người ngay liền.

Hành động TÌNH THƯƠNG nhiều khi người ta thường sống với nó, nhưng không mấy khi lưu ý. Thường người ta lưu ý khi người ta nói:

“TÔI THƯƠNG”. Nhưng sự thật lời nói: “tôi thương”, chưa hẳn là “tôi thương”. Vì lời nói “tôi thương” nhưng liền đó lại có thể hai người cãi cọ chửi mắng nhau như trâu trắng, trâu đen .

Cho nên trên đời này chỉ có tình thương bằng hành động mới chân thật, tuy không nói ra lời THƯƠNG YÊU, nhưng tình THƯƠNG YÊU rất thấm thía như câu chuyện

SỢI TÓC TRONG HỘP CƠM”.

Trong những năm tháng gian khổ đó, rất nhiều học sinh ngay đến khả năng mang những món cơm hộp giản tiện nhất trông chẳng ra hồn để đến trường học cũng không có, bạn học ngồi cạnh tôi chính là như vậy. Thức ăn của cậu ta mãi mãi là đậu xị, đen xì, còn cơm hộp của tôi thì thường mang giăm bông và trứng ốp lết. Sự khác biệt của hai người quả là một trời, một vực. Hơn nữa, bạn học này mỗi lần ăn đều nhặt các sợi tóc ở trong cơm hộp trước, rồi mới ăn như không có gì xảy ra. Tôi thấy việc này vẫn kéo dài mãi, ngày này sang ngày khác không có gì thay đổi.

Có thể nói là mẹ cậu ta rất luộm thuộm, cho nên trong cơm hằng mang đi đều có tóc”.

Các bạn học sinh đều bàn tán vụng trộm.

Có một hôm nhà trường nghỉ học, bạn học sinh đó mời tôi: “Nếu bạn không bận việc gì, xin mời đến nhà mình chơi”.

Tuy trong lòng không muốn lắm. Song từ ngày vào học cùng lớp, đây là lần đầu cậu ta mời tôi tới nhà chơi, cho nên tôi không nỡ từ chối .

Theo bạn đến thôn nghèo nơi địa hình dốc núi dựng đứng ở vùng núi ngoại thành.

Mẹ, con đưa bạn đến chơi đây nè!”. Sau khi nghe thấy tiếng nói phấn khởi của bạn tôi, cửa buồng mở ra. Bà mẹ già cả của cậu ta đã xuất hiện ở cửa.

Anh bạn của con tôi đến rồi à! Để tôi xem nào”. Nhưng mẹ bạn tôi ra khỏi cửa buồng, cứ dùng tay sờ sờ chiếc cột bức tường ở ngoài cửa.

Hóa ra bà ta là một người bị mù cả hai mắt.

Tôi cảm thấy xúc động mắt cay cay, không nói được lời nào. Thức ăn trong suất cơm hộp của bạn tôi, tuy mỗi ngày thường chỉ là đậu xị, song là do người mẹ mắt mù không nhìn thấy, cẩn thận giúp cậu sửa soạn cơm hộp. Đó không chỉ là suất cơm trưa, mà đó còn là tấm lòng đầy yêu thương của người mẹ, thậm chí việc lẫn sợi tóc vào trong đó cũng không sao, nó vẫn là tình yêu của người mẹ”.

Tình thương yêu không lời, không ranh giới, nó thực hiện bằng đức hiếu sinh. Cho nên người biết sống với đức hiếu sinh là người biết thương mình, thương người và thương tất cả những loài chúng sinh khác. Bởi đức hiếu sinh rất tuyệt vời, luôn luôn đem lại sự bình an, yên vui cho mọi người.

Đức hiếu sinh rất tuyệt vời mà trong tất cả mọi người ai ai cũng đều có, chỉ vì mọi người chưa có dịp thực hiện đức hạnh đó mà thôi.

Dưới đây là một câu chuyện có thật bằng tình yêu thương hiến máu của mọi người giúp cháu Lê Hầu Minh Quân thoát bệnh hiểm nghèo:

TRÁI TIM CON TÔI ĐÃ ĐẬP LẠI TỪ MÁU BẠN ĐỌC GẦN XA!”

Báo pháp luật TP.HCM ra ngày 27/4 có bài “Thông Điệp Xanh Từ Blog”, thông tin về bệnh trạng của bé Lê Hầu Minh Quân, con của anh Lê Minh Nghĩa (phóng viên báo Giao Thông Vận Tải), mắc bệnh tim bẩm sinh, cần phẫu thuật gấp. Bé Quân thuộc nhóm máu AB, một nhóm máu hiếm, cần bốn người có cùng nhóm máu tương thích để tiếp máu cho cháu trong quá trình phẫu thuật.

Anh Nghĩa tải thông tin lên mạng qua blog của một người bạn. Sau đó chưa đầy 48 giờ, nhiều người trong cộng đồng blogger đã tình nguyện hiến máu để giúp bé Quân. Kết quả xét nghiệm nhóm có bốn người cho máu, trong đó có chị Nguyễn Thị Bình An, thư ký toà soạn báo Pháp Luật TP.HCM. Sau ca phẫu thuật, trình trạng sức khoẻ của bé Quân phát triển khá tốt.

Cha cháu viết thư cám ơn gửi Báo: “Tôi thật sự xúc động sau khi gửi thông tin cầu cứu nhóm máu AB trên mạng, các anh chị phóng viên, biên tập viên của báo Pháp Luật TP.HCM đã tự nguyện đến Viện Tim TP.HCM xin được thử máu. Có chị còn kêu gọi cả chồng và những người thân đến hiến máu. Tôi nhớ rất rõ gương mặt chị Bình An vẫn cười tươi dù sắc mặt rất xanh xao khi được rút đi một đơn vị máu và nếu cần, chị sẵn sàng hiến tiếp. Phóng viên Q.V và T.N viết bài, có rất nhiều bạn đọc tận Hà Nội, Bình Thuận sẵn sàng vào TP.HCM cho máu bé Quân. Ca phẫu thuật ngày 28/5 thành công và đủ máu AB. Trái tim đau đớn của con trai đầu lòng tôi đã nhịp đập trở lại bằng những giọt máu quý giá của bạn đọc gần xa”...

PV báo Pháp Luật Thành Phố Hồ Chí Minh Xã Hội. Ngày 27/6/2007.

Còn biết bao hành động đức hiếu sinh đã để lại cho đời những tấm gương đạo đức cao thượng mà mọi người ai cũng có thể làm được, chỉ chúng ta có thật lòng thương yêu hay không.

Nếu thật lòng yêu thương với nhau thì trên đời này làm sao còn khổ đau nữa. Phải không quý vị? Đức hiếu sinh là một đức hạnh tuyệt vời, chúng tôi kêu gọi mọi người trên hành tinh này hãy cùng nhau học tập, rèn luyện đức hiếu sinh cho thấm nhuần, để thân tâm mình trở thành một thói quen luôn luôn biết thương mình, thương người và thương các chúng sinh. Nhờ đó chúng ta mới tìm thấy sự an vui và hạnh phúc chân thật của kiếp làm người. Chỉ có đức hiếu sinh chúng ta mới yêu thương nhau chân thật; chúng ta mới tha thứ cho nhau mọi lỗi lầm. Có như vậy thế gian này mới không còn xung đột và chiến tranh nữa.

Bài 41: CHIA SẺ SỰ BÌNH DỊ

Tôi đứng xếp hàng ở bưu điện để mua tem gửi thư, ngay sau tôi là một phụ nữ với hai đứa con còn rất nhỏ. Hai đứa nhỏ khóc lóc, không chịu đứng yên trong hàng. Bà mẹ trông mệt mỏi và nhếch nhác như mấy đứa trẻ. Thấy thế, tôi liền nhường chỗ của tôi cho bà. Bà cảm ơn tôi rồi vội vã bước lên...

Chỉ còn vài phút nữa là đến giờ đóng cửa.

Dòng người xếp hàng chậm chạp nhích từng bước một. Và nhân viên bưu điện đã thông báo đóng cửa ngay sau khi đến lượt người phụ nữ đó, tức là trước tôi. Điều đó có nghĩa hôm nay tôi không thể gửi thư được, chỉ vì tôi đã nhường cho người phụ nữ đó xếp hàng trước mình.

Tôi cảm thấy thật sự rất bực mình và hối hận vì đã nhường chỗ của mình cho người khác. Tôi lại càng khó chịu hơn khi nghĩ đến việc phải quay trở lại vào ngày mai. Chợt người phụ nữ quay sang tôi và nói: “Tôi cảm thấy rất ngại! Chỉ vì nhường chỗ cho tôi mà cô lại gặp khó khăn như vậy. Cô biết không, nếu hôm nay tôi không gửi phiếu thanh toán tiền gas, thì công ty điện và gas sẽ cắt hết nguồn sưởi ấm của gia đình tôi”.

Tôi sững người, không ngờ rằng chỉ đơn giản bằng một hành động nhường chỗ của mình, tôi đã giúp người phụ nữ ấy và hai đứa trẻ qua một đêm giá rét. Tôi rời khỏi bưu điện với niềm vui trong lòng. Tôi không còn cảm giác khó chịu khi nghĩ đến việc phải lái xe đến bưu điện, tìm chỗ đậu xe và đứng xếp hàng nữa, mà thay vào đó là cảm giác thanh thản, phấn chấn.

Kể từ ngày hôm đó, tôi cảm thấy được sự quan tâm của mình đến với mọi người có giá trị như thế nào. Tôi bắt đầu biết quên mình đi và chia sẻ với người khác, vì tôi nhận ra, đôi khi chỉ một cử chỉ nhỏ, bình dị của mình cũng có thể làm ấm lòng, làm thay đổi hoặc tạo nên sự khác biệt và ý nghĩa cho cuộc sống của một người khác.

NGỌC KHANH

Theo Keeping The Heat On

Đọc bài này quý vị nghĩ sao? Riêng tôi rất xúc động, một hành động rất đơn giản nhưng mang lại một tình thương cao thượng vô cùng.

Nhường chỗ giúp cho người là đã đem lại sự bình an, yên vui cho người thì hạnh phúc an vui nào bằng, khi chúng ta đã thực hiện. Chính điều này đã xả tâm ích kỷ bỏn xẻn của chúng ta.

Một hành động bình dị, đơn giản ai cũng có thể làm được, nhưng nó nói lên được một tình yêu thương của chúng ta đối với mọi người thật tuyệt vời.

BÀI LÀM

1- Đại ý:

Bài này nói lên một cử chỉ nhỏ, rất bình dị đơn giản mà ai cũng có thể làm ấm lòng, làm thay đổi hoặc tạo nên sự khác biệt cho cuộc sống của người khác.

2- Phân đoạn:

Bài này có 8 đoạn:

1- Tôi đứng xếp hàng ở bưu điện để mua tem gửi thư, ngay sau tôi là một phụ nữ với hai đứa con còn rất nhỏ. Hai đứa nhỏ khóc lóc, không chịu đứng yên trong hàng. Bà mẹ trông mệt mỏi và nhếch nhác như mấy đứa trẻ.

2- Thấy thế, tôi liền nhường chỗ của tôi cho bà. Bà cảm ơn tôi rồi vội vã bước lên...

3- Chỉ còn vài phút nữa là đến giờ đóng cửa. Dòng người xếp hàng chậm chạp nhích từng bước một. Và nhân viên bưu điện đã thông báo đóng cửa ngay sau khi đến lượt người phụ nữ đó, tức là trước tôi. Điều đó có nghĩa hôm nay tôi không thể gửi thư được, chỉ vì tôi đã nhường cho người phụ nữ đó xếp hàng trước mình.

4- Tôi cảm thấy thật sự rất bực mình và hối hận vì đã nhường chỗ của mình cho người khác.

Tôi lại càng khó chịu hơn khi nghĩ đến việc phải quay trở lại vào ngày mai.

5- Chợt người phụ nữ quay sang tôi và nói:

Tôi cảm thấy rất ngại! Chỉ vì nhường chỗ cho tôi mà cô lại gặp khó khăn như vậy. Cô biết không, nếu hôm nay tôi không gửi phiếu thanh toán tiền gas, thì công ty điện và gas sẽ cắt hết nguồn sưởi ấm của gia đình tôi”.

6- Tôi sững người, không ngờ rằng chỉ đơn giản bằng một hành động nhường chỗ của mình, tôi đã giúp người phụ nữ ấy và hai đứa trẻ qua một đêm giá rét.

7- Tôi rời khỏi bưu điện với niềm vui trong lòng. Tôi không còn cảm giác khó chịu khi nghĩ đến việc phải lái xe đến bưu điện, tìm chỗ đậu xe và đứng xếp hàng nữa, mà thay vào đó là cảm giác thanh thản, phấn chấn.

8- Kể từ ngày hôm đó, tôi cảm thấy được sự quan tâm của mình đến với mọi người có giá trị như thế nào. Tôi bắt đầu biết quên mình đi và chia sẻ với người khác, vì tôi nhận ra, đôi khi chỉ một cử chỉ nhỏ, bình dị của mình cũng có thể làm ấm lòng, làm thay đổi hoặc tạo nên sự khác biệt và ý nghĩa cho cuộc sống của một người khác.

3- Đáp án:

Bài này có 8 đức:

1- Luật nhân quả nghiệp báo thân hành, ý hành.

2- Đức hiếu sinh nhường chỗ thân hành.

3- Đức hiếu sinh duyên nghiệp báo nhân quả thân hành.

4- Thiếu đức hiếu sinh nhường chỗ ý hành.

5- Đức tri ân hiếu sinh khẩu hành.

6- Đức hiếu sinh nhường chỗ thân hành có giá trị không phải nhỏ.

7- Đức hoan hỷ nhường chỗ hiếu sinh ý hành.

8- Đức quên mình quan tâm đến người hiếu sinh ý hành.

4- Hướng dẫn giải trình án:

Hướng dẫn giải trình án là chỉ dẫn làm những bài luận văn về đạo đức hiếu sinh mà đầu đề là tám đoạn trong bài học đã được phân chia rành rọt, các tu sinh phải tự làm lấy cho đầy đủ nghĩa lý thâm sâu của đạo đức hiếu sinh cá nhân, gia đình và xã hội. Nếu làm chưa đủ ý nghĩa trên đã hướng dẫn thì bài luận văn chưa hoàn chỉnh.

Phải ghi nhớ những lời hướng dẫn trên đây để cố gắng triển khai tri kiến giải thoát. Vì cuộc đời tu hành theo Phật giáo duy nhất chỉ có tri kiến hiểu biết giới luật đức hạnh thì tâm mới ly dục ly ác pháp, còn không có tri kiến giải thoát thì tâm không bao giờ giải thoát, vì thế tu hành chỉ còn ức chế tâm mà thôi.

5- Giải trình án:

ĐỨC THỨ NHẤT LUẬT NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO THÂN HÀNH, Ý HÀNH

Như chúng tôi đã nói, luật nhân quả rất công bằng và công lý, ai làm ác tức là làm khổ mình, khổ người và khổ các loài vật thì phải trả quả khổ đau, còn ngược lại ai làm điều lành thì sẽ hưởng được phước báu, hoàn cảnh bản thân, gia đình đều được yên vui và hạnh phúc.

Hai đứa con nhỏ khóc lóc không chịu đứng vào hàng để chờ mua bưu phiếu, chúng làm cho bà mẹ rất khổ sở giữa đám đông người. Đấy là nhân quả. Người đời thường bảo: “Con nợ, vợ oan gia, cửa nhà tội báo”. Đúng vậy, nhân quả có vay phải có trả, nếu không vay làm sao lại có con mà trả quả. Con cái không phải là nhân quả sao? Trên thế gian này, trai lớn lên lấy vợ, gái lớn lên gả chồng, đó là một truyền thống từ ngàn xưa. Người ta cứ ngỡ rằng trai gái lớn lên yêu nhau là hạnh phúc. Hạnh phúc mà con người hằng mơ ước đó là hạnh phúc trong tưởng. Còn hạnh phúc chân thật không phải tìm từ trai gái yêu nhau. Trai gái yêu nhau là qui luật nhân quả sinh tồn. Vạn vật sinh ra đều theo qui luật này cả. Từ cây cỏ thảo mộc cho đến loài người và loài thú vật đều phải theo qui luật này cả, không có một loài vật nào ra khỏi qui luật này.

Vì thế, con người ít ai thoát ra khỏi qui luật này, ngoại trừ những bậc chân tu giải thoát người ta mới cắt ái, ly gia, đoạn tuyệt con đường tâm sắc dục.

Chúng ta hãy đọc câu chuyện thương tâm, do nhân quả kiếp trước đã gây tạo nhân quả chia lìa cha mẹ và con cái nên kiếp này lũ đã cướp đi cha mẹ của ba cháu gái, để lại một người chị còn tuổi học trò mà phải gánh vác nuôi hai em thật là xót thương vô cùng. Ai thấy cảnh này mà không động lòng rơi nước mắt. Phải không quý vị?

THAY BA MẸ ĐƯA EM ĐẾN TRƯỜNG

Sáng ngày 05/9 ở thôn Lâm Lang, xã Châu Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình, ba chị em Ngô Thị Nhung, Ngô Thị Huyền và Ngô Thị Ngọc Trinh dắt nhau tới trường dự khai giảng năm học mới.

Trong cơn lũ lớn ngày 07/8 vừa qua, cả ba mẹ của ba cháu gái đã bị chết do lũ... Chị cả Ngô Thị Nhung bây giờ trở thành ba, thành mẹ chăm lo cho hai em. “Hôm qua Trinh cứ khóc mãi. Hắn đòi đưa đi học chứ không chịu đi một mình. Rồi còn cả Huyền nữa thì mần răng mà đưa cả hai đứa một lúc”.

Nhung nói trong nước mắt. Khi ba mẹ còn, ngày khai trường Nhung chỉ lo cho riêng mình. Nay Nhung phải dậy từ 4 giờ sáng để nấu cơm cho hai em ăn. Suốt cả tuần qua, cả ba chị em cứ xúm xít chuẩn bị sách vở, áo quần cho ngày khai giảng. Không còn ba mẹ để nhắc nhở từng thứ, nên em soạn sách vô, chị lại lấy ra, quay lui quay tới, chẳng biết cái nào cần cái nào chưa…”

Trông hình ảnh này thật đáng thương cho ba chị em Nhung. Càng thương xót ba chị em Nhung chúng ta lại nhớ câu tục ngữ: “Còn mẹ gót đỏ như son, chẳng may mẹ mất gót con dính bùn”. Đúng vậy, cuộc đời này sao con người phải chịu nhiều đau khổ mà không còn nước mắt để khóc nữa. Phải không quý vị? Nhìn cảnh này chúng ta xót thương vô cùng.

Một cháu gái tuổi còn học trò làm sao nuôi dưỡng hai em. Đêm đêm ba chị em nằm sát bên nhau để nương tựa vào nhau mà sống. Tình thương của cha và của mẹ còn đâu nữa. Ba cháu này còn kiếm đâu ra tình thương ấy. Ôi xót xa vô cùng! Nhớ ba mẹ, ba chị em chỉ còn biết ôm nhau mà khóc. Trẻ con chỉ biết nương tựa vào cha mẹ, ông bà, vào những người thân của mình.

Còn bây giờ biết nương tựa vào ai đây? Hai em thì nương tựa vào chị, còn chị biết làm gì đây mà nuôi các em. Càng nghĩ tâm can càng rã rời; càng suy nghĩ tâm can càng thấy khổ đau vô cùng, vô tận. Nhìn hình ảnh ba cháu trơ trọi chúng ta không thể cầm những giọt nước mắt, thương cho thân phận các cháu ngày mai sống sẽ ra sao! Cháu gái tuổi còn học trò biết làm gì nuôi hai em. Cuộc đời đầy dẫy cạm bẫy, ác pháp muôn mặt, rồi đây các cháu có thoát khỏi nanh vuốt của loài chồn cáo ác độc chăng? Chúng đang rình rập chờ có cơ hội là đớp ngay...

Cuộc sống con người đều do nhân quả điều hành. Cho nên, vay nhân nào thì gặt quả nấy, nhìn hoàn cảnh của ba cháu Nhung, Huyền, Trinh thì biết ngay nhân quả đời trước ba cháu đã gieo quả chia lìa, nên đời nay phải gặt quả lìa cha, lìa mẹ trong lúc tuổi còn thơ ngây. Nhân quả quá khứ của các cháu như thế nào chúng ta làm sao biết được, nhưng chắc chắn phải có nhân quả. Phải không quý vị? Đứng trước cảnh các cháu sớm lìa cha, lìa mẹ, sống bơ vơ trên đường đời trơ trọi thì ai lại không xót xa thương cảm.

Cho một vài ví dụ như đời trước các cháu đã từng bắt cá cha và cá mẹ giết và ăn thịt, để lại một đàn cá con bơ vơ thì hiện giờ các cháu cũng phải trả quả mất cha mất mẹ bơ vơ như vậy. Cho nên, khi am tường hiểu biết luật nhân quả thì chúng ta rất sợ hãi những hành động ác thường làm đau khổ mình, đau khổ người và đau khổ tất cả chúng sinh. Khi những hành động ác làm đau khổ cho mình, cho mọi người và chúng sinh thì chúng ta không thể nào tránh khỏi những hậu quả tai nạn, bệnh tật, đói khổ, mất cha, mất mẹ, v.v.. có thể đến với chúng ta khi thời tiết nhân duyên hội đủ. Khi thời tiết nhân duyên đã đủ thì trốn đâu cũng không khỏi.

Vì hiểu biết luật nhân quả không tha thứ cho một ai và không ai trốn bất cứ nơi đâu mà thoát khỏi luật nhân quả này. Cho nên, ngay từ bây giờ chúng ta phải hết sức cẩn thận về thân hành, khẩu hành và ý hành. Đó là ba nơi xuất phát nhân và quả. Nhất là ý hành, khi chúng ta muốn khởi một ý niệm thì ý niệm ấy phải được suy tư kỹ càng rồi mới biến ra hành động làm hay nói.

Nhờ đó nó thành một thói quen hay tư duy, khi muốn làm một điều gì thì tâm chúng ta nhắc nhở phải suy nghĩ, phải tư duy kỹ lưỡng xem ý niệm ấy có làm hại ai không. Nếu không có hại thì mới bắt đầu hành động nơi miệng, nơi thân. Và như vậy hành động thân miệng sẽ không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh. Còn ngược lại làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh thì nhất định chúng ta không nói, không làm. Bởi vì nói hay làm đó là làm những hành động ác. Nói hay làm những hành động ác là tự chúng ta đã đem sự đau khổ vào thân, tức là chúng ta đang tạo nhân ác. Và cũng đã, đang phải trả quả báo khổ đau mà chúng ta không chạy trốn đường trời nào thoát khỏi.

Cho nên, khi biết luật nhân quả chúng ta rất sợ làm điều ác, vì thế chúng ta phải học pháp NHƯ LÝ TÁC Ý để thực hiện trên pháp môn TỨ CHÁNH CẦN. Hằng ngày chúng ta ngăn ác, diệt ác pháp và luôn luôn lúc nào cũng sinh thiện, tăng trưởng thiện pháp. Ở đây, trong câu này có những danh từ rất khó hiểu như ác pháp nghĩa là gì? Thiện pháp nghĩa là gì? Và nhận diện ác pháp và thiện pháp ra sao? Quý vị hãy lắng nghe cho kỹ: Ác pháp là những hành động thân, miệng, ý làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh, còn ngược lại, những hành động nào không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh thì đó là thiện pháp, và có một thiện pháp tuyệt vời mà trong pháp môn TỨ CHÁNH CẦN thường nhắc nhở chúng ta nên sinh thiện pháp đó và tăng trưởng. Vậy thiện pháp đó như thế nào? Đó là tâm vô lậu hoàn toàn; đó là trạng thái tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; đó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Có tu tập như vậy, thiện pháp sinh và tăng trưởng thì chúng ta mới không bị dục vọng sai khiến làm những điều vi phạm giới luật đức hạnh. Nhờ đó chúng ta không bị NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO khổ đau chi phối; nhờ đó chúng ta mới sống được bình an, yên vui tràn đầy hạnh phúc; nhờ đó thân tâm mới được thanh thản, an lạc và vô sự.

Cho nên chúng ta phải nhớ LUẬT NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO là một đạo luật rất công bằng và công lý. Phải thường nhắc nhở tâm sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.

ĐỨC THỨ HAI ĐỨC HIẾU SINH NHƯỜNG CHỖ THÂN HÀNH

Nhường chỗ ngồi cho người khác là một đức hạnh, đó là đức hiếu sinh nhường chỗ. Đức hiếu sinh nhường chỗ ngồi cho những người già yếu, cho những phụ nữ có em bé nhỏ trên xe buýt, trong phòng họp hay bất cứ nơi công cộng nào cũng đều phải biết nhường nhịn chỗ ngồi cho những người bất hạnh kém may mắn, kém sức khỏe, khuyết tật, bệnh tật, v.v...

Hành động nhường chỗ ngồi, đó là một hành động đạo đức đẹp đẽ tuyệt vời mà mọi người trong chúng ta ai ai cũng đều phải thực hiện hành động đạo đức này, để nói lên một đất nước có văn minh tiến bộ, có văn hóa nhân bản. Một đất nước mà có những người dân biết sống đạo đức nhân bản, thường sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, đó là một nền văn hóa và văn minh tiến bộ trong thời đại khoa học kỹ nghệ hoá toàn cầu. Nếu toàn dân trong một nước mà không có những hành động đạo đức như vậy thì không được gọi là một nước văn minh và văn hóa. Cho nên, đức hiếu sinh nhường chỗ ngồi là đức hạnh nhân bản mà toàn dân trong nước đó đều thực hiện được như vậy. Đó là một hành ảnh đẹp đẽ để xác định cho một đất nước có văn minh, có văn hóa.

Nhiều khi người ta chỉ nói hay viết chữ VĂN MINH và VĂN HÓA, mà nhìn cách mọi người dân trong nước đối xử nhau thiếu nhường nhịn, thiếu tôn trọng thì biết ngay đất nước đó chưa văn minh tiến bộ và văn hóa bị xuống cấp.

Trong bài học trên đây, tác giả nhường chỗ xếp hàng trước cho người phụ nữ có hai cháu bé nhỏ để mua bưu phiếu. Hành động nhường chỗ là một đức hạnh hiếu sinh tuyệt vời mà mọi người trong chúng ta cần phải học, cần phải tu tập rèn luyện nhân cách này. Vì có thương người tàn tật, người già yếu, người có con nhỏ còn bồng ẵm trên tay mà đi xe buýt hay xếp hàng mua vé tàu, xe cộ, máy bay, v.v.. là một sự khó khăn vô cùng, khi xe dừng hoặc xe chạy đều bị nghiêng qua, ngả lại thật là tội nghiệp. Phải không quý vị? Đây là một câu chuyện trên chuyến xe buýt mà tác giả đã thuật lại để làm một bài học về đạo đức hiếu sinh biết nhường chỗ cho mọi người với tựa đề:

TÔI ĐI XE BUÝT”.

Hằng ngày, tôi mất khoảng 35 phút đi xe buýt đến công sở, và cũng chừng ấy thời gian để ngồi xe buýt đi về. Khi phải đi xe buýt nhiều như tôi, bạn mới nhận ra sự khác biệt giữa việc tìm được một chỗ ngồi trên xe và việc phải đứng suốt chuyến đi. Có một chỗ ngồi có nghĩa là bạn có thể tranh thủ nhắm mắt một chút hoặc đọc báo, hay ít nhất là có thể ngả lưng trong giây lát. Ngược lại, nếu phải đứng suốt chuyến, thì không đơn giản chân bạn sẽ mỏi nhừ, mà bạn còn liên tục bị xô qua bên đây, đẩy qua bên kia.

Bạn phải gồng mình để không té nhào vào người khác và phải liên tục di chuyển mỗi khi có ai lên hoặc xuống xe. Chính những điều bất tiện đó khiến tôi bằng mọi cách phải tìm được một chỗ ngồi tử tế trên suốt tuyến đường. Nhiều lần đi lại, tôi đã có được kinh nghiệm rằng nếu tôi chịu khó đón xe sớm hơn một chút thì chắc chắn là tôi luôn có chỗ ngồi.

Có một người phụ nữ lớn tuổi, hình như lúc nào cũng đi cùng một tuyến đường với tôi. Lúc trước, khi tôi lên xe buýt sau bà thì tôi luôn luôn phải đứng trong khi bà có chỗ ngồi đàng hoàng.

Từ khi tôi đón xe sớm hơn, tôi luôn có mặt trên xe buýt trước bà, và dĩ nhiên là ngồi chễm chệ trong khi bà phải đứng. Ban đầu tôi cảm thấy hơi ray rứt, cảm thấy như mình đang giành chỗ ngồi của bà vậy, nhưng lâu dần, tôi mặc kệ cái cảm giác đó và cứ ngồi yên cái chỗ mình giành được.

Hôm đó, trên đường về nhà, khi vừa bước lên xe buýt, đột nhiên tôi cảm thấy buồn nôn khủng khiếp. Tôi cố gắng gượng lại, gồng mình để chịu đựng vì sợ rằng mình sẽ nôn ra đầy xe mất. Bỗng nhiên, một bàn tay ấm áp nhẹ nhàng dìu tôi ngồi xuống ghế. Tôi ngạc nhiên khi nhận ra rằng đó chính là người phụ nữ tôi vẫn gặp mỗi sáng đi làm, là người mà tôi đã giành lấy chiếc ghế bằng cách đi làm sớm hơn. Bà dìu tôi ngồi vào ghế của bà và dịu dàng đứng bên cạnh che cho tôi khỏi bị va quệt bởi những người lên xuống xe. Đến trạm dừng, tôi bối rối cảm ơn bà và đi về nhà. Từ ngày đó trở đi, sáng nào tôi cũng mong được gặp bà để có thể nhường ghế của mình cho bà”.

Ngọc Khanh

Theo “On The Bus”

Chiếm ghế ngồi của một người khác trên xe buýt là một hành động không tốt, được xem là thiếu đạo đức, vì lòng ích kỷ nghĩ đến bản thân của mình mà trong bài học này tác giả đã chân thật nói lên tâm niệm của mình đi sớm hơn để chiếm ghế ngồi của người khác. Một hành động xem thì bình thường nhưng ý niệm trong tâm mình là một tâm niệm ác tham lam, chỉ biết nghĩ cho mình, chẳng nghĩ đến ai cả. Một hành động vì mình là một hành động xấu xa. Chúng ta làm người phải hiểu biết, nếu vì mình thì phải vì người. Vì chúng ta không thể sống có một mình mà phải cùng sống có nhiều người. Có nhiều người thì mọi người vui thì mình mới vui. Thử hỏi chỉ có một mình mình vui, còn bao nhiêu người không vui thì mình có vui được không? Cho nên sống trong tập thể là phải sống có tình, có nghĩa, có văn hóa đạo đức, có pháp luật, kỷ cương, có nề nếp tôn ti trật tự, v.v...

Chúng ta là những con người học đạo đức nhân bản thì nên cẩn thận từng tâm niệm của mình, vì nó thường xui khiến chúng ta làm những điều ác, những điều vô đạo đức, giống như tác giả viết bài trên đây đã làm một điều mà lương tâm tác giả hối hận, vì chiếm chỗ ngồi trên xe buýt của người khác.

Người học đạo đức thì luôn luôn thực hiện đức hiếu sinh nhường chỗ ngồi cho người khác, chứ không bao giờ chiếm chỗ ngồi của người khác. Bởi mọi hành động đạo đức hiếu sinh thì nhường chỗ ngồi cho người khác cũng là một hành động đạo đức nhân bản rất đáng khen và tán dương hành động đẹp đẽ đó, vì nó đem lại sự yên vui cho mình, cho người. Và như vậy, chúng ta mới thấy tâm mình hân hoan, một niềm vui lâng lâng thanh thoát nhẹ nhàng, khi biết mình đã làm một điều lợi ích cho người yếu đuối già cả, cho người phụ nữ có em bé nhỏ.

Ngược lại, chúng ta chiếm chỗ ngồi của người khác là làm cho người mất chỗ ngồi, khiến họ phải khổ sở nhọc nhằn trong khi chúng ta ngồi an ổn trên xe buýt. Sự an ổn như vậy không hạnh phúc và an vui đâu quý vị ạ!?

ĐỨC THỨ BA ĐỨC HIẾU SINH NHÂN QU NGHIỆP BÁO THÂN HÀNH

Thương người, đem lại sự bình an cho người là đạo đức hiếu sinh mà mọi người cần phải học tập, nhất là muốn sống được với đức hiếu sinh thì thường nhắc nhở tâm mình không nên làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Chính nhờ sống có đạo đức được như vậy, đó là chúng ta sống với đức hiếu sinh nhân quả nghiệp báo thiện. Người sống với đức hiếu sinh nhân quả nghiệp báo thiện thì cuộc sống thường được bình an, yên vui, không tai nạn, không bệnh tật, trí tuệ thông minh, v.v...

Thời đại chúng ta là một thời đại văn minh tiến bộ về mặt khoa học kỹ thuật, nhờ đó công kỹ nghệ sản xuất ra nhiều vật chất phục vụ đời sống con người rất đầy đủ tiện nghi. Nhưng được mặt này, mất mặt kia, nên đời sống con người về mặt văn hóa đạo đức đang xuống cấp trầm trọng. Trong khi xã hội đạo đức đang xuống cấp thì lại xuất hiện những thần đồng văn hóa đạo đức để quân bình vật chất và đạo đức loài người. Chúng ta hãy đọc những câu chuyện thần đồng đã xảy ra khắp nơi trên thế giới. Đó là những bài học VĂN HÓA ĐẠO ĐỨC từ những trẻ em, khiến cho người lớn chúng ta phải thấy xấu hổ và giật mình. Đây là những bài học đạo đức từ các em thần đồng:

BÀI HỌC TỪ TRẺ CON”

Chẳng biết đùa hay thật, nhà thơ Trần Đăng Khoa kể có lần anh bị một cậu bé ở Hải Dương giáng cho một lưỡi tầm sét. Khi nghe giới thiệu người đàn ông trung niên đứng trước mặt là thần đồng thơ Việt dạo nào, cậu bé ấy nói luôn: “Ai chứ bác Khoa là con biết. Bác chuyên làm thơ con cóc. Bác có bài thơ y hệt bài “Con cóc”, đó là bài “Con bướm vàng”.

Kia là Con cóc, từ xa đến, nó ngồi đấy, rồi nhảy đi”.

Đây là con bướm vàng, nó cũng từ xa đến, rồi bay đi”.

Nghĩa chẳng có gì khác nhau cả, chỉ khác là bác đã cho con cóc đôi cánh của con bướm và bác cứ tưởng nó là con bướm. Thật tình nó chỉ là con cóc thôi...”. Nhà thơ Trần Đăng Khoa rút ra bài học: “Lúc 8 tuổi như nó, tôi chỉ làm được những câu thơ ngớ ngẩn, chứ đâu đã có được những ý kiến riêng, đặc biệt là ý kiến khác mọi người!”.

Tôi cũng có cảm giác giống như Trần Đăng Khoa khi đọc thơ Mattie, một thần đồng nước Mỹ. Mattie mắc bệnh hiểm nghèo, tác phẩm của cậu bé không chỉ chứng minh một nghị lực sống phi thường mà còn khẳng định một tài năng độc đáo. Mở đầu tập “Khúc hát trái tim”, Mattie viết: “Cuốn sách này dành tặng những ai tin rằng cần phải biết ơn mỗi ngày qua như một món quà của cuộc sống”.

Cuộc đời Mattie thật ngắn ngủi, đã từ giã nhân gian lúc chưa đầy 14 tuổi, nhưng cậu bé nghĩ về mẹ: “Những khi tôi đau hoặc buồn, thì mẹ cũng rất buồn hoặc rất đau”, và nhận ra sự cao thượng từ một chú chó nhỏ: “Hãy luôn tha thứ cho sự lãng quên, nhưng đừng bao giờ quên tha thứ”.

Có thể thần đồng thơ Việt - Trần Đăng Khoa hay thần đồng thơ Mỹ - Mattie là vài trường hợp hi hữu, nhưng không thể che lấp được thực tế trẻ con đang ngày càng thông minh hơn. Mặt khác, nếu chịu khó quan sát thì từ sự hồn nhiên và trong trẻo của trẻ con sẽ mang lại cho chúng ta nhiều cái giật mình thú vị.

Đứa cháu gái của tôi sống ở Hong Kong, nghỉ hè được về Việt Nam chơi. Tôi dắt cháu đi dạo ở trung tâm Sài Gòn và mua cho mấy cái kẹo. Khi bỏ viên kẹo vào miệng rồi, cháu cứ cầm mãi cái vỏ kẹo. Tôi giục quăng đi, cháu nhìn quanh rồi phụng phịu: “Không thấy thùng rác nào gần đây đâu, cậu ạ!”. Cứ thế, cháu nắm chặt cái vỏ kẹo trong tay cho đến khi tìm được thùng rác thì bàn tay đã ướt đẫm mồ hôi.

Ở nước ta, hình như các lớp mẫu giáo cũng dạy thiếu nhi giữ gìn vệ sinh công cộng, nhưng người lớn xả rác bừa bãi thì trẻ con làm sao noi gương? Về nhà, tôi khen đứa cháu gái 6 tuổi ngay trước mặt đứa cháu trai 7 tuổi: “Bé là thần tượng của cậu về ý thức bảo vệ môi trường!”.

Không ngờ, thằng cháu không được khen nên giận, không thèm nói chuyện với tôi suốt cả buổi chiều. Sáng hôm sau, thằng cháu vừa gặp tôi đã nhe răng cười: “Cháu không ghét chú nữa!”. Tôi hỏi tại sao, không ganh tị nữa à? Thằng cháu lắc đầu: “Ghét chú làm đêm qua cháu khó ngủ quá. Ghét người ta thì mình cũng mệt lắm. Từ nay cháu không ghét ai nữa...”.

Thú thật, tôi không thể ngờ lại nhận được hai bài học thắm thía nơi hai đứa cháu nhỏ dại.

Tuổi tác ngày một nhiều, tôi càng thấy trẻ con là một thế giới vô cùng đáng trân trọng.

Chúng ta thường tự hào đã làm điều này điều nọ cho thiếu nhi, nhưng ít chịu thừa nhận rằng trẻ con cũng giúp người lớn sống tốt đẹp thêm.

Trẻ con không mưu cầu gì, trẻ con không nhân danh ai, nên những lời con trẻ thật chân thành.

Tôi tự nhủ hãy học tập cái nhìn xanh tươi của trẻ con để mỗi ngày luôn mới mẻ và lương thiện! Người lớn dạy dỗ cho trẻ con luôn trưởng thành, mà có khi người lớn cũng học được những bài học của trẻ con!”

Lê Thiếu Nhơn

Báo Tuổi Trẻ

Những câu chuyện thần đồng trên đây là những bài học đạo đức từ trẻ em đã khéo nhắc nhở mọi người lớn hãy rèn luyện nhân cách đạo đức của mình. Trẻ em còn biết đạo đức, còn chúng ta là người lớn thì làm sao đây? Không lẽ chúng ta là anh, chị, là cô dì, chú bác, là ông bà, cha mẹ của các cháu mà sống không bằng đạo đức của các cháu sao? Các cháu biết giữ gìn vệ sinh từ cái vỏ kẹo mà phải kiếm thùng rác để bỏ vỏ kẹo vào, không chịu ném bỏ bậy bạ. Trong lúc chúng ta là cô bác, dì, cậu mợ, anh chị của các cháu mà quăng ném rác bừa bãi, đi đâu ta cũng thấy bao bì bằng ni lon ném bỏ khắp nơi, thậm chí ngay cả dưới chân bảng đề chữ “ẤP VĂN HÓA” mà rác rến, bao ni lon đầy dẫy dưới chân.

Hành động cháu bé tìm thùng rác bỏ vỏ kẹo vào là một bài học vệ sinh môi trường có một giá trị đối với toàn dân trong một đất nước độc lập. Cho nên chúng ta là anh chị, cô bác của các cháu thì hãy học gương hạnh đức vệ sinh của cháu bé này mà thực hiện đời sống đạo đức vệ sinh môi trường.

Rác bẩn thì nên chia ra làm hai phần: phần hữu cơ và phần vô cơ. Phần hữu cơ như vỏ trái cây, rau cải úng hư thối thì để riêng. Và phần vô cơ như bao bì bằng bọc nilon thì bỏ riêng ra. Vỏ trái cây và rau cải úng hư thối thì đem bỏ có nơi chốn kín đáo hoặc chôn lấp, không nên để mùi hôi thối bay bốc lên làm ô nhiễm không khí.

Phần vô cơ như bao bì bằng nilon thì đem thiêu đốt, không nên ném bỏ bậy bạ. Nhất là cô bác, anh chị lại quăng ném ra ngoài đường nơi công cộng mọi người qua lại làm bẩn thỉu môi trường vô cùng.

Hiện giờ chúng ta đi bất cứ nơi đâu, khắp cùng trong đất nước từ hang cùng ngõ hẻm đến thành phố đông người đi lại tấp nập, nhưng đều thấy bao bì nilon ném quăng bừa bãi dọc hai bên lề đường. Dù đường lớn hay đường nhỏ đều dẫy đầy rác bẩn. Trước nhà, sau nhà của mọi người dân đều thấy rác bẩn, nhất là bao bì nilon lại quăng ném khắp nơi trông thấy mất vệ sinh không thể tưởng. Thấy thế chúng ta biết ngay đời sống của nhân dân không có văn hóa chút nào cả. Thật là đáng trách, một người công dân trong một nước độc lập mà sống thiếu đức vệ sinh như vậy thì không xứng đáng là một người công dân trong một nước độc lập. Một nước tiên tiến, văn minh khoa học kỹ thuật mà nhân dân nước đó sống không giữ gìn đức vệ sinh môi trường thì nước đó có văn minh thật sự đi nữa, cũng không xứng đáng là một nước văn minh tiên tiến, khoa học kỹ thuật. Một nước gọi là một cường quốc thế giới mà nền văn hóa đạo đức vệ sinh môi trường sống còn kém cỏi đến mức độ như vậy thì không thể nào chấp nhận là một cường quốc thế giới được. Cho nên đạo đức vệ sinh môi trường có tầm quan trọng rất lớn.

Một đất nước muốn có tầm cỡ quốc tế thì toàn dân cần phải ý thức được trách nhiệm và bổn phận văn hóa đạo đức của mình đối với quê hương tổ quốc, để đất nước xứng đáng sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới.

Một cháu bé biết giận hờn là tự mình làm cho mình đau khổ nên giữ thái độ vui vẻ bình thường. Ai đã dạy cho trẻ con điều đó? Chính từ trong nhân quả nghiệp báo tiền kiếp đã sống chỗi dậy và nhắc nhở chúng. Nếu tiền kiếp chúng không có huân tập những đạo đức ấy thì làm sao kiếp này chúng biết lý luận để xả tâm mình thoát khỏi những ác pháp như vậy. Thật là tuyệt vời, trẻ con mà còn biết xả tâm để được giải thoát! Còn chúng ta là những người lớn thì làm sao đây? Không lẽ chúng ta là những người lớn có đầy đủ trí hiểu biết về cuộc đời mà không xả tâm sân hận khổ đau được như các cháu sao? Những bài học từ trẻ con là tấm gương sáng chói nhắc nhở cho người lớn phải biết trong xã hội đạo đức đang mất dần. Vì thế, chúng ta hãy xem những bài học này quý giá vô cùng. Trẻ con thời đại này sao mà thông minh về đạo đức không thể ngờ được. Có phải chăng vì nền đạo đức của loài người đang xuống cấp trầm trọng thì qui luật nhân quả phải điều hành để cân bằng thiện ác, không thể để ác nhiều. Vì thế các vị thần đồng đạo đức xuất hiện để cân bằng thế giới vật chất và đạo đức.

Cho nên trẻ con ngày nay phát triển trí tuệ mọi mặt rất sớm, đó là một việc tự nhiên của vũ trụ. Nhờ đó mà con người mới ra sức rèn luyện nhân cách đạo đức làm người, làm Thánh để chuyển dần cuộc sống đến chỗ hoàn toàn yên vui và hạnh phúc chân thật.

Dù sao con người sinh ra trên hành tinh này cũng đầy đủ phước báu, nên có những bậc thầy vĩ đại đã góp sức mình vào sự nghiệp vì loài người... mang đầy tính nhân bản - nhân văn. Họ là Đức Phật, là Booker T. Washington, là John Dewey, là Leo Buscaglia, là Môsê, là Đức Chúa Jesus, v.v...

Họ là những ân nhân của nhân loại, họ đã để lại cho loài người những bài học đạo đức nhân bản - nhân quả tuyệt vời.

ĐỨC THỨ TƯ THIẾU ĐỨC HIẾU SINH NHƯỜNG CHỖ Ý HÀNH

Biết nhường chỗ ngồi của mình cho người khác là để đem lại sự bình an, yên ổn cho người thì đó là một điều đáng ca ngợi.

Hãy sống với đạo đức này. Nó sẽ mang lại những giây phút hân hoan cho tâm hồn của chúng ta. Chúng ta hãy đọc câu chuyện dưới đây sẽ thấy được sự hướng dẫn đạo đức cho người rất tuyệt vời. Khi chúng ta dạy cho người khác sống có đạo đức thì chúng ta sẽ nhận được lòng tốt đạo đức đó. Bởi nhân tốt thì quả phải tốt, nhân đạo đức thì quả phải hưởng phước báu của đạo đức đó. Trồng cam thì phải được quả cam; trồng ớt thì sẽ được quả ớt. Cam ngọt, ớt cay. Ai muốn hưởng quả nào thì nên gieo nhân quả ấy, chứ không thể gieo hạt giống này mà ra quả khác, điều này không bao giờ xảy ra được. Câu chuyện nhân quả sau đây do gieo nhân nào thì gặt quả nấy:

GIÁ TRỊ CỦA CÁCH CƯ XỬ”.

Một bà giáo hưu mỏi mệt cố len mình vào dòng người đang xếp hàng rồng rắn trước quầy thu ngân tại siêu thị Kmart. Chân trái của bà lại bắt đầu đau nhức vì phải đi lại quá nhiều, và bà ước rằng phải chi mình đã uống hết số thuốc mà bác sĩ đã kê toa cho ngày hôm nay: chứng bệnh cao huyết áp, chóng mặt và rất nhiều những thuốc trị các thứ bệnh khác của người già mà bà không may mắc phải. “Cám ơn trời là mình đã nghỉ hưu được mấy năm rồi”, bà tự nhủ. “Những lúc như thế này, mình thật chẳng còn hơi sức đâu để dạy học cho lũ trẻ nữa”.

Ngay sau lưng bà, cả một dòng người đang chờ đến lượt mình thanh toán, bà để ý thấy một chàng thanh niên đi cùng với hai đứa con nhỏ và người vợ trẻ đang mang thai. Bà giáo không thể không trông thấy hình xăm trên cổ và tay của chàng thanh niên ấy. “Cậu ta chắc từng ở tù đây”, bà nghĩ thầm và tiếp tục dò xét họ.

Khuôn mặt bặm trợn cùng với cái áo thung bụi bặm lỗi thời và cái quần rộng thùng thình của anh ta khiến bà ngờ ngợ một điều gì đó. “Cậu ta hẳn là thành viên của một băng đảng khét tiếng nào đó chứ chẳng sai” .

Nghĩ thế, nhưng bà giáo vẫn cố ý để cho cậu trai lên trước. “Thôi kệ, cậu ta còn có hai đứa trẻ đi cùng nữa mà”.

Cậu lên trước đi”, bà nhẹ nhàng đề nghị và bước lùi lại phía sau để nhường đường cho họ.

Không, bà cứ đi trước ạ!”, anh ta khăng khăng từ chối.

Không, cậu còn dẫn theo nhiều người nữa mà”, bà giáo nói.

Chúng con phải kính trọng người lớn tuổi chứ ạ!”, người thanh niên viện lý do để từ chối.

Vừa nói, anh ấy vừa bước nhanh sang một bên ngỏ ý nhường lối cho bà.

Bà thoáng nở một nụ cười trên môi và khập khiễng bước lên phía trước. Theo thói quen xử thế của mình, bà nhất định không bỏ qua giây phút này. Bà quay lại và hỏi anh nọ: “Ai đã dạy cậu cư xử lễ phép như vậy?”.

Chính cô đã dạy cho con hồi lớp ba đó, cô Simpson ạ! Cô không còn nhớ con sao?”

Paul Karrer

Một câu chuyện đạo đức hiếu sinh nhường chỗ cho người khác thật tuyệt vời. Chính cô giáo đã giáo dục những học trò của mình về môn đạo đức hiếu sinh này. Khi những người học trò của cô đã thể hiện hành động đạo đức đó đối với cô mà cô cũng không bao giờ ngờ được.

Cô đã dạy những đạo đức đó cho những học trò của mình lúc còn thơ bé. Hiện giờ cô đã già, học trò cô đã lớn, đã trở thành những người làm lợi ích cho gia đình và xã hội, nhưng họ không quên những lời dạy đạo đức năm xưa của cô.

Khi biết học trò của mình đã thực hiện đạo đức như vậy, cô rất hân hoan sung sướng trong thành quả giảng dạy đạo đức của mình.

Hạnh phúc thay cho những ai dạy đạo đức nhân bản - nhân quả làm người, để mọi người trên thế gian này đừng làm khổ cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh! Bởi vậy với loài người, chỉ có đạo đức mới giúp cho họ sống được bình an, yên vui, không còn xung đột và chiến tranh nữa.

ĐỨC THỨ NĂM ĐỨC TRI ÂN HIẾU SINH KHẨU HÀNH

Đức tri ân hiếu sinh rất cần cho con người, vì làm người ai mà không thọ bốn thâm ân to lớn như trời biển:

- Công ân thứ nhất: Ân sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Nếu không có cha mẹ làm sao chúng ta có mặt trên đời này. Vả lại, công ân sinh thành dưỡng dục nuôi dạy cho đến lớn khôn nên người thật là một ân nghĩa lớn vô cùng, không thể lấy trời biển, sông núi mà sánh được. Nhưng người ta không còn lấy vật gì to lớn hơn để so sánh, vì thế phải lấy núi và nguồn nước mà nói lên lòng biết ơn của mình:

“Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” - Công ân thứ hai: Ân thầy dạy bảo. Tục ngữ có câu: “Không thầy đố mày làm nên”. Đó cũng là một ân sâu nghĩa nặng không thể lấy gì sánh được. Nếu không có thầy dạy bảo thì làm sao biết được văn chương chữ nghĩa; thì làm sao biết được văn hoá đạo đức mà sống đối xử với nhau cho phải đạo; thì làm sao biết được công việc nghề nghiệp làm ăn sinh sống hằng ngày.

Bởi vậy ơn thứ hai cũng nặng lắm, không thua gì ân thứ nhất.

- Công ân thứ ba: Ân Tổ quốc, tức là ân tổ tiên của chúng ta. Các người đã có công dựng nước và giữ nước. Máu xương của tổ tiên chúng ta đã đổ trên mảnh đất quên hương này trùng trùng lớp lớp không biết bao nhiêu, kể sao cho hết. Hôm nay đất nước được độc lập, toàn dân sống trong tự do và hạnh phúc không làm nô lệ cho một nước nào. Đó là công ân của Tổ quốc mà mỗi người công dân đều phải biết ân nghĩa sâu dày này.

- Công ân thứ tư: Ân của mọi người. Trong cuộc đời này nếu chúng ta sống một mình thì không thể nào sống nổi. Bởi muốn có cơm ăn thì công người nông phu làm ruộng rẫy; muốn có áo mặc thì công người dệt cửi và người thợ may; muốn có nhà ở thì công người thợ nề, v.v...

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải trao đổi cho nhau tất cả sự sống thì mới có thể sống được. Vậy mà mọi người lại không biết cái thâm ân này, nên thường sống vì mình mà làm khổ muôn người, muôn vật. Quý vị có biết không? Bốn thâm ân, ân nào cũng quan trọng, nhưng ân nghĩa cuối cùng lại rất quan trọng cho đời sống của con người hơn hết. Đó là ÂN NGHĨA CỦA SỰ SỐNG, nếu không có sự sống của mọi người và sự sống của muôn loài vạn vật chung quanh ta thì cũng không có sự sống của chúng ta. Cho nên muốn sống vì mình thì hãy sống vì mọi người, vì mọi loài vật.

Ai cũng biết loài người cũng như loài vật đang sống trên hành tinh này đều có sự nương tựa vào nhau mà sống. Vì vậy sống vì người khác là sống vì mình. Quí vị có hiểu chăng? Câu chuyện dưới đây là câu chuyện ân nghĩa thâm sâu của một người mẹ:

GÁNH HÀNG RONG CỦA MẸ”.

Mẹ kể, nhà ngoại nghèo lắm. Con cái trong nhà cứ độ 14, 15 tuổi là phải tự kiếm sống. Các anh, chị của mẹ người làm thợ hồ, người bán hàng ăn... Riêng mẹ, mẹ chọn cho mình đôi quai gánh, theo người chị họ đi bán hàng rong.

Những gánh hàng rong thời ấy thường bán thức ăn cho gia đình và những vật dụng hàng ngày của cá nhân. Nhưng gánh hàng của mẹ chỉ bán những món ăn dành cho lứa tuổi học trò.

Mẹ bảo, ngày còn được đi học, mẹ từng nhìn thấy những gánh hàng rong như thế. Mẹ thích hình ảnh lũ học trò xúm xít bên gánh hàng, tranh nhau những quả xoài, quả ổi.

Những tưởng gánh hàng rong của mẹ sẽ chỉ còn là kỷ niệm khi mẹ lên xe hoa về nhà chồng, nhưng thời thế đổi thay bất ngờ, kinh tế gia đình chồng suy sụp. Gánh hàng lại theo mẹ tần tảo khắp nơi để phụ chồng, nuôi con. Tuy nhiên, giờ gánh hàng của mẹ không còn những món ăn của tuổi học trò nữa, mà thay vào đó mẹ bán rau, bán cá, bán thịt. Mẹ bảo bán những thứ đó lãi nhiều hơn.

Muốn có hàng ngon, hàng rẻ, mẹ phải dậy sớm đến các chợ đầu mối mua hàng. Có hàng rồi phải đi hàng chục cây số để bán. Thương mẹ vất vả, tôi hỏi sao lại không đi bán hàng gần nhà, mẹ giải thích: Gần nhà có nhiều chợ, nếu muốn mua thì họ ra chợ mua, mấy ai mua của gánh hàng rong.

Mẹ không chỉ buôn bán giỏi mà còn nuôi dạy con rất khéo. Tôi nấu cơm sống, mẹ không chê cười hay mắng mỏ, mà ân cần giảng giải cho tôi cách canh nước, canh lửa. Lúc tắm em, tôi sơ ý để xà phòng rơi vào mắt em, mẹ vừa dỗ em vừa cầm tay tôi hướng dẫn cách gội đầu cho em. Cứ như thế, tôi trở thành cô gái đảm đang bếp núc, vén khéo việc chăm sóc các em.

Ngày đó, con gái vùng tôi ít ai được học hành đến nơi đến chốn. Tư tưởng “con gái học lắm thì cũng về nhà chồng, phục vụ chồng” đã khiến nhiều cô gái dở dang chuyện học hành.

Với mẹ thì khác, mẹ luôn quan niệm: Làm người phải có trí thức mới có cuộc sống tốt đẹp. Gánh nặng học hành của tôi lại chất lên đôi vai gầy của mẹ. Mỗi lần ngồi vào bàn học, tôi lại như thấy có giọt mồi hôi của mẹ lăn theo từng con chữ. Tôi tự nhủ: Phải học thật giỏi để mẹ được vui lòng.

Một ngày, gánh hàng rong của mẹ được cất vào góc nhà như một vật kỷ niệm. Sự trưởng thành của tôi đã giúp mẹ được nghỉ ngơi, thanh thản bên con, bên cháu. Nhưng không vì thế mà mẹ quên những tháng ngày cơ cực. Mẹ vẫn thường nhắc tôi về những ngày đi bán hàng rong. Tôi hiểu, mẹ không có ý kể công hay bảo tôi phải mang ơn mẹ. Mẹ chỉ muốn tôi hiểu:

Đừng bao giờ quên quá khứ.

Mẹ ơi! Đứa con được mẹ nuôi dưỡng từ những ngày đi bán hàng rong, dù có thành đạt, có giàu sang vẫn luôn ghi nhớ trong lòng một điều: Tất cả những gì con có được ngày hôm nay đều do sự tần tảo, chắt chiu của mẹ mà nên.

Con biết ơn mẹ rất nhiều.

Sương Mai

Báo Phụ Nữ

Người phụ nữ Việt Nam là người phụ nữ đảm đang trong gia đình, gánh vác mọi việc nặng nhọc, nuôi dạy các con nên người. Thật xứng đáng là người mẹ Việt Nam. Cho nên đối với cha mẹ là ân sâu, nghĩa nặng. Chúng ta làm người đừng bao giờ quên ân nghĩa ấy.

Bởi vậy làm người chúng ta phải biết nhớ ân, dù một ân nghĩa rất nhỏ, nhưng mãi mãi phải ghi khắc trong tim. Vì biết nhớ ân cũng là đạo đức nhân bản, vì sống có đạo đức nhân bản nên chúng ta không còn mang bản chất của loài cầm thú.

Người không biết ân nghĩa là người vong ân, người vong ân là người vô đạo đức. Trên đời này những người vô đạo đức là những người không xứng đáng làm người, chỉ là một con thú vật mang hình người. Chúng ta hãy coi chừng những con thú vật mang hình lớp người, nó rất hung ác, giết hại người cướp của không gớm tay. Họ chẳng còn nhân tính của con người, nên không còn thương xót ai cả, chỉ biết tiền tài, danh lợi, vật chất mà thôi. Hãy tránh xa những người ấy quý vị ạ! Nếu quý vị muốn được an thân.

ĐỨC THỨ SÁU ĐỨC HIẾU SINH NHƯỜNG CHỖ THÂN HÀNH CÓ GIÁ TRỊ KHÔNG PHẢI NHỎ

Khi chúng ta biết nhường chỗ cho người khác là chúng ta đã có suy tư chín chắn về người được nhường chỗ là những người đáng thương như già yếu, bệnh tật, có con còn bé, v.v... Đó là nhường chỗ về vật chất để làm tinh thần và cơ thể họ dễ chịu, thoải mái hơn. Còn về nội tâm thì nhường chỗ như thế nào? Về nội tâm nhường chỗ là làm thay đổi thói hư, tật xấu ác của người khác để họ được an ổn, yên vui.

Ví dụ: một người hay giận dữ, chúng ta hướng dẫn anh ta một phương pháp làm cho anh ta không còn giận dữ nữa, đó là chúng ta đã nhường chỗ không giận dữ cho anh ta, khiến anh ta không còn giận dữ nữa.

Ở đây, cô giáo đem tình thương làm thay đổi tâm tính những người học trò của mình. Bởi vậy chỉ có lòng yêu thương mới làm thay đổi tâm tính con người. Lòng thương yêu ấy rất thấm thía tình người qua bài học:

SỰ THAY ĐỔI TRONG TIM”.

Steve là một đứa bé to xác, trông nó lớn hơn nhiều so với tuổi mười hai của nó. Cả bố và mẹ của Steve đều nghiện rượu, nên nó học hành rất bê trễ và sắp bị nhà trường cho nghỉ học, vì kết quả quá tệ hại. Chẳng ai để ý đến việc học của Steve cho đến ngày nó gặp được cô White.

Cô là một cô giáo trẻ đẹp với mái tóc màu đỏ rực và gương mặt vui tươi. Steve cảm thấy thích cô ngay trong lần gặp đầu tiên, nó không rời mắt khỏi cô giáo. Tuy vậy, nó không gây được sự chú ý cho cô. Do không bao giờ làm bài tập về nhà, nên nó luôn gặp rắc rối với cô. Nó rất buồn khi nghe cô trách cứ và khi bị phạt vì không làm bài tập về nhà, nó cảm thấy vô cùng khổ sở. Tuy vậy, nó vẫn không chịu học.

Vào giữa học kỳ một, toàn bộ học sinh lớp bảy phải làm bài kiểm tra kỹ năng cơ bản. Steve hối hả làm cho xong bài kiểm tra rồi chống tay mơ mộng về những điều mông lung đang diễn ra trong tâm trí nó, trong khi thời gian cứ chầm chậm trôi qua. Nó không còn nhớ gì đến bài kiểm tra nữa, mà đang để tâm hồn phiêu du trong khu rừng nhỏ cạnh nhà, nơi nó vẫn thường trốn chạy vào đó một mình để khỏi phải nhìn thấy cảnh cha mẹ nó đang lả người đi trong những cơn say, mùi rượu nồng nặc bao trùm lấy ngôi nhà. Không ai quan tâm đến nó.

Không ai biết nó đã đi khỏi nhà, vì không ai còn đủ tỉnh táo để quan tâm. Điều lạ lùng là Steve chưa bao giờ bỏ học một ngày nào.

Một hôm, đang để tâm trí lang thang trong khu rừng ấy, giọng của cô White đột nhiên cất lên phá vỡ giấc mơ ban ngày của nó: “Steve!” Nó giật mình quay sang nhìn cô. “Chú ý vào bài học!”.

Cô đang công bố kết quả bài kiểm tra giữa học kỳ: “Tất cả các em đều làm bài rất tốt”, cô nói với cả lớp, “trừ một người, và cô rất buồn phải thông báo điều này, nhưng...”, cô chần chừ, cái nhìn của cô như ghim chặt Steve trên ghế... “người học sinh thông minh nhất khối lớp bảy đã không làm được bài thi này!”.

Cả lớp quay sang nhìn Steve. Nó cúi mặt xuống nhìn vào mấy ngón tay. Sau đó, giữa cô và nó đã xảy ra một cuộc chiến. Cô tìm mọi cách để thuyết phục nó làm bài, từ nhẹ nhàng đến cương quyết, thế nhưng nó vẫn nhất định không chịu thay đổi ý định, ngay cả khi cô buộc phải áp dụng hình thức kỷ luật.

Tại sao con không chịu làm bài. Con đủ thông minh để làm những bài tập này mà!”.

Mặc những lời khuyến khích hết sức của cô, nhưng nó vẫn trơ trơ và còn lầm lì hơn nữa.

Hãy cho mình một cơ hội đi! Con phải gắng sức chứ, đừng bỏ cuộc con ạ!”. Vô phương, lời của cô vẫn như gió lùa nhà trống.

Steve! Tại sao con lại hành động lạ lùng như thế. Con có biết là cô rất lo lắng cho con không?”.

Lo lắng cho nó ư? Steve chợt sững người lại.

Nó thấy một cảm giác lạ bóp nghẹt trong tim, có người lo lắng cho nó sao? Một người hoàn hảo như cô mà lại quan tâm lo lắng cho nó ư? Trưa hôm đó, đi học về Steve cứ trầm ngâm suy nghĩ mãi. Nó bước vào nhà, nhìn xung quanh. Cả cha và mẹ nó đều đã ngủ vùi trong cơn say, quần áo xốc xếch, mùi rượu nồng nặc bao trùm lấy ngôi nhà. Nó nhanh chóng thu dọn một vài thứ thường mang theo khi vào rừng như: một hộp bơ, một ổ bánh mì, nhưng lần này nó đem thêm quyển sách giáo khoa. Nét mặt cau lại đầy quyết tâm, nó đi thẳng vào rừng một mình, không nhìn lại bất cứ một ai.

Ngày thứ hai đầu tuần. Nó đến trường đúng giờ và nóng lòng chờ khi cô giáo đến. Khi cô bước vào lớp và mỉm cười, nó chưa bao giờ thấy cô đẹp đến thế. Nó chờ cho nụ cười của cô dừng lại ở chỗ nó, nhưng cô không nhìn đến nó, cô giáo dường như đang chuẩn bị một việc gì:

dọn bài, kiểm bài hay giảng bài, v.v...

Nhưng ngay lập tức, cô cho cả lớp làm một bài kiểm tra dựa theo bài tập cô đã cho về nhà tuần trước. Steve nhanh chóng làm bài mà nó là đứa đầu tiên nộp bài cho cô. Cô White rất ngạc nhiên, cô bối rối cầm lấy bài làm của nó và nhìn lướt qua. Tim đập thình thịch trong lồng ngực, Steve quay trở về bàn. Nhưng ngay khi vừa ngồi xuống, nó không thể kìm nổi tò mò nên lén nhìn lên cô giáo một lần nữa.

Nét mặt cô White đang bất ngờ và thể hiện sự vui mừng tột độ. Cô chăm chú nhìn Steve và nở một nụ cười. Đứa học trò thông minh nhất khối lớp bảy đã qua được bài kiểm tra đầu tiên.

Kể từ giây phút đó, Steve hoàn toàn đổi khác. Cuộc sống của gia đình nó vẫn vậy, nhưng cuộc sống của nó đã thay đổi. Nó khám phá ra một điều rằng không những nó có thể học, mà hoàn toàn có thể học giỏi và nó còn biết cách áp dụng những điều đã học vào cuộc sống. Steve bắt đầu vươn lên, và nó cứ tiếp tục vững bước như vậy trong suốt mấy năm học sau.

Sau khi tốt nghiệp trung học, Steve gia nhập vào hải quân, trở thành một sĩ quan quân đội xuất sắc. Trong thời gian đó, nó có người yêu và lập gia đình. Nó tốt nghiệp đại học hạng xuất sắc trong thời gian phục vụ quân đội. Nó cũng đã góp phần động viên rất nhiều người, những người mà sau này đã thừa nhận rằng nếu không có Steve, họ khó mà còn tự tin vào chính mình.

Sau khi xuất ngũ, Steve chọn con đường trở thành phụ tá giáo sư ở trường đại học gần nhà.

Bạn thấy đó, một sự thay đổi lớn lao đã diễn ra trong tim một đứa bé trai, tất cả chỉ nhờ vào tình yêu thương chân thành của một cô giáo biết quan tâm đến học sinh. Bằng sự tận tâm với nghề, cô White đã lập nên một chiến công kỳ vĩ.

Cô đã nhen lên niềm tình yêu cuộc sống cho học sinh mình, cứu lấy cuộc đời người này và chính người này lại làm thay đổi cuộc đời của rất nhiều người khác nữa. Tôi biết rõ mọi chuyện, vì tôi chính là tình yêu của anh ấy.

Kỳ Thư Tổng Hợp & Biên dịch

Đấy quý vị thấy chưa? Chỉ có đức hiếu sinh mới làm thay đổi cuộc đời, từ chỗ khổ đau đến chỗ bình an, yên vui. Nhường chỗ cũng từ trong lòng thương yêu lưu xuất để làm ích lợi cho đời, đem lại niềm an vui cho đời, làm thay đổi cuộc đời. Nhưng lòng yêu thương ấy phải từ trong trái tim, ngoài trái tim yêu thương thì tình thương yêu ấy không thật.

Chúng ta là con người, phải siêng năng rèn luyện lòng yêu thương để luôn luôn sẵn sàng ban tình thương yêu ấy cho mọi người, để mọi người cùng sống trong đức hiếu sinh thì cuộc sống mới có sự bình an, yên vui. Và như vậy là chúng tôi mãn nguyện và hân hoan hạnh phúc lắm rồi.

ĐỨC THỨ BẢY ĐỨC HOAN HỶ NHƯỜNG CHỖ HIẾU SINH Ý HÀNH

Lòng hoan hỷ và sung sướng nhất của chúng ta là thấy mọi người biết thương yêu nhau, biết sống vì nhau, biết tha thứ mỗi lỗi lầm của nhau, v.v... Đức hạnh hoan hỷ nhường chỗ hiếu sinh rất cần thiết cho đời sống con người.

Có hoan hỷ mới có thương yêu, mới có tha thứ.

Có tha thứ mới có buông xả. Nhờ buông xả chúng ta mới chuyển từ người xấu để trở thành người tốt như câu chuyện dưới đây:

LỜI KHEN QUÝ BÁU”.

Tiệm kinh doanh các sản phẩm từ sữa của cha tôi thường xuyên thuê khoảng mười lăm người làm việc hằng ngày. Chúng tôi khử trùng và tinh lọc sữa do những nông dân mang đến mỗi sáng, đóng chai rồi giao cho các hộ gia đình và các nhà hàng. Với khách hàng là trẻ em, chúng tôi có kem đủ loại (gồm 27 hương vị mê ly khác nhau) và sữa đựng trong hộp giấy nhỏ.

Khu nhà chứa sữa của chúng tôi trước đây, nay được sửa sang thành cửa hiệu nhỏ, bên trong đựng một bồn sô đa thật lớn. Suốt mùa hè, từng đoàn du khách xếp hàng lũ lượt tại quầy kem tuyệt hảo do cha tôi chế biến.

Tuy là cửa hàng nhỏ, nhưng công việc lại cực kỳ tất bật, cho nên mọi người phải liên tục làm không hề ngơi tay. Dòng du khách cứ nườm nượp, không hề đứt đoạn. Giờ cao điểm trong những ngày nóng nực thường kéo dài nhiều giờ liền. Bảy anh em tôi phụ giúp cha tôi ngay từ nhỏ, do vậy, chuyện chứng kiến những người làm công mới đến rồi bỏ đi vì không chịu nổi nhịp độ làm việc căng thẳng, đối với chúng tôi là thường tình.

Một ngày năm 1967, chúng tôi có người giúp việc mới, cô Debbie, đến tranh thủ làm thêm trong kỳ nghỉ hè.

Ngày làm việc đầu tiên, Debbie hầu như đụng việc gì cũng hỏng: tính tiền sai trong sổ, báo lầm giá, đưa hàng không đúng cho khách và còn đánh đổ sữa vung vãi. Thấy cô cứ liên tục mắc sai sót như vậy, chịu hết nổi, tôi bèn đến gặp cha và gay gắt:

- Cha hãy ra ngoài kia xem có thể giải thoát cho cô ta khỏi những hành động vụng về được không! - Trong lòng tôi mong cha sa thải cô Debbie đi cho rồi.

Vì văn phòng của cha trông thẳng ra ngoài, nên chắc chắn ông không lạ gì những điều tôi nói. Ông ngồi trầm tư giây lát, rồi chậm rãi đứng dậy và bước tới chỗ cô Debbie đang đứng đằng sau quầy.

- Cô Debbie này - cha tôi cất giọng nhẹ nhàng, khẽ đặt tay lên vai cô - tôi đã quan sát cô làm việc và cũng đã thấy cách cô bán hàng cho bà Forbush.

Mặt cô Debbie đỏ ửng lên, rơm rớm nước mắt, cố nhớ xem bà Forbush là ai trong số những khách hàng bị cô đã thối nhầm tiền hay làm đổ sữa. Cha tôi tiếp:

- Tôi chưa bao giờ thấy bà Forbush lịch sự như vậy với bất kỳ ai trong cửa hàng của tôi.

Vậy là cô đã biết cách làm bà ấy hài lòng. Tôi chắn chắn mai mốt mỗi lần đến mua sữa, thể nào bà ấy cũng mong muốn được cô phục vụ.

Hãy cứ làm tốt như thế nhé! Tấm lòng nhân ái cùng với xử sự thông minh của cha tôi đã mang lại cho ông một sự đền đáp xứng đáng. Trong suốt mười sáu năm sau, doanh nghiệp gia đình chúng tôi đã có một nhân viên trung thành tận tụy và một người bạn tốt bụng”.

Hạt Giống Tâm Hồn

(Cho lòng dũng cảm và tình yêu cuộc sống)

Thương yêu và tha thứ, câu chuyện trên đây quý vị có thấy chăng? Từ một nhân viên làm việc vụng về lỗi lầm, nhưng khéo giúp đỡ an ủi bằng lời khuyên dạy nhẹ nhàng để giúp họ trở thành người làm việc tốt. Đấy là tình thương yêu và tha thứ của người có đạo đức, nếu người không có đạo đức thì chỉ còn có nước cho thôi việc.

Trên đời này, mọi người rất cần tình yêu thương và tha thứ. Nhờ có tình thương yêu tha thứ mà con người mỗi ngày giảm bớt sự khổ đau. Cuối cùng trên hành tinh này chỉ còn là tiếng cười hoan hỷ.

ĐỨC THỨ TÁM ĐỨC QUÊN MÌNH QUAN TÂM ĐẾN NGƯỜI KHÁC, HIẾU SINH Ý HÀNH

Quên mình quan tâm đến người khác là một hành động đạo đức cao thượng mà người đời ai cũng mến phục và yêu thương.

Trải qua trong cuộc đời của chúng ta có rất nhiều gương hạnh hiếu sinh dám hy sinh mình để cứu người khác trong nước sôi lửa bỏng.

Những người làm được những việc vĩ đại ấy, thật là những người có tâm hồn cao thượng tuyệt vời. Những tâm hồn cao thượng ấy lại mai danh ẩn bóng không để cho người đời biết đến tên tuổi của mình, như câu chuyện dưới đây:

ANH HÙNG VÔ DANH”.

Willy cao hơn hai mét và nặng gần một trăm năm chục ký - một thân hình to lớn so với lứa tuổi 16 của cậu. Đó chính là lý do vì sao bọn trẻ trong khu phố lao động của chúng tôi rất e sợ cậu. Bọn chúng thường túm tụm lại kể cho nhau nghe rằng đã có lần, Willy kẹp cổ một người suýt chết ngạt chỉ với đôi tay trần của mình. “Tiếng tăm lẫy lừng” đó khiến hết thảy mọi người phải kiêng nể cậu, nhất là ở cái khu phố đầy bạo lực này - nơi mà cả người lớn lẫn lũ trẻ con đều giải quyết mọi việc bằng bạo lực là chính.

Willy và tôi chơi với nhau từ thuở cả hai còn bé xíu. Ngày đó, Willy đã cao to như một thiếu niên, còn tôi thì vừa béo vừa lùn, với mái tóc cháy nắng đỏ hoe. Lớn lên, chúng tôi cùng làm việc ở một nhà máy nhỏ trong thị trấn. Công việc của tôi là ở văn phòng, còn Willy thì phải ra tận bến tàu. Ngay cả những người làm việc lâu năm nhất ở đó cũng có vẻ e sợ Willy, vì một lẽ đơn giản là cậu ấy rất khoẻ và lại lầm lì ít nói.

Sau giờ làm việc, Willy luôn đưa tôi về nhà an toàn và rất kín miệng về bí mật của cậu ấy.

Chỉ có một mình tôi mới biết rằng, vào mỗi tối, thay vì lượn lờ trên các con phố và gây sự với khách bộ hành như mọi người vẫn đồn đại, Willy lại trở về nhà, nhẹ nhàng đỡ bà ngoại của mình ra khỏi chiếc xe lăn, giúp bà tắm rửa. Sau bữa ăn tối và xem ti vi cùng nhau, cậu lại đặt bà lên giường và bắt đầu đọc truyện cho bà nghe đến khi bà chìm vào giấc ngủ. Mỗi sáng, Willy đều chải tóc cho bà, giúp bà mặc những bộ quần áo mà cậu đã mua bằng tiền công dành dụm của mình, rồi lo cho bà bữa sáng chu đáo.

Xong đâu đấy, cậu lại bế bà đặt vào chiếc xe lăn rồi mới chịu đi làm.

Cha mẹ Willy đều đã mất, vì thế, bà ngoại chính là người thân duy nhất còn lại của cậu.

Willy chăm sóc bà rất chu đáo, và bà chính là lý do để cậu luôn cố gắng sống thật tốt. Rõ ràng là những lời đồn đại về Willy chẳng có chút gì là sự thật, nhưng cậu ấy cũng chẳng bao giờ để ý hay có thái độ phản bác gì. Willy cứ để mặc cho người khác tin vào những gì mà họ nghĩ về cậu, và cũng chẳng lấy làm buồn lòng khi mọi người cứ né tránh cậu như là hung thần trên đường phố vậy.

Một ngày nọ, tôi có việc phải nấn ná lại văn phòng nên Willy đi về trước. Xong việc, tôi đi bộ về nhà như thường lệ thì thấy ngay gần nhà máy đóng hộp là năm sáu chiếc xe cứu hỏa đang nối đuôi nhau thành hàng dài trên đường. Một màn khói dày đặc phủ kín cả một góc trời phía trên dãy nhà. Len qua đám đông, tôi nhìn thấy một phụ nữ nước mắt lưng tròng đang ôm trong tay đứa bé được quấn trong chiếc áo sơ mi cũ, vải ca rô đỏ đen mà tôi trông rất quen. Người phụ nữ đang nói chuyện với vài người lính cứu hỏa và một phóng viên của tờ tin buổi chiều.

...Lửa cháy, khói bốc lên nghi ngút, chàng thanh niên to cao ấy nghe tiếng con tôi khóc và đã nhảy ngay vào lửa để cứu nó”, cô ta kể trong nước mắt, nét mặt vẫn chưa hết kinh hoàng, hai tay ôm chặt lấy đứa bé như sợ sẽ mất nó lần nữa. “...Cậu bé quấn thằng bé bằng cái áo sơ mi này trước khi trao nó lại cho tôi. Tôi còn chưa kịp nói lời biết ơn thì cậu ấy đã mất hút vào đám đông, ngay khi xe cứu hỏa vừa đến”.

Tối hôm ấy, đài truyền hình địa phương đã đưa tin về vụ hỏa hoạn xảy ra ở khu phố nọ, cùng với lời tuyên dương người anh hùng vô danh đã dũng cảm xông vào ngọn lửa cứu người già và trẻ em. Bản tin cũng cho biết, chánh quyền thành phố sẽ trao tặng huy chương và phần thưởng cho những ai chứng minh được mình là người anh hùng vô danh đó. Nhưng cho đến hôm nay, nhân vật anh hùng đó vẫn là một ẩn số”.

Anh Khang

Theo “Big Willy”

Làm một việc nghĩa mà không để cho đời biết mình làm việc nghĩa, thì chính đó là một nhà từ thiện vĩ đại. Làm việc từ thiện có bỏ ra một chút tiền mà hô hào cho mọi người biết, đó là làm việc thiện để cầu danh. Làm việc thiện cầu danh thì đó không phải là việc từ thiện. Có người làm việc từ thiện thường đi cứu trợ chỗ này, chỗ khác, nhưng lại làm nghề cho vay lấy lãi thì còn gì là thiện. Nếu muốn làm việc từ thiện mà thật thiện thì nên làm nghề khác, nghề lương thiện. Từ đồng tiền lương thiện của mình mà làm việc từ thiện, lại còn dấu tên tuổi thì mới thật sự làm việc từ thiện.

Cậu Willy cứu người xong liền biến dạng trong đám đông người, để tránh mọi người khen tặng tán dương, đến đỗi người mẹ của cháu bé bị tai nạn cũng không kịp cảm ơn, thì đủ biết cậu Willy cố ý để không ai biết mình cứu em bé.

Đúng là một nhà từ thiện vĩ đại, làm từ thiện như vậy mới thật là nhà làm từ thiện.

Cho nên bài này lấy tựa đề ANH HÙNG VÔ DANH thật xứng đáng với con người vĩ đại mà mọi người phải kính phục.

Dưới đây là những bài viết về những nhân vật có thật trong xã hội chúng ta hiện nay. Họ đang thực hiện đức hiếu sinh sống vì người; họ đem tình thương đến với mọi người. Họ là những tấm gương sáng để chúng ta cùng noi theo những đức hạnh và tình người cao quý - con người đối với con người. Chúng tôi mong rằng đức hiếu sinh này luôn luôn ở trong lòng mọi người, để con người xứng đáng làm người.

Bởi chỉ có tình thương mới làm ấm lòng người, chỉ có tình thương mới đem lại sự bình an cho mọi người.

Bài viết số 1: CHIA ĐÔI GIỌT MÁU CỨU NGƯỜI

Bữa cơm tối của gia đình anh Bùi Công Minh (quận 1) vừa dọn ra còn bốc khói, chưa ai kịp chạm đũa thì điện thoại reo. Sau vài câu trao đổi với người bên kia đầu dây, anh Minh buông đũa, vơ vội chiếc áo treo trên vách và hối hả dắt xe ra khỏi nhà. Như đã quá quen với những lần vắng nhà đột ngột như thế này của chồng, vợ anh Minh chẳng thấy lạ lẫm.

1. Những ca hiến máu nhớ đời

Bệnh nhân cần cho máu khẩn cấp là một bé gái sơ sinh đang nằm ở bệnh viện Từ Dũ. Bé là kết quả tình yêu muộn màng của đôi vợ chồng lớn tuổi sau nhiều năm điều trị vô sinh. Ngay lúc chào đời, bé bị thiếu máu nghiêm trọng. Mặc dù bệnh viện có nguồn máu dự trữ, nhưng vắt cạn cả kho máu cũng không tìm đâu ra được một giọt thuộc nhóm RH. “Nhìn ánh mắt thất vọng của hai vợ chồng họ khi kết quả thử máu không phù hợp, mình cũng thấy đau ran cả lòng cả dạ. Lúc cho máu em bé xong, người cha đã đến nắm lấy tay tôi bật khóc”, anh Minh nhớ lại.

Lần đó anh hiến hai đơn vị máu (450ml). Bệnh viện và gia đình đứa bé hỏi tên và địa chỉ, nhưng anh lắc đầu rồi lặng lẽ đội mưa về cho kịp bữa cơm tối cùng vợ con.

Một lần đang trao đổi công việc với khách hàng, chị Lê Thị Thanh Hà (quận 1) được tin một bệnh nhân đang cấp cứu ở bệnh viện Chợ Rẫy cần truyền máu hiến gấp. Bỏ dở công việc, chị lao vội từ tầng hai xuống đất, gọi taxi đến ngay bệnh viện. Người cần cho máu hôm đó là một thanh niên bị nạn khi chạy xe đuổi bắt một tên cướp vừa giật giỏ xách của người đi đường.

Nhờ hai đơn vị máu của chị Hà, sau một tuần điều trị, người thanh niên ấy đã hồi phục. Lúc tỉnh lại, anh ấy nói vui: “Tôi lo cứu người khác, còn chị cứu tôi”, chị Hà cười giòn tan kể.

Anh Lâm ở quận Tân Phú bảo: “Tôi rất hạnh phúc đã hiến máu cho cháu bé là cháu nội duy nhất của một bà mẹ Việt Nam anh hùng ở miền Trung”. Nhờ hai đơn vị máu của anh, đứa bé đã được cứu sống.

2. Quên mình cứu người dưng

Sau lần cho máu bé gái ở bệnh viện Từ Dũ, anh nằm bệnh viện suốt cả tuần. “Theo quy định, thời gian giữa hai lần hiến máu với người nam là ba tháng, với người nữ là bốn tháng.

Nhưng tại vì trước đó 10 ngày, tôi đã hiến hai đơn vị máu cứu một người bị tai nạn giao thông nên sức khoẻ xuống hơi nhanh”, anh Minh giải thích. Cũng mắc cái tội hiến máu không theo đúng nguyên tắc như anh Minh, sau lần cứu anh “Lục Vân Tiên thời nay”, chị Hà cũng đổ ốm mấy ngày liền. Chị bộc bạch: “Thiệt tình lúc đó điện thoại kêu đi hiến máu, sức khoẻ tôi không tốt lắm. Nhưng cứ nghĩ đến cảnh người cần cho máu đang giành giật từng phút giây để sống, tôi không cam tâm từ chối...”.

Không chỉ hiến máu cứu người trong nước, các thành viên còn cứu người nước ngoài. Một đêm tháng 5/2003, ông Jacob Deutsh, một chuyên gia người Đức được đưa vào bệnh viện Chợ Rẫy trong tình trạng giảm tiểu cầu trầm trọng. Ông đã được những người dưng nơi đất khách cứu khỏi cơn nguy kịch. Trước khi về nước, ông Jacob Deutsh ghé Trung tâm hiến máu nhân đạo TP.HCM bày tỏ: “Trong con người tôi có thêm dòng máu của người Việt Nam, của những người luôn sống chân tình. Các bạn là những ân nhân mà suốt đời tôi không thể quên”.

Có một điểm chung ở các thành viên câu lạc bộ hiến máu, họ không muốn người được cứu sống phải mang ơn họ, ngay khi phải có tên tuổi hoặc địa chỉ. Bác sĩ Bùi Văn Thêm, giám đốc Trung tâm hiến máu nhân đạo TP.HCM, chủ nhiệm cậu lạc bộ hiến máu kể, nhiều bệnh nhân sau khi hết bệnh đến Trung tâm xin địa chỉ người đã cho máu cứu mình, nhưng ông buộc lòng phải từ chối. Sống trên đời cần có một tấm lòng để gió cuốn đi... Nhiều người từng được cứu sống bằng máu của những người tốt bụng đã tham gia câu lạc bộ như một cách tri ân.

Dòng máu của họ cùng các thành viên trong nhóm lại tiếp tục tuần hoàn hiến tặng, mang theo thông điệp cao cả cứu người.

Trần Ngọc

Ngày 27/4/2007, báo Xã Hội Pháp Luật

Bài viết số 2: HAI MẸ CON CHUẨN BỊ… BỎ THI

Hai mẹ con đứng trước quầy vé, chuẩn bị mua vé trở về quê và bỏ thi Đại học, vì trong túi chỉ còn 100.000 đồng. Thế rồi những tấm lòng lại mở ra...

“Lần đầu tiên đi thi Đại học, gặp một cú sốc vô cùng lớn, tưởng rằng em sẽ bỏ thi giữa đất Sài Gòn rộng lớn này... Em cám ơn các anh chị rất nhiều!...”. Đó là lời tâm sự chân thành mà thí sinh Nguyễn Thảo Hoài Hương ghi trong nhật ký Tiếp Sức Mùa Thi của các sinh viên tình nguyện tại bến xe Miền Tây.

Cô Nguyễn Thị Ánh dắt con gái Hoài Hương lặn lội từ Tiền Giang lên Sài Gòn để thi vào Trường ĐH Mở TP.HCM. Lần đầu lên thành phố, không biết đường xá, lại chỉ có ít tiền, nên cô Ánh và Hương đón xe đến bến xe miền Đông để cầu cứu người quen. Thế nhưng hai mẹ con đành lủi thủi quay lại bến xe miền Tây, vì người quen không cho ở. Trong túi cô chỉ còn hơn 100.000 đồng, Hương và mẹ dự định lại quầy mua vé trở về quê. Cô Ánh vô cùng đắn đo giữa quyết định về hay ở, vì nếu về thì Hương phải chấp nhận bỏ thi. Rất may các sinh viên tình nguyện tại bến xe miền Tây đã kịp thời liên lạc với trung tâm hỗ trợ sinh viên Trường ĐH Mở TP.HCM để thu xếp chỗ ăn ở miễn phí cho hai mẹ con. Cô Ánh và Hương mừng rơi nước mắt và không ngớt lời cảm ơn các sinh viên tình nguyện. Cô tâm sự: “Nhà nghèo, nhưng thấy con ham đi thi nên ráng lo cho con lên đây. Nếu không có các cô cậu giúp đỡ thì tôi cũng không biết làm sao. Về không nỡ, ở thì không tiền”.

Mỹ Phụng

Báo Tuổi Trẻ

Bài viết số 3: THƠM THẢO TẤM LÒNG NGƯỜI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

“Tui là nông dân ở quê, đưa con vào TP.HCM thi, vừa xuống bến xe thì được các anh chị sinh viên tình nguyện chở về đây ở! Không ngờ ở Sài Gòn lại có nhiều người tốt như thế!”, ông Phạm Lợi, bố của thí sinh Phạm Tuân, ở trọ miễn phí tại nhà 41/7 đường Cô Giang (Q.1), xúc động nói.

1. Ở đây sướng lắm!

Đến căn nhà vào buổi sáng, lên tầng trên nhìn ra ban công, năm phụ huynh đang ngồi uống nước trà và trò chuyện, nhìn sang phía đối diện là các sĩ tử đang ôn bài. Mặc dù chỉ đăng ký cho ở năm người, nhưng bây giờ số người ở miễn phí tại đây đã tăng gấp ba. Đã chín năm nay, năm nào tới mùa tuyển sinh, căn nhà của ông Hồ Đắc Dung (68 tuổi) cũng là nơi ở miễn phí cho nhiều thí sinh và phụ huynh ở tỉnh xa.

Ông dành nguyên cả tầng trên để các thí sinh và người thân ở, còn mình thì nghỉ tầng dưới. Các căn phòng đều trang bị đầy đủ bàn và ghế ngồi học.

“Tui là người thành phố, trước kia lại là cán bộ Đoàn, cứ mỗi năm tới mùa tuyển sinh tôi lại bắt gặp nhiều cháu ở quê lên không có tiền thuê nhà trọ, không có tiền ăn cơm, phải ngủ bờ ngủ bụi để thi. Thậm chí có nhiều cháu còn bị giật mất quần áo, tiền bạc... thấy thương quá! Thôi thì mình có điều kiện hơn, nhà cũng có chỗ trống, cho ở được cháu nào hay cháu đó”.

“Năm đầu tiên chỉ cho hai cháu ở, vì mình cũng còn e ngại, nhưng đến hôm nay thì vượt chỉ tiêu”, ông vừa cười vừa kể. “Vui nhất là khi nhận được điện thoại báo đậu đại học của các cháu điện về. Nhiều cháu còn mang quà ở quê vào cám ơn rồi nói: Nhờ ở nhà ông mà con đậu đại học đó!”.

Một ngôi nhà ở đường Ngô Văn Năm (Q.1).

Trong các căn phòng rộng và sạch sẽ là cảnh học sinh đang ôn bài chuẩn bị cho kỳ thi sắp tới, phụ huynh thì nằm nghỉ ngơi. Chị YBRai, mẹ của thí sinh Chu Thị Thu Hà (quê Đakglây, Kontum) kể: “Bố nó mất từ lúc nó lên sáu tuổi, một mình tui phải làm để nuôi hai chị em ăn học. Làm nông nghèo, phải chạy vạy khắp nơi mới vay được tiền xuống thành phố thi. Đến nơi, may mà nhờ các anh chị sinh viên tình nguyện chở đến đây ở miễn phí, nếu không thì không biết lấy tiền đâu mà thuê chỗ ở”.

2. Như là gia đình thứ hai

Vợ chồng lương y Cao Văn Đắc (phòng chẩn trị y học cổ truyền Phú Lâm, 14-16 Bà Hom, Q.6) mùa thi này lăng xăng dọn dẹp nhà cửa, giặt chăn màn, sửa lại bóng điện, chuẩn bị chỗ ngủ... để đón thí sinh. Đợt 1 vừa qua, căn nhà của bà là nơi ở của hơn 20 thí sinh. Ông bà đã cho thí sinh ở từ ba năm nay.

Bà bồi hồi kể lại: “Năm đầu tiên cô đăng ký cho ở miễn phí thì chẳng có ai ở cả, đến năm thứ hai bắt đầu đông. Năm rồi cô phải liên hệ xin nhà chùa cho các em ở miễn phí mới đủ chỗ.

Ngày trước lúc cô đi thi, cô cũng từng sống những tháng ngày cơ cực, từng ngủ ngoài công viên chờ trời sáng rồi thi. Bây giờ nhìn những đứa trẻ ở quê lên bơ vơ, lạc lõng là mình thấy thương. Biết rằng các cháu có chí, muốn vươn lên nên mình đâu thể làm ngơ được”.

“Thiếu nước thì nói chú mua nước, tối quá thì bật điện lên học chứ để mờ mắt”, lâu lâu ông Đắc cũng nhắc. Trần Thị Kim Liên (quê Đắc Lắc), thi vào ĐH Sư phạm, tâm sự: “Lần đầu tiên xa nhà nhớ nhà nhiều lắm, nhưng sống ở đây cô chú quan tâm không khác gì cha mẹ ở nhà nên cũng đỡ nhớ. Em thấy đây giống như gia đình thứ hai của mình”.

Quang Phương

Báo Tuổi Trẻ Thứ bảy, 07/7/2007

MỤC LỤC