Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống

Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống (tập 1)

Đức Thích Ca Mâu Ni sáu năm khổ hạnh trên núi Tuyết, giữ gìn giới hạnh tinh nghiêm không thể có ai giữ gìn giới hạnh hơn được. Nhờ thế tâm Ngài ly dục ly ác pháp hoàn toàn, trở thành bất động. Cho đến khi trở về với Tứ Thánh Định trong 49 ngày đêm không biết mỏi mệt Ngài đắc bốn thiền, thực hiện Tam minh, chứng Thánh quả A La Hán. Một con người bằng xương, bằng thịt như bao nhiêu người khác nhưng lại là con người phi thường.

LỜI NÓI ĐẦU

Văn Hóa Truyền Thống Thánh Hạnh tập 1” là một bộ sách giới thiệu về đức hạnh của một người ấu thơ xuất gia, cũng như một người đã lớn tuổi mới bước chân vào đường tu học theo Phật Giáo.

 Việc đầu tiên là bắt buộc (Giới cấm) họ phải học hỏi, tu tập, rèn luyện để sống và thực hiện cho bằng được những đức hạnh làm Thánh Sa Di này. Nếu họ không bằng lòng sống đúng với những đức hạnh Thánh này thì không chấp nhận họ trở thành đệ tử xuất gia của Phật. Cho nên đức Phật dạy: “Một người muốn theo đạo Ta phải sống biệt trú 4 tháng, nếu sống được những đức hạnh (Phạm hạnh) của người tu sĩ thì Ta mới chấp nhận làm đệ tử của Ta, chứ Ta không bắt buộc và cám dỗ một người nào theo đạo Ta tu tập, vì tu tập là có lợi ích cho các người chứ không phải có lợi ích cho Ta”.

Những giới luật này là văn hóa đạo đức của loài người, chứ không phải của riêng cho những tu sĩ Phật giáo, nó là của chung của nhân loại. Bởi vì nó là đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả muôn loài chúng sanh.

Cho nên làm người phải có học, có hiểu biết, có tu tập, có rèn luyện, có sống đúng như vậy, thì mới xứng đáng làm người, làm đệ tử của Đức Phật, mới xứng đáng là người cầm ngọn đuốc chánh Phật pháp soi đường cho mọi người đi sau này. Còn nếu không giữ gìn mười giới đức hạnh Thánh này được, thì xin quý bạn hãy vui lòng đừng xuất gia, đừng đi tu theo Đạo Phật, vì xuất gia đi tu cũng chỉ vô ích, phí uổng một cuộc đời, chẳng làm lợi ích cho mình, cho người, lại càng tạo thêm tội ác và phỉ báng Phật giáo.

 Vì có xuất gia mà sống không đúng những giới đức hạnh Thánh này, vô tình quý bạn không làm tròn bổn phận của người tu sĩ xuất gia đệ tử của Phật là tự quý bạn đã phỉ báng Phật pháp như trên đã nói, là tự quý bạn đã giết chết Phật giáo, là tự quý bạn đã chôn vùi Phật giáo xuống bùn nhơ, hôi thối…

Kính thưa quý bạn! Quý bạn có biết chăng? … Quý bạn có thấy chăng? …

Người cư sĩ còn đến chùa xin Thọ Bát Quan Trai một ngày một đêm để giữ gìn tám giới đức hạnh Thánh của bậc xuất gia này. Vậy mà quý bạn là những người đã xuất gia, làm thầy Sa Di, lại không sống đúng những hạnh Thánh của Thầy Sa Di, thì quý bạn nghĩ sao? Quý bạn có biết xấu hổ chăng? Có nhìn thấy những Phật tử giữ gìn tám giới “Bát Quan Trai” không?

Kính thưa các bậc tôn túc!

Kính thưa quý vị Phật tử nam nữ bốn phương!

Kính thưa quý vị! Hiện giờ các bậc tôn túc là những vị Tỳ kheo Đại Đức, Thượng Tọa, Hòa Thượng mà lại sống không đúng mười giới đức hạnh Thánh Sa Di này, thì các bậc tôn túc có xấu hổ lắm không? Có cảm thấy mình không xứng đáng là một tu sĩ trong hàng giáo phẩm Đại Đức, Thượng Tọa, Hoà Thượng chăng?

Kính thưa quý bạn!

Là một Thầy Sa Di sao quý bạn nỡ lòng nào phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới đức Thánh của Phật giáo như vậy? Quý bạn đã làm cho mọi người khinh chê Phật giáo, phỉ báng Phật giáo… các bạn có biết chăng? Lời đức Phật năm xưa dạy: “Giới luật Ta còn là Phật giáo còn, giới luật Ta mất là Phật giáo mất”,vậy ai đã làm mất giới luật hỡi quý bạn? Thế mà quý bạn nỡ tâm bẻ vụn giới, phá giới, phạm giới, xem thường giới, sống chà đạp lên giới luật đức hạnh Thánh này sao ???

Đạo Phật còn hay mất là do những tu sĩ có gìn giữ giới hạnh hay không. Nhờ giữ giới mà oai nghi tế hạnh Thánh của quý bạn mới thể hiện qua sự sống hằng ngày, khiến cho Phật tử và mọi người nhìn thấy mà sanh lòng quý mến, kính phục và tôn trọng. Chỉ có oai nghi tế hạnh Thánh của giới luật mới giúp cho các bạn ly dục ly ác pháp, vì giới luật là một pháp môn vô lậu. Quý bạn có biết chăng? Quý bạn hãy tin lời Phật dạy và thực hiện giới luật cho nghiêm chỉnh thì tâm vô lậu của quý bạn sẽ hiện hành trong cuộc sống hằng ngày, có thế cuộc đời tu hành theo đạo Phật của quý bạn mới không uổng phí chút nào cả.

Giới sanh Định”,lời Phật đã dạy năm xưa như vậy, người nào tu tập đi ngược lại lời dạy này là “Ma Ba Tuần” đang phá Phật giáo, đang làm cho Phật giáo suy thoái, đang dìm mất Phật giáo dưới bùn nhơ bất tịnh, đang làm cho Phật giáo mất gốc… Quý bạn có hiểu chăng?

Đi ngược lại lời dạy trên đây của đức Phật thì quý bạn tu hành chẳng có ích lợi gì đâu, chỉ chuốc thêm tội lỗi mà thôi, bởi vì quý bạn đã chạy theo dục lạc thế gian bằng con đường danh lợi dưới hình thức Phật giáo. Các bạn có biết không? Do đó vô tình quý bạn nuôi lớn ngã mạn của mình đồ sộ và vĩ đại hơn.

Quý bạn có biết đâu chùa càng to, Phật càng lớn thì nợ đàn na thí chủ càng nhiều, vì thế nghiệp khổ đau càng chồng chất lên đầu, lên vai của quý bạn càng cao. Quý bạn có biết không? Khi nghiệp càng cao thì các bạn không sao tránh khỏi, mà phải chịu trả quả này làm gươngcho mọi người xem. Như chúng ta đã biết từ xưa đến giờ hình ảnh Thầy, Tổ của chúng ta đã để lại cái chết rất đau thương, phải chịu khổ đau trên giường bệnh một thời gian dài… Quý bạn có thấy chăng?

Giới luật là hàng đầu trên đường tu hành giải thoát của Phật giáo. Quý bạn nên nhớ kỹ, nó là hạnh ly dục ly ác pháp, nó giúp cho tâm quý bạn thanh tịnh và giúp cho tâm quý bạn có một nội lực (Thất Giác Chi) tuyệt vời để các bạn thực hiện thiền định và trí tuệ Tam Minh.

Nếu quý bạn không sống đúng mười giới đức Thánh Sa Di này thì xin quý bạn vui lòng cởi áo cà sa trả lại cho nhà chùa, chứ đừng mặc chiếc áo như vậy rất tội cho Phật giáo quý bạn ạ!

Đừng mượn chiếc áo tu sĩ Phật giáo làm danh, làm lợi. Tội lắm quý bạn! Quý bạn hãy thương Phật giáo, đừng giết nó chết. Vì nó chết thế gian này sẽ trống vắng, sẽ mất đi một nền đạo đức nhân bản - nhân quả tuyệt vời, nền đạo đức mà mọi người trên hành tinh đang mong đợi; nếu nó mất đi loài người sẽ khổ đau vô cùng, vô tận; ác pháp sẽ tràn lan khắp mọi nơi; tai họa diệt chủng sẽ không tránh khỏi.

Xin các bạn hãy dừng lại. Đừng phạm giới, đừng bẻ vụn giới, đừng phá giới, đừng khinh thường giới… Giới luật sẽ giúp thân tâm quý bạn thanh tịnh. Giới luật sẽ giúp quý bạn ly dục ly bất thiện pháp, khiến cho tâm hồn quý bạn bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Giới luật sẽ giúp quý bạn nhập các loại chánh định, làm chủ sự sống chết, chấm dứt luân hồi, thoát vòng khổ đau của nhân quả nghiệp báo…

Những lời kêu gọi tha thiết trên đây đầy lòng yêu thương với một tình thương chân thật từ trong tâm hồn sâu thẳm của một con người đã từng sống trong giới luật đức hạnh, đã làm chủ được sự sống chết của mình nên cất tiếng kêu gọi mọi người như người mẹ gọi các con thân thương của mình vậy, quý bạn có tin chăng? Nếu không tin thì cũng chẳng sao, mà tin thì có lợi ích cho quý bạn trên đường tu tập, hướng về chân hạnh phúc.

Kính ghi,

Tu Viện Chơn Như

PHẦN MỘT: MƯỜI GIỚI ĐỨC SA DI

LỜI GIỚI THIỆU VĂN HÓA MƯỜI GIỚI ĐỨC SA DI

VĂN HÓA

MƯỜI GIỚI ĐỨC SA DI

1- Giới thứ nhất không sát sanh = Thánh đức hiếu sinh.

2- Giới thứ hai không trộm cắp = Thánh đức buông xả.

3- Giới thứ ba không dâm dục = Thánh đức thanh tịnh.

4- Giới thứ tư không nói dối = Thánh đức chân thật.

5- Giới thứ năm không uống rượu = Thánh đức minh mẫn.

6- Giới thứ sáu không trang điểm = Thánh đức tự nhiên.

7- Giới thứ bảy không ca hát và nghe ca hát = Thánh đức trầm lặng độc cư.

8- Giới thứ tám không nằm giường cao rộng lớn = Thánh đức thanh bần.

9- Giới thứ chín không ăn uống phi thời = Thánh đức ly dục.

10- Giới thứ mười không cất giữ tiền bạc = Thánh đức ly tham.

LỜI BẠT

Kính thưa các bạn! Mười Giới Đức Sa Di này là mười đức hạnh Thánh không phải chỉ dành riêng cho những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ mà mười giới đức Thánh này được dạy chung cho loài người, không riêng cho cả bốn hàng đệ tử của Phật:

1/ Tăng

2/ Ni

3/Cư sĩ nam

4/ Cư sĩ nữ

Vì thế, Đức Phật dạy hằng tháng cư sĩ nam và cư sĩ nữ đều phải có những ngày Thọ Bát Quan Trai. Thọ Bát Quan Trai là các cư sĩ tu tập chín hạnh Thánh trong Mười Giới Đức Sa Di này vậy.

Rõ ràng Mười Đức Sa Di này không phải chỉ dành riêng cho Tăng, Ni mà ngay cả những cư sĩ tu theo Phật giáo đều phải giữ gìn nghiêm chỉnh như những bậc xuất gia. Người cư sĩ nào sống trọn vẹn với những Giới Đức Thánh này đều được gọi là những bậc ly dục ly ác pháp. Những bậc ly dục ly ác pháp là những bậc nhập vào dòng Thánh (nhập lưu), nên được gọi là Thánh đệ tử Phật. Người cư sĩ giữ gìn trọn vẹn Mười Đức Sa Di này đều được xem là những bậc Thánh Cư Sĩ.

Dù là người cư sĩ nhưng giữ gìn trọn vẹn Mười Giới Đức Sa Di này và tiến lên tu tập các pháp Chánh niệm, Chánh định thì sẽ chứng quả A La Hán dễ dàng.

Các nhà Đại Thừa cấm những cư sĩ học, đọc giới bổn Thánh Đức này, vì sợ những cư sĩ hiểu biết sẽ chỉ trích, phê bình họ phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới, v.v..

Các nhà Đại Thừa cấm những cư sĩ học, đọc giới bổn Thánh Đức này, là vì họ sợ những cư sĩ hiểu biết sẽ chỉ trích, phê bình họ sống chạy theo ngũ dục lạc, đi ngược lại đường lối đạo Phật “xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”.

Mười Giới Đức Sa Dinày là một nền tảng cơ bản vững chắc để cho những ai muốn đi trọn con đường Phật giáo không sợ lạc vào tà giáo, ngoại đạo; để cho những ai muốn xây dựng cho mình một ngôi nhà giải thoát mà không sợ giông mưa bão tố, v.v..

Mười Giới Đức Sa Dinày là một nền tảng cơ bản vững chắc về đạo đức nhân bản - nhân quả làm người: không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh. Vì vậy, không riêng bốn giới đệ tử của Phật mà tất cả mọi người có tôn giáo hay không tôn giáo đều nên đọc và học.

Mười Giới Đức Sa Dinày là một cuốn sách dạy đạo đức làm Người, làm Thánh, nên tất cả mọi người đều có thể đọc, học và rèn luyện những đức hạnh này. Những đức hạnh này giúp cho mọi người có một cuộc sống khỏe mạnh, an vui, hạnh phúcvà sống lâu.

Kính ghi,

Tu Viện Chơn Như

 

GIỚI ĐỨC SA DI THỨ NHẤT: KHÔNG SÁT SANH

Không sát sanh là “THÁNH ĐỨC HIẾU SINH”. Người tu sĩ cũng như những người cư sĩ tại gia cần phải học hiểu và sống cho đúng những đức hạnh này.

“THÁNH ĐỨC HIẾU SINH”này là lòng thương yêu sự sống của muôn loài trên hành tinh này.

“THÁNH ĐỨC HIẾU SINH”chỉ có con người mới thực hiện được. Vì thế, đạo Phật ra đời mới đem chỉ dạy cho nhân loại, để chúng ta xây dựng cho mình có một tâm hồn hiếu sinh. Nhờ tâm hồn hiếu sinh, con người mới sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh, để biến cảnh sống trên hành tinh này thành cảnh sống an lạc cho mọi sự sống của muôn loài.

Hành tinh của chúng ta đang sống là một hành tinh có nhiều duyên hợp để sống và nảy sinh ra sự sống khác nhau. Có trùng trùng duyên hợp thì phải có trùng trùng duyên sanh. Sanh diệt là một thể tự nhiên của hành tinh sống. Hành tinh sống là một hành tinh có nhiều duyên hợp lại để tạo thành một sự sống mới. Tạo thành sự sống mới có nghĩa là do các duyên hợp lại tạo ra một loài vật mới như: thực vật hay động vật mới.

Cho nên vạn vật sinh ra không phải là do ĐẤNG TẠO HÓAmà do CÁC DUYÊN HỢP.

Chúng tavà vạn sinh vật do từ các duyên hợp lại sinh ra, cho nên chúng ta phải thương yêu nhau thương tất cả chúng sanh, vì có thương yêu chúng sanh thì chúng ta mới bảo vệ sự sống của muôn loài và của chính chúng ta. Nếu vô tình chúng ta hủy hoại sự sống của chúng sanh (sự sống của loài vật), là chúng ta tự huỷ hoại sự sống của chính mình.

Tại sao lại gọi hành tinh của chúng ta là hành sống.

Trong vũ trụ có nhiều thái dương hệ, trong mỗi thái dương hệ có nhiều hành tinh, trong các hành tinh phần nhiều là hành tinh chết vì nơi đó không có sự sống. Trong không gian vũ trụ có rất ít hành tinh sống so với hành tinh chết.

Hành tinh sống có nghĩa là nơi đó có môi trường sống, phù hợp cho vạn vật sinh sôi, nảy nở, sống và lớn lên: Bắt đầu từ loài rong rêu, thảo mộc rồi đến các loài vi khuẩn, côn trùng và cầm thú sinh ra. Cuối cùng là loài người.

Loài người là một loài động vật cao cấp thông minh nhất trong các loài vật.

Nhờ có bộ óc thông minh nên loài người được xem là chúa tể của muôn loài.

Loài động vật trên hành tinh sống này thường giết hại lẫn nhau, ăn thịt nhau mà chẳng chút thương nhau. Loài người cũng chỉ là một loài động vật nên vẫn nằm trong bản chất hung ác của loài động vật. Vì thế nên vẫn giết hại và ăn thịt lẫn nhau. Hiện giờ loài người tự cho mình là văn minh, nhưng bản chất hung ác vẫn còn mang nặng trong tâm hồn.

Như đã nói ở trên: loài người vượt hơn muôn loài là nhờ có bộóc thông minh, là nhờ có tình cảm sâu sắc, nên từ đó xuất hiện những con người thoát ra khỏi bản chất hung ác của loài động vật, tuyên dương lòng thương yêu sự sống của muôn loài. Đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã xây dựng cho loài người một nền đạo đứcnhân bảnnhân quả, và kêu gọi mọi người mọi loài vật hãy thực hiện lòng hiếu sinh (tâm từ bi), lòng yêu thương nhau một cách chân thật.

Lòng thương yêu sự sống của muôn loài xuất hiện theo từng cấp độ:

1- Cấp độ thứ nhất: con người biết thương con người.

2- Cấp độ thứ hai: con người biết thương các loài động vật khác.

3- Cấp độ thứ ba: con người biết thương cây cỏ và thảo mộc.

Gồm ba cấp độ này lại mới được gọi là “LÒNG HIẾU SINH”.Lòng hiếu sinh xuất phát từ tâm từ, bi, hỷ, xả. Trong đạo Phật tâm từ, bi, hỷ, xả còn có tên là TỨ VÔ LƯỢNG TÂM.Tứ Vô Lượng Tâm là một pháp môn tu tập để thực hiện “ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH”.

Một người sống có lòng hiếu sinh là người biết thương sự sống của muôn loài. Người nào sống được như vậy mới thật sự là bậc Thánh nhân. Vì chỉ có bậc Thánh nhân mới sống được như vậy, sống mà không nỡ giết hại và ăn thịt lẫn nhau, đó là một hành động không còn mang bản chất hung ác của loài động vật; đó là một hành động không thể loài cầm thú mà làm được, chỉ có con người mới thực hiện được mà thôi.

Bởi vậy Thánh nhân không phải từ trên trời rơi xuống hay dưới đất chui lên, mà từ con người, con người biết thương yêu sự sống của muôn loài.

Chỉ có con người biết tu sửa thân tâm, biết ngăn và diệt ác pháp, biết làm điều lành, biết không làm khổ mình, khổ người, khổ muôn loài. Người biết làm như vậy, đó là Thánh nhân.

Do biết khổ nên cố gắng khắc phục mình không làm điều ác, luôn sống làm điều lành, đó là tu tập để làm Người thật là Người, để làm Thánh thật là Thánh.

Chúng ta hãy nhìn xem mọi người đang sống quanh ta, tìm một người biết thương yêu sự sống của muôn loài thì thật là hiếm thấy. Phải không các bạn?

Giới đức THÁNH SA DI HIẾU SINH này là để xác định đức hạnh từ, bi, hỷ, xả của một tu sĩ Phật giáo, dù ấu thơ hay già nua xuất gia đều phải sống đúng như vậy mới được gọi Thánh đệ tử của Phật.

Vậy mà có một số người, mặc áo như Phật, tự xưng mình là Thánh đệ tử của Phật, tu theo pháp môn chánh gốc của Phật, thế mà hằng ngày ăn thịt chúng sanh chẳng khởi lòng yêu thương trước sự đau khổ và chết chóc của loài vật. Tội ác bằng non, bằng núi như vậy mà lại tìm cách che đậy và dối gạt mọi người, nhất là Phật tử, họ bảo rằng: “Trước giờ thị tịch đức Phật còn ăn thịt heo rừng”. Thật là lời bịa đặt khéo léo và gian xảo vô cùng. Chúng ta nhận xét không có lối che đậy tuyệt hảo nào bằng cách là bảo “Đức Phật ăn thịt chúng sanh”. Bảo đức Phật ăn thịt chúng sanh thì không còn sợ ai lên án và kết tội mình nữa.

Trong khi đó đức Phật thường dạy chúng ta: “Thừa tự pháp, không nên thừa tự thực phẩm”. Giới luật thứ nhất dạy “CẤM SÁT SANH”.Thế mà họ dám bịa đặt ra câu chuyện đức Phật ăn thịt heo rừng trước khi chết.

Lúc bấy giờ có một vị Tỳ Kheo ở xa đến trình Phật một sự kiện xảy ra: “Kính thưa đức Thế Tôn, trên đường đến đây chúng con có hai người mong đến để được gặp Phật. Giữa đường con nhờ uống nước có trùng nên còn sống sót về đây gặp Phật, còn bạn con vì giữ giới luật không uống nước có trùng nên đã chết giữa đường. Vậy xin đức Phật phán xét như thế nào?”.

Đức Phật bảo: “Kẻ ngu si kia! Ông có biết rằng: Vị Tỳ Kheo do không uống nước có trùng đã gặp Phật trước khi ông đến đây không? Còn ông gặp Phật mà lại không bao giờ gặp Phật. Ông có hiểu chưa?”. Lời dạy này xác định tu sĩ Phật giáo hiện giờ không bao giờ gặp Phật, là vì họ phạm giới, phá giới, v.v..

Uống nước có trùng mà còn không gặp Phật, thì thử hỏi quý sư, thầy: “Ăn thịt chúng sanh thì làm sao tu hành giải thoát được?”. Các sư, thầy gọi là Thánh Tăng mà ăn thịt chúng sanh thì Thánh Đức Hiếu Sinh ở đâu? Các Sư Thầy có biết không? Đạo Phật có Tứ Vô Lượng Tâm, vậy Tứ Vô Lượng Tâm của các Sư Thầy ở đâu? Thánh đức hiếu sinh không tròn thì làm sao làm Thánh Tăng, Thánh Ni được. Phải không quý vị?

Thánh Tăng mà còn ăn thịt chúng sanh thì Thánh đó là Thánh gì? Câu hỏi này để tự quý vị suy ngẫm mà trả lời.

Người cư sĩ chân chánh trong đạo Phật còn không ăn thịt chúng sanh thì thử hỏi quý vị là tu sĩ thông suốt kinh điển của Phật để làm gì? Quý vị có bằng những người cư sĩ này không?

GIỚI ĐỨC THÁNH SA DI HIẾU SINHnày để xác chứng trong bốn giới đệ tử của Phật:

1/ Ưu Bà Tắc

2/ Ưu Bà Di

3/ Tăng

4/ Ni

Ai là Thánh đệ tử của Phật và ai là Ma Ba Tuần đội lốt đệ tử của Phật? Qua GIỚI ĐỨC THÁNH SA DI HIẾU SINH này sẽ giúp chúng ta nhận rõ được chân Tăng hay là giả Tăng. Khi nhận rõ chân Tăng, chúng ta là đệ tử cư sĩ của Phật phải hết lòng cung kính, cúng dường cho những vị đó, để cho Phật pháp được trường tồn, còn những giả Tăng thì không nên cung kính và cũng không nên cúng dường. Nếu chúng ta cúng dường cho những vị giả Tăng này, họ sống không có tâm từ bi, chuyên ăn thịt chúng sanh, vô tình chúng ta tiếp tay với Ma để diệt Phật giáo. Phải không các bạn?

Đệ tử của Phật sao lại còn ăn thịt chúng sanh? Như vậy đạo Phật có còn xứng đáng là đạo từ bi nữa không? Có còn xứng đáng là nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh nữa không? Có còn xứng đáng là đạo trí tuệ nữa không? Nếu là đạo trí tuệ sao lại ăn thịt chúng sanh mà không có tư duy suy nghĩ đâu là thiện, đâu là ác? Nếu là đạo của trí tuệ sao lại còn đắm mê dục lạc về ăn uống như vậy?

Để che đậy tâm hung ác phàm phu tục tử chạy theo dục vọng thế gian trong ăn uống, có một số tu sĩ bảo rằng: “Ăn thịt chúng sanh không thấy, không nghe, không nghi và Phật còn ăn thịt heo rừng trước khi chết”. Lời nói này thật là tội lỗi, không biết tội ấy phải chịu đến ngàn trùng kiếp nào cho hết được, bằng chứng là tu sĩ thời nay không có ai tu chứng quả A La Hán là do chỗ không giữ gìn Thánh hạnh hiếu sinh. Mặc dù có những tu sĩ không ăn thịt chúng sanh nhưng lòng hiếu sinh không có vì họ không tu tập và rèn luyện Tứ Vô Lượng tâm.

Vu khống cho ông Phật ăn thịt chúng sanh, để che tội ác của mình, thật là điêu ngoa, xảo quyệt của những người đội lốt Phật giáo. Đó là hành động phá đức hạnh Thánh Tăng trong đạo Phật, tội ấy là tội Ba La Di, tội đọa địa ngục, tội bị chém đứt đầu.

Lòng hiếu sinh là một Thánh Đức Sa Di của người tu sĩ Phật giáo. Nhưng dù là tu sĩ hay cư sĩ cũng đều phải thực hiện cho bằng được, nếu không thì phải trả nợ máu xương rất nặng trong nhiều kiếp.

Người tu sĩ nào đi ngược lại giới đức Thánh Hiếu Sinh này là tu sĩ của tà đạo, chỉ biết nuôi thân mình bằng xương máu của chúng sanh thì sao gọi là Thánh Tăng và Thánh Ni được!?

Trong Bát Chánh Đạo, xin hỏi quý bạn Chánh Mạng là gì?

Có phải chăng nuôi mạng sống của mình bằng máu, xương của chúng sanh là Chánh Mạng ư?

Nuôi Chánh Mạng sao lại nỡ nhẫn tâm ăn thịt chúng sanh? Nuôi mạng sống của mình như vậy là chánh mạng ư?

Nuôi mạng sống của mình không có sự đau khổ của chúng sanh mới gọi là chánh mạng. Người ta nói và thuyết giảng về Chánh Mạng, nhưng người ta không sống đúng Chánh Mạng.

Sống không đúng chánh mạng mà làm đệ tử của Phật để làm gì? Thà đừng theo đạo Phật, mà đã theo đạo Phật thì phải sống cho đúng lời dạy của đức Phật. Sống không đúng lời dạy của đức Phật là phỉ báng Phật giáo.

Cho nên sống trong tà mạng sao lại gọi là đệ tử của Phật được. Đi ngược lại chân lý của đạo Phật (Đạo Đế), mà muốn làm đệ tử Phật thì có ích lợi gì. Phải không các bạn?

Bát Chánh Đạo là tám đường lối chỉ cho ta có một cuộc sống chánh hạnh, đó là đức hạnh làm Người, làm Thánh.

Giới đức Thánh Hiếu Sinh là những hành động sống đối xử với muôn loài bằng lòng yêu thương cao quí tuyệt vời mà mọi người ai ai cũng đều phải học tập và trau dồi không riêng những đệ tử của đức Phật.

Muốn bảo vệ sự sống của muôn loài trên hành tinh này thì chúng ta phải cố gắng khắc phục mình để sống trọn vẹn Thánh Hiếu Sinh này. Bởi vì giới đức Thánh Hiếu Sinh là những hành động cao quý tuyệt vời mà mọi người cần phải sống đúng như vậy để chan hòa lòng yêu thương với muôn loài; vì loài nào cũng muốn sống như loài nào. Có loài nào muốn chết bao giờ đâu? Phải không các bạn?

Hiện giờ trên thế giới này có hàng triệu triệu tín đồ theo Phật giáo, nhưng họ chỉ là những người mù, câm và điếc... Họ còn đang tiếp tay sát hại chúng sanh, làm ra thực phẩm động vật, tiếp tế cho những nhà sư này. Như vậy có đúng không quý bạn?

Vậy giới cấm không sát sanh của người cư sĩ này ở đâu khi mà người Phật tử đã thọ Tam Quy, Ngũ Giới? Thọ Tam Quy, Ngũ Giới mà lại nỡ nhẫn tâm sát hại loài động vật để làm thực phẩm dâng cúng dường chư Tăng. Như vậy với việc làm này quý Phật tử thấy có đúng hay không?

Quý Phật tử đã thọ Ngũ giới mà làm một điều tội ác rất lớn, một tội ác tầy trời. Quý Phật tử có biết không? Quý vị đang hại các sư! Do ăn thực phẩm động vật nên hiện giờ các sư chẳng người nào tu chứng quả A La Hán được. Chẳng tu chứng quả A La Hán được tội lỗi này về ai??!! Do các Sư hay do Phật tử?

Hành động giết chúng sanh làm thực phẩm cúng dường chư Tăng là hành động phỉ báng Phật giáo, đang đi ngược lại giáo lý “Từ Bi” của đức Phật.

“Không làm các pháp ác

Nên làm các pháp thiện”

“Ngăn ác diệt ác pháp,

 Sinh thiện tăng trưởng thiện

Vậy quý Phật tử giết hại chúng sanh, làm ra thực phẩm, cúng dường chư Tăng là làm thiện hay sao? Là sinh thiện và tăng trưởng thiện hay sao?

Quý phật tử có biết mình làm ngược lại với giáo lý của đức Phật không?

Như chúng tôi đã nói ở trên, quý Phật tử chỉ là những người mù, điếc, câm làm theo sự chỉ đạo của các sư ưa thích thịt chúng sanh mà không thấy tội lỗi.

Trong kinh Jivaka đức Phật dạy một người cư sĩ giết chúng sanh làm ra thực phẩm cúng dường chư Tăng có năm điều phi công đức, tức là có năm điều tội lỗi. Do quý Phật tử chưa am tường giáo lý chân chánh của Phật giáo, mà chỉ nghe biết hiểu theo kiến giải, tưởng giải của các sư: “Ăn không thấy, không nghe, không nghi hoặc ăn thịt chúng sanh tưởng rau cải là như ăn rau cải…”. Những ngôn ngữ này là những ngôn ngữ để đánh lừa Phật tử. Các sư còn lừa đảo quý Phật tử hơn nữa bằng những lý luận nuốt cho trôi những miếng thịt động vật: “Phật còn ăn thịt chúng sanh…, ăn thịt, cá cứ tưởng là rau cải sẽ là rau cải, tại quý vị cố chấp, chứ ăn vào trong bụng rồi chay mặn cũng như nhau”.

Kính thưa quý Phật tử! Giới Đức Thánh Sa Di Hiếu Sinh này ở đâu mà sao các sư nỡ tâm nhai nuốt được thịt chúng sanh như vậy? Các sư là Thánh Tăng Tỳ Kheo, còn đây là Thánh Tăng Sa Di mà còn không vi phạm giới luật này, sao Thánh Tăng Tỳ Kheo lại sống những điều phi giới luật như vậy? Thế mà tín đồ có mắt như mù, có tai như điếc, có ý thức như ngu. Có phải không quý vị?

Tóm lại, muốn làm một vị đệ tử Thánh Tăng, Thánh Ni, Thánh Sa Di của đức Phật thì giới luật Thánh đức hiếu sinh này phải giữ gìn nghiêm túc, giữ gìn nghiêm túc còn chưa đủ mà còn phải tu tập Tứ Vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả. Do tu tập Tứ Vô Lượng Tâm được sung mãn thì mới sống được trọn vẹn với lòng yêu thương muôn loài vạn vật. Nhờ có sống như vậy mới thể hiện được Thánh Đức Hiếu Sinh, chứ đừng bắt chước Tuệ Trung Thượng Sĩ, Tế Điên Tăng Hòa Thượng, Phật Sống Cựu Kim Sơn và thiền sư Phần Dương, v.v.. tự tại vô ngại ăn thịt chúng sanh và uống rượu như người thế tục thì chúng ta không còn chỗ nào bình luận cả, vì họ là Thánh của ngoại đạo mà chúng ta đứng trên góc độ của Phật giáo đành chịu thua.

 

GIỚI ĐỨC SA DI THỨ HAI: KHÔNG THAM LAM TRỘM CẮP

Không tham lam trộm cắp là một THÁNH ĐỨC BUÔNG XẢ.Người tu sĩ cũng như những người cư sĩ tại gia cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này

Người có đức buông xả là người không tích lũy, không tham lam vật chất của cải tài sản. Làm ra của cải bằng mồ hôi nước mắt của mình, nhưng không vì thế mà để của cải làm khổ mình, thường sống đơn giản, lìa xa vật chất. Người có đức tính buông xả thường tư duy vật chất thế gian tạo thành “sanh y”[1]. Sanh y có nghĩa là các pháp vây quanh chúng ta tạo thành một cuộc sống khổ đau. Của cải càng nhiều cuộc sống càng khổ đau nhiều. Phải không quý bạn?

Cho nên, người xuất gia tu theo đạo Phật thì phải “cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa[2](vải bỏ lượm) sống không gia đình, không nhà cửa, thiểu dục, tri túc, ba y một bát, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không”.Đó là một đời sống giải thoát, không còn bị dính mắc vật chất thế gian của những bậc Thánh Tăng và Thánh Ni. Những người tu sĩ sống như vậy mới được gọi là những bậc Thánh đệ tử của Phật; mới được gọi là những bậc Thánh Đức Buông Xả.

Đời sống của một vị Thánh Tăng và Thánh Ni là phải sống như lời dạy trên đây của đức Phật thì mới xứng đáng là đệ tử của Người. Nếu sống khác là không phải đệ tử của Phật, là kẻ mạo danh Phật giáo. Tu sĩ Phật giáo sống giàu sang chùa to, Phật lớn, áo quần sang đẹp, vật dụng thế gian dư thừa, xe hơi, tủ lạnh, tivi, v.v.. thì còn nghĩa lý gì là Thánh đức, Thánh hạnh buông xả.

Một người tu sĩ mà không giữ tròn giới đức Thánh buông xả này thì tâm vẫn còn tham lam. Tâm còn tham lam thì vẫn còn trộm cướp khéo léo, trộm cắp rất tinh vi và thiện xảo.

Người tu sĩ Phật giáo muốn tìm cầu sự giải thoát thì phải sống đúng Thánh hạnh này, có sống đúng Thánh hạnh thì tâm mới ly dục ly ác pháp bằng ngược lại là tu sai đường lạc lối, tu ức chế tâm, không đúng chánh pháp của Phật.

“Xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”, đó là lời dạy về Thánh Đức Buông Xả của bậc Thánh Tăng và Thánh Ni. Muốn được tâm hồn giải thoát thì chỉ có xa lìa vật chất thế gian, sống trọn vẹn đức buông xả như Phật, như chúng Thánh Tăng, Thánh Ni trong thời đức Phật còn tại thế. Có sống đúng Thánh đức giới hạnh như vậy thì mới thấy trạng thái vô lậu thật sự trong tâm của chúng ta. Còn sống không đúng thì chẳng bao giờ nếm được mùi vị vô lậu. Mùi vị vô lậu thật là tuyệt vời, không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, bằng ký hiệu để cho một người chưa từng nếm mùi vị ấy hiểu được.

Người có tâm buông xả, xa lìa vật chất thế gian là người có tâm hồn giải thoát; người có tâm buông xả, xa lìa vật chất thế gian là người tu tập đúng chánh pháp của đạo Phật, là người sống đúng Thánh hạnh của bậc Thánh Tăng, Thánh Ni.

Thánh đức buông xả là xa lìa vật chất thế gian thì chỉ có đạo Phật mới có những người tu sĩ như vậy mà thôi. Do vì pháp Phật dạy: “Ly dục ly ác pháp” nên Thánh đức buông xả là một đức hạnh rất cần thiết cho người tu sĩ Phật giáo. Nếu không sống đúng oai nghi tế hạnhThánh đức buông xả thì chẳng bao giờ tâm hết tham lam trộm cắp. Tâm không hết tham lam trộm cắp thì tu theo đạo Phật chẳng những hoài công vô ích, mà còn làm cho Phật giáo mang tiếng. Những tu sĩ còn cất giữ nhiều vật chất thế gian là những tu sĩ tâm còn tham lam. Nhìn vật chất của tu sĩ là biết tâm của họ còn tham lam hay hết tham lam. Mỗi năm về học Hạ một lần là để thúc liễm thân tâm tu tập cầu sự giải thoát. Nhưng tu sĩ Phật giáo hiện giờ không phải vậy quý bạn ạ!. Những tu sĩ về học Hạ trong ba tháng an cư là để chia của cải do Phật tử cúng dường. Sau khi ra Hạ quý Thầy đều được chia tiền bạc và vật dụng, có người gánh cả gánh, mang cả bao.

Kính thưa quý bạn! Những tu sĩ về học Hạ như vậy có buông xả không? Vậy Thánh Đức Buông xả khi họ đã thọ Thập Giới Sa Di ở đâu? Vậy Thánh đức Sa Di Buông Xả của họ đã từng tu học rèn luyện ở đâu? Họ quên hết ư!

Trong cuộc đời tu hành, nhờ Đức Thánh buông xả mà người đệ tử của Phật không còn tham lam, trộm cắp, không còn ham thích tiền bạc và vật dụng thế gian, tâm hồn họ rất trong sach và trắng bạch như vỏ ốc.

Ở thế gian nếu mọi người lập đức buông xả thì nhà ngủ không đóng cửa, không còn lo sợ trộm cắp; không còn gian lận, lừa gạt, cân non, đo thiếu, v.v..; không còn sợ cướp công, cướp của, của người khác và không còn nạn ăn lo hối lộ. v.v..

Đức buông xả giúp cho con người mất của không buồn, có của cải nhiều không tham đắm, dính mắc. Người không tham đắm, dính mắc của cải vật chất thế gian, là người sống đúng Thánh Đức buông xả, là người có cuộc sống được an ổn, yên vui và hạnh phúc... không còn lo rầu, buồn khổ, v.v.. vì vật chất.

Đức buông xả không có nghĩa là tiêu cực không làm việc, ngược lại người có đức buông xả thì tích cực làm việc hơn ai hết. Tại sao phải làm việc nhiều như vậy?

Làm việc nhiều như vậy là để sống, để giúp cho mọi người khác. Để sống tốt không tham lam là đức buông xả trong cần lao. Trong cần lao mà xa lìa tâm tham lam, trộm cắp, gian xảo, lừa đảo là Thánh đức buông xả cần lao làm ra của cải nhưng lại không dính mắc, tham đắm vào những vật dụng hoặc tiền của làm ra được, đó là hành động tốt. Làm ra của giúp cho mọi người khác, hành động giúp cho mọi người khác là đức hạnh buông xả.

Bởi vậy đức buông xả thì luôn luôn đi đôi với đức cần lao. Có đức buông xả có đức cần lao như vậy mới xứng đáng là một người không tham lam trộm cắp, là một tu sĩ Thánh Tăng Thanh Ni và Thánh cư sĩ đệ tử của Phật.

Một con người biết sống lập đức buông xả để tâm mình không dính mắc vật chất và tiền của, ngọc ngà, châu báu..., để tâm mình được thanh thản, an lạc và vô sự, để tâm mình lìa xa tính tham lam, ích kỷ, hẹp hòi, để tâm mình lìa xa lòng tham lam, trộm, cắp, lừa đảo người khác..., nhưng lại sống đúng đức cần lao. Nhờ có sống đúng với đức cần lao nên không thành kẻ ăn bám của xã hội, không thành gánh nặng cho những người khác.

Ở đây, quý bạn nên hiểu đạo Phật nói đời khổ, chứ không bảo trốn đời khổ. Vì nói đời khổ là để biết như thật đời là khổ. Biết đời khổ như thật để mà vượt qua khổ của cuộc đời, chứ không có nghĩa biết đời khổ để mà bi quan yếm thế, để mà trốn khổ. Nói đời khổ tức là nói một sự thật của kiếp người, chứ không phải nói đời khổ để bỏ cuộc đời, trốn cuộc đời, (tiêu cực, yếm thế, xa lánh sự sống của mọi người).

Ở đây nói đời khổ để chúng ta cùng nhau tạp sống đức hạnh làm người biết thương yêu nhau, biết chia cơm xẻ áo, biết tha thứ, biết nhường nhịn, biết góp công góp sức siêng năng cần lao để làm cho đời bớt khổ hay là không còn khổ nữa, chứ không phải biết đời khổ để bỏ cuộc đời này, để đi tìm một thế giới khác sung sướng hơn, hạnh phúc hơn, an lạc hơn... như các kinh sách của tà giáo ngoại đạo của Đại thừa và các tôn giáo khác đã từng xây dựng thế giới chư Thiên, Thiên Đàng, Cực Lạc Tây Phương, Niết Bàn, v.v.. để tránh né sự khổ đau của thế gian này, để mơ tưởng một thế giới hạnh phúc an lạc hão huyền khác. Sống theo Đại thừa và các tôn giáo khác không thực tế, sống nhờ vào sự cứu khổ của kẻ khác là không bao giờ có, trong lúc mình luôn luôn làm khổ mình, làm khổ người thì ai cứu mình được. Phải không các bạn?

Do gieo rắc những tư tưởng yếm thế, tiêu cực, thụ động, v.v.. nên hiện giờ có một số người yếm thế, tiêu cực, chán ngán cuộc sống thế giới này, họ đang đi tìm một thế giới khác, thế giới của chư thiên, thế giới của chư Phật, chư Bồ Tát, thế giới Cực Lạc Tây Phương, thế giới Quy Nguyên, thế giới Nhất Nguyên, thế giới Niết Bàn. Đó là những người đầy lòng tham đắm, chạy theo dục lạc danh lợi, mong cầu dục lạc nhiều hơn ở thế giới khác nữa.

Những người cầu mong như vậy là những người không lập đức Thánh buông xả. Họ chán ngán cái thế giới của loài người, là vì họ không đạt được những dục lạc, danh lợi, chứ không phải họ buông xả.

Người sống lập Thánh đức buông xả không có nghĩa là chán ngán cuộc đời, bi quan, tiêu cực, yếm thế, mà họ đang làm tốt lại cuộc đời, xây dựng cho thế gian này trở thành Thiên Đàng, Cực Lạc. Nhờ con người có sống đúng Thánh Đức Buông Xả thì thế gian này không còn có con người gian tham, trộm cướp nữa.

Người sống đúng oai nghi tế hạnhThánh Đức Buông Xả, họ đều biết rõ tất cả các pháp trên thế gian này đều vô thường, không có một vật gì là thường hằng, vĩnh viễn, không có một thế giới nào là vĩnh cửu, chỉ do tưởng của chúng ta tạo ra mà thôi. Những hiện tượng có được là do các duyên hợp và tan tạo thành. Và vì thế, con người cần phải bảo vệ và xây dựng lại thế giới của con người đang có, làm cho nó tốt đẹp, làm cho nó sáng sủa, làm cho nó có một cuộc sống đầy đủ đạo đức nhiều hơn và nhiều hơn nữa.

Cho nên, ở đây lập đức buông xả, nhưng lại phải cần lao vì mình, vì người để sự hiện hữu của mình có ích cho mình, cho người, chứ không phải bỏ đời, trốn đời như người ta đã nghĩ sai về Phật giáo.

Thánh đức buông xả giúp cho chúng ta sống một đời sống trong sạch, không gian tham, trộm cắp, tâm hồn thanh thản, an ổn. Xin các bạn nhớ kỹ gian tham trộm cắp ở đây không chỉ có nghĩa lấy của không cho mà còn có nghĩa gian tham, xảo quyệt khác nữa như:

·        Một công nhân lãng công đó cũng là gian tham, trộm cắp.

·        Một ông Thầy giáo trong giờ dạy học cho bài học sinh làm mà ngồi xem báo đó cũng là gian tham, trộm cắp giờ học của học sinh.

·        Một ông bác sĩ nhận quà bệnh nhân cũng là gian tham, trộm cắp.

·        Một anh công an gác đường nhận tiền hối lộ cho xe chở đồ lậu thuế vào thành phố đó cũng là gian tham, trộm cắp.

Tóm lại Thánh đức buông xả đối trị được tâm tham lam, trộm cắp, giúp cho thân tâm không dính mắc vật chất thế gian, giúp cho tâm luôn được thanh thản, an lạc và vô sự.

Người muốn sống được giới đức Thánh buông xả này thì phải thường xuyên quán các pháp là vô thường, vô ngã, do duyên hợp mà thành và thường đau khổ.

Trong cuộc sống thế gian khi người xuất gia cũng như người tại gia sống đúng Thánh Đức Buông Xả này thì thế gian là Thiên Đàng, Cực Lạc, cuộc sống con người sẽ hạnh phúc biết bao.



[1] Sanh y có nghĩa là những vật chất dùng để phục vụ đời sống của con người. Do đó vật chất càng nhiều thì biến con người mất đức hạnh buông xả nên trở thành những người tham lam, trộm cướp, gian xảo, lừa đảo, hung ác, v.v..

[2] Cà sa: là một loại áo mặc của những vị tu sĩ Phật Giáo bằng những vải thô xấu (vải vụn, vải bó thây ma)

GIỚI ĐỨC SA DI THỨ BA: KHÔNG DÂM DỤC

Không dâm dục là một THÁNH ĐỨC THANH TỊNH.Người tu sĩ cũng như những người cư sĩ tại gia cần phải học, hiểu và sống cho đúng đức hạnh này.

Người không dâm dục là hiện tiền thân và tâm của họ thanh tịnh. Một người còn dâm dục thì không thể nào thân tâm thanh tịnh được. Thân tâm không thanh tịnh thì lúc nào cũng còn ô nhiễm về đường dâm dục. Còn tâm dâm dục thì làm sao gọi là Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ được. Phải không các bạn?

Tuy biết rằng: dâm dục là bản chất sinh tồn của muôn loài động vật và thực vật. Cho nên từ động vật nhỏ nhất cho đến loài động vật thông minh nhất như loài người đều không thoát khỏi uy lực của dâm dục. Đối với đạo Phật, dâm dục là con đường bất tịnh, uế trược nhiều khổ đau và đó là con đường mãi mãi tiếp tục luân hồi.

Dù người có học thức cao, có trở thành những nhà bác học, những nhà khoa học vĩ đại, v.v.. thì cũng không thoát khỏi hành động dâm dục. Ngược lại một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ đệ tử của đức Phật thì phải vượt ra khỏi uy lực dâm dục này. Có như vậy mới được gọi là bậc Thánh đệ tử đức Phật. Trái lại xuất gia, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa mà còn dâm dục thì đó là Ma Ba Tuần trong đạo Phật, là những kẻ tà giáo ngoại đạo đội lốt Phật giáo. Cho nên đệ tử của Phật không bao giờ còn dâm dục, còn dâm dục không phải là đệ tử của Phật, Xin các bạn lưu ý.

Muốn làm một tu sĩ Phật giáo tức là muốn cho thân tâm mình thanh tịnh, trong sạch, không còn ô nhiễm, uế trược thì dâm dục phải diệt trừ. Ý muốn đó cũng chính là mục đích để cho thân tâm được nhập vào các định, được làm chủ sự sống chết và được khai mở tuệ Tam Minh, được chứng Thánh quả A La Hán, mới xứng đáng là Thánh đệ tử của đức Phật.

Khi tâm còn dâm dục thì làm sao thân tâm thanh tịnh được. Thân tâm không thanh tịnh thì làm sao gọi là Thánh được. Phải không quý bạn?

Bởi vậy Giới Đức Thanh Tịnh Thánh Sa Di này còn xác định được người tu sĩ Phật giáo hay người tu sĩ của ngoại đạo, là do chỗ tâm còn dâm dục hay hết dâm dục. Người có thiền định hay không thiền định cũng do từ giới này mà nhận thấy rõ ràng. Thánh Tăng hay Ma Tăng cũng do từ giới này mà xác định. Cho nên hiện giờ có một số người mang danh là tu sĩ Phật giáo lại sống như người thế tục, có vợ, có con, sống như một gia đình phàm phu tục tử, thì làm sao Giới Đức Thanh Tịnh Thánh Sa Di này được thanh tịnh trọn vẹn. Phải không các bạn? Người ta tu theo Phật giáo như vậy để làm gì cho phí một đời hay chỉ lợi dụng Phật giáo để làm danh, làm lợi trên mồ hôi nước mắt của tín đồ Phật tử.

 Tu sĩ nam nữ sống lẫn lộn, nói cười đùa giỡn, đèo nhau trên xe, ăn chung bàn, ở chung chùa, v.v.. Hình ảnh này là một sự suy thoái của Phật giáo, thật là đau lòng các bạn ạ!

Xưa Đức Phật dạy: “Không nên gặp, không nên nhìn, không nên nói chuyện, phải quán như mẹ, như chị, như em, phải quán thân bất tịnh, phải quán xương trắng, v.v..”.

Muốn thoát khỏi luân hồi sanh tử thì con đường dâm dục phải đoạn dứt. Vì thế, đạo Phật có giới không dâm dục để giúp cho thân tâm thanh tịnh, trong sạch mới xứng đáng làm một bậc Thánh đệ tử Phật.

Do giới Thánh đức thanh tịnh này nên kinh sách Nguyên Thủy Phật giáo không có nói về nghi lễ kết hôn, vì nghi lễ kết hôn đã có sẵn theo phong tục tập quán của mỗi dân tộc trên thế giới.

Kết hôn là sự nối tiếp con đường tái sanh luân hồi. Do đó, người tu theo Phật giáo thì con đường dâm dục phải triệt để chấm dứt, có chấm dứt như vậy thì mục đích làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi mới đạt được. Thế mà, các chùa lại tổ chức làm lễ thành hôn, có khi còn làm đám cưới tại chùa, thì chùa đâu còn ý nghĩa giải thoát khổ đau của kiếp người. Phải không các bạn?

Thưa các bạn! Một bậc Thánh thì không thể nào còn dâm dục; còn dâm dục thì sao được gọi là Thánh? Như chúng tôi đã nói ở trên.

Thánh nhân là bậc thoát trần, có nghĩa là thoát ra khỏi bản chất dâm dục của loài động vật. Sự dâm dục của một con người thì có khác nào la sự dâm dục của loài thú vật. Phải không các bạn?

Còn Thánh nhân thân tâm của họ phải hoàn toàn thanh tịnh, trong sạch, họ không còn vướng bận tình yêu dâm dục giữa nam nữ nữa thì mới thật sự là Thánh nhân. Muốn làm Thánh mà còn nuôi tâm dâm dục thì không thể nào làm Thánh được.

Một người tu sĩ của Phật giáo không giữ gìn thân tâm thanh tịnh, luôn luôn phạm vào giới đức Thánh thanh tịnh này thì không nên tu theo đạo Phật. Tại sao vậy?

Vì tu theo đạo Phật mà còn dâm dục thì làm sao chấm dứt tái sanh luân hồi được như ở trên chúng tôi đã nói. Còn dâm dục thì thân tâm không bao giờ thanh tịnh; còn dâm dục thì còn đọa lạc trong đau khổ; còn dâm dục thì còn sống trong bùn nhơ, ô nhiễm uế trược, bất tịnh hôi thối; còn dâm dục là còn tái sanh luân hồi, vì đường dâm dục là con đường đọa vào ba đường khổ ải của kiếp người.

Đối với đạo Phật vấn đề dâm dục là vấn đề phải diệt trừ hàng đầu. Nếu không diệt trừ được tâm dâm dục thì không bao giờ người đó được gọi là Thánh Tăng hay Thánh Ni được.

Cho nên, Giới Đức Thánh Thanh Tịnh không dâm dục giúp cho con người tu theo Phật giáo trở thành bậc Thánh nhân A La Hán vô lậu hoàn toàn.

Trong giới không dâm dục này đã xác định, nếu tu sĩ nào vi phạm vào giới cấm này thì cũng giống như người tử tù. Nhưng người tử tù này bị xử án chém đầu “Ba La Di” (đứt đầu), chứ không xử tử bằng cách khác.

Người tu sĩ phạm giới này, đối với đạo Phật, thì người này không còn được mọi người kính trọng, xem họ như một người phá hoại Phật giáo, họ gọi những người này là giặc thầy chùa. Họ được xem như một cư sĩ trọc đầu mà thôi, một thợ tụng niệm làm thuê ma chay cho tín đồ. Dù họ có đắp áo cà sa, có học thức cao, có chức vị trong hàng giáo phẩm: Đại Đức, Thượng Tọa hay Hòa Thượng, v.v.. thì họ cũng chỉ là một cư sĩ trọc đầu không hơn, không kém.

Chúng ta phải hiểu một tu sĩ đạo Phật là một vị Thánh Tăng, dù là một chú Sa Di mới vào tu cũng phải khép mình trong khuôn khổ Giới Đức Thánh Thanh Tịnh này. Nếu vị nào sai phạm thì xin quý Phật tử hãy xem họ là Ma Ba Tuần đội lốt Phật giáo, đang giết Phật giáo, xin quý Phật tử hãy tránh xa, đừng cúng dường, vì cúng dường là nối giáo cho Ma để chúng diệt Phật giáo, chúng diệt Phật giáo thì tội quý Phật tử phải chịu hậu quả địa ngục.

Cho nên người tu sĩ là những đệ tử của Phật, là Thánh Tăng, Thánh Ni thì phải giữ gìn cho trọn vẹn giới đức này. Nếu thấy giữ không được thì nên xả giới, trả y áo, trở về đời sống của người cư sĩ, chứ đừng cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, mà còn cười cợt, đùa giỡn, nhìn ngó, liếc háy, nói chuyện tình tứ qua lại với người khác phái là không tốt các bạn ạ! Các bạn đã đi sai con đường tu của Phật giáo rồi. Xưa Đức Phật dạy: “đối với người khác phái không nên gặp, nếu lỡ gặp không nên nhìn, nếu lỡ nhìn không nên nói chuyện... ”.

Hiện giờ những tu sĩ Phật giáo phạm giới này rất nhiều, từ tuổi trẻ cho đến người già đều vi phạm giới luật này. Có người tuổi rất cao, chức phận rất lớn trong hàng giáo phẩm Phật giáo nhưng vẫn vi phạm giới luật này, làm cho Phật giáo Việt Nam bị mang tiếng không mấy tốt đẹp ‘Giặc thầy chùa”.

Trong hàng giáo phẩm Phật giáo Việt Nam có những vị Đại Đức, Thượng Tọa, Hòa Thượng mang chức vụ lãnh đạo cấp tỉnh, cấp Trung Ương Phật giáo mà ngang nhiên có vợ, có con; không những một vợ mà cả ba, bốn vợ. Họ rất xem thường tín đồ, xem tín đồ là những người ngu si, vô minh không hiểu gì về Phật giáo, không am tường Phật giáo, cho nên họ làm sao, bảo sao thì tín đồ phải nghe và chấp nhận làm vậy. Họ làm sai không dám nói, làm đúng cũng không biết.

Hiện giờ trên thế giới này có hàng triệu triệu tín đồ theo Phật giáo, nhưng họ chỉ là những người mù, câm và điếc... Họ còn đang tiếp tay với các sư, thầy phá giới, bẻ vụn giới để diệt Phật giáo chân chánh nhanh chóng thay thế bằng một giáo pháp phá giới luật, phi đạo đức, mê tín, v.v..

Giới Thánh Đức Sa Di Không Dâm Dục này có sáu nơi vi phạm:

1- Vi phạm giới bằng mắt.

2- Vi phạm giới bằng tai.

3- Vi phạm giới bằng mũi.

4- Vi phạm giới bằng miệng.

5- Vi phạm giới bằng thân.

6- Vi phạm giới bằng ý.

ü  Phạm giới bằng mắt: khi mắt nhìn thấy hình ảnh sắc thân người khác phái lõa thể sanh tâm dâm dục hoặc thấy sự ăn mặc hở hang bày da thịt của người khác phái sinh tâm dâm dục, v.v..

ü  Phạm giới bằng tai: khi nghe tiếng nói khêu dâm gợi dục sinh tâm dâm dục. Nghe lời nói thô tục sanh tâm dâm dục.

ü  Phạm giới bằng mũi:khi hai người khác phái ôm nhau hôn hít sinh tâm dâm dục...

ü  Phạm giới bằng miệng: khi miệng nói lời dâm dục, miệng nói thô tục, miệng nói lời khêu dâm, gợi dục rồi sinh tâm dâm dục.

ü  Phạm giới bằng thân: Khi hai người khác phái, nắm tay, ngồi tựa vào nhau, ôm nhau, hay nằm chung nhau một giường sinh tâm dâm dục.

ü  Phạm giới bằng ý:Khi ý khởi niệm về dâm dục, ý suy tư về dâm dục, ý nghĩ đến người khác phái sinh tâm dâm dục.

Người còn tâm dâm dục không thể gọi là Thánh Tăng, Thánh Ni được. Muốn tu hành dứt bỏ tâm dâm dục thì phải thực hiện đúng như lời dạy của đức Phật:

1/ Phòng hộ sáu căn (sống độc cư trầm lặng một mình).

2/ Hằng ngày phải tu tập các pháp Chánh niệm tỉnh giác định.

3/ Tu tập 18 đề mục Định Niệm Hơi Thở.

4/ Tu tập Định Vô Lậu.

5/ Tu tập Tứ Niệm Xứ.

6/ Tu tập Thân Hành Niệm.

7/ Tu tập Định sáng suốt.

Trong kinh Phật thường nhắc đến quả nhập lưu (Tu Đà Hoàn) tức là nhập vào dòng Thánh. Tâm còn dâm dục thì không thể nhập vào dòng Thánh được.

Cho nên người ly dục ly ác pháp là người lìa xa tâm dâm dục, lìa xa tâm dâm dục mới vào được dòng Thánh, mới gọi là nhập lưu.

Tóm lại, Giới Đức Thanh Tịnh Thánh Sa Di không dâm dục này là một đức hạnh thanh tịnh trong sạch của một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ, chứ không phải như một người thường tình phàm phu mà sống được Thánh hạnh này. Thánh hạnh này không phải dành riêng cho tu sĩ mà dành cho tất cả mọi người, nếu ai muốn chấm dứt sanh tử luân hồi.

Chúng ta nên lưu ý: một con người bình thường thì cũng như muôn thú vật nên không bao giờ lìa xa tâm dâm dục được, dù có học thức sâu rộng bao nhiêu họ cũng không tránh khỏi tâm dâm dục. Nhưng một người tu theo đạo Phật là phải vượt thoát ra khỏi tính dâm dục, tức là vượt thoát ra khỏi bản chất của loài thú vật. Có thực hiện ra khỏi bản chất của loài cầm thú thì mới được gọi là Thánh.

Một người phàm phu chỉ hơn con thú vật là ở chỗ dâm dục có cương thường đạo lý làm người, có tôn ti trật tự, không thể cha con hay mẹ con lấy nhau, v.v.. Nhưng, một bậc Thánh như chúng tôi đã nói ở trên, thì phải vượt hơn loài người và loài thú vật là không còn dâm dục nữa. Có người hỏi rằng:

Hỏi:Khi con người không còn dâm dục thì con người do đâu mà sinh ra?

Đáp:Khi con người không còn dâm dục thì họ là những bậc Thánh nhân rồi. Đã là Thánh nhân sao lại còn tái sanh luân hồi trong đường dâm dục? Khi con người không còn dâm dục thì con người sinh ra bằng đường hóa sinh. Con đường hóa sinh là con đường thanh tịnh trong sạch dành riêng cho những bậc Thánh nhân (chứ không phải hoá sanh là sâu hoá bướm v.v..).

Hỏi:Con người không còn tái sanh luân hồi thì con người về đâu?

Đáp:Đã không còn tái sanh luân hồi mà còn hỏi sanh về đâu là sao? Câu hỏi như vậy là câu hỏi không đúng chỗ?

Hỏi:Từ con người không dâm dục thành ra Thánh nhân. Thánh thì không còn sanh tử luân hồi. Vậy khi bỏ thân này Thánh nhân ở đâu?

Đáp:Một Thánh nhân khi còn sống cũng như lúc bỏ thân tứ đại, họ đều ở trong trạng thái ly dục ly ác pháp. Ở trong trạng thái ly dục ly ác pháp thì không còn tái sinh luân hồi. Đó là “nơi” mà những bậc Thánh nhân đến và ở đó, khi còn sống cũng như lúc đã chết. Cho nên họ không đến không đi.

Vì thế, chúng ta xác định, con đường sanh tử luân hồi là con đường “dâm dục”. Ai còn tâm dâm dục là phải còn chịu luật sanh tử luân hồi chi phối. Ai hết tâm dâm dục là chấm dứt sanh tử luân hồi. Các bạn cứ suy ngẫm lại đi rồi hãy tin lời chúng tôi nói, đừng vội tin chúng tôi. Vì lời nói của chúng tôi không bắt buộc ai tin cả. Bởi vì ai còn đắm chìm trong dục lạc thế gian là phải chịu quy luật sinh tử luân hồi. Còn chịu quy luật sanh tử luân hồi là phải chịu nhiều khổ đau. Phải không các bạn?

Ai sống gìn giữ được Giới Đức Thanh Tịnh Thánh Sa Di không dâm dục này, đó là biểu tượng cho một vị Thánh Tăng xuất hiện.

GIỚI ĐỨC SA DI THỨ TƯ: KHÔNG VỌNG NGỮ

Không vọng ngữ là một ĐỨC CHÂN THẬT.Người xuất gia cũng như mọi người tại gia cần phải học hiểu và sống đức hạnh này để đem lại lợi ích cho mình cho người và cho cả hai.

Giới Đức Thánh Sa Di không vọng ngữ là một Thánh Đức Chân Thật. Người không nói dối là một bậc Thánh, còn người phàm phu thì không thể tránh khỏi nói dối, mặc dù nói dối không hại ai hoặc nói dối đùa chơi nhưng vẫn là nói dối, vẫn là làm mất uy tín của mình. Không nói dối là một việc làm rất khó, cho nên phàm làm người ai ai cũng có nói dối, nói dối ít hay nói dối nhiều, nói dối có hại hay nói dối không hại người.

Vọng ngữ thuộc về khẩu nghiệp nên chỉ có loài người mới mắc tội vọng ngữ, còn thú vật thì không mắc vào tội này, vì thú vật không nói được.

Người không vọng ngữ là người tạo cho mình một uy tín đối với mọi người, một sự kính trọng tuyệt vời, một lòng tin yêu quý và tôn trọng sâu sắc. Vọng ngữ chia làm bốn phần:

1- Nói dối.

2- Nói lời hung ác.

3- Nói lưỡi hai chiều.

4- Nói lật lọng.

 NÓI DỐI CÓ NHIỀU CÁCH:

a.         Ca ngợi khen tặng một người nào mà người đó chưa làm được như vậy, thì đó là “nói dối”. Cách nói dối đó là nịnh bợ lấy lòng người trên. Ca ngợi việc làm của người khác không đúng đạo đức mà nói đúng đạo đức là “nói láo”.

b.        Quý Hòa Thượng chết trong bệnh đau, khổ sở, mà bảo rằng thu thần nhập diệt, đó là “nói láo”, vì các vị HT có biết cách nào thu thần nhập diệt đâu?

c.         Khi nói sai một điều gì là có nói láo. Như trong kinh Kim Cang dạy: “Bồ Tát độ hết chúng sanh thì thành Phật” có nghĩa là một người tu tập hết vọng tưởng thì thành Phật. Lời dạy trong kinh này là nói láo, vì khi hết vọng tưởng thì tâm sẽ rơi vào trong “Không”, chứ không thành Phật. Phật chính là chỗ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải tâm không niệm, tâm vô phân biệt, tâm vô trụ, v.v..

d.        Trong Tâm Kinh Bát Nhã dạy: “Quán Tự Tại hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Lời dạy như vậy là “nói láo”, vì chưa thấy ai quán chiếu ngũ uẩn giai không được. Tổ Sư Tử chết oan vì lời nói láo này. Trong các chùa ngày đêm bốn thời công phu khuya sớm đều tụng Tâm Kinh Bát Nhã mà chưa có thấy vị nào thoát khổ, như vậy kinh này nói láo.

e.         Không thấy, không nghe mà nói thấy nghe là nói dối.

f.         Thấy, nghe mà nói không thấy, không nghe là nói dối.

g.        Thêu dệt bịa đặt ra để nói xấu người khác là nói dối.

h.        Nghi ngờ nói ra không đúng sự thật là nói láo.

i.          Ca ngợi khen tặng không đúng là nói láo.

j.          Thêm bớt, phao tin đồn ra nhiều, để cho mọi người cười chê một người nào đó. Đó là nói dối.

k.        Ca ngợi người khác không đúng cách là nói dối.

l.          Một người giới luật không nghiêm chỉnh mà mang hình dáng tu sĩ để nói mình tu sĩ là nói dối.

m.      Với người này nói xấu người kia với người kia nói xấu người này là nói dối.

n.        Trước mặt người nói tốt sau lưng người nói xấu là nói láo.

o.        Chê người khác không đúng cách có nghĩa chưa biết trình độ người ta ở mức độ nào mà chê là nói vọng ngữ.

p.        Chê giới luật Phật lỗi thời là nói dối.

q.        Chưa biết người chứng quả A La Hán ra sao mà chê A La Hán còn tạp khí, còn tranh chấp chê như vậy là nói dối.

r.          Đặt ra nhiều quả vị A La Hán như trong kinh sách Đại Thừa: 1- A La Hán Toàn Giác, 2- A La Hán Độc Giác, 3- A La Hán Thanh Văn, v.v.. Đó là nói láo, vì quả vị A La Hán là vô lậu; người nào tu tập tâm vô lậu là người chứng quả A la Hán. Quả A La Hán không có cao thấp; phân chia quả vị A La Hán cao thấp là tư tưởng phàm phu, tư tưởng người thế gian. Người chưa chứng quả A la Hán mà phân chia quả A La Hán là nói láo. Cho nên khen hay chê, phân chia không đúng sự thật đều có nói láo.

s.         Nói một việc mà người khác không hiểu bằng trí mà phải hiểu bằng tưởng là có nói láo. Như nói có linh hồn người chết, nói có Phật tánh, có thế giới siêu hình là nói láo, vì đó là cảnh giới tưởng, cảnh giới không có thật.

t.          Nói con người có ngã, có thần thức là nói láo. Xưa đức Phật dạy: “Ta nói một điều gì thì mọi người hiểu được, biết được bằng ý thức thì ta không có nói láo. Còn ta nói một điều mà mọi người phải hiểu bằng tưởng là có nói láo trong ta”.

u.        Nói Phật tánh là tánh biết ngoài ý thức, tưởng thức và tâm thức là có nói láo, vì ngoài ba thức của thân ra, làm sao có tánh biết nào khác nữa.

v.        Nói có cõi siêu hình thật sự nghĩa là nói có linh hồn người chết là nói láo, chứ họ đâu biết rằng linh hồn người chết là do trạng thái của tưởng uẩn của người còn sống tạo ra.

w.      Nói có cõi Trời, cõi Cực Lạc là có nói láo vì đâu có cõi Trời, cõi Cực Lạc. Cõi Trời, cõi Cực Lạc là cõi tưởng của con người tạo ra.

x.        Nói cõi người là cõi có thật thì cũng nói láo, vì cõi người là cõi duyên hợp, nên các duyên có hợp thì lại có tan, cho nên sinh tử là duyên hợp tan. Duyên hợp tan thì có cái gì là thật đâu mà nói nó có thật thì đó là nói láo. Tại sao vậy? Tại vì cõi người là cõi duyên hợp chứ không có thật ngã. Nói cõi người có thật là nói trong tưởng, tưởng như kinh sách của tà giáo ngoại đạo.

y.        Nói con người từ cõi Trời Quang Âm Thiên tái sanh đến cõi người là nói láo, vì nói như vậy con người sẽ tưởng ra chứ ý thức không thể hiểu được.

Cho nên đức Phật dạy: “Ta nói những gì mà ý thức con người hiểu được là không nói láo, ngược lại là có nói láo trong ta”. Nói ra một điều gì mà mọi người không hiểu hay hiểu một cách lờ mờ, không cụ thể, rõ ràng là ta đã nói láo.

Một người tu sĩ Phật giáo chân chánh không bao giờ nói những lời trườn uốn như con lươn “vừa có vừa không”(sắc tức thị không, không tức thị sắc), nói như vậy là nói láo, nói lừa đảo, nói lường gạt người. Chúng tôi xin nhắc lại lời nói ở trên. Bát Nhã Tâm Kinh có câu: “Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, câu nói này là câu nói láo. Vì bao đời, từ khi có câu kinh này, trong các chùa người ta đã nhật tụng hằng ngày, mà ngũ uẩn của quý Thầy có không chưa?

Nếu ngũ uẩn giai không sao quý Thầy còn thấy đau bệnh khổ sở như vậy.

Nếu ngũ uẩn giai không sao lại có chùa to Phật lớn như vậy, nếu ngũ uẩn giai không sao quý Thầy còn tham, sân, si như vậy, rõ ràng là câu kinh lừa đảo nói láo, lừa người.

Như kinh Pháp Hoa dạy: “Dù cho tạo tội như núi cả, Diệu Pháp Liên Hoa tụng mấy hàng”, lời dạy này là nói láo. Có bao giờ đi trộm cướp giết người, bị tù tội, bị án tử hình mà tụng kinh Pháp Hoa mà ra tù khỏi tử hình chưa?

Thánh Đức Sa Di không nói vọng ngữ là một đức Thánh về khẩu nghiệp, nên khi nói ra một điều gì, hay giảng kinh thuyết pháp một loại kinh sách nào thì phải nói nghĩa lý có kinh nghiệm tu hành chứng đắc của mình rõ ràng và cụ thể, là không nói láo, còn giảng nói mà mình chưa làm được chưa tu được mà dạy cho mọi người là nói láo, giảng nói mà người ta thực hành có kết quả giải thoát thật sự là nói thật, giảng nói mà người ta thực hành không có kết quả là nói láo, đức Phật đã xác định: “Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy”. Đó là đức Phật đã xác định lời Ta dạy là không nói láo.

Vì thế, sự giải thoát phải đi đôi với sự thực hành pháp, pháp như vậy mới gọi là pháp không nói láo. Cho nên pháp tu thiền định của đạo Phật dạy rất rõ ràng: “ngăn ác, diệt ác pháp” là pháp giải thoát rõ ràng. Vì ngăn ác diệt ác pháp là có giải thoát nơi tâm mình cụ thể, rõ ràng.

 Anh đã biết ác pháp mà không biết ngăn diệt nó là tự anh không cứu khổ anh. Phải không các bạn? Còn anh biết ngăn diệt ác pháp thì anh sẽ hết khổ. Đó là pháp dạy chân thật không nói láo, vì pháp dạy tu tập ở đâu thì ở đó có kết quả ngay liền. Pháp dạy tu tập như vậy là pháp dạy anh trở thành những con người không nói vọng ngữ. Người giảng kinh thuyết pháp như vậy là những bậc giữ gìn Thánh Đức Sa Di Chân Thật.

Người tu chứng quả A La Hán đi thuyết giảng làm giảng sư dạy người tu tập là không nói láo.

Người tu hành chưa chứng quả A La Hán đi thuyết giảng làm giảng sư dạy người tu tập là nói láo, mặc dù dạy rất đúng nghĩa trong kinh sách nhưng vì chưa có kinh nghiệm nên dạy người tu tập không kết quả giải thoát, do đó thành ra nói láo.

Xưa đức Phật còn tại thế, Người không cho những người tu chưa chứng đi thuyết giảng, vì tu chưa chứng đi thuyết giảng dạy người tu sẽ giết người hơn là độ người. Bằng chứng hiện giờ như quý vị đã thấy, người tu theo Phật giáo rất đông nhưng có mấy ai đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết?Mà mọi người phải tốn haoxây cất chùa, đúc tượng Phật hằng tỷ tỷ bạc và còn mất công sức tu tập mà kết quả được những gì?

“Pháp Ta không có thời gian đến để mà thấy”.Lời dạy này cho chúng ta thấy pháp Phật rất thực tế và cụ thể. Bởi vì Pháp tu tập có kết quả ngay liền như đức Phật đã dạy: “Tâm có tham biết tâm có tham… ”. Nếu biết tâm mình có tham thì biết đó là ác pháp, biết đó là ác pháp thì nên mau mau dừng lòng tham đó liền là quý bạn sẽ được giải thoát ngay. Phải không quý bạn?

Nếu biết tâm mình có sân thì bạn dừng ngay lòng sân đó liền thì bạn sẽ được giải thoát, còn ngược lại bạn không dừng tâm sân đó thì bạn phải khổ đau. Có đúng như vậy không quý bạn?

Pháp của Phật dạy tu tập như vậy có thực tế không các bạn?

Thực tế thì không nói láo, phải không các bạn? Pháp dạy không thực tế như vầy: ngồi ức chế tâm cho không vọng tưởng, niệm Phật nhất tâm, tụng kinh cầu khẩn, v.v.. có hết tham, sân, si không? Có cụ thể thực tế như Pháp ở trên không? Như vậy ngồi thiền ức chế tâm không vọng tưởng, niệm Phật nhất tâm cầu vãng sanh, tụng kinh cầu khẩn chư Phật gia bị tai qua nạn khỏi v.v.. là pháp nói láo, pháp không chân thật chỉ lừa dối người, làm cho hao tiền tốn của phí sức vô ích.

Giới Đức Thánh Sa Di Chân Thật đã xác định những người giảng kinh, thuyết pháp thời nay phần nhiều là nói láo. Họ nói láo vì họ nói ra mà chính họ không làm được (chưa chứng). Kinh sách Đại Thừa dạy: “Y giáo bất y nhân”. Câu kinh này là câu kinh che đậy sự nói láo của các ông giảng sư. Bảo người khác giữ giới mà mình không giữ giới là mình có nói láo. Dạy người kháctu chứng quả Thánh mà mình tu chưa chứng quả Thánh là nói láo.

Tóm lại, khi tu tập chưa xong thì nên im lặng như Thánh, tu tập chưa xong mà dạy người tu là nói láo, cần phải cảnh giác những loại Thánh giả này. Đó là những hạng Bồ Tát “dỏm”, Bồ Tát chuyên vọng ngữ.

Thánh Đức Sa Di không nói vọng ngữ, là để xác định cho những người giới luật tinh nghiêm. Họ là những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ, là đệ tử chân chánh của đức Phật. Ngược lại, những người phạm giới phá giới, bẻ vụn giới thường vọng ngữ là Ma Ba Tuần đội lốt Phật giáo lừa đảo mọi người, khiến cho Phật giáo mất gốc.

GIỚI ĐỨC SA DI THỨ NĂM: KHÔNG UỐNG RƯỢU

Không uống rượu là một THÁNH ĐỨC MINH MẪN.Người xuất gia cũng như người tại gia cần phải học hiểu và sống đúng giới luật đức hạnh này để không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai.

Một người được gọi là minh mẫn sáng suốt thì không nên để thân tâm đắm nhiễm các ác pháp thế gian như: thuốc lá, cà phê, chè (trà), cần sa, thuốc phiện và bất cứ những loại rượu nào khiến cho người ta say mê, nghiện ngập, gây tác hại cho thân bệnh tật và thần kinh căng thẳng, rối loạn làm cho con người như ngây, như dại, v.v.. làm cho con người nghiện ngập bỏ không được.

Trong cuộc sống của con người có rất nhiều pháp ác thế gian, khiến thân tâm chúng ta dễ đắm nhiễm và say mê:

Rượu là một chất nước độc uống vào kích thích cơ thể khiến cho có những hành động giống như những người điên, cơ thể đi đứng xiêu vẹo, ngã tới, ngã lui, đụng đâu nằm đó chẳng biết dơ sạch, miệng nói ự ẹ! Lập đi lập lại một câu nhiều lần, khiến cho mọi người không ai kính trọng.

Người uống rượu không phải là người khôn ngoan, mà là người ngu si đệ nhất.

- Thứ nhất là họ mất tiền phải mua rượu.

- Thứ hai là họ đem độc dược vào thân mà không biết, khiến cho thân sinh ra nhiều bệnh tật khó trị, khiến cho trí óc ngu đần, không còn sáng suốt,

- Thứ ba biến họ trở thành người chỉ còn biết tham ăn, tham nhậu, ưa đánh lộn, thích chửi mắng vợ con và xóm làng.

- Thứ tư một người say rượu có thể làm náo loạn cả thôn xóm, mất trật tự an ninh trong thôn xóm.

Một con người bình thường uống rượu say mà còn mất giá trị thay, huống là một vị tu sĩ Phật giáo uống rượu say thì còn giá trị gì là một tu sĩ giải thoát. Giải thoát sao còn uống rượu, nghiện rượu. Phải không các bạn?

Khi uống rượu bị rượu kích thích thần kinh, người say rượu xem trời đất chẳng ra gì, chỉ có mình là trên hết, nên dùng những lời nói phách lối, cống cao, ngã mạn, chửi mắng thiên hạ, la lối om sòm, dùng những lời lẽ kém văn hóa thiếu đạo đức, mất lịch sự rất thô tục: “Thằng, mày, nó, chửi thề thô tục v.v.. ”.

Một tu sĩ Phật giáo là một vị Thánh Tăng mà tay cầm ly rượu hay lon bia uống thì còn nghĩa lý gì là một tu sĩ của Phật giáo, còn nghĩa lý gì là một vị Thánh Tăng đệ tử của Phật nữa?

Người đời cầm ly rượu uống người ta còn thấy người ấy là người không minh mẫn, không sáng suốt, ngu si, là người thiếu đạo đức với mình. Uống độc dược vào thân để tự làm khổ mình mà không biết, hành động như vậy là hành động của người điên, người mất trí.

Người ta bảo rằng: mấy ông Tiên hay uống rượu (Tiên tửu). Lời nói này có đúng không?

Lời nói này là theo sự tưởng nghĩ của con người cho rằng người nào hưởng đầy đủ dục lạc thế gian mà không phải đổ mồ hôi nước mắt làm ra vật chất (sướng như Tiên). Cho nên Tiên là sự tưởng nghĩ, chứ thực sự những người bỏ đời vào núi tu hành thìrượu ở đâu trong núi có mà uống? Ai làm ra rượu cho các ông Tiên uống? Tiên chỉ là một sự tưởng tượng của con người.

Thánh Đức Minh Mẫn xác định cho chúng ta thấy Thánh, Tiên, Phật là những người sáng suốt minh mẫn. Những người sáng suốt minh mẫn mà lại uống rượu thì có còn sáng suốt minh mẫn không?

Tiên mà còn uống rượu thì đâu còn nghĩa là Tiên, mà là kẻ phàm phu tục tử tham ăn, tham uống. Tiên là những người thân tâm phải thanh tịnh, thông minh và sáng suốt, nên có ngu gì mà uống rượu.

Tiên mà còn đắm chìm trong men rượu thì không thể gọi là Tiên nữa mà gọi là những người ngu. Người ngu mới nghiện ngập, mới làm cho thân mình khổ sở. Người uống rượu đâu có sung sướng gì. Phải không quý bạn? Chỉ làm khổ cho thân mình, cho vợ con, cho cha mẹ. Rượu đắng và cay, gây ra nhiều thứ bệnh tật khổ đau, v.v..

Người đời không biết cho Lý Bạch là Tiên. Sự thật Lý Bạch chỉ là một nhà thơ rượu. Có uống rượu thì làm thơ, không uống rượu thì không làm thơ được.

Trong kinh Phật đã dạy: có năm tiêu chuẩn làm người, mà uống rượu là một tiêu chuẩn để không xứng đáng làm người. Người uống rượu là người chưa xứng đáng làm người. Cho nên nói đến Tiên là phải nói đến một con người hơn con người. Thế mà Tiên còn uống rượu, còn uống rượu thì chưa xứng đáng làm người, thì làm Tiên sao được. Phải không các bạn?

Người ta so sánh thú vật, người, Thánh, Tiên, Phật là ở chỗ đức hạnh. Tiêu chuẩn đức hạnh mới xác định được cụ thể ai là thú vật, ai là người, ai là Thánh, ai là Tiên và ai là Phật. Giới Đức Minh Mẫn Thánh Sa Di đã xác định được điều này.

Cho nên đạo Phật đã biết lấy Giới luật mà xác định và phân loại: Làm người như thế nào mới thật sự là người, làm Tiên như thế nào mới thật sự là Tiên, làm Thánh như thế nào mới thật sự là Thánh và làm Phật như thế nào mới thật sự là Phật. Người làm thú vật thì dễ, nhưng làm người không phải dễ, nên Khổng Tử nói: “Vi nhân nan, vi nhân nan”,nghĩa là Làm người khó, làm người khó”. Làm Thánh, Tiên, Phật thì còn khó gấp trăm ngàn lần.

Tiểu chuẩn ấy đạo Phật đã xác định qua hành động sống hằng ngày như vậy, ai làm khác mà gọi họ là Người, Thánh, Tiên và Phật là lừa đảo người.

Cho nên đứng trong tiêu chuẩn của Phật giáo mà xác định thì kẻ nào mạo nhận mình là Người, Thánh, Tiên, Phật, chúng ta đều biết thứ giả, thứ thật. Không thể có ai lừa dối chúng ta được. Phải không các bạn?

Mười Giới Đức Thánh Sa Di xác định cho chúng ta biết rất rõ những người tu sĩ giả và những người tu sĩ thật trong Phật giáo.

Người tu sĩ Phật giáo mà chỉ vi phạm một giới trong mười Giới Đức Thánh Sa Di này thì người ấy không phải là tu sĩ Phật giáo mà là Ma Ba Tuần đội lốt Phật giáo. Họ đang tu danh, tu lợi, tu dục lạc thế gian, tu chùa to Phật lớn v.v.. Phật tử cần lưu ý để tránh xa.

Chúng tôi xin nhắc lại, một vị Thánh Tăng còn bưng ly rượu hay lon bia uống thì còn gì thể thống của một vị Thánh Tăng, cũng như một vị Thánh Tăng cầm một điếu thuốc lá hút thì còn nghĩa lý gì Thánh Tăng, là đệ tử của đức Phật. Phải không quý vị?

Thế mà có một vị HT, giảng sư, nói rằng: “Phật giáo dạy: cho phép uống rượu, nhưng uống rượu đừng say”. Lời dạy này là của ma, chứ giới cấm của Phật giáo không cho phép người cư sĩ uống rượu huống là tu sĩ. Vậy mà HT này dám dạy như vậy trước đông đảo Phật tử thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Thật là đau lòng!

Đức Phật cấm uống rượu, vì rượu là một thứ nghiện ngập khiến cho mọi người dễ đắm mê. Ngoài rượu ra nhưng chúng ta phải hiểu có những thứ nghiện ngập khác như: thuốc lá, chè (trà), cà phê, thuốc phiện v.v.. tuy rằng Phật không cấm nhưng chúng ta nên biết đó cũng là những thứ độc dược gây ra bệnh tật cho cơ thể mang đến sự khổ đau cho chúng ta. Cho nên, một vị tu sĩ Phật giáo mà cầm điếu thuốc lá hút phà khói mịt mù thì còn có giá trị gì là một tu sĩ Phật giáo, một vị Thánh tăng. Phải không các bạn?

Một vị Thánh Tăng không thể còn đắm nhiễm những thứ độc dược này, vì đắm nhiểm những thứ độc dược này thì oai nghi tế hạnh của một tu sĩ Phật giáo không cho phép họ ngang nhiên sống bừa bãi trên những thứ nghiện ngập này.

Một vị Thánh Tăng là phước điền của tất cả chúng sanh. Tướng phước điền ấy mà hút thuốc lá, uống rượu thì còn gì là phước điền của ai?

Đã không làm Tăng, Ni thì thôi, một khi đã làm Tăng, Ni thì phải giữ cho đúng tư cách của một vị Tăng, Ni, đừng làm sai khiến người ta phỉ báng Phật pháp, chê cười Phật giáo thì tội ấy về ai?

 Cho nên, Tăng, Ni hiện giờ phạm giới thì phải chịu tội đọa địa ngục. Trước giờ chết họ phải thọ lấy những cơn bạo bệnh, những bệnh ngặt nghèo, đau đớn không cùng. Đừng bảo rằng trả nghiệp, dồn nghiệp. Tăng, Ni là những bậc Thánh thì phải “chuyển nghiệp”, chuyển nghiệp thì làm sao có thọ khổ như vậy? Lời nói: trả nghiệp, dồn nghiệp, chỉ là lời nói lừa đảo để che đậy tội lỗi của mình với những người khác.

Người cư sĩ giữ gìn trọn vẹn năm giới, đến khi chết người ta còn biết ngày, giờ ra đi, bệnh đau sơ sơ, nhẹ nhàng, chết trong êm thấm không có nhiều khổ đau. Còn ngược lại Tăng, Ni sống phá giới, phạm giới, đánh mất hết oai nghi Thánh hạnh, làm cho Phật Pháp suy đồi, do đó khi chết phải trả quả khổ đau tận cùng. Vì thế, cảnh tượng đau khổ kinh khiếp của các vị Hoà Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng, Ni trước khi chết đều phải trả quả đau khổ.

Gương Tăng, Ni đi trước phạm giới bị quả báo để răn nhắc cho Tăng, Ni đi sau phải cố tránh, đừng để xe lăn vào vết xe đổ.

Rượu, thuốc lá, v.v.. có mập béo gì mà lại đắm nhiễm? Rượu, thuốc lá, thuốc phiện v.v.. là những thứ độc dược mà mọi người cần phải tránh xa. Còn thích rượu, thuốc lá, v.v.. thì đừng nên xuất gia làm Tăng, Ni.

Tăng, Ni là những bậc Thánh đệ tử của Phật thì rượu, thuốc lá và các thứ đắm nhiễm khác phải từ bỏ, xa lìa thì mới xứng đáng là Tăng, Ni.

Không làm đệ tử của Phật thì thôi, còn đã làm đệ tử của Phật thì phải xa lìa, phải từ bỏ các thứ dục lạc dễ đắm nhiễm đó.

Kính thưa các bạn Tăng, Ni và nam nữ cư sĩ! Những Thánh Đức Giới Hạnh của Phật đã dạy thì chúng ta phải tôn trọng, không được xem thường, luôn luôn phải chấp hành nghiêm chỉnh không được vi phạm, nhất là giới cấm uống rượu thì phải chấp hành triệt để không được uống rượu, hút thuốc lá, v.v..

Thánh Đức Minh Mẫn của một vị Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư Sĩ đệ tử của đức Phật, là chúng ta cầnphải thông minh, trí tuệ sáng suốt để ngăn và diệt các ác pháp này.

Trí tuệ thông minh của đạo Phật, không hẳn là tri kiến hiểu biết nhiều sự việc mênh mông, mà còn là tri thức hiểu biếtkhông làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Người không uống rượu là người có sự hiểu biết không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai, đó là người minh mẫn, là người sáng suốt.

Thánh Đức Minh Mẫn giúp cho mọi người không còn ngu si để đắm mê hút thuốc lá và uống rượu nữa.

GIỚI ĐỨC SA DI THỨ SÁU: KHÔNG TRANG ĐIỂM

Không trang điểm là một “ĐỨC THÁNH TỰ NHIÊN”.Người xuất gia cũng như người tại gia cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Bản chất của con người dù nam hay nữ đều thích làm đẹp, nhất là phái nữ, dù là một người rất xấu, nhưng họ vẫn cố trang điểm làm cho đẹp, vì thế mà các mỹ viện mọc lên rất nhiều.

Mục đích trang điểm làm đẹp là do tâm ái dục, tâm ái dục luôn muốn cho mọi người phải để ý và mê mệt với mình. Đó là nguyên nhân ngấm ngầm bên trong thân và tâm của mình để thể hiện tâm sắc dục, tâm sắc dục tức là tình dục, khi mắt thấy sắc của người khác phái thì tình dục khởi lên. Vì mục đích này giới nữ thường ăn mặc hở hang. Muốn khiêu dâm gợi dục, hiện nay phái nữ thường ăn mặc bày da bày thịt theo người Tây Phương là để khiêu gợi tâm sắc dục của người khác phái và cũng chính khiêu gợi tâm sắc dục của mình. Đối với Đức Phật, Ngài rất hiểu rõ điều này, nên cấm đệ tử của mình, nhất là giới tu sĩ: “không cho trang điểm làm đẹp”. Không cho làm đẹp là để diệt trừ tâm sắc dục. Trong kinh Tăng Chi tập 1 trang 9 thuộc đại tạng kinh Việt Nam, đức Phật dạy: “Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỳ Kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông như sắc người đàn bà… Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỳ kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà, như sắc người đàn ông…”. Đối với đạo Phật tâm sắc dục là một trong những tâm ái dục, nó là con đường sinh tử luân hồi; nó là con đường khổ đau; là nguyên nhân sinh ra muôn vàn đau khổ của con người. Vì thế, trong bốn chân lý của đạo Phật, nó là chân lý thứ hai gọi là “Tập đế”. Tập đế có nghĩa nơi tập họp mọi sự khổ đau, hay nói cách khác là nguyên nhân sinh ra mọi khổ đau của kiếp sống làm người.

Muốn xa lìa tâm sắc dục, mà còn trang điểm, làm đẹp thì không bao giờ xa lìa tâm sắc dục ấy được.

Tóc râu đã cạo bỏ, còn gì là đẹp đẽ nữa đâu, thế mà các Thầy tuy cạo bỏ râu tóc nhưng còn sửa sang làm đẹp, cạo râu, cạo tóc thường xuyên, quần áo chải chuốt, ủi là láng bóng. Sang đẹp có nghĩa là y áo phải may bằng vải hàng nhập, loại hàng tốt nhất, may y áo phải vừa vặn, không rộng, không chật, thường dùng gương soi mặt, ngắm trước, ngắm sau khi đi... Những hành động trang điểm làm đẹp như vậy là nuôi tâm sắc dục, ưa thích tâm sắc dục.

Người còn tâm ưa thích sắc dục thì còn trang điểm, còn làm đẹp thì tu hành chỉ hoài công vô ích.

Đạo Phật muốn đào tạo những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni A La Hán nên giới luật cấm trang điểm làm đẹp là để tâm ly dục lìa ác pháp. Có ly dục lìa ác pháp thì Đức Hạnh Tự Nhiên Thánh Sa Di này mới sống đúng và giữ trọn vẹn. Ai theo đạo Phật tu hành mà còn trang điểm làm đẹp thì không phải là Thánh Tăng, Thánh Ni, Thánh Sa Di nữa mà là Ma trong đạo Phật, đội lốt Phật giáo để giết Phật giáo. Bởi vậy, những tín đồ Phật giáo cũng như những người ngoài Phật giáo, khi thấy một vị tu sĩ ăn mặc sang đẹp chải chuốt làm đẹp thì nên biết đó không phải là tu sĩ Phật giáo, mà là Ma đội lốt tu sĩ Phật giáo.

Xưa đức Phật lượm vải bó thây ma, vải bỏ của người khác về giặt sạch làm y áo của mình. Y áo ấy gọi là áo cà sa (Y phấn tảo), còn bây giờ y áo của tu sĩ Phật giáo rất là sang đẹp và đắt tiền, như vậy là đi ngược lại chủ trương đời sống của đạo Phật “Ba y một bát thiểu dục tri túc”. Ba y một bát tức là hạnh ly dục ly ác pháp. Một tu sĩ mà không sống được Phạm hạnh này thì không bao giờ tìm thấy sự giải thoát.

Người cư sĩ đem cúng dường y áo cho tu sĩ bằng những hàng lụa đẹp sang là cúng dường sai pháp, khiến cho tu sĩ trở thành phú Tăng, chứ không còn là bần Tăng.

Ăn mặc sang đẹp là một cách trang điểm làm đẹp; còn trang điểm làm đẹp là phạm giới, là không ly dục ly ác pháp; không ly dục ly ác pháp thì làm sao được gọi là Thánh Tăng, Thánh Ni, Thánh cư sĩ, đệ tử của đức Phật?

Muốn làm chủ sanh tử luân hồi, mà hành động trang điểm làm đẹp không từ bỏ thì làm sao chấm dứt sanh tử luân hồi được?

Mục đích xa lìa tâm ái dục nên phải xa lìa sự trang điểm, làm đẹp, cho nên những tu sĩ đạo Phật, dù nam hay nữ, đều phải cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, (áo vải thô xấu, vải liệm thây ma, v.v..), đi chân đất, đầu trần không đội nón.

Người tu sĩ của Phật giáo hình dáng phải làm cho xấu xí thì càng dễ tu. Đó cũng là phương pháp ly dục ly ác pháp. Còn trang điểm làm đẹp là phương cách nuôi tâm dục và ác pháp.

Xưa ông A Nan vì quá đẹp trai nên sự tu tập của ông phải gian nan với người khác phái.

Có thân hình đẹp đẽ là hình dáng dễ gợi lòng yêu thương, ái dục, khiến cho chúng ta khó xa lìa tâm ái dục.

Có một cô gái người Nhật Bản vào chùa xin tu, nhưng vị trụ trì từ chối không chấp nhận và bảo cô rằng: “Cô không tu được”.

- Tại sao vậy?.

- Vì cô quá đẹp.

Sau khi hủy hoại sắc đẹp xong, cô trở lại chùa xin tu, lúc bấy giờ cô được nhận làm đệ tử.

Qua câu chuyện trên cho thấy sắc đẹp làm cản trở sự tu tập của chúng ta rất lớn, vì thế chúng ta là tu sĩ Phật giáo không nên trang điểm, phải giữ gìn giới luật Thánh Đức Tự Nhiên không trang điểm làm đẹp này nghiêm chỉnh.

Có ý chí quyết tâm xa lìa tâm ái dục nên cô gái này đã diệt sắc đẹp của mình tức là cô đã diệt tâm ái dục của mình, nhờ đó trên đường tu hành theo Phật giáo cô đã chứng quả Thiền Tông.

Như vậy, hiện nay đúng theo giới luật Phật như quý vị đã biết, người tu sĩ đạo Phật phải luôn luôn cạo bỏ râu tóc, ăn mặc áo quần thô xấu. Đó là một hình thức rất cần thiết để xa lìa tâm ái dục và ác pháp.

Không trang điểm làm đẹp là một Thánh đức tự nhiên lìa xa tâm ái dục mà người tu sĩ cần nên học và cố gắng khắc kỷ mình để thực hiện cho bằng được Thánh hạnh này. Nhờ đó con đường tu tập mới có hiệu quả hơn.

Kính thưa các bạn đồng tu Phạm hạnh! Thánh đức tự nhiên xa lìa tâm ái dục, các bạn có giữ trọn hay không, đó là còn tùy ở các bạn. Nếu các bạn giữ trọn trước mặt cũng như sau lưng thì các bạn đã tự biết mình lìa xa tâm sắc dục. Xa lìa tâm sắc dục rất có lợi cho các bạn, nó giúp cho thân tâm của các bạn thanh tịnh, nhờ thế các bạn mới dễ dàng tu tập thiền định mà không sợ lạc vào tà thiền.

Nếu Phạm hạnh này không giữ trọn vẹn được thì các bạn tu hành phí công vô ích mà thôi.

Mỗi giới Đức Phạm Hạnh Thánh Sa Di là hiện thân của sự giải thoát trong Phật giáo.Vì thế, Mười Giới Đức Thánh Sa Di càng giữ gìn nghiêm chỉnh thì thân tâm càng lúc càng thanh tịnh; thân tâm càng lúc càng thanh tịnh thì đời sống càng đơn giản; đời sống càng đơn giản thì sự giải thoát gần kề. Sự giải thoát có được là nhờ sống đơn giản, tự nhiên. Cho nên đời sống đơn giản tự nhiên trước mặt cũng như sau lưng là xác định cụ thể cho người tu chứng. Người tu chứng hay không tu chứng là ở chỗ những giới đức Thánh này, chứ không phải ở chỗ ngồi thiền nhập định 7, 8 ngày hay thị hiện thần thông, phóng hào quang, độn thổ, tàng hình, biến hóa, v.v..

 Đối với Thánh hạnh không cần sửa sang trang điểm làm đẹp, mà thân tướng lại đẹp đẽ trang nghiêm một cách đơn giản tự nhiên thì đó mới thật sự là Thánh Đức Hạnh Tự Nhiên, đó mới thật sự là cái đẹp tự nhiên của một vị Thánh Tăng, Thánh Ni.

Thánh đức tự nhiên ly ái dục là để cho người tu hành có một dung nghi đẹp đẽ hồn nhiên, trong sáng rất tự nhiên. Đó là vì thân tâm thanh tịnh không còn ô nhiễm nên không cần trang điểm làm đẹp theo kiểu nhân tạo thế tục.

Nhìn qua Phạm hạnh Thánh đức tự nhiên của một vị tu sĩ Phật giáo là chúng ta nhận biết vị này là Thánh Tăng thật hay Thánh Tăng giả.

Thánh Tăng giả thì trang điểm ăn mặc sang đẹp, xe cộ lộng lẫy, cái đẹp ấy là cái đẹp nhân tạo, cái đẹp nhân tạo là cái đẹp của tâm dục và ác pháp. Cho nên, giới luật Phật cấm trang điểm làm đẹp giả tạo không chân thật. Làm đẹp giả tạo không chân thật có hai điều tội lỗi:

1- Tội lừa đảo người.

2- Tội thiếu chân thật với mình.

Lừa đảo người bằng tướng tốt, ăn mặc sang đẹp. Ảnh hưởng Bà La Môn giáo cho rằng người tu hành phải có tướng tốt, cho các vị tu sĩ nào có thân tướng mập béo, bệ vệ trong bộ y áo sang đẹp là tướng tốt, là tu chứng đạo, theo Phật giáo chúng tôi nghĩ rằng thân tướng ăn mặc như vậy không đúng lắm, vì thân tướng mập béo, trong y áo sang đẹp là tướng của dục lạc. Vẽ vời đức Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp là để loè mọi người theo kiểu kinh sách Bà La Môn thì chúng tôi nghĩ rằng đức Phật có một thân hình quái dị, chứ không phải thân hình của một con người.

Trang điểm là phương cách làm đẹp giả tạo, đó là thiếu chân thật với mình với người. Vì thế mà Giới Đức Thánh Tự Nhiên không trang điểm ra đời để giúp chư Tăng, Ni sống tự nhiên mà có vẻ đẹp đẽ hồn nhiên.

Tóm lại, một tu sĩ còn trang điểm làm đẹp là chứng tỏ tâm ly dục ly ác pháp chưa có. Điều quan trọng là tâm sắc dục chưa lìa thì con đường đạo khó thấy.

Nếu tu theo đạo Phật mà còn trang điểm làm đẹp là không thể tu theo đạo Phật được, đó là một điều xác định chắc chắn báo trước cho quý vị biết.

Muốn tìm tu giải thoát theo đạo Phật thì Giới Đức Thánh Tự Nhiên phải chấp nhận thực hành. Sống nghiêm chỉnh không hề vi phạm thì Thánh hạnh này mới có thể hiện rõ trong mọi oai nghi của quý vị.

Thánh Đức Tự Nhiên của một cơ thể đã lìa tâm sắc dục thì rất thanh tịnh. Tâm sắc dục lìa xa được, thì thân tâm của quý vị mới thật sự thanh tịnh. Thân tâm có thanh tịnh thì quý vị mới nhập được chánh định, còn thân tâm chưa thanh tịnh mà nhập định thì chỉ là nhập tà định. Do điều kiện này mà đức Phật chỉ dạy cho chúng ta: “giới sanh định” là vậy. Cho nên một người tu mà xem thường giới luật thì người ấy sẽ không bao giờ tu tập thấy được sự giải thoát của đạo Phật như thật.

Giới là pháp môn giúp cho tâm ly dục ly ác pháp, còn tà định là pháp môn ức chế tâm khiến cho tâm không bao giờ ly dục ly ác pháp được. Cho nên, giới không tu tập nghiêm chỉnh thì oai nghi chánh hạnh không bao giờ có, oai nghi chánh hạnh không có mà tu tập thiền định thì thiền định đó không bao giờ có giải thoát.

Đạo Phật lấy giới luật làm khuôn pháp tu tập hàng đầu, khiến thân tâm thanh tịnh, oai nghi chánh hạnh rõ ràng, người người nhìn vào đều kính mến và tôn trọng, không ai mà không thừa nhận.

Tà Giáo ngoại đạo bỏ giới luật lấy ý thức vô niệm làm tâm, cho tâm đó là Phật tánh. Do đó tu tập bị ức chế tâm, rơi vào định tưởng, khiến cho người tu hành không biết đường tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Lúc bấy giờ lại còn lạc vào mê hồn trận của tưởng mà không biết, cứ cho đó là định tướng của thiền định. Trong sách Thiền Quan Sách Tấn các Tổ thuật lại công phu tu tập của mình rất là gian khổ. Ba, bốn chục năm mà chứng những trạng thái tưởng, thật là phí uổng công cả một đời tu tập.

Người tu hành theo đạo Phật phải nhớ kỹ lời dạy này: “các pháp ác không nên làm và nên làm các pháp thiện”. Đó là lời dạy về giới luật của Phật.

Người phạm giới là người làm các pháp ác, người nào không phạm giới là người làm các pháp thiện. Người sống trong thiện pháp là người sống trong Thánh hạnh.

GIỚI ĐỨC SA DI THỨ BẢY: KHÔNG CA HÁT VÀ NGHE CA HÁT

Không ca hát và nghe ca hát là “THÁNH ĐỨC TRẦM LẶNG ĐỘC CƯ”.Người xuất gia cũng như người tại gia cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này để phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình. Do phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình nên các ác pháp không sanh khởi được, nhờ đó tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Lời ca tiếng hát phát ra âm thanh lúc trầm, lúc bổng, lúc cao, lúc thấp khêu gợi thất tình lục dục trong ta sống dậy, khiến cho tâm hồn chúng ta rung động ngây ngất buồn vui theo âm thanh du dương ảo não của tình yêu thương lãng mạn giữa trai gái. Giọng ca trầm hùng thúc dục tiến bước quân hành khiến cho thanh niên hăng hái lên đường xông pha vào trận mạc, trước lằn tên mũi đạn mà không hề nao núng.

Lời ca tiếng hát có lợi nhưng cũng có hại. Lợi là trước cảnh đất nước bị ngoại xâm, lời ca tiếng hát thúc dục thanh niên lên đường cứu nước; hại là khiến cho thanh niên nam nữ yêu thương lãng mạn đi đến những sự khổ đau tuyệt vọng, gây ra nhiều cái chết oan uổng. Phần nhiều những lời ca tiếng hát gợi lại những hình ảnh quá khứ thương đau, đánh thức dậy thất tình lục dục trong mỗi con người, khiến đời sống đã khổ lại còn khổ đau hơn. Cho nên, đức Phật thấy được những sự nguy hiểm này, vì thế Ngài cấm những tu sĩ không được nghe ca hát và tự mình ca hát.

Những người tu sĩ Phật giáo vì mục đích giải thoát mọi sự khổ đau của cuộc đời thì cần nên tránh xa ca hát và nghe ca hát. Tại sao vậy?

Như ở trên chúng tôi đã nói: Phật giáo cho rằng lời ca tiếng hát thường khêu gợi lòng thương nhớ khổ đau trong chúng ta. Muốn thoát sự đau khổ, cho nên đạo Phật không cho tu sĩ nghe ca hát hoặc tự ca hát. Đó là trách nhiệm và bổn phận của mỗi người tu sĩ đệ tử của đức Phật phải thấy. Không xuất gia thì thôi mà đã xuất gia thì phải thấy trách nhiệm và bổn phận này. Nếu một tu sĩ còn nghe ca hát hay tự ca hát thì đã đánh mất hết oai nghi Thánh Hạnh trầm lặng độc cư của mình, của người tu sĩ Phật giáo. Cũng vì thế mà mất hết ý nghĩa sự giải thoát của đạo Phật. Người tu sĩ còn nghe ca hát và tự ca hát thì đi tu để làm gì? Mục đích đi tu của đạo Phật là ly dục ly ác pháp. Ca hát hay nghe ca hát là nuôi dưỡng tâm dục, là còn nằm trong môi trường lục dục và ác pháp của thế gian.

Vì nghe ca hát hay tự ca hát là làm sống lại thất tình lục dục trong thân tâm của chúng ta như chúng tôi đã nói ở trên. Người tu sĩ đạo Phật hằng mong diệt thất tình lục dục để được giải thoát, thì cớ chi lại còn ham thích ca hát hoặc nghe ca hát, để làm sống lại thất tình lục dục thì sự tu tâp biết chừng nào mới hết tâm lậu hoặc!

Người nghe ca hát hay tự ca hát là gợi lên lòng thương nhớ khổ đau trong quá khứ, làm sống lại những ức niệm gì đã đi qua. Đức Phật đã dạy: “Quá khứ không truy tìm, vị lai không ước vọng”. Nghe ca hát và tự ca hát là truy tìm nỗi đau thương của quá khứ và nuôi hy vọng ở tương lai. Và như vậy thì làm sao tu tập giải thoát khổ đau cho được. Lời ca tiếng hát, ngâm vịnh thơ văn phản ảnh được tâm lý ái dục của con người. Vì thế, Sở Bá Vương Hạng Võ thất trận là do tiếng sáo, tiếng tiêu của Tiêu Hà theo kế hoạch tâm lý chiến của Trương Lương khiến cho quân lính của Sở Bá Vương nhớ nhà, cha mẹ và vợ con nên đồng nhau bỏ trốn về. Có đúng như vậy không các bạn?

 Chúng ta hãy lắng nghe những câu thơ, lời ca khêu gợi lên lòng thương nhớ sầu khổ, như của nhà thơ Huy Cận viết:

Sóng gợi trường giang buồn điệp điệp.

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về bến cũ sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng?”

Một nhà thơ Trung Hoa, Lư Thuật viết:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu”

Tản Đà dịch:

“Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

Đoàn Thị Điểm viết:

“Nước trong chảy lòng phiền không rữa

Cỏ xanh tươi dạ nhớ chẳng khuây…”

 Lời ca tiếng hát của Y Vân:

“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào…”

Lời ca tiếng hát của Lưu Hữu Phước thúc dục thanh niên trí thức lên đường cứu nước:

“Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp đền sông núi.

Đồng lòng cùng đi, đi, đi mở đường khai lối. Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên...”

Đó là những văn, thơ, ngâm vịnh, ca hát khiến cho lòng người tê tái nhớ thương khổ đau.

Thương nhớ là một pháp ác, là một pháp đau khổ. Lời ca tiếng hát ngâm vịnh thơ văn gợi lên lòng thương nhớ sầu khổ của một người con nhớ mẹ (Lòng mẹ) của một người vợ nhớ thương chồng đang chinh chiến ngoài biên ải xa (Chinh Phụ Ngâm), của một tình yêu quê hương (Tiếng Gọi Sinh Viên).

Lời ca tiếng hát, thơ văn ngâm vịnh gợi lên tình yêu thương trai gái (sắc dục) tình yêu thương cha mẹ (ái kiết sử) tình yêu quê hương tổ quốc (ái kiết sử).

Tất những sự yêu thương này nằm ở trong thất tình lục dục. Như chúng ta đã biết loài người thường chịu nhiều khổ đau là do thất tình lục dục tạo nên. Thế mà người ta thường tìm mọi cách làm sống lại nó để mà khổ, để mà đau.

Lòng thương yêu trong thất tình lục dục là tình yêu thương hạn hẹp trong tình cảm cá nhân, tình thương yêu ấy thường làm khổ cho mình, cho người khác.

Nỗi đau của thất tình lục dục khiến cho trai gái đi đến tuyệt vọng phải tự tử, khiến cho con giết cha, cha giết con, mẹ giết con, chồng giết vợ, vợ giết chồng, anh giết em, em giết anh v.v..

Nỗi đau ấy thúc dục chúng ta xả thân vào chỗ chết mà không hề biết sợ hãi và cũng không thấy trách nhiệm bổn phận đạo đức làm người của mình đối với mình, của mình đối với người khác, v.v..

Đạo Phật muốn cho con người thoát khổ, nên phải vượt thoát ra khỏi thất tình lục dục. Đối với đạo Phật thất tình lục dục là một loại tình yêu thương hạn hẹp, nhỏ mọn, ích kỷ phải được thay thế bằng một loại tình yêu thương rộng lớn. Tình yêu thương rộng lớn đó là “tâm từ, bi, hỷ, xả”. Tâm từ, bi, hỷ, xả là lòng yêu thương rộng lớn vô bờ bến, vì thế nó không bao giờ làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Nhờ có tâm này được thay thế thì chúng ta mới thoát ra khỏi thất tình lục dục.

Nếu mình thương yêu mình sao lại nghe ca hát và tự ca hát để gợi lên lòng nhớ thương, sầu khổ.

Người đời không hiểu nên cứ ngỡ mượn lời ca tiếng hát để giải sầu hay giải trí. Thật sự giải sầu hay giải trí như vậy lại làm cho tâm tư sầu khổ thêm, trí óc mệt nhọc, căng thẳng hơn.

Lời ca tiếng hát chỉ giúp cho người làm việc đầu óc quá căng thẳng được thư giãn mà thôi.

Mình thương mình thì không nên làm khổ mình. Phải không các bạn?

Nghe ca hát và tự ca hát cũng tự làm khổ mình, các bạn có hiểu không?

Cho nên muốn không làm khổ mình thì các bạn không nên nghe ca hát và ca hát.

Bởi vì nghe ca hát cũng làm cho các bạn mất thì giờ rất nhiều.

Giải trí nghỉ ngơi mà lại bắt đầu óc lắng nghe âm thanh khiến cho thần kinh mỏi mệt. Như vậy giải trí nghỉ ngơi có đúng không?

Như vậy thương yêu mình sao lại làm khổ mình?

Mượn lời ca tiếng hát để quên đi sự sầu khổ, để giải trí nghỉ ngơi thì không đúng. Đó là một hình thức tránh né trốn chạy để ức chế và đè nén tâm mình.

Chúng tôi xin đem một ví dụ giải sầu khác: Cũng như người vì quá buồn khổ lại mượn chén rượu để giải sầu, rượu là một chất độc kích thích khiến cho thần kinh hưng phấn, nói năng cử chỉ giống như người điên, người mất trí... Những người say rượu như vậy họ đâu có sáng suốt thấy mình say rượu, họ cảm thấy như mượn chén rượu để nói lên lòng căm tức, lòng khổ đau của mình để cho hả lòng buồn giận, tức là giải sầu. Nhưng họ có biết đâu chính họ đã bị tâm họ lừa dối họ. Họ đang say nhưng họ đâu biết họ đang say. Sự thật là họ đang say rượu, thần kinh bị hưng phấn, họ không tự làm chủ họ được nữa, họ nghĩ rằng uống rượu say là sẽ quên sầu khổ, nhưng không ngờ họ đã làm cho họ sầu khổ thêm, chứ nào đâu phải mượn rượu để giải sầu.

Thưa các bạn! Lời ca tiếng hát cũng như vậy, chỉ làm vui dạ những người không biết sống cho mình. Nghe ca hát và tự ca hát là sống theo ngoại cảnh thất tình lục dục, thuộc về ảo ảnh, hư tưởng của những sự việc gì đã qua và của những sự việc gì chưa đến, họ tưởng là giải khổ lại chồng thêm khổ cho họ.

Ca hát là sự khêu gợi lòng đau khổ, làm mất sự an tịnh trầm lặng của tâm hồn nên đức Phật cấm những hàng đệ tử của mình:“không ca hát và nghe ca hát”.

Chúng ta cũng nên biết: Một vị Thánh Tăng đờn ca xướng hát ngâm vịnh, hoặc tán tụng ê, a giọng cao giọng thấp để ru hồn người vào cõi tưởng thì điều này đức Phật đã không chấp nhận từ lâu.

Kinh Sonadanda thuộc Trường Bộ Kinh tạng kinh Nikaya (Nguyên Thủy) có nêu lên năm đức tánh của một tu sĩ Bà La Môn. Năm đức tánh đó là:

1-        Thọ sanh huyết thống 7 đời Bà La Môn.

2-        Chú thuật, phúng tụng, thông hiểu ba tập Vệ Đa, danh từ, nghĩa lý và nghi lễ... phải thông suốt.

3-        Đẹp Trai, tướng hảo, (32 tướng tốt 80 vẻ đẹp).

4-        Trí tuệ.

5-        Giới luật.

Đức Phật đã loại bỏ ba tánh đức ở trên mà chỉ còn chấp nhận có 2 đức tánh ở dưới:

1- Trí tuệ.

2- Giới luật.

Ngài không chấp nhận dòng giống, tướng tốt, tụng niệm và chú thuật, vì thế giới luật của Ngài cấm tu sĩ ca hát và nghe ca hát tức là cấm tụng niệm ê, a giọng cao giọng thấp.

Trong đạo Phật chỉ có tri kiến (trí tuệ) và giới luật mới giúp cho đệ tử của Người thật sự giải thoát mọi khổ ách.

Hôm nay quý Thầy tụng kinh, niệm chú, niệm Phật, chúng tôi nghĩ rằng đây không phải là đường lối của Phật giáo mà là một nghề tụng niệm của Bà La Môn ngày xưa để trao đổi kiếm sống với tín đồ, khi những vị Bà La Môn này còn tuổi trẻ, thì lấy nghề tụng niệm mà kiếm sống, đến khi già các vị này chuyên tu nên không còn tụng niệm nữa.

Đức Phật xưa xuất gia tu hành cũng theo Đạo Bà La Môn, nhưng không tìm thấy sự giải thoát trong đạo này, nên Ngài phải tự vạch ra cho mình một lối đi. Những gì của đạo Bà La Môn đúng có sự tu tập giải thoát chân thật thì Ngài chấp nhận, còn những gì tu tập không giải thoát thì Ngài loại trừ bỏ ra.

Năm điều kiện để trở thành một Bà La Môn, Ngài chỉ chấp nhận hai điều kiện, còn ba điều kiện Ngài loại bỏ như ở trên chúng tôi đã nói. Như vậy chúng ta thấy rất rõ đức Phật không chấp nhận 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, chỉ có các nhà Đại Thừa thường ca ngợi 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp của đức Phật. Rõ ràng như thế đây là Bà La Môn mạo danh Phật giáo. Xin Quý vị cứ suy ngẫm có đúng: “Kinh sách Phát triển chính là kinh sách của Bà La Môn?”.

Nghề chân chính trong đạo Phật đó là nghề đi xin ăn (Chánh Nghiệp), còn nghề tụng kinh, niệm chú, cầu an, cầu siêu, cúng vong, tiễn linh, cúng sao, giải hạn, làm tuần, làm tự v.v.. là tà nghiệp, đức Phật không chấp nhận. Bài kinh Sonadanda đã nói lên tinh thần bài bác những pháp môn tụng niệm cầu cúng không lợi ích cho đời sống mà còn gây cho tín đồ mê tín và lạc hậu.

Một vị Thánh Tăng ngồi tụng niệm ê, a giọng cao, giọng thấp theo nhịp tiếng chuông, tiếng mõ giống như đờn ca xướng hát, ngâm vịnh thì oai nghi tế hạnh này làm sao gọi là Thánh hạnh của bậc Thánh Tăng được.

Một vị Thánh Tăng là phải sống trọn vẹn đầy đủ đức hạnh trầm lặng. Đức hạnh trầm lặng mới nói lên được oai nghi tế hạnh của một bậc Thánh Tăng. Vì trạng thái sống trầm lặng ấy mới được gọi là sự sống của bậc Thánh; còn ngược lại ngồi tụng niệm ê, a như ca hát hoặc nghe tụng niệm, nghe ca hát thì các bạn nghĩ sao? Lúc bấy giờ tâm hồn trầm lặng có còn không? Một vị Thánh Tăng là phải sống trọn trong trạng thái trầm lặng mới được gọi là Thánh Tăng.

Thánh Đức Trầm Lặng giúp cho chúng ta trở về sống với nội tâm của mình. Sống trở về nội tâm của mình là một đức hạnh tuyệt vời, vì nó là đức hạnh không làm khổ mình, khổ người.

Do sự lợi ích này đức Phật cấm các Tỳ Kheo không được nghe ca hát và tự ca hát.

Một vị Thánh Tăng ngồi nghe ca hát hoặc tự mình ca hát dù là bài ca loại nào cho đến những bài tán tụng những câu kinh tiếng kệ cũng đều thuộc loại ca hát. Nên trong kinh Sa Môn Quả, kinh Sonadanda đức Phật đều không chấp nhận những lối tán tụng, niệm Phật ê, a.

Gần đây có một số tu sĩ và cư sĩ không thông hiểu đạo Phật, họ bắt chước theo đạo Thiên Chúa soạn nhạc Phật để sách tấn Tăng Ni tu học. Đó là một việc làm trái với mục đích của Phật giáo. Phật giáo chấp nhận sống trầm lặng độc cư, nên đức Phật thường nhắc nhở Tăng, Ni phải sống độc cư như con tê ngưu một sừng.

Đạo Phật là đạo tự lực cứu mình ra khỏi sông mê biển khổ của kiếp người thì Thánh hạnh trầm lặng rất cần thiết cho sự sống về nội tâm của người tu giải thoát.

Người tu theo đạo Phật mà không giữ được Thánh hạnh này thì rất khó tìm sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi.

Còn ca hát và nghe ca hát là còn tâm dục của thế gian, giọng ca tiếng hát của mình, của người là thực phẩm nuôi dưỡng tâm dục. Còn nuôi dưỡng tâm dục thì làm sao ly dục ly ác pháp được.

Đạo Phật mà còn có những bài kinh, tán tụng giọng thấp, giọng cao ngâm vịnh hát hò thì có khác chi là ngoại đạo Bà La Môn.

Người ta không biết cho rằng những bài kinh tán tụng ê, a giọng cao thấp là ca nhạc đạo. Đối với đạo Phật thì không có ca nhạc đạo, mà chỉ có sự sống trầm lặng để trở về với nội tâm thanh thản, an lạc và vô sự của mình.

Thánh Đức Trầm Lặng giúp chúng ta sống về nội tâm của mình, nhờ thế mà ta nhận ra được mỗi tâm niệm ác và thiện nên ta sẽ diệt ác và tăng trưởng thiện một cách dễ dàng, nếu không nhờ đức hạnh trầm lặng thì ta rất khó nhận ra được cái tâm xảo trá của chính chúng ta, nên rất khó ly dục ly ác pháp cho thật sạch.

Đức Thánh Trầm Lặng là một Thánh hạnh tuyệt vời mà cũng là một pháp hành vi diệu giúp chúng ta ngăn và diệt ác pháp tận gốc.

Cho nên GIỚI KHÔNG NGHE CA HÁT VÀ TỰ CA HÁTthì chỉ có trong đạo Phật mới có Thánh hạnh này. Thánh hạnh này rất xứng đáng là hạnh của một bậc Thánh Tăng.

Tóm lại, người tu sĩ Phật giáo nghe ca hát và tự ca hát là không phải tu sĩ Phật giáo đó là tu sĩ của Bà La Môn.

Để xác định cho rõ ràng, người tu sĩ Phật giáo nghe ca hát và tự ca hát (tụng niệm cúng tế cầu khấn...) là không phải Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ mà là Ma Ba Tuần đội lốt Phật giáo để phá hoại Phật giáo. Xin quý Phật tử nên lưu ý và để tránh xa những loại tu sĩ này.

ĐỨC HẠNH SA DI

Đức hạnh Sa Di là phải lấy gốc cây làm giường nằm, lấy nghĩa địa làm nhà ở. Đó là tập hạnh buông xả, ly dục ly ác pháp.

GIỚI ĐỨC SA DI THỨ TÁM: KHÔNG NẰM GIƯỜNG CAO RỘNG LỚN

Không nằm giường cao rộng lớn là một ĐỨC THANH BẦN.Người xuất gia cũng như những người tại gia cần phải học hiểu và sống cho đúng đức hạnh thì mới xứng đáng là đệ tử của Phật.

Nằm giường cao rộng lớn không đúng oai nghi tế hạnh, không đúng tư cách của một tu sĩ Phật giáo. Vì nằm giường cao rộng lớn, gỗ quí giá có nghĩa là một tu sĩ giàu sang, trái ngược với hạnh thanh bần của một tu sĩ Phật giáo.

Người tu sĩ Phật giáo nằm giường cao rộng lớn thường ngủ thiếu tỉnh giác, lăn lộn dễ dàng, nằm sấp, nằm ngửa, nằm nghiêng, quay lộn tứ hướng, v.v.. nằm ngủ như vậycóđúng Thánh hạnh của một vị Thánh Tăng không? Thưa quý bạn?.

Các bạn nghĩ sao, với tư cách một tu sĩ nằm ngủ như vậy, các bạn có chấp nhậnkhông?

Một tu sĩ Phật giáo nằm giường cao rộng lớn sang đẹp, mền êm nệm ấm là đã phá hạnh thanh bần của một vị Thánh Tăng “xả phú cầu bần…”.

Giới cấm không nằm giường cao rộng lớn là giới cấm giữ gìn oai nghi tế hạnh khi nằm ngủ của một bậc Thánh Tăng cho đúng Thánh hạnh tu hành giải thoát.

Thánh hạnh thanh bần của một vị tu sĩ Phật giáo là đúng nghĩa giải thoát của nó, nếu ai sống ngược lại thì không đúng nghĩa.

Xưa đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ bỏ những thứ sang giàu để chấp nhận một đời sống, lấy gốc cây làm giường nằm. Đó là một Thánh hạnh thanh bần giải thoát những vật chất thế gian của đức Phật rất là tuyệt vời mà chúng ta cần phải noi gương. Chúng ta là những tu sĩ Phật giáo hiện thời mà sao lại quên đi gương hạnh giải thoát cao quý này? Lại nỡ để tâm tham đắm giường cao rộng lớn, để cho đời mỉa mai Phật giáo, thật là đau lòng. Phải không các bạn?

Nếu đã đi tu theo Phật giáo thì phải làm tròn bổn phận đạo đức Thánh hạnh của người tu sĩ Phật giáo, có nghĩa là giới luật phải nghiêm chỉnh. Thà không đi tu thì thôi, chứ đừng đi tu mà vi phạm giới luật thì xấu hổ lắm các bạn ạ! Nếu đi tu phạm giới thì cởi áo cà sa trả lại cho chùa, đừng để mọi người mỉa mai Phật giáo. Đó là trách nhiệm và bổn phận của người tu sĩ Phật giáo.

Là một du Tăng khất sĩ làm sao mang theo giường cao rộng lớn được, vì đời sống của họ phải rày đây, mai đó, nay ở chỗ này mai ở chỗ kia. Chủ trương của đạo Phật cũng như gương hạnh của đức Phật chúng ta là hàng đệ tử của Người, không thể nào chối bỏ hạnh du Tăng khất sĩ được.

Chỉ có trụ thế Tăng đời sống ở một chỗ nên mới có giường cao rộng lớn. Vì thế tất cả những tu sĩ trụ thế Tăng đều phạm giới, phá giới, không những giới luật này mà còn nhiều giới khác nữa.

Chúng ta xác định chắc chắn giới luật Phật bị phá hủy là do phần đông tu sĩ trụ thế Tăng.

Mục đích của đạo Phật là phải tu tập ly dục ly ác pháp. Cho nên, giới luật Phật là hạnh ly dục ly ác pháp. Trụ thế Tăng vì không biết, không thông hiểu mục đích ly dục ly ác pháp của đạo Phật, nên luôn luôn phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, vì thế vô tình hay hữu ý mà họ đi ngược lại đường lối tu tập của đạo Phật, tâm luôn luôn bám chặt vào vật chất thế gian. Cho nên hạnh thiểu dục tri túc, ba y một bát họ không sao sống được, giữ gìn được, do vậy mà chùa to Phật lớn bắt đầu phát triển mọc lên như nấm, tốn hao biết bao nhiêu của đàn na thí chủ. Chúng ta hãy nhìn khắp trên hành tinh này, sự tốn hao mồ hôi nước mắt của loài người đã đổ về cho tôn giáo không biết bao nhiêu mà kể, nhưng tôn giáo đã đem lại những lợi ích gì thiết thực cho chính họ hay chỉ là một mơ ước, một hy vọng hão huyền?

Muốn có chùa to Phật lớn, sống trong danh lợi vật chất đầy đủ thì họ phải làm sao?

Bằng mọi cách để đạt được mục đích ấy, họ phải đẻ ra pháp môn bùa mê, chú thuật, thần thông phép thuật, kêu mưa gọi gió, sái đậu thành binh, v.v.. Họ còn dựa vào sự mê tín của dân gian còn lạc hậu, khi dân trí chưa cao, sản xuất ra pháp cúng bái tụng niệm cầu siêu, cầu an, cầu tài, cầu lợi, xem sao, bói quẻ, xem ngày giờ tốt xấu cất nhà, cưới vợ, gả con, v.v..

Bằng mọi cách để đạt được mục đích họ đẻ ra thế giới siêu hình bày vẽ cảnh giới Cực Lạc Tây Phương, Thiên Đàng, địa ngục để lường gạt những người nhẹ dạ, non lòng v.v.. Như vậy cũng chưa đủ, nên bằng mọi cách họ còn đẻ ra những pháp môn thiền tưởng, thiền xuất hồn, thiền kiến tánh thành Phật v.v…

Từ chỗ tu sai pháp, phạm giới luật, đánh mất Thánh hạnh thanh bần ly dục ly ác pháp, họ đã làm mất con đường cứu kính giải thoát của đạo Phật. Từ chỗ tu hành đã biến họ trở thành người giàu sang, có chùa to Phật lớn, có vật chất đầy đủ không thua kém gì người thế tục. Mang tiếng đi tu chứ họ đâu có tìm thấy sự giải thoát của thân tâm mình; họ đâu có tìm thấy mình thoát ra khỏi vòng thế tục ô nhiễm và nhiều cay đắng, khổ đau.

Giới Thánh Đức Thanh Bần đã lập nên một người tu sĩ đúng nghĩa xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo của Phật giáo. Thế mà người tu sĩ Phật giáo hiện giờ sống không đúng giới hạnh, giới đức, thường vi phạm giới bổn, mà cứ ngỡ tưởng mình tu đúng pháp, mình là đệ tử của Phật, nào ngờ cuộc sống của quý vịđã xác định quý vịlà tu sĩ ngoại đạo, sống theo dục lạc thế gian...

Giới luật là Thầy của mọi người. Giới luật còn là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất”, đó là lời di chúc sau cùng của đức Phật. Vậy mà tu sĩ Phật giáo hiện giờ phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, lại còn cho người giữ giới là lỗi thời, tu như vậy không chứng đạo. Những vị thầy ấy Thánh Hạnh Sa Di chưa giữ trọn thì làm Thầy thiên hạ có xứng đáng không, thưa quý vị?

Giới luật giúp cho người tu sĩ ly dục ly ác pháp để có được một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự. Với tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự, đó là trạng thái ly dục ly ác pháp, phải không các bạn?

Như vậy từng mỗi giới luật của Phật có ly dục trong mỗi khía cạnh của tâm dục chúng ta.

Giới Đức thánh Sa Di không nằm giường cao rộng lớn là giúp cho người tu sĩ lìa xa vật chất thế gian, xa lìa tâm dục thích êm ấm, sang đẹp, xa lìa tâm giàu sang, sống tâm thanh bần, sống đời đơn giản tri túc thiểu dục. Người tu sĩ mà còn cần giường nằm là còn dính mắc thì làm sao ra khỏi được nhà sanh tử.

Thân tâm của con người là thân tâm đắm nhiễm, khi người tu sĩ xem thường sự đắm nhiễm thì sẽ bị đắm nhiễm. Ví dụ: ta sống quen hạnh lấy gốc cây làm giường nằm, thì ta nằm ngủ rất dễ dàng, còn những người nằm giường cao rộng lớn êm đẹp thì quen với giường cao rộng lớn, nên khi lấy gốc cây làm giường nằm thì ngủ rất khó khăn.

Nếu không lập hạnh ly dục này thì sự tu hành chỉ hoài công vô ích, uổng phí một đời tu hành.

Giới Đức Thánh Sa Di không nằm giường cao rộng lớn có mục đích tạo cho du Tăng khất sĩrày đây mai đó. Cuộc sống rày đây mai đó là cuộc sống không dính mắc. Giường cao rộng lớn là một đối tượng không tiện lợi cho đời sống du Tăng khất sĩ.

Giới cấm này có mục đích giúp cho chư Tăng thoát ra khỏi đời sống trụ thế Tăng. Có thoát ra khỏi đời sống trụ thế Tăng thì mới mong tìm thấy con đường giải thoát.

Đời sống chư Tăng khất sĩ thì không có chùa to Phật lớn, vì không có chùa to Phật lớn nên đời sống giải thoát và tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không, thật là an ổn và tự tại, còn có chùa to Phật lớn thì không phải là du Tăng khất sĩ. Không phải là du Tăng khất sĩ thì đời không thể nào tự tại vô ngại được.

Những du Tăng khất sĩ là những người biết buông xả, biết ly dục ly ác pháp, biết tìm sự giải thoát ra khỏi vùng thế tục nhiều cay đắng.

Giới không nằm giường cao rộng lớn, nghe đơn giản nhưng rất đầy đủ ý nghĩa giải thoát của một vị tu sĩ Phật giáo. Một vị Thánh Tăng mà còn nằm giường cao rộng lớn, gỗ quý giá thì Thánh hạnh Thánh Tăng đâu còn nữa. Phải vậy không thưa quý vị?

Một vị tu sĩ nằm giường cao rộng lớn mền êm, nệm ấm thì đâu còn có Thánh hạnh nữa; họ chỉ là một người phàm phu tục tử, tâm còn tham đắm vật chất về ngủ nghỉ; sống giống như một ông quan, một nhà vua, một người giàu sang, v.v..

Giới Đức Thánh Sa Di Thanh Bần không cho phép một tu sĩ vi phạm giới luật này, bởi vì vi phạm giới này thì sao còn được gọi là thanh bần? Đã là Thánh hạnh thanh bần thì không nên phạm giới này, vì vi phạm giới này Thánh hạnh thanh bần không còn nữa.

Tóm lại, giới đức Thánh Sa Di Thanh Bần này giúp cho người tu sĩ được tự tại giải thoát ly dục về ngủ nghỉ về vật chất thế gian mà người thế tục không thể làm được.

Vậy, hỡi các bạn tu sĩ Phật giáo, từ chú Sa Di mới vào tu cho đến những vị Đại Đức, Thượng Tọa, Hoà Thượng, nên nghiêm chỉnh giữ gìn giới luật này thì mới xứng đáng là đệ tử của Phật, thì mới xứng danh Đại Đức, Thượng Tọa, Hoà Thượng; bằng ngược lại thì nên cởi áo cà sa trả lại cho Phật giáo, vì Phật giáo không chấp nhận những người tu sĩ như vậy. Những tu sĩ như vậy là những tu sĩ phá hoại Phật pháp, là Ma Ba Tuần trong Phật giáo.

Xin quý vị lưu ý: “Giới luật còn là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất”.

GIỚI ĐỨC SA DI THỨ CHÍN: KHÔNG ĂN UỐNG PHI THỜI

Không ăn uống phi thời là mộtĐỨC LY DỤC.Người xuất gia cũng như những người tại gia cần phải học.

Giới Thánh Đức Ly Dục rất cần thiết cho người tu sĩ Phật giáo, vì thế người cư sĩ cũng như người tu sĩ khi đến với Phật giáo phải một lòng cung kính và tôn trọng giới luật này. Nó khởi sự bắt đầuxác định cho mọi người thấy một tu sĩ có phải là một tu sĩ Phật giáo chân chánh hay không chân chánh?

Nếu một tu sĩ phạm giới này thì không phải là tu sĩ Phật giáo chân chánh. Nếu không phạm giới này thì đây mới là tu sĩ chân chánh của đạo Phật.

Nếu ai không coi trọng và tôn kính giới luật này thì người ấy là tu sĩ ngoại đạo.

Ăn uống là sự tiếp thu tứ đại bên ngoài để nuôi dưỡng tứ đại bên trong của sắc thân tứ đại chúng ta. Nhưng ăn uống phải biết tiết độ, không biết tiết độ ăn nhiều quá (bội thực) cơ thể cũng dễ sanh ra bệnh tật, ăn ít quá cũng vậy. Chỉ có ăn uống như thế nào để vừa đủ cho cơ thể không thiếu mà cũng không thừa.

Trong thời gian tu hành của đức Phật, Ngài đã rút ra được một kinh nghiệm! Ăn nhiều quá thì thừa dư chất bổ nên sắc thân sanh ra sắc dục, thùy miên, hôn trầm. Sắc dục, thùy miên, hôn trầm cũng là một loài dục của tâm. Cho nên, người ăn nhiều dễ sanh ra buồn ngủ, lười biếng, dâm dục; nhưng nếu ăn ít quá thì cơ thể thiếu những chất bồi dưỡng, sanh ra yếu đuối, dễ bị bệnh tật và nhiều điều khác nữa.

Từ đời sống vua chúa ăn uống quá nhiều đến đời sống khổ hạnh ăn uống quá ít. Đức Phật đã trải qua kinh nghiệm cuộc sống của mình như vậy, nên Ngài đã xác định: ăn ngày một bữa là đủ cho cơ thể có một sự sống tốt đẹp.

Thưa các bạn! Theo kinh nghiêm tu hành của chúng tôi, người tu sĩ làm việc nhiều hơn người thế tục. Tại sao vậy?

Suốt 24 tiếng đồng hồ người tu sĩ luôn luôn làm việc không những bằng trí óc mà còn lao động bằng tay chân cơ thể, họ có thể đi bộ từ 5 đến 10 cây số, còn đầu óc làm việc không nghỉ ngơi, làm việc như vậy mà ăn ngày chỉ có một bữa ăn, thế mà vẫn khoẻ mạnh, thân ít bệnh đau.

Người đời không biết tưởng ăn nhiều là khoẻ mạnh,ăn nhiều cơ thể phải làm việc nhiều, cơ thể tự động làm việc nhiều thì người mau già, tuổi thọ bị giảm.

Các bạn cứ suy nghĩ những lời nói của chúng tôi, đừng có tin ngay liền. Khi nào tin thì phải chứng nghiệm lời dạy của chúng tôi có kết quả.

 Chúng ta nên hiểu ngày ăn mộtbữa khi ăn phải tốn công sức rất nhiều. Trước khi ăn bạn phải lo nấu nướng, trong khi đang ăn uống bạn phải nhai nuốt, thực phẩm vào bao tử phải tiêu hoá, sau khi ăn xong bạn phải rửa bát chén và dọn dẹp.

Nếu ngày ăn ba bữa, quý bạn phải xét thấy rằng quý bạn phải bỏ ramột người lo nấu nướng dọn dẹp. Ngày ngày trôi qua, ngày nào cũng như ngày nào, việc ăn uống chiếm một phần lớn lao trong lao động của các bạn.

Khi bạn ăn nhiều tâm bạn sinh ra dục, do nhiều dục bạn phải gặt hái lấy biết bao nhiêu thứ đau khổ cho cuộc đời của bạn. Bạn có biết không?

Vì ăn uống phải làm việc nhiều như vậy, nên người tu theo đạo Phật, chỉ ăn ngày một bữa. Vì thế, mà người ta sống nhàn nhã vô sự, thoải mái. Ngày một bữa giúp cho bạn có nhiều thì giờ ngồi chơi sống một mình. Khi cảm thấy sống một mình được an trú thì lúc bấy giờ thân tâm của bạn thật là hạnh phúc.

Giới Thánh đức không ăn uống phi thời là để xác định tu sĩ giả hay tu sĩ thật như chúng tôi đã nói ở trên. Người giả tu, tâm còn tham dục phần nhiều phải lộ diện về mặt ăn uống phi thời.

Cho nên, giới này là để giúp cho người cư sĩ dễ nhận xét người tu sĩ Phật giáo giữ giới luật đúng hay là sai.

Đúng là những vị sư Thầy ấy phải ăn ngày một bữa. Sai là những vị Thầy ăn uống phi thời.

Như vậy hiện giờ quý Thầy tu sĩ Phật giáo như thế nào? Chắc chắn quý vị đã rõ. Chỉ có một giới không ăn phi thời thì quý vị thấy rõ sự thật tu sĩ Phật giáo hiện giờ chỉ là những tu sĩ chạy theo dục lạc ăn, ngủ, danh lợi chứ không phải ly dục như Phật dạy. Đó là tu sĩ giả.

Giới Đức Thánh Sa Di không ăn uống phi thời giúp cho tu sĩ tám điều lợi ích:

1-        Thứ nhất có nhiều thì giờ tu tập.

2-        Thứ hai tâm ly dục về sự ăn uống.

3-        Thứ ba cơ thể ít bệnh tật.

4-        Thư tư ít buồn ngủ, hôn trầm.

5-        Thứ năm xứng đáng là một tu sĩ Phật giáo sống đời thiểu dục tri túc.

6-        Thứ sáu đời sống vượt hơn người chưa xuất gia.

7-        Thứ bảy cơ thể nghỉ ngơi ít làm việc.

8-        Thứ tám người cư sĩ rất mến phục và tôn kính.

Muốn nhập các loại định từ Sơ thiền đến Tứ thiền và thực hiện Tam Minh thì người tu sĩ phải ăn ngày một bữa, nếu không ăn một bữa được thì chẳng bao giờ nhập được các loại Thánh định này và cũng không bao giờ thể hiện được Tam Minh. Như vậy, chúng ta thấy ăn ngày một bữa thật là quan trọng cho cuộc đời tu học của chính mình. Vì thế, đức Phật dạy: “thừa tự pháp chứ đừng thừa tự thực phẩm”. Chúng ta ai cũng biết: “Ăn để sống để tu tập giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết”. Người quyết chí tu hành thì chớ nên ăn uống phi thời.

Người tu sĩ Phật giáo là người muốn biến cảnh thế gian thành cảnh Cực Lạc, Thiên Đàng. Vì Cực Lạc, Thiên Đàng là nơi để cho tâm hồn của mọi người được an lạc, thanh tịnh và vô sự, chứ không phải là nơi sống để ăn uống, ca hát, nhạc kịch v.v.. Đừng nghĩ rằng: cõi Cực Lạc, Thiên Đàng là nơi lều quán buôn bán ăn uống, vui chơi ca hát. Vì buôn bán ăn uống vui chơi ca hát là còn sống trong cảnh dục lạc thế gian, thì làm sao gọi đó là cảnh Thiên Đàng, Cực Lạc được. Phải không quý vị?

Cho nên ngay tại thế gian chúng ta sống ngày ăn một bữa là chuẩn bị cho mình một cuộc sống nơi Cực Lạc, Thiên Đàng hay nói cách khác là chúng ta đã biến cảnh thế gian thành Cực Lạc, Thiên Đàng đó rồi.

Bởi vậy ăn ngày một bữa, chúng ta suy ngẫm cho thật kỹ, thì chúng ta cảm thấy thân, tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự. Thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì không phải nơi đó là Thiên Đàng, Cực Lạc sao?

Có chú Huệ Cần xin vào tu viện tu tập. Mới những ngày đầu chú quá thích bảo: “Ôi! Đời sống ở đây như Tiên trên trời, ăn ngày một bữa, không làm gì cả, ở không suốt cả ngày, ngồi chơi thảnh thơi thật là tuyệt vời’’ . Nhưng lần lượt tâm đời của chú sống dậy chú cảm thấy cô đơn, buồn tẻ, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ nhà cửa, nhớ bạn bè v.v.. kế tiếp hôn trầm, thùy miên, loạn tưởng khởi lên tấn công đánh chú. Do đó, chú chịu hết nổi, liền bỏ cảnh giới Tiên chạy về nhà sống cảnh trần tục với cha mẹ.

Bởi vậy, ai cũng muốn tu tập để được vãng sanh về Cực Lạc, để được sanh về cõi Trời, để được về cảnh giới Niết Bàn, để được trở về bản tánh của mình. Nhưng khi được trở về thì ai cũng chạy trốn.

Ở thế gian mọi người cứ ngỡ tưởng rằng: ở cõi Cực lạc, Thiên đàng cũng giống như ở thế gian, có nhiều lều quán ăn uống ca nhạc suốt ngày đêm, v.v.. Sự nghĩ tưởng như vậy không đúng, các bạn ạ!

Cõi Trời, cõi Cực lạc, ở đó không có lều quán buôn bán ăn uống và người ta cũng không có ăn uống như quý bạn! Ở đó chỉ có cuộc sống trầm lặng độc cư, họ không có nói chuyện với nhau, vì thế mới gọi là cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

Các bạn có biết không? Với tâm hồn người thế gian của chúng ta mà sống trong các cõi đó thì cô đơn buồn lắm các bạn ạ! Chắc chắn các bạn cũng không hơn gì chú Huệ Cần.

Tưởng cõi Cực Lạc Tây Phương và cõi Thiên Đàng là sung sướng lắm, là đầy đủ lắm, muốn chi có nấy. Thưa các bạn! Các bạn tưởng như vậy là sai, vì cõi đó người ta không còn dục, nên không còn ai ham muốn vật gì hết. Ăn, ngủ, vui chơi ca hát người ta cũng không ham muốn, nên ở đó vắng lặng. Ở đó người ta không thích ăn, nên người ta cũng không có làm việc như ở cõi thế gian, họ sống vô sự rất là thảnh thơi, an nhàn. Vả lại người ta không có nói chuyện với nhau, thường sống cô đơn một mình, nên cảnh giới ở đó rất là im lặng, không có tranh luận hơn thua, không có tranh cãi, đánh nhau, không có đua đòi vật chất như ở thế gian.

Để được vào cảnh giới đó nên đức Phật trang bị cho chúng ta mười giới Thánh Sa Di. Khi chúng ta bỏ thân này thì được vào ngay liền. Muốn vãng sanh Cực Lạc, muốn lên Thiên Đàng, muốn vào Niết Bàn mà ngay bây giờ các bạn không tập sống đời sống trên các cõi đó thì các bạn làm sao sống trong các cõi đó được. Phải không các bạn?

Các bạn về tu viện Chơn Như là các bạn đang tập sống làm Thánh A La Hán, làm Bồ Tát, làm Phật, để sau này rời bỏ thế gian về các cõi đó. Thế mà về đây các bạn sống không được thì các bạn đừng mong về các cõi đó được. Dù có cho các bạn về đó thì chừng ít hôm các bạn cũng xách gói chạy về trần gian sống trong mùi tục lụy khổ đau.

Nếu các bạn không tu tập ăn ngày một bữa, không sống độc cư trầm lặng thì làm sao quý bạn sống hòa nhập với các cõi đó được. Vì thế đức Phật thích Ca Mâu Ni biết rất rõ điều này, nên Ngài mới dạy chúng ta ăn ngày một bữa và cấm không cho ca hát và nghe ca hát là để chúng ta có dịp hội tụ, hoà nhập vào các thế giới chư Phật, thế giới Niết bàn.

Nếu quý vị không chuẩn bị cho mình sống làm quen với thế giới chư Bồ Tát, chư Phật thì chúng tôi nghĩ rằng quý vị khó mà hoà nhập vào một đời sống khác hơn đời sống thế tục.

Cho nên giới không ăn uống phi thời là một giới rất quan trọng cho quý vị để hoà nhập vào đời sống Thánh thiện.

Ăn ngày một bữa chỉ có những Bồ Tát, những A La Hán và chư Phật thì mới sống nổi, còn không sống được như vậy, thì không thể gọi đó là Thánh Tăng, Thánh Ni, hay Thánh Cư Sĩ được.

Thánh đức ly dục ly ác pháp trong ăn uống mà người tu sĩ Phật giáo cần phải tu tập và giữ gìn nghiêm chỉnh thì sự ganh đua bon chen tìm danh lợi, tìm ăn uống mới chấm dứt.

Người ăn ngày một bữa thì còn gì mà bon chen danh lợi. Phải không quý bạn? Người đời chỉ vì ăn uống nên biến họ thành ra là loài động vật, loài động vật chỉ biết ganh đua cho sự sống để ăn uống mà thôi.

Người tu sĩ khi ăn ngày một bữa thì chùa to cũng không ham, Phật lớn cũng không thích, chỉ còn thích sống với một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự.

Ngày tháng trôi qua với nội tâm an ổn, không có một pháp nào tác động vào tâm hồn họ được, ngay cả mọi cảm thọ khổ đau cũng không làm lay chuyển tâm họ được.

Giới cấm không ăn phi thời nghe thì rất đơn giản, nhưng mấy ai sống đúng, làm đúng, chỉ vì tâm họ chưa ly dục ly ác pháp, nên sự tham đắm về ăn uống còn nặng nề, khiến cho họ tìm cách bẻ vụn giới, bằng ăn uống cách này hoặc bằng cách khác như: không ăn, thì họ uống sữa hay nước trái cây, hoặc chanh đường, bột nước khuấy loãng. Tuy sống như vậy nhưng đó cũng là hình thức ăn uống phi thời. Những hành động này đều có thể vi phạm Thánh hạnh ly dục.

Con đường tu tập giải thoát để ra khỏi nhà sanh tử, thì giới hạnh không ăn uống phi thời là một điều hết sức quan trọng và rất cần thiết cho người tu sĩ đệ tử Phật.

Vì Thánh hạnh đệ tử Phật là Thánh hạnh giải thoát, chúng ta há nỡ nào vi phạm để mọi người khinh chê Phật giáo, để cho tâm mình không được giải thoát.

Vì Thánh hạnh của một vị Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ chúng ta há nỡ nào ăn uống phi thời để đánh mất Thánh hạnh ly dục ly ác pháp này,thì còn gì là một tu sĩ mang đầy đủ ý nghĩa giải thoát của đạo Phật.

Thánh hạnh này không giữ trọn thì con đường tu kia làm sao chứng được quả Thánh. Thánh sao còn ăn uống phi thời.

Người cư sĩ phải biết cúng dường và tôn kính những vị Thánh Tăng, Thánh Ni, họ là những vị không phạm giới, không phá giới. Mười Giới Đức Thánh Sa Di rất lợi ích cho mình, cho Phật giáo.

Tại sao vậy? Tại vì một vị Thánh Tăng thân tâm của họ đã ly dục ly ác pháp.

Người thân tâm đã ly dục ly ác pháp mà quý Phật tử được cúng dường thì phước báu vô lậu kia có ngày quý vị sẽ được thọ hưởng. Còn cúng dường cho những vị Tăng phạm giới luật ăn uống phi thời thì phước báo vô lậu quý vị sẽ không còn có dịp gặp nữa. Riêng tu sĩ phạm giới nàykiếp sau sẽ làm thân trâu bò, tôi, tớ, quân lính hầu hạ quý vị.

Giới đức Thánh không ăn uống phi thời, người tu sĩ Phật giáo cần phải cố gắng giữ gìn vì đó là một hạnh ly dục của bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ không phải người phàm phu sống được. Xin quý vị lưu ý cho.

GIỚI ĐỨC SA DI THỨ MƯỜI: KHÔNG CẤT GIỮ TIỀN BẠC CHÂU BÁU

Không cất giữ tiền bạc, vàng ngọc, châu báu là một ĐỨC LY THAM.Người xuất gia cũng như người tại gia cần phải học hiểu và sống cho đúng giới luật đức hạnh này để không còn bị nô lệ cho tiền bạc.

Tại sao trong đạo Phật lại có giới luật không cất giữ tiền bạc mà các tôn giáo khác lại không có?

Đạo Phật là đạo ly dục, vì thế nên mới có giới không cất giữ tiền bạc của báu, còn các tôn giáo khác thì không có ly dục.

Không cất giữ tiền bạc của báu là một giới đức Thánh hạnh ly tham của bậc xuất gia. Người còn cất giữ tiền bạc là người còn tâm tham, dù người đó được tấn phong Hoà Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng, Ni và dù được mọi người kính nể, tôn trọng, nhưng những tu sĩ ấy vẫn còn tâm tham cũng giống như tất cả những người phàm phu khác.

Người muốn xa lìa tâm tham, sân, si thì không nên cất giữ tiền bạc, vì cất giữ tiền bạc mà muốn ly tâm tham, sân, si thì không bao giờ ly được, đó là một điều xác quyết nhất định trong đạo Phật là như vậy. Còn cất giữ tiền bạc mà tu theo đạo Phật thì uổng công, dù có tu hành ngàn kiếp cũng khó tìm được sự giải thoát.

Tham tiền ở đây quý vị đừng nghĩ là tham lam trộm cắp, mà tham ở đây có nghĩa là ham tiền, ham bạc, ham danh, ham lợi tức chữ ham là ưa thích. Ưa thích tiền, ưa thích danh, ưa thích lợi... Tâm còn ưa thích tiền, danh, lợi... là ưa thích ngã. Cho nên người tathường nói vô ngã, nhưng còn cất giữ tiền bạc là còn nuôi ngã, còn phục vụ cho ngã, là tôi tớ cho ngã, chứ không phải là vô ngã.

Giới không cất giữ tiền bạc là đức hạnh ly tham diệt ngã, nếu ai giữ trọn giới này thì tâm tham bị diệt và ngã kia sẽ bị triệt tiêu.

 Vì sự nghiệp giải thoát chúng ta phải giữ gìn nghiêm chỉnh giới không cất giữ tiền bạc. Chỉ trong đạo Phật mới có giới đức ly tham này để diệt ngã xả tâm, còn tất cả các tôn giáo khác đều không có giới này như trên đã nói.

Ngày xưa từ chỗ giàu sang vua chúa, để đi đến chỗ nghèo cùng chỉ còn đi xin ăn, không còn cất giữ một đồng xu trong túi, đức Phật đã phải trăn trở vì bản ngã của mình. Cuối cùng Ngài quyết tâm thực hiện một đời sống vô ngã và chứng đạo. Nếu chúng ta không noi theo gương Người mà còn có một đồng xu dính túi thì chưa chắc chúng ta đã diệt được ngã, xả được tâm. Và tu như vậy thì chẳng bao giờ làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi.

Giới đức không cất giữ tiền bạc sẽ giúp chúng ta diệt được ngã, xả được tâm một cách dễ dàng. Trong thời đại chúng ta chỉ có những tu sĩ khất sĩ mới làm được những Thánh hạnh này, nhưng số này cũng rất là hiếm.

Không cất giữ tiền bạc, châu báu, ngọc ngà có nhiều điều lợi ích rất lớn cho sự tu hành của chúng ta:

1-     Tâm hồn vô sự, thanh thản và an lạc, không sợ trộm cướp, thân tâm không cực nhọc lo xây cất chùa cao cửa rộng sang đẹp. Ngược lại các nhà Đại thừa vì cất giữ tiền bạc nên tâm không vô sự, không thanh thản và an lạc, nên thường sinh ra nhiều công việc như: xây cất chùa to Phật lớn, tạo cảnh quan đẹp mắt, để quyến rũ du khách tham quan, khiến nơi tu hành không còn thanh tịnh mà trở thành khu du lịch kinh doanh làm giàu.

2-     Có tiền tâm dục dễ sanh, nhất là ngũ dục lạc: sắc, danh, lợi, thực, thùy. Năm điều này tâm dễ bị cám dỗ và sa ngã. Bằng chứng chúng ta đã tận mắt thấy quý Thầy không có một vị nào không rơi vào năm điều trên.

3-     Có tiền bị đồng tiền sai khiến, mua sắm cái này, cái khác. Ví dụ: ăn uống thì phải ăn ngon, cao lương mỹ vị; nhà ở thì phải phòng ốc sang đẹp; giường nằm thì phải rộng lớn, mền êm, nệm ấm; di chuyển thì xe cộ đủ loại; trang trí trong nhà thì đồ đạc đủ mọi thứ: nào là tivi, tủ lạnh, máy giặt, máy điều hòa, v.v..

4-     Y áo không còn ba y một bát, mà cả rương, cả tủ. Y áo không còn là y phấn tảo mà toàn là bằng những vải đẹp, bóng tốt hàng nhập, v.v..

Người đời làm nô lệ cho tiền bạc mà không biết, tiền bạc sai khiến họ như tên nô lệ, như tôi tớ trong nhà, còn tệ hơn nữa như con bò, con trâu, con ngựa, v.v.. bị gác ách, gác xe trên vai, trên cổ.

Khi bị tiền bạc sai khiến thì tâm dục triển khai. Tâm dục triển khai thì khổ đau chồng chất.

Người không cất giữ tiền bạc thì tâm dục dù có muốn cái gì cũng không thực hiện được. Ví dụ: một người nghèo không có tiền bạc nên dù họ có muốn nhà cao cửa rộng sang đẹp, ruộng đất nhiều, xe cộ, v.v.. cũng chẳng mua sắm được, nhưng họ vẫn nuôi hy vọng muốn có nên tâm dục còn mãi không dứt. Ngược lại, người tu sĩ Phật giáo vì muốn ra khỏi nhà sanh tử nên họ tự nguyện không cất giữ tiền bạc, để khi tâm dục khởi muốn cái gì thì họ mới có thể đủ sức ngăn và diệt tâm dục đó, còn nếu cất giữ tiền bạc thì rất khó hàng phục tâm dục được. Tại sao vậy?

Tại vì tâm chúng ta rất khôn khéo và gian xảo, lừa đảo chính chúng ta, nó chạy theo tâm dục mà bảo rằng: “Ta làm Phật sự, vì chúng sanh, vì Phật giáo”, do lý luận như vậy nên lấy tiền xây chùa to Phật lớn để thỏa mãn tâm, chạy theo danh lợi thế gian, chứ không phải để nhiếp phục mọi người theo Phật giáo, làm cho Phật giáo hưng thịnh. Nhưng với lý luận làm Phật sự, độ chúng sanh để che đậy tâm danh lợi của nó và nó còn lý luận rằng: “Ta có làm gì cho cá nhân ta đâu mà gọi rằng ta chạy theo dục danh lợi?”. Do lý luận này mà các tu sĩ học giả đều bị phạm giới, phá giới cất giữ tiền bạc; do lý luận này mà các tu sĩ học giả tu hành chẳng bao giờ tâm ly dục ly ác pháp và mãi mãi muôn đời tu hành chẳng làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Uổng thay một đời tu hành không sáng suốt, đã bị tâm mình lừa đảo mình, chạy theo dục mà không biết, chạy theo danh lợi mà không hay. Thật đáng thương vậy.

Giới đức Thánh Tăng không cất giữ tiền bạc đã xác định cho quý vị Hòa Thượng biết rằng: họ đã đánh mất Thánh hạnh của chính họ, khiến cho họ không còn xứng đáng là Thánh đệ tử của Phật nữa, họ đã biến mình thành người phá hoại Phật giáo mà không biết (Giới luật còn là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất), họ đã biến mình thành Ma Ba Tuần trong Phật giáo mà không hay. Thật đáng thương vậy!

Thưa quý vị! Mục đích bỏ cuộc đời đi tu là để tìm sự giải thoát ra khỏi nhà sanh tử luân hồi và cũng để trở thành những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni xứng đáng là đệ tử của Phật. Cớ sao quý vị lại cất giữ tiền bạc để phạm giới Thánh đức như vậy, làm ô nhục cho Phật giáo như vậy, quý vị có xấu hổ hay không? Có tự thấy đau lòng hay không?

Không cất giữ tiền bạc, nên gọi người đó sống Thánh hạnh ly dục. Sống Thánh hạnh ly dục là sống đời phạm hạnh của một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni. Do sống Thánh hạnh không cất giữ tiền bạc khiến cho thân tâm ly khai dục nhiễm của mùi tục lụy thế gian.

Không cất giữ tiền bạc là một phương cách giúp cho thân tâm của các bạn không thực hiện được sự ham muốn, vì không có tiền nên không làm theo ham muốn được. Đó cũng là cách ly dục ly ác pháp tuyệt vời. Người có tâm quyết tìm cầu sự giải thoát thì sự không cất giữ tiền bạc rất là hữu hiệu cho sự giải thoát.

Bởi vì chúng ta ai cũng đều biết giới cấm không cất giữ tiền bạc là giúp cho chúng ta ly dục ly ác pháp dễ dàng, có tiền thì tâm dục dễ sanh và rất khó thắng nó, vì có tiền nó đòi hỏi mua đủ thứ.

Chúng ta nhìn thấy các nhà sư, thầy vì cất giữ tiền bạc mà phạm giới luật này nên đời sống của họ như những người giàu có. Và cuối cùng những vị sư thầy này tu hành không giải thoát mà còn bị nô lệ cho tiền bạc, vật chất, danh và lợi thế gian.

Chúng tôi đứng trên mười giới đức Thánh Sa Di này mà nói ra, xin các bạn chỉ cần lưu ý là thấy rõ các nhà tu Đại thừa, tuy có 10 giới của Sa Di, mà các vị HT, TT, ĐĐ, Tăng, Ni chưa chắc họ đã giữ được trọn vẹn, hay nói cách khác dù chỉ là một, hai giới trong 10 giới cũng chưa chắc họ đã giữ được. Nhìn thấy lối sống phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới của họ mà chúng tôi thật sự đau lòng cho Phật giáo ngày nay. Phải không quý vị !?

Quý thầy theo kinh sách phát triển Đại thừa đã biến Phật giáo thành một cái nghề mê tín, để dễ lừa đảo người khác. Giới luật cấm tu sĩ còn đó: “Một tu sĩ không nên cất giữ tiền bạc”, thế mà họ có hàng tỷ tỷ bạc trong ngân hàng. Thật là hết chỗ nói, trên đời này, không ai giàu có hơn các thầy tu theo kinh sách phát triển.

Đạo Phật dạy: “xả phú cầu bần”. Còn bây giờ các thầy phát triển dạy: “xả bần cầu phú” để cho phù hợp với thời đại.

Nhìn qua 10 giới cấm này, ta nhận xét tu sĩ thời nay không còn mục đích tu giải thoát, chỉ còn tu danh tức là ăn học có cấp bằng cao, tu lợi tức là phải có tiền nhiều, có Phật tử đông.

Người tu sĩ còn cất giữ tiền bạc là không đúng người tu sĩ của Phật giáo. Giới Đức Thánh Hạnh ly tham này đã xác định rõ ràng. Nếu một tu sĩ còn vi phạm 10 giới này thì đương nhiên con đường tu giải thoát đã không còn nữa.

Tóm lại, muốn tu giải thoát ra khỏi tam độc tham, sân, si thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh mà giới không cất giữ tiền bạc là một giới luật quan trọng nhất trong việc tu hành ly dục ly ác pháp, có giữ gìn và tu tập như vậy thì mới mong có ngày làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

Giới luật Phật tuy khó giữ, nhưng với những người có chí lớn, có quyết tâm thì khó cũng thành dễ, họ sẽ cũng vượt qua và làm nên sự nghiệp vĩ đại của Phật giáo.

Giới Đức Thánh hạnh ly tham rất cần thiết cho những ai tha thiết tìm đường giải khổ, nếu ai giữ gìn nghiêm túc thì người ấy sẽ ly tham đoạn ác pháp, con đường cứu cánh sẽ viên thành mỹ mãn.

TỔNG QUÁT MƯỜI GIỚI ĐỨC SA DI

Mười Giới Đức Thánh Sa Di là mười đức hạnh giải thoát của một tu sĩ Phật giáo. Nếu tu sĩ nào nghiêm trì 10 giới này sẽ tìm thấy sự giải thoát ngay liền trong cuộc sống hiện tại, bởi vì nó là giới hạnh ly tham, đoạn ác pháp, diệt ngã xả tâm, khiến cho tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự; khiến cho oai nghi tế hạnh của một tu sĩ từ phàm phu mà trở thành oai nghi tế hạnh của bậc Thánh Hiền.

Giới Thánh Đức Hiếu Sinh thứ nhất ai đã thực hiện được thì lòng thương yêu rộng lớn không ngần mé, lòng thương yêu rộng lớn ấy sẽ giúp cho người đó có được một tâm hồn không còn biết giận hờn, thù oán ghét ai v.v.. Thánh Đức Hiếu Sinh giúp cho tâm hồn người ấy thường thương yêu sự sống của muôn loài.

Cũng từ khi có tâm hồn biết thương yêu sự sống của muôn loài thì một sự giải thoát có trong tâm của người ấy rất rõ ràng, một trạng thái rỗng rang, an lạc lúc nào cũng ngự trị trong tâm của họ. Nhờ thế mà lòng tha thứ và yêu thương không làm khổ mình, khổ người, đối với tất cả chúng sanh không phân biệt thân sơ, luôn luôn thể hiện qua hành động thân, khẩu, ý của họ rất rõ nét thương yêu.

Chính nhờ lòng thương yêu ấy giúp chúng ta không phân biệt người thân, người sơ; chính lòng thương yêu ấy giúp ta chuyển hóa được tai nạn; bệnh tật khổ đau của chính mình; chính lòng thương yêu ấy giúp chúng ta hóa giải được những ác pháp đang vây quanh ta; chính lòng thương yêu ấy đã giúp chúng ta vượt lên tất cả các ác pháp và các nghiệp ác; chính lòng thương yêu ấy là giới cấm không sát sanh.

Thưa các bạn! Nếu trong thế gian này ai ai cũng thực hiện lòng thương yêu ấy, thì thế gian này là Thiên Đàng, Cực Lạc. Phải không các bạn?

Nếu chúng ta sống tròn đủ lòng yêu thương ấy mà không có đức buông xả thì lòng thương yêu ấy chưa đủ trọn vẹn (giới thứ hai không tham lam trộp cướp).

Thánh Đức Buông Xả giúp cho tâm chúng ta không còn muốn chiếm hữu một vật gì hay tiền bạc của ai, của không phải do mình làm ra, của không phải do bằng mồ hôi nước mắt của mình, của không phải bằng do công sức của mình, bằng thành quả lao động của mình thì nhất định không lấy.

Thánh Đức Buông Xả giúp cho tâm chúng ta không dính mắc vật chất thế gian, danh, lợi, hoặc còn nhiều thứ khác nữa.

Thánh Đức Hiếu Sinh cộng với Thánh Đức Buông Xả, tạo thành một tâm lực mạnh mẽ để đẩy lùi các ác pháp, khiến cho chúng ta tìm thấy được một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự như thật. Nhưng nếu muốn hai Thánh đức hạnh trên đây được giữ gìn trọn vẹn và lâu dài thì chúng ta phải giữ gìn và sống cho đúng Thánh Đức Hạnh Thanh Tịnh (Giới thứ ba không dâm dục).

Nếu Thánh Đức Thanh Tịnh không giữ gìn nghiêm túc thì tâm sắc dục của chúng ta không bao giờ chấm dứt được. Tâm sắc dục của chúng ta không chấm dứt được thì nó là một chướng ngại pháp rất lớn trong thân tâm, vì thế mà tâm không sao an ổn được. Cho nên muốn Thánh Đức Hiếu Sinh và Thánh Đức Buông Xả tròn đủ thì Thánh Đức Thanh Tịnh cần phải tu tập và sống cho đúng cách, có nghĩa là chúng ta phải sáng suốt quán xét nhân quả, 12 nhân duyên, thân ngũ uẩn, quán tưởng xương trắng, quán tưởng thân bất tịnh, tu tập 19 Định Niệm Hơi Thở và tu tập Thân Hành Niệm; nhờ có quán tưởng và tu tập như vậy thì giới luật này mới mong giữ gìn trọn vẹn.

Ba đức hiếu sinh, buông xả và thanh tịnh chưa đủ để chúng ta đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm và các pháp, vì thế chúng ta phải tiếp tục thực hiện cho bằng được Thánh Đức Chân Thật. Thánh Đức Chân Thật rất khó giữ gìn, người có gan dạ có nghị lực thì mới không nói vọng ngữ (giới thứ tư, không nói vọng ngữ).

Một vị Thánh Tăng, Thánh Ni mà thiếu lòng chân thật, hay nói vọng ngữ thì đâu còn giá trị của một vị Thánh. Phải không các bạn?

Thánh Đức Chân Thật, nếu một vị tu sĩ không giữ gìn trọn vẹn mà nói vọng ngữ, nói sai, nói không thật hay thuyết giảng thiếu kinh nghiệm khiến người tu tập không kết quả giải thoát thì vẫn bị mất uy tín, mất lòng tin của mọi người.

Bốn Thánh Đức trên đây đã giữ trọn thì Thánh Đức Minh Mẫn cũng cần phải nghiêm khắc giữ gìn. Một vị Thánh Tăng mà rượu chè say sưa, đi ngã tới, ngã lui thì đâu còn là một vị Thánh Tăng. Giá trị sáng suốt minh mẫn của một vị Thánh Tăng bảo đảm rằng: họ không cầm một ly rượu uống hay một điếu thuốc lá hút (giới thứ năm cấm không uống rượu).

Một vị Thánh Tăng còn ăn thịt chúng sanh và uống rượu như Tế Điên Tăng Hoà Thượng và Tuệ Trung Thượng Sĩ thì còn nghĩa lý gì là một Thánh Tăng. Giới Thánh Đức Hiếu Sinh và Giới Thánh Đức Minh Mẫn đã xác định những vị Tăng này không phải Thánh mà là Ma Ba Tuần trong Phật giáo đội lốt Phật giáo để phá hoại Phật giáo, khiến cho tu sĩ đời sau bắt chước mà đánh mất Thánh hạnh của Phật giáo.

Những Thánh Đức trên đây đã xác định rõ ràng: “Một vị Thánh Tăng là phải sống với oai nghi tế hạnh như thế nào mới được gọi là Thánh, chứ không phải chỉ có vài ba thần thông tưởng mà gọi là Thánh được”. Một tu sĩ gọi là Thánh Tăng mà không minh mẫn còn đắm chìm trong men rượu, còn bưng ly rượu uống thì hành động như vậy làm sao gọi là Thánh Tăng được. Phải Không quý vị?

Oai nghi tế hạnh của năm Thánh Đức trên chưa tròn đủ, thì không được xem đó là một vị Thánh Tăng của Phật giáo, mà chỉ được xem đó là một tà sư ngoại đạo, dù vị tu sĩ đó có đủ thần thông pháp thuật. Thần thông pháp thuật chỉ là một phương tiện dùng để lừa đảo người, chứ chẳng có ích lợi gì cho ai cả.

Năm giới Thánh Đức trên tuy sống trọn vẹn, nhưng lại không giữ trọn Thánh Đức tự nhiên, còn trang điểm làm dáng, làm đẹp, còn đeo chuỗi hạt, còn mặc y áo sang đẹp, v.v.. lúc nào cũng tỏ ra bệ vệ trong bộ áo cà sa giống như một vị tướng soái, một quan quyền của vua chúa, v.v.. (giới thứ sáu cấm không trang điểm).

Cách thức ăn mặc trang điểm làm dáng sang đẹp, bệ vệ oai phong như một tướng lãnh, tất cả những oai nghi tế hạnh đó không đúng là oai nghi tế hạnh của một vị Thánh Tăng.

Một vị Thánh Tăng mà còn trang điểm làm đẹp thì chưa phải là một vị Thánh Tăng đúng nghĩa của đạo Phật.

Một vị Thánh Tăng còn làm dáng, làm đẹp thì đã đánh mất ý nghĩa cao quý Thánh Hạnh của một bậc Thánh.

Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp là thuộc về chấp tướng của Bà La Môn Giáo, chứ đạo Phật không chấp nhận điều này. Chúng ta hãy đọc lại kinh Sonadanda trong kinh Trường Bộ thuộc Tạng kinh Việt Nam thì sẽ thấy đức Phật bác bỏ tướng tốt và các vẻ đẹp của một Bà La Môn.

Người tu sĩ còn trang điểm sửa sang làm đẹp thì đạo Phật xem đó là tà sư ngoại đạo không đúng tư cách của một tu sĩ Phật giáo.

Đức Phật chấp nhận các đặc tướng tự nhiên của mỗi con người, khi tu tập theo pháp của Ngài thì không được ức chế làm sai các đặc tướng đó. Vì các đặc tướng đó hiện có nơi mỗi người là do nghiệp nhân quả của nhiều đời trước, cho nên tùy theo đặc tướng mà nhiếp phục tâm mình để ly tham dục và đoạn diệt các ác pháp, khiến cho tâm thanh tịnh hoàn toàn không còn ô nhiễm sáu trần. Nhờ tâm không ô nhiễm sáu trần nên bảy giác chi xuất hiện, nhờ có đủ bảy giác chi mà chúng ta sử dụng nhập bốn định và thực hiện Tam Minh. Mục đích tu hành là như vậy, chứ không phải cần ở chỗ tướng tốt đẹp trai, đẹp gái.

Trang điểm làm đẹp để có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp mới tu chứng quả thì không đúng quý bạn ạ! Trong hàng đệ tử của Phật, ông A Nan là người có tướng tốt đẹp trai, nhưng lúc Phật còn sống ông tu hành có chứng đắc đâu? Ông thường bị người khác phái quấy nhiễu, khiến con đường tu hành của ông tiến rất chậm chạp, mặc dù ông rất thông minh nhớ dai.

Thân này bất tịnh do bốn đại duyên hợp lại mà thành ra thân người, nên rất là uế trược, hôi thối có gì mà quý, mà đẹp. Theo truyền thuyết của Đại thừa thân Phật có 32 tuớng tốt, 80 vẻ đẹp nhưng khi Đức Phật chết người ta đem đốt còn một nắm tro tàn và một số xương vụn cháy chưa hết, gọi là xá lợi, rất là bất tịnh. Khi đốt cháy tiêu ra tro bụi thì còn có gì 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp nữa không? Màu da vàng ánh như hoàng kim của Phật còn có nữa không?

Bởi vậy trong 10 giới cấm của thầy Sa Di giới thứ sáu cấm thầy Sa Di không được trang điểm làm đẹp làm dáng, vì làm đẹp làm dáng có mục đích nuôi dưỡng tâm sắc dục. Tâm sắc dục là tâm dẫn đầu vào con đường sanh tử luân hồi, người dứt tâm sắc dục là nguời chấm dứt con đường sanh tử luân hồi. Nếu không chấm dứt tâm sắc dục thì thân tâm khó mà thanh tịnh, thân tâm không thanh tịnh thì khó mà nhập các loại thiền định và khó mà thực hiện Tam minh được. Cho nên quý thầy trang điểm y áo sang đẹp chuỗi cỗ, chuỗi tay đi đứng bệ vệ có người hầu, kẻ hạ, đó là quý thầy đã nuôi tâm sắc dục khiến cho người khác phái đam mê ham thích gần gũi để tạo duyên sanh ra tình dục. Đức Phật đã hiểu điều này nên Ngài đã nói: “Ta không thấy một sắc nào cám dỗ và xâm chiếm tâm người Nam bằng sắc của người nữ, ngược lại cũng như vậy....

Cho nên trang điểm làm đẹp là có ý làm cho người khác phái để ý đến mình. Để ý để làm gì? Để nuôi lớn tâm sắc dục tức là tạo thành con đường sanh tử luân hồi mãi mãi không bao giờ dứt.

Người tu sĩ Phật giáo vì sự nghiệp giải thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi nên phải chấm dứt tâm sắc dục. Người nào tu hành mà còn trang điểm làm đẹp, làm dáng thì nên trả y áo lại cho nhà chùa để trở về thế tục sống như người cư sĩ còn quý hơn và còn không mắc nợ của đàn na thí chủ.

Chỉ có giới này sẽ xác định cho quý vị biết căn cơ tu hành của quý vị có tu tới nơi tới chốn hay không, quý vị tự biết mình rõ hơn ai hết.

Sáu giới Thánh Đức trên đây chưa đủ để chấp nhận một vị Thánh Tăng, Thánh Ni đệ tử của Phật. Nếu quý vị sống chưa đủ trọn vẹn Thánh Đức Hạnh trầm lặng độc cư. Thường lấy kinh tụng niệm theo nhịp mõ, tiếng trống làm công phu tu hành của mình, thì chúng tôi e rằng công phu như vậy chẳng có kết quả gì gọi là ra khỏi nhà sanh tử luân hồi. Bởi vì, tụng niệm ê, a giọng cao, giọng thấp theo tiếng chuông tiếng mõ thì cũng giống như ca hát, cho nên có một nhạc sĩ danh tiếng ở nước ta nghiên cứu và cho rằng đó là ca nhạc Phật giáo. Đúng vậy chúng tôi từng nghe những thầy ứng phú đạo tràng tụng niệm giống như ca hát bộ, cải lương theo tiếng đàn, tiếng phách, kèn, trống, sáo, tiêu, v.v.. Cho nên nghi thức tụng niệm trong các chùa hiện giờ là đi ngược lại Phật giáo, phạm vào giới cấm không ca hát hoặc nghe ca hát của đạo Phật (giới thứ bảy cấm không nghe ca hát hoặc tự ca hát).

Bởi vì tụng niệm hay ca hát là làm mất sự yên lặng trong không gian của những bậc Thánh Tăng đang sống. Khi một tu sĩ tụng niệm hay ca hát thì Thánh Đức Trầm Lặng sẽ mất đi. Thánh Đức Trầm Lặng mất đi thì đời sống của một tu sĩ giải thoát không còn ý nghĩa. Cho nên giới cấm không ca hát hay nghe ca hát là muốn bảo vệ Thánh Hạnh Độc Cư để thực hiện cho bằng được sự giải thoát sanh tử luân hồi. Một vị Thánh Tăng phải sống trong Thánh hạnh độc cư trầm lặng thì mới đầy đủ ý nghĩa của một bậc Thánh. Một bậc Thánh Tăng không thể nào dùng tứ thời công phu của quốc sư Ngọc Lâm tụng niệm ê, a giọng cao giọng thấp theo tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng trống, tiếng kèn, tiếng đàn như ca hát được. Sống tụng niệm như vậy có khác nào là đào kép hát bộ, hát cải lương, có khác nào như những ca sĩ trên sân khấu.

Một vị Thánh Tăng mà chuyên tán tụng niệm tứ thời công phu theo kiểu Đại Thừa giáo thì không còn ý nghĩa Thánh đức trầm lặng độc cư nữa. Và như vậy chỉ là một nhà sư tụng niệm chứ không phải là bậc chân tu cầu giải thoát. Hình thức tụng niệm chỉ là một Bà La Môn hành nghề mê tín kiếm sống như bao nhiêu nghề khác của thế gian.

Một người tu sĩ Phật giáo mà không sống trầm lặng độc cư được thì rất khó cho vị ấy muốn giữ gìn tâm không phóng dật. Và con đường tu tập chứng quả A La Hán không còn nữa. Bởi vậy, một vị tu sĩ phải thấy Thánh đức trầm lặng độc cư là một hành động mang đến một đời sống Thánh thiện. Đời sống Thánh thiện độc cư trầm lặng là một bí quyết để thành tựu thiền định và Tam Minh. Nếu ai tu hành mà sống không đúng Thánh đức này thì sự tu hành hoài công vô ích, dù có tu suốt bao nhiêu đời cũng không nhập định được và cũng không thể thực hiện Tam Minh được.

Cho nên Thánh Đức Trầm Lặng Độc Cư là một thánh hạnh quan trọng nhất cho một người tu sĩ tìm tu giải thoát.

Sống với Thánh Đức Trầm Lặng Độc Cư như vậy còn chưa đủ mà còn phải sống đúng Thánh Hạnh Thiểu Dục.

Một vị Thánh Tăng mà còn nằm giường cao rộng lớn, gỗ quý sang đẹp thì mất hết ý nghĩa giải thoát của vị Thánh Tăng. Người tu sĩ còn nằm giường cao rộng lớn là người sống không thiểu dục tri túc, không đúng hạnh của người tu sĩ Phật giáo (giới thứ tám cấm không nằm giường cao rộng lớn).

Đức Thiểu Dục Tri Túc rất cần thiết để lập thành Thánh hạnh của một bậc Thánh Tăng, của một du Tăng khất sĩ.

Phật dạy: “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không nhà cửa, không gia đình, ba y một bát, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không”. Qua lời dạy này chúng ta xét thấy: “Một đời sống Thánh thiện là phải thiểu dục tri túc tận cùng như vậy, mới được gọi là bậc Thánh giải thoát, còn sống ngược lại thì không giải thoát”. Như vậy, chúng ta xét thấy các nhà tu Đại thừa có chùa to Phật lớn, có vật chất thế gian đầy đủ, tu như vậy có lập hạnh thiểu dục tri túc chưa? Tu như vậy có giải thoát chưa?

Xin các bạn nên lưu ý. Người tu sĩ Phật giáo thiểu dục tri túc, thường lấy gốc cây làm giường nằm, lấy tay làm gối, lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu, có sống như vậy mới xứng đáng là bậc Thánh Tăng, Thánh Ni trong đạo Phật.

Tám Thánh đức trên đây chưa đủ cho một vị Thánh Tăng, Thánh Ni đệ tử của Phật, mà còn phải sống cho trọn với Thánh đức ly dục.

Một vị Thánh Tăng, Thánh Ni mà còn ăn uống nhiều bữa như: sáng ăn, trưa ăn, chiều ăn, có khi tối còn ăn thêm thì còn nghĩa lý gì gọi là Thánh Tăng, Thánh Ni ly dục. Một vị Thánh Tăng, Thánh Ni thường sống ly dục, nên ngày chỉ ăn có một bữa cơm, đủ để nuôi sống thân tứ đại, và luôn luôn tích cực làm lợi ích cho chúng sanh bằng gương Thánh hạnh, bằng những lời dạy đạo đức chân tình, bằng những lời khuyên nhủ an ủi thiết tha để giúp cho mọi người thoát ra hoàn cảnh khổ đau, như vậy, ngày một bữa cơm mới thật sự xứng đáng thọ dụng của đàn na tín thí, còn ngược lại ăn nhiều quá, ba bốn bữa trong ngày thì không xứng đáng thọ dụng. Tu sĩ mà ăn nhiều bữa là mang nợ của đàn na thí chủ, kiếp này trả chưa xong thì kiếp khác phải trả nữa, trả mãi mãi... (giới thứ chín cấm không ăn uống phi thời).

Thân tứ đại là khối bất tịnh, hôi thối, uế trược có gì là tốt đẹp, quý báu đâu mà ta phải xem nó là quan trọng. Hằng ngày nó phải luôn luôn tiếp nhận tứ đại bất tịnh bên ngoài (thực phẩm). Nuốt vào những thứ bất tịnh hôi thối ấy, có hạnh phúc gì đâu mà chúng ta ưa thích. Những người ưa thích thực phẩm, ưa thích ăn uống là những người ngu si, vô minh; đồ ăn uống là bất tịnh uế trược mà cứ mãi mê tham ăn thì thật là đáng trách đáng chê. Cuộc sống của họ chẳng có ý nghĩa gì, chỉ ăn, ngủ, đi cầu và dâm dục, toàn là sống trong sự nhiễm ô bất tịnh. Đời sống của họ, họ đang chui vào một cái bao đựng đầy đồ hôi thối. Thật là đáng thương vậy! 

Cuộc sống con người chỉ còn biết bon chen chà đạp, tranh đấu giết hại lẫn nhau bằng cách này hoặc cách khác cũng chỉ vì ăn, ngủ, đi cầu và dâm dục… Thật là vô vị không có nghĩa lý gì cả.

Sống chỉ có thích những điều tệ hại, bất tịnh như vậy, mà mọi người hãnh diện một cách hả hê khi đạt được mục đích ấy. Đạt được mục đích để làm gì? Để mà khổ đau. Phải không các bạn?

Thánh Đức Ly Dục giúp cho chúng ta sống trong cuộc đời đầy đau khổ mà thoát ra đau khổ, giúp cho chúng ta liễu sanh thoát tử, giúp cho chúng ta làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Vì thế, ăn ngày một bữa là chúng ta ly dục, ly si, ly sân và lìa sắc dục một cách rõ ràng và cụ thể.

Người sống ngày ăn một bữa thì ít ham ngủ nghỉ, thường tỉnh thức, về thân thì sắc dục cũng giảm bớt, về tâm thì sân hận cũng lui bước v.v..

Thánh đức ăn ngày một bữa đã giúp cho tâm hồn chúng ta thanh thản trong cái ăn, cái ngủ, cái sắc dục, cái giận hờn và tất cả bệnh tật trong thân cũng được giảm xuống một cách rõ ràng, chứ không như các nhà Đại thừa tham dục ăn uống ngày ba bốn bữa, nên thường lý luận ăn nhiều sẽ có sức khỏe để tu tập, còn ăn ít ngày một bữa là ép xác tu hành không chứng đạo. Lối lý luận này là phi Phật giáo. Tại vì Thầy trò của đức Phật ngày xưa đều ăn ngày chỉ có một bữa mà chứng đạo.

Thời nay mọi người vì không hiểu biết Thánh Hạnh Ly Dục, nên lý luận theo kiểu tà giáo ngoài đạo tham ăn, tham uống, tham ngủ, tham dục lạc thế gian, tham giàu sang danh tiếng, nên quý thầy theo kinh sách phát triển thường sống bệnh tật khổ đau, đi bác sĩ, nằm nhà thương và thuốc thang uống không bao giờ dứt.

Nếu muốn biết rõ một vị Thánh Tăng đệ tử của đức Phật thì hãy xem đời sống của họ. Họ sống đúng mười Giới Đức Thánh Sa Di, không hề vi phạm, nhất là ngày ăn một bữa chỉ để nuôi thân. Chính lối sống như vậy tâm họ mới ly dục. Nhờ tâm ly dục nên oai nghi tế hạnh của họ thể hiện rõ ràng qua mọi hành động sống mà ai cũng dễ nhận thấy, đó là sống đúng Thánh hạnh của một tu sĩ giải thoát. Do Thánh hạnh này mà không có một người nào dám khinh chê nhạo báng Phật giáo.

Hiện giờ Phật giáo bị mọi người khinh chê, phỉ báng là do những tu sĩ Bà La Môn mượn danh Phật giáo, phá mười Giới Đức Thánh Sa Di không còn một giới nào là không phạm, họ sống không hiếu sinh, không buông xả, thân tâm không thanh tịnh, không chân thật, không minh mẫn, không thiểu dục, không đơn giản, không sống trầm lặng độc cư, không ly dục, không ly tham. Do không sống đúng đời sống của một tu sĩ Phật giáo nên họ đánh mất Thánh hạnh khiến cho mọi người khinh chê, phỉ báng và xem thường Phật giáo. Trước mặt thì họ chắp tay xá lạy, làm ra vẻ kính trọng, nhưng sau lưng họ xem quý thầy chẳng ra gì. Họ gọi quý thầy bằng thằng thầy chùa này, bằng thằng thầy chùa kia, quý Thầy có biết không?

Chín Giới Đức Thánh trên đây chưa đủ để xác định là một vị Thánh Sa Di, nếu một tu sĩ giữ gìn trọn vẹn chín giới trên đây mà giới thứ mười không tròn đủ người tu sĩ này còn cất giữ tiền bạc của báu. Còn cất giữ tiền bạc của báulà chưa sống một đời sống ba y một bát của một vị Thánh Sa Di. Nếu đời sống của một vị Thánh Tăng chưa ly tham, còn cất giữ tiền bạc, chưa có lần nào mặc chiếc y phấn tảo (vải bỏ thô xấu) thì chưa xứng đáng là một vị Thánh Tăng (giới thứ mười cấm cất giữ tiền bạc châu báu).

Nếu đời sống của một vị Thánh Tăng mà sống không ly tham, không thiểu dục tri túc, còn cất giữ tiền bạc thì làm sao tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không được.

Cho nên giới thứ mười Phật dạy: “người tu sĩ không được cất giữ tiền bạc của báu”. Không cất giữ tiền bạc của báu là Thánh hạnh ly tham. Người tu sĩ sống được như vậy mới được gọi là Trưởng Lão Thánh Tăng, Thánh Ni.

Một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni đã ra khỏi cuộc đời đầy ô trược và các ác pháp thì không còn bị nô lệ cho tiền bạc, không còn bị nô lệ cho tiền bạc mà còn cất giữ tiền bạc, thì làm sao ra khỏi cuộc đời đầy ô trược và ác pháp. Bởi vì còn cất giữ tiền bạc là còn bị tiền bạc chi phối tâm hồn. Người còn bị tiền bạc chi phối tâm hồn thì người ấy chưa phải là Thánh Tăng, Thánh Ni. Cho nên, những người mới tu tập mà cất giữ tiền bạc thì tâm hồn còn bị chi phối bởi tiền bạc thì thử hỏi làm sao tránh khỏi tâm không phóng dật, phóng niệm.

Thánh Hạnh Ly Tham mà không giữ trọn vẹn thì đi tu cho mất công, chỉ mất thời gian vô ích chứ có ích lợi gì cho bản thân.

Muốn đạt được thiền định và Tam Minh mà tâm còn phóng dật, phóng niệm thì làm sao đạt được thiền định, Tam Minh.

 Còn cất giữ tiền bạc thì tâm làm sao ly dục được, vì tiền bạc là một ác pháp, là một chướng ngại pháp rất lớn cho con đường tu tập giải thoát của Phật giáo.

Tâm không phóng dật, phóng niệm thì tâm sẽ nhu nhuyễn dễ sử dụng, tâm có nhu nhuyễn dễ sử dụng thì mới đạt được chỗ rốt ráo thâm sâu của đạo Phật.

Xưa đức Phật đã chẳng bảo: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”.

Bây giờ quý vị Tăng, Ni cứ khư khư cất giữ tiền bạc như các nhà sư Đại thừa, thì làm sao tâm quý vị không phóng dật. Tâm phóng dật thì dù quý vị có tu trăm muôn ngàn kiếp cũng chỉ uổng công mà thôi.

Đối với đạo Phật người tu sĩ còn cất giữ tiền bạc là chưa xứng đáng làm Thầy ai cả. Vì Thánh hạnh ly tham chưa tròn đủ thì người tu sĩ này cũng chỉ là một người tầm thường như bao nhiều người khác. Ngoài chiếc áo cà sa, với chiếc đầu cạo trọc, hiểu biết lặp lại những tưởng giải của người xưa tức là bã mía của một số kinh sách phát triển Đại thừa và những bài kinh nghi thức tụng niệm của Ngọc Lâm quốc sư trong thời đại triều nhà Thanh bên Trung Quốc, chứ tâm họ cũng chỉ là tâm tham, sân, si như bao nhiêu người khác. Họ không có những kinh nghiệm tu tập giải thoát để truyền đạt lại cho chúng ta. Vì thế họ đâu xứng đáng làm thầy.

Kính thưa quý vị! Khi chưa ra khỏi nhà sanh tử tức là tâm quý vị chưa ly tham đoạn ác pháp thì quý vị còn ham thích tiền bạc.

Nếu muốn xa lìa tâm tham thì quý vị phải giữ gìn giới không cất giữ tiền bạc cho nghiêm túc. Tại sao các thầy tu theo kinh sách phát triển không ly tâm tham được?

Tại vì quý thầy còn cất giữ tiền bạc. Cất giữ tiền thì tâm tham làm sao quý thầy lìa được. Vì thế, các Tổ dựa vào giới kinh của Phật mà chế ra giới cấm này là để giúp cho quý thầy ly tham đoạn ác pháp.

Một vị được gọi là Thánh Tăng, Thánh Ni mà còn cất giữ tiền bạc thì làm sao gọi là Thánh được. Phải không các bạn?

Thánh mà còn cất giữ tiền bạc thì đó là Thánh “dỏm”, chỉ là một phàm phu tục tử còn ham thích sống trong cuộc đời này, cuộc đời đầy ô trược và ác pháp. Còn cất giữ tiền bạc là quý vị chưa muốn ra khỏi biển đời bất tịnh, ô trược nhiều cay đắng và khổ đau. Hầu hết các nhà Đại thừa vẫn còn ham thích lặn hụp trong biển trần tục, nên tiền bạc, chùa to Phật lớn họ chưa buông bỏ được.

Tóm lại, Mười Giới Đức Thánh Sa Di mà một người tu sĩ Phật giáo cũng như người cư sĩ muốn tìm tu giải thoát ra khỏi nhà sanh tử luân hồi thì phải giữ gìn trọn vẹn những Thánh hạnh này.

Dù tu sĩ hay cư sĩ mà đã giữ trọn vẹn 10 giới cấm này, sống đúng 10 thánh hạnh thì chúng tôi bảo đảm con đường giải thoát sẽ không còn xa nữa, chắc chắn họ sẽ đạt được kết quả làm chủ thân tâm như ý muốn.

Mười Giới Đức Thánh Sa Di này, nếu ai sống nghiêm chỉnh không hề vi phạm trước mặt cũng như sau lưng thì những tu sĩ này là những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni tại thế gian mà không còn phải tu tập gì nữa cả. Còn những ai là tu sĩ mà sống không đúng mười giới Thánh Đức này thì chỉ là một loài Ma Ba Tuần trong Phật giáo.

Chỉ có mười giới này mà thôi, quý vị cư sĩ sẽ nương vào đó mà chọn cho mình một vị Thầy gương mẫu Thánh hạnh, một vị Thánh Tăng, Thánh Ni xứng đáng để cho quý vị cung kính cúng dường và tôn trọng, để cho quý vị lấy đó làm gương hạnh buông xả nơi tâm mình, để cho quý vị noi theo gương hạnh đó, thì ngay đó quý vị sẽ tìm ra một lộ trình cứu cánh chân chánh cho chính mình.

Chỉ có mười giới này mà thôi, quý vị sẽ nương vào đó mà không còn sợ lầm đường, lạc lối, không còn sợ tu sai lạc vào tà giáo ngoại đạo, lạc vào cảnh giới tưởng, thiền tưởng v.v..

Chỉ có 10 giới này mà thôi, quý vị sẽ nương vào đó mà nhận xét ai là Thánh Tăng, Thánh Ni và ai là Ma Vương đội lốt Phật giáo để lừa gạt tín đồ.

Chỉ có mười giới này mà thôi, Phật giáo sẽ hưng thịnh hay suy tàn, quý vị đều nhận thấy rất rõ ràng, không còn bị ai lừa dối được.

Những lời chúng tôi nói trên đây có những điều chi sơ sót mong quý vị cảm thông. Vì ước muốn của chúng tôi là tu sĩ Phật giáo phải ra tu sĩ Phật giáo, đời thì phải cho ra đời, đạo thì phải cho ra đạo, đừng để đạo đời lẫn lộn mà nguy hại đến thanh danh của Phật giáo.

***

 

HẾT PHẦN I

 

 

PHẦN HAI: VĂN HÓA 25 GIỚI HÀNH SA DI

LỜI NÓI ĐẦU

Khi biên soạn Mười Giới Đức Thánh Sa Di tập I, chúng tôi dựa theo bộ Giới Bổn Patimoka (Ba La Đề Mộc Xoa) thuộc Hán Tạng. Đọc lại toàn bộ sách này chúng tôi cảm thấy việc biên soạn Giới Đức Thánh Sa Di có phần thiếu sót rất lớn về oai nghi tế hạnh của một tu sĩ Phật giáo, nhưng không phải là sự thiếu sót 24 oai nghi tế hạnh do các Tổ đã biên soạn lưu hành trong các chùa. Bộ giới luật Sa Di chỉ có giới cấm mà thiếu sót Giới Đức, Giới hạnh, Giới Hành, khiến cho người đọc giới không biết pháp hành và sống như thế nào để sống được đời sống Phạm hạnh mà không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trong giới bổn. Cho nên, bộ giới luật phần đầu này chúng tôi biên sọan chỉ nói lên được phần giới Đức Thánh thuộc tiểu giới của giới tướng, còn phần giới hạnh và giới hành đại giới tướng thì chưa có, cho nên chúng tôi muốn bổ sung thêm cho Mười Giới Đức Thánh Sa Di này được đầy đủ hơn, vì thế chúng tôi phải dựa theo lịch sử Phật giáo trong Giới Kinh mà biên soạn. Vậy giới kinh của Thầy Sa Di mà đức Phật đã dạy là những bài kinh nào?

Như các bạn đã biết trong lịch sử Phật giáo Thầy Sa Di đầu tiên trong Đạo Phật là Thầy Sa Di La Hầu La. La Hầu La là đứa con trai độc nhất của đức Phật, được đức Phật chấp nhận cho xuất gia vào lúc còn bé thơ mới 10 tuổi [1].

Trong Kinh Trung Bộ, tập 2 và tập 3 thuộc tạng kinh Việt Nam, có ba bài kinh dạy về giới hành cho những người còn trẻ tuổi mới vào tu tập. Đó là những bài kinh đức Phật đã dạy giới luật về giới đức, giới hạnh và giới hành cho La Hầu La. Những bài kinh đó có tên là kinh Giáo Giới La Hầu La ở rừng Am - Bà - La (Ambalatthika Rahulavadasuttam), Tiểu Kinh Giáo Giới La Hầu La và  Đại Kinh Giáo Giới La Hầu La.

Ba bài kinh này chúng tôi triển khai biên soạn thành một bộ Giới Hạnh và Giới Hành Đức Thánh Sa Di phần II sẽ mang lại đầy đủ những oai nghi chánh hạnh trong Giới Hành của một Thầy Sa Di đúng nghĩa của đạo Phật, từ phàm phu trở thành một bậc Thánh A La Hán vô lậu hoàn toàn.

Việc làm này có mục đích hẳn hoi là chấn chỉnh lại bộ luật Sa Di mà từ xưa đến nay trong các chùa đềulấy đó làm sách gối đầu nằm cho các vị mới xuất gia tu học.

Kính thưa các bậc tôn túc đức cao, trí rộng! Nếu trong bộ giới luật này còn có những điều chi sơ sót, xin các bậc Tôn Túc vui lòng chỉ dạy cho. Chúng tôi thành thật muôn vàn biết ơn khi nhận được những cao kiến để kỳ tái bản tới sẽ có sự bổ sung thêm cho bộ sách được hoàn chỉnh hơn.

“Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, một mình không thể làm nên việc lớn cho muôn người, làm lợi ích chung cho Phật giáo, mà cần phải có nhiều người chung lưng đâu cật cùng làm. Vì muốn đem lại lợi ích cho những người tu theo Phật giáo có tâm huyết, có ý chí quyết tìm đường giải thoát ra khỏi bốn sự đau khổ của kiếp người: sanh, già, bệnh, chết, cho nên chúng tôi không nệ tài hèn trí mọn biên soạn bộ sách này, khởi đầu làm tiếng chuông cảnh tỉnh, nên không thể tránh khỏi những sự thiếu khuyết, kính mong quý vị lượng thứ cho.

                        Kính ghi,

                   Tu viện Chơn Như.



[1]Thập Đại Đệ Tử Chuyện” có ghi La Hầu La xuất gia năm mười tuổi.

TIỂU SỬ LA HẦU LA

LỜI GIỚI THIỆU LỊCH SỬ SA DI ĐẦU TIÊN TRONG ĐẠO PHẬT

Muốn tìm hiểu về Giới Luật, Giới Đức, Giới Hạnh và Giới Hành của người mới vào tu tập theo Phật giáo, mà trong giới tín đồ đạo Phật thường gọi là Thầy Sa Di. Vậy Giới luật, Giới đức, Giới hạnh và Giới hành của Thầy Sa Di như thế nào? Những bài kinh nào dạy về giới đức, giới hạnh và giới hành đó và ở đâu?

Muốn tìm hiểu được những điều này xin các bạn vui lòng đi ngược lại dòng lịch sử cách đây 2555 năm để nghiên cứu một Thầy Sa Di trong những thầy Sa Di đầu tiên trong Phật giáo. Đó là Thầy Sa Di La Hầu La.

LA HẦU LA

MẬT HẠNH ĐỆ NHẤT

CẬU BÉ HẠNH PHÚC

Đức Phật của chúng ta, khi còn là Thái Tử của Vương Thành Ca Tỳ La, đã kết hôn với Công Chúa Da Du Đà La thành Câu Lợi. Vào năm Thái Tử và Công Chúa 19 tuổi[1]thì sanh hạ La Hầu La. Thái Tử rất vui mừng, nhưng không phải sự vui mừng như tình thương người đời khi sinh con, mà vì Thái Tử nhiều lần xin vua cha đi xuất gia đều không được chấp thuận. Vua Tịnh Phạn có nói: “Trừ khi nào có được đứa cháu đích tôn thì mới cho phép Thái Tử xuất gia”[2]. Hiện tại Thái Tử có La Hầu La như ý Phụ Vương, nguyện vọng xuất gia sẽ đạt được, bảo sao Thái Tử không vui mừng.

Trong đêm Thái Tử sắp rời hoàng cung, vào ngày mùng 8 tháng 2, lúc ấy La Hầu La mới sinh được 7 ngày. Vương Phi Da Du Đà La đang ôm La Hầu La trong tay và nằm ngủ. Thái Tử vén rèm nhìn hai người lần cuối, và quay lưng, leo lên lưng ngựa, vượt thành ra đi. Từ đó, La Hầu La đã mất bóng người cha thân yêu của thế gian.

Nhưng Thái Tử xuất gia tu hành thành Phật, từ một Thân phụ đổi thành Thân sư, về sau độ La Hầu La thành chánh quả, đó mới thật sự người cha đệ nhất củathiên hạ.

La Hầu La mất cha, được mẹ và ông nội thương yêu, là vương tôn độc nhất vô nhị. Chuỗi ngày vô tư lự trôi qua trong cung điện, đến khi vừa hiểu biết, trong tâm hồn trẻ thơ của La Hầu La cũng cảm thấy không có cha là một điều đáng buồn. Nhưng bù lại, cậu bé được mẫu thân rất cưng chiều, đó la niềm vui duy nhất của La Hầu La, là nguồn an ủi, là người che chở cho cậu. Trong thâm cung vắng vẻ, La Hầu La cũng là nguồn hy vọng của Vương Phi, hai mẹ con nương nhau cùng sống qua năm tháng.

Có người nói Da Du Đà La phận nữ nhi khổ mệnh, La Hầu La là đứa bé bất hạnh đáng thương, nhưng đó là nói theo thường tình thế gian. Nỗi khổ tâm, đáng thương của họ chỉ trong thời gian ngắn. Hễ có hy sinh lớn tất thành tựu kết quả lớn. Về sau, nhờ sự hóa độ của đức Phật, Da Du Đà La và La Hầu La đều xuất gia tu hành được chứng quả A La Hán. Đó mới là bậc nữ lưu vinh hạnh nhất, và đứa bé hạnh phúc nhất.

Trước giờ cáo biệt, Thái Tử cũng định bế đứa con đang ngủ một tí, nhưng sợ làm động Da Du Đà La thức dậy, lại cản trở việc xuất gia, nên khi nhìn con lần cuối, Ngài đã nói: “Hãy đợi đến khi Ta thành Phật, sẽ trở lại thăm con”. Đức Phật xem tất cả chúng sanh như La Hầu La, một La Hầu La không quan trọng bằng vô số La Hầu La đang trông đợi tình thương của Phật. Đức Phật đã ban cho chúng sanh bao nhiêu lòng thương rộng lớn, thì ở trong hoàn cảnh của La Hầu La, lại càng dễ được hưởng lòng từ bi của Phật. Cho nên chúng ta đừng cho rằng sự việc La Hầu La mất phụ thân từ nhỏ là bất hạnh đáng thương. La Hầu La, con của bậc đại Thánh, được nuôi dưỡng trong tình thương cao rộng như trời đất, là một cậu bé hạnh phúc nhất đời.

CẬU BÉ KHÔNG BIẾT MẶT CHA

Đức Thế Tôn thành đạo được ba năm, từ nước Ma Kiệt Đà phương Nam về thăm cố hương. Trên từ vua Tịnh Phạn, dưới đến nhân dân dòng họ Thích, đều ra ngoài thành nghênh đón Phật, chỉ có Da Du Đà La và La Hầu La không tham dự trong đoàn người ấy.

Trong tâm bà Da Du nghĩ thầm: “Khi Ngài đi xuất gia, ta đã vì Ngài chịu hết mọi nỗi khổ, Ngài mặc y phục bạc màu, ta ở trong cung cũng mặc giống Ngài, ta nghe Ngài tu khổ hạnh ăn ngày một bữa, ta cũng tập làm theo. Ta đối với Ngài như vậy, thật hết lòng, nếu Ngài còn nghĩ đến ta, tự nhiên sẽ đến cung thăm ta’’.

Mười năm không gặp Phật, lòng Da Du Đà La cũng như mọi người đều muốn diện kiến Ngài nhưng vì lễ phép, vì tự tôn, bà phải nhẫn nại. Bà ngồi trên lầu cao nhìn ra sẽ thấy được cảnh mọi người nghênh đón đức Phật.

Cậu bé La Hầu La lên mười tuổi, đến nói với mẹ:

- “Mẹ, mẹ! Ba con đã về! Bà nội bảo con cho mẹ hay”.

La Hầu La ngây thơ lúc ấy nào hiểu được tâm sự của mẫu thân, cậu chỉ thấy mẹ của mình hôm nay sao nghiêm nghị quá, nhưng dù sao cậu cũng là con yêu nên lại ngây ngô hỏi:

- “Mẹ, mẹ! Coi người ta ở ngoài cung điện nhiều biết bao nhiêu, ba con nhất định cũng ở trong đó. Ba con ra sao?”.

Câu nói từ miệng cậu bé không biết hình dáng ba mình ra sao, càng khiến Da Du Đà La thương tâm. Nỗi lòng của người lớn, trẻ con hoàn toàn không thể biết.

Bà Da Du một tay kéo La Hầu La bên mình chỉ ra cửa mắt rướm lệ nói:

- “Con nhìn xem trong số các Thầy Sa Môn kia, người có vẻ trang nghiêm nhất chính là Phụ thân của con”.

- La Hầu La mở to đôi mắt nhìn theo tay mẹ.

- “Con chẳng nhận được Phụ thân đâu, con chỉ biết có ông nội, còn người nữa là mẹ, mẹ yêu quý thôi”.

Một giọt nước mắt của bà rơi xuống mái tóc La Hầu La, bà nắm tay con trở lui vào cung.

Xa cách mười năm, hôm nay Da Du Đà La mới thấy lại đức Phật một lần; mười năm không tin tức thoáng qua như giấc mộng trong tâm tư của bà. Tâm hồn Bà xao xuyếnnhư mặt nước yên tỉnh bị ném trúng một viên đá, những gợn sóng lao xao. Đức Phật biết tâm tưởng bà, nên dắt Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên vào cung thăm viếng.

Cuộc gặp gỡ giữa một Đấng Chánh Giác và một vị vương phi mỹ lệ khiến lắm kẻ lưu ý. Đức Thế Tôn trang nghiêm, yên lặng, một chút từ bi thương xót nhìn Da Du Đà La đang quỳ dưới chân, La Hầu La quỳ bên cạnh. Da Du trăm mối ngổn ngang bên lòng, xúc động rơi nước mắt. Bà cũng biết giữa đức Phật và bà có một sự ngăn cách không thể vượt qua. Đợi cho Da Du bình tĩnh lại, Đức Thế Tôn mới chậm rãi nói với bà:

- “Để cho nàng chịu nhiều tân khổ, tuy đó là sự thiếu sót của Ta, nhưng Ta đã vì tất cả chúng sanh mà ra đi, hôm nay Ta đã đạt được bổn nguyện, nàng hãy hoan hỷ cùng với Ta”.

Đức Phật nói xong, lại nhìn sang La Hầu La, từ hoà vỗ về cậu bé:

- “Thật mau quá! Con đã lớn như thế ư!”.

Đức Phật dường như rất vô tình, và cũng dường như rất tình cảm, thái độ của Ngài, đã khai thị cho Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên nghe xong tưởng chừng như phải khóc một trận mới hả.

La Hầu La bây giờ chẳng biết phải gọi Phụ thân của mình như thế nào. Xưng hô là ba, ba ư? Đây là một bậc Thánh trang nghiêm, tự miệng cậu bé chẳng dám gọi như thế. Xưng hô là Phật Đà chẳng biết trúng hay không. Nhìn bao nhiêu vị Tỳ Kheo, Sa Môn đi theo đức Phật trong tâm cậu bé thông minh ấy đã khởi nghĩ: Đức Phật chẳng phải là Phụ thân của riêng một mình ta, Phật là một bậc đại Từ Phụ của tất cả chúng sanh.

Chỉ có mười tuổi, đã chịu nguyện đem Phụ thân của riêng mình hiến cho chúng sanh làm đấng Cha lành, thật là một cậu bé chẳng tầm thường!

THẦY SA DI ĐẦU TIÊN

Đức Thế Tôn ở tạm trong hoàng cung vài ngày, và đây là lần đầu tiêntrong cung điện vắng bóng cung nữ, chẳng có yến tiệc rượu chè, chỉ có 1000 vị Tỳ Kheo theo Phật, cung điện hoàng gia tạm thời trở thành Tăng phòng Tịnh xá.

Đức Thế Tôn biết các Thầy Tỳ Kheo sơ học nếu ở lâu trong vương cung dễ sanh tâm so sánh với lối sống đạm bạc của Tăng đoàn, nên chỉ vài ngày sau Ngài đưa đại chúng về trụ tại rừng Ni Câu Đà, cách thành Ca Tỳ La không xa.

Tuy ở rừng Ni Câu Đà, nhưng Đức Thế Tôn cũng thường về hoàng cung trì bát khất thực hoặc thuyết pháp. Cậu bé La Hầu La ngây thơ một cách dễ thương, thân mật nói với Ngài:

- “Phật Đà con rất thích được ở chung với Ngài”.

Câu nói ấy đã biểu lộ phụ tử tình thâm, Đức Thế Tôn cũng trả lời:

- “Rồi cũng có ngày Ta cho con sống gần bên Ta”.

Phật nói câu ấy không lâu, quả nhiên La Hầu La xuất gia theo luôn bên Ngài.

Nguyên nhân là vì Da Du Đà La thường khuyến khích La Hầu La thêm hoạt bát lanh lẹ, mặc quần áo đẹp cho, và bảo con rằng:

- “Con hãy theo Phụ thân xin tài sản đi. Cha con có những châu báu mà chúng ta chưa được thấy!”.

Do đó, La Hầu La thường chạy theo đức Phật nói:

-    “Phật Đà cho con gia tài”.

Một hôm, đang lúc Đức Thế Tôn khất thực trở về rừng Ni Câu Đà, Ngài đi trước, La Hầu La chạy theo sau chẳng có ai ngăn cản cậu, cậu cứ lẽo đẽo theo sau Phật kêu:

- “Cho con gia tài a! Cho con gia tài a!”.

Da Du Đà La nhìn thấy đứa con duy nhất đi sau lưng Phật, rất sợ La Hầu La bị đưa xuất gia, bất giác rơi nước mắt.

Đức Phật về đến rừng gọi Xá Lợi Phất đến nói:

- “Xá Lợi Phất! Cậu bé La Hầu La, cứ theo Ta xin gia tài, Ta không muốn cho La Hầu La thứ tài sản và hạnh phúc mong manh, Ta muốn cho La Hầu La thứ gia tài vô giá. Này, Xá Lợi Phất! Ông hãy cho La Hầu La xuất gia, làm Sa Di đầu tiên của Tăng đoàn”.

Đức Phật nói xong, gọi Mục Kiền Liên cạo tóc cho cậu bé, lại lễ bái Xá Lợi Phất làm Thầy Bổn Sư truyền giới Sa Di cho La Hầu La.

Đó là khởi nguyên của chúng Sa Di.

La Hầu La vốn là tất cả hoài bão của Bà Da Du, bây giờ đã gia nhập Tăng đoàn, đó cũng là dụng ý của đức Phật. Khi còn là Thái Tử, hạ sanh La Hầu La, Ngài đã rời bỏ ngôi vị ra đi và đắc thành Phật quả thì vương vị mai sau của nước Ca Tỳ La Vệ nhất định sẽ về tay La Hầu La. Nhưng chủ trương của đức Phật để cho một đứa bé con làm chủ cả thần dân thiên hạ là chuyện không thể được, cho nên thừa cơ hội, Ngài phương tiện cho con xuất gia.

La Hầu La xuất gia là một điều đau buồn cho Da Du, cậu bé là nguồn hy vọng của bà, bà thương quý cậu hơn cả thân mình. Thái Tử đã ra đi, bây giờ con yêu cũng lìa bỏ. Đối với bà thật là trời sầu đất thảm.

Chúng ta cũng có thể đồng ý với bà Da Du trách đức Phật nhẫn tâm, để cho bà chịu nhiều đau khổ quá đáng. Nhưng chân lý và nhân tình là hai lối trái ngược nhau rất xa, phải hàng phục được tình cảm yếu đuối của thế nhân mới khế hợp được với chân lý giải thoát vậy.

GIÁO GIỚI LA HẦU LA

Hôm ấy, Đức Thế Tôn đến chỗ ở của La Hầu La, với dáng hết sức oai nghiêm. La Hầu La không ngờ vội chỉnh y ra nghinh đón Phật. Đợi cho Thế Tôn an tọa, cậu đem nước đến cho Phật rửa chân. Đức Phật không nói một lời, rửa chân xong, bèn chỉ nước dơ trong chậu hỏi La Hầu La:

- “Này La Hầu La! Thứ nước dơ bẩn này có đem uống được không?”.

- “Bạch Thế Tôn, nước rửa chân rất dơ, không thể uống được”.

- “Người nói láo cũng giống như nước đó”.

 Đức Thế Tôn dạy tiếp:

- “Nước vốn trong sạch, rửa chân xong bèn trở nên cáu bẩn, giống như con vốn là vương tôn, lìa bỏ mọi thứ vinh hoa phú quý tạm bợ của thế gian, xuất gia làm Sa Môn. Tuy chưa thọ giới Tỳ Kheo, nhưng con đã thọ mười giới Sa Di, con không tinh tấn tu tập, không để thân tâm thanh tịnh, không giữ miệng cẩn thận lời nói, dối gạt chọc ghẹo người. Cấu uế của tam độc đầy dẫy trong tâm con, giống như nước trong sạch bị dơ bẩn một thứ”.

Chưa bao giờ Đức Thế Tôn nghiêm nghị như vậy, La Hầu La cúi đầu chẳng dám nhìn Phật. Đức Phật bảo đem nước đổ đi, cậu bé mới nhúc nhích. Đợi La Hầu La đổ hết nước xong, Phật lại hỏi:

- “Này La Hầu La, con lấy cái chậu này đựng cơm được không?”.

- “Bạch Thế Tôn, chậu đựng nước rửa chân không thể đem đựng cơm, vì chậu đã dơ, đầy cáu bẩn, không thể đựng thức ăn được”.

- “Người nói láo cũng giống như cái chậu đó. Tuy làm Sa Môn thanh tịnh mà không tu giới, định, huệ; thân, khẩu, ý không thanh tịnh, chứa đầy cấu uế, không chân thật, thức ăn đạo lý làm sao nhét vào tâm con?”.

Phật nói xong lấy chân đá nhẹ cái chậu lăn mấy vòng, La Hầu La thấy thế hoảng sợ. Phật lại hỏi:

- “Này La hầu La, con sợ cái chậu này bị bể không?”.

- “Bạch Thế Tôn không ạ, chậu rửa chân là đồ vật xấu, có bể cũng chẳng sao”.

- “Này La Hầu La, con không tiếc cái chậu này, giống như mọi người không thương mến người nói láo. Con xuất gia làm Sa Môn, không giữ oai nghi, nói dối đùa ghẹo, ai mà thương con được, không ai quý tiếc gì con, cho đến lúc con chết mà con không hối cải, lại càng chìm trong mê mờ!”.

La Hầu La sợ toát mồ hôi, xấu hổ muốn độn thổ, phát nguyện từ nay về sau cố gắng sửa đổi tâm tánh.

Đức Phật răn dạy xong lại nói thêm một ví dụ cho La Hầu La nghe:

- “Đời quá khứ có một quốc gia nọ nuôi hai con voi dũng mãnh thiện chiến. Mỗi khi nhà vua cử binh ra trận lại trang bị áo giáp cho chúng. Ngà voi mang giáo nhọn, bên tai giắt kiếm bén, bốn chân đều có đao sáng ngời, sau đuôi lại cột thêm gậy sắt. Tuy mang nhiều vũ khí như thế, nhưng mỗi khi giao chiến chúng đều cuốn vòi dấu kín, vì đó là chỗ nhược, nếu để trúng tên sẽ chết ngay, vì muốn giữ gìn mạng sống phải giữ kỹ chiếc vòi”.

Này La Hầu La! Con cũng phải như con voi kia giữ kỹ cái vòi, cẩn thận giữ gìn lời nói. Mỗi khi mở miệng nói đùa như voi bị thương, huệ mạng của con sẽ mất, không được mọi người thương mến, không được người trí ưa thích, đến khi lâm chung sẽ bị rơi vào ba đường khổ.

Đức Thế Tôn dùng hết tình, hết lý, khẩn thiết, nghiêm trang răn dạy. Mỗi lời mỗi câu đều in sâu vào tâm La Hầu La. Chú bé phát nguyện từ nay sẽ giữ gìn nghiêm túc không hề vi phạm vào giới vọng ngữ.

Như hạt lúa tuy chúng ta xay giã thành hạt gạo, nhưng còn dính bụi cám, phải vo chà sạch sẽ thì gạo trắng mới ra gạo trắng. La Hầu La tuy có bản tính tốt ngoan ngoãn, nhưng phải có nước pháp của Đức Thế Tôn tẩy rửa một phen mới trở nên thanh tịnh vô nhiễm được.

Từ đó, La Hầu La trở thành một người khác.

THẦY SA DI CÓ THỂ Ở CHUNG VỚI TỲ KHEO

Khi Đức Thế Tôn ở tại vườn Cù Sư La, La Hầu La cũng ở đó với Sa Di Quân Đầu, cũng theo Sư phụ Xá Lợi Phất hầu Phật nghe pháp.

Mỗi ngày La Hầu La dậy sớm quét dọn trong vườn, trong ngoài sạch sẽ rồi mới tu tập theo lời Phật dạy. Một khu vườn rộng lớn quét cho sạch hết phải tốn biết bao nhiêu thì giờ. Hôm nọ, La Hầu La quét dọn xong bèn đi nghe Phật thuyết pháp, đến chiều mới trở về phòng lúc ấy phòng của La Hầu La bị thầy Tỳ Kheo quản lý để cho một vị Tỳ Kheo khách ở, những y bát tọa cụ của La Hầu La đều bị bỏ ở ngoài, khách thì an nhiên ở trong phòng.

Phật đã quy định một người một phòng, phòng của mình đã bị người khác chiếm, biết làm sao? Hơn nữa La Hầu La còn là Sa Di, trong Tăng đoàn Sa Di phải kính trọng Tỳ Kheo, và Phật cũng dạy phải nhẫn nại, nên La Hầu La không dám đến hỏi Thầy kia sao lại ở phòng mình. La Hầu La đứng ngơ ngơ ở ngoài cửa, thật là tiến thối lưỡng nan. Lúc ấy mây đen kéo đến đầy trời, báo hiệu sắp cómưa to; La Hầu La không biết núp vào chỗ nào bèn chui vào nhà xí, tuy có hôi hám thật, nhưng chỉ còn cách ngồi trong đó thôi. Lúc ấy thật cảm thấy nỗi quạnh quẽ của tình cảnh không nhà. La Hầu La đoan tọa trong nhà xí, nỗ lực nhớ đến lời Phật dạy: “Bất cứ trong hoàn cảnh khốn khổ nào, bất cứ gặp những phiền phức gì, đều không nên khởi tâm oán hận”. Sức tu của La Hầu La quả thật tiến bộ rất nhiều.

Bên ngoài mưa tuôn xối xả, nước chảy tràn xuống những chỗ trũng, có một con rắn đen ở trong hang bên cạnh, bị ngập nước bèn bò ra, dần dần bò vào nhà xí mà La Hầu La không hề để ý. Rắn độc miền nhiệt đới rất nguy hiểm, lúc ấy sinh mạng của chú Sa Di La Hầu La như chỉ mành treo chuông.

Đức Phật đang ở trong thất, hốt nhiên nhớ đến La Hầu La, Ngài dùng thiên nhãn thấy được sự nguy hiểm gần kề, bèn đi ra nhà xí, đằng hắng một tiếng, bên trong cũng có tiếng đằng hắng. Phật bèn hỏi:

-    “Ai ở trong đó?”

-    “Dạ La Hầu La”.

-    “Ra mau! Phật bảo con đi ra”.

La Hầu La không ngờ Đức Thế Tôn đã kêu mình, vội bước ra, bất giác quỳ bên chân Phật nước mắt lưng tròng. La Hầu La còn nhỏ, tình cảm không khỏi yếu ớt.

Phật bèn hỏi vì sao La Hầu La lại ngồi ở trong nhà xí. La Hầu La thuật lại mọi việc. Phật bèn dạy La Hầu La hãy vào trong phòng Ngài. La Hầu La vui mừng, như từ Địa ngục bước lên Thiên đường.

Trẻ con tuổi nhỏ cắt ái từ thân, vào trong Tăng đoàn, cần phải được các Tỳ Kheo lớn chiếu cố đến. Vì nhân duyên đó, đức Phật bèn quy định cho các Sa Di, có thể ngủ chung phòng với các Tỳ Kheo hai đêm. Tình thương của đức Phật, chỗ vi tế nhất đều lưu ý đến.

Xưa nay, Sư phụ thâu đệ tử phải có trách nhiệm dạy dỗ. Thầy của La Hầu La là Xá Lợi Phất, thường bận giúp Phật hoằng hóa bên ngoài, ít có dịp ngó ngàng đến La Hầu La, nhưng từ khi sự kiện ấy xảy ra, Xá Lợi Phất thường gọi La Hầu La đến ở trong phòng với Tôn giả.

ĐỨC NHẪN NHỤC

Từ khi được đức Phật chỉ dạy và lại thường được ở bên cạnh Sư phụ Xá Lợi Phất, nhận được sự hướng dẫn của Thầy, La Hầu La tu tiến rất nhanh.

Khi đức Phật giảng kinh, Xá Lợi Phất đều dẫn La Hầu La đi nghe. Khi Xá Lợi Phất tịnh tọa, La Hầu La cũng tịnh tọa một bên; khi đi thuyết pháp giáo hoá, Xá Lợi Phất cũng dẫn La Hầu La theo bên mình, dạy cho La Hầu La những kinh nghiệm tu hành vì pháp, vì mọi người. Mỗi ngày khất thực xong, La Hầu La lại theo sau Xá Lợi Phất. Trong Tăng đoàn, tôn giả Xá Lợi Phất được xem như đức Phật thứ hai, thật là Ân sư tôn quý của La Hầu La.

Một hôm, La Hầu La đi theo Xá Lợi Phất khất thực tại thành Vương Xá, trên đường đi gặp một tên lưu manh, hắn lấy cát ném vào bát Xá Lợi Phất, và lấy gậy đánh trên đầu La Hầu La.

La Hầu La bị thương, máu nhỏ giọt xuống y, tên lưu manh thấy vậy chẳng những không biết lỗi còn chửi:

- “Mấy lão trọc chỉ biết đi xin ăn, cứ xưng là từ bi nhẫn nhục, ta đánh lỗ đầu mày thử xem làm gì ta”.

La Hầu La lúc ấy còn bé tuổi thơ, đã không lộ vẻ tức giận căm gan, nhưng Xá Lợi Phất vẫn an ủi.[3]

“Này La Hầu La, nếu thật là đệ tử Phật, cần phải có tinh thần nhẫn nhục, trong tâm không chứa niềm sân hận, phải đem lòng từ bi thương xót chúng sanh, Đức Phật thường dạy chúng ta như vậy. Lúc vinh dự đừng sanh lòng cao hứng, khi bị làm nhục cũng đừng oán hận. Này La Hầu La, nên điều phục tâm đừng để giận tức, giữ chắc tâm nhẫn nại. Trên thế gian không có gì sánh bằng người có sức nhẫn nhục mạnh mẽ, cõi Trời, cõi Người, dù sức mạnh đến đâu cũng không hơn nhẫn nại!”.

La Hầu La nghe Xá Lợi Phất khai thị lẳng lặng đến bên ao nước, mặt nước soi rõ bóng dáng, La Hầu La lấy tay khoát nước rửa sạch vết thương, xé một chút vải băng lại. Xá Lợi Phất theo dõi tình hình, trong lòng vừa an ổn lại thương tình.

La Hầu La nhẫn nại, an nhiên theo Xá Lợi Phất, khất thực xong, trên đường về mới nói với Thầy:

- “Con nghĩ đến vết thương trên đầu, lúc ấy con rất thương người hung ác đánh con, nhưng trên thế gian này sao lắm kẻ hung ác, đến đâu cũng gặp toàn những việc đáng ghi nhận. Con không giận đời, chỉ nghĩ đến cõi đời này nhiều người không biết điều, nhưng con luôn nhớ lời đức Phật dạy: Nên có lòng đại từ, đại bi với họ, để mặc hạng người cuồng bạo nhục mạ chúng ta. Làm Sa Môn Tỳ Kheo phải giữ hạnh nhẫn nhục, chứa đức cao mà người cuồng ngu trở lại khinh chê, lại đi kính trọng mấy kẻ hung dữ độc ác. Đức Phật dạy chân lý từ bi, họ trở lại cho là hôi như xác chết, như trời mưa cam lồ mà loài chó hoang lại chỉ ưa đồ dơ bẩn, ưa ở nơi hôi hám. Nhưng chân lý Phật dạy, những lời nói từ bi của Ngài mà đem nói với hạng người hung dữ, không có chút căn lành ấy, chẳng có hiệu quả gì’’.

Đây là lần đầu tiên La Lầu La đem việc tu hành và ý nghĩ của mình bày tỏ với Sư phụ. Xá Lợi Phất nghe xong rất hoan hỷ, đem những lời của La Hầu La về bạch lại với đức Phật. Phật cũng rất vui lòng, khen La Hầu La ngày nay rất ngoan, đối với người hung ác nên có thái độ như thế, và cách nhìn đời cũng biết như vậy. Phật lại dạy thêm:

- “Người không biết nhẫn, sẽ không tiếp thọ được Phật Pháp, giận đời oán người là điều trái với pháp, xa chư Tăng, thường luân hồi trong đường ác, hạnh nhẫn nhục mới là hạnh an ổn, mới có thể tiêu trừ tai nạn. Người trí tuệ thấy được nhân quả sâu xa. Khắc phục tâm sân hận, thường hành nhẫn nại. Tinh thần của Phật Pháp, chân nghĩa của Phật Pháp không giống như lối nhìn của người đời. Những gì thế gian cho là cao quý thì Phật Pháp cho là hạ tiện; Phật Pháp cho là tốt, là phải, thì người đời không chịu làm theo. Trung không ưa nịnh, tà chẳng thích chánh, ác không thích đi chung với thiện. Người tham dục thì ghét người vô dục. Trong tình cảnh ấy người tu hành chỉ có việc nhẫn nại. Nhẫn nại là duyên trợ đạo tốt nhất, có thể khiến người tu mau chứng quả Thánh. Nhẫn như thuyền bè trên sông biển, có thể vượt qua mọi sóng gió; nhẫn là thuốc lành trị bệnh, cứu mạng sống cho người trong cơn nguy. Tu thành Chánh giác, vượt qua ba cõi, được Người, Trời kính ngưỡng, là vì tâm ta đủ sức an ổn, phải biết rằng đức nhẫn rất quý vậy”.

Do nhân duyên La Hầu La bị kẻ côn đồ vô cớ hành hung lỗ đầu mà trong lúc tuổi trẻ máu nóng lại có thể nhẫn chịu như một ông Thánh, khiến Sư phụ rất an tâm, đức Phật cũng mừng thầm và dẫn khởi đến đoạn thuyết pháp trên. Xá Lợi Phất nghe xong vô cùng cảm động, La Hầu La cũng rơi lệ, lại càng cảm kích hơn.

LỊCH TRÌNH CHỨNG ĐẠO

La Hầu La đối với chuyện bị chiếm phòng, tự nguyện nhượng bộ; trên đường đi bị kẻ ác đánh trọng thương đều có thể nhẫn được. Tu dưỡng cẩn mật như vậy, chỉ còn một đoạn nữa là được chứng đạo.

La Hầu La thông minh khéo léo, tinh tấn tu hành; khi còn Sa Di La Hầu La là một đứa trẻ ngoan, hiền lành chứ không phá phách thiên hạ như trong sách Thập Đại Đệ Tử mà sư cô Như Đức dịch. Hôm nay đã trở thành một Thầy Sa Di nghi biểu trang nghiêm, đức Phật hứa khả: vào năm 20 tuổi cho thọ giới Tỳ Kheo.

Tuy còn trẻ nhưng La Hầu La đạo mạo như một người lão thành. Những cuộc nhóm họp đông đảo trong sinh hoạt của Tăng đoàn, Thầy ít khi tham dự, chỉ im lặng dụng công tu tập.

Thầy là con yêu của đức Phật, là cháu cưng của vua Tịnh Phạn. Vả lại, Thầy tu theo mật hạnh nên giữ gìn độc cư im lặng khó ai nhận ra Thầy chứng đạo hay chưa chứng đạo. Nhưng qua mật hạnh tu tập của Thầy, từ những bậc thượng thủ đến các Tỳ Kheo khác đều kính trọng Thầy, ái mộ Thầy, khen ngợi Thầy. Các Thầy Sa Di trẻ rất dễ bị động tâm khi được luôn nghe những lời khen tặng; mấy ngôn từ hoa mỹ ấy đáng sợ như ác ma, nhưng La Hầu La càng nghe lại càng dụng công tinh tấn tu tập.

Có Thầy Tỳ Kheo hỏi Phật về chuyện tu hành của La Hầu La:

- “Bạch Thế Tôn! Sa Di La Hầu La nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu hành, không phạm một lỗi nhỏ, vì muốn cầu chứng đạo, Thầy đã tận tình buông sạch, vậy mà tại sao Thầy vẫn chưa chứng đạo?”.

Đức Thế Tôn trả lời dứt khoát:

- “Giữ giới tịnh tâm, giữ thân đoan chánh, nhất định có thể dứt sạch ô nhiễm, nhất định dần dần chứng quả”.

Đối với việc La Hầu La tu tập, Đức Phật đầy tin tưởng, nhưng ngàyấy cũng không còn xa.

La Hầu La đem chỗ tâm đắc của mình bạch với Phật, Phật dạy La Hầu La từ đây về sau nên im lặng như Thánh mà tu tập theo những lời Phật đã dạy.

Đức thế Tôn khất thực trở về đến chỗ La Hầu La đang tọa thiền.

La Hầu La từ toà đứng dậy, đảnh lễ Phật và thưa:

-    “Bạch Thế Tôn! Phiền não con đã hết. Con đã chứng đạo xong”.

Đức Phật rất hoan hỷ còn hơn sự hoan hỷ của La Hầu La, Ngài khen ngợi:

- “Trong các đệ tử của Ta, La Hầu La là mật hạnh đệ nhất”.

Gọi là mật hạnh, nghĩa là trong ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, La Hầu La đều biết hết.

Nghĩ đến hồi ban đầu La Hầu La theo Phật xin gia tài, hiện tại Tôn giả chứng đạo là đã được đức Phật trao cho pháp tài vô tận. Nghĩ đến thuở còn Sa Di nhỏ tuổi gia nhập Tăng đoàn, La Hầu La đã làm bận lòng đức Phật không biết bao nhiêu. Hiện tại, Tôn giả đã xa lìa mọi dục lạc thế gian, đạt được niềm vui chân chánh của pháp mầu. Thật là vinh hạnh cho Tôn giả.

NHẬP DIỆT

Những nhân vật oanh liệt trong Tăng đoàn thuở ấy là Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, A Nan, v.v.. còn La Hầu La thì không. Một người nghiêm túc trong mật hạnh trì giới, chỉ im lặng tu tập, im lặng không tranh đua với thế gian; hoặc là vì La Hầu La quan hệ đến Thế Tôn, nên Ngài đặc biệt hạn chế Tôn giả. Chúng ta cũng biết La Hầu La có tư cách nhu thuận, bẩm chất kiên cường, nhưng chúng ta cũng thấy trong sinh hoạt của một vị tu sĩ, tôn giả không phải là người sôi nổi. Cho nên, trong kinh sử không thấy ghi lại những sự tích La Hầu La nhiệt tình thuyết pháp, hay nghị luận với ngoại đạo. Đúng như lời Đức Thế Tôn nói tôn giả là một người nghiêm túc trong tế hạnh, trong giới luật; là một vị mật hạnh đệ nhất.

La Hầu La nhập diệt khi nào, cũng như năm tháng đản sanh của tôn giả có hai truyền thuyết. Thái tử Tất Đạt Đa năm 19 tuổi hạ sanh La Hầu La, có thuyết lại nói đến năm 25 tuổi mới sanh La Hầu La. Về năm diệt cũng có hai thuyết, một thuyết nói Tôn giả nhập Niết bàn trước đức Phật vài năm, thuyết khác nói khi đức Phật nhập Niết bàn Tôn giả còn quỳ bên giường.

Ấn Độ là một nước không mấy chú trọng về lịch sử, còn Trung Hoa chúng ta thấy không ít nhà phiên dịch phóng đại và tưởng tượng huyền hoặc. Những sự tích lặt vặt về cuộc đời Đức Thế Tôn và các vị Thánh đệ tử được ghi chép trong kinh điển, thật sự cũng có ít nhiều cắt xén.

Căn cứ theo sử ký có thể khảo cứu qua kinh điển thì Tỳ Kheo Ni Da Du Đà La, mẫu thân của La Hầu La nhập diệt vào năm 78 tuổi, và La Hầu La nhập diệt được kể là sớm hơn.

Vào một buổi chiều Da Du Đà La đã suy tư đến rất nhiều sự việc bà nghĩ đến Kiều Đàm Di, Liên Hoa Sắc đều đã nhập Niết bàn. La Hầu La cũng đã nhập Niết bàn. Ta sanh đồng một năm với Đức Phật, năm nay ta đã bảy mươi tám tuổi, nghe nói Đức Phật sẽ nhập Niết bàn vào năm 80 tuổi. Nghĩ đến chuyện ta nhập diệt đồng một lúc với Ngài, nhưng hiện nay đối với Đức Phật chỉ có pháp tình mà không có tình riêng gì khác. Vậy việc ấy là một điều bất kính; chi bằng ta nhập diệt sớm là tốt hơn.

Da Du Đà La được đức Phật hứa khả, hướng về Phật đảnh lễ cảm tạ xong, bèn hiện thần thông bay lên hư không mà đi, và đêm đó bà ở trong phòng, nhập định vào Niết bàn.

Căn cứ vào sử ký nhập diệt của Da Du Đà La thì La Hầu La đã nhập diệt trước cả bà và Đức Phật, và theo đó tínhtuổi của Tôn giả không quá 60 tuổi, đại khái tôn giả chỉ sống trên năm mươi năm là cùng.

Đương nhiên đối với một vị Thánh thì cái chết, dù sớm hay muộn cũng chỉ là chuyện thường. Bỏ sắc thân hư huyễn giả dối này, đem sanh mạng an trụ trong từ trường bất động; chuyện ấy không có gì phải buồn, trái lại đó là một hạnh phúc.

La Hầu La vào năm 20 tuổi đã chứng quả, cái mục đích tối hậu của đời người đã đạt được, thì khi nhập diệt nhất định là an nhiên tự tại mà ra đi.


 



[1] “Thập Đại Đệ Tử Chuyện” ghi lại năm Thái Tử 19 tuổi khi Da Du Đà La sanh La Hầu La được 7 ngày thì Thái Tử rời hoàng cung vào ngày mùng 8 tháng 2 đi xuất gia.

[2] Người viết lịch sử này có ghi rõ ngày, năm, tháng, không biết có đúng thật sử không? Ở đây chúng tôi chỉ ghi lại theo bản dịch của Sư Cô Như Đức, xin các bạn cảm thông, vì đây không phải là những trang sử nói về La Hầu La mà là những trang kinh nói về giới luật của Thầy Sa Di, nhưng theo ngày tháng này được hệ phái Bắc Tông chấp nhận

[3]Câu này chúng tôi xin sửa lại cho đúng ý nghĩa trong kinh Nguyên Thủy. Xuất gia lúc 10 tuổi La Hầu La đã tỏ ra là một người có chí tu hành cầu giải thoát, nên được Phật và thầy Bổn Sư Xá Lợi Phất tận tình dạy dỗ tu tập từ khi bước chân vào Tăng đoàn. Những bài kinh Giáo Giới La Hầu La đã xác định được sự tu tập của La Hầu La thì làm gì khi bị đánh lỗ đầu chảy máu mà đến nỗi căm tức. Trong kinh này người ghi lại tiểu sử không trung thật. Xin các bạn đừng vội tin theo người viết bản sử này.

GIỚI THIỆU BỘ GIỚI HÀNH SA DI

Bộ Giới Hành Sa Di này tôi dựa vào ba bài kinh sau đây:

1- Giáo Giới La Hầu La ở rừng Am Bà La.

2- Tiểu Giáo Giới La Hầu La.

3- Đại Giáo Giới La Hầu La.

Nhờ ba bài kinh này chúng tôi biên soạn thành bộ giới. Đây là một bộ Giới hành hết sức quan trọng cho người mới vào tu tập theo Phật giáo.

Theo tôi nhận xét những lời đức Phật dạy La Hầu La trong ba bài kinh này có giá trị rất lớn cho sự tu tập của mọi người từ sơ cơ đến chứng đạo, nên tôi quyết tâm soạn thảo thành phần 2 của bộ Văn Hóa Truyền Thống Đạo Đức Việt Nam, cho trọn vẹn đầy đủ: Giới Cấm, Giới Đức, Giới Hạnh và Giới Hành.

Dựa theo đoạn sử trên, La Hầu La là đứa con trai duy nhất của đức Phật, cũng là người Sa Di đầu tiên trong đạo Phật, vì vậy những điều đức Phật dạy cho La Hầu La rất căn bản và quan trọng đối với những người mới bước chân vào đạo Phật. Do nhận xét kỹ ba bài kinh này tôi thấy rằng: những giới luật này mới chính là giới luật của đạo Phật, nó rất căn bản trong sự tu hành theo Phật giáo của bao nhiêu thế hệ sau này, nhất là dạy tu hành cho những thế hệ trẻ.

Theo kinh nghiệm tu hành của tôi thì những lời giáo giới này là nền tảng vững chắc của đạo Phật, nó được lưu giữ để lại cho bao nhiêu thế hệ người sau. Những người sau muốn chấm dứt sanh tử luân hồi đều phải nương theo những lời giáo giới này để tu tập thì mới có thể chứng quả A La Hán giải thoát hoàn toàn.

Nếu ai chịu khó nghiên cứu kỹ về Phật giáo, đều phải công nhận rằng: Phật giáo lấy thiện pháp làm gốc; nhờ thiện pháp mà ta nhận ra được ác pháp; nhờ thiện pháp mà tìm được sự giải thoát: sanh, già, bệnh, chết; nhờ thiện pháp mà chứng được đạo quả A La Hán; nhờ thiện pháp mà có đủ Tam Minh, Lục Thông; nhờ thiện pháp mà tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; nhờ thiện pháp mà có một đời sống cao thượng không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh; nhờ thiện pháp mà nhập được bốn thiền làm chủ được sự sống chết, tự tại trong sinh tử; nhờ thiện pháp mới thực hiện được cảnh giới an lạc Niết bàn.

Nhưng thiện pháp thì có vô lượng, vô biên, làm sao chúng ta biết hết được? Đúng vậy, do thiện pháp có vô lượng vô biên, nên đức Phật lần lượt vạch ra cho chúng ta thấy những thiện pháp gốc. Những thiện pháp gốc này đều nằm trong tạng kinh Nikaya; những bài kinh ấy được gọi giới kinh, như kinh Phạm Võng, kinh Sa Môn Quả và những bài kinh giáo giới khác cho các vị Tỳ Kheo trong thời bấy giờ. Dựa theo những bộ giới kinh mà các Tổ biên soạn thành bộ giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa, nhưng lại gán cho Phật chế giới luật. Giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa gồm có:

- 348 giới Tỳ Kheo Ni.

- 250 Tỳ Kheo Tăng.

- 10 Giới Sa Di.

- 10 Thiện Pháp tiêu chuẩn của cõi Trời.

- 5 giới cấm tiêu chuẩn của loài Người.

Bảng liệt kê giới bổn trên đây chúng ta nhận xét giới cấm quá nhiều lại còn thêm giới kinh cũng không phải là ít. Do đó, tu sĩ hay cư sĩ không có giới hành tu tập thì không còn cách nào không vi phạm giới luật. Phải không các bạn?

Vì thế, bộ Giới hành cần phải được biên soạn và cho ra đời càng sớm càng tốt để giúp cho Phật giáo chấn chỉnh lại những điều tu sĩ vi phạm giới luật và những chỗ sai lệch do ảnh hưởng tưởng giải của các Tổ, của tà giáo ngoại đạo và của những phong tục mê tín lạc hậu của dân gian.

Muốn hoàn thành bộ Giới Luật này xin các bậc tôn túc đức cao, trí rộng góp ý cùng với tôi để làm thành bộ Giới Luật có giá trị thiết thực, cụ thể, chỉ rõ đạo đức làm người, làm Thánh và con đường tu tập đạt được kết quả tốt đẹp xứng đáng là những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư sĩ.

 

Kính ghi,

Tu Viện Chơn Như.

GIỚI HÀNH THỨ NHẤT: NÓI LỜI KHÔNG THÀNH THẬT

Muốn đạt được một đời sống giới luật nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu, tu tập và sống đúng giới đức, giới hạnh và giới hành. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành là gì?

Giới đức là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh mạng.

Giới hạnh là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua những hành động sống như: đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh ấy được gọi là Chánh nghiệp.

Giới hành là những lời dạy cách thức tu tập đạo đức và oai nghi chánh hạnh của một tu sĩ Phật giáo trọn đầy đức hạnh làm người, làm Thánh không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, tức là Chánh nghiệp.

Như trong bài kinh Giáo Giới La Hầu La ở rừng Am Bà La, bài kinh này chỉ có một giới cấm duy nhất là “Vọng Ngữ”. Không vọng ngữ là một giới luật quan trọng nhất trong các giới khác, giới này thuộc về giới trọng (Ba La Di). Ai tu theo Phật giáo mà vi phạm giới này thì được xem như người tử tội. Cho nên một giới này vi phạm thì tất cả các giới khác đều vi phạm. Do đó Đức Phật đã xác định: “Này La Hầu La, đối với ai biết mà nói láo không có tàm quý, thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác gì mà không làm. Do vậy này La Hầu La, Ta quyết không nói láo, dầu nói để mà chơi”.

Nói láo là một giới luật quan trọng nhất trong các giới luật khác của đạo Phật như trên đã nói. Giới cấm nói láo không riêng cho những người tuổi trẻ mà ngay cả những người lớn tuổi; không riêng cho tín đồ Phật giáo mà ngay cả cho tất cả mọi người cũng phải giữ gìn nghiêm chỉnh. Nếu tu theo Phật giáo mà còn nói láo thì không bao giờ tu tập đi đến giải thoát được, dù nói láo để mà chơi. Trong Giới Bổn người tu sĩ nào nói láo là phạm vào giới đứt đầu, có nghĩa là một tu sĩ Phật giáo còn nói láo thì không thành là một tu sĩ nữa. Xin các bạn đọc lại Giới Bổn Ba La Đề Mộc Xoa, giới thứ tư Giới Thánh Đức Thành Thật thì các bạn sẽ rõ. Ở đây, tôi xin giải thích sơ lược về giới luật này. Vậy nói láo nghĩa là gì?

Nói láo là nói không thành thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có; những người nhiều chuyện lắm mồm thường hay nói láo, chuyện ít xít ra nhiều, đặt điều nói xấu người khác. Đó là những người nói láo. Người nói láo không biết xấu hổ thì không có việc ác nào mà họ không làm được, như lời Phật xác quyết trên đây. Trong cuộc sống chung đụng với mọi người, sự chung đụng ấy đã dạy cho chúng ta biết điều này rất rõ ràng: “Những người nói láo là những người không tốt, hãy dè dặt cẩn thận khi gặphọ hoặc nên tìm cách tránh xa, không nên làm thân với những người này”.

Ở đời, người ta xem thường vấn đề nói láo, nên mọi người không ai tránh khỏi, dù nói láo không làm hại ai, nói láo chơi; nhưng đối với những người tu theo Phật giáo không nên nói láo.

Có người nói láo quá lộ liễu, khi nói xong người ta phát hiện ra liền, nhưng lại có người nói láo rất khéo léo khiến cho mọi người khác không thể phát hiện ngay liền được. Nhưng nói láo với ai thì được, chứ không thể nói láo với chính mình. Vì vậy người nói láo không biết xấu hổ thì luôn luôn sẽ nói láo và khi nói láo được thì họ sẽ làm bất cứ việc ác nào họ cũng không từ chối. Vì thế, ta nên tránh xa những hạng người này. Họ là những người nguy hiểm các bạn ạ!

Trong cuộc đời này người nào nói láo sớm muộn gì người ta cũng phát hiện ra được. Khi bị phát hiện ra thì uy tín của người ấy không còn nữa. Cho nên Giới Kinh và Giới Bổn đều dạy người Sa Di (người mới vào tu tập) không được nói láo. Người nào nói láo sẽ không được chấp nhận cho vào tu tập tại tu viện.

Muốn biết sự quan trọng của sự nói láo như thế nào, xin các bạn vui lòng đọc lại bản giới kinh mà đức Phật đã dạy La Hầu La:

“Vào một buổi chiều sau khi xả thiền đức Phật đi đến khu rừng Am Bà La chỗ La Hầu La đang cư trú.

Tôn giả La Hầu La thấy Thế Tôn từ xa đi đến liền sửa soạn chỗ ngồi và nước rửa chân, Thế Tôn rửa chân và ngồi xuống chỗ đã soạn sẵn, Tôn giả La Lầu La đảnh lễ và ngồi xuống một bên Thế Tôn.

Khi rửa chân Thế Tôn để lại một ít nước trong chậu và bảo La Hầu La:

- Con có thấy một ít nước rửa chân còn lại trong chậu không?

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!

- Này La Hầu La, Sa môn hạnh là không được nói láo, người nào biết mà nói láo không có tàm quý thì chẳng khác nào như một ít nước rửa chân còn lại trong chậu. Như vậy này La Hầu La nước ấy còn dùng để uống được không?

- Thưa không, bạch Thế Tôn”.

Đọc đoạn kinh trên chúng ta nhận xét thấy rất rõ ràng: người nào nói láo, nói không thật là người không còn dùng được nữa. Đó là cuộc sống thường tục mà còn không dùng được những người như vậy thì trong đạo những người này không bao giờ tu chứng quả giải thoát được. Tại sao vậy?

Vì đức Phật đã xác định người nào nói láo mà không biết xấu hổ là người ấy sẽ làm tất cả các ác pháp. Như các bạn đã biết đạo Phật chủ trương lấy thiện pháp làm nền tảng giải thoát cho đường tu tập của mình. Vì thế, một người nói láo mà không biết xấu hổ thì sẽ làm tất cả các ác pháp khác. Do thế khi phát hiện một người nói láo trong đạo là người ác, người ấy sẽ không bao giờ tu hành đi đến giải thoát được.

“Sau khi đổ đi nước rửa chân còn lại trong chậu đức Phật dạy:

- Này La Hầu La con có thấy nước rửa chân bị đỗ đi không?

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

- Nói láo nên bỏ đi, cũng như nước rửa chân trong chậu không thể dùng vào việc gì được, nó phải đổ bỏ. Hạnh Sa Môn không thể chấp nhận người tu sĩ nói láo, nói láo mà không biết xấu hổ, không biết bỏ đi, nói láo là làm hại mình, hại người cũng giống như nước rửa chân dơ bẩn mà không đổ bỏ, để cũng chẳng ích lợi gì”.

Lấy một giới vọng ngữ tượng trưng cho mười giới đức Thánh Sa Di. Một giới vi phạm thì 10 giới kia đều vi phạm. Dựa theo bài kinh này mà xác định thì tu sĩ Phật giáo hiện giờ, trong mười giới đức Thánh Sa Di họ đều không giữ trọn vẹn.

Ví dụ: Chúng ta chỉ phát hiện ông sư A phạm giới nói vọng ngữ, chỉ vọng ngữ nói chơi thì phải biết rằng: Một giới vọng ngữ tuy nói chơi vẫn vi phạm, mà đã vi phạm thì chín giới kia đều vi phạm cả. Giới vọng ngữ thuộc về giới đứt đầu (Ba La Di) cho nên các Tổ sợ đứt đầu, nên khéo lý luận để che đậy khi mình vi phạm giới này cho nhẹ bớt tội nên bảo rằng: “Kẻ nào tu hành chưa chứng Thánh quả mà nói mình chứng Thánh quả là kẻ đại vọng ngữ thuộc về tội Ba La Di, còn nói dối chơi thì tội nhẹ”. Theo lời Phật dạy dù nói vọng ngữ chơi cũng phạm vào tội Ba La Di.

Như trong kinh Giáo Giới La Hầu La đã xác định rõ ràng: “Kẻ nào nói láo mà không biết xấu hổ là sẽ làm bất cứ những điều ác khác. Do vậy này La Hầu La, Ta quyết không nói láo, dầu nói để mà chơi”.

Ví dụ: ông sư B phạm giới ăn phi thời thì nên biết rằng: “Chín giới kia ông cũng đều vi phạm hết”. Tại sao vậy?

Tuy rằng chúng ta không thấy không bắt gặp, nhưng trong ý thức của ông đều vi phạm cả, chính ông là người biết mình hơn ai hết. Che dấu ai chứ không thể che dấu mình được. Phải không các bạn?

Đức Phật đã xác định những điều này, xin lặp lại: “Cũng vậy, này La Hầu La, đối với ai biết mà nói láo, không có xấu hổ thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác gì mà không làm”.Ý của câu này nếu ai hiểu biết giới luật mà còn vi phạm, lại không biết xấu hổ thời người ấy sẽ phạm tất cả giới, đó là người không tốt, người xấu, cần tránh xa.

Do thế, chúng ta xét thấy tu sĩ Phật giáo thời nay không có giới luật nào mà không vi phạm.

Qua những lời dạy trên đây của đức Phật rất thấm thía. Người phạm giới giống như nước rửa chân; nước rửa chân còn dùng vào được những gì, phải không các bạn? Chỉ còn đổ bỏ đi mà thôi.

Trong Phật giáo Nguyên Thủy không chấp nhận những tu sĩ phạm giới, chỉ có Phật giáo phát triển Đại thừa mới dung chứa những tu sĩ này.

Đối với Phật giáo, những tu sĩ phạm giới thường làm hại Phật giáo, làm cho Phật giáo suy đồi, làm cho Phật giáo mất gốc, làm cho Phật giáo trở thành tôn giáo mê tín, làm cho Phật giáo trở thành tôn giáo lừa đảo dối gạt người để ngồi mát ăn bát vàng, làm cho Phật giáo trở thành một môn học triết học luận lý suông, làm cho Phật giáo trở thành một loại thiền định tưởng, làm cho Phật giáo trở thành một thế giới ảo tưởng, làm cho Phật giáo trở thành một nghề nghiệp nuôi sống những người lười biếng lao động.

Đức của giới này là Đức Thành Thật, nếu ở đời ai cũng thành thật đối xử với nhau trong cuộc sống này thì gia đình hạnh phúc biết bao, xã hội thì có trật tự an ninh, đất nước thì phồn vinh thịnh trị.

Hạnh của giới này là trực hạnh. Nếu mọi người ai cũng thẳng thắn sống đúng trực hạnh sai nói sai, đúng nói đúng, không nịnh bợ a dua, không thêm bớt nói xấu người khác thì cuộc đời này là Thiên đàng, Cực Lạc.

 Hành của giới này là chánh ngữ. Trước khi muốn nói ra điều gì phải tư duy suy nghĩ chín chắn rồi mới nói; nói ra không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai; nói ra lời nói êm dịu, ôn tồn, nhã nhặn, từ tốn, thanh lịch, dịu dàng, v.v..

Tóm lại, giới luật là pháp môn có đầy đủ đức, hạnh, hành, khiến cho những ai chấp nhận nó, lấy nó làm khuôn vàng thước ngọc, lấy nó làm chỗ nương tựa vững chắc, lấy nó làm ngọn đuốc soi đường, lấy nó làm Thầy của mình thì chắc chắn người ấy sẽ đi đến bờ giải thoát hoàn toàn an ổn.

GIỚI HÀNH THỨ HAI: GIỚI THÂN HÀNH NGHIỆP

Muốn đạt được một đời sống giới luật nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành là gì?

Giới đức là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh mạng.

Giới hạnh là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua những hành động sống như: đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh ấy được gọi là Chánh nghiệp.

Giới hành THÂN HÀNH NGHIỆPlà những phương pháp dùng để tu tập, rèn luyện thân tâm trở thành một thói quen tốt. Có thói quen tốt tức là có những hành động sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Muốn sống có đạo đức như vậy thì chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La giới hành:

“Này La Hầu La, con nghĩ thế nào? Mục đích của cái gương là gì?

- Bạch Thế Tôn mục đích của cái gương là để soi, để phản tỉnh lại mình.

- Cũng vậy, này La Hầu La, con phản tỉnh hay soi lại nhiều lần nơi thân hành nghiệp, khẩu hành nghiệp, ý hành nghiệp của con.

- Khi soi vào thân hành nghiệp và con muốn cho thân hành nghiệp của con phải làm gì, thì con phải soi lại thân hành nghiệp như sau: “Thân hành nghiệp này của con có thể đưa đến tự hại; có thể đưa đến hại người; có thể đưa đến hại cả hai; thân hành nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ’’.

Này La Hầu La, khi con nghĩ như vậy, nhất định con không nên làm, nhất định con từ bỏ, nhất định con cần phải thưa lên, cần phải tỏ lộ trình bày trước các vị đạo sư hay trước các vị đồng Phạm hạnh. Sau khi đã tỏ lộ trình bày cần phải phòng hộ trong tương lai.

- Còn ngược lại khi con soi lại thấy thân hành nghiệp này của con không có thể đưa đến tự hại, không có thể đưa đến hại người, không có thể đưa đến hại cả hai, thì thân nghiệp này thiện, đưa đến an lạc. Một thân nghiệp như vậy, này La Hầu La, con nên làm, cần phải tiếp tục làm. Do vậy, này La Hầu La, con phải an trú trong niềm hoan hỷ, tự mình tiếp tục học ngày đêm trong các thiện pháp”.

Đọc đoạn kinh trên đây, nếu là người quyết tâm tu hành theo Phật giáo để tìm cầu sự giải thoát, thì người ấy thấy ngay liền sự giải thoát trong giới hành thứ hai này. Trong giới hành này muốn tu tập thì phải dùng Chánh tư duy trong mỗi hành động về thân hành của mình. Khi biết thân hành nào làm khổ mình hoặc làm khổ người hoặc làm khổ chúng sanh thì nhất định không làm theo thân hành đó, còn thân hành nào không làm khổ mình hoặc không làm khổ người thì nhất định làm, dù thân hành đó có khó khăn đến đâu, có gian nan cực khổ như thế nào chúng ta cũng quyết tâm làm cho bằng được như đức Phật thường dạy: “Đừng bỏ gánh nặng thiện pháp”.

Ví dụ 1: Dùng gậy, dao, giáo, mác để đánh hoặc đâm, giết người và tất cả loài vật khác thì nhất định không làm những hành động đó, thà chết chứ không để có những hành động quá ác độc ấy. Đây là giới hành thân hành nghiệp thực hiện đạo đức cao thượng mà các bạn cần phải ghi nhớ. Đó là những hành động thân hành nghiệp thiện mà ai cũng có thể làm được. Phải không các bạn?

Ví dụ 2: Hành động thân hành nghiệp của bạn là bạn đang cầm ly rượu uống hoặc hành động dâm dục (thủ dâm, tưởng dâm, giao hợp với người khác phái trong chiêm bao...), hành động tức giận, hành động tị hiềm, hành động hại người và loài vật, hành động lười biếng, hành động tham ăn, tham ngủ, hành động nói chuyện xấu người, v.v.. Nếu một người có quyết tâm tu hành thì tất cả những hành động này thà chết chứ không bao giờ làm những hành động độc ác này.

Trên đây là những giới hành có hành động đạo đức cao thượng không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh. Vậy các bạn cần phải ghi nhớ để trau dồi hằng ngày, để mỗi hành động thân nghiệp của bạn mỗi ngày cho được tốt đẹp hơn.

Nhờ có chánh tư duy tu tập giới hành như vậy thì giới cấm mới được giữ gìn nghiêm chỉnh không hề vi phạm.

Từ lâu các bạn đến với Phật giáo, nhưng các bạn chưa từng học và hiểu về giới hành. Có phải vậy không các bạn?

Hôm nay nhờ học bài kinh Giáo Giới La Hầu La ở rừng Am Bà La thì các bạn mới hiểu biết và thông suốt về giới hành, biết rõ giới hành là phương pháp tu tập rèn luyện để ngăn ác diệt ác pháp, để ly dục ly ác pháp, để thành tựu những hành động đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Giới hành là những hành động sống hằng ngày của các bạn; giới hành sẽ đem lại sự an vui hạnh phúc cho các bạn; giới hành là những hành động sống của những bậc Thánh mà trong giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa đã dạy. Đó là Mười Giới Đức Thánh Sa Di đã ghi chép rõ ràng. Xin các bạn vui lòng đọc lại để thấy mình có sống đúng mười giới luật này hay chưa? Nếu chưa sống đúng 10 giới luật này thì các bạn hãy đem giới hành ra áp dụng vào đời sống hằng ngày của mình thì giới bổn ấy các bạn sẽ không hề vi phạm những lỗi lầm, dù là những lỗi nhỏ nhặt nhất.

GIỚI HÀNH THỨ BA: GIỚI KHẨU HÀNH NGHIỆP

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống giới luật KHẨU HÀNH NGHIỆPnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của giới luật khẩu hành nghiệp là gì?

Giới đức khẩu hành nghiệp là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh ngữ nghiệp.

Giới hạnh khẩu hành nghiệp là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua những khẩu hành nghiệp như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.., Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh khẩu nghiệp.

Giới khẩu hành nghiệp là giới hành về lời nói. Vậy xin các bạn hãy vui lòng lắng nghe lời đức Phật dạy: “Này La Hầu La, khi con muốn nói một lời nói gì thì hãy suy nghĩ lời ấy như sau: lời nói này của ta, có thể đưa đến làm khổ ta, có thể đưa đến làm khổ người khác, có thể đưa đến làm khổ cả hai. Lời nói này bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ. Một lời nói như vậy này La Hầu La nhất định chớ có nói con ạ!”.

Trong giới hành này đức Phật dạy rất cụ thể về lời nói, khi muốn nói một điều gì thì phải có sự tư duy rất kỹ lời nói ấy. Ai cũng biết khi nói ra lời nói sai, ác, không đúng sự thật thì rất khó lấy lại. Nói ra lời nói phải là lời nói đem lại hạnh phúc và sự an vui cho mình, cho người thì mới nói, còn nói ra làm khổ mình, khổ người thì không nên nói. Người xưa nói:“Lời nói không mất tiền mua, lựa ăn lựa nói cho vừa lòng nhau” hoặc “khi nói ra phải đánh lưỡi bảy lần”. Nếu chúng ta thực hành đúng như lời dạy này thì trên thế gian là Thiên Đàng, Cực Lạc.

Thưa các bạn! Tu hành là một danh từ nói theo tôn giáo, chứ danh từ tu hành là những hành động suy tư, nghiền ngẫm cẩn thận trước khi làm một điều gì, nói một điều gì hay suy nghĩ một điều gì để những điều đó không làm hại mình, hại người và hại cả hai. Cho nên danh từ tu hành theo Phật giáo ở giai đoạn mới bắt đầu thì chúng ta thấy đức Phật không có dạy cho La Hầu La cúng bái, tụng kinh, niệm chú, niệm Phật, cầu nguyện, v.v.., mà dạy sự tư duy suy nghĩ trước khi muốn làm, muốn nói, muốn suy tư một việc gì đều phải là thiện. Nhờ cẩn thận tư duy kỹ lưỡng từng hành động, lời nói và sự suy nghĩ của mình đều hoàn toàn thiện thì mới mong mang đến cho mình, cho người những sự an vui hạnh phúc. Phải không các bạn?

Vậy mà thời nay, khi chúng ta mới bước chân vào chùa là dạy tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, gõ chuông, đánh mõ, đánh trống, đánh đẩu; tụng kinh thì ê, a giọng cao giọng thấp như đào kép hát... như ca nhạc.

Có một số tu sĩ ham danh chạy theo học hành để đạt những cấp bằng Cử nhân, Tiến sĩ...

Nhưng thưa các bạn! Xét lại bài kinh trên chúng ta thấy rất rõ Phật dạy tu để giải thoát ra khỏi sự khổ đau của kiếp làm người, còn các Tổ thì dạy cho chúng ta có một cái nghề để sống kiếm ăn bằng cách lừa đảo dối gạt người. Có đúng không các bạn?

Các vị Giảng sư chỉ học có cấp bằng để nói láo, chứ có tu hành gì đâu?

Còn dạy tụng kinh niệm chú là để hành nghề Thầy cúng mê tín lạc hậu... chứ có tu hành gì đâu? Nói như vậy có đúng không các bạn?

GIỚI HÀNH THỨ TƯ: GIỚI Ý HÀNH NGHIỆP

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống giới luật Ý HÀNH NGHIỆP nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của giới luật ý hành nghiệp là gì?

Giới đức ý hành nghiệp là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh tư duy.

Giới hạnh ý hành nghiệp là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua ý hành nghiệp như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.., những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh ý nghiệp.

Trong sự tư duy, quán xét ý nghiệp, khẩu nghiệp, thân nghiệp như đức Phật đã dạy cho La Hầu La như sau: “Ý nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai, ý nghiệp này bất thiện, đưa đến đau khổ, đưa đến quả báo đau khổ. Này La Hầu La, một ý nghiệp như vậy nhất định con chớ có làm. Còn ngược lại, ý nghiệp nào không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai. Sau khi tư duy quán xét nhiều lần biết rõ ý nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc. Do vậy, này La Hầu La, con nên làm và an trú trong niềm hoan hỷ tự mình tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp”.

Kính thưa các bạn thân mến! Trên đây về giới cấm, giới đức, giới hạnh và giới hành trong bài kinh này đức Phật dạy rất rõ ràng. Chúng tôi xin nhắc lại đoạn kinh trên: “Chớ có nói láo, nếu giới nói láo này vi phạm thì không có giới nào là không vi phạm (một giới nói láo vi phạm thì 10 giới Sa Di đều vi phạm cả)”.

“Cũng vậy này La Hầu La đối với ai biết mà nói láo không có xấu hổ, thời Ta nói rằng người ấy không có một việc ác gì mà không làm”.

(Bài kinh giáo giới La Hầu La

          ở rừng Am Bà La)

Cũng trong bài kinh này đức Phật dạy về giới đức. Một người nói láo như nước rửa chân không thể dùng uống được phải đổ bỏ đi. Đúng vậy, nói láo là người không có đức thành thật; người không có đức thành thật thì chẳng khác nào như nước dơ bẩn không thể dùng được. Chỗ này đức Phật đã xác định qua hành động đổ bỏ nước rửa chân cho La Hầu La thấy:

“- Này La Hầu La, con có thấy một chút ít nước rửa chân còn trong chậu bị đổ đi không?

- Thưa vâng bạch Thế Tôn.

- Cũng vậy này La Hầu La là đức hạnh của người Sa Môn biết mà nói láo, không có xấu hổ thì người ấy không có đức hạnh của người Sa Môn, cũng giống như nước rửa chân kia phải đổ đi không dùng được”.

Trên đời này người nào không thành thật là người hay nói láo; người hay nói láo là người ác, người xấu. Chúng ta nên lánh xa, không nên gần gũi với những người ấy, theo như lời đức Phật đã dạy: “Người nói láo không biết xấu hổ, thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác gì mà không làm”.

Đó là lời khẳng định của đức Phật. Cho nên khi phát hiện ra người nói láo, thì biết rằng người đó, dù đối với cha mẹ, thầy bạn của họ, họ vẫn đặt điều nói láo, nói xấu như thường. Bằng chứng trong tu viện có một số người về đây tu tập, khi phạm giới, phá giới, sống không đúng oai nghi tế hạnh của người người tu sĩ, ôm pháp tu hành không nổi, buông bỏ gánh nặng của thiện pháp. Ngay khi còn ở trong tu viện vẫn đặt điều nói xấu Thầy nói xấu bạn, nhưng khi những người này rời khỏi tu viện thường đặt điều nói xấu tu viện hơn, nói xấu Thầy, nói xấu bạn, nói xấu người làm ơn giúp họ. Họ cứ tưởng rằng mọi người sẽ nghe theo những lời nói xấu của họ đó sao? Bởi đức Phật đã dạy: “Kẻ nói láo, nói xấu người khác là kẻ ác, kẻ không tốt, là người xấu”.

Khi một người nói xấu người khác là người vô đạo đức làm người, họ giống như người tung bụi ngược gió, bụi sẽ dính vào họ. Một người đặt điều nói xấu người khác là người không tốt, thiếu đức thành thật, là người nói láo. Cho nên những học trò phạm giới, phá giới luật ở đây tuy không bị hình phạt đuổi, nhưng được xem là bị đuổi. Vì thế, khi đi khỏi nơi đây đều có nói láo về tu viện như thế này hoặc như thế khác. Nhưng mọi người không bao giờ vội tin đâu các bạn ạ! Có dịp họ sẽ đến và tìm hiểu về tu viện nhiều hơn. Khi người ta muốn tìm hiểu về tu viện nhiều hơn thì sẽ rõ được sự nói láo, không thành thật của những người học trò vong ân bất nghĩa ấy.

Cho nên đức Phật dạy: “Một người nói láo thì không có việc gì ác mà không làm”.Một giới không vọng ngữ trong giới kinh nhiếp phục gồm đủ 10 giới trong giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa. Cho nên một giới trong giới kinh gồm đủ bốn công dụng:

1- Giới cấm là những điều ngăn cấm không cho vi phạm dù là những lỗi nhỏ nhặt.

2- Giới đức là tính chất đạo đức trong những hành động thể hiện tư cách sống qua ba chỗ: thân, miệng, ý.

3- Giới hạnh là những oai nghi tế hạnh được thực hiện qua thân hành, khẩu hành, ý hành.

4- Giới hành là những phương pháp thực hiện tu tập để tâm ly dục ly ác pháp; để tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; để tâm không vi phạm những lỗi lầm nhỏ nhặt.

Giới cấm nghĩa là gì?

Đối với Phật giáo, giới cấm là tự tâm mình nhất quyết không làm những điều ác, tự mình ngăn cấm mình, chứ không phải giới cấm do Phật chế ra để ngăn cấm những đệ tử của mình làm sai. Bởi vì đệ tử của Phật đều là những người tự nguyện, tự giác sống đời sống Phạm hạnh theo Phật tu hành để cầu giải thoát, vì thế không bao giờ họ phạm giới, chứ không có giới luật nào bắt buộc họ cả. Cho nên giới cấm của các Tổ biên soạn ra như vậy là sai. Điều sai rất lớn trong giới luật cấm của Phật giáo ngày nay: giới cấm là giới cấm, tu sĩ là tu sĩ, giới cấm chỉ học để biết chơi, còn tu sĩ Phật giáo thì vẫn phạm giới như thường, xem giới luật như không có.

Giới cũng là một pháp môn tu tập, nên nó được gọi là giới vô lậu. Vì thế, đức Phật dạy: “Lấy giới luật làm thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc” hoặc “Hãy tự thắp đuốc lên mà đi”. Cho nên, phải tự mình ngăn ngừa mình không cho vi phạm giới luật, tức là không cho mình làm điều ác, chứ không phải giới luật ngăn cấm mình không cho vi phạm điều ác như pháp luật. Vì thế, giới hành dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”. Ngăn ác diệt ác pháp tứclà không vi phạm giới luật. Cho nên, hằng ngày tu tập ngăn ngừa và diệt ác pháp như vậy thì làm sao vi phạm giới được. Phải không các bạn?

Đối với đạo Phật không có sự áp đặt, ức chế, không có sự bắt buộc, cấm đoán một người nào hết, mà phải tự giác tu tập cho mình, phải tự giác sửa mình, răn mình không nên làm điều ác, không nên vi phạm phải những lỗi lầm dù là những lỗi lầm nhỏ nhặt. Vì sự tu tập này đem lại lợi ích cho chính bản thân của mình, chứ không phải đem lại lợi ích cho kẻ khác. Cho nên, giới luật chế ra cấm đoán tu sĩ là không đúng với tinh thần tự giác của đạo Phật.

Một người ngoại đạo đến xin Phật tu hành theo Phạm hạnh của Phật thì Đức Phật cho họ sống trong chúng bốn tháng. Nếu vị ngoại đạo này thấy mình tự giác thích nghi sống được đời sống Phạm hạnh thì đức Phật và chúng Tăng chấp nhận cho họ xuất gia thành Tỳ Kheo. Còn nếu thấy tự mình không thể sống đời sống Phạm hạnh được thì xin rời khỏi Tăng đoàn, chứ không có ai bắt buộc mình sống đời sống Phạm hạnh cả. Cho nên, giới luật của Phật là chỉ cho đức hạnh của một vị Sa Môn hay nói cách khác là quả vị của vị Sa Môn. Xin các bạn hãy đọc lại kinh Sa Môn Quả và kinh Phạm Võng trong kinh Trường Bộ tập 1 thì các bạn sẽ rõ và không nghi ngờ lời nói của chúng tôi là thiếu căn cứ kinh sách.

Ở đây, chúng ta nên hiểu giới luật của Phật là một pháp môn tu tập vô lậu, chứ không phải là một pháp luật quốc gia. Cho nên, giới bổn ra đời chúng tôi nghĩ rằng không phải Phật chế mà do sau này các Tổ nhận đệ tử chỉ lấy số đông để tạo thành một lực lượng đông người, ngõ hầu đối phó với những lực lượng của các hệ phái khác, nên không chọn lựa kỹ lưỡng, thu nhận người vào tu bừa bãi, vì thế đời sống của tu sĩ đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo. Thấy nguy cơ trong các Tăng đoàn nên các Tổ chế giới luật cấm tu sĩ, nhưng lại gán cho Phật chế sau 13 năm từ khi đức Phật chứng đạo. Các Tổ còn khéo dựng lên nhóm Lục Quần Tỳ Kheo thường phạm giới, phá giới. Do nhóm Lục Quần Tỳ Kheo mà đức Phật chế giới. Thực sự khi nghiên cứu về kinh Nguyên Thủy, chính bài pháp đầu tiên (Chuyển pháp luân lần đầu tiên dạy năm anh em Kiều Trần Như) là đã dạy giới luật qua chân lý thứ tư là “Đạo Đế” tức là Bát Chánh Đạo.

Thưa các bạn! Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Mạng... không phải là giới luật sao? Giới luật là pháp môn vô lậu. Vậy khi có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Mạng... thì làm sao có lậu hoặc được, làm sao có sát sanh, có trộm cắp, có tà dâm, có vọng ngữ, v.v.., phải không các bạn? Chính do tu sĩ phạm giới nên các Tổ mới chế giới luật ngăn cấm. Do đó, giới bổn ra đời thì tu sĩ Phật giáo càng phạm giới nhiều hơn, là vì có giới luật mới thấy tu sĩ phạm giới rõ ràng, khi chưa có giới luật thì không thấy tu sĩ phạm giới là vì chưa có giới luật nên không căn cứ định tội được. Tu sĩ phạm giới là vì các Tổ nhận đệ tử bừa bãi, họ không tự nguyện, tự giác sống đời sống Phạm hạnh như Phật ngày xưa. Vả lại các Tổ không lưu ý đến Phạm hạnh và cũng không biết giới hành của đạo Phật là gì.

Xét trong tam tạng kinh điển của Phật giáo được kiết tập từ Hán Tạng phát triển của Bắc Tông đến Tạng kinh Nguyên Thủy Pali của Nam Tông vẫn không tìm thấy các bộ “Giới Đức, Giới Hạnh, Giới Hành”, chỉ tìm thấy trong những bài kinh do Phật thuyết có đủ “Giới Đức, Giới Hạnh, Giới Hành”, mà không có giới cấm. Như vậy rõ ràng giới cấm là do các Tổ chế ra, còn Phật thì dạy: “Giới Đức, Giới Hạnh, Giới Hành”.

Cho nên đọc kinh sách Phật mà không xét thấu đáo thì chẳng hiểu đạo Phật là đạo tự giác, tự nguyện. Vì thế khi mọi người vào đạo Phật đều phải tự nguyện sống đời sống Phạm hạnh để mong cầu được sự giải thoát, chứ không có ai bắt buộc họ. Cho nên giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa sau 13 năm do chúng Tỳ Kheo phạm giới mà đức Phật chế ra để răn cấm chúng Tỳ Kheo; đó là các Tổ tự đặt ra nói như vậy, chứ không phải sự thật là vậy. Trong bộ Đường Về Xứ Phật tôi có nói sau 13 năm đức Phật chế giới bổn là nói theo tạng Giới luật. Dự định của tôi là sau khi biên soạn bộ “Giới Đức, Giới Hạnh, Giới Hành” của Phật thì sẽ chỉnh lại những điều sai trong giới bổn của các Tổ.

Vì thế bộ sách Mười Giới Đức Thánh Sa Di, và bộ Giới Đức Thánh Tỳ Kheo Tăng và Tỳ Kheo Ni này ra đời là một tiếng sét về Giới Luật của Phật giáo, khiến cho những ai tu theo Phật giáo mà không sống đúng Bát Chánh Đạo là những người phi Phạm hạnh, phi Phật giáo; họ là Ma Ba Tuần trong Phật giáo; họ là trùng trong lông Sư Tử. Trong những bộ Giới luật này được phổ biến rộng rãi để cho tín đồ Phật giáo hiểu biết một cách tường tận và phân biệt được đâu là tu sĩ thật, đâu là tu sĩ giả. Nhờ đó tín đồ chân chánh của Phật giáo sẽ tránh xa những người tu danh, tu lợi, tu giả dối, v.v..

Sau khi nghiên cứu lại tất cả các bộ giới thì chúng tôi xét thấy 37 phẩmtrợ đạo của đức Phật là giới kinh.Giới kinh không phải chế ra để ngăn cấm đệ tử của mình. Giới kinh là những kinh nghiệm tu tập của đức Phật khi đạt được cứu cánh giải thoát hoàn toàn. Do lòng thương tưởng đến chúng sanh, nên Ngài mới dạy lại cho con người, để mọi người theo kinh nghiệm đó mà tu tập để được giải thoát làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi như Ngài.

Giới kinh là những bài pháp dạy tu hành như trên đã nói, nó có đầy đủ bốn đức. Cho nên nếu ai bảo rằng giới kinh không phải Phật thuyết thì người đó chẳng hiểu gì về Phật giáo cả.

Bởi vậy, xét cho cùng tận giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa ra đời là do các Tổ biên soạn ra để ngăn cấm một số tu sĩ Phật giáo thời bấy giờ giả danh tu sĩ Phật giáo, mượn đạo tạo đời, biến Phật giáo thành một nghề nghiệp sống, chạy theo danh lợi thế gian, làm điều phi giáo lý Nguyên Thủy, tạo ra nhiều điều mê tín trong Phật giáo, làm trái với chân lý của đạo Phật, khiến cho người đời sau trở thành những tín đồ sống trong ảo tưởng, ngu ngơ, mê tín, lạc hậu, đánh mất đường lối tu hành giải thoát của Phật giáo.

Đạo Phật là đạo tự giác, tự nguyện, chứ không phải đạo a dua, xu hướng chạy theo phong trào thời thế. Đạo Phật là đạo như thật, vì như thật nên người tu hành mới thoát ra khỏi sự đau khổ của kiếp làm người, mới làm chủ bốn chỗ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.

Do đạo Phật lợi ích thiết thực của kiếp làm người như vậy, nên những người theo đạo Phật là những người tự nguyện sống đời sống Phạm hạnh tức là đời sống nghiêm trì giới luật, là để đạt được cứu cánh giải thoát hay nói cách khác là để không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Đó cũng là mục đích để đạt được tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

Đây, chúng ta hãy đọc lại một đoạn kinh nói về một tu sĩ ngoại đạo tu theo hạnh con chó đến gặp Phật xin xuất gia tu hành theo Phạm hạnh của Phật, Phật dạy:

 “- Này Seniya, ai trước kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong pháp và luật này thì phải sống 4 tháng biệt trú. Sau khi sống 4 tháng biệt trú chúng Tăng nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, thọ đại giới để thành vị Tỳ Kheo”.

 Như đoạn kinh trên ai muốn theo Phật giáo tu hành thì phải sống biệt trú bốn tháng theo quy định của đức Phật. Vậy biệt trú nghĩa là gì?

Biệt trú có nghĩa là sống độc cư một mình, sống đúng Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo.

Người sống biệt trú như vậy trong bốn tháng thì mới được Phật và chúng Tăng chấp nhận cho xuất gia làm đệ tử của Phật.

Đọc đoạn kinh trên đây, vậy tất cả các bạn đã từng sống trong tu viện Chơn Như các bạn đã từng chứng kiến biết bao nhiêu người về đây xin tu hành, nhưng có mấy ai sống đúng biệt trú, tức là sống đúng ba đức, ba hạnh: ăn, ngủ, độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng chưa? Chỉ cao lắm là một tuần lễ, cho đến một tháng là họ đã phá hạnh biệt trú (độc cư) đi nói chuyện làm động cả tu viện, và còn ăn ngủ, phi thời. Vì thế, họ không xứng đáng là đệ tử của tu viện Chơn Như.

Từ ngày nào cho đến giờ các bạn cứ nhìn xem mọi người về đây xin tu hành, có người nào sống đúng hạnh độc cư không? Hầu hết đều phá hạnh độc cư. Vì thế làm sao chúng tôi chấp nhận họ là đệ tử của tu viện Chơn Như.

Đức Phật ra điều kiện 4 tháng biệt trú, thì những người quyết tâm tu để cầu giải thoát tự nguyện xin đức Phật sống biệt trú 4 năm. Sống biệt trú bốn năm, chắc chắn các bạn không ai làm được phải không?

Sống biệt trú 4 năm đó là những người tự nguyện sống trong giới luật của Phật giáo ngày xưa; còn bây giờ những người về tu viện Chơn Như tu tập có tự nguyện sống được như vậy không? Điều này thắp đuốc đi tìm một người như vậy, cũng không tìm thấy. Phải không các bạn?

Thời nay tu ăn, tu ngủ, tu nói chuyện, tu danh, tu lợi, tu chùa to, Phật lớn, v.v.. thì không thiếu gì người, còn người tu tập để cầu giải thoát thì không có. Tu viện Chơn Như không mời thỉnh các bạn vào đây tu tập, nhưng các bạn đã tự nguyện vào, vậy cớ sao các bạn không giữ gìn Phạm hạnh. Phạm hạnh ở đây chỉ có ăn ngủ, độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng. Chỉ có bấy nhiêu đó thôi, thế mà các bạn không giữ gìn được huống là Phạm hạnh trong thời đức Phật: ba y một bát, thiểu dục tri túc, tâm hồn phóng khoáng như hư không, trắng bạch như vỏ ốc, thì liệu các bạn có sống được không?

Từ bên Mỹ, bên Pháp, bên Úc... đường xa diệu vợi, hơn nửa trái đất, các bạn về đây tu tập, cớ sao lại không giữ trọn Phạm hạnh, không giữ trọn Phạm hạnh tức là sống không đúng đời sống giới luật thì các bạn tu tập cái gì! Rất uổng công, các bạn ạ!

Các bạn có tin lời nói của tôi không? Nếu tin sao các bạn sống phá giới, phạm giới như vậy? Để rồi các bạn tu hành chẳng ra gì. Các bạn có thấy điều này chăng?

Trong thời đức Phật còn tại thế có dạy rằng: “Một người tu tập theo Phật giáo phải hội đủ năm điều kiện mới có thể tu tập đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn. Vậy năm điều kiện ấy là gì?

1/ Lòng tin.

2/ Ít bệnh.

3/ Không gian trá.

4/ Tinh tấn siêng năng.

5/ Trí tuệ.

Qua năm điều kiện đức Phật đã dạy trên đây, chúng ta nhận xét về các bạn đã và đang tu tập tại tu viện Chơn Như, họ có tu tập, có giữ gìn đúng năm điều kiện này không?

Điều thứ nhất lòng tin:Theo tôi nhận xét các bạn đến tu viện Chơn Như với lòng bán tín bán nghi, tin chưa được trọn vẹn, nhất là đối với tôi, các bạn còn đang dò xét. Điều mà tôi nhận xétvề các bạn rất rõ, đó là tôi dạy tu tập một đường mà các bạn lại tu tập một ngả. Tôi dạy các bạn tu ba đức: nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng; sống ba hạnh: ăn, ngủ và độc cư. Chỉ có ba đức, ba hạnh mà các bạn còn sống và tu tập không nổi như trên đã nói thì các bạn sống và tu tập pháp môn gì cho thành tựu được. Do thiếu lòng tin nơi tôi nên không sống độc cư trọn vẹn, thích tụ tập nói chuyện và thích ăn ngủ phi thời. Điều thứ nhất các bạn đã phạm phải lỗi lầm rất lớn thì con đường tu tập của các bạn đã đánh mất rồi. Khi thấy không đủ lòng tin nơi chúng tôi thì các bạn hãy đi tìm một pháp nào khác thích hợp hơn mà tu tập. Còn ở đây phạm phải những lỗi lầm khiến cho mình tu không được mà người khác cũng tu không được. Con đường tu tập theo Phật giáo lòng tin là đệ nhất pháp. Ai thiếu lòng tin thì sự tu tập chẳng bao giờ có kết quả.

Điều thứ hai tinh tấn siêng năng:Các bạn không siêng năng, ít đi kinh hành. Đó là điều đáng trách. Các bạn cứ nghĩ rằng ngồi khoanh chân kiết già là tu tập sao? Trong khi hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không của các bạn cao ngút tận mây xanh mà các bạn lười biếng không chịu đi kinh hành là một chứng tỏ bạn không thể nào tu theo Phật giáo được. Phật giáo tu tập nhằm đối trị tâm tham, sân, si. Đi kinh hành là pháp đối trị tâm si. Các bạn có hiểu chăng?

Đi hai mươi bước ngồi hít thở năm hơi thở là để đối trị tâm lười biếng si mê của các bạn, thế mà các bạn không tu tập. Không tu tập như vậy thì các bạn làm sao phá tâm si được. Trong tam độc: tham, sân, si, người tu tập rất sợ về tâm si “Chẳng sợ tham, sân chỉ sợ tâm si”, vậy mà các bạn không tu tập thì làm sao đối trị tâm si được. Phải không các bạn?

Điều thứ ba không gian trá:Không gian trá tức là không gian xảo, không nói láo, thường không dối gạt người. Các bạn tu hành là để giải thoát cho các bạn, chứ không phải giải thoát cho tôi, cớ sao các bạn lại dối trá. Tu tập giờ khắc nghiêm chỉnh là không dối người; giờ khắc không nghiêm chỉnh là dối người; người ăn uống ngủ nghỉ phi thời là dối người; người sống phá hạnh độc cư là người dối người; người thích hội họp nói chuyện là người ác khẩu là dối người. Điều tối kỵ của Phật giáo là những người gian xảo dối trá; những người này tu hành không bao giờ tìm ra sự giải thoát. Họ là những người không có đức thành thật; họ giống như nước rửa chân, chẳng dùng được, phải đổ bỏ.

Điều thứ tư trí tuệ:Không trí tuệ tức là thiếu sự nhận xét hiểu biết, thiếu lập trường tức là lập trường không vững, thường bị lôi cuốn vào những kiến giải, tưởng giải của người khác hoặc chạy theo xu hướng, a dua theo phong trào, theo thế lực, theo danh lợi, v.v..

Người thiếu trí tuệ là kẻ ngu si, khôn dỏm, lanh lợi trong xảo trá, không hiểu pháp hành, mà tỏ ra như mình hiểu, nên thường tu tập sai pháp, tu tập không đúng pháp, thành ra bị ức chế tâm rối loạn thần kinh, căng mặt, nhức đầu, gây bao trở ngại cho đường tu tập.

Tu theo Phật giáo mà thiếu trí tuệ là một điều rất khó tu tập. Người thiếu trí tuệ là người không chịu nghe lời dạy của thiện hữu tri thức, thường tu theo kiến giải, tưởng giải của mình, đó là tu theo sự hiểu biết riêng tư, thường cố chấp theo những pháp nào đồng quan điểm. Cho nên những người ngoan cố thường sống trong cái ngu si của mình, không trí tuệ.

Điều thứ năm ít bệnh:Người có thân ít bệnh, tu hành theo Phật giáo rất dễ đạt được kết quả. Người có thân thường mang bệnh tật, tu hành theo Phật giáo rất khó khăn, nhất là người mới vào tu lại có thân bệnh thì càng tu tập khó khăn nhiều hơn. Nếu không may gặp phải pháp môn của kinh sách phát triển thì thân tâm dễ bị bệnh tật nan y (bệnh thần kinh).

Tu theo Phật giáo khi thân bị bệnh tật mà không biết pháp đối trị là một người chưa hiểu Phật pháp. Vì Phật pháp là một phương Thánh dược trị tất cả những bệnh nghiệp của con người. Cho nên, thân có bệnh là có điều kiện để đánh đuổi giặc sanh tử. Nếu một người tu theo Phật giáo mà có được những cơ hội bệnh tật là điều thuận lợi tốt để tu tập. Nhờ đó mà chúng ta mới hiểu được Phật giáo là một pháp môn vi diệu vô cùng, đối trị bốn bệnh khổ: sanh, già, bệnh, chết của chúng sanh.

Phần đông những tu sĩ Phật giáo đều mang đầy ắp trong đầu những sự hiểu biết tưởng giải về kinh sách phát triển, về thiền định tưởng, nhưng đó không phải của Phật giáo, mà của ngoại đạo. Cho nên, khi tu viện đón nhận những tu sĩ này vào, họ thường phá giới hạnh trong tu viện. Một người phạm giới ảnh hướng đến nhiều người khiến cho sự đào tạo những bậc A La Hán ở đây trở nên khó khăn vô cùng. Nếu không chấp nhận họ thì bớt bạn thêm thù, mà chấp nhận họ thì thêm thù bớt bạn và còn làm mất trật tự của tu viện.

Thưa các bạn! Nếu các bạn muốn đến tu viện Chơn Như tu tập thì các bạn phải xét mình có đủ năm điều kiện trên đây mà đức Phật đã dạy trong kinh số 85, lấy tên của một cư sĩ trong thời đức Phật còn tại thế mà đặt tên cho bài kinh này là Bồ Đề Vương Tử (Bodhijakumarasuttam).

Bài kinh ấy giúp cho chúng ta thấy được những cái sai, cái khó để thực hành cho đúng những lời dạy của đức Phật: “Ở đây này Vương Tử một vị Tỳ Kheo có lòng tin tưởng sự giác ngộ của Như Lai, Ngài là Thế Tôn, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

2- Vị ấy ít bệnh, ít não với bộ tiêu hoá được điều hòa, không quá lạnh, không quá nóng, trong trường hợp quá tinh tấn.

3- Vị ấy không gian trá, xảo trá, tự mình xử sự như chơn đối với Bậc Đạo Sư, đối với các vị có trí hay đối với các vị đồng Phạm hạnh.

4- Vị ấy sống tinh cần, tinh tấn từ bỏ các bất thiện pháp, làm cho khởi lên các thiện pháp, kiên cố, kiên trì không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp.

5- Vị ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sự sanh diệt của các pháp, với sự thể nhập bậc Thánh đưa đến sự chân chánh đoạn diệt khổ đau”.

Nếu các bạn xét thấy mình có đủ năm điều kiện này thì các bạn về tu viện tu tập, chúng tôi sẽ hướng dẫn các bạn tu tập không bao lâu sẽ đạt sự giải thoát, làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Còn nếu các bạn giữ gìn năm điều này chưa trọn vẹn mà về tu viện tu tập thì chúng tôi e rằng các bạn chỉ phí cuộc đời, làm mất thời gian vô ích. Còn nếu các bạn có thật sự quyết tâm về tu viện tu tập để thật sự được giải thoát thì các bạn hãy tin nơi tôi, tôi sẽ giúp các bạn vượt qua bệnh tật và sự vô minh của các bạn bằng cách các bạn phải tự khắc phục mình không nói láo, lừa dối Thầy, bạn, phải tự siêng năng, tinh cần khắc phục hôn trầm, thùy miên, phải tự siêng năng tinh cần độc cư, nhiếp phục không đi nói chuyện với người khác. Nhờ có sống siêng năng tinh cần một mình (độc cư) để xả cho thật sạch tâm tham, sân, si. Nếu các bạn có quyết tâm tu tập như vậy thì các bạn hãy về tu viện tu tập, chúng tôi tin rằng các bạn sẽ thành tựu được sự giải thoát trong kiếp này.

GIỚI HÀNH THỨ NĂM: SẮC GIỚI HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống SẮC GIỚI HÀNHnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của sắc giới hành là gì?

Giới đức sắc giới hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người đừng dính mắc vào sắc tướng (sắc giới) tức là Chánh mạng.

Giới hạnh sắc giới hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua sắc tướng (sắc giới) như: đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. nhưng không dính mắc. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh hạnh nghiệp.

Giới hành thứ năm thuộc về Sắc Giới. Chúng tôi xin nhắc lại Giới hành thứ hai. Giới hành thứ ba và Giới hành thứ tư là sự phản tỉnh lại thân hành, khẩu hành, ý hành. Sự phản tỉnh ấy rất lợi ích cho đời sống của các bạn, giúp cho các bạn có một cuộc sống Thánh thiện không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh, biến cuộc sống thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Đường, khiến cho cuộc sống của loài người có một tình thương chan hòa với nhau; không những chan hòa sự sống của loài người mà chan hòa sự sống trong môi trường sống trên hành tinh này.

 Còn Giới hành thứ năm như thế nào? Xin các bạn vui lòng đọc lại bài kinh số 62 “Đại Kinh Giáo Giới La Hầu La” (Maha-Rahulovadasuttam) trong kinh Trung Bộ thuộc tạng kinh Nikaya: “Này La Hầu La, bất cứ sắc pháp nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả sắc pháp ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”.

Xin các bạn nên đọc kỹ lại đoạn kinh trên và suy nghiệm quán xét như thật với chánh trí tuệ của các bạn: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”.

Thưa các bạn, vậy cái này là cái gì? Cái này là thân của bạn, là vợ con, là cha mẹ, là anh chị em, là nhà cửa của cải tài sản, v.v.. của các bạn.

Ở đây đoạn kinh Sắc Giới hành này đã dạy cho chúng ta có cái nhìn thấu suốt qua tất cả các sắc tướng của vạn vật đang hiện có xung quanh ta. Hiện giờ các bạn là những người đang mù mắt không thấy các sắc pháp trên thế gian này là không thật có (duyên hợp), mà lại cho các sắc pháp là thật có. Do thấy như thật có nên các bạn sinh tâm tham đắm và dính mắc sắc pháp. Khi tâm các bạn dính mắc vào các sắc pháp thì các bạn phạm vào giới cấm tham lam. Do tâm tham lam các bạn sinh ra chiếm hữu. Khi tâm chiếm hữu thì các bạn thấy thân này là bạn, là của bạn, là bản ngã của bạn; vợ con là của bạn, cha mẹ anh em chị em là của bạn, nhà cửa tài sản là của bạn, nên khi có ai chạm đến thì bạn sinh ra tức giận thù ghét. Luôn luôn lúc nào cũng ưa thích bảo vệ cái của các bạn. Vì thế các bạn chịu khổ đau vô cùng. Nhưng sự thật các pháp ấy không phải là của các bạn. Các bạn nên dùng với chánh trí tuệ tư duy quán xét thì thật sự các pháp ấy không có gì là của các bạn cả.

Chúng ta hãy quan sát những người nằm trong nghĩa địa, dưới lòng đất kia, thân này có còn gì là thân của ta nữa, chỉ còn là một nấm đất bất tịnh hôi thối, phải không các bạn?

Rồi vợ con, rồi cha mẹ, anh em, rồi của cải tài sản nhà cửa còn có gì là của ta nữa đâu?

Các bạn cứ xét có đúng như lời Phật đã dạy không: “Cái này không phải của ta, là ta, là bản ngã của ta”.

Khi nghe đức Phật dạy đến đây thì chú bé La Hầu La là một người thông minh tuyệt vời nên hỏi Phật:

- “Bạch Thế Tôn, có phải chỉ sắc mà thôi?

Đức Phật trả lời:

- Cả Sắc, thọ, tưởng, hành, thức này La Hầu La”.

Qua những câu hỏi của La Hầu La và lời đối đáp của đức Phật. Chúng ta nhận xét quả thật chú bé La Hầu La là một chú bé thông minh nhất, nên mới có câu hỏi “Bạch Thế Tôn, có phải chỉ có sắc mà thôi”.

Nếu đặt chúng ta vào vị trí của La Hầu La thì chúng ta không thể có câu hỏi như vậy được, vì chúng ta không biết năm uẩn và cũng không thể ngờ được. Có đúng như vậy không các bạn?

Đức Phật nói sắc pháp tức là nói về sắc uẩn, sắc uẩn là phần vật chất, phần có hình sắc, có tướng. Còn bốn uẩn kia là phần không hình sắc, không có tướng. Vậy mà câu hỏi của La Hầu La thật là tuyệt vời, hỏi đúng lúc, hợp thời, câu hỏi ấy mang đầy đủ ý nghĩa về tinh thần của các uẩn có thật nhưng vô hình không sắc tướng.

Ví dụ: Chúng ta đặt lại câu hỏi:

- Bạch Thế Tôn, khi Thế Tôn nói thân này không phải của ta, là ta, là bản ngã của ta thì thọ, tưởng, hành, thức này có phải là của ta không?

Khi được học kinh sách Phật thì ai cũng biết thọ, tưởng, hành, thức là phần không có hình sắc (vô hình) nhưng thật có luôn luôn chúng ta cảm nhận rất cụ thể.

Lời nói của đức Phật dạy La Hầu La là lời nói xác định phần vật chất và những phần tinh thần trong thân phận của con người. Toàn cả thân này không có một thứ gì là của ta cả.

Câu xác định mạnh mẽ thẳng thắn tuyệt vời: thân, thọ, tưởng, hành, thức này không phải của ta, không phải là ta, không phải là bản ngã của ta. Lời tuyên bố này làm quả đất rung động, bởi vì lời tuyên bố đi ngược lại sự hiểu biết của loài người từ xưa đến nay.

Thưa các bạn, nói về sắc uẩn là nói về vạn vật có hình sắc, có vóc dáng, có hình tướng, cho nên chúng ta phải hiểu rộng đừng hiểu hạn hẹp sắc uẩn chỉ nói riêng về bản thân của con người là không đúng. Ở đây phải hiểu tất cả vạn vật có hình sắc đều không phải là ta, không phải là của ta, không phải là bản ngã của ta. Vậy nó là của ai?

Từ xưa đến nay ai cũng nghĩ thân tâm này là của ta, là ta, bản ngã của ta. Thế mà bây giờ Đức Phật lại nói không phải của ta, là ta thì làm đảo lộn cả sự hiểu biết của con người.

Khi đức Phật dạy La Hầu La thì Ngài bảo La Hầu La, phải dùng chánh trí tuệ mà tư duy suy xét. Nhờ chánh trí tuệ tư duy quán xét ta mới thấy như thật, các pháp không có vat gì là ta, là của ta cả.

Cái hiểu biết của con người từ xưa đến nay không phải là cái hiểu biết chánh trí tuệ mà là cái hiểu biết tà trí tuệ; do sự hiểu biết đó khiến cho con người lầm chấp có cái ta, cái của ta, cái bản ngã của ta, nên thường chịu nhiều đau khổ, phiền não, v.v..

Tà trí tuệ tức là tưởng tri, tưởng tri là cái hiểu không đúng như thật. Chính cái hiểu biết không đúng như thật đã đưa con người vào vòng lẩn quẩn của nhân quả nghiệp báo không có lối thoát ra.

Do sự hiểu biết không đúng như thật nên mới chấp thân tâm này là ta, là của ta. Vậy thân tâm này là của ai như đã hỏi ở trên?

Thưa các bạn, thân tâm này là của nghiệp lực nhân quả. Nó là dụng cụ của nhân quả. Cho nên đức Phật nói: “Con người là thừa tự của nhân quả”.

Nghiệp lực nhân quả luôn luôn ở sát bên thân tâm con người như hình với bóng. Thân tâm con người chỉ là dụng cụ của nghiệp lực nhân quả để nó sai bảo.

Nếu một người có trí tuệ thì nhận ra ngay được điều này tức là nhận ra được thân tâm chúng ta là tên nô lệ của nhân quả, nó sai thân tâm này làm gì thì thân tâm phải làm theo.

Ví dụ: Nghiệp nhân quả muốn chúng ta “đi ngủ” là thân tâm làm theo “đi ngủ”; muốn chúng ta đi ăn là thân tâm làm theo “đi ăn”; muốn chúng ta “sân giận” là thân tâm làm theo “sân giận”; muốn chúng ta “phiền não” là thân tâm làm theo “phiền não”;muốn chúng ta bệnh đau là thân tâm làm theo “bệnh đau”,v.v..

Ví dụ 1: nghiệp lực nhân quả sai bảo thân tâm muốn cái nhà, thì thân tâm sanh ra ham muốn cái nhà.

Ví dụ 2: Khi có người chê hay mạ lị mạt sát thì nghiệp lực bảo phải sân giận, căm tức, thù ghét, tức tối thì ngay đó thân tâm làm theo: sân giận, căm tức, thù ghét, tức tối, v.v..

Ví dụ 3: Khi thấy người khác phái thì nghiệp lực sai bảo thân tâm ưa thích người này không ưa thích người kia thì thân tâm cũng làm theo.

Ví dụ 4: Khi thấy tiền vàng ngọc ngà châu báu, nghiệp lực sai bảo thân tâm ưa thích muốn có những vật sang đẹp và tiền bạc nhiều thì thân tâm làm theo.

Như vậy, thân tâm chúng ta là tên nô lệ của nghiệp lực nhân quả, chứ thân tâm có cái gì của ta đâu. Các bạn cứ nhận xét có đúng vậy không?

Thưa các bạn! Do những ví dụ trên đây các bạn đã nhận ra: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, (thân tâm) là của nghiệp lực nhân quả, chứ các bạn chẳng có gì gọi là thân tâm của các bạn cả. Nếu là thân tâm của các bạn thì các bạn phải có quyền với nó, bảo sao nó phải nghe theo vậy. Thân các bạn đau bệnh, các bạn bảo nó đừng có đau bệnh, nó có nghe theo các bạn không? Tâm các bạn giận hờn, các bạn bảo nó đứng giận hờn, nó có nghe theo các bạn không?

Qua những lời dạy trên đây các bạn có hiểu không? Các bạn có biết mình từ lâu đã hiểu lầm lạc không? Lâu nay các bạn nghĩ rằng thân tâm này là của các bạn. Nếu quả thân tâm của các bạn sao các bạn điều khiển nó không được, mà để cho nghiệp điều khiển nó vậy.

Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa, các bạn có bao giờ muốn mình tức giận không? Chắc là không, phải không các bạn? Nhưng thân tâm các bạn có nghe các bạn đâu. Khi có người chửi mắng các bạn thì các bạn tức giận liền. Như vậy thân tâm của các bạn không phải của các bạn. Có đúng như vậy không?

Các bạn có bao giờ muốn thân của các bạn bệnh không? Thế sao nó bệnh các bạn bảo nó không bệnh, nó đâu có nghe các bạn như trên đã nói. Có phải vậy không?

Các bạn có bao giờ muốn thân các bạn chết không? Chắc là không, phải không các bạn? Thế sao khi thân tâm các bạn chết, các bạn bảo nó đừng chết, nó có nghe các bạn không?

Như vậy thân tâm không phải là của các bạn thì vật chất xung quanh các bạn như nhà cửa, tiền bạc, của cải, xe cộ làm sao của các bạn được.

Khi các bạn chết, các bạn có mang theo những vật gì yêu quý nhất của các bạn không. Ngay cả vợ con các bạn, các bạn cũng không mang theo được. Ngày xưa Trang Tử người nước Trung Hoa nói: “Vợ chết trước là vợ mình”. Lời nói này chỉ đúng một phần nhỏ trong thời gian hiện tại mà thôi, chứ thời gian quá khứ và tương lai thì vợ con ta có phải còn là của ta nữa không? Nhà cửa, của cải, tiền bạc ngày nay ta làm ra nó nhưng nó không phải của ta, vì ta có mang theo được vật gì đâu khi ta chết. Phải không các bạn?

Vì thấy như thật, đức Phật đã xác định: “Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không phải là ta, không phải là của ta, không phải là bản ngã của ta”. Khi nghe lời dạy này chú bé La Hầu La tỉnh ngộ ngay liền: thân tâm này và tất cả các pháp trên thế gian không có gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì còn gì mà tham đắm. Nên ngay cả lúc bụng đói đi xin ăn, chú bé La Hầu La đã giác ngộ được điều này nên không còn tha thiết ăn uống nữa mà xin đức Phật trở về thất tu tập.

Đây chúng ta nghe tiếp đoạn kinh kế: “Rồi tôn giả La Hầu La tự nghĩ. Ai có thể hôm nay được Thế Tôn trực tiếp giảng dạy với bài giáo giới này mà còn có thể đi vào làng khất thực?”.

Chú bé La Hầu La tuổi trẻ, bé thơ có sự hiểu biết không thua người lớn và suy nghĩ rất chín chắn. Cái hay nhất của chú là dám nghĩ, dám làm, dù cho người lớn cũng không thể nào sánh kịp. Khi chúng ta đọc đoạn kinh này mới thấy La Hầu La trí tuệ tuyệt vời. Có phải vậy không các bạn?

Cứ thử nghĩ xem và so sánh bạn với La Hầu La thì bạn đâu phải không nghe những lời Phật dạy này. Có thể nói rằng bạn đã từng nghe lời dạy này quá nhiều trong các kinh sách Nguyên Thủy, nhưng các bạn có dám bỏ ăn uống như chú bé La Hầu La không? Khi biết thân tâm này và các pháp không có vật gì là của ta, là ta, là bản ngã của ta, thì chú bé La Hầu La không còn tha thiết đến ăn uống và vui đùa với những cái không phải của mình, không phải là mình nữa; vì không phải của mình mà có cố bảo vệ giữ gìn thì cuối cùng cũng không phải là của mình được. Khi hiểu thật rõ như vậy nhưng ai dám làm như La Hầu La, một chú bé miệng còn hôi sữa mà dám cả gan bỏ ăn lo tu tập thì thật là vĩ đại.

Lời dạy này rõ ràng như vậy, thế mới thấy mọi người đang sống trên hành tinh này thật là điên đảo, vô minh. Cái không phải của mình mà cứ cho là của mình, là mình, là bản ngã của mình. Từ chỗ hiểu sai lầm chấp đó đã đưa loài người vào con đường ác, con đường tội lỗi, con đường đau khổ bất tận. Vì lầm chấp như vậy đến khi chết mất rồi, tứ đại trả về cho tứ đại, mà vẫn còn cho rằng: “Sau khi chết còn có sự sống, tức là còn có linh hồn”. Ôi! Thật là vô minh, sống trong điên đảo tưởng “sau khi chết còn có những gì?”. Trí tuệ không sáng suốt, sống trong ảo tưởng nên điên dại, hễ có người chết thì đi rước mấy ông thầy cúng đến tụng niệm, cầu siêu cho linh hồn tiêu diêu nơi miền Cực Lạc. Thật là một việc làm nhảm nhí, mù quáng, ngu ngốc, tốn công, tốn của mà còn bị người trí chê cười là mê tín, lạc hậu, v.v..

Khi thấu hiểu thân ngũ uẩn này không phải của ta, không phải là ta, không phải là bản ngã của ta, nên ngay khi đang đi khất thực với đức Phật và được nghe một bài pháp tuyệt vời, La Hầu La từ biệt đức Phật trở về thất của mình, ngồi xuống dưới một gốc cây, kiết già lưng thẳng, an trú niệm trước mặt, để quán xét thân hành, ý hành, khẩu hành và lý vô ngã mà đức Phật vừa dạy xong, để cho thấm nhuần.

Thưa các bạn! Các bạn còn nhớ lại bài kinh đầu tiên Giáo Giới La Hầu La mà đức Phật đã dạy cách thức tu tập phản tỉnh giới thân hành, giới khẩu hành và giới ý hành.

Do bài giáo giới đầu tiên đó mà chúng ta biết chắc La Hầu La an trú niệm trước mặt là niệm thân hành nghiệp, khẩu hành nghiệp và ý hành nghiệp.

Ai cũng biết bài Giáo Giới La Hầu La ở rừng Am Bà La là dạy ba giới hành rất tuyệt vời. Nhờ bài pháp phản tỉnh thân hành nghiệp, khẩu hành nghiệp và ý hành nghiệp, nên tâm La Hầu La đã ly dục ly ác pháp khá nhiều, có phần thanh tịnh. Đến khi được đức Phật dạy kinh Đại Giáo Giới La Hầu La thì Ngài ngộ rất nhanh:“Các pháp trong thân, ngoài thân, đâu có pháp nào là của mình, là mình, là bản ngã của mình như vậy còn tham lam, ham muốn giàu sang, danh lợi cho ai? Ăn uống, ngủ nghỉ cho ai? Giận hờn, ganh tị cho ai? Phiền não khổ đau, lo rầu cho ai? Vui chơi, dục lạc cho ai, v.v..”.

La Hầu La hiểu rõ vấn đề này rất quan trọng nên không chần chừ mà hãy lo tu tập ngăn và diệt những thân hành nghiệp ác, khẩu hành nghiệp ác, ý hành nghiệp ác để tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn.

Lúc bấy giờ La Hầu La an trú thân hành nghiệp, khẩu hành nghiệp và ý hành nghiệp, khi nghiệp nào khởi ra thì Ngài tư duy phản tỉnh ngăn và diệt, không cho ác pháp xâm chiếm vào thân, tâm của Ngài và Ngài tu tập như vậy từ ngày này đến ngày khác. Tất cả các thân hành nghiệp ác, khẩu hành nghiệp ác, ý hành nghiệp ác không còn nữa. Nhưng không phải tất cả thân hành nghiệp ác, khẩu hành nghiệp ác, hay ý hành nghiệp ác nào cũng chế ngự và đuổi đi một cách dễ dàng được.

Thưa các bạn! Các bạn có hiểu thân hành nghiệp, khẩu hành nghiệp và ý hành nghiệp là gì chưa?

- Thân hành nghiệp là thân làm một việc gì, khẩu hành nghiệp là miệng nói một việc gì, ý hành nghiệp là ý suy nghĩ một điều gì.

- Các bạn có hiểu nghĩa an trú niệm trước mặt là làm như thế nào chưa?

- An trú niệm trước mặt có nghĩa là đặt một đề tài, rồi ở trên đề tài đó say mê quán xét và tư duy.

Ví dụ: Ta xét thấy trong một ngày vừa qua, thân hành nghiệp nào của ta đã tự làm khổ mình, khổ người thì ta đặt thân nghiệp ấy ra tư duy suy nghĩ, để rồi ta kết luận thân hành nghiệp mà ta đã làm là hành động do thân ta làm khổ ta, khổ người và khổ cả hai. Hành động như vậy nhất định dù có chết ta cũng không làm.

Khẩu hành nghiệp, ý hành nghiệp ta cũng đưa ra đặt niệm trước mặt và tư duy như vậy, từ đó ta rút ra những kinh nghiệm của các thân hành nghiệp trong hiện tại, ta không để xảy ra thân, khẩu, ý hành nghiệp tự hại, hại người và hại cả hai nữa. Và chính sự tu tập như vậy gọi là “giới hành tam nghiệp”. Có tu tập giới hành tam nghiệp như vậy thì Mười Giới Đức Thánh Sa Di không hề vi phạm. Bởi vì Mười Giới Đức Thánh Sa Di vi phạm đều phải do từ thân hành, khẩu hành, ý hành; ngoài thân hành, ý hành, khẩu hành ra thì không có nơi vào vi phạm giới luật cả.

Muốn giữ gìn Mười Giới Đức Thánh Sa Di nghiêm chỉnh thì chỉ có sự phản tỉnh thân hành, khẩu hành, ý hành như đức Phật đã dạy La Hầu La.

Sự phản tỉnh ấy là trực hạnh, chánh hạnh, thắng hạnh của Thầy Sa Di. Trực hạnh, chánh hạnh, thắng hạnh của Thầy Sa Di hoàn mãn là Thánh Đức của người tu sĩ Phật giáo.

Ở bài kinh Tiểu Giáo Giới La Hầu La ở rừng Am Bà La này chỉ dạy cho chúng ta thấy một giới cấm trong giới bổn là giới không nói vọng ngữ, một giới cấm này là đại diện cho mười giới cấm Sa Di như đã nói ở trên. Muốn không phạm giới nói vọng ngữ hay không phạm mười giới Sa Di thì phải phản tỉnh thân, khẩu, ý hành nghiệp tức là phải sống trực hạnh, chánh hạnh, thắng hạnh trên thân, miệng, ý của mình.

Chính trên thân, khẩu, ý hành đúng trực hạnh, chánh hạnh, thắng hạnh thì không bao giờ làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Xá Lợi Phất, bổn sư của La Hầu La, thường hay để ý đến đệ tử của mình. Từ hơn mấy tháng nay ngày nào cũng thấy La Hầu Lạ thường ngồi dưới tán cây, kiết già, lưng thẳng, an trú niệm trước mặt.

Xá Lợi Phất biết rằng nhân duyên đệ tử của mình đã đến lúc chín mùi như trái cây. Vì thế, Ngài đến trước La Hầu La và bảo rằng: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập nhập tức niệm xuất tức niệm (niệm hơi thở vô hơi thở ra). Này La Hầu La tu tập niệm hơi thở vô hơi thở ra làm cho sung mãn, được quả lớn, được lợi ích”.

Sau khi được Thầy bổn sư dạy như vậy, La Hầu La mới lưu ý và trực nhận ra khi đạt được niệm thân hành nghiệp, khẩu hành nghiệp và ý hành nghiệp không còn trong ác pháp hại mình hại người và hại cả hai thì thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Khi tâm được ở trong trạng thái ấy thì tâm lại biết rõ hơi thở vô, hơi thở ra nhẹ nhàng và thông suốt.

Thường thấy hơi thở vô ra như vậy nhưng La Hầu La đâu có để ý, đến khi Thầy Bổn Sư dạy:“Hãy tu tập niệm hơi thở vô hơi thở ra...”,thì Ngài rất ngạc nhiên, vì thường ngày tu hành chánh kiến, chánh tư duy trên thân hành, khẩu hành, ý hành thì đã thấy hơi thở vô ra như vậy. Còn bây giờ lại bảo hãy tu tập hơi thở vô ra. Vậy tu tập hơi thở vô ra như thế nào?

Câu hỏi ấy luôn luôn ám ảnh trong đầu La Hầu La mà không có câu đáp. Sau bao ngày tư duy không tìm ra đáp án. Ngài nghĩ đến Đức Thế Tôn sẽ giải đáp được câu hỏi này.

GIỚI HÀNH THỨ SÁU: ĐỊA GIỚI HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống ĐỊA GIỚI HÀNHnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của địa giới hành là gì?

Giới đức địa giới hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh Nghiệp.

Giới hạnh địa giới hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua những hành động như đất khi nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Địa giới hành nghĩa là gì?

Địa giới hành có nghĩa là hành động như đất. Người tu theo Phật phải giữ gìn tâm mình như đất. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La giữ gìn tâm như đất:

“Vào một buổi chiều sau khi từ thiền định đứng dậy đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả La Hầu La bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn! niệm hơi thở ra hơi thở vô được tu tập như thế nào? Làm cho sung mãn như thế nào để được quả lớn, lợi ích lớn?”.

Trong khi được hỏi như vậy đức Phật không trực tiếp trả lời về hơi thở mà lại trả lời nghe như không ăn nhập gì với câu hỏi. Nếu các bạn không bền lòng, bền chí ngồi nghe hết bài pháp thì chắc chắn các bạn sẽ không hiểu bài pháp này chút nào cả. Vì bài pháp này có nhiều giới chứ không phải có một giới đất không, mà hơi thở ra, vô cũng là một giới hành đấy các bạn ạ!

Địa Giới Hành Đức Thánh Sa Di. Muốn thực hiện địa giới hành đức Thánh Tăng, Thánh Ni, Thánh Sa Di thì phải thực hiện theo những lời dạy dưới đây:

“Này La Hầu La cái gì thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, kiên cứng thô phù, bị chấp thủ như tóc, lông, móng, răng, da thịt, gân, xương, tuỷ, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, ruột, màng ruột, bao tử, phân và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân như vậy, này La Hầu La được gọi là nội địa giới, những gì thuộc nội địa giới và những gì thuộc địa ngoại giới đều thuộc về địa giới. Địa giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta”, sau khi thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như vậy thì con sẽ sanh yểm ly đối với địa giới, tâm từ bỏ địa giới”.

Qua những lời dạy của đức Phật trên đây, chúng ta nhận xét về lời dạy này đâu có liên quan đến hơi thở vô, hơi thở ra phải không các bạn?

Thưa các bạn! Các bạn nên đọc lại đoạn kinh dưới đây thì rõ: “Này các Tỳ Kheo, nếu các Tỳ Kheo muốn rằng các niệm tư duy được đoạn tận thì định niệm hơi thở vô hơi thở ra này phải được khéo tác ý”. Các bạn hiểu rõ lời dạy này chứ.

Theo lời dạy trên đây chúng ta cần phải nương theo hơi thở vô và hơi thở ra để tu tập giới đất, nhờ nương theo hơi thở vô và hơi thở ra nên tâm ta được an trú và tĩnh lặng; khi tâm được an trú và tĩnh lặng thì ta đưa đề tài địa giới quán sát với chánh trí tuệ của mình. Vì thế ông Xá Lợi Phất khi thấy La Hầu La chuyên tâm tu tập nên cố ý nhắc khéo: “Này La Hầu La hãy tu tập niệm hơi thở vô, hơi thở ra, làm cho sung mãn được quả lớn, được lợi ích lớn”.

Do lời nhắc khéo này, nên La Hầu La đến thưa hỏi Phật. Và bây giờ chúng ta mới có những bài giới hành để học và tu tập với pháp môn hơi thở.

Theo những đề tài tu tập nào cũng phải nương vào hơi thở vô và hơi thở ra thì ta mới có đề tài quán tác ý theo hơi thở tu tập theo Giới hành.

Ví dụ: Khi ta quan sát địa giới, không phải là của ta, là ta, là bản ngã của ta thì chúng ta không cần quan sát nữa mà cứ theo định niệm hơi thở này khéo tac ý như lời dạy trong kinh.

Chúng tôi cho một ví dụ để các bạn tu tập sau khi quán sát một pháp nào như thật với chánh trí tuệ. Ví như có một người cha vừa mới mất khiến tâm ta đau khổ, nhớ thương, ta nên đưa đề tài này ra quán xét và tư duy: “Thân tứ đại của cha ta là do duyên hợp, nó là dụng cụ của nhân quả chứ nó đâu phải là thân của cha ta, cớ sao ta lại ngu si như vậy, lầm chấp nó là thân của cha ta, lại đi khóc cái thân nô lệ của nhân quả, có ích lợi gì cho ta, cho mọi người”. Đó là cách thức tư duy quán xét dùng tri kiến để xả tâm ly dục ly ác pháp. Còn quán thân này “không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” đó là phương pháp thực hành vô ngã của địa giới hành mà ông Xá Lợi Phất khéo nhắc nhở La Hầu La đấy các bạn ạ!

Xin nhắc lại câu trên: “địa giới này không phải là của ta, không phải là ta, không phải bản ngã của ta, hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”.Đây là câu Trạch Pháp Giác Chi dùng để tác ý kết hợp với hơi thở, biến thành một pháp môn độc đáo tuyệt vời. Chúng ta cứ theo câu tác ý này và nương vào hơi thở vô, hơi thở ra khéo tu tập như vậy thì kết quả sẽ mang đến vô ngã như thật. Trên đây là địa giới hành thứ sáu tu tập tâm vô ngã các bạn nên ghi nhớ.

GIỚI HÀNH THỨ BẢY: THỦY GIỚI HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống THỦY GIỚI HÀNHnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của thủy giới là gì?

Giới đức thủy giới hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.

Giới hạnh thủy giới hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua thủy giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Muốn tu tập thủy giới được nghiêm chỉnh không có vi phạm và kết quả giải thoát rõ ràng thì chúng ta hãy nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, thế nào là thủy giới? Có nội thủy giới, có ngoại thủy giới. Và này La Hầu La thế nào là nội thủy giới? Cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước thuộc chất lỏng, bị chấp thủ như: Mật, đàm, niêm dịch, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ như vậy, này La Hầu La, được gọi là thủy giới. Những gì thuộc nội thủy giới. Và những gì thuộc ngoại thủy đều thuộc về thủy giới, thủy giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: “cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”. Sau khi như thật quan sát thủy giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sinh yểm ly đối với thủy giới, tâm từ bỏ thủy giới”.

Với thủy giới chúng ta tu tập cũng như địa giới vậy, nghĩa là chúng ta phải nương vào hơi thở vô ra mà tác ý: “Máu, mủ, đờm và những chất lỏng trong thân ta không phải của ta, không phải là ta, không phải bản ngã của, ta phải từ bỏ yểm ly xa lìa đừng dính mắc; hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Các bạn phải nhớ tu tập câu này thường xuyên, chừng nào thấy tâm yểm ly nhàm chán thật sự, có nghĩa là nhàm chán ăn uống, ngủ nghỉ phi thời tức là không còn dính mắc vào ăn ngon, ăn nhiều bữa; mặc đẹp, mặc sang nữa. Đó là đã ly dục tham.

GIỚI HÀNH THỨ TÁM: HỎA GIỚI HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống HỎA GIỚI HÀNHnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của hỏa giới hành là gì?

Giới đức hỏa giới hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.

Giới hạnh hỏa giới hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua hỏa giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Hỏa giới tu tập cũng giống như tu tập địa giới, thủy giới vậy. Trước khi muốn tu tập giới này thì chúng ta hãy lắng nghe lời dạy của đức Phật: “Này La Hầu La, thế nào là hoả giới? Có nội hỏa giới, có ngoại hỏa giới. Này La Hầu La, thế nào là nội hỏa giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, thuộc về lửa, thuộc về chất nóng, bị chấp thủ như cái gì khiến cho tâm nóng, khiến cho hủy hoại, khiến cho thiêu cháy, cái gì khiến cho những vật được ăn, uống, nhai nuốt, nếm có thể tiêu hóa hay những vật gì khác làm ra sức nóng nhiệt lượng, nhiệt độ, v.v..

Này La Hầu La, như vậy được gọi là nội hỏa giới. Những gì thuộc về nội hỏa giới, những gì thuộc về ngoại hỏa giới đều thuộc về hỏa giới. Hỏa giới ấy được quan sát nhưthật với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”. Sau khi như thật quan sát hỏa giới với chánh trí tuệ như vậy vị ấy sanh yểm ly đối với hỏa giới, tâm từ bỏ hỏa giới”.

Muốn tu tập cho có hiệu quả yểm ly hay từ bỏ hỏa giới thì nên nương vào hơi thở vô hơi thở ra mà tác ý.

Ví dụ: Tu tập hỏa giới cần phải nương theo câu trạch pháp này: “Hỏa giới này không phải của ta, là ta, là bản ngã của ta, ta hãy yểm ly từ bỏ, hít vô tôi biết tôi hít vô thở ra tôi biết tôi thở ra”. Cứ hít vô thở ra đếm năm hơi thở thì tác ý câu trên một lần. Tu tập như vậy suốt 30 phút nghỉ xả hơi.

GIỚI HÀNH THỨ CHÍN: PHONG GIỚI HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống PHONG GIỚI HÀNH nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của phong giới hành là gì?

Giới đức phong giới hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.

Giới hạnh phong giới hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua phong giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Phong giới tu tập cũng như địa, thủy, hỏa vậy. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, thế nào là phong giới? Có nội phong giới, có ngoại phong giới. Và này La Hầu La, thế nào là nội phong giới? Cái gì thuộc về nội thân thuộc về cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ như gió thổi lên, gió thổi xuống, gió trong ruột, gió trong bụng dưới, gió thổi ngang các đốt khớp xương, hơi thở vô, hơi thở ra, và bất cứ một vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ này La Hầu La như vậy được gọi là nội phong giới. Những gì thuộc về nội phong giới, và những gì thuộc về ngoại phong giới đều thuộc về phong giới. Phong giới ấy phải được quan sát như thật với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải bản ngã của ta”. Sau khi như thật quán sát phong giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly, đối với phong giới, tâm từ bỏ phong giới”.

Dựa theo bài pháp này chúng ta quán sát. Gió thổi bên ngoài, gió thổi bên trong thân ta như hơi thở vô, ra; hơi thở thuộc về tánh gió đều thuộc về gió. Mà gió thì gió không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Khi ta quán sát thông suốt và rõ biết như vậy thì cứ theo đó tác ý lần lượt mới diệt ngã xả tâm. Muốn cho tâm đừng chấp thủ, đừng dính mắc về gió, để đạt được yểm ly, từ bỏ nội phong, ngoại phong thì phải nương vào hơi thở vô, hơi thở ra mà tu tập hằng ngày như sau:

“Hơi thở này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta, ta phải yểm ly. Ly tham, đoạn diệt, từ bỏ hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”.Khi tác ý như vậy thì thở ra, thở vô 5 hơi thở rồi tiếp tục tác ý như trên, cứ như thế tu tập cho hết giờ xả nghỉ. Đó là chúng ta đã thực hiện Phong giới hành vào đời sống để yểm ly tâm tham dục, đoạn diệt từ bỏ tâm tham ái.

GIỚI HÀNH THỨ MƯỜI: KHÔNG GIỚI HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống KHÔNG GIỚI HÀNHnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành không giới hành là gì?

Giới đức không giới hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.

Giới hạnh không giới hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua không giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Không giới là một giới hành, nếu chúng ta không biết nó là giới hành, không tu tập thì có thể dính mắc vào không. Do không tu tập không giới hành nên Phật giáo Phát Triển dính mắc vào “không và có” nhưng lại lý luận vượt qua “không và có” (sắc tức thị không, không tức thị sắc) thành ra “không tưởng”. Do hiểu biết điều này nên đức Phật dạy La Hầu La về không giới: “Này La Hầu La, thế nào là hư không giới? Có nội hư không giới, có ngoại hư không giới. Và này La Hầu La, thế nào là nội hư không giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, thuộc hư không, thuộc hư không tánh bị chấp thủ như: lỗ tai, lỗ mũi, cửa miệng, do cái gì người ta nuốt, những gì được nhai, được uống, được ăn và được nếm, và được tống xuất phần dưới để ra ngoài. Này La Hầu La như vậy được gọi là nội hư không. Hư không giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là bản ngã của ta”. Sau khi như thật quán sát hư không giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với hư không giới, tâm từ bỏ hư không giới”.

Muốn cho tâm không còn dính mắc chấp trước hư không giới thì hằng ngày chúng ta tu tập phải nương vào hơi thở vô hơi thở ra. Chỉ có nương vào hơi thở vô ra tác ý thì mới phá tâm dính mắc tánh hư không giới này. “Hư không giới tánh này không phải của ta, không phải là ta, không phải là bản ngã của ta, ta phải yểm ly từ bỏ đoạn diệt; hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Đó là câu tác ý các bạn nên nhớ tác ý tu tập như vậy sẽ có lợi ích lớn là vì tâm sẽ yểm ly tham đoạn diệt ngã.Tác ý như vậy xong rồi thở vô, thở ra năm lần, trong khi thở phải lắng nghe rõ kỹ từng hơi thở ra, hơi thở vô, cứ tu tập như vậy cho hết giờ xả nghỉ.

Khi chúng ta tu tập 5 giới này xong thì tâm chúng ta không còn vi phạm Mười Giới Đức Thánh Sa Di. Tại vì sao? Ví dụ chúng ta đã thấy năm giới này như thật, đất, nước, gió, lửa, và không giới nội thân, ngoại thân không có cái gì là của ta, là ta, là bản ngã của ta, thì ta có còn gì mà vi phạm vào 10 giới cấm. Phải không các bạn?

Bởi ta còn cho đất, nước, gió, lửa và không giới là của ta, là ta, là bản ngã của ta thì ta không bao giờ giữ trọn giới cấm dù chỉ có 10 giới.

Ví dụ cho dễ hiểu: Nếu ta còn hiểu lầm đất, nước, gió, lửa và không giới là thật có, mà đã thật có thì tâm ta phải chấp nhận năm giới này là của ta, là ta, là bản ngã của ta. Do vì dính mắc chấp nhận như vậy ta mới sanh ra tham ăn, tham ngủ, tham tiền, tham danh, tham sắc dục, tham vui, v.v..

Hễ có tham ăn, tham ngủ thì sẽ phạm vào giới cấm ăn ngủ phi thời; tham tiền thì phạm vào giới cấm cất giữ tiền bạc; tham sắc dục thì phạm vào giới cấm dâm dục, tham vui phạm vào giới cấm ca hát, nghe ca hát, v.v..

Cho nên, người tu tập theo Phật giáo muốn giữ gìn giới luật nghiêm túc thì phải thực hiện giới hành, nếu không thực hiện giới hành mà giữ giới luật nghiêm chỉnh thì bị ức chế tâm. Do ức chế tâm chịu đựng cho đến khi chịu đựng không nổi thì tất cả giới đều vi phạm, không có giới nào không vi phạm. Do các Tổ không biết giới hành nên lấy giới bổn ngăn cấm tu sĩ, khiến giới luật chỉ còn là một môn học để cho Tăng Ni học biết để nói láo chơi mà thôi, chứ không còn là pháp môn vô lậu như đức Phật đã dạy.

Người tu theo Phật giáo phải thấy giới hành rất quan trọng, nên khi La Hầu La vào đạo tu hành mới có 10 tuổi, được đức Phật dạy cho một giới cấm đó là giới không vọng ngữ, chứ không dạy mười giới như các Tổ, nhưng một giới cấm này vi phạm thì 10 giới kia đều vi phạm cả, hay hơn thế nữa, có thể sẽ phạm tất cả giới luật (250 giới Tỳ Kheo, 348 giới Tỳ Kheo Ni). Cho nên mười giới cấm sa di là do các Tổ dựa vào giới kinh mà biên soạn. Người tu theo Phật Giáo là người tự nguyện, do tự nguyện nên chúng ta biết Phật giáo không có giới cấm mà chỉ có giới hành.

Khi dạy giới cấm không vọng ngữ thì đức Phật dạy giới hành không vọng ngữ để La Hầu La tu tập, chứ không dạy giới cấm vọng ngữ. Xin các bạn vui lòng đọc lại đoạn kinh Giáo Giới La Hầu La ở rừng Am Bà La thì rõ.

GIỚI HÀNH THỨ MƯỜI MỘT: GIỚI HÀNH TÂM NHƯ ĐẤT

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống GIỚI HÀNH TÂM NHƯ ĐẤTnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành tâm như đất là gì?

Giới đức giới hành tâm như đất là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh mạng.

Giới hạnh giới hành tâm như đất là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện giới hành tâm như đất qua như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh mạng.

Như chúng ta đã học địa giới nội ngoại không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Đó là học giới hành phá chấp để có cái thấy về địa giới nội ngoại như thật không còn bị mê lầm điên đảo, v.v.. cho là ngã.

Khi học về tính của địa giới thì khác hơn, nó ngược lại bản chất của địa giới, vì bản chất địa giới là địa giới, chứ không phải của ta, là ta, là bản ngã của ta. Khi học về tính của địa giới thì chúng ta phải hiểu tính của địa giới là dung chứa, dù dơ bẩn bất tịnh hay trong sạch thanh tịnh thì tính địa giới không có phân biệt phiền hà than trách, không có vui mừng hay khen chê. Cho nên khi học về tính của địa giới thì có sự ước mong tâm mình như tính địa giới, như đất.

 Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy Tôn Giả La Hầu La cách thức để rèn luyện tâm mình tính như đất:“Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập tánh như đất. Này La Hầu La, do tu tập sự tu tập tánh như đất. Khi các xúc khả ái, không khả ái khởi lên. Không có nắm giữ tâm, không có tồn tại, Này La Hầu La, ví như trên đất ta quăng đồ tịnh, quăng đồ bất tịnh, như quăng phân uế, quăng nước tiểu, nhổ nước miếng, quăng mủ và quăng máu, tuy vậy đất không lo âu, không dao động, không nhàm chán, cũng vậy này La Hầu La, hãy tu tập như tính của đất”.

Do tu tập tính như đất thì tâm ta sẽ không còn phiền não, sân hận, lo âu, sợ hãi nữa. Muốn hành địa giới tâm như đất, vậy cách thức tu tập như thế nào?

Theo như lời Phật dạy: “Hãy tu tập sự tu tập như đất”, lời dạy này quá cô đọng khiến ta không biết cách thức nào tu tập. Phải không các bạn?

Chúng ta nên lưu ý những chữ: “Tu tập sự tu tập”. Vậy tu tập và sự tu tập như thế nào?

Chúng ta ai cũng rõ tính của đất là không tham, không sân, không phiền não, không lo âu, sợ hãi, không màng danh lợi, chê khen, v.v.. Tính của đất như vậy mọi người ai cũng đã rõ. Vậy chúng ta nên theo tính của đất như lý tác ý, biến thành phương pháp tu rất tuyệt vời. Các bạn cứ tu tập đi thì các bạn sẽ thấy kết quả rất là vĩ đại.

Đức Phật thường nhắc nhở chúng ta tu tập như lý tác ý nên nói: Do không như lý tác ý mà lậu hoặc chưa sanh sẽ khởi sanh, lậu hoặc đã sanh sẽ tăng trưởng lớn mạnh. Do hằng ngày tu tập như lý tác ý mà lậu hoặc chưa sanh sẽ không sanh, đã sanh thì bị diệt”.

Như vậy, ở đây đức Phật dạy: “Hãy tu tập sự tu tập như đất” tức là dạy hằng ngày phải thường như lý tác ý: “Tâm như đất từ bỏ tham, sân, si; tham, sân, si là ác pháp, là đau khổ.” Hay tác ý như thế này: “Tâm như đất phải xa lìa tham, sân, si; phải diệt cho thật sạch gốc”.

 Hay tác ý như thế này: “Ai khen không mừng, ai chê không giận, cho vàng không ham, cho đồ bất tịnh không buồn phiền”.

Hoặc chúng ta dùng hơi thở tác ý: “Tâm như đất, tôi biết tôi hít vô, tâm như đất, tôi biết tôi thở ra”. Thở vô, thở ra 5 hơi thở rồi lại tiếp tục tác ý như câu trên. Nhưng khi thở ra, thở vô đều đều tâm phải lắng nghe toàn thân tâm mình như đất. Khi tu tập như vậy thì tâm phải dang rộng đôi tay đón nhận tất cả ác pháp đến với mình trong sự hân hoan; đón nhận những vật bất tịnh cũng như những vật thanh tịnh với thân, thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

GIỚI HÀNH THỨ MƯỜI HAI: THỦY GIỚI HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống THỦY GIỚI HÀNHnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của thủy giới hành là gì?

Giới đức thủy giới hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh mạng.

Giới hạnh thủy giới hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua thủy giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh mạng.

Trên đây tu tập tâm như đất, nếu đặc tướng của mình phù hợp như đất thì tu tập một thời gian tâm sẽ trở thành đất thật sự, nghĩa là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Còn nếu không hợp với đặc tính của đất thì ta chuyển qua tu tập tâm như nước, tức là ta tu tập giới hành thứ mười hai, Thủy giới hành.

Trước khi muốn tu tập thủy giới hành thì chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La tu tập thủy giới hành: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập như tính của nước, này La Hầu La, do tu tập sự tu tập như nước, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này La Hầu La, ví như trong nước người ta rửa đồ bất tịnh, rửa đồ tịnh, rửa sạch phân uế, rửa sạch nước tiểu, rửa sạch nước miếng, rửa sạch mủ, rửa sạch máu, v.v.. tuy vậy nước không lo âu, không dao động, không nhàm chán”.

Khi tu tập tâm như tính của nước thì chúng ta nên quán xét lời dạy này, rồi dùng nó tác ý tu tập hằng ngày như tác ý câu: “Tâm như nước phải mát lạnh trước mọi ác pháp” hoặc “Tâm như nước phải rửa sạch tham, sân, si, như rửa sạch các chất bẩn vậy”. Khi tác ý như vậy thì chúng ta nên lắng tâm để cảm nhận tâm lúc bấy giờ nghe như mát lạnh, nghe như dễ chịu trong thanh thản, an lạc và vô sự.

Nếu lắng nghe tâm như nước thanh thản, an lạc và vô sự, đó là nước đã rửa đồ dơ uế trược, bất tịnh, nước đã rửa tất cả các ác pháp.

GIỚI HÀNH THỨ MƯỜI BA: HỎA GIỚI HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống HỎA GIỚI HÀNHnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của hỏa giới hành là gì?

Giới đức hỏa giới hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh mạng.

Giới hạnh hỏa giới hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua hỏa giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh mạng.

Hỏa giới hành cũng tu tập như thủy giới hành vậy, có nghĩa là phải tư duy quán xét tính của lửa. Tính của lửa là tính đốt cháy tất cả, đồ bất tịnh cũng như đồ thanh tịnh, phẩn uế, nước tiểu, nước miếng, máu mủ, đờm nhớt, v.v.. đều đốt sạch không thứ nào tính lửa không đốt. Tuy đốt cháy tiêu tan như vậy, nhưng lửa chẳng hề buồn rầu, lo lắng thương ghét, oán hờn, thù giận một vật gì cả; đốt cháy như vậy nhưng tính lửa vẫn không dao động, vẫn không nhàm chán ghét dơ một vật gì cả. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La: “này La Hầu La hãy tu tập sự tu tập như lửa, này La Hầu La, do tu tập tâm như lửa các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này La Hầu La, ví như lửa đốt các đồ tịnh, đốt các đồ không tịnh, đốt phẩn uế, đốt nước tiểu, nước miếng, đốt mủ, đốt máu, tuy vậy lửa không lo âu, không dao động, không nhàm chán cũng vậy, này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập như lửa ...”.

Nếu đặc tính của chúng ta thích tu tập tâm như lửa để đốt sạch các ác pháp, các dục và các cảm thọ thì hằng ngày phải siêng năng tu tập theo như lời Phật đã chỉ dạy.

Muốn tu tập tính như lửa để đốt cháy các pháp ác và lòng tham muốn thì hằng ngày chúng ta nên tu tập pháp môn như lý tác ý. Tu pháp môn như lý tác ý thì cần phải trạch pháp giác chi kỹ lưỡng câu mình muốn tác ý. Câu muốn tác ý là hàng đầu trong mọi pháp tu tập như câu: “tâm ta như lửa phải đốt sạch các ác pháp không được để trong lòng những pháp ác, phải đốt sạch các cảm thọ đau khổ, phải đốt sạch các dục ham muốn, phải đốt sạch những phiền não trong tâm, phải đốt sạch lòng sân hận, phải đốt sạch sự lo lắng, ưu phiền, v.v..”.

Hoặc chúng ta nương vào hơi thở mà tác ý: “Phải đốt sạch tâm sân tôi biết tôi hít vô, phải đốt sạch tâm sân tôi biết tôi thở ra”.

Hoặc: Phải đốt sạch tâm tham tôi biết hít vô, phải đốt sạch tâm tham tôi biết tôi thở ra”.

Hoặc “Phải đốt sạch sự hôn trầm thùy miên tôi biết tôi hít vô, phải đốt sạch hôn trầm thùy miên tôi biết tôi thở ra”.

Hoặc “Phải đốt sạch thùy miên, hôn trầm, tôi biết tôi đang đi kinh hành”.

Ta tiếp tục tu tập như vậy, cho đến khi nào tâm tham, sân, si không còn, chỉ còn tâm thanh thản, an lạc và vô sự, hay nói cách khác chỉ còn lại tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Đó là ta đã đạt được mục đích của sự giải thoát.

GIỚI HÀNH THỨ MƯỜI BỐN: PHONG GIỚI HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống PHONG GIỚI HÀNHnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của phong giới hành là gì?

Giới đức phong giới hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh mạng.

Giới hạnh phong giới hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua phong giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh mạng.

Phong giới tu tập cũng như hỏa giới vậy. Trước tiên chúng ta phải có sự tư duy quán xét về tính của gió. Tính gió là hay thổi, thổi tất cả các đồ bất tịnh, thổi tất cả các ác pháp và các dục, tham, sân, si, gió thổi sạch, thổi không chừa một vật gì. Cho nên tu tập tính như gió là phải thổi tan tất cả các ác pháp.

Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Này la Hầu La, hãy tu tập sự tu tập như gió, này La Hầu La, do tu tập sự tu tập như gió, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này La Hầu La. Như gió thổi các đồ tịnh, thổi các đồ bất tịnh, thổi phẩn uế, thổi nước tiểu, thổi nước miếng, thổi mủ, thổi máu, tuy vậy gió không lo âu, không dao động, không nhàm chán, cũng vậy này La Hầu La hãy tu tập sự tu tập tâm như gió...”.

Như đã nói ở trên, muốn tu tập làm gió để thổi tất cả các ác pháp và các cảm thọ thì phải biết rõ tánh của gió, tính của gió là thổi đồ dơ, đồ sạch, gió đều thổi tất cả không bỏ sót một vật nào, rất bình đẳng và công bằng. Vì thế muốn tâm mình làm gió thì phải tu tập như thế nào để tâm trở thành gió thật sự.

Muốn tâm thành gió thật sự thì phải tu tập như thế nào để có một sức lực mạnh mẽ như gió, để khi sử dụng thì tâm mạnh như gió mới thổi tan đi mọi ác pháp. Nếu không tu tập tâm được như gió thì khó mà thổi tan các ác pháp.

Muốn tu tập được sức mạnh như gió thì chúng ta phải nương vào hơi thở mà tác ý: “Tâm ta phải như gió, thổi cho thật sạch tất cả các pháp tham, sân, si, mạn, nghi, hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Nhớ câu tác ý này mà ngày ngày bền chí tu tập thì tâm có một nội lực mạnh sẽ thổi tan tất cả, dù là núi non hùng vĩ, dù có cứng chắc và trơ trơ như sắt đá vẫn bị sức mạnh của tâm như gió thổi tan nát, nếu các bạn tu tập: “Có công mài sắt có ngày nên kim”.

GIỚI HÀNH THỨ MƯỜI LĂM: HƯ KHÔNG GIỚI HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống HƯ KHÔNG GIỚI HÀNHnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành hư không giới hành là gì?

Giới đức hư không giới hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh mạng.

Giới hạnh hư không giới hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua hư không giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh mạng.

Hư không giới hành là một sự trống không. Muốn tu tập để trở thành hư không. Tính của hư không là không có một vật gì trú được dù là vật ác hay vật thiện, dù là dơ bẩn hay không dơ bẩn, dù có phiền não hay không phiền não, dù có thọ lạc hay thọ khổ, tính của hư không cũng không dung chứa. Muốn cho tâm trở thành tính của hư không thì hãy lắng nghe lời đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập như hư không, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập như hư không...”.

Muốn tâm được trở thành như hư không mà chỉ hiểu suông thì không bao giờ trở thành hư không được. Cần phải có một sự kiên gan bền chí tu tập hằng ngày, chứ không tu theo kiểu tu tập lấy có.

Muốn tâm trở thành hư không thì phải có pháp hành tu tập như đức Phật đã dạy: “Hãy tu tập sự tu tập như hư không”. Vậy tu tập sự tu tập như hư không như thế nào?

Các bạn hãy lắng nghe: Khi ngồi thì các bạn nên nương vào hơi thở mà tác ý như câu này “Tâm tôi phải giống như hư không, không dung chứa một vật gì cả: tham, sân, si cũng không dung chứa; phiền não, đau khổ, giận hờn, thương ghét cũng không dung chứa; bệnh tật khổ đau, sanh tử gần kề một bên tâm cũng không dung chứa...”, tôi biết tôi hít vô và thở ra”. Hay tác ý một câu khác như:“Tâm tôi như hư không nhất định không dung chứa ác pháp và dục, tôi biết tôi hít vô, tôi biết tôi thở ra”. Hằng ngày siêng năng tu tập như vậy thì tâm sẽ như hư không.

Khi đi kinh hành hay làm bất cứ một công việc gì thì nên nương tâm theo hành động làm việc đó mà tác ý như trên thì một ngày không xa tâm các bạn sẽ trở thành hư không thật sự, có nghĩa là bạn không còn tham, sân, si, phiền não và khổ đau nữa.

GIỚI HÀNH THỨ MƯỜI SÁU: TỪ GIỚI HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống TỪ GIỚI HÀNHnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của từ giới hành là gì?

Giới đức từ giới hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.

Giới hạnh từ giới hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua từ giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Muốn tu tập từ giới hành thì phải tu tập như thế nào? Chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy La Hầu La về giới này: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập về lòng từ. Này La Hầu La, do sự tu tập về lòng từ, thì cái gì thuộc về sân tâm sẽ được trừ diệt”.

Ở đây chúng ta hãy ghi nhận những danh từ này “Tu tập sự tu tập về lòng từ”.Vậy tu tập như thế nào để có lòng từ?

Chúng ta nên trở về bài kinh Bát Thành thì thấy ngay được sự tu tập. Còn ở đây lời dạy quá cô đọng khiến chúng ta không biết pháp hành.

Từ tâm là một pháp môn trong tám pháp môn độc nhất của Phật giáo đưa người tu hành đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn mọi sự khổ đau của kiếp làm người. Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa các bạn nên lưu ý: “Pháp độc nhất thì phải được đặt trên một nền tảng đạo đức vững chắc, đó là “GIỚI LUẬT”.

Lời dạy trong kinh Bát Thành, xin các bạn đọc lại: “Lại nữa, này Gia chủ, Tỳ Kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ; cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế gian, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quãng đại vô biên không hận không sân, vị ấy suy tư và được biết: “Tâm từ giải thoát này là pháp hữu vi do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy do vững trú ở đây, đượcđoạn trừ các lậu hoặc, được chứng đạt...”.

Những từ chúng ta cần hiểu: An trú, biến mãn một phương, tâm câu hữu với từ. Vậy an trú nghĩa là gì?

An trú có nghĩa là trú ẩn một nơi an ổn, một nơi được bao bọc an toàn không có pháp nào đến quấy rầy làm mất an, làm khổ đau phiền lụy.

An trú với lòng từ có nghĩa là an trú trong lòng thương yêu của mình đối với tất cả chúng sanh, không có loài vật nào mà không thương yêu. Người nào an trú được với lòng yêu thương như vậy là người ấy có chỗ trú ẩn yên ổn mà không có ác pháp nào xâm phạm được, người ấy là người ở chỗ yên ổn nhất.

Biến mãn một phương là gì? Biến mãn một phương có nghĩa phủ trùm khắp cùng khắp một phương, không có chỗ nào là không có lòng thương yêu nơi phương ấy, hay nói cách khác là lòng thương yêu tất cả chúng sanh không có bỏ sót một loài nào trong phương đó.

Tâm câu hữu với từ nghĩa là gì? Tâm câu hữu có nghĩa là “tâm tập hợp” hay“tâm kết hợp”. Tập hợp hay kết hợp có nghĩa là tập hợp hay kết hợp pháp này với pháp kia. Ở đây tâm câu hữu với lòng từ. Có nghĩa là đem tâm kết hợp với lòng yêu thương. Pháp môn của Phật dạy thường hay có sự kết hợp các pháp môn khác lại để trở thành một pháp môn độc đáo, khi tấn công vào giặc sanh tử với pháp môn ấy chúng không thể tránh né và trở tay kịp đành phải bị tiêu diệt, vì những pháp môn ấy kết hợp quá chặt chẽ.

Ví dụ 1: Tu Định Niệm Hơi Thở và kết hợp với lòng từ bằng cách nương vào hơi thở và tác ý: “Tất cả chúng sanh đều đau khổ cũng giống như ta vậy, ta phải thương yêu chúng như chính thương yêu ta, hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”.Khi tác ý như vậy và thở đúng năm hơi thở rồi chúng ta tác ý trở lại câu trên. Cách thức tu tập như vậy gọi là lòng từ câu hữu với hơi thở.

Ví dụ 2: Đi kinh hành ta câu hữu với tâm từ “Tất cả chúng sanh đều có sự đau khổ như nhau, cũng sợ chết như ta. Ta phải thương yêu chúng như chính thương ta, tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, khi đi kinh hành ta đếm đúng 10 bước, đứng lại, nhắc câu tác ý trên. Khi tác ý xong ta lại bước đi trong im lặng và lắng nghe từng bước đi mà âm thanh tác ý còn vang mãi trong tâm chúng ta với lòng thương yêu chân thật đối với chúng sanh.

Bất cứ làm công việc gì chúng ta cũng đều có thể tu tập và kết hợp với lòng từ qua những hành động đang làm việc. Nhưng các bạn phải nhớ lưu ý một điều là luôn luôn lắng tâm nghe lòng thương yêu lan mãi khắp trong tâm hồn của chúng ta theo từng mỗi bước đi, mỗi hành động làm việc.

 Bền chí tu tập như vậy từ một tháng đến 7 tháng tâm vững trú ở trạng thái thương yêu này thì đoạn trừ tất cả các lậu hoặc..., chưa chứng đạt sẽ được chứng đạt như kinh dạy. “Vị ấy do vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc... chưa chứng đạt được chứng đạt”.

GIỚI HÀNH THỨ MƯỜI BẢY: BI GIỚI HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống BI GIỚI HÀNHnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của bi giới hành là gì?

Giới đức bi giới hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.

Giới hạnh bi giới hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua bi giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Trước khi học và tu tập Bi giới hành thì chúng tôi xin nhắc lại Từ giới hành, như các bạn đã biết tâm từ là lòng thương yêu tất cả chúng sanh; còn tâm bi là lòng thương xót tất cả chúng sanh.

Thương yêu và thương xót không giống nhau các bạn ạ! Thường người ta hay ghép hai từ này lại làm một từ kép “TỪ BI”để chỉ cho lòng thương yêu rộng lớn vĩ đại hơn cả lòng bác ái, nhưng trong Phật giáo thì nó được chia ra làm hai từ rất rõ ràng, vì hai từ này là hai pháp môn để tu tập, cho nên tâm từ khác tâm bi. Hai tâm này có công dụng khác nhau để đối trị hai ác pháp trong tâm con người.

1/ Lòng từ đối trị tâm sân hận.

2/ Lòng bi đối trị tâm hãm hại.

Do lòng thương yêu của tâm từ mà tâm sân hận của chúng ta không phát khởi và được tiêu diệt, bởi lòng thương yêu luôn luôn sẵn lòng tha thứ dù bất cứ một điều ác gì.

Do lòng thương yêu mà ta vượt qua tất cả mọi ác pháp và tất cả các chướng ngại vật đang tác động vào thân tâm ta.

Do lòng thương xót thấy mọi vật đau khổ, tàn héo, khô cằn, đang rên la kêu khóc, đang quằn quại rên rỉ khiến ta cầm lòng không được, nên bỏ qua tất cả lỗi lầm mà họ đang cố hại chúng ta. Lòng bi khiến cho ta nhớ đến những nỗi thương đau chung của muôn loài chúng sanh, do đó chúng ta không nỡ lòng nào ghen ghét, ganh tị cố tâm làm hại chúng được. Chúng sanh đã từng chịu nhiều khổ đau trong qui luật của nhân quả. Thế sao ta lại nỡ đành lòng làm hại chúng?

Làm giảm sự đau khổ cho đời thì ta nên cố gắng hết mình để không làm hại mình hại người hại cả hai. Lời đức Phật dạy La Hầu La còn văng vẳng mãi bên tai: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập về lòng bi. Này La Hầu La, do tu tập sự tu tập về lòng bi, cái gì thuộc về hại tâm sẽ được trừ diệt”.

Muốn tu tập về phương pháp này cho có hiệu quả thì các bạn nên dùng pháp như lý tác ý và hơi thở hay đi kinh hành. Hơi thở hay đi kinh hành là chỗ tựa nương của tâm để bạn tác ý thực hiện được lòng bi. Nhờ có tu tập được như vậy, bạn sẽ không có phiền não, tham, sân, si, oán ghét, thù hận để hại người hại vật, hại mình, hại cả hai.

Trong cuộc đời có nhiều người tâm nhỏ mọn ích kỷ có chuyện gì không đúng sở thích của mình, không hợp với mình thì tìm cách nói xấu, nói điều này, nói điều khác, mục đích là để hại người, làm cho người khác bị khinh chê hoặc dùng lời mạt sát, mạ lị người khác, làm cho họ không ngóc đầu lên với thiên hạ!

Phần nhiều trong cuộc đời này họ hại nhau giết nhau bằng ngôn ngữ nhiều nhất. Không những người ngoài đời mà trong các tôn giáo, nhất là Phật giáo, tuy ngoài miệng nói từ, bi, hỷ, xả, nhưng trong tâm chất chứa gươm đao, dao, mác, v.v.., dùng ngòi bút mạ lị, mạt sát để thỏa lòng tham vọng, danh lợi.

Bởi vậy nếu không biết tu tập tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả thì từ, bi, hỷ, xả chỉ là những danh từ suông rỗng tuếch. Cho nên tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả không tu tập đúng pháp thì không bao giờ có tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả được. Vậy tu đúng pháp như thế nào?

Chúng ta tìm nơi vắng vẻ như gốc cây, cánh đồng hoang vắng, bờ suối, nghĩa địa, nhà mồ. Tìm nơi vắng vẻ xong ta ngồi kiết già, lưng thẳng để thân tâm được đi vào yên lặng xong thì ta mới bắt đầu tác ý: Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”,khi tác ý như vậy ta hãy lắng tâm nghe hơi thở vô ra. Khi hơi thở vô ra đều đặn ta lại tác ý “Lòng thương xót chúng sanh phải phủ trùm mười phương không bỏ sót một chúng sanh nào cả, hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Khi tác ý như vậy xong, ta hãy lắng nghe hơi thở ra vô với lòng thương xót đối với tất cả chúng sanh. Hoặc tác ý ngắn như: “Hít vô tôi biết tâm tôi thương xót chúng sanh, thở ra tôi biết tâm tôi thương xót tất cả chúng sanh”.Và thế tiếp tục tu tập như thế thì kết quả đến với ta là ta không bao giờ còn làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh nữa; ấy là giải thoát các bạn ạ! Các bạn đừng nghĩ giải thoát là những điều cao siêu mà thành ra không tưởng.

GIỚI HÀNH THỨ MƯỜI TÁM: HỶ GIỚI HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống HỶ GIỚI HÀNHnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của hỷ giới hành là gì?

Giới đức hỷ giới hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.

Giới hạnh hỷ giới hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua hỷ giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Hỷ giới hành tu tập cũng giống như Bi giới hành. Vậy muốn tu tập Hỷ giới hành ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập về Hỷ giới. Này La Hầu La do tu tập sự tu tập về tâm hỷ. Cái gì thuộc về bất lạc sẽ được diệt trừ”.

Theo như lời dạy trên đây chúng ta lưu ý sự tu tập về tâm hỷ và cái gì thuộc về bất lạc sẽ được diệt trừ. Tu tâm hỷ sẽ diệt trừ tâm bất lạc, Vậy tâm bất lạc là gì?

Tâm bất lạc là tâm phiền não, khổ đau lo rầu, sợ hãi, khóc thương, tâm trạo hối tâm loạn động, v.v..

Vậy tu tập sự tu tập về tâm hỷ như thế nào?

Trong kinh Bát Thành dạy: “Này Gia chủ, Tỳ Kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với hỷ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới trên dưới bề ngang, hết thảy phương dưới cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm kết hợp với hỷ quảng đại vô biên không hận, không sân, vị ấy suy tư và được biết : “Hỷ tâm giải thoát này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt’’. Vị ấy do vững trú ở đây”.

Đoạn kinh trên giải thích cho chúng ta biết sự tu tập tâm hỷ, có nghĩa là phải luôn luôn tác ý lòng hân hoan đối với vạn vật chỗ nào cũng có lòng hân hoan. Do chỗ nào cũng có lòng hân hoan, nên các ác pháp và chướng ngại pháp sẽ được hóa giải không còn tác dụng vào thân tâm chúng ta được khiến cho tâm hồn lúc nào cũng vui vẻ, an lạc và hạnh phúc.

Chúng ta biết rằng lòng hân hoan vui vẻ hạnh phúc đó chỉ là pháp hữu vi tạm thời; nó là pháp vô thường luôn chịu sự hoại diệt, chứ không phải trạng thái hoan hỷ này là vĩnh viễn, nhưng nhờ trú vào nó mà các ác pháp không tác động vào thân tâm ta được. Do thân tâm không bị ác pháp tác động vào được nên cứu cánh tại nơi đó chứ không phải tâm hoan hỷ. Biết tâm hoan hỷ là pháp hữu vi vô thường, nhưng ở đây đức Phật dạy chúng ta nên vững trú ở trạng thái hoan hỷ này vững tâm giữ gìn trạng thái này thì sẽ đoạn trừ được tất cả các lậu hoặc và như vậy những gì ta chưa chứng đạt sẽ được chứng đạt.

Trở lại đoạn kinh giáo giới La Hầu La. đức Phật dạy: “Hãy tu tập sự tu tập về tâm hỷ, cái gì thuộc về bất lạc sẽ được đoạn trừ”.

Đoạn kinh trên đã trả lời câu hỏi thứ nhất, còn câu hỏi thứ hai: “bất lạc sẽ được đoạn trừ”. Vậy bất lạc là gì?

Bất lạc tức là lậu hoặc bất lạc là sự chưa chứng đạt.

Trong bài kinh này dạy chúng ta nên vững trú ở trạng thái hoan hỷ thì chưa chứng đạt sẽ được chứng đạt.

Muốn an trú được ở trạng thái tâm hỷ thì không có pháp nào hơn là pháp như lý tác ý cùng với hơi thở.

Muốn tu tập kết quả được giải thoát như vậy, ta thường nhắc tâm: “Trước các ác pháp và các chướng ngại pháp tâm ta phải luôn luôn hoan hỷ vui vẻ. Ta biết ta hít vô, ta biết ta thở ra”.Nên nhớ cứ an trú theo pháp này những gì chưa chứng đạt ta sẽ được chứng đạt, đừng cầu, đừng muốn mau, chỉ cần hằng ngày giữ gìn tâm đừng mất lòng hoan hỷ, đừng mong cầu gì cả thì có ngày sự chứng đạt sẽ đến, các bạn ạ!

GIỚI HÀNH THỨ MƯỜI CHÍN: GIỚI XẢ HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống GIỚI XẢ HÀNHnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành giới xả hành là gì?

Giới đức giới xả hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.

Giới hạnh giới xả hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới xả hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Tu tập Giới xả hành cũng giống như tu tập Giới hỷ hành. Vậy muốn biết cách thức tu tập chúng ta nên lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập về tâm xả, này La Hầu La, do tu tập sự tu tập về tâm xả, cái gì thuộc về hận tâm sẽ được trừ diệt”.

Như đã nói ở trên tu tâm xả cũng giống như tu tâm hỷ. Muốn hiểu rõ nghĩa thì chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy Gia chủ Dasama: “Này gia chủ Dasama Tỳ Kheo an trú biến mãn một phương, 2 phương, 3 phương, 4 phương, phương trên, phương dưới, bề ngang hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên giới, câu hữu với tâm xả và an trú vững chắc nơi trạng thái này quảng đại vô biên không hận, không sân”.Do ở trạng thái không hận, không sân tâm sẽ được đoạn trừ các lậu hoặc... nhờ đó tâm giải thoát hoàn toàn. Cho nên kinh dạy: “Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc... chưa chứng đạt, được chứng đạt”.

Cách thức tu tập tâm xả cũng giống như cách thức tu tập tâm hỷ phải dùng pháp như lý tác ý “đứng trước các ác pháp và các cảm thọ: thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ, ta đều xả hết”. Khi xả phải luôn luôn tác ý như sau: “Thọ lạc ta không nên ưa thích, không dính mắc theo chúng; thọ khổ ta không hề sợ hãi, không hề dao động, đó là tâm xả”.

Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh tức là dùng năng lực Xả Giác Chi để nhập Tứ Thiền. Năng lực Xả Giác Chi là năng lực cuối cùng của tâm xả. Đầu tiên chúng ta tu tập tâm xả là tu tập ý thức xả. Ý thức xả là tu tập xả tâm vô lượng. Tu tập xả tâm vô lượng có nhiều cách thức, có từ thấp lên cao:

1- Xả Tâm Vô Lượng là tu tập xả tâm câu hữu với hơi thở, tức là nương hơi thở để tác ý xả tâm.

2- Trên Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu tức là quét các chướng ngại pháp trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp.

3- Ngồi quét tâm như ông Châu Lợi Bàn Đặc.

4- Mọi sự tham muốn, mọi sự giận hờn phiền não. Mọi sự lo toan sợ hãi, mọi sự khổ đau tai nạn, mọi bệnh tật, v.v.. chúng ta đều giữ tâm bất động bằng phương pháp Định Niệm Hơi Thở. Đó là cách thức xả tâm vô lượng.

5- Giữ gìn tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ thì đó là xả tâm vô lượng.

Ví dụ 1: Ta muốn xả tâm tham ăn thì nên tác ý: “Phải từ bỏ tâm tham ăn tôi biết tôi hít vô, xả tâm tham ăn tôi biết tôi thở ra”hay tâm đang sân dữ dội, thì ta nên tác ý: Xả tâm sân tôi biết tôi hít vô, xả tâm sân tôi biết tôi thở ra”. Cứ năm hơi thở tác ý một lần; tác ý đều như vậy một lúc sau là tâm tham ăn hay tâm sân liền biến mất.

Ví dụ 2: Có một trạng thái tưởng nào xuất hiện trong thân tâm ta, muốn xả trạng thái đó thì ta nên nương vào hơi thở mà tác ý ngay trạng thái đó: “Trạng thái tưởng này phải xả ra, ta không chấp nhận, hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”.Khi tác ý như vậy xong thì ta tiếp tục hít thở ra vô năm hơi thở như vậy rồi tiếp tục tác ý như câu trên. Phương pháp tác ý cho thân tâm trở lại bình thường hoặc tác ý chừng nào trạng thái ác tưởng không còn nữa. Khi trạng thái tưởng đã hết thì nên tác ý: “Tâm thanh thản an lạc và vô sự, hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”.

Khi tâm đã thanh thản bình thường thì nên tác ý câu khác, “Tâm phải xả tất cả các ác pháp và lòng ham muốn, hít vô tôi biết tôi hít vô; tâm phải xả tất cả các ác pháp và lòng ham muốn, thở ra tôi biết tôi thở ra”.

GIỚI HÀNH THỨ HAI MƯƠI: GIỚI BẤT TỊNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống GIỚI BẤT TỊNH HÀNHnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của giới bất tịnh hành là gì?

Giới đức giới bất tịnh hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.

Giới hạnh giới bất tịnh hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới bất tịnh hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Chúng ta thường tu tập Định Vô Lậu. Trong Định Vô Lậu có pháp dạy quán thân này bất tịnh. Từ đó, chúng ta quán xét thân bất tịnh, thuần biết thân chúng ta hoàn toàn là những chất thứ bất tịnh hôi thối không có vật gì trong đó là quý báu, chỉ toàn là các duyên bất tịnh hợp thành. Do nhiều đời lầm chấp cho thân này là tốt đẹp, là quý báu là của ta, là ta, là bản ngã của ta. Do sự lầm chấp như vậy nên có những việc xảy ra xúc phạm đến thân tâm của ta thì ta lại phát sân hận, tức tối, phiền não khổ đau. Sự sân hận, tức tối, phiền não khổ đau là do tâm tham ái thân này vậy. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập về bất tịnh, này La Hầu La, do tu tập sự tu tập về bất tịnh cái gì thuộc về tham ái được diệt trừ”.

Như lời Phật dạy trên đây chúng ta quán thân bất tịnh thì sẽ diệt trừ được tâm tham ái. Vậy muốn quán thân bất tịnh thì xin các bạn vui lòng đọc lại kinh Thân Hành Niệm dạy về cách thức quán thân bất tịnh: “Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo nên quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên trên cho đến đỉnh tóc bao bọc bởi da chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt: “Trong thân này đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tuỷ, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, phân, mật, đàm, miên dịch, mủ, máu, mồ hôi, nước ở khớp xương, nước tiểu, v.v.. Này các Tỳ kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như: gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt và đổ các hột ấy ra và quán sát: “Đây là hột gạo đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hột lúa đã xay rồi”. Cũng vậy này các Tỳ Kheo, một Tỳ Kheo quan sát thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên chỗ đến đỉnh tóc, bao bọc bởi da chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt”.

Trên đây là lời Phật dạy quán thân bất tịnh. Khi quán sát thân thấu suốt thân này bất tịnh như thật thì còn đâu tham ái thân này nữa. Phải không các bạn?

Thấy biết như thật những chất trong thân này quá dơ bẩn, không thể che dấu được chúng ta nhìn thấy thật sự trên thân ta và mọi người: phân phẩn, mồ hôi, nước tiểu, đờm dãi, ghèn, nước mũi, nước miếng đều có mùi hôi thối, nếu ai nghe, thấy, ngửi đều ghê tởm, đều muốn tránh xa. Ai ai cũng biết nó bất tịnh dơ bẩn thì còn ai dám sờ mó, đụng chạm đến những đồ bất tịnh đó. Phải không các bạn?

Còn những người nào chưa quan sát xem xét thấy thân này bất tịnh, dơ bẩn, hôi thối, thì tâm còn ưa thích. Tâm còn ưa thích thân này là còn tâm sắc dục; tâm sắc dục còn là còn thấy sắc dục là hạnh phúc, là khoái lạc; còn thấy sắc dục là hạnh phúc, là khoái lạc là tâm còn tham ái. Cho nên khi tu tập giới bất tịnh hành thì đối trị tâm tham ái. Tâm tham ái diệt là tham, sân, si diệt. Tham, sân, si, diệt là giải thoát. Vậy các bạn hãy tu tập và giữ gìn giới bất tịnh hành này nghiêm chỉnh thì tâm tham ái của các bạn sẽ được diệt trừ.

Vì thế hằng ngày chúng ta phải chuyên tu tập đúng pháp như lý tác ý nương thân hành nội ngoại.

Câu tác ý thứ nhất: “Sắc dục chỉ là tâm tham ái nên không thấy thân này bất tịnh, uế trược, bẩn thỉu, hôi thối phải từ bỏ, phải xa lìa chúng, tâm phải luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự”.

Câu tác ý thứ hai: “Thân này bất tịnh, uế trược, hôi thối chúng ta phải từ bỏ tâm sắc dục, tôi biết tôi hít vô, tôi biết tôi thở ra”.

Câu tác ý thứ ba: “Thân này là thân bất tịnh hôi thối ta phải xa lìa, đừng tham ái nó tôi biết tôi đang đi kinh hành”.

Pháp như lý tác ý quá cụ thể rõ ràng, hằng ngày phải siêng năng tu tập một cách nhiệt tâm, nhiệt tình thì mới có hiệu quả làm chủ được cuộc sống sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.

Chúng ta lại tiếp tục quán xét thân bất tịnh như trong kinh Tứ Niệm Xứ hay kinh Thân Hành Niệm. Nếu thân này chết khoảng 4, 5 ngày thì trương phồng lên, xanh đen, lại nứt nẻ, nước vàng chảy ra, mùi hôi thối xông lên rất khó chịu, khiến cho mọi người không ai dám lại gần, nếu đem thân này quăng bỏ trong nghĩa địa đừng chôn thì các loại chim như: quạ, diều hâu, chim kên, chó, gà và tất cả các loại côn trùng ăn. Thân này tánh chất là như vậy, không có cách nào vượt khỏi tánh chất ấy, dù ta đem phơi khô hay ướp một thứ thuốc nào thì thân bất tịnh vẫn là bất tịnh, tính vô thường hoại diệt thì không thể nào thoát ra qui luật vô thường hư hoại được.

Chúng ta hãy đọc lại đoạn kinh Tứ Niệm Xứ mà đức Phật đã dạy: “Lại nữa này các Tỳ kheo, Tỳ kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại nát thối ra. Tỳ kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tính chất là như vậy, bản tính là như vậy không vượt khỏi tính chất ấy”.

Nhìn thấy xác thân bất tịnh, tính chất hôi hám trương phồng rữa thối bất tịnh khiến ta không còn chấp trước cho thân này là đẹp đẽ cao quí; cho thân này là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Mọi người lầm chấp thân này tốt đẹp, trong sạch, sự thật chỉ là tấm thân bất tịnh hôi thối tan rã hoại diệt. Khi tư duy như vậy nhiều lần khiến ta nhàm chán thân tứ đại, nhàm chán đến mức độ ghê tởm không còn xem thân là vật quý trọng nữa.

GIỚI HÀNH THỨ HAI MƯƠI MỐT: GIỚI VÔ THƯỜNG HÀNH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống GIỚI VÔ THƯỜNG HÀNH nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của giới vô thường hành là gì?

Giới đức giới vô thường hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.

Giới hạnh giới vô thường hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới vô thường hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Mọi vật trên thế gian này do các duyên hợp thành. Do các duyên hợp thành nên vạn vật thường thay đổi. Sự thay đổi ấy gọi là vô thường; sự vô thường là hiện tượng của sự đau khổ, sự hoại diệt, sự tan rã, sự không bền vững, sự mất mát, v.v..

Phần đông con người ở thế gian này đều cho các pháp là thường còn, thường hằng, bất biến, chứ ít ai nghĩ rằng các pháp là vô thường. Từ khi đạo Phật ra đời con người mới biết được bốn chân lý của loài người, mới biết được các pháp hiện có mặt do duyên hợp, mới biết được các pháp là vô thường khổ đau, mới biết được các pháp là vô ngã, không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Có quan sát như vậy chúng ta mới có cái nhìn tính chất các pháp vô thường như thật, không còn lầm lạc.

Muốn cho sự hiểu biết như thật thì chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập về vô thường. Này La Hầu La, do tu tập sự tu tập về vô thường cái gì thuộc về ngã mạn được diệt trừ”.

Bài kinh giáo giới La Hầu La này dạy: “tu tập về sự tu tập vô thường” thật tuyệt vời. Vậy cái gì là vô thường?

Thưa các bạn, tất cả các pháp trong thế gian này đều vô thường như trên đã nói, nhưng thấy các pháp vô thường như thật thì phải nhiệt tâm tu tập hết sức, nếu không tu tập hết sức thì chẳng bao giờ thấy các pháp vô thường như thật.

Người không tu tập về các pháp vô thường thì cho rằng các pháp là có thật. Do thấy các pháp có thật nên mới cho các pháp là của ta, là ta, là bản ngã của ta. Từ chỗ thấy hiểu biết sai lệch mới có sự chấp ngã; từ chỗ chấp ngã mới sanh ra ngã mạn; từ chỗ ngã mạn mới sanh ra tham, sân, si mạn, nghi. Biết thế đức Phật mới dạy giới hành các pháp vô thường để diệt ngã xả tâm ly ác pháp. “Này La Hầu La, do tu tập sự tu tập về vô thường cái gì thuộc về ngã mạn được diệt trừ”. Lời dạy này rất đúng, nếu ai đặt trọn lòng tin mà thực hiện lời dạy này thì sẽ chấm dứt khổ đau.

GIỚI HÀNH THỨ HAI MƯƠI HAI: GIỚI HÀNH NIỆM HƠI THỞ RA, HƠI THỞ VÔ

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống GIỚI HÀNH NIỆM HƠI THỞ RA, HƠI THỞ VÔnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô là gì?

Giới đức giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.

Giới hạnh giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Trước khi muốn tu tập về giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô thì các bạn hãy lắng nghe lời đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập về niệm hơi thở vô, hơi thở ra, làm cho sung mãn, nên được quả lớn, được lợi ích lớn. Và này La Hầu La, thế nào là tu tập niệm hơi thở ra, hơi thở vô làm cho sung mãn nên được quả lớn, được lợi ích?”.

Ở đây lời dạy này có những danh từ khó hiểu như: làm cho sung mãn, được quả lớn, được lợi ích lớn. Vậy làm cho sung mãn như thế nào? Được quả lớn, được lợi ích lớn như thế nào?

Chữ sung mãn có nghĩa là đầy đủ, sung túc, tràn đầy, dư thừa không thiếu hụt. Tóm lại, trước khi thực hiện nghĩa này thì phải tập an trú tâm trọn vẹn trong hơi thở. An trú tâm trọn vẹn trong hơi thở tức là biết hơi thở vô, hơi thở ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái, an lạc, đó là làm cho tràn đầy sung túc, dư thừa, không thiếu về niệm hơi thở.

Quả lớn là gì?

Quả lớn có nghĩa là kết quả to lớn của sự tu tập về hơi thở vô, hơi thở ra. Quả lớn còn nghĩa là kết quả của sự tu tập đạt được sự giải thoát một cách cụ thể rõ ràng, hay nói cách khác là làm chủ được sanh, già, bệnh, chết tức là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.

Được lợi ích lớn là gì?

Lợi ích lớn có nghĩa là:

1- Đời sống được an vui, hạnh phúc không có ác pháp nào làm dao động được tâm, tâm luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự, thường thản nhiên trước mọi dục lạc thế gian, mọi sự cám dỗ vật chất, mọi ác pháp, v.v..

2- Làm chủ được tuổi già có nghĩa là khỏe mạnh quắc thước như một thanh niên cường tráng.

3- Làm chủ được mọi bệnh tật không sợ ốm đau như người thường tục.

4- Làm chủ được sự sống chết, muốn sống thì sống, muốn chết thì chết.

5- Chấm dứt tái sanh luân hồi.

Trên đây là năm điều lợi ích lớn của kiếp sống làm người do tu tập hơi thở vô, hơi thở ra.

Vậy trước khi muốn tu tập giới hành hơi thở vô, hơi thở ra thì chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Ở đây này La Hầu La, vị Tỳ Kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô, vị ấy thở ra”.

Đọc đoạn kinh này chúng ta cần lưu ý những từ sau đây: khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng, an trú chánh niệm trước mặt, tỉnh giác.

Vậy khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống là địa điểm để tu tập, có nghĩa là tìm nơi chốn yên tịnh, vắng vẻ để tu tập hơi thở vô, hơi thở ra. Nếu địa điểm không tìm được như trên đức Phật đã dạy, thì sự tu tập về hơi thở vô hơi thở ra rất khó khăn. Các bạn lưu ý những lời dạy này, vì nó rất cần thiết cho sự tu tập của các bạn, xin các bạn nên nhớ kỹ. Các bạn đừng cho rằng bất cứ nơi đâu tu cũng được thì đức Phật dạy điều này để làm gì? Có quan trọng đức Phật mới dạy như vậy. Đừng nghe theo những nhà Đại thừa và Thiền tông. Họ chỉ nói suông:“Bất cứ chỗ nào tu cũng được, tu trong bốn oai nghi, tu trong công việc làm”. Lời nói này đi ngược lại lời dạy của đức Phật.

Ngồi kiết già là gì?

Ngồi kiết già là tư thế ngồi xếp bằng tréo hai chân đan vào nhau. Đó là tư thế ngồi của người tu thiền định. Tư thế ngồi này rất vững chắc để thân tâm dễ gom vào một đối tượng thân hành nội (hơi thở).

Ví dụ: Đi, đứng, nằm ngồi, co tay, duỗi chân, ngước nhìn, nói nín, ăn, nhai nuốt, hơi thở vô, hơi thở ra, v.v.. đều là thân hành, nhưng phải rõ tất cả thân hành của thân là thân hành ngoại chỉ trừ có hơi thở là thân hành nội. Như vậy chúng ta phải hiểu rõ mới có thể tu tập được.

An trú chánh niệm là gì?

An trú chánh niệm là ở yên ổn trong niệm chân chánh. Niệm chân chánh là gì?

Trong đạo Phật có bốn chỗ niệm chân chánh:

1/ Niệm thân.

2/ Niệm thọ.

3/ Niệm tâm.

4/ Niệm Pháp.

Chữ chánh niệm ở đây gồm chung có 4 niệm, như vậy an trú chánh niệm tức là an trú trong bốn niệm. Vậy an trú bốn niệm một lần có được không? An trú bốn niệm một lần là tu tập Tứ Niệm Xứ. Cho nên Tứ Niệm Xứ còn gọi là Chánh Niệm.

Ngoài bốn niệm: thân, thọ, tâm, pháp còn có niệm nào khác nữa không?

Trên thân gồm có hai niệm:

1.        Thân hành niệm nội.

2.        Thân hành niệm ngoại.

Trên thọ gồm có ba niệm:

1-        Niệm thọ lạc.

2-        Niệm thọ khổ.

3-        Niệm thọ bất lạc bất khổ.

Trên tâm gồm có hai niệm:

1-Niệm tịnh.

2-Niệm động.

Trên pháp gồm có hai niệm:

1-        Niệm thiện.

2-        Niệm ác.

Ở đây, bài pháp này đức Phật đang dạy La Hầu La về hơi thở vô, hơi thở ra, vì thế chánh niệm ở đây phải hiểu là thân hành niệm nội, tức là hơi thở vô hơi thở ra. Vậy an trú chánh niệm trước mặt tức là an trú hơi thở vô, hơi thở ra ở trước mặt.

Tỉnh giác nghĩa là gì? Tỉnh giác nghĩa là biết rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ, biết rất kỹ lưỡng, biết không có mờ mịt một chút xíu nào cả. Ở đây chúng ta nên hiểu đức Phật dạy La Hầu La phải biết rất kỹ từng hơi thở vô, từng hơi thở ra.

Người giữ gìn giới hành hơi thở vô hơi thở ra có nghĩa là tu tập an trú trong hơi thở vô hơi thở ra phải biết rất rõ ràng, không được để quên, để mất, để mờ mịt hơi thở vô ra.

Vì tâm chúng ta hay quên (vô ký) nên phải dùng pháp tác ý dẫn tâm tỉnh giác mãi mãi làm cho tâm sáng suốt thấy biết rất rõ ràng từng hơi thở vô, ra:“Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. An trú được trong hơi thở là đạt được căn bản về phương pháp tu Định Niệm Hơi Thở.

 Để thực hiện giới hành này chúng ta nên theo lời đức Phật dạy Tôn Giả La Hầu La mà tu tập như sau:

Trước tiên chúng ta tìm nơi vắng vẻ, yên tịnh, rồi tập ngồi kiết già lưng thẳng, sau khi tập ngồi kiết già lưng thẳng được có nghĩa là ngồi tréo chân mà không thấy khó chịu, hoặc đau hoặc tê chân chừng nửa tiếng đồng hồ. Khi ngồi được nửa tiếng đồng hồ yên ổn thì mới đặt niệm hơi thở vô, hơi thở ra trước mặt và tác ý như sau: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Khi tác ý xong câu này ta truyền lệnh: “Hít”, truyền lệnh xong ta mới hít vô, tỉnh giác rất kỹ theo hơi thở vô. Sau khi hơi thở vô hết ta truyền lệnh “Thở”, khi truyền lệnh xong ta mới thở ra và phải sáng suốt tỉnh giác theo hơi thở ra. Cứ như vậy mà tu tập 1 phút. Nếu tu tập 1 phút sức tỉnh giác rất tốt không quên hơi thở nào, có nghĩa là trong một phút không bao giờ ta quên hơi thở, mà cũng có nghĩa là trong một phút không có một niệm vọng tưởng nào xen vào được.

Nếu một phút tu tập tốt, ta tăng lên 2 phút, rồi 3 phút, rồi 4, 5 phút. Sau khi đạt được 5 phút rất tỉnh giác hơi thở ra vô, ta tăng 6, 7, 8, 9, 10. Sau khi tăng lên 10 phút ta soát xét xem lại toàn bộ cơ thể có xảy ra trạng thái gì không?

Ví dụ: nặng đầu, nặng mặt, choáng váng chóng mặt, v.v.. Khi có những trạng thái như vậy xảy ra thì nên báo cho Thầy biết để kịp thời sửa lại cho đúng cách tu tập để không bị ức chế tâm khiến thân không rối loạn cơ bắp và thần kinh, v.v..

Trong giới hành về hơi thở vô, hơi thở ra có 19 đề mục tu tập:

ĐỀ MỤC THỨ NHẤT

1- Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra. Đó là đề mục thứ nhất để tu tập nhiếp tâm trong hơi thở. Đề mục này tập trung tâm tại nhân trung giữa hai lỗ mũi, biết hơi thở ra vô tại chỗ đó, chứ không được theo hơi thở vô lồng ngực và ngược lại hơi thở từ lồng ngực chạy ra. Nếu các bạn nhiếp tâm được 30’ mà không quên hơi thở tức là không có tạp niệm xen vào thì đó là các bạn đã tu tập viên mãn đề mục thứ nhất. Khi tu tập viên mãn đề mục thứ nhất thì các bạn nên xin Thầy kiểm tra hơi thở để xin tu tập đề mục thứ hai.

ĐỀ MỤC THỨ HAI

2-Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tối biết tôi thở ra dài. Đề mục này có mục đích là làm giảm nhẹ nơi tập trung tâm. Theo Phật giáo không được tập trung tâm một chỗ, vì tập trung tâm một chỗ rất nguy hiểm có thể làm rối loạn các cơ và thần kinh gây ra bệnh tưởng.

Khi tu tập đến đề mục này thì chú ý vào hơi thở chậm và nhẹ, vì khi tác ý như vậy thì hơi thở bắt đầu thở chậm và nhẹ một cách tự nhiên, chứ không dùng các cơ vận dụng thở chậm và nhẹ. Dùng các cơ vận dụng thở chậm và nhẹ là sai. Ở đây chỉ cần tác ý hơi thở chậm nhẹ thì tự động hơi thở sẽ thở chậm nhẹ, lúc bấy giờ chúng ta chỉ cần tác ý theo đề mục đã trạch pháp câu: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tối biết tôi thở ra dài”.

ĐỀ MỤC THỨ BA

3-Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn; thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn. Đó là đề mục thứ ba của Định Niệm Hơi Thở, khi chúng ta muốn hơi thở ngắn thì tác ý câu này: Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn; thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn”. Đây là cách điều khiển hơi thở ngắn bằng pháp như lý tác ý. Xin các bạn lưu ý. Do tu tập về hơi thở nên phải làm chủ được hơi thở. Muốn thở dài thì hơi thở dài, muốn hơi thở ngắn thì hơi thở ngắn. Khi nào chúng ta thở dài thở ngắn mà không thấy có sự rối lọan hô hấp đó là chúng ta đã thành công làm chủ hơi thở. Riêng về phần tu tập hơi thở thì nên tu tập hơi thở bình thường là tốt nhất, không nên vận dụng hơi thở dài hoặc hơi thở ngắn.

ĐỀ MỤC THỨ TƯ

4- Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra. Đây là đề mục dời tụ điểm không còn thấy hơi thở ra vô tại nhân trung nữa. Mỗi lần hít thở cảm nhận sự rung động toàn thân. Trong pháp Thân Hành Niệm dạy: “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra”. Chỗ này tu tập khi nào từng hơi thở cảm nhận được sự rung động của toàn thân thì đó là kết quả của đề mục này.

ĐỀ MỤC THỨ NĂM

5-An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra. Đây là một đề mục rất quan trọng trong sự tu tập mà đức Phật thường nhắc nhở: “Nhiếp tâm và an trú tâm”. Từ đề mục thứ nhất đến đề mục thứ tư là những đề mục nhiếp tâm, còn đề mục thứ năm này là đề mục an trú tâm, chứ không còn là đề mục nhiếp tâm nữa. Đề mục này rất quan trọng và lợi ích to lớn trong việc đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm và pháp. Đề mục này tu xong cũng giống như người lính đánh trận có chiến hào, vì thế tất cả cảm thọ không thể tấn công được. Đây là phương pháp làm chủ bệnh mà Tứ Niệm Xứ thường dạy: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”. “Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu”. “Trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu”. “Trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu”. Các bạn nên lưu ý đề mục này nó rất quan trọng trong sự tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

ĐỀ MỤC THỨ SÁU

6- Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra.Đề mục này là để hướng dẫn chúng ta ý thức nhận xét sự hoạt động của tâm theo từng hơi thở ra vô chứ không phải biết hơi thở ra vô bình thường. Do đó, mỗi lần hít vô hay thở ra chúng ta đều lắng nghe tâm đang có niệm hay không niệm. Khi tu tập lắng nghe tâm từng hơi thở mà thấy tâm lặng lẽ bất động không một niệm xen vào trong suốt 30’ hay 1 giờ là chúng ta đã đạt được kết quả tu tập về đề mục này.

ĐỀ MỤC THỨ BẢY

7- An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra.Khi tâm chúng ta đang bị động mà không có cách nào làm cho nó an được, chúng ta sử dụng ngay đề mục này bằng phương pháp như lý tác ý: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở”. Cứ mỗi lần tác ý như vậy là chúng ta cảm nhận như tâm chúng ta có một sự an ổn trong im lặng và mỗi lần hơi thở ra vô là tràn ngập sự an ổn của thân và tâm. Nếu kết quả này kéo dài từ một giờ đến 2 giờ là chúng ta đã hoàn thành đề mục này.

ĐỀ MỤC THỨ TÁM

8- Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra.Khi thân tâm được an trú trong hơi thở vô, hơi thở ra thì suốt trong thời gian tu tập hơi thở các bạn thỉnh thoảng tác ý câu này: “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra”. Nương vào hơi thở vô ra và tác ý như vậy thì giúp cho các bạn có một nội lực mạnh mẽ thân vô thường thật sự. Từ đó thân kiến kiết sử bị đoạn dứt. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Tứ Niệm Xứ.

ĐỀ MỤC THỨ CHÍN

9- Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thọ vô thường tôi biết tôi thở ra.Đề mục này tu tập như đề mục thứ tám quán thân vô thường để thấm nhuần thọ vô thường thật sự khiến khi thân có bệnh tật khổ đau tâm không dao động sợ hãi. Đó là mục đích của đề mục này. Vậy muốn tâm bất động trước các cảm thọ thì đề mục này phải cần siêng năng tu tập không được biếng trễ. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Tứ Niệm Xứ.

ĐỀ MỤC THỨ MƯỜI

10- Quán tâm vô thường tôi biết tôi hít vô; quán tâm vô thường tôi biết tôi thở ra.Người ở ngoài đời cũng như các tôn giáo khác trong đó có Đại thừa, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Pháp Hoa Tông, Mật Tông v.v.. đều cho tâm này là linh hồn, là Phật tánh, là Tánh Không, là Chơn như, là trí tuệ Bát Nhã, là bản thể của vạn hữu v.v.. Đó là một sự hiểu biết lầm lạc bằng ảo tưởng, tâm là một xứ trong Tứ Niệm Xứ: Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Cho nên quán tâm vô thường cũng như quán thọ hay quán thân vô thường vậy.

Hằng ngày quán tâm vô thường để chúng ta không bị kiến chấp Linh hồn, Phật tánh thường hằng của tà giáo ngoại đạo. Và luôn nhờ có quán tâm vô thường nên từng tâm niệm sanh khởi chúng ta không bị dính mắc và chắp đắm. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Tứ Niệm Xứ.

ĐỀ MỤC THỨ MƯỜI MỘT

11- Quán các pháp vô thường tôi biết tôi hít vô; quán các pháp vô thường tôi biết tôi thở ra.Đây là một đề mục tu tập hơi thở trong pháp môn Tứ Niệm Xứ để thấm nhuần các pháp đều vô thường, nhờ thế các pháp đến với chúng ta là chúng ta đều buông xả sạch, vì chúng ta hiểu:

“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!

Chớ giữ làm chi có ích gì?

Thở ra chẳng lại còn chi nữa,

Các pháp vô thường buông xuống đi!

Đề mục này siêng năng tu tập khi đã thấm nhuần thì có ích lợi rất lớn, đó là nhìn các pháp mà không dính mắc, không chấp trước. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Tứ Niệm Xứ

ĐỀ MỤC THỨ MƯỜI HAI

12- Quán ly tham tôi biết tôi hít vô; quán ly tham tôi biết tôi thở ra.Theo lời đức Phật dạy chỉ cần từ bỏ được tâm tham là nhập vào Niết Bàn, chấm dứt tái sanh luân hồi. Như vậy hằng ngày các bạn thường tác ý câu: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô; quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Khi tâm tham đã được ly ra thì tâm chúng ta luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

ĐỀ MỤC THỨ MƯỜI BA

13- Quán ly sân tôi biết tôi hít vô; quán ly sân tôi biết tôi thở ra. Nếu một tâm sân đã được từ bỏ sạch thì Niết Bàn ở tại đó. Chỉ cần chuyên tu tập một đề mục này từ bỏ được tâm thì con đường tu của Phật giáo đâu mấy khó khăn. Phải không các bạn? Đức Phật đã đem lời dạy này ra bảo đảm với chúng ta: “Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A La Hán nói đến. Và tôi đã được nghe. Này các Tỳ Kheo hãy từ bỏ một pháp, Ta bảo đảm cho các Ngươi không đi đến lại (tái sanh). Thế nào là một pháp? Sân, này các Tỳ kheo là một pháp các Ngươi hãy từ bỏ. Ta bảo đảm cho các Ngươi không đi tái sanh. Thế Tôn nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến”. Theo lời dạy trên đây chúng ta chỉ cần tu tập một đề mục này cũng đủ chứng đạo quả giải thoát, chấm dứt tái sanh luân hồi chỉ trong một đời này mà thôi.

ĐỀ MỤC THỨ MƯỜI BỐN

14- Quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi thở ra.Đề mục này tu tập cũng giống như đề mục “Quán ly tham…”, nhưng ở đây “Từ bỏ” mạnh hơn. Vậy khi tu tập ly được tâm tham thì chúng ta lại kế tiếp tu tập từ bỏ tâm tham thì lại thấm nhuần nhiều hơn và tâm tham sẽ bị diệt trừ.

ĐỀ MỤC THỨ MƯỜI LĂM

15- Quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi thở ra. Đề mục này tu tập cũng giống như đề mục“Quán ly sân” nhưng ở đây nó mạnh hơn là do “Quán từ bỏ tâm sân”. Nếu người nào bền chí tu tập, chỉ một đề mục này cũng đủ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

ĐỀ MỤC THỨ MƯỜI SU

16-Quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi thở ra. Đề mục tu tập này có một sự quyết liệt mạnh mẽ hơn những đề mục trên vì “đoạn diệt tâm tham”. Ở trên chỉ có“ly” “từ bỏ” mà thôi. Tại sao chỉ có tâm tham mà phải ba đề mục tu tập cẩn thận như vậy?

Kính thưa các bạn! Tâm tham dục là một nguyên nhân sinh ra muôn thứ khổ đau của loài người. Vì thế, nó rất quan trọng đệ nhất trong các pháp ác. Cho nên, tu tập tới đề mục này các bạn phải có sự quyết định mạnh mẽ không thể lôi thôi với tâm tham dục được.

ĐỀ MỤC THỨ MƯỜI BẢY

17- Quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi thở ra. Đề mục này cũng có một sự quyết định cuộc đời tu hành của mình được hay không được. Nếu một người tu hành mà tâm sân còn thì có nghĩa lý gì là một tu sĩ. Phải không các bạn?

Sân là một tính rất xấu và cực ác, lúc sân nó có thể giết người làm bất cứ một việc gì, lúc sân, nó cũng không sợ bất cứ một thứ gì. Biết sự nguy hiểm của tâm sân như vậy, nên chúng ta quyết liệt đoạn diệt tâm sân tận gốc không còn để một chút xíu trong tâm. Phải chấm dứt ngay liền. Chính dứt được tâm sân là Niết bàn ngay liền tại đây, đâu có xa gì?

ĐỀ MỤC THỨ MƯỜI TM

18- Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra.Đây là đề mục phá tâm si. Các bạn phải cố gắng tu tập với đề mục tu tập này cho nhuần nhuyễn. Khi tu tập đã nhuần nhuyễn thì không bao giờ có hôn trầm thùy miên và vô ký đến thăm các bạn. Nếu các bạn tu tập chưa nhuần nhuyễn thì các bạn sẽ bị hôn trầm thùy miên đánh gục. Hôn trầm thùy miên là một pháp cực ác đối với những người hành theo Phật giáo.

ĐỀ MỤC THỨ MƯỜI CHÍN

19- Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra.Đây là đề mục cuối cùng của Định Niệm Hơi Thở, khi tất cả các đề mục trên đều đã hoàn tất viên mãn thì đến đề mục này là tâm bất động hoàn toàn có nghĩa là tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm ở trạng thái không phóng dật. Xưa đức Phật đã xác định cho chúng ta biết trạng thái này là cứu cánh Niết Bàn: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật, muôn pháp lành cũng đều nơi đó sinh ra”.

GIỚI HÀNH THỨ HAI MƯƠI BA: GIỚI HÀNH NHÃN CĂN

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống GIỚI HÀNH NHÃN CĂN nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của giới hành nhãn căn là gì?

Giới đức, giới hành nhãn căn là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.

Giới hạnh, giới hành nhãn căn là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới hành nhãn căn như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Mỗi con người sanh ra trên đời này đều phải có đủ sáu căn đó là:

1/ Nhãn căn

2/ Nhĩ căn

3/ Tỷ căn

4/ Thiệt căn

5/ Thân căn

6/ Ý căn

Sáu căn này tức là mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý.

Hôm nay chúng ta tu học về giới hành nhãn căn. Chúng tôi xin giảng dạy về phần này. Vậy tu tập về giới hành nhãn căn như thế nào?

Trước khi muốn học về giới hành nhãn căn thì chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, con nghĩ thế nào? Con mắt là thường hay là vô thường?

-    Bạch Thế Tôn là vô thường.

-    Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

-    Bạch Thế Tôn là khổ.

-    Cái gì vô thường, khổ chịu sự biến hoại thời có hợp lý chăng, khi quán cái ấy: “cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?”.

-    Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”.

Cuộc vấn đáp giữa đức Phật và La Hầu La, chúng ta đã rút ra được một bài học, từ sự quán xét và tư duy của mình về giới hành nhãn căn tức là con mắt. Con mắt của ta là chất duyên hợp: đất, nước, gió, lửa cấu hợp thành; khi con mắt tan rã thì đất trả cho đất, nước trả cho nước, gió trả cho gió, lửa trả cho lửa; khi trả xong ta chẳng còn cái gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta nữa. Phải không các bạn?

Đủ các duyên hợp lại thành mắt; hết duyên tan rã nó chẳng còn gì. Như vậy mắt đâu phải là ta, của ta, bản ngã của ta; mắt chỉ là một dụng cụ của nhân quả duyên hợp để nhân quả dùng nó tiếp xúc và thấy mọi vật; do tiếp xúc và thấy mọi vật mới sinh ra các cảm thọ; từ các cảm thọ mới sinh ra dục ái, dục ái tức là lòng ham muốn dính mắc chấp trước của ta. Do sự dính mắc chấp trước của ta nên ta mới hiểu lầm lạc con mắt là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Do sự lầm chấp như vậy mới sinh ra vô số lậu hoặc; lậu hoặc tức là sanh, già, bệnh, chết ưu bi sầu khổ từ kiếp này đến kiếp khác.

Mục đích của giới hành tu tập này là để giúp ta hiểu đúng mọi sự vật như thật. Như vậy con mắt là vật vô thường là khổ đau. Đó là điều hợp lý mà không thể có ai chối cãi phủ nhận được. Phải không các bạn?

Khi học tu giới hành con mắt ta nên in đậm trong trí và quyết chắc, tin chắc con mắt là vật vô thường là sự khổ đau, không phải của ta, là ta, là bản ngã của ta.

GIỚI HÀNH THỨ HAI MƯƠI BỐN: GIỚI HÀNH SẮC TRẦN

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống GIỚI HÀNH SẮC TRẦN nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của giới hành sắc trần là gì?

Giới đức giới hành sắc trần là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.

Giới hạnh, giới hành sắc trần là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới hành sắc trần như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Vậy con mắt để làm gì? Con mắt dùng để trông thấy hình sắc của các pháp trần. Vậy pháp trần là gì?

Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, con nghĩ thế nào? Sắc trần là thường hay vô thường?

- Bạch Thế Tôn, là vô thường.

- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

- Bạch Thế Tôn là khổ.

- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: “cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?”.

- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”.

Tất cả pháp trần đều gồm có không ngoài sáu pháp:

1/ Sắc trần

2/ Thinh trần

3/ Hương trần

4/ Vị trần

5/ Xúc trần

6/ Pháp trần

Khi quán thấy sáu pháp trần này là vô thường, là khổ, là chịu sự biến hoại, nó không phải là ta, của ta, bản ngã của ta. Vậy ta còn ưa thích nó làm gì; nó là pháp khổ, mang đến khổ cho ta. Cho nên từ đây chúng ta phải có đôi mắt nhìn thấy các pháp trần là thấy sự khổ đau; nó chẳng hạnh phúc gì mà chấp nhận, mà dính mắc; cần phải tránh xa và thường nhắc tâm chớ nên ưa thích, phải từ bỏ, phải đoạn lìa.

Nhờ sự tu tập thấy biết sáu pháp trần này là pháp khổ đau nên quyết tâm xa lìa, từ bỏ, vì thế chúng ta mới đủ can đảm sống và chấp nhận một đời sống ba y một bát, với tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không, chẳng còn một pháp nào làm vướng bận tâm ta. Chùa to, Phật lớn, nhà cửa cao rộng, tiền bạc châu báu nhiều cũng không mê hoặc ta, cũng không làm cho ta ưa thích. Danh lợi dù cao sang tột đỉnh, ta xem như mây khói giữa hư không, như nước chảy qua cầu.

Hiểu thấu rõ các pháp trần không phải của ta, là ta, là bản ngã, thì ta từ bỏ chúng xa lìa chúng dễ dàng, chẳng bao giờ còn nuối tiếc, luôn luôn sợ hãi chúng. Cho nên, mỗi lần có ai cúng dường cho mình một vật dùng gì, một món ăn gì hoặc tiền bạc y áo chúng ta đều sợ hãi, vì những vật đó là rắn độc sẽ giết ta chết trong giới luật, và làm ta mất đường đi đến sự giải phóng trong mặt trận sanh tử luân hồi.

Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp là những pháp đáng lưu ý và cần phải tránh xa, từ bỏ. Là người tu sĩ Phật giáo, ta phải sống như Phật “chứng đạo dưới gốc cây, chết nằm dưới gốc cây mà chết”. Sống được như vậy sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp trần mới không tác động tâm ta được.

GIỚI HÀNH THỨ HAI MƯƠI LĂM: GIỚI HÀNH NHÃN THỨC

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống GIỚI HÀNH NHÃN THỨCnghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của giới hành nhãn thức là gì?

Giới đức, giới hành nhãn thức là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.

Giới hạnh, giới hành nhãn thức là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới hành nhãn thức như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.

Trên đây, chúng ta đã học về Giới hành nhãn căn. Giới hành sắc trần và tiếp đến là Giới hành nhãn thức. Vậy giới hành nhãn thức như thế nào?

Trước khi muốn tu học về giới hành nhãn thức thì chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, con nghĩ thế nào, nhãn thức là thường hay là vô thường?

-    Bạch Thế Tôn, là vô thường.

-    Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

-    Bạch Thế Tôn, là khổ.

-    Cái gì vô thường, khổ chịu sự biến hoại thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: “cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là bản ngã của tôi?”.

-    Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”.

Đọc những đoạn kinh vấn đáp trên đây của đức Phật và La Hầu La chúng ta rút ra được một bài pháp tu học có hiệu quả xả tâm ly dục ly ác pháp diệt ngã, diệt tâm tham, sân, si, v.v.. dễ dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức và kết quả giải thoát rất thực tế, rõ ràng, cụ thể.

Đoạn kinh này đức Phật đã xác định: “Nhãn thức (tánh thấy) là vô thường, là khổ là biến hoại, không thường hằng, di dịch, thường thay đổi”, không như Đại thừa và Thiền Tông nghĩ nó là thần thức, là Phật tánh. Đoạn kinh này đã làm đảo lộn cái hiểu của Đại Thừa và Thiền Tông mà từ xưa đến nay cho thấy cái nhãn thức này không phải là của ta, là ta, là bản ngã của ta. Sự thật nhãn thức này chỉ là do các duyên nhân quả tạo thành theo nghiệp lực của nó làm nên như trên đã nói. Đức Phật dạy: “Thân người do thừa tự của nghiệp mà có”,chứ nào phải đâu do một linh hồn hay một thần thức đi tái sanh luân hồi mà có.

Trong sắc uẩn gồm có sáu thức:

1/  Nhãn thức

2/  Nhĩ thức

3/  Tỷ thức

4/  Thiệt thức

5/  Thân thức

7/  Ý thức

Trong thân người nào cũng có đủ sáu thức này, nhóm sáu thức này có chung một cái tên gọi là sắc thức.

Nhóm sáu thức này còn gọi là sáu tên gác cửa thành. Sáu tên gác cửa thành này nó có quyền hạn rất lớn, muốn cho ai vào thành thì mới được vào, còn không muốn cho ai vào thì không ai được vào. Do có quyền hạn lớn như vậy nên đức Phật dạy chúng ta biết cách sử dụng sáu tên gác cửa thành này để ngăn cản không cho kẻ ác vào thành. Nhờ đó mà thành trì này được bình an, vô sự.

Chúng ta đọc lại đoạn kinh giới hành thứ 23, 24 tức là học về Giới hành nhãn căn và Giới hành sắc trần; học về Giới hành nhãn căn tức là học về bản đồ của sáu cửa thành; học về Giới hành sắc trần là học về sáu tên giặc ở bên ngoài thường hay vào thành khủng bố và xâm chiếm thành. Còn Giới hành thứ 25 là học về sáu người lính giữ thành tức là sáu thức.

Ở những bài kinh trên đây cho chúng ta thấy biết rất rõ ràng: Thân chúng ta là thành; sáu căn là sáu cửa thành; sáu trần là sáu tên giặc; sáu thức là sáu người lính gác thành. Đó là một kịch trường của nhân quả tạo ra để chúng ta diễn tuồng thất tình lục dục, chứ chẳng có gì là chân thật là của chúng ta cả. Do vô minh mà chúng ta lầm chấp là có thật. Một trò ảo ảnh của nhân quả, thế mà loài người trên hành tinh này có mấy ai biết rõ ràng. Phải không các bạn?

Đây là vũ trụ quan của Phật giáo qua ba giới tượng trưng này: nhãn sắc giới” là con mắt tiếp xúc với sắc trần giới. Sắc trần là hình sắc, hình tướng của vạn vật, khi căn trần tiếp xúc nhau thì sinh ra cảm thọ mới sinh ra “sắc thức giới”. Có sáu thức mới có ái dục. Do căn, trần, thức họp nhau, nên gọi là lục nhập. Do lục nhập mà thế giới quan của Phật giáo mới hiện bày cả một sự khổ đau.

Cho nên đức Phật dạy: “sáu căn, sáu trần, sáu thức, là vô thường, là khổ là biến hoại, chúng không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta”. Do sự thấu hiểu này ta mới biết rõ, đây là một trò ảo kịch của nhân quả. Do biết chúng là trò ảo kịch, chúng ta không chấp nhận. Vì thế, đối với chúng ta, chúng làm gì ta vẫn thản nhiên bất động. Ví như con mắt nhìn thấy mọi vật, biết rõ mọi vật mà không sinh tâm tham đắm ham muốn mọi vật. Đó là cách thức yểm ly con mắt, yểm ly các sắc, yểm ly các thức, yểm ly các xúc. Muốn thấy rõ sự yểm ly, xin các bạn hãy đọc lại đoạn kinh Giáo Giới La Hầu La thì rõ: “ Này La Hầu La, do thấy vậy vị đa văn Thánh đệ tử yểm ly con mắt, yểm ly các sắc, yểm ly nhãn thức, yểm ly nhãn xúc, do duyên nhãn xúc này được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức. Vị ấy yểm ly luôn phóng khởi lên”.

Do lục nhập này ta không chấp nhận; ta không chấp nhận tức là yểm ly. Do sự yểm ly ta ly tham, ly sân, ly si; do ly tham ly sân, ly si mà ta được giải thoát khi tâm ly sạch tham, sân, si. Tự trong tâm sạch tham, sân, si là thanh tịnh, là ta đã có sự hiểu biết rằng ta đã tu tập xong.

Trong sự giải thoát là có sự hiểu biết: “sanh đã tận phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trong trạng thái này nữa”. Đến đây chấm dứt những bài kinh Giáo Giới La Hầu La. Nhưng nólà những giới luật căn bản nhất của người mới vào tu theo Phật giáo mà kết quả không thua kém bất cứ những vị Trưởng lão nào trong Phật giáo.

Nếu người mới vào tu theo Phật giáo mà không được hướng dẫn tu tập theo giáo pháp giới luật căn bản này thì không bao giờ tìm thấy sự giải thoát chân thật.

Dựa vào những lời dạy giới luật của đức Phật cho người Sa Di đầu tiên trong Phật giáo (La Hầu La) chúng tôi biên soạn thành bộ Giới Hành Đức Thánh Sa Di để những người mới bước chân vào đạo Phật, ngay từ phút đầu tiên tu tập vẫn tìm thấy sự giải thoát thật sự.

Do bộ sách này được truyền thừa 2548 năm từ đất nước Ấn Độ. Khi truyền sang đến nước Việt Nam trên 2000 năm văn hiến của đất nước này, hôm nay được chúng tôi biên soạn thành một sách đạo đức Việt Nam lấy tên là VĂN HÓA ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TẬP I.

SO SÁNH GIỮA BỔN VÀ GIỚI KINH

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống giới luật khẩu hành nghiệp nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành là gì?

Giới đức khẩu hành nghiệp là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh ngữ nghiệp.

Giới hạnh khẩu hành nghiệp là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua những khẩu hành nghiệp như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh khẩu nghiệp.

Như các bạn đã biết trong tạng kinh Nikaya, hầu hết những bài kinh Phật thuyết đều nói về cách thức ngăn ngừa và diệt trừ các ác pháp để luôn luôn giữ gìn và tăng trưởng thiện pháp tức là giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Đối với Phật Giáo, thiện pháp là giới luật của Phật, cho nên khi dạy ông Anan hay dạy ông La Hầu La..., những bài kinh ấy đều có tên là Giáo giới Anan hay giáo giới La Hầu La...; những bài pháp ấy gọi là “Giới kinh”. Còn một vài bài kinh khác chỉ dạy về sự sai lầm của giáo pháp Bà La Môn nên nó không được xem là giới luật mà thôi.

Như các bạn đã đọc Mười Giới Đức Thánh Sa Di, do từ bộ giới bổn Patimoka tôi biên soạn ra, tuy biết rằng bộ giới bổn này là của các Tổ biên soạn, nhưng tôi thấy các Tổ dựa vào những giới kinh Phạm Võng nên không có gì sai, chỉ sai một điều là biến giới đức, giới hạnh, giới hành thành bộ Giới cấm. Bộ Giới cấm Ba La Mộc Xoa Đề này đã làm mất hết ý nghĩa tự giác, tự nguyện sống đời sống Phạm hạnh của Phật giáo. Bởi vì giới cấm là bắt buộc người khác phải thi hành không được vi phạm hơn làđể mọi người tự nguyện, tự giác chấp nhận không phạm giới là vì lý do giải thoát mọi khổ ách cho chính mình.

 Phật giáo ra đời vì lợi ích cho loài người, nên Phật giáo không bao giờ dụ dỗ và cũng không bao giờ bắt buộc một ai giữ gìn cái này, tu tập cái kia. Bạn đến với đạo Phật là đến với sự giải thoát an vui cho chính bạn, chứ đạo Phật không có mong cầu bạn đến với đạo Phật để mang lợi ích gì cho đạo Phật. Đạo Phật không cần chùa to, Phật lớn, không cần cúng bái tụng niệm, v.v.. chỉ cần người đến với đạo Phật là không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ chúng sanh.

Cho nên, bộ giới cấm này thay vì là bộ giới đức, giới hạnh, giới hành, để trở thành một nếp sống có văn hóa, có đạo đức nhân bản làm người, nhưng các Tổ không hiểu ý Phật nên đã biến bộ Giới luật này thành pháp luật của một quốc gia để trừng trị những phạm nhân. Vì thế, khiến cho tu sĩ Phật giáo bị ức chế thân tâm trong giới cấm. Cho nên trong những tập Đường Về Xứ Phật tôi có nói: “Từ khi có giới cấm ra đời thì tu sĩ càng phạm giới nhiều hơn”là lý do này.

Tại sao khi có giới luật tu sĩ lại phạm giới nhiều hơn? Tại vì do giới cấm ức chế tâm tham dục, trong khi tu sĩ chưa có pháp tu tập ly tham dục. Do vì thế tu sĩ lén lút làm những điều phi pháp, không đúng Phạm hạnh, thường vi phạm vào giới cấm. Khi đã vi phạm thì họ rất xấu hổ với những người khác, với chính lương tâm họ, vì thế, họ tìm cách bẻ vụn giới ra để vi phạm mà không bị lương tâm cắn rứt và tránh khỏi bị mọi người chỉ trích. Xin các bạn đọc một kinh giới do các Tổ khéo luận để bẻ vụn giới ăn phi thời: “Chư thiên ăn trước giờ ngọ, Phật ăn giờ ngọ, chúng sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn đêm”. Đó là một đoạn giới bổn mà các Tổ sử dụng nó như một chiếc bùa hộ mạng đối với nam, nữ Phật tử.

Giới cấm uống rượu thì lại dạy rằng: “Cấm uống rượu say, chứ không cấm uống rượu”. Cho nên tu sĩ hiện giờ ăn uống phi thời, lại còn nghiện ngập thuốc lá, rượu, cà phê, trà, v.v..

Đạo Phật là đạo xả tâm, nhưng giới cấm là một phương pháp ức chế tâm, thành thử giới bổn đi ngược lại giới kinh hay nói cách khác là đi ngược lại giáo pháp của Phật khiến cho những người tu học theo Phật giáo không tìm thấy sự giải thoát, mà càng tu lại càng khổ đau hơn. Do thế hiện giờ tuy có giới bổn mà tu sĩ thì phạm giới bẻ vụn giới tan nát; còn giới đức, giới hạnh, giới hành thì chẳng ai biết đến. Trong khi ấy đức Phật dạy La Hầu La đầy đủ các giới, từ giới cấm mà không cấm, đến giới đức, giới hạnh và cuối cùng là giới hành. Như vậy tính ra giới luật của người Sa di mới vào tu phải tu học 104 giới cộng thêm 100 giới chúng học nữa là 204 giới, chứ không phải chỉ có thập giới Sa Di như các Tổ đã dạy.

Sau khi tu học xong bộ giới luật này, chúng tôi sẽ biên soạn tiếp bộ “Giới Hạnh Oai Nghi Thánh Sa Di”, giúp những ai mới bước chân vào đạo Phật, để có những oai nghi tế hạnh của một bậc Thánh đệ tử Phật.

vvv

 

HẾT PHẦN HAI

 

MỤC LỤC TẬP I

MỤC LỤC PHẦN I

1- Phần I                                                                       5

2- Giới thiệu Mười Giới Đức Sadi                         6

3- Lời nói đầu                                              7

4- Lời bạt                                                  15

5- CHƯƠNG I                                             21

6- Giới Đức Thánh Sa Di thứ nhất                22

7- Giới Đức Thánh Sa Di thứ hai                  36

8- Giới Đức Thánh Sa Di thứ ba                   46

9- Giới Đức Thánh Sa Di thứ tư                    58

10- Giới Đức Thánh Sa Di thứ năm               69

11- Giới Đức Thánh Sa Di thứ sáu                79

12- Giới Đức Thánh Sa Di thứ bảy                90

13- Giới Đức Thánh Sa Di thứ tám              105

14- Giới Đức Thánh Sa Di thứ chín             114

15- Giới Đức Thánh Sa Di thứ mười            126

16- Tổng quát mười giới                             135                     

 

MỤC LỤC PHẦN II

1- Phần II                                                                 157

2- Lời nói đầu                                          158

3- Tiểu sử La Hầu La                                162

4- Lời giới thiệu lịch sử Sadi đầu tiên          163

5- La Hầu La                                           164

6- Cậu bé hạnh phúc                                 164

7- Cậu bé không biết mặt cha                     167

8- Thầy Sa Di đầu tiên                              170

9- Giáo giới La Hầu La                              173

10- Thầy Sa Di có thể ở chung                    177

11- Đức nhẫn nhục                                    179

12- Lịch trình chứng đạo                           184

13- Nhập diệt                                           187

14- 25 Giới hành Thánh Sa Di                   190

15- Giới thiệu giới bộ giới hành Sadi           191

16- Giới hành thứ nhất                              195

17- Giới hành thứ hai                                204

18- Giới hành thứ ba                                 209

19- Giới hành thứ tư                                 212

20- Giới hành thứ năm                              233

21- Giới hành thứ sáu                               251

22- Giới hành thứ bảy                               256

23- Giới hành thứ tám                              259

24- Giới hành thứ chín                              261

25- Giới hành thứ mười                             264

26- Giới hành thứ mười một                       269

27- Giới hành thứ mười hai                        273

28- Giới hành thứ mười ba                         275

29- Giới hành thứ mười bốn                       278

30- Giới hành thứ mười lăm                       281

31- Giới hành thứ mười sáu                        284

32- Giới hành thứ mười bảy                       289

33- Giới hành thứ mười tám                       294

34- Giới hành thứ mười chín                      298

35- Giới hành thứ hai mươi                        302

36- Giới hành thứ hai mươi một                 308

37- Giới hành thứ hai mươi hai                  311

38- Giới hành thứ hai mươi ba                   330

39- Giới hành thứ hai mười bốn                             333

40- Giới hành thứ hai mười lăm                  337

41- So sánh giữa giới bổn và giới kinh         343

42- Mục lục phần I                                    348

43- Mục lục phần II                                  349

 


GIỚI THIỆU SÁCH

1.      Đường về xứ Phật (Mười tập, bộ mới).

2.      Những lời gốc Phật dạy (4 tập, bộ  mới - 2011).

3.      Văn hóa Phật giáo truyền thống (2 tập, bộ mới - 2011).

4.      Đạo đức làm người (Tập I, II...).

5.      Cẩm nang tu Phật (Hai tập).

6.      Thiền căn bản.

7.      Hành thập thiện & Tứ vô lượng tâm.

8.      Những chặng đường tu học của người cư sĩ.

9.      Thời khóa tu tập trong thời Đức Phật.

10.  Diễn đàn Chơn Như (tức Giáo án tu tập cho người cư sĩ vì chánh Phật pháp) (Tập I - VII).

11.  Giáo án rèn nhân cách lớp Ngũ Giới: Đức Hiếu Sinh (Tập I, II, III).

12.  Giáo án rèn nhân cách lớp Ngũ Giới: Đức Ly Tham (Tập I...).

       13.  Giáo án rèn nhân cách lớp Ngũ Giới:      Đạo Đức Gia Đình (Tập I...).

14.  Mười Đức Thánh Sa Di (Tập I, II).

15.  Giới đức Thánh Tăng, Thánh Ni.

16.  Định niệm hơi thở.

17.  Phật giáo có đường lối riêng biệt.

18.  Pháp môn niệm Phật tứ bất hoại tịnh

19.  Nghi thức thọ trai.

20.  Những lời tâm huyết...

21.  Mười hai cửa vào đạo (2009).

22.  Tạo duyên giáo hóa chúng sinh (mới 2009).

23.  Lòng yêu thương (2009).

24.  Linh hồn không có (2010 quý I).

25.  Muốn chứng đạo phải tu pháp môn nào? (2010)

26.  Ba mươi bảy phẩm trợ đạo (2010).

27.  Giới đức làm người – 2 tập (bộ mới - 2010).

28.  Lịch sử chùa Am (bộ mới - 2010).

29.  Linh hồn không có – tái bản lần I  (2010 quý IV).

30.  Sống một mình như con Tê Ngưu

31.  Lòng yêu thương – tập 2 (2011 quý I)

 

 


Trang mạng toàn cầu của các phật tử có đăng tải sách của Trưởng lão Thích Thông Lạc:

http://www.chonnhu.net    http://www.chonlac.org

 

Ước mong mọi người sẽ cùng nhau sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh.


PHẬT TỬ XIN ẤN TỐNG KINH

“VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRUYỀN THỐNG –TẬP I”

 

-          Phật tử Hà Nội

-          Phật tử Thái Nguyên

-          Phật tử Hải Phòng

-          Phật tử Bắc Ninh

-          Phật tử Hà Nam

-          Phật tử Ninh Bình

-          Phật tử Nghệ An, Hà Tĩnh

-          Phật tử Đồng Hới, Quảng Bình

-          Phật tử Phú Yên

-          Phật tử Đà Nẵng

-          Phật tử Huế Thừa Thiên

-          Phật tử Ninh Thuận

-          Phật tử Nha Trang, Khánh Hòa

-          Phật tử TP Hồ Chí Minh

-          Phật tử Đồng Nai

-          Phật tử Cần Thơ

-          Phật tử Đồng Tháp

-          Phật tử Châu Đốc, An Giang

-          Phật tử Cái Bè, Cai Lậy

-          Phật tử Long An

-          Phật tử Tây Ninh

-          Phật tử Lâm Đồng, Đà Lạt

-          Phật tử Tiền Giang, Mỹ Tho

-          Phật tử Sóc Trăng, Bạc Liêu

-          Phật tử Cà Mau, Nam Căn

-          Phật tử Bà Rịa, Vũng Tàu

-          Phật tử Phước Hải, Long Đất

-          Phật tử Hóc Môn, Bà Điểm

-          Phật tử Củ Chi, Gia Định

-          Phật tử Bình Dương

-          Phật tử Gò Dầu, Bến Cầu

-          Phật tử Tra Vỏ, Giang Tân

-          Phật tử Cẩm Giang

-          Phật tử Phước Hiệp

-          Phật tử Gia Bình, Bàu Tre

-          Phật tử Bình Lái, Lái Thiêu


VĂN HÓA PHẬT GIO TRUYỀN THỐNG –TẬP I

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

Phường Yên Hòa – Q.Cầu Giấy - Hà Nội

ĐT: (04) 37822845 - Fax: (04) 37822841

Chịu trách nhiệm xuất bản:

Nguyễn Công Oánh

Biên tập: Trần Xuân Lý

Bìa & Trình bày: Ngọc Phúc

Sửa bản in: Ngọc Phúc

Đối tác liên kết:

TU VIỆN CHƠN NHƯ

Điệnthoại: 066.3892911 - 0988094445

      Email: chonnhu2@gmail.com


Slượng in: 2.000 bản, khổ: 13 x 20,5 cm

In tại CTY CPHN IN KHUYN HC PHÍA NAM
(Tp.HCM. ĐT: 38164415)

Sốxuất bản: 1171-2010/CXB/111-248/TG

Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống (tập 2)

LỜI NÓI ĐẦU

Văn Hoá Truyền Thống là những bài pháp dạy về đời sống đức hạnh cho mọi người, không riêng cho những tu sĩ và cư sĩ Phật giáo. Cho nên những ai muốn sống đúng đức hạnh làm người, dù có tôn giáo hay không tôn giáo thì Văn Hoá Truyền Thống vẫn là những bài học đạo đức tốt cho họ. Văn Hóa Truyền Thống chính là những bài học đạo đức làm Người, làm Thánh của Phật giáo, nhưng nó là của chung của loài người, vì nó là đức hạnh nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai, nó là những hành động đạo đức sống cao thượng, biết thương mình, thương người tuyệt vời mà mọi người cần phải trau dồi hằng ngày, nó là giới luật của mọi con người cần phải giữ gìn nghiêm chỉnh. Nếu ai đã biết giới luật này mà không giữ gìn nghiêm chỉnh thì người ấy chỉ là một người vô minh, không sáng suốt, tự chuốc lấy mọi sự đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác.

Những tu sĩ và cư sĩ Phật giáo đều là những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư Sĩ. Vì thế, trong đời sống hiện tại trên thế gian này, hằng ngày quý vị phải biết cách thức sống đúng đạo đức nhân bản – nhân quả thì sự an vui hạnh phúc mới thật sự là chân thật. Do muốn biết cách thức sống đúng đạo đức nhân bản – nhân quả nên phải biết rõ ràng từng hành động thân, khẩu, ý của mình như thế nào đúng và như thế nào sai giới luật, sai giới luật tức là phạm giới. Sống đúng giới luật là sống đúng đức hạnh, sống đúng đức hạnh là sống thương yêu nhau, đem lại sự an vui hạnh phúc cho nhau. Sống phi giới luật là sống vô đạo đức, sống vô đạo đức là sống đem khổ cho nhau, chẳng biết thương nhau.

Kính thưa các bạn! Các bạn đừng hiểu lầm, những người sống đúng giới luật là sống đặc dị, sống không giống như mọi người bình thường. Không đâu các bạn ạ! Họ sống đúng giới luật nhưng vẫn sống bình thường như bao nhiêu người khác, nhưng họ lại phải vượt qua những cái bình thường của mọi người, vì những cái bình thường của mọi người có những cái phi đạo đức, thường làm khổ mình, khổ người. Cho nên người tu sĩ và cư sĩ Phật giáo phải luôn luôn dè dặt, cẩn thận từ hành động nơi thân, nơi lời nói và nơi sự suy nghĩ. Hành động thân, lời nói và sự suy nghĩ của mình đều phải thể hiện một đời sống đúng đức hạnh nhân bản – nhân quả, luôn luôn thực hiện không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Những hành động ấy phải được thực hiện rất cụ thể, thực tế và rõ ràng, chứ không thể nói suông như các vị tu sĩ Phật giáo phát triển Đại thừa và Thiền tông hiện nay.

Ví dụ 1: Đời sống bình thường của con người, một ngày phải ăn ba bữa để sống, thì người tu sĩ Phật giáo không thể ăn ba bữa như mọi người mà lại ăn một bữa, nhưng vẫn sống bình thường, làm việc bình thường mà lại còn ít bệnh tật, khoẻ mạnh. Như vậy trong cái sống bình thường như mọi người, nhưng lại vượt qua cái bình thường, cho nên trở thành cái phi thường. Có đúng như vậy không các bạn?

Ví dụ 2: Đời sống bình thường của con người, mỗi khi gặp những chuyện bất toại nguyện hay bị người khác mạ nhục, mạt sát thì dễ sinh buồn phiền, giận hờn, căm tức v.v.. Ngược lại người tu sĩ Phật giáo khi gặp những chuyện bất toại nguyện hay bị người khác mạ nhục, mạt sát thì họ phải làm sao? Đứng trước cảnh ấy, tâm họ vẫn thản nhiên, bình an và vô sự, không hề có một chút tâm phiền não, ưu bi, sầu khổ hay giận hờn, oán ghét, căm tức người đang mạ lị, mạt sát, làm mình khổ. Như vậy, rõ ràng sống trong cái bình thường như bao nhiêu người khác, nhưng lại vượt lên cái bình thường, cho nên trở thành cái phi thường. Ví thế, đức Phật thường dạy các đệ tử của mình khi đứng trước các ác pháp thì phải hiểu rằng: “Đứng lại thì chìm xuống, tiến tới thì trôi dạt, chỉ có vượt qua”. Vậy vượt qua cái bình thường của mọi người tức là cái phi thường mà đức Phật thường nhắc nhở: “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”. Đó chính là giới hành của các bạn.

Cho nên, những cái bình thường mà lại phi thường là như vậy, ấy là đức hạnh của con người, của những người cư sĩ và tu sĩ Phật giáo. Vì thế, những giáo pháp dạy về đức hạnh để sống được như vậy nên gọi là “Giới đức, giới hạnh, giới hành”.

Kính thưa các bạn! Giới luật thường trong kinh sách Phật có những bài kinh mang tựa đề trực tiếp như: “Giáo Giới La Hầu La, Giáo Giới A nan, Giáo Giới Ca Chiên Diên, v.v..”

Vì thế, tất cả những bài pháp của đức Phật đều dạy về giới luật cả, dù nó có mang tên Giáo Giới hay không mang tên Giáo Giới, thì các bạn cũng nên hiểu nó là giới luật. Giới luật là thiện pháp, giới luật là đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai và khổ chúng sanh; giới luật là một vị Thầy đức độ đầy đủ, một vị Đạo Sư của mọi người. Giới luật giúp cho con người vượt thoát ra khỏi sông mê biển khổ của cuộc đời. Giới luật còn là một người hướng đạo tốt dẫn đường, dắt lối chúng ta đến bờ giải thoát. Giới luật còn là Phật giáo còn, Giới luật mất là Phật giáo mất. Cho nên đức Phật dạy: “Giới luật ở đâu là tri kiến đó, tri kiến ở đâu thì giới luật đó. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”. Có đúng như vậy không các bạn?

Bởi vậy, con đường tìm tu để thoát ra mọi sự đau khổ của kiếp người, thì giới luật là một pháp môn quan trọng nhất. Cho nên những tu sĩ không tu học giới luật là tu sĩ u mê lạc vào đường tu của ngoại đạo, thật uổng cho một kiếp người, vô tình họ không phải là đệ tử Phật mà là đệ tử của Ma.

 Giới luật quan trọng như vậy chúng ta phải chịu khó nghiên cứu những bài pháp dạy về giới luật, vì trong giới luật có đầy đủ trí tuệ, đức hạnh và những pháp hành ngăn ác diệt ác pháp sanh thiện tăng trưởng thiện pháp cụ thể, thực tế, rõ ràng, v. v…

Những bài kinh dạy về Giới luật được trọn vẹn và đầy đủ nhất của đạo Phật, đó là hai bài kinh trong kinh Trường Bộ tập 1 thuộc tạng kinh Nguyên Thủy Nikaya hệ Pali:

1- Kinh Phạm Võng.

2- Kinh Sa Môn Quả.

Chúng tôi chọn lấy hai bài kinh này và 250 giới Tỳ Kheo Tăng, 348 giới Tỳ Kheo Ni để biên soạn thành bộ Giới Đức, giới Hạnh, giới Hành, của Thánh Tăng, Thánh Ni. Và Thánh Cư Sĩ. Được lấy tên là “Văn Hoá Đạo Đức Truyền Thống Việt Nam”

Mỗi giới luật được chia ra làm ba phần:

1.     Phần thứ nhất dạy về “Giới đức”.

2.     Phần thứ hai dạy về “Giới hạnh”.

3.     Phần thứ ba dạy về “Giới hành”.

ü  Phần thứ nhất dạy về “Giới đức”, là dạy về đức hạnh của mọi người trên hành tinh này nói chung, nói riêng là cho những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư Sĩ.

ü Phần thứ hai dạy về “Giới hạnh”, là dạy về oai nghi tế hạnh những hành động đức hạnh của mọi người trên hành tinh này nói chung, của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư Sĩ nói riêng.

ü  Phần thứ ba dạy về “Giới hành”, là dạy về những phương pháp rèn luyện trau dồi đạo đức cho mọi người trên hành tinh này nói chung, cho những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư Sĩ nói riêng.

Giới luật là pháp môn dạy về phương cách sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Đó là những phương pháp tu tập hằng ngày để ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp như trên đã nói, và cuối cùng để đạt được kết quả giải thoát tâm vô lậu, chứng Thánh quả A La Hán.

Kinh thưa các bậc Tôn Túc!

Kính thưa các bạn Tăng, Ni và các cư sĩ bốn phương!

Kính thưa các bạn! Việc biên soạn bộ giới đức tâm vô lậu Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư Sĩ được mang tên “Văn Hóa Đạo ĐứcTruyền Thống Việt Nam”, chúng tôi dựa vào những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Gotama) trong tạng kinh Nikaya và giảng trạch nghĩa lý theo kinh nghiệm tu hành của chúng tôi đã đạt được, chứ không dựa vào kiến giải, tưởng giải của kinh sách phát triển Đại Thừa và Thiền Tông, nên có những điều chi sơ sót không vừa ý xin các bậc Tôn Túc cao minh, các bạn Tăng, Ni và các cư sĩ hãy bỏ qua những sơ sót ấy và góp ý để bổ sung thêm hoặc bỏ ra những điều thừa, những điều không đúng, chứ đừng lấy những điều sơ sót đó mà chỉ trích bài bác lẫn nhau là không tốt các bạn ạ! Làm như vậy cũng giống như những người có tâm lượng nhỏ mọn hẹp hòi ích kỉ thường vạch lá tìm sâu, vạch lưng mình cho người khác xem thẹo thì không tốt các bạn! Người xưa thường bảo: “Đóng cửa dạy nhau”, đó là điều tốt đẹp nhất trong gia đình, trong tôn giáo. Còn ở đây chúng tôi nói Đại Thừa và Thiền Tông sai là vì những điều sai của Đại Thừa và Thiền Tông đã trở thành một truyền thống mê tín lạc hậu phi đạo đức lâu đời. Chính những truyền thống này nó đã đánh mất nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo chân chánh. Vì thế, chúng tôi nói cái sai của Đại thừa và Thiền tông không có nghĩa là bài bác mà có nghĩa là để dựng lại những gì của Phật giáo đã bị Đaị thừa và Thiền tông đã ném bỏ.

Kính thưa các bậc Tôn Túc!

Kính thưa các bạn Tăng, Ni và cư sĩ bốn phương!

 Chúng tôi đã từng chứng kiến và nghe thấy các bạn Tăng, Ni và các cư sĩ giảng sư thường lợi dụng những buổi thuyết giảng có đông đủ Phật tử bới móc, chỉ trích, mạ lị, mạt sát lẫn nhau. Các bạn ấy họ là những tu sĩ Phật giáo, đều là đệ tử của Phật, họ và các bạn đều là huynh đệ cùng nhau. Thế mà, vì lòng ganh tỵ, ích kỉ, nhỏ mọn, hẹp hòi nên vô tình các bạn ấy nỡ nhẫn tâm cư xử với nhau một cách tồi tệ thật đáng thương hại. Các bạn còn dùng những thơ, văn và băng cassette bài bác, nói xấu nhau để phổ biến khắp nơi, có khi còn đưa lên mạng Internet để cho mọi người toàn cầu biết tu sĩ và cư sĩ Phật giáo tu hành ở chỗ tâm ganh tị tầm cỡ như vậy, thật là đau lòng. Phải không các bạn?

Kính thưa các bạn! Không lẽ vì những cái sai của Phật giáo hiện giờ được chỉnh đốn lại làm cho Phật giáo tốt đẹp hơn, thì các bạn không bằng lòng ư! Sao các bạn không chịu lắng nghe quán xét cho kỹ để xem coi những điều chúng tôi nói có đúng hay sai. Nếu đúng thì chúng ta cùng nhau sửa, nếu sai thì chúng ta cùng rỉ tai mà dạy nhau, có đâu lại làm một điều thiếu suy nghĩ như vậy các bạn ạ!

Kinh thưa các bạn! Chúng ta đừng bắt chước những tín đồ của các tôn giáo khác phân hóa chia rẽ nhiều hệ phái bất đồng chống đối nhau. Đứng trước cảnh này chúng tôi chẳng biết nói và làm cách nào để các bạn hiểu những hành động trên là thiếu trách nhiệm bổn phận của người Phật tử đối với tôn giáo của mình.

Mục đích chúng tôi biên soạn bộ giới luật này là để chỉnh đốn những đức hạnh của những tu sĩ và cư sĩ Phật giáo. Vì hiện giờ có một số tu sĩ sống phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, xem thường giới luật, không biết xấu hổ, lại còn chế ra giới luật mới để phá sạch đức hạnh của tu sĩ Phật giáo, thường khoe khoang lực lượng Tăng, Ni và Phật tử đông đảo rầm rộ, cách thức tổ chức sự học và cấp bằng này cấp bằng nọ của mình mà hành động tu hành và Phạm hạnh chẳng có một chút nào cả, họ đang làm đào kép múa may đóng tuồng trên sân khấu Phật giáo, họ đang làm trò cười cho những người am tường Phật giáo, họ là những người đáng thương, không đáng trách. Tại sao vậy?

Vì các bạn ấy đang chịu ảnh hưởng kiến chấp của kinh sách phát triển Đại thừa và Thiền tông nên vô tình họ diệt Phật giáo mà không hay biết, thật rất tội nghiệp cho những ai tu theo Phật giáo có mắt mà không tròng.

Kính ghi

Tu Viện Chơn Như

LỜI BẠT

Làm người ai cũng biết khen và chê, nhưng phải hiểu rõ, khen chê như thế nào đúng và như thế nào sai?

Cho nên vấn đề khen chê rất quan trọng trong cuộc sống chung đụng và va chạm với mọi người.

Người ở đời không mấy ai lưu ý đến vấn đề này, cho nên khi được khen không cần biết đúng sai, phải trái như thế nào, nhưng tâm họ vẫn hân hoan, vui mừng ra mặt và còn tỏ ra thiện cảm, ưa thích người khen mình; ngược lại khi bị chê bai hoặc bị nói xấu, thì tỏ lộ nét mặt căm tức, giận hờn khổ đau, thù ghét, mất thiện cảm… không ưa thích người đó. Lúc bấy giờ họ không cần biết người khác chê đúng hay chê sai, chỉ biết tức giận và cố trả thù là trên hết.

Người tu sĩ Phật Giáo không nên để tâm bị chi phối bởi lời khen hay tiếng chê như vậy, mà phải hiểu cho rõ ràng: khen như thế nào là khen đúng và khen như thế nào là khen sai. Chê cũng vậy, chê như thế nào là chê đúng và chê như thế nào là chê sai.

Do sự hiểu biết rõ ràng như vậy, cho nên khi được khen không vội mừng vui, khi bị chê không vội buồn bã. Theo như lời đức Phật đã dạy: “Này các Tỳ Kheo, nếu có người hủy báng Phật, hủy báng Pháp, hủy báng Tăng, các ngươi chớ có vì vậy mà sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn, thời như vậy sẽ có hại cho các ngươi, làm cho các người đau khổ, không ích lợi gì? Các ngươi phải nói rõ những điều không đúng sự thật là không đúng sự thật: “Như thế này, điểm này không đúng sự thật; như thế này, điểm này không chính xác; việc này không có giữa chúng tôi, việc này không xảy ra giữa chúng tôi”.

Lời dạy trên đây của đức Phật, chúng ta nên nhớ cho thật kĩ để khi gặp những ai khen hay chê mình thì chớ có vui mừng hay công phẫn, tức giận, đó là tự mình làm cho mình đau khổ. Phải không các bạn?

Khi chúng ta bị chê bai, bị chỉ trích, bị nói xấu, v.v.. Chúng ta đừng vội căm tức, mà nên xem xét người chê bai nói xấu mình hay người khác, họ là người như thế nào? Lời chê của họ có đúng hay sai. Chê họ có dựa đúng vào những tiêu chuẩn đạo đức làm người hay không (giới luật)?

Nếu khen, chê mà không đúng tiêu chuẩn đạo đức này (giới luật) là khen, chê sai. Khen chê sai là người không có chánh tri kiến, người không có chánh tri kiến là người hay làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai, người như vậy rất tội nghiệp chúng ta nên tha thứ và thương yêu họ.

Khi được khen hay bị chê thì chúng ta muốn biết rõ đúng hay sai thì cần phải dựa vào giới luật đức hạnh của Phật giáo như trên đã nói. Phải sáng suốt nhận định nếulời khen kia đúng giới luật, đó là họ khen đúng, còn ngược lại khen không đúng giới luật là khen sai. Chê cũng vậy chê người phạm giới là chê đúng, chê người không phạm giới là chê sai. Chê người phạm giới mà người ta không phạm giới là mình nói xấu người ta, là mình chê sai, mình sẽ bị tội lỗi, phải trả nhân quả tội ác mà không tránh khỏi. Chúng ta hãy lắng nghe lời Đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo, nếu có người tán thán khen Ta, thời các người không nên hoan hỉ, vui mừng, tâm không nên thích thú vì hoan hỉ vui mừng thích thú thời sẽ có hại cho các người”.

“Này các Tỳ Kheo, các người hãy công nhận những gì đúng sự thật là đúng sự thật. Như thế này, điểm này đúng sự thật, như thế này, điểm này chính xác, việc này có giữa chúng tôi, việc này đã xảy ra giữa chúng tôi”. Đây là lời khuyên của đức Phật, chúng ta cần phải lưu ý những lời dạy này, vì nó có một giá trị lợi ích rất lớn đối với đời sống của chúng ta.

Khi chúng ta muốn khen hay chê ai cũng phải dựa vào giới luật, vì giới luật là tiêu chuẩn đạo đức, đúng đắn cho lối sống Thánh thiện của mọi con người. Cho nên người phạm giới luật là người đáng chỉ trích, đáng khinh chê, còn ngược lại người nghiêm trì giới luật là người đáng được khen, đáng được ca tụng: “Này các Tỳ kheo, đấy là những vấn đề không quan trọng nhỏ nhặt, chỉ thuộc giới luật, mà kẻ phàm phu dùng để tán thán Như Lai”.

Đúng vậy, muốn khen hay chê ai chúng ta đều dựa vào giới luật thì sự khen chê mới đúng nghĩa. Vậy giới luật là gì?

Giới luật là thiện pháp như trên đã nói, giới luật là đạo đức làm Người, làm Thánh; giới luật là pháp môn vô lậu, thường mang đến những kết quả giải thoát thực tế, cụ thể, rõ rànghiện tại, không có thời gian chờ đợi cho những người tu sĩ Phật giáo, đến để mà thấy kết quả ngay liền.

Giới luật gồm có nhiều giới, mỗi giới đều có tính chất đặc thù riêng về đức và hạnh của nó. Vì thế, nó mới được mang tên là “Giới Vô Lậu”, nó mới được mọi người cung kính và tôn trọng, chính nó mới đem lại sự an vui hạnh phúc cho cá nhân của mọi người; chính nó mang lại sự êm ấm hạnh phúc cho từng mỗi gia đình; chính nó cũng mang lại trật tự, an ninh cho xã hội và phồn vinh thịnh trị cho đất nước quê hương xứ sở.

Bởi vậy, giới luật là một pháp môn rất quan trọng và vô giá đối với đời sống của con người. Người không có giới luật là người vô đạo đức, thường sống làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Vì thế, mọi người ai ai cũng cần phải học hiểu giới luật, vì học hiểu giới luật thông suốt là cả một sự lợi ích rất lớn, nó sẽ giúp cho mọi người vượt lên mọi sự khổ đau của kiếp làm người và nó chuyển hóa luật nhân quả, khiến cho nhân quả không còn tác dụng trên thân tâm của chúng ta nữa. Nhờ thế, chúng ta đã biến cảnh sống thế gian thành cảnh giới Thiên Đàng, Cực Lạc, một cảnh sống mà mọi người đều ước mơ.

 Kính ghi

    Tu Viện Chơn Như

CHƯƠNG I: GIỚI LUẬT

SỰ LỢI ÍCH THIẾT THỰC, CỤ THỂ TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY CỦA MỌI NGƯỜI

ÍCH LỢI CỦA GIỚI LUẬT LÀ

TIẾNG GỌI THIẾT THA

CỦA ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI TẤT CẢ

CHÚNG SANH

Do sự lợi ích rất lớn của giới luật nên tiếng gọi thiết tha, nhiệt tình của đức Phật Thích Ca Mâu Ni đối với mọi người đã, đang và sẽ tu theo Phật giáo. Những ai muốn tu theo Phật giáo thì phải thấy giới luật là những hành động sống Thánh thiện tuyệt vời, đầy đủ đức hạnh nhân bản làm người – sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Nếu một người sống đúng như vậy thì ước nguyện một điều gì thì điều ấy sẽ thành hiện thực, cho nên lời thiết tha kêu gọi ấy mãi mãi còn vang dậy trong tai chúng tôi: “Này các Tỳ Kheo hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầyđủ giới bổn, sống phònghộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới”. Khi nghe những lời kêu gọi thiết tha, tràn đầy lòng yêu thương của đức Phật Thích Ca Mâu Ni các bạn có bao giờ con tim rung động trước những lời dạy bảo, kêu gọi này không?

Kính thưa các bạn! Khi đọc đến đoạn kinh này chúng tôi không thể cầm được giọt nước mắt, con tim chúng tôi se thắt lại, nhói đau nghĩ đến lòng yêu thương chân thật đối với chúng sanh thật là vô bờ bến của Người. Tình thương của cha, mẹ đối với con cái như núi cao, như biển rộng, sông dài, nhưng so sánh với tình thương của đức Phật còn kém xa các bạn ạ! Do cảm thông được lòng yêu thương của đức Phật Thích Ca Mâu Ni nên chúng tôi quyết tâm cố giữ gìn giới luật trọn đời, thà chết chứ sống không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Nhờ đó mà tâm chúng tôi ly dục ly ác pháp được các bạn ạ!

Kinh Ước Nguyện có mười sáu điều ước nguyện. Năm điều ước nguyện đầu tiên là những điều ước nguyện cho cuộc sống thế gian, còn mười một điều sau là những điều ước nguyện cho cuộc sống xuất thế gian.

Trong cuộc sống hằng ngày con người ai ai cũng ước nguyện cho mọi người thương mến, yêu quý, cung kính, tôn trọng mình v.v.. Đó là sự ước nguyện thứ nhất trong bài kinh này:

Những lời dạy trong kinh Ước Nguyện chúng ta xét thấy do giữ gìn giới luật mà sự ước nguyện thành tựu như ý. Đúng vậy, một người sống đúng giới luật, sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai thì làm sao mọi người không thương yêu, kính trọng người ấy được. Phải không các bạn?

Xét đoạn kinh trên đây chúng ta nhận thấy giới luật là một pháp môn làm nền tảng vững chắc cho sự tu học căn bản của Tăng, Ni và cư sĩ đúng chánh Phật pháp.

Nếu ai sống vi phạm, bẻ vụn giới luật, làm hỏng mất nền tảng giới luật của Phật giáo, là làm mất con đường tu tập giải thoát của mình. Làm mất con đường tu tập giải thoát của Phật giáo thì không bao giờ tu tập làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người: sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi sanh tử. Người phạm giới, phá giới là người làm mất chánh pháp của Phật; là người có tội rất nặng với Phật giáo.

Bởi vậy, ở đời làm người không ai ước nguyện cho mình khổ đau, chịu nhiều tai ương, hoạn nạn v.v.. Khi chúng ta đến với Phật Giáo là đến với sự ước nguyện thoát khổ, hoặc nhờ sự che chở gia hộ của Thần, Thánh, chư Phật, chư Bồ Tát, cho bệnh tật tiêu trừ, tai qua nạn khỏi, chứ có mấy ai đến với Phật giáo mà ước nguyện cho mình đau khổ bao giờ. Phải không các bạn?

Nhưng sự ước nguyện ấy có đạt được như ý muốn hay không là còn tùy ở tôn giáo mình đang theo. Nếu tôn giáo đó đã xây dựng một thế giới siêu hình ảo tưởng thì tôn giáo đó sống không thực tế. Hầu hết các tôn giáo trên hành tinh này đều dựng lên một thế giới siêu hình ảo tưởng (cõi Trời, cõi Cực Lạc, cõi Thiên Đàng, cõi Niết Bàn v.v..) để sống an ủi tinh thần trong mơ tưởng, cho nên những người theo các tôn giáo ấy thường sống trong mê tín, không thực tế, thiếu khoa học, thiếu đạo đức, nên luôn sống dựa vào cơ bút, thần quyền, ảo giác, cúng tế, cầu nguyện v.v.. “Một tôn giáo mà không chứng minh được khoa học là tôn giáo mê tín. Một nền khoa học mà không chứng minh được đạo đức là nền khoa học giết sự sống trên hành tinh”.

Riêng Phật giáo không dạy tín đồ của mình sống trong ảo tưởng của thế giới siêu hình, không nhờ oai lực chư Thần, chư Thánh, chư Phật, chư Bồ Tát từ bi gia hộ cứu khổ, cứu nạn v.v.. mà phải sống rất thực tế bằng những hành động toàn thiện của mình không làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sanh tức là ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Đó là tinh thần tự lực, tự cường trong thiện pháp chuyển ác nghiệp thành phước báo vô lậu[1].

Kính thưa các bạn? Cho nên sự ước nguyện của Phật giáo muốn đạt thành kết quả an lạc, hạnh phúc thật sự, thì phải kèm theo những hành động sống toàn thiện, tức là sống đúng giới luật, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Có sống đúng những hành động thiện (giới luật) như vậy, thì sự ước nguyện kia mới được toại nguyện, còn ngược lại sống không đúng những hành động thiện (giới luật), thì sự ước nguyện kia sẽ không thành tựu.

Kính thưa các bạn! Những hành động thiện là gì?

Những hành động thiện là những hành động do thân, khẩu và ý của mình, không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh. Những hành động thiện ấy là “GIỚI ĐỨC, GIỚI HẠNH, GIỚI HÀNH”.

Vì thế, kinh Ước Nguyện dạy rất rõ ràng: “Này các Tỳ Kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta được các đồng Phạm hạnh thương mến, yêu quý, cung kính và tôn trọng!”. Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Xét qua đoạn kinh trên chúng ta thấy khi muốn ước nguyện một điều gì để đạt được ước nguyện ấy thì tâm bắt buộc phải có đủ sáu điều kiện. Trong sáu điều kiện của tâm thì điều kiện “giới luật” là hàng đầu, nếu giới luật không giữ gìn nghiêm chỉnh thì không bao giờ có “sự kiên trì giữ gìn”. Không bao giờ có sự kiên trì giữ gìn thì chắc chắn phải vi phạm những lỗi nhỏ nhặt trong giới luật, mà đã vi phạm những lỗi nhỏ nhặt trong giới luật, thì nội tâm không được “tịch tĩnh”. Nếu nội tâm không được tịch tĩnh thì “thiền định” sẽ bị gián đoạn; thiền định sẽ bị gián đoạn thì “quán hạnh” sẽ không thành tựu; quán hạnh sẽ không thành tựu thì không bao giờ thích sống “độc cư”, tức là an trú một mình nơi không tịch vắng vẻ.

Một người giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì họ thành tựu luôn năm trạng thái kia của tâm, do thành tựu luôn năm trạng thái kia của tâm thì sự ước nguyện điều chi, họ cũng sẽ đạt được như ý. Phần đông những nhà học giả xưa và nay không có kinh nghiệm tu hành, nên gặp đoạn kinh này họ không giải thích nổi. Vì thế, họ tưởng rằng đây là sáu pháp tu tập, nhưng sự thật chỉ có một pháp duy nhất là giới luật. Giới luật nghiêm trì thì có sáu trạng thái giải thoát:

1- Giới luật thanh tịnh.

2- Kiên trì giữ gìn.

3- Nội tâm tịch tĩnh.

4- Không gián đoạn thiền định.

5- Thành tựu quán hạnh.

6- Thích sống tại các trụ xứ không tịch.

Nếu chia ra làm sáu pháp như vậy là các bạn đã hiểu sai, hiểu không đúng. Vì thế, các bạn hiểu giới luật và thiền định là hai pháp. Họ quên rằng giới luật là thức ăn của thiền định, nếu không có giới luật thì không có thiền định, cho nên thành tựu viên mãn giới luật là có thiền định. Vì lẽ đó, đức Phật dạy: “GIỚI SINH ĐỊNH”,ngoài giới luật đi tìm thiền định thì không bao giờ có thiền định.

Kinh thưa các bạn! Thiền Tông và Đại Thừa bỏ giới luật tu thiền định, vì thế sự tu tập của họ chỉ uổng công chẳng bao giờ gặt hái được những kết quả thiền định làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi, cho nên những người tu theo Thiền Tông và Đại Thừa là những người bỏ mồi bắt bóng.

Ví dụ: Một người giữ gìn giới luật nghiêm túc không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trong giới bổn thì nội tâm sẽ kiên trì, không bao giờ gặp khó khăn bỏ cuộc, nhưng khi tâm đã kiên trì trong giới luật thì nội tâm được tịch tĩnh. Đó là một lẽ đương nhiên. Nội tâm được tịch tĩnh thì tâm thiền định[2] không gián đoạn, nội tâm thiền định không gián đoạn thì tất cả hạnh đều thông suốt, do tâm hạnh được thông suốt thì người ấy thích sống một mình nơi chỗ yên lặng vắng vẻ, vì thế họ không thích hội họp nói chuyện với một ai hết.

Đoạn kinh trên viết rất cô đọng khiến cho những người tu hành chưa chứng rất khó hiểu. Sau khi được giải thích xong mọi người rất dễ hiểu. Phải không các bạn?

Vậy xin các bạn hãy đọc lại đoạn kinh này một lần nữa, để thấy sự liên hệ mật thiết kết thành một chùm kết quả trạng thái an lạc, vô sự của giới luật một cách rõ ràng và cụ thể: “Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Đoạn kinh này cũng giống như trong kinh Thập Nhị Nhân Duyên. Hễ duyên này có thì duyên kia có, duyên này không thì duyên kia không. Vì thế, ở đây chúng ta nên hiểu: Giới luật có thì kiên trì có, kiên trì có thì nội tâm tịch tĩnh có; nội tâm tịch tĩnh có thì thiền định không gián đoạn có; thiền định không gián đoạn có, thì quán hạnh thành tựu có, quán hạnh thành tựu có, thì thích sống độc trú một mình có. Như vậy, chúng ta xét thấy giới luật rất quan trọng trên đường tu tập để đi đến cứu cánh giải thoát. Có đúng như vậy không các bạn?

Do giới luật có tầm quan trọng và lợi ích rất lớn như vậy, nên người tu hành theo Phật giáo cần phải lưu ý. Bởi vì giới luật là pháp vô lậu, là sự giải thoát chân thật của một người sống đúng giới luật. Cho nên trong kinh Ước Nguyện dạy: “Muốn ước nguyện một điều gì thành tựu viên mãn điều ấy thì giới luật là phải giữ gìn nghiêm chỉnh”.

 Hầu hết những tu sĩ theo Phật giáo tu theo kinh sách phát triển Đại Thừa và Thiền Tông không biết giới luật có tầm quan trọng lợi ích lớn như vậy, nên xem thường giới luật, coi giới luật không hợp thời, không phải là pháp môn tu hành chân chánh thiền định. Vì thế, sư thầy lớn, sư thầy nhỏ đều rủ nhau vi phạm và bẻ vụn những giới luật một cách vô trách nhiệm. Họ không biết xấu hổ, không nhận ra đó là nếp sống Phạm hạnh ly dục ly ác pháp của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ. Và cũng chính đó là Thánh hạnh của những bậc Thánh A La Hán.

Giới luật là một pháp môn để mọi người sống có đức hạnh làm Người, làm Thánh. Vì thế, nó mang đến những sự lợi ích thiết thực cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta, nhưng mấy ai đã để ý đến nó, và còn nhiều người cho nó lỗi thời, không hợp với thời đại hiện nay. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy những sự lợi ích của giới luật về đời sống tại gia cũng như đời sống xuất gia.



[1] Vô lậu: không còn đau khổ

[2] Thiền định là sự thanh tịnh của tâm, có nghĩa là tâm trong sạch hết tham sân, si, chứ không phải tâm vắng lặng không niệm thiện, niệm ác.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ NHẤT CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều lợi ích thiết thực thứ nhất của Giới luật là sự ước nguyện cho mình được mọi người thương yêu, quý mến, cung kính, tôn trọng như trên đã nói. Muốn được lòng tin vững chắc thì chúng ta hãy sống đúng giới luật để thấy sự ước nguyện thành hiện thực. Cho nên điều ước nguyện thứ nhất là điều ước nguyện để được mọi người thương yêu quý kính. Vậy chúng ta hãy nghe lời Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta được đồng Phạm hạnh thương mến, yêu quý, cung kính, tôn trọng, Tỳ Kheo sống phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịch”.

Thưa các bạn! Theo như lời Phật dạy trên đây thì khi nào giữ gìn giới luật được nghiêm túc thì có năm đức hạnh khác được viên mãn như trên đã nói. Các bạn đừng nhầm lẫn năm đức hạnh này là năm pháp tu. Năm đức này gồm có:

1-        Đức kiên Trì.

2-        Đức tịch tĩnh.

3-        Đức thiền định.

4-        Đức quán hạnh.

5-        Đức độc cư.

Khi giới luật được nghiêm túc thì năm đức hạnh này được thể hiện viên mãn trong nếp sống hằng ngày của các bạn, do đó mọi người cảm nhận và thấy được năm đức này hiện bày nơi các bạn rõ ràng, nên họ đều quý mến, thương yêu, cung kính và tôn trọng. Cho nên chúng ta phải hiểu những lời dạy trên đây là để nhấn mạnh về sự ước nguyện đạt được kết quả tốt đẹp, rõràng, thực tế, cụ thể do từ hành động sống đúng giới luật.

Đoạn kinh trên đây cho chúng ta thấy đạo Phật có một tiêu chuẩn về sự ước nguyện hay cầu mong một điều gì để đạt được kết quả tốt đẹp như ý muốn, thì giới luật chính là tiêu chuẩn của nó. Hầu hết mọi người sống trên hành tinh này đều có nhiều ước nguyện, nhưng tất cả những ước nguyện ấy không thành tựu, viên mãn được là do họ không biết tiêu chuẩn nào sống để đạt thành kết quả ước nguyện đó, chính họ không biết nên sự ước nguyện của họ trở thành không hiện thực, không kết quả.

Thưa các bạn! Theo chúng tôi nghĩ: không phải mọi người không muốn sống đúng giới luật, nhưng vì họ không biết giới luật. Nhất là không biết giới luật là tiêu chuẩn kết quả của sự ước nguyện, của sự mong ước. Do không biết giới luật là đức hạnh, là thiện pháp, nên họ sống trong ác pháp mà cứ tưởng là thiện pháp. Do sống trong ác pháp mà cầu mong ước nguyện mình được hạnh phúc an vui, thì làm sao có được. Phải không các bạn?

Đó là một điều xác quyết chắc chắn mà đạo Phật đã chủ trương lấy giới luật làm thầy, dạy cho chúng ta thấy rằng tiêu chuẩn sống đạo đức làm Người, làm Thánh chắc chắn không phải pháp môn nào khác hơn là giới luật. Vì thế, mọi người phải chấp hành nghiêm chỉnh giới luật, phải tự nguyện như đức Phật đã dạy: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi”, nhưng đi bằng cách nào?

Thưa các bạn! Đi bằng tri kiến. “Tri kiến ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu thì tri kiến ở đó, giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”. Nhờ có thắp đuốc tri kiến và giới luật thì những ước nguyện của bạn mới toại nguyện, chứ không ai giúp cho ai được, dù chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh, chư Thần v.v.. cũng đành bó tay trước sự công bằng của luật nhân quả.

Sống trong ác pháp (phạm giới) mà cầu mong mình được hạnh phúc, an vui thì làm sao đạt được. Phải không các bạn?

Không đạt được, nên các bạn phải dựa lưng vào thế giới siêu hình bằng sức tưởng uẩn của chính mình để thể hiện những trạng thái siêu hình linh thiêng ban phước giáng hoạ. Những trạng thái siêu hình ấy là để thỏa mãn lòng ước mơ và cũng làm chỗ nương tựa tinh thần, khi gặp tai nạn, bệnh tật nan y hay bất cứ một việc gì khó khăn xảy đến trong đời sống.

Vì không tự tin nơi mình nên các bạn phải sống trong ảo tưởng. Do sống trong ảo tưởng nên thế giới siêu hình mới xuất hiện. Có thế giới siêu hình, từ đó loài người tưởng mình dựa lưng vào thế giới đó sẽ có sự an vui, hạnh phúc chân thật, nào ngờ lại phải chịu khổ thêm vì gánh nặng của thế giới siêu hình này, công sức và sự tốn hao của cải, tài sản của các bạn chi phí cho thế giới này gần như chiếm hết 1/10 tài sản của loài người trên hành tinh này để xây dựng và nuôi dưỡng những người hành nghề mê tín ảo tưởng này mà mọi người đều gọi là tôn giáo.

Đức Phật biết rõ tâm niệm của loài người thường ước nguyện cho cuộc sống của mình được hạnh phúc, an vui, nhưng họ lại không biết cách thức nào, đường lối nào sống để đạt được hạnh phúc, an vui ấy. Bản chất con người phần đông là hay tự ti mặc cảm, tự thấy mình quá yếu đuối trước những uy lực của vũ trụ vô hình hoặc những hiện tượng hữu hình vĩ đại như sông, núi, rừng, biển, thời tiết, nắng, mưa gió, bão, sấm sét, lũ lụt, thiên tai, hỏa hoạn, bệnh tật, tai ương v.v.. Khiến cho loài người quá sợ hãi, kinh khủng và khiếp đảm. Họ cảm thấy như mình quá nhỏ bé trước hình sắc và sức mạnh của vũ trụ lúc nào cũng đang đe dọa họ.

Thưa các bạn! Đứng trước những sự hùng vĩ của vũ trụ như vậy, con người chưa biết nguyên nhân nào tạo ra vạn vật và sức mạnh kinh khủng ấy. Vì thế, sự khổ đau chính bản thân của họ lại chồng chất lên những sự khổ đau khác của ngoại cảnh nữa.

May mắn thay! Trong loài người, lại sản sinh ra một bậc vĩ nhân. Người ấy cũng như bao nhiêu con người khác, nhưng đã khắc phục được thân tâm mình, từ đó người ấy đã khám phá ra những nguyên nhân tạo nên sự vĩ đại của vũ trụ và chính người ấy biết rất rõ những nguyên nhân của nó. Vì vậy, người ấy đã dạy cho con người biết cách để khắc phục những sức mạnh kinh khủng ấy. Cách thức để khắc phục làm chủ sức mạnh kinh khủng ấy, tức là cách thức làm chủ thân tâm mình. Người ấy chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Trong kinh Ước Nguyện đã dạy mọi người những điều ước nguyện rất rõ ràng và cụ thể. Khi muốn sự ước nguyện được thành tựu viên mãn thì nên căn cứ vào giới luật mà sống. Vì giới luật là thiện pháp, là đạo đức của mọi người. Như vậy chúng ta suy nghiệm lời dạy của đức Phật là lấy thiện pháp chuyển hóa ác pháp rất đúng, vì chỉ có thiện pháp mới chuyển được ác pháp. Vậy ác pháp là gì?

Ác pháp là những uy lực của vũ trụ có những hiện tượng vô hình như sấm sét, những từ trường khí lực, điện lực, tưởng lực v.v.. hoặc những hiện tượng hữu hình vĩ đại như sông, núi, rừng, biển, thời tiết, nắng, mưa gió, bão, lũ tụt, thiên tai, hỏa hoạn, động đất, sóng thần, bệnh tật, tai ương v.v.. như trên đã nói. Còn thiện pháp là gì?

Thiện pháp là giới luật, là Phạm hạnh, là đạo đức nhân bản - nhân quả. Vậy Lấy thiện pháp chuyển hóa ác pháp như thế nào?

Ví dụ: Người ta chửi mình, mình không chửi lại, đó là lấy thiện pháp chuyển ác pháp. Họ chửi mãi một lúc mà không ai nói hoặc chửi mắng lại, chửi mãi cho đến khi mỏi mệt họ liền thôi và không chửi nữa, đó là lấy thiện pháp chuyển ác pháp. Do sự biết nhẫn nại như vậy và biết vui lòng trước nghịch cảnh của nhân quả như vậy, vì thế mọi việc đều trở lại an ổn bình thường thì đó gọi là lấy thiện pháp chuyển ác pháp. Có phải vậy không các bạn?

Đặt thành vấn đề hơn thua nếu các bạn không nhẫn nại, chửi lại họ thì mọi việc đâu có được bình thường và yên ổn. Có thể xảy ra án mạng, người đi bệnh viện kẻ ở tù. Có đúng như vậy không các bạn? Đó là không lấy thiện pháp chuyển ác pháp.

Nhẫn nại không chửi lại người khác, đó là hành động thiện pháp. Không chửi lại tức là không phạm giới, vì trong giới luật Phật dạy khi chửi lại người khác là phạm vào giới nói lời hung ác. Nói lời hung ác thì làm sao chuyển được hoàn cảnh ác trở nên hoàn cảnh thiện. Phải không các bạn? Ở đời mọi người chỉ biết ăn thua đủ thì ác pháp chồng thêm ác pháp, khổ đau chồng thêm khổ đau, chứ bao giờ hết khổ được.

Cho nên, đức Phật dạy ước nguyện được bình an, không bệnh tật, không tai nạn, thì giới luật phải được giữ gìn nghiêm túc. Giới luật giữ gìn nghiêm túc thì ước nguyện ấy sẽ mãn nguyện.

Đọc những lời dạy của đức Phật các bạn thấy pháp của Phật rất thực tế, cụ thể, hiện tại không có thời gian, kết quả sẽ thấy ngay liền. Nếu không giữ gìn giới luật thì thôi, chứ đã giữ gìn giới luật nghiêm túc, thì điều chi ước nguyện cũng sẽ được mãn nguyện.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ HAI CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều ước nguyện thứ hai là ước nguyện cho đời sống của mình về thức ăn, về vải mặc, về chỗ ở và về thuốc thang trị bệnh được đầy đủ thì giới luật phải sống nghiêm túc không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, luôn sợ hãi những lỗi nhỏ nhặt.

Trong cuộc đời này làm người ai cũng mong cầu cơm ăn, áo mặc, nhà ở được khang trang, được đầy đủ tiện nghi, nhưng chúng ta ai cũng biết sự ước nguyện ấy là cả một cuộc đời, một cuộc đấu tranh không ngừng, chiến đấu để bảo vệ sự sống cơm ăn, áo mặc, nhà ở cho được đầy đủ hơn. Nhưng các bạn cũng biết, sự ước nguyện được đầy đủ ấy có bao giờ đạt được như ý muốn đâu! Cho nên sự ước nguyện ấy mãi đến khi các bạn xuôi tay trở về với lòng đất cũng cảm thấy chưa được đầy đủ. Phải không các bạn?

Do sự ước nguyện sống có một cuộc đời được đầy đủ và sung sướng hơn, nên mọi người tạo ra nhiều ác pháp, do tạo ra nhiều ác pháp nên phải gánh chịu nhiều sự khổ đau. Do đó người ta bảo: “Sống là tranh đấu”. Vậy tranh đấu với ai? Tranh đấu với mình hay tranh đấu với mọi người? Sống là tranh đấu tức là muốn bảo vệ cuộc sống của mình. Muốn bảo vệ cuộc sống của mình là phải đấu tranh với mọi người, tranh đấu với thiên nhiên, với thời tiết nắng, mưa, gió, bão v.v.. tranh đấu với vạn vật từ loài cầm thú to lớn cho đến những loài côn trùng. Tranh đấu chính là phải vật lộn với cuộc sống của mọi người, mọi vật để mưu sinh cho mình. Do sự tranh đấu như vậy nên con người ước nguyện được đầy đủ và hạnh phúc thì chẳng bao giờ có đầy đủ và hạnh phúc được. Cuộc tranh đấu như vậy là cuộc tranh đấu bên ngoài, cuộc tranh đấu đó gây ra nhiều ác pháp và khổ đau cho mình, cho người. Ngược lại, cuộc tranh đấu mà đức Phật đã dạy cho chúng ta là cuộc tranh đấu nội tâm. Cuộc tranh đấu nội tâm là sự ngăn ác diệt ác pháp trong tâm của mình.

Hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo có ước nguyện. Mong rằng ta được các vật dụng, như y phục các món khất thực sàng tọa và các dược phẩm trị bệnh, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Đọc đoạn kinh trên đây cho chúng ta biết rất rõ ràng muốn có cơm ăn, áo mặc và thuốc thang trị bệnh được đầy đủ thì không phải là cuộc đấu tranh với mọi người bên ngoài mà là cuộc đấu tranh với nội tâm của mình.

Mục đích của đạo Phật dạy chúng ta ở đây, nếu muốn có cơm ăn, áo mặc và thuốc thang trị bệnh được đầy đủ thì phải chiến đấu với nội tâm của mình. Chiến đấu với nội tâm của mình là giữ gìn giới luật nghiêm túc, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, nhờ đó sự ước nguyện ấy sẽ thành tựu viên mãn, không có mệt nhọc, không có phí sức, không có đau khổ. Đó là cuộc đấu tranh nội tâm của chúng ta.

Còn ngược lại càng đấu tranh với mọi người để đạt được vật chất bên ngoài, thì càng vất vả và gặp khổ đau nhiều hơn. Cho nên muốn đạt được vật chất bên ngoài bằng cuộc đấu tranh với mọi người thì tinh thần và sắc thân đều rất mỏi mệt, chứ đâu có sự an lạc, hạnh phúc.

Đường lối đạo Phật ứng xử vào cuộc sống rất kỳ diệu không đấu tranh với mọi người để tìm vật chất, của cải, tài sản mà chỉ có cách buông xả vật chất, của cải, tài sản ở nội tâm của mình tức là giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả thì của cải, tài sản, vật chất lại đầy đủ như lòng ước nguyện.

Vì thế, giới luật đức hạnh là một vấn đề quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó quyết định được những điều ước nguyện của mình để đạt được kết quả đầu tiên trong cuộc sống, đó là ước nguyện cơm ăn, áo mặc nhà ở, của cải, tài sản được đầy đủ như trên đã dạy.

Tóm lại, chỉ có giới luật đức hạnh là một phương pháp giúp cho con người đạt thành ý nguyện sự sống đầy đủ an vui và hạnh phúc. Vậy các bạn phải lưu ý về đạo đức thân hành, khẩu hành và ý hành của mình, đừng để chúng sống phi đạo đức thì tai họa sẽ đến với mình muôn vàn sự khổ đau trùng trùng duyên khởi.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ BA CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO NGƯỜI KHÁC

Người Phật tử tu theo Phật giáo không phân biệt tu sĩ hay cư sĩ đều có thể ước nguyện cho người khác được toại nguyện, nhưng đều phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Cho nên điều ước nguyện thứ ba là điều ước nguyện cho người giúp đỡ mình có cơm ăn, áo mặc, nhà ở đầy đủ để tu hành được lợi ích lớn, được đầy đủ phước báu, như lời đức Phật dạy dưới đây: “Này các Tỳ Kheo, nếu có Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nay hưởng thụ các vật dụng như y phục, các món ăn khất thực, sàng tọa và các dược phẩm trị bệnh! Mong rằng các hành động của những vị tạo ra các vật dụng ấy được quả báo lớn, được lợi ích lớn!”, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên) trú xứ không tịch”.

Theo lời dạy trên đây người tu sĩ phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì mới ước nguyện cho người đàn na thí chủ được nhiều lợi lạc lớn. Khi giới luật nghiêm chỉnh thì sự ước nguyện mới được viên mãn, còn giới luật không nghiêm chỉnh mà nhận lãnh của đàn na thí chủ thì không bao giờ ước nguyện cho ai được mà còn mang nợ cơm ăn, áo mặc của đàn na thí chủ và kiếp sau phải làm tôi tớ, người hầu kẻ hạ cho người khác v.v..

Theo như lời dạy trên đây các bạn nên hiểu không riêng người tu sĩ và cư sĩ Phật giáo mà bất cứ một người nào khác có tôn giáo hay không tôn giáo hoặc ở giai cấp nào, nếu giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không những điều ước nguyện cho mình mà còn ước nguyện cho những người khác đều được như ý.

Như các bạn đã thấy rõ ba điều ước nguyện trên đây đều phải sống đúng giới luật nghiêm chỉnh. Điều ước nguyện thứ ba này đức Phật dạy cho người tu sĩ khi nhận sự cúng dường của người khác thì phải ước nguyện cho người cúng dường nhiều lợi ích lớn. Điều ước nguyện này chính nó mới là xứng đáng nhận của cúng dường. Người tu sĩ giới luật nghiêm chỉnh thì mới xứng đáng là ruộng phước để mọi người cúng dường, mới xứng đáng là người khất sĩ đệ tử của đức Phật.

Ba điều ước nguyện trên đây chúng ta thấy rất rõ, mỗi điều đều lấy giới luật làm Thánh hạnh trên đường giải thoát, nếu không giới luật thì không thể nào đi trên đường giải thoát và cũng không thể nào xứng đáng làm người tu sĩ chân chánh của Phật giáo.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ TƯ CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO NGƯỜI KHÁC

Điều ước nguyện thứ tư là điều ước nguyện cho những người thân của mình được bình an, mạnh khoẻ, sống an lạc, hạnh phúc, ít bệnh, ít tật, tai qua, nạn khỏi, khi lâm chung với tâm bình tĩnh, hoan hỉ không có mê muội, không có trăn trở, không có đau nhức, lúc nào tâm cũng yên vui, thanh thản, an lạc và vô sự.

Muốn được vậy thì giới luật các bạn phải giữ gìn nghiêm túc, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, đúng theo như lời đức Phật đã dạy.

Kinh Ước Nguyện dạy nếu muốn đạt được kết quả của những sự ước nguyện thì nên theo lời đức Phật dạy dưới đây: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng những bà con huyết thống với ta, khi họ chết và mệnh chung nghĩ (đến ta) với tâm hoan hỉ, (và nhờ vậy) được quả báo lớn, lợi ích lớn!”, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên) trú xứ không tịch”.

Kính thưa các bạn! Lời dạy trên đây rất rõ ràng, muốn ước nguyện một điều gì cho những người thân của mình thì các bạn phải thành tựu viên mãn giới luật. Bởi vì các bạn có thành tựu viên mãn giới luật thì công đức ấy rất lớn. Lớn không thể lấy một vật gì trong thế gian mà lường được. Cho nên nói công đức rất lớn là nói đến thiện pháp, nhưng ở đây các bạn phải phân biệt thiện pháp rõ ràng đừng hiểu thiện pháp hữu lậu là giới luật là sai. Giới luật là thiện pháp vô lậu, vì vô lậu mới có lợi ích rất lớn. Các bạn có hiểu chưa? Các bạn có nghe lời dạy thiện pháp này bao giờ chưa?

Đức Phật đã từng dạy: “TAM VÔ LẬU HỌC”là Giới vô lậu, Định vô lậu, Tuệ vô lậu. Cho nên thiện pháp vô lậu của giới luật sẽ chuyển hoá tất cả ác pháp hay chuyển hoá nghiệp ác. Chuyển hoá ác pháp hay chuyển hoá nghiệp ác, nhưng những người thân của các bạn phải biết hướng tâm đến những người giữ giới luật thanh tịnh hoặc tự bản thân phải giữ gìn giới thanh tịnh. Vì thế hai người phải tương ưng nhau với tâm thanh tịnh trong giới vô lậu thiện pháp. Trạng thái giới luật vô lậu thiện pháp là một trạng thái tâm thanh tịnh tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Cho nên muốn ước nguyện một điều gì hoặc người thân của các bạn trước khi chết sợ tâm rối loạn, mê muội, không được sáng suốt tỉnh táo thì phải giữ gìn tâm bất động tức là giữ gìn tâm thanh thản an lạc và vô sự rồi hướng tâm về người giư giới thanh tịnh và hai trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự tương ưng với nhau thì được lợi ích rất lớn, đó là sự hoan hỉ thanh thản, an lạc và vô sự thành một nội lực ly tham đoạn ác pháp. Trong trạng thái ấy không còn nghiệp ác nào tác động vào thân tâm họ được. Tại sao vậy?

Kính thưa các bạn! Khi các bạn giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, thì các bạn biết rất rõ về thân tâm của các bạn lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Và lúc bấy giờ các bạn đã xứng đáng làm ruộng phước cho mọi người. Vì thế, các bạn muốn ước nguyện cho một người nào đó thì người đó phải hướng tâm về các bạn. Cũng như lúc lâm chung, trước khi chết chỉ cần nhớ nghĩ đến các bạn thì tâm người đó được thanh thản, an lạc và vô sự.

Đức Phật và chúng Thánh Tăng giới luật đều nghiêm chỉnh, cuộc đời của các Ngài tâm vô lậu hoàn toàn. Các Ngài đều chứng Thánh quả A La Hán nên tâm niệm của các Ngài luôn ước nguyện cho mọi người đều được an vui, hạnh phúc, nhưng mọi người không hạnh phúc là vì mọi người không hướng tâm về các Ngài, không giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự, nên dù các Ngài có thương xót chúng sanh, nhưng cũng không làm sao cứu giúp chúng sanh được. Cho nên đoạn kinh này dạy các bạn phải hướng về các Ngài thì có lợi ích rất lớn. Vậy hướng về các Ngài như thế nào?

Hướng về với các Ngài là hướng về giới luật. Hướng về giới luật là chúng ta phải nghiêm trì Thọ Bát Quan Trai Giới, chỉ có giới luật thì mọi người mới gặp nhau trên một điểm tương ưng “Thanh thản, an lạc và vô sự”. Vì thế trong kinh Ước Nguyện dạy: “Trước khi mệnh chung thì phải nghĩ đến Ta” tức là nghĩ đến giới luật, giới luật là tâm vô lậu, tâm vô lậu là tâm bất động, tâm bất động là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, khi Ta nhập diệt hãy lấy giới làm Thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc cho mình” nhờ vậy tâm hoan hỉ, nhờ tâm hoan hỉ mà được quả báo lớn, lợi ích lớn”.

Giới luật là chỗ nương tựa cho mọi người, giới luật là đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Vì thế, giới luật đem đến cho con người lợi ích như vậy, khi sống cũng như lúc chết. Vậy các bạn hãy theo lời dạy này sống một đời sống Phạm hạnh để mang lại sự an vui, hạnh phúc cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ NĂM CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều ước nguyện thứ năm là điều ước nguyện cho mình làm chủ được dục lạc, dục khổ, không để cho dục lạc, dục khổ làm chủ mình. Muốn ước nguyện được như vậy thì các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nhiếp phục lạc và bất lạc, chứ không phải lạc và bất lạc nhiếp phục ta. Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục lạc và bất lạc được khởi lên!”, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên) trú xứ không tịch”.

Trong cuộc sống của mọi người trên thế gian này hiện giờ ai ai cũng bị thọ lạc, thọ khổ nhiếp phục, nghĩa là chúng ta đang làm nô lệ cho thọ lạc và thọ khổ. Vậy thọ lạc và thọ khổ là gì?

Kính thưa các bạn! Thọ lạc là chạy theo dục lạc thế gian như ăn uống, ngủ nghỉ phi thời, chạy theo tâm dâm dục, lấy của không cho, không từ bỏ vọng ngữ, không từ bỏ thuốc lá, rượu men, không từ bỏ trang điểm, ca hát, không nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng, không sống cho riêng mình bằng hạnh độc cư. Đó là chạy theo thọ lạc. Còn thọ khổ như thế nào?

Thọ khổ có hai phần:

- Thứ nhất thuộc về tâm. Tâm phiền não, sợ hãi, buồn rầu, lo lắng, tức giận, ganh tỵ, ghen ghét, căm thù v.v.. Đó là thọ khổ thuộc về tâm.

- Thứ hai thuộc về thân. Thân bị bệnh đau, nhức, tật nguyền v.v.. Đó là thọ khổ thuộc về thân.

Như lời dạy trên rất rõ ràng: “Mong rằng ta nhiếp phục thọ lạc và thọ bất lạc, chứ không phải lạc và bất lạc nhiếp phục ta”. Người sống trong đời thường bị hai cảm thọ này chi phối thân tâm khiến cho họ phải chịu nhiều sự khổ đau. Muốn thoát ra những sự đau khổ này thì giới luật chúng ta phải chấp nhận nghiêm chỉnh, có nghĩa các bạn phải chấp nhận và sống một đời sống giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Mọi người ai cũng biết do giới luật mà các bạn ly dục ly ác pháp, do ly dục ly ác pháp các bạn không còn chạy theo (dục) sự ham muốn, không còn chạy theo sự ham muốn tức là các bạn nhiếp phục được thọ lạc. Nhưng khi các bạn đã nhiếp phục được thọ lạc thì cũng phải nhiếp phục được thọ khổ và thọ bất lạc bất khổ. Như trên đã nói thọ khổ tức là thân bị bệnh đau hay nhức nhối khổ sở do bệnh tật. Thế mà ta giữ giới luật nghiêm chỉnh thì cũng nhiếp phục được tất cả bệnh khổ nơi thân. Đây các bạn có nghe thấy và hiểu biết sự lợi ích của giới luật chưa?

Tóm, lại muốn nhiếp phục được tâm tham dục cũng như bệnh tật khổ đau thì ta phải sống đúng lời dạy của Đức Phật, phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh như trên đã nói thì cuộc sống của chúng ta sẽ nhiếp phục được mọi sự khổ đau. Đó là sự lợi ích thứ năm trong giới luật của Phật. Xin các bạn nên lưu ý và cố gắng giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh, đừng để vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì bệnh tật của các bạn sẽ chấm dứt.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ SÁU CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều ước nguyện thứ sáu là điều ước nguyện cho mình làm chủ tâm, có nghĩa là tâm luôn luôn nhiếp phục được mọi sự sợ hãi và khiếp đảm. Mọi sự sợ hãi và khiếp đảm không nhiếp phục được tâm mình. Vậy các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi, chứ không phải khiếp đảm và sợ hãi nhiếp phục ta! Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi được khởi lên!”, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên) trú xứ không tịch”.

Con người ở đời thường hay có tâm sợ hãi và khiếp đảm như: sợ ma, sợ bóng đêm, sợ chuột, rắn rết, cóc, nhái, sâu, bọ v.v.. và khiếp đảm trước sắc tướng và uy lực của vũ trụ như núi non, rừng biển, ao hồ, sông nước, rừng núi âm u hoang vắng, nghĩa địa, nhà mồ, thời tiết nắng mưa gió bão, sấm sét, lũ lụt, giông tố v.v..

Người tu theo đạo Phật nhờ giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh nên nhiếp phục được mọi sự sợ hãi và khiếp đảm như trên đã nói. Đây là sự lợi ích thiết thực cụ thể mà mọi người cần phải tu học và rèn luyện.

Như vậy chúng ta thấy rất rõ ràng giới luật là một pháp bảo vô giá không có một vật gì trên thế gian này sánh bằng.

Đứng trước đám đông người chúng ta muốn phát biểu một việc gì thì cảm thấy hồi hộp sợ hãi, đó là do chúng ta không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Còn những người không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh nhưng họ đã từng phát biểu ý kiến nên thành thói quen, tuy dạn ăn dạn nói, nhưng tâm họ vẫn hồi hộp. Những người này cho họ sống một mình trong nghĩa địa, nơi rừng núi hoang vắng thì họ vẫn run sợ và khiếp đảm như những người khác.

Muốn nhiếp phục sự sợ hãi và khiếp đảm thì chỉ có giới luật là pháp môn đệ nhất. Vậy các bạn hãy lập lại lời Phật dạy để đặt trọn niềm tin nơi giới luật: “Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi được khởi lên!”, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên) trú xứ không tịch”.

Thưa các bạn! Giới luật Phật lợi ích như vậy, thế mà các nhà Đại Thừa và Thiền Tông đã xem thường giới luật, thường không răn dạy chúng Tăng, Ni về giới luật nên chúng Tăng, Ni tu hành chỉ là tu danh, tu lợi, tu cấp bằng, tu ăn, tu ngủ, tu làm việc lừa đảo, mê tín cúng bái, cầu siêu, cầu an, xin xăm, bói quẻ v.v.. Đại Thừa và Thiền Tông phế bỏ giới luật, xem giới luật lỗi thời, vì thế, khiến cho Phật giáo suy đồi và chánh pháp đã chết mất từ lâu.

Giới luật còn là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất, thế mà Đại Thừa và Thiền Tông lại nởtâm quét sạch giới luật ra khỏi Phật môn. Bộ giới cấm còn đó nhưng tu sĩ thì phạm giới ngang nhiên, coi thường giới luật như chiếc giày rách ném trong thùng rác.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ BẢY CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều ước nguyện thứ bảy là điều ước nguyện cho mình và cho những người tu theo Phật giáo thân tâm được nhập các định không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, chứng và trú bốn thiền thuộc tăng thượng tâm hiện tại lạc trú. Muốn được vậy thì các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng, tùy theo ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, Ta chứng được bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú!” Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)… trú xứ không tịch”.

Thưa các bạn! Các bạn có nghe chăng? Muốn nhập được bốn thiền thuộc tăng thượng tâm hiện tại lạc trú không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức thì giới luật các bạn hãy giữ gìn nghiêm túc không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Đó là lời dạy đúng đắn của đức Phật. Vậy mà các bạn phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, sống một đời sống phi Phạm hạnh: chùa to, Phật lớn, tiền của nhiều, vật chất sang cả v.v.. mà tu thiền định thì các bạn tự nghĩ: Đó là loại thiền gì?

Từ lâu các bạn tu hành mà không nhập Bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm hiện tại lạc trú là vì các bạn giữ gìn giới luật không nghiêm túc, xem thường những giới nhỏ nhặt. Lúc nào cũng dựa vào kinh sách Đại Thừa lý luận để bỏ những giới nhỏ nhặt, chạy theo dục lạc mà không bị người cư sĩ chỉ trích phê phán. Nhất là các thiền Sư Đông Độ xem giới luật chẳng ra gì như: Nam Tuyền sát miêu, Lâm Tế chém rắn, Phần Dương và Tuệ Trung Thượng Sĩ ăn thịt uống rượu v.v..

Đối với đôi mắt của chúng tôi thì những thiền sư này là Ma Ba Tuần chứ không phải là tu sĩ Phật giáo. Tu sĩ Phật giáo là một Thánh Tăng nên oai nghi tế hạnh rõ ràng, không hề vi phạm một giới luật nhỏ nhặt nào. Xứng đáng làm ruộng phước cho mọi người cúng dường, có đâu lại phạm giới sát sanh, uống rượu quá nặng như vậy. Đó là những gương hạnh xấu các bạn nên lấy đó mà làm gương cho mình soi để tránh xa những hạng tu sĩ này. Họ không xứng đáng làm thầy của các bạn đâu.

Lấy giới luật mà xét các thiền sư thì biết ngay Thiền Đông Độ chỉ là thiền đầu môi chót lưỡi tu hành chẳng có giải thoát gì cả, chỉ lừa đảo người bằng ngôn ngữ úp mở, khiến cho mọi người tưởng nó có cái gì đặc biệt, chứ kỳ thực chẳng có cái gì cả, đến khi chết ông nào cũng rên: Hừ! Hừ!!!! như Pháp Loa.

Tóm lại, Bốn Thánh Định từ xưa đến nay chưa có ai nhập được chỉ vì các Tổ hiểu biết giới cấm mà không hiểu biết rõ giới kinh đức hạnh, nên không sống và tu tập giới đức, giới hạnh, giới hành. Vì thế, nên mới phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới v.v..

Giới luật đã vi phạm thì thiền định không bao giờ nhập đúng chánh định được. Xin các bạn nên lưu ý.

Bốn Thánh Định không phải nhập khó khăn, mà khó khăn là vì giới luật các bạn không giữ gìn nghiêm túc. Có phải vậy không các bạn?

Do giới luật không nghiêm chỉnh nên tất cả tu sĩ Phật giáo từ Đông sang Tây tu mãi mà không nhập được Tứ Thánh Định thật là phí công vô ích.

Muốn nhập được Tứ Thánh Định thì ngay từ bây giờ các bạn hãy bắt đầu giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh thì chắc chắn điều ước nguyện nhập được Tứ Thánh Định sẽ không còn là giấc mơ.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ TÁM CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều ước nguyện thứ tám là điều ước nguyện cho thân tâm của mình, của các bạn được cảm nhận và sống an trú trong những trạng thái tịch tĩnh, nhờ đó để thoát ra khỏi sắc giới và vô sắc giới, có nghĩa là tâm các bạn không còn dính mắc trong hai trạng thái ý thức và tưởng thức. Nếu giải thích như vậy thì chỉ có những người tu chứng mới hiểu ngay được. Nơi đây có hai cụm từ khó hiểu, đó là sắc giới và vô sắc giới. Vậy sắc giới và vô sắc giới nghĩa là gì?

Sắc giới là cảnh giới có hình tướng như cuộc sống của các bạn hiện giờ; vô sắc giới là cảnh giới không hình tướng như giấc mộng, chiêm bao của các bạn. Trạng thái vô sắc giới không những chỉ là giấc mộng mà còn nhiều trạng thái khác nữa như những trạng thái tưởng của đồng cốt, cơ bút, và những từ trường hình danh, sắc tướng còn lưu lại trong không gian mà những nhà ngoại cảm bắt gặp. Nhất là những người tu tập thiền ức chế tâm lạc vào thiền tưởng nên tưởng uẩn hoạt động, xuất hiện 18 loại hỷ tưởng, khiến cho người tu thiền ức chế tâm khi hết vọng tưởng liền bị rối loạn thần kinh đi đến chỗ điên khùng, mất trí. Người tu hành đúng theo phương pháp của đức Phật dạy thì phải xả tâm ly dục ly ác pháp thì mới vượt ra khỏi sắc giới và vô sắc giới. Người nào không hiểu biết xem thường giới luật tu tập ức chế tâm cho hết niệm khởi tức là ức chế sắc giới, do đó cảnh giới vô sắc giới hoạt động, vì thế thường hay bị chiêm bao, mộng mị. Người hay bị mộng mị, chiêm bao là người không vượt qua cảnh vô sắc giới. Cho nên muốn tâm được tịch tĩnh, vượt thoát ra khỏi niệm khởi và chiêm bao, mộng mị thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Ngoài giới luật ra không còn có một pháp nào vượt thoát ra hai cảnh giới này. Các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Có những giải thoát tịch tĩnh, siêu thoát sắc giới, thuộc vô sắc giới. Mong rằng ta có thể cảm xúc với thân và sống an trú trong cảnh giới ấy!”, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên) trú xứ không tịch”.

Tóm lại, đoạn kinh trên đây mang đầy đủ ý nghĩa của một người tu tập tìm cầu sự giải thoát chân thật tức là tâm phải bất động, tịch tĩnh trong cảnh sắc giới và vô sắc giới, nếu còn rơi vào một trong hai cảnh giới này thì giới luật chưa nghiêm chỉnh. Và như vậy các bạn hãy lưu ý và nghiên cứu lại giới luật xem coi còn vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào trong giới luật, để điều chỉnh ngay sự sai phạm ấy thì kết quả tu tập mới thực hiện đi sâu được.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ CHÍN CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều ước nguyện thứ chín là điều ước nguyện cho mình diệt trừ ba kiết sử để chứng quả dự lưu, không còn bị đoạ lạc sáu nẻo luân hồi và chắc chắn hướng đến chánh pháp giác ngộ. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, không còn bị đoạ lạc, chắc chắn hướng đến chánh giác!”, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)… trú xứ không tịch”.

Muốn hiểu rõ đoạn kinh này thì các bạn phải hiểu rõ những cụm từ cần thiết như BA KIẾT SỬQUẢ DỰ LƯU.Vậy BA KIẾT SỬQUẢ DỰ LƯUnghĩa là gì?

Ba kiết sử gồm có:

1/ Thân kiến kiết sử nghĩa là sợi dây chấp ngã trói chặt quá nặng, nếu ai đụng đến ngã mình là không chấp nhận, chống đối lại liền.

Ví dụ: Sự hiểu biết chấp thân này là ta, là của ta, là bản ngã của ta và còn cho trong thân này có Phật tánh, linh hồn, thần thức, tiểu ngã v.v.. Sự chấp ngã này gọi là thân kiến kiết sử. Sợi dây thân kiến kiết sử này rất khó bứt, nhưng ở đây đức Phật dạy chỉ giữ gìn giới luật nghiêm túc là thân kiến kiết sử sẽ được bứt sạch.

2/ Nghi kiết sử nghĩa là lòng nghi ngờ quá nặng như một sợi dây trói buộc, lúc nào cũng nghi ngờ người này như thế này, người kia như thế khác. Lòng nghi ngờ ấy chỉ có giữ gìn giới luật thì mới bứt sạch.

3/ Giới cấm thủ kiết sử nghĩa là chấp chặt vào những giới cấm phi lý như tu theo hạnh con bò, hạnh con chó, tu khổ hạnh như tu đứng ba năm, tu ngồi ba năm, ngồi thiền kiết già đau chân mà cứ ráng ngồi v.v.. Đó là những giới cấm thủ kiết sử.

QUẢ DỰ LƯUnghĩa là kết quả sự tu tập được nhập vào dòng Thánh thường gọi là quả Tu Đà Hoàn.

Lời dạy này rất rõ ràng chỉ cần diệt ba kiết sử là chứng quả Tu Đà Hoàn. Vậy các bạn xét xem ba kiết sử này kiết sử nào khó diệt?

Nghi kiết sử và Giới cấm kiết sử thì không khó diệt, nhưng thân kiến kiết sử mới là khó. Cả một đời tu hành là diệt ngã, nếu diệt ngã xong là tu hành xong. Cho nên cuộc đời tu hành vốn là diệt ngã, nhưng muốn diệt ngã là hằng ngày phải tinh tấn siêng năng cần mẫn tu tập ngăn ác diệt ác pháp tức là ly dục ly ác pháp, nhưng ly dục ly ác pháp là các bạn đã nhập vào dòng Thánh. Muốn ly dục ly ác pháp đều phải sống đúng giới luật. Cho nên, bài kinh dạy rất rõ ràng: “Diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu”. Quả Dự Lưu tức là quả Tu Đà Hoàn tương ưng với trạng thái Sơ Thiền ly dục ly ác pháp.

Muốn chứng Quả Dự Lưu không có khó khăn không có mệt nhọc thì hằng ngày các bạn nên ở trên Tứ Niệm Xứ mà quét tâm, bền chí quét mãi sẽ thành công.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ MƯỜI CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều ước nguyện thứ 10 là điều ước nguyện cho mình diệt trừ ba kiết sử làm muội lược tham, sân, si chứng được NHẤT LAI, chỉ phải trở lại đời một lần nữa để đoạn tận khổ đau.

Thưa các bạn! Điều lợi ích thứ chín không giống điều lợi ích thứ mười vì đoạn kinh trên dạy: “Diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu”. Còn đoạn kinh dưới đây thì Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta diệt trừ ba kiết sử, làm muội lược tham, sân, si, ta chứng được Nhất lai, chỉ trở lại đời này một lần nữa để đoạn tận khổ đau!”, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên) trú xứ không tịch”. Ở đoạn kinh này có thêm là làm muội lược tham, sân, si thì mới chứng quả Nhất Lai.

Dù tu tập pháp nào trong 37 phẩm trợ đạo, nhưng phải nhớ giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh thì mới đạt được ước nguyện chứng Quả Nhất Lai. Quả Nhất Lai tức là Quả Tư Đà Hàm. Quả Tư Đà Hàm tương ưng với trạng thái Nhị Thiền. Vì chỉ có nhập được Nhị Thiền mới chứng Quả Tư Đà Hàm. Cho nên, thiền định thì phải có quả của thiền định. Quả của thiền định là kết quả của thân tâm thanh tịnh từ chỗ ly hay diệt dục của ý thức hay tưởng thức.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ MƯỜI MỘT CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều ước nguyện thứ mười một là điều ước nguyện trừ diệt năm hạ phần kiết sử được hoá sanh chứng được Niết Bàn ngay cảnh giới ấy, không còn trở lại thế gian này nữa.

Muốn chấm dứt tái sanh luân hồi, chứng vào Niết Bàn thì chỉ cần diệt năm hạ phần kiết sử. Muốn diệt năm hạ phần kiết sử thì phải giữ gìn giới luật nghiêm túc. Vậy năm hạ phần kiết sử là gì?

Năm hạ phần kiết sử gồm có:

1-  Thân kiến kiết sử.

2-  Nghi kiết sử.

3-  Giới cấm thủ kiết sử.

4-  Tham kiết sử.

5-  Sân kiết sử.

Năm hạ phần kiết sử này các bạn đã hiểu nghĩa được ba kiết sử trên, còn tham kiết sử và sân kiết sử các bạn chưa hiểu. Vậy tham kiết sử và sân kiết sử nghĩa là gì?

Tham kiết sử nghĩa là lòng tham muốn đang bừng bốc cháy trong tâm các bạn. Còn sân kiết sử lòng tức giận đang ngự trị trong tâm. Năm hạ phần kiết sử này là năm ác pháp, người tu sĩ Phật giáo phải ngăn và diệt không được để duy trì trong tâm dù là một phút, một giây. Dù các bạn đang tu hành 37 phẩm trợ đạo, nhưng muốn diệt trừ năm hạ phần kiết sử, thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh mới diệt được nó, bằng không giữ gìn giới luật thì các bạn khó mà diệt được năm hạ phần kiết sử này. Vậy các bạn hãy lắng nghe lời Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng trừ diệt năm hạ phần kiết sử, ta được hoá sanh, chứng được Niết Bàn ngay cảnh giới ấy, không còn trở lui thế giới này nữa”, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên) trú xứ không tịch”.

Lời dạy trên đây các bạn nghĩ như thế nào? Trừ diệt năm hạ phần kiết sử không phải dễ đâu các bạn ạ! Phải tu tập Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Pháp Thân Hành Niệm thì mới mong diệt được nó.

Để xác định rõ những lời dạy trên đây thì giới luật là pháp môn căn bản nhất trong sự tu tập giải thoát của Phật giáo.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ MƯỜI HAI CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều ước nguyện thứ mười hai là điều ước nguyện cho mình chứng các loại thần thông: Một thân các bạn hiện ra nhiều thân, nhiều thân các bạn hiện ra một thân; các bạn hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, quathành, qua núi như đi ngang hư không; các bạn độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; các bạn đi trên nước không chìm như trên đất liền; các bạn ngồi kiết già đi trên hư không như chim; với bàn tay các bạn chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, có đại oai thần như vậy; các bạn có thể, thân có thần thông bay cho đến Phạm Thiên.

 Đây là những loại thần thông mà người tu sĩ nào tâm vô lậu đều thực hiện được cả, nhưng Phật giáo Nguyên Thuỷ xem nó là những trò ảo thuật lừa đảo mọi người. Còn Phật Giáo Đại Thừa xem những thần thông này rất quan trọng, nên kinh sách Đại Thừa lúc nào đức Phật bắt đầu thuyết pháp đều phóng hào quang và hiện Phật hoá thân hoặc có khi đức Phật xuống Long Cung giảng đạo hoặc bay lên Trời Đầu Xuất thuyết pháp.

Mục đích trong đoạn kinh này dạy các bạn ước nguyện có những thần thông thì giới luật phải sống nghiêm chỉnh, chứ không phải đức Phật nêu ra thần thông để cám dỗ các bạn. Vậy các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta chứng được các loại thần thông! Một thân ta hiện ra nhiều thân, nhiều thân ta hiện ra một thân; ta hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua thành, qua núi như đi ngang hư không; ta độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; ta đi trên nước không chìm như trên đất liền; ta ngồi kiết già đi trên hư không như chim; với bàn tay ta chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, có đại oai thần như vậy; ta có thể, thân ta có thần thông bay cho đến Phạm Thiên!”, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên) trú xứ không tịch”.

Tóm lại, tu hành muốn có thần thông thì các bạn hãy giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Giới luật không nghiêm chỉnh thì sự tu hành của các bạn là con số không, chẳng bao giờ ước muốn một điều gì được huống là thần thông. Các bạn có biết không? Nếu giới luật không nghiêm chỉnh các bạn tu tập có thần thông cũng chỉ là thần thông tưởng hay là những mánh khoé gian xảo như các nhà ảo thuật để lừa đảo mọi người. Đó là tu tập không giới luật, thường chạy theo tâm danh lợi mà thôi.

Kính thưa các bạn! Người tu sĩ Phật giáo không chọn thần thông mà chỉ chọn lấy sự giải thoát làm chủ sự sống chết của mình. Cho nên, giới luật là nền tảng vững chắc cho việc thực hiện con đường làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người. Còn thần thông không quan trọng trong vấn đề làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi. Nhưng khi tâm thanh tịnh, chúng ta không muốn có thần thông nhưng thần thông vẫn có trong ta. Chúng ta chỉ xem chúng như một trò ảo thuật lừa đảo người. Cho nên, người nào tu theo Phật giáo mà thị hiện thần thông là không phải đệ tử Phật.

Một hôm đức Phật và Tăng đoàn đi đến bờ sông trời đã tối không còn ghe xuồng đưa sang sông, nên tất cả Tăng đoàn đều nghỉ lại trên bờ sông. Đêm hôm đó nước sông dâng tràn làm cho tất cả Tăng đoàn không ngủ được. Đức Phật sai một vị Tỳ kheo ông hãy ra cản nước sông lại để chúng Tỳ kheo ngơi nghỉ mai sẽ lên đường. Vâng lệnh Phật vị Tỳ kheo dùng thần thông ngăn nước lại. Sáng hôm sau người ta không thấy vị Tỳ kheo ấy nữa.

Thưa các bạn! Tu sĩ Phật giáo là như vậy, nếu đã lỡ thị hiện thần thông thì liền ẩn bóng, không để lộ tung tích của mình cho một ai biết được nữa.

Chúng tôi nguyện đời tu hành của mình cũng vậy, khi chúng sanh còn duyên thì hết lòng dạy đạo, còn hết duyên thì ẩn bóng và âm thầm thị tịch, không lưu lại một dấu vết gì để lừa gạt đời.

Danh làm chi, lợi làm chi? Đời người còn có gì đâu, chỉ là một tuồng kịch trên sân khấu nhân quả. Những người còn vô minh không thấu suốt nhân quả mới đắm chìm trong danh lợi mà thôi.

Mọi người cứ nghĩ rằng: người tu hành theo Phật giáo có thần thông là tu chứng đạo, điều này không chắc các bạn ạ! Các bạn đã lầm, mục đích của đạo Phật là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, chứ không phải thần thông các bạn.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ MƯỜI BA CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều ước nguyện thứ mười ba là điều ước nguyện cho mình tu tập có thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân. Nhờ thần thông này các bạn có thể nghe hai loại tiếng chư Thiên và loài Người ở xa hay ở gần. Muốn rõ được sự tu tập điều này, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng, với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, ta có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và loài Người ở xa hay ở gần!”, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên) trú xứ không tịch”.

Đọc đoạn kinh này các bạn muốn hiểu rõ nghĩa của nó thì phải hiểu các cụm từ: thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, chư Thiên, loài Người. Vậy thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, chư Thiên, loài Người nghĩa là gì?

- Thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân nghĩa là lỗ tai bất động trước những âm thanh khả lạc, khả hỷ, khả khổ v.v.. của người phi thường.

- Tiếng của chư Thiên nghĩa là tiếng nói của tưởng uẩn. Trong kinh Pháp Môn Căn Bản đức Phật đã xác định 33 cõi Trời là cõi tưởng (Tưởng tri chứ không phải Liễu tri).

- Tiếng nói của loài Người nghĩa là tiếng nói của sắc uẩn. Trong kinh Pháp Môn Căn Bản đức Phật cũng đã xác định cõi Người là cõi tưởng (Tưởng tri chứ không phải Liễu tri). Bởi vì cõi Người cõi duyên hợp tạo thành không có một vật gì thường hằng bất biến luôn luôn thay đổi từng giây, từng phút.

Đoạn kinh trên đây là để chỉ sự ước nguyện ngoài tầm tay của loài người, nhưng nhờ sống đúng giới luật mà các bạn có thể nắm được trong tay những việc làm siêu việt không thể nghĩ bàn. Nghe được tiếng nói của thế giới tưởng tri và cảm nhận được ý nghĩa tiếng nói của loài người trên hành tinh này dù ở xa hay ở gần. Đây là một năng lực phi phàm mà chỉ có người tu hành đúng pháp tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn thanh tịnh mới có thể thực hiện được. Muốn được tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn thì chỉ có giới luật, ngoài giới luật không còn có pháp môn nào khác nữa.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ MƯỜI BỐN CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều ước nguyện thứ mười bốn là điều ước nguyện cho mình biết được tâm niệm của mình và của tất cả mọi người, khi tâm có tham, ta biết tâm có tham; khi tâm không tham ta biết tâm không tham; khi tâm có sân ta biết tâm có sân; khi tâm không sân ta biết tâm không sân; khi tâm có si ta biết tâm có si; khi tâm không si ta biết tâm không si; khi tâm chuyên chú ta biết tâm chuyên chú; khi tâm tán loạn ta biết tâm tán loạn; khi tâm đại hành ta biết tâm đại hành; khi tâm không đại hành ta biết tâm không đại hành; khi tâm chưa vô thượng ta biết tâm chưa vô thượng; khi tâm vô thượng ta biết tâm vô thượng; khi tâm thiền định ta biết tâm thiền định; khi tâm không thiền định ta biết tâm không thiền định; khi tâm giải thoát ta biết tâm giải thoát. Đây là sự hiểu biết thuộc về trí tuệ Tam Minh, vừa hiểu rõ tâm mình mà cũng vừa hiểu rõ tâm của những người khác. Muốn có sự hiểu biết được như vậy thì các bạn phải giữ gìn giới luật nghiêm túc.

Đúng vậy giới luật là một pháp môn để thực hiện trí tuệ Tam Minh. Vậy các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng với tâm của ta, ta biết được tâm của các chúng sanh và loài Người. Tâm có tham ta biết tâm có tham. Tâm không tham ta biết tâm không tham. Tâm có sân ta biết có sân. Tâm không sân ta biết tâm không sân. Tâm có si ta biết tâm có si. Tâm không si ta biết tâm không si. Tâm chuyên chú ta biết tâm chuyên chú. Tâm tán loạn ta biết tâm tán loạn. Tâm đại hành ta biết tâm đại hành. Tâm không đại hành ta biệt tâm không đại hành. Tâm chưa vô thượng ta biết tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng ta biết tâm vô thượng. Tâm Thiền định ta biết tâm Thiền định. Tâm không Thiền định ta biết tâm không Thiền định. Tâm giải thoát ta biết tâm giải thoát. Tâm không giải thoát ta biết tâm không giải thoát!”, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên) trú xứ không tịch”.

Muốn được trí tuệ Tam Minh tỉnh thức như vậy thì giới luật các bạn phải giữ gìnnghiêm chỉnh, đừng cho vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, sống một đời sống Phạm hạnh như Phật, như chúng Thánh Tăng trong thời đức Phật còn tại thế thì các bạn mới thực hiện được trí tuệ Tam Minh. Có sống như vậy các bạn mới thấy rõ tâm mình và tâm chúng sanh một cách dễ dàng không có khó khăn. Tại vì tâm các bạn trong vắt như nước hồ thu, nhìn thấy tận đáy, không có vật gì mà không thấy được.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ MƯỜI LĂM CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều ước nguyện thứ mười lăm là điều ước nguyện cho tâm mình biết đến nhiều đời quá khứ của mình như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại kiếp và thành kiếp, chúng ta lại còn biết sinh tại chỗ kia, chỗ này, lại còn có tên như thế này, như thế khác, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, thọ mạng đến mức như thế này, sau khi chết tại chỗ kia là được sanh chỗ nọ. Tại chỗ ấy các bạn có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, thọ mạng đến mức như thế này, sau khi chết tại chỗ nọ, chúng ta được sinh ở chỗ đấy. Đây là Túc Mạng Minh, một trí tuệ thấy biết như thật trong nhiều đời quá khứ. Nếu giới luật không nghiêm chỉnh thì sự tu hành của các bạn cũng chẳng bao giờ có trí tuệ này. Một trí tuệ không có không gian và thời gian; một trí tuệ tuyệt vời do giữ gìn giới luật mà có. Vậy các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nhớ đến các đời sống quá khứ như: một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp nhiều thành kiếp, nhiều hoại và nhiều thành kiếp ta nhớ rằng: Tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, thọ mạng đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây!”. Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên) trú xứ không tịch”. Những lời dạy trên đây là một sự xác định chắc chắn của đức Phật. Ngoài giới luật ra, dù các bạn có tu tập pháp môn nào thì cũng chẳng bao giờ có Túc Mạng Minh cả. Xem thế các bạn mới biết con đường tu tập theo Phật giáo chỉ có giới luật là pháp môn hàng đầu và nó là một nền tảng đạo đức nhân bản – nhân quả vững chắc cho những ai quyết tâm tìm tu giải thoát theo Phật giáo.

Kính thưa các bạn! Theo chúng tôi nghĩ chỉ có Phật giáo mới thật sự có trí tuệ Tam Minh. Vì sao?

Vì Phật giáo xây dựng trí tuệ Tam Minh trên nền tảng đức hạnh đạo đức nhân bản – nhân quả.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ MƯỜI SÁU CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều ước nguyện thứ mười sáu là điều ước nguyện cho mình có được thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, ta thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng: chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của chúng. Các tôn giả, chúng sanh nào làm những ác hạnh về lời và về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo ác nghiệp tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú đoạ xứ, địa ngục. Còn các tôn giả, chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, về lời nói và về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các cõi thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Muốn có thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân như vậy thì chỉ có giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Ngoài giới luật ra thì không có pháp nào tu tập có Tam Minh. Vậy các bạn hãy lắng nghe lời Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, ta thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của chúng. Các tôn giả, chúng sanh nào làm những ác hạnh về thân, về lời và về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, đọa xứ, địa ngục. Còn các tôn giả, chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, về lời và về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, ta với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh, ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ!”, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên) trú xứ không tịch”.

Như vậy các bạn có nhận thấy giới luật của Phật là một pháp môn rất quan trọng nhất trong tất cả các pháp môn và trong vấn đề tu tập giải thoát của Phật giáo không?

Đọc bài kinh này xong không còn ai dám khinh thường giới luật; cũng không còn ai dám bảo bỏ những giới nhỏ nhặt; cũng không còn ai dám bảo rằng giới luật không hợp thời. Những cái sai của Phật giáo Đại Thừa là phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới v.v.. Xem oai nghi tế hạnh chẳng ra gì, cho nên Phạm hạnh của Phật giáo đã bị chôn vùi dưới lớp văn minh dục lạc của thời đại khoa học kỹ nghệ hoá xã hội.

Đúng vậy giới luật là pháp môn hàng đầu vô lậu của Phật giáo, nếu ai không học và tu tập giới luật thì đừng mong làm chủ sanh, già, bệnh, chết, đừng mong nhập định và thực hiện Tam Minh.

ĐIỀU LỢI ÍCH THỨ MƯỜI BẢY CỦA GIỚI LUẬT: ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

Điều ước nguyện thứ mười bảy là điều ước nguyện cho mình tu tập diệt trừ các lậu hoặc tự tri tự chứng, các bạn chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát không có lậu hoặc, đây là sự ước nguyện của người tu. Đây là giai đoạn rốt ráo cuối cùng của con đường tu tập Phật giáo. Nó giải thoát hoàn toàn ra khỏi nhà sanh tử. Chấm dứt luân hồi.

Thưa các bạn! Quả cuối cùng của con đường tu tập giải thoát cũng phải nhờ đến giới luật. Vậy giới luật là một pháp môn quan trọng đệ nhất như đã nói ở trên.

Sự ước nguyện được giải thoát hoàn toàn này không ngoài giới luật mà có được. Cho nên, chúng ta hãy cố gắng giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh, đừng để vi phạm, thà chết trong trong giới luật, chứ sống mà phạm giới còn mặt mũi nào nhìn ngó Phật tử. Phải không các bạn?

Tóm lại, mười bảy điều lợi ích lớn trên đây đều do giới luật mà đạt thành sự giải thoát chân chánh. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật đã nhắc nhở. Xin các bạn lưu ý: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện mong rằng ta đạt được một điều gì đó thì hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chân chánh lãnh thọ và tu học các học giới”.

Đức Phật lại nhắc nhở chúng ta một lần nữa: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Với sự diệt trừ các lậu hoặc, sau khi tự tri tự chứng, ta chứng đạt an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát tuệ giải thoát, không có lậu hoặc!”, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên) trú xứ không tịch”.

Giới luật là một pháp môn quan trọng như vậy, nhưng tại sao Giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa lại quá ít ỏi chỉ có 250 giới cấm nam và 384 giới cấm nữ. Xem thế mới biết thời nay tu sĩ xem thường giới luật, chỉ biết những tông phái ảo tưởng, mê tín như: Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông, Pháp Hoa Tông v.v.. Hiện giờ tu sĩ học giới chỉ học giới cho biết, chứ không phải học để tu tập giải thoát, để tâm được vô lậu, để sống một đời sống Phạm hạnh. Thật là quá uổng.

Trên đây mười bảy điều ước nguyện từ những điều ước nguyện trong cuộc sống thế gian hằng ngày, đến những điều ước nguyện vượt ra khỏi cuộc sống thế gian tức là cuộc sống xuất thế gian.

Theo đúng nghĩa của bài kinh này thì mọi người nên đứng trên lập trường nhân quả mà ước nguyện thì mọi việc sẽ thành tựu như lòng ước nguyện của mình. Chính đứng trên lập trường nhân quả mà ước nguyện tức là lấy thiện pháp chuyển ác pháp thành ra cuộc sống giải thoát. Đúng vậy đạo Phật lấy thiện pháp chuyển ác pháp biến cuộc sống thế gian thành Thiên Đàng Cực Lạc. Vì thế, đạo Phật sống không mê tín, không ảo tưởng, không cầu tha lực. Phải tự lực, phải tự thắp đuốc lên mà đi. Có đúng như vậy không các bạn?

 Ở đây có nghĩa là lấy giới luật làm sự sống của mình. Lấy giới luật làm sự sống tức là sống đời Phạm hạnh. Vì thế đức Phật đã dạy “Phạm hạnh đã thành”. Phạm hạnh đã thành là giới luật nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, nên sự tu tập đã viên mãn, chấm dứt tái sanh luân hồi nên kinh dạy: “Những gì nên làm đã làm sau đời này sẽ không có đời sống nào khác nữa”.

Đọc bài kinh này chúng ta mới nhận ra giá trị giới luật là đệ nhất pháp trong Phật giáo. Thế mà người tu sĩ lại xem thường giới luật thì sự tu tập của họ sẽ đi về đâu và về đâu ???

Chúng tôi biên soạn bài kinh này với mục đích chỉnh đốn lại giới luật của Phật giáo, khiến cho người tu sĩ Phật giáo ghi nhớ mãi trong tâm giới luật là pháp môn hàng đầu trong tất cả các pháp ly dục ly ác pháp. Xin các bạn nên lưu ý về điều này, nó chính là cơ bản của sự giải thoát của Phật giáo.

CHƯƠNG II: NHÓM SƠ THIỆN THỨ NHẤT

CHÍN GIỚI LUẬT TỲ KHEO TĂNG, NI NHÓM THỨ NHẤT

GIỚI THIỆU NHÓM SƠ THIỆN THỨ NHẤT

TỔNG QUÁT CHÍN GIỚI LUẬT TỲ KHEO TĂNG, TỲ KHEO NI NHÓM THỨ NHẤT

Kính thưa các bạn! Những ai muốn tu theo Phật giáo để trở thành những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni vô lậu đều phải chấp nhận chín giới luật này. Chín giới luật đầu tiên này làm thay đổi đời sống tại gia, nên nó gọi là đời sống xuất thế gian. Đời sống xuất thế gian là một đời sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Cho nên nó gồm có chín giới:

1-        Cạo bỏ râu tóc.

2-        Khoác áo cà sa.

3-        Từ bỏ gia đình.

4-        Sống không gia đình xuất gia tu hành.

5-        Sống chế ngự thân.

6-        Sống chế ngự lời nói.

7-        Sống chế ngự ý nghĩ.

8-        Bằng lòng với nhu cầu tối thiểu, về ăn uống y áo.

9-        Hoan hỉ sống an tịnh trong đời sống Phạm hạnh (thiếu thốn).

Chíngiới nàylà những hành động đạo đức Thánh hạnh thuộc về thân tâm làm Thánh, nó chỉ rõ hình tướng lối sống của những vị tu sĩ Thánh Tăng, Thánh Ni mà người thế gian không thể sống và làm được theo hình tướng và những hạnh sống này, chỉ có những bậc ly trần thoát khổ mới chấp nhận chín đức và chín hạnh “xả thân cầu đạo, xả phú cầu bần”, mà chỉ có đạo Phật mới có mà thôi. Trên hành tinh này không có một tôn giáo nào dám chấp nhận hình tướng này.

Đây là hình ảnh đạo hạnh của một người tu sĩ Phật giáo “CẠO BỎ RÂU TÓC”.Cạo bỏ râu tóclà giới hạnh thứ nhất của một vị Thánh Tăng, Thánh Ni mà trong kinh Sa Môn Quả đã ghi chép rõ ràng. Nếu ai không giữ trọn vẹn giới này thì không thể nào gọi là Thánh Tăng, Thánh Ni. Cho nên, giới này đã xác định về tướng mạo đạo hạnh giải thoát của bậc Thánh Tăng, Thánh Ni trong mười giới luật đầu tiên của Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni cụ thể rõ ràng, nếu ai làm sai phạm, không đúng những giới luật trên đây đều được xem là không phải đệ tử của Phật, không phải là tu sĩ Phật giáo mà là tu sĩ của ngoại đạo.

Hai giới đầu tiên nói về tướng mạo và cách ăn mặc đạo hạnh của tu sĩ Phật giáo thì biết ngay là những người này ra khỏi nhà thế tục.

- Giới hạnh thứ nhất: “CẠO BỎ RÂU TÓC”là đức hạnh buông xả hình tướng thế tục, bởi nếu còn râu tóc là còn trang điểm, có nghĩa là râu phải cắt tỉa, tóc phải chải gỡ, thoa dầu v.v..trang điểmlàm đẹp. Cho nên,cạo bỏ râu tóc là một tướng mạo li trần thoát tục của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni “xả thân cầu đạo”. Cạo bỏ râu tóc cũng có nghĩa làbuông xả sạch dục và ác pháp. Cho nên, cạo bỏ râu tóc cũng là cạo bỏ những trần cấu, uế trược hôi thối của thân tâm mình.

- Giới hạnh thứ hai: “ĐẮP ÁO CÀ SA”.Đắp áo cà sa có nghĩa buông bỏ vật chất thế gian, cho nên quần áo đẹp sang cũng phải bỏ xuống hết, chỉ còn mặc quần áo vải thô xấu, vải bó thây ma, vải chuột cắn bỏ, vải mọi người bỏ v.v.. Ăn mặc mà chỉ còn ăn mặc để che kín thân không còn ăn mặc sang đẹp thì cuộc đời này còn những gì nữa mà tham đắm. Phải không các bạn?

 Người tu sĩ Phật giáo ăn mặc sang đẹp là không đúng Thánh hạnh “xả phú cầu bần”. Vì thế chúng ta hãy nhìn chung quanh các chùa Đại Thừa. Tăng, Ni thời nay là phú Tăng, chứ không phải là bần Tăng. Họ ăn mặc sang đẹp, có cả chùa to, Phật lớn, xe cộ sang trọng, nhà ở tiện nghi hơn người thế gian.

Tóm lại, hành động cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa là nói lên được Thánh hạnh buông xả đời sống thế gian. Giới hạnh chỉ rõ cho chúng ta thấy kết quả giải thoát ngay liền ở tướng mạo là không còn cực nhọc hằng ngày phải tắm gội chải gỡ cắt tỉa.

Xả bỏ râu tóc, đắp áo cà sa là có kết quả tướng mạo buông xả vật chất để có sự giải thoát ngay liền, nhờ tướng mạo buông xả ấy mà mọi người tỏ lòng tôn trọng và cung kính. Nhưng ngày nay thì không còn nữa. Tại sao vậy?

Vì tất cả tu sĩ Phật giáo đều mang hình sắc tướng mạo cạo bỏ râu tóc, nhưng không đắp áo cà sa vải thô xấu, vì thế họ không còn sống đúng Phạm hạnh, hằng ngày họ luôn lo trang điểm sửa sang đầu tròn, áo vuông, ăn mặc sang đẹp hơn nhà giàu. Đó là hình tướng dính mắc vật chất thế gian chứ không còn là hình sắc tướng mạo buông xả cao thượng tuyệt vời của người tu sĩ Phật giáo nữa.

Ngày xưa đức Phật dùng chín giới luật này để trả lời những câu hỏi của vua A Xà Thế, khiến cho nhà vua phải chấp nhận cung kính, tôn trọng, đảnh lễ những hạnh quả buông xả giải thoát của người tu sĩ Phật giáo mà trên đời này không có một vật gì sánh bằng. Vậy các bạn hãy lắng nghe vua A Xà Thế thưa hỏi Phật, rồi các bạn suy nghiệm: “Bạch Thế Tôn! Mọi người trong thế gian này ai ai cũng có nghề nghiệp làm để sống, nghề nghiệp mang đến cho họ những kết quả thiết thực cụ thể như cơm ăn, áo mặc, nhà ở v.v.. Còn kết quả của những người tu hành theo Phật Giáo thì như thế nào? Xin Đức Thế Tôn trả lời cho biết”.

Vua A Xà Thế là một người rất thông minh và khôn ngoan đáo để, trước khi đưa ra câu hỏi về kết quả của người đi tu theo Phật giáo như thế nào, (Sa Môn QuảSa Môn Hạnh) thì nhà vua đã đưa ra một số kết quả của những nghề nghiệp, đem lại lợi ích thiết thực cụ thể cho mọi người, cho xã hội, cho đất nước.

Rất khó cho các tôn giáo khác khi trả lời những câu hỏi hóc búa này. Những câu hỏi này có tính cách thực tế bắt buộc người trả lời phải trả lời chính xác về kết quả lợi ích, thiết thực, cụ thể rõ ràng của các tôn giáo khi những ai theo tu hành. Nhà vua không chấp nhận những câu trả lời về kết quả tu hành mơ hồ, trừu tượng, viễn vông, trườn uốn như con lươn, v.v.. mà trả lời phải chỉ rõ kết quả thực tế, cụ thể, lợi ích, thiết thực rõ ràng như những kết quả của các nghề nghiệp trong thế gian.

Phần đông các hệ phái tôn giáo khác đều trả lời quanh quẩn trườn uốn như con lươn, giống như kiểu tưởng giải của Đại Thừa và Thiền Tông ngày nay vậy: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc, hoặc Kiến tánh thành Phật, Bản lai diện mục hiện tiền, tánh thấy, tánh nghe, tánh biết là Phật tánh, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Phật là Tánh Giác và tánh không”. Trả lời như vậy vua A Xà Thế không chấp nhận.

Nếu bây giờ các hệ phái Phật giáo phát triển Đại Thừa và Thiền Tông được hỏi như vậy và trả lời những câu như: “Chẳng niệm thiện niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền” hoặc “Kiến tánh thành Phật v.v..”, “Ba cân gai”, “chẳng biết...” hoặc“đưa một ngón tay...”.

Trả lời như vậy có thực tế, lợi ích, thiết thực, cụ thể, rõ ràng không các bạn?

Lại nữa nếu Tịnh Độ Tông trả lời: “Thất nhật nhất tâm bất loạn danh hiệu A Di Đà thì được vãng sanh Cực Lạc Tây Phương”, với câu trả lời này có lợi ích, thiết thực, cụ thể rõ ràng không các bạn?

Trước khi nghe đức Phật trả lời những câu hỏi của vua A Xà Thế. Xin các bạn hãy đọc lại đoạn kinh này một lần nữa rồi suy nghiệm “Bạch Thế Tôn, cũng như các công nghệ chức nghiệp: như điều tượng sư, điều mã sư, xa thuật sư, cung thuật sư, mã kỵ binh, nguyên soái, chiến sĩ, thượng sĩ quan, thám tử, dũng sĩ can đảm như voi chúa, anh hùng, trang giáp binh, nô lệ xuất thân, hỏa đầu quân, thợ hớt tóc, người hầu tắm, thợ làm bánh, nhà làm vòng hoa, thợ giặt, thợ dệt, nhà làm thúng rổ, thợ đồ gốm, nhà toán số, nhà ấn bản, các công nghiệp, chức nghiệp khác, chúng hưởng được kết quả thiết thực hiện tại công nghiệp chức nghiệp của chúng. Chúng giúp cho tự thân được sống an lạc hạnh phúc, chúng giúp cho cha mẹ được sống an lạc hạnh phúc. Chúng giúp cho vợ con được sống an lạc hạnh phúc. Chúng giúp cho bè bạn được sống an lạc hạnh phúc. Chúng dâng các vật cúng dường cho Sa Môn, Bà La Môn sự cúng dường này có ảnh hưởng đến đời sau liện hệ đến thiên giới, thọ hưởng phước báu an lạc, thác sanh vào cõi trời. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể cho biết kết quả thiết thực, hiện tại của hạnh Sa Môn chăng?”.

Nhờ có câu hỏi của vua A Xà Thế mà đời sau chúng ta mới có những bài học về giới luật, giới đức, giới hạnh và giới hành rất là tuyệt vời. Công ơn của người hỏi ấy làm sao chúng ta quên được. Phải không các bạn?

Nhất là câu trả lời của đức Phật đối đáp không thua kém câu hỏi của vua A Xà Thế. Những câu trả lời ấy lại còn hơn thế nữa, vừa nêu lên đức hạnh buông xả của một bậc Thánh giải thoát trần tục, vừa làm một cuộc cách mạng giai cấp của đất nước Ấn độ lúc bấy giờ. Những câu trả lời ấy có tính thuyết phục cao bắt buộc nhà vua phải chấp nhận cuộc cách mạng vô giai cấp đó.

Cuộc vấn đáp của vua A Xà Thế và đức Phật đã làm sáng tỏ cuộc cách mạng bốn giai cấp của đất nước Ấn Độ lúc bấy giờ. Nhà vua đại diện cho tư tưởng giai cấp lãnh đạo nhân dân, còn đức Phật đại diện cho tư tưởng bình đẳng vô giai cấp của nhân dân. Cho nên cuộc vấn đáp càng lúc càng làm sáng tỏ nền đạo đức nhân bản - nhân quả của con người.

Nước Ấn Độ lúc bấy giờ chia ra làm bốn giai cấp:

1.        Tư tưởng giai cấp thống trị do Dòng Sát Đế Lị tức là dòng vua chúa thuộc về vương pháp.

2.        Tư tưởng giai cấp lãnh đạo tinh thần dòng Bà Là Môn thuộc về pháp vương.

3.        Tư tưởng giai cấp công nhân, thợ thuyền, thương mãi và nông dân giai cấp bị trị.

4.        Tư tưởng giai cấp Chiên Đà La là tư tưởng giai cấp cùng đinh, làm nô lệ, tôi tớ, tay sai cho người khác.

Câu trả lời của đức Phật rất khéo léo, trả lời bằng câu hỏi trở lại để tự nhà vua phải chấp nhận sự bình đẳng vô giai cấp của con người.

Những đoạn kinh này đã xác định cho các bạn thấy rõ Phật giáo là một tôn giáo nhân bản, luôn luôn nâng cao giá trị bình đẳng của mọi người sống trên hành tinh này như nhau, dù mầu da, thứ tóc và tiếng nói có khác nhau, nhưng đều có quyền sống bình đẳng như nhau.

Những câu trả lời này là lối trả lời bắt buộc người khác phải chấp nhận mà không thể từ chối được. Do vậy, chúng ta hãy lắng nghe những câu trả lời của đức Phật: “Này Đại Vương có thể được. Ta sẽ hỏi Đại Vương về vấn đề này. Đại Vương hãy trả lời tùy theo ý muốn của Đại Vương”.

Khởi đầu cho câu trả lời bằng cách rào đón trước sau quá chặt chẽ khiến nhà vua không thể ngờ được.

Được nghe câu hỏi của vua A Xà Thế và câu trả lời của đức Phật mở đầu cho một cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá tốt đẹp, phá vỡ hàng rào giai cấp của dân tộc Ấn Độ lúc bấy giờ: “Đại Vương nghĩ sao? Nếu Đại Vương có một người nô bộc, dậy sớm, thức khuya thi hành mọi mệnh lệnh của Đại Vương làm đẹp lòng mọi người, lời nói kính ái, chú ý từng nét mặt của Đại Vương... sau một thời gian làm nô lệ, người nô bộc ấy muốn đi tu nên cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa từ bỏ gia đình, sống không gia đình xuất gia tu hành, sau khi xuất gia như vậy, người ấy sống chế ngự thân, sống chế ngự lời nói, sống chế ngự ý nghĩ, bằng lòng với nhu cầu tối thiểu, về ăn uống y áo hoan hỉ sống an tịnh.

Khi Đại Vương biết rõ người nô bộc của mình xuất gia tu hành như vậy thì Đại Vương có gọi người ấy đến với Đại Vương, hãy làm lại người nô bộc, làm mọi công việc, thức khuya dậy sớm, thi hành mọi mệnh lệnh của Đại Vương, làm đẹp lòng mọi người, lời nói kính ái, chú ý từng nét mặt”.

Xét qua câu trả lời bằng câu hỏi của đức Phật, thì chúng ta thấy rằng đức Phật là một con người tuyệt vời, đứng trước uy quyền của nhà vua Ngài đã dám đem người nô bộc của nhà vua ra hỏi, để xác định kết quả giải thoát cụ thể thực tế của một vi tu sĩ Phật giáo, luôn luôn được mọi người cung kính, tôn trọng những giới đức, giới hạnh, giới hành một cách thiết thực cụ thể đã xác định được sự giải thoát không có thời gian, đến để mà thấy..., khiến cho nhà vua phải chấp nhận và tỏ lòng cung kính, tôn trọng người tu sĩ Phật giáo, dù người đó là nô bộc của mình.

Như vậy rõ ràng là kết quả việc làm của người tu sĩ Phật giáo là sống đúng giới luật, tức là phải sống chế ngự thân, sống chế ngự lời nói, sống chế ngự ý, sống bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo và hoan hỉ sống an tịnh.

Người nô bộc thực hiện được những giới luật trên đây không những mọi người mà cả nhà vua cũng đều phải cung kính, tôn trọng, lúc nào họ cũng vui lòng lễ bái. Tại sao vậy?

Những hành động sống đúng Phạm hạnh như trên đức Phật đã dạy thì không phải ai cũng làm được, chỉ có những người quyết tâm tìm đường thoát khổ ra khỏi mọi sự đau khổ của cuộc đời thì mới đủ gan dạ sống như vậy để đạt được mục đích cao thượng mà người đời thường gọi là bậc Thánh A La Hán hay là Phật.

 Người nô bộc thuộc giai cấp hạ liệt cùng đinh của xã hội Ấn Độ. Lúc bấy giờ giai cấp này được mọi người dân Ấn Độ ở những giai cấp khác đều khinh thường, xem rẻ. Chính bản thân của những người giai cấp này, họ cũng xem thường họ. Họ biết thân phận của họ sinh ra và lớn lên trong giai cấp cùng đinh, hạ liệt này, nên khi gặp những người ở giai cấp khác thì họ đều phải tránh đường; phải quỳ mọp sát đất, không dám nhìn mặt những người ở giai cấp khác.

Đặc biệt nhất ở đoạn bài pháp này là đức Phật không nói đến thần thông mà chỉ nói đến giới luật đức hạnh của người tu sĩ Phật giáo thật là tuyệt vời, khiến cho nhà vua phải chấp nhận mà không có một ý kiến chống trái lại những điều đức Phật đã nêu lên.

Đúng vậy, Chỉ có đức hạnh mới phá vỡ hàng rào giai cấp muôn đời của loài người; chỉ có đức hạnh mới phá vỡ thế giới siêu hình ảo tưởng mà đã ăn sâu vào tư tưởng của loài người thành một dấu ấn muôn đời muôn kiếp; chỉ có đức hạnh mới đem lại sự hạnh phúc an vui cho loài người trên hành tinh này vậy.

Bài pháp này được xem là một bài tuyên ngôn cách mạng tư tưởng giai cấp cua nước Ấn Độ cách đây 2555 năm. Phải nói rằng trong giai đoạn ở thế kỷ này, bài kinh của Phật là một tiếng sét đánh thức những giai cấp thống trị một cách thẳng thắn, không nhân nhượng. Vì thế, nó có một giá trị lịch sử làm thay đổi tư tưởng giai cấp Ấn Độ rất lớn. Người đứng ra chủ trương cuộc cách mạng này không ai khác hơn là đức Phật, là một thái tử sắp thay vua cha làm vua. Một ông vua trong hàng ngũ giai cấp thống trị lại đứng ra làm cuộc cách mạng san bằng giai cấp xã hội thật là tuyệt vời, còn ai dám chống lại. Phải không các bạn?

Vua A Xà Thế đại diện cho giai cấp sát đế lị (thống trị) phải chấp nhận những Phạm hạnh giới luật của người tu sĩ Phật giáo thật là tuyệt vời, một đức hạnh giải thoát cao thượng mà cũng không phải ai cũng làm được. Vì thế, nhà Vua trả lời: “Bạch Thế Tôn, chúng con không thể xem họ là nô bộc được nữa. Trái lại chúng con phải kính lễ những người ấy, đứng dậy trước người ấy, mời người ấy ngồi xuống ghế, cúng dường người ấy các dụng cụ như y áo, đồ ăn khất thực, sàng toạ, thuốc men trị bệnh và chúng con sẽ ra lệnh để bảo vệ che chở những người ấy đúng theo pháp luật”.

Thưa các bạn! Tại sao nhà vua lại chấp nhận phải cung kính, tôn trọng một giai cấp cùng đinh hạ liệt trong xã hội của mình như vậy?

Giới đức, giới hạnh, giới hành, được đức Phật nêu ra một đời sống Phạm hạnh của một tu sĩ Phật giáo như vậy thì trong cuộc đời này không phải ai cũng làm và sống được như trên đã nói. Khi nào các bạn có thực hành sống đúng những giới luật này thì các bạn mới thấy vô vàn khó, nhưng không khó với những người có ý chí, có quyết tâm thoát ra cuộc đời đầy ô trược và ác pháp.

 Vua A Xà Thế là người thông minh sáng suốt nghe qua những giới luật đức hạnh buông xả ấy. Người biết rằng đó là những Thánh hạnh, người phàm phu không thể sống và làm được, nên Người phải chấp nhận ngay liền và nói lên những lời cung kính tôn trọng những con người sống được những đức hạnh như vậy. Sống được những đức hạnh như vậy tức họ là những bậc Thánh, chứ không còn là những người phàm phu trong giai cấp hạ liệt nữa.

Đọc bài kinh này chúng ta thấy đạo Phật là một tôn giáo chân thật không lừa đảo, lường gạt người khác bằng thần thông, ảo tưởng, bằng bùa ngải, chú thuật, bằng mê tín cúng tế, cầu an, cầu siêu, bằng thiền định ức chế tâm, bằng ảo tưởng Phật tánh, bằng lí luận tánh không, bằng tưởng giải bản lai diện mục hiện tiền v.v.. Người tu sĩ Phật giáo chỉ sống bằng Phạm hạnh, thiểu dục tri túc, ba y một bát, sống không nhà cửa, không gia đình, biết tỉnh thức từng thân hành, khẩu hành, ý hành, biết ly dục ly ác pháp và biết xả tâm diệt ngã. Thế mà làm chủ được bốn sự đau khổ của kiếp người: sanh, già, bệnh, chết. Thật tuyệt vời!

Thưa các bạn! Các bạn đã về tu viện Chơn Như tu tập một thời gian phải chấp nhận sống đúng những giới luật này, nhưng các bạn có sống đúng những giới luật này chưa? Những giới luật này không phải là một việc dễ làm, dễ sống. Phải không các bạn?

Trong đoạn kinh này gồm có chín giới dạy rõ đức và hạnh như sau:

1/ Giới thứ nhất: Cạo bỏ râu tóc.

2/ Giới thứ hai: Đắp áo cà sa.

3/ Giới thứ ba: Từ bỏ gia đình.

4/ Giới thứ tư: Sống không nhà.

5/ Giới thứ năm: Sống chế ngự thân.

6/ Giới thứ sáu: Sống chế ngự lời nói.

7/ Giới thứ bảy: Sống chế ngự ý nghĩ.

8/ Giới thứ tám: Sống bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo.

9/ Giới thứ chín: Hoan hỉ sống an tịnh trong đời sống Phạm hạnh.

Xét qua chín giới này: giới đức, giới hạnh và giới hành. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành là những hành động đạo đức như thế nào mà khiến cho vua A Xà Thế phải cung kính và tôn trọng như vậy?

Xin các bạn lưu ý chúng tôi sẽ cố gắng giải thích để các bạn hiểu rõ về Phạm hạnh giới luật của đức Phật, nó có một giá trị về đời sống Thánh hạnh mà người phàm phu không thể nào sống và làm được.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ NHẤT: CẠO BỎ RÂU TÓC

Kính thưa các bạn! Bây giờ chúng ta bắt đầu bước vào khu rừng giới luật đức hạnh của con người nói chung, của những tu sĩ Phật giáo nói riêng, những bông hoa đạo đức muôn mầu muôn sắc mang lại vẻ đẹp cho đời càng tươi thắm thêm.

“CẠO BỎ RÂU TÓC”là một hành động đạo đức làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo. Mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Thánh đều cần phải học và sống đúng đức hạnh này. Bởi vì, chỉ có Thánh mới biết tất cả các pháp thế gian là ảo tưởng, không có một vật thật có, chỉ do duyên hợp tạo thành nên mới buông bỏ sạch bằng hình tướng “CẠO BỎ RÂU TÓC”để tượng trưng cho sự thoát ly mọi sự khổ đau.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh trong những đức hạnh làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có như vậy, các bạn mới xứng đáng là người đệ tử của Phật, mới xứng đáng làm gương hạnh sống đạo đức cho mọi người, mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC BUÔNG XẢ TRẦN CẤU

 “CẠO BỎ RÂU TÓC”là một giới đức buông xả trần cấu, giúp cho người tu hành thoát ra khỏi tâm chấp ngã, ham thích trang điểm làm đẹp. Nhờ thế, các bạn mới thoát ra khỏi qui luật của nhân quả. Bởi vì, “CẠO BỎ RÂU TÓC”là một hành động thay đổi tướng tham dục, tướng thế tục tham đắm để trở thành tướng buông xả. Nếu người mang tướng buông xả mà còn tham đắm có nhiều của cải tài sản, xe cộ, chùa to, Phật lớn, vật chất đầy đủ, ăn uống phi thời thì người thế gian sẽ kết án, khinh chê và không còn quý trọng, cung kính, họ xem những người tu sĩ này là Ma Vương đang ra tay diệt Phật Giáo.

“CẠO BỎ RÂU TÓC”là một giới đức xa lìa trần cấu, người tu sĩ Phật giáo biết lấy giới đức cạo bỏ râu tóc, làm phương tiện tiến bước vào cửa đạo để “XẢ THÂN CẦU ĐẠO”,thì con đường đạo ngày thêm tươi sáng hơn. Bởi vì hình tướng cạo bỏ râu tóc là hình tướng buông xả cuộc đời trần cấu ô trược thế gian.

Đúng vậy, đây là cách thức buông xả trần cấu về thân đầu tiên cho người mới vào đạo, nếu không buông xả trần cấu thân tâm thì không bao giờ tìm thấy sự giải thoát thật sự. Cho nên, giới đức buông xả trần cấu“CẠO BỎ RÂU TÓC”,là một đức hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Chỉ có Phật giáo mới có đức hạnh xả thân cầu đạo này, còn tất cả các tôn giáo khác trên hành tinh đều không bao giờ có đức hạnh này cả.

Vậy mà, nhìn chung đức hạnh xa lìa trần cấu này trong các chùa lại có một số người lợi dụng hình tướng đức hạnh này để kinh doanh làm ra của cải tài sản, làm giàu.

GIỚI HẠNH XA LÌA TRẦN CẤU

“GIỚI HẠNH XA LÌA TRẦN CẤU”này thuộc về giới hạnh buông xả hình sắc tướng mạo thế gian. Cho nên những vị tu sĩ Phật giáo nào chấp nhận giới này thì mới trở thành người tu sĩ Phật giáo, còn không chấp giới hạnh này thì không thể nào thành Thánh Tăng, Thánh Ni được. Cho nên Tăng đều phải cạo bỏ râu tóc, còn Ni chỉ cạo bỏ tóc mà thôi. Nếu không giữ gìn hạnh cạo bỏ râu tóc này thì chỉ là một cư sĩ, dù đã giữ gìn tất cả các giới luật khác nghiêm chỉnh.

Hình dáng Thánh Tăng, Thánh Ni là hình dáng buông xả, “Xả thân cầu đạo”. Đó là cạo bỏ râu tóc. Cạo bỏ râu tóc là một hình dáng của những bậc Thánh buông xả trần cấu uế trược.

Người đời mê muội không biết ý nghĩa sâu xa của giới hạnh “CẠO BỎ RÂU TÓC”,buông xả thân để mưu cầu sự giải thoát; để ra khỏi cuộc đời đầy khổ đau và cay đắng. Một sự sai lầm rất lớn do vô minh không hiểu nghĩa giới hạnh “CẠO BỎ RÂU TÓC”, nên dùng tướng mạo cạo bỏ râu tóc của Phạm hạnh để lừa đảo, lường gạt người khác, thật là tội nghiệp cho những ai đã làm tội lỗi này mà không biết; để làm danh, làm lợi cho cá nhân; để hưởng dục lạc đầy đủ như người thế gian, thậm chí có người biến Phật giáo thành nghề nghiệp sống: nghề nghiệp thuyết giảng, nghề nghiệp tụng niệm cầu siêu, cầu an. Chính nghề nghiệp tụng niệm cầu siêu, cầu an là nghề mê tín lường gạt người. Nghề thuyết giảng là nghề nói dối. Đối với Phật giáo, hai nghề nghiệp này là nghề làm sai. Khi tu hành chưa xong đừng vì người thuyết giảng là không đúng, là sai, chỉ khi nào tu chứng mới dạy người tu, còn dạy người tu mà mình tu chưa chứng là nói dối. Người nói được mà chưa làm được, đó là người nói dối. Nói dối xấu lắm các bạn ạ! Các bạn giảng sư có biết không?

Lại cũng có những người mượn hình sắc cạo bỏ râu tóc biến Phật giáo trở thành một cái nghề mê tín như trên đã nói cúng bái, tụng niệm, cầu siêu, cầu an, đốt tiền vàng mã, xem sao, bói quẻ, coi ngày giờ tốt xấu v.v.. Một cái nghề lường gạt người. Hành một cái nghề lừa đảo để sống như vậy các bạn có biết đó là một việc tội lỗi không? Tội nặng lắm các bạn ạ! Các bạn ấy thật đáng thương! Thật đáng thương!!!

Những người cạo bỏ râu tóc không lo tu hành để tìm sự giải thoát cho mình mà lại lấy hình tướng cạo bỏ râu tóc làm nghề nói dối và làm nghề mê tín. Trước mặt mọi người họ gọi các bạn bằng Thầy, nhưng các bạn có thấy mình xứng đáng là Thầy của người khác chưa? Các bạn có sống hơn họ chút nao đâu mà làm thầy của họ. Phải không các bạn?

Một bậc làm Thầy Trời, Người đâu phải dễ các bạn ạ! Các bạn nên xét lại: Phạm hạnh của bậc Thầy Trời, Người các bạn có sống được chưa?

Ăn uống, ngủ nghỉ phi thời, y áo sang cả, mặc toàn vải đắt tiền. Vả lại các bạn còn ở trong chùa to Phật lớn, giường rộng nệm êm. Cuộc sống như vậy các bạn thấy sao? Hình dáng, tướng mạo, cách sống của các bạn có xứng đáng làm Thầy Trời, Người được chưa? Trước mặt các bạn họ gọi là Thầy, nhưng sau lưng các bạn họ chê bai đủ điều, các bạn có biết không?

“Xoài cà lăm nhỏ trái mà chua

Thầy tu mê gái bỏ chùa không ai coi”

Hoặc:

     “ Thầy chùa ăn vụng cá kho

 Bà vãi bắt được đánh mo lên đầu”

Họ chê những điều các bạn đã vi phạm giới luật. Các bạn đừng tưởng họ không biết giới luật. Họ chê các bạn phạm giới như vậy là chê rất đúng các bạn ạ!.

Thà các bạn đừng đi tu mà đã đi tu tức là cạo bỏ râu tóc mà ở chùa sang đẹp như cung vàng điện ngọc, y áo thì chải chuốt bằng vải đắt tiền, thư hàng nhập hàng ngoại v.v.. Ăn uống ngủ nghỉ phi thời, xem ca hát và ca hát như người thế tục thì còn gì là Phật giáo nữa các bạn?

Ngay từ giới đầu tiên “CẠO BỎ RÂU TÓC”mà quý Thầy còn vi phạm tan nát thì các giới luật khác làm sao quý Thầy không vi phạm.

Thưa các bạn! Giới hạnh Sa Môn đầu tiên mà các bạn đã sống không đúng, đã vi phạm thì tất cả hạnh Sa Môn quả làm sao các bạn có được? Nếu hạnh Sa Môn quả không có được thì làm sao các bạn xứng đáng là người tu sĩ của Phật (Thánh Tăng, Thánh Ni). Có đúng như vậy không các bạn?

Bởi vì hạnh Sa Môn ở đâu thì quả Sa Môn ở đấy, đúng như trong kinh Sa Môn Quả mà đức Phật đã dạy: “- Bạch Thế Tôn: chúng con dám đâu xem họ là người nô bộc nữa, trái lại chúng con kính lễ người ấy, đứng dậy trước người ấy, mời người ấy ngồi xuống ghế, cúng dường người ấy các dụng cụ như: y áo đồ ăn khất thực, sàng toạ thuốc men trị bệnh và chúng con sẽ ra lệnh để bảo vệ, che chở người ấy đúng theo luật pháp”. Chỉ vì các bạn đã lìa hạnh Sa Môn nên đã làm mất giá trị của một người tu sĩ Phật giáo. Các bạn chỉ còn là một hình thức cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa mà thôi. Thật là đau xót cho Phật giáo “có tiếng chẳng có miếng”.

 Những lời của vua A Xà Thế tuyên bố trên đây là đã xác định cụ thể rõ ràng: Do kết quả sống đúng Sa Môn hạnh hay là kết quả của nhóm giới luật thứ nhất mà người tu sĩ Phật giáo cần phải giữ gìn nghiêm túc... Nhờ đó mà mọi người cung kính, tôn trọng, quý mến v.v..

Do giới hạnh và kết quả đi đôi với nhau như vậy, nên đức Phật dạy: “pháp Ta không có thời gian đến để mà thấy...”. Hạnh ở dâu là quả ở đó, hạnh làm cho kết quả ly dục ly ác pháp hiện tiền cụ thể, mà kết quả ly dục ly ác pháp hiện tiền cụ thể ở đâu thì đức hạnh phải được gắn liền với nó ở đó.

Hạnh và quả không thể chia làm hai pháp. Vì thế đức Phật dạy: “Giới luật ở đâu thì tri kiến ở đó. Tri kiến ở đâu thì giới luật ở đó. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”.

Tóm lại, giới thứ nhất: cạo bỏ râu tóc là giới tướng của người tu sĩ Phật giáo, thể hiện rõ nét buông xả. Xả thân cầu đạo. Nhất là lời nói này được nhắc đi nhắc lại mãi để khuyên răn người tu sĩ Phật giáo chớ có buông lung chạy theo dục lạc thế gian làm hư hoại đức hạnh thanh tịnh thân tâm của mình và còn làm suy đồi Phật giáo, tội ấy rất nặng các bạn ạ!.

Sống phải giữ gìn sắc tướng của người tu sĩ Phật giáo, đừng làm ô uế sắc tướng ấy. Làm ô uế sắc tướng ấy là làm ô uế Phật giáo, đấy các bạn ạ!

Ví dụ 1: Hình dáng cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa mà các bạn vào quán lều bên vệ đường ngồi ăn uống như người thế tục thì còn gì là oai nghi tế hạnh giới hạnh cạo bỏ râu tóc. Phải không các bạn? Hay các bạn vào tiệm ăn hoặc nhà hàng khách sạn ăn uống ngủ nghỉ như người thế tục thì Phạm hạnh cạo bỏ râu tóc của các bạn còn đâu?

Ví dụ 2: Hình dáng cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa mà các bạn lái xe gắn máy chạy ào ào, vượt đèn xanh đèn đỏ thì còn gì giới hạnh cạo bỏ râu tóc nữa. Phải không các bạn?

Ví dụ 3: Hình dáng cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa mà các bạn hút thuốc lá, uống rượu, ca hát nhảy nhót, có khi hát vọng cổ sáu câu rất là mùi mẫn, đó là hành động phạm giới, phá giới tướng cạo bỏ râu tóc làm cho Phật Giáo suy đồi, làm cho Phật giáo mất gốc. Các bạn có biết không?

Ví dụ 4: Hình dáng cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa mà các bạn đi du ngoạn vào những khu ăn chơi của thế tục, những khu giải trí thế gian như Đầm Sen, Văn Thánh, Suối Tiên, Phong Nha, v.v.. như vậy còn gì Phạm hạnh cạo bỏ râu tóc của người tu sĩ Phật giáo. Phải không các bạn?

Cho nên cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa mà ngồi lều, ngồi quán ăn uống bên đường bên vỉa hè là không đúng tư cách của những người đệ tử Phật. Vậy các bạn phải từ bỏ, những hành động này, những hành động này đáng trách và đáng chê. Xin các bạn lưu ý, đó là những hành động làm suy đồi Phật giáo, là hành động phạm giới tướng quá nặng. Tội lỗi ấy không thể nào tránh khỏi khi thời tiết nhân duyên đến. Xin các bạn lưu ý cho những tội lỗi này.

Người tu sĩ Phật giáo phải biết đúng chỗ nào nên ăn, nên ngồi, nên nằm, nên đứng, nên ở, v.v.. còn ngược lại, phải biết đúng chỗ không nên ăn, không nên ngồi, không nên nằm, không nên đứng, không nên ở, v.v.. Đó là Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo cần phải sửa sai.

GIỚI HÀNH CẠO BỎ RÂU TÓC

Muốn giữ gìn“GIỚI HÀNH CẠO BỎ RÂU TÓC”thì người tu sĩ hằng ngày phải như lý tác ý: “Cạo bỏ râu tóc là một Thánh hạnh xa lìa mùi tục lụy thế gian, ta đã chấp nhận Thánh hạnh này, khi chấp nhận thì phải giữ gìn trọn vẹn để hình sắc đầu tròn áo vuông nêu cao ánh đuốc soi đường giải thoát cho mọi người đi và làm sáng tỏ nền đạo đức nhân bản – nhân quả giúp cho con người có một lối sống cao thượng, biến cảnh thế gian thành Cực Lạc, Thiên Đàng”.

Kính thưa các bạn! Các bạn nên nhớ thường xuyên nhắc nhở tâm mình bằng những câu tác ý này. Nhờ đó Phật giáo sẽ là nền đạo đức của loài người mãi mãi và mãi mãi.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ HAI: ĐẮP ÁO CÀ SA

ĐẮP ÁO CÀ SA”là một hành động đạo đức làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo. Mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Thánh Tăng, Thánh Ni đều cần phải học và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh thanh bần, một trong những đức hạnh làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để thiểu dục tri túc, để xứng đáng làm gương hạnh buông xả vật chất thế gian. Có như vậy, các bạn mới trở thành những ngọn đuốc soi sáng đạo đức trên hành tinh này, nhờ đó cõi thế gian này mới trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC THANH BẦN ĐẮP ÁO CÀ SA

 “ĐẮP ÁO CÀ SA”là một hành động đạo đức buông xả thuộc về ăn mặc trang điểm thân thể. Người nào muốn tìm cầu sự giải thoát thì phải chấp nhận giới đức này, tức là đức hạnh xả phú cầu bần còn gọi là ĐỨC THANH BẦN. Người xả phú cầu đạo là người biết buông bỏ những gì làm cho thân đẹp đẽ, làm cho thân sang trọng, quý phái. Cho nên, giới này thuộc về thân tướng đức hạnh thanh bần làm Thánh.

Đời sống thế gian mọi người thường thích trang điểm làm đẹp, làm sang, không ai muốn mình xấu, mình nghèo, v.v.. Ai cũng muốn mình đẹp và giàu sang, vì sự hammuốn ấy khiến cho đời người phải chịu nhiều khổ đau, dù có đạt được mục đích đẹp đẽ và giàu sang, đời sống vật chất có hơn mọi người, nhưng tinh thần vẫn chịu nhiều khổ đau và còn khổ đau hơn những người chưa đạt mục đích tham dục ấy.

“ĐẮP ÁO CÀ SA”là một giới luật dạy cách thức ăn mặc của những người xuất gia đã thoát khỏi sự ràng buộc của thế gian. Y áo cà sa là loại y áo của người tu sĩ Phật giáo mặc, may bằng những loại vải thô xấu, vải bỏ, vải bó thây ma, có nghĩa là người tu sĩ Phật giáo không còn ăn mặc sang đẹp những loại vải hàng đắt tiền như người thế tục, mà chỉ ăn mặc vải thô xấu, để trở thành người nghèo nhất trong xã hội. Cho nên, giới này còn gọi là “Giới đức xả phú cầu bần”, tức là buông bỏ những cái sang cái đẹp của cuộc đời để tìm một lối sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Một lối sống mà chỉ có những người tu sĩ Phật giáo chân chánh mới có.

Người tu sĩ chân chánh của Phật giáo không bao giờ mặc áo cà sa vải đắt tiền, sống không xa hoa như người thế tục. Do đức hạnh này mà người tu sĩ Phật giáo được mọi người kính trọng, còn những tu sĩ ăn mặc vải hàng đắt tiền, vải nhập là những tu sĩ phạm giới, phá giới, sống không thiểu dục tri túc, thiếu đức xả phú cầu bần, họ là những Ma Ba Tuần trong Phật giáo, họ là trùng trong lông sư tử và sẽ giết sư tử chết.

GIỚI HẠNH XẢ PHÚ CẦU BẦN

Chính vua A Xà Thế khi nghe đức Phật dạy chín oai nghi tế hạnh này thì Ông chấp nhận ngay liền và còn xác định: dù là kẻ hầu, người nô bộc, nô tỳ trong cung điện nhà vua, nhưng khi họ đã xuất gia giữ gìn chín oai nghi tế hạnh như vậy, nhà vua cũng phải cung kính, tôn trọng, cúi đầu đảnh lễ như những vị tu sĩ khác.

Bởi vậy, giới luật là những oai nghi tế hạnh nên nó nhiếp phục được tất cả mọi người. Người tu sĩ Phật giáo sống không đúng giới hạnh thì không được mọi người cung kính, tôn trọng nhất là những Phật tử chân chánh.

Oai nghi tế hạnh xả phú cầu bần là những hành động đạo đức cao đẹp mà người thế gian không bao giờ làm được, chỉ có những người xuất gia thấy rõ các pháp thế gian là pháp vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta, nên tự giác xả bỏ vật chất thế gian để sống đời Phạm hạnh, sống đời Thánh thiện không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.

Quyết sống một đời sống Phạm hạnh nên chấp nhận những giới luật đức hạnh buông xả, dù có khó khăn đến đâu cũng vượt qua. Vì thế thường nhắc tâm mình:

“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!

Chớ giữ làm chi có ích gì?

Thở ra chẳng lại còn chi nữa,

Vạn sự vô thường buông xuống đi!”

Bài kệ trên đây đã xác định Thánh hạnh xả phú cầu bần của một bậc chân tu đã ra khỏi mọi sự ràng buộc của các pháp thế gian.

Giới luật Thánh hạnh là như vậy, nhưng xét lại người tu sĩ thời nay là tu danh, tu lợi, tu chùa to, Phật lớn, tu tiền, tu bạc, tu ăn tu ngủ, tu xe hơi, tu y áo, v.v..

Những tu sĩ này đã biến Phật giáo trở thành là một tôn giáo lừa đảo, chứ không còn là một tôn giáo đức hạnh nhân bản – nhân quả của loài người nữa.

GIỚI HÀNH XẢ PHÚ CẦU BẦN

Muốn sống đúng Thánh hạnh “GIỚI HÀNH XẢ PHÚ CẦU BẦN” thì hằng ngày phải chuyên cần siêng năng theo pháp như lý tác ý: “Muốn ra khỏi nhà sanh tử thì phải luôn luôn giữ gìn sống đúng Thánh hạnh xả phú cầu bần, nếu không giữ gìn đúng Thánh hạnh này thì dù có tu hành đến muôn ngàn kiếp vẫn hoài công vô ích, uổng phí một đời”.

Kính thưa các bạn! Tất cả những giới luật nhỏ nhặt này đều là những đạo đức và những oai nghi tế hạnh của một tu sĩ Phật giáo chân chánh, còn những tu sĩ không chân chánh thì xem thường những đức hạnh này họ thuộc về những hạng người lợi dụng tôn giáo làm cuộc đời. Hơn thế nữa có những kẻ lợi dụng sự tín ngưỡng tôn giáo của mọi người để thống lãnh toàn cầu dưới quyền sinh sát loài người trong tay họ. Xin các bạn lưu ý: tôn giáo chỉ là nền đạo đức của con người, làm lợi ích cho con người, chứ không được phép lừa đảo và không có quyền cai trị loài người bằng thần quyền, mê tín.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ BA: TỪ BỎ GIA ĐÌNH

TỪ BỎ GIA ĐÌNH” là một hành động Thánh hạnh cắt ái ly gia, thoát khỏi mọi sự ràng buộc tình cảm gia đình, gia tộc, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo. Mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Thánh ra khỏi sinh tử luân hồi thì cần phải học và sống đúng những đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh trong những đức hạnh làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC LY GIA CẮT ÁI

 “GIỚI ĐỨC LY GIA CẮT ÁI” là một hành động đạo đức thuộc về thân và tâm giải thoát của Phật giáo để trở thành một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni. Giới này nghe thì dễ nhưng thực hiện nó cho bằng được thì khó vô cùng. Khi thực hiện giới này không khéo léo thiện xảo thì các bạn phạm vào giới đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai thì “GIỚI ĐỨC LY GIA CẮT ÁI” thật là khó nan giải. Phải không các bạn?

Ở đời ai ai cũng phải có gia đình, nhưng đối với những người tu sĩ Phật giáo thì phải ly gia cắt ái. Chính gia đình là những sợi dây tình cảm của những người thân thương trói buộc rất chặt nên khó cho các bạn tu tập giải thoát.

Đạo Phật chủ trương sống không làm khổ mình, khổ người, nhưng phải cắt ái ly gia thì tu hành mới chứng đạo. Điều này nghe thì dễ nhưng làm thì khó vô cùng như trên đã nói. Cắt ái ly gia mà gia đình không buồn thì làm sao được. Phải không các bạn? Đấy là đạo đức Thánh hạnh giải thoát của Phật giáo đấy các bạn ạ!

Vậy trước tiên bạn muốn tu theo Phật giáo thì bạn phải tu học đạo đức làm người sống không làm khổ mình, khổ người, có nghĩa là các bạn phải sống nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng như thế nào, để mọi người trong gia đình mến phục đức hạnh của các bạn và khi các bạn xuất gia mọi người thân sẽ vui vẻ không có ý cản trở sự tu hành.

Khi mọi người trong gia đình vui lòng cho các bạn đi tu, thì các bạn đừng chần chờ mà hãy mau mau rời bỏ gia đình để thực hiện ở giai đoạn hai của Phật giáo, để trở thành người tu sĩ Phật giáo chân chánh “TỪ BỎ GIA ĐÌNH”.

“TỪ BỎ GIA ĐÌNH”là một đức hạnh làm Thánh ly gia cắt ái. Vì thế, các bạn không có quyền làm khổ những người thân trong gia đình. Bằng mọi cách các bạn phải sống với họ như thế nào? Và đối xử như thế nào để họ vui lòng chấp nhận cho các bạn xuất gia tu hành. Đó mới gọi là “GIỚI ĐỨC LY GIA CẮT ÁI”.Chỉ cần các bạn không ý thức đức hạnh về điều này thì gia đình các bạn tan nát và khổ đau, và như vậy các bạn phạm vào giới “TỪ BỎ GIA ĐÌNH” tức là“GIỚI ĐỨC LY GIA CẮT ÁI”không bao giờ được viên mãn.

GIỚI HẠNH LY GIA CẮT ÁI

 “TỪ BỎ GIA ĐÌNH”là một Thánh hạnh giải thoát không còn ái kiết sử trói buộc. Vì vậy, người tu hành tìm cầu sự giải thoát mà còn vướng bận gia đình thì làm sao giải thoát được. Sự thương, sự nhớ cũng làm cho các bạn tu hành rất khó khăn. Phải không các bạn?

Mục đích của Phật giáo là sống trong thế gian mà vượt ra ngoài thế gian, sống bình thường nhưng lại phi thường, vì dục và ác pháp không còn tác động vào thân tâm các bạn được, nhưng các bạn cũng không phải sống trơ trơ như đá.

Các bạn có biết không? Gia đình là một chùm nhân quả, vì thế muốn sống không gia đình như trong giới luật đã dạy thì các bạn không được quyền bỏ gia đình, bỏ cha mẹ, vợ con v.v.., nhưng khi muốn đi tu thì các bạn phải được sự đồng ý của những người này. Đồng ý cho các bạn đi tu không phải vì sự bắt buộc của các bạn, mà vì người thân trong gia đình đã tự giác ngộ đời người là đau khổ. Khi mọi người trong gia đình đồng ý cho các bạn đi tu là họ đã hiểu được con đường giải thoát của Phật giáo là đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người... Con đường ấy có đủ khả năng nội lực làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

Một người tu sĩ của Phật giáo có vợ con thì đó là phạm vào giới hạnh sống không gia đình. Cho nên, mọi người thấy một người tu sĩ Phật giáo có vợ con thì đó là một cư sĩ trọc đầu. Thật ra người cư sĩ trọc đầu là một tu sĩ phạm giới, phá giới, là một loại trùng trong lông sư tử, nó sẽ giết chết sư tử, nó sẽ giết chết đạo Phật. Đó là một loài Ma trong Phật giáo. Xin các bạn lưu ý và cảnh giác những hạng tu sĩ này, họ là những người mượn tôn giáo làm đời sống.

“SỐNG KHÔNG GIA ĐÌNH”là một Thánh hạnh giải thoát của người tu sĩ Phật giáo. Người tu sĩ Phật giáo phải chấp nhận một đời sống du Tăng khất sĩ, một đời sống phiêu lưu nay đây mai đó, sống không gia đình, không nhà cửa. Đây là một cuộc sống trái ngược với cuộc sống thế gian. Cuộc sống thế gian là phải có gia đình, một mái ấm tình thương. Ngược lại, đời sống tu sĩ Phật giáo phải ly gia cắt ái, tức là sống không gia đình. Đó là Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo, sống trong trần lao mà đã ra khỏi trần lao, nếu ai không chấp nhận Thánh hạnh này thì đừng nên xuất gia. Xuất gia có nghĩa là ra khỏi nhà thế tục, sống một đời giải thoát không còn bị ai trói buộc các bạn bằng bất cứ điều gì.

“SỐNG KHÔNG GIA ĐÌNH”là giới hạnh giải thoát của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni, nếu ai muốn tu theo Phật giáo mà không chấp nhận giới hạnh ly gia cắt ái này thì không bao giờ trở thành người tu sĩ Phật giáo chân chánh được.

“SỐNG KHÔNG GIA ĐÌNH” là giới cụ túc thứ ba nó thuộc về giới hạnh ly gia cắt ái, nếu không có giới hạnh ly gia cắt ái thì làm sao thoát khỏi sự trói buộc của nhân quả ái kiết sử. Làm sao ra khỏi nhà sanh tử và chấm dứt luân hồi. Giới này là giới luật cắt tất cả những sợi dây ái kiết sử. Vậy các bạn nên lưu ý: Thánh hạnh giải thoát là đây, ngoài Thánh hạnh này đi tìm sự giải thoát không có.

Ngày xưa, đức Phật đã chấp nhận giới này nên Ngài mới bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp con thơ. Khi bỏ đi tu như vậy mới ra khỏi sự trói buộc của những sợi dây ái kiết sử.

Chúng ta nói thì dễ nhưng mấy ai làm được, khó lắm các bạn ạ! Khi đã có gia đình là điều khó bỏ, khó vô cùng khó.

Làm được như đức Phật phải là người có nghị lực, có gan dạ, có ý chí, có quyết tâm cao, chứ hạng tầm thường thì chẳng bao giờ dứt áo ra đi được, cuộc sống trách nhiệm bổn phận trong gia đình luôn luôn kéo dài mãi lê thê trong tình trạng như kéo cưa. Vì thế, sự tu hành chỉ dậm chân tại chỗ, không tiến sâu vào định và cũng không thể vượt ra khỏi không gian và thời gian của nhân quả.

Nếu ngay giới hạnh thứ ba“SỐNG KHÔNG GIA ĐÌNH”này các bạn đã sống đúng nghiêm chỉnh thì đã nhận ra được sự giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của gia đình vợ con hay chồng con. Đó là một sự ràng buộc mà những nhà tu hành gọi đó là nhà tù khổ sai chung thân. Nói như vậy có quá lời không các bạn? Nếu các bạn có gia đình thì các bạn sẽ biết nỗi khổ này, hạnh phúc gia đình chỉ là bong bóng nước, khổ nhiều mà sự an vui chẳng có bao nhiêu. Phải không các bạn?

Nếu giới hạnh thứ ba “SỐNG KHÔNG GIA ĐÌNH”này các bạn không chấp nhận thì giới thứ nhất và giới thứ hai chỉ là một hình thức một tu sĩ Phật giáo suông mà thôi. Cuộc đời của các bạn mang hình thức tu sĩ Phật giáo mà không dám lìa xa các ái kiết sử thì cũng phí một đời tu hành của các bạn mà thôi.

Cuộc đời tu hành theo Phật giáo lấy sự giải thoát làm đầu, cho nên tất cả sự việc trên thế gian này đều buông xả sạch nhờ có buông xả sạch nên mới làm chủ được nhân quả. Còn gia đình là một nhân quả đã vay trả trải qua nhiều đời kiếp, chứ không phải chỉ có một đời nay. Các bạn nên nhơ: “TỪ BỎ GIA ĐÌNH, SỐNG KHÔNG GIA ĐÌNH” là một việc làm rất khó, bỏ mà có đạo đức, bỏ mà không làm khổ mình, khổ người thì mới gọi là bỏ.

Xin các bạn nên lưu ý, giới thứ nhất và giới thứ hai: “CẠO BỎ RÂU TÓC, ĐẮP ÁO CÀ SA” giúp các bạn thay đổi hình sắc thế gian, bằng hình sắc xuất thế gian để nhắm hướng giải thoát đi đến. Vì thế, giới thứ ba dạy việc đầu tiên là các bạn phải buông xả chùm nhân quả gia đình: “TỪ BỎ GIA ĐÌNH, SỐNG KHÔNG GIA ĐÌNH”.

Khi từ bỏ gia đình sống không gia đình thì các bạn tìm thấy được sự giải thoát ngay liền không còn bị trói buộc những sợi dây ái kiết sử nữa. Đó là pháp thực tế hiện tại không có thời gian đến để mà thấy.

Quả giải thoát ngay liền nhưng việc làm được như vậy không phải là một việc dễ làm như đã nói ở trên. Vì nó là giới hạnh ly trần tục, thoát kiếp đời khổ đau.

Khi nghe đức Phật trình bày kết quả giải thoát của vị Sa Môn thì vua A Xà Thế phải chấp nhận ngay liền. Sự chấp nhận của Vua A Xà Thế cũng là một kết quả của Sa Môn hạnh hay nói cách khác là kết quả giới hạnh làm Thánh của những người tu theo Phật giáo.

Học giới luật đến đây các bạn thấy giới luật của Phật là một pháp môn tuyệt vời, mỗi giới đều có mỗi đức, mỗi hạnh. Mỗi đức, mỗi hạnh đều nhắm vào mục đích ly dục, ly ác pháp để đi đến quả giải thoát hoàn toàn.

Kính thưa các bạn! Giới luật là một pháp môn dạy về đức hạnh, đâu phải là chiếc bè đưa qua sông như các nhà Đại Thừa đã hiểu. Các bạn tu học giới luật là để thấm nhuần đức hạnh làm Người làm Thánh. Khi thấm nhuần giới luật đức hạnh thì các bạn trở thành giới luật đức hạnh. Như vậy giới luật là chiếc bè sang sông thì không đúng các bạn ạ! Cho nên lời dạy: “Chánh pháp còn phải bỏ huống là phi pháp” lời dạy này không đúng xin các bạn đừng nghe theo, đó là lời phi pháp để diệt chánh pháp của đức Phật.

GIỚI HÀNH SỐNG KHÔNG GIA ĐÌNH

Muốn sống không gia đình thì hằng ngày các bạn nên tư duy: “Gia đình là sợi dây ái kiết sử, khiến cho các bạn rất khổ đau vì lòng yêu thương những người thân trong gia đình”.

Thưa các bạn! Vì lòng thương yêu đối với những người thân trong gia đình mà biết bao nhiêu lần các bạn phải khổ đau với họ. Những sự khổ đau ấy gồm có:

1/ Khi những người thân bệnh tật các bạn phải chăm sóc thức khuya dậy sớm, phải cho ăn cho uống thuốc, phải dìu dắt tiêu tiểu bồng bế, phải giặt giũ quần áo v.v.. chịu biết bao vô vàn cực khổ khi ở nhà cũng như đến bệnh viện.

2/ Khi những người thân bị tai nạn thì các bạn lo lắng, buồn rầu ăn không ngon, ngủ không yên v.v..

3/ Khi có những người thân rượu chè say sưa, cờ bạc, điếm đàng v.v.. là một tai hoạ cho gia đình rất lớn các bạn sẽ khổ đau biết chừng nào.

4/ Khi con cái không nghe lời cha mẹ, bỏ học trốn học, bê tha chơi bời với những bè bạn hư thân mất nết thì các bạn làm cha mẹ rất là khổ tâm.

5/ Khi vợ hay chồng ngoại tình là một nỗi khổ tâm nhất cho những người thân trong gia đình, không những người lớn mà con cái cũng đau khổ.

6/ Khi trong gia đình có người mất là một nỗi khổ đau buồn bã nhất, không còn ai thích ăn, thích ngủ, thích làm, thích vui chơi v.v.. Thật là một nỗi trời sầu đất thảm.

7/ Những lời khuyên răn, những lời dạy bảo, những lời nói ngăn cản không cho người thân làm những điều sai trái thì dường như những lời ấy làm nghịch ý, sinh ra những chướng ngại trong gia đình khiến mọi người không vui. Đấy cũng là một sự khổ đau, buồn phiền.

Kể ra sống trong gia đình là một cuộc sống khổ đau triền miên bất tận, phải nói rằng khổ đau thì nhiều mà sự an vui thì không bao nhiêu. Bởi vậy muốn thoát ra khỏi mọi sự khổ đau trên cuộc đời này thì gia đình là nơi mà các bạn cần phải xa lìa trước nhất. Do đó, những giới đầu tiên của Phật giáo cho người xuất gia đều nhắm vào ái kiết sử, vì thế, phải giữ gìn nghiêm chỉnh giới “SỐNG KHÔNG GIA ĐÌNH”.

Muốn sống không gia đình thì các bạn thường tác ý: “Gia đình là ái kiết sử, là nỗi khổ đau bất tận của loài người, là lộ trình của qui luật nhân quả để tiếp tục tái sinh luân hồi khổ đau mãi mãi, ta phải cố gắng bằng mọi cách vượt ra mạng lưới của gia đình”.

Tóm lại, người tu sĩ và người cư sĩ Phật giáo phải thông suốt mạng lưới ái kiết sử gia đình, để tìm mọi cách thoát ra và chấm dứt sợi dây vô hình luôn luôn trói buộc bằng tình thương và đau khổ muôn đời mà mọi người trên thế gian này không ai tránh khỏi.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ TƯ: SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA

 “SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA”là một hành động đạo đức thuộc về thân và tâm làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu để biết lối sống của một vị Thánh Tăng, Thánh Ni xả bỏ lối sống thế gian để đi vào lối sống Thánh thiện của một bậc phi phàm.

Đây là một giới luật dạy về đức và hạnh trong những đức hạnh làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC LY GIA SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA

 “SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA”là một đức hạnh sống lìa bỏ sanh y của những bậc Thánh Tăng, Thánh ni ly dục ly ác pháp, chứ không phải như một số người sống du mục như dân Bắc Cực, Nam Cực. Dân Bắc Cực, Nam Cực sống không nhà cửa là vì họ sống trên băng tuyết nên tìm lối sống bằng cách săn hải cẩu hoặc bằng cách chăn nuôi dê, cừu, bò v.v.. Do sống như vậy nên phải chấp nhận đời sống du mục.

“SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA”là một đức hạnh giải thoát sống ly gia, một đời sống Du Tăng Khất Sĩ. Nhờ lối sống như vậy nên mới buông xả được mọi vật chất trên thế gian này. Do đức sống ly gia mà thân tâm mới được giải thoát, đời sống mới có thanh thản, an lạc và vô sự.

Ai cũng biết Phật giáo có một nền đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người. Nếu sống không làm khổ mình, khổ người mà không sống đúng đức hạnh giải thoát ly gia cắt ái thì không thể nào sống trọn vẹn được.

GIỚI HẠNH LY GIA SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA

 “SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA”là một hành động sống hạnh từ bỏ nhà cửa, tức là ly tất cả các pháp trên thế gian này. Vì tất cả các pháp trên thế gian này đều là do duyên hợp mà thành, nên không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Do biết rõ thật như vậy nên các bạn mới chấp nhận sống không nhà cửa. Sống không nhà cửa là sống thoát ly mọi vật chất trên thế gian này, nó có nghĩa là sống buông xả sạch.

“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!

Chớ giữ làm chi có ích gì?

Thở ra chẳng lại còn chi nữa,

Vạn sự vô thường buông xuống đi!”

Nhờ buông xuống mà thân tâm được thanh thản an lạc và vô sự; nhờ buông xuống mà sống giải thoát sanh tử luân hồi.

“SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA” là một Thánh hạnh ly gia cắt ái của những người đã thông suốt lý duyên hợp của các pháp. “Các pháp thế gian là pháp sinh diệt. Sinh diệt diệt rồi tịch diệt là vui”. Đúng vậy, người thấu suốt lý nhân duyên thì sống không nhà cửa, còn những người chưa thấu suốt lý nhân duyên thì sống nhà cao cửa rộng, chùa to Phật lớn, sống đầy đủ vật chất như người thế gian, sống dính mắc vật chất, sống thiếu đức hạnh thanh bần buông xả, “xả phú cầu bần xả thân cầu đạo”.

Nếu cuộc đời tu hành mà sống không đúng giới hạnh này thì không phải là người tu sĩ Phật giáo. Vì người tu sĩ Phật giáo là người ly gia cắt ái.

“SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA”là một Thánh hạnhtuy rất tầm thường nhưng rất quan trọng cho việc tu hành tìm cầu sự giải thoát. Xin các bạn nên lưu ý giới hạnh này, có sống đúng thì mới có sự giải thoát chân thật rõ ràng cụ thể.

GIỚI HÀNH LY GIA SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA

Muốn ly gia cắt ái để xuất gia tu hành cho dễ dàng hơn thì nên đối xử với những người thân thương trong gia đình của mình, nhất là phải biết nhẫn nhục, tuỳ thuận và bằng lòng trong mọi nghịch cảnh, phải biết lắng nghe và tôn trọng, thương yêu và tha thứ cho họ khi họ có những lời và những hành động ngăn cản chống đối lại việc tu hành của mình.

Do hoàn cảnh nghịch như vậy các bạn nên tuỳ thuận, nhưng không bị lôi cuốn vào ác pháp có nghĩa là các bạn phải giữ gìn tám giới (Bát Quan Trai) cho nghiêm túc và cố gắng tu tập 18 đề mục Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu và đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.

Sống trong gia đình các bạn phải luôn luôn siêng năng làm mọi việc, vui vẻ với mọi người, nhưng phải giữ lập trường cho thật vững, họ nói gì, làm gì có vẻ không đồng ý ngăn cản về sự giữ giới luật thì các bạn nên cương quyết giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm, nhưng rất cởi mở không tỏ ra lầm lầm lì lì khó chịu v.v.. Có giữ gìn sự hài hoà như vậy thì mới có ngày thực hiện được ý nguyện.

Muốn có sự hài hoà làm vui lòng mọi người như vậy, hằng ngày các bạn phải dùng pháp như lý tác ý: “Ta phải biết giữ lập trường cho vững, nhất định ta phải vượt ra vòng cương tỏa của ái kiết sử, nhưng luôn luôn sống hài hoà với mọi người trong gia đình không nên làm khổ họ”. Có tác ý và tu tập như vậy thì nhân duyên đủ các bạn sẽ được toại nguyện. Đó là giới hành “SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA”.Đời sống không gia đình không nhà cửa thì thân tâm dễ dàng thanh thản, an lạc và vô sự các bạn ạ!

Sự tu hành theo Phật giáo không phải dễ, thường gặp nghịch cảnh hơn là thuận cảnh, đó là một sự thử thách trong đời tu của các bạn, các bạn đừng nản lòng, hãy tinh tấn lên phía trước là một chân trời giải thoát đang chờ các bạn.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ NĂM: SỐNG CHẾ NGỰ THÂN

 “SỐNG CHẾ NGỰ THÂN”là một hành động Thánh hạnh đạo đức sống ngăn ngừa mỗi hành động của thân, để điều khiển thân, không cho thân hành động chạy theo dục nhiễm thế gian, khiến cho thân được thanh thản, an lạc và vô sự.

“SỐNG CHẾ NGỰ THÂN”nó là một đức hạnh có ích lợi rất lớn cho mọi người, nhờ nó mà mọi người sống không làm khổ mình, khổ người. Vì thế, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm người có đạo đức không làm khổ mình, khổ người và để thoát ra khỏi mọi sự khổ đau trong cuộc đời này và chấm dứt sinh tử luân hồi thì cần phải học hiểu biết và sống đúng đức hạnh “SỐNG CHẾ NGỰ THÂN”.

“SỐNG CHẾ NGỰ THÂN”,đây là một giới luật dạy về đức và hạnh trong những đức hạnh làm Người, làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này cho trọn vẹn để có đạo đức nhân bản - nhân quả. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC SỐNG CHẾ NGỰ THÂN

Giới thứ năm “SỐNG CHẾ NGỰ THÂN”, là một giới luật dạy mọi người phải thường sống có đạo đức biết ngăn chặn thân không cho thân chạy theo dục lạc. Vậy sống đạo đức chế ngự thân là sống như thế nào?

Trước khi muốn hiểu nghĩa câu này thì các bạn nên hiểu từ chế ngự. Vậy chế ngự nghĩa là gì?

Chế ngự nghĩa là ngăn chặn làm cho đối phương phục tùng, làm cho kẻ khác phải đầu hàng, làm cho giảm bớt, khiến đối phương phải làm theo ý lệnh của mình.

“SỐNG CHẾ NGỰ THÂN”, là một Thánh hạnh đạo đức tức là sống ngăn chặn và điều khiển thân không cho thân hành động làm những điều ác, luôn làm những điều thiện. Thân làm những điều lành là làm những điều có đạo đức, làm những điều không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.

Như vậy giới “SỐNG CHẾ NGỰ THÂN” dạy các bạn sống làm chủ thân mình. Làm chủ thân mình đó là một Thánh hạnh sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai. Một hành động giới luật sống ngăn chặn mỗi hành động của thân không cho nó làm ác như vậy là một hành động đạo đức cao thượng tuyệt vời mà mọi người trong thế gian này cần phải học và tu tập rèn luyện đức hạnh này.

GIỚI HẠNH SỐNG CHẾ NGỰ THÂN

 “SỐNG CHẾ NGỰ THÂN” là một Thánh oai nghi tế hạnh của một người tu sĩ Phật giáo, luôn luôn sống ngăn chặn không cho thân làm những điều ác như trên đã nói. Nghe dạy đến đây các bạn đừng hiểu lầm sống chế ngự thân là sống ức chế thân, khiến cho thân phải khổ sở, khiến cho thân phải hy sinh mạng sống vì tìm cầu sự giải thoát, vì tôn giáo của mình, vì những ước vọng điên đảo để được lên Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn mà bắt buộc thân phải làm những điều cực ác. Đó là những ảo tưởng, cuồng tín chấp chặt những giới cấm thủ, những giáo điều điên đảo của ngoại đạo. Cho nên mới có những cuộc Thánh chiến tàn sát con người chết lớp lớp, xương chồng chất như núi, máu chảy như sông của những người cuồng tín gây thương đau cho loài người hiện có mặt trên hành tinh này mà lịch sử loài người còn ghi chép lại những trang sử đẫm máu của những tôn giáo thống trị loài người một cách kinh hoàng.

Muốn được sống Thánh hạnh chế ngự thân như vậy, khi thân muốn làm một điều gì thì phải phản ảnh lại hành động của thân, nghĩa là phải tư duy suy nghĩ những hành động của thân trước khi khởi làm. Có như vậy các bạn mới chủ động điều khiển mỗi thân hành mà không bị nghiệp ác lôi.

Nhưng dựa vào đâu mà chúng ta biết thân hành làm đúng, thân hành làm sai?

Thưa các bạn! Các bạn muốn biết điều này không khó. Khi suy nghĩ thân hành thấy thân hành nào làm khổ mình, làm khổ người và làm khổ cả hai thì đó là những thân hành sai, thân hành ác, nhất định không nên làm những thân hành đó. Không làm những thân hành đó là các bạn sống chế ngự thân. Sống chế ngự thân là hành động đạo đức không làm những điều ác hại mình, hại người, hại cả hai.

Cứ theo giới luật sống chế ngự thân như vậy thì các bạn sẽ có một kết quả giải thoát không còn khổ đau phiền não giận hờn v.v.. rất là thiết thực cụ thể. Sống chế ngự thân là một việc làm không thua gì mọi nghề nghiệp trên thế gian này. Vì mọi nghề nghiệp trên thế gian này mang đến sự sống như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, thuốc thang đầy đủ, thì việc chế ngự thân cũng vậy nó mang đến cho các bạn với một thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự

Tóm lại, giới thứ nhất, giới thứ hai, giới thứ ba, giới thứ tư và giới thứ năm đều mang lại một kết quả hiện tại giải thoát thiết thực cụ thể thật sự đem đến sự an lạc hạnh phúc cho con người. Vì thế vua A Xà Thế phải chấp nhận và tán thán giới luật của Phật: “Bạch Thế Tôn! Như vậy chính là kết quả thiết thực hiện tại của Sa Môn hạnh”. Mà không ai dám phủ nhận được những giới luật này

GIỚI HÀNH SỐNG CHẾ NGỰ THÂN

 “SỐNG CHẾ NGỰ THÂN”là một giới hành ly dục ly ác pháp tuyệt vời, vì thế các bạn hằng ngày phải nghiêm chỉnh giữ gìn giới này. Do nghiêm chỉnh giữ gìn giới luật này nên mỗi khi thân làm một việc gì thì các bạn đều phải suy tư xem xét trước khi nó làm. Do kiểm tra xem xét như vậy nên thân làm việc các bạn đều biết rõ. Do biết rõ từng hành động của thân mình nên các bạn làm bất cứ việc gì đều không có lỗi lầm. Tại sao vậy?

Trước khi muốn làm một việc gì các bạn đã biết việc làm đó thiện hay ác. Nếu việc đó ác, nhất định các bạn sẽ không làm.

Vậy làm sao biết việc thiện, việc ác? Biết việc thiện, việc ác không khó các bạn ạ! Khi các bạn làm một việc mà việc đó không làm khổ mình, không khổ người và không khổ cả hai là việc thiện. Còn ngược lại là việc ác như trên đã dạy.

Muốn giữ gìn giới này nghiêm chỉnh thì hằng ngày các bạn nên nhớ dùng pháp như lý tác ý: “Phải tỉnh giác trên từng thân hành, không được để thân hành làm theo thói quen”. Với câu này các bạn phải nhắc thường xuyên tác ý hoặc các bạn tác ý một câu khác: “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” hoặc “Đưa tay ra tôi biết tôi đưa tay ra, đưa tay vào tôi biết tôi đưa tay vào” hoặc “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Đó là tập tỉnh thức trên thân hành tức là thân làm việc gì đều biết thân làm việc nấy.

Điều cần thiết trong giới hành này là các bạn phải tập chánh niệm tỉnh giác để kiểm soát những hành động trước khi các bạn muốn làm một điều gì mà trong kinh sách đức Phật thường nhắc nhở: “PHẢN TỈNH THÂN HÀNH”. Phản tỉnh thân hành là “GIỚI HÀNH SỐNG CHẾ NGỰ THÂN”.Xin các bạn lưu ý: Trong bộ Văn Hoá Truyền Thống tập I đã có dạy giới hành Sa Di này, nó có tên là GIỚI THÂN HÀNH.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ SÁU: SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI

SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”là một hành động đạo đức thuộc về khẩu hành làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu để biết lối sống của một vị Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ bằng tất cả đức hạnh buông xả, từ bỏ lối sống thế gian, từ bỏ những thân hành ác, từ bỏ những lời nói ác để thực hiện vào lối sống Thánh thiện.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI

 “SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”là một đức hạnh ngôn ngữ để thực hiện Thánh đức im lặng. Người ở đời thường hay dục ăn, dục nói, ít khi có ai chịu suy nghĩ lời nói trước khi nói ra. Khi đã nói ra lời nói không ái ngữ thường đem đến sự khổ đau cho mình,cho người và cho cả hai. Biết rõ điều này hơn ai hết nên đức Phật dạy:“Sống chế ngự lời nói”. Sống chế ngự lời nói là một hành động ngăn chặn và hạn chế lời nói ác, lời nói khiến mình khổ, người khác khổ. Nhờ có hạn chế và ngăn chặn lời nói ác nên cuộc sống mới được yên vui, an lạc và vô sự.

Người nào biết sống chế ngự lời nói ác là người có đạo đức về ngôn ngữ, họ luôn luôn ít nói nhưng khi nói ra thì nói những lời êm ái, dịu dàng, ôn tồn, nhã nhặn thường mang lại sự an vui, hạnh phúc cho mình, cho người và cho cả hai.

 Muốn được vậy thì phải tu tập và sống đúng giới đức, giới hạnh, giới hành này nghiêm chỉnh, nhờ có tập sống như vậy lâu ngày mới thành thói quen im lặng, ít nói, hạn chế và ngăn chặn lời nói, càng ít nói, càng hạn chế và ngăn chặn lời nói thì càng yên vui và hạnh phúc hơn. Sự im lặng ít nói thường mang lại hạnh phúc, yên vui nhiều hơn cho mình và cho mọi người.

“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”là người biết sống cho mình, cho người. Bởi vậy người biết sống cho mình, cho người là người phải nói ít, khi muốn nói ra một điều gì đều phải có sự suy nghĩ kỹ lưỡng rồi mới nói như trên đã dạy. Khi suy nghĩ kỹ lưỡng thấy lời nói ra không có hại mình, hại người, hại cả hai thì mới nói, như trong kinh Giáo Giới La Hầu La đức Phật dạy: “Này La Hầu La, khi con muốn nói một lời nói gì thì hãy suy nghĩ lời nói ấy như sau: lời nói này của ta, có thể đưa đến làm khổ ta, có thể đưa đến làm khổ người khác, có thể đưa đến làm khổ cả hai. Lời nói này bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ. Một lời nói như vậy, này La Hầu La nhất định chớ có nói con ạ!”.

Đoạn kinh trên đây đã xác định cho các bạn thấy rằng: “SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”là một giới đức để thực hiện đức ái ngữ.

Một người muốn sống có đạo đức về lời nói thì phải chế ngự và ngăn chặn lời nói ác. Chế ngự và ngăn chặn lời nói ác là một hành động đạo đức về ngôn ngữ. Cho nên làm người ai ai cũng phải học, hiểu và rèn luyện đạo đức này, nếu thiếu đức hạnh này thì cuộc sống không bao giờ có hạnh phúc, không bao giờ có tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Cho nên, ngôn ngữ là một vấn đề quan trọng khi giao tiếp với mọi người, lời nói không khéo sẽ mang đau khổ cho mình cho người, vì thế nên cẩn ngôn nói ít chứ đừng nói nhiều là hay nhất.

GIỚI HẠNH NGÔN NGỮ SỐNG CHẾ NGỮ LỜI NÓI

Thưa các bạn! Chúng ta là những người hậu học, có đầy đủ phước duyên với chánh pháp của đức Phật, nên mới được nghe những lời dạy quý báu đầy thương yêu tha thiết của một người cha lành đang dạy những đứa con mà chắc chắn trên đời này chúng ta khó gặp, khó tìm được một người cha như vậy.

Đọc những lời dạy giới luật trên đây của đức Phật các bạn có thấy mình giống như La Hầu La không? Một đứa con độc nhất của đức Phật. Theo chúng tôi nghĩ: các bạn hiện giờ cũng giống như La Hầu La đứa con duy nhất của đức Phật đang được nghe những lời dạy êm ấm đầy lòng thương yêu. Phải không các bạn?

Ngày xưa đức Phật trực tiếp dạy La Hầu La. Ngày nay những lời dạy ấy vẫn còn trực tiếp dạy chúng ta. Chúng ta là những đứa con một của đức Phật đang lắng nghe những lời dạy ấy và chúng ta cũng cảm nghĩ thấy mình chính là La Hầu La đang lắng nghe những lời dạy êm ái, nhẹ nhàng đầy tình thương yêu của năm xưa.

“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”là một oai nghi tế hạnh tuyệt vời, nó mang đầy đủ Phạm hạnh của một người tu sĩ và cư sĩ Phật Giáo về lời nói, nó nói ra luôn luôn ôn tồn, nhã nhặn, êm ái, dịu dàng v.v.. tràn đầy ái ngữ.

“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”là một oai nghi tế hạnh mang đầy đủ những hành động đức hạnh về ngôn ngữ của một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ. Vậy các bạn hãy cố gắng tu tập rèn luyện cho thành một thói quen chủ động điều khiển Thánh giới hạnh ngôn ngữ đức hạnh này.

Kính thưa các bạn! Chỉ có những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ là những đệ tử của đức Phật thì mới chấp hành những oai nghi tế hạnh chế ngự lời nói, còn ở thế gian thì mọi người không thể sống chế ngự lời nói. Như các bạn đã biết: nhờ sống Phạm hạnh chế ngự lời nói khiến ai nấy đều kính trọng và quý mến. Do đó vua A Xà Thế là một người rất thông minh nên khi nghe đức Phật nói xong, ông liền tán thán ca ngợi: “Bạch Thế Tôn! Không như vậy, trái lại chúng con kính lễ người ấy, đứng dậy trước người ấy, mời người ấy ngồi xuống ghế...”.

“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”là một oai nghi tế hạnh của bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ, nên nói thì dễ mà sống được như vậy rất khó. Cho nên, chỉ những người có quyết tâm cao muốn chuyển đổi cuộc sống thế gian này trở thành cõi Thiên Đàng, Cực Lạc thì mới cố gắng thực hành sống đúng giới hạnh này.

Sống giới hạnh chế ngự lời nói là một pháp hành ngăn ác diệt ác về khẩu nghiệp thật là tuyệt vời. Nó giúp cho hành giả tâm vô lậu về khẩu nghiệp hoàn toàn thanh tịnh.

“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”là một oai nghi tế hạnh tuyệt vời đầy đủ Phạm hạnh về ngôn ngữ của một người có đạo đức nhân bản - nhân quả. Những lời nói ra, nó mang đầy đủ những đức và hạnh về ngôn ngữ.

GIỚI HÀNH NGÔN NGỮ SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI

 “SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”là một giới hànhvề đức hạnh ngôn ngữ thứ nhất của sự im lặng. “Im lặng như Thánh” đó là lời đức Phật đã nhắc nhở cho các đệ tử của mình. Giới hạnh ngôn ngữ là sự im lặng như Thánh. Sư im lặng như Thánh mang đầy đủ tính chất thanh thản, an lạc và vô sự. Lời nói im lặng như Thánh mang đầy đủ một trạng thái tâm không phóng dật, một trạng thái tâm vô lậu, một trạng thái tâm Niết Bàn. Đó là đạo đức ngôn ngữ hành thứ nhất của Phật giáo.

“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”là đức hạnh ngôn ngữ ít nói. Khi nói ra lời nào thì lời nói ấy phải ngọt ngào, êm ái, dịu dàng, ôn tồn, nhã nhặn, không xưng hô phách lối, không gọi tên xách khoé, không thiếu lễ độ, thiếu văn hoá trong lời nói v.v.. Đó là ngôn ngữ hành thứ hai của Phật giáo.

“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”là đức hạnh ngôn ngữ thành thật, thẳng thắn, trực ngôn, không nói lời a dua, nịnh bợ, không nói tránh né, không nói trườn uốn như lươn v.v.. Đó là ngôn ngữ hành thứ ba của Phật giáo.

“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”là một hành động sống Thánh hạnh trong đạo Phật. Bởi vậy những người tu theo Phật giáo cần phải lưu ý những Thánh hạnh ngôn ngữ này mà tu tập và rèn luyện cho thuần thục, cho nhuần nhuyễn thì sẽ thấy những kết quả vô lậu của giới hành này.

Đây là một giới hành quan trọng cho bước đường tu tập để đi đến giải thoát hoàn toàn của Phật giáo. Nếu những ai đã xem thường những giới hành này thì con đường tu tập không bao giờ tu tập đi đến nơi đến chốn. Nếu tu tập không đi đến nơi đến chốn thì tu tập để làm gì? Tu tập để đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo thì có ích lợi gì? phải không các bạn?

Thà trở về đời sống thế tục, sống như bao nhiêu người khác, sống có đạo đức nhân bản - nhân quả còn tốt hơn.

Chỉ mới bắt đầu vào đạo, sống những giới hạnh như vậy mà vua A Xa Thế còn phải chấp nhận đứng dậy chào hỏi và mời ngồi... tỏ ra rất cung kính và tôn trọng, huống là tu hành giữ gìn giới luật trọn vẹn, sống đúng những Thánh hạnh thì sẽ lợi ích cho mình cho người biết là dường nào.

Giới này đức Phật đã dạy cho La Hầu La trong bộ sách Văn Hoá Truyền Thống tập I “GIỚI KHẨU HÀNH”tức là “SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”,xin các bạn lưu ý: đó là một giới hành đạo đức ngôn ngữ tuyệt vời nó không riêng cho giới tu sĩ mà ngay cả những người cư sĩ nói riêng, nói chung cho tất cả mọi người dù bất cứ tôn giáo nào, có tôn giáo hay không tôn giáo.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ BẢY: SỐNG CHẾ NGỰ Ý NGHĨ

 “SỐNG CHẾ NGỰ Ý NGHĨ”là một hành động đạo đức thuộc về ý làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu để biết lối sống của một vị Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ bằng tất cả đức hạnh buông xả, từ bỏ lối sống thế gian, từ bỏ những thân hành ác, từ bỏ những lời nói ác, từ bỏ ý nghĩ ác để thực hiện đi vào lối sống Thánh thiện của người đệ tử Phật.

GIỚI ĐỨC TỰ CHỦ Ý NGHĨ SỐNG CHẾ NGỰ Ý

 “SỐNG CHẾ NGỰ Ý”là một giới luật để thực hiện ĐỨC TỰ CHỦ Ý NGHĨ.

Người đời thường hay sống không chế ngự ý nghĩ, mọi ý nghĩ khởi lên là họ đều chạy theo ý nghĩ ấy liền, có nghĩa là họ chấp nhận ý nghĩ đó, khi chấp nhận ý nghĩ đó tức là họ chấp nhận lòng tham muốn của họ và sẵn sàng làm theo lòng ham muốn đó. Do đó, mà họ phải chịu biết bao điều đau khổ của kiếp làm người.

“SỐNG CHẾ NGỰ Ý”là sống làm chủ ý, sống không buông lung, không chạy theo lòng ham muốn của các bạn tức là không chạy theo dục lạc thế gian. Còn ngược lại làchạy theo dục lạc, chạy theo dục lạc là chạy theo sự khổ đau. Cho nên, “SỐNG CHẾ NGỰ Ý”là một đức hạnh tuyệt vời, chỉ có con người mới thực hiện được. Người nào chế ngự được ý là một bậc Thánh tại thế gian này, họ sống đời sống không bao giờ làm khổ mình, khổ người, họ là hiện thân của tâm bất động, sống với trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự.

“SỐNG CHẾ NGỰ Ý”là một hành động đạo đức mà mọi người cần phải chấp hành triệt để, để mang lại sự an vui hạnh phúc cho muôn người trên hành tinh này. “SỐNG CHẾ NGỰ Ý”là sống làm chủ được ý căn. Sống làm chủ được ý căn là sống làm chủ được sự sống chết của mình.

GIỚI HẠNH SỐNG CHẾ NGỰ Ý

 “GIỚI HẠNH CHẾ NGỰ Ý”là những oai nghi tế hạnh rất tuyệt vời về ý. Khi một ý nghĩ khởi lên các bạn nên chế ngự ý nghĩ đó, nếu không chế ngự ý nghĩ là các bạn chạy theo dục và các ác pháp.

Ví dụ: Khi tâm muốn ăn phi thời mà các bạn không dừng ngay ý nghĩ đó thì các bạn sẽ ăn phi thời. Khi các bạn phạm vào giới ăn phi thời thì tất cả những giới khác coi chừng sẽ vi phạm. Nếu các bạn không cảnh giác thì các bạn sẽ phạm nhiều giới và làm mất oai nghi tế hạnh của một người tu sĩ có đức hạnh không làm khổ mình, khổ người. Còn nếu các bạn phạm giới chế ngự ý là các bạn sẽ phạm tất cả những giới sau đây:

1/ Phạm giới chế ngự ý.

2/ Phạm giới ăn phi thời.

3/ Phạm giới độc cư.

4/ Phạm giới nói lời chân thật.

5/ Phạm giới không sáng suốt.

6/ Phạm giới ly tham.

7/ Phạm giới mất oai nghi tế hạnh.

8/ Phạm giới ngồi lều ăn quán... và nhiều giới khác nữa.

“GIỚI HẠNH CHẾ NGỰ Ý”là những oai nghi tế hạnh sống ly dục, ly ác pháp, sống diệt ngã xả tâm. Vì vậy, những oai nghi tế hạnh sống chế ngự ý là Thánh đức bất động tâm trước các pháp và các cảm thọ.

“GIỚI HẠNH CHẾ NGỰ Ý” là những oai nghi tế hạnh sống ngăn ác diệt ác pháp tức là sống đoạn diệt lòng ham muốn của mình. Đoạn diệt lòng ham muốn của mình là sống đúng chân lý Diệt Đế. Diệt Đế là Niết Bàn. Cho nên, khi nghe nói đến những oai nghi tế hạnh này thì Vua A Xà Thế nghĩ rằng chỉ có những bậc Thánh mới sống như vậy, chứ những kẻ phàm phu không thể nào sống nổi với những oai nghi tế hạnh Sa Môn giải thoát tuyệt vời này. Vì thế, vua A Xà Thế phán rằng: “Bạch Thế Tôn! Không như vậy, trái lại chúng con kính lễ người ấy, đứng dậy trước người ấy, mời người ấy ngồi xuống ghế, cúng dường người ấy các dụng cụ như y áo v.v.. đồ ăn khất thực, sàng tọa, thuốc men trị bệnh và chúng con sẽ ra lệnh để bảo vệ che chở người ấy đúng theo pháp luật”.

GIỚI HÀNH CHẾ NGỰ Ý

 “GIỚI HÀNH CHẾ NGỰ Ý”là một phương cách ngăn lại sự ham muốn. Cho nên, khi có một ý nghĩ ham muốn một điều gì ác khởi lên thì các bạn ngăn chặn ngay liền không cho ý nghĩ đó biến ra hành động thân hoặc lời nói của các bạn. Nếu ý nghĩ ấy các bạn không ngăn và diệt, thì nó sẽ dẫn đến hành động thân hoặc lời nói, lúc đó tâm của các bạn đang chạy theo dục lạc thế gian. Chạy theo dục lạc thế gian là chạy theo các ác pháp. Và như vậy tâm các bạn sẽ chịu nhiều sự khổ đau.

Người biết sử dụng “GIỚI HÀNH CHẾ NGỰ Ý”là người biết tu tập tâm xả vô lượng pháp. Do xả tâm vô lượng pháp nên tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn là tâm nhập vào dòng Thánh (Tu Đà Hoàn).

“GIỚI HÀNH CHẾ NGỰ Ý”là những hành động làm chủ ý. Khi một ý nghĩ khởi lên các bạn nên chế ngự ý nghĩ đó, nếu không các bạn sẽ bị nó sai các bạn như tên nô lệ.

Muốn sống đúng“GIỚI HÀNH CHẾ NGỰ Ý” nghiêm chỉnhthì các bạn luôn luôn phải phản tỉnh lại tâm các bạn, mỗi khi có một ý nghĩ khởi lên là phải mau mau tư duy ngay liền, không được bỏ qua, dù một niệm không đáng kể.

Hằng ngày các bạn nên như lý tác ý: “Phải tỉnh giác từng ý niệm, phải làm chủ từng ý niệm, phải ngăn và diệt từng ý niệm ác, không được bỏ sót một ý niệm nào”.

Giới luật đức hạnh là những pháp môn quan trọng nhất của Phật giáo cho bước đường tu tập để tìm cầu sự giải thoát. Chúc các bạn tu tập thành tựu viên mãn trong giới pháp này.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ TÁM: BẰNG LÒNG VỚI NHU CẦU TỐI THIỂU VỀ ĂN UỐNG, Y ÁO

 “BẰNG LÒNG VỚI NHU CẦU TỐI THIỂU VỀ ĂN UỐNG, VỀ Y ÁO”là một hành động đức hạnh ly tham thuộc về ý làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu để biết lối sống của một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ bằng tất cả giới hạnh buông xả, từ bỏ lối sống thế gian, từ bỏ những thân hành ác, từ bỏ lời nói ác, từ bỏ những ý hành ác, bằng lòng tối thiểu về ăn uống về y áo để đi vào lối sống Thánh thiện.

GIỚI ĐỨC THIỂU DỤC TRI TÚC

Bởi con người sinh ra là chỉ để chạy theo năm món dục lạc trên thế gian: “danh, lợi, sắc, thực, thùy”. Suốt cuộc đời làm nô lệ cho năm món dục lạc này, đến khi xuôi tay trở về lòng đất chẳng mang theo một món gì, chỉ còn lại nghiệp thiện và nghiệp ác mà thôi. Thật là uổng phí cho sự hiện hữu của một đời người chẳng làm lợi ích gì cho mình, cho người. Sống như vậy có đáng trách không các bạn?

Thưa các bạn! Đời người sinh ra lớn lên làm bất cứ nghề nghiệp nào, dù nghề nghiệp ấy có vất vả gian nan, có chịu biết bao nhiêu cực khổ, để làm ra nhiều vật chất, có nhiều vật chất cũng chỉ để phục vụ cho ăn, ngủ và dâm dục. Để phục vụ cho ăn, ngủ và dâm dục thì còn có ý nghĩa gì cao đẹp. Phải không các bạn?

Ăn là để tiêu hóa phân phối những chất bất tịnh hôi thối bên ngoài để nuôi thân tứ đại vô thường cũng bất tịnh hôi thối và đầy dẫy đau khổ, chứ có lợi ích những gì đâu, chỉ là những thứ bất tịnh nuôi thân bất tịnh. Vậy mà mọi người cũng không ai tránh khỏi qui luật này, mà lại con đam mê ăn, ngủ, dâm dục v.v..

Ngủ là một trạng vô tri để trở thành người ngu si, mê muội, đần độn, lười biếng, nhút nhát v.v..

Dâm dục làm tiêu hao sức khoẻ con người. Tinh khí thần hao tổn.

Vì dâm dục mà Trụ Vương mất nước, U Vương và Đường Vương Lý Trị chết một cách thê thảm.

Vì thế, giới luật đức hạnh của đạo Phật đã dạy: “Ăn uống và ăn mặc phải sống thiểu dục tri túc, nghĩa là ít muốn, biết đủ về ăn, về mặc thì đời sống mới thoát ra khỏi năm thứ dục lạc đầy cám dỗ của cuộc đời”. Thế mới biết đức thiểu dục tri túc rất cần thiết cho đời sống của mọi người.

GIỚI HẠNH THIỂU DỤC TRI TÚC

Người tu sĩ Phật giáo ăn ngày một bữa là đủ nuôi sống thân mạng trong một ngày một đêm, đâu có cần phải ăn nhiều bữa, cho nên giới hạnh thứ tám có tên: “Bằng lòng tối thiểu về ăn uống, về y áo”. Bằng lòng với nhu cầu tối thiểu, về ăn uống là một giới hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Cho nên, không những ăn ngày một bữa mà còn chấp nhận ăn ngày một bữa để sống, chứ không phải sống để chạy theo ăn uống, ăn mặc sang đẹp. Vì thế ăn không tham đắm những thực phẩm cao lương mỹ vị; mặc không tham đắm những hàng vải lụa là sang đẹp. Đó là những oai nghi tế hạnh trong ăn uống và ăn mặc của người đệ tử Phật.

“GIỚI HẠNH LY THAM VỀ ĂN VÀ MẶC”,xin ác bạn lưu ý với những cụm từ của giới này: “Nhu cầu tối thiểu về ăn uống, về y áo”. Nhất là cụm từ tối thiểu, có nghĩa là ăn uống chỉ đủ để sống, sống để tu tập chứ không phải sống để ăn uống thừa dư mập khoẻ. Y áo cũng vậy cũng vừa đủ hai bộ ngắn, bộ này đem giặt bộ kia mặc vào, không được dư ba bộ, y thượng và áo tràng cũng vậy chỉ được một cái mà thôi không được thừa hai cái. Cho nên, giới này có tên là “Bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, về y áo”.

Vì thế, người tu sĩ Phật giáo phải tự nguyện sống một đời sống đức hạnh tối thiểu về ăn uống và về y áo, nếu không bằng lòng sống như vậy thì không nên xuất gia làm tu sĩ. Các bạn nên hiểu: Trong đạo Phật không có ai bắt ép và quyến rũ các bạn tu hành đâu. Vì các bạn tu là đem lại lợi ích cho các bạn, chứ không phải đem lợi cho Phật, cho Thầy hay cho Phật giáo. Xin các bạn hiểu cho. Khi tu hành các bạn đừng nhắm vào chỗ kết quả cao làm chủ sanh tử luân hồi mà hãy nhắm vào từng giới luật đức hạnh. Vì mỗi giới luật đức hạnh là mỗi sự giải thoát cho các bạn.

Làm tu sĩ Phật giáo khó lắm các bạn ạ! Nếu sống đúng giới luật tức là sống đúng Phạm hạnh. Sống đúng Phạm hạnh thì các bạn tìm thấy sự giải thoát ngay liền, còn ngược lại các bạn sống không đúng Phạm hạnh, sống theo kiểu thế gian thì các bạn đừng nên theo Phật giáo tu hành. Vì có tu tập cũng chẳng có ích lợi gì cho các bạn. Các bạn đừng mượn chiếc áo người tu sĩ Phật giáo mà làm hại Phật giáo các bạn ạ! Các bạn đừng tưởng những cấp bằng cao học Phật học của bạn là giải thoát, không đâu các bạn ạ! Học và tu là hai con đường song song không thể gặp nhau trên một giao điểm được.

Hình thức của các tu sĩ Phật giáo Đại Thừa và Thiền Tông là hình ảnh tu sĩ sa đoạ đang phá hoại Phật giáo tận cùng, họ đang giết chết Phật giáo trên thế gian này. Vậy họ giết chết Phật giáo như thế nào?

Họ sống ăn uống phi thời, xem tivi, phim ảnh, ở chùa to Phật lớn, tụng niệm ê a như ca hát, cầu siêu, cầu an. Và cái tệ hại nhất là các Thầy Đại Thừa và Thiền Tông thường đi bác sĩ, nằm bệnh viện, trong khi giáo pháp của Phật dạy làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Vậy mà có bệnh các Thầy lại đi bác sĩ, nằm bệnh viện thì còn gì thể thống Phật giáo nữa. Đó là đời sống thiếu Phạm hạnh, không thiểu dục tri túc của các vị Sư Thầy trong Phật giáo hiện nay, rất đáng trách các bạn ạ! Nhưng các bạn cũng nên thương xót cho họ, vì họ là những người lầm đường lạc lối tu theo pháp tà giáo ngoại đạo mà không biết. Vì thế giới luật đức hạnh không tròn đủ.

GIỚI HÀNH THIỂU DỤC TRI TÚC

Các bạn có nghe pháp môn Tứ Niệm Xứ dạy khắc phục bệnh đau trên thân không?

Kinh dạy: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”. Đó là dạy các bạn đẩy lui bệnh tật, làm chủ bệnh, khiến cho thân các bạn không còn bệnh tật tác động vào nữa. Vậy mà Đại Thừa nói Phật còn đau lưng, nói như vậy có đúng không? Các bạn trả lời đi! Câu nói đó là phỉ báng Phật giáo các bạn có biết không?

Chỉ có những người chưa am tường Phật giáo còn chịu ảnh hưởng ngoại đạo Đại Thừa nên sống thiếu chánh tri kiến và chánh tư duy nên mới cúng dường cho những nhà sư chạy theo dục lạc thế gian như vậy.

Nhìn đời sống ăn uống và ăn mặc y áo của tu sĩ là các bạn biết rõ người nào tu đúng, người nào tu sai, người nào tu theo Phật, người nào tu theo tà giáo ngoại đạo.

Chỉ trong tám giới này đã xác định rõ ràng từ hình tướng, lẫn tinh thần đến đời sống hằng ngày của một tu sĩ chân chánh Phật giáo. Người nào phạm vào tám giới này thì không phải tu sĩ Phật giáo mà là Ma Ba Tuần đội lốt tu sĩ Phật giáo để diệt Phật giáo.

Bởi vậy, làm tu sĩ Phật giáo khó lắm các bạn ạ! Nếu dễ dàng như Đại Thừa thì một số người lợi dụng Phật giáo để sống hưởng thụ dục lạc bằng cách dựng lên thế giới siêu hình để lừa đảo mọi người. Hành nghề sống mê tín, sống nói láo.

Phải sống đúng tám giới luật đầu tiên này, thì mới đúng là tu sĩ Phật giáo. Nhưng muốn sống đúng những giới luật này là phải tự nguyện, chứ không do sự bắt buộc của ai cả, nếu có sự bắt buộc là không đúng với tinh thần tự nguyện, tự giác của đạo Phật. Chính bản thân của mỗi người vì sự sống thiểu dục tri túc, nên phải tự nguyện sống đời Phạm hạnh, nguyện không hề vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào trong giới luật. Cho nên những tu sĩ phạm phải những giới này, họ là những người chưa hiểu Phật giáo, vì họ đang chịu ảnh hưởng tư tưởng của Bà La Môn Đại Thừa giáo.

Cuộc đời tu hành của họ chẳng bao giờ nếm được mùi vị giải thoát, rất uổng thay và tiếc thay!!!

Hằng ngày các bạn nên nhớ dùng pháp như lý tác ý câu: “PHẢI BẰNG LÒNG VỚI NHU CẦU TỐI THIỂU VỀ ĂN UỐNG, VỀ Y ÁO, PHẢI SỐNG THIỂU DỤC TRI TÚC MỚI XỨNG ĐÁNG LÀ NGƯỜI TU SĨ PHẬT GIÁO”.Chúc các bạn nghiêm trì giới luật này, nó sẽ mang lại hạnh phúc an vui cho các bạn.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ CHÍN: HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH

HOAN HỈ SỐNG AN TỊNHlà một hành động đạo đức thuộc về tâm làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học để biết lối sống của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ, họ luôn sống bằng tất cả giới hạnh buông xả, từ bỏ lối sống thế gian, từ bỏ những thân hành ác, từ bỏ lời nói ác, từ bỏ những ý hành ác, bằng lòng tối thiểu về ăn uống, về y áo, hoan hỉ sống an tịnh để đi vào lối sống Thánh thiện.

GIỚI ĐỨC HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH

Muốn hiểu nghĩa của giới luật này thì trước tiên chúng ta phải hiểu nghĩa của những từ: hoan hỉ và an tịnh. Vậy hoan hỉ và an tịnh nghĩa là gì?

Hoan hỉ nghĩa là vui mừng.

An tịnh nghĩa là yên ổn và thanh tịnh, trong sạch.

Giới này dạy chúng ta lúc nào sống trong cảnh thuận hay cảnh nghịch đều phải giữ gìn tâm vui vẻ, nhờ có giữ gìn tâm được vui vẻ nên tâm an ổn và thanh tịnh. Người giữ gìn được giới này thì lúc nào các bạn cũng đang tu tập tâm hoan hỉ, Kinh Bát Thành có dạy: “Lại nữa này gia chủ, Tỳ kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với hỷ: cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ 3, cũng vậy phương thứ 4, như vậy cùng khắp thế giới trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, này khắp vô biên giới, vị ấy an trú, biến mãn với tâm câu hữu với hỉ, quảng đại vô biên, không hận, không sân, vị ấy suy tư và được biết: “Hỷ tâm giải thoát này là pháp hữu vi do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt”, vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ các lậu hoặc,... chưa được chứng đạt được chứng đạt”.

Như vậy “GIỚI ĐỨC HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH”tức là Đức Phật dạy các bạn tu tập tâm hoan hỉ. Tu tập tâm hoan hỉ tức là tu Bốn vô lượng tâm. Bốn pháp vô lượng tâm đó là từ, bi, hỉ, xả. Ở đây tu tập tâm hoan hỉ tức là tu tập hỉ vô lượng tâm. Tu tập hỉ vô lượng tâm là giữ gìn nghiêm chỉnh“GIỚI ĐỨC HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH”.

Chỉ có một giới luật này thôi, nếu các bạn sống nghiêm chỉnh không hề vi phạm thì nó cũng đem đến cho các bạn một sự giải thoát an lạc và hạnh phúc chận thật như trong trạng thái cảnh giới Niết Bàn.

Có một đời sống hoan hỉ an tịnh như vậy là vì biết sống đúng giới đức hoan hỉ nghiêm chỉnh. Sống đúng giới đức hoan hỉ nghiêm chỉnh này thì các bạn sẽ tìm thấy sự an vui chân thật của Phật Giáo thật là tuyệt vời.

GIỚI HẠNH HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH

Thưa các bạn! “Giới hoan hỉ sống an tịnh” còn có một nghĩa khác nữa đó là Thánh hạnh của Phạm Thiên. Thánh hạnh của Phạm Thiên tức là vui vẻ sống an ổn một mình, sống cho mình. Bởi vì chỉ có sống một mình mới sống cho mình. Sống cho mình tức là sống độc cư cô đơn, nhưng độc cư thì có mà cô đơn thì không các bạn ạ! Khi chúng ta biết sống một mình thì trong ta có một người đang đàm thoại với ta. Như vậy đâu phải ta sống cô đơn. Phải không các bạn?

Do hiểu biết sự thanh thản, an lạc như vậy nên những người nào muốn tu theo Phật giáo đều phải tự nguyện chấp nhận sống vui vẻ, an ổn một mình. Sống vui vẻ và an ổn một mình, tức là đời sống của người tu sĩ Phật giáo biết hoan hỉ sống an tịnh như giới thứ chín này đã dạy.

Chính giới hạnh này là một pháp môn tuyệt vời, giúp cho người tu sĩ phòng hộ sáu căn, để không dính mắc sáu trần, nhờ đó tâm hành giả không còn phóng dật. Tâm không phóng dật là một trạng thái Niết Bàn đấy các bạn ạ!

Thưa các bạn! Chữ an tịnh trong giới luật này có nghĩa là thân an ổn và tâm thanh tịnh, vì thân được an ổn, tâm được thanh tịnh nên người tu sĩ Phật giáo tìm cầu sự giải thoát, ra khỏi bốn sự khổ đau của kiếp người, thì dù bắt buộc hay không bắt buộc các bạn cũng phải chấp nhận sống một mình (độc cư). Vì chỉ có sống một mình thì thân tâm mới an ổn và thanh tịnh. Phải không các bạn?

Một người muốn sống thân tâm an ổn và thanh tịnh mà lại sống nơi ồn náo, nơi thường tụ tập đông người, nơi thường tập họp nói chuyện, thì làm sao sống hoan hỉ an tịnh được? Cho nên chỉ có nơi thanh vắng, yên lặng, không có người nói chuyện ồn náo thì mới chính là nơi thanh tịnh, nơi sống độc cư, nơi hoan hỉ sống an tịnh trong giới luật Phật.

Dù ngoại cảnh được thanh tịnh vắng lặng nhưng nội tâm chưa hoan hỉ sống an tịnh (độc cư) thì giới luật này được xem là vi phạm.

Những giới luật trên đây các bạn còn vi phạm mà muốn sống làm Thánh Tăng, Thánh Ni thì chỉ là giấc mộng mà thôi.

Đối với những giới luật này các bạn sẽ không bao giờ giữ gìn được trọn vẹn và như vậy những đức hạnh này không bao giờ thành hiện thực được trong đời sống của các bạn. Muôn đời ngàn kiếp con đường tu tập để tìm cầu sự giải thoát của các bạn đang theo chỉ là con đường dài vô tận.

Khi các bạn bước chân vào đạo Phật thì các bạn phải tự nguyện chấp nhận vui vẻ sống an tịnh một mình, có chấp nhận sống vui vẻ an tịnh một mình là các bạn nên biết đó là Thánh hạnh Phạm Thiên như đã nói ở trên. Thánh hạnh Phạm Thiên là những hành động sống ra khỏi sự chi phối của qui luật nhân quả. Ra khỏi sự chi phối của qui luật nhân quả thì tái sanh luân hồi chấm dứt. Vì thế, đạo Phật không bắt buộc ai phải sống như Phật: “HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH”.Chỉ có những người thấy rõ đời người khổ đau như thật, thì mới tự nguyện chấp nhận sống đời Phạm hạnh, sống vui vẻ một mình như Phật. Do ý thức tự nguyện của mọi người chấp nhận sống đời Phạm hạnh, do đó đức Phật không có chế giới cấm mà chỉ dạy giới hạnh, giới đức, giới hành trong tạng kinh, không có một bài kinh nào mà đức Phật không dạy về giới luật đức hạnh làm Người, làm Thánh. Ngài đã dạy rất đầy đủ, không thiếu, không thừa. Còn giới cấm của các Tổ sau này chế ra rồi gán cho Phật thuyết, chứ sự thật đức Phật không chế giới cấm. Chế giới cấm là đi sai lòng tự giác tự nguyện của mọi người đến với đạo Phật. Bởi vì, giới luật là đức hạnh của con người đã sẵn có trong mỗi con người. Đức Phật chỉ cần khơi dậy, làm sống lại để con người nhận ra, chứ đức Phật không có dạy giới luật đức hạnh mới. Cho nên, nói Phật chế giới luật là sai. Có đúng như vậy không các bạn?

“HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH” là giới hạnh độc cư. Người ở đời ít ai dám sống một mình, vì sống một mình rất cô đơn, tâm thường buồn bã khổ sở, nhớ nghĩ lung tung và thường hay sợ hãi, sợ bóng đêm âm u, sợ rừng núi, sợ sấm sét mưa gió, sợ ma, sợ quỉ thần, sợ mọi vật v.v.. Chỉ có những người quyết tâm tìm cầu sự giải thoát ra khỏi khổ đau của thân phận làm người, của qui luật nhân quả, nên mới chấp nhận sống độc cư cô đơn một mình như vậy. Sống độc cư cô đơn một mình là sống Phạm hạnh của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni như đã nói ở trên.

Cho nên, muốn làm những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni thì phải tự nguyện chấp nhận vui vẻ đời sống như vậy, chứ chẳng có ai bắt buộc mình cả. Còn nếu bị bắt buộc, thì chẳng bao giờ có ai sống được giới này cả. Do giới cấm của các Tổ bắt buộc tu sĩ phải sống đúng giới luật mà không giải rõ nghĩa đức hạnh của nó nên tất cả tu sĩ đều phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới v.v..

Giới thứ chín đã xác định điều này rất rõ ràng: “Nếu Thánh Tăng, Thánh Ni thích hội họp nói chuyện, thích chỗ đông người là phạm giới”. Người tu sĩ nào phạm giới là không phải Thánh Tăng, Thánh Ni mà chính họ là những Ma Ba Tuần trong đạo Phật. Họ chẳng tu được gì mà còn phá hoại Phật giáo. Cho nên, quý Phật tử cần phải tránh xa những hạng tu sĩ này.

Khi vua A Xà Thế nghe Phật thuyết chín giới cụ túc đầu tiên của Tỳ Kheo Tăng và Tỳ Kheo Ni như vậy, nhất là giới thứ chín này thì nhà vua quá kính phục và tôn trọng, Ngài biết rằng: những người nào sống được như vậy, là những bậc phi phàm, những bậc Thánh, những bậc ra khỏi nhà sanh tử và chấm dứt luân hồi. Cho nên, dù vua quan hay những nhà tỷ phú giàu nhất thế gian này cũng không thể đem ra so sánh được với những bậc này. Những bậc này là những con người có được lối sống vượt ra ngoài dòng thế tục. Những người sống vượt ra khỏi dòng thế tục ở trên đời này thì không có một vật quý báu gì đem ra so sánh với họ được. Tại sao vậy?

Tại vì họ là những người biết sống an vui một mình, biết sống cho mình. Người biết sống an vui một mình, đó là những người có một lối sống mà ít ai trên thế gian này làm được. Một nếp sống ít ai làm được là một nếp sống đúng giới luật Phạm hạnh của Phật giáo, một nếp sống ly dục ly ác pháp tuyệt vời mà chỉ Phật giáo mới có những Thánh hạnh này. Ngoài Phật giáo đi tìm nếp sống này thì không bao giờ có.

 “HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH”là một nếp sống tuyệt vời của những bậc tu hành chân chánh. Đây là một giới luật cụ túc trong chín giới luật đầu tiên của đạo Phật. Giới luật này không bắt buộc một ai hết, nhưng những ai muốn trở thành một tu sĩ Phật giáo thì người ấy phải tự bắt buộc mình, khép mình trong khuôn khổ Phạm hạnh. Từ đó các bạn mới nhận ra được sự giải thoát chân thật của những giới đức này.

Trước khi bước chân vào đạo các bạn phải chấp nhận đời sống này, nếu không chấp nhận các bạn sẽ không thành tu sĩ Phật giáo.

Nếu dựa vào giới luật này mà xét nét những tu sĩ Phật giáo hiện giờ thì chúng ta biết rất rõ người tu sĩ nào là tu sĩ Phật giáo và người tu sĩ nào là tu sĩ ngoại đạo một cách dễ dàng. Chỉ cần nhận xét người tu sĩ nào vi phạm những giới hạnh này thì họ là những người tu sai pháp, có nghĩa là họ sống không nổi với những giới luật này, họ là tu sĩ ngoại đạo mượn danh Phật giáo.

Những người về chùa Am tu tập đụng đến những giới hạnh này thì càng thấy rõ giới này rất khó giữ gìn, phần đông họ đều vi phạm. Vi phạm nên họ tu tập không kết quả, do tâm chưa thanh tịnh nên nội lực chưa có. Nội lực chưa có thì không bao giờ nhập thiền định được.

“HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH”giới luật đức hạnh này nghe thì dễ dàng, rất tầm thường, nhưng có sống với nó mới thấy khó vô cùng. Chỉ có những người quyết tâm cao, tha thiết tìm cầu sự giải thoát chân thật thì mới sống nổi. Còn những người đời không muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm thì chỉ sống được ít hôm, liền cuốn gói về đời.

Tu tập giới này mà vi phạm thì con đường tu của các bạn không bao giờ đến đích.

Tóm lại, chín giới luật đầu tiên của Tỳ Kheo Tăng và Tỳ Kheo Ni này, nếu vị nào muốn tu theo Phật giáo giữ gìn trọn vẹn thì vị ấy mới trở thành đệ tử của Phật, còn ngược lại là đệ tử của ma. Đó là một sự xác định chắc chắn như vậy. Nếu tu sĩ phạm chín giới này, họ chỉ là cây chùm gửi ăn bám vào Phật tử để sống thật là nhục nhã.

Thưa các bạn! Người tu hành theo Phật chỉ cần giữ gìn tu tập sống đúng chín giới đầu tiên này thì người ấy cũng đã trở thành những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni. Có đúng như vậy không các bạn?

Bởi vì chín giới này là chín giới buông xả. Giới thứ nhất và giới thứ hai là buông xả vật chất. Giới thứ ba, giới thứ tư, giới thứ năm, giới thứ sáu, giới thứ bảy, giới thứ tám và giới thứ chín là giới buông xả tinh thần. Vật chất và tinh thần đều buông xả thì kết quả giải thoát ngay liền chỗ buông xả. Chỗ buông xả là tâm vô lậu.

Bởi vậy, khi nghe đức Phật trình bàykết quả của chín giới này quá cụ thể, rõ ràng và thực tế, sự trình bày không có một kẽ hở sai sót khiến cho người nghe dù có ác ý cũng không lý luận bẻ gãy được chín giới hạnh này. Khi được nghe lời dạy này xong vua A Xà Thế quá thán phục và cho rằng dù người đó là nô bộc của mình, mình cũng phải cung kính tôn trọng. Bất cứ người nào tu tập và sống đúng chín giới này thì nhà vua khi gặp họ cũng phải đứng dậy trước chào hỏi và mời người ấy ngồi.

Đây là chín giới vô lậu đầu tiên, là pháp thực tế, cụ thể hiện tại, không có thời gian của Phật giáo đến để mà thấy Thánh quả ngay liền, chứ không phải như kinh sách Đại Thừa, tu nhiều kiếp mới có giải thoát. Thật ra giáo pháp Đại Thừa và Thiền Tông mơ hồ trừu tượng không đáng cho chúng ta tin tưởng và kính trọng.

GIỚI HÀNH HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH

Các bạn giữ gìn giới đức hoan hỉ là các bạn đã tu tập tâm hỉ vô lượng. Tu tập tâm hỉ vô lượng là giữ gìn tâm lúc nào cũng hoan hỉ vui vẻ khi gặp ác pháp cũng như gặp thiện pháp. Muốn tu tập tâm hoan hỉ như vậy thì tất cả pháp đến với các bạn. Các bạn phải chia ra làm ba loại.

1.        Pháp ác

2.        Pháp thiện

3.        Pháp không thiện không ác

Ba pháp này đến với các bạn khiến cho thân tâm bất an. Muốn cho thân tâm được an ổn khi gặp các pháp này thì các bạn chỉ còn cách theo pháp như lý tác ý: “TÂM HÃY HOAN HỈ TRƯỚC TẤT CẢ CÁC PHÁP”,dù các pháp ấy có cay đắng như thế nào; có ngọt ngào như thế nào; có đau khổ như thế nào, các bạn cũng nên xem nó là pháp hữu vi vô thường không đáng cho các bạn phải bận tâm. Các bạn hãy luôn luôn phải giữ gìn tâm vui vẻ, thanh thản, vô sự v.v.. xem như các pháp ấy không có mặt ở đây. Nếu các bạn có hoan hỉ được như vậy thì mới thấy giải thoát thật sự.

Muốn được như vậy hằng ngày các bạn nên tu tập tâm hoan hỉ. Tu tập tâm hoan hỉ thì các bạn phải có lòng tha thứ và yêu thương, dù các pháp ấy có cực ác tột cùng, nhưng các bạn cũng nên mở rộng lòng yêu thương và tha thứ thật sự. Có mở rộng lòng thương yêu và tha thứ thật sự thì phải có một phương pháp để giữ gìn tâm luôn luôn được hoan hỉ. Phương pháp ấy là pháp “NHƯ LÝ TÁC Ý”.Nhờ pháp như lý tác ýtâm các bạn luôn luôn được hoan hỉ sống trong cảnh nghịch cũng như cảnh thuận của đời người; nhờ pháp như lý tác ý mà tâm các bạn luôn được vui sống an tịnh.

Muốn được sống giải thoát như vậy nên Đức Phật đã cô đọng sự sống hạnh phúc ấy bằng một cái tên “HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH”rất đầy đủ ý nghĩa giải thoát. Cho nên, các bạn thường tác ý câu này và như vậy các bạn sẽ thấy ngay sự giải thoát.

“HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH”.Đúng vậy, giới thứ chín này có một cái tên rất tuyệt vời trong giáo pháp của đức Phật. Bởi vậy, những đệ tử nào đã thọ cụ túc giới đều phải sống đầy đủ những đức hạnh giới luật giải thoát này.

Ở đây, các bạn thấy rõ ràng mỗi giới luật của Phật đều mang tên đúng nghĩa giải thoát của nó. Giới luật là những phương pháp sống trực diện với kiếp sống của con người đầy sóng gió bão bùng.

Nếu các bạn sống không đúng giới luật thì các bạn sẽ bị sóng gió danh, lợi, sắc, thực, thuỳ nhận chìm xuống tận đáy biển khổ đau.

“HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH”.Cái tên hoan hỉ sống an tịnh, đẹp làm sao! Phải không các bạn? Cuộc đời này có những vật gì đáng cho các bạn bận tâm. Vì tất cả các pháp trên thế gian này đều vô thường, đều khổ đau. Nếu các bạn biết buông xả, bỏ xuống hết, sống đúng như tên của giới luật này thì thế gian đâu còn đau khổ nữa. Chính nơi đây là Thiên Đàng tại thế gian. Phải không các bạn?

“HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH”là phương pháp tu tập hỉ tâm vô lượng như trên đã nói, đấy các bạn ạ! Giới luật của Phật chính là những phương pháp để các bạn học tập và rèn luyện thân tâm các bạn từ phàm phu trở thành Thánh nhân, từ xấu xa trở thành tốt đẹp, từ khổ đau trở thành hạnh phúc, từ hung ác trở thành thiện lành, từ sân hận trở thành thương yêu, v.v..

CHƯƠNG III: NHÓM SƠ THIỆN THỨ HAI

SÁU GIỚI ĐỨC HIẾU SINH TỲ KHEO TĂNG, TỲ KHEO NI

 

GIỚI THIỆU NHÓM GIỚI LUẬT CỤ TÚC HIẾU SINH THỨ HAI

Sau khi nghe đức Phật trình bày, kết quả chín giới đức, giới hạnh và giới hành của người tu sĩ Phật giáo thì vua A Xà Thế phải chấp nhận và ca ngợi tán thán những kết quả thiết thực hiện tại của Sa Môn hạnh là rất tuyệt vời. Vua A Xà Thế hỏi Phật:

“- Bạch Thế Tôn! Có thể cho biết một kết quả thiết thực hiện tại khác nữa của hạnh Sa Môn, vi diệu hơn, thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của Sa Môn vừa kể trên không?”.

Xin các bạn lưu ý câu hỏi trên đây của vua A Xà Thế: Chính do câu hỏi này mà từ đây về sau đức Phật trả lời những kết quả đức hạnh của người tu sĩ ngày càng vi diệu và thù thắng hơn.

Khi Vua A Xà Thế hỏi đức Phật như vậy thì đức Phật trả lời:

 “- Này Đại vương hãy lắng nghe và khéo tác ý Ta sẽ giảng.

Này Đại vương thế nào là Tỳ kheo giới hạnh cụ túc?

Ở đây, này Đại vương, Tỳ kheo từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, từ bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh và loài hữu tình. Như vậy là giới hạnh củavị ấy trong giới luật”.

Đức Phật vừa nêu lên nhóm giới luật thứ hai. Nhóm giới luật này gồm có 6 giới:

1-        Từ bỏ sát sanh.

2-        Tránh xa sát sanh.

3-        Từ bỏ trượng bỏ kiếm.

4-        Biết tàm quý.

5-        Có lòng từ.

6-        Biết thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh và loài hữu tình.

Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của sáu giới này như thế nào?

Muốn biết rõ giới đức, giới hạnh và giới hành của sáu giới này thì chúng ta lần lượt triển khai từng giới một để xác định nghĩa cho rõ ràng, ngõ hầu người sau mới biết đường lối tu theo giới luật đúng pháp của đức Phật.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC HIẾU SINH THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ NHẤT: TỪ BỎ SÁT SANH

TỪ BỎ SÁT SANHlà một hành động đạo đức hiếu sinh Làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Người, làm Thánh đều cần phải học và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về lòng yêu thương sự sống trên hành tinh này. Lòng yêu thương sự sống ấy là những đức hạnh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Có sống được như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC HIẾU SINH TỪ BỎ SÁT SANH

 “TỪ BỎ SÁT SANH”là một giới đức để thực hiện đức hiếu sinh. Muốn thực hiện đức hiếu sinh thì các bạn phải hiểu nghĩa của giới này cho rõ ràng. Vậy từ bỏ sát sanh nghĩa là gì?

Từ: nghĩa là từ giã; bỏ: nghĩa là buông bỏ, hai danh từ ghép lại có nghĩa là buông xả không giữ lại, không làm nữa.

Sát: nghĩa là giết làm cho chết, làm cho mất sự sống; sanh: nghĩa là chúng sanh loài động vật.

Từ bỏ sát sanh nghĩa là bỏ hẳn những hành động làm cho loài động vật chết.

Hành động bỏ hẳn không làm cho chúng sanh chết tức là ĐỨC HIẾU SINH.

“TỪ BỎ SÁT SANH” là một hành động đạo đức không làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sanh. Hành động ấy khởi sự bắt đầu cho lòng từ bi yêu thương mọi sự sống trên hành tinh này. Vì thế gọi là “ĐỨC HIẾU SINH”.

“TỪ BỎ SÁT SANH” là một hành động đạo đức cao quý tuyệt vời, khiến cho máu xương và nước mắt của chúng sanh không còn rơi đổ trên hành tinh này nữa.

“TỪ BỎ SÁT SANH”là tiếng kêu cứu từ lòng yêu thương của Phật giáo đối với sự sống của muôn loài trên hành tinh này. Lòng yêu thương ấy đã biến thành một đức hạnh sống của người tu sĩ Phật giáo. Vì thế “TỪ BỎ SÁT SANH”là nhiệm vụ trọng trách bổn phận của những người tu sĩ Phật giáo.

“TỪ BỎ SÁT SANH” các bạn phải hiểu nghĩa rõ ràng, đó là trách nhiệm bổn phận của các bạn rất nặng nề luôn luôn phải giữ gìn nghiêm chỉnh không được sát hại sự sống của muôn loài.

GIỚI HẠNH TỪ BỎ SÁT SANH

Những người tu sĩ Phật giáo còn ăn thịt chúng sanh làm sao lại gọi là “TỪ BỎ SÁT SANH”. Ăn thịt chúng sanh là một hành động gián tiếp sát chúng sanh (có người ăn thịt chúng sanh thì mới có người giết chúng sanh). Bởi vậy ăn thịt chúng sanh là một hành động giết chúng sanh còn ghê gớm hơn người cầm dao giết. Giết chúng sanh bằng miệng của mình tức là ăn và nhai nuốt thịt chúng sanh trong miệng thật là ghê gớm, thật là ác tâm vô cùng. Ác như loài ác thú ăn thịt nhau và chẳng chút lòng thương nhau. Loài người mà giống như loài vật ác độc như vậy sao hỡi các bạn? Con người có tri kiến hiểu biết, có lòng thương yêu mà lại nỡ lòng nào nhai nuốt được thịt chúng sanh? Ôi! Thật là đau thương!

Các bạn có thấy chăng? Chúng ta là những con người, con người phải có tình cảm, phải có lòng yêu thương nhau. Có tình cảm, có lòng yêu thương sao lại nỡ nhẫn tâm ăn thịt chúng sanh như thú vật vậy sao?

Con người ăn thịt chúng sanh có tự xấu hổ không? Thưa các bạn! Nếu các bạn ăn thịt chúng sanh như vậy, các bạn có thấy mình là con thú vật ác độc không?

Và hành động ác độc nỡ tâm nhai nuốt thịt chúng sanh như vậy, các bạn có thấy mình xứng đáng làm người không?

“TỪ BỎ SÁT SANH”là hành động biết thương yêu mình, biết từ bỏ sự đau khổ của chính bản thân mình, của những người khác và của tất cả chúng sanh.

 “TỪ BỎ SÁT SANH”là hành động thương yêu luôn luôn muốn đem lại hạnh phúc cho nhau trong cuộc sống này, là hành động thương yêu sự sống của muôn loài, lúc nào cũng không muốn thấy chúng sanh khổ đau.

“TỪ BỎ SÁT SANH” là hành động đức hạnh của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư sĩ.

“TỪ BỎ SÁT SANH”là từ bỏ những hành động độc ác của chính bản mình. Các bạn có biết không?

Tóm lại, người biết từ bỏ sát sanh là người biết ngăn ngừa và diệt trừ các ác pháp; người biết từ bỏ sát sanh là người biết chuyển đổi nhân quả, khiến cho nhân quả không còn tác động vào thân tâm mình được. Vì thế, đời sống của mình mới được thanh thản, an lạc và vô sự.

GIỚI HÀNH HIẾU SINH TỪ BỎ SÁT SANH

 “TỪ BỎ SÁT SANH”là câu trạch pháp như lý tác ý để dẫn dắt tâm triển khai lòng yêu thương tất cả muôn loài. Và hành động tác ý đó bắt đầu chuyển biến cho đời sống chân thiện mỹ của cuộc đời các bạn.

 “TỪ BỎ SÁT SANH”là một Phạm hạnh của bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư sĩ, vì thế mọi người cần phải sống đúng Phạm hạnh này để xứng đáng làm người, nếu sống không được vậy thì các bạn chẳng khác nào là loài ác thú ăn thịt nhau, các bạn sẽ không còn là con người nữa. Các bạn có biết không?

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC HIẾU SINH THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ HAI: TRÁNH XA SÁT SANH

TRÁNH XA SÁT SANH”là một hành động đạo đức hiếu sinh Làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về lòng yêu thương sự sống trên hành tinh này. Lòng yêu thương ấy là những đức hạnh làm Người làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC TRÁNH XA SÁT SANH

 “TRÁNH XA SÁT SANH”là một nhóm từ quá cô đọng dạy về đức hiếu sinh, khiến cho người đọc rất khó hiểu. Vậy tránh xa sát sanh nghĩa là gì?

Muốn hiểu nghĩa của giới đức này thì phải hiểu nghĩa hai từ “tránh xa”. Tránh xa có nghĩa là tránh né và xa lìa. Tránh né xa lìa sát sanh có 3 vị trí khác nhau:

1- Tránh né và xa lìa người giết hại chúng sanh.

2- Tránh né và xa lìa nơi giết hại chúng sanh.

3- Tránh né và xa lìa những hành động và nghề nghiệp sát sanh.

Tránh né và xa lìa những người giết hại chúng sanh; tránh né và xa lìa những hành động giẫy giụa tuyệt vọng, máu đổ thịt rơi của chúng sanh và không nghe tiếng kêu la thảm thiết trước khi tắt thở.

Do hành động tránh xa không thấy, không nghe những sự đau khổ, đó là đức hạnh từ bi của giới này. Do đức hạnh giới từ bi “TRÁNH XA SÁT SANH”này, người tu sĩ Phật giáo phải chọn chỗ ở thanh tịnh thích hợp nơi thanh vắng không ở gần người giết hại và ăn thịt chúng sanh; không ở gần nơi săn bắn, nơi đánh cá chài lưới v.v.. Ca dao có câu: “Gần mực thì đen gần đèn thì sáng”, gần nơi người giết hại chúng sanh thì sẽ dễ bị đắm nhiễm những hành động ác ấy. Vì thế, “TRÁNH XA SÁT SANH”là một đạo đức làm người có ích lợi rất lớn cho sự sống chung trên hành tinh này, nếu không giữ gìn những đức hạnh này thì những tai họa sẽ giáng xuống trên đầu loài người nhưng có ai ngờ.

GIỚI HẠNH TRÁNH XA SÁT SANH

Xưa bà Mạnh Mẫu ba lần dời nhà, vì muốn cho con trẻ được giáo dục những đức hạnh tốt nên phải tránh xa nơi thiếu đức hạnh, nơi hành những nghề nghiệp ác.

Những nơi và những người giết hại chúng sanh là những nơi và những người các bạn không nên ở gần, đó là lời dạy của đức Phật.

 “TRÁNH XA SÁT SANH”.Từ lời dạy đơn thuần ấy, nó mang đầy đủ ý nghĩa một đức hạnh từ bi của Phật giáo. Vì thế, nó là một oai nghi tế hạnh của người tu hành nói riêng, còn nói chung của mọi người, nó là những hành động đạo đức yêu thương sự sống của muôn loài. Cho nên, nó trở thành giới hạnh “TRÁNH XA SÁT SANH”.

Tóm lại, giới hạnh“TRÁNH XA SÁT SANH”là giới hạnh ngăn ngừa những sự ô nhiễm ác độc thường giết hại chúng sanh trở thành một thói quen ác khó bỏ. Người tu sĩ Phật giáo cần phải hiểu biết nghĩa lý đạo đức và lợi ích của nó cho rõ ràng, nhờ hiểu nghĩa lý đạo đức và lợi ích của nó rõ ràng thì mới giữ gìn trọn vẹn đức hạnh từ bi đối với sự sống của muôn loài.

Vì đức hạnh từ bi thương yêu đối với sự sống của muôn loài, nên không riêng người tu sĩ Phật giáo, mà tất cả mọi người có tôn giáo hay không tôn giáo đều phải thực hiện sống đúng đức hạnh lòng từ bi yêu thương này, vì lợi ích cho mình cho muôn loài trong cuộc sống chung trên hành tinh này vậy.

GIỚI HÀNH TRÁNH XA SÁT SANH

Muốn giữ gìn đức hạnh hiếu sinh này thì hằng ngày các bạn nên nhắc tâm mình: Tránh xa sát sanh là một hành động thể hiện lòng từ bi yêu thương đối với tất cả chúng sanh, ta phải luôn luôn khắc ghi trong lòng” hoặc các bạn sẽ tác ý câu như sau: “Tránh xa sát sanh là một hành động thể hiện lòng từ bi yêu thương để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh”.

 “TRÁNH XA SÁT SANH”là một hành động nói lên được bản tính nhân đạo của một người biết sống thương mình, thương người và thương tất cả chúng sanh. Một hành động xứng đáng làm Người, làm Thánh mà mọi người trên hành tinh này ai cũng quý mến và kính yêu.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC HIẾU SINH THÁNH TĂNG, THNH NI THỨ BA: BỎ TRƯỢNG, BỎ GẬY

 “BỎ TRƯỢNG, BỎ GẬYlà một hành động đạo đức hiếu sinh Làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về lòng yêu thương sự sống trên hành tinh này. Lòng yêu thương ấy là những đức hạnh của những bậc Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC HIẾU SINH BỎ TRƯỢNG, GẬY

 “BỎ TRƯỢNG, GẬY”là một nhóm từ quá cô đọng dạy về đức hạnh hiếu sinh, khiến cho người đọc rất khó hiểu. Vậy“BỎ TRƯỢNG, GẬY” nghĩa là gì?

Trượng là thanh cây bằng gỗ suông dài 3m33 dùng làm vũ khí đánh nhau hay dùng để đánh trị những người có tội trong thời phong kiến xưa.

Gậy là một thanh cây cong qua uốn lại giống như con rắn có mắt gút. Người già yếu thường dùng:

1-       Để chống khi bước đi.

2-       Để phòng thân khi gặp ác thú.

Ngày xưa trượng, gậy là hai loại vũ khí dùng để đánh và giết hại chúng sanh, làm cho chúng sanh đau khổ và chết.

Hành động bỏ trượng, gậy là đức hạnh hiếu sinh. Người nào biết bỏ những vũ khí làm đau khổ và giết hại chúng sanh là người có những hành động thương yêu chính bản thân của mình, vì không làm khổ chúng sanh tức là không tạo quả khổ cho bản thân mình.

Bỏ trượng, gậy, kiếm, đao là đức hạnh cao thượng biết thương mình, không làm khổ mình; biết thương người, không làm khổ người; biết thương chúng sanh, không làm khổ chúng sanh. Những hành động này thật đáng cho mọi người kính trọng và yêu quý. Vì sống trong đời mà biết từ bỏ trượng, gậy, kiếm, đao là một hành động mang lại sự bình an cho muôn loài, thật quý trọng và cao thượng.

Kính thưa các bạn! Hành động bỏ trượng, gậy, đao, kiếm trong mọi người chúng ta ai cũng làm được. Phải không các bạn? Vậy mà làm không được là tại sao các bạn??? Bỏ trượng, gậy, đao, kiếm, súng đạn... là hết đau khổ, là hạnh phúc biết bao, là Thiên Đàng, Cực Lạc... Sao các bạn không làm được?

Như vậy hành động bỏ trượng, gậy, đao, kiếm và những vũ khí giết người, giết loài vật đâu có khó khăn, đâu có mệt nhọc. Thế mà ít ai làm được. Tại sao vậy???

Vì mọi người không muốn bỏ, chưa có quyết tâm bỏ, vì còn ưa thích ăn thịt chúng sanh. Còn ưa thích ăn thịt chúng sanh thì phải còn giết hại chúng sanh. Còn giết hại chúng sanh là còn làm khổ mình, không biết thương mình; còn làm khổ người, không biết thương người; còn làm khổ chúng sanh, không biết thương chúng sanh và như vậy là người thiếu đạo đức lòng thương yêu sự sống của nhau. Phải không các bạn?

GIỚI HẠNH HIẾU SINH BỎ TRƯỢNG, GẬY

 “BỎ TRƯỢNG, GẬY, ĐAO, KIẾM, VŨ KHÍ GIẾT NGƯỜI, GIẾT CHÚNG SANH V.V..”là bỏ tâm hung ác. Bỏ tâm hung ác là chuyển hóa sự đau khổ nơi thân tâm của mình, làm cho mình hết khổ đau.

Bởi người đời không biết nên thường hay giết hại chúng sanh ăn thịt, giết hại chúng sanh ăn thịt thì sẽ quen tay, thấy máu rơi thịt đổ thì không sợ hãi mà còn ưa thích. Do đó, suy ra người giết hại chúng sanh được thì giết hại người được. Cho nên, chỉ có một vài chỉ vàng, một vài triệu bạc tiền Việt Nam là có thể họ giết người, cướp của một cách dễ dàng. Trường hợp ấy xảy ra hằng ngày mà báo chí điện đài thông tin khắp nơi.

Kinh dạy:

“Nếu cả chúng sanh đừng sát sanh

Mười phương đâu có động binh đao

Nhà nhà trai gái đều tu thiện

Thiên hạ lo chi chẳng thái bình”.

Tóm lại, bỏ trượng, gậy, đao, kiếm, vũ khí giết hại và làm đau khổ chúng sanh, đó là hành động đạo đức hiếu sinh cao thượng mà chỉ có con người mới thực hiện được.

GIỚI HÀNH HIẾU SINH BỎ TRƯỢNG, GẬY

Khi học về đạo đức hiếu sinh của giới này, nếu những người còn giết hại và ăn thịt chúng sanh thì họ là những người vô đạo đức hiếu sinh, và nhất là họ vô đạo đức thương yêu bản thân, gia đình và quê hương của họ. Tại sao vậy?

Vì họ còn làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai tức là họ làm khổ bản thân họ, làm khổ những người thân thương trong gia đình và nhiều khi gây mất trật tự an ninh xã hội vì sân hận cãi cọ, đánh nhau v.v..

Vậy các bạn hãy lưu ý và cố gắng từ bỏ những hành động ác vô đạo đức, mất tính nhân bản thương yêu của con người.

Muốn giữ gìn giới luật này cho nghiêm chỉnh thì hằng ngày các bạn nhớ tác ý câu này: “Tất cả chúng sanh đều có sự sống bình đẳng như nhau ta phải thương yêu như thương yêu thân mình, đừng làm đau khổ và giết hại chúng. Thật tội nghiệp!”.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC HIẾU SINH THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ TƯ: BIẾT TÀM QUÝ

BIẾT TÀM QUÝlà một hành động đạo đức thuộc về tâm. Khi làm những điều sai trái lỗi lầm là biết tàm quý thì mới xứng đáng làm Người, làm Thánh, nó là một đức hạnh không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức tàm quý để hối cải sửa những lỗi lầm. Đức tàm quý để hối cải sửa những lỗi lầm là những đức hạnh cao thượng mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Có sống được như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC BIẾT TÀM QUÝ

Trước khi muốn tu học và giữ gìn giới đức này thì phải hiểu nghĩa hai chữ tàm quý. Vậy hai chữ tàm quý bao gồm những là gì?

Tàm quý nghĩa là biết xấu hổ, khi làm một việc sai quấy, làm cho người khác khổ, mình khổ và cả hai đều khổ, đó là những việc làm không đúng với đạo đức nên lương tâm cắn rứt, dày vò không dám nhìn mặt ai.

Trong sách NHỮNG LỜI PHẬT DẠYcó dạy hai pháp “TÀM QUÝ”.Một người tu theo Phật giáo mà không biết hai pháp tàm quý này thì không bao giờ tu tập có kết quả thực hiện đạo đức được. Vì vốn pháp của Phật là thiện, nếu các bạn làm một điều ác mà không biết xấu hổ thì các bạn không bao giờ sửa sai. Cho nên, biết xấu hổ là một hành động đạo đức tuyệt vời để ngăn và diệt ác pháp trong pháp môn Tứ Chánh Cần đã dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp”.

Con người biết xấu hổ nên không giống loài cầm thú nhờ đó mà cang thường đạo lý mới thực hiện. Nếu không biết xấu hổ thì con người sẽ không mặc quần áo, ở truồng như loài vật.

Xin các bạn hãy đọc lại đoạn kinh tàm quý trong sách Những Lời Gốc Phật Dạy tập III sẽ thấu rõ hơn. Ở đây, chúng ta đang học tu về giới tàm quý. Giới tàm quý tức là giới đức biết xấu hổ khi làm một điều gì sai quấy lỗi lầm hay nói cách khác là làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai thì rất xấu hổ.

Khi các bạn làm một điều đau khổ cho người hay loài vật hoặc làm chết một chúng sanh thì các bạn nên tự xấu hổ với hành động ác thiếu đạo đức về lòng thương yêu mình và chúng sanh.

Như khi các bạn bỏ thịt chúng sanh vào miệng nhai nuốt, các bạn có bao giờ nghĩ đến sự đau khổ của chúng sanh trước khi chết để thành thực phẩm cho các bạn ăn không? Do tư duy, suy nghĩ như vậy các bạn biết xấu hổ, vì mình là con người chứ đâu phải con thú vật mà ăn thịt nhau. Con người mà sống như vậy có khác nào là con thú độc ác, nỡ ăn thịt những loài vật khác, không có chút lòng thương xót. Các bạn rất xấu hổ vì sự ăn thịt chúng sanh như loài thú dữ. Một con người đâu phải là con thú vật sao? Sao lại nỡ ăn thịt loài vật khác mà không tự biết xấu hổ với mình.

Nếu các bạn bảo rằng: các bạn không biết xấu hổ là các bạn thiếu thành thật. Vậy các bạn có dám ở trần truồng đi từ đầu làng đến cuối làng chưa? Các bạn có dám giao hợp giữa đám đông người như hai con thú vật chưa? Nếu chưa tức là các bạn biết xấu hổ, mà biết xấu hổ thì các bạn cũng phải biết xấu hổ với những việc làm ác của mình chứ. Phải không các bạn?

Theo chúng tôi nghĩ: con người thì người nào cũng vậy, cũng biết xấu hổ như nhau, nhưng vì những việc làm sai, làm ác đã thành một thói quen, một nếp sống, một phong tục được truyền nhiều đời, nhiều người, vì thế, ai sống cũng vậy nên chúng ta không thấy xấu hổ.

Ví dụ: Mọi người đều sống không mặc quần áo thì sự xấu hổ không có, còn khi mọi người đều mặc quần áo mà có người không mặc quần áo thì có xấu hổ. Cho nên sự xấu hổ có là do con người biết thiện ác, biết cái đúng cái sai, biết đạo đức.

Các bạn đều biết rằng những con vật không có trí thông minh như các bạn và có những con vật yếu đuối hơn các bạn, thế nên, các bạn bắt đem ra giết để ăn thịt, nếu các bạn không tự xấu hổ vì “ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ khôn hiếp dại” thì các bạn là những người vô đạo đức tàm quý. Người vô đạo đức tàm quý là người không biết sửa sai thành không sai, sửa lỗi thành không lỗi, sửa ác thành thiện. Người có lỗi mà không biết sửa sai, sửa lỗi thì có khác nào là những con thú vật mang lốt người. Người như vậy là người không có giới đức tàm quý.

GIỚI HẠNH TÀM QUÝ

 “GIỚI HẠNH TÀM QUÝ”là oai nghi tế hạnh của những người có đạo đức. Cho nên ở đây các bạn phải hiểu hai chữ xấu hổ. Xấu hổ với những điều làm ác, xấu hổ với những điều làm gian xảo, xấu hổ với những điều không thành thật, xấu hổ với những điều gian tham trộm cắp, xấu hổ với những lời nói hung dữ, xấu hổ với những việc làm đau khổ mình, đau khổ người, xấu hổ với lòng ưa ăn thịt chúng sanh. Xấu hổ với sự mạ lỵ mạt sát người, xấu hổ với lời nói xấu người khác, xấu hổ với tính hung dữ của mình, xấu hổ với lòng tham vọng của mình đòi hỏi vượt ra khỏi hoàn cảnh của mình đang sống, xấu hổ với lòng kiêu mạn khinh rẻ người khác, xấu hổ với một việc mà mình làm chưa được. Xấu hổ mình không nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trước mọi hoàn cảnh của mọi ác pháp, xấu hổ với lòng sân hận thù oán người khác. Xấu hổ với ý nghĩ bất thiện đang tìm cách nói xấu hại người khác. Người biết xấu hổ như vậy là biết giữ gìn giới hạnh Tàm quý.

Nếu một người biết giữ gìn“GIỚI HẠNH TÀM QUÝ” tức là biết giữ gìn oai nghi tế hạnh xấu hổ này, thì không bao giờ làm một điều ác. Tâm hồn họ lúc nào cũng thanh thản, an vui, sống một đời sống hạnh phúc vô cùng chẳng khác nào như ở một cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

Oai nghi tế hạnh (tàm quý) biết xấu hổ này có lợi ích rất lớn cho mọi người, nhưng nếu ai biết nó lợi ích như vậy thì nên cố gắng giữ gìn đừng cho vi phạm có nghĩa là làm cái gì sai, trái dù lớn hay nhỏ các bạn đều tự biết xấu hổ với những việc làm ấy thì các bạn sẽ cố gắng khắc phục không làm sai trái nữa. Cố gắng khắc phục không làm sai trái nữa, đó là oai nghi tế hạnh.

   Chúng tôi tin rằng những người nào cố gắng giữ gìn oai nghi tế hạnh (tàm quý) biết xấu hổ như vậy, chắc chắn họ không cần tu tập pháp môn nào khác hơn nữa. Chính sống đúng hạnh tàm quý này mà tất cả giới luật đều nghiêm chỉnh. Tất cả giới luật đều nghiêm chỉnh thì tâm vô lậu hoàn toàn, nhờ tâm vô lậu họ thấy được trạng thái Niết Bàn, khi còn sống cũng như khi bỏ xác thân này. Bởi vì oai nghi tế hạnh biết xấu hổ vẫn là một pháp môn tu tập đến nơi đến chốn của Phật giáo, vì nhờ nó mà giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào.

GIỚI HÀNH TÀM QUÝ

Thưa các bạn! Tàm quý là một giới hành cao thượng của loài người, cho nên người nào biết giữ giới hành này là người có một cuộc sống cao thượng đến với bản thân, với mọi người và mọi loài chúng sanh.

Giới hành tàm quý còn là một pháp tu tập trợ đạo mà đức Phật đã dạy cho mọi người để từ bỏ bản chất của loài động vật, trở thành con người thật là con người, nhờ nó mà con người có đầy đủ những đức hạnh đạo lý luân thường và cao thượng.

Cho nên, giới hành đức hạnh tàm quý rất quan trọng trong việc tu tập để được giải thoát hoàn toàn. Vì thế, các bạn phải biết giới hạnh tàm quý là cội gốc đạo đức của con người. Xin các bạn hãy quý trọng nó như sinh mạng của các bạn vậy. hằng ngày luôn nhắc tâm mình: “Phải biết xấu hổ khi làm một điều sai”. Có nhắc nhở như vậy thân tâm của các bạn mới thấm nhuần giới luật này.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC HIẾU SINH THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ NĂM: CÓ LÒNG TỪ

CÓ LÒNG TỪ”là một hành động đạo đức thương yêu làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Người, làm Thánh đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh thương yêu để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Đức hạnh thương yêu để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh là những đức hạnh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có được như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC CÓ LÒNG TỪ

Con người sinh ra ở đời ai ai cũng sẵn có lòng từ, nhưng lòng từ ấy được phát triển lớn mạnh hay bị diệt mất là do nơi mỗi con người, nếu mỗi người có muốn nuôi dưỡng, huân tập thì lòng từ mới tăng trưởng lớn mạnh, còn nếu không nuôi dưỡng, huân tập thì lòng từ chẳng bao giờ lớn mạnh được và đôi khi nó còn bị diệt mất, vì tâm các bạn chạy theo dục và ác pháp, nên lòng từ bị diệt mất. Hiện giờ, các bạn cứ nhìn xem lòng từ của con người đã bị diệt mất, chỉ vì những phát minh của khoa học phục vụ đời sống vật chất quá tiện nghi, nên tâm tham dục càng lớn mạnh. Tâm tham dục càng lớn mạnh thì ác pháp càng tăng trưởng. Ác pháp càng tăng trưởng thì đạo đức bị diệt mất. Bởi vậy, khoa học phát triển mà đạo đức không phát triển để quân bình với vật chất khoa học thì đó là tai họa cho loài người.

Cho nên, lòng từ không phải tự nhiên nó phát triển lớn mạnh được mà phải do huân tập rèn luyện lòng yêu thương hằng ngày đối với từng mỗi chúng sanh thì nó mới phát triển lớn mạnh được.

Vì thế, mọi người muốn có được lòng từ lớn mạnh từ trong sâu thẳm của tâm hồn thì phải siêng năng và huân tu tập lòng thương yêu ấy trước mỗi người, mỗi loài vật, mọi nghịch cảnh và mọi ác pháp khi chúng tác động vào thân tâm mình mà các bạn chỉ thấy có sự tha thứ và yêu thương.

Lòng từ phải được thực hiện trong mọi hoàn cảnh dù nghịch, dù thuận đều khởi sự tha thứ và yêu thương, nhờ có tha thứ thương yêu thì lòng từ mới phát triển lớn và mạnh.

Từ nơi rèn luyện, huân tập và nuôi dưỡng lòng yêu thương ấy nó mới có tên là “Có lòng từ”. Có lòng từ là tên của một giới đức hiếu sinh cụ túc của Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni và nam nữ cư sĩ. Giới cụ túc có nghĩa là giới luật đầy đủ không thiếu khuyết đạo đức và oai nghi tế hạnh.

“GIỚI ĐỨC CÓ LÒNG TỪ” là chỉ cho một hành động Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo, nhờ giữ gìn đức hạnh này nghiêm chỉnh nên lòng tha thứ yêu thương luôn luôn sẵn sàng mang đến với mọi người, vì thế tâm các bạn mới bất động trước tám gió (Bát phong bất động). Do đó, tâm các bạn mới bất động trước các pháp ác và các cảm thọ. Tâm bất động được như vậy thì các bạn mới tìm thấy trạng thái giải thoát hoàn toàn.

GIỚI HẠNH CÓ LÒNG TỪ

 “GIỚI HẠNH CÓ LÒNG TỪ”là một giới luật dạy về oai nghi tế hạnh thương yêu của người tu sĩ Phật giáo, giới luật này luôn luôn sẵn sàng khi gặp mọi tình huống xảy đến. Một người tu sĩ Phật giáo mà không giữ gìn trọn vẹn giới luật oai nghi tế hạnh này thì không xứng đáng là đệ tử của Phật. Bởi vì đạo Phật là Đạo của sự yêu thương (từ bi). Yêu thương từ trong tận đáy lòng của các bạn. Vì thế, các bạn hãy lắng nghe sự đối đáp giữa đức Phật và ông Phú Lâu Na. Ông Phú Lâu Na là một vị đại đệ tử của đức Phật. “Sau khi chứng quả A La Hán xong, ông Phú Lâu Na đến xin Đức Phật đi giáo hóa ở xứ Du Lô Na. Đức Phật hỏi: “- Ông đến xứ Du Lô Na, nếu như dân ở đó không chấp nhận Ông, mà lớn tiếng chửi mắng, Ông mới làm sao?

- Bạch Thế Tôn! Họ chửi mắng con, con vẫn thấy họ còn thương con, vì họ cũng chưa lỗ mãng đến nỗi dùng roi gậy đánh đập con.

- Nếu như họ dùng nắm tay, gạch ngói, roi gậy đánh đập Ông?

- Con vẫn thấy họ còn thương con, chưa đến nỗi đâm chém con.

- Nếu họ dùng dao búa như thế?

- Con cũng cho họ còn thương con, còn tình người chưa đến nỗi giết con chết.

- Nếu họ giết Ông chết?

- Nếu thế con lại cảm ơn họ, họ đã giết sắc thân của con, hỗ trợ cho đạo nghiệp của con, giúp con mau vào Niết Bàn, giúp con đem sinh mạng báo đáp ân đức của Thế Tôn, điều ấy đối với con, tuy không có trở ngại, chỉ sợ di hại ảnh hưởng không tốt cho họ mà thôi”. (Thập đại đệ tử sử truyện).

Đọc đoạn sử ký trên đây chúng ta thấy giới luật có lòng từ mà ông Phú Lâu Na đã sống và thực hiện một cách trọn vẹn đầy đủ ý nghĩa của lòng từ.

Một vị Thánh Tăng đệ tử của Đức Phật mà không có lòng từ thì không thể gọi là Thánh Tăng được.

Lòng từ như ông Phú Lâu Na mới thật sự là lòng từ; lòng từ của ông Phú Lâu Na mới xứng đáng là người đệ tử của Phật giữ giới nghiêm chỉnh.

Tu sĩ thời đức Phật là như vậy, còn tu sĩ thời nay thì sao?

Những tu sĩ về tu viện Chơn Như, ai là người đã có lòng từ, lòng yêu thương chân thật với mình, khi bị cô Diệu Quang cho một trận tơi tả thì biết ngay có lòng từ hay không. Ai cũng nói được lòng từ, nhưng thực hiện lòng từ không phải dễ. Đến tu viện Chơn Như với mục đích tu tập của họ là tu tập thiền định, chứ không phải tu tập xả tâm để thực hiện lòng từ. Vì thế, họ không tu tập lòng từ, nên khi rời khỏi Tu Viện thì cô Diệu Quang là đối tượng khen chê của họ.

Trong giáo lý của đạo Phật có một phương pháp tu tập về lòng từ. Đó là pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm. Tứ Vô Lượng Tâm gồm có:

1-  Từ tâm vô lượng.

2-  Bi tâm vô lượng.

3-  Hỷ tâm vô lượng.

4-  Xả tâm vô lượng.

Từ tâm vô lượng là tâm thương yêu rộng lớn đối với sự sống của muôn loài, không riêng loài động vật mà ngay cả những loài thực vật như: cỏ cây v.v.. Khoáng sản như: đất, đá, núi sông v.v.. Thời tiết như: nắng, mưa, gió, bão, khí hậu nóng lạnh v.v..

GIỚI HÀNH CÓ LÒNG TỪ

Muốn có lòng từ vô lượng không những thương yêu trong cảnh thuận mà còn thương yêu trong cảnh nghịch thì có sự tu tập kỹ lưỡng và tu tập đúng pháp, chứ không thể nói suông được.

Muốn giữ gìn giới hạnh có lòng từ được nghiêm túc và cũng để phát triển lòng yêu thương ngày một mạnh mẽ hơn thì hằng ngày chúng ta nên nhớ dẫn tâm vào lòng yêu thương ấy. Vậy dẫn tâm vào lòng thương yêu ấy như thế nào?

Như chúng ta ai cũng biết, việc làm ác hay việc làm thiện đều do tâm chúng ta tạo ra: “Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo tác”. Do hiểu rõ ý nghĩa của lời dạy này, nên chúng ta hằng ngày thường dẫn tâm mình vào chỗ yêu thương như những câu tác ý dưới đây: “Tâm phải thương yêu tất cả chúng sanh, vì tất cả chúng sanh đều có sự sống bình đẳng như nhau, không có một loài vật nào có quyền ăn hiếp loài vật khác. Vì mọi loài vật không có loài vật nào mà không tham sống sợ chết, Vậy chúng ta phải thương yêu với sự thương yêu chân thật từ nơi trái tim của mình”.

Trên hành tinh sống này chỉ có luật nhân quả điều hành xử phạt, luật nhân quả rất công bằng, không có loài vật mạnh ăn hiếp loài vật yếu, không quyền loài vật này ăn thịt loài vật kia. Nếu loài vật nào vi phạm thì sẽ bị luật nhân quả trừng trị đích đáng. Bởi vậy, loài người vi phạm vào giới luật có lòng từ, nên thường giết hại chúng sanh ăn thịt, vì thế con người phải chịu xử phạt công minh của luật nhân quả, nên thường sống trong khổ đau nhiều hơn là hạnh phúc, an vui, từ kiếp này đến kiếp khác mãi mãi phải chịu mang thân xác nghiệp bệnh tật, tai nạn, phiền não khổ đau, thiên tai, hoả hoạn, lũ lụt, động đất sóng thần, v.v..

Muôn loài vật sống trên hành tinh này đều có một sự sống bình đẳng như nhau, do sự sống bình đẳng như nhau nên phải thương nhau. Tại sao lại nói muôn loài vật lại có sự sống bình đẳng như nhau?

Nghĩa là trên hành tinh này không có một loài vật nào thiếu không khí mà sống được; không có loài vật nào không có nước mà sống được v.v..

Cho nên, các bạn phải lấy sự công bằng của sự sống mọi loài mà thực hiện lòng yêu thương nhau. Lòng yêu thương nhau ấy là sự sống bình đẳng, muốn có sự sống bình đẳng thì phải biết tôn trọng sự sống của nhau, vì thế mọi loài không được giết hại và ăn thịt lẫn nhau. Con người còn ăn thịt loài động vật là không biết tôn trọng sự sống của nhau. Chính những điều này đã minh chứng con người chưa biết tôn trọng sự sống của chính con người. Không biết tôn trọng sự sống của chính mình thì mình lại chà đạp sự sống của chính mình bằng cách cụ thể là chà đạp lên sự sống của loài vật khác. Vì thế, chỉ cần một vài trăm ngàn đồng hay một chỉ vàng thì có thể giết một mạng người dễ như trở bàn tay. Hằng ngày báo chí đã đăng nhiều tin tức xảy ra những vụ án giết người cướp của.

Xét thế, các bạn mới thấy con người hiện nay không tôn trọng sự sống, không tôn trọng sự sống nên ăn thịt chúng sanh, ăn thịt chúng sanh là xem thường sự sống của bản thân mình, của những người khác và của tất cả loài vật. Có đúng như vậy không các bạn?

Đứng trước nền đạo đức nhân bản – nhân quả đang suy sụp, chúng tôi kêu gọi mọi người hãy tôn trọng sự sống trên hành tinh này để cứu sự sống của hành tinh.

Nếu không tôn trọng sự sống trên hành tinh này chắc chắn các bạn sẽ tự hủy diệt mình.

Vậy ngay từ bây giờ các bạn phải chuyên cần tập luyện để phát triển lòng từ. Muốn phát triển lòng từ các bạn phải giữ gìn giới hạnh có lòng từ nghiêm chỉnh. Giới hạnh có lòng từ là một giới luật đức hạnh cao quý tuyệt vời, vậy nên chúng ta phải tự bắt buộc khép mình trong khuôn khổ thực hiện lòng từ thì cuộc sống này mới có sự tôn trọng bình đẳng như nhau trên hành tinh này.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC HIẾU SINH THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ SÁU: SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH

SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNHlà một hành động đạo đức thương yêu những bậc làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Người, làm Thánh cho đúng nghĩa thì cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh thương yêu để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Đức hạnh thương yêu để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh là những đức hạnh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để đem lại sự sống bình đẳng yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH

Khi đọc đến giới luật này chúng ta nhận xét về văn hoá truyền thống đạo Phật có những Phạm hạnh (giới luật) rất là đặc biệt. Ở đời người ta bảo: “Nên thương xót tất cả chúng sanh”, có nghĩa là thương yêu con vật này, thương yêu con vật kia hay thương người này, thương người kia, chứ ít ai bảo: “Sống thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh”. Giới này dạy: ‘‘Sống thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh” có nghĩa là không những thương yêu chúng sanh mà còn thương sự sống đang an vui hạnh phúc của chúng.

Như vậy, chúng ta phải hiểu cặn kẽ về giới luật này. Đứng trước các đối tượng như đất đá, cỏ cây, sông nước, núi rừng đến muôn loài động vật đang sống an vui trong môi trường sống im ả của vũ trụ thì chúng ta không còn có quyền làm mất sự bình an, yên vui và hạnh phúc ấy. Làm mất sự bình đẳng, yên vui và hạnh phúc ấy là ta đã phạm vào “GIỚI ĐỨC SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH”.Đã vi phạm vào vào giới đức này thì các bạn là người vô đạo đức thương yêu này.

GIỚI HẠNH HIẾU SINH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH

 “GIỚI HẠNH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH”là một hành động sống đạo đức hiếu sinh biết thương mình, thương người và thương sự sống của muôn loài. Một hành động đạo đức cao thượng tuyệt vời của loài người mà không thể lấy một vật gì trong thế gian này đem ra so sánh được.

Ví dụ 1: một đoàn kiến đang đi kiếm món ăn trên sân nhà của các bạn, lúc bấy giờ các bạn đang quét dọn, định quét chúng ra khỏi nhà hay tìm cách đuổi chúng ra mà không làm mất sinh mạng chúng, những hành động ngăn và đuổi chúng ra khỏi nhà mà không giết hại chúng, đó chỉ mới có hành động thương xót chúng mà thôi. Còn “giới đức sống thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh” thì ở đây dạy sống đến thương xót hạnh phúc của chúng sanh, vì thế trước tiên chúng ta tránh không nên làm chúng sợ hãi, do đó chúng ta không đuổi chúng, không quét chúng ra khỏi nhà để chúng tự nhiên sống như thế nào thì mặc chúng, chúng ta chỉ có cố gắng tránh, đừng làm chúng đau khổ, và muốn chúng ra khỏi nhà bằng cách đem những món ăn khác bỏ cách xa nhà thì chúng sẽ kéo ra đó mà ăn. Những hành động như vậy là giữ gìn“GIỚI HẠNH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH”.

Ví dụ 2: Cỏ cây đang lên xanh tươi tốt, chúng ta không nên bẻ cành, nhổ gốc, vì bẻ cành, nhổ gốc, là làm mất sự sống an vui hạnh phúc của chúng. Những hành động như vậy là không giữ gìn “GIỚI HẠNH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH”.

Cắt một cành bông, bẻ một cành cây, hái một lá cỏ, những hành động làm như vậy là những hành động sống không thương xót đến tất cả hạnh phúc an vui của chúng sanh, cho nên khi học và tu tập giới luật này thì chúng ta phải tu tập sống hồn nhiên và hoà mình trong cuộc sống của tất cả vạn vật. Vì thế, khi đi, đứng, nằm, ngồi hay làm bất cứ một công việc gì. Các bạn đều lưu ý đến mọi hành động của mình để không làm mất sự an vui hạnh phúc của chúng sanh.

Giới luật này là một hành động đạo đức tuyệt vời cao thượng sống biết thương xót tất cả hạnh phúc của chúng sanh thì không còn một đạo đức nào cao thượng hơn nữa. Phải không các bạn?

Bởi vậy, học giới luật đức hạnh của Phật giáo chúng ta rất thấm thía về những lời dạy đạo đức hiếu sinh về lòng thương yêu cao thượng và sâu thẳm tận đáy lòng của con người. Trên đời này chúng ta không thấy có một tôn giáo nào dạy đạo đức cao thượng tuyệt vời hơn Phật giáo. Phải không các bạn?

Chính lòng thương yêu hạnh phúc của chúng sanh mà chúng ta được hạnh phúc trọn vẹn. Cho nên, mỗi giới luật của Phật là một hành động đạo đức xây dựng cuộc sống loài người trở thành Thiên Đàng, Cực Lạc tại thế gian.

GIỚI HÀNH HIẾU SINH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH

Muốn sống đúng giới đức này nghiêm chỉnh thì các bạn hằng ngày phải sống tỉnh giác trên từng thân hành có nghĩa là luôn luôn lúc nào các bạn cũng phải phản tỉnh trên mọi hành động khi thân muốn làm việc gì đều phải quan sát cẩn thận kỹ lưỡng rồi mới làm. Đó là để tránh sự va chạm vô tình làm đau khổ hay làm mất mạng chúng sanh.

Lại nữa hằng ngày các bạn nên nhớ tác ý: “Tâm phải tỉnh thức trên từng hành động vì lòng yêu thương sự sống yên vui của muôn loài”, tác ý như vậy lần lượt tâm các bạn sẽ thấm nhuần lòng yêu thươngsựsống yên vui hạnh phúc của muôn loài. Chính việc làm này là mang lại sự an vui hạnh phúc cho các bạn. Các bạn có biết không?

“GIỚI HÀNH HIẾU SINH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH”,muốn sống đúng giới luật này,không phải ai cũng tự tu tập Tứ Vô Lượng Tâm được, mà phải có giáo trình hướng dẫn tu tập. Xin các bạn vui lòng đọc lại kinh “Hành Thập Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm”. Hành Thập Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm là giới hành đạo đức hiếu sinh “SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH”.

“GIỚI HÀNH HIẾU SINH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH”là những hành động tỏ ra sự thương yêu chúng sanh chân thật từ trong tận đáy lòng của các bạn.

Ví dụ: Trước khi bước đi các bạn nên nhắc tâm: “Phải tỉnh thức từng bước đi để tránh giẫm đạp lên chúng sanh” hoặc “Ta hãy thương tất cả chúng sanh vì chúng sanh có một sự sống như chúng ta, đừng làm chúng đau khổ và chết tội nghiệp”. Những tác ý nhắc tâm như trên là “GIỚI HÀNH HIẾU SINH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH”.

Biếtáp dụng giới luật này vào sự sống của các bạn hằng ngày thì lòng yêu thương đối với chúng sanh ngày càng thêm rộng lớn và cao đẹp vô cùng, tràn đầy nhựa sống yêu thương, đối với muôn sự, muôn vật trên hành tinh này.

CHƯƠNG IV: NHÓM SƠ THIỆN THỨ BA

SÁU GIỚI ĐỨC LY THAM TỲ KHEO TĂNG VÀ TỲ KHEO NI

 

GIỚI THIỆU NHÓM GIỚI LUẬT CỤ TÚC THỨ BA

Sau khi nghe đức Phật trình bày, kết quả sáu giới đức, giới hạnh và giới hành hiếu sinh của người tu sĩ Phật giáo thì vua A Xà Thế phải chấp nhận và ca ngợi tán thán những kết quả thiết thực hiện tại của Sa Môn hạnh là rất tuyệt vời. Vua A Xà Thế hỏi Phật:

“- Bạch Thế Tôn”! Có thể cho biết một kết quả thiết thực hiện tại khác nữa của hạnh Sa Môn, vi diệu hơn, thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của Sa Môn vừa kể trên không?”.

Xin các bạn lưu ý câu hỏi trên đây của vua A Xà Thế: Chính do câu hỏi này mà từ đây về sau đức Phật trả lời những kết quả đức hạnh của người tu sĩ càng ngày càng vi diệu và thù thắng hơn.

Khi Vua A Xà Thế hỏi đức Phật như vậy thì đức Phật trả lời:

 “- Này Đại vương hãy lắng nghe và khéo tác ý Ta sẽ giảng.

Này Đại vương thế nào là Tỳ kheo giới hạnh cụ túc?

Ở đây, này Đại vương, Tỳ kheo từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cắp. Như vậy là giới hạnh củavị ấy trong giới luật”.

Đức Phật vừa nêu lên nhóm giới luật thứ ba. Nhóm giới luật này gồm có 6 giới ly tham:

1.        Từ bỏ lấy của không cho.

2.        Tranh xa sự lấy của không cho.

3.        Chỉ lấy những vật đã cho.

4.        Chỉ mong những vật đã cho.

5.        Tự sống thanh tịnh.

6.         Không có trộm cắp.

Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của sáu giới ly tham này như thế nào?

Muốn biết rõ giới đức, giới hạnh và giới hành của sáu giới này thì chúng ta lần lượt triển khai từng giới một để xác định nghĩa cho rõ ràng, ngõ hầu người sau mới biết đường lối tu theo giới luật đúng pháp của đức Phật.

Sáu giới nàylà những hành động đạo đức làm Người, làm Thánh thuộc về thân tâm, nó chỉ rõ hành động sống đúng đức hạnh của mọi người, của những vị tu sĩ Thánh Tăng, Thánh Ni mà mọi người sống trên thế gian này ai ai cũng cần phải học hiểu để thể hiện sự sống chung nhau trên hành tinh này không làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sanh; để thể hiện sống chung nhau với một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự; để thể hiện một sự sống thoát ra khỏi bản chất hung ác tham lam của loài cầm thú, mà muôn đời bản chất ấy còn ngủ ngầm trong tâm các bạn. Các bạn có biết không?

Vì thế, mọi người phải chấp nhận sáu đức hạnh “Ly tham diệt ác pháp” này. Nó chính là mạng sống của các bạn. Các bạn hãy cố gắng giữ gìn để bảo vệ mạng sống và cũng là để sống với một tâm hồn cao thượng không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.

GIỚI ĐỨCTHỨ NHẤT: THÂN HÀNH THIỆN LY THAM TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO

 “TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO”là một hành động đạo đức ly tham làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người cùng sống chung nhau trên hành tinh này đều phải chấp nhận đạo đức này. Cho nên, làm người đúng nghĩa làm người đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh ly tham này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh ly tham để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Đức hạnh ly tham để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh là những đức hạnh xứng đáng làm Người, làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có sống như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Nếu không sống đúng giới luật này mà niệm Phật, ngồi thiền, tụng kinh sám hối cầu mong kiến tánh thành Phật, trực vãng Tây Phương, nhập vào Niết Bàn v.v.. thì đó là một giấc mơ ảo tưởng các bạn ạ!

GIỚI ĐỨC LY THAM TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO

“TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO”là một giới đức chỉ rõ đạo đức của một người có đức buông xả ly dục, ly tham sắc dục, ly ác hạnh thân, khẩu, ý.

Một người có đạo đức ly tham, ly ác pháp, ly dục thì không bao giờ lấy của người khác khi họ chưa chấp nhận cho.

“LẤY CỦA KHÔNG CHO”là một hành động xấu xa, hèn hạ, nhẫn tâm, ác độc v.v.. thiếu đạo đức làm người, thiếu nhân cách, kém văn hóa. Những hành động lấy của không cho là những hành động đáng khinh rẻ, đáng phỉ nhổ. Hành động lấy của không cho chỉ có những kẻtrộm cắp, cướp giật, móc túi mới làm như vậy v.v..

Những người trộm cắp cướp giật lấy của không cho của người khác là những loài ác thú đội lốt con người, chứ con người không ai nỡ nhẫn tâm làm điều ấy.

Vật chất của cải tài sản, không do mồ hôi nước mắt và công sức lao động bằng trí óc hay tay chân của mình làm ra mà lấy là một hành động đáng trách đáng chê, đáng khinh bỉ v.v.. Cướp giật, trộm cắp là một hành động phi đạo đức mà mọi người khôngai chấp nhận.

Tâm lý chung của mọi người là không ai muốn mất của cải tài sản, chính bản thân mình không muốn mất của, sao mình lạinhẫn tâm lấy của người khác. Của cải mình mất mình cũng biết buồn rầu khổ sở thì người khác cũng vậy, suy ra như vậy ta há nỡ lòng nào lấy của người khác khi họ không cho. Phải không các bạn?

“TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO” là một hành động đạo đức ly tham tuyệt vời, người nào giữ gìn được như vậy, khiến cho mọi người yêu mến khâm phục, tôn trọng và tin tưởng, nhờ đó Phật giáo mới chấn hưng được nền tảng đạo đức nhân bản – nhân quả.

“TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO”là tiếng gọi đạo đức ly tham từ trong tận đáy lòng sâu thẳm của mọi con người khi họ còn có một chút lương tri, lương năng. Vì thế, làm người ai nỡ lòng nào lấy của không cho. Lấy của không cho là đi ngược lại với đạo đức làm người, là đi ngược lại với lương tri lương năng của mình, luôn luôn làm khổ người, làm khổ mình, khổ cả hai.

Tóm lại, giới đức ly tham “TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO” rất cần thiết và lợi ích rất lớn cho đời sống của mọi người đang chung nhau trên hành tinh này. Cho nên, làm người ai ai cũng phải nhìn nhận và chấp nhận hành động đạo đức đó là cao thượng, là tuyệt đẹp, là đem lại hạnh phúc cho muôn người, muôn nhà.

GIỚI HẠNH LY THAM TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO

 “TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO”là giới hạnh ly tham, nó nhắc nhở cho mọi người rằng: “Làm người lấy của không cho là không phải là con người”. Người mà sống không đúng nghĩa làm người là một con thú vật mang lốt người. Phải không các bạn?

Cho nên, kẻ nào lấy của không cho, là sẽ bị pháp luật kết án rất nặng. Nếu không kết án nặng thì con người tham lam trộm cướp sẽ trở thành những con ác thú. Bởi lẽ ấy những kẻ trộm cướp trở thành những kẻ sát nhân một cách dễ dàng. Đó là một hiện thực mà hằng ngày báo chí đăng tin tức đã xảy ra khắp nơi trên mọi miền đất nước và trên toàn cầu. Vì thế, khi kết tội lấy của không cho là phải kết tội tương đương như tội giết người, thường kẻ lấy của không cho là những kẻ trộm cắp, cướp giật giết người. Vì thế, phần đông về tội giết người là do hành động lấy của không cho. Tội lấy của không cho là nguyên nhân gây ra án mạng giết người.

Muốn triệt tiêu nguyên nhân tội giết người thì phải tử hình tội lấy của không cho hoặc kết án chung thân khổ sai. Có như vậy xã hội mới có an ninh trật tự, mọi người mới được an ổn làm ăn, sinh mạng mọi người mới được bảo đảm, đất nước mới được phồn vinh thịnh trị.

Những người cầm cân công lý thì phải hiểu biết tội lấy của không cho là tội rất nặng trong các tội khác. Đạo Phật là một đạo từ bi nhưng khi người tu sĩ phạm giới này đều kết tội Baladi. Tội Baladi là tội tử hình, tội đứt đầu.

Nếu tội lấy của không cho mà chỉ phạt đôi ba tháng tù thì chúng tôi tin rằng kẻ lấy của không cho không bao giờ sợ. Giống như người ta bắt cóc bỏ đĩa. Và như vậy kẻ lấy của không cho sẽ tái phạm và tái phạm nhiều lần cho đến khi gây án mạng. Nếu không trừ ngay nguyên nhân gây án mạng này thì hậu quả sẽ vô cùng khốc hại và đau xót. Khi có người chết do nạn trộm cướp, những người lấy của không cho chỉ có tội tử hình như trong giới luật Phật thì xã hội mới có trật tự an ninh, và sinh mạng của mọi người dân mới được bảo đảm.

Một đất nước muốn được thịnh vượng thì pháp luật phải được nghiêm minh. Pháp luật được nghiêm minh thì phải trừng trị tội nhân lấy của không cho cho xứng đáng thì nạn trộm cướp sẽ chấm dứt, nếu không trị toi nặng như vậy thì nạn trộm cướp càng lộng hành và tăng trưởng, khiến cho những người dân lương thiện sống có đạo đức bất an và đau khổ.

Trong chùa là nơi tu hành, mỗi tu sĩ đều phải chấp hành nghiêm chỉnh từ bỏ lấy của không cho... Khi đã khoác chiếc áo cà sa, cạo bỏ râu tóc đó là một hình thức đạo giải thoát, đạo buông xả, là một hình ảnh Thánh đức, Thánh hạnh của một vị Tỳ Kheo Tăng, Tỳ kheo Ni. Thế mà tu sĩ Phật giáo dám cả gan lấy của không cho thì còn nghĩa lý gì là một tu sĩ Phật giáo đức hạnh nữa. Phải không các bạn? Cho nên đức hạnh rất cần thiết cho người tu sĩ để làm gương sáng cho người đời soi. Thế mà, tu sĩ lại phạm giới, phá giới sống vô đức hạnh thì còn nghĩa lý gì là tu sĩ nữa Phật giáo nữa. Những người tu sĩ như vậy có xứng đáng là tu sĩ nữa không? Thưa các bạn!!!

GIỚI HÀNH LY THAM TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO

 “TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO”là một giới hành ly tham, vì thế hằng ngày chúng ta thường nhắc tâm mình: “Từ bỏ lấy của không cho, lấy của không cho là một hành động xấu ác làm khổ người, làm khổ mình”. Nhờ có nhắc tâm như vậy thì giới luật này các bạn mới giữ gìn trọn vẹn và nghiêm chỉnh.

Người lấy của không cho là người tham lam, ích kỷ nhỏ mọn. Vậy làm người chúng ta nên “từ bỏ lấy của không cho”.

Hành động từ bỏ lấy của không cho là một hành động cao quý mang đầy đủ tính chất ly tham, ly dục, ly ác pháp. Tự sống bằng mồ hôi nước mắt của mình là hạnh phúc nhất ở thế gian này, là người xứng đáng làm Người, làm Thánh, là những người được mọi người quý mến và tôn trọng.

GIỚI ĐỨCTHỨ HAI: THÂN HÀNH THIỆN LY THAM TRÁNH XA LẤY CỦA KHÔNG CHO

 “TRÁNH XA LẤY CỦA KHÔNG CHO”là một hành động đạo đức thương yêu làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Người, làm Thánh đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh thương yêu để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Đức hạnh thương yêu để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh này dạy các bạn và những nơi có người tham lam lấy của không cho thì nên tránh xa. Cho nên, phải tránh xa hành động tham lam trộm cắp của mình, tránh xa nơi có người đầu trộm đuôi cướp, để thực hiện đức hạnh ly tham đoạn ác pháp; để xứng đáng làm Người làm Thánh có đạo đức ly tham như trên đã nói. Những giới luật đức hạnh này các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau trong cuộc đời tràn đầy sự khổ đau. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC LY THAM TRÁNH XA LẤY CỦA KHÔNG CHO

 “TRÁNH XA LẤY CỦA KHÔNG CHO”là một đức hạnh tuyệt vời, nó gồm có năm vị trí tránh xa:

1/ Tránh xa những người tham lam trộm cắp lấy của không cho. Nếu các bạn đến ở một nơi nào, nơi đó có những người tham lam trộm cắp cướp giựt lấy của không cho thì các bạn không nên chơi thân với những người đó, vì chơi thân với họ có ngày liên luỵ bị tù tội và còn mang tiếng xấu xa.

2/ Tránh xa nơi có những người tham lam trộm cắp lấy của không cho. Khi các bạn ở đâu mà có người trộm cướp lấy của không cho thì các bạn phải dọn nhà đi chỗ khác, vì ở nơi đó có những người tham lam trộm cướp sẽ lấy của cải tài sản của các bạn, chừng đó bạn sẽ khổ tâm vì họ hoặc các bạn chịu ảnh hưởng theo những người xấu ác đó và các bạn cũng trở thành những người không ra gì? Cho nên các bạn nên tránh xa chỗ ở nơi đó.

3/ Tránh xa những ý nghĩ lấy của không cho. Khi ý nghĩ của các bạn khởi ra trong đầu muốn lấy một vật gì của người khác thì các bạn phải ngăn chặn và chấm dứt ngay liền. Tuy ý nghĩ mới khởi trong đầu nhưng nó là nguyên nhân xấu sẽ đưa các bạn đi đến chỗ lấy của không cho.

4/ Tránh xa những lời nói lấy của không cho có nghĩa là không được nói lấy cái này cái kia khi cái này cái kia không phải là vật sở hữu của các bạn.

5/ Tránh xa những hành động lấy của không cho. Vật không phải quyền sở hữu của các bạn dù vật ấy rất nhỏ mọn không đáng là bao nhiêu thì cũng đừng lấy nó, lấy nó về nhà sẽ bị tội.

Tất cả những hành động như trên đã nói, đó là những hành động đức hạnh ly tham mà các bạn cần phải hiểu biết và thực hiện cho bằng được, những hành động đức hạnh này nó sẽ mang lại cho các bạn một đời sống an vui và hạnh phúc.

Các bạn nên nhớ kỹ: “GIỚI ĐỨC LY THAM TRÁNH XA LẤY CỦA KHÔNG CHO” là một đức hạnh ly tham tuyệt vời.

 Nếu đã sinh ra làm người thì các bạn phải thực hiện những đức hạnh này cho bằng được, nếu không thực hiện được thì không xứng đáng làm người.

GIỚI HẠNH LY THAM TRÁNH XA LẤY CỦA KHÔNG CHO

Khởi ý nghĩ lấy của không cho là một hành động vô đạo đức, là một hành động xấu xa hèn hạ, là một hành động oai nghi tế hạnh xấu ác mà mọi người phỉ nhổ và ghê tởm, đó là một hành động oai nghi tế hạnh của ý nghĩ ác xấu tham lam mà các bạn cần phải dừng ngay.

“TRÁNH XA LẤY CỦA KHÔNG CHO”là một oai nghi tế hạnh ly tham tuyệt vời như trên đã nói mà mọi người hằng ngày phải tự trau dồi nhắc nhở tâm mình thì đó là đức hạnh ly tham, khiến cho các bạn trở thành những người tốt trong xã hội của loài người.

“TRÁNH XA LẤY CỦA KHÔNG CHO”có nhiều hình thức khác nhau mà các bạn cần phải hiểu cho rõ ràng những oai nghi tế hạnh này:

Ví dụ 1: Các bạn bỏ tiền ra mua vé xổ số năm, mười ngàn đồng mà khởi ý muốn trúng số năm triệu, mười triệu, trăm chục triệu đồng, đó là ý nghĩ xấu, ý nghĩ tham lam lấy của không cho. Vì vậy, các bạn cũng cần tránh xa sự tham lam về vé xổ số. Sự mua vé số là có ý tham lam bỏ ra một đồng mà muốn lấy cả trăm triệu đồng, đó cũng là hình thức tham lam lấy của không cho. Cá cược, cờ bạc v.v.. đều là tham lam lấy của không cho. Cho nên, các bạn cần phải “TRÁNH XA LẤY CỦA KHÔNG CHO”. Đó là những hành động xấu ác vô đạo đức mà mọi người cần phải tránh xa để tạo cho mình có một gia đình ấm cúng, một xã hội tốt đẹp.

GIỚI HÀNH TRÁNH XA SỰ LẤY CỦA KHÔNG CHO

Các bạn nên lưu ý: Một ý nghĩ khởi lên do tâm tham muốn lấy của không cho, một hành động thuộc về ý nghĩ xấu xa và hung ác ấy, các bạn nên chấm dứt ngay. Chấm dứt ngay ý nghĩ ấy, đó là oai nghi tế hạnh giới hành “TRÁNH XA LẤY CỦA KHÔNG CHO”.Một hành động suy tư dừng được ác ý ấy là một hành động đạo đức cao thượng đối với mình và đối với mọi người, đó là một hành động oai nghi tế hạnh tốt đời, đẹp đạo. Các bạn có biết không?

Hằng ngày các bạn nên tác ý: “Tránh xa ý nghĩ lấy của không cho”. Nhờ có tác ý như vậy tâm các bạn sẽ thấm nhuần và thường khởi niệm tránh xa ý nghĩ lấy của không cho. Đối với thân, khẩu cũng tác ý như vậy, khi tâm đã thấm nhuần những lý này thì thân, khẩu, ý của các bạn sẽ tránh xa lấy của không cho. Tránh xa lấy của không cho thì giới luật các bạn sẽ giữ gìn nghiêm chỉnh và như vậy thân tâm của các bạn sẽ thanh tịnh trong những giới luật đã nói trên. Và nhờ có giới hành tu tập như vậy nên các bạn không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào giới luật.

GIỚI ĐỨCTHỨ BA: THÂN HÀNH THIỆN LY THAM CHỈ LẤY NHỮNG VẬT ĐÃ CHO

 “CHỈ LẤY NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”là một hành động đạo đức thương yêu làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh thương yêu để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Đức hạnh thương yêu để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh là những đức hạnh đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có được như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

Các bạn nên biết: không bao giờ có cõi Cực Lạc, Thiên Đàng thật. Cõi Cực Lạc, Thiên Đàng chỉ là cõi ảo tưởng của con người, khi con người trí tuệ chưa đủ trí sáng suốt nên tưởng tượng tự đặt ra để tựa nương tinh thần.

Nếu con người không tự xây dựng cho mình cõi Cực Lạc, Thiên Đàng thì không bao giờ có cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Nhưng muốn xây dựng cõi Cực Lạc, Thiên Đàng thì phải xây dựng bằng một đạo đức nhân bản – nhân quả. Nếu không xây dựng nền tảng đạo đức thì cảnh thế gian này là địa ngục, đầy dẫy muôn vàn tội lỗi và khổ đau bất tận không bao giờ dứt.

GIỚI ĐỨC CHỈ LẤY NHỮNG VẬT ĐÃ CHO

Thưa các bạn! Nghe nói đến cụm từ “CHỈ LẤY NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”mới đầu các bạn chỉ hiểu đó là một lời khuyên và hằng răn nhắc tự tâm mình: “Chỉ nên lấy những vật đã cho, chứ không được lấy những vật không cho”. Lời nói ấy sẽ phớt qua tai các bạn như cơn gió thoảng chẳng có nghĩa gì. Phải không các bạn?

Nhưng không phải vậy đâu các bạn ạ! Lời nói ấy tuy nhẹ nhàng nhưng thấm thía làm sao! Nó giúp cho các bạn không bao giờ có những hành động vô đạo đức trộm cắp, móc túi, cướp giựt, lấy của không cho; nó biến cho các bạn trở thành những con người có đạo đức ly tham ác pháp; nó biến cho các bạn trở thành những con người sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai; nó biến cho các bạn trở thành những con người có tâm hồn cao thượng biết thương mình thương người, thương sự sống của muôn loài; nó biến cho các bạn trở thành những con người thật là con người không còn mang một chút bản chất loài cầm thú. Các bạn có biết không?

Các bạn cứ suy ngẫm những lời nói này có đúng không? Nếu đúng thì chúng tôi xin chia sẻ cùng với các bạn nỗi lòng yêu thương mọi người của chúng tôi đến các bạn.

 “CHỈ LẤY NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”,đó làđức hạnh cao thượng tuyệt vời của loài người các bạn ạ! Các bạn đừng quên, đó là hạnh phúc chân thật của mọi người mà con người cần phải giữ gìn “CHỈ LẤY NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”.

GIỚI HẠNH LÌA TÂM THAM ÁC

 “CHỈ LẤY NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”là một oai nghi tế hạnh tuy tầm thường ai ai cũng có thể làm được, nhưng lại rất phi thường vì đó là hành động đạo đức làm Người, làm Thánh, nhưng ít ai lưu ý, và vì thế người ta hay phạm vào giới hạnh này.

Người đời hay xem thường những hành động nhỏ nhặt này nên đã vô tình phạm phải tội lỗi lấy của không cho.

 “CHỈ LẤY NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”lời nói tuy đơn giản nhưng lại mang đầy đủ ý nghĩa oai nghi tế hạnh đạo đức. Giới luật này có sự quyết định là ở chỗ danh từ “chỉ” chỉ lấy những vật đã cho, nếu những vật không cho là không bao giờ lấy đại. Có chấp nhận cho thì mới có lấy, không chấp nhận cho thì nhất định không chấp nhận lấy. Đó là ý nghĩa câu giới luật đạo đức này.

 Thưa các bạn! lời dạy giới luật đạo đức trong câu này là phải có một tinh thần dứt khoát “CHỈ LẤY NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”ngoài ra không cho nhất định không lấy, dù có bị giết chết nhất định không lấy.

Giới luật dạy đạo đức như trong bộ giới hạnh này, mỗi giới đều có những hành động dứt khoát không lưng chừng. Vì thế, đạo đức là phải như vậy mới gọi là đạo đức.

Sách dạy đạo đức có giá trị là ở từng hành động ngắn gọn, có nhiệt tâm quyết định dứt khoát. Đạo đức là đạo đức chứ đạo đức không thể xen lẫn vô đạo đức được.

Giới hạnh dạy: “CHỈ LẤY NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”,chứ nhất định không lấy những vật không cho. Vậy khi giữ gìn giới hạnh này thì phải có sự quả quyết nơi tâm mình. Những hành động lấy những vật đã cho là những hành động đạo đức tốt đẹp mà mọi người cần phải học tập và thực hành. Còn những hành động lấy của không cho thì phải từ bỏ, phải chấm dứt ngay liền, vì đó là những hành động vô đạo đức, kém văn hóa, thiếu văn minh.

Giới hạnh này thuộc về thân hành. Thân hành này vừa là nhân mà cũng vừa là quả, cho nên khi thò tay lấy của không cho thì ngay đó có quả liền:

-          Thứ nhất tâm sợ hãi, xấu hổ và lòng hồi hộp v.v..

-          Thứ hai có người bắt gặp sẽ bị đánh đập chửi mắng.

-          Thứ ba là bị tù tội.

-          Thứ tư là bỏ công ăn việc làm.

-          Thứ năm là bị mọi người khinh chê.

-          Thứ sáu là không dám nhìn ngó ai thẳng mặt, chỉ nhìn lén lút.

Những hành động “CHỈ LẤY NHỮNG VẬT ĐÃ CHO” là những hành động mang lại hạnh phúc cho mình cho người. Vì thế, sáu quả đau khổ đã nói ở trên sẽ không đến thăm và tác dụng vào các bạn được.

Các bạn nên hiểu, ở trên đời này là một cuộc sống chung, sống trong đó có mình có người, có muôn loài. Vì vậy, khi có sự an vui là phải có sự an vui chung, sự an vui ấy mới là trọn vẹn, còn nếu ai vì cá nhân tìm sự an vui riêng cho một mình thì sự an vui ấy không được trọn vẹn, lâu dài, vì mình vui mà có người khác, mọi vật khác khổ đau, thì sự an vui ấy là an vui trong đau khổ, cho nên làm người các bạn đừng quá ích kỷ chỉ nghĩ đến mình, không nghĩ đến ai cả, điều ấy sẽ là sự đau khổ của mình, của người và của cả hai. Thế gian này đầy khổ đau là do lòng ích kỉ này các bạn ạ!

Bây giờ các bạn đã thấu rõ những giới đức hạnh này, vậy từ đây các bạn nên sống đúng những giới đức hạnh này để mang lại sự thanh bình an vui cho mình, cho người và cho cả hai.

Hiểu được như vậy, các bạn hãy sống vì người, chỉ nên lấy những vật đã cho, không bao giờ lấy những vật không cho. Xin các bạn lưu ý.

Một hành động chỉ lấy những vật đã cho là một hành động tuy tầm thường nhưng rất cao quí và đẹp đẽ vô cùng. Vậy làm người ai ai cũng nên cố gắng giữ gìn cho trọn vẹn, đừng nên lấy của không cho mà chỉ nên lấy những vật đã cho.

GIỚI HÀNH CHỈ LẤY NHỮNG VẬT ĐÃ CHO

Một người muốn sống có đức hạnh ly tham ác pháp “CHỈ LẤY NHỮNG VẬT Đà CHO”để xứng đáng làm người thì hằng ngày nên nhắc tâm mình câu này: “Chỉ nên lấy những vật đã cho và không được lấy những vật không cho”. Lời răn nhắc này sẽ thấm nhuần trong tâm các bạn và từ đó trong cuộc sống hằng ngày các bạn không bao giờ có những hành động trộm cắp, móc túi, cướp giựt, lấy của không cho. Mỗi lần có những hành động lấy của không cho thì nó sẽ nhắc các bạn và biến các bạn trở thành người có đạo đức có văn hoá tuyệt vời...

Sự tác ý, răn nhắc và tu tập tâm các bạn trong giới luật “Chỉ nên lấy những vật đã cho”. Như vậy là các bạn đang tu tập “GIỚI HÀNH CHỈ LẤY NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”.

“GIỚI HÀNH CHỈ LẤY NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”.Khi áp dụng vào đời sống để được sống trọn vẹn đạo đức làm người, mang đầy đủ ý nghĩa thiện pháp “không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai”.

Một giới hạnh mang đầy đủ đạo đức không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai là một giới hạnh tuyệt vời. Nhờ thế, nó luôn luôn chuyển đổi nhân quả ác thành nhân quả thiện. Do đó, đời sống của các bạn được chuyển đổi từ tai nạn khổ đau hay bệnh tật thành sự an vui, yên ổn, tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự. Thật là hạnh phúc vô cùng!

GIỚI ĐỨCTHỨ TƯ: Ý HÀNH THIỆN LY THAM CHỈ MONG NHỮNG VẬT ĐÃ CHO

CHỈ MONG NHỮNG VẬT ĐÃ CHO” là một hành động đạo đức làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh trong những đức hạnh làm Người, làm Thánh mà các bạn cần phải tu học và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

Các bạn nên biết rằng: không bao giờ có cõi Cực Lạc, Thiên Đàng thật. Cõi Cực Lạc, Thiên Đàng chỉ là cõi ảo tưởng mà thôi. Nếu con người không tự xây dựng cho mình cõi Cực Lạc, Thiên Đàng thì không bao giờ có các cõi ấy, nhưng muốn xây dựng cõi Cực Lạc, Thiên Đàng thì phải xây dựng bằng một đạo đức nhân bản – nhân quả. Nếu không xây dựng nền đạo đức ấy ngay trong lòng của các bạn thì cảnh thế gian này là địa ngục, đầy dẫy muôn vàn tội lỗi và khổ đau không bao giờ dứt.

GIỚI ĐỨC CHỈ MONG NHỮNG VẬT ĐÃ CHO

 “CHỈ MONG NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”là một giới đức ly tham ác pháp của tâm chỉ rõ sự mong ước tốt đẹp. Người có đức hạnh ly tham ác pháp không nên mong ước những vật người khác chưa cho, chỉ nên ước mong những vật đã cho và đã có.

Làm người khi chưa hiểu đạo đức thì ai ai cũng có sự ước mong những vật chưa có, chưa cho, nhưng ở đây giới luật ly tham ác pháp dạy: “CHỈ MONG NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”.Đó là một tư tưởng đạo đức cao đẹp đi ngược lại tâm tư cuộc sống của mọi người hiện nay trên thế gian này. Do giới luật này đi ngược lại tư tưởng của mọi người nên nó trở thành một hành động đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai. Đó là một đạo đức “CHỈ MONG NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”của tâm rất tuyệt vời và cao thượng. Có đúng như vậy không các bạn? Đúng vậy, một giới luật đạo đức không có một giáo pháp nào hơn được tuy nghe tên giới luật rất tầm thường nhưng cách thức sống lại phi thường.

GIỚI HẠNH CHỈ MONG NHỮNG VẬT ĐÃ CHO

 “CHỈ MONG NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”này là một hành động đạo đức cao thượng của tâm vì thế nó giúp cho tâm ly dục ly ác pháp khiến cho tâm luôn luôn bất động trong các tư thế tỉnh giác chánh niệm. Do vậy, nên tâm không còn ước mong một vật gì chưa có, chưa cho. Khi tâm không còn ước mong những vật chưa có, chưa cho, đó là tâm đã ly tham, đoạn ác pháp.

Người ở thế gian do sự ước mong những vật chưa có, chưa cho, vì thế mà tâm tham, sân, si dẫy đầy nên họ phải chịu nhiều khổ đau. Về sự khổ đau có hai phần: về tâm thì phiền não, giận hờn, thương ghét, sợ hãi, lo toan v.v.. Về thân thì bệnh tật, tai nạn, bất an, khổ sở v.v..

Giới hạnh chỉ dạy khuyên răn chúng ta nên mong những vật đã có, đã cho. Mong những vật đã có, đã cho thì còn mong ước để làm gì. Phải không các bạn?

“CHỈ MONG NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”là một oai nghi tế hạnh mà các bạn cần phải hiểu và thấy rõ ràng mục đích của giới này là khuyên răn các bạn đừng nên mong ước những vật chất thế gian, vì tất cả vật chất thế gian là pháp vô thường hãy buông xuống, buông xuống cho thật sạch thì đạo đức nhân bản - nhân quả mới hiện tiền. Đạo đức nhân bản - nhân quả hiện tiền thì thế gian này là Cực Lạc, Thiên Đàng. Vì thế Đức Phật dạy:

“Các pháp vô thường

là pháp sinh diệt.

Sinh diệt diệt rồi,

Tịch diệt là vui”

Tóm lại “CHỈ MONG NHỮNG VẬT ĐÃ CHO” là một oai nghi tế hạnh sống Thánh hạnh của những người biết sống thương mình, thương người và thương tất cả chúng sanh.

GIỚI HÀNH CHỈ MONG NHỮNG VẬT ĐÃ CHO

Muốn thực hiện sống nghiêm chỉnh giới luật “CHỈ MONG NHỮNG VẬT ĐÃ CHO”thì phải nương vào pháp môn như lý tác ý câu này: “Chỉ mong những vật đã cho, đừng mong những vật chưa cho”. Khi tác ý như vậy tâm các bạn sẽ không bao giờ phạm vào giới luật này. Lần lượt tâm các bạn sẽ buông xả sạch những ác pháp và lòng ham muốn, khiến cho cuộc sống của các bạn luôn luôn được thanh thản, an lạc và vô sự. Đó là chân hạnh phúc các bạn ạ!

GIỚI ĐỨCTHỨ NĂM: THÂN, KHẨU, Ý HÀNH THIỆN TỰ SỐNG THANH TỊNH

 “TỰ SỐNG THANH TỊNH”là một hành động đạo đức thuộc về thân, khẩu, ý làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải tu học và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh trong những đức hạnh làm Người, làm Thánh như trên đã nói mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có sống được như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

Các bạn có biết không? Trong vũ trụ này không bao giờ có cõi Cực Lạc, Thiên Đàng thật. Cõi Cực Lạc, Thiên Đàng chỉ là cõi ảo tưởng mà thôi. Nếu con người không tự xây dựng cho mình cõi Cực Lạc, Thiên Đàng thì không bao giờ có cõi ấy. Nhưng muốn xây dựng cõi Cực Lạc, Thiên Đàng thì các bạn phải xây dựng cho mình một nền đạo đức nhân bản – nhân quả. Nếu không xây dựng cảnh giới đạo đức ấy trong lòng của các bạn thì cảnh thế gian này là địa ngục, đầy dẫy muôn vàn tội lỗi và khổ đau không bao giờ dứt.

GIỚI ĐỨC TỰ SỐNG THANH TỊNH

 “TỰ SỐNG THANH TỊNH”là một giới luật đạo đức của thân và tâm, giới này là những kết quả của những giới hành mà các bạn đã được học và tu tập ở trên. Để xây dựng cho mình một đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh thì phải biết cách tự sống thanh tịnh thân tâm. Muốn tự sống thanh tịnh thân tâm của mình thì phải thực hiện những giới đức hạnh này.

-    Thứ nhất là phải từ bỏ lấy của không cho.

-    Thứ hai là tránh xa sự lấy của không cho.

-    Thứ ba là chỉ lấy những vật đã cho.

-    Thứ tư là chỉ mong những vật đã cho.

-    Thứ năm tự sống thanh tịnh.

-    Thứ sáu không có trộm cắp.

Sáu hành động đạo đức trên đây sẽ giúp cho thân tâm các bạn thanh tịnh.

Muốn sống được một đời sống thân tâm thanh tịnh như vậy thì giới luật phải giữ gìn nghiêm chỉnh. Khi giới luật giữ gìn sống nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì đó là đã tự sống làm cho thân tâm thanh tịnh.

“GIỚI ĐỨC TỰ SỐNG THANH TỊNH”,khó hiểu là ở chỗ hai từ thanh tịnh. Vậy nghĩa thanh tịnh là gì? Thanh tịnh có nghĩa là trong sạch, không còn nhơ bẩn, không còn uế trược, không còn bất tịnh, không còn hôi thối v.v..

Do những nghĩa này chúng ta phải hiểu rằng, thanh tịnh là không còn tham muốn, không còn mong cầu, không còn ước mong, không còn dục. Cái gì có là có chứ không mong cầu có. Cái gì không là không chứ không ham muốn có, dù vật ấy quý giá đến đâu ta cũng không mong ước, cho đến những vật rất tầm thường như những vật đồ bỏ, ta cũng không mong cầu thì đó là mới tự thanh tịnh thân tâm, thân tâm mới trong sạch, không còn cấu uế, không còn bất tịnh, hôi thối, không còn nhiểm ô tham, sân, si, mạn, nghi nữa thì đó là nghĩa thanh tịnh.

Muốn cho thân tâm tự thanh tịnh thì mọi người có tôn giáo hay không tôn giáo đều phải thực hiện ngay năm hành động đạo đức dưới đây:

1- Phải từ bỏ lấy những vật không cho.

2- Những vật không cho nhất định không lấy, chỉ lấy những vật đã cho.

1-      Không được mong cầu những vật của người khác chưa cho, chỉ mong cầu những vật đã cho.

2-      Không được trộm cắp.

3-      Tránh xa lấy của không cho.

Đó là những giới đức giúp cho thân tâm của các bạn thanh tịnh, các bạn nên ghi nhớ đừng quên.

GIỚI HẠNH TỰ SỐNG THANH TỊNH

Năm oai nghi tế hạnh thanh tịnh thân tâm này cần phải tu tập và rèn luyện cho thuần thục, cho thành một thói quen đạo đức thật sự. Đạo đức thanh tịnh thân tâm này mà mọi người ai cũng cần phải rèn luyện nhân cách đức hạnh của mình cho được trọn vẹn, thì trên thế gian này loài người sẽ có hạnh phúc biết bao.

Khi viết đến đây chúng tôi thấy rằng đạo đức thanh tịnh thân tâm này không phải khó làm, mọi người ai cũng có thể làm được, chỉ cần hiểu biết một cách đơn giản như thế này: “Một người mất của cải do người khác lấy là họ đau buồn vô cùng”. Không ai mất của mà không buồn khổ. Phải không các bạn? Từ suy bụng mình nghĩ bụng người thì chúng ta há nào nỡ nhẫn tâm lấy những vật không cho, ước mong những vật chưa cho. Một hành động, một ý nghĩ mong muốn của ta khiến cho người khác đau khổ thì sẽ mang đến cho ta nhiều trăn trở hối hận về đạo đức làm Người, làm Thánh. Do chánh tư duy suy nghĩ như vậy thì ta rất xấu hổ không còn mặt mũi nào nhìn ngó mọi người.

Một người lấy của không cho, mong cầu vật của người khác chưa cho, là một người tự làm đau khổ mình, rồi làm đau khổ người khác, những oai nghi tế hạnh như vậy thật không xứng đáng làm người. Hành động thân tâm của một người lấy của không cho, đó là hành động của một đống rác bất tịnh, hôi thối mà người có trí hiểu biết về đạo đức thì không nên đến gần những người có hành động ấy.

GIỚI HÀNH TỰ SỐNG THANH TỊNH

Muốn sống đúng giới luật “TỰ SỐNG THANH TỊNH”này được nghiêm chỉnh thì hằng ngày các bạn phải dùng pháp môn như lý tác ý: “Ta phải sống giữ gìn thân tâm trong sạch, không hề bợn nhơ ước mong một vật gì của ai, dù vật ấy nhỏ mọn như cây kim sợi chỉ, ta cũng không hề mơ ước, nếu vì vật ấy mà ta sống làm thân tâm mất thanh tịnh thì ta quyết thà chết trong giới luật, chớ không hề để thân tâm không trong sạch”.

Nếu hằng ngày các bạn tu tập được như vậy thì giới luật này rất thanh tịnh và không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào.

 Tóm lại, giới đức sống thân tâm thanh tịnh này là chỉ rõ kết quả mục đích thân tâm trong sạch thanh khiết là do nghiêm trì giữ gìn những giới đức hạnh như dưới đây:

1.      Từ bỏ lấy của không cho.

2.      Tranh xa sự lấy của không cho.

3.      Chỉ lấy những vật đã cho.

4.      Chỉ mong những vật đã cho.

5.      Tự sống thanh tịnh.

6.      Không có trộm cắp.

Bởi vậy, giới luật đạo đức nhân bản, là sự sống của mọi người. Cho nên, làm người ai ai cũng phải quý trọng nó, vì nó mang lại sự sống yên vui, an ổn cho muôn người, muôn loài trên hành tinh này.

GIỚI ĐỨCTHỨ SÁU: THÂN HÀNH THIỆN LY THAM KHÔNG TRỘM CƯỚP

 “KHÔNG TRỘM CƯỚP”là một hành động đạo đức làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh trong những đức hạnh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này như trên đã nói, để không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC KHÔNG TRỘM CƯỚP

 “KHÔNG TRỘM CƯỚP”là một giới đức lìa tâm tham ác thuộc về thân. Giới này ngăn chặn hai hành động hung ác vô đạo đức mà các bạn cần phải hiểu nghĩa cho rõ ràng để không phạm phải vào những lỗi lầm này:

1-      Trộm là một hành động lén lút rình mò chờ người khác không lưu ý mà lấy của cải tiền bạc.

2-      Cướp là một hành động hung ác ngang nhiên xông vào nhà lấy của người khác, nếu chủ nhân có sự cản trở thì ra tay giết hại không chút lòng thương xót.

Người có đạo đức lìa tâm tham ác thì không bao giờ có những hành động ác độc trộm cướp giết người như vậy, chỉ có những người còn mang bản chất của loài ác thú tham lam ác độc mới làm những việc trộm cướp. Các bạn là những người chấp nhận đạo đức, lấy đạo đức làm sự sống cho mình thì cần phải tránh xa những hành động tham lam trộm cướp này, vì những hành động tham lam trộm cắp ác độc này nó xấu xa, đê tiện và độc ác, nó tồi tệ lắm, nó làm cho nhiều người phải khổ đau và mất mạng.

Khi chúng ta chưa hiểu đạo đức nhân bản - nhân quả thì thường hay vô tình tham lam sinh ra trộm cướp lấy của không cho. Còn khi đã hiểu đạo đức rồi thì nhất định thà chết đói, chứ không bao giờ trộm cắp cướp giựt lấy của không cho. Phải không các bạn?

Hành động trộm cướp giết người, pháp luật Nhà nước sẽ kết án tù tội chung thân hoặc tử hình nếu là tội cướp của giết người.

Còn về phần đức hạnh làm người thì những người này không xứng đáng làm người chút nào, họ chỉ mang lốt người nhưng bản chất của họ là bản chất của loài ác thú. Vì vậy, các bạn nên đề phòng những hạng người này, họ là những kẻ “Mặt người mà lòng thú”, họ là một loài động vật hung ác nhất trên hành tinh này, các bạn cần nên tránh xa, họ là những người vô đạo đức, vô liêm sỉ v.v..

GIỚI HẠNH KHÔNG TRỘM CƯỚP

 “GIỚI HẠNH KHÔNG TRỘM CƯỚP”là một oai nghi tế hạnh không có trộm cướp, là một hành động lìa xa tâm tham thật là tuyệt đẹp và cao quý, một oai nghi tế hạnh mà ai ai cũng đều mến phục yêu quí v.v..

Hiện giờ đức và hạnh lìa tâm tham ác này rất hiếm. Vì thế, hành động cướp của giết người thường xảy ra khắp mọi miền đất nước nói riêng, còn nói chung thì nạn trộm cướp khắp nơi trên thế giới không có nước nào không có trộm cướp. Trộm cướp có nhiều hình thức khác nhau mà báo chí hằng ngày đều đăng tin tức, nhất là những nơi thành phố đông người, nạn cướp giựt quá lộng hành, không ngày nào là không có cướp giựt.

Xét ra nạn trộm cướp khắp nơi trên thế giới đã xảy ra đều do nền giáo dục của loài người không quan tâm đến đạo đức nhân bản - nhân quả, nên không những xảy ra trộm cướp giết người mà còn xảy ra nhiều vụ khủng bố giết người hàng loạt thật là kinh khủng.

Do không quan tâm đến đạo đức nhân bản - nhân quả nên chiến tranh thế giới lúc nào cũng có, biết bao nhiêu sinh mạng con người chết một cách oan uổng trong lằn tên bom đạn của chiến tranh.

Do không quan tâm đến đạo đức nhân bản - nhân quả nên thời tiết không thuận hòa, cho nên mưa không thuận, gió không hoà thường xảy ra hạn hán, lũ lụt, động đất thiên tai, hoả hoạn, khiến biết bao nhiêu người sống màn trời chiếu đất, chết một cách đớn đau và oan uổng.

Do không quan tâm đến đạo đức nhân bản - nhân quả mà con người phải chịunhiều tai ương hoạn họa, bệnh tật nan y không thuốc thang trị dứt, nhất là bệnh thời đại.

Do không quan tâm đến đạo đức nhân bản - nhân quả mà thời tiết ngày càng khắc nghiệt nóng lạnh mưa nắng, gió bão thất thường. Tương lai cuộc sống của con người như đã đi gần đến mé hố thẳm mà không hề ai hay biết.

Khoa học chỉ là một sự phát minh nhỏ bé còn hạn cuộc trong không gian và thời gian thì làm sao khám phá những điều bí ẩn trong vũ trụ nhất là sự sống trong hành tinh này, thế mà các nhà khoa học tự tin nơi khoa học, cho rằng chỉ có khoa học là tiêu biểu nhất của cuộc sống con người thì không đúng. Khoa học không đủ khả năng giải thích về tâm linh được, nhưng tâm linh giải thích được khoa học, chứng minh được khoa học, đó là đạo đức nhân bản - nhân quả - sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.

Ngay bây giờ loài người không thức tỉnh, cứ nghĩ tưởng rằng khoa học sẽ giải quyết mọi mặt cho cuộc sống loài người thì điều này là một tai họa. Các bạn nên nhớ “khoa học không có đạo đức là khoa học tiêu diệt loài người”. Một bằng chứng hiển nhiên, con người chết vì bom đạn, chết vì những chất hóa học. Khoa học đã làm môi trường ô nhiễm, người ta chết vì bệnh tật, người ta chết vì vật chất của khoa học, vật chất khoa học đang nuôi lớn tâm tham dục của con người, vì thế, nạn trộm cướp giết người không gớm tay thường xảy ra khắp nơi v.v.. Đấy không phải khoa học giết người sao?

Còn tôn giáo thì sao? Tôn giáo mà không khoa học là tôn giáo mê tín, tạo thần quyền lừa đảo con người, nhất là ru ngủ con người vào cõi mộng Cực Lạc, Thiên Đàng, Niết Bàn, Phật tánh v.v.. Do đó, làm hao tài tốn của và công sức của con người biết bao nhiêu kể sao cho hết. Xét cho cùng tôn giáo có đem đến những gì lợi ích thiết thực cho con người đâu hay chỉ đem đến những điều mê tín nhảm nhí hay cuồng tín mất trí tuệ dám hy sinh chết một cách oan uổng của một kiếp người. Cho nên, tôn giáo làm được những gì cho cuộc sống con người trên hành tinh này. Tôn giáo mang đến những tai hại cho loài người rất lớn. Nếu không có tôn giáo thì làm gì dân Do Thái bị giết, thì làm gì có những cuộc Thánh chiến mà máu xương của con người như sông, như núi v.v..

Hằng ngày chúng ta đã chứng kiến trong cuộc sống này, con người sống vẫn mang đầy những nỗi ê chề khổ đau vì chiến tranh, vì khủng bố, vì cướp của giết người, vì rượu chè say sưa, nghiện ngập, vì cơm ăn áo mặc, vì bệnh tật, thiên tai, hạn hán, bão lụt, động đất v.v..

Bởi vậy, không có đạo đức nhân bản - nhân quả nên nạn trộm cướp xảy ra khắp nơi trên hành tinh này khiến cho cuộc sống của con người bất an.

Những hành động trộm cướp là những hành động đáng chê trách, là những hành động xấu xa hung ác, tàn bạo, là những hành động của loài ác quỷ, là hành động không được loài người chấp nhận.

Làm con người phải chấm dứt ngay những hành động ấy, con người không thể làm một loài ác quỷ đầu trộm đuôi cướp như vậy.

“GIỚI HẠNH KHÔNG TRỘM CƯỚP”không chấp nhận những hành động trộm cướp, kết án những hành động trộm cướp vào tử tội (ba La Di) muốn bảo đảm sinh mạng của con người, muốn cho xã hội có trật tự an ninh, muốn đất nước phồn vinh thịnh vượng thì đạo đức nhân bản - nhân quả phải được soạn thảo trở thành môn học quan trọng nhất trong các trường học để giáo dục con em, mầm non của Tổ Quốc. Và đạo đức nhân bản – nhân quả còn phải được phổ cập rộng rãi khắp nơi từ thành thị đến nông thôn, từ hang cùng đến ngõ hẹp để mỗi người dân hiểu biết và sống có đạo đức.

Ngành pháp luật nên kết án tội trộm cướp phải vào tội tử hình như giới luật Phật, có như vậy thì hành tinh này mới bảo tồn sự sống của con người. Nếu pháp luật không nghiêm trị những người phạm tội trộm cướp này thì xã hội không bao giờ được bình an.

GIỚI HÀNH KHÔNG TRỘM CƯỚP

Muốn giữ gìn giới hạnh này được nghiêm chỉnh thì các bạn hãy tu tập pháp môn như lý tác ý. Vậy hằng ngày phải tác ý câu này “Không có trộm cướp, chấm dứt trộm cướp, trộm cướp là một hành động xấu ác làm khổ mình khổ người và làm khổ cả hai, phải chấm dứt ngay liền”. Nhờ có tác ý như vậy nên tâm thấm nhuần đức hạnh “GIỚI LUẬT KHÔNG TRỘM CƯỚP”.Từ đócon người mới thật sự là con người, không còn là ác quỷ nữa.

CHƯƠNG V: NHÓM SƠ THIỆN THỨ TƯ

BẢY GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ TỲ KHEO TĂNG VÀ TỲ KHEO NI

 

GIỚI THIỆU NHÓM SƠ THIỆN THỨ TƯ BẢY GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ TỲ KHEO TĂNG, NI THỨ NĂM

Sau khi được nghe đức Phật trình bày đức hạnh của giới luật thì vua A Xà Thế phải chấp nhận và ca ngợi tán thán những kết quả thiết thực hiện tại của Sa Môn hạnh thật là rất tuyệt vời. Vua A Xà Thế hỏi Phật:

“- Bạch Thế Tôn”! Có thể cho biết một kết quả thiết thực hiện tại khác nữa của hạnh Sa Môn, vi diệu hơn, thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của Sa Môn vừa kể trên không?”.

Khi Vua A Xà Thế hỏi đức Phật như vậy thì đức Phật trả lời:

 “- Này Đại vương hãy lắng nghe và khéo tác ý Ta sẽ giảng.

Này Đại vương thế nào là Tỳ kheo giới hạnh cụ túc?

Ở đây, này Đại vương, Tỳ kheotừ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, chỉ trên sự thật, nói những lời chắc chắn đáng tin cậy, không nói lường gạt, không nói phản lại với đời. Như vậy là giới hạnh củavị ấy trong giới luật”.

Bảygiới nàylà những hành động đạo đức Thánh hạnh thuộc về ngôn ngữ làm Người, làm Thánh, nó chỉ rõ hành động lời nói sống đúng Phạm hạnh của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ mà người thế gian không thể sống và làm được, chỉ có những bậc ly trần thoát khổ mới chấp nhận bảy đức hạnh “Ly ác khẩu, diệt ác pháp này” này.

Nếu các bạn sống giữ gìn đúng bảy giới đức hạnh ly ác khẩu, diệt ác pháp này thì khẩu nghiệp của các bạn rất thanh tịnh và được mọi người tin yêu. Các bạn đi đến đâu đều nhiếp phục mọi người tin tưởng nơi các bạn. Lời nói của các bạn có giá trị rất cao, nhờ đó uy tín của các bạn đầy đủ trọn vẹn. Bạn có biết không?

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ THỨ NHẤT: TỪ BỎ NÓI LÁO

TỪ BỎ NÓI LÁOlà một hành động đạo đức làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu và sống đúng giới đức này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh ngôn ngữ trong những đức hạnh làm Người, làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC THÀNH THẬT TỪ BỎ NÓI LÁO

 “TỪ BỎ NÓI LÁO”là giới đức, nó thuộc về “ĐỨC THÀNH THẬT”,nó là một hành động đức hạnh về miệng, miệng là nơi xuất phát nhân quả thiện ác hay nói cách khác miệng là đường đi lối về của nhân quả. Vì vậy, làm người các bạn nên cẩn thận về lời nói của mình, không được ăn nói bừa bãi, trước khi nói cần phải suy nghĩ kỹ lưỡng rồi mới nói, không được nói đùa, nói đại, không được nói giỡn, nói cợt, khi nói ra lời nói phải nói nghiêm túc, êm ái, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, lời nói phải thành thật, không được nói những lời cộc cằn thô lỗ, mạt sát người khác, không nói những lời tục tĩu, thiếu văn hóa, không nói những lời hung dữ, ác khẩu, không nói những lời phách lối, không xưng hô những lời mày, tao, nó, hắn v.v.. không nói thêm bớt, không nói xấu người khác, không vu oan, giá họa cho người khác. Có như vậy thì nhân quả mới tốt đẹp cho cuộc sống của các bạn.

 Biết rõ nói láo là một hành động thiếu đạo đức thành thật thường làm khổ mình. Làm khổ mình là làm mất uy tín của mình đối với mọi người, khi người ta phát giác ra mình là người nói láo thì họ tránh xa mình, không chơi thân với mình nữa, tuy ngoài mặt họ không nói ra nhưng họ rất dè dặt cẩn thận đối với các bạn đấy!

Người nói láo như những vật đồ bỏ, người ta không còn dùng được.

Xưa Đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, người nói láo như nước rửa chân không có dùng vào việc gì được, cần phải đổ bỏ”. Người nói láo cũng như nước rửa chân, không thể dùng vào việc gì khác được. Vì người nói láo là người không có đạo đức. Người không có đạo đức thì với việc ác nào họ cũng làm được. Cho nên, đối với những người nói láo thì cần phải tránh xa, lìa xa. Không nên thân cận với những người này.

Làm người các bạn không nên nói láo. Không nói láo các bạn là những người thành thật. Có đúng như vậy không các bạn?

Trong xã hội loài người, người nào giữ trọn lòng tin yêu của mọi người thì không bao giờ nói láo, nhưng nói thành thật rất khó chứ không phải dễ. Có điều nói thành thật rất có lợi cho mình, cho người, nhưng cũng có điều nói thành thật rất có hại cho mình, cho người, có khi hại cả hai. Trong chiến tranh khi quân đội Mỹ đi ruồng bố hỏi: có Việt Cộng trong nhà không?

Nếu bảo rằng không là nói láo, còn nếu bảo có là tai hại cho mình, cho người, cho cuộc cách mạng giải phóng quê hương, còn làm thinh không nói thì chúng nghi ngờ bắt mình tra tấn, đánh đập. Vì thế, nói thật không phải dễ trước những hoàn cảnh phải im lặng như Thánh mới bảo tồn được đức thành Thật.

Một trăm người buôn bán thì một trăm người đều nói láo cả, không có một người nào là không nói láo.

Hầu hết, con người sống trên hành tinh này đều nói láo. Một nhà truyền giáo chưa bao giờ thấy Phật, thấy Đức Chúa Trời, thấy Ngọc Hoàng Thượng Đế, cũng chưa bao giờ biết Thiên Đàng, Cực Lạc ở đâu. Họ đều nói không thật, họ giảng nói giống như họ đã từng sống ở đó và gặp các Ngài. Cho nên, nhà truyền giáo, nhà học giả thuyết giảng kinh sách Phật, Thánh, Tiên đều là những người nói láo.

Có một số Thiền sư miệng, tu hành chưa tới đâu, lớn tiếng nói như là mình đã nhập thiền, nhập định. Không biết Phật tánh có hay không có, chỉ dựa vào tưởng giải của người xưa phát ngôn bừa bãi tỏ ra như mình đã kiến tánh thành Phật. Phật gì mà ăn ngủ phi thời? Còn thích chùa to Phật lớn y áo đẹp sang, còn thích xe cộ, ti vi, tủ lạnh, máy điều hòa v.v.. Cho nên, những hạng người này toàn là nói vọng ngữ.

Kinh sách nói có linh hồn người chết, có thế giới siêu hình, có Thiên Đàng, Cực Lạc, có cõi Trời, cõi Thánh, cõi địa ngục có vua Diêm Vương v.v.. Đó là kinh nói láo.

Người thuyết giảng mà tu chưa chứng là người thuyết giảng nói láo, làm người các bạn nên cảnh giác đề cao những hạng người nói láo này. Những kẻ nói láo này là những kẻ háo danh.

Làm người khi làm được những gì thì sẽ nói, còn chưa làm được những gì thì im lặng như Thánh.

Người ở đời hay trách kẻ nói nhiều, vì nói nhiều làm thế nào cũng sơ sót nói không thật. Điều đó là một điều hiển nhiên và đó cũng là một kinh nghiệm ngàn đời. Kẻ nói nhiều là kẻ hay nói láo, nói không thành thật v.v..

GIỚI HẠNH TỪ BỎ NÓI LÁO

 “GIỚI HẠNH TỪ BỎ NÓI LÁO”làgiới luật dạy về đức hạnh ngôn ngữ từ bỏ nói những lời không thật. Phần đông con người theo khẩu nghiệp mà nói, nên thường nói đại, nói không suy nghĩ. Cho nên, người nào cũng có nói láo không ít thì nhiều, tức là nói láo nhiều hoặc nói láo ít chứ không ai khỏi nói láo.

“GIỚI HẠNH TỪ BỎ NÓI LÁO”là một lời khuyên nhắc từ bỏ nói láo, nói láo là một hành động khẩu nghiệp ác. Một hành động khẩu nghiệp ác xấu tạo nhiều điều không tốt, thiếu thành thật với mình với người khác, thật không xứng đáng làm người chút nào. Các bạn quyết tâm dứt khoát phải từ bỏ nói láo, thà có thể chết, chứ nhất định không nói láo. Có như vậy mới trở thành người có đạo đức ngôn ngữ.

Vì oai nghi tế hạnh đạo đức thành thật, khi có một điều không thể nói thật được thì các bạn nên im lặng. Im lặng như Thánh hoặc đánh trống lảng nói sang chuyện khác.

Muốn từ bỏ sự nói láo thì chúng ta nên tập ít nói, nói càng ít càng tốt, cho nên đệ tử của đức Phật, thường được Ngài khuyên dạy: phải sống độc cư, độc trú, độc hành, tránh hội họp, tránh nói chuyện, thường sống một mình nơi vắng vẻ như con tê ngưu một sừng.

Người nào muốn không nói láo thì nên theo lời dạy trên đây mà giữ hạnh độc cư, độc trú, độc bộ, độc hành cho trọn vẹn. thì sẽ không bao giờ nói láo. Và như vậy các bạn sẽ là những người tốt, người có đạo đức nhân bản – nhân quả.

Người hay nói nhiều chúng ta nên tránh xa vì họ là người ác, họ là những người không tốt, họ là những người thiếu thành thật. Người thiếu thành thật là người sẽ làm tất cả điều ác.

“TỪ BỎ NÓI LÁO”là một oai nghi tế hạnh đạo đức có sự quyết định dứt khoát không bao giờ nói láo.

“TỪ BỎ NÓI LÁO”là một oai nghi tế hạnh có sự hiểu biết rõ ràng, nói láo là một điều tai hại không ích lợi cho mình cho người và cho cả hai.

GIỚI HÀNH TỪ BỎ NÓI LÁO

 “TỪ BỎ NÓI LÁO”là một phương pháp tác ý để chủ động điều khiển khẩu hành từ bỏ nói láo. “TỪ BỎ NÓI LÁO” không thể là một lời nói suông mà là tiếng kêu gọi tận trong lòng của chính mình. Vì thế, khi nghe tiếng gọi “TỪ BỎ NÓI LÁO”,đánh thức lương tâm chúng ta phải chấm dứt ngay không được nói láo.

“TỪ BỎ NÓI LÁO”là đạo đức ở nơi miệng của mỗi người, nếu mọi người không giữ gìn miệng cẩn thận thì đạo đức sẽ không bao giờ có. Đạo đức không bao giờ có thì luôn luôn làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh nữa. Vì thế hằng ngày nên tác ý câu: “TA PHẢI TỪ BỎ NÓI LÁO”.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ THỨ HAI: TRÁNH XA NÓI LÁO

TRÁNH XA NÓI LÁO”là một hành động đạo đức ngôn ngữ làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh ngôn ngữ trong những đức hạnh làm Người, làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

Các bạn biết không? Trong vũ trụ này không bao giờ có cõi Cực Lạc, Thiên Đàng thật. Cõi Cực Lạc, Thiên Đàng chỉ là cõi ảo tưởng mà thôi. Nếu con người không tự xây dựng cho mình cõi Cực Lạc, Thiên Đàng thì không bao giờ có. Nhưng muốn xây dựng cõi Cực Lạc, Thiên Đàng thì các bạn phải xây dựng cho mình một nền đạo đức nhân bản – nhân quả. Nếu không xây dựng đạo đức cho mình thì cảnh thế gian này là địa ngục, đầy dẫy muôn vàn tội lỗi và khổ đau không bao giờ dứt. Muốn được vậy trước tiên các bạn phải tránh xa nói láo.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ TRÁNH XA NÓI LÁO

“TRÁNH XA NÓI LÁO”là đức hạnh ngôn ngữ thành thật. Người nói láo là người xấu ác, người vô đạo đức thành thật, người không xứng đáng làm người, vì thế chúng ta cần phải tránh xa nói láo.

Tại sao giới này lại dạy chúng ta phải tránh xa nói láo? Bởi vì nói láo là một bệnh nghiệp vô đạo đức về miệng, miệng có hai phần ô nhiễm và ác độc không đạo đức:

1.        Nhiễm về ăn uống

2.        Nhiễm về lời nói

Ở đây chúng tôi xin nói sơ lược thêm về ăn uống, đến khi nói về ăn uống phi thời thì chúng tôi sẽ giải thích rõ ràng và cụ thể hơn. Nhiễm về ăn uống là vì nuôi thân mạng. Nuôi thân mạng có hai phần:

1.      Nuôi về thân mạng bằng pháp thiện (chánh mạng).

2.       Nuôi về thân mạng bằng pháp ác (tà mạng).

Tránh ăn thịt chúng sanh là nuôi thân mạng bằng thiện pháp. Nuôi thân mạng bằng thiện pháp, bằng chánh pháp là đem sự bình an, sự không bệnh tật, sự không tai nạn vào thân, còn ngược lại là đem những sự khổ đau, những bệnh tật, những tai nạn, những sự bất an vào thân. Cho nên, những người không có tri kiến giải thoát thường ưa thích ăn thịt chúng sanh, thường nuôi thân mạng bằng thịt máu, bằng sự đau khổ chết chóc của chúng sanh, vì thế cuộc đời của họ thường phải gánh chịu biết bao nhiêu sự buồn phiền, cay đắng, bệnh tật khổ đau và tai nạn.

Đứng trên luật nhân quả hễ nuôi thân bằng sự khổ đau thì thân phải nhận lấy quả khổ đau và không thể nào tránh khỏi. Cho nên, người ăn thịt chúng sanh là người có nhiều tai nạn, có nhiều bệnh tật, có nhiều sự khổ đau hơn. Nếu người ăn thịt không bệnh đau thì những người khác trong gia đình phải chịu bệnh đau, phải có tai nạn xảy ra. Đó là một chùm nhân quả để cho mọi người trong gia đình đều có sự buồn rầu lo sợ, phiền não đau khổ. Ngược lại, người không ăn thịt chúng sanh thì ít bệnh tật, ít tai nạn, ít phiền não khổ đau, trong gia đình thường có điều vui, khiến cho mọi người sống có hạnh phúc.

Nhiễm về lời nói là nói không đúng sự thật, nói không đúng sự thật là nuôi tinh thần khổ đau. Cho nên, người hay nói nhiều là người dễ nói láo, người nói láo là ngườihay giận dữ, luôn luôn tâm buồn phiền, sầu lo, bất an, thật là đau khổ.

Cứ nhìn vào sự ăn uống và lời nói của những người này thì biếtngay nhân quả của họ và họ sẽ được an vui hay buồn khổ, gia đình có hạnh phúc hay không hạnh phúc, gia đình có hòa thuận hay không hòa thuận đều biết rất rõ ràng. Đó là vì họ thiếu đức thành thật.

“TRÁNH XA NÓI LÁO”là những oai nghi tế hạnh tránh xa người nói láo, tránh xa nơi có người nói láo, tránh xa lời nói láo. Đó là sự ngăn ngừa ô nhiễm nói láo. Một khi đã nói láo thì rất khó bỏ các bạn nên đề phòng.

GIỚI HẠNH TRÁNH XA NÓI LÁO

Oai nghi tế hạnh về lời nói không cho phép nói nhiều, người nói nhiều là người thiếu thành thật. Người thiếu thành thật thường hay nói láo, thường hay nói thêm bớt, thường hay nói xấu kẻ khác. Khi chúng ta ở gần những người hay nói nhiều thì nên lưu ý và giữ im lặng là tốt nhất, chỉ có giữ im lặng thì mọi việc mới được yên ổn. Người hay nói láo là người hung dữ ta nên tránh xa những người ấy. Họ là ác quỷ nên những điều ác nào họ cũng làm được.

Phần đông người ta thường lên án phái nữ: “Phái nữ là những người nhiều chuyện nhất”. Còn phái nam thì có nhiều chuyện không? Phái nam cũng có nhiều chuyện, nhưng phần ít. Người nam mà hay nói vặt (nhiều chuyện) là hình tướng người nam mà bản chất là người nữ. Trong Đạo Phật phái nữ rất khó tu, vì họ quá nhiều lời nên xả tâm li dục li ác pháp rất khó.

Người im lặng là Thánh, còn người hay nói là bụi cát, là chất bẩn, là đồ vật không xài được, là đồ bỏ, đồ ném thùng rác. Cho nên, trong đạo Phật có giới hạnh độc cư, độc trú, độc hành để hành giả nhờ đó đi sâu Tứ Như Ý Túc.

Từ bỏ hay tránh xa nói láo là một hành động đức hạnh mà mọi người ai cũng phải thực hiện cho bằng được để xứng đáng những oai nghi tế hạnh làm Người, làm Thánh.

GIỚI HÀNH TRÁNH XA NÓI LÁO

Nói láo dễ thành thói quen, một khi đã nói láo thì rất khó bỏ. Muốn bỏ nói láo là một điều rất khó. Do đó, hằng ngày chúng ta phải thường nhắc nhở tâm: “Tránh xa nói láo, nói láo là một tật xấu, một tật xấu đáng chê trách, đáng phỉ nhổ mà mọi người ai cũng khinh rẻ và không thích thân cận”.

“TRÁNH XA NÓI LÁO”là một giới hành hay nói cho dễ hiểu hơn là một pháp hành “như lý tác ý”,vì vậy hằng ngày chúng ta nên nhắc tâm mình phải tránh xa nói láo, phải lìa xa nói láo, phải từ bỏ nói láo. Do tu tập hằng ngày nhắc tâm như vậy thì mới trở thành người không nói láo. Cho nên, muốn làm người tốt, người có đạo đức thì không nên nói láo.

Tránh xa có nghĩa là không nên gần gũi với sự nói láo, người nói láo, pháp nói láo, kinh sách nói láo, tập thể nói láo v.v..Những nơi đó dễ làm cho chúng ta ô nhiễm nói láo trở thành người xấu, người không ai muốn làm bạn.

Tránh xa trong đó còn có một ý nghĩa quan trọng, đó là quả quyết, cương quyết, dứt khoát một cách mạnh mẽ, đầy ý chí sắt đá, nhờ có sự cương quyết, quả quyết, dứt khoát như vậy nên mới không nói láo, không gần người nói láo, pháp nói láo, kinh sách nói láo, tập thể nói láo v.v..

Trên đây là Giới hành nên có nhiều cách thức và những phương pháp để tránh xa sự nói láo.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ THỨ BA: NÓI NHỮNG LỜI CHÂN THẬT

 “NÓI NHỮNG LỜI CHÂN THẬT”là một hành động đạo đức làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, có tôn giáo hay không tôn giáo đều cần phải học và hiểu biết cho rõ ràng.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh ngôn ngữ làm Người, làm Thánh mà các bạn cần phải tu tập, rèn luyện và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC NÓI NHỮNG LỜI CHÂN THẬT

Theo luật nhân quả kẻ nào nói láo sẽ gặt lấy quả nói láo. Quả nói láo là gì các bạn có biết không?

Quả nói láo đến với các bạn là làm mất lòng tin, không được tín nhiệm, người ta xem bạn như những phường láu cá, lưu manh, gian xảo... Người ta sẽ không thích thân cận với những người đó.

Khi chúng ta tiếp cận với những người nói quá nhiều thì chúng ta biết ngay họ là những người láu cá, người không thành thật, người gian xảo, người hay nói xấu kẻ khác, v.v..

Khi chúng ta đọc một bài văn nghị luận, lối viết văn lý luận loanh quanh trườn uốn như con lươn là biết ngay người viết bài văn này là người không thành thật, luận méo mó, không đúng sự thật, không nắm vững và hiểu rõ một sự việc cụ thể, chỉ tưởng tượng hoặc nhai lại bã mía của những người khác. Cũng giống như chúng ta đọc kinh sách Đại Thừa thì biết ngay là kinh ngụy tạo, kinh tưởng giải, ảo giác v.v.. Chỉ có những người không tu tập, tu chưa chứng đạo thì mới không hiểu biết, mới lầm lạc, mới bị lừa đảo cho rằng kinh sách Đại Thừa là Phật thuyết.     

Những người không học giới luật đức hạnh khi cầm bút viết là hay ngụy biện lời nói của mình, thiếu tính thành thật, mới đọc thoáng qua thì thấy hay nhưng khi nghiệm xét lại từng câu, từng lời, từng ý, thì bài văn ấy mang tính ngụy tạo rất rõ ràng mà trong sách chúng tôi thường nói là tưởng giải.

“GIỚI ĐỨC NÓI NHỮNG LỜI CHÂN THẬT”dạy chúng ta nói những lời chân thật, khi cầm bút viết về vấn đề tôn giáo thì phải tu chứng do mắt thấy, tai nghe và tâm ý hiểu biết như thật thì viết như thật, chứ không thêm bớt một tí xíu nào cả thì đó là lời nói chân thật, lời nói chân thật thì bài viết chân thật. Bài viết chân thật thì đơn giản dễ hiểu tình cảm xúc tích khiến cho người đọc rất gần gũi, thân thương. Người thành thật thì văn thành thật, người xảo trá thì văn viết xảo trá, người hung dữ thì văn hung dữ. Cho nên xét qua lời nói, lời văn thì biết được tính chất của từng người.

“GIỚI ĐỨC NÓI NHỮNG LỜI CHÂN THẬT”dạy chúng ta nói những lời chân thật. Dạy nói những lời chân thật là dạy chúng ta sống thành thật, thành thật là một đức hạnh làm Người, làm Thánh. Cho nên, làm người phải giữ gìn đức hạnh này đừng để sơ sót nói lời không thành thật mà trở thành người vô đạo đức các bạn ạ!

Từ trong giới luật này suy ra một người thành thật sẽ viết bài thành thật, một người không thành thật sẽ viết bài không thành thật như trên đã nói. Cho nên, dựa theo ngôn ngữ chúng ta biết được người, vì thế, văn là người, người là văn.

Kinh sách Nguyên Thủy là kinh sách thành thật, không có sự dối trá lừa đảo lường gạt, còn kinh sách phát triển Đại Thừa thiếu sự thành thật thường dẫy đầy sự mâu thuẫn, dối trá gây mê tín ảo giác cho người đọc.

Cho nên, khi đọc kinh sách Nguyên Thuỷ chúng ta dễ phát hiện ra những câu hoặc những đoạn văn do các Tổ viết thêm vào. Những câu và những đoạn văn ấy thường thiếu chân thật, giàu tưởng tượng, phi đạo đức, thường mâu thuẫn với ý nghĩa của lời Phật dạy. Do đó, chúng ta nhận biết những đoạn kinh sách sai lệch không có khó khăn. Tư tưởng ảo giác của các Tổ đều nổi bật rõ nét thiếu chân thật đang rải rác trong bộ kinh Nguyên Thủy, nên chúng ta phân loại và loại trừ ra dễ dàng.

Kinh sách Nguyên Thủy dạy sự giải thoát chân thật thường dạy ngăn và diệt ác pháp, bằng sự tự lực của mỗi người. Còn kinh sách phát triển Đại Thừa dạy cầu cúng dựa vào sự hộ trì che chở của chư Phật, chư Bồ Tát. Do sự tín ngưỡng mê tín này đưa dần con người vào cảnh giới yếm thế, tiêu cực v.v.. Rồi từ đó dẫn con người mất sức tự chủ, đi đến tinh thần yếu đuối, bại liệt, tiêu cực, mất tự lực.

GIỚI HẠNH NÓI NHỮNG LỜI CHÂN THẬT

Cho nên, những oai nghi tế hạnh nói lời chân thật rất khó, vì thế phải có sự tu tập rèn luyện hằng ngày, phải có sự bền chí quyết tâm dứt bỏ, từ bỏ nói những lời nói không chân thật. Có như vậy các bạn mới thành người tốt, người có đức, có hạnh về ngôn ngữ. Và hơn nữa tâm của các bạn mới bất động trước các pháp và các cảm thọ.

 “GIỚI HẠNH NÓI NHỮNG LỜI CHÂN THẬT”là oai nghi tế hạnh của ngôn ngữ tuyệt vời, dám nói thẳng, nói thật không hề sợ một ai. Chuyện có nói có, chuyện không nói không, chuyện sai nói sai, chuyện đúng nói đúng, dù lời nói ấy của các Tổ hay một vị Thầy nào nói sai thì nói sai, không bưng bít che đậy, luôn nói đúng sự thật. Cho nên, nói những lời chân thật là oai nghi tế hạnh của người tu sĩ Phật giáo chân chánh.

Ví dụ: Kinh sách Đại Thừa không phải Phật thuyết, kinh dạy những điều mê tín, ảo tưởng, phi đạo đức v.v.. thế mà từ xưa đến nay ít ai dám nói nó sai. Đó là không dám nói những lời chân thật. Người không dám nói những lời chân thật là người yếu đuối và nhút nhát.

GIỚI HÀNH NÓI NHỮNG LỜI CHÂN THẬT

Muốn nói những lời chân thật thì hằng ngày các bạn nên tác ý: “Làm người phải nói những lời chân thật, không được nói sai sự thật” hoặc tác ý như sau: “Thà chết nhất định không nói sai sự thật”.

“NÓI NHỮNG LỜI CHÂN THẬT”là nói những lời đẹp đẽ đầy đủ đức hạnh. Họ là những người dũng cảm, gan dạ.

Nhờ có tác ý như vậy các bạn sẽ đầy đủ nghị lực khi nói ra những lời chân thật mà không hề sợ ai.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ THỨ TƯ: Y CHỈ TRÊN SỰ THẬT

 “YCHỈ TRÊN SỰ THẬTlà một hành động đạo đức làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, có tôn giáo hay không tôn giáo đều cần phải học hiểu cho thấu rõ những đức hạnh này.

Người có đạo đức luôn luôn phải y chỉ trên sự thật mà phát ngôn, nếu nói ra sự thật dù có tan xương, nát thịt chúng ta cũng hãy dũng cảm mà nói ra sự thật, đừng sợ hãi trước mọi thế lực.

Ông Galilée nói sự thật dù biết mình thế yếu, sức cô sẽ bị giết trước một lực lượng hùng mạnh của tập đoàn Đế Quốc La Mã, ông vẫn hùng dũng bước lên đoạn đầu đài tuyên bố trước hàng ngàn, hàng vạn công chúng La Mã: “Trái đất tròn không thể nói vuông được”.

Đây là một tấm gương y chỉ trên sự thật mà nói. Làm người chúng ta cũng nên bắt chước như ông Galilée, thà chết nhưng cứ y chỉ vào sự thật mà nói. Do đó, lịch sử loài người sẽ ghi mãi muôn đời.

GIỚI ĐỨC Y CHỈ TRÊN SỰ THẬT MÀ NÓI

Thưa các bạn! Giới thứ tư thuộc về ngôn ngữ Đức Phật đã dạy chúng ta về đức hạnh lời nói “Y chỉ trên sự thật mà nói”. Vậy mà từ khi đức Phật nhập diệt đến nay Phật giáo đã bị các Tổ kiến giải làm sai lệch con đường tu hành, biến kinh sách Nguyên Thủy thành kinh sách phát triển của Đại Thừa. Không phải là vô tình mà có mục đích là để dìm mất chánh pháp của Phật giáo, khiến cho Phật giáo thành Thần giáo, giáo lý của Phật thành Ma giáo. Do đó, hiện giờ Phật giáo là một tôn giáo mê tín, trừu tượng, mơ hồ, ảo tưởng. Giáo lý như vậy khiến cho người tu hành chạy theo danh lợi thế gian, có nhiều thủ đoạn làm tiền Phật tử trong tôn giáo này.

Giới luật là đức hạnh của tu sĩ thì các Tổ đã bẻ vụn tan nát. Hiện giờ những điều sai này ai ai cũng thấy và hiểu biết, nhưng tại sao lại không có một người dám nói sự thật “ĐẠI THỪA SAI”.Ông Galilée bước lên đoạn đầu đài trước khi chết ông còn dám nói một sự thật. Còn Phật tử chúng ta thì sao? Hãy mạnh dạn nói lên một sự thật khi mắt thấy tai nghe, các bạn ạ! Chúng ta không thành công thì thành danh. Ông Galilée chết một cách anh dũng để tiếng thơm muôn đời. Các bạn có thấy điều này không?

Y chỉ trên sự thật mà nói không được nói sai sự thật. Do đó, kinh sách phát triển Đại Thừa sai không đúng giáo pháp của Đạo Phật, thì quý Phật tử hãy mạnh dạn vạch trần những điều sai trái ấy để cùng nhau chấn chỉnh lại Phật giáo, đấy là nhiệm vụ chung của người Phật tử. Tại sao các bạn lại quá sợ hãi?

Đại Thừa Phật giáo cũng chỉ là Phật giáo chứ không phải là một tôn giáo khác. Vì thế, chúng ta nói lên một sự thật cũng chỉ là đem lại lợi ích cho chúng ta. Không lẽ các thầy Đại Thừa cũng như các sư bên Nam Tông lại giết chúng ta sao?

Cái sai của Đại Thừa, và Nam Tông chỉ vì các Tổ thiếu kinh nghiệm tu hành nên kiến giải sai pháp, kiến giải sai pháp nên tu hành sai, lạc vào thiền tưởng, pháp tưởng. Từ đó, các Tổ cứ ngỡ tưởng mình tu đúng, nhưng lại tu tập chưa tới nơi tới chốn, nên khi biên soạn kinh sách lạc vào tà đạo ngoại đạo gây ra nhiều cảnh giới ảo tưởng, mơ hồ, trừu tượng khiến con đường tu tập giải thoát của Đạo Phật đã bị mất lối.

Hôm nay, chúng ta y chỉ theo lời Đức Phật dạy mà nói thẳng, dù cho các Sư Thầy tu hành sai, phá giới, phạm giới, ăn ngủ phi thời, tu tập thiền ức chế tâm, có tìm cách nói xấu hay hãm hại chúng ta, chúng ta vẫn vui lòng chấp nhận mọi sự gian nan thử thách đó. Bởi vì, chúng ta biết chắc rằng: Sự thật là sự thật. Chân lý là chân lý không ai phủ nhận được, không ai dìm mất nó một lần nữa được.

Sự thật ấy, chân lý ấy trên hành tinh này cách đây 2555 năm đã có một người dám nói thẳng, nói thật. Dám nói thẳng, nói thật nên đã bị hãm hại bằng cách bị lăn đá, cho voi say giết, hoặc làm nhục Phật khai oan với người phụ nữ mang thai, nhưng sự việc không thành công, đức Phật vẫn ung dung tuyên bố chánh pháp lập thành nền đạo đức nhân bản - nhân quả giúp cho loài người thoát ra bốn sự đau khổ sanh, già, bệnh, chết.

Lúc đức Phật ra đi vĩnh viễn, chương trình giáo dục của Ngài đã hoàn tất, nhưng vì trong thời đại ấy không ghi lại thành kinh sách, chỉ có truyền khẩu nên lần lượt tam sao thất bổn. Vả lại, chúng ta cũng nên cảm thông trong thời đại bấy giờ còn bộ lạc, vì dân trí quá kém, phước quá mỏng, nên không thừa hưởng trọn vẹn một gia tài quí báu (Chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản - nhân quả). Vì thế, 25 thế kỷ trôi qua quá uổng. Giáo lý ấy mai một bị chôn vùi dưới một lớp giáo lý ảo tưởng mê tín của các Tổ giàu tưởng giải.

Cuối thế kỷ hai mươi đầu thế kỷ hai mươi mốt, sau khi theo lời dạy của Đức Phật trong kinh Nguyên Thủy chúng tôi đã thực hiện được đạo giải thoát và nhìn thấy sự sai trái quá lớn trong Phật giáo. Dũng mãnh y chỉ theo lời dạy của đức Phật chúng tôi dõng dạc tuyên bố kinh sách phát triển Đại Thừa sai, do các Tổ tu hành sai, kiến giải sai, giảng đạo sai v.v.. Trong số các Tổ sư có một số các Tổ có ý đồ dìm và diệt Phật giáo.

Lời tuyên bố quá đột ngột khiến cho một số Phật tử như bị tiếng sét làm đảo lộn tư tưởng như lộn đầu xuống đất, họ không còn dám đọc và dám nghe những lời chúng tôi nói.

GIỚI HẠNH Y CHỈ TRÊN SỰ THẬT MÀ NÓI

Giới hạnh thứ tư đã chỉ dạy cho tất cả Phật tử nên y chỉ trên sự thật mà nói đừng nói sai sự thật. Các sư Thầy sống phạm giới, phá giới thì y chỉ trên giới luật mà nói sự thật. Nói sự thật không bao giờ có tội lỗi gì cả; nói sự thật là dựng lại Phật giáo tốt đẹp hơn; nói sự thật là đem lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả cho con người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai; nói sự thật là đem lại hạnh phúc an vui cho muôn người, muôn nhà thì không ai có quyền bắt tội các vị. Nói sự thật là một đức hạnh của người đệ tử Phật. Có đúng như vậy không các bạn?

Một vị Sư, Thầy tu theo Phật giáo là phải sống đúng Phạm hạnh, phải 3 y một bát, phải xả phú cầu bần, phải xả thân cầu đạo v.v.. Thế mà các Sư, Thầy sống giàu sang trên nhung lụa, chùa to Phật lớn, đầy đủ tiện nghi như người thế gian. Ăn uống, ngủ nghỉ phi thời, thường tụng niệm như ca hát và nghe ca hát. Các Sư, Thầy sống như vậy thì còn gì là Phạm hạnh của người tu. Vậy quý Phật tử cần phải y chỉ sự thật này mà nói ra để chấn chỉnh lại tất cả tu sĩ, dù đó là Thầy tổ của quý vị.

Pháp bất vị thân. Giới luật không thiên vị một ai, hãy thẳng thắn các bạn nên khuyên Thầy mình muốn tu theo Phật giáo thì nên sửa đổi, còn không muốn tu thì nên trả y áo cà sa, đừng làm ô nhiễm chiếc áo tu sĩ của Phật giáo thì rất tội nghiệp quý vị ạ!

Giới luật đã dạy như vậy chúng ta nên y chỉ trên sự thật mà chấn chỉnh lại Phật giáo có làm được như vậy thì Phật giáo mới đúng nghĩa là Phật giáo của quý vị.

GIỚI HÀNH Y CHỈ TRÊN SỰ THẬT MÀ NÓI

Muốn thực hiện đức hạnh này nghiêm chỉnh thì hằng ngày các bạn thường tác ý câu này: “Thấy cái dở mà không dám chê là hèn kém, là nhút nhát, là dua nịnh. Thấy cái hay mà không dám khen là ganh tỵ hẹp hòi cao ngạo” hoặc các bạn nên tác ý câu này: “Phải thẳng thắn mạnh dạn y chỉ trên sự thật mà nói, đừng khiếp đảm trước một ai hay một thế lực nào”.

Những câu tác ý này là giới hành của giới luật này. Xin các bạn lưu ý để thực hiện cho bằng được những giới đức hạnh này nó sẽ đem lại cho các bạn một tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ THỨ NĂM: CHẮC CHẮN ĐÁNG TIN CẬY

 “CHẮC CHẮN ĐÁNG TIN CẬYlà một hành động đạo đức làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, có tôn giáo hay không tôn giáo đều cần phải học hiểu cho rõ ràng.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh chọn người đáng tin cậy mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để tránh không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có như vậy, các bạn mới xây dựng cuộc sống trên hành tinh này tràn đầy lòng yêu thương, tin tưởng và gắn bó với nhau.

GIỚI ĐỨC CHẮC CHẮN ĐÁNG TIN CẬY

Giới này thuộc về “đức tin cậy” khi giao tiếp với mọi người ta nên chọn người nào đáng tin cậy. Người đáng tin cậy là người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ uống rượu nhất là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói lời hung dữ. từ bỏ nói thêu dệt, từ bỏ nói xấu người khác, từ bỏ nói lời vu khống người v.v..

Làm người không giữ gìn được đức tin cậy thì chưa xứng đáng làm người, người chưa có đức tin cậy là người tự làm khổ mình, khổ người; thường có những hành động giết hại chúng sanh, lấy của không cho, tà dâm, uống rượu, nói láo, nói lời hung dữ, nói lời thêu dệt, nói xấu người, nói lật lọng, v.v.. Những người có hành động như trên đã nói là những người không đáng cho các bạn tin cậy.

Làm người giữ gìn được đức tin cậy không phải dễ. Trên đây là những tiêu chuẩn để thấy người nào đáng tin cậy và người nào không đáng tin cậy.

Một tiêu chuẩn mẫu người đáng tin cậy và không đáng tin cậy mà đức Phật đã nêu ra để chúng ta chọn lấy người tin cậy làm bạn.

“GIỚI ĐỨC CHẮC CHẮN ĐÁNG TIN CẬY”giúp các bạn trong cuộc đời này chọn bạn không lầm và chính giới này cũng xây dựng cho các bạn trở thành những con người đáng tin cậy của những người khác.

GIỚI HẠNH ĐÁNG TIN CẬY

Nếu lấy những tiêu chuẩn trên đây mà xét mọi người trong xã hội thì không có mấy người có oai nghi tế hạnh đáng tin cậy. Có đúng như vậy không các bạn?

Khi ta gặp một người nỡ nhẫn tâm giết hại và ăn thịt chúng sanh, tham lam trộm cắp, lấy của không cho, nói láo là chúng ta biết ngay người này thiếu đức tin cậy, và vì vậy chúng ta không nên tin cậy, gần gũi họ mà luôn hãy tránh xa. Người không có đức tin cậy thì những việc ác nào họ cũng có thể làm được.

Trên đời này nếu chúng ta chọn bạn tâm giao, chọn người thiện hữu tri thức là nên chọn những người có đức tin cậy.

Chọn người có đức tin cậy thì chúng ta hãy xét qua những hành động của người này. Nếu người này thân không phạm vào những hành động ác: giết hại chúng sanh, lấy của không cho, tà dâm. Miệng không phạm vào bốn hành động ác: nói láo, nói lời hung dữ, nói xấu người khác, nói lật lọng. Nhất là họ không phạm vào ba hành động ác: tham, sân, si...

Nếu một người còn giết hại và ăn thịt chúng sanh, họ không có lòng thương yêu, không thấy sự đau khổ của chúng sanh. Người như vậy là người có ác tâm. Người có ác tâm thì tất cả những điều ác khác, họ đều làm được.

Nếu một người còn lấy của không cho thì tất cả những hành động ác khác, họ cũng sẽ làm được như: vọng ngữ, tà dâm uống rượu, v.v.. và như vậy họ là người thiếu đức tin cậy. Người phật tử đệ tử của Phật phải cố gắng giữ gìn đức tin cậy, người có đức tin cậy mới xứng đáng làm Người, làm Thánh.

Một vị Tỳ Kheo là một giảng sư thuyết pháp rất hay, nhưng hành động oai nghi tế hạnh không có, tu hành chưa chứng đạo. Cho nên, họ thuyết giảng kinh sách Phật là phạm vào giới đức thành thật nên họ là người nói láo, là người không có đức tin cậy. Người không có đức tin cậy thì làm sao chúng ta tin họ được. Phải không các bạn?

Thời nay những giảng sư được đào tạo trong các trường Phật học, khi tốt nghiệp ra trường họ đã trở thành những người nói rất hay, nhưng lại nói những điều mình chưa làm được, thành ra nói láo, nói láo có chứng chỉ, có cấp bằng, chứ sự thật con đường tu hành của họ chỉ là con số không.

GIỚI HẠNH NGÔN NGỮ ĐÁNG TIN CẬY

Hành động về ngôn ngữ hằng ngày, nếu chúng ta không khéo léo vô tình phát ngôn thiếu tỉnh giác sơ suất phạm vào giới hạnh ngôn ngữ đáng tin cậy là tự chúng ta đã làm mất lòng tin với mọi người. Cho nên, muốn nói ra lời nói nào là phải cân nhắc kỹ lưỡng, thì lời nói ấy mới đáng tin cậy cho mọi người.

Kính thưa các bạn! Giới hạnh ngôn ngữ đáng tin cậy là những lời nói chân thật, không nói thêm nói bớt, không nói xấu người khác, không nói to tiếng, không nói những lời thô tục, không đem chuyện người này nói lại với người kia, không đem chuyện người kia nói lại với người này, chuyện có nói không, chuyện không nói có. Đó là đức hạnh ngôn ngữ chắc chắn đáng tin cậy của một người tu sĩ và cư sĩ của Phật giáo.

GIỚI HÀNH NGÔN NGỮ ĐÁNG TIN CẬY

Muốn thực hiện giới hành ngôn ngữ đáng tin cậy thì các bạn nên đọc lại bài kinh GIÁO GIỚI LA HẦU LA:“Này La Hầu La, khi con muốn nói một lời nói gì thì hãy suy nghĩ lời ấy như sau: lời nói này của ta, có thể đưa đến làm khổ ta, có thể đưa đến làm khổ người khác, có thể đưa đến làm khổ cả hai. Lời nói này bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ. Một lời nói như vậy này La Hầu La nhất định chớ có nói con ạ!”.

Thực hành theo lời dạy này là thực hiện giới hành ngôn ngữ chắc chắn đáng tin cậy, nhờ có thực hành như vậy nên người tu sĩ mới trở thành nơi đáng tin cậy cho mọi người mà trong kinh thường dạy: “Người tu sĩ giới luật nghiêm chỉnh là phước điền của chúng sanh”.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ THỨ SÁU: KHÔNG LƯỜNG GẠT

 “KHÔNG LƯỜNG GẠTlà một hành động đạo đức về ngôn ngữ làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, có tôn giáo hay không tôn giáo đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh ngôn ngữ trong những đức hạnh không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ KHÔNG LƯỜNG GẠT

Không nói lường gạt là một giới đức cần thiết giúp cho mọi người trở nên một người tốt, một người thành thật, một người mà xã hội hiện nay rất cần thiết.

Xưa Đức Phật đang ngồi tu dưới cội cây có một nhà vua săn bắn đến hỏi Phật:

- Ông ngồi tu có thấy con nai chạy ngang qua đây không?

Đức Phật im lặng không nói, nhà vua gằn giọng hỏi tiếp:

- Ông có thấy con nai chạy ngang qua đây không?

Đức Phật cũng vẫn im lặng. Nhà vua tức giận rút gươm ra chặt tay và móc mắt đức Phật.

Sau khi có những hành động độc ác như vậy, nhà vua thấy hối hận nên nói:

- Tôi chặt tay và móc mắt ông, ông có giận tôi không?

Đức Phật vui vẻ trả lời:

- Không, tôi không có giận nhà vua, nếu như tôi giận nhà vua thì tay và mắt tôi không lành lại được.

Khi nói xong tay và mắt của đức Phật đã liền và lành lại như xưa.

Thưa các bạn! Sự im lặng cũng là một đức hạnh làm Người, làm Thánh. Đức hạnh ấy thường bảo vệ trong sáng cho những đức hạnh khác cho nên sự im lặng là một đức hạnh nhẫn nại cao thượng tuyệt vời.

Sự im lặng là một đức hạnh cao thượng trong vấn đề ngôn ngữ không lường gạt người. Vì vậy hằng ngày phải biết nhắc tâm: “Phải im lặng như Thánh”. Có nhắc tâm như vậy thì mới giữ được sự im lặng. Xin các bạn vui lòng cứ thực hiện đi rồi các bạn sẽ thấy kết quả tốt đẹp và nó sẽ mang lại hạnh phúc an vui cho các bạn.

Đoạn kinh trên, nhà vua săn bắn hỏi Phật trong tư thế lưỡng đầu phạm giới, nên rất khó trả lời vì có hai giới đức:

1.        Đức hiếu sinh (sát sanh).

2.        Đức thành thật (vọng ngữ).

Vì hai giới này đức Phật đành phải im lặng.

Ở đây, chúng ta tu theo đạo Phật là tu học đức hạnh làm Người, làm Thánh cho nên không nói lường gạt là một hành động oai nghi tế hạnh về lời nói của một đệ tử Phật. Người đệ tử Phật không bao giờ nói lời lường gạt, vì nói lời lường gạt là một hành động xấu, ác, đê tiện, hạ liệt v.v.. nó là một hành động phạm giới, thiếu oai nghi chánh hạnh không xứng đáng là đệ tử của Phật.

Giới đức ngôn ngữ thứ sáu này gồm có giới đức, giới hạnh, giới hành như các giới khác trong bộ Giới Đức Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ, mỗi giới đều có đức hạnh rõ ràng không thể lầm lạc.

- Giới thứ nhất thuộc về lời nói đức thành thật.

- Giới thứ hai thuộc về oai nghi tế hạnh lời nói tốt đẹp, không xảo trá, không lừa đảo.

- Giới thứ ba tu tập chánh niệm về đức hạnh lời nói.

 Học về những giới luật này trước khi muốn nói ra một điều gì thì phải phản tỉnh lại lời nói của mình tức là suy tư về lời nói rồi mới nói ra. Nếu thấy lời nói đó có gian xảo, lừa đảo, lường gạt thiếu thành thật không đạo đức, lời nói hại mình, hại người và hại cả hai thì nhất định dù chết vẫn im lặng như Thánh. Gương im lặng như Thánh của đức Phật còn đó, sao các bạn không noi gương này?

Lời nói lường gạt có tính ác độc, xâm phạm, cướp giật tài sản của cai người khác bằng lời nói.

Tóm lại, làm người có đạo đức thì luôn luôn phải từ bỏ, xa lìa không nói những lời lường gạt. Luôn luôn phải thấy những lời nói lường gạt là một hành động gian ác, xấu xa, tệ hại vô lương tâm, vô đạo đức nhất trong xã hội loài người.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ THỨ BẢY: KHÔNG NÓI PHẢN LẠI ĐỐI VỚI ĐỜI

 KHÔNG NÓI PHẢN LẠI ĐỐI VỚI ĐỜI”là một hành động đạo đức làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, có tôn giáo hay không tôn giáo đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này. Chính đạo đức này sẽ mang lại sự an vui cho bản thân, gia đình và xã hội, vì chúng ta không tiêu cực yếm thế, mà lúc nào cũng làm tốt cho đời như trong giới luật này đã dạy: “KHÔNG NÓI PHẢN LẠI ĐỐI VỚI ĐỜI”.

GIỚI ĐỨC VÀ GIỚI HẠNH KHÔNG NÓI PHẢN LẠI ĐỐI VỚI ĐỜI

Không nói phản lại đối với đời, nghĩa là đời sống như thế nào là phải nói đúng như thế nấy.

Người nói không đúng sự thật của cuộc đời là nói phản lại cuộc đời. Đời đau khổ mà nói rằng đời không đau khổ, đời không có chi là hạnh phúc mà nói rằng đời là hạnh phúc, đó là nói phản lại cuộc đời.

Ví dụ 1: Người nào cho thân ngũ uẩn này là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì người ấy nói phản lại cuộc đời, người ấy nói sai, nói không đúng sự thật. Người nói không đúng sự thật là người nói dối. Người nói dối phải chịu qui luật nhân quả, cho nên người nào nói dối là người sẽ chịu nhiều đau khổ.

 Người nào không nói phản lại cuộc đời là nói thân ngũ uẩn này không phải là ta, không phải của ta, không phải bản ngã của ta. Người nói như vậy là nói đúng như thật, không nói sai, người nói như vậy không bao giờ có đau khổ.

Ví dụ 2: Người nào cho rằng không có luật nhân quả là người nói phản lại cuộc đời, người nói như vậy là người sẽ chịu nhiều sự khổ đau trong cuộc đời này, ngược lại người nào nói có luật nhân quả và thấy biết mọi sự việc xảy ra đều do nhân quả thì người ấy thoát khổ.

Ví dụ 3: Người nói không phản lại cuộc đời là người nói đúng sự thật. Nói đúng sự thật là phải nói thân ngũ uẩn này là vô thường, là vô ngã, là khổ đau, nhưng nói rằng thân này là thường hằng, là có linh hồn, là có Phật tánh, là thường lạc ngã tịnh là nói sai, nói không đúng sự thật là nói phản lại cuộc đời. Do nói phản lại cuộc đời mà phải chịu nhiều khổ đau.

Ví dụ 4: Người nào cho thân này không phải là thân nhân quả là người nói phản lại cuộc đời, nói sai sự thật. Bởi vì thân này, động dụng một chút xíu là tạo nhân tạo quả ngay liền tức khắc, cho nên nói thân này là thân nhân quả, là nói đúng không nói sai. Thân nhân quả là thân có phiền não đau buồn, giận hờn ganh tỵ, ghen ghét, tỵ hiềm, thường bệnh đau, khổ sở, nhức mỏi, mệt nhọc, vui mừng, an lạc, hạnh phúc, yên vui...

Ví dụ 5: Người nói cho thân này thanh tịnh trong sạch là nói sai sự thật, là nói phản lại cuộc đời, chính vì thân này là thân bất tịnh, uế trược, hôi thối, dục lạc ham thích mùi tục lụy nên chịu nhiều khổ đau.

Ví dụ 6: Không có thế giới siêu hình mà bảo rằng có thế giới siêu hình là nói phản lại cuộc đời. Nói phản lại cuộc đời là nói sai sự thật, nên những người nói phản lại cuộc đời là những người lạc hậu, mê tín, ngu si, dại khờ đem tiền cho người khác ăn mà tai hoạ bệnh tật vẫn đến với mình (tiền mất tật mang).

Cho nên, giới đức không nói phản lại cuộc đời là một đức hạnh nhân bản – nhân quả không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai.

Người nói phản lại cuộc đời là người phạm giới, phá giới, là người tội lỗi. Người tội lỗi là người phải chịu nhiều sự đau khổ cho cuộc đời này.

GIỚI HÀNH KHÔNG NÓI PHẢN LẠI ĐỐI VỚI ĐỜI

Giới không nói phản lại đối với cuộc đời là một giới hành tuyệt vời, khi các bạn biết những gì đúng sự thật trong cuộc đời thì các bạn mới nói, còn chưa biết thì nhất định không nói. Vì nói ra sẽ phạm giới, phạm giới sẽ bị khổ đau và còn làm liên lụy đến những người khác. Đây là một giới hành để giúp các bạn thấy sự thật cuộc sống thế gian này là do các duyên họp lại mà thành ra muôn vật, chứ không có vật nào là có thật. Một cuộc sống thế gian đầy khổ đau chỉ vì các bạn không dám nhìn sự thật, không phản tỉnh lại cuộc đời, thường thấy không đúng sự thật của cuộc đời, nên phải chịu khổ đau từ kiếp này sang kiếp khác.

Nói phản lại cuộc đời như ông Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dù ai vui thú nào

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn xôn xao”

Nói phản lại cuộc đời là tiêu cực, yếm thế, ngược lại đạo Phật biết đời khổ như thật, nhưng không tiêu cực, yếm thế, cho nên từ trong đau khổ vượt lên để thoát ra mọi sự đau khổ của cuộc đời, chứ không phải tránh né trốn chạy như Trạng Trình, nên đức Phật dạy: “Đứng lại thì chìm xuống, tiến tới thì trôi dạt, chỉ có vượt qua”. Như vậy, các bạn biết rằng đạo Phật là đạo đức của loài người, nên nó không bi quan, yếm thế, luôn luôn tích cực xây dựng cho mình một đạo đức để cải đổi thế gian này thành cảnh giới an lạc và hạnh phúc cho mình cho người.

Xin các bạn hãy lưu ý giới hành không nói phản lại cuộc đời là đạo đức nhân bản – nhân quả, không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai; là bổn phận trách nhiệm của mỗi con người đang có mặt trên hành tinh này thì các bạn mới giữ gìn những giới luật này nghiêm chỉnh.

Muốn sống nghiêm chỉnh giới hành không nói phản lại cuộc đời thì các bạn nên thường xuyên tác ý: “Không được nói sai sự thật trong cuộc đời này. Nói sai sự thật là nói phản lại cuộc đời. Nói phản lại cuộc đời là đem lại sự đau khổ cho mình, cho người, cho cả hai”.

Tóm lại, bảy giới này là bảy đức hạnh về ngôn ngữ của mọi người sống trên hành tinh này không riêng cho những Phật tử mà cho tất cả mọi người, có tôn giáo hay không có tôn giáo đều phải chấp nhận đó là đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người, do từ khẩu hành của mọi người tạo ra một sức sống mãnh liệt của những tâm hồn cao thượng biết thương mình, thương người và thương cả hai.

CHƯƠNG VI: NHÓM SƠ THIỆN THỨ NĂM

TÁM GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ II TỲ KHEO TĂNG V TỲ KHEO NI

GIỚI THIỆU NHÓM GIỚI LUẬT SƠ THIỆN THỨ NĂM

TÁM GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ II TỲ KHEO TĂNG VÀ TỲ KHEO NI

1/ Từ bỏ nói hai lưỡi.

2/ Tránh xa nói hai lưỡi.

3/ Sống hoà hợp với những kẻ li gián.

4/ Khuyến khích những kẻ hoà hợp.

5/ Hoan hỉ trong hoà hợp.

6/ Thoải mái trong hòa hợp.

7/ Hân hoan trong hoà hợp.

8/ Nói những lời đưa đến hòa hợp.

Tám giới nàylà những hành động đạo đức làm Người, làm Thánh thuộc về khẩu hành, nó chỉ rõ hành động sống đúng đức hạnh ngôn ngữ của những người có đạo đức, của những vị tu sĩ Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ cùng với mọi người sống trên hành tinh này, ai ai cũng cần phải học hiểu để thể hiện sự sống chung nhau mà không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.

Tám giới luật này là để cho mọi người thể hiện sự sống chung nhau với một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự; để thể hiện một sự sống chung nhau mà sự sống thoát ra khỏi bản chất hung ác của loài ác quỉ. Bởi vì, bản chất của loài ác quỉ ấy muôn đời còn đang ngủ ngầm trong tâm các bạn. Các bạn có biết không?

Vì thế, mọi người phải chấp nhận tám giới đức hạnh sống “HOÀ HỢP”này. Nó chính là mạng sống của các bạn. Các bạn hãy cố gắng giữ gìn để bảo vệ mạng sống và cũng là để sống với một tâm hồn cao thượng không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ THÁNH TĂNG, THÁNH NI THỨ NHẤT: TỪ BỎ NÓI HAI LƯỠI

TỪ BỎ NÓI HAI LƯỠI”là một hành động đạo đức hòa hợp Làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Người, làm Thánh đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

GIỚI ĐỨC HÒA HỢP TỪ BỎ NÓI HAI LƯỠI

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh hòa hợp để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Đức hạnh hoà hợp để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai là một đức hạnh làm Người làm Thánh như trên đã nói, ước mong các bạn cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này để đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

“TỪ BỎ NÓI HAI LƯỠI” là một giới đức hoà hợp. Người biết sống và giữ gìn giới đức hoà hợp này, khiến cho mọi người cùng sống chung nhau trên hành tinh này sẽ thương yêu nhau như nước với sữa. Cho nên “TỪ BỎ NÓI HAI LƯỠI”là một đạo đức về miệng, giới này là giới hạnh ngôn ngữ thuộc về đức hoà hợp như trên đã nói. Vì thế, trong ngôn ngữ các bạn cần muốn nói ra một điều gì thì phải cân nhắc kỹ lưỡng rồi mới nói.

Hòa hợp là một đức hạnh rất cần thiết để mọi người cùng sống chung nhau. Vì thế, những người nói hai lưỡi là những người làm mất tình đoàn kết. Làm mất tình đoàn kết là làm mất tình yêu thương. Làm mất tình yêu thương là đem lại sự oán ghét hận thù. Đem lại sự oán ghét hận thù là đem lại sự khổ đau cho nhau. Có phải vậy không các bạn?

Tục ngữ có câu: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Thế mà người nói hai lưỡi thì làm sao có tình làng nghĩa xóm được; thì làm sao có tình đoàn kết nhau được. Không đoàn kết nhau được thì làm sao có thương yêu; thì làm sao có sức mạnh.

Người nói hai lưỡi là người làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai, là người xấu ác, là người ác tri thức. Vì thế, các bạn nên cố gắng khắc phục mình để đừng trở thành người nói hai lưỡi, người nói hai lưỡi xấu lắm các bạn ạ!

GIỚI HẠNH HÒA HỢP TỪ BỎ NÓI HAI LƯỠI

Từ bỏ nói hai lưỡi là một oai nghi tế hạnh về ngôn ngữ hòa hợp, nó cao quý và đẹp đẽ trong cách đối nhân xử thế. Cho nên, làm người ai ai cũng cần phải học tập và cố gắng giữ gìn cho nghiêm chỉnh.

Từ bỏ nói hai lưỡi. Vậy nói hai lưỡi nghĩa như thế nào?

Người nói hai lưỡi là người nhiều chuyện nhất trên thế gian này. Trước mặt nói tốt, sau lưng nói xấu, chuyện ít xích ra nhiều, chuyện có nói không, chuyện không nói có, nói qua nói lại, lật lọng một cách trắng trợn, lấy trắng nói đen, lấy đen nói trắng, những người như vậy chúng ta nên tránh xa, họ không phải là những người bạn tốt.

Người nói hai lưỡi là người không ngay thẳng, không trung thực, người xấu ác, hèn nhát, đê tiện v.v.. Tục ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Những hạng người này các bạn đừng làm bạn, không nên gần gũi với họ, họ là ác tri thức trong đời này.

Từ bỏ nói hai lưỡi là giới luật dạy về oai nghi tế hạnh ngôn ngữ để ngăn và diệt những lời nói đem đến sự bất hoà cho mọi ngươi trong cuộc sống chung nhau. Đó là những lời nói sinh ra mọi oán ghét hận thù. Oán ghét và thù hận là đem lại sự chia rẽ và gây ra mọi sự đau khổ cho nhau. Phải không các bạn?

GIỚI HÀNH HÒA HỢP TỪ BỎ NÓI HAI LƯỠI

Giới hành từ bỏ nói hai lưỡi là pháp môn Tứ Chánh Cần. Pháp môn Tứ Chánh Cần là pháp môn ngăn ác diệt ác pháp rất tuyệt vời, như các bạn đã hiểu biết.

Từ bỏ là một hành động vừa ngăn vừa diệt không cho miệng nói hai lưỡi, vì nói hai lưỡi là tạo nên ác khẩu nghiệp. Ác khẩu nghiệp ấy sẽ biến các bạn trở thành những người phi đao đức nhân bản - nhân quả.

Trong Tứ Chánh Cần các bạn hãy lưu ý. Pháp ngăn và diệt ác pháp đều phải sử dụng pháp môn như lý tác ý.

Muốn huân tập pháp môn như lý tác ý thì các bạn hãy trạch pháp cho đúng nghĩa tức là tác ý một tướng khác của tướng ác pháp đó như: “Nói hai lưỡi là một ác pháp phi đạo đức nhân bản ta phải từ bỏ”.

Nếu bạn có tật xấu thường hay nói hai lưỡi thì bạn nên thường tác ý câu này cho thấm nhuần. Nó sẽ giúp bạn trở thành người tốt, người có lời nói ngay thẳng, trung trực dám ăn, dám nói nhưng không bao giờ nói xấu người khác.

Sau cùng chúc các bạn thành công giữ gìn giới luật trọn vẹn để xứng đáng là đệ tử của Phật.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC HÒA HỢP THỨ HAI: TRÁNH XA NÓI HAI LƯỠI

TRÁNH XA NÓI HAI LƯỠI” là một hành động đạo đức hoà hợp làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều phải thực hiện nó. Cho nên, muốn làm Người, làm Thánh, ai ai cũng đều cần phải học, hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh ngôn ngữ để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Đức hạnh ngôn ngữ để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai là những đức hạnh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này như trên đã nói để đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có làm được như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Các bạn có biết không?

GIỚI ĐỨC HÒA HỢP TRÁNH XA NÓI HAI LƯỠI

Giới luật “TRÁNH XA NÓI HAI LƯỠI”về đức thì giống như giới thứ nhất“TỪ BỎ NÓI HAI LƯỠI”,nhưng về hạnh thì khác nhau. Như vậy các bạn đã biết “TỪ BỎ NÓI HAI LƯỠI”,là những hành động chỉ thẳng chính bản thân của các bạn phải từ bỏ nói hai lưỡi; còn ngược lại giới hạnh “TRÁNH XA NÓI HAI LƯỠI”là hành động tránh xa người nói hai lưỡi hoặc tránh xa nơi ở có người nói hai lưỡi hoặc tránh xa lời nói hai lưỡi của chính mình.

Vì muốn có một cuộc sống hoà hợp yêu thương nhau các bạn nên tránh xa nói hai lưỡi tức là nghe điều gì ở chỗ này không đến chỗ kia nói, để sanh ra chia rẽ với những người này hoặc nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với những người này để sinh ra chia rẽ với những người kia. Đó là hành động đạo đức hòa hợp của mỗi người mà trách nhiệm bổn phận của mỗi con người đều phải thực hiện đạo đức ấy.

Kính thưa các bạn! Nếu đạo đức ấy không được quán triệt áp dụng vào đời sống hằng ngày thì thế gian này là một cảnh giới địa ngục, một sự đau khổ triền miên. Vì đó là sự chia rẽ, sự hận thù, sự oán ghét v.v..

“Một cây làm chẳng nên non ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.Bởi vậy, mọi người có đoàn kết là sống, còn chia rẽ là chết. Vì thế, trong cuộc sống loài người ai ai cũng phải nương tựa vào nhau để mà sống.

Ví dụ: người nông dân làm ruộng có lúa để mọi người cùng có cơm mà ăn; người dệt vải có vải để cùng nhau có áo mà mặc; người thợ nề làm nhà để có nhà cùng nhau mà ở. Cho nên, cuộc sống của con người luôn luôn có sự tương quan với nhau trong môi trường sống trên hành tinh này rất là vĩ đại. Vì vậy, mọi người phải tự bắt buộc, khép chặt, chế ngự mình trong khuôn phép đạo đức hoà hợp và luôn luôn tránh xa nói hai lưỡi.

Tóm lại, người nói hai lưỡi là người không có đạo đức hoà hợp, không có tinh thần đoàn kết, không tôn trọng sự sống chung nhau của mọi người mọi vật trên hành tinh này. Người nói hai lưỡi là người mang đến sự đau khổ cho mình, cho người, cho cả hai. Người nói hai lưỡi là người làm mất sự thương yêu nhau, sự đùm bọc lẫn nhau, sự đoàn kết và sự chung lưng đấu cật: “chị ngã em nâng, lá lành đùm lá rách”. Thật đáng tiếc! Đáng tiếc!!!

GIỚI HẠNH HÒA HỢP TRÁNH XA NÓI HAI LƯỠI

 Nói hai lưỡi gây ra sự chia rẽ, giết chết lòng yêu thương, làm mất sự đoàn kết, do đó thường đem đến sự đau khổ cho nhau v.v.. Có đúng như vậy không các bạn?

Cho nên “GIỚI HẠNH HOÀ HỢP TRÁNH XA NÓI HAI LƯỠI”là một oai nghi tế hạnh đạo đức cao quý, tuyệt đẹp trong cuộc sống chung của mọi người khiến cho mọi người sống hoà hợp, đoàn kết và yêu thương nhau.

“GIỚI HẠNH HOÀ HỢP TRÁNH XA NÓI HAI LƯỠI”là một oai nghi tế hạnh đẹp đẽ nhân bản, vậy các bạn hãy luôn luôn giữ gìn những oai nghi tế hạnh này, nó sẽ tránh xa nói hai lưỡi để xứng đáng là người có đạo đức hoà hợp, biết thương mình, thương người, thương cả hai.

GIỚI HÀNH TRÁNH XA NÓI HAI LƯỠI

Muốn giữ gìn đức hoà hợp tránh xa nói hai lưỡi thì hằng ngày các bạn nên tư duy suy nghĩ; nói hai lưỡi là một hành động xấu ác làm hại mình, hại người và hại cả hai. Người nói hai lưỡi ai cũng không ưa, và mọi người đều xa lánh người ấy.

Muốn tránh xa nói hai lưỡi thì các bạn luôn nhớ tác ý: “Nói hai lưỡi là lời nói ác, lời nói xấu người khác, lời nói đáng chê trách, ta phải nhất định từ bỏ và tránh xa những người nói hai lưỡi”.

Tóm lại, giới luật tránh xa nói hai lưỡi là một bài học đức hạnh hoà hợp về khẩu nghiệp, nếu ai giữ gìn được giới này nghiêm chỉnh thì khẩu nghiệp được thanh tịnh, lời nói sẽ êm ái, dịu dàng, thanh tao, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn v.v.. Người không nói hai lưỡi, họ đi đến đâu và ở đâu cũng được mọi người quý mến và tôn trọng.

VĂN HÓA GIỚI ĐỨC HÒA HỢP THỨ BA: SỐNG HÒA HỢP VỚI NHỮNG KẺ LI GIÁN

 “SỐNG HOÀ HỢP VỚI NHỮNG KẺ LI GIÁN”làmột hành động đạo đức hoà hợp làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm người có đạo đức, làm Thánh đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh khẩu nghiệp để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Đức hạnh hòa hợp để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai là những đức hạnh xứng đáng làm Người, làm Thánh mà các bạn cần phải trau dồi, học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC HÒA HỢP VỚI NHỮNG KẺ LI GIÁN

Giới đức hoà hợp sống với những kẻ li gián là một đức hạnh sống trong nghịch cảnh, sống trong những người không hoà hợp tức là sống với những người nhiều chuyện, những người đầy ác khẩu, v.v..

Thường những người li gián là những người nhiều chuyện, những người sống đâm thọc, đem chuyện người này nói lại với người kia, đem chuyện người kia nói lại với người này. Trong khi nói lại như vậy đều có thêm bớt, gây chia rẽ li gián đôi bên, làm cho hai bên thù hiềm, ghét oán lẫn nhau.

Phần đông người sống li gián là những phụ nữ, họ là những người nhiều chuyện nhất, thường nói xấu kẻ khác hơn ai hết. Cho nên, các bạn sống với phụ nữ không nên vội tin họ. Khi họ nói ra một điều gì về người khác có ý nói xấu thì các bạn nên đặt câu hỏi: Người nói như vậy có phải là người tốt không? Các bạn nên biết: người nói xấu người khác là người xấu các bạn cần phải đề phòng họ, họ sẽ nói xấu bạn đấy!

Giới đức dạy sống hòa hợp với những kẻ li gián tức là sống chung với mọi người thì phải cẩn thận xem xét kỹ lưỡng từng lời nói của họ. Nếu họ là người xấu ác thì thường nói xấu kẻ khác thì ngay đó các bạn đừng a dua theo họ mà hãy khéo léo khuyên họ đừng nên nói như vậy, nói như vậy chính mình là người xấu ác. Người nói xấu người khác không bao giờ là người tốt được. Họ là ác tri thức, nếu các bạn khuyên ngăn họ không được thì nên tránh xa họ.

Khi các bạn sống chung với họ thì phải cảnh giác với những người này, thường cố gắng khắc phục họ, nhưng không nên chơi thân với họ.

Thưa các bạn! Không phải tất cả chị em phụ nữ đều là những người li gián, trong số phụ nữ vẫn có người tốt, người ít nói, người không nhiều chuyện, người biết lắng nghe, người biết im lặng như Thánh, người biết sửa sai những lỗi lầm về khẩu nghiệp của mình v.v.. Những người như vậy họ là những người bạn tốt, các bạn nên gần gũi học hỏi những đức hạnh ấy.

Và các bạn cũng nên biết không phải tất cả những người nam đều tốt hết, đều không nhiều chuyện, đều không li gián, người nam cũng có những kẻ nhiều chuyện hơn người nữ nữa, chuyện không có đặt ra cho có, để nói xấu người khác, thường thêu dệt thêm bớt chuyện ít xích ra cho nhiều. Người đàn ông nói xấu người khác là người tâm tánh phụ nữ, là người nhỏ mọn, hẹp hòi, ích kỷ, bỏn xẻn v.v.. Những hạng người ấy các bạn đừng chơi thân với họ hãy tránh xa.

Cho nên, sống hoà hợp với những kẻ li gián thì nên xem xét kỹ lưỡng lời nói của họ, đừng vội tin. Mỗi lời nói của họ thường gây chia rẽ, làm mất tình đoàn kết, các bạn nên đề phòng.

Sống hòa hợp với những người li gián là sống với những người nhiều chuyện khi nghe họ nói ra bất cứ một điều gì thì các bạn nên tin bằng 1 phần 10 hay bằng một phần 100 chứ đưng tin hết lời nói của họ, họ là những người đâm thọc, nói ra, nói vào gây chia rẽ, mất đoàn kết. Đối với những hạng người này các bạn hãy lắng nghe và im lặng như Thánh, đừngnênnói một lời nào với họ, đó là đức hoà hợp sống với kẻ li gián.

GIỚI HẠNH HÒA HỢP VỚI NHỮNG KẺ LI GIÁN

Im lặng như Thánh là đức hạnh hoà hợp đệ nhất trong giới luật của Phật khi các bạn sống với người li gián, các bạn thường nhắc tâm phải im lặng như Thánh. Im lặng như Thánh là để tâm được bình tĩnh trước những lời nói xấu ác của kẻ li gián, nhờ đó thân tâm các bạn mới được bình an, vui sống v.v..

Khi nghe người khác nói xấu người kia thì các bạn bảo họ đừng nói như vậy, nói như vậy là xấu, là ác, là không tốt, là thiếu đạo đức v.v..

Sống với những người li gián các bạn phải làm gương và luôn luôn phải nói tốt không được nói xấu một người nào khác. Thường ca ngợi người khác, chứ không được chê người khác trước mặt mọi người, nhưng ca ngợi phải đúng sự thật, nếu ca ngợi không đúng sự thật thì đó là các bạn a dua, nịnh bợ. Các bạn có biết không?

Đức Phật dạy hạnh hoà hợp:

“Biết chuyện mình đừng biết chuyện người” hoặc “Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người” hoặc “Chuyện mình, mình biết chuyện người, người hay”.

Trên đây là những oai nghi tế hạnh sống hoà hợp với những người li gián, vì vậy các bạn hãy nhớ ghi khắc trong lòng để áp dụng vào đời sống hằng ngày đem lại sự an vui cho mình cho người. Đó là giới hành sống hoà hợp với người li gián.

Kính thưa các bạn! Muốn sống hoà hợp với những người li gián thì các bạn phải thường tác ý câu này “Phải im lặng như Thánh, không nên a dua theo họ, họ nói ta nghe nhưng không để ý, nghe tai này vừa xong là ném bỏ ngay những điều họ nói”.

Sống hoà hợp với những kẻ li gián mà các bạn không khuyên, ngăn, giúp họ đừng nói xấu kẻ khác để không li gián với mọi người thì điều đó không thể làm được, rất khó. Đức hạnh của người tu sĩ Phật giáo không cho phép để họ nói xấu li gián người khác. Nhưng làm sao được các bạn? Cho nên đối với Phật giáo chỉ duy nhất là các bạn nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng với họ nhưng không bị lôi cuốn theo họ.

Sống hoà hợp với những kẻ li gián mà tâm các bạn không nên bắt chước họ nói xấu li gián, không tin những lời họ nói là chân thật, nên bỏ ngoài tai, như vậy các bạn mới sống đúng “GIỚI HẠNH HÒA HỢP VỚI NHỮNG KẺ LI GIÁN”.

GIỚI HÀNH HÒA HỢP VỚI NHỮNG KẺ LI GIÁN

Muốn thực hiện những oai nghi tế hạnh với những kẻ li gián thì phải thường tác ý câu: “Sống với những người sống li gián phải biết nhẫn nhục, tuỳ, thuận bằng lòng”, đó là oai nghi tế hạnh duy nhất mà các bạn phải thực hiện.

“GIỚI HÀNH HÒA HỢP VỚI NHỮNG KẺ LI GIÁN”nên kinh Pháp Cú dạy:

“Vui thay chúng ta sống

Không hận giữa hận thù

Giữa những người thù hận

Ta sống không hận thù”

Dựa vào 4 câu kinh Pháp Cú trên đây các bạn nên trạch pháp câu tác ý như sau:

“Vui thay chúng ta sống

Li gián, không li gián

Giữa những người li gián

Ta sống không li gián”

Nhờ nhắc tâm như vậy, các bạn sống với những người nhiều chuyện mà các bạn sẽ không trở thành người nhiều chuyện, lại trở thành người có đạo đức hoà hợp yêu thương.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ HÒA HỢP THỨ TƯ: KHUYẾN KHÍCH NHỮNG KẺ SỐNG HÒA HỢP

KHUYẾN KHÍCH NHỮNG KẺ SỐNG HOÀ HỢP” là một hành động đạo đức lòng thương yêu hoà hợp làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Người, làm Thánh đều cần phải học hiểu cho rõ ràng và sống đúng những đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh ngôn ngữ thương yêu hoà hợp để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, nó sẽ đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có sống được như vậy, thì cuộc sống trên hành tinh này mới trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Còn sống ngược lại đức hạnh hoà hợp này không có thì sẽ có muôn vàn sự khổ đau, biến cuộc sống thế gian này thành cảnh chà đạp giết hại lẫn nhau, giành giựt từng miếng ăn để sống, thì cảnh giới này trở thành địa ngục trần gian. Bởi vậy, các bạn nên khuyến khích cùng nhau sống hòa họp, cùng nhau gắn bó yêu thương nhau v.v..

GIỚI ĐỨC KHUYẾN KHÍCH NHỮNG KẺ SỐNG HÒA HỢP

Trong cuộc sống chung nhau chúng ta nên khuyến khích nhau, đừng nói những lời li gián mà hãy nói những lời hòa hợp; đừng nói những lời chia rẽ mà hãy nói những lời yêu thương nhau; đừng nói những lời mất đoàn kết, mà hãy nói những lời gắn bó với nhau, v.v..

Hãy nói tốt cho người, đừng nói xấu người khác, nói xấu người khác là chính mình nói lên tính xấu của bản thân mình. Mình nói xấu người chính mình là người xấu, người ác.

Trong cuộc đời này ai ai cũng thích nói xấu người khác. Nói xấu người có mục đích là hạ người đó xuống để đưa mình lên cao, nhưng sự thật rất phũ phàng, nói xấu người thì chính mình đã hạ phẩm giá mình, nhân cách mình một cách rõ rệt.

 Đạo Phật đã xác định điều này rất rõ ràng, kẻ nói xấu người là người xấu, người không có đức hoà hợp, người sống chia rẽ, sống không đoàn kết. Trong cuộc sống chung nhau chúng ta nên giữ gìn “ĐỨC KHUYẾN KHÍCH NHỮNG KẺ SỐNG HOÀ HỢP”.

Người có đức hoà hợp luôn luôn khuyến khích cho mọi người nói điều tốt của người khác, xa lìa khẩu nghiệp nói xấu người khác. Như trong kinh Pháp Cú dạy:

“Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người”,đó là “ĐỨC HẠNH KHUYẾN KHÍCH NHỮNG KẺ SỐNG HOÀ HỢP”.Vậy các bạn luôn luôn nhớ những lời dạy này.

GIỚI HẠNH KHUYẾN KHÍCH NHỮNG KẺ HÒA HỢP

Sống giữa mọi người lúc nào các bạn cũng giữ gìn oai nghi tế hạnh khuyến khích hoà hợp. Đức hạnh khuyến khích hoà hợp là nói lời hoà hợp, nói lời khuyến khích mọi người sống hoà hợp, tỏ ra vui mừng trong sự hoà hợp, luôn luôn vui mừng khi thấy mọi người không nói xấu nhau, không nói chia rẽ với nhau. Thường thương xót đau lòng khi thấy nghe người này nói xấu người kia, người kia nói xấu người này, khi nghe nói những lời li gián, nói chia rẽ người khác tạo cảnh mất đoàn kết thì đau buồn.

Thấy ai sống li gián, làm mất sự hoà hợp là các bạn mau mau tìm mọi cách ngăn cản, khuyên lơn khuyến khích cho mọi người hoà hợp với nhau. Đó là oai nghi tế hạnh sống khuyến khích hoà hợp trong giới luật Phật để đem cuộc sống này an vui và hạnh phúc.

GIỚI HÀNH KHUYẾN KHÍCH NHỮNG KẺ SỐNG HÒA HỢP

Muốn giữ gìn giới hành ngôn ngữ hoà hợp thì các bạn phải thường nhắc tâm mình: Đoàn kết mới mang lại sự yêu thương, cho mình, cho người cho cả hai, còn li gián là mang lại sự khổ đau cho mình, cho người, cho cả hai”.

Nếu hằng ngày các bạn luôn nhớ tác ý nhắc tâm như vậy thì các bạn sẽ trở thành người tốt, người biết sống đoàn kết với mọi người, người không nói xấu người khác, người không li gián, người biết thương mình thương người. Đó là các bạn đã thực hành tu tập rèn luyện “GIỚI HÀNH KHUYẾN KHÍCH NHỮNG KẺ SỐNG HOÀ HỢP”tạo nên một cuộc sống yên lành, hạnh phúc, cùng sống cùng vui.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ HÒA HỢP THỨ NĂM: GIỚI ĐỨC HOAN HỶ SỐNG TRONG HÒA HỢP

 “GIỚI ĐỨC HOAN HỈ SỐNG TRONG HOÀ HỢPlà một hành động đạo đức thương yêu làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Người, làm Thánh đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh ngôn ngữ thương yêu để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Nhờ thế, mới đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

GIỚI ĐỨC HOAN HỈ SỐNG TRONG HÒA HỢP

Giới đức hoan hỉ sống trong hoà hợp là một đức hạnh vui sống trong tình đoàn kết, tình yêu thương thật sự chân tình. Người sống như vậy luôn luôn lúc nào cũng mong ước mọi người đừng nói xấu nhau, đừng nói lời độc ác với nhau, đừng nói lời chia rẽ nhau, đừng nói thêm, nói bớt mà hãy nói một sự thật, nhưng tốt nhất là đừng nên nói một người nào với người thứ ba.

Vì nói một người nào với người thứ ba thường là nói để hả lòng căm tức, lòng hận thù oán ghét hoặc nói để chế giễu khinh rẻ chê bai, hoặc nói để li gián phân chia v.v.. đó là những người không có đức hạnh sống hoan hỉ trong tình đoàn kết, tình thân thương yêu nhau. Thực hành được những điều trên đây là sống đúng giới hạnh hoan hỉ trong hoà hợp.

GIỚI HẠNH HOAN HỈ SỐNG TRONG HÒA HỢP

Giới hạnh hoan hỉ sống trong hòa hợp là oai nghi tế hạnh của người sống có đạo đức biết vui mừng trong sự đoàn kết, biết thương yêu nhau trong sự đoàn kết, biết chia sẻ nhau những khó khăn, những buồn vui, nỗi khổ trong tình đoàn kết

Bất cứ ở nơi đâu mọi người sống chung không nói xấu, không nói lời li gián thường đoàn kết chung sống với nhau như anh em, chị em ruột thịt trong một nhà thì không có nỗi vui mừng nào bằng. Phải không các bạn? Cho nên sự vui mừng ấy là giới hạnh hoan hỉ sống trong hoà hợp.

Dù bất cứ ở nơi đâu thấy mọi người sống chung nhau thường nói xấu nhau, nói lời li gián, sống không đoàn kết, thường gây chia rẽ, sống chung nhau như trâu trắng, trâu đen thì các bạn đau khổ buồn bã không vui mừng, không thích sống trong cảnh bất hoà, muốn bỏ đi nơi khác đó là sự buồn bã bất mãn trước cảnh không hoà hợp. Cảnh không hoà hợp là cảnh đau buồn nhất. Phải không các bạn?

Dù bất cứ trong hoàn cảnh chia rẽ không hoà hợp nào thì các bạn hãy cố gắng khuyên lơn, khuyến khích mọi người sống hoà hợp, đừng nói xấu nhau, đừng nói lời li gián, sống phải đoàn kết yêu thương nhau như anh em chị em ruột thịt cùng chung một nhà, sự hành động như vậy gọi là giới hạnh hoan hỉ sống trong hoà hợp.

GIỚI HÀNH HOAN HỈ SỐNG TRONG HÒA HỢP

Muốn sống trong giới hành hoan hỉ sống trong hoà hợp thì các bạn hằng ngày nên nhớ nhắc tâm: “Làm người không được nói xấu người khác, nói xấu người khác gây chia rẽ làm mất lòng yêu thương nhau” hoặc tác ý ngắn gọn hơn: “Người nói xấu người khác là người li gián Ta nên tránh xa người ấy” hoặc tác ý: “Suốt đời ta nguyện tránh xa, lìa bỏ nói xấu người khác”.

Lúc nào rảnh hay không rảnh rang, chỉ cần nhớ đến những câu ấy thì các bạn nên tác ý ngay liền. Khi tác ý như vậy các bạn quyết định không nói xấu một người nào cả, dù có chết các bạn cũng không được nói xấu kẻ khác, nói xấu người khác là kẻ ác độc, là kẻ li gián.

Dù chuyện xấu của người khác có thật nhưng các bạn cũng không được nói với người thứ ba. Khi các bạn nói với người thứ ba nghe chuyện xấu của người khác là các bạn đã là người xấu, không còn xứng đáng làm người tốt nữa, người đáng tin cậy nữa. Cho nên, nhớ kỹ những lời dạy này, vì nó sẽ mang đến hạnh phúc an vui cho các bạn và những người khác. Các bạn có biết không?

Hành động hằng ngày giữ gìn trọn vẹn không nói xấu người khác là người đã giữ trọn giới hành hoan hỉ sống trong hoà hợp.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ HÒA HỢP THỨ SÁU: NÓI NHỮNG LỜI ĐƯA ĐẾN HÒA HỢP

 “NÓI NHỮNG LỜI ĐƯA ĐẾN HOÀ HỢP” là một giới hạnh đạo đức về lời nói, nó là một hành động đạo đức yêu thương của những người biết làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Người, làm Thánh đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh thương yêu sống hoà hợp để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Bởi vậy những ai muốn sống có đức hạnh làm Người, làm Thánh như trên đã dạy thì cần phải tu tập rèn luyện và sống đúng những đức hạnh này để đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

Bởi cõi Cực Lạc, Thiên Đàng không có sẵn, nếu muốn có thì con người phải tự xây dựng bằng giới luật đức hạnh mà đức Phật đã dạy.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI ĐƯA ĐẾN HÒA HỢP

Kính thưa các bạn! “NÓI NHỮNG LỜI ĐƯA ĐẾN HOÀ HỢP” là những hành động đạo đức về lời nói, nó rất cần thiết trong cuộc sống hằng ngày của con người khi giao tiếp với nhau.

Ở đời, tại sao các bạn không nói những lời đưa đến hòa hợp để đem đến sự an vui cho nhau?

Tại sao các bạn thường nói những lời đưa đến không hoà hợp làm đau khổ cho nhau?

Tại sao và tại sao???

Đừng hỏi tại sao mà nên hiểu rằng bản chất con người là chấp ngã, tự xem mình là trên hết, trên đời này không ai hơn mình, cho nên nói xấu người là hạ người khác để thỏa mãn cơn tức giận oán hận trong lòng, còn nói li gián là để chia rẽ sự đoàn kết của người khác, từ đó sử dụng đòn cuối cùng là diệt người đó. Đó là những âm mưu thâm độc của con người đời bây giờ. Vì thế, đức Phật mới dạy giới luật “NÓI NHỮNG LỜI ĐƯA ĐẾN HOÀ HỢP”,nhưng người đời cũng như những người tu có mấy ai đã lưu ý đến những giới luật đức hạnh này. Vì thế, người đời đau khổ mà người tu cũng không tránh khỏi.

Nói những lời đưa đến hoà hợp đem lại sự an vui cho mình, cho người, đó là đức hoà hợp về lời nói.

Trong cuộc sống giao tiếp với mọi người hằng ngày thì đức hạnh về lời nói hoà hợp rất cần thiết cho sự sống chung nhau trên hành tinh này.

Đức hoà hợp về lời nói là một đức hạnh cao quý và êm đẹp giúp cho cá nhân có một tâm hồn thanh thản, an lạc, vô sự; gia đình yên vui và xã hội có trật tự an ninh; đất nước không bao giờ có chiến tranh, luôn hoà bình và hưng thịnh.

Kính thưa các bạn! Đức hoà hợp về lời nói mà mọi người cần phải hiểu biết nó có một tầm quan trọng cho cuộc sống an vui của con người sống chung nhau trên hành tinh này. Nếu không có lời nói hoà hợp an vui thì cuộc sống này cũng sẽ là địa ngục, là sự đau khổ, là sự tranh chấp hơn thua. Cho nên, bất cứ ở trường hợp nào các bạn đều phải chủ động lời nói, không nói ra thì thôi, mà hễ nói ra thì phải nói ra lời nói hoà hợp. Đừng bao giờ nói ra những lời chống trái tạo ra sự đau khổ cho mình, cho người; đừng nói ra lời nói chia rẽ làm cho tâm hồn tê tái khổ đau triền miên bất tận. Bởi lời nói chia rẽ làm mất tình thương và sự đoàn kết.

Cuộc sống con người khi đã đánh mất sự yêu thương và đánh mất sự đoàn kết thì sinh ra thù hận. Thù hận là đem đến sự đau khổ cho nhau. Và vì thế, các bạn phải nói những lời đưa đến hòa hợp là cần thiết cho cuộc sống loài người.

Người đệ tử Phật giáo lấy đức hạnh làm đầu cho cuộc sống, vì thế lời nói hoà hợp là đức, là hạnh mà không thể thiếu của người tu sĩ Phật giáo và của mọi người sống trên hành tinh này dù có tôn giáo hay không có tôn giáo.

Giới này tuy không phải giới trọng nhưng giá trị đạo đức của nó không thua một giới luật nào khác trong giới luật của đạo Phật.

Thưa các bạn! Đừng xem thường những giới nhỏ nhặt, vì mỗi giới luật là một đức hạnh của con người, cho nên không giới nào được gọi là giới nhỏ nhặt. Mỗi giới là một Phạm hạnh. Phạm hạnh là đời sống của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư sĩ. Do sự lợi ích như vậy nên không có giới nào là giới trọng, giới khinh mà chỉ là giới đức, giới hạnh. Phải không các bạn?

GIỚI HẠNH NÓI NHỮNG LỜI ĐƯA ĐẾN HÒA HỢP

“NÓI NHỮNG LỜI ĐƯA ĐẾN HOÀ HỢP”là một Thánh hạnh, là một oai nghi tế hạnh sống của những bậc chân tu.

Thưa các bạn! Tại sao con người hay dùng lời nói không hoà hợp đưa đến những sự chia rẽ thương đau, bằng bao nước mắt của con người, bằng bao sự nức nở thổn thức của con tim khi nói đến hai chữ chia rẽ, li gián. Sống cuộc đời không đoàn kết thường chia rẽ với nhau thì đem lại cuộc sống thương đau, sống như vậy thì có ích lợi gì. Phải không các bạn?

Cuộc đời đã đau khổ sao các bạn lại dùng những lời nói đầy đau khổ chia rẽ như vậy các bạn ạ!

Phải chấm dứt lời nói chia rẽ luôn luôn phải nói những lời nói đưa đến hoà hợp thân thương.

Thưa các bạn! Nói suông “hoà hợp” thì dễ, nhưng nói ra lời nói để hòa hợp thì không phải dễ đâu các bạn, thói quen muôn đời của con người là hay nói lời li gián.

Người ở đời dễ mắc bị bệnh nói lời không hoà hợp, thường nói lời chia rẽ, nói lời li gián. Vì thế, đạo Phật mới có giới luật đức hạnh này.

Mỗi giới luật được xem là một Phạm hạnh của bậc tu hành chân chánh. Người phạm giới, phá giới không phải là bậc chân chánh tu hành, chỉ là những người mượn sắc áo Phật giáo để làm cuộc sống thế gian, ngồi mát ăn bát vàng.

Thưa các bạn! Trong suốt cuộc đời tu hành của chúng tôi hằng ngày cố gắng hết sức mình để giữ gìn lời nói luôn luôn được hoà hợp để tạo thành cuộc sống hoà hợp như nước với sữa.

GIỚI HÀNH NÓI NHỮNG LỜI ĐƯA ĐẾN HÒA HỢP

Trong cuộc sống chung đụng với mọi người, các bạn chỉ nên nói những lời đưa đến hòa hợp; chỉ nên biết thương yêu và tha thứ những lỗi lầm của người khác, nhất là phải sáng suốt nhận định thấy rõ được những lỗi lầm về ngôn ngữ của mình để phát lồ sám hối và quyết định sẽ không còn tái phạm làm những lỗi lầm đó nữa.

Nếu cuộc sống của các bạn làm được những điều nói trên là các bạn đã thực hiện giới luật “GIỚI HÀNH NÓI NHỮNG LỜI ĐƯA ĐẾN HOÀ HỢP”.

Người có giữ gìn giới hành như vậy thì cuộc sống này mọi người sẽ được hạnh phúc biết bao và nhất là bản thân của người giữ giới luật, thân tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự.

Tóm lại “NÓI NHỮNG LỜI ĐƯA ĐẾN HOÀ HỢP”là Phạm hạnh của mọi người trong cuộc sống chung trên hành tinh này. Giới này không riêng cho tu sĩ và cư sĩ mà của chung của mọi người. Vậy chúng ta là con người hãy lấy giới luật này làm sự sống cho mình. Muốn làm sự sống của mình thì hằng ngày phải tác ý “LÀM NGƯỜI TA PHẢI NÓI NHỮNG LỜI ĐƯA ĐẾN HOÀ HỢP, KHÔNG ĐƯỢC NÓI NHỮNG LỜI LI GIÁN”.Có tác ý câu này nhiều lần mới thấm nhuần trong ta. Cho nên, mỗi khi mở miệng ra là “NÓI NHỮNG LỜI ĐƯA ĐẾN HOÀ HỢP”.

CHƯƠNG VII: NHÓM SƠ THIỆN THỨ SÁU

TÁM GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ III TỲ KHEO TĂNG VÀ TỲ KHEO NI

GIỚI THIỆU NHÓM GIỚI SƠ THIỆN THỨ SÁU

TÁM GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ III TỲ KHEO TĂNG VÀ TỲ KHEO NI

1/ Từ bỏ nói lời độc ác.

2/ Tránh xa nói lời độc ác.

3/ Nói những lời không lỗi lầm.

4/ Nói những lời đẹp tai.

5/ Nói những lời dễ thương.

6/ Nói những lời thông cảm đến tâm mọi người.

7/ Nói những lời tao nhã.

8/ Nói những lời đẹp lòng nhiều người.

Tám giới nàylà những hành động đạo đức làm Người làm Thánh thuộc về khẩu hành, nó chỉ rõ hành động sống đúng đức hạnh ngôn ngữ của những người có đạo đức, của những vị tu sĩ Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ và cùng với mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, ai ai cũng cần phải học hiểu để thể hiện sự sống ngôn ngữ không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.

Thưa các bạn! Những giới luật có ích lợi lớn như vậy, mong rằng các bạn hãy vì sự sống an vui hạnh phúc của mọi người trên hành tinh này mà chấp nhận sống một đời sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai thì các bạn nên chấp hành giới luật nghiêm chỉnh, không được vi phạm những giới luật, dù một giới luật nhỏ nhặt nào.

Tám giới luật này để mọi người thể hiện sự sống chung nhau trên hành tinh này cùng với một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự. Sống để thể hiện một sự sống thoát ra khỏi bản chất hung ác của loài ác quỉ của loài thú dữ, mà muôn đời bản chất ấy còn ngủ ngầm trong tâm của các bạn. Các bạn có biết không?

Vì thế, mọi người phải chấp nhận tám đức hạnh “KHẨU NGHIỆP HOÀ HỢP”này. Nó chính là mạng sống của các bạn. Các bạn hãy cố gắng giữ gìn để bảo vệ mạng sống và cũng là để sống với một tâm hồn cao thượng không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai.

GIỚI ĐỨC THIỆN NGỮ THỨ NHẤT: TỪ BỎ NÓI LỜI ĐỘC ÁC

 “TỪ BỎ NÓI LỜI ĐỘC ÁClà một hành động đạo đức ngôn ngữ làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Người, làm Thánh đều cần phải học hiểu cho thông suốt và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh ngôn ngữ để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Đó là những đức hạnh làm Người, làm Thánh như trên đã nói, các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có sống được như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Còn sống ngược lại những đức hạnh ngôn ngữ này thì các bạn sẽ gặp muôn vàn khổ đau, biến cuộc sống thế gian này thành cảnh con người chà đạp giết hại lẫn nhau, tranh giành từng miếng ăn để sống, biến cảnh giới thế gian này thành địa ngục trần gian.

GIỚI ĐỨC VỀ NGÔN NGỮ TỪ BỎ NÓI LỜI ĐỘC ÁC

Từ bỏ nói lời độc ác là một giới đức dạy về ngôn ngữ. Cho nên muốn làm người thật là con người thì các bạn phải cố gắng giữ gìn đức hạnh này. Nhất là vì sự sống của mọi người các bạn phải chấp nhận đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người thì các bạn nên lưu ý về những lời nói của chính mình trước khi nói ra.

Xin thưa cùng các bạn! Lời nói của con người ác độc hơn loài thú dữ, hơn loài quỉ dữ, sắc bén hơn thư hùng kiếm. Khổng Minh dùng lời nói mà Chu Du phải chết. Trước khi chết Chu Du than rằng: “Trời sinh Chu Du sao lại sinh Gia Cát Lượng”. Trương Lương dùng tiếng tiêu diệt tan quân Sở Bá Vương Hạng Vũ. Vậy lời nói ác độc như thế nào? Lời nói ác độc có nhiều loại:

1- Chửi mắng, mạ lị, mạt sát người khác, đó là lời nói ác độc.

2- La lớn tiếng, nạt nộ khiến cho người khác sợ hãi, đó là lời nói ác độc.

3- Nói châm biếm, chế giễu người, khiến cho người ta xấu hổ đau khổ, đó là lời nói ác độc.

4- Nói vu khống người, nói oan ức cho người, người ta không làm điều xấu, mình nói người ta làm điều xấu, đó là lời nói độc ác.

5- Nói lưỡi hai chiều, đó là nói lời độc ác.

6- Xưng hô gọi nhau bằng: mày, tao, mi, tớ, v.v.. đó là nói lời độc ác.

7- Nói tục tỉu, chửi thề, đó là nói lời độc ác.

8- Nói mắng mỏ với nhau, đó là nói lời độc ác.

9- Khi nói đến một người nào mà gọi là “đồ đó” hay “thứ đó”, đó là nói lời độc ác.

10- Hù dọa hâm he khiến cho người khác sợ, đó là lời nói độc ác.

Xét qua những lời nói độc ác trên đây của một người nào thì các bạn biết ngay người đó đã tự biến mình thành một con thú độc ác và hung dữ; một con quỉ dạ xoa, một con người mà ai nghe thấy cũng sợ hãi và tránh xa.

Thường con người sinh ra mang nghiệp cũ hung ác, tức thói quen, vì thế bản chất con người rất hung dữ, hung dữ hơn loài ác thú, ác quỉ. Vì thế, các bạn muốn trở thành một người tốt, một người có đạo đức thì ngay từ bây giờ các bạn hãy từ bỏ những lời nói độc ác như trên đã dạy.

Kính thưa các bạn! Các bạn nên hiểu: mười loại lời nói trên đây là những lời vô văn hóa, kém đạo đức. Một người đã biết những lời nói này vô văn hóa và kém đạo đức mà không chịu từ bỏ, luôn luôn sử dụng những ngôn ngữ ấy thì họ có khác gì là một con thú vật. Một người vô giáo dục đạo đức cũng vậy, họ là một người vô minh. Họ là một người không đáng để cho mọi người cung kính, tôn trọng và làm bạn.

Kính thưa các bạn! Là một con người cần phải sống có đạo đức nhân bản - nhân quả thì những lời nói độc ác vô văn hoá, kém đạo đức như trên đây thì các bạn phải từ bỏ ngay tức thời, nhất định không bao giờ nói những lời nói đó nữa. Những lời nói ấy đã không lợi ích cho các bạn mà còn có hại cho các bạn nữa.

Cho nên muốn trở hành một con người thật là con người thì các bạn hãy từ bỏ những lời nói độc ác. Nó là những lời nói không hay ho gì các bạn ạ!.

Người Phật tử tu theo Phật muốn cho khẩu nghiệp được thanh tịnh hoàn toàn thì các bạn đừng bao giờ nói những lời nói này.

Các bạn nên lưu ý khi các bạn nói ra những lời nói trên đây, người có trí, có đạo đức, họ sẽ không tha thứ các bạn, họ xem các bạn là những người xấu, người ác độc các bạn có biết không?

GIỚI HẠNH VỀ NGÔN NGỮ TỪ BỎ NÓI NHỮNG LỜI ĐỘC ÁC

Hành động từ bỏ nói những lời độc ác là những oai nghi tế hạnh về ngôn ngữ của một người có đạo đức, một người đáng khen, đáng ca ngợi và đáng làm gương cho mọi người soi. Bởi vì khi từ bỏ nói những lời độc ác là phải nói những lời êm dịu, hiền hoà, ngọt ngào v.v..

Kính thưa các bạn! Làm người các bạn nên sống có oai nghi tế hạnh, về ngôn ngữ dù các bạn có giận dữ đến đâu thì các bạn cũng nên ôn tồn nhã nhặn, giữ gìn từng lời nói cho ngọt ngào êm dịu chứ đừng quá thô lỗ dùng những lời nói quá độc ác.

Các bạn hãy nhìn xem một người đi đến người này nói xấu người kia, thì con người ấy có ra gì, phải không các bạn?

Trong cuộc đời ai cũng muốn mình tốt, mình có đạo đức, chứ có ai muốn mình xấu ác bao giờ; chứ có ai muốn mình là kẻ hung bạo, ác độc, dữ tợn, tàn nhẫn, v.v.. Nhưng các bạn không lưu ý đến những lời nói độc ác của các bạn thì nó sẽ tố cáo và xác định các bạn là những người độc ác hung dữ, cho nên kẻ nói xấu người khác là kẻ ác độc, hung dữ, là người không tốt, là người sống không có đức hạnh, vô văn hoá, kém đạo đức về ngôn ngữ thì chúng ta không nên thân cận với những người ấy.

GIỚI HÀNH TỪ BỎ NÓI LỜI ĐỘC ÁC

Kính thưa các bạn! Như các bạn đã biết lời nói độc ác là lời nói vô văn hóa, kém đạo đức. Vì thế, hằng ngày các bạn nhớ tác ý: “Miệng không được nói những lời độc ác, nói những lời độc ác là làm khổ mình, khổ người, phải chấm dứt từ bỏ nói những lời độc ác” hoặc các bạn tác ý ngắn ngọn hơn: “Phải chấm dứt từ bỏ ngay lời nói xấu người khác”.

Hằng ngày, các bạn siêng năng tác ý như vậy thì các bạn sẽ không bao giờ dụm năm, dụm ba nói xấu người khác, hoặc dùng những ngôn ngữ thô lỗ vô văn hoá, kém đạo đức v.v..

Muốn trở thành người có ngôn ngữ tốt, có đạo đức, có văn hóa thì cần phải siêng năng tác ý như trên đã dạy thì chắc chắn khẩu nghiệp của các bạn sẽ thanh tịnh vô cùng, lời nói của các bạn sẽ có đầy đủ uy tín đối với mọi người.

GIỚI ĐỨC THIỆN NGỮ THỨ HAI: TRÁNH XA NÓI LỜI ĐỘC ÁC

TRÁNH XA NÓI LỜI ĐỘC ÁC”là một hành động đạo đức ngôn ngữ làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Người, làm Thánh đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh ngôn ngữ để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Đức hạnh ngôn ngữ để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, để đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho các bạn. Có sống như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Còn sống ngược lại đức hạnh ngôn ngữ này thì các bạn sẽ gặp muôn vàn khổ đau, biến cuộc sống thế gian này thành cảnh con người chà đạp giết hại lẫn nhau, tranh giành từng miếng ăn để sống, biến cảnh giới thế gian này thành địa ngục trần gian.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ TRÁNH XA NÓI NHỮNG LỜI ĐỘC ÁC

Tránh xa lời nói độc ác là một giới luật dạy về đạo đức ngôn ngữ.

Phần đông con người ở đời ít ai để ý về đạo đức ngôn ngữ này.

Xưa đức Khổng Phu Tử dạy người phụ nữ có 4 đức: công, dung, ngôn, hạnh. Nhưng ngày nay mọi người đã quên mất những lời dạy này, khiến cho những người phụ nữ về ngôn ngữ thật là nhiều chuyện. Ngôn ngữ dịu dàng của người phụ nữ không còn nữa, thật là uổng thay!

Người phụ nữ ngày nay hay đem chuyện thiên hạ nói ra, nói vào, phần đông là nói xấu người khác, nói như vậy không có nghĩa là nói toàn cả chị em phụ nữ nhiều chuyện hết. Chúng ta phải công nhận người phụ nữ nhiều chuyện hơn bên nam giới, nhưng không phải nam giới không có người nhiều chuyện. Người phụ nữ nói xấu người khác còn dễ coi, còn người nam giới nói xấu người khác thì rất khó coi, trông rất kỳ lạ. Người nam nói xấu người khác, đó là bản chất của người nữ, nhưng mang lốt người nam thật là xấu hổ!

Hiện giờ, nam giới cũng rất nhiều chuyện, cho nên, nói chung là những con người ấy đều thiếu đạo đức về ngôn ngữ một cách trầm trọng.

Phần đông con người ở đời ít ai để ý về đạo đức ngôn ngữ nên thường mắc phải những lỗi lầm về ngôn ngữ, nói những lời độc ác.

Trong giới từ bỏ nói những lời độc ác có dạy 10 loại ngôn ngữ nói lời độc ác. Xét cho cùng, thì không có người nào không vi phạm những lời nói độc ác trên đây.

GIỚI HẠNH NGÔN NGỮ TRÁNH XA NÓI NHỮNG LỜI ĐỘC ÁC

Kính thưa các bạn! làm người khi thấy những người khác nói xấu người khác thì các bạn nên tránh xa những người đó, không nên làm bạn với những người đó làm bạn với những người đó họ sẽ đặt điều nói xấu các bạn với những người khác các bạn ạ! Tránh xa người nói lời độc ác tức là tránh xa người nói xấu người khác, hành động tránh xa tức là thực hiện đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.

Như các bạn đã biết trên đời này không có một người nào không bực tức, khổ đau khi nghe người khác mạ lỵ, mạt sát mình, khi nghe người khác nạt nộ, la hét chưởi mắng mình, khi nghe người khác vu khống nói oan ức cho mình…, cho nên tránh xa những người nói lời độc ác là một hành động đạo đức cao thượng tuyệt vời sống không làm đau khổ cho mình, cho người và cho cả hai.

Hãy tránh xa lời nói độc ác.

Muốn tránh xa lời nói độc ác thì các bạn hãy luôn luôn tác ý: Lời nói độc ác là lời nói vô đạo đức khiến cho người khác đau khổ và tức giận. Từ đây ta hãy tránh xa hay từ bỏ lời nói ấy” hoặc tác ý ngắn gọn hơn: “Hãy tránh xa lời nói độc ác, chấm dứt lời nói độc ác”.

Khi các bạn biết mình hay đem chuyện người khác nói với người này người kia thì các bạn nên tác ý thường xuyên những câu tác ý trên đây với nhiệt tâm quyết tâm bỏ tránh nói chuyện người khác hay nói xấu người khác.

Đem chuyện người này nói với người kia là một hành động xấu xa hèn hạ, sống thiếu tinh thần đoàn kết thương yêu nhau.

Người nói lời độc ác là những người mà các bạn cần phải cảnh giác, đề phòng, luôn luôn tránh xa không nên tiếp cận. Tiếp cận với những người này các bạn không đủ năng lực thuyết phục thì rất nguy hiểm cho các bạn.

Kính thưa các bạn! Phần đông chị em phụ nữ thường hay mang tật nhiều chuyện lắm mồm, lắm miệng. Xin các bạn cố gắng theo phương pháp giới hành trên đây để khắc phục ngôn ngữ của các bạn; để trở thành những con cháu của những bậc anh thư Trưng Vương, Triệu Ẩu có những đạo đức ngôn ngữ tuyệt vời mới xứng đáng là con Tiên, cháu Rồng. Các bạn có nghe lời nói của bà Triệu Ẩu chưa?

- Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tỳ thiếp cho người!”[1].



[1] - Câu này dẫn theo sách Lịch sử Việt Nam (Khoa học xã hội 1971)

GIỚI ĐỨC THIỆN NGỮ THỨ BA: NÓI NHỮNG LỜI KHÔNG LỖI LẦM

 NÓI NHỮNG LỜI KHÔNG LỖI LẦMlà một hành động đạo đức về ngôn ngữ làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy đức hạnh về ngôn ngữ để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Đức hạnh về ngôn ngữ để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai là để đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có nói được như vậy các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Còn sống ngược lại đức hạnh về ngôn ngữ này thì các bạn sẽ gặp muôn vàn sự khổ đau, biến cuộc sống thế gian này thành cảnh con người chà đạp giết hại lẫn nhau, tranh chấp hơn thua, giành giựt từng miếng ăn để sống, biến cảnh giới thế gian này thành địa ngục.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI KHÔNG LỖI LẦM

Kính thưa các bạn! Người ở đời thường không lưu ý đến lời nói của mình. Vì thế, lời nói thường hay lỗi lầm. Lời nói thường hay lỗi lầm là đem đến sự đau khổ cho mình cho người không phải là ít. Phải không các ban?

Một người có đạo đức luôn luôn cẩn thận về lời nói, khi muốn nói ra một điều gì họ đều cân nhắc kỹ lưỡng rồi mới phát ngôn. Do sự phản tỉnh từng lời nói như vậy, nên họ nói ra không có lỗi lầm. Vậy những lời nói nào là những lời nói lỗi lầm?

Lời nói lỗi lầm có rất nhiều, ở đây chúng tôi sẽ liệt kê ra một số để các bạn suy ngẫm, nếu các bạn muốn hiểu biết về ngôn ngữ lỗi lầm thì xin các bạn hãy đọc Đạo Đức Làm Người tập 3.

1-      Lời nói không chân thật.

2-      Lời nói hung dữ.

3-      Đặt điều nói xấu người khác.

4-      Đem chuyện người này nói với người kia, đem chuyện người kia nói với người này.

5-      Xưng hô một cách phách lối.

6-      Nói oan ức cho người khác.

7-      Nói hai chiều.

8-      Nói lời thô lỗ tục tĩu.

9-      Nói lời li gián.

10-   Nói lật lọng.

Ngược lại, mười lời nói lỗi lầm trên đây là những lời nói không lỗi lầm. Dựa theo những lời nói lỗi lầm này mà chuẩn bị cho các bạn không nói có những lời lỗi lầm thì không khó khăn. Phải không các bạn?

Thưa các bạn! Tất cả những lời nói trên đây là những lời nói lỗi lầm, mong các bạn khi nói ra cần phải cẩn thận dè dặt, đừng để những lời nói lỗi lầm làm mất giá trị của một con người có học thức có văn hoá. Người nói ra những lời lỗi lầm này mang đến tai hại rất lớn, làm khổ mình làm khổ người và đôi khi làm khổ cả hai.

Đạo đức về ngôn ngữ không chấp nhận những lời nói lỗi lầm, nếu một người hiểu biết đạo đức về ngôn ngữ thì không bao giờ lầm lỗi về lời nói của mình.

Dùng những lời mạ lị, mạt sát, chê bai, chỉ trích, bài bác người khác là những lời nói lỗi lầm rất lớn, rất nặng. Là một con người phải biết tôn trọng con người. Mình phải biết tôn trọng người khác thì người khác mới tôn trọng mình. Vậy mình mạt sát, mạ lị… người khác, và như vậy mình có tôn trọng mình không? Mình không tôn trọng thì ai tôn trọng mình. Lời nói lỗi lầm của các bạn là các bạn đã tự chà đạp lên giá trị danh dự của các bạn.

Dùng lời nói xấu người khác tức là các bạn đã phơi bày những cái xấu của các bạn. Các bạn tưởng rằng các bạn nói xấu người khác là các bạn tốt sao? Các bạn lầm! Người có đạo đức về ngôn ngữ sẽ đánh giá các bạn, họ không tôn trọng các bạn đâu, họ sẽ tránh xa các bạn như tránh xa những loại vi trùng nguy hiểm.

Sau khi hiểubiết giá trị về lời nói rất quan trọng, nên “ĐỨC HẠNH NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI KHÔNG LỖI LẦM”các bạn cần phải giữ gìn đừng để vi phạm những lỗi lầm này để xứng đáng làm người, làm Thánh Tăng, làm Thánh Ni và làm Thánh Cư sĩ.

GIỚI HẠNH NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI KHÔNG LỖI LẦM

Kính thưa các bạn! “GIỚI HẠNH NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI KHÔNG LỖI LẦM”là những oai nghi tế hạnh về ngôn ngữ của một con người. Người nào sống đúng như những lời dạy trên đây là những thiện hữu tri thức của mọi người, là những bậc thầy Trời, Người, là những người xứng đáng làm gương cho chúng ta soi.

Kính thưa các bạn! Trong cuộc đời này các bạn rất khó gặp được những bậc “NÓI NHỮNG LỜI KHÔNG LỖI LẦM”.Có đúng như vậy không các bạn?

“GIỚI HẠNH NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI KHÔNG LỖI LẦM”là một đức hạnh cao đẹp vô cùng. Vì thế, các bạn hãy cố gắng giữ gìn ngôn ngữ trước khi nói ra. Lời nói đem lại sự an vui, hạnh phúc cho mình, cho người là lời nói như vàng bạc châu báu, v.v..

GIỚI HÀNH NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI KHÔNG LỖI LẦM

“GIỚI HÀNH NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI KHÔNG LỖI LẦM”là những pháp hành tuyệt vời về ngôn ngữ mà mọi người cần phải tu tập và giữ gìn nghiêm chỉnh không hề vi phạm vào những lỗi lầm về những ngôn ngữ này, thì các bạn sẽ thấy sự an vui và hạnh phúc vô cùng vô tận của đời mình.

Kính thưa các bạn! Hiện giờ cái hiểu biết qua một người khác bằng sự phỏng đoán của họ mà các bạn dựa vào đó nói ra, coi chừng lời nói của các bạn sẽ lỗi lầm, nhất là lỗi lầm về tội ác ngữ.

Muốn thực hiện những lời nói không lỗi lầm thì các bạn luôn luôn phải phản tỉnh lại những lời nói của mình trước khi nói. Những lời nói nào làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai thì nhất định không nói ra lời nói ấy, còn những lời nói nào không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai thì những lời nói ấy các bạn sẽ nói ra. Có phản tỉnh từng lời nói như vậy, lời nói của các bạn sẽ không có lỗi lầm. Và vì vậy, các bạn đã thực hành “GIỚI HÀNH NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI KHÔNG LỖI LẦM”.Nếu các bạn đã thực hành được như vậy thì tâm các bạn sẽ bất động trước các pháp và các cảm thọ, một trạng thái tâm giải thoát tuyệt vời.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ THỨ TƯ: NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP TAI

NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP TAI”là một hành động đạo đức ngôn ngữ làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học và sống đúng đức hạnh ngôn ngữ này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh ngôn ngữ để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Đức hạnh ngôn ngữ để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai là những đức hạnh của những bậc Thánh, Hiền như trên đã nói. Đó là những đức hạnh các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có sống như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Còn sống ngược lại đức hạnh ngôn ngữ này thì các bạn sẽ gặp muôn vàn sự khổ đau, cuộc sống thế gian này là cảnh chà đạp giết hại lẫn nhau, biến cảnh giới thế gian này thành địa ngục trần gian.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP TAI

Giới đức ngôn ngữ nói những lời đẹp tai là một giới luật đức hạnh dạy về lời nói, khi nói ra lời khiến cho người nghe vui lòng, đẹp ý; lời nói mang lại cho người nghe một sự cảm mến; một niềm vui an lạc và hạnh phúc.

Bởi vậy, làm người các bạn nên tránh xa nói những lời độc ác, mà hãy nói những lời êm tai đẹp ý; mà hãy nói những lời đem lại hạnh phúc cho nhau. Trong cuộc đời này các bạn tìm được một người nói những lời đẹp tai thì quá khó. Phải không các bạn?

Suốt một cuộc đời gần tám mươi tuổi chúng tôi cố gắng tìm kiếm một người luôn luôn có những lời nói đẹp tai, nhưng tìm mãi không ra, sắp sửa đi vào lòng đất mẹ rồi mà con người ấy vẫn không thấy bóng dáng nơi đâu.

Bởi vậy, từ khi được học tu giới luật đức hạnh nhân bản - nhân quả của Phật giáo chúng tôi thấy rõ ràng chỉ có Phật giáo mới có những đức hạnh này.

“GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP TAI”gồm có:

1-        Lời ca ngợi khen tặng đúng chánh pháp.

2-        Lời nói chia sẻ những nỗi niềm ưu tư với những người khác.

3-        Lời nói nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, êm dịu v.v..

4-        Lời nói gợi lòng yêu thương quê hương Tổ Quốc.

5-        Lời nói gợi lòng hiếu hạnh đối với cha mẹ.

6-        Lời kêu gọi thiết tha giúp đỡ những người bất hạnh.

7-        Lời khuyên lơn an ủi giúp cho người khác bình tĩnh để vượt qua những chặng đường khó khăn đầy chông gai và hiểm nguy.

8-        Tiếng xưng hô ngọt ngào: ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì, cậu mợ, anh em, chị em, con cháu v.v..

9-        Lời nói tạo duyên đoàn kết, gây tình yêu thương, xả lòng thù hận.

10-    Lời kêu gọi thương yêu sự sống của muôn loài, đừng làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.

Trên đây là những lời nói đẹp tai, xin các bạn hãy cẩn thận giữ gìn những lời nói này, nó sẽ mang đến cho các bạn một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự.

Làm được như vậy là các bạn đã thực hiện “GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP TAI”.Chính giới luật này đã giúp cho các bạn sống một đời sống đạo đức nhân bản – nhân quả toàn thiện.

GIỚI HẠNH NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP TAI

 “GIỚI HẠNH NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP TAI”là những oai nghi tế hạnh về những lời nói đẹp tai như trên đây đã dạy các bạn, nhưng các bạn đã học hiểu và tiếp thu được thì hãy cố gắng khắc phục tâm mình để thực hiện cho bằng được những lời nói ngọt ngào đẹp tai ấy. Chính nó sẽ mang lại hạnh phúc an lạc cho các bạn, chomọi người.

Vì đạo đức và lợi ích cho con người cùng sống chung nhau trên hành tinh này các bạn hãy lấy những ngôn ngữ đạo đức này làm cuộc sống hằng ngày cho mình, cho người. Đó là những oai nghi tế hạnh “GIỚI HẠNH NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP TAI”mà mọi người phải thấy trách nhiệm bổn phận làm người, là phải xem những oai nghi tế hạnh về ngôn ngữ này là cao quý tuyệt vời, là vô giá.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ THỨ NĂM: NÓI NHỮNG LỜI DỄ THƯƠNG

NÓI NHỮNG LỜI DỄ THƯƠNG” là một hành động đạo đức thiện ngữ làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Người, làm Thánh đều cần phải học và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh ngôn ngữ để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai, để đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau.

Có sống như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Còn sống ngược lại đức hạnh ngôn ngữ NÓI NHỮNG LỜI DỄ THƯƠNGthì các bạn sẽ gặp muôn vàn sự phiền não, khổ đau. Biến cuộc sống thế gian này thành cảnh chà đạp giết hại lẫn nhau và tranh giành từng miếng ăn manh áo để sống. Từ đó, cảnh sống trên thế gian này thành địa ngục đầy rẫy đau khổ.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI DỄ THƯƠNG

Làm người các bạn hãy cố gắng giữ gìn “GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI DỄ THƯƠNG”. Vì lời nói rất quan trọng cho cuộc sống giao tiếp với nhau.

Kính thưa các bạn! Có những lời nói đem đến sự khổ đau và cũng có những lời nói đem đến sự hạnh phúc, an vui.

“GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI DỄ THƯƠNG”là dạy các bạn nên nói những lời ái ngữ, êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn v.v.. Lúc nào cũng phải cẩn thận không được phát ngôn bừa bãi, không được nói nghịch ý trái lòng mọi người, không được mắng chưởi mạ nhục người khác, không được to tiếng nạt nọ người khác, không được nói xấu người khác. Đó là đức hạnh về ngôn ngữ các bạn cần phải áp dụng hằng ngày vào đời sống, nó sẽ mang lại lợi ích cho các bạn và mọi người.

GIỚI HẠNH NGƠN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI DỄ THƯƠNG

Giới hạnh về ngôn ngữ nói những lời dễ thương là những oai nghi tế hạnh về những lời nói, khi nói ra khiến người nghe có cảm tình thương mến, tức là oai nghi tế hạnh truyền đạt ngôn ngữ làm cho người nghe dễ chịu có thiện cảm, có tình thương yêu chân thật. Muốn được vậy, các bạn nên cẩn thận dè dặt khi nói ra phải phản ảnh từng lời nói; khi nói ra phải là lời nói thân thiện, ái ngữ; khi nói ra phải tránh những lời nói chạm tự ái người khác; khi nói ra phải tránh xa những lời nói phách lối, kiêu căng tự đắc, tự phụ; khi nói ra không được nói xấu người khác, không được nói chuyện xấu của người khác; khi nói ra phải nói tốt người khác, nói chuyện tốt của người khác; khi nói ra không được nói thêu dệt, không được nói lật lọng; khi nói ra không được nói oan ức cho người khác, vu khống người khác; khi nói ra phải nói những lời chân thật, không dối trá gian xảo, đó là đức hạnh về ngôn ngữ mà làm người ai ai cũng phải học tập và rèn luyện những ngôn ngữ này để xứng đáng là một người có đạo đức.

Cho nên, khi nói ra phải nói đúng những tiêu chuẩn đã học và ngôn ngữ thiện không được nói theo định kiến, thành kiến hay tưởng kiến hoặc ảnh hưởng những kiến giải của người khác, của kinh sách phi đạo đức nhân bản, hoặc nói theo xu hướng của người khác, của xu hướng thời đại. Khi muốn nói ra một điều gì thì điều ấy phải phù hợp với tiêu chuẩn ngôn ngữ nói những lời dễ thương. Đó là những giới đức về ngôn ngữ nói những lời dễ thương.

GIỚI HÀNH NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI DỄ THƯƠNG

Muốn có được oai nghi tế hạnh về ngôn ngữ lời nói dễ thương thì các bạn phải thường xuyên tác ý câu này: “Lời nói dễ thương là một hành động đạo đức cao quý về ngôn ngữ Ta phải nhớ sử dụng hằng ngày để đem lại sự an vui cho mình cho người, Ta không được quên”. Đó là giới hành thực hiện đạo đức về ngôn ngữ lời nói dễ thương thật là tuyệt đẹp. Xin các bạn ghi nhớ những giới hành này để áp dụng vào đời sống hằng ngày của các bạn thì các bạn sẽ thấy tâm mình ly dục ly ác pháp rất rõ ràng và cụ thể.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ THỨ SÁU: NÓI NHỮNG LỜI THÔNG CẢM ĐẾN TÂM MỌI NGƯỜI

 “NÓI NHỮNG LỜI THÔNG CẢM ĐẾN TÂM MỌI NGƯỜI” là một hành động đạo đức ngôn ngữ làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai thì đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh ngôn ngữ để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Nó đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có sống như vậy các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Còn ngược lại sống không đúng đức hạnh ngôn ngữ này thì sẽ có muôn vàn sự khổ đau xảy đến, biến cuộc sống thế gian này thành cảnh giới địa ngục trần gian.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI THÔNG CẢM ĐẾN TÂM MỌI NGƯỜI

 “NÓI NHỮNG LỜI THÔNG CẢM ĐẾN TÂM MỌI NGƯỜI”là một đức hạnh về ngôn ngữ, làm người ai ai cũng đều phải học, hiểu và áp dụng vào đời sống hằng ngày của mình, để mang lại sự an vui hạnh phúc cho mình, cho người.

Nói những lời thông cảm đến tâm mọi người là những lời nói phải ôn tồn, nhẹ nhàng, khiêm tốn, nhất là lời nói phải chân thật, thông hiểu mọi tâm lý của kẻ khác. Ví dụ: Đây là lời thơ, lời ca thông cảm đến tâm mọi người:

 “ Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc nửa soi dậm trường”

Chinh Phụ Ngâm

“Công cha như núi Thái sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”

Ca dao

“Dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng”

Truyện Kiều

Đây là những lời thơ cảm thông vào lòng người khi ai đã đọc những câu thơ này thì không thể nào tình người không rung động. Phải không các bạn?

Cho nên“NÓI NHỮNG LỜI THÔNG CẢM ĐẾN TÂM MỌI NGƯỜI”là khó lắm các bạn ạ! Lời nói như thế nào để cảm thông đến tâm của mọi người?

Xin các bạn hãy suy ngẫm!!!

“Dốc bồ thương kẻ ăn đong

Vắng chồng thương kẻ nằm không một mình”

Đọc hai câu ca dao này các bạn sẽ cảm thông đến nỗi khổ của những nghèo và nỗi vắng vẻ của người chinh phụ.

Nói những lời nghịch ý trái lòng thì dễ như: mạ lị, mạt sát, chửi mắng người, nói xấu người v.v.. Những lời nói ấy không bao giờ là lời nói cảm thông đến tâm mọi người được. Nói những lời cảm thông đến tâm mọi người là người có đức hạnh về ngôn ngữ. Nếu không có đức hạnh về ngôn ngữ thì không bao giờ nói được những lời ấy. Nếu muốn có những lời nói cảm thông đến tâm mọi người như vậy thì phải có lòng yêu thương chân thật, phải cùng sống trong cảnh ngộ, phải có hoàn cảnh như nhau thì lời nói cảm thông mới dễ dàng. Có đúng như vậy không các bạn?

GIỚI HẠNH NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI THÔNG CẢM ĐẾN TÂM MỌI NGƯỜI

Kính thưa các bạn! Những oai nghi tế hạnh về ngôn ngữ lời nói cảm thông đến tâm mọi người, nó được thực hiện nơi lòng yêu thương chân thật mới nói ra được những lời này.

Ví dụ 1: Tai nạn giao thông để lại một sự đau thương cho một người vợ trẻ và hai đứa con thơ năm, sáu tuổi. Ai có hoàn cảnh này thì mới cảm thông người vợ trẻ goá chồng và hai đứa con thơ. Nhờ có sống trong hoàn cảnh này nên mới có những lời nói cảm thông đến tâm mọi người.

Ví dụ 2: Khi rút mũi tên ra vượn mẹ biết mình không thể sống được, nên trao con cho chồng, rồi buông tay rơi xuống đất. Ai có làm mẹ mới cảm thông được lòng mẹ thương con

Ví dụ 3: Ai nỡ lòng nào nhai thịt chúng sanh và nuốt vào lòng. Ai có lòng thương yêu sự sống của chúng sanh thì mới cảm thông được sự khổ đau của chúng sanh trong lời nói này.

Ví dụ 4: Trước giờ phút chia tay đi vào cõi vĩnh hằng của một người mẹ, đứa con ôm mẹ kêu khóc: “Mẹ ơi! Mẹ đừng bỏ con...”. Ai có sống trong cảnh này các bạn mới cảm thông tiếng kêu nức nở của đứa con sắp mất mẹ. Phải không các bạn?

Trên đây, là giới hạnh nói những lời cảm thông đến mọi người. Nếu một người nào sống và giữ gìn những giới hạnh ngôn ngữ này trọn vẹn thì mọi người ai ai cũng thương mến và kính phục.

GIỚI HÀNH NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI THÔNG CẢM ĐẾN TÂM MỌI NGƯỜI

Muốn thực hành “GIỚI HÀNH NGÔN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI THÔNG CẢM ĐẾN TÂM MỌI NGƯỜI”thì các bạn thường tu tập Tứ Vô Lượng Tâm: tâm từ, tâm bi, tâm hỉ, tâm xả câu hữu với phương pháp như lý tác ý như câu dưới đây:

“Tất cả chúng sanh trên hành tinh này đều có sự đau khổ như nhau. Chúng ta hãy thương yêu, nói với nhau những lời nhẹ nhàng, êm ái, cảm thông và chia sẻ những nỗi niềm đau khổ của nhau”.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ THỨ BẢY: NÓI NHỮNG LỜI TAO NHÃ

 “NÓI NHỮNG LỜI TAO NHÔ là một hành động đạo đức thiện ngữ làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh thiện ngữ để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Chính giới luật đức hạnh ngôn ngữ này sẽ đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có sống như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Còn ngược lại sống không đức hạnh thiện ngữ này thì sẽ có muôn vàn sự khổ đau, biến cuộc sống thế gian này thành địa ngục trần gian.

GIỚI ĐỨC THIỆN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI TAO NHÃ

“GIỚI ĐỨC THIỆN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI TAO NHÔlà gì?

Là những đức hạnh về ngôn ngữ những lời nói thanh cao, trang nhã và lịch sự. Muốn biết rõ những lời nói nào là thanh cao, trang nhã và lịch sự thì hãy dựa vào những ví dụ dưới đây:

Ví dụ 1: “Kính thưa các bạn! Những điều chúng tôi đã viết trên đây, có những điều chi sơ sót, xin các bạn vui lòng chỉ giáo cho, chúng tôi thành kính tri ân”, đó là những lời nói thanh cao, trang nhã và lịch sự.

- “Đứa nào lười biếng ngồi chơi không chịu làm việc hãy đập nát đầu nó đi”,đó là những lời nói không thanh cao, trang nhã và lịch sự.

Ví dụ 2: “Cháu ngoan hãy lại đây bác thương cháu nhiều”, đó là những lời nói thanh cao, trang nhã và lịch sự.

“Mày hãy lại đây tao bảo”, đó là những lời nói không thanh cao, trang nhã và lịch sự.

Xét qua những ví dụ trên các bạn thấy: “GIỚI ĐỨC THIỆN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI TAO NHÔ,đúng là những hành động đạo đức ngôn ngữ tuyệt vời. Trong cuộc đời này có mấy ai lưu ý đến những đạo đức này. Có phải vậy không các bạn?

Những lời nói tao nhã là đức hạnh mang đến sự an vui cho mình và cho mọi người; mang đến cho mọi gia đình đầm ấm hạnh phúc; mang đến cho xã hội có trật tự an ninh. Vậy mong các bạn cố gắng tu tập rèn luyện để mỗi khi nói ra một điều gì bằng những lời nói tao nhã, thanh lịch.

GIỚI HẠNH THIỆN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI TAO NHÃ

 “GIỚI HẠNH THIỆN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI TAO NHÔlà những oai nghi tế hạnh về những lời nói thanh cao, trang nhã và lịch sự. Người biết sử dụng lời nói tao nhã thì không bao giờ có những lời nói thô tục, hung dữ, xảo trá, điêu ngoa, lật lọng, vu khống v.v..

Hành động cao đẹp của lời nói là lời nói phải thanh cao, trang nhã và lịch sự, vì thế làm người các bạn khi muốn nói ra một vấn đề gì thì cần phải đắn đo suy nghĩ kỹ rồi mới nói những lời tao nhã, thanh cao, lịch sự, đó là oai nghi tế hạnh của một con người trong lời nói mà không có một người nào chê được.

GIỚI HÀNH THIỆN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI TAO NHÃ

Lúc nào các bạn cũng muốn nói lời tao nhã thì các bạn nên thường xuyên tác ý câu này: “Hãy luôn luôn nói lời tao nhã, nó sẽ mang lại hạnh phúc an vui cho mình. Ta đừng nói lời bất nhã, nó sẽ mang lại sự khổ đau cho ta”. Đó là giới hành thiện ngữ nói những lời tao nhã.

GIỚI ĐỨC NGÔN NGỮ THỨ TÁM: NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP LÒNG NHIỀU NGƯỜI

 “NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP LÒNG NHIỀU NGƯỜIlà một hành động đạo đức ngôn ngữ làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.

Đây là một giới luật dạy về đức hạnh ngôn ngữ để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Đức hạnh thiện ngữ để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Đó là những đức hạnh làm Người, làm Thánh như trên đã nói, các bạn cần phải học hiểu, siêng năng tu tập và sống đúng những đức hạnh này để đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có sống được như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Còn sống ngược lại đức hạnh thiện ngữ này thì sẽ có muôn vàn khổ đau đến với các bạn, biến cuộc sống thế gian này thành địa ngục trần gian.

GIỚI ĐỨC THIỆN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP LÒNG NHIỀU NGƯỜI

Trong cuộc đời này, con người thường nói xấu nhau thì nhiều mà nói đẹp lòng nhau thì ít. Nhưng nói đẹp lòng nhiều người như thế nào?

Kính thưa các bạn! Nói đẹp lòng nhiều người là khen tặng, ca ngợi. Vậy khen tặng và ca ngợi như thế nào đúng chánh pháp? Và ngược lại là tà pháp. Xin các bạn lắng nghe Đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo! Nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp, hay tán thán chư Tăng, thời các ngươi không nên hoan hỉ, vui mừng, tâm không nên thích thú. Này các Tỳ Kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp, hay tán thán chư Tăng, mà nếu các ngươi hoan hỉ, vui mừng, và thích thú thời có hại cho các ngươi. Này các Tỳ Kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng, thời các ngươi hãy công nhận những gì đúng sự thật là đúng sự thật: “Như thế này, điểm này đúng sự thật, như thế này điểm này chính xác, việc này có giữa chúng tôi, việc này đã xảy ra giữa chúng tôi”.

Trên đây, đức Phật dạy khen ngợi là phải khen ngợi đúng sự thật, phải chính xác 100%, đó là khen ngợi đúng chánh pháp. Không được khen ngợi theo kiểu a dua, xu nịnh, bợ đỡ v.v.., đó là khen ngợi không đúng chánh pháp.

Như vậy khi muốn nói: “NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP LÒNG NHIỀU NGƯỜI”thì phải khen ngợi cá nhân hay tập thể đúng giới luật trong chánh pháp; phải nói theo những ý kiến hoặc ca ngợi ý kiến của những người khác là phải đúng giới luật đức hạnh. Còn ngược lại, không đúng giới luật chánh pháp mà ca ngợi khen tặng là a dua, xu nịnh, bợ đỡ v.v.. đó không phải “NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP LÒNG NHIỀU NGƯỜI”.

Kính thưa các bạn! “NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP LÒNG NHIỀU NGƯỜI”mà lời nói a dua, xu nịnh thì những lời nói đẹp lòng nhiều người có ích lợi gì? Chỉ là những người nịnh bợ, luồn cúi, cầu tước, mua danh thật là nhục nhã, đê hèn. Phải không các bạn?

Nói đẹp lòng người là lời nói khiến cho người khác vui lòng, nhưng là nói đúng sự thật.

Ví dụ 1: Nhà anh có cây bưởi ăn ngon tuyệt vời (nói đúng sự thật cây bưởi ngon).

Ví dụ 2: Trông tướng anh năm nay làm ăn phát tài (nói đúng sự thật tướng anh hân hoan khoẻ mạnh).

Ví dụ 3: Vợ chồng anh chị có mấy cháu ngoan giỏi mà ở đây ai cũng mến yêu (nói đúng sự thật các cháu học giỏi ngoan).

Những lời nói trên đây là “GIỚI ĐỨC THIỆN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP LÒNG NHIỀU NGƯỜI”,đó là đức hạnh ngôn ngữ mà mọi người nên ghi nhớ để giữ gìn lời nói làm đẹp lòng người mà người đệ tử của Phật lại cần giữ gìn đức hạnh này hơn vì nó là Phạm hạnh của lời nói toả ra từ tâm từ bi thương xót mình và mọi người.

GIỚI HẠNH THIỆN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP LÒNG NHIỀU NGƯỜI

Kính thưa các bạn! Trong cuộc sống hằng ngày, nếu mọi người ai cũng sống đầy đủ những oai nghi tế hạnh về ngôn ngữ nói những lời đẹp lòng người thì làm sao có sự khổ đau. Cho nên, lời nói đẹp lòng người là ngôn hạnh của những nhà đạo đức, nếu ngôn ngữ không có đạo đức thì cuộc đời này không có sự hạnh phúc an vui chân thật. Bởi vậy, các bạn là những con người được sinh ra làm người. Làm người có một vũ khí sắc bén nhất, đó là lời nói của các bạn, cho nên lời nói không được trau dồi đạo đức là một tai hại rất lớn cho bản thân, gia đình và xã hội. Vì thế, Đức Phật đã dạy:“Mỗi người được sinh ra đều mang theo ba nghiệp: thân hành nghiệp, khẩu hành nghiệp và ý hành nghiệp”. Trong ba nghiệp này, khẩu hành nghiệp là nặng nhất, nên được chia ra làm hai phần:

1-      Về ngôn ngữ

2-      Về ăn uống

Ở đây chúng tôi không nói về ăn uống mà nói về ngôn ngữ. Ngôn ngữ được chia ra làm bốn hành động nghiệp:

1-      Nói vọng ngữ

2-      Nói lời hung dữ

3-      Nói lật lọng

4-      Nói thêu dệt

Thân hành nghiệp, ý hành nghiệp mỗi nghiệp chỉ có ba nghiệp, còn khẩu hành nghiệp có đến bốn nghiệp, như vậy khẩu hành nghiệp nặng nhất. Phải không các bạn?

GIỚI HẠNH THIỆN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP LÒNG NHIỀU NGƯỜI

Do khẩu hành nghiệp nặng nhất nên các bạn phải dè dặt cẩn thận khi phát ngôn cần phải suy nghĩ chín chắn rồi mới nói. Đó là giới hạnh thiện ngữ.

Khi nói ra lời nói làm đẹp lòng mọi người như: “Bầu ơi! Thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”hoặc Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”hoặc“Thương người như thể thương thân” hoặc “Thố tử hồ bi” hoặc “Ai ơi! Đừng bỏ ruộng hoang, bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu” hoặc “Vì cuộc sống con người quá khổ đau các bạn hãy thương yêu và tha thứ cho nhau khi có lỗi lầm”. Những lời ca ngợi, khen tặng và tất cả những lời nói trên đây là giới hạnh thiện ngữ. Còn gọi là oai nghi tế hạnh ngôn ngữ của một người có đạo đức. Xin các bạn lưu ý và học tập, nó sẽ mang lại lợi ích cho các bạn.

GIỚI HẠNH THIỆN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP LÒNG NHIỀU NGƯỜI

Muốn nói những lời đẹp lòng nhiều người thì hằng ngày các bạn nên nhớ tác ý nhắc tâm: “Hãy nói những lời đẹp lòng nhiều người, tránh xa nói những lời làm mình khổ người khác khổ”.

Ca dao có câu: “Lời nói không mất tiền mua, lựa ăn, lựa nói cho vừa lòng nhau”. Người xưa đã nhắc nhở chúng ta như vậy, tại sao chúng ta lại không lựa lời nói đẹp lòng người mà lại đặt điều nói ác, nói xấu cho người khác vậy? Sinh ra làm người không ai là không mang nghiệp khổ đau. Thế nỡ lòng nào chúng ta dùng lời nói ác làm cho người khổ đau?

Cho nên, trong giới luật Phật dạy: “GIỚI HÀNH THIỆN NGỮ NÓI NHỮNG LỜI ĐẸP LÒNG NHIỀU NGƯỜI”.Vậy hằng ngày khi tiếp duyên với ai các bạn nên nói những lời đẹp lòng người để đức hạnh ngôn ngữ của các bạn ngày càng tỏ ngời lòng thương yêu rộng lớn bao la như năm châu bốn biển.

Ý NGHĨ VỀ BỘ SÁCH VĂN HOÁ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM

Kính thưa các bạn! Sau khi đọc xong bộ sách VĂN HOÁ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM các bạn đã học được những gì trong đây?

Trong bộ sách này các bạn đã học và rèn luyệnđức hạnh làm Người, làm Thánh về thân hành, khẩu hành, ý hành và những đức hạnh khác nữa, nó giúp cho các bạn có một đời sống làm người đúng nghĩa làm người và còn vượt hơn, đó là một đời sống Thánh thiện.

Một bộ sách VĂN HOÁ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAMlà một bộ sách phải mang đầy đủ tính chất văn hoá và đạo đức của người Việt Nam, mặc dù nguồn văn hoá này từ bên ngoài truyền vào trên 2000 năm tại quê hương này, nhưng nó đã được Việt hoá hoàn toàn theo tinh thần đạo đức của dân tộc Việt Nam. Cho nên, bộ sách VĂN HOÁ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAMlà bộ sách dạy đạo đức nhân bản – nhân quả của người Việt Nam soạn thảo để đem lại nền đạo đức nhân bản, sống không làm khổ mình, khổ người, cho con người trên hành tinh này tuỳ theo văn hoá và phong tục của mỗi nước.

Tuy nhiên, bộ sách đạo đức này còn phải có sự đóng góp nhiều hơn nữa của bậc cao minh, thạc đức để hoàn thành một chương trình giáo dục đào tạo đạo đức cho con người, chứ ở đây chúng tôi chỉ soạn thảo một cái khung sườn đại cương của nền đạo đức nhân bản – nhân quả mà thôi.

Vì tuổi cao sức yếu chúng tôi chỉ biên soạn đến đâu thì hay đến đó, còn hoàn thành sứ mạng bộ sách này, thì đó là phần của con cháu chúng ta ngày mai.

Chúng tôi nguyện ước bộ sách VĂN HOÁ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM,khi đến tay các bạn sẽ mang lại cho các bạn một niềm vui nho nhỏ, đó cũng đủ mãn nguyện, chúng tôi không còn ước mong gì hơn nữa.

Kính ghi

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC

MỤC LỤC TẬP II

MỤC LỤC

Lời nói đầu                                                                5

Lời bạt                                                                     19

CHƯƠNG I:Lợi ích của giới luật                               27

Tổng quát sự ích lợi của giới luật                             28

Điều lợi ích thứ nhất                                                38

Điều lợi ích thứ hai                                                  46

Điều lợi ích thứ ba                                                   50

Điều lợi ích thứ tư                                                    52

Điều lợi ích thứ năm                                                56

Điều lợi ích thứ sáu                                                  59

Điều lợi ích thứ bảy                                                 62

Điều lợi ích thứ  tám                                                65

Điều lợi ích thứ chín                                                68

Điều lợi ích thứ mười                                               71

Điều lợi ích thứ 11                                                   73

Điều lợi ích thứ 12                                                   75

Điều lợi ích thứ 13                                                   79

Điều lợi ích thứ 14                                                   81

Điều lợi ích thứ 15                                                   84

Điều lợi ích thứ 16                                                   87

Điều lợi ích thứ 17                                                   90

CHƯƠNG II:Nhóm sơ thiện thứ 1                            94

Giới thiệu tổng quát 9 giới luật...                              95

Cạo bỏ râu tóc                                                       111

Đắp áo cà sa                                                          121

Từ bỏ gia đình                                                       126

Sống không nhà cửa                                              137

Sống chế ngự thân                                                 142

Sống chế ngự lời nói                                              148

Sống chế ngư ý                                                      156

Bằng lòng với nhu cầu                                           161

Hoan hỉ sống an lành                                             168

CHƯƠNG III:Nhóm sơ thiện thứ 2                         181

Giới thiệu nhóm giới luật thứ 2                              182

Từ bỏ sát sanh                                                       184

Tránh xa sát sanh                                                   189

Bỏ trượng, gậy                                                       193

Biết tàm quý                                                          198

Có lòng từ                                                              205

Sống thương xót tất cả hạnh phúc...                       214

CHƯƠNG IV:Nhóm sơ thiện thứ 3...                  221

Giới thiệu nhóm giới luật ly tham                          222

Từ bỏ lấy của không cho                                       225

Tránh xa lấy của không cho                                  232

Chỉ lấy những vật đã cho                                       238

Chỉ mong những vật đã cho                                   245

Tự sống thanh tịnh                                                 249

Không trộm cướp                                                   255

CHƯƠNG V:Nhóm sơ thiện thứ 4                           263

Giới thiệu 7 giới đức ngôn ngữ                               264

Từ bỏ nói láo                                                         266

Tránh xa nói láo                                                    273

Nói những lời chân thật                                         279

Y chỉ trên sự thật                                                   285

Chắc chắn đáng tin cậy                                          292

Không lường gạt                                                    297

Không nói phản lại  đối với đời                             301

CHƯƠNG VI:Nhóm sơ thiện thứ 5                         307

Giới thiệu nhóm sơ thiện thứ năm                          308

Từ bỏ nói hai lưỡi                                                  310

Tránh xa nói hai lưỡi                                             315

Sống hoà hợp với những kẻ li gián                         320

Khuyến khích sống hoà hợp                                  327

Giới đức hoan hỉ sống trong hòa hợp                     331

Nói những lời đưa đến hoà hợp                             335

CHƯƠNG VII:Nhóm sơ thiện thứ 6                        342

Giới thiệu nhóm sơ thiện thứ sáu                           343

Từ bỏ nói lời độc ác                                               345

Tránh xa nói lời độc ác                                          351

Nói những lời không lầm lỗi                                  356

Nói những lời đẹp tai                                             362

Nói những lời dễ thương                                        366

Nói lời cảm thông tâm mọi người                           370

Nói những lời tao nhã                                            375

Nói những lời đẹp lòng nhiều người                       379

Ý nghĩ về bộ sách VHTT                                       386

 

HẾT


GIỚI THIỆU SÁCH

1.      Đường về xứ Phật (Mười tập, bộ mới).

2.      Những lời gốc Phật dạy (4 tập, bộ  mới - 2011).

3.      Văn hóa Phật giáo truyền thống (2 tập, bộ mới - 2011).

4.      Đạo đức làm người (Tập I, II...).

5.      Cẩm nang tu Phật (Hai tập).

6.      Thiền căn bản.

7.      Hành thập thiện & Tứ vô lượng tâm.

8.      Những chặng đường tu học của người cư sĩ.

9.      Thời khóa tu tập trong thời Đức Phật.

10.  Diễn đàn Chơn Như (tức Giáo án tu tập cho người cư sĩ vì chánh Phật pháp) (Tập I - VII).

11.  Giáo án rèn nhân cách lớp Ngũ Giới: Đức Hiếu Sinh (Tập I, II, III).

12.  Giáo án rèn nhân cách lớp Ngũ Giới: Đức Ly Tham (Tập I...).

       13.  Giáo án rèn nhân cách lớp Ngũ Giới:      Đạo Đức Gia Đình (Tập I...).

14.  Mười Đức Thánh Sa Di (Tập I, II).

15.  Giới đức Thánh Tăng, Thánh Ni.

16.  Định niệm hơi thở.

17.  Phật giáo có đường lối riêng biệt.

18.  Pháp môn niệm Phật tứ bất hoại tịnh

19.  Nghi thức thọ trai.

20.  Những lời tâm huyết...

21.  Mười hai cửa vào đạo (2009).

22.  Tạo duyên giáo hóa chúng sinh (mới 2009).

23.  Lòng yêu thương (2009).

24.  Linh hồn không có (2010 quý I).

25.  Muốn chứng đạo phải tu pháp môn nào? (2010)

26.  Ba mươi bảy phẩm trợ đạo (2010).

27.  Giới đức làm người – 2 tập (bộ mới - 2010).

28.  Lịch sử chùa Am (bộ mới - 2010).

29.  Linh hồn không có – tái bản lần I  (2010 quý IV).

30.  Sống một mình như con Tê Ngưu

31.  Lòng yêu thương – tập 2 (2011 quý I)

 


Trang mạng toàn cầu của các phật tử có đăng tải sách của Trưởng Lão Thích Thông Lạc:

http://www.chonnhu.net    http://www.chonlac.org

Ước mong mọi người sẽ cùng nhau sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh.


PHẬT TỬ XIN ẤN TỐNG KINH

“VĂN HÓA PHẬT GIO TRUYỀN THỐNG –TẬP II”

 

-          Phật tử Hà Nội

-          Phật tử Thái Nguyên

-          Phật tử Hải Phòng

-          Phật tử Bắc Ninh

-          Phật tử Hà Nam

-          Phật tử Ninh Bình

-          Phật tử Nghệ An, Hà Tĩnh

-          Phật tử Đồng Hới, Quảng Bình

-          Phật tử Phú Yên

-          Phật tử Đà Nẵng

-          Phật tử Huế Thừa Thiên

-          Phật tử Ninh Thuận

-          Phật tử Nha Trang, Khánh Hòa

-          Phật tử TP Hồ Chí Minh

-          Phật tử Đồng Nai

-          Phật tử Cần Thơ

-          Phật tử Đồng Tháp

-          Phật tử Châu Đốc, An Giang

-          Phật tử Cái Bè, Cai Lậy

-          Phật tử Long An

-          Phật tử Tây Ninh

-          Phật tử Lâm Đồng, Đà Lạt

-          Phật tử Tiền Giang, Mỹ Tho

-          Phật tử Sóc Trăng, Bạc Liêu

-          Phật tử Cà Mau, Nam Căn

-          Phật tử Bà Rịa, Vũng Tàu

-          Phật tử Phước Hải, Long Đất

-          Phật tử Hóc Môn, Bà Điểm

-          Phật tử Củ Chi, Gia Định

-          Phật tử Bình Dương

-          Phật tử Gò Dầu, Bến Cầu

-          Phật tử Tra Vỏ, Giang Tân

-          Phật tử Cẩm Giang

-          Phật tử Phước Hiệp

-          Phật tử Gia Bình, Bàu Tre

-          Phật tử Bình Lái, Lái Thiêu


VĂN HÓA PHẬT GIO TRUYỀN THỐNG –TẬP II

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

Phường Yên Hòa – Q.Cầu Giấy - Hà Nội

ĐT: (04) 37822845 - Fax: (04) 37822841

Chịu trách nhiệm xuất bản:

Nguyễn Công Oánh

Biên tập: Trần Xuân Lý

Bìa & Trình bày: Ngọc Phúc

Sửa bản in: Ngọc Phúc

Đối tác liên kết:

TU VIỆN CHƠN NHƯ

Điệnthoại: 066.3892911 - 0988094445

      Email: chonnhu2@gmail.com


Sốlượng in: 2.000 bản, khổ: 13 x 20,5 cm

In tại CTY CPHN IN KHUYN HC PHÍA NAM
(Tp.HCM. ĐT: 38164415)

Sốxuất bản: 1171-2010/CXB/111-248/TG