Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [02:11:35]
Nghe pháp âm: https://youtu.be/JX5A67XBZ38
Tên cũ: Tam Quy Ngũ Giới 1
https://thuvienchonnhu.net/audios/tam-quy-ngu-gioi-01-giu-tam-bat-dong-vuot-qua-dau-kho.mp3
(00:00) Trưởng lão: Huyền thoại một cái con người, vì vậy người ta huyền thoại đức Phật là một vị Bồ Tát ở trên cõi trời Đâu Suất giáng xuống thế gian này để mà dạy đạo điều này cũng không có nữa. Bởi vì cái con đường tu khi mà người ta nhập các định, khi mà người ta nhập các thiền định người ta tìm thế giới siêu hình gọi là cõi trời Đâu Suất - Ở nơi đâu ở trong không gian này, cho nên do vì vậy không có cõi trời Đâu Suất, nhưng mà có cái từ trường nhẫn nhục, cái từ trường của hạnh nhẫn nhục thì nó có và trong không gian của chúng ta có cái từ trường đó chứ không có cõi đó.
Do như vậy khi những nhà tu mà tới nơi tới chốn người ta mới hiểu rất rõ chứ không phải không. Vì vậy mà nói có Bồ Tát ở một cõi nào, ở cõi trời Đâu Suất mà giáng xuống hành tinh của chúng ta để trở thành một đức Phật thì không có. Cho nên chúng ta tin chắc rằng đức Phật do cha mẹ cũng sinh ra Ngài, rồi nuôi Ngài lớn khôn, rồi Ngài đi ra bốn cửa thành, Ngài thấy bốn cái nỗi khổ của bốn cái hiện tượng xảy ra của bốn cửa thành - Ngài thấy người bệnh, người già, người bệnh chết và một vị tu sĩ.
(01:20) Cho nên bốn cái cửa thành đó hiện qua bốn cái khổ đau của kiếp người: sanh, già, bệnh, chết. Nghĩa là con người không người nào mà thoát ra khỏi bốn cửa ải này. Mà Ngài thì đi ra bốn của thành đi du ngoại chơi nhưng mà lại gặp những cảnh đau lòng của kiếp làm người, cho nên Ngài về Ngài mới suy tư, trăn trở. Ngài thấy cái cuộc đời này nó không có một cái gì mà đáng cho Ngài phải nuôi dưỡng, bảo vệ nó, cho nên Ngài thấy người nào cũng không thoát ra khỏi bốn sự đau khổ cho nên Ngài mới đi tìm, đi tìm cái lối cho nó thoát ra.
Vì vậy mà khi Ngài đi ra cửa thành cuối cùng Ngài thấy có một vị tu sĩ, Ngài thấy đời sống người tu sĩ thật sự là giải thoát, không còn vướng bận, không còn lo lắng, không còn sầu khổ. Vì vị tu sĩ này là một vị Bà La Môn đi xin ăn, như vậy xin ăn rồi về không có lo làm cái này, làm cái kia, tham tiền, tham bạc, Ngài thấy rất rõ, từ đó Ngài quyết tâm đi tìm cái con đường tu hành của một vị Bà La Môn. Cho nên suốt sáu năm khổ hạnh Ngài đều tu một pháp.
(02:39) Như chúng ta biết Ngài sinh ra cũng từ một con người được mẹ sanh, nhưng mà Ngài lại mất mẹ từ khi mới sanh, cho nên khi người mẹ sanh Ngài ra thì người mẹ sẽ chết, cho nên Ngài là cái người mồ côi sớm nhất. Rồi Ngài lớn lên trong cái cảnh đời của Ngài thì nó vua chúa thì phải là sung sướng rồi. Nhưng mà Ngài có cái nỗi khắc khoải là mất mẹ sớm, làm cho Ngài có sự tư duy rất lớn trong đời của Ngài.
Rồi kế đó Ngài lớn lên có vợ, có con, rồi Ngài đi dạo chơi Ngài thấy bốn sự đau khổ đó, thì Ngài mới nhìn người vợ của mình với đứa con mới sanh, Ngài nói: Nếu mà còn tiếp tục thế này thì còn đau khổ nữa, một đứa con nó đã khổ thêm một đứa nữa là khổ nữa, cho nên Ngài quyết tâm đi tu.
Ngài biết cha không bao giờ cho Ngài đi, vợ không bao giờ cho Ngài đi tu, cho nên Ngài mới trốn đi. Ngài cắt đứt, Ngài bỏ, sáu năm Ngài không trở về thăm viếng. Nghĩa là chúng ta nghĩ như thế này chúng ta biết đức Phật quá vĩ đại, thực sự là Ngài quá vĩ đại! Đi trong lúc con mới sanh, vợ còn trẻ đẹp, ngai vàng của báu đều là giao lại cho vua cha muốn trao cho ai thì trao, muốn làm cho ai thì làm, Ngài khắc khoải trong sự đau khổ của Ngài.
Rồi Ngài sáu năm ngoại đạo dạy Ngài cách nào Ngài thực hiện đúng cách nấy không làm sai, cho nên khổ hạnh tận cùng và tu tập. Chúng ta đọc lại trong kinh sách chúng ta thấy sự tu tập của Ngài chúng ta thấy xót xa vô cùng. Ngài ức chế tâm bằng hơi thở, đầu Ngài như ai lấy một sợi dây siết đau nhói, Ngài nhịn đói, thân của Ngài còn bộ xương da, ăn rất ít, Ngài không còn đứng dậy được, Ngài chỉ còn nằm đó thôi, nhờ cái người chăn dê đem sữa dê đổ Ngài mới đứng dậy được. Sau những năm khổ hạnh, quá khổ hạnh trong sáu năm đó. Nhưng không phải sáu năm khổ hạnh đó là không ích lợi cho cuộc đời tu của Ngài, mà rất ích lợi cho cuộc đời tu của Ngài, là vì Ngài đã ly dục ly ác pháp hoàn toàn.
(04:52) Cho nên sau khi Ngài sắp chết thì Ngài hồi tỉnh lại Ngài nhớ con đường tu khổ hạnh chưa giải quyết được cái sự đau khổ của bốn nỗi khổ con người mà càng chồng chất lên sự đau khổ. Do đó Ngài tư duy suy nghĩ Ngài trở về vị trí của Tứ Thánh Định và Tam Minh, Ngài thực hiện con đường ly dục ly ác pháp, sống phải ly chứ không ức chế nữa, do đó cuối cùng Ngài đã thực hiện được con đường giải thoát. Và Ngài để lại giáo pháp, trước khi Ngài chứng đạo Ngài quỳ xuống, Ngài đảnh lễ: Giáo pháp mà ta tìm ra được, lộ trình ta được đã dẫn dắt ta đến chỗ giải thoát làm chủ được bốn nỗi khổ. Ngài đảnh lễ chỉ có giáo pháp này.
Do đó sau này khi mà Ngài sắp sửa (nhập) Niết Bàn Ngài cũng di chúc lại cho chúng ta: “Các thầy Tỳ kheo hãy lấy giới luật và giáo pháp của ta làm thầy mà tu tập, đừng lấy ai làm thầy, đừng lấy ai mà nương tựa mà hãy lấy giới luật và giáo pháp của ta mà tu tập”, lời di chúc này chúng ta không bao giờ quên. Và cuối cùng thì Ngài lại nói: “Giới luật của Phật còn thì đạo Phật còn…” để xác định cho biết đạo Phật chúng ta còn hay là mất.
Những lời mà Ngài di chúc lại cuối cùng để mà nhắc nhở chúng ta, thì hôm nay mãi mãi chúng ta còn lại… cái công ơn của Ngài rất lớn. Ngài tu Ngài hy sinh cả đời sống của Ngài, Ngài thực hiện các pháp chín chắn, nghiêm túc, không có hề mà Ngài thực hiện sai pháp, cho nên cuối cùng Ngài đã đạt được. Và Ngài để lại bằng máu, bằng nước mắt, bằng thân xác của Ngài một cái pháp rất là vĩ đại. Hôm nay chúng ta tu tập mà chúng ta làm chủ được mình, chúng ta biết nếu không có Ngài hy sinh người, Ngài hy sinh Ngài thì chắc chắn giờ này chúng ta cũng chưa có cái pháp này - Nền Đạo đức nhân bản, nhân quả.
(06:49) Cho nên một con người vĩ đại, một con người như là chúng ta, vẫn là một con người mà vĩ đại thật sự. Khi chúng ta tu tập rồi chúng ta mới thấy khó, khó lắm! Muôn vạn lần khó chứ không phải dễ! Trước một cơn đau như cắt ruột, như xé gan mà người tu sĩ không hề dao động tâm mình trước cơn đau thì chúng ta mới vượt qua được, mới chiến thắng được giặc sanh tử; còn nếu mà chúng ta dao động hoặc là đi nằm nghỉ thì đương nhiên là chúng ta đầu hàng giặc sinh tử rồi. Cho nên khi đó chúng ta biết rằng đức Phật tu tập cũng vượt qua những cái đau đớn chứ không phải là tu một cách dễ dàng, tu một cách êm thấm để mà chúng ta hoàn toàn một cách bình thường đâu, không phải đâu, rất khó. Cho nên một con người mà chịu đựng những sự khổ đau để mà chiến đấu với giặc sanh tử và cuối cùng làm chủ giặc sinh tử thì cái công ơn ấy chúng ta thấy quá lớn. Vì vậy mà chúng ta (thấy) Ngài rất xứng đáng để chúng ta noi theo cái gương Ngài, cho nên chúng ta nương tựa vào Ngài vững vàng, nhớ đến đức Phật sáu năm khổ hạnh sống như là chết, cho nên chúng ta gặp khó khăn thấy cái gương hạnh đó quá vĩ đại.
(08:10) Trong lịch sử của Ngài khi mà Ngài vượt qua những ma vương là những trận đau, những cái cám dỗ trong tâm Ngài hiện lên mà gọi là ma vương mà Ngài quyết thắng, Ngài hàng phục. Chúng ta gặp những cơn buồn ngủ, ai có tu rồi chúng ta mới biết, khi mà hôn trầm thùy miên đến rất khó chiến đấu không phải dễ, nó làm cho chúng ta lười biếng, mệt mỏi, uể oải thế mà chúng ta phải chiến thắng. Chúng ta biết một con người mà làm được như vậy, mà chúng ta khi nhớ đức Phật chút xíu thôi, chúng ta nhớ đến gương người thôi thì chúng ta có nghị lực rất mạnh mẽ làm cho chúng ta vượt qua những chướng ngại ở trên thân tâm của chúng ta.
Chúng ta đang bị những cái cơn đau, như đau bụng, nhức đầu hoặc một cái tay, cái chân chúng ta bị đau nhức thế nào chúng ta phải ngồi nghỉ không thể nào mà ôm pháp tu nổi, nhưng mà nhớ đến gương hạnh của đức Phật chúng ta mạnh dạng ôm pháp liền tức khắc, không rời bỏ pháp, chúng ta mạnh dạng tiến bước. Do đó nhờ cái gương hạnh của Ngài mà chúng ta chiến thắng được giặc sinh tử, cuối cùng chúng ta thắng được những cơn đau. Đó là những cái gương hạnh rất là cao quý, nương tựa vào những cái gương hạnh đó gọi là nương tựa vào Phật Bảo, đó là cái ngôi quý báu, cái gương hạnh của Ngài còn để lại cho chúng ta mỗi lần chúng ta tu hành gặp có khó khăn chúng ta nhớ đến Người.
Hôm nay cái hình tượng đức Phật mà chúng ta đang thờ đó là hình tượng thật, cái hình tượng của đức Phật Thích Ca, Ngài khổ hạnh sáu năm trong núi tuyết. Nhưng mà cái người tạc tượng này chưa ốm, chưa làm cho đức Phật ốm còn mập. Ví dụ ở trong kinh nói rằng: Khi đức Phật khổ hạnh người ta rờ cái da bụng thì đụng cái xương sống, mà rờ xương sống đụng da bụng. Nó đến nỗi nó ốm như vậy, Ngài hy sinh cả thân xác của Ngài để tìm ra con đường giải thoát, cho nên mỗi lần chúng ta ăn uống hơi ốm chút xíu thì chúng ta nói: Đức Phật ốm còn bộ xương mình có gì đâu! Thì nghe cái tinh thần, nghị lực của mình nó gan dạ lên liền, chứ không khéo mình mới ăn ngày (một) bữa sụt ký cái hoảng hồn “như thế này làm sao còn sức khỏe đâu tu”, nhưng mà nhớ tới cái gương của Người, trời! chúng ta thấy sao mà nó làm cho chúng ta có một nghị lực không hề dao động khi chúng ta sụt năm, mười ký lô.
(10:35) Trước khi vào tu chúng ta ăn ngày ba bữa, khi chúng ta ăn ngày một bữa rồi thì bắt đầu chúng ta sụt cân mất năm ký, sáu ký, mười ký nhưng nhớ đến gương hạnh đức Phật chúng ta không hề sợ, nếu mà không có gương hạnh người chắc chúng ta bỏ cuộc mấy con, chúng ta sợ lắm mấy con. Cho nên vì vậy mà chúng ta nhớ gương hạnh, thấy bộ xương của đức Phật, thấy hình dạng khổ hạnh còn bộ xương da, chúng ta chiến đấu liền không bao giờ phạm giới, không ăn phi thời nữa.
Như vậy chúng ta giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, từ đó chúng ta thấy rõ ràng chúng ta tìm thấy sự giải thoát ngay trong cái giới Không Ăn Phi Thời. Bởi vì trong mười giới Thánh Đức Sa Di, chúng ta thấy có giới cấm không cho chúng ta ăn phi thời chỉ ăn ngày có một bữa, có phải không? Người Sa di mới vào tu thôi vẫn phải giữ gìn Thánh đức giới này, Thánh đức giới này, đức Thánh này gọi là Đức Ly Dục mấy con. Dục của ăn nó làm cho chúng ta muốn ăn, thèm ăn phải không? Nó là dục, cho nên cái người giữ giới này là giữ giới ly dục mấy con, gọi là Đức Thánh Ly Dục, chứ không phải nói cái giới cấm không ăn phi thời mà nó là cái đức Thánh của một vị Thánh ly dục, chúng ta không ly dục thì chúng ta không làm được. Nhưng khi mà chúng ta bị sụt sụt cân là chúng ta hoảng sợ, nhưng mà nhớ đến cái gương hạnh của đức Phật chúng ta không sợ, ông Phật còn làm được, ông Phật người như mình tại sao ông làm được thì mình phải làm được, nhất định mình phải làm được, do đó chúng ta không hề nao núng mà lén ăn cái này lén ăn cái kia để mà cho cơ thể của mình thêm cái chất bổ dưỡng, chúng ta không sợ, ăn ngày một bữa không sao.
Cái gương hạnh đó như vậy gọi là chúng ta nương tựa vào Phật Bảo, là nương tựa vào gương hạnh của Phật để chúng ta thực hiện những cái trên con đường tu tập khó khăn mà chúng ta vẫn vượt qua được như vậy gọi là Phật Bảo.
(12:24) Cho nên những huyền thoại nó làm chúng ta mất cái gương tu tập, cho đức Phật là một Bồ Tát, là một người đã chứng đạo đâu (ở) cái đời kiếp nào. Đã là một bậc Thánh rồi thì chúng ta còn phàm phu làm sao chúng ta tu được? Cho nên lý luận của các nhà Đại thừa các con phải biết rằng: Lý luận chúng ta tu nhiều đời nhiều kiếp. Bởi vì mình đâu phải là Thánh cho nên mình phải tu nhiều đời, còn cái ông này ông đã là Thánh, ông tu nhiều đời nhiều kiếp giờ mà đến cái kiếp này ông thành Phật là ông phải trải qua nhiều đời rồi chứ gì, lý luận đó sai. Đức Phật trong kinh điển Nguyên thủy nói: “Tu bảy ngày, bảy tháng, bảy năm”. Cao nhất là một con người, “Được thân người là khó mà được chánh pháp càng khó hơn”, thế mà được thân người, được chánh pháp thì chúng ta phải tu từ bảy ngày, bảy tháng đến bảy năm là chúng ta thành tựu.
Nghĩa là cuối cùng nhất định một đời chúng ta gặp được chánh pháp thì chỉ có bảy năm là thành đạo nếu một người tu dở; còn một người mà tu đúng siêng năng, cần mẫn hàng ngày, hàng giờ, hàng phút liên tục tu tập đúng pháp, sống đúng hạnh giới luật của Phật thì chắc chắn người đó không cần bảy năm đâu, chỉ năm năm, ba năm, hai năm, một năm hoặc là chín tháng, mười tháng hoặc là năm tháng, ba tháng, hai tháng. Cho nên đức Phật nói: “Bảy ngày, bảy tháng, bảy năm”, chứ chưa có nhất định là chúng ta sẽ như thế nào, tùy theo mỗi đặc tướng của mỗi con người mà, chúng ta sinh ra tùy theo mỗi đặc tướng của con người, mỗi sự thông minh, mỗi sự thiện xảo của họ thì họ sẽ đi nhanh.
Đó là cái gương hạnh, cái gương hạnh rất đẹp, luôn luôn lúc nào người tu sĩ theo đạo Phật luôn luôn cũng nương vào cái gương hạnh của đức Phật, vì đức Phật là một con người thực sự có cha có mẹ, từ nơi bất tịnh mà sinh ra như chúng ta, thì đức Phật làm được chúng ta phải làm được. Chúng ta phải gan dạ từ đó chúng ta có một cái nghị lực kiên cường chiến đấu tận cùng với giặc sinh tử của chúng ta, giặc sinh tử chúng ta nó đánh chúng ta không phải là nó để cho chúng ta yên. Khi mà chúng ta mở màn mà chúng ta đánh với chúng để làm chủ giặc sinh tử thì nó sẽ đánh chúng ta cảm thọ; (đó là cái vũ khí của chúng); nó đánh chúng ta thùy miên, hôn trầm; nó đánh chúng ta bằng những đòn tâm lý, nó lý luận với chúng ta để bỏ cuộc.
(14:36) Cho nên chúng ta sáng suốt mà chúng ta nhận định được, cái giặc sanh tử nó khôn ngoan vô cùng nó nằm ở trong tâm của chúng ta, do cái lý luận của tâm chúng ta mà nó đánh chúng ta làm chúng ta bại trận, làm chúng ta chạy theo dục. Như chúng ta thấy hiện giờ các nhà Đại thừa đang chạy theo dục mà không biết dục, nó đánh chúng ta mê mờ, nó làm chúng ta không còn biết đường, cho nên cuối cùng tu giải thoát mà không giải thoát mà chỉ sống trong danh lợi, rồi đắm chìm trong danh lợi, tiếng là tu theo Phật để giải thoát, đó là chúng ta không phải nương cái gương hạnh của đức Phật. Ngài tới 80 tuổi vẫn ăn ngày một bữa, vẫn đi xin ăn, không có chùa to Phật lớn. Còn chúng ta bây giờ hở ra một chút sợ đau, sợ đớn, sợ đi dầm sương, giang nắng, đức Phật lấy gốc cây làm giường nằm (không có giường), lấy những cái gương hạnh đó mà chúng ta thực hiện cái đời sống của một Du Tăng Khất Sĩ thì chúng ta mới xứng đáng là đệ tử của Phật.
Cho nên vì vậy hôm nay các con được quy y đức Phật là một người rất cao quý mà trong cuộc đời chúng ta, trong cái hành tinh của chúng ta mà tìm ra một con người thứ hai được như Phật chúng ta thấy khó, không có ai mà dám khổ hạnh như Ngài. Dù Thầy nói các bậc giáo chủ trong các tôn giáo khác trên hành tinh này, chưa có người nào làm như đức Phật sáu năm chịu khổ hạnh chúng ta thấy chưa có, một bộ xương của đức Phật mà chúng ta nhìn cái tượng, cái tượng này chưa đúng đâu, Thầy muốn họ phải làm cái tượng rất là, rất đúng là chỉ còn bộ xương mà thôi như Thầy nói, nhưng họ làm không được.
Cho nên ở đây Thầy nói lên những cái hình ảnh của một hình ảnh của tượng Phật để nhắc lên sự khổ hạnh của Phật để mỗi khi chúng ta tu tập có cái gì khó chúng ta nương vào cái gương hạnh đó mà nhắc nhở chúng ta để chúng ta chiến đấu đến tận cùng, cuối cùng chúng ta làm chủ được giặc sinh tử. Vì vậy cho nên chúng ta quy y Tam Bảo là làm chủ được bốn sự đau khổ, phải không? Vì Phật Bảo thì chúng ta thấy rõ ràng cái gương hạnh quá tốt làm chúng ta chiến thắng được, chứ nếu mà không có cái gương người trước đi thì chắc chắn chúng ta sẽ phải bại trận.
(16:35) Trưởng lão: Đến Pháp là như thế nào? Pháp thì đức Phật đã nói rằng như thế này, tại sao chúng ta lại nương vào Pháp Bảo? Pháp Bảo nó quý như thế nào?
Pháp Bảo nó thực tế và nó cụ thể; nó không phải mơ hồ, nó không phải trừu tượng; nó không phải là niệm Phật để cầu vãng sanh, nó không phải niệm chú để có thần thông để trở về cõi Phật; nó không phải là ngồi thiền để nhập định để rồi thấy Phật, để kiến tánh thành Phật, nó không phải là điều đó. Mà đạo Phật nói rằng: “Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy”, nghĩa là người vào tu Phật pháp là thấy có giải thoát liền chứ không phải đợi chúng ta “kiến tánh mới thành Phật”, ngay khi đó chúng ta tu đúng pháp là chúng ta đã thấy có sự giải thoát như Phật rồi. Nghĩa là mục đích của đạo Phật là: Tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Như vậy pháp của Phật dạy chúng ta: Ngăn ác, diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện.
Vậy thì pháp chúng ta thực tế, đức Phật đem ví dụ cho chúng ta thấy: “Tâm có tham tôi biết tâm tôi có tham. Tâm tôi có sân tôi biết tôi có sân. Tâm tôi không tham tôi biết tâm tôi không tham. Tâm tôi không sân tôi biết tâm tôi không sân”, rõ ràng. Hiện bây giờ quý vị thấy pháp của Phật rõ ràng, không dạy chúng ta ngồi thiền nhập định mà bảo chúng ta biết cái tâm của mình thôi. Bây giờ tâm tôi không tham nè tôi biết nó không tham, thì nó không tham thì tôi cứ để nó tự nhiên không tham có gì đâu mà phải bắt nó ức chế bằng cách này cách khác cho nó đâu, cho nó cực phải không. Nhưng mà khi nó có tham là tôi biết nhất định phải dừng, phải diệt chứ không được để, tham là ác pháp mà, phải không? Bây giờ tâm tham là ác pháp chứ gì? Bây giờ tâm tôi không sân nè thì tôi biết nó không sân nè, mà bây giờ nó có sân tôi biết nó có sân nè, mà sân là ác pháp vì vậy mà tôi ngăn và diệt không được để trong tâm tôi một giây một phút nào nữa, tôi là một người biết Phật pháp tôi phải ngăn diệt ác pháp, cho nên vì vậy luôn lúc nào thân tâm của tôi nó cũng thanh thản an lạc, phải không?
(18:20) Như vậy bây giờ cái pháp nó thực tế, quá thực tế rõ ràng. Bây giờ thân tôi nó có đau nhức, nó là ác pháp chứ gì? Nó nhức cái tay là ác pháp, nó làm tôi khổ là ác pháp chứ sao, vậy thì tôi phải đẩy lui nó chớ, cho nên pháp của Phật nó thực tế. Đức Phật dạy chúng ta bây giờ muốn đẩy lui cái này thì phải dẫn cái tâm chúng ta vào cái chỗ an ổn, dẫn cái thân của chúng ta vào an ổn, cho nên pháp Phật trong 18 cái đề mục Định Niệm Hơi Thở thì đức Phật có dạy cho chúng ta từng cái đề mục của nó để mà giúp chúng ta thoát ra cái khổ này chứ gì? Cái pháp nó thực tế lắm mấy con.
Ví dụ như bây giờ cái thân Thầy bị đau nhức trên cái tay này thì đức Phật nói “Thọ là vô thường”, hồi nãy nó không đau, giờ nó nổi lên cái mụn nó đau, nó nhức thì nó có thường không? Nó không có thường nên nó vô thường, cho nên “thọ là vô thường không được ở thân ta nữa”. Đức Phật chỉ xác định một cái tác ý cái nó khác hơn cái tác ý đau của nó, cho nên tác ý một cái tướng khác, thì đức Phật bảo khi mà chúng ta tác ý như vậy rồi thì chúng ta phải dẫn cái thân của chúng ta vào cái chỗ an ổn, đừng có để cho nó đau. Vậy thì dẫn nó như thế nào? đức Phật dạy: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, thì đức Phật bảo mình nương vào hơi thở, biết hơi thở ra vô và nhắc nó “an tịnh đi” thì chẳng bao lâu nó sẽ an tịnh, các con thấy phương pháp của Phật nó thực mà. Còn cái tâm mình nó phiền não, giận hờn mà nó phiền não, nó đau khổ, nó sợ hãi thì mình nhắc nó: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô” cứ nương vào hơi thở cứ nhắc nó hơi thì nó không còn phiền não.
(19:50) Phải không? Các con thấy trong đề mục Định Niệm Hơi Thở thì đức Phật dạy: Bây giờ cái tâm mình nó đang sân nè, nó đang tức giận người ta đang nói nó quá tức, không cách nào mà bây giờ ngồi quán nó hết được. Thì đức Phật nói bình tĩnh lại dẫn nó vào cái chỗ cho nó an ổn, dẫn vào cho nó hết sân đi, thì đức Phật dạy: “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô. Quán ly sân tôi biết tôi thở ra”, con cứ tác ý như vậy rồi nương vào hơi thở rồi tác ý, một hơi tâm sân nó mất tiêu nó không còn tức giận ai nữa hết. Các con thấy pháp như vậy mình nương nó có phải hết khổ không mấy con?
Cho nên vì vậy mà nói nương vào Tam Bảo là làm chủ được bốn sự đau khổ chúng ta sinh, già, bệnh, chết chứ gì? Bây giờ bệnh nè nó cũng hết nè, tâm mình buồn rầu là cái khổ của tâm nó cũng hết nè, vậy nó có hay không? Nó thực tế quá mà, nó có cái xa rời chỗ nào đâu, như vậy cái phương pháp như vậy gọi là phương pháp gì mấy con biết không? Gọi là trên Tứ Niệm Xứ mà khắc phục tham ưu. Cho nên đức Phật nói trên thân quán thân, tức là trên cái thân này quán cái thân, mà thấy cái thân này đau thì dùng cái pháp này đẩy nó lui ra nó không còn đau nữa, cho nên gọi là Tứ Niệm Xứ (tu Tứ Niệm Xứ), tức là cái người đó tu Tứ Niệm Xứ đó mấy con. Nó có pháp ngồi tu không? Mà nó ngồi đây nó quan sát bây giờ cái thân đau thì nó đuổi, mà thân không đau thì thôi nó đâu có đuổi (cái) gì, nó an lạc nó không bệnh thì thôi, mà nó bệnh thì đuổi nó hết bệnh thì có đi bác sĩ không?
Pháp thực tế quá phải không các con? Hay quá! Tại sao người ta biết Phật pháp như vậy mà người ta không dạy mình mà để người ta dạy mình tụng kinh, niệm Phật, để cầu an, cầu cho hết bệnh là hết ở chỗ nào? Mà trong khi tôi chỉ cần dùng cái tâm của tôi dẫn, lấy cái ý của tôi dẫn cái tâm, dẫn cái thân của tôi vào chỗ an ổn, vào chỗ không đau thì nó sẽ hết đau. Thầy ở đây Thầy đã dạy cho một số người họ đã làm được điều này coi như họ khỏi cần uống thuốc mà họ không bệnh, như vậy là xứng đáng cho chúng ta quy y Pháp không mấy con? Cái Pháp hay quá chứ gì, thật tế quá chứ gì! Cái tâm hàng ngày của mình ai có chửi mắng gì mình, mình bảo nó “đừng có sân nghe, tâm như đất” thì ngay đó nó hết, mà nếu nó còn sân nữa thì “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô. Quán ly sân (tôi biết tôi thở ra)”, nương vào hơi thở cứ nhắc một hồi bắt đầu sao nó quên mất, nó không còn nhớ nữa, xả ra thấy nó không còn sân nữa. Trời nó chạy đâu rồi, có phải sung sướng không mấy con, pháp dạy như vậy có hay không?
Như vậy là chúng ta tu theo đạo Phật nó có phương pháp để làm cho chúng ta an ổn, giải thoát chứ gì. Vậy đi tìm sự giải thoát hay tìm danh, tìm lợi, hay tiền bạc? Chúng ta đâu cần, tiền bạc có đổi được không mấy con? Bây giờ Thầy đau nè, mà Thầy sắp sửa chết nè, mà bây giờ có một thứ thuốc nào uống vô cho Thầy đừng đau và đừng chết chắc chắn là người giàu có bây giờ bạc tỷ họ cũng bỏ ra nữa phải không, họ còn ham sống lắm chớ, nhưng mà bây giờ họ tới chừng giờ phút họ chết họ có bỏ bạc tỷ họ cũng mua không được nữa, nếu mà mua được mấy ông tổng thống, mấy ông vua chắc họ mua hết rồi, (thì) họ đâu có chết, cho nên họ có tiền nhiều cũng không được nữa. Nhưng mà cái người tu chúng ta làm chủ được đó, chúng ta kéo dài thêm được đó, chúng ta sống thêm được năm, mười năm, hai ba chục năm, một trăm năm nữa cũng được đó, cái thân này nó không chết là nó phải nghe lời thôi, cái năng lực của tâm chúng ta nó mạnh như vậy đó mấy con, bệnh như thế này mà nó bảo “an tịnh” là nó an mà, thì như vậy là mình muốn sống bao nhiêu, muốn không bệnh bao nhiêu nó làm được chớ, pháp hay quá!
(23:00) Cho nên hôm nay mấy con có cái duyên về đây được nghe cái Phật pháp là một con người, nương vào Phật là một con người luôn luôn, lúc nào cũng là cái gương hạnh cao đẹp của người gan dạ, nghị lực đầy đủ thuộc chiến đấu vào mặt trận sinh tử, Ngài đã làm cái gương tốt để chúng ta nương vào Ngài, gặp những khó khăn chúng ta nhớ đức Phật là chúng ta vượt qua được. Các con nhớ khi mà các con đọc sách Thầy, các con nghe khi mà Thầy tu tập những khó khăn mà Thầy vượt qua, mỗi lần các vị tu tập có cái khó khăn nhớ đến Thầy là họ thấy bình tĩnh họ chiến đấu họ không sợ nữa, các con thấy không? Còn huống hồ là nhớ được Phật một cái là chúng ta thấy nó vững vàng vô cùng, nó còn cái gì nữa mà chúng ta thua, chúng ta không thua những cái trận mà đau đớn trên thân chúng ta đâu, đó là Phật pháp rất hay đó.
Cho nên hôm nay gọi là quy y Tam Bảo là trở về nương tựa với những điều lợi ích thiết thực cho đời sống của chúng ta mà thoát khỏi bốn sự đau khổ. Đó thì bắt đầu bây giờ các con thấy quy y Phật là có lợi rồi, nó là cái gương sống, để mà chúng ta có cái gương thực hiện trên con đường giải thoát của chúng ta, để làm chúng ta sống mà giải thoát, phải không?
Còn cái Pháp là nó giúp chúng ta thực tế mỗi khi thân chúng ta, Thân - Thọ - Tâm chúng ta có cái gì chướng ngại trên đó là đẩy lui ra được hết. Nó đâu có cái gì khó đâu, các con chỉ cần chịu khó tập, ví dụ như bây giờ các con dẫn cái tâm của mình: “An tịnh thân hành. An tịnh tâm hành”, con chỉ tập một cái đề mục như vậy trong vòng một tháng là mấy con có kết quả rồi. Có kết quả để làm gì? Để sau khi cái thân mình đau mình đuổi cái bệnh nó đi mất liền, khỏi cần uống thuốc, khỏi cần bác sĩ chích, khỏi cần đi nằm nhà thương, khỏi cần bị mổ xẻ, không sướng sao? Cái cuộc đời này, khi mà nó đói bảo: “Mày đừng có ăn, mày mà còn tham dục thì không được, trưa tao cho mày ăn ngày một bữa thôi” thì nó vẫn nghe rêu rếu, mà nó không đói khát, nó không có mệt nhọc gì hết, mà nó khỏe, ngồi chơi suốt. Bởi vì mình ăn ít thì mình ngồi chơi nhiều chứ gì, chứ ăn ít mà làm nhiều làm gì, phải không các con hiểu, trong cái vấn đề đó rõ ràng. Cho nên pháp rất là thực tế, không có thời gian là như vậy, chúng ta tu là có giải thoát liền.
(25:08) Bởi vậy nếu mà biết được pháp Phật, Thầy nói thiệt ra tu không lâu đâu mấy con, người mà quyết tâm tu, người mà biết rằng cái cuộc đời này nó không còn có nghĩa gì. Chúng ta sống ăn nè, ngủ nè nó có nghĩa gì đâu! Nó đâu còn cái gì mà chúng ta làm, chỉ tranh nhau để mà ăn, để mà danh lợi với nhau. Mà danh lợi đó có nghĩa lý gì?
Ăn thì rồi ăn ba đồ bất tịnh, rồi đi cầu ra cũng đồ bất tịnh, có cái gì đâu, mấy con thấy nó bẩn thỉu hôi thối, nó có cái gì đâu; thân chúng ta không tắm ba bữa thì nó vẫn hôi thối có gì mà đẹp! Đức Phật nói cái thân này bất tịnh, rồi tiếp nhận cái đồ ăn kia nó bất tịnh, rồi mà cứ tham đắm ăn, ăn để nuôi cái thân bất tịnh này làm gì? Cho nên người mà hiểu biết Phật pháp người ta nhàm chán lắm mấy con.
Cho nên những người mà đem đồ cúng Phật là những người không hiểu, ông Phật ông đã nhàm chán những cái thứ đó lắm rồi, nào nấu nướng canh riêu, nào là mì, chả đủ loại, chúng ta còn tham đắm chứ chưa thấy nó bất tịnh, cái đồ ăn đó nhàm chán lắm mấy con. Khi mà quán tưởng nó bất tịnh rồi chúng ta (thấy nó) ghê gớm, cho nên Thầy ăn ngày một bữa mà Thầy còn không muốn ăn nữa chứ đừng nói. Nếu điều kiện mà không vì tất cả chúng sanh mà ngồi đây viết những bộ sách Đạo đức, nhắc lại cho mấy con tu thì Thầy đã ra đi từ khi mà Thầy chứng đạo, Thầy nhàm chán lắm rồi! Nhàm chán cái thân này là cái ổ bệnh; nhàm chán cái thân này là bất tịnh, nó còn cái gì nữa mà ham, mang cái thân này để làm gì? Nó nhàm chán tất cả những thực phẩm xung quanh chúng ta để mà chúng ta gọi là ngọt, béo, bùi nó có nghĩa lý gì đâu!
Thật sự ra một cái người tu người ta quán tưởng hết, người ta nhàm chán lắm mấy con, người ta không còn ham nữa đâu, cho nên người ta chỉ còn mượn cái thân này để làm một đối tượng để mà chiến đấu trận giặc sinh tử này để chấm dứt sinh tử luân hồi mà thôi.
Cho nên pháp của Phật tuyệt vời, thực tế, cụ thể như một bài học, nó không phải mơ hồ đâu mấy con, ngay đó khi mà chúng ta giữ gìn được tâm của mình rồi thanh thản, an lạc, vô sự. Nhưng các con bây giờ cái tâm của các con nó đục như nước đục nó không trong, cho nên cái trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự đó thì chẳng qua chỉ là trạng thái thư giãn của các con mà thôi, chứ các con chưa nhận ra một cái trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự của một cái tâm hồn là ly dục ly ác pháp nó an lạc tuyệt vời.
Một miếng bánh mà các con chưa có được cái tâm trạng đó thì chưa được tâm ly dục đó thì các con không thể nào hưởng được miếng bánh đó đâu. Người ta ly dục ly ác pháp rồi người ta mới thấy thật sự giải thoát, giải thoát thật sự. Và chết đi rồi người đó cũng ở trong trạng thái đó chứ đi đâu, đâu mất chỗ nào, người ta biết đường đi, người ta biết nơi người ta về.
Còn như bây giờ mấy con tâm cũng thanh thản, an lạc, vô sự nhưng mà đầy cái tâm dục, đầy cái tâm ác pháp trong đó, hở ra thì giận hờn, phiền não, đau khổ phải không? Còn cái người đó hở ra chuyện gì người ta cũng thanh thản, an lạc, vô sự hết thì như vậy người ta mới thấy người ta sống trọn vẹn ở trong một trạng thái đó chứ, tuyệt vời lắm mấy con, Phật pháp rất hay.
(28:17) Cho nên những điều mà Phật dạy từ cái giới, chẳng hạn nào như những bài pháp đơn giản rất đơn giản “Ngăn Ác Diệt Ác” hay hoặc là như trong kinh Pháp Cú: “Chư ác mạc tác chúng thiện phụng hành”. Các pháp ác không nên làm, nên làm các pháp thiện. Vậy thì pháp ác như thế nào?
Pháp ác là pháp làm cho thân tâm chúng ta đau khổ là pháp ác, người ta chửi mình làm cho mình tức giận thì nó là pháp ác chứ gì, các con hiểu chỗ đó không?
Cho nên vì vậy thì mình không giận hờn, không tức giận, thân đau đớn thì đuổi nó không còn đau đớn thì pháp ác nó không còn thì như vậy là pháp thiện. Như vậy pháp thiện, thiện ở đây không phải là đem tiền của mà cho những người bất hạnh ở trong xã mà chúng ta gọi là thiện, thiện đó gọi là thiện hữu lậu; còn thiện của Phật ở đây là thiện vô lậu, nghĩa là tâm thanh thản, an lạc, vô sự là vô lậu.
Đức Phật gọi chúng ta sanh thiện, tăng trưởng thiện không phải ngồi đây đi tìm những người nghèo đâu ở trong cái hang cùng ngõ hẻm nào đó, để rồi mình xin bà con người chút ít mang gạo, mang thóc, quần áo đến cho những người đó gọi là thiện, cái thiện này là thiện hữu lậu. Cho nên con đi xin tiền cũng cực khổ chứ đâu phải không cực khổ, xin tiền rồi phải mua đồ rồi đem đến phát, nhiều khi đến đó nhà nước họ không biết mấy người này làm cái chuyện gì đây thì họ cũng không cho, họ bảo mình không được phát cho ai hết, nhiều khi mình phải kéo về nữa. “Trời ơi, tui đi làm việc từ thiện thương người ta nghèo khổ, mà tui xin để mà cho người ta mà mấy ông lại còn không cho nữa”, thì các con thấy làm thiện đó có lợi ích cho mình không? Nhiều khi quá vất vả phải không? Thì các con thấy thiện đó là thiện hữu lậu, có thiện thật sự nhưng mà là hữu lậu, hữu lậu là có lậu hoặc có làm cho mình đau khổ, có làm cho mình cực nhọc.
Còn cái thiện vô lậu này Thầy ngồi chơi, bây giờ bụng Thầy nó muốn ăn, Thầy nói: “Không được, giờ này không được ăn”, Thầy ngồi đây, một ngày hai ngày, ba bốn ngày cái bụng Thầy nó hết muốn ăn nữa rồi thì đó là Thầy thiện vô lậu chớ gì, cho nên giờ nó hết muốn ăn Thầy thấy nó an ổn, nó khỏe re. Trời ơi, không ăn mà ngồi đây như Tiên, không có làm gì sướng quá, thì đó là mình giải thoát chứ gì. Cho nên nó thanh thản, an lạc, vô sự mà đức Phật gọi là Sanh Thiện Tăng Trưởng Thiện là cái thiện này, các con hiểu chưa?
Cái thiện mà Tâm Thanh thản, An lạc, Vô sự nó mới là thiện vô lậu, còn cái thiện mà mình nghĩ đi làm này kia giúp người ta tốt chứ, cái này cũng tốt chứ an ủi những cái sự đau khổ của người ta sao không tốt, nhưng chúng ta phải lo cái thiện của mình đã, cái thiện của mình là chân thiện, cái thiện vô lậu này, khi tâm mình vô lậu rồi thì mình giúp ai cũng được hết, bởi vì bây giờ mình làm chủ được sự sống chết của mình rồi, phải không?
(30:49) Khi mình chung đụng với người khác mà họ chửi mắng mình, họ nói mình thế này thế khác mình cũng vẫn cười chứ không có buồn, còn mấy con tâm mà nó chưa vô lậu thì các con biết sao không? Mình đi làm thiện chớ có người nào nói mình tiếng nói cái mình sân tức liền tức khắc hà, thiện mà sao khổ quá vậy? Cho nên mấy con coi chừng, cho nên chúng ta hãy thiện vô lậu trước đã, rồi sẽ làm thiện hữu lậu để an ủi những cái thân phận của những người bất hạnh thật sự thì hay nhất.
Cho nên đức Phật nói như thế này: “Khi chúng ta tu rồi thì độ ai cũng được, mà tu chưa rồi thì đừng có độ ai được hết”. Đụng tới một chút là cái tâm của mình nó sân hận, nó phiền não nó dữ; đụng chút mà có danh có lợi, có tiền nhiều coi chừng nó đắm trong đó mà nguy hiểm. Cũng như bây giờ con làm có uy tín, ai cũng gửi tiền cho con, coi chừng tiền đó mà coi chừng nó sai con, coi chừng con làm bậy, phải không? Con thấy nằm trên đống tiền coi chừng sai chứ không phải dễ đâu, bởi vì cái tâm mình nó chưa hết mà, nó chưa hết dục đâu. Cho nên đối với cái thiện hữu lậu nó nguy hiểm lắm, chớ không phải là không nguy hiểm.
Cho nên vì vậy mà khi chúng ta được vô lậu rồi thì chúng ta làm các việc gì lợi ích cho xã hội cứ làm không sao hết. Chẳng hạn như Thầy tu rồi, bây giờ làm gì cũng không sao, nhưng mấy con tu, mấy con ráng chứ mấy con vừa tu mà vừa độ chúng sanh coi chừng chúng sanh nó dẫn mấy con đi xuống địa ngục chứ không phải là mấy con độ nó được đâu, đó thì Thầy nói như vậy.
Cho nên trong khi đó chúng ta phải hiểu được Pháp của Phật nó thực tế, là lo cứu mình trước cái đã, đừng làm Bồ Tát hạnh trong khi chúng ta đang tu, sau khi tu xong rồi làm Bồ Tát hạnh. Chớ đừng giống như mấy ông Đại Thừa, tu chưa xong mà cứ nói thì sau này mấy con sẽ nghe cái giới mà nói vọng ngữ, mấy ông mà thuyết giảng mà tu chưa xong, ông bảo mình tu như vậy không có còn tham, sân, si được giải thoát, mà cuối cùng ông ta làm không được thì ông ta nói láo đó mấy con, chớ không phải nói thật. Thì Thầy sẽ giảng cái giới này thì mấy con sẽ thấy.
(32:38) Trưởng lão: Cho nên ở đây, Phật - Pháp - Bảo rất là thực tế, cụ thể để giúp chúng ta thoát khổ, cho nên chúng ta quy y Tam Bảo, quy y Pháp Bảo là chúng ta trở về với cái lời dạy của đức Phật, cái kinh nghiệm của đức Phật đã dạy lại cho mình đó là Tăng Bảo.
Bây giờ Tăng Bảo, Tăng Bảo là những Vị sống đúng những phạm hạnh, tức là sống đúng giới luật không hề vi phạm, như mười giới của một vị Tu sĩ, Thầy nói như một vị Sa di thôi, một người mới vào tu gọi là Sa di, nó có mười giới chứ nó không phải 250 giới như vị Tỳ kheo đâu, mà cái vị Tu sĩ mà giữ gìn mười giới thôi, đúng mười giới thôi: Không ăn phi thời, Không cất giữ tiền bạc, Không xem ca hát, Không nằm giường cao rộng lớn, Không trang điểm, Không dâm dục, Không vọng ngữ, Không uống rượu, Không trộm cắp, Không sát hại chúng sanh.
Cái người mà giữ gìn đúng 10 giới như vậy đó, thanh tịnh 10 giới như vậy, cái người đó là Thầy của mình, không cần nhiều có mười giới, chúng ta quan sát mười giới này, thì bây giờ mười giới này các con quan sát quý Thầy, quý Hòa Thượng của chúng ta coi sống có đúng là vị Thầy của mình chưa? Mười giới của một vị mới Sa di mới vào tu thôi mà vị Hòa Thượng, vị Thượng Tọa này, họ là những người có uy tín, xét lại mười giới này họ có đúng chưa? Mà họ chưa đúng thì chưa chắc họ đã làm Thầy mình đâu, phải không? Bởi vì họ còn ăn phi thời, ăn ba bữa thì họ chưa đúng, mà họ còn xem ca hát thì chưa đúng, họ còn ăn mặc y áo đẹp đẽ thì chưa đúng đâu, họ còn trang điểm làm đẹp là chưa đúng đâu, họ còn đi xe hơi đồ tốt, họ còn có xe cộ đồ tốt, họ còn ở chùa cao rộng lớn, thì không được, tức là chưa đúng đâu, tức là còn trang điểm làm đẹp, làm đẹp chỗ ở, làm đẹp thân người của họ thì không đúng đâu, cho nên họ chưa xứng đáng là vị Tăng.
(34:29) Cho nên một người mà gọi là chúng ta quy y Tăng Bảo, là một vị Tăng phải sống đúng giới, mà Thầy chẳng nói giới cho nhiều mà chỉ nói có mười giới thôi, thì con thấy mười giới này ai là người giữ đúng thì người đó là Thầy của mấy con, là một vị Tăng mà để cho mấy con soi gương đó, soi gương vị Tăng đó. Vị Tăng đó dù là một chú Sa di mới vào thôi, nghĩa là chú đó mới mười hai tuổi, mười lăm tuổi, mười sáu tuổi, chú đó mới vào tu thôi, mà chú giữ trọn giới, các con cũng nên tôn vị đó là Thầy của mình. Bởi vì những vị mà giữ gìn giới nghiêm chỉnh như vậy đó là cái gương để chúng ta thấy và chúng ta hỏi: “Sao Thầy lại giữ được cái giới này?”, thì ông ta sẽ dạy cho mình, ông ta sẽ nói cách thức giữ được, bởi vì phải có kinh nghiệm giữ, chứ không có kinh nghiệm giữ thì giữ không nổi.
Nghĩa là bây giờ ăn phi thời mà không có pháp tu thì chắc chắn ông này sẽ ăn lén, không có thể nào trật, mà cái ông mà nghe ca hát, mà hay ca hát, hay tụng niệm, cúng bái tụng niệm thì cái ông này phạm giới rồi, mà phạm giới thì ông này không phải là một vị Tăng chúng ta nương, vì một vị Tăng thì luôn luôn phải sống trầm lặng độc cư, vì cái giới Không ca hát, đức hạnh của nó là Đức hạnh Độc cư Trầm lặng, Đức Trầm lặng Độc cư mấy con, cho nên trong cái giới cấm là cấm không có nghe ca hát chứ gì? Không có ca hát, nghe ca hát, phải không? Thì cái đức của nó là Đức Thánh Trầm lặng Độc cư. Một vị Tu sĩ mà Thánh trầm lặng độc cư không nói chuyện với ai, không chơi với ai, sống một mình, đó là một bậc Thánh mấy con, người ta sống mới nổi, vậy thì cách nào mà Thầy sống được như vậy? Thì ông ta sẽ dạy cách cho mình biết và từ đó cái kinh nghiệm đó mà mình mới biết mình sống được đức trầm lặng độc cư, do đó mình không nghe ca hát và tự ca hát, các con thấy không?
(36:23) Mỗi một cái giới nó đều có những cái phương pháp ở trong đó để mà chúng ta thực hiện chúng ta sống, chứ không phải nói giới rồi chúng ta bắt buộc ức chế mình, phải sống như vậy, sống như vậy (thì) không được. Bởi vậy khi thí dụ chẳng hạn các con thấy, như một cái vị Tu sĩ ăn ngày một bữa mà sống được, họ phải có pháp tu, chớ không có pháp tu là họ bị ức chế họ, họ bị ức chế thì họ lén họ ăn bậy bạ, họ lén lấy một viên kẹo họ ăn hoặc ly nước đường họ uống cho nó đỡ đỡ chứ để không nó đói bụng quá, thì tất cả đều là bị phạm hết. Cho nên họ có cái phương pháp, họ tác ý như thế nào, họ nhắc như thế nào để rồi cái tâm của họ nó không có dao động trước cái món ăn, nó làm cho họ không thèm. Và đồng thời họ phải dạy cách thức cho chúng ta, hỏi vị Tăng đó: “Thầy làm sao Thầy ăn ngày một bữa được?”, thì cái ông này ông nói cái kinh nghiệm thì biết ông này ăn đúng một bữa, còn cái ông mà không nói được kinh nghiệm thì ông này lén ăn, trước mặt thì nói tui ăn một bữa, nhưng mà ổng lén ổng ăn tầm bậy tầm bạ, lén ăn ban đêm, ông lén, tối ông lấy bánh lấy trái ông ăn tầm bậy tầm bạ.
Thầy nói thật sự ở đây, Chúng ở đây, ngày trước Thầy cho Chúng ăn chung với Thầy, ngồi một dãy cái Trai Đường ở sau này, ngồi một dãy, hai bên vậy, Thầy ngồi đầu, Chúng ăn, thế mà ăn rồi, con biết họ còn bỏ chuối vô bát họ, họ giấu, họ đem về thất để dành chiều ăn, đó thật sự ra ăn rồi đó, ăn trước mặt Thầy đó, thế mà còn lén bỏ trong cái bát đậy lại bưng về, rồi nói đi rửa chứ sự thật ra Thầy lưu ý hết, ngồi xong rồi Thầy quan sát hết cuối cùng Thầy biết cái ông nào mà để bánh để chuối để lại chiều ăn thì Thầy cũng biết chứ không phải không biết, nhưng mà Thầy rất tội, tội nghiệp họ không chịu hỏi để mà biết cách tu tập để mà hàn phục cái tâm còn tham ăn của mình, tức là tâm chưa ly dục đó. Cho nên cái giới mà gọi là ăn phi thời, không ai cấm, không cho ăn phi thời là cái đức của nó là Đức Ly dục, ly dục ăn, cái Đức Thánh Ly dục của người ta ở đó, ở trong cái giới đó, chứ đâu phải nếu mà con không biết cái giới đức đó thì các con làm sao biết các con giữ? Vì vậy mà người ta biết được cái giới đức đó người ta chỉ mấy con phải tập như thế nào? Tác ý như thế nào? Tu tập như thế nào ly dục?
(38:31) Thì như vậy một vị Thánh Tăng chỉ cần giữ mười giới thôi mấy con là đúng là vị Thánh Tăng, bởi vì Thánh Đức Sa Di mà, một vị tu sĩ Sa di, chưa nói là vị Hòa Thượng, Thượng Tọa đâu mấy con. Nghĩa là giữ gìn 150 giới đó, 250 giới của một vị Tỳ kheo, chưa nói đến tất cả những giới Đức Thánh ở trong cái vị Tỳ kheo mà chỉ nói có mười cái giới của Sa di thôi mà các con cũng thấy vĩ đại! Thì nhìn vào mười giới của chúng ta đó, các vị Tôn Túc, Hòa Thượng chúng ta hiện giờ phạm hết, các con xét phải không? Không có vị nào không phạm hết, không phạm giới này thì cũng phạm giới kia, mà nói gần như là phạm hết chứ không phải không phạm.
Đó, thì một vị Thánh Tăng mà các con chọn để làm một vị Thầy của mình thì nên chọn một vị Thầy, nhiều giới quá mình không thuộc hết, mười giới thì các con có thể thuộc. Nhìn mười giới này ông này phạm giới này, ông này phạm giới này, mấy ông này chưa phải là Thầy của tôi như vậy là tôi nương theo mấy ông Thánh Tăng, tôi cũng ăn phi thời, cũng nghe ca hát, cũng ăn mặc sang đẹp, bởi vì mấy ông làm kiểu này thì tôi phải nương theo ông thì coi như là tôi cũng phải quen như vậy thì tức là tôi không giải thoát rồi, cho nên tôi phải chọn một vị Tăng xứng đáng là Thầy của tôi để tôi nương tựa, có phải không?
Hôm nay các con mà chọn một vị Tăng xứng đáng là các con hãy chọn một vị Thầy giới luật nghiêm chỉnh thì đó là điều kiện cần thiết cho nên gọi là quy y Tăng Bảo. Chớ đụng ma mấy con cũng quy y, ông ta phi thời, phạm giới phá giới, bẻ vụn giới mà quy y đó là Ma Ba Tuần, đức Phật đã xác định mà. Một vị tu sĩ cũng cạo đầu, đầu trọc, cũng mặc áo cà sa, cũng ôm y bát, cũng đi xin, nhưng mà cái ông này phá giới hoàn toàn thì cái ông này là Ma Ba Tuần ở trong đạo Phật chớ không phải là Tăng đâu, thì lúc bây giờ đừng có quy y những cái ông ma này, họ không phải là làm cái gương sáng cho chúng ta tu theo đạo Phật để giải thoát.
(40:20) Trưởng lão: Cho nên bây giờ các con thấy, thứ nhất là các con nhìn thấy Phật (như hồi nãy Thầy giảng) các con đã hiểu Phật là con người thật sự, là con người khổ hạnh, tu đến cái mức độ mà giải thoát để lại những cái gương hạnh tuyệt vời mà chúng ta lấy đó làm gương. Hai là cái Pháp của Phật thực tế cụ thể như là một cái bài học nó khoa học, nó không có mơ hồ trừu tượng, nó không làm chúng ta sống trong cái ảo tưởng, nó thực tế, tu tới đâu làm chủ tới đó, giải quyết được những cái khổ đau của bản thân của mình nơi đó. Đó là Pháp thực tế cụ thể, cho nên các con sẽ quy y nó, nương vào nó. Và Tăng là một người giữ giới nghiêm chỉnh, có bây nhiêu đó thôi.
Như vậy là bây giờ các con chọn lấy ba cái ngôi Tam Bảo này Phật, Pháp, Tăng mà các con chọn lấy cái đúng, nếu mà Phật các con chọn lấy vị Phật nào? Vị Phật mà sanh ra ở nách, phải không? Vị Phật mà đi bảy bước có hoa sen thì các con sẽ nương vào cái vị Phật của Đại Thừa. Còn mấy con nương vào cái vị Phật mà Nguyên Thủy là ông Phật sinh ra cũng từ cha mẹ sanh ra bình thường, lớn lên có vợ có con, rồi đi tu khổ hạnh rồi chứng đạo thì mấy con sẽ nương ông Phật này chứ không nương ông Phật mà có thần thông đó đâu, phải không?
Như vậy thì các con phải ước nguyện tâm là:
Tôi sẽ nương vào một vị Phật thực tế là con người như chúng tôi.
Cái thứ hai là con nương vào cái Pháp thực tế chứ không phải nương vào cái Pháp mơ hồ.
Vì các con nương vào Pháp mơ hồ, ngồi đây mà niệm Phật Di Đà để cầu vãng sanh thì nó mơ hồ, có chắc được là có cõi Vãng sanh hay không? Có cõi Cực lạc Tây phương hay không mà mình cầu? Nó không có rồi cầu mãi nó không có rồi sao về? Cho nên nó mơ hồ quá. Nếu mà có thật sự thì phải có người đến người về báo cho tôi biết rõ ràng thì tôi mới tin, còn (đằng) này ông nào chết cũng đi tuốt luốt không ai báo cho biết hết, bây giờ tôi nằm chiêm bao tôi thấy là cái tưởng mất còn gì? Thì như vậy là không có thật, cho nên vì vậy tôi không thể nào tin được, do đó thì cái Pháp mà dạy như vậy nó không thực tế.
Còn cái Pháp mà dạy tôi ngăn ác, diệt ác, bây giờ tâm tôi có giận thì tôi ngăn trừ cái giận thì nó hết khổ, thì tức là giải thoát thật sự rồi. Do đó thì các con thấy cái Pháp thực tế vậy thì các con sẽ quy y theo cái Pháp đó, tức là nương theo cái Pháp đó để giải thoát; còn cái Pháp mà không thực tế thì nhất định là không quy y, không nương theo nữa, bỏ không nương. Phải nhất định, dứt khoát, tu theo Phật là dứt khoát, cũng như ông Phật ông tu theo ngoại đạo là tại ông chưa hiểu, cho nên cuối cùng ông thấy mòn mỏi, không thấy giải thoát được gì, tu gần chết mà không giải thoát, bỏ! Nhất định là không tu nữa, tu ngay lại cái Pháp hẳn hoi hoàn toàn, cho nên bốn mươi chín ngày Ngài đã thành đạo, đó là Ngài quyết định bỏ. Còn chúng ta mà lừng chừng, không bỏ bên đây, không bỏ bên kia, thì tức là chúng ta tu không tới. Vừa mà tu Định Niệm Hơi Thở, rồi lát niệm Phật nữa thì thôi rồi, cái này là Đại Thừa với Tiểu Thừa nó lộn xộn với nhau đây nữa nó chung, như vậy là không thành cái vấn đề gì hết đâu.
(43:12) Đó là Thầy muốn nói cho mấy con biết là khi mà mình quy y Tam Bảo là phải chọn lấy ba cái ngôi Bảo xứng đáng mà tu tập, đó ba ngôi Bảo xứng đáng đó là cái chỗ mà Thầy đã nói để mà chọn. Rồi một vị Thầy, thường xuyên cái vị Thầy mà chọn là giới đức, cho nên mình đã chọn cái vị Thầy đó là vị Thầy của mình, một vị Tăng mình nương tựa, thì mình thường xuyên, lâu lâu mình đến mình thưa hỏi, một tháng, nữa tháng hoặc là một tuần, nếu mình ở gần còn nếu mình ở xa thì mình thưa hỏi qua thơ từ hay điện thoại hoặc là mail mình thưa hỏi, để làm gì? Để cho mình học hỏi những cái gương hạnh của Ngài để cho mình học hỏi những cái kinh nghiệm của Người, Người làm được những cái điều này không phải là một chuyện dễ, Người sống được những giới luật này là không phải dễ, Người phải nghiêm túc hết sức Người mới đạt được, cho nên chúng ta hỏi đây là hỏi những cái đức giới của Người để chúng ta học hỏi những cái đức giới đó, để mà chúng ta được sự giải thoát như Người. Cho nên những cái vị Thầy đó, họ không bao giờ dạy mình cái chuyện cầu an, cầu siêu, mê tín đâu, mà họ chỉ cho mình những cái mà mình sống, sống mà được giải thoát, các con nhớ chưa?
Do như vậy thì hiện bây giờ các con thấy là ba ngôi Tam Bảo này nó có xứng đáng thì các con chắp tay lên trước cái tượng Phật mà các con xin, Chúng con xin hướng về đức Phật và các con nguyện đời đời kiếp kiếp sẽ nương quy y Tam Bảo, thì các con đảnh lễ Phật một lạy để mà nhận quy y ba ngôi báu này, rồi các con sẽ quỳ xuống, từ từ mấy con, rồi mấy con sẽ hướng đến tượng Phật, rồi mấy con sẽ từ trong thân tâm của mình nguyện thọ quy y ba ngôi Tam Bảo, ba ngôi Tam Bảo mà Thầy đã dạy cho chúng con nghe. Khi mà thọ xong thì các con xá và đảnh lễ Phật một lạy rồi các con ngồi lại nghe Thầy giảng tiếp, các con ngồi xuống mấy con đảnh lễ Phật rồi ngồi xuống mấy con, thôi xá thôi con, rồi các con ngồi xuống nghe Thầy giảng tiếp năm giới, để mà thầy truyền năm cái đức giới.
(45:28) Trưởng lão: Bây giờ thì Thầy truyền cho các con năm giới cấm, năm giới cấm thì thường xuyên trong các chùa quy y Tam Bảo thì người ta cũng giải thích cho mình nghe năm giới cấm, thì hôm nay Thầy truyền năm cái đức hạnh của một người cư sĩ, thì các con thấy năm cái đức này này nó xứng đáng cho một cái người cư sĩ của các con thì các con hãy giữ gìn, còn nó không xứng đáng thì thôi không ép buộc, bởi vì đạo Phật phải tự giác chớ không có ai bắt buộc mình hết, đây là năm giới:
Giới thứ nhất: Cấm không sát sanh hại mạng, giết hại con vật khác. Cho nên cái giới này dạy chúng ta đừng có nên cầm cái dao, cầm cái gậy mà đập đánh một con vật hoặc là giết hại một con vật, làm cho con vật đau khổ và con vật chết, thì đức Phật dạy chúng ta đừng có làm đau khổ loài vật. Vậy thì nếu mà dạy như vậy thì chúng ta, cái Đạo Đức Hiếu sinh, tức là cái lòng thương yêu sự sống, bởi vì mình có sự sống, mình muốn sống thì mọi con vật khác ở xung quanh mình đều có muốn sự sống, không có con vật nào mà muốn chết hết, cho nên vì vậy mà chúng ta vì cái sự sống của mình mà mình không nỡ giết cái sự sống của loài vật khác, cho nên chúng ta hiểu nó cái Thánh Đức Hiếu Sinh, cái Đức hạnh của một bậc Thánh thương yêu sự sống. Từ đó chúng ta mới thực hiện cái tâm mà thương yêu chúng ta bằng cái Tứ Vô Lượng Tâm tức là Từ - Bi - Hỷ - Xả, tức là bốn cái tâm vô lượng của chúng ta, lòng Từ, lòng Bi, lòng Hỷ, lòng Xả.
Từ là như thế nào? Mọi loài vật đang sống chúng ta đừng có làm cho con vật nào đau khổ gọi là lòng Từ. Lòng Bi như thế nào? Lòng Bi là trước mắt chúng ta thấy một con vật bị khổ đau, bị bệnh tật, bị đau đớn, bị đánh đập, bị hành hạ thì chúng ta phải can thiệp để cho chúng không có còn bị đánh đập bị hành hạ, bị giết chết nữa, thì đó là lòng Bi, các con phải biết phân biệt Từ Bi, các con không hiểu Bi như thế nào mà Từ như thế nào? Từ là như thế này, một con kiến đang bò dưới đất chúng ta không nên đi mà dậm trên mình nó, gọi là Từ, nghĩa là Thầy nhìn dưới chân Thầy, Thầy đi Thầy nhìn, Thầy quan sát không đạp con kiến nào hết, đó là Thầy thực hiện lòng Từ, phải không? Nhưng mà khi Thầy thấy có một con vật, con kiến này nó bị rớt ở trong cái vũng nước, nó đang bị ngộp nước, nó bơi lội mà nó bơi lội không có ra khỏi vũng nước, Thầy mới lấy cái cây que, cái lá Thầy để cho nó bò lên đó, Thầy đưa nó lên khỏi nước, Thầy để ra ngoài chỗ đất cho nó bò đi, cái hành động mà làm như vậy đó là tâm Bi. Trước cái sự đau khổ của một loài vật khác mà mình cứu giúp cho nó thoát cái khổ gọi là tâm Bi, các con hiểu chưa?
Vì vậy cho nên cái hành động mà Từ Bi này thì nó gọi là lòng hiếu sinh, cái lòng thương yêu của chúng ta, nếu một người không thương yêu thì chúng ta đi chúng ta cứ dẫm cho chết hết, chúng ta đâu có thương, phải không? Có lòng thương chúng ta mới thực hiện được lòng Từ, có lòng thương chúng ta mới thực hiện được lòng Bi, có phải đúng không?
(48:49) Đó thì các con thấy Phật giáo dạy đâu nó có đó, mà bây giờ cái lòng thương yêu của chúng ta đó gọi là lòng hiếu sinh, thương sự sống, phải không? Cái đạo đức thương sự sống, cái đức hạnh thương sự sống, cái hành động và cái lòng, cái nhiệm vụ trọng trách thương yêu của mình từ trong cái tâm, từ trong tâm tư, lương năng, lương tri của mình nó phát xuất ra những cái hành động đó gọi là đức hạnh, cho nên gọi là Đức Hiếu Sinh, lòng thương yêu sự sống của chúng ta.
Cho nên cái giới không sát sanh, nói thì nghe khô khan, “Cái giới cấm anh không được sát sanh, không được giết con vật nha” nhưng mà khi giảng rộng ra thì chúng ta thấy mình đã thực hiện con người biết thương yêu con người chớ. Con người biết thương yêu những loài vật, con người biết thương yêu cây cỏ, cây cỏ cũng có sự sống chớ, tất cả những loài vật xung quanh chúng ta trong cái môi trường sống này nó sinh sôi nảy nở ra đều có sự sống, cho nên chúng ta thương yêu sự sống thì tức là chúng ta nuôi lớn được cái lòng thương yêu, chúng ta biết thương con chúng ta mà chúng ta không thấy thương con người khác thì chưa đúng, chưa đúng là chưa phải là là Tâm Đại Bi, Tâm Từ Bi của chúng ta.
Cho nên cái giới Không Sát Sanh là nó nói lên được cái lòng hiếu sinh của chúng ta, cái đạo đức hiếu sinh của con người chúng ta, cái đạo đức hiếu sinh của con người chúng ta. Mà một cái vị Thánh Sa di, người thực hiện trọn vẹn trong cái hạnh Thánh này gọi là Thánh Đức Hiếu Sinh Sa di, các con hiểu chưa? Khi nào mà các con học về cái bộ Giới Đức Thánh mà Thầy dạy thì mười Thánh Đức Sa di các con sẽ học được những cái Thánh Đức của một bậc Thánh Tăng, thì người cư sĩ chúng ta chỉ cần học cái Đức Hiếu Sinh, cái đạo đức hiếu sinh làm người chúng ta thôi, chứ không cần phải đi sâu vào cái đức Từ Bi như một vị Thánh, nhưng chúng ta thực hiện được cái lòng thương yêu của mọi sự sống đó là Đạo Đức Hiếu Sinh.
(50:39) Vậy thì cái giới đức thứ nhất thì các con thấy Không Giết Hại Chúng Sanh nó nói lên được cái đạo đức hiếu sinh của mình.
Vì vậy từ cái đạo đức hiếu sinh đó làm gì? Một cái người đang chửi mình mà mình thương yêu sự sống của người khác, biết là cái người chửi mình nói mình chó trâu, mà mình nghĩ mình tức giận thì đó là sai, mà mình thương yêu cái người mà đang chửi mình, tại sao thương yêu được? Người ta có khổ, có gì đó với mình người ta mới chửi mình, chứ khi không có ai mà chửi mình được, cho nên cái người chửi mình là cái người đang đau khổ. Cho nên khi mà cái lòng thương yêu của mình, mình có cái lòng thương yêu đó, mình nghĩ đến “cái người này khổ quá, họ vì tranh chấp đất đai, vì tranh chấp công ăn việc làm gì đây mà họ ghét mình, mà họ phải chửi mình, mà họ ghét họ chửi mình là họ là người đau khổ cho nên mình phải thương yêu họ”, khi mà mình nghĩ mình thương yêu họ thì mình không chửi họ, mà mình không giận họ có phải là giải thoát không?
Các con thấy nó nghịch lại, mình thấy thằng cha này đáng ghét, thằng cha này hung dữ, thì ngay đó là mình sân tức thì, thì ngay đó mình có khổ liền chứ gì? Nhưng mình nghĩ “người đó khổ, người đó khổ quá, tội quá do cái sự không hiểu mà người ta tranh chấp vào cái chỗ không đúng mà người ta phải khổ, cho nên mình phải thương, tìm cách để mình gỡ rối cho người này”, ngay mình biết thương người là mình hết khổ rồi. Cho nên đức Phật nói Tâm Từ, Tâm Bi của mình là đối trị Tâm Sân của mình có đúng không mấy con? Phải không?
Mình học Phật Pháp nó thực tế quá mà, một cái người mà chửi mắng nói nặng nói nhẹ mình, mình thấy tội nghiệp cái người này quá thì ngay đó là mình không còn tức giận người đó nữa; mà mình thấy người này ác quá, người này dữ tợn, người này hung dữ, người này, người gì mà như quỷ, như cái gì đâu thì ngay đó mấy con thấy khổ đau, có đúng không? Thầy nói có đúng không?
(52:20) Cho nên ở đây Phật Pháp rất thực tế, nó nhìn cái nhìn của nó trái ngược lại hết, thay vì người ta nhìn thấy dữ thì mình lại nhìn thấy hiền, mình lại nhìn thấy thương thì do đó nó làm cho mình, tâm tư của mình nó an lạc vô cùng, xung quanh mình không có người nào mà đáng ghét mà tất cả những người nào cũng đáng thương, không có đáng ghét, phải không? Đạo Phật dạy chúng ta phải thương yêu sự sống, cho nên nếu mà chúng ta thực sự thương yêu sự sống thì không có ai, không có ác pháp nào làm chướng ngại tâm của chúng ta được hết vì chúng ta rất thương yêu. Mà đúng quá mấy con, bởi vì thương yêu bằng sự thật mà, người ta khổ người ta mới chửi mình chứ, người ta không khổ thì ai chửi mình, mình thương đúng, còn mình giận là mình giận sai, phải không? Mà cuối cùng mình bị cái đối tượng dữ tợn, cái đối tượng ác pháp kia làm cho tâm mình lôi cuốn trong ác pháp tâm mình nó cũng khổ đau luôn, vì vậy mình là người ngu chứ không phải là người trí.
Đạo Phật là người trí hóa giải được tất cả các nghiệp, chuyển hóa được nhân quả của nó, làm cho nó được giải thoát, phải không? Các con thấy chưa? Đó là cái Đức Hiếu Sinh, phải không? Mình phải học được những cái đức lợi ích quá mà, các con phải học được cái đạo đức này thì lợi ích quá, giải thoát như Phật rồi, Phật thì Từ, Bi, Hỷ, Xả, còn tại sao mình không được Từ, Bi, Hỷ, Xả một chút như Phật? Phật mười mình cũng được một, Phật một trăm mình được một thôi thì lòng thương yêu của mình chỉ được một thôi thì cũng là thấy hạnh phúc rồi, phải không? Cho ông Phật mười đi mà mình đã nương theo Phật mà mình tâm không giống Phật à? Cứ chửi lộn như vậy tốt hay sao? Phải không? Cho nên bây giờ mình nói tôi đã quy y Tam Bảo nương theo Phật rồi thì bây giờ tôi phải thương yêu người, người ta có làm gì làm, người ta có làm tôi đau khổ gì tôi cũng thương yêu.
Thầy nhắc lại, khi ông Phú Lâu Na xin Phật để đi vào một cái nơi, một cái xứ khác, một cái vùng khác, cái nơi đó người ta còn hung dữ lắm, thì ông Phú Lâu Na xin Phật muốn đi vào cái xứ mà con người còn hung dữ, chưa biết thiện pháp, xin Phật cho ông đến đó.
Thì ông Phật nói: “Ông có đủ khả năng không? Cái Nước đó họ dữ lắm đó, ông đến đó nó chửi ông đó”.
Thì ông nói như thế này: “Bạch Đức Thế Tôn, dân ở đó nếu mà rủi nó có chửi con, con thấy nó còn thương con, nó chưa có lấy đá nó ném con đâu”.
Rồi ông Phật nói: “Nếu lấy đá ném ông thì sao?”.
Thì ông nói: “Nó cũng còn thương con, nó chưa lấy gươm dao đâm con đâu”.
Thì ông (Phật) nói: “Nếu nó lấy gươm dao đâm ông thì sao?”.
Thì ông nói: “Nó cũng còn thương con, nó chưa giết con”.
Thì ông (Phật) nói: “Nếu nó giết con thì sao?”.
“Nó giết con nó còn thương con, để con mang thân này khổ chứ làm gì!”.
Rồi cuối cùng ông cứ thương không ông có ghét đâu! Thì như vậy ông hoàn toàn. Đức Phật nói: “Được, ông cứ đi đi”. Phải không?
(54:48) Như vậy là rõ ràng đạo Phật dạy chúng ta lòng hiếu sinh mấy con, biết thương tất cả sự sống, ai làm trái ngược gì chúng ta cũng thương hết cho nên chúng ta chỉ biết cười chứ không biết khóc, hay không? Các con thấy hay chưa? Phật pháp là như vậy đó, đó là mới đúng đó, bởi vì “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” mà, các pháp ác đều không làm nhất định phải làm các pháp thiện thôi. Đó là Phật pháp đó. Cho nên cái giới đức mà các con học cũng là một cái phương để giúp cho các con giải thoát ra cuộc đời đau khổ của các con, đó là đạo đức mấy con, đạo đức hiếu sinh, đạo đức nhân quả, chuyển hóa được quả khổ của nghiệp nhân quả của chúng ta, không còn làm chúng ta khổ nữa, các con thấy hay chưa? Phải không?
Các con thấy bao giờ các con nghe được một cái lời mà dạy về cái giới đức như vậy chưa? Chưa chắc mấy con được nghe. Hôm nay mấy con có duyên về đây, mấy con quy y với Thầy, mấy con được nghe lời dạy để cho mấy con được giải thoát cái cuộc đời các con từ giờ phút này các con sẽ biết áp dụng vào cuộc sống các con, đạo đức hiếu sinh là các con sẽ hạnh phúc lắm mấy con, phải không?
(55:50) Trưởng lão: Bây giờ tới cái Giới thứ hai: Giới Không Tham lam Trộm cắp. Nghĩa là ở trong này, nếu mà nói không trộm cắp thì mình không ăn trộm cắp thôi, còn gian tham thì mình còn gian tham, nhưng mà gian tham trộm cắp ở đây nó liên tục nó nối liên tục, vậy thì chúng ta còn tham nhiều lắm mấy con. Cho nên cái đức Thánh của giới tham lam trộm cắp này là cái Đức Thánh Buông Xả, một cái người biết buông xả thì họ sẽ không tham lam, còn cái người không biết buông xả thì bây giờ họ không lấy trộm cắp này kia chớ họ cũng còn tham lam, nhưng mà còn tham còn khổ, chớ không phải hết, cho nên biết buông xả thì không khổ, đó là cái đức buông xả, một cái người tu biết buông xả.
Thí dụ như bây giờ con mới sắm một cái xe, con mới sắm cái xe gắn máy thôi, lỡ để ngoài cổng kia chúng lấy, Trời đất ơi! Buồn tức về khổ sở, đi đâu cũng dòm coi có ai lấy cái xe của mình không? Nó khổ sở đi cớ Công an này kia đủ thứ, xe mất vẫn mất, về ngủ không được tức tối, để cái xe có chút mà nó đẩy đi, tức. Còn cái người biết buông xả, thì con sao biết không? Nó không buồn khổ gì hết, nó nói đây nhìn nhân quả “hồi đó chắc mình cũng ăn trộm, ăn cắp của ai cho nên giờ người ta lấy lại chớ không gì, thôi mình vui vẻ để cố gắng làm mua cái khác thôi, không cần buồn khổ nữa”, thì người đó có khổ về của cải không? Đâu có khổ.
Cũng như bây giờ, con dồn hết cái công sức của con làm ra tiền con cất được cái nhà lầu ba bốn tầng, vừa ở mấy bữa bỗng dưng cái xóm mình bị cháy, cháy luôn cái nhà của mình luôn, “trời đất ơi, bao nhiêu công lao của mình, bây giờ đổ vô đây hết rồi”, thì con không chịu buông xả thì ngay đó con như người điên, có chắc không? Điên chứ không điên, Thầy nói điên đi cà ngơ cà ngơ ngẩn ngẩn, đi ngoài đường ngoài xá không còn biết gì nữa hết, cho nên đó là những cái sai lệch mà cái người có đức buông xả, không còn tham đắm, tham là tham đắm cái vật chất đó cho nên người ta xả, không còn khổ đau nữa, bình thường. Của cải do mình làm ra nó mất là do nhân quả, mình không hưởng được nó được là do nhân quả của mình, mình vui vẻ chấp nhận trả nhân quả không hề sợ, tao sẽ làm cái khác cất cái nhà còn cao hơn bốn tầng, phải không? Thì mình tích lũy mình lo mình làm nữa, không buồn khổ. Còn mấy cái người đó họ điên khùng.
(58:05) Thầy thấy trong một cuộc đời của Thầy, Thầy thấy nhiều người tiếc của cải, bị những cuộc chiến tranh của cải bị hư hoại, rồi bị tàn phá, rồi họ mất của cải như tay trắng rồi, họ thấy cuộc đời họ bốn mươi lăm, năm mươi tuổi rồi không còn gầy dựng lại được nữa, sức không còn làm được nữa, họ trở thành những người điên, thần kinh họ quá căng thẳng, họ không còn sống như cái người bình thường họ trở thành người điên, tới cuối cùng họ chết, còn ở trong cái trạng thái ngơ ngơ ngẩn ngẩn, đau khổ lắm mấy con.
Cho nên, Thánh đức buông xả là cần thiết lắm! Các con muốn thấy cái đức hạnh buông xả, buông xả như thế nào là đúng? Đức Phật nói như thế này: “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa, tâm hồn trắng bạch như vỏ óc phóng khoáng như hư không chỉ còn ba y một bát, thiểu dục tri túc”. Ba y một bát như thế nào? Như Thầy mặc đây là ba y một bát, cái y ngoài là cái y thượng là một cái y chứ gì, cái áo ngắn của Thầy mặc trong là cái áo chứ gì, cái quần là một - là ba cái bộ đồ như vậy gọi là ba y một bát. Khi mà Thầy thay cái y này ra Thầy giặt thì Thầy còn mặc hai cái này, mà khi Thầy giặt hai cái bộ đồ này thì Thầy lấy cái y thứ nhất choàng vô cho kín thân mình rồi Thầy sẽ giặt, như vậy cuộc đời quá khổ mấy con, mấy con ít ra cũng còn có hai bộ đồ, tệ nhất là mấy con ít nhất cũng còn hai bộ đồ, phải không? Nhưng mà ông Phật chỉ có một bộ đồ, cho nên cái bình bát (của) ông đó ông để gọn nhất là cái mùng, bỏ cái mùng ở trong đó để đi vào trong rừng, chỗ nào đó thì giăng xuống mà nằm mà thôi và cái muỗng đem cơm, không thừa hai vật.
Vì trong Giới Ni Tác Kỳ Ba Dật Đề, ba mươi giới xả đạo của Phật, người nào Tu sĩ mà có dư hai món đồ thì người đó bị đọa địa ngục liền, đức Phật đâu có chấp nhận. Thầy có cái y này mà Thầy có thêm cái nữa thì tức là Thầy bị đọa đó, Thầy có một bộ đồ này mặc mà Thầy có một bộ đồ nữa là Thầy bị đọa; Thầy không bệnh mà Thầy giữ viên thuốc Thầy bị đọa; Thầy có một cái muỗng Thầy ăn cơm mà thêm một cái muỗng nữa là Thầy bị đọa. Nghĩa là có hai vật là bị đọa, giới luật của Phật nghiêm chỉnh của một vị Thánh Tăng là như vậy, sống tri túc thiểu dục, không có được thừa.
(1:00:14) Sống như vậy, các con thấy sống như thế nào các con chịu nổi không? Không có được mang gối nè, không được đem theo mền nè, trời lạnh thì lấy cái y này đắp mà trời nực thì thôi, còn có một cái miếng y rách trải ở dưới đất, bất kì chỗ nào nằm là trải xuống đó nằm, ngồi thiền thì trải ngồi, xếp lại trải ngồi, chỉ có cái y rách với cái y lành này và cái bộ đồ này. Trong cái bát ăn cơm, uống nước trong đó chứ không thêm cái ly cái gì nữa, đời sống như vậy quá gọn gàng hơn là một binh chủng, hơn là một người lính. Nghĩa là người lính đồ đạc ở trên ba lô thôi, đi đánh giặc mang trên lưng của mình, còn cái người tu sĩ thì chỉ có cái bát để ăn cơm rồi để các vật dụng cần thiết cho mình ở trong đó thôi. Cho nên không có được hai cái bàn chải, không được hai cây kem, chừng nào hết thì xin mà không hết thì cứ giữ một thôi chứ không được hai, nếu mà hai thì đọa.
Cho nên ở đây các con chưa học được những cái hạnh Thánh. Một bậc Thánh Tăng mà! Chứ đâu có được mà nằm nhà cao cửa rộng, đâu có được ở chùa to Phật lớn đâu, ở hoàn toàn là những cái nơi mà nghèo, bởi vậy xả phú cầu bần mà! Chớ đâu có mà xả bần cầu phú. Cho nên bây giờ Phật giáo chúng ta đi ngược lại hết rồi, ngược theo với cái hạnh của Phật ngày xưa rồi! Cho nên họ nói cái hạnh của Phật ngày xưa nó lỗi thời, bây giờ phải sống vậy, đúng là sống như vậy làm sao giải thoát được? Làm sao chứng quả A La Hán được? Cho nên chúng ta tìm một vị A La Hán không bao giờ có, phải không?
Cho nên ở đây các con thấy cái Đức Buông Xả, buông xả đến tận cùng, còn thiểu dục tri túc, không còn gì nữa hết, là một Du Tăng nay rày đây mai đó, không có được ở nương một chỗ nào hết, cho nên cái hạnh của Du Tăng Khất Sĩ tuyệt vời, một bậc Thánh thì người ta mới sống được cái điều này chứ còn lơ mơ. Cho nên cái hạnh buông xả này là cái hạnh không còn tham, nó lìa ra cái tâm tham, nó là cái đức, cái Đức Buông Xả.
Bây giờ về cái đức cao quý như vậy, cho nên vì vậy mấy con chỉ cần buông xả một phần trăm của Phật thôi! Một phần trăm của một vị Thánh Tăng thôi thì mấy con cũng thấy an ổn rồi, mất của không tiếc đâu, thấy nó là nhân quả rồi thì mấy con không có khổ nữa, không có rầu rĩ đâu, thì cũng đủ cho cái đời sống của người cư sĩ các con thấy hạnh phúc rồi! Cho nên các con chỉ cần giữ được cái Đức Buông Xả, một cái Đức Buông Xả một chút xíu thôi, một chút xíu của Phật thôi, Phật mười các con được một, Phật một trăm thì các con được một phần trăm thôi cũng là hạnh phúc rồi, các con nhớ chưa? Nhớ kỹ!
(1:02:43) Chớ còn người buông xả thì không bao giờ tham lam của ai hết. Còn Thầy nói ở đây, tu sĩ mà ở đây mà sống, tụi con thấy họ sống ở đây một thời gian, khi mà đi mền gối ở chùa cho họ đó, họ đi họ mang theo hết, họ làm cả bao bao vậy, rồi cái ca, cái gì uống nước, gì đủ thứ họ mang hết, rồi y áo, rồi Phật tử cúng dường này kia. Trời ơi! Hồi họ vô thì không có mà tới chừng về thì, chừng ba năm sau họ về thì Thầy nói họ kêu cái xe họ chở đi! Thật sự ra như vậy là còn cái gì mấy con? Đâu đúng cái hạnh của người tu đâu, tu mà còn như vậy là thôi, còn hơn ra đời đi làm đi còn thọ dụng của đàn na thí chủ như vậy thì không được, nghĩa là không đúng cách.
Cho nên Thầy không nói nhưng mà Thầy thấy đúng là Đại Thừa nó đã nuôi người ta bằng cách sống như vậy rồi. Chẳng hạn bây giờ về hạ các con là Phật tử các con cúng dường cho mùa hạ cho họ đầy đủ chứ gì, sau khi hạ rồi, quyết toán rồi, nó chia ra, nó chia mỗi Thầy bao nhiêu tiền, bao nhiêu bột ngọt, bao nhiêu xà bông, bao nhiêu dầu, bao nhiêu vải gì nó chia ra, thì ông nào về cũng bao bao vậy hết chớ không phải đâu. Trời ơi! Đi hạ còn sướng hơn cái gì nữa, thành ra người ta tu hành kiểu này riết rồi thành ra Phú Tăng hết nó đâu còn phải là Bần Tăng nữa! Cho nên không ngờ các con nghĩ thương các Thầy tu nên cung cấp rất đầy đủ, thế rồi người ta không nghĩ để mà người ta thực hiện cái sự giải thoát cuối cùng người ta cứ nghĩ đến cái vật dụng, tiền bạc, rồi y áo, quần áo không.
Cho nên Thầy nói thực sự Phật giáo bây giờ nó sai, sai đến mức độ, chẳng hạn bây giờ Thầy có đủ rồi, các con cúng dường vải sồ Thầy không nhận, không nhận nữa! Không nhận nữa! Chừng nào Thầy rách Thầy xin, bây giờ Thầy còn đồ đừng cúng nữa, còn cái này không, các con cứ cúng cúng cúng, nhận nhận nhận… nhận riết rồi trời đất ơi! Cả tủ, cả giường, cả bao vậy đó, Thầy nói riết rồi mấy con. Bởi vì người ta không dám nói mấy con cho nên mấy con đâu có biết, mấy con cứ cúng, chớ còn người ta ngăn chặn liền, “mấy con đừng có cúng hãy để số tiền đó mà có thể giúp cho những người bất hạnh trong xã hội chúng ta còn nhiều, an ủi họ đi. Còn quý Thầy tu hành rồi, bao nhiêu đây đủ rồi, chỉ mấy con cúng dường cho ngày bữa cơm đủ rồi, đừng có cúng nhiều, cúng nhiều rồi ăn uống phi thời không tốt”, cứ nói thẳng với Phật tử đi.
(1:04:59) Còn cái này tích lũy, tích lũy để làm gì? Cuối cùng xong cái hạ rồi cái ông Thầy nào ở trụ trì chùa đem bán lấy tiền đó rồi sửa chùa, sửa miễu làm đủ thứ đẹp sang ở trong đó, rồi trang trí phòng mình máy lạnh, tủ lạnh, đủ thứ hết như vậy là sai Phật pháp hết rồi, đó là không đúng mấy con?
Cho nên ở đây là cái giới mà Không Gian Tham Trộm Cắp thì cái giới đó là giới đúng, cái đức Thánh giới buông xả của nó, mà chúng ta không chịu buông xả thì chúng ta bị lầm lạc trong cái tham. Tham ở đây không có nghĩa là ăn trộm ăn cắp mà tham lam, chúng ta còn tham vật dụng, chúng ta còn ham muốn, còn thích những cái điều đó, cho nên chúng ta còn tích lũy những cái điều đó thì cái giới mà Không Tham Lam Trộm Cắp này là giới đừng có tích lũy.
(1:05:41) Trưởng lão: Còn cái Giới thứ ba là giới Không Tà Dâm. Đối với người cư sĩ thì chúng ta có chồng vợ thì chúng ta không có được dan díu với người khác để chúng ta giữ được cái Đức Chung Thủy. Nhưng mà với cái giới mà không dâm dục của một cái chú mà tu sĩ Sa di thì cái đức đó không phải là Đức Chung Thủy mà nó là cái Đức Thanh Tịnh, một cái người mà tu sĩ phải giữ gìn không có được để tâm dâm dục thì cái người đó mới có thanh tịnh, còn cái người mà còn cái tâm dâm dục là không thanh tịnh cho nên cái đức nó phải khác. Còn cái đức này là cái Đức Chung Thủy, cái người chồng chung thủy với người vợ, người vợ chung thủy với người chồng, không có dan díu với người này người kia, cho nên ở đây gọi là tà dâm nhưng mà cái đức nó là Đức Chung Thủy. Nó có đạo nghĩa, nó có tình nghĩa của nó ở trong đó, nó không có làm cho gia đình của mình tan nát, đó là cái Đức Chung Thủy.
Cho nên ở đây, Thầy phân tích để chúng ta thấy rằng cái giới mà đối với người cư sĩ gọi là giới tà dâm, giới mà tu sĩ gọi là dâm dục, gọi là dâm không có dâm dục, thì nó khác, cái nghĩa, cái đạo đức nó khác, nó không giống nhau, cho nên ở đây các con giữ gìn được cái giới đó là con người có cái Đức Chung Thủy, chung tình thì các con hãy giữ gìn cái đức đó thì hạnh phúc gia đình mình rất tốt, con cái mình không đau khổ.
(1:07:05) Trưởng lão: Bây giờ tới cái Giới Thứ Tư là giới Không Nói Dối. Giới Không Nói Dối tức là cái đức hạnh của nó là cái Đức Thành Thật, cái người thành thật là cái người không nói dối, mà người không thành thật là người hay nói dối, mà cái người nói dối là người mất uy tín, người ta biết mình nói dối là mình sẽ không còn uy tín với người ta, cho nên mình mất uy tín. Vì vậy một cái người thuyết giảng dạy người ta tu hành mà người ta không kết quả thì người ta sẽ mất tin, mất tin tức là mất uy tín mình rồi.
Cũng như Thầy dạy mấy con tu, mà mấy con tu không kết quả là lâu ngày mấy con không tin Thầy nữa, mà không tin Thầy nữa tức là Thầy mất uy tín, tức là Thầy nói láo, các con hiểu điều đó không? Cái người mà giảng dạy người ta tu, mà không giải thoát là cái người đó nói láo, không đúng, không tin, dạy người ta phải có kết quả, dạy người ta phải có giải thoát hoàn toàn mới tin, còn dạy mà tu không có kết quả, không có giải thoát thì ông này nói láo. Cho nên mấy con nghe Giảng Sư họ giảng vậy mình về tu không được gì hết, tức là mấy ông này nói láo, có không? Đó là nói láo đó, vọng ngữ đó mấy con, phạm vào cái giới này rồi đó.
Cho nên đừng có nói mấy ông Thầy giảng, mấy ông Thầy nói láo đó, ông có làm được đâu, còn người ta làm được, người ta dạy người khác mới làm được chứ, con hiểu điều đó không? Cái người làm được là cái người không nói láo, mà người không làm được mà nói coi chừng người đó nói láo. Toàn bộ quý Thầy là nói láo, mấy ông chưa làm được, mấy ông còn phạm những cái giới này, tức là mấy ông chưa có làm được điều giải thoát của mấy ông mà mấy ông đi giảng người ta, mấy ông chưa hẳn mấy ông giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì mấy ông giảng vậy là mấy ông nói láo gạt người ta, đừng có tin!
Không, Thầy nói thẳng, nói thật mà. Đó bây giờ cái giới này là cái giới thành thật mấy con, cái đức hạnh thành thật của nó đó. Cho nên chúng ta hãy cố gắng thành thật, thành thật được mức độ nào tốt mức độ nấy mấy con, cố gắng bởi vì giới nó khó lắm chứ không phải dễ. Sau này mấy con lần lượt mấy con học tu rồi Thầy mới dạy mấy con mới giữ được cái Đức Thành Thật đó, chứ không khéo nó lỡ một chút mà nói ra nó hại người ta mình không dám nói, mình nói láo một chút xíu, nhưng mà nói láo không hại ai hết, nhưng mà có cái điều kiện nó cũng vẫn là nói láo, nó cũng không tốt đâu, nhưng mà sau này được Thầy tu luyện thì mấy con sẽ không nói láo, nói láo thật sự hoàn toàn không tốt đâu. Còn cái gì mà nói không được thì thôi làm thinh không nói, không nói đâu.
Đó thì cái vấn đề mà tu tập theo đạo Phật thì sau này có dịp Thầy sẽ dạy mấy con về cách thức mà để giữ gìn đức hạnh, bởi vì nói chung Thầy không có thì giờ, chứ có thì giờ mà Thầy giảng mấy con từng chút từng chút mấy con sẽ muốn tu tập cái đức đó mấy con phải tập cái gì, làm cái gì thì mấy con sẽ đạt được cái đức đó, nhưng bây giờ thì chưa. Thầy mong có ngày nào đó, có cái trường học đàng hoàng Thầy mở cái lớp cho mấy con vào học đạo đức, học một tuần lễ hoặc một tháng mấy con về đó học, học rồi một tháng ra mấy con sống có đạo đức, thấy hạnh phúc. Thầy dạy đạo đức chớ Thầy có dạy gì đâu? Nhưng mà cái đạo đức của mấy con sống đúng thì mấy con hạnh phúc chứ gì, đó là cách thức như vậy.
(1:09:56) Trưởng lão: Bây giờ tới cái Giới Thứ Năm là giới Không Uống Rượu. Giới Không Uống Rượu là giới gì mấy con? Cái đức của nó là cái gì? - Đức Minh Mẫn. Người minh mẫn là không uống rượu, người không minh mẫn là người ngu uống rượu, cái người minh mẫn là cái người sáng suốt thông minh cho nên biết rượu là chất độc không bao giờ uống, phải không? Cho nên cái người minh mẫn cái đức của nó là Đức Minh Mẫn, Đức Sáng Suốt. Cho nên vì vậy mà cái đức hạnh của nó nằm ở chỗ sáng suốt minh mẫn, nhận ra được những cái vị độc thì nhất định không để cho thân mình đắm nhiễm. Như biết thuốc phiện là chất độc nhất định là không để cho nó đắm nhiễm dù một chút xíu, biết thuốc lá là độc nhất định là cũng không để đắm nhiễm. Đó là cái người có đức hạnh minh mẫn. Còn cái người không có đức hạnh minh mẫn là ngu si, cứ đụng đâu, cứ hễ nghe cái gì người ta nói, cứ làm đùa vô đó thì bắt đầu nó nhiễm ô rồi thì khó mà bỏ được, đó là cái Đức Minh Mẫn.
Cho nên ở đây năm cái đức hạnh ở đây chúng ta phải cố gắng thực hiện được từng chút nào được chút nấy. Chẳng hạn bây giờ mấy con đã ghiền thuốc lá rồi, nhất định là cái này các con mê mờ, không sáng suốt, không minh mẫn, từ đây bây giờ nghe Thầy nói rồi phải sáng suốt, minh mẫn, phải dứt liền, không được hút thuốc lá nữa bỏ liền, nhất định chết bỏ, nhất định là phải dứt không hút thuốc lá nữa thì như vậy mấy con mới hay. Bây giờ mấy con đã ghiền rượu rồi thì khi mà nghe Thầy thì nhất định một giọt rượu này không được bỏ trong miệng, như vậy thì mấy con minh mẫn, mấy con mới sáng suốt. Đó là đem lại cho thân tâm của mình không còn khổ đau trong những chất, thì như vậy là các con đã sáng suốt.
(1:11:33) Đó thì hôm nay Thầy nói, năm cái đức như thế này, nó đem lợi ích cho đời sống của chúng ta thực tế cụ thể, cái đức hạnh của nó. Ở đây nó là năm giới cấm, nó cấm chúng ta chứ sự thật ra cấm là bị ức chế, lấy nó mà bắt buộc mình phải giữ gìn cho đúng. Nhưng ở đây chúng ta thấy mỗi cái giới cấm nó là cái đạo đức, cái đạo đức làm người của chúng ta, lợi mình, lợi người khác, không làm khổ mình, không làm khổ người khác, nó là cái đạo đức, cho nên chúng ta hiểu cái đạo đức nó ích lợi như vậy, thì các con thấy nãy giờ nghe Thầy giảng năm cái đạo đức trong đạo Phật của một người cư sĩ, bây giờ một người cư sĩ mà sống chưa đủ năm cái đức này thì cái người cư sĩ này chưa phải là một con người thật sự, còn mang bản chất của một loài động vật, chưa thật là con người!
Bởi vì cái tiêu chuẩn làm người nó có năm điểm, mà năm điểm tức là năm cái đức này, mà năm cái đức này chúng ta còn thiếu một đức đi, bốn đức chúng ta làm được mà còn thiếu, chúng ta cũng còn mang bản chất của loài động vật, một con thú vật chứ chưa phải. Bởi vì chính mình là một cái loài động vật như bao con vật khác, mình hơn chúng là mình nhờ có cái trí, mình biết đức hạnh, cho nên hôm nay, mình biết mình khắc phục mình để mình sống đúng năm cái đức hạnh, thì mình mới thực sự là con người, còn mình sống chưa đúng năm cái đức hạnh này thì con người mình còn mang bản chất của loài động vật.
Tại sao vậy? Tại vì một con người mà là con người thì nó không bao giờ ăn thịt với nhau, còn hôm nay mình là con người mà còn ăn thịt cá, ăn thịt heo, ăn thịt bò, ăn thịt này kia thì con người còn mang bản chất của loài thú, bởi vì loài thú nó vẫn ăn thịt lẫn nhau, mà mình cũng còn ăn thịt lẫn nhau thì mình còn mang bản chất của loài thú. Từ đây về sau mình phải cố gắng mình khắc phục mình cho được để cho mình trở thành con người thật sự là con người, như đức Phật đã nói, cái tiêu chuẩn của nó mà.
(1:13:28) Cho nên vì vậy mà hiện giờ mấy con chưa có giữ gìn được năm cái điều kiện này, năm cái điểm này thì các con chết đi các con sẽ làm những con thú chứ chưa phải là con người, bởi vì tiêu chuẩn nó không có được. Cũng như mà người ta cho mấy con hai mươi điểm đậu mà các con bây giờ mới có được mười chín điểm thì các con đâu có được đậu, phải không? Chưa đủ được đậu thì các con đâu có được làm người thì các con phải làm thú, làm thú trải qua một cái thời gian trả những cái nghiệp báo của mấy con đã tạo, do đó cuối cùng trả cho sạch rồi thì nó mới được lên làm người, thì biết chừng nào?
Cho nên Phật nói: “Được thân người là khó, khó như con rùa mù giữa biển mà tìm bọng cây”. Mà tại sao các con thấy người ta sanh ra người nhiều dữ vậy? Không phải, đó là con thú không chứ đâu phải con người, cho nên các con thấy có nhiều người rất hung dữ, dữ hơn con thú, độc hơn con thú nữa chứ không phải, con thú nó còn hiền đó, có phải đúng không? Các con thấy mang hình người, nhưng mà sự thật tâm trạng của họ là con thú, chứ chưa phải là người. Cho nên muốn tiêu chuẩn được con người rất là con người đúng cách của con người, cho nên được thân người khó, được thân người mà được thân người đúng của nó thì khó lắm!
Các con cứ nhìn đi, ai sống trong xã hội chúng ta, ai mà sống được năm cái đức hạnh này? Khó phải không? Sống mà trọn vẹn đâu mấy con. Thầy nói mấy ông Thầy mà tu theo đạo Phật, bây giờ có năm cái giới này chắc gì họ đã sống đúng, chứ đừng nói chi mà tới mười giới, năm cái giới đầu tiên của người cư sĩ này thôi thì như vậy quý Thầy chưa chắc đã là con người đúng đâu, cho nên làm sao mà gọi là Thánh Tăng, cho nên không khéo đó mình lại quy y một cái ông Ma Ba Tuần mà mình không biết.
(1:15:09) Cho nên ở đây các con đã thấy Thầy giảng các con nghe được năm cái đức làm người, cái tiêu chuẩn. Còn mười cái đức mới làm Trời, cho nên Thập thiện mới làm Trời, còn năm cái đức, năm cái giới này nó làm Người. Cho nên các con cố gắng khắc phục, đời có gì đâu mấy con, ăn rồi mấy con cũng thấy nó không có hoằng thực, nó cũng ra những cái đồ bất tịnh, nó không có cái gì đâu mà để đời, chúng ta phải cố gắng khắc phục. Nhất định là phải, không theo Phật pháp thôi mà đã hiểu được Phật rồi thì phải làm con người cho ra Con Người, mà làm vị Thánh cho ra vị Thánh, chứ đừng có lừng chừng, các con hiểu chưa?
Cho nên các con nguyện: Nhất định là bây giờ tôi sẽ nguyện cố gắng tôi giữ gìn, nhưng bây giờ tôi chưa giữ trọn, nhưng mà tôi hứa, cuộc đời của tôi đã biết được Phật Pháp rồi, tôi sẽ giữ trọn và cuối cùng tôi sẽ giải quyết được sanh tử luân hồi, chớ không lẻ tôi bỏ cuộc đời tôi như thế này sao?
Được thân người là khó, các con mất thân này rồi kiếp sau mấy con tìm được nữa không? Khó lắm! Cho nên Thầy tu được rồi, Thầy an ổn, mấy con tu chưa được mấy con còn nỗi khổ đau, cũng như Thầy làm xong rồi, Thầy biết con đường Thầy đi, Thầy biết chỗ nào xong rồi, Thầy thấy Thầy an ổn. Còn những người như các con chưa biết, các con còn khổ lắm, không biết ngày mai đây nó bệnh như thế nào, nó làm như thế nào, nó nằm liệt giường liệt chiếu như thế nào, rồi đem nhà thương họ mổ họ xẻ như thế nào? Mình thấy bây giờ nó mạnh nhưng ngày mai, ngày mốt nó đau như thế nào các con biết được không? Đâu có biết được. Còn Thầy thì hoàn toàn bây giờ Thầy làm chủ được nó rồi, cho nên Thầy chẳng sợ nó nữa đâu, nó đến Thầy rút cái roi Thầy quất nó một cái là nó chạy mất, còn mấy con đánh nó không chạy đâu, đánh nó càng đau nó nằm lết đó nữa, cho nên nó càng nguy hiểm nữa, các con nhớ không?
Cho nên hôm nay được nghe lời Thầy: Có thân người là khó thì phải ráng mà nỗ lực theo đúng cái lộ trình của Phật đã dạy. Vì ông Phật đã hy sinh hết cái đời của mình để lại cái Pháp cho chúng ta, một cái cao quý. Các con nhớ là không tu thôi chớ mà tu rồi mấy con mới biết khổ hạnh của đức Phật tuyệt vời, Thầy mỗi lần nhớ đến đức Phật nước mắt lại rưng rưng chảy, không có làm sao mà quên được công ơn đó mấy con, Thầy nói thật sự.
(1:17:07) Hôm nay mà mấy con được nghe được Chánh Pháp, lời Thầy nói và sách tấn mấy con nỗ lực tận cùng với cái thân của con người của mấy con, mà mỗi lần nghe những cái gương hạnh mà sống tu tập của Thầy, ở trên núi mà ăn rau mà sống để mà tu tập, sống khổ hạnh tận cùng, rồi chiến đấu những cái trận mà đau bệnh của thân của mình, để mà vượt thoát ra, để mà có những kinh nghiệm mà dạy lại mấy con, thì khi nhớ đến những cái gương hạnh của Thầy, mấy con nó có cái nghị lực chiến đấu tận cùng mà ngăn chặn tất cả những ái kiết sử mà đang ràng buộc mấy con, đang trì kéo mấy con mà không cho mấy con thoát ra khỏi cái nhân quả của thế tục này.
Các con biết Thầy nói ái kiết sử là gì? Con cái, chồng con hoặc là vợ con đủ loại, nó cột mấy con cũng như là cái sợi dây, mà cũng như cái mạng lưới nó chằng chịt, các con muốn bứt ra không phải dễ đâu, khó lắm! Nhớ kỹ! Thầy nói coi vậy chớ nó không phải dễ đâu, cho nên gan dạ lắm mới bứt ra nổi, chứ còn lơ mơ là bứt không ra đâu. Đó thì cố gắng để mà cứu mình. Thầy cũng chỉ như ông Phật, chỉ là người mà chỉ đường cho mấy con đi mà thôi, còn riêng mấy con phải tự thắp đuốc lên mà đi, phải tập đúng theo những lời Thầy dạy, Thầy sẵn sàng dạy bảo mấy con tất cả những kinh nghiệm, nhưng mấy con phải đi, mấy con phải tu, mấy con phải tập, mấy con phải dứt, mấy con phải bỏ, mấy con phải hiểu, mấy con phải có cái lý để mà mấy con đoạn dứt nó, chớ mấy con không có lý thì mấy con không dứt ra được đâu. Thầy thương là Thầy nói hết lời.
Bây giờ thì mấy con đã nghe rồi, bắt đầu bây giờ mấy con chắp tay lên, mấy con hướng về tượng Phật, mấy con “Xin cho tôi thọ năm cái đức của một con người, thật sự là con người, mong chư Phật chứng cho lời của tôi. Tôi sẽ xin nhận, nhận tất cả những cái Đức này, nhưng tôi xin tập từ từ”, chớ bây giờ ngay liền, bây giờ tôi tập liền không có nổi đâu. Các con nhớ mình phải hứa rồi mình phải cố gắng mình tập, mình biết mình hứa thì mình phải ráng mình tập, nhưng mà nói Tôi làm liền bây giờ thì các con làm không nổi. Đó bây giờ các con chắp tay lên nguyện để mà thọ năm giới. Khi nguyện xong rồi thì các con đảnh lễ Phật một lạy thôi, thôi xá Thầy thôi, không có đảnh lễ Thầy.
Nay Thầy có gởi cho mấy con một cái cuộc lễ mà quy y Tam Bảo và Năm Giới, xong rồi mấy con đã thọ lãnh Năm Giới và ba ngôi Tam Bảo thì Thầy có làm một cái Giới Điệp, để cho mấy con nhận lãnh cái điệp phái, thì mỗi đứa Thầy cho một cái tên, tùy theo cái tâm tánh của các con mà các con cố gắng giữ gìn cái tên của các con cho xứng đáng với cái pháp danh của mấy con Thầy đã cho, như vậy là bây giờ Thầy gởi cho mấy con rồi coi tên của ai thì mấy con lấy, chứ Thầy không đọc tên mấy con đâu! Thầy gởi cho mấy con, mấy con coi chỗ này rồi mấy con sẽ nhận rồi mấy con cất, đi về đó rồi coi pháp danh của mình cố gắng giữ gìn.
(1:20:45) Rồi bây giờ mấy con có gì hỏi Thầy thêm không? Có gì hỏi Thầy thêm, bây giờ cái lễ nó xong rồi. Bắt đầu mấy con có hỏi Thầy gì thêm Thầy trả lời cho.
Phật tử: … (Không nghe rõ)
(1:21:22) Trưởng lão: Được rồi mấy con, vậy tốt lắm! Hai con ráng ở lại tập nha! Có gì Thầy dạy cho! Sáng bảy giờ Thầy ra đây Thầy mấy con tu, dạy cách thức vô thực hiện, không có nói lòng vòng, không có lý thuyết. Thì cho nên sáng mai, còn bây giờ các con sắp xếp về nghỉ, sắp xếp chỗ nghỉ cho đàng hoàng, Cô Út cho chỗ nào đó thì mấy con sẽ ở chỗ đó mấy con tập, mỗi người ở cái thất mấy con, để mà tập riêng tu tập. Còn mấy con thì sau khi thọ Tam Quy - Ngũ Giới rồi thì mấy con ngày mai trở về có cái gì thắc mắc, thì muốn hỏi Thầy thêm sau này sẽ hỏi. Còn có muốn đọc những kinh sách gì mà cần thiết thì phải hỏi Cô Diệu Quang, cô sẽ giúp đỡ cho mấy con các cuốn sách vở để mà đọc, nghiên cứu, nghiên cứu rồi có cái gì không hiểu thì hỏi thêm để rồi tu tập, chớ không phí bỏ cuộc đời mấy con, có thân người khó lắm, mất rồi kiếm không được đâu. Như Thầy nói cái điểm, năm điểm đó mấy con, chắc gì mình sống đúng năm điểm kiếp sau mình làm người, cho nên nó sẽ mất thân, nó bảo chính là mấy con trải qua nhiều kiếp mới được thân người, rồi mấy con sẽ mất đó, phải không? Các con nhớ!
Rồi con ngồi xuống đi con! Đừng quỳ con. Được rồi, Thầy chấp nhận rồi, sáng mai Thầy dạy cho, phải không? Rồi sẽ cố gắng tập tu mấy con, tập, như vậy là quý lắm rồi Thầy mong mấy con làm được, tu được để mà thấy được cái Chánh Pháp của Phật, chứ còn không khéo Chánh Pháp của Phật bị mất.
Rồi mấy con hỏi gì Thầy nữa không?
(1:22:55) Phật tử: Thưa Thầy con xin hỏi, đúng ra thì có đọc qua sách của Thầy thì con cũng thấy như mình tu là chủ yếu buông xả nhiều, nhưng mà con có nhiều lúc cũng chểnh mảng. Về cái Định Niệm Hơi Thở thì con không có ngồi kiết già được mà ngồi bán già?
Trưởng lão: Được con! Thầy nói nội cái Định Niệm Hơi Thở con có thể đi con cũng tu, tùy theo cái đặc tính của mình con, mình tu ngồi được thì mình tu, ngồi không được thì mình giữ theo cái hạnh khác mình tu. Nhất là cái mười tám cái đề mục Định Niệm Hơi Thở nó là những cái pháp tuyệt vời của đức Phật để trang bị cho mình để đối phó với chướng ngại pháp ở trên thân tâm của mình. Tập kỹ chừng nào là có kết quả giữ gìn thực tế đó, nhớ kỹ không?
Phật tử: Dạ nhớ!
Trưởng lão: Định Niệm Hơi Thở, mười tám cái đề mục của nó đó là mười tám cái điều kiện rất cần thiết cho một đời sống, mà nó chỉ tập nó cần một tháng hoặc là hai tháng một cái đề mục cho nó kết quả hẳn hoi cho nên nó xảy ra cái gì thì mình sử dụng ngay nó liền nó đẩy lui được liền, nó hay lắm con! Chẳng hạn mà con đau bệnh một cái gì hoặc là cái tâm của con bị chướng ngại gì đó thì con ngay những cái đề mục đó con thuộc con nhớ con tác ý thì rồi nó sẽ hết, còn tin tưởng là Phật dạy không phải là dạy sai chúng ta đâu. Cho nên Thầy đem những cái này là đem những cái kinh nghiệm mà Thầy đã làm chủ được cái sự sống chết của Thầy, Thầy nói cho mấy con rồi để cho mấy con tin tưởng mấy con thực hiện mấy con có kết quả.
Hồi nãy mà cái cô mà hồi nãy mà mấy con vô đây mà có cái cô đi ra đó, cô tu ở đây cô đi ra đó. Cái cô đó cô đã chiến đấu được cái thân của cô bắt đầu ngứa, mà ngứa khắp cùng mình, bị làm như mà ở ngoài Hải Phòng cô vô đây thì nó bị khác cái nước nó khác cho nên nó bị nó bị ngứa. Vì vậy mà nhớ lại lời Thầy dạy đó, cô không có uống thuốc, cô không có thoa dầu không có gì hết, cô chỉ tác ý thôi, chỉ ngồi tác ý. Bắt đầu tác ý cái thân rồi sau đó tắc ý cái tâm thôi, “An tịnh tâm hành, an tịnh thân hành” cô tác ý riết bây giờ nó không còn ngứa nữa, nó mất hết, nó hay vậy đó. Thầy đang nói ngứa không phải dễ chịu đâu mà gan dạ ôm chặt pháp cứ việc tác ý ôm hoài trong hơi thở tiến tới, còn con ngồi kiết già hoặc bán già cũng không sao. Rồi con cố gắng tu đi rồi các con thấy Phật pháp là vi diệu lắm, nó cứu khổ mình mà.
Phật tử: Thưa Thầy, đến khi mình nhập định được, xin hỏi cái cõi Địa ngục, rồi cái cõi Niết Bàn, rồi có những hồn ma, như vậy cái là cái đó có thiệt…?
(1:25:32) Trưởng lão: Để Thầy nói cho con nghe, nó có bốn cái giai đoạn định. Cái giai đoạn định thứ nhất gọi là Sơ Thiền, ly dục ly ác pháp nhập cái Sơ Thiền, là sống bình thường như chúng ta, nó có tầm có tứ y như con người nhưng mà nó toàn thiện, ai chửi, ai mắng, ai làm gì nó bất động tâm nó không dao động đó là nó nhập vào cái Sơ Thiền, nó ở trong cái trạng thái đó ai chửi mắng gì nó không có động, thân nó cũng không có đau đớn, an lạc nó là cái Sơ Thiền.
Tới cái Nhị Thiền con, là nó dừng sáu cái thức của nó, Mắt, Tai, Mũi, Miệng, Thân, Ý nó dừng lại hết là cái Nhị Thiền nó dừng lại hết cho nên nó diệt tầm tứ tức là nó diệt sáu cái thức Mắt, Tai, Mũi, Miệng, Thân, Ý mình. Tai vẫn không còn nghe, Mắt không còn thấy toàn bộ nó ở trong thế giới, thế giới khác mấy con, nó không phải ở trong cái trạng thái như mình ở trong cái thế giới hữu hình này đâu, ở một thế giới khác. Cho nên khi vào đó thì cõi Địa ngục có, hễ nói Địa ngục là có Địa ngục, mà Thiên đàng có Thiên đàng, ông Trời có, Ngọc Hoàng có tất cả những cái thế giới này vô trong đó là cái nào cũng có hết. Cho nên ngoại đạo nó đều bị rớt trong này mà nó xây dựng cái thế giới này.
Nhưng khi mà nhập Tam Thiền hoàn toàn nó dừng hết cái này rồi thì tìm không ra nữa, chứ không phải trong không gian này chỗ nào mà nó có cái thế giới đó được mà nó chỉ ở trong cái Tưởng của con đó mà nó có. Tức là con nhập cái định Nhị Thiền nó ở trong toàn bộ trong cái Tưởng Uẩn của con, còn cái Sơ Thiền nhập vào trong cái Sắc Uẩn của con cho nên nó hoàn toàn nó ở trong cái sự an lạc của thân tâm của nó trong Sắc Uẩn ở trong cái thế giới của chúng ta hiện giờ là Sắc Uẩn.
Còn cái thế giới của Tưởng Uẩn, thì Địa ngục, Thiên đàng, Tiên, Phật gì nó cũng đều nằm ở trong đó, muốn gặp ông nào thì cũng vô đó gặp hết! Nhưng mà nó do Tưởng Uẩn nó làm ra, cái thế giới nó do tưởng nó làm ra, chứ nó không phải có thật đâu mấy con! Cho nên những cái ma quái này kia mà thể hiện qua, trường hợp mà trạng thái nó xảy ra nó đều là ở trong cái trạng thái tưởng mà ra, nó không có thật! Khi người ta nhập Tam Thiền người ta tìm thế giới đó nó không còn có nữa, tức là người ta qua cái trạng thái đó nó không còn có nữa, nhập Tứ Thiền là hoàn toàn tìm cũng không có nữa, nhưng mà bây giờ nó mới đánh thức được cái Tâm Thức của chúng ta, chúng ta có Ba cái Thức:
Sắc Thức, Sắc Thức là sáu thức: Mắt, Tai, Mũi, Miệng, Thân, Ý của mình là sáu cái thức đó là Sắc Thức. Tưởng Thứ là cái giấc mộng mà con nằm chiêm bao con biết ở trong đó là Tưởng Thức. Còn cái Tâm Thức thì nó chưa có hoạt động, khi mà nhập Tứ Thiền thì hai cái thức này dừng lại cái Tưởng Thức và cái Ý Thức nó dừng lại, cho nên cái Tâm Thức bắt đầu hoạt động từ đó chúng ta mới dùng cái Tâm Thức này dẫn nó đi vào Tam Minh. Tức là bây giờ nó thực hiện về cái không gian và thời gian nó không có, vũ trụ mênh mông như vậy mà chúng ta dẫn Tâm Thức của chúng ta đi vào chỗ nào nó cũng biết hết. Bây giờ muốn biết ở trong không gian này có bao nhiêu hành tinh có con người sống hoặc là không có hành tinh sống, hành tinh chết nó đều biết, bao nhiêu cái nó biết hết, nhưng mà để không nói ra, nó nói ra với người khác không biết thì coi như nó nói láo cho nên nó không nói, trừ ra có một người nào biết nó mới nói người đó thôi, còn không có không bao giờ nói. Cũng như bây giờ Thầy biết Thầy không nói đâu. Tại sao vậy? Tại vì có nói mấy con có biết được đâu, thì mấy con không biết mấy con nói Thầy nói láo thôi, cho nên Thầy đâu có thèm nói.
(1:28:37) Cho nên vì vậy, cho nên khi mà nhập tới chỗ này chúng ta mới đi vào, mấy con cứ tu đi rồi mấy con sẽ thấy cái năng lực của mấy con sẽ dẫn dắt nó đi tới chỗ đó. Cho nên nhiều đời nhiều kiếp ở trong quá khứ của con nó đều là biết hết, biết trở lại quá khứ con, con là ông gì? Nhà gì? Ở Nước nào? Sanh ra như thế nào? Mà nhiều đời nhiều kiếp nó biết, nó đều biết hết, cái Tâm Thức đó nó biết hết, nó trong trạng thái Tứ Thiền nó sẽ dẫn cái tâm, hướng tâm tức (gọi là hướng tâm) tức là cái trạng thái… nó giúp cho cái tâm đi vào trong cái quá khứ trở về cái thời gian lâu xa.
Cũng như 2500 năm nay đức Phật đã để lại những hình ảnh nào mà thuyết giảng chỗ nào? Bài kinh thuyết giảng như thế nào? Đều lưu lại trong không gian này nó trở về điều nó bắt gặp được, nó không còn có cái chỗ nào. Cái hình ảnh đức Phật như thế nào nó biết, ốm như thế nào nó biết, mập như thế nào nó biết, đẹp trai như thế nào, xấu trai như thế nào nó cũng biết hết, nó thấy rõ. Thấy rõ cũng như Thầy ngồi thấy mấy con vậy. Nghĩa là lúc bấy giờ Tâm Thức nó hoạt động thì nó thấy rõ hết, nghĩa là những cái đó nó đã qua quá lâu, quá xưa rồi nó vẫn thấy hết. Cho nên thậm chí như nó đã thấy được từ cái thời xa xưa nào mà Trái Đất này thành hình, nó đã thấy được cái điều đó, chứ không có thời gian nào mà làm cho nó không thấy. Các con cứ tu đi rồi các con sẽ biết. Thầy nói thật sự!
Cho nên không có cái nào mà che giấu nó được hết, không có thời gian lâu xưa nào mà che giấu được Tâm Thức của các con, khi các con nhập Tứ Thiền đánh thức nó dậy, mới gọi là Tam Minh, nó minh nó sáng không còn cái chỗ nào mà giấu được nó hết, chỗ nào nó cũng sáng hết, thực hiện Tam Minh mà. Cho nên Túc Mạng Minh nhiều đời nhiều kiếp của mình quá khứ từ vô lượng kiếp về tương lai, từ đây cho đến khi Trái Đất này hoại nó cũng đều biết nữa, chứ chưa nói.
(1:30:25) Thì bắt đầu bây giờ mấy con cứ tu đi, Thầy nói tu đi rồi đó mà ngồi mà nghiệm, thì lúc Thầy tu rồi Thầy nghiệm chứ đâu có điên gì mình tu rồi mình không chịu xem, Trời ơi! Công Thầy tu vậy mà bây giờ không chịu ngồi xem nó thì uổng quá vậy, thì Thầy tu Thầy cũng ngồi Thầy xem chứ, cho nên nó đâu có phí uổng công của mình. Còn bây giờ mấy con không làm sao mấy con biết hết, mấy con cứ nỗ lực đi, không phí một đời tu của mấy con đâu. Cho nên ông Phật thực hiện Tam Minh cũng vậy, ông ngồi ông xem lại, xem lại không có sót một cái gì, cũng như xem những người ngồi xung quanh Thầy, đó như vậy các con đủ biết cái năng lực kinh lắm chứ không phải đâu.
Bởi vậy, bây giờ cái bệnh đau như thế này thì con phải đi uống thuốc hoặc là mổ xẻ hoặc chích nó mới hết, thế mà cái lệnh nó nói, bảo nó lui là nó lui, các con biết lực phải như thế nào chứ đâu phải thường được đâu, cái sức lực mình bảo nó lui nó có sức đề kháng rất mạnh chứ không phải, đẩy lui được bệnh là đề kháng dữ lắm. Mà các con không có tác ý, không có dùng cái lực của nó thì nó đau nó nhức mấy con năm mười ngày chưa hết đau, chỉ còn đi nhà thương uống thuốc thôi.
Cho nên vì vậy, các con biết là Thầy nói khi nào con nhập vào đó thì nó có thế giới Địa Ngục, Thiên Đàng nó có đủ, còn không có cái chỗ đó thì thôi con không tìm ai được. Cũng như bây giờ cha mẹ mình chết nhiều đời nhiều kiếp muốn gặp ông ta thì cứ vô trong đó thì gặp, còn hoàn toàn là ra khỏi chỗ đó thì không gặp, ông đi tái sanh mất rồi, không còn đâu. Các con thấy nó hay như vậy đó, mà không tu thì nó uổng, Phật pháp nó vi diệu vậy.
Bởi vậy, từ đó con biết từ cái Bốn Thánh Định, từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền cho đến Tam Minh nó đi con đường ngắn quá mà không ai tu hết, mà không ai biết đâu mà giải trình để cho tu, bây giờ Thầy biết giải trình ra được bài toán này rồi mà mấy con không tu là mấy con uổng, mấy con phí cái đời của mấy con uổng. Mấy con cứ ôm theo cái nợ nhân quả thế gian này hoài không chịu buông ra thì ông nội Thầy bây giờ giúp cũng không được nữa! Các con xả đi, bỏ đi, nó không có gì hết thì các con sẽ tìm thấy được cái này, Thầy không có nói láo gạt mấy con.
Phật tử: Như vậy là mấy cái ông mà nói lộ thiên cơ là có tội, như vậy là mấy người đó nói dối phải không Thầy?
Trưởng lão: Nói dối mấy con, bởi vì nhân quả, không có nhất định là không có nói bậy bạ, không dối người khác không đúng đâu.
(1:32:41) Phật tử: Thưa Thầy con muốn hỏi Thầy, con chưa có hiểu rõ, qua kinh sách của Thầy có giảng là không có thế giới siêu hình, như vậy linh hồn là cái gì vậy Thầy?
Trưởng lão: Là cái từ trường của mình con, thí dụ Thầy đưa cái tay để đánh người, có cái từ trường nó phóng ra con, Thầy nói cái lời nói nó phóng ra con, bây giờ Thầy nói lời nói là đều hoàn toàn nó có từ trường nó thải ra trong cái từ trường trong không gian của chúng ta, nó trở thành một cái lực, cái lực của nghiệp. Cho nên khi mà thân chúng ta chết rồi, thân ngũ uẩn chúng ta hoại diệt nó không còn một vật gì hết, nhưng mà cái từ trường đó nó còn con, nó tương ưng với các từ trường khác, cũng như cái từ trường đó Thầy đánh người thì nó cũng tương ưng với từ trường khác cũng đánh người, nó cũng trùng hợp với nhau nó tạo thành một cái từ trường chung, rồi Thầy nói lời nói hung ác thì nó cũng từ trường đó nó cũng chung nhau, bắt đầu bây giờ nó tương ưng đó Thầy bỏ thân này cái đó nó tương ưng với ông nào đó cũng giống có những trường hợp nó giống vậy đó thì ông đó làm Cha mình. Chớ còn Thầy không có cái gì mà Thầy điên vô đó Thầy đầu thai ông ta hết, mà chỉ có từ trường thải ra nó đang ở trong không gian này tức là gọi là các gen, cái từ trường nó giống như là các gen nó sẽ hợp lại, bởi duyên hợp mà, nó hợp lại thành con người. Nó làm cho mình phải tiếp tục chịu khổ đau, mà khổ đau là tại vì mình thải ra cái này rồi mình chịu luân hồi chứ ai mà thải, tại con nói lời ác, tại con nói lời thiện nó mới có, chớ còn Thầy làm thinh tối ngày Thầy không nói làm gì nó thải ra, cho nên cái người tu người ta sống độc cư trầm lặng người ta không nói, làm gì thải, cho nên nó chấm dứt đó mấy con, hiểu chưa? Nó đâu còn sanh tử luân hồi.
(1:34:11) Phật tử: Những bệnh quái ác bây giờ đó là do đo đâu mà có thưa Thầy?
Trưởng lão: Nó do những cái từ trường ác chúng ta thải ra, nó làm cho thời tiết nó bất ổn con. Cho nên bão lụt, mưa gió bất thình lình chỗ này chỗ nọ, động đất. Toàn bộ là những cái hung ác của chúng ta nó thải ra trong cái từ trường, nó làm cho thời tiết của chúng ta nó bất ổn, nó rối loạn đi. Cho nên nó mưa gió nó bất thường, chỗ này nó không mưa, chỗ kia thì nó mưa, nó mưa nhiều nó ngập nó lụt, do chúng ta làm ác, chứ đâu phải thời tiết, thời tiết nó theo ảnh hưởng từ trường thiện ác của chúng ta tạo ra, chúng ta càng ác là chúng ta càng đau khổ.
(1:34:49) Phật tử: Thưa Thầy, như thí dụ mình tu mình chứng quả được như Thầy vậy, đắc đạo, Thầy thấy được cha mẹ mình đang thọ sanh ở kiếp nào để mình độ cho họ?
Trưởng lão: Con sẽ dùng Thiên Nhãn Minh, con sẽ thấy. Bây giờ con muốn thấy, ví dụ như con vào cái Tứ Thiền đó rồi, con hướng tâm tức là con dùng cái Trạch Pháp Giác Chi, cái Trạch Pháp Giác Chi là một năng lực của bảy cái năng lực của Bồ đề của Phật đó, con dùng cái đó…
Người ta biết mà, cho nên những kinh sách đó người ta đưa vào người ta biết cái người này sẽ truyền đến người nào người nào sẽ đi đến cái gia đình đó, sẽ đi đến những cái người thân của mình đã tái sinh ở đó rồi, thậm chí như nước nào cũng biết hết chứ đâu phải là nói nước nào ở trong cái hành tinh này cũng biết hết, cha mẹ mình sanh ở chỗ nào cũng biết mà sanh làm con vật cũng biết nữa. Như thí dụ như con chó, con gà của mình ở xung quanh đây mình nhìn cái mình biết, đây là cha mình, những tội ác bây giờ thành con chó đây.
Bởi vậy Thầy nói, không có cái gì mà cản trở được cái người mà đã có Tam Minh, cái lực của Tam Minh, cho nên Thầy nói cái lực đó là một vị A La Hán người nào cũng như vậy, mấy con tu rồi cũng vậy chứ mấy con không kém Thầy đâu, cho nên ông Phật sao Thầy cũng vậy, thì bây giờ mấy con tu đúng theo như lời Thầy dạy, mấy con cũng được như vậy, cũng giống như Phật, giống như Thầy. Mấy con muốn biết cái gì thì nó sẽ thực hiện, trong những cái biết đó, tức là cái người tu rồi ai cũng cần biết chứ không có người nào mà người ta không cần biết đâu. Rồi người ta biết độ mấy đời, bao nhiêu năm, bao nhiêu cái thời gian, đối với cái con người trên hành tinh này bao nhiêu cái thời gian đó sẽ độ được cha mẹ mình tu tới nơi tới chốn. Chứ không phải biết độ có một đời hoặc là tới đó để dẫn cho họ lên bàn Phật được đâu, (không) có thể nào mà giải thoát được đâu, trời, cái nghiệp của họ nặng, cha mẹ mình tạo thành cái nghiệp quá trời rồi, mình không có thể nào đâu, mình tự mình hướng dẫn lần cho họ cởi bỏ, họ tự họ cứu chứ không phải không.
(1:36:48) Thí dụ như bây giờ mấy con nhìn Thầy mấy con chưa biết, nhưng mà không ngờ là trong cái tiền kiếp nào đó mấy con cũng là một cái nhân quả cũng là dòng họ cũng anh em, cũng cha mẹ cũng này kia, nhưng mà Thầy không nói ra thôi chứ sự thật ra nó phải có sự liên hệ bây giờ mấy con mới có duyên gặp Thầy chứ đâu phải dễ. Nó không phải dễ đâu, nó chờ cho đủ cái duyên nó nhờ cái nhân quả, nhờ cái sự tu tập của Thầy nó tạo thành cái duyên để cho mấy con được cái duyên của mấy con là những người thân của Thầy cho nên mấy con mới được những kinh sách của Thầy chứ đâu phải dễ đâu. Nếu mà người ta không có duyên, không có cái nhân quả của thân thì người ta không được gặp sách Thầy đâu, đâu phải được phổ biến rộng đâu, không phải dễ đâu, biết bao nhiêu người, hàng triệu triệu người chưa biết được kinh sách của Thầy, cho nên nó phải có cái nhân duyên hết.
Nhưng mà mình không có nên nói cái điều đó, mà cố gắng, bởi vì mọi người đều có cái duyên, cái duyên của nó và cái nghiệp của nó nặng cho nên không thể trong một kiếp này mà có thể giải quyết được, cho nên Thầy cứ sách tấn mấy con, hồi nãy giờ Thầy nói, mấy con biết Thầy sách tấn mấy con rất nhiều là Thầy muốn độ những người thân của Thầy chứ ai vô đây, các con nhớ, nhưng mà các con thì không nhìn thấy Thầy, không biết Thầy là gì chứ Thầy biết các con là ai hết đó, nhìn các con Thầy biết chứ.
Các con mang cái lớp này rồi thì các con không còn biết, nhưng mà Thầy đã nhìn qua được cái lớp nghiệp của các con và nhiều cái lớp nghiệp của các con đã bỏ, Thầy đã biết từ đâu mà đến thì các con hãy ráng nghe lời Thầy đi, Thầy không bỏ mấy con đâu, Thầy sẵn sàng mà, Thầy sẵn sàng giúp mấy con tu tập tới nơi tới chốn mà. Nhưng cái nghiệp của mấy con nặng, thành ra mấy con ráng hết sức lực của mình chớ không phải mấy con không ráng, nhưng mà cái nghiệp nó nặng, nó đì các con, nó lôi mấy con thì kiếp này chưa xong thì kiếp khác, nhưng mà vẫn đi đúng đường.
(1:38:39) Trưởng lão: Các con ráng, Thầy không bỏ đâu, các con ráng đi, Thầy nhất định chưa chết đâu, dù có gian nan, có bao nhiêu thứ khổ Thầy cũng cố gắng duy trì mình để mà giúp cho mấy con đi con đường này, đi con đường này cho được giải thoát, rồi cố gắng, mấy con cố gắng, Thầy cố gắng, khi nào mà có người tu chứng thay Thầy, thì chắc chắn Thầy sẽ ra đi, chừng đó thì có người đã tiếp thêm ngọn đuốc của Phật Pháp dẫn dắt, để không khéo cái quả A La Hán sẽ không còn người hướng dẫn được nữa, khó lắm chớ không phải dễ.
Các con biết 2500 mấy trăm năm nay tìm một vị A La Hán không có, mà trong cái thời đại của chúng ta may mắn Thầy thực hiện được chứ thiệt ra gian khổ, mà bây giờ Thầy biết rồi, các con biết tu đúng đâu phải dễ, còn Thầy chưa có ai dẫn dắt mà Thầy tu là cả một vấn đề con đường trước nó mờ, còn bây giờ các con chỉ nương vào Thầy có sai Thầy sửa rồi, thế mà mấy con còn thấy khó khăn. Còn Thầy không ai mà tự mình đi, phải đứng lên, tự mình phải vượt lên những cái khó khăn, nhiều khi nó coi như là cái đường cùng, không biết đường đi, nhưng mà chư Phật cũng cảm thông được, trong khi mình mất cái hướng đi rồi, thì làm như tâm mình nó sáng suốt, chư Phật cảm thông được cái nỗi khổ, đạo cảm thông được cái nỗi khổ của người tu, cho nên Ngài luôn luôn lúc nào cũng sẵn sàng bên mình, chỉ vì mình không tha thiết tu thôi chứ mình tha thiết là chư Phật, Thầy cũng luôn lúc nào cũng sẵn sàng khi mà các con.
(1:40:23) Cái từ trường đó nó chỉ luôn luôn khi nào mấy con tiếp nhận được cái từ trường của những người tu là tâm mấy con phải giữ thanh thản, an lạc, vô sự thì các con gặp bất kỳ những cái đau khổ gì mà các con cứ giữ gìn cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự đừng sợ thì ngay đó có những cái lực nó giúp cho con vượt qua những khổ đau đó, nó làm cho mấy con vượt qua được. Còn nếu mà mấy con bỏ mất cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự thì coi như là các con không được tiếp diện những cái lực đó cho nên các con bị đau.
Nhớ như vậy, nhớ cái tâm của mấy con thanh thản, an lạc, vô sự, bây giờ đau nhức hay hoặc là trường hợp nào giữ gìn cái tâm này bất động, như vậy thì có cái lực giúp mấy con liền, thì ngay đó Thầy trợ giúp mấy con, còn mấy con bỏ lìa cái tâm đó rồi thì bây giờ giúp cũng không được, làm sao giúp được, các con cứ giữ gìn được cái tâm đó thì nó có cái lực, cái từ trường của chư Phật người ta sẽ trợ giúp cho mấy con, người ta làm cho trí tuệ mấy con sáng suốt nó được liền ngay tức khắc để các con thấy được cái đường này sai cái đường này đúng, người ta làm cho các con có được cái tri kiến, giúp cho các con có cái tri kiến, chỉ cần các con giữ được cái thanh thản, an lạc, vô sự thôi thì ngay đó cái tri kiến của các con nó bừng sáng lên liền các con thấy nhận ra được hướng đi, giải quyết được cái công chuyện, giải quyết được tâm. Các con nhớ những lời Thầy dạy, nhớ những lời Thầy dặn rồi sau này các con sẽ thấy sự đó là sự hiệu nghiệm nhất của cuộc đời tu của mình.
(1:41:50) Phật tử: Con cũng đã mới gặp Thầy đây, chứ hầu như con cũng đã chứng được cái chuyện đau đó, khi nãy con ngồi nó đau lắm, con làm theo ý Thầy thì con thấy nó không còn đau nữa, nó ngưng, hồi mới ngồi nó mỏi dữ lắm nó nhức thì con đã, chính là Thầy đã dạy đúng cái thứ mà con đã học đúng … (Không nghe rõ).
Trưởng lão: Con ráng cố gắng đó là tạo cái kết quả đó là cái niềm tin nhất của Thầy đã trao cho con, Thầy không làm gì hơn để mà chỉ trao cho con được cái niềm tin và cái niềm tin đó là kết quả của cái sự niềm tin của các con đã chuyên tâm, đã làm được, các con nhớ. Cho nên những cái này là những cái thực tế cụ thể để giúp cho các con vượt qua những cái nỗi khổ của con người mang cái thân người, mang cái thân khổ, các con ráng. Cái kết quả đó là cái niềm tin để giúp cho các con vượt qua những cái nỗi khổ của cái thân của mình, vì thân người nó có mang bốn cái nỗi khổ: Sanh, Già, Bệnh, Chết. Các con ráng!
(1:42:54) Phật tử: Thưa Thầy, tụi con thì có một số anh em tụi con có những dịp gặp gỡ hay trò chuyện với nhau, thì tụi con cũng sợ Thầy chưa có người nối mà Thầy đã đi, thì Đại thừa sẽ dập tắt không thể nào những kinh sách này còn được thì chúng con cũng rất lo sợ điều đó. Tụi con cũng xin Thầy tại thế cho lâu dài để còn hướng dẫn tụi con, chứ tụi con thấy nếu mà Thầy đi sớm rồi mà không có người nối tiếp thì không thể nào mà tụi con ở lại … (Không nghe rõ).
Trưởng lão: Đúng vậy, Thầy cũng biết điều đó, cho nên Thầy chưa đi đâu, Thầy hứa mấy con, Thầy đi là khi nào có đệ tử của Thầy tu chứng, Từ Quang sẽ ráng con! Nó sẽ về bên Úc nó dạy mấy con.
Phật tử: Thưa Thầy, thì con cũng già rồi.
Trưởng lão: Thì con nhớ rằng… Nhưng mà trẻ hơn Thầy, có già nhưng mà còn trẻ hơn Thầy, phải không! Rồi bắt đầu, các con biết không? Thầy không những đào tạo người già, người trung niên và cái người còn trẻ tuổi, ở trong cái Tu Viện của Thầy nó có nhiều người tuổi trẻ mới chừng hai mấy, ba mươi tuổi cũng hết mình tu lắm mấy con, chứ đừng có tưởng ở trong cái giới mà tu này cũng có nhiều người trẻ tu lắm, mặc dù là gia đình cha mẹ không bằng lòng, nhưng mà họ vượt qua. Mà cái trí của họ là những người, là những nhà khoa học trẻ tuổi của Việt Nam họ dám bỏ đi theo Thầy, gan thiệt chứ không phải không, đang làm công việc trong những cái phòng khoa học để nghiên cứu và phát minh những cái điều làm lợi ích cho nước, cho dân thế mà họ thấy những cái điều đó nó cũng chưa hẳn là lợi ích lớn cho nên họ đã dám bỏ đi tu trong cái tuổi của họ thì cỡ khoảng hai mươi mấy, ba mươi, trên ba mươi ba mốt, ba mươi hai tuổi. Những cái người này mà họ quyết chí mà Thầy hướng dẫn tới nơi tới chốn rồi thì tương lai của Phật giáo là mạnh lắm. Họ là những người có học thức chớ không phải là những người thiếu học thức, thì Thầy nghĩ rằng Phật pháp cũng có hồi phải hưng thịnh, chứ nếu mà Thầy đi rồi mà không ai chắc là nó sẽ bị dập một lần nữa tiêu, coi như dập lần nữa thì không còn cơ hội để mà sống lại được, khó lắm mấy con!
(1:45:40) Cho nên mấy con ráng tu đi, mấy con mỗi người góp sức một chút chứ đừng có hi vọng vào ai hết, hãy hi vọng vào mình. Phật pháp còn hay không còn là do chính mình phải nỗ lực tu thì cái điều này là điều quan trọng. Cho nên các con nỗ lực, người khác cũng nỗ lực, mọi người đều nỗ lực tu thì Phật pháp sẽ hưng thịnh, chắc chắn. Nỗ lực tu là Giới luật chúng ta nghiêm chỉnh hẳn hoi hoàn toàn, như mấy con cư sĩ mấy con giữ gìn tám giới nghiêm chỉnh đàng hoàng, không hề vi phạm một cái giới nào hết, sống cho đúng cách, không để cho một cái lỗi nhỏ nào mà chúng ta phạm giới thì mấy con sẽ thấy kết quả ghê gớm lắm! Thầy, cứ tin đi mấy con, ví dụ bây giờ như mấy con bất kỳ thà chết chứ nhất định không phạm các giới đó, thì mấy con sẽ sống đúng hạnh rồi mấy con sẽ vượt qua từng những cái khó khăn cuộc đời tu của mấy con.
Phật tử: Thưa Thầy con cũng có một dịp, con cũng quyết chí, đợt vừa rồi khi mà sư Tuệ Tĩnh về … (Không nghe rõ). Thì lúc đó con ốm yếu lắm, sức con yếu lắm, khi những người quen thân đến thăm thì kêu con ăn mặn đi mới có sức chứ ăn chay không có sức, thì con trả lời là có chết thì con cũng chết chứ con nhất định không ăn mặn, thật sự con ăn chay mà phục hồi sức lực rất là mau. Con nghĩ rằng nếu mà con ăn chay thì chưa chắc đã phục hồi mau nhanh bằng sau khi con ăn … (Không nghe rõ).
Trưởng lão: Như vậy là cái năng lực mà của con, cái lòng tin của con nó giúp cho con vượt qua chớ không phải ăn chay, ăn mặn đâu mấy con, cái tinh thần. Mau á con. Bởi vì mình có niềm tin: Nhất định tôi chết tôi nhất định là không ăn mặn, thà ăn chay. Vậy mà cái tinh thần đó nó sẽ giúp con vượt qua những khó khăn, con nhớ cái tinh thần đó. Cho nên Thầy dạy mấy con, dạy đạo là đem cái năng lực của tinh thần của mấy con chiến đấu với cái nghịch cảnh, các con sẽ thành công.
(1:47:55) Phật tử: Trong lúc mà con sốc hôn mê, thì trong tinh thần của con có mộng chiêm bao, con nhờ đọc sách và nghe băng Thầy giảng nhiều thành ra tâm hồn con rất là an ổn, thì trong lúc nó cũng đau đớn rồi con thấy như là có thể bệnh của con rất là an ổn, con nghe lời Thầy giảng thì cái chuyện sống chết của con không màng nữa, con nghĩ là cái nghiệp của mình tới, vì mình đi con cũng không có sợ, thành ra cái đó nó cũng giúp con vượt qua được thân bệnh. Trong lúc mà con nằm chiêm bao, con thấy như là con nằm trong, con biết đây là thế giới tưởng, con nghe Thầy dạy thế giới tưởng con thấy hiện lên những người thân cha mẹ của con, anh em của con, rồi có những đám rước cũng như mà bên Đại Thừa giảng là cận tử nghiệp nó đến rước mình đi đó, thì con nói rằng đây là cận tử nghiệp của Đại Thừa, con tỉnh táo, không sợ gì hết, con nói đây là thế giới tưởng thì con tỉnh dậy con bình thản như thường, con thấy đây là thế giới tưởng vì con nghe Thầy giảng thế giới tưởng nhiều rồi, con không sợ, con không hoang mang, con nghe Thầy dạy thế giới tưởng thì con giật mình con tỉnh dậy là con an ổn, con không rối cái gì, trước cái chết con không rối.
(1:49:40) Trưởng lão: Thầy cũng chỉ mong là đem được cho mấy con mấy cái điều đó, cho nên Thầy đem lại hạnh phúc cho mấy con sống bình tĩnh, đến giờ phút chết cũng bình tĩnh. Con đọc lại cái cô Liễu Kim, ở Hà Nội, cô rất bình tĩnh, Thầy thấy những cái gương hạnh đó cũng để làm cái gương cho các con, cho nên chúng ta chẳng hề dao động. Nhân quả sanh tử luân hồi đều là do nhân quả không sợ gì hết, đời này phải giữ vững tinh thần, vững chắc như vậy thì các con sẽ tu tới con đường chứng đạo. Chờ chừng nào đủ lực, có đủ cái lực làm chủ rồi thì không lo nữa, còn bây giờ chưa đủ lực nhưng mà giữ cái tinh thần vững chắc con, phải không? Các con học đạo, các con học Thầy ở cái tinh thần, tinh thần vững chắc không hề dao động.
(1:50:27) Phật tử: Trước giờ… con cũng theo đủ thứ, Thầy Thanh Từ con cũng về quy y với Thầy, rồi coi kinh sách cũng nhiều, nghe giảng cũng nhiều, bên Tịnh Độ gì con cũng có … (Không nghe rõ) mà con chưa thấy an ổn, chưa có thõa mãn với con.
Thì từ ngày con được sách của Thầy, trước khi mà sư Tuệ Tĩnh về mà con thấy mấy cuốn đầu có nhỏ giọt chút chút, mà người quen đưa họ quay lại những cái pháp hoặc là những lời giới thiệu, đưa những cái gì cần thiết để tu, rồi hai anh em cứ coi… lâu lâu được nhỏ giọt một cuốn,… con coi lúc đó con đảo điên luôn, không biết đường đâu mà lần, sách Thầy nói. Mà giờ mình hiểu này mà giờ gặp Thầy nó hoàn toàn nó đảo lộn, con với ông xã con này tu cái gì, biết theo cái gì, mà thấy lần lượt Thầy nói con thấy đúng quá … (Không nghe rõ). Hồi đó con cũng không biết tên Thầy nữa, không có biết Thầy, thấy người ta không có đưa hết, sao thấy trước giờ mình trật lất hết trơn rồi… Thì sư mới nói sư về đây mang theo 61 cuốn băng của Thầy và một số vài kinh sách… Con nếu mà tụi con đi tu xuất gia thì con về quy y Thầy chứ không có theo mấy cái kia nữa, bắt đầu từ đó về sau là con hết hoang mang, coi từ từ sách của Thầy có cái niềm tin hơn. Mà ước nguyện tới 2-3 năm mới về được gặp Thầy.
(1:54:20) Trưởng lão: Cũng là cái duyên con. Thôi bây giờ thì mấy con ráng tập tu, nếu còn Thầy còn sống Thầy hướng dẫn cho mấy con, mấy con cũng lớn tuổi hết rồi.
Phật tử: Mấy anh em của con nay cũng ăn chay trường hết.
Trưởng lão: Vậy tốt quá, có gieo cái duyên tốt rồi.
Phật tử: Cũng tu theo định Phật cũng như trước giờ con tu vậy đó, mà con cũng không điện thoại nói được mà cũng không viết thơ, những lời dạy viết thơ nói mình đâu có hiểu, lặp lại sợ sai, tới bữa nay con về con muốn anh em lên để gặp Thầy, với lại thỉnh sách về coi, mấy anh mừng quá, cũng như giờ lần đầu lại, buông hết.
Trưởng lão: Thì coi như lập trở lại đi, rồi Thầy dẫn mấy con tu nó sẽ kết quả mấy con sẽ thấy thích thú lắm. Tu càng tu nó có những cái tập luyện ở trong đó, phải tập luyện cho đúng cách, có những cái sai mấy con, từ cái đi kinh hành cho đến cái ngồi thiền, rồi cái hít thở, mấy con không có thiện xảo được thì nó sẽ tu sai, mà cái đó phải để Thầy, khi mà ngồi sai mà thấy, bởi vậy Thầy nói khi mà mấy con tu mà có an trú được thì thôi mà không an trú được các con thấy sai thì phải mau mau lại hỏi Thầy chứ đừng có ngồi đó mà tu đại thì nó không có được, nó khó ở chỗ này.
Phật tử: Có xê xích chút xíu như bữa trước Thầy Nhất Hạnh cũng như Tứ Niệm Xứ, Thầy giảng không có rõ ràng. Bây giờ con coi lại kinh sách của mấy vị đó hết coi được… (Không nghe rõ).
Trưởng lão: Bởi vì sách của Thầy nó có cái thực hành cụ thể rõ ràng, nó thực tế, còn mấy Thầy nói coi như là lý luận, nói thành ra nó không thực hành được trong cái đời sống của mình được. Cho nên vì vậy mà bây giờ mấy con cứ Thầy dạy rồi mấy con tu, nhưng mà Thầy biết khi hiểu học tu vậy chớ mấy con còn làm sai, còn thực hành sai chứ chưa đúng. Bởi vì mình quen hồi nào tới giờ cứ tu mà mình không có ngờ là người ta ngồi người ta tu người ta xả tâm, còn mình tu là mình bị ức chế. Cứ mình nhìn nó, mình nhìn cái hơi thở, mình nhìn cái gì đó thôi là mình bị ức chế nó rồi, phải không? Nó không có vọng tưởng là bị ức chế.
Cho nên vì vậy đó mà khi mà mình tu mà sao mình thấy an, có cái sự an trú được ở trong cái hơi thở đó hoặc là đi kinh hành trong đó, mà nó an trú cái tâm mình được ở trên bước đi nghe nó nhẹ nhàng thoải mái, không có nghe căng. Còn cái này mình nghe căng mặt, mình nghe nặng đầu thì không có được đâu, thì đó nó sai, cho nên vì vậy mà hễ mà khi an trú được thì nó an lạc nó sung mãn cái thân nó khỏe, nó không có mệt nhọc thì đó đúng.
(01:56:58) Trưởng lão: Bởi vì đức Phật đã nói rồi, đã dặn mình rồi, còn mà Pháp Phật không dặn cái lời nói này thì chắc mình không biết đâu, “Pháp Ta không có thời gian đến để mà thấy”. Khi con không tu thôi mà con tu thì con phải an trú được là con tu đúng, mà con an trú không được là sai, chớ không phải ngồi đó mà ức chế, ức chế riết rồi nó lọt tầm bậy tầm bạ rồi cũng không được.
Cho nên cái hướng dẫn là phải hướng dẫn rất kĩ mấy con để cho mấy con tập cho đúng. Từng cái pháp chứ không phải nói đi kinh hành, nói vậy chứ mấy con đi chứ an trú chưa được đâu, cho nên vì vậy mà phải xem xét lại chừng nào mấy con an trú được rồi mới trả cho mấy con tập, tu cho an trú được rồi mới tập cho nó thuần quen trong cái sự an trú đó.
Nhưng mà cái pháp mà nó hiệu quả là cái pháp Như Lý Tác Ý, nó hiệu quả nó giúp cho mấy con, do cái niềm tin của mấy con mà con tác ý ra con thấy có kết quả là do cái niềm tin, mà cái pháp tác ý nó do cái niềm tin mà nó trợ lực cho mấy con có cái hiệu quả có cái kết quả mấy con thấy thực tế. Nhưng mà trên cái pháp tu nó còn những cái tu để mà nó tạo thành cái lực cho nó lớn, cho nó mạnh lên nữa đó thì nó phải tu đúng pháp, chớ nó chỉ nó trợ giúp cho cái niềm tin của mấy con một chút vậy thôi chứ nó chưa có đi sâu được đâu, cái lực nó chưa có mạnh được nhiều đâu!
(01:58:12) Cho nên vì vậy mà mấy con phải tu đúng, khi tu đúng rồi cái lực đó nó mới trở thành mạnh nữa, rồi càng tu tới tới cái lực nó càng lớn mạnh, lớn mạnh cho đến khi mà các con điều khiển hơi thở, bảo hơi thở ngưng là nó ngưng mấy con, bảo tịnh chỉ là nó ngưng liền đó, nó ngưng một cách an lạc chứ không phải nó ngưng một cách tức tối, (chứ không phải) nó ngưng theo kiểu mà người ta bóp mũi mình thì chắc chịu không nổi đâu. Còn cái này nó ngưng một cách rất dễ dàng nghe nó an lạc, sao cái hơi thở nó ngưng nó không thở mà thân mình nó không có động địa gì hết, nó bất động như vậy mà nó an cả một cái trời an lạc vô cùng lận chớ, chớ còn cỡ mà bịt miệng mình vầy mà làm cho mình đừng có thở, trời đất ơi nó tức ngực tức mình biết mấy, các con thấy nó lạ lùng, nó hay lắm! Nên Thầy nói thật sự ra khi mà cái hơi thở mình nó ngưng trạng thái nó an rõ ràng rất là cụ thể lắm rồi cái bắt đầu nó thở lại rồi bắt đầu nó ngưng, nó ngưng dài hơn thì nó an lạc nó kéo dài, nó an trú dài hơn, nó ngưng nó thở lại, nó thở lại rồi nó ngưng, nó vài ba lần vậy rồi nó ngưng luôn, nó ngưng luôn là mình ở trong an trú luôn cả một hai tiếng, một hai ngày vậy, nó hoàn toàn ở trong đó luôn.
Đấy các con thấy nó không phải là khi không nó dừng cái nó dừng luôn đâu, mà nó dừng rồi nó trở lại để nó tập cho cái thân nó quen như thế nào đó mình không biết nhưng mà mình cứ giữ đúng pháp mình tu thôi, nó dừng lại rồi bắt đầu nó thở trở lại, nó thở lại nó dừng, vài ba lần vậy bắt đầu nó dừng luôn. Mà mỗi lần nó dừng thì mình thấy an lạc, thấy an ổn cái thân, người chết mà sao an quá vậy, lẽ ra nó không thở mình thấy nó khổ sở chứ, còn này nó không có mệt nhọc, không có gì hết, nó làm mình khỏe lắm.
Các con tu tới đây các con mới nghĩ cái thân mình hay thiệt chứ sao lại nó ngưng thở mà nó không khổ, phải không? Cho nên vì vậy mấy con, đời này Thầy nói không có một cái giá nào mà đổi lấy cái này được. Bây giờ Thầy nói cái ông Tổng thống Mỹ mà bây giờ ông đem cái ghế đó ông đổi Thầy, Thầy không thèm đổi đâu, Thầy nói thiệt mà, không có đổi Thầy nổi thứ này đâu! Thầy nói Trái Đất này Thầy là người sướng nhất, ở trong cái thế gian này Thầy nghĩ bây giờ không có ông vua chúa nào mà sướng bằng Thầy.
Thầy bây giờ ăn ngày một bữa, người ta thấy Thầy khổ, người ta thấy Thầy không có ra gì hết, nhưng mà Thầy là người sướng nhất, không có còn lo, không có nghĩ cái gì hết, không còn đánh đá ai hết, Thầy là người sướng nhất, không còn gì hết. Cô Út cho ăn sao ăn chứ không có nói bây giờ cho ăn dở, cho ngon, ăn sao cũng được hết, không có cần cái điều đó đâu, không nói nay sao mà cho ăn gì dở quá ăn không được, thì cái này còn tâm phàm phu lắm! Đó thì mấy con tu sao mà được như Thầy, sống luôn luôn lúc nào cũng vui cười chứ không bao giờ mà có cái buồn rầu ở trong đó, không có ai mà làm gì mà Thầy buồn.
Phật tử: Mình không thở là khi đó mình có thể mình nhìn thấy cái … (Không nghe rõ).
(02:01:19) Trưởng lão: Coi như là thật sự ra cái hơi thở con nó ngưng thì con cũng biết cái thân của con nó không thở, nó không hoạt động gì trong thân của con, từng cái mạch máu nó ngưng nó hoạt động gì con cũng không thấy biết, bởi vì cái tâm con nó thanh tịnh lắm, nó quan sát hết mà, hoàn toàn nó ngưng rồi, hoàn toàn cái tâm con nó ở trong cái trạng thái cái thân này nó mất tiêu luôn à, nó không còn cần biết nữa. Bắt đầu bây giờ con hướng cái tâm của mình đi đâu mình đi, mình hướng cái tâm của mình nó ở một chỗ này mà nó biết tất cả vũ trụ, nó ngồi đây chớ mà nó có một cái điểm nó biết thôi tức là nó hướng đến ở đâu nó cũng biết hết, chỗ nào nó cũng biết hết, thời gian lâu xưa xa bao lâu nó cũng biết chứ đừng, nó làm như không có thời gian nó biết. Cho nên vì vậy mà phải ráng, ráng cố gắng, hay lắm mấy con.
Phật tử: … (Không nghe rõ).
Trưởng lão: Sẽ làm được mà, Thầy làm được là con làm được mà, là con người ai cũng làm được hết, Thầy tin là mấy con sẽ làm được hết. Mà các con chỉ nhớ là hễ tập thì phải tập đúng, đừng có tập sai, tập sai nó không có được. Thầy bảo đi, Thầy nói như thế này, cái Thân Hành Niệm, bây giờ cái Thân Hành Niệm, Thầy chỉ dạy như thế này, Thầy bảo bây giờ “chân trái bước”, thí dụ như cái tay mặt như vầy, Thầy bảo “chân mặt bước, thì nhón gót lên, rồi dở lên, rồi đưa tới, rồi để xuống, hạ gót xuống”, phải không, làm vậy nghe không, rồi chân trái bước cũng vậy để lên để xuống vậy, mà có người thì làm chậm quá mà có người thì làm nhanh quá, nhưng mà cũng còn tùy ở chỗ này chứ không khéo nó lại sai, chậm quá cũng trật mà nhanh quá nó cũng trật, nó như vậy thôi. Nhưng mà điều kiện làm sao mà cái chân nó phù hợp với cái đặc tướng của mình mà nó thực hiện được.
Thí dụ bây giờ Thầy muốn nói Thầy bảo “cánh tay mặt đưa ra”, thì bắt đầu Thầy đưa ra vầy, cũng đưa ra vầy, Thầy cũng biết đưa ra vầy, bây giờ “đưa ra”, Thầy cũng biết đưa ra, đưa nhanh hơn cũng biết đưa ra chứ gì, phải không? Bây giờ Thầy bảo “đưa ra”, Thầy đưa chậm, Thầy cũng đưa chậm chậm vầy, cũng đưa ra chứ gì, bây giờ Thầy làm chậm hơn nữa, chậm đến độ mà không thấy. Đó thì Thầy cũng làm cũng đưa ra nhưng mà làm sao mà cho cái ý của mình nó biết cái hành động này mà nó đừng quá thừa sức biết của nó, bởi vì nó chậm quá cái biết của nó thay vì đưa ra nó biết không kịp, nó nhanh quá nó biết không kịp, mà nó đưa chậm quá thì nó thừa phải không? Mà mình cứ đưa sao mà vừa cái biết này với cái hành động này nó vừa với nhau thì cái này nó mới kết quả. Thì các con thấy Thầy đem một cái ví dụ thôi để các con biết mình thực hành sao mà cho nó hợp chứ mấy con thực hành sai thì coi chừng mấy con trật đường, các con hiểu chưa?
(02:04:07) Thầy nói một cái ví dụ thôi, bây giờ các con đưa chậm vầy cũng được, mà con đưa nhanh vầy cũng được, nhưng mà đưa nhanh vầy cái ý thức của con nó làm không kịp, nó theo dõi cái hành động mà đưa nhanh quá nó làm không kịp, nó biết tổng quát thôi, phải không? Nhưng mà các con đưa chậm quá nó vậy thì nó thừa, nó thừa dư cái ý thức của nó thì nó cũng không kết quả đâu, mà bây giờ mấy con làm sao mà đưa cho vừa, cái dạng vừa này là cái kiểu này khó chứ không phải dễ đâu, nó không thừa được với cái ý thức của mình với cái hành động nó vừa với nhau, nó nhịp nhàng với nhau, nó không thừa không thiếu, phải không? Mấy con hiểu chỗ đó chưa?
Cho nên Thầy dạy rồi Thầy kiểm điểm lại, rồi Thầy sửa đi sửa lại nhiều lần để cho họ đúng. Trời ơi, nó cực lắm chứ đâu phải dễ đâu! Nhưng mà đúng rồi thì mấy con sẽ hạnh phúc ghê, còn nó trật thì nó không hạnh phúc đâu, nó cực mình mà nó không hạnh phúc. Cho nên tu phải có Thầy, tu phải có người hướng dẫn chứ đừng có tu bậy tu bạ, không có được, coi vậy chứ, Thầy nói bây giờ Thầy bảo: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, nhiều khi các con thở cái hơi thở nó không có tròn trịa mà nó méo, nó gì kì cục lắm, nó không có tròn trịa, rồi cách thức như thế nào để mình thở cho nó tròn trịa, cho nó gọn gàng, hít vô thở ra nó gọn gàng, nó đều biết cụ thể rõ ràng thì cũng cả một vấn đề chứ không phải là không đâu. Chứ không phải là vô nói là hít thở cứ hít thở, hít thở hít thở vầy, Trời ai hít thở không được, nhưng mà hít méo, hít tròn hít tùm lum, hít đủ thứ hít dài, hít ngắn gì cũng được nhưng mà điều kiện nó không kết quả, chớ nó không phải.
Coi vậy chứ mà Pháp của Phật dạy như vậy chứ mà thiếu cái kinh nghiệm, thiếu cái thiện xảo thì nó không kết quả đâu mấy con, nó có thiện xảo trong đó đó. Cho nên Đức Phật nói: “Thiện xảo nhập định”, anh không thiện xảo thì tu đâu anh cũng thua hết, thay vì giờ anh không vô đâu, phải không? “Rồi thiện xảo an trú” đã nhập được rồi mà nhiều khi nó không chịu ở trong đó mà nó cứ bung ra, nó không chịu ở cho nên mình phải thiện xảo làm sao cách nào cho nó an trú nó kéo dài hoài hoài. “Rồi thiện xảo sống” nữa, sống trong định, bây giờ mình sống mình xả ra ngồi mà cái tâm của mình nó vẫn ở trong trạng thái an lạc đó là mình thiện xảo. Chứ còn mình không thiện xảo thì đương nhiên là cái thiện xảo sống trong định là thiện xảo sống trong Tứ Niệm Xứ rồi, nó cách thức tu Tứ Niệm Xứ rồi.
(02:06:30) Cho nên từ cái giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ, rồi giai đoạn giữa, rồi giai đoạn cuối cuối của Tứ Niệm Xứ, tất cả những cái phương pháp này đều phải trải qua những cái kinh nghiệm người ta giảng dạy cho mình trên Tứ Niệm Xứ để mình tu tập, thì như vậy các con sẽ không bị rớt.
Cũng như bây giờ Thầy ví dụ như ở đây Thầy có sáu người đệ tử, Thầy mở một cái lớp tu sáu người, Thầy không nhận thêm đâu, sáu người này Thầy chăm sóc kỹ lưỡng hẳn hoi, Thầy định ba năm mà mở cái khóa tu này, sáu người này phải đào tạo sáu vị A La Hán, ba năm mà Thầy chuẩn bị hẳn hoi hoàn toàn, các con Thầy dạy đâu làm đúng, Thầy chuẩn bị, đứa nào sai Thầy sửa nó tất cả những cái đi, cái đứng, cái ngồi, cái hít thở Thầy sửa sai cho nó, cách tư duy quán xét Thầy sửa sang cho nó kỹ lưỡng, nó có cái gì Thầy giúp cho nó hoàn toàn, nó chính xác hoàn toàn, sáu cái đứa này sau đó ba năm nó ra đứa nào cũng chứng quả A La Hán hết. Chớ không có nói nó rớt, nó không có thi rớt hoàn toàn là Thầy dạy nó đúng nó không có rớt đâu.
Nghĩa là cái đứa dở Thầy chăm sóc nó nhiều, bởi vì nó không hiểu nó không thiện xảo, còn cái đứa mà nó lanh lợi nó thông minh nói ra nó tập một hơi nó thiện xảo được thì thôi cái đứa này mình nhẹ chút. Chứ mà cái đứa nó dở hơn thì mình chăm sóc nhiều lần nó tập luyện nó cũng được, cái này nó không có khó chỉ nó cần luyện tập đúng thôi thì do đó cuối cùng thì nó cũng chứng quả A La Hán giống như mấy anh kia thôi chứ cũng không có gì. Thầy nói sáu người thì không có người nào mà rớt hết đâu, cho nên Thầy biết Phật pháp là một cái phương pháp hẳn hoi để mà đưa chúng ta đến quả A La Hán làm cho chúng ta giải thoát, chỉ có cái người đó có tâm tha thiết là được, có cái nhiệt tâm tu thôi, còn cái người đó mà không tâm tha thiết thôi bây giờ Thầy có nhốt ở đây mà Thầy bắt họ làm gì nữa thì cũng không có đạt được.
Con gì, con sâu, sao ra đây nhiều quá vậy, coi chừng nó ngứa con, dũ đi, thôi bây giờ nghỉ con, nha.
(02:08:40) Phật tử: Giờ con hỏi thêm một câu nữa Thầy. Thưa Thầy nó rất thường, cư sĩ tại gia nó cũng gặp thường lắm. Ở nhà giữ cái giới sát sanh, khi nhà kiến hoặc mối quá nhiều …?
Trưởng lão: Thầy đã từng dạy mấy con rồi, Thầy đã nhắc, phải không? Bây giờ ví dụ như trường hợp đó, các con nói: “Bây giờ nhà của tôi, mấy ông là chúng sanh thì phải rời khỏi đây đi, chứ nếu mà không, tôi thì tôi không nỡ giết mấy ông, nhưng mà vô tình thôi, thì như vậy nếu mà cái người nào mà ở trong nhà tôi, tôi nỗ lực tôi tu, tôi giữ gìn giới luật tôi tu, mà tôi có lỡ dẫm đạp vô tình chết, nguyện cho quý vị này (mấy chúng sanh này) sẽ thành con người đi, sanh sau này làm đệ tử tôi, tôi độ”. Phải không? Chớ đâu có sao đâu, nó chết nó bỏ cái thân con kiến, con trùng rồi nó thành người rồi mà nó tu thì nó quý quá rồi còn gì, còn hơn ai hết rồi còn gì, thì mình ước nguyện rồi còn gì, may mắn nó quá rồi mình đâu có tội đâu mà sợ, phải không?
Phật tử: Sợ nhất là dẫm đạp, nhưng mà nó nhiều quá nếu mà mình để như mối ở nhà thì nó ăn chắc…
Trưởng lão: Lẽ đương nhiên là con phải bảo vệ rồi, nó có cái tội là vô xâm chiếm nhà con là nó có tội. Cho nên vì vậy mà, nhưng mà con cũng nên tránh, tuy rằng nói vậy mà nó là chúng sanh cũng như là mình chúng sanh còn vô minh lắm cho nên mình đâu biết mình tham lam ăn nhà người ta thì nó chết nó cũng đáng lắm chứ, nhưng mà điều kiện là mình cũng phải thương vì nó vô minh, cũng như bây giờ người ta vô minh người ta mới chửi mình chớ, chứ người ta có minh người ta đâu có chửi mình phải không? Cho nên mình phải thương cái người đó thì mình phải thương.
(02:10:11) Vì vậy trước khi đó cũng như cái cột vậy, con muốn cho mối đừng ăn phải không? Con lấy phấn đồ con vẽ một vòng trừa ra phải không? Thì con sẽ ngừa nó trước đi con, con ngừa nó trước, còn ở nhà con con muốn đừng có kiến con quét cho sạch, quét tới đâu sạch rồi, bắt đầu con lấy phấn kiến con vẽ, nó vô đây nó nghe hơi cái nó hết, nó không vô nữa, mình ngừa nó trước đi. Với mình ước nguyện con, mình nguyện: “Tất cả chúng sanh đừng đến nhà tôi nữa, để cho tôi yên ổn tôi tu, tôi không nỡ giết mấy ông, mà mấy ông cứ đến, vô tình tôi đạp chết rồi tôi không có tội đâu nha, còn nếu mà mấy ông có chết thì mấy ông ráng mà thành con người đi để tôi độ cho mà tu”, có vậy thôi.
Nó làm cho hóa giải cái tâm mình con, cách thức đó làm cách thức hóa giải tâm, chứ còn không khéo để rồi cái tâm mình nó cứ hối hận. Bởi vì mình thực hiện con đường tu của đạo Phật từ bi mà, nó khó lắm. Cho nên ở đây là cư sĩ mấy con phải thực hiện nó. Thí dụ chuột mà nó vô ăn nhà con, phá đồ đạc con, “thôi mấy ông đi đi đừng ở đây, tôi không có nỡ giết mấy ông đâu mà bây giờ tôi để đồ ăn đó mấy ông ra ngoài đó ăn chứ đừng có vô đây nhà tôi mà khoét đục ở trong đó thì không có được”, con nói vậy chứ nó cảm thông con, nó cảm thông nó ra ngoài nó ăn.
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời lượng: [1:32:45]
Tên cũ: Tam Quy Ngũ Giới 2
https://thuvienchonnhu.net/audios/tam-quy-ngu-gioi-02-giai-dap-nhan-qua.mp3
Trưởng lão: Quy Y Tam Bảo thì chúng ta phải hiểu "Quy Y" như thế nào và "Tam Bảo" là những gì, chúng ta phải hiểu cái nghĩa của nó gọi là "Quy Y Tam Bảo". Chúng ta nghe theo Thầy ví dụ thì mấy con cũng đã hiểu rồi, nhưng hôm nay vì cái buổi lễ để Quy Y Tam Bảo, Thầy sẽ giải thích cho hiểu được cái nghĩa của Tam Bảo.
Quy Y có nghĩa là trở về nương tựa, trở về nương tựa.
Tam Bảo là ba ngôi báu.
Vậy ba ngôi báu đó là gì?
Ngôi thứ nhất là Phật Bảo
Ngôi thứ nhì là Pháp Bảo
Ngôi thứ ba là Tăng Bảo
Vậy ngôi thứ nhất là Phật Bảo là gì? Phật Bảo là một con người bằng xương, bằng thịt được sanh ra từ cha mẹ, từ nơi bất tịnh sinh ra con người y như chúng ta. Cũng lớn lên rồi có vợ, có con, rồi thấy cuộc đời đau khổ mà bỏ cuộc đời thế gian, chấp nhận cuộc sống tu sĩ, để rồi tìm được phương pháp tu tập giải thoát làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người. Cho nên con người bằng xương bằng thịt thật mà tu được giải thoát, thì chúng ta mới nghĩ rằng: "Mình cũng con người cha sanh mẹ đẻ cũng như Ngài, Ngài làm được, Ngài tu tập được giải thoát thì chính chúng ta cũng tu tập được giải thoát".
Do đó cái nghiệp vì Ngài là thật con người thật, chứ không phải là một đấng từ ở cõi nào mà đến đây. Nếu mà Ngài là những người ở cõi nào mà đến đây, thì Ngài đã là người chứng đạo như trong kinh sách Đại thừa nói: "Khi sanh Ngài ra, Ngài đi bảy bước và đưa tay chỉ trời, chỉ đất mà bảo rằng: Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn".
Như vậy rõ ràng là Ngài đã chứng đạo rồi chứ không phải là Ngài là người, con người còn như chúng ta tham, sân, si đâu. Cho nên nếu mà Ngài đã là người chứng đạo mà đến đây để độ chúng ta tu tập, thì chắc chắn chúng ta không làm được. Là tại vì Ngài không có con người thật như chúng ta, nên sự tu tập để mà thật sự mà để giải thoát chúng ta không thể làm được đâu. Nhưng sự thật không phải vậy, tại sao Ngài lại khi sanh ra, Ngài lại đưa tay chỉ trời, chỉ đất mà bảo rằng:
"Trên trời, dưới trời ta là người duy nhất như vậy".
Thế mà sao Ngài lại sáu năm khổ hạnh, phải tu tập theo những pháp ngoại đạo, còn cái gì mà Ngài biết rằng "Trên trời, dưới trời”?
Như vậy rõ ràng là, chúng ta thấy là những người sau họ huyền thoại một cách quá trớn cho một đấng giáo chủ không đúng sự thật. Cho nên Ngài cũng ngu dốt như chúng ta, Ngài cũng không hiểu được cái pháp nào chánh, cái pháp nào tà, Ngài phải trải qua nhiều pháp của ngoại đạo. Cho đến khi sáu năm chịu đựng bao nhiêu pháp hoành hành rất là khổ, sắp chết đi, chứ không phải.
(03:08) Người ta nói rằng, trong kinh sách nói rằng: "Khi mà Đức Phật khổ hạnh thì Đức Phật sống chỉ ăn rất ít mà do đó mà sờ da bụng thì đụng xương sống, mà sờ xương sống thì đụng da bụng".
Như vậy mà còn cái bộ xương và da, chứ ta còn cái gì nữa đâu của con người. Cho nên chúng ta xét thấy tuy rằng cái lời nói nó cũng có quá trớn, cái khổ hạnh quá trớn khiến cho chúng ta mà "sờ bụng mà đụng xương sống, mà sờ xương sống mà đụng da bụng" như vậy thì chắc chắn là không thể sống nổi, con người chúng ta không thể sống nổi.
Do đó chúng ta thấy Ngài có khổ hạnh nhưng không thể thái quá như vậy đâu, Ngài còn sống được thì chắc chắn là chưa có quá trớn như vậy. Nhưng người ta muốn thêu dệt cái khổ hạnh Ngài tận cùng, người ta nói như vậy chứ không phải thật sự như vậy. Chúng ta thử chúng ta sống mà ăn quá ít mà đến nỗi mà nó gày kiệt như vậy, thì chắc chắn là chúng ta sẽ khó mà phục hồi thân nghiệp chúng ta được. Cho nên chúng ta thấy rằng khó có thật và thấy rất khó, rồi chúng ta thấy không được chúng ta bỏ chớ không, chúng ta điên gì mà chúng ta lại tự đi giết chết mình bằng cái khổ hạnh như vậy. Cho nên chính Đức Phật cũng thấy mình là không chứng được, không giải thoát được cho nên luôn luôn tu nhiều pháp của ngoại đạo mà ném bỏ, để cuối cùng tự suy tư tìm ra các lối tu tập của Phật và sau này truyền lại cho chúng ta. Cho nên vì vậy Phật Bảo là con người thật, con người cũng như chúng ta chứ không phải là con người ở đâu mà đến đây.
Do vì vậy mà chúng ta tin chắc rằng con người như vậy mà thực hiện được, thì chúng ta cũng là con người như Ngài thì chúng ta cũng tu tập. Do cái nghiệp chung đó là cái nghiệp chung thật, còn cái nghiệp chung như của đấng giáo chủ có những cái là người đã chứng đạo ở đâu đến đây để truyền đạo thì chắc chắn là chúng ta với không tới Ngài đâu. Mà chính cái pháp của Ngài không phải là pháp cầu khẩn, mà phải pháp tự lực. Mà pháp tự lực mà có cái vị Thánh nhân ở đâu mà đến đây để dạy chúng ta thì tức là phải tha lực, không thể tự lực được.
Cho nên từ cái tư duy suy nghĩ như vậy chúng ta thấy rõ ràng, từ cái bậc Thánh mà ở đâu đến đây thì đó là tha lực, nghĩa là không phải là tự lực. Mà pháp của Ngài dạy chúng ta tự lực, cho nên Ngài bảo:
"Tự đốt đuốc lên mà đi, ta chỉ là người hướng đạo mà thôi".
Như vậy rõ ràng là Ngài bảo chúng ta "tự lực" thì tự lực tức là con người thật, mà "tha lực" tức là không phải con người thật. Do vì vậy tư duy suy nghĩ như vậy chúng ta biết Ngài là con người thật như chúng ta, có cha mẹ thật sanh ra, rồi cũng bò trường, rồi lớn lên như chúng ta chứ không thể sanh ra đi bảy bước như một ông Đức Phật. Đó là chúng ta quan sát những cái điều, điều đó là thực để mà chúng ta Quy y Ngài, tức là chúng ta nương theo Ngài và sống như Ngài, vì Ngài làm được chúng ta làm được. Do đó cái Giới mà khi Ngài đặt ra, thì tức là Ngài không có đặt ra cho một cái thế giới siêu hình mà Ngài đặt ra cho thế giới chúng ta, cho con người chúng ta. Vì vậy mà cái giới luật của Ngài làm chúng ta sống được chứ không phải làm chúng ta khổ. Do như vậy chúng ta biết rằng một con người thật mà đã tu tập được giải thoát, thì cái gương, cái gương con người thật đó đáng cho chúng ta soi, cho nên đáng cho chúng ta nương theo, nương tựa theo Người để mà chúng ta phải vào tu học, tu tập.
Như vậy thì ở đây các con sẽ hiểu được "Phật Bảo là con người thật chớ không phải là con người huyền thoại". Qua cái lịch sử thì chúng ta thấy trong cái hành tinh chúng ta có một con người thật, là con người Ấn Độ, đi tu bỏ vợ, bỏ con rồi thành Phật, sau này mới thành một cái Phật giáo, cái tôn giáo là Phật giáo. Nhưng mà cái tôn giáo đó là cái tôn giáo toàn bộ là tự lực chứ không có tha lực. Thế mà sau này chúng ta lại thấy cái tôn giáo đó nhiều cái tha lực, cho nên chúng ta mất cái niềm tin ở chỗ thật sống không thực tế. Cho nên vì vậy mà chúng ta trở về với cội nguồn tự lực của nó, do như vậy đó gọi là Phật Bảo.
(07:30) Bây giờ Thầy giảng tới Pháp Bảo. Pháp Bảo của Ngài như thế nào?
Có dạy chúng ta niệm Phật, có dạy chúng ta ngồi thiền, có dạy chúng ta cách này, cách khác để mà chúng ta được giải thoát khỏi cái bốn cái chỗ giải thoát này bằng cách này, bằng cách khác. Chúng ta xét lại trong những cái lời sách của kinh Nguyên Thủy, thì chúng ta thấy Ngài dạy chúng ta:
"Sống lấy giới luật tức là lấy đức hạnh, giới luật tức là đức hạnh".
Tuy rằng cái Giới Luật nó cấm, nhưng mà trong mỗi cái giới nó là mang theo cái đức hạnh, mà sau này thọ năm giới phải sống giữ giới để chúng ta thấy rõ ràng là mỗi cái giới nó có cái đức, cái đức hạnh. Cái đức đó nó xác định được là cái đức hạnh làm người, hoặc là cái đức hạnh của một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni cho nên đó là gọi là "Giới Đức Thánh, hay hoặc là Giới Đức Làm Người".
Cho nên vì vậy đó mà cái con đường của Ngài lấy Giới - Định - Tuệ làm con đường đi. Cho nên đầu tiên vào tu tập thì lấy giới mà làm chuẩn, không thể nào mà lìa giới mà tu thiền định tốt được, mà cũng không thể nào mà lìa giới mà tu trí tuệ mà có được. Do như vậy thì chúng ta phải ngay từ ở trên giới mà bước chân đi vào con đường đạo này.
Vậy thì như Thầy đã nói "Giới nó là đạo đức", vậy thì vào tu tập theo đạo Phật thì đầu tiên là chúng ta phải học những cái đạo đức của đạo Phật. Thế mà từ xưa đến giờ thì cái giáo lý mà chúng ta được theo đạo Phật, thì người ta không dạy cho mình cái đạo đức của đạo Phật, mà người ta dạy về Giới cấm chứ người ta không có dạy đạo đức. Cho nên nhiều khi người ta không biết đạo Phật có cái đạo đức ở chỗ nào, người ta chưa có hiểu. Nhưng mà đạo đức của đạo Phật rất là tuyệt vời, vì cái Giới đó có xác định cho chúng ta nó có những cái đạo đức, có những cái đức hạnh, những cái đức của nó đó, nó sẽ không làm khổ mình, khổ người. Cho nên cái Đạo Đức của đạo Phật gọi là Đạo Đức Không Làm Khổ Mình, Khổ Người, cái đạo đức nó nằm ở trong mọi cái hành động của thân của chúng ta. Trong thân của chúng ta có ba nơi mà xuất phát ra hành động:
Hành động thân của nó là Thân hành,
Hành động của miệng của nó là Khẩu hành, và
Hành động của ý của nó gọi là Ý hành.
Và trong cái sự mà hoạt động ba cái nơi này, Hành ba cái nơi này thì đó nó gọi là cái Hành theo cái Thiện và Ác, và hễ theo cái thiện và ác thì nó là Nhân với Quả. Cho nên vì vậy mà khi mà chúng ta hành theo cái thiện thì chúng ta thấy an vui hơn, tức là đạo đức nó làm cho chúng ta không có khổ, chúng ta không khổ.
Mà nếu hành theo cái ác thì nó sẽ làm khổ mình và khổ người, hễ nói ác là có khổ, không khổ mình cũng khổ người. Không khổ mình, không khổ người là nó là thiện. Mà có khổ mình, khổ người và nếu mà khổ người mà không khổ mình cũng là không thiện, mà khổ mình mà không khổ người cũng là không thiện.
Do như vậy chúng ta biết rằng đạo Phật có Đạo Đức, nhưng vì cái Đạo Đức đó bị dìm mất đi làm cho người sau người ta không thấy đạo đức. May mắn thay là cái bộ Giới nó còn, Giới Kinh nó còn mà Giới Bổn nó cũng còn. Tuy rằng Giới Bổn các Tổ có thêm thắt rất nhiều, nhưng mỗi cái thêm thắt đó chúng ta thấy có những cái Giới nó cũng có lợi ích, nó có đạo đức chúng ta chấp nhận, dù các Tổ có thêm nhưng mà có lợi ích chúng ta chấp nhận.
(11:16) Như vậy về Pháp Bảo thì chúng ta thấy rằng mình, mình nương về Pháp Bảo của Phật, sẽ nương về đạo đức, trước tiên là mình nương về đạo đức. Do muốn mà giữ gìn được cái đạo đức đó thì nó có những cái phương pháp, cái phương pháp để tu tập, phương pháp đó gọi là:
"Ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện".
Đó cái phương pháp đó, hằng ngày chúng ta sống chúng ta biết có cái phương pháp để mà "ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện” để giúp cho cái đời sống chúng ta được an ổn, yên vui không còn bị khổ đau, không còn bị phiền não, nó không còn bị bất toại nguyện trong lòng của mình, nó giúp cho mình được an ổn.
Do như vậy, cái pháp mà dạy như vậy đó, nó thực tế và nó cụ thể, nó không dạy chúng ta ngồi thiền niệm Phật cầu vãng sanh, hay hoặc ngồi thiền để cho nhập định này thế này, thế khác. Nó dạy chúng ta sống một đời sống có những cái phương pháp, cách thức áp dụng được vào đời sống, mà luôn luôn lúc nào chúng ta cũng ngăn và diệt ác pháp. Cho nên có một cái bài kinh mà Đức Phật đã dạy là:
"Tri kiến ở đâu thì đạo đức ở đó, mà đạo đức ở đâu thì tri kiến ở đó. Tri kiến làm thanh tịnh đạo đức mà đạo đức làm thanh tịnh tri kiến".
Ở đây Thầy muốn dịch cái tri kiến là cái "Ý thức" của chúng ta. Cho nên có cái người, có cái nhà học giả thì họ dịch, họ dịch là "Trí tuệ", họ cho cái tri kiến hiểu biết của chúng ta đó là trí tuệ.
Sự thật Đức Phật đã xác định cho chúng ta biết rằng một con người chúng ta hiện giờ chưa có trí tuệ vì chúng ta chưa có định và có tuệ. Cho nên nói "Giới Sanh Định, Định Sanh Tuệ", đạo đức chúng ta chưa có thì làm sao chúng ta có định, mà không có định thì làm sao có tuệ. Cái mà chúng ta hiểu biết đây là tri kiến, mà cái tri kiến mà mang đầy cái đạo đức gọi là tri kiến giải thoát. Vì có cái đạo đức, sự hiểu biết của trong đầu chúng ta đó là cái tri kiến chứ không phải là trí tuệ đâu.
Cho nên cái người mà hiểu lầm trí tuệ, mà do Phật đã xác định trí tuệ, thì chúng ta phải lấy cái Tam Vô Lậu Học tức là Giới Định Tuệ chúng ta so lại coi cái tuệ của Phật ở chỗ nào. Khi chúng ta chưa có định mà tại sao gọi nó là tuệ, như vậy là chưa đúng theo con đường của đạo Phật. Cho nên vì vậy mà chúng ta cọ sát lại thì chúng ta thấy chữ tuệ ở đây, người ta dùng ngay trên cái bài kinh này để dịch sang nó là chữ tuệ thì không đúng. Cho nên vì vậy mà Thầy sẽ dịch lại để cho nó đúng cái ý nghĩa của cái bài kinh mà Phật đã dạy, vì vậy mà Thầy gọi là "Tri kiến".
"Tri kiến ở đâu thì đạo đức nó ở đó".
Thì giới luật tức là đạo đức chứ gì, cho nên ở trong đó nói:
"Trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật làm thanh tịnh trí tuệ, trí tuệ làm thanh tịnh giới luật".
Bây giờ Thầy đổi lại để cho chúng ta thấy rất đúng và rất dễ hiểu hơn. Nói giới luật thì chúng ta khó hiểu biết giới luật, tức là cái giới bổn cấm cái này, cấm cái kia. Như vậy rõ ràng là trước đó nó có sự ức chế, nó làm khổ mình chứ chưa hẳn là không khổ. Còn cái này đạo đức nó tự đánh thức cái lương tâm và bổn phận của mình để sống trên cái đạo đức, cho nên nó không có bị cấm, nó không bị ngăn, nó không bị ức chế. Cho nên vì vậy mà chúng ta gọi nó là đạo đức thì nó hay hơn, vì vậy mà Thầy nói:
"Tri kiến ở đâu thì đạo đức ở đó, tri kiến làm thanh tịnh đạo đức mà đạo đức làm thanh tịnh tri kiến"
Đó là cái bài kinh ở trong kinh Trường Bộ mà Phật đã dạy cho chúng ta thấy được giới luật và đức hạnh là như vậy. Giới luật và trí tuệ, trí tuệ và đức hạnh, do các nhà học giả họ dịch như vậy.
Còn Thầy dịch lại để chúng ta hiểu được: (14:45) Khi cái ý thức của chúng ta hiểu cái đó nó không làm khổ mình, khổ người thì cái đó là cái tri kiến của chúng ta nó làm thanh tịnh cái giới luật. Và khi mình giữ được cái đức hạnh, giữ trọn được cái đức hạnh, nó không làm khổ mình, khổ người, thì nó giúp cho cái sự hiểu biết của chúng ta, cái tri kiến của chúng ta thanh tịnh. Đó nó phải rõ ràng, nó cụ thể như vậy, cho nên cái pháp nó giúp chúng ta "ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện".
Nó biết cái nào ác, cái nào thiện, nó ngăn, nó diệt thì do đó chúng ta phải học, phải học Ngũ Triền Cái: tham - sân - si - mạn - nghi, đó là những cái pháp ác. Chúng ta phải học Thất Kiết Sử, hay là Thập Thất Kiết Sử, tất cả những cái này. Hay Dục Lậu, Hữu Lậu, Vô Minh Lậu, tất cả những cái pháp này chúng ta đều học để hiểu biết tất cả những cái nghĩa của nó. Để khi mỗi cái niệm chúng ta nó hiện ra thì chúng ta biết nó là cái niệm ác hay là niệm thiện. Do như vậy chúng ta phải ngăn và diệt những cái niệm đó đi, đừng có để mà đừng có làm theo những cái niệm đó, thì do đó chúng ta thoát ra khỏi cái sự đau khổ chính không làm khổ mình, khổ người. Đó là chúng ta sống ở trong cái phương pháp để mà chúng ta được sống trọn vẹn cái Đạo Đức Làm Người, không làm khổ mình, khổ người. Do như vậy, cái Pháp như vậy đó gọi là "Tứ Chánh Cần".
Cho nên Đức Phật dạy bốn cái điều cần: "Cần siêng năng, cần mẫn hàng ngày phải cần sống từng phút, từng giây, gọi là cần, là siêng năng đừng có lêu lổng, đừng có thả lổng"
Cái pháp đó mà nếu mà người siêng năng lúc nào cũng giữ gìn nghiêm chỉnh, chắc chắn là cái đời sống của người đó nó sẽ trọn vẹn trong Đạo Đức Không - Làm - Khổ - Mình - Khổ - Người. Như vậy thì họ sẽ hạnh phúc biết bao, họ sẽ được giải thoát hoàn toàn, họ sống ở trong thế gian như là họ sống ở Cực Lạc, ở Thiên Đàng rồi, đó là cái Pháp Bảo nó lợi ích như vậy đó.
Thầy không nói về cái sự, cái năng lực mà mầu nhiệm của cái Pháp Bảo, nó giúp cho chúng ta khi nó xuất hiện Bảy Giác Chi, nó giúp chúng ta có đủ cái năng lực làm chủ sự sống chết, chấm dứt được luân hồi. Nghĩa là muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống thì đó là phải nằm ở trong cái Bảy Giác Chi, gọi là Thất Bồ Đề, bảy cái trạng thái giải thoát của đạo Phật. Khi chúng ta tu Tứ Niệm Xứ thì nó xuất hiện bảy cái trạng thái này, cho nên gọi là Thất Bồ Đề hay là Thất Giác Chi.
Cho nên người học Phật người ta nghe nói Thất Giác Chi, người ta tưởng là cái pháp Thất Giác Chi, để lấy cái pháp Thất Giác Chi để mà tu tập. Nhưng mà sự thật ra không phải là cái pháp, mà là một cái trạng thái giải thoát, cho nên gọi là Thất Bồ Đề, bồ đề có nghĩa là giải thoát, cho nên còn gọi là Thất Bồ Đề.
(17:15) Cho nên khi mà con người tu tập mà có được bảy cái Giác Chi, tức là bảy cái năng lực giải thoát, thì lúc bấy giờ người ta sử dụng bảy cái năng lực đó người ta nhập các định. Mà trong Chánh định ở trong Bát Chánh Đạo, cái Chánh định Đức Phật đã xác định đó là Bốn Thiền, chứ nó không phải là cái loại thiền định nào khác mà xác định nó Bốn Thiền, cho nên Bốn Thiền đó là:
Sơ Thiền,
Nhị Thiền,
Tam Thiền,
Tứ Thiền.
Vì Chánh định, Đức Phật đã xác định như vậy để chúng ta biết cái thiền định nào là cái thiền định mà gọi là Chánh định, còn cái thiền định nào mà không phải ở trong bốn cái thiền này nó là Tà định. Đức Phật không xác định nó là Tứ Không, tức là bốn cái Định Không Tưởng. Đức Phật không xác định nó ở trong cái Chánh định này, tức là Không Tưởng này nó không có nằm ở trong cái Chánh định. Cho nên vì vậy mà chúng ta đọc kinh chúng ta thấy có những cái pháp Không Tưởng, thì coi chừng đó là của ngoại đạo xen vô.
Còn Phật đã xác định ở trên Bát Chánh Đạo đó, thì rõ ràng là cái Chánh định đã xác định nó là Bốn Thiền chứ không phải là Định Vô Sắc. Bốn cái Định Vô Sắc đó là:
Không Vô Biên Xứ
Thức Vô Biên Xứ
Vô Sở Hữu Xứ
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Nó không phải bốn cái loại định đó. Cho nên vì vậy mà người ta kê bốn cái loại định đó trên bốn cái loại Định Hữu Sắc thì như vậy là người ta đã sai. Người ta lấy thiền định của ngoại đạo kê lên cái con đường thiền của Phật, thì như vậy là không đúng, người ta yếm, người ta dìm cái thiền của đạo Phật xuống.
Cho nên cái phương pháp mà Đức Phật dạy chúng ta nó đều xác định ở trên cái chân lý của Đạo Đế rồi, cho nên chúng ta đừng có đi sai ở trên cái chân lý đó.
Thí dụ nói bây giờ mình niệm Phật để cầu vãng sanh, thì ở trong cái Chánh niệm của Phật thì không có xác định là chúng ta niệm Phật. Mà xác định cho chúng ta biết rằng Tứ Niệm Xứ ở đó là Chánh niệm, cho nên vì vậy ở đâu Đức Phật đã xác định rõ ràng. Vì khi truy vào kinh sách Nguyên Thủy, nó đã xác định cho chúng ta biết được cái phương pháp tu tập.
Cho nên đầu tiên chúng ta, Tứ Chánh Cần chúng ta "ngăn ác, diệt ác, sinh thiện, tăng trưởng thiện", thì lúc bấy giờ ở trong Bát Chánh Đạo thì Phật cũng xác định cho chúng ta đó là "Chánh tinh tấn". Bởi vì ở trong cái Bát Chánh Đạo nó có Chánh tinh tấn rồi mới Chánh niệm, Chánh định.
Chánh tinh tấn tức là từ Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh mạng, đó là cái khoảng mà chúng ta cần siêng năng tu tập hằng ngày. Để cho nó từ cái nhìn thấy của nó ở trong cái ngăn ác, diệt ác của nó, cho nên nó nằm thuộc về cái pháp Tứ Chánh Cần.
Cho nên chúng ta thấy sáu cái nẻo đầu tiên trong Bát Chánh Đạo, nó thuộc về cái vế của Tứ Chánh Cần, của cái pháp Tứ Chánh Cần. Nếu mà người ta không Chánh kiến, Chánh tư duy thì sẽ là Tà kiến và Tà tư duy thì như vậy có ngăn ác, diệt ác được không? Đâu có ngăn ác, diệt ác, cho nên nó không có nằm ở trong cái Tứ Chánh Cần. Cho nên chúng ta Tứ Chánh Cần tức là Chánh tinh tấn, vì vậy mà chúng ta truy cái bản đồ của Bát Chánh Đạo ra, thì chúng ta thấy cái pháp môn mà chúng ta tu đúng hay là sai chúng ta biết.
Cho nên đến mà Chánh niệm thì Đức Phật xác định nó là Tứ Niệm Xứ, cho nên trong Tứ Niệm Xứ nó có những pháp ở trong đó để mà chúng ta tu. Bởi vì Tứ Niệm Xứ là thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta. Tu trên thân, thọ của chúng ta rất là thực tế, nó không phải là tu hoài cái thân của chúng ta.
(20:20) Do như vậy chúng ta thấy cái Pháp Bảo, nó thực tế và cụ thể, nó làm cho chúng ta biết con đường đi rất rõ ràng, cụ thể. Thế mà người ta dạy pháp nào chúng ta cũng tu theo pháp nấy, chúng ta không có trực tiếp thực tế ở trên cái thân của chúng ta tu tập thì đương nhiên là chúng ta sẽ tu sai.
Mà cái pháp rất là thực tế là vì ngay vô đầu là chúng ta giữ gìn giới luật, chúng ta tu pháp ngăn ác - diệt ác thì ngay đó chúng ta có một cái Tâm - thanh thản - an lạc - vô sự Nó không còn có cái khiếm khuyết một cái đạo đức, nó làm chúng ta lúc nào cũng an vui, không có thấy chúng ta khổ đau phiền não, như vậy là cái pháp rất quá thực tế. Và nó giúp cho chúng ta được một cái đời sống thanh thản - an lạc - vô sự trước các pháp cám dỗ, trước các ác pháp làm chúng ta đau khổ nhưng chúng ta vẫn thản nhiên không đau khổ. Cám dỗ chúng ta, chúng ta không bị cám dỗ, thì do đó rất tuyệt vời giúp chúng ta sống trong cuộc sống mà được giải thoát.
Cho nên chúng ta trở về nương tựa, trở về nương tựa với Pháp Bảo của Phật, thì chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy ngay được cái sự giải thoát đó ngay liền, bởi vì Đức Phật nói:
"Tri kiến ở đâu thì đạo đức ở đó, đạo đức làm thanh tịnh tri kiến mà tri kiến làm thanh tịnh đạo đức".
Thì ngay đó là chúng ta đã thấy được cái sự giải thoát của chúng ta ngay liền. Và người nào mà nương về Pháp Bảo mà biết cách áp dụng thì không có thời gian, cho nên Đức Phật nói:
"Pháp ta không có thời gian, đến để mà thấy ngay kết quả liền".
Chứ không phải nói là:
"Tôi tu khoảng 5 năm, 10 năm tôi mới thấy kết quả giải thoát".
Không bao giờ có điều đó. Phật pháp ngay liền: "Tâm tôi có tham biết tôi tham, để rồi tôi ngăn chặn và diệt cái tham đó thì tôi sẽ được giải thoát. Tâm tôi không tham, tôi biết tôi không tham, cho nên tôi khỏi cần ngăn chặn, tôi giữ gìn cái tâm mà không tham đó, cho nên tôi không có còn khổ".
Đó là thiện pháp, còn đây là ác pháp, cho nên ác pháp khi thấy: "Tâm tôi có tham, tôi biết đây là ác pháp, tôi ngăn chặn và tôi diệt nó đi thì tâm tôi không tham. Mà tâm tôi không tham thì nó thanh thản, an lạc, nó là đạo đức không làm khổ mình, khổ người".
Đó là cái pháp rất hay, rất tuyệt vời, cho nên vì vậy mà chúng ta bước vào pháp của Phật là ngay tìm thấy được giải thoát. Cho nên vì vậy mà chúng ta quyết quy y, quyết nương theo cái phương pháp đó để đem lại cái đời sống chúng ta an lành. Cho nên vì vậy mà chúng ta mới Quy Y Tam Bảo, mới Quy Y Pháp Bảo.
Đó thì như hôm nay các con hiểu được cái Pháp Bảo là cái pháp quý báu, nó đem đến cái đời sống của chúng ta an lành không còn khổ đau nữa. Nó giúp cho chúng ta sống một đời sống có Đạo Đức không làm khổ mình, khổ người. Nó giúp cho chúng ta từ một loài động vật, thoát ra khỏi loài động vật trở thành một con người thật sự là con người.
Chúng ta chỉ là một loài động vật nếu mà chúng ta không khéo, thì chúng ta sẽ trở thành một loài động vật như muôn vàn các thứ động vật khác. Nó cũng sống vô đạo đức bằng cách là không có đạo đức. Còn trái lại chúng ta học được Đạo Đức của Phật, pháp của Phật, thì từ cái loài động vật chúng ta sẽ trở thành một con Người, một con Người thật sự con Người.
Đến đây các con đã nghe được, đã hiểu được Pháp Bảo, nó quý báu là vì nó không có thời gian, khi mà chúng ta hiểu được, tâm hồn chúng ta sẽ được thanh thản - an lạc - vô sự, chúng ta trở thành con người thật sự có đạo đức.
(23:45) Bây giờ đến Tăng Bảo, tại sao lại Quy y Tăng Bảo, nương theo Tăng Bảo, Tăng Bảo là gì?
Tăng Bảo là một vị tu sĩ, sống đời sống như Phật, giới luật nghiêm chỉnh làm gương sáng, hay nói chung là làm ngọn đuốc đức hạnh cho chúng ta soi. Một vị Thánh Tăng là một ngọn đuốc soi đường cho chúng ta đi, cho nên vì vậy mà chúng ta nương tựa vào Tăng Bảo.
Mà nếu nương tựa không đúng cái vị mà giới đức thanh tịnh, thì chắc chắn chúng ta không có cái gương sáng để mà chúng ta soi đường để mà chúng ta đi trên con đường đau khổ này, thì chắc chắn chúng ta sẽ có nhiều đau khổ.
Trái lại chúng ta nương vào một cái gương sáng của một vị Thánh Tăng, vị Thánh Tăng không bao giờ vi phạm những giới luật, sống đúng phạm hạnh. Đời sống của vị ấy: cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa xuất gia sống không gia đình, không nhà cửa, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không, thiểu dục tri túc, luôn luôn biết đủ không bao giờ thấy thiếu vật gì.
Tìm thấy một vị Tăng như vậy, nó mới xứng đáng là cái người làm cái gương, làm cái ngọn đuốc sáng soi đường cho chúng ta đi để con đường giải thoát cho chúng ta đi. Cho nên chọn lấy Tăng Bảo để quy y, chứ không phải đụng vị Tăng nào chúng ta cũng quy y hết. Nghĩa mình miễn là có nghe ba chữ "Quy Y Tam Bảo" là đủ. Không phải đâu, mà phải chọn cái người Thầy xứng đáng, cái vị Tăng xứng đáng. Để làm gì?
Thứ nhất là noi gương của Thầy đó.
Thứ hai là chúng ta thưa hỏi những cái điều kiện cần thiết.
Không phải nói chúng ta sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người rồi chúng ta sống được liền trong khi chúng ta còn gặp những cái khó khăn. Bởi vì chúng ta là những con người sanh ra từ nhân quả, sống trong nhân quả và chết đi trở về nhân quả. Do nhân quả nó trùng trùng, điệp điệp, nếu mà chúng ta không biết cách thức dừng nó, không biết chuyển nó, thì nó chuyển chúng ta sẽ đi lên cái nhân quả ác mà làm chúng ta nhiều đau khổ, làm chúng ta rất nhiều khổ đau. Cho nên chúng ta cần phải có một vị Tăng, một vị Thầy xứng đáng để khi gặp những cái khó khăn mà chúng ta không chuyển nổi cái nhân quả của chúng ta, thì lúc bây giờ, nhờ cái vị Tăng để chỉ bảo cho chúng ta cách thức để chuyển cái nhân quả đó, làm cho chúng ta thoát khổ.
Đó là chúng ta nương vào cái vị Tăng cho xứng đáng, cái vị Tăng đó nó có đầy đủ những cái Trí lực, Đức lực tức là Đạo Đức đó, đức lực, trí lực và cái Tuệ lực. Cái Trí lực tức là cái tri kiến của họ, và cái Tuệ lực là trí tuệ Tam Minh của họ. Họ sẽ quan sát và giúp chúng ta, để mà thấu suốt được cái lý nhân quả, để mà truyền cho chúng ta ra khỏi những cái nhân quả nó đã tác động, nó làm cho đời sống chúng ta điêu đứng, khắc nghiệt. Nhân quả luôn luôn nó đến với chúng ta nó khắc nghiệt, nó làm chúng ta khổ đau tận cùng.
Cho nên chúng ta phải thấy, phải có một vị Tăng, để vị Tăng đó mở con mắt chúng ta để nhìn thấy được cái lộ trình của nhân quả đang diễn biến trong cuộc đời của chúng ta, nhờ đó mà chúng ta mới hết khổ. Vì vậy mà chúng ta mới nương vào cái Tăng Bảo, chứ nương vào Tăng Bảo để mà cúng bái, tụng niệm, nương vào Tăng Bảo để làm cái chuyện mê tín thì phỏng có lợi ích gì? Khổ nó vẫn hoàn khổ mà lại còn hao tiền, hao bạc một cách nhảm nhí, nó không có lợi ích thiết thực cho chúng ta.
Trái lại nương vào một vị Thánh Tăng thì chúng ta sẽ được học được những cái đạo đức của vị Thánh Tăng. Và đồng thời gặp cái nhân quả mà chuyển không nổi, thì nhờ vị đấy khai ngộ cho chúng ta để hiểu rõ cái nhân quả đó, để chuyển bằng cách nào thì vị đó giúp cho chúng ta chuyển được cái nhân quả, đấy là Tăng Bảo.
(27:35) Như vậy hôm nay các con nghe mà chọn lấy ba ngôi Tam Bảo này. Phật Bảo là con người thật, không phải là mơ hồ trừu tượng, tưởng tượng mà là con người thật tu giải thoát thật sự, làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người sanh, già, bệnh, chết.
Và cái mục đích mà thoát ra bốn cái sự đau khổ này, chắc con người trong thế gian này khi hiểu đời là khổ, thì chắc ai cũng muốn thoát ra chứ không ai muốn sống trong cái khổ đau này. Nhưng chúng ta chưa biết cách thoát ra cho nên chúng ta đành ôm mà chịu, chứ chúng ta ai cũng muốn thoát hết, chứ không có người nào không muốn thoát. Đành mà chịu ôm nó để sống, chứ còn chúng ta nếu biết đường, chúng ta mau mau chúng ta bỏ để mà đi tìm con đường giải thoát, chứ ai mà còn ham ở trong bốn cái sự đau khổ nó chi phối chúng ta từng phút, từng giây: Sanh - Già - Bệnh - Chết.
Đời sống hằng ngày là cái cuộc sống của chúng ta gọi là Sanh. Cho nên nó chi phối, nó gặp những cái chướng ngại pháp là nó phiền não, nó đau khổ, nó không chịu nổi. Rồi bệnh, ai lại không bệnh, rồi tuổi càng ngày càng lớn ai lại không già, nó diễn biến liên tục ở trong thân của chúng ta, nó diễn biến liên tục ở trong tâm của chúng ta.
Làm sao mà chúng ta biết nó khổ mà chúng ta ngồi yên được, trừ ra khi mà chúng ta không biết pháp thì chúng ta đành cam phận để mà ôm sự đau khổ này trong lòng. Chứ còn khi mà chúng ta biết pháp để thoát ra khỏi thì ai dại gì mà ngồi đó mà chịu đựng được cái sự đau khổ, bốn cái sự đau khổ này đang giày vò chúng ta, phải không các con?
Cho nên vì vậy hôm nay Thầy nói như vậy để thấy rằng, chúng ta hiểu được Phật pháp, hiểu được ba ngôi Tam Bảo, như vậy ba cái ngôi Tam Bảo này có xứng đáng, có xứng đáng là để chúng ta quy y không? Chúng ta thấy lợi ích quá lớn mà, một cái gương hạnh của Đức Phật là làm cái ngọn đuốc sáng cho chúng ta soi, mặc dù Đức Phật không còn tại thế. Nhưng nhớ đến Đức Phật, là một cái người đầu tiên đã đi tìm được con đường mà giải thoát này, để lại cho chúng ta hôm nay cái Pháp Bảo này. Làm sao có một tôn giáo nào có được mà tự lực "thắp đuốc lên mà đi" để giải thoát từng giây, từng phút trong hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta, các con thấy rất rõ.
Nếu một người nào mà ngăn ác, diệt ác mà nỗ lực thực hiện, Thầy tin rằng người đó hiểu biết Phật pháp rồi không bao giờ mà có một cái ác pháp nào xâm chiếm tâm hồn họ được. Họ không bao giờ để nó kéo dài một ngày, hai ngày đâu, chỉ trong một phút, một tích tắc là họ lo họ diệt, không để trong tâm của họ một phút phiền não. Họ thấy cái đó đều là vô thường, sự đau khổ đó là vô thường, không nên để nó một giây phút nào trong tâm hồn. Trái lại chúng ta không biết thì nó giày vò, nó dằn vặt trong tâm hồn chúng ta kéo dài mãi theo thời gian rồi mới lắng dịu dần mới hết, đó là chúng ta không biết Pháp. Còn chúng ta biết pháp của Phật, thì không bao giờ mà ai dại gì để cho tâm hồn chúng ta phải đau khổ đó kéo dài.
Đó thì hôm nay ba ngôi Tam Bảo nó quý báu như vậy, nó lợi ích như vậy cho đời sống chúng ta thiết thực, nó không có một cái mơ hồ trừu tượng nào.
Thí dụ như biết chuyện quá khứ vị lai, biến hóa thần thông bằng cách này, phóng hào quang cái kia, nó phỏng có lợi ích bằng cái này không?
Các con cứ suy nghĩ đi: "Có một vị Tăng tu có thần thông phép tắc, biết chuyện quá khứ, nói chuyện gia đình mình hay hoặc là nói chuyện tương lai của mình rất là đúng không có sai, nhưng cái này có lợi ích gì cho bản thân mình không? Hay hoặc là mình ngăn ác, diệt ác mà có lợi ích? Phải không?".
Cho nên vì vậy các con thấy rằng ba ngôi Tam Bảo rất quý. Vậy thì mình chắp tay lên hướng về tượng Phật và xin từ đây về sau con nguyện quyết định nương theo ba ngôi Tam Bảo này đời đời, kiếp kiếp, vì nương theo đó mà có sự giải thoát. Các con hãy chắp tay lên mà phát nguyện. Sau khi phát nguyện xong thì các con đảnh lễ Phật, đảnh lễ mà nhận quy y nương theo ba ngôi Tam Bảo này.
Rồi mấy con ngồi xuống.
Bây giờ Thầy sẽ truyền cho Năm Giới Cấm. Năm giới cấm, nếu mà truyền năm giới cấm tức là truyền năm cái điều cấm không có cho các con phải vi phạm năm cái điều này. Nhưng mà ở đây Thầy không muốn ức chế các con bằng cách cấm các con, mà dạy cho các con hiểu năm cái giới cấm này là sáu cái đức, sáu cái đức làm người ở trong này.
(31:45) Cái đức thứ nhất là cái Đức Hiếu Sinh dạy mình không sát sanh, không có hại mạng chúng sanh, là dạy cho mình có cái lòng thương yêu sự sống. Cho nên mình có thương yêu sự sống, thì mình không muốn giết hại chúng sanh. Cho nên cái đức không sát sanh là cái Đức Hiếu Sinh, cái lòng thương yêu sự sống gọi là Đức Hiếu Sinh.
Vấn đề này nó rất là quan trọng, do muốn tu tập về cái Đức Hiếu Sinh thì nó có cái phương pháp để tu tập cái Đức Hiếu Sinh, chứ không phải nói Đức Hiếu Sinh rồi chúng ta tự nhiên là chúng ta có hiếu sinh. Mặc dù là chúng ta biết rồi, chúng ta tránh không có làm đau khổ, không có dẫm đạp lên chúng sanh, không có làm đau khổ chúng sanh. Đó là một cái điều kiện chúng ta cố gắng vậy thôi, chứ nhưng mà cái lòng thương yêu của chúng ta, cái lòng thương yêu gọi là hiếu sinh nó chưa bao giờ phát hiện.
Cho nên khi chúng ta muốn có lòng hiếu sinh thì chúng ta phải tu Tứ Vô Lượng Tâm. Đó là cái phương pháp để thực hiện cái Đạo Đức đó mà, nó có cái phương pháp, cho nên gọi là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Nó làm cho chúng ta có cái tâm từ, nó gợi lên cho chúng ta có cái lòng thương yêu, thương yêu bằng, thương yêu cái sự sống của muôn loài, cho nên vì vậy đó là gọi là "tâm từ, tâm bi" của chúng ta.
Đó là chúng ta phải tu tập về cái phần này thì cái lòng hiếu sinh chúng ta mới có. Nó luôn luôn một cái giới đức, cái giới nào mà Đức Phật kê ra thì nó cũng có phải có một cái pháp, một cái pháp để rồi chúng ta thực hiện. Đó là như cái giới không sát sanh, không hại vật thì đó là cái giới mà nó mang theo trong cái giới đó nó có cái đức, cái Đức Hiếu Sinh.
Muốn thực hiện được cái Đức Hiếu Sinh cho trọn vẹn thì chúng ta tu tập Tứ Vô Lượng Tâm: tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả. Đó là bốn cái điều kiện mà chúng ta rèn luyện cái lòng hiếu sinh của chúng ta, tức là cái Đạo Đức Hiếu Sinh của chúng ta. Đó là tóm lược để cho chúng ta biết được cái pháp hành và cái đạo đức của nó ở trong cái giới thứ nhất này.
(33:45) Cái giới thứ hai là không tham lam trộm cắp. Không tham lam trộm cắp tức Đức Buông Xả. Người mà biết buông xả thì không còn tham lam, mà người không biết buông xả mà muốn thâu vào thì nó trở thành tham lam. Cho nên cái tham lam của chúng ta nó có cái tham lam tốt và cái tham lam xấu.
Cái tham lam tốt thì đối với xã hội thì nó vẫn tốt là vì nó không phạm Pháp Luật, như mình không cướp giật, không trộm lấy của người ta thì cái Pháp Luật không có kết tội. Nhưng mà cái tham lam mà tự đem sức lực của mình ra để làm ra tiền, ra bạc nó vẫn là tham lam, đối với Phật giáo thì cái vấn đề này cần phải quan sát lại, để mà chỉnh đốn lại.
Cho nên biết buông xả thì nó sẽ an ổn hơn là mình, cái sức mình nhỏ, cái vốn mình ít mà muốn tiền nhiều, tham nhiều cho nên vì vậy mà thường hay gặp thất bại. Đó là cái tham nó làm cho chúng ta khổ ở trên cái thất bại đó. Cho nên vì vậy khi mà đứng trong cái tham lam trộm cắp, ở đây thì cái giới dạy cho chúng ta không tham lam tiền ở trong cái trộm cắp. Thì cái tham lam nó còn có cái tham lam tốt và cái tham lam xấu.
Như một người làm ra của nhưng vẫn tham chứ không phải không tham, nhưng mà làm ra của thì đó là tham lam tốt. Nhưng trong cái tốt đó nó có cái khổ đau cho: phải làm, phải nặng đầu trí óc, phải đem sức lao động của mình làm cho có của cải, thì cái này là cái tham tốt. Nhưng cái tham tốt nó vẫn mang đến cái khổ cho chính người đó. Cho nên vì vậy mà chúng ta đem cái khả năng của chúng ta làm mà còn tham, thì cho nên chúng ta không có dùng quá sức thì như vậy là chúng ta sẽ khổ. Chúng ta làm ra của bằng cái mồ hôi nước mắt của chúng ta, nhưng vì chúng ta không tham cho nên chúng ta không có khổ.
Người mà tham mà làm ra của, khi của mất thì người ta sẽ khổ đau. Còn người mà không tham, của mất không đau, cho nên gọi là buông xả. Cái Đức Buông Xả nằm ở chỗ đó. Mà nếu không hiểu thì chúng ta mang cái tính chất tham, thì cái người tham mà làm, cố gắng đem mồ hôi nước mắt mình làm ra của, thì khi mà bị mất của thì cái người đó tiếc.
Cũng như bây giờ Thầy đem cái sức lực của Thầy ra làm, để rồi ky cóp, góp nhóp lại được cất cái nhà, cái villa hằng tỷ bạc đi. Mà khi cái nhà này nó bị cháy đi thì cái cuộc đời Thầy nghĩ rằng Thầy không còn làm được lần thứ hai để cất được cái nhà này nữa, Thầy đau khổ vô cùng. Do đó cái tham đó nó làm cho Thầy quá khổ đau.
Vì vậy mà Thầy không tham, Thầy làm ra tiền được là do cái khả năng, cái tài trí của Thầy làm ra dưới cái sức của Thầy vừa phải, chứ Thầy không cố gắng mà Thầy làm ra nhiều tiền. Và đồng thời cái phước của Thầy nó do cái thiện pháp mà nó đầy đủ, cho nên cái tiền bạc Thầy mới dư, Thầy cất cái nhà rất đẹp, rất sang, cái villa hay cái nhà lầu. Nhưng mà khi mà có trận hỏa hoạn xảy ra, hay hoặc là động đất sụp đổ thì thường Thầy thản nhiên, Thầy không nuối tiếc. Còn cái người mà tham để mà cố gắng làm cho được những cái điều này thì khi mà mất của, nhiều khi họ điên và nhiều khi họ sẽ chết.
(36:42) Đó là cái trường hợp xảy ra trong cái cuộc sống chúng ta hằng ngày, chúng ta chứng kiến được cái người tham. Cái này là tham tốt nhưng mà vẫn đem đến cái nỗi đau khổ cho họ, có thể cướp đi cái mạng sống của họ trong cái tâm tham đó vì họ không biết buông xả. Vì vậy mà cái lòng tham, cái lòng không biết cái Đạo Đức Buông Xả đó thì coi như là chúng ta sẽ bị khổ đau.
Cho nên ở đây nó có hai cái vế: "không tham và không gian tham trộm cắp", thì cái vế của nó
Tham là "tham lam”,
mà Gian tham là "gian xảo”, và trộm cắp là "cướp lấy của người".
Thì ở trong cái này, nếu mà chúng ta cô đọng lại thì chúng ta giảng cái nghĩa nó rất là hạn hẹp, thì chúng ta thấy là không có nên trộm cắp của người vì cái Pháp Luật của Nhà nước nó đã có rồi, nó đã có. Cho nên vì vậy mà cái tham làm, tham cố gắng làm ra tiền, ra bạc này kia thì làm ra tiền, ra bạc mà không gian xảo thì ở trong cái giới này nó có chữ gian tham.
Cho nên vì vậy đây là cái người mà để biết rằng, đúng là cái giới này phải nói rằng: "Không có tham lam trộm cắp hơn là có sự gian xảo, vì có tham mà tham mà gian xảo ở trong đó thì nó thuộc về trộm cắp rồi". Thành ra cái gian ở đây nó thuộc về trộm cắp.
Bây giờ mà mình khéo léo người ta không thấy mình, như cái người dục, họ lại họ đẩy cái xe đạp của người kia họ lấy gọi là "trộm, ăn trộm".
Còn cái người mà họ có gươm đao, súng đạn, họ vô họ làm cho người khác sợ, họ giựt của, họ cướp của đó, thì đó là "cướp, đó là cướp".
Còn bây giờ họ cũng cướp giựt của, hay trộm cướp của người ta bằng cách khéo léo, tức là bằng cách "xảo quyệt".
Thí dụ như là ngồi gần bên mình, họ nhìn cái túi tiền của mình rồi họ dùng dao họ rạch cách khéo léo, nhẹ tay họ lấy, đó là "gian xảo, tiểu xảo, xảo thuật" của họ.
Rồi bắt đầu gian xảo, thí dụ như mình cân non, hay hoặc là đo thước đo thiếu, hoặc làm những cái chuyện buôn bán thiếu thừa trong đó, đó cũng là gian xảo. Cái đây cũng là thuộc về tham. Cái kia là "tham trộm cắp, cướp giật", còn cái này "tham mà gian xảo".
Cho nên trong cái giới này, ở trong cái này thì nó nói "không gian tham trộm cắp". Không may cái chữ Tham nó rộng nghĩa, mà chữ gian và chữ trộm cắp thì nó có cái nghĩa khác cái nghĩa cụ thể và hạn hẹp của nó. Ở đây Thầy muốn giảng cái chữ Tham, mà chúng ta thấy cái mục đích của đạo Phật đưa ra cái Đạo Đức này là Đạo Đức Buông Xả, chứ không phải ở trong cái hạn hẹp của gian tham và trộm cắp. Các con hiểu đây là cái Đức Buông Xả.
"Nếu mà cái người biết buông xả, khả năng tôi làm có thì tôi cứ làm, bây giờ tôi cất nhà, tôi sắm sao gì cũng được hết. Nhưng mà cái xe hơi của tôi có hư, hoặc cái nhà có mất, tôi cũng không buồn cái gì hết, tức là tôi không có tham, tôi không tham đắm nó".
Cho nên cái nghĩa Tham nó sâu sắc và cái Giới từ đức Phật nằm ở trong cái giới đức Thánh rồi, nó không phải là cái giới đức tầm thường mà là thuộc về giới đức Thánh. Bởi vì trong cái năm cái giới nó có nhiều cái giới. Năm cái giới này nó gọn ở trong cái đức làm một Thánh Tăng, cho nên vì vậy nó không có nghĩa thường như người ta ghi ở trong này. Nó không phải là chỉ có cái người cư sĩ đâu, mà nó còn cả tu sĩ nó còn phải giữ giới này nữa. Vì chính nó là cái căn bản của tu sĩ và cư sĩ, chứ không phải là cho riêng của cư sĩ đâu, cho nên:
không sát sanh
không tà dâm
Không gian tham trộm cắp
Không nói dối
Không uống rượu
Tất cả những cái giới này đều là cái giới của người tu sĩ. Cho nên trước khi mà làm tu sĩ, các con là cư sĩ phải giữ gìn giới này, khi mà giới này giữ được thì mới dám làm tu sĩ, mà giới này giữ không được thì đừng nên làm tu sĩ.
Chẳng hạn bây giờ có nhiều tu sĩ mà còn uống bia, thì như vậy là không đúng rồi. Đã là cư sĩ người ta còn giữ gìn như vậy, mà mình tu sĩ mà còn ngồi uống bia thì không đúng. Mà có nhiều tu sĩ lại nói dối, thì cái cư sĩ thì người ta không nói dối mà mình lại nói dối thì mình không đúng rồi. Nghĩa là trước khi mà làm tu sĩ, thì mình phải giữ gìn những cái giới này nó nghiêm chỉnh rồi mình mới bước vào những cái giới khác. Còn những cái giới này mà nó chưa có nghiêm chỉnh, thì những cái giới khác không nên vào, tức là mình không nên làm trở thành tu sĩ.
Vì vậy mà hôm nay, cái giới này chúng ta mới hiểu cái nghĩa của nó là cái giới mà cái Đức Buông Xả. Người buông xả thì chúng ta làm ra của mất chúng ta không tiếc. Còn người không có Đức Buông Xả, chúng ta sẽ khổ đau trên cái đức này, trên cái giới này.
(41:05) Bây giờ đến cái giới mà không tà dâm, giới thứ ba. Tức là Đức Phật nói là "cấm không tà dâm", đây là cái giới của người cư sĩ. Thì không tà dâm có cái nghĩa là "phải chung thủy". Nghĩa là mình tà dâm, là mình có chồng mình lấy người chồng khác, hoặc là người khác, hoặc là mình có vợ mình lấy người khác thì đó là mình tà dâm. Như vậy là mình có đạo nghĩa chung thủy với vợ, với chồng mình không? Như vậy trong cái giới này có nghĩa là cái Đức Chung Thủy, cái đức chung thủy của nó.
Cái người mà có chung thủy, cái người không bao giờ mà vi phạm vào cái tà dâm này, cho nên đó là cái tình nghĩa chung thủy của hai người nam và nữ. Nếu mà cái vợ chồng mà không chung thủy, thì nó biến trở thành cái con người đó nó không có đức, cái Đức Chung Thủy, thì con người này là con thú vật. Chúng ta thấy rõ ràng con thú vật nó đâu có ngại tất cả mọi con thú vật khác.
Thí dụ như là một con chó thì nó đâu có ngại là con chó này là của người này, con chó kia là của con chó kia đâu. Con chó nào nó cũng có thể giành giật với nhau được hết, cho nên nó trở về với cái bản chất của loài thú vật, nó không có chung thủy, nó không có đạo nghĩa. Cho nên cái giới này nó là cái Đức Chung Thủy, tức là cái Đạo Đức Chung Thủy của một con người. Nó nâng cái con, cái loài động vật lên trở thành một con người. Cái người mà có chung thủy là con người, mà người không chung thủy là con thú vật.
Thầy xác định nói thẳng là cái người mà không chung thủy, có vợ, có chồng mà không chung thủy với nhau chỉ là con thú vật mà thôi. Nay thì lấy người này, mai lấy người khác thì cái người này là con thú vật chứ không phải là con người đâu. Cho nên Giới Luật của Phật đã xác định được cái Đạo Đức làm người và cái con thú vật nó tách ra, nó rất rõ ràng, nó rõ ràng. Nó không để cho con người với con thú vật nó lẫn lộn nhau.
Cho nên vì vậy mà chúng ta thấy một cái con người đó lang chạ người này, người kia, thì chúng ta biết đây là cái bản chất thú vật của con người này. Con người này là con người ma hoặc người, thân người nhưng mà cái bản chất, cái tâm của họ là cái con thú chứ không phải là con người, cho nên nó không có cái Đạo Đức Chung Thủy.
Vì vậy mà cái Đức Chung Thủy chúng ta phải học, chúng ta phải hiểu. Vì vậy mà làm người, nhất là người cư sĩ chúng ta phải có cái Đức Chung Thủy. Người cư sĩ đệ tử của Phật mà lang chạ như vậy thì còn nghĩa lý gì là Phật tử. Người này không nên dùng cái danh từ là Phật tử, mà là con thú vật chứ không phải là Phật tử. Đó, đó là một cái điều mà chúng ta phải hiểu được cái Đạo Đức Chung Thủy.
(43:33) Bây giờ đến cái giới thứ tư là "cấm không nói dối". Cái giới này khó lắm, nó có hai cái Đức của nó. Thứ nhất là cái đức thành thật, mình thành thật thì mình không bao giờ nói dối, mà mình không thành thật là luôn luôn lúc nào cũng nói dối. Vì vậy mà mỗi khi mà nói dối thì chúng ta rất hổ thẹn, xấu hổ, cho nên chúng ta thấy mình thiếu thành thật, không dám nói thẳng nói thật, cho nên đó là mình thiếu.
Nhưng một con người mà luôn luôn giữ gìn mình thành thật, nói thật thì con người này mình thấy họ thêm một cái đức nữa là Đức Uy Tín. Nó tạo thành một cái uy tín, ai cũng tin tưởng người này, lời nói người này luôn luôn là thành thật, cho nên nói ra ai cũng tin tưởng hết, cho nên nó thêm cái Đức Uy Tín, người ta rất là tin cậy ở cái người mà thành thật.
Cho nên vì vậy mà cái lời nói của chúng ta không khéo, thì nó làm mất uy tín của chúng ta, mà khéo léo không bao giờ nói dối ai hết thì cái uy tín chúng ta càng ngày càng tăng lên. Cho nên nó mang hai cái Đức, một cái giới nằm trong đó có hai cái Đức: Đức Thành Thật và Đức Uy Tín. Đó thì chúng ta thấy rõ ràng nó mang hai cái đức tính như vậy thì nó phải khó hơn cho cái nghĩa khác.
Cho nên cái nói dối không phải là chuyện dễ đâu, cho nên nhiều khi chúng ta vẫn nói dối. Mà nói dối chúng ta nghĩ rằng mình nói dối không hại ai hết nhưng mà người ta sẽ phát giác ra được sự nói dối của mình, thì mình cũng mất uy tín.
Mình nói dối không hại, không hại ai hết, nhưng mà người ta sẽ phát giác ra được sự nói dối đó. Tự mình đã nói dối thì người ta phát giác ra được, thì coi như từ đó về sau người ta biết mình nói láo rồi, người ta không có tín nhiệm mình nữa, mình mất cái đức tin rồi thì do đó tự mình làm lấy.
Cho nên cái này nó mang hai cái tính đức của nó trong một cái giới luật này, trong một cái giới luật này cho nên nó rất là khó chúng ta giữ. Vì vậy mà sau này học về cái Đạo Đức Làm Người, về cái đạo đức ngôn ngữ thì Thầy sẽ dạy thêm về cái phần nói, không nói dối thì nó mới đem lại cái sự lợi ích rất lớn cho chúng ta.
(45:35) Bây giờ tới giới thứ năm là cái giới không uống rượu. Rượu là một cái thứ độc, coi như là một thứ độc dược, đem vào thân của chúng ta thì nó nghiện ngập, mà uống nhiều thì nó làm cho chúng ta kích thích.
Như vậy mà chúng ta biết rằng đức Phật dạy chúng ta không uống rượu, không có nghĩa chỉ là cách chúng ta không uống rượu không đâu, mà đức Phật mới dạy chúng ta đừng có ô nhiễm. Đừng có ô nhiễm những cái mà nó làm cho chúng ta nhiễm như rượu, thuốc lá, hay cà phê, hoặc những thứ khác như thuốc phiện, những cái loại xì ke ma túy. Người cư sĩ là đệ tử của Phật hoàn toàn phải xa lánh nó. Tại sao vậy?
Tại vì cái đức này là cái Đức Thông Minh. Người đệ tử của Phật là người phải trí tuệ, người phải thông minh. Và người thông minh thì không bao giờ đem đồ độc, đồ nhiễm vào trong thân của nó, cho nên nó không bao giờ nó đem đồ ô nhiễm vào trong thân của nó để nó hại thân nó, thì nó không thông minh.
Cho nên những người uống rượu, những người hút thuốc lá, những người hút thuốc phiện, những người nghiện ngập đó đó, là những người ngu, chứ không phải là những người thông minh, những người đó là những người thiếu trí. Họ đem cái đồ độc, họ đem đến cái sự đau khổ cho bản thân họ, làm cho gia đình họ đau khổ mà họ không biết, tức là họ sống không có đạo đức với bản thân của họ.
Người uống rượu là cái người không có đạo đức với bản thân của mình, vì vậy mà cái người đó là cái người đần độn, cái người ngu si, cái người thiếu đạo đức. Cho nên họ chỉ biết cái rượu, mà họ đi theo cái rượu, họ đi ham mê cái rượu thì đó là cái người không có thông minh. Người không biết cái đồ độc, không có sợ cái đồ độc, cái người đó như người điếc mà không sợ súng. Rõ ràng là nhiều người họ biết là thuốc lá là độc, nhưng mà họ vẫn hút.
Thật sự có, thậm chí có ông bác sĩ, ổng là bác sĩ ổng biết là thuốc lá như vậy mà ổng vẫn hút thì mình nghĩ rằng: "Cái ông bác sĩ là một cái người mà đã trị bệnh thiên hạ mà vẫn cầm điếu thuốc hút thì không có nghĩa lý gì".
"Và một ông Thầy mà là một tu sĩ mà cầm cái điếu thuốc mà hút như thế này, để rồi bắt đầu lên giảng đường mà giảng thì không còn nghĩa lý gì ông Thầy đó nữa".
Đã có nghiện ngập như vậy, xả không được cái nghiện ngập của tâm - tham - sân - si, làm sao chúng ta xả được, cho nên ông Thầy đó không xứng đáng đâu. Cho nên ông Thầy mà còn ngồi uống bia là ông Thầy đó chưa xứng đáng. Bởi vì ổng còn nghiện ngập rượu mà trong khi giới luật của Phật cấm uống rượu, tức là ông Thầy này không có trí tuệ, ông Thầy này ngu, không có thông minh. Đệ tử của Phật là đệ tử phải trí tuệ, phải thông minh, cho nên cái giới này là cái Đức Thông Minh.
(48:08) Bây giờ chúng ta đã học được sáu cái Đức ở trong Năm Giới này, vì vậy có những cái đức này nó mang đến cái lợi ích. Bây giờ các con cứ suy ngẫm thử coi, trong cái sáu cái đức này nó sẽ mang đến cái lợi ích cho bà con của mình, cho mọi người xung quanh mình có cái lợi ích rất lớn, có phải không? Nếu phải thì các con hãy chắp tay lên mà xin rằng:
"Từ đây về sau con xin hứa sẽ cố gắng giữ gìn Năm Giới này, để thực hiện sáu cái Đức Làm Người cho nó xứng đáng là con người, là đệ tử của Phật".
Các con nguyện như vậy rồi lễ phật để mà thọ kèm Năm Giới này.
Đến đây là một cái buổi lễ đã truyền Tam Quy Ngũ Giới cho con xong rồi, thì bắt đầu bây giờ đó thì Thầy cho con một cái pháp danh Thích Thanh Đức. Thanh Đức tức là cái Đức Thanh Tịnh, cái đức làm cho thân tâm mình thanh tịnh, làm cho môi trường xã hội mình thanh tịnh không còn làm đau khổ. Con nhớ đây là cái pháp danh, để cho con sống làm một người cư sĩ luôn luôn sống làm tốt đẹp cho bản thân mình và cho mọi người xung quanh mình. Cho nên mang cái tên Thích Thanh Đức, tức là Thanh Đức, tức là cái Đức Thanh Tịnh. Con nhớ kỹ để mà nhớ cái tên của mình là luôn luôn ghi khắc điều không bao giờ mình nói một cái lời nói thô lỗ, con nhớ kỹ.
Về cái nói dối này, sau này Thầy sẽ giảng cho con nghe về cái đức nó thành thật, mà cái đức của cái giới này để cho cái uy tín của mình. Một người mà nói thô lỗ là đã tự làm mất cái uy tín của mình. Mình gọi một cái em bé nhỏ, gọi "mày lại đây" thì như vậy là thô lỗ. Mình chửi "đụ mẹ" một cái là mình là người thô lỗ rồi, con thấy đúng không?.
Cho nên vì vậy mà trong cái Đạo Đức con người, mà cái ngôn ngữ là nó quan trọng vô cùng lắm. Cho nên ở đây, cho nên Thầy gọi là Thanh Đức từ cái lời nói, từ cái suy nghĩ, từ cái việc làm hành động của mình đều là phải mang đến cái đạo đức thanh tịnh, làm cho mình an vui và người khác an vui gọi là Thanh Đức. Cho nên con nhớ cái pháp danh con mà giữ gìn, luôn luôn để bảo trì cho cái tâm hồn của con luôn luôn lúc nào cũng thanh thản - an lạc - vô sự.
Đến đây thì Thầy chấm dứt, chúng ta không hồi hướng vì các con chưa hết tham, sân, si thì không được hồi hướng cho ai hết. Bây giờ con nhận lãnh, để rồi từ đây về sau nương theo ba ngôi Tam Bảo giữ gìn sáu cái Đức Làm Người cho trọn vẹn, cho xứng danh chính cái pháp danh của mình là Thanh Đức, nhớ chưa.
(50:58) Phật tử: Dạ kính bạch đức Trưởng lão, giống như là trong cái giới trộm cắp thì chẳng hạn như là con, con vô tình cầm lộn một cái đồ của ai về nhà rồi, sau đó con trả lại thì con có phạm giới không ạ?
Trưởng lão: Không, không phạm, cái đó không có gì là phạm hết, cái đó là cái tốt.
Phật tử: Nhưng mà chẳng hạn ở một cái buổi họp nào đó, con vô tình cầm một cái vật của ai mà sau này con không nhớ của người đó thế nào, không biết của ai mà cầm về luôn thì như vậy con có phạm giới không?
Trưởng lão: À, con không biết nhưng mà điều kiện là con cố truy tìm để trả.
Giả dụ sao con cứ tìm mãi mà không ra, nó rõ ràng là lương tâm con không có tham lam, không có trộm cắp đâu, mà đây là lộn thôi, con không có phạm đâu. Con chờ khi nào mà có cái, khi biết được cái tin của người nào mà mất cái đó, con sẽ trả lại ngay liền, đó là cái lòng của con luôn luôn sám hối về điều đó. Nhưng mà con giữ lại để chờ cái người đó mất, chứ con không có giữ lại cái này để mà con xài cho mình.
Thí dụ bây giờ con, thí dụ như con cầm lộn một cái máy gì đó của người đó, nhưng mà con không có xài đâu, con vẫn giữ khi từ khi cầm cho đến khi nó hư như thế nào đó con hoàn toàn không xài.
Bây giờ thí dụ như cái điện thoại di động cầm tay đi, người ta để lộn đi rồi con cũng cầm lộn đi, mà bây giờ con không biết ai mà con trả. Trong cái thời gian đó con rất khổ tâm, mà mong để cho mình gặp được cái chủ nhân của cái người này trả lại, còn không khéo thì người khác người ta nhận thì mất cái của này của người chủ này rồi tội, cho nên con giữ đây. Nhưng mà con hoàn toàn con không lấy nó con xài, con lấy xài là con bị phạm đó, con hiểu không?
Bây giờ nói đã con lỡ con lấy về rồi, thôi thôi bây giờ mình tìm không ra, thôi mình lấy mình xài, tức là mình bị phạm tội tham của mình, thà mình không xài. Của mình mình xài, còn của người ta mình để đó để chờ trả lại chủ cũ, thì như vậy con không bị phạm cái giới.
Cho nên ví dụ như con bây giờ, con cầm lộn một cái gì đó thì về để chết đó chứ không xài, chờ cho trả lại chủ thì con không phạm vô tội. Mặc dù chưa có trả chủ mà con cất ở trong nhà con, con không phạm. Còn con đem ra con xài con phạm, con phạm tâm tham, nó không phải của mình mà mình xài là mình bị tội.
(53:02) Phật tử: Trong cái giới mà nói dối, nếu mà con nói dối mà để cho người ta vui hay làm gì đó thì như thế nào ạ.
Trưởng lão: À, nó cũng không tốt đâu con, bởi vì mặc dù là người ta vui nhưng mà mình lại không thành thật, chỉ vì mình nói là cái nói dối. Bây giờ mình khuyên lơn người ta, mình khéo léo mình nói cho người ta vui cái chuyện đó, nhưng mà trong đó có cái láo ở trong đó. Mặc dù người ta vui đó, nhưng mà sau khi người ta phát hiện ra được người ta khinh con lắm. Hồi người ta không hiểu, người ta thấy vui, nhưng mà rồi sau đó người ta phát hiện ra mới nói "Cái ông này ổng nói láo để cho mình vui, chứ sự thật ra nó không có như vậy".
Đó thì sau khi người ta phát giác ra được thì thấy mình cũng mất uy tín, nó mất uy tín, mất chữ tín rồi con. Cho nên vì vậy đó mình quyết làm cho họ vui tức là nó thiện, nhưng mà trong cái thiện này nó có cái ác, sau này nó mất cái uy tín, cho nên khéo léo sử dụng.
Cho nên sau này các con học về Đạo Đức Nhân Quả, Thầy dạy về cái Đạo Đức Ngôn Ngữ đó, Thầy dạy về cái đức nói dối. Bởi vì nó khó lắm, về cái giới nói dối nó khó, nó kèm theo hai cái đức con thấy không, một cái Đức Thành Thật và một cái Đức Uy Tín.
Nếu mình nói dối mà nó không có hại ai, không có hại mình, hại người thì cái uy tín mình sẽ bị mất bởi vì cái nói dối, con hiểu không? Nó mất uy tín, nó không hại, nó không có làm hại người ta nhưng mà nó mất uy tín mình, người ta sẽ hiểu. Bởi vì mình nói người ta tưởng người ta không hiểu, chứ lần lượt người ta phát giác ra cái nói láo của mình, không có làm sao che giấu được cái gì đâu, cho nên vì vậy nó rất khó.
Vì vậy mà sau này Thầy dạy về Đạo Đức này, Thầy sẽ nói hết rồi cách thức mà chúng ta đối phó trong cái hoàn cảnh đó, để mà chúng ta nói thật hay không nói thật. Lúc bấy giờ Thầy sẽ dạy cách để mình đối phó, nhiều khi mình cần phải làm thinh.
Cho nên mà khi có người hỏi vũ trụ quan này như thế này, thế nọ thì đức Phật làm thinh không trả lời. Nếu mình trả lời mà họ không hiểu, họ không thấy được thì họ nói mình nói láo. Mà họ hiểu được thì họ theo, họ nghe như lời mình nói, mà họ không có nắm chắc được như vậy thì cái này họ tin … Phải nói sao mà cho họ thấy được, họ hiểu được là nói thật, mình thấy mà nói nó.
Cho nên đức Phật nói "Ta nói ở trong cái mà người khác không hiểu, ta có nói láo trong ta" trong kinh Tương Ưng đó đức Phật có nói mà.
Đức Phật nói "bây giờ ta nói, bây giờ nói là ta chứng đạo nè, ta hiểu cái vũ trụ quan này nè. Thí dụ như bây giờ chưa có ai biết là cái vũ trụ này có cái hành tinh nào có loài người. Nhưng mà ta giờ ta xác định là trong hành tinh này nó có mấy cái hành tinh khác nó có cái loài người. Thì như vậy là mọi người này không biết, phải không? Như vậy là ta có nói láo trong ta. Ta nói phải con người ta phải có thấy biết được cái hành tinh đó có loài người, thì lúc bấy giờ ta mới nói. Mà ta biết có nhưng mà mọi người không biết, ta không nên nói, vì ta nói mà người ta không biết tức là ta có nói láo trong ta".
Con hiểu chỗ câu pháp ngữ, cái ngôn ngữ mà nói dối chưa? Nó khó lắm
(55:50) Phật tử: Ví dụ là một là con nói thật, hai là con làm thinh.
Trưởng lão: Làm thinh, đó là Thầy sau này Thầy sẽ xác định trên cái vấn đề mà làm thinh. Mà làm thinh mà người ta vui, chứ làm thinh mà người ta tức thì cũng không được, nó khổ chỗ đó, làm cái nỗi khổ cho người ta, tức là tự tin câu hỏi của mình nữa. Đó nó khó lắm.
Vì vậy mà khi nào cần làm thinh là làm thinh, mà khi nào không cần làm thinh thì mình dùng câu hỏi khác để đánh lãng đi. Là cách thức thay vì mình trả lời ngay thì nó bị kẹt trong cái nói dối, thì bắt đầu mình hỏi mấy câu hỏi khác làm cho nó lãng cái chỗ mà họ hỏi đi, làm cho mình tránh né cái trả lời câu hỏi đó đi. Thì bắt câu hỏi khác, bắt cho họ đi chuyển qua các chuyện khác đi, họ không hỏi nữa thì đó là mình tránh được cái chỗ mà hỏi cái chỗ này.
Mình nói thật thì không được, mà nói dối thì cũng không được, cho nên vì vậy nó kẹt quá. Cho nên mình tránh bằng một cái câu lãng, tức là hỏi lại một câu lãng đưa cho họ qua cái đề tài khác, mà do đó mình quên được chỗ này thì mình trở lại chỗ này, chứ không khéo mình chết mình đó. Bởi vậy cách thức mấy con phải biết nó thiện xảo, kêu là thiện xảo, chứ không thiện xảo là chúng ta dễ bị lầm lạc lắm, nó không mất uy tín mình hết gì hết, các con thấy hay không. Bởi vậy phải học chớ, nếu mà không học thì không biết đâu, đạo Phật mà học để giải thoát mà.
(56:55) Phật tử: Tại vì có một câu chuyện như vầy là: "Cái ông thợ săn đó ổng rượt một con vật, mà con vật nó chạy ngang qua một người nào đó, mà ông thợ săn ổng chạy đến mới hỏi người đó, mà nếu người đó chỉ thì con vật chết." Thì trường hợp đó con phải làm sao.
Trưởng lão: À, như vậy là con thấy trong cái (thiên địch) vừa rồi thì nó có nói, nó có diễn tả được hai cái tròng. Bởi vì nó là cái giới sát và cái giới nói dối, đó hai cái giới nó tròng nhau một lượt. Cho nên bây giờ đó, đó là nói về một cái. Con nói ông thợ săn, chứ sự thật ra qua câu chuyện như thế này nè:
"Là có một cái vị tu sĩ, họ ngồi ở trên cái cục đá đó họ tu, thì cái nhà Vua mới săn con nai, con nai nó chạy ngang qua đó. Thì ông Vua này ổng đuổi, ông đuổi tới đây thì con nai ổng không thấy nữa, ông mới hỏi ông tu sĩ này:
Ông ngồi đây ông tu, ông có thấy con nai tôi rượt nó chạy ngang qua đây không?
Thì ông tu sĩ này, nếu mà chỉ, mình thấy con nai thật sự chứ làm sao mình không thấy, mà mình chỉ thì ông vua sẽ giết con nai, phải không. Mà nếu mình không chỉ thì mình nói láo, còn mình làm thinh thì mình phụ lòng câu hỏi, cho nên nó ba cái điều kiện rất khó. Vì vậy mà đức Phật bây giờ chỉ còn có biết dùng thần thông để mà dụ ông ta thôi. Con thấy cái cách thức của Đại thừa nó khác, còn cái cách thức khác thì nó khác.
Thì cái lúc bấy giờ đó, cái ông vua ổng đến hỏi, thì hỏi lần thứ nhất ông này làm thinh, hỏi lần thứ hai làm thinh, ông vua tức quá.
Mình là vua một nước mà tại sao lại ông này ở trong nước mình mà ổng phụ, ổng phụ cái lời hỏi của mình thì ông vua phải tức thôi.
Cho nên ổng mới chặt tay, chặt tay vị tu sĩ này, mới móc mắt ông này. Là do đó thì cái ông tu sĩ này ổng có thần thông, cho nên vì vậy đó thì khi ông vua chặt tay rồi, mà móc mắt rồi thì vẫn thấy ông tu sĩ này vẫn an nhiên mà vẫn không than thở, không gì hết. Không có la, không lối, không oán trách gì hết, thì ông vua mới hối hận.
Khi mà mình làm cái chuyện mà thấy đau khổ cho người ta rồi mình có hối hận, cho nên ông vua có hối hận. Bắt đầu ổng hỏi:
Tôi chặt tay, móc mắt ông vậy đó, ông có giận tôi không?
Thì ông tu sĩ này mới trả lời:
Tâu bệ hạ, tâu đại vương, tôi là một người tu sĩ thì tôi không có biết giận ai hết, dù người đó làm cho tôi phải đau khổ tui cũng không có giận người đó đâu. Nếu tôi giận người đó thì tay, mắt của tôi không ráp lại, mà tôi không giận thì tay mắt của tôi sẽ ráp lại.
Thì tất nhiên là tay, mắt của ổng biến lại liền lạc hết cũng như bình thường, tức là ổng ta dùng thần thông chứ gì. Ông vua này sợ quá rồi, cái vị này là Thánh Tăng rồi, thấy thần thông là phải chùn rồi. Cho nên ông này tránh được cái giới là không sát sanh và không vọng ngữ, mà lại còn độ ông vua này bằng thần thông nữa".
Đối với Nguyên Thủy thì như vậy không được, không được vậy. Dùng thần thông tức là dùng ảo thuật mà gạt người ta thôi, gạt người ta cho người ta phục thôi.
Thì cách thức nhiếp phục người ta bằng cách thuyết Pháp nhiếp phục được mới đúng cách. Cho nên đối với Nguyên Thủy thì như thế này: (59:33) Bây giờ nhà vua đến hỏi mình phải trả lời thành thật, trả lời thành thật chứ đừng có dối, đừng có gì, đừng có làm thinh, làm thinh là phụ lòng người. Theo Thầy đứng ở trong vị trí đó thì trả lời như thế này, khi ông vua hỏi có thấy con nai chạy ngang qua đây hay không, thì mình trả lời:
"Bạch Đại Vương, tôi là một vị tu sĩ, tôi có mang hai cái giới, một cái giới sát sanh và một cái giới không vọng ngữ. Nếu tôi chỉ cho Bệ Hạ cái con nai đó đi nơi đâu, thì Bệ Hạ sẽ theo cái dấu đó mà Bệ Hạ giết con nai thì tôi mang tội với Bệ Hạ là sát sanh, phải không? Mà nếu mà tôi nói dối cho Bệ Hạ không có giết con nai, thì Bệ Hạ chạy mệt, chạy một hơi mà không thấy, có dối gì đi nữa thì Bệ Hạ sẽ nói rằng tui gạt Bệ Hạ, Bệ Hạ đến đây còn hành hạ thậm tệ tôi nữa. Cho nên cái dối này tôi không dối Bệ Hạ lâu được đâu.
Bây giờ tôi dối Bệ Hạ, tôi nói con nai thay vì chạy thẳng, tôi nói chạy bên đây thì Bệ Hạ chạy một hơi, Bệ Hạ tìm không thấy dấu con nai là biết là tôi bị gạt. Bệ hạ biết bị gạt rồi, Bệ Hạ lại hoành hành tôi liền, tôi là người không đáng tin cậy, không phải là tu sĩ. Cho nên vì vậy tôi mang theo hai cái giới như vậy, tôi không thể nào nói được, xin Bệ Hạ hiểu. Bây giờ Bệ Hạ tha thì tôi nhờ, mà Bệ Hạ giết thì tôi chịu, chứ bây giờ tôi là người tu sĩ, tôi đã mang hai cái giới".
Thành thật nói thẳng, cho nên ông vua không có nỡ giết đâu, hoặc không có nỡ rầy rà, đúng là vị tu sĩ này đúng cho nên họ rất là cảm động. Con hiểu chỗ này nói thật không, mà khéo léo nói thật, phải không? Đó là đúng là giải quyết chỗ này, còn cái kia dùng thần thông ảo giác, như vậy là rõ ràng cái này sai, không đúng. Làm cho người ta sợ mình bằng phép thần thông, như vậy là không hay. Còn cái này mình thành thật, tức là mình thành thật nói thật cho người ta biết, bởi vì mình tu sĩ mà, mình thành thật mà, thì như vậy là ông vua ổng tha tội.
(61:15) Phật tử: Mọi chuyện đều phải thành thật hả Thầy.
Trưởng lão: Đó mọi chuyện đều phải thành thật.
Phật tử: Nhưng mà phải biết khéo léo.
Trưởng lão: khéo léo, thiện xảo ở trong cái thành thật. Nó có nhiều cái nó rất là thiện xảo mà nó phải. Khi mà tu tập rồi, mình học được cái Đạo Đức Giải Thoát, nó có những cái điều uyển chuyển lại, thiện xảo linh động lắm rồi. Thì do đó mọi cái chuyện xảy ra nó có linh động thực tế, nó không phải là chết đứng như là cái máy mà nó muốn chạy….. mà nó linh động, nó thay đổi hay lắm, đó là nó. Bởi cái trí tuệ của mình mà, từ đó nó phát ra nó giải quyết cho mình.
Trong khi đó thì mình phải tu tập tỉnh thức rồi, mình phải có sự tỉnh thức, rồi sự tỉnh thức đó mới giúp cho mình. Cái tri kiến của mình nó rất là sáng suốt xong nó giải quyết với một cái cách rất là thiện xảo. Nó làm cho thân tâm của mình được an ổn và người khác cũng được an ổn, không đau khổ, (thì nhất là cái giới).
(1:02:05) Phật tử: Giả dụ như một trường hợp bất khả kháng con lỡ mà mình nói láo chẳng hạn, thì mình phải làm sao để mình sám hối cái lỗi đó, hay là mình làm sao để mà trừ được cái láo của mình.
Trưởng lão: Mình muốn trừ được cái láo đó, bởi vì mình đã lỡ nói láo rồi mà mình biết xấu hổ, mình biết xấu hổ. Do đó mình mới đến với một cái vị, một cái vị mà giới đức thanh tịnh, người ta chưa từng nói láo. Mình đến đó mình mới trình lại với cái vị đó:
"Con hôm đó con lỡ con nói láo như vậy, xin vị con khai hết những cái sự nói láo của con ra, xin vị chứng minh và từ đây về sau cho con xin phép con không dám làm điều vậy nữa".
Mình đứng trước cái vị đó mình xin sám hối rồi, sau đó cứ mà hễ mà mình mới nói cái gì đó, thì mình thấy cái hình ảnh của vị đó là mình thấy trước mắt, nó giúp cho mình hay lắm. Bởi vì phát lồ sám hối, cái lực ở trong lực nó dạy mình không có được nói. Cho nên vì vậy mình có làm phạm tội gì đó mình cứ sám hối đi, mình đừng có che giấu thì mình sẽ hết, mình không có phạm cái lỗi đó nữa, mình che giấu là mình sẽ bị phạm nữa. Đó là cái cách thức thật sự mà, nó lợi ích thật sự mà.
Con cứ phát lồ trước cái vị thanh tịnh giới, chứ còn cái vị mà không thanh tịnh giới con không có ngán đâu. Trong tâm mình trước một cái vị mà thanh tịnh giới, con khi mà phát lồ rồi, con rất là sợ hãi, cho nên con không dám làm cái lỗi đó nữa. Còn cái vị mà phạm giới, cái vị đó thường hay nói láo đồ, mà con đứng trước cái vị đó con xin rồi con cũng sẽ không có sợ ông đó, ông ta cũng nói láo à. Thành ra con biết cái vị mà rất thanh tịnh giới, rồi con đến con phát lồ là con sẽ không bao giờ phạm cái lỗi đó nữa. Ta nói cái lực của nó, nó trợ giúp cho con, khi mà con muốn nói láo là nó ngăn chặn liền, nó là một cái lực nó làm cho con điếng lại không nói nữa.
Đó vậy thì cho nên vì vậy nó phải phát lồ, cho nên phát lồ sám hối với một cái vị thanh tịnh giới, ở trong cái Tác Pháp Yết Ma nó dùng đó. Nghĩa là phải phát lồ sám hối với cái người thanh tịnh giới, chứ đừng có phát lồ với mấy cái vị không thanh tịnh giới.
(1:03:56) Phật tử: Như vậy bạch Thầy, ví dụ như mai con xin phát lồ sám hối với Thầy (dạ nghe không rõ). Tuy gần đây nó còn những cái tập.
Ví dụ như Thầy như là, nếu người giết hại và ăn thịt chúng sinh thì theo như Thầy dạy như là, vậy con được làm người nữa không?
Trưởng lão: À, cái điều đó là mình phải trả cái oán quả đó, chừng nào mà mình hết cái quả mà ăn thịt chúng sanh đó. Tức là mình giết một con vật thì mình phải trả một cái thân mạng của con vật này, cái nhân quả mà đâu có tránh khỏi đâu. Mà ngay trong cái đời nay, mình đã huân vào cái sự đau khổ ở trong thân của mình, thì cái thân của mình nó cũng sẽ bị khổ đau, nó cũng sẽ bị kẹt, nó khổ đau bằng cách nào đó, chứ không phải không đâu.
Và đời sau kế tiếp đó mình sanh ra nhiều cái loài vật bởi vì mình ăn thịt chúng sanh. Nhưng mà người ta không thấy cái nhân quả đó, cho nên người ta tưởng mình chết mất hay hoặc là sinh lên làm người nữa, không phải đâu, cái nhân quả phải trả thôi.
Con bây giờ ăn một con cá, con phải trả thành một con cá như vậy, có thể nhiều con cá nữa chứ không phải là một con, nó trả cái quả của nó. Cho nên khi mà người ta nhìn thấy nhân quả người ta sợ.
Phật tử: Như vậy là, xác định việc là muốn làm người là phải không ăn thịt chúng sanh.
Trưởng lão: Không ăn thịt chúng sanh, bởi vì cái đó là năm cái giới mà để cái tiêu chuẩn. Cũng như con thi, cái tiêu chuẩn con bao nhiêu điểm để đậu, mà con không có đủ điểm thì con không đậu làm người được đâu.
Vậy thì trong cái con người chúng ta, xung quanh chúng ta, chưa có hẳn là con người thật, họ là con người mặt người nhưng lòng thú. Con kiếm con người mà thật đúng năm giới có không? Họ là con thú vật không đó.
Phật tử: Như vậy thì, nếu vậy thì hiện giờ xung quanh con là toàn ăn cá thịt không.
Trưởng lão: Ăn cá thịt là thú vật không à, cho nên mới vay trả mà. Trước kia nó làm cá cho chúng ăn, bây giờ nó làm người nó ăn lại đó. Mọi người ta đang làm người là những con cá trước kia đó, chứ đừng có nói. Khi mà nhìn thấu suốt qua cái thời gian quá khứ của nhân quả rồi, mình giật mình, mình là toàn là cá, là trâu, là heo, là chó không, bây giờ là con người để mà ăn thịt trở lại nó nè. Mà nếu mà không biết dừng, thì tức là cái nhân quả này cứ tiếp diễn, nó luân hồi mãi, nó trả mà, làm sao chạy khỏi.
Bộ mình tưởng mình làm người, thật sự ra các con cứ xét lại bây giờ các con làm người, các con sống đúng năm giới chưa? Cái tiêu chuẩn năm giới mới đúng là con người, mà cái tiêu chuẩn không đúng năm giới là con thú vật, có đúng không?
Thật sự ra cái ông đó, ông đó ông có vợ rồi mà ông lấy người kia, người nọ, ổng không chung thủy thì ổng là con thú chứ sao, chứ đâu phải là con người. Nhưng mà mang cái lớp người chứ sự thật ổng con thú, cho nên ổng ăn thịt, ăn cá đều là ổng mang cái lớp người để mà trả cái quả ăn thịt cá ngày xưa, cho nên cá nó chưa có ăn ổng.
(1:06:17) Phật tử: Như vậy, vậy cái giới sát mà nếu bất khả kháng con phải ăn thịt thì phải làm thế nào.
Trưởng lão: Nói chung là bất khả kháng con phải ăn thịt. Thì thí dụ như bây giờ, thí dụ như con, trong cái tiếp với mọi người đó, thì bắt đầu bây giờ trong một cái tô canh của người ta thì nếu cái bất khả kháng là con phải ăn như vậy, hoặc là con ăn sao ở trên cái vấn đề mà trên cái tô đó…..
Phật tử: Tức là trên cái bàn ăn đó con lặng lẽ con kiếm miếng rau con ăn.
Trưởng lão: Con kiếm cái rau ăn, con không ăn miếng thịt, thì bất khả kháng đó, bất khả kháng thì không chấp. Bởi vậy đó mình mới đem cái miếng đau khổ vô cho mình, cái đó là mình tránh. Nghĩa là giữ cái Đức Hiếu Sinh của mình, thương yêu nên giữ cho trọn. Cho nên con thấy một cái người tu sĩ, người ta sống với mọi người, người ta không biết cái người đó ăn chay mà người ta không nói đâu. Nhưng mà người ta sống với mọi người, người ta lựa những cái rau cải người ta ăn chứ người ta không có ăn thịt. Tức là bất khả kháng trong cái cuộc sống người ta, người ta bất khả kháng ăn, sống chung với mọi người như vậy mà tại sao khác…
Phật tử: Người xung quanh con ai cũng ăn thịt. Nhiều khi là họ mời đi thì nhiều lúc cũng khó từ chối. Con phải kiếm cách
Trưởng lão: Con phải biết cách…để mà thành công. Nó nói lên được cái lòng của con, cái lòng hiếu sinh của con. Còn con không làm mà con gắp thức ăn, con nói để làm vui lòng tùy thuận cho người ta, tức là con bị ác pháp lôi cuốn chứ không phải là tùy thuận. Con tùy thuận mà không bị ác pháp lôi cuốn, con tùy thuận là con ăn, nhưng mà con ăn rau cải. Họ đâu có biết mình ăn hay không ăn đâu, nhưng mà họ thấy mình cũng gắp ăn, nhưng mà sự thật ra nếu để ý thì họ biết mình ăn rau không ăn thịt. Cũng là rau nó để ở trên cái dĩa thịt này kia nhưng mà mình kiêng.
Phật tử: Còn nếu mà giả sử bữa ăn đó không có một tí rau nào thì sao?
Trưởng lão: Bữa ăn đó không có tí rau nào thì con sẽ ăn với nước tương, hay hoặc là với muối. Những cái đồ mà nó không có thịt ở trong đó, nó cũng có những cái vật để sẵn ăn với cơm với bánh, thì nó ăn với cơm. Và hoàn toàn bây giờ nó không có cơm, mà toàn là nó dọn ra đồ mặn để ăn, như hủ tiếu này kia. Nó nấu lộn xộn vậy hết, thì tức là con sẽ ăn trái cây, hoặc là con ăn hủ tiếu mà con không ăn thịt, đó như vậy đó.
Phật tử: Nhưng mà nếu rơi vào trường hợp, khi trong khi đó không có một tí gì đồ chay hết thì con phải làm sao?.
Trưởng lão: Toàn bộ không có đồ chay, không có cái gì mà ăn, thì bữa đó con sẽ ngồi xuống nói, (con nói bữa nay đau bụng quá). Mình tìm cách nói tránh, mình phải tìm cách mình tránh chứ, phải không? Cái hoàn cảnh đó mà con, cái hoàn cảnh đó, bởi vì cái hoàn cảnh mình tiếp giao với mọi người mình khéo léo mình viện cớ.
Phật tử: Bởi vậy ra xã hội mà mình khác biệt với người ta cũng dễ ganh ghét.
Trưởng lão: Dễ ganh ghét, dễ bị người ta châm biếm mình nữa. Người ta châm biếm, thí dụ người ta biết con ăn chay là người ta châm biếm mình, họ nói: “Cái thằng này toàn đậu hũ không”, người ta kêu mình cái tên thấy nó cũng, nó cũng làm cho mình không bình thường.
Phật tử: Không, danh từ thì không làm cho mình thấy khó xử, con chỉ sợ không biết xử lý sao thôi.
Trưởng lão: Theo thầy thiết nghĩ thì mình khéo léo, mình tàm quý, tùy thuận mà biết.
(1:09:20) Phật tử: Nhưng nếu mà thay vì mình làm việc thiện đó, có bù vô cái việc sát sanh được không?
Trưởng lão: Mình làm cái việc thiện, cái việc thiện có cái nhân quả việc thiện đó, nó sẽ ngay cái nhân quả của nó chứ không thể nào làm cái việc thiện này mà chuyển cho cái chuyện sát sanh được.
Chẳng hạn bây giờ đó, con đem cái việc con bố thí gạo, con giúp người nghèo khổ thì nó không chuyển qua cái chuyện sát sanh được. Trừ ra cái chuyện sát sanh con phải phóng sanh, con phóng sanh tức là con làm cho nó sống, nó sống thêm. Tức là nó chuyển được cái quả sát sanh của con khi mà con từ trước giờ con không biết. Hôm nay con đi đâu, con đi đâu con gặp người ta bắt chim, cá, gặp thì con mua, con bỏ tiền ra con mua phóng sanh nó.
Phật tử: Tức là con sẽ giải quyết được một số nghiệp hồi xưa đến giờ.
Trưởng lão: Một số nghiệp hồi xưa, còn con đi kiếm, bây giờ trong vấn đề con đi kiếm chim cá để mua thả thì con không giải quyết được đâu, đó nó lại khác con.
Bây giờ mình đi đường đó mình gặp, tức là cái nhân quả nó có duyên với mình, mình phải cứu nó. Tức là mình đã chuyển, bởi vì từ khi mình biết rồi mình chuyển bằng cái nhân quả. Còn bây giờ con đi tìm cái nhân quả, thì ta có cứu cho nó thì nó không có tác dụng gì với con.
Cho nên Phóng sanh là phóng sanh không tác dụng, mà biến người ta thành cái nghề để người ta bắt, để cho người ta bán thì càng tội thêm nữa. Người ta rọng để chờ bán cho các con tức là nó còn khổ những con vật đó thêm đó, hiểu không? Cho nên mình không có đi kiếm, mình đi gặp là đó là cái duyên của mình với con vật đó là mau mua thả đi. Mắc cũng mua thả, không có tiếc, để cho mình chuyển cái quả từ xưa mình không biết, mình giết mình ăn thịt chúng sanh, thì nó sẽ chuyển được, đó chứ đừng có tìm.
Tìm theo kiểu các chùa dạy đi mua chim, cá phóng sanh, đi vô trong cái chợ để đi tìm, đi mua thì sai cái đạo lý cái đạo Phật rồi, không đúng cái nhân quả.
Phật tử: Như vậy là một người mặc dù nếu làm rất nhiều chuyện (thiện) nhưng mà vẫn sát sinh là chắc chắn sẽ làm thân chúng sanh? Mặc dù có thiện cỡ nào nhưng vẫn phải trả cái quả đó?
Trưởng lão: Phải làm thân chúng sanh thôi không được làm người đâu, bởi vì cái đó là của nhân quả thì nó phải vậy. Hễ cái nhân nào thì cái quả nấy, không thể nào cái cây chanh mà nó ra trái cam, hay trái xoài được đâu. Cái nhân này thì cái quả nó vậy là nó vậy, chứ không lấy cái kia mà chuyển qua được, mình không có làm được cái chuyện đó, cái nào nó lợi ích cái nấy con.
Phật tử: Nhưng mà có thể ông ta làm rất nhiều chuyện, thì ông ta phải làm chúng sanh hết đã, rồi ông ta lên đầu thai lại thì mới được làm người hưởng cái phước thiện đó.
Trưởng lão: Được hưởng cái phước thiện đó. Cái nào là ở chỗ đó không có chuyển cái kia được. Nhân nào thì quả nấy, không có chuyển.
(1:11:45) Phật tử: Bạch Thầy, ngày hôm nay con gặp được chánh pháp chân chính thì sau cái đợt này làm sao để con gặp lại được cái chánh pháp chân chính này.
Trưởng lão: Gặp được chánh pháp chân chính để tiếp tục cái đời sau con sẽ gặp được. Thì cứ sau khi gặp chánh pháp rồi, thì cứ mỗi tháng như vậy đó ít ra con phải có mười hai giờ đồng hồ hay hoặc hai mươi bốn tiếng đồng hồ là Thọ Bát Quan Trai, cái nhân con đời sau sẽ gặp được chánh pháp nữa. Còn nếu con không Thọ Bát Quan Trai là con sẽ mất cái duyên đó.
Bởi vì Bát Quan Trai là nó chuẩn bị cho mình đi vào con đường giải thoát, mà mình không gieo cái duyên này thì mình gặp chánh pháp hôm nay chứ ngày mai mình sẽ mất. Không có gieo cái duyên đó thì nó không có còn cái duyên để gặp nữa, nó mất. Mà chỉ có Bát Quan Trai là nó sẽ còn cái duyên đó nó mãi mãi. Nó có thể nhiều đời mà vẫn không mất, là mình biết đời nào mình cũng giữ được cái Bát Quan Trai.
Nó đâu có bắt con phải là giữ suốt cả tháng đâu, chỉ một tháng chừng hai mươi bốn tiếng đồng hồ một ngày, một đêm thọ Bát Quan Trai, là con đã gieo cái duyên với chánh pháp của Phật không có mất.
Phật tử: Những lần con Thọ Bát Quan Trai là con có thể tự ở nhà thọ được không Thầy?
Trưởng lão: Được, con cứ tự ở nhà con thọ, rồi con giữ gìn Tám Giới nghiêm chỉnh trong ngày đó đừng vi phạm. Con ngủ nghỉ đừng trang điểm, đừng có trang điểm, ăn mặc đơn giản. Con sẽ, con sẽ nằm dưới đất, con sẽ giữ gìn rất là nghiêm chỉnh, như vậy là con sẽ thọ đúng, không có cần đến chùa.
Nghĩa là con giữ gìn tám giới nghiêm chỉnh đúng như vậy, rồi con thực hiện cái ngày đó, tâm con khởi niệm này, niệm kia con dùng các pháp ngăn ác, diệt ác đúng là Tứ Chánh Cần đó. Thì lúc bấy giờ con sẽ giữ gìn tám giới, và giữ gìn tu tập pháp Tứ Chánh Cần, hoặc là Định Niệm Hơi Thở trong cái hai mươi bốn tiếng đồng hồ đó. Mỗi tháng con chỉ đều đặn như vậy là con đã gieo duyên chánh pháp. Đời nay con chưa có thành tựu, bởi vì con tu như vậy nó đâu có thành tựu được, nhưng mà cái duyên nó còn, cho nên con bỏ thân này thì đời sau con có chánh pháp.
Phật tử: Con chỉ sợ rằng lại gặp tà pháp nữa.
Trưởng lão: Không có tà pháp gì nữa hết, bởi vì cái đó là cái chánh pháp của Phật mà.
Phật tử: Bởi vì con biết rằng nếu con có nhân duyên chánh pháp, mà lỡ đời con còn tà pháp thì nó mất đi hay không?
Trưởng lão: Nó không mất, nó không mất. Còn con gieo cái thọ Bát Quan Trai nó không bao giờ con gặp tà pháp, con lên là con gặp Bát Quan Trai.
Nhưng mà bây giờ con, con bây giờ thí dụ như gặp tà pháp đi nữa, mà con thấy nó không có đúng Bát Quan Trai thì con cũng bỏ, con cũng không có ưa thích. Tự cái tâm của mình nó không ưu thích, cái duyên của mình nó thấy cái đó nó ưu thích tức là nó, nó có cái duyên của nó. Cho nên con vào cái chùa đó mà con thấy Bát Quan Trai nó không đúng cách thì con cũng không muốn thọ, tại sai.
Phật tử: Bây giờ con gặp được chánh pháp ngày hôm nay, chứ mai mốt mà Thầy đã tịch đi rồi, rồi sau đó con còn, còn làm ăn được thì, con mà tu gặp trúng Đại thừa thì hỏng đi.
Trưởng lão: Ừ thì nó hỏng, bởi vì con không giữ Bát Quan Trai thì con sẽ gặp Đại thừa thôi, nó trật thôi. Con lên thì con sẽ gặp Đại thừa. Bởi vì cái tâm mình nó muốn tu chứ không phải là không muốn tu, cho nên cái duyên đó mình phải giữ, đừng có bỏ thọ Bát Quan Trai. Coi như là mình sẽ rơi vào cái tà pháp, thế nào cũng sẽ lọt vào tà pháp tới ngàn đời.
Phật tử: Mà ngàn đời thì như vậy cũng khó.
Trưởng lão: Phải khó chứ, ngàn đời nó cũng có cái giới luật của nó. Hễ mà tà pháp thì cái giới luật đâu có đi cùng, cũng như là cái đức hạnh gọi là Giới, Định, Tuệ đâu, phải không? Nó không có cái Giới, Định, Tuệ.
Bây giờ về cái giới nó cũng có, mà cái giới nó lỏng lẻo thì như vậy rõ ràng mình cũng đang phạm rồi chứ gì.
Phật tử: Như vậy là kiên quyết là con phải thọ Bát Quan Trai hai mươi bốn giờ mỗi tháng.
Trưởng lão: Thọ Bát Quan Trai đó là cái duyên mình gieo, mỗi tháng hai mươi bốn giờ một ngày một đêm. Thì con sẽ có cái duyên đó, con sẽ tu đúng chánh pháp của Phật.
Phật tử: Chắc chắn là con sẽ gặp được?
Trưởng lão: Con sẽ gặp hoàn toàn gặp được chánh pháp, đây là cái quyết định của Đức Phật đã dạy cho người cư sĩ để mà thọ Bát Quan Trai. Con thấy dạy cho người cư sĩ để không mất chánh pháp biết không? Người cư sĩ làm sao tu giải thoát được chứng quả A La Hán được liền. Người ta còn bao nhiêu kiếp mà người ta vẫn thọ Bát Quan Trai mà người ta vẫn còn chánh pháp. Cái chỗ mà Đức Phật gieo cho cái duyên đó để muôn đời nó vẫn còn, nó không lọt vào tà pháp.
(1:15:32) Phật tử: Tại vì ngày xưa con đã từng tu bên Đại thừa đó Thầy, con tu đến 5 năm bên Đại thừa. Như vậy thì cái nợ của con với đàn na cũng rất là nhiều rồi. Bây giờ con không biết cái này con giải quyết như thế nào. Con không có biết là mình đã bị tu sai như thế nào.
Trưởng lão: Trong cái vấn đề con thấy như trong thời Đức Phật vẫn bị tu sai đó, phải không? Nhưng mà khi mà trở về chánh pháp mình biết gieo cái nhân quả là không bao giờ cái tà pháp nó cũng không còn theo con nữa, nó mất.
Mà cái nợ, cái nợ đàn na thí chủ, cái nợ đàn na thí chủ chẳng qua trong cái đời trước con có cúng dường cho các vị tu sĩ Đại thừa, cho nên đời nay con lọt vào trong vòng của Đại thừa để con ngồi đó con ăn, con học hành chỉ do cái của đàn na thí chủ cúng dường, đây là một sự vay trả, có gì đâu mà con lo.
Cho nên bây giờ con gặp chánh pháp, là tức là cái hướng đi nó tốt rồi, con giữ gìn được cái nhân cái pháp đó để cho đời sau con không có mất nữa. Tức là con không lạc vào trong đó nữa, cho nên vì vậy mà chuyện con gặp chánh pháp rồi con đâu có cúng bậy bạ đâu, con đâu có cúng dường bậy nữa.
Phật tử: Như vậy là cái nợ năm năm này là thực ra là sự vay trả của con.
Trưởng lão: Của vay trả của con, con cũng không có gì hết. Bởi vì trước kia con cúng dường bây giờ con lọt vào tà pháp là tại vì con cúng dường, con mới vào cái này để mà trả cái nhân quả con cúng dường, bây giờ con ngồi con an lạc. Thì mấy ông Thầy, mấy ông Hòa thượng bên Đại thừa bây giờ cũng là do cái nhân quả cúng dường của người cư sĩ đời trước, mấy ông cũng là những người cư sĩ cúng dường thôi. Bây giờ mấy ông làm Thầy, mấy ông cũng chỉ loanh quanh ở trong cái chỗ này để ăn cái của mà mấy ông đã cho người ta vay thôi chứ gì.
Còn những người cư sĩ mà bây giờ người ta theo Đại thừa, người ta cúng dường rất nhiều là những người hồi trước đã ăn rất nhiều, cũng làm Hòa thượng chứ không phải. Mấy cái người cư sĩ cũng là Hoà thượng, ít nhiều ăn của người ta rất nhiều, bây giờ làm ra thì cứ đem vô trong trả. Bởi vì cái phước đó là phước hữu lậu, người ta tu tập đó là cái phước hữu lậu, cho nên người ta làm giàu được. Mà giàu thì phải đem cúng dường, cúng dường để trả.
Cũng như hồi đó mình làm Hòa thượng mình ăn, bây giờ mình làm nhà giàu để mình trả lại cái này. Thì mấy cái người mà nhà giàu cúng dường cho Đại thừa, đều là hoàn toàn là những vị Hòa thượng trong cái tiền kiếp. Bởi vì cái mắt nhân quả mấy con không có, cho nên mấy con không nhìn thấu suốt mấy con không thấy.
Phật tử: Như vậy còn cái trường hợp là, ở bên Đại thừa tu xong làm công chuyện để mà đền, để mà phải trả nợ người ta hả Thầy?
Trưởng lão: Thì đó, thì cách thức đó đó con. Bây giờ cứ làm cứ đem vô cúng dường hoài mà trả nợ, nhiều khi rất nghèo khổ mà vẫn đem đến để cúng bái này kia rồi cũng tha thiết, rất là tiết kiệm từng chút. Tức là làm con ngựa đó, mình làm đổ mồ hôi nước mắt mà đem vô cúng quý Thầy, mà quý Thầy xài phí một cách rất là, mồ hôi nước mắt của người ta mà không thấy tiếc gì hết.
Nhiều khi người ta dành dụm từng chút, gia đình người ta tiết kiệm từng chút để rồi mỗi tháng đem đi cúng dường. Rồi cuối cùng thì ở đó xài phí một cách rất là quá đáng trong mồ hôi nước mắt của gia đình người ta, cả gia đình của người ta. Cái này thực tế Thầy thấy cái gia đình của cư sĩ, họ phải dành tiền riêng của họ nhỏ để họ bỏ, để rồi tới cái tháng họ đem cúng dường để mà cầu cái phước họ. Nhưng mà ngày xưa họ đã ăn cái này, bây giờ họ đã phải trả một cách kham khổ như thế này sao, tại vì cái gì? Đó là làm thân trâu ngựa đó, nhân quả mà đâu có chạy khỏi đâu.
(1:18:32) Phật tử: Còn như con từ nhỏ con sinh ra con bị cái bệnh viêm xoang, con không biết là cái việc gì khi mà con bệnh này?
Trưởng lão: Thật sự ra thì cái bệnh thì bao giờ nó cũng do cái nhân quả ác của mình đã tạo ra cái đối tượng nó như thế nào đó. Chẳng hạn như Thầy đặt thành vấn đề, thì đây là không dám nói về chuyện quá khứ đâu, nhưng mà Thầy đặt vấn đề thí dụ như ngày xưa con là người mà cầm cái, con biết con trâu, con bò mà họ xỏ mũi chứ gì, con thường hay là cái người mà đi xỏ mũi bò, trâu cho người ta, để người ta cột cái vàm mà người ta cày nó chứ gì. Mà con là cái người dạn dĩ cầm cái cây tre vót nhọn, người ta không có cho cầm cây sắt, sợ cây sắt nó nhiễm độc lắm.
Thường thường ở trong nông thôn này có người chuyên làm cái chuyện đó. Thì người đó đó, họ nói là "cái nhân quả của họ là phải đau về cái phần lỗ mũi này chứ gì". Con có làm cái chuyện đó thì con phải chịu đau cái mũi, thì con phải chịu viêm xoang thôi. Mà sao nó không hết, có người thì ta hết, tức là người ta làm ít, phải không? Người ta đâm lỗ mũi trâu, bò ít, thì con đâm nhiều thì nó suốt đời phải chịu chứ sao. Thầy đã nói ghép ví dụ chứ Thầy không có nói con như vậy, Thầy đâu có dám nói cái chuyện nói láo như vậy được, cho nên Thầy đem cái ví dụ thôi. Đó là mình tạo cái nhân quả về cái lỗ mũi thì mình phải chịu cái bệnh lỗ mũi là viêm xoang lỗ mũi chứ sao.
Phật tử: Tức là trên thân thể con tạo nghiệp về cái phần gì thì con…..
Trưởng lão: Về phần gì thì con sẽ trả về cái phần nấy.
Ví dụ như con bẻ chân người ta, con bẻ chân ếch, con làm thịt ếch con bẻ nó, hoặc con bẻ giò gà, hay hoặc là con bẻ cánh gà đi, thì bây giờ con bị xe đụng gãy chân, gãy cẳng con thì cái chuyện đó cũng là cái nhân quả của con. Hồi đó con bẻ biết bao nhiêu con gà, bây giờ tới cái chân cái cẳng của con, hay cái tay con bị xe nó gãy thì con ngồi xe lăn con mới khổ đau. Cũng như là mình không ngờ mình làm cái chuyện ác đó, bây giờ mình trả mới chút xíu mình lại than thân trách phận gì.
Bao nhiêu giò ếch con bẻ, bao nhiêu giò gà con lận, thì bây giờ mà con còn trách cái gì, con làm bao nhiêu cái chuyện đó phải không? Cái nhân quả đó mà.
Phật tử: Tại vì con muốn biết nhân quả để mình, cái tâm mình nó thanh thản, mình đón nhận những việc mình làm đó.
Trưởng lão: Đó thì Thầy muốn nói trên cái nhân quả. Thầy đem ví dụ chứ không phải là Thầy nói đời trước con làm cái nghề đó, thí dụ như vậy. Nhưng mà Thầy đem ví dụ để cho mình biết rằng cái nhân nào thì phải cái quả nấy. Mình có bẻ giò của chúng sinh, thì bây giờ mình có gãy giò thì nó cũng là cái quả đó mà thôi. Rồi mình còn sẽ làm chúng sanh người ta bẻ giò mình nữa chứ đâu phải không, chứ không phải là chỉ có cái đời nay. Đời nay nó thực hiện cho mình thấy được cái quả hiện tại cho mình biết rằng, mình đang làm ác đó, con hiểu chưa.
Nó chứng minh cho cái sự cái nhân quả nó có tiếp diễn, nó có hiện tại và nó có quá khứ chứ nó không phải là ở trong hiện tại không, mà nó còn tiếp diễn theo cái tương lai của nó nữa. Nó kinh lắm mấy con, bởi vậy người ta thoát ra khỏi cái nhân quả, người ta mừng. Cho nên người ta được Phật Pháp là người ta lo người ta bỏ cuộc đời này, nỗ lực người ta tu, người ta không còn tiếc cái gì nữa, bởi vì nó ràng rịt, nó buộc chúng ta.
Bởi vì trong cái nhân quả thì nó sử dụng, cái nhân quả nó sử dụng thất tình lục dục của nó. Mình thương con mình là cái dục của nó rồi, thất tình lục dục mà. Nhưng mà mình nghĩ rằng con mình sinh ra mình thương chứ gì, nhưng mà nó nằm ở trên cái đó là tại vì nhân quả nó sử dụng những cái đó. Cho nên mình thấy mình thương con, nhưng mà nó là thất tình lục dục của cái nhân quả.
(1:21:48) Người ta đâu có biết nhân quả nó biết sử dụng, nó làm cho người ta mẹ rất thương con, con rất thương mẹ. Do đó, tưởng là nó hiếu nhưng sự thật ra nó là nợ đó, nó trả nợ qua cái tình cảm đó.
Những đứa con thương cha mẹ, cho nên nó không bao giờ nó để cha mẹ nó làm cái gì cực khổ. Cha mẹ cứ làm gì cực, nó vô nó làm hết, đứa con thật có hiếu, nhưng mà không ngờ đứa con này là nợ của ông bà. Cho nên nó làm hết cho ông bà này được sung sướng, nó trả cái nợ. Tự nó, nó thúc đẩy nó làm cái chuyện đó, nó làm ở trên cái thất tình lục dục đó, tình thương đó. Nó làm cho đứa con chịu lăn xả vô thương cha mẹ, không có để cha mẹ khổ sở, nhưng mà không ngờ đó là quy luật của nhân quả nó như vậy. Cho nên thấy đứa con mình sao có hiếu quá, nhưng mà sự thật nó đang trả nợ.
Còn bây giờ đứa con này nó chơi bời, nó không có làm phụ cha mẹ, cực khổ gì nó cũng thản nhiên hết, thì đây là do mình nợ đó, coi như là tôi tớ để làm cho nó. Thậm chí như cái giường ngủ, hay cái bàn sách vở học của nó, mình cũng phải sách nước cho nó, lau dọn cho nó. Nó chỉ đến đó nó học rồi cái nó đùa xuống, nó nằm nó ngủ, nó không có cần biết gì hết, mà mình sẽ lo lắng từng chút, thì người mẹ đó là tôi tớ cho nó, là nợ phải trả hết cho đứa con này. Nhiều khi nó còn ăn cắp tiền bạc, nó phá, nó làm cho mình tức tối nữa.
Các con thấy đó là quy luật nhân quả mà. Cho nên nếu mình không thấy thì mình buồn khổ, nói con tôi bất hiếu, rồi con tôi có hiếu, rồi này kia nọ, sự thật ra là nợ trả vay.
Phật tử: Tất cả mọi việc đều là nhân quả?
Trưởng lão: Nhân quả, cho nên chúng ta là những người, con người chúng ta là thừa tự của nhân quả, từ nhân quả mà ra, các con thấy ghê chưa.
(1:23:28) Phật tử: Bên đạo Phật người ta quan niệm cúng dường bông vậy là làm thân thể đẹp đẽ, việc đó có đúng không ạ?
Trưởng lão: Không đúng đâu, bông là một đứa con của cái cây, mà mình nỡ cắt cái bông, tức là mình nỡ bắt đứa con phải lìa, lìa mẹ nó mà đem cúng Phật. Thì liệu mà nói Đức Phật ổng nhìn thấy như vậy thì ổng có xót đau? có xót đau, không đẹp đâu mấy con, nó còn xấu. Thử hỏi mình cắt rồi thì cái bông đó nó lần lượt nó sẽ héo úa đi, nó làm cho cái bông đó phải chết đi một cách đau khổ, có không? Các con không thấy đó là cái bông, cái bông là đứa con của cái cây đó mà, chúng ta nỡ lòng nào. Cho nên Thầy nói thật sự đừng có làm cái điều như vậy.
Nhìn nó đẹp, thấy cái bông đó đẹp thì đứa con đó nó phải đẹp chứ, nó đẹp cho cái cây đó chứ. Mà mình nhìn mình thấy đẹp, rồi mình cắt nó mình chưng, mình đem cúng Phật, mà Phật chấp nhận cái điều đó đâu, đó là sai. Thế mà người ta đem đống đống, một cái lễ lớn người ta đem đống đống bông người ta chưng, thiệt ra mình biết nó sai, thiếu cái đạo đức.
Bởi vì cái cây đó nó có cái đời sống của nó, nó không có cái cảm giác đau như là cái loài động vật, nhưng nó có cái đời sống như cái loài động vật của chúng ta. Cho nên nó cũng có con, nó cũng có cái, nó cũng có này kia chứ, cho nên nó có quả đó, đó là con cái của nó mà. Cho nên vì vậy mà mình nỡ tâm mà cắt con của người ta mình đem mình chưng, mình cúng Phật để nó được phước. Trời ơi phước gì, muốn cho đẹp, muốn đẹp cái bông này hả, nó không đẹp mà có điều nó xấu.
Cho nên các nhà…., các nhà Đại thừa hầu hết tưởng tượng cái này mà họ không thấy làm cái điều tội ác….
Phật tử: Như vậy thì thường những cái người đẹp do thân thể là có phải là do họ ít sân hận, ít phẫn nộ, ít bất bình.
Trưởng lão: Đúng, bởi vì cái người mà sân cái gương mặt họ nó xấu lắm, nó dữ lắm, phải không? Cái người mà không sân thì cái kiếp này mà người ta giữ gìn cái tâm không sân, kiếp sau người ta rất đẹp. Còn cái sân đó thì không bao giờ đẹp, đúng là cái chỗ này, đúng là tâm lý con người. Cái người mà sân hận gương mặt không đẹp, chứ không phải là đem hoa cúng Phật, đem hoa cúng vậy là chắc là ai cũng cắt hoa cúng hết rồi ai cũng đẹp hết.
(1:25:39) Phật tử: Làm thế nào để, con biết Đạo Phật là đạo tự lực, nhưng mà cái nỗ lực công việc đó con muốn có thêm một cái, ví dụ như ngoài cái tự lực của bản thân, thì mình cũng cần cái gì thêm để mình thành tựu một cái tâm niệm nào đó không ạ.
Trưởng lão: Mình phải cần thêm, thứ nhất là cái lực của mình nó chưa có đủ cho nên mình cần phải rèn luyện thêm cái nghị lực của mình. Thì nó có những cái phương pháp để mà rèn luyện cho mình, cho nên khi mình gặp khó khăn mình đều có cái nghị lực, cho nên mình vượt qua được những cái khó khăn. Còn mình thiếu nghị lực là mình thối lui rồi, con hiểu không?
Cho nên đạo Phật mới nói tự lực là nó phải rèn luyện cho người đó phải có cái lực, tức là có cái nghị lực, trước tiên là phải rèn luyện cái nghị lực. Cho nên vì vậy đó mà người ta có những cái phương pháp để dạy cho cái người đó rèn luyện cái nghị lực của mình. Cho nên khi mà có nghị lực rồi, thì mình gặp khó khăn mình vượt qua được hết. Mình làm ăn trong công việc gì mà gặp những thất bại đều là mình có thể mình vượt qua được hết, còn không khéo thì coi như mình rút lui thôi. Đạo Phật nói đạo tự lực mà, cho nên nó dạy cho mình có nghị lực để mà mình tự lực mới nổi, chứ nếu mà không có cái nghị lực thì không có tự lực nổi đâu.
(1:26:47) Phật tử: Như vậy thì từ lúc con biết được chánh pháp chân chính thì con sẽ ăn chay. Nhưng mà ngày xưa đến giờ con ăn mặn thì cái nghiệp này về sau con có giảm?
Trưởng lão: Con sẽ ăn chay là từ đây về sau nó sẽ hoá giải, nó sẽ hoá giải, tại vì mình không ăn thịt chúng sanh nữa. Rồi từ đây những cái quả mà mình ăn trước đó, không có nghĩa là mình trốn đâu. Nó có sẵn ở những cái này để khi những cái đau bệnh, hay hoặc những cái tai nạn gì xảy ra cho mình, chấp nhận trong vui vẻ. Tôi biết là tại vì tôi có thời gian ăn thịt bây giờ tôi mới khổ, tôi chấp nhận.
Phật tử: Mình phải chấp nhận?
Trưởng lão: Mình chấp nhận, mình chấp nhận vì vậy mà mình chuyển. Tại vì mình chấp nhận mình không có đau khổ, mình chấp nhận mà mình thấy bây giờ nói đang có cái tai nạn xảy ra mình vui vẻ. Khi mà cái tâm mình vui vẻ là cái nhân quả nó không tác động được mình rồi, tức là mình không còn quả nữa. Còn mình buồn rầu, mình sợ hãi tức là mình bị quả, còn mình không buồn rầu, không sợ hãi tức là cái nhân quả đó mình chuyển, nó sẽ hết.
Còn từ đây về sau, về tương lai thì mình không có làm những cái lỗi này nữa, thì mình hoàn toàn nó sẽ có cái…, nó hết.
Phật tử: Với lại những cái nghiệp từ xưa đến giờ mà mình cắt cổ vậy nó có sám hối, nó có giảm đi phần nào không?
Trưởng lão: Có nghĩa là mình sám hối là mình ngăn chặn nó, khi mình sám hối rồi thì từ đây về tương lai mình không làm những cái lỗi đó nữa là gọi là sám hối. Còn những cái quả mà, những cái hành động nhân mà mình đã tạo, mình tạo ra rồi thì cái quả này mình luôn luôn mình chuyển nó bằng cái tâm của mình. Khi nó đến, bây giờ sự đau khổ mình an vui, mình không sợ. Nghĩa là mình bất động tâm rồi, mình không sợ nó tức là mình chuyển được nhân quả đó.
Mặc dù là, bởi vì Thầy nói, mình cũng sống cũng như bây giờ nó có hai đời sống: Một cái người không đạo, một cái người có đạo. Cái người không đạo người ta cũng khổ như vậy, mà cái người có đạo cũng khổ như vậy. Nhưng người có đạo, cái tâm người ta biết chuyển cho nên cái tâm người ta không khổ. Còn người không đạo thì gặp cái khổ họ khổ trên tà pháp, con hiểu chỗ này không?
Cho nên vì vậy mà người ngoài hai người này, người có đạo và người không đạo. Cái người không đạo thì cũng khổ, mà người có đạo cũng khổ, Tại sao hai người lại? Thay vì cái người có đạo thì hoàn toàn không khổ chứ, mà tại sao lại khổ? Tại vì mình mang cái thân nhân quả như người kia, người không đạo cũng mang cái thân nhân quả. Cho nên cái khổ của mình có nhưng mà cái tâm mình không khổ, còn cái người kia thì phải khổ hoàn toàn, nó khác hơn cái chỗ này thôi.
Cho nên con có tạo thì cái nhân quả con mới có cái thân này để mà trả nhân quả, vì vậy bảo nó đừng có trả nhân quả này sao được, nó phải đến với mình. Nhưng mà đến với mình mà nó tác động cái tâm mình không được, cho nên mình thấy an vui, con hiểu cái đó gọi là chuyển nhân quả, phải không? Con thấy rõ không. Còn bây giờ mình buồn khổ là mình bị nhân quả chuyển mình, cho nên mình mới buồn khổ mình mới trả cái quả. Còn mình không buồn khổ thì cái quả nó tác động cái tâm mình không được, thì tức là mình chuyển nó rồi, mình không khổ. Con hiểu vậy là tức là con thấy đạo Phật hay lắm, tuyệt vời, sống mà không khổ…..
(1:29:33) Phật tử: Còn những người mà họ sinh ra mà họ làm vua quan giàu có thì họ bình thường họ làm như thế nào?
Trưởng lão: Thường thường là họ đem những cái thiện pháp, cái bố thí của họ.
Ví dụ như giờ họ có tiền bạc họ đem họ giúp đỡ người này, họ bỏ cho người kia. Sau này thì họ, ít ra họ không làm vua thì họ cũng làm ông quan có nhiều lính theo hầu hạ, phải không? Còn họ đem của cải nhiều, họ có được phước báu, họ đem nhiều cho nhiều người, sau này họ làm vua một nước thôi, họ sanh vào một cái gia đình vua chúa, họ trở thành những hoàng tử, từ đó họ lên là họ làm vua, phải không? Cái đó là do cái nhân quả bố thí của người đó nhiều. Cho nên những người mà hưởng, thọ hưởng cái của họ đó, những người đó trở thành lính, dân của họ hết.
Cho nên đừng có nghĩ rằng mình đem của cải mình cho họ đó, để mà mình an ủi họ. Sự thật ra mình muốn gieo một cái duyên mình làm quan, làm vua đó chứ không phải là thường mấy cái người mà nổi tiếng. Còn mình tại vì mình không có tiền, mình không muốn làm vua cho nên. Mình muốn làm vua mà tại mình không có tiền cho nên mình không có bố thí được. Cho nên ai cũng muốn làm vua thì nên đem vét hết tài sản mình ra bố thí đi, càng nhiều người bao nhiêu thì mình sẽ có lính nhiều, dân nhiều chứ gì. ( Thầy cười )
Phật tử: Nhưng mà làm vua mà có chánh pháp thì đỡ, còn ác thì…
Trưởng lão: Thì lẽ đương nhiên, là trong khi mình làm những cái điều ác mà mình tích lũy của cải mình đem bố thí, cái chuyện bố thí này thôi cái ông vua này đi lên làm vua là rất ác. Kiếp trước ông làm ác, ổng có tiền mà ổng bố thí, cho nên những cái người mà thọ hưởng cái của ác này thì sẽ là những cái người dân của cái nước đó. Những người dân nước đó đều khổ vì ông vua này. Bởi vậy thế cho nên có ông vua anh minh mà cũng có những ông vua ác chứ đâu phải là ông vua nào cũng là anh minh hết, con hiểu chưa?
Đó là nhân quả mà, Thầy nói các con sẽ thấy cái nhân quả răm rắp, nhân nào quả nấy. Bởi vậy Thầy mới dám viết Đạo Đức Nhân Quả, chứ còn không Thầy đâu dám viết đạo đức nhân quả mấy con, phải thấy mới được nhân quả.
(1:31:23) Phật tử: Có những người nằm mộng rất nhiều, có những người hầu như không nằm mộng. Hai người khác nhau gọi là cái tưởng lực hay là cái gì?
Trưởng lão: Đúng rồi cái tưởng của chúng ta, chúng ta có năm cái uẩn
Sắc uẩn
Thọ uẩn
Tưởng uẩn
Hành uẩn
Thức uẩn
Có năm cái uẩn, vì vậy thì cái người mà hay, hay nằm mộng là cái người tưởng uẩn hoạt động nhiều, ý thức nó ít, người này sống trong tưởng nhiều. Và cái người mà tu tập về cái tưởng, tu tập rèn luyện về cái pháp tưởng thì cái người này thực hiện về cái năng lực của tưởng, cho nên có những cái năng lực rất là siêu việt gọi là thần thông, biết chuyện quá khứ vị lai đó là cái năng lực của tưởng.
Phật tử: Như vậy là những người trí tuệ.
Trưởng lão: Hoàn toàn là những cái tưởng tuệ chứ không phải là trí tuệ đâu, không phải có trí đâu. Những người này đều là nuôi, thực hiện những cái đó đều nuôi cái tâm tham vọng của mình, danh với lợi chứ không có gì. Tạo ra những cái này đều là tạo cái danh cho người ta biết mình trên cái danh. Cho nên những cái người này còn tham vọng, mà tham vọng thì có nghĩa là khác.
Phật tử: Như vậy thì những con người nào mà ít nằm mộng, nằm mơ, là những người này cái tiêu chí của họ là tốt hơn là cái người có cái tưởng.
Trưởng lão: Tốt hơn là cái người có cái tưởng đó thôi. Cho nên cái người nằm mộng nhiều là cái người nguy hiểm lắm.
(1:32:45)
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [50:20]
Tên cũ: Tam Quy Ngũ Giới 3
https://thuvienchonnhu.net/audios/tam-quy-ngu-gioi-03-mo-lop-day-oai-nghi-te-hanh.mp3
(0:00) Trưởng lão: Bởi vì trước khi mà quy y theo Phật, Pháp, Tăng thì mình phải hiểu nghĩa cho nó rõ. Đạo Phật làm một cái gì mù mờ là ông Phật không có chấp nhận. Cho nên thậm chí như mình muốn đến với đạo Phật, tức là quy y Tam Bảo, đều cũng phải hiểu trước. Khi hiểu rồi mới có theo, còn không hiểu thì nhất định không theo. Chữ “Quy Y” ở đây có nghĩa là nương tựa, chữ “Quy” là trở về, “Y” là nương tựa, trở về nương tựa. Tại sao mình phải trở về nương tựa ba ngôi Tam Bảo? Là tại vì đời mình khổ quá, nước mắt mình nó chảy nhiều rồi, nhiều như nước biển. Một con người chúng ta không phải trong một đời này, mà nó nhiều đời. Mà nhiều đời chúng ta quá nhiều khổ nên đức Phật mới ví dụ cho chúng ta thấy nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước biển. Đó là nói cái nỗi khổ của con người.
Cho nên chúng ta muốn thoát khổ là chỉ có quy y Tam Bảo mới thoát khổ mà thôi. Tức là trở về nương tựa dưới ba ngôi Tam Bảo mới hết khổ, còn không có chỗ nào mà có thể cho chúng ta thoát khổ. Không ai cứu chúng ta bằng chính bản thân của chúng ta cứu chúng ta. Cho nên trở về nương tựa dưới Phật là phải hiểu Phật. Ông Phật nào? Chúng ta nghe nói nhiều ông Phật lắm nhưng biết ông Phật nào mà chúng ta nương tựa? Cũng như con người mình biết thì nhiều người lắm, mà biết cái người nào mà mình nương tựa cho đúng? Mà cái người mình nương tựa không đúng mình sẽ khổ đau. Cho nên mình phải tìm, mình tìm ông Phật nào mà nương tựa cho đúng.
(2:05) Cái ông Phật mà nương tựa đúng chỉ có ông Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người trên hành tinh này. Họ có cha mẹ sinh ra, họ không phải là một đấng Thánh, một vị Bồ Tát ở nơi đâu như người ta huyền thoại. Sự thật ra, ông cũng vẫn là một con người bình thường, có vợ có con thì phải bình thường rồi. Nếu là một bậc Thánh làm sao mà có vợ con được. Cho nên ông không phải là một bậc Thánh đâu, ông có vợ có con. Ông còn dâm dục mà, ông mới có con được, cho nên đó chưa phải Thánh.
Nhưng mà từ con người này, họ đã từng có sự tư duy suy nghĩ, họ mới thấy được cái khổ. Trong lịch sử diễn tả, khi mà nhận ra được cái khổ thì Ngài là thái tử, cho nên Ngài lồng ở trong cái khung cảnh không có khổ. Ngài sống đầy đủ quá không có khổ. Nhưng khi đi ra cửa thành, Ngài mới thấy cái khổ của người khác, rồi Ngài suy ngẫm cái khổ của người khác là cái khổ của chính mình.
Ngài đi ra cái cửa thành đầu tiên thì Ngài thấy một người già đi lụm cụm, run rẩy, yếu đuối. Ngài nghĩ rằng một ngày nào đó Ngài cũng sẽ già như vậy thì Ngài cũng sẽ yếu đuối, run rẩy. Do đó, cái khổ của người già.
Ngài đi ra cửa thành thứ hai thì Ngài lại thấy có một người bệnh. Ngài thấy người đó rên la, đau nhức, khổ sở. Ngài nói bệnh là khổ, mà thân của Ngài, Ngài cũng thấy nó sẽ bệnh, chứ không thể nào. Mỗi con người ai cũng phải có bệnh.
Ngài đi ra cửa thành thứ ba thì Ngài thấy có một người chết, rồi bao nhiêu người khóc thương. Mà trước cái chết là khổ, khổ rồi lại chết. Cho nên Ngài thấy chết là khổ. Khổ cho bản thân mình và khổ cho những người còn sống. Bao nhiêu người có người thân chết, họ khóc thương, họ muốn cho người đó sống mà sống không được, đó là cái nỗi khổ. Nhất là những người còn sống mà có người chết là những người rất đau khổ. Cho nên đó là cái khổ.
Vì vậy mà Ngài đi ra cửa thành thứ tư thì Ngài nhìn thấy có một vị tu sĩ. Vị tu sĩ Bà-La-Môn ôm bình bát đi xin ăn. Ngài thấy như vậy là cái đời sống của người này không khổ, còn cái đời sống của mọi người thì khổ. Cái đời sống khổ, có vợ có con phải lo lắng. Như Ngài bây giờ có vợ có con rồi, phải lo lắng: Làm sao mà dạy con mình cho nên người Làm sao cho vợ chồng phải sống hòa hợp, đừng rầy rà? Mỗi mỗi chút đều xảy ra nhiều cái khổ trong cuộc sống cho nên Ngài thấy khổ. Ngài thấy đời sống của cuộc đời, của người thế gian là khổ.
(4:58) Chỉ có cái người tu hành kia, không còn lo đói lo no, không còn phải làm lụng, không có vợ có con thì cái người này mới là giải thoát. Ngài nghĩ như vậy cho nên Ngài thấy chỉ có người đi tu mới giải thoát mà thôi. Do đó khi mà đi ra bốn cái cửa thành, thấy bốn cái nỗi khổ như vậy thì Ngài ấp ủ trong lòng của mình, Ngài quyết định có một ngày Ngài sẽ đi tu.
Và cuối cùng khi sinh đứa con đầu tiên ra, Ngài thấy: “Ôi! nó khổ quá rồi! Nếu mà không đi tu thì lại càng khổ hơn”. Sinh năm ba đứa con thì mỗi đứa đều có bốn cái khổ đó hết. Ngài thấy mình khổ, con mình khổ, vợ mình khổ, cha mình khổ, mẹ mình khổ, tất cả những người đều khổ. Và bây giờ sinh ra năm mười đứa con đều khổ hết, y như nhau.
Cho nên Ngài thấy quá khổ. Vì vậy mà khi sinh đứa con, Ngài lại âm thầm trong đêm hôm đó, Ngài nhìn con nhìn vợ mình lần cuối cùng và ra đi quyết tìm đường giải thoát. Giải thoát cho mình, giải thoát cho cha mẹ, giải thoát cho vợ con.
Như các con đọc cuốn Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống tập một các con thấy, khi mà đức Phật tu chứng đạo, về độ cho vợ mình và con mình không? Đứa con được theo Phật lúc mười tuổi và bà vợ cũng được theo Phật tu tập chứng quả A-La-Hán. Cho nên bà tịch trước đức Phật một năm và đứa con tịch trước đức Phật hơn một năm.
Cho nên cả gia đình của đức Phật đều chứng quả A-La-Hán, tức là vô lậu, không còn khổ đau nữa, tự tại trong sinh tử. Chúng ta thấy cả một gia đình rất đẹp đẽ. Và vì vậy cái người mà thành Phật như đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã độ được vợ con, cha mẹ mình thoát khổ và giải thoát bản thân mình. Cho nên bây giờ mình là những người nương theo đạo Phật là nương theo với đức Phật Thích Ca. Người đã là cái gương sáng, Người đã đổi lấy những giáo pháp để lại cho chúng ta bằng sinh mạng của mình.
Chúng ta nghe đức Phật tu khổ hạnh, chúng ta thấy đau đớn vô cùng. Ngài hy sinh, không còn sự giàu sang, nhà cửa, vợ con, chúng ta không nói. Nhưng mà đến hy sinh sinh mạng của Ngài, thật sáu năm khổ hạnh, chúng ta không ai mà có thể khổ hạnh như Ngài. Ngài tha thiết làm sao tìm cho được con đường giải thoát, rồi Ngài được giải thoát, giải thoát cho vợ con, cho cha mẹ của mình, rồi để lại cho chúng ta được giải thoát.
Đến hôm nay Thầy nhắc lại đức Phật Thích Ca thì Thầy cũng còn nhớ ơn mãi mãi. Nếu không có Người để lại giáo pháp thì ngày hôm nay Thầy không có được giải thoát như thế này. Rồi bây giờ mấy con nương vào Thầy, mấy con được học, tu hàng ngày. Các con chiến đấu với tâm tham, sân, si của mình để làm cho nó hoàn toàn thanh tịnh, trong sạch, không còn tham, sân, si. Tâm không tham, sân, si làm sao mấy con còn tái sinh luân hồi. Tâm không còn tham, sân, si thì làm sao tương ưng với chúng sinh mà sinh làm con người nữa. Do đó đức Phật dạy chúng ta đúng quá: “Nếu chúng ta hết tham, sân, si thì chúng ta chấm dứt tái sinh luân hồi, chấm dứt tái sinh luân hồi tức là chấm dứt sự đau khổ”
Cho nên quy y Phật là chúng ta phải hiểu được đức hạnh của Phật. Chúng ta phải hiểu được cái người nào, cái ông Phật nào mà chúng ta theo nương tựa? Đó là đức Phật Thích Ca. Vậy thì các con sẽ hướng đến đức Phật Thích Ca mà xin theo Người mãi mãi, không bao giờ dứt. Vì Người là một ân nhân của con người trên hành tinh này, Người để lại giáo pháp làm chúng ta thoát khổ.
(8:42) Bây giờ chúng ta quy y Pháp: Pháp là gì? Là những kinh nghiệm mà đức Phật đã tu tập, đã làm chủ được sự đau khổ của bản thân mình, giúp cho vợ con, cha mẹ mình thoát khổ và mọi người trong thời đức Phật, một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ kheo đều thoát khổ.
Bây giờ chúng ta là người sau cùng, cách đây hai ngàn mấy trăm năm, đến giờ phút này chúng ta cũng còn nương vào giáo pháp của Ngài. Chúng ta còn biết ơn Ngài, cho nên chúng ta cũng cố gắng nỗ lực để thoát ra khỏi sự đau khổ này. Những lời Ngài dạy là những pháp ngăn ác diệt ác, sinh thiện tăng trưởng thiện, sống không làm khổ mình, khổ người, thấy lỗi mình, không thấy lỗi người. Đó là những lời dạy rất là giải thoát. Nếu ai sống đúng những lời dạy này thì người đó sẽ giải thoát.
Ngăn ác, tâm chúng ta có sân thì chúng ta biết có sân, ngay đó chúng ta biết đó là ác pháp. Ngăn và diệt liền thì tâm chúng ta được giải thoát. Tại sao chúng ta lại không ngăn diệt những ác pháp để tâm chúng ta lại đau khổ như vậy? Có phải chúng ta là vô minh không, có phải chúng ta điên đảo không? Cho nên chúng ta cố gắng khắc phục, không để tâm tham, sân, si len lỏi vào tâm chúng ta, luôn luôn lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Các con nhớ phải giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
(10:07) Quy y Tăng là chọn một vị Thầy đang sống bằng xương bằng thịt như các con. Là một vị Tăng phải giới luật nghiêm chỉnh còn những vị Tăng chọn làm thầy mà giới luật không nghiêm chỉnh thì mấy con lấy gương gì mà mấy con tu. Nếu một vị Thầy phạm giới, phá giới, gương hạnh không có thì mấy con làm đệ tử họ thì mấy con phải sống y như họ, làm sao sống khác được. Cho nên mấy con phải chọn một vị Tăng để nương tựa, để lấy gương hạnh của một vị Tăng đó mà làm sự sống cho mình.
Và khi mình không hiểu thì nhờ cái vị Tăng đó, họ giới luật nghiêm chỉnh, họ chứng đạt được chân lý giải thoát, tâm họ vô lậu hoàn toàn. Họ có nhiều kinh nghiệm để hướng dẫn, dạy mình thì nên chọn một vị đó mà quy y. Gọi là nương tựa vào vị đó thì tâm chúng ta sẽ được giải thoát.
Đó là quy y Tam Bảo, khi mà chọn đúng thì chúng ta quy y Tam Bảo. Vậy hiện giờ con đã nghe được Phật, Pháp, Tăng. Con hãy chắp tay lên hướng về tượng Phật, xin quy y theo Phật, Pháp, Tăng, đời đời kiếp kiếp chấm dứt tái sinh luân hồi không còn để sự đau khổ ràng buộc trong thân tâm con nữa. Sau khi thầm nguyện quy y Phật, Pháp, Tăng xong, con xá Phật và đảnh lễ Phật một lạy.
(11:46) Xong rồi, bây giờ các con tiếp tục nghe Thầy giảng năm đức hạnh làm người.
Các con đừng tưởng rằng khi một con người chúng ta chết là chúng ta sẽ sinh làm một con người. Không đâu mấy con, hàng ngày hàng năm hàng tháng, suốt một cuộc đời của mấy con, từ khi cha mẹ sinh ra đến khi mấy con chết, mấy con biết bao nhiêu lần làm ác không, mấy con biết bao nhiêu lần làm thiện không? Nghĩa là trong một con người của mấy con, có lúc thì giữ gìn được năm giới trọn vẹn, nhưng có lúc mấy con sẽ bị phạm giới không trọn vẹn. Mà tiêu chuẩn làm người là năm giới trọn vẹn. Theo luật tương ưng, thì khi thời gian mấy con sống mà không phạm giới, năm giới được trọn vẹn, thì cái nhân đó, thì cái quả là phải tiếp tục sinh làm người. Nhưng những lúc mấy con phạm giới: Ăn thịt chúng sinh, giết hại chúng sinh, nói láo, vọng ngữ, tà dâm, uống rượu. Những cái đó làm sao mấy con tránh khỏi. Khi mấy con đã làm, mấy con đã làm từ ý của mấy con, mấy con đã làm từ miệng của mấy con, mấy con đã làm bằng hành động thân của mấy con. Đó là nghiệp, cái hành động của mấy con làm.
Do đó mấy con đã tạo ra cái nghiệp, nó trở thành cái thói quen của mấy con, từ đó cái từ trường phóng ra, nó đâu mất mấy con. Mấy con ăn bao nhiêu loài vật, bao nhiêu con cá, bao nhiêu con tôm, bao nhiêu thịt heo, bao nhiêu thịt bò, bao nhiêu thịt gà, thịt vịt, vẫn còn mãi nghiệp đó vẫn còn mãi, không bao giờ mất. Và vì vậy khi các con tắt hơi thở, thân này tắt hơi thở, thân này không có cái gì tồn tại. Tâm mấy con cũng không có cái gì tồn tại, tất cả đều không tồn tại, chỉ còn có hành động thiện ác đó mà còn, mà gọi là nghiệp. Cho nên nghiệp đi tái sinh luân hồi.
(13:59) Nghiệp đi tái sinh luân hồi, nó đâu phải sinh một người. Thí dụ như con sống thiện, con sống đúng năm giới tức là tiêu chuẩn làm người, một lần, hai lần, ba lần, bốn lần. Bởi vì trong người con có lúc thì thiện có lúc không thiện mà, chứ đâu phải là thiện mãi mãi đâu. Cho nên có lúc là con sống đúng giới, nhưng có lúc thì không sống đúng giới. Cho nên từng tâm niệm, khi thấy miếng thịt thèm, thì mấy con đã niệm ác rồi, ý của mấy con mà. Bởi vì đường đi của nhân quả là do ý, do khẩu, do hành động thân.
Cho nên do như vậy mấy con thấy rất rõ ràng. Khi khởi thèm thịt, là tội ác liền tức khắc, tức là từ trường phóng ra. Để làm gì? Khi thân con hoại diệt, tâm con hoại diệt, nó không có linh hồn đi tái sinh. Nếu có linh hồn tái sinh thì có một con người, một con vật mà thôi. Còn này nghiệp mà, cho nên khi mà tắt thở thì từng cái nghiệp ác của mấy con, từng cái ý ác của mấy con, từng cái hành động ác của mấy con, từng cái lời nói ác của mấy con, nó tiếp tục sinh làm loài chúng sinh. Các con ăn bao nhiêu thịt cá, bao nhiêu tôm cá, bao nhiêu heo bò, bao nhiêu gà vịt, thì cái nghiệp sẽ sinh ra, bởi vì nhân quả phải trả mà. Nhân mà ăn thịt thì quả phải trả, để mấy con làm, cái nghiệp của mấy con, nó trở thành những cái loài vật đó để người ta ăn thịt lại. Mấy con trốn đâu khỏi.
(15:30) Cho nên ghê gớm lắm, trùng trùng duyên khởi, trùng trùng sinh diệt, nó do duyên hợp trùng trùng mà. Cho nên một người làm nó sinh ra biết bao nhiêu người. Mấy con có biết không? Một người làm mà bao nhiêu loài vật khổ, một người làm mà biết bao nhiêu người khổ, nó tương ưng nhiều người, nó giống nhau thì nó sinh. Ví dụ như bây giờ Thầy chết, mà Thầy làm điều ác, nó tương ưng với những người ác, những người tham, sân, si như vậy, thì ở Việt Nam nó sinh ba người, ở bên Pháp nó sinh năm người, ở bên Mỹ nó sinh ra mười người, nó tương ưng, nó giống nhau. Một mình Thầy mà sinh ra năm mười người, hai ba trăm người, rồi đồng thời nó sinh ra cá, tôm, gà, vịt, heo, dê, chứ đâu phải có một người Thầy chết có một người đâu. Mà mỗi người là phải có cái khổ mấy con, có phải không? Một mình Thầy bây giờ Thầy có một cái khổ, Thầy có sân một cái thôi. Nhưng mà năm người, mười người thì có năm sáu bảy cái sân. Mà giờ Thầy ăn thịt chúng sinh, ăn bao nhiêu loài vật thì cái nghiệp của Thầy cũng phải sinh ra bao nhiêu con vật. Thì bao nhiêu con vật cũng đều bị người ta cắt cổ nhổ lông, nó cũng đau, nó cũng rên, nó la, nó giãy giụa, chứ làm sao trật. Các con thấy chưa?
(16:33) Cho nên chúng ta biết rõ ràng năm cái đức của chúng ta, Đức Hiếu Sinh tức là không sát hại chúng sinh, không ăn thịt chúng sinh, thì làm sao có cái chuyện chúng ta đi sanh làm chúng sinh. Còn mình giết hại, mình ăn thịt thì mình phải làm chúng sinh chứ sao. Tại nghiệp máu, mình ăn người ta thì bây giờ mình phải làm con vật để người khác ăn lại chứ. Chứ sao mình trốn đi đâu khỏi. Luật nhân quả nó có tha cho chúng ta đâu. Chúng ta đâu có đem tiền lo lót nó được không? Không! Cho nên vì vậy mà ăn bao nhiêu cá, bao nhiêu tôm là phải nghiệp nó sanh ra trùng trùng chứ đâu phải là sanh ra có một con. Các con cứ nghĩ rằng tôi chết rồi tôi sanh ra con cá, rồi tôi chết, tôi sanh ra con cá nữa. Con cá này chúng ăn thịt, rồi tôi sanh, tôi cứ sanh hoài như vậy.
Biết vô lượng kiếp nào mà nó hết. Một kiếp của mấy con đây nó sanh ra hàng vạn con mà mấy con còn chưa trả được cái nghiệp. Các con biết một gắp của con bỏ trong miệng mất biết bao nhiêu con cá con không, phải không? Mấy con thấy cái ăn của mấy con, mấy con giết hại biết bao nhiêu cái sự đau khổ của chúng sinh không? Mấy con không biết, nhưng mà cái nhân quả mấy con biết không? Mấy con biết cái miệng của các con ngon thôi chứ các con chưa biết mấy con sẽ trả nghiệp. Đó là quy luật của nhân quả, nó không có tha mấy con đâu.
(17:43) Cho nên nếu mà mấy con tu thì mấy con chuyển nó, mấy con không còn tái sinh luân hồi. Bởi vì mấy con hết tham sân si, mấy con thanh thản, an lạc trước những cái nghiệp nó tác động, nó làm cho con dao động tâm mà các con không sợ.
Do các con không dao động tâm thì các con đã chuyển hết từ vô lượng kiếp làm ác, cho nên các con không còn sinh một cái loài vật nào nữa hết. Còn tâm mấy con dao động một cái là mấy con sinh đủ loài vật. Nghĩa là còn sợ hãi, còn dao động, còn lo lắng, còn chấp ngã mình, sợ mình chết, sợ mình đau nhức, sợ mình đủ loại, thì ngay đó, mấy con tắt hơi thở là mấy con sinh đủ loại, một mình mình.
Nhân quả là như vậy. Một đời chúng ta làm biết bao nhiêu sự khổ cho chúng sinh không? Vì cái sự sống của chúng ta. Cho nên thậm chí như cây cỏ vẫn có sự sống, rồi cây cỏ vẫn có cảm nhận, mà có cảm nhận thì có sự đau khổ. Nhưng vì sự tu tập của chúng ta, vì sự sống mà chúng ta buộc lòng ăn các loài thảo mộc, thực phẩm thực vật, chứ chúng ta đâu có ăn động vật. Động vật gì nó cũng rên la, nó kêu khóc. Còn thực vật, mấy con thấy ngắt cây rau nó có la không? Nhưng mà nó có sự sống của nó chứ, các con nhổ gốc lên thì nó chết chứ đâu phải nó sống được, các con thấy. Cho nên chúng ta ăn đây là để sống, sống để tìm con đường ra khỏi cái môi trường sống, môi trường nhân quả này, nó luôn luôn chi phối chúng ta trong cái vòng thảo khổ này.
(19:05) Các con thấy chưa? Cho nên ở đây, thứ nhất là mấy con phải cố gắng, khi hiểu được Phật pháp thì cố gắng ăn thực phẩm thực vật, hoàn toàn khởi lòng thương yêu sự sống của muôn loài. Ăn rất tiết kiệm, một cọng rau ăn không được ném bỏ, một ly nước uống không được tạt bỏ, phải uống cho hết. Bởi vì đó là sự sống của chúng ta, đừng phí bỏ sự sống! Cho nên trong cái sự sống nó rất quý mấy con. Vì mình sống để tu, tu để ra khỏi cái sự sống này. Sự sống này là nó có, nếu chúng ta sống thì phải có sự chết, thân chúng ta sống thì phải có sự chết, không cỏ cây chết thì phải có loài động vật chết. Cho nên con người sống rất là ác. Bởi vì cái môi trường nhân quả mà, đã nhân thì quả mà. Cho nên do đó mà chúng ta hiểu được, chúng ta phải mau mau, phải nỗ lực tu tập.
Cho nên đức thứ nhất là con phải cố gắng không sát sanh. Tức là không ăn thịt chúng sanh, ăn chay, sống với những thực phẩm thực vật. Ăn uống tiết kiệm, không được ném bỏ, vì đó là cái sự sống. Cũng như bây giờ con ăn một nắm rau, mà con ăn không hết, con đem con ném bỏ là con phí sự sống của con đó. Cũng như một bát gạo, một bát cơm, con ăn không hết, con đem con đổ là con phí sự sống.
Cho nên chúng ta lượng sức của mình ăn bao nhiêu mình lấy đủ mà thôi. Còn cái nào mình không ăn thì mình để nguyên, để trả lại cho người khác ăn, để cúng dường cho, để đem bố thí cho tất cả chúng sinh. Đừng có nên ăn rồi mà bố thí. Các con ăn rồi các con thừa, rồi các con đem đổ cho loài chúng sinh. Loài chúng sinh đó là những con vật, con kiến, con trùng, là cha mẹ mình, nó đã tái sinh qua cái nghiệp của cha mẹ mình. Làm sao mấy con biết con kiến đó là cha là mẹ mình? Vậy mà các con ăn thừa rồi các con đem đổ, gọi là bố thí cho nó sao.
Cho nên trên mâm cơm của các con, có những món ăn nào mà các con thấy các con ăn, còn những món ăn nào không ăn thì đừng có nắm cái đũa mà thọc ở trong đó, để một lúc nữa người khác người ta ăn cũng là không ăn thừa mình. Và đồng thời, khi mình bỏ cái món ăn đó cho loài chúng sanh vẫn là không ăn thừa. Chúng ta kính trọng tất cả những loài chúng sanh xung quanh chúng ta, bởi vì chính chúng ta cũng sinh ra làm loài kiến, trùng, côn trùng, cũng làm loài vật, gà, dê, heo, tất cả, vì cái nghiệp sinh mà. Cho nên đức Phật nói: “Con người và loài vật từ nhân quả sinh ra, sống trong nhân quả và chết đi về nhân quả”. Cho nên chúng ta phải sống đúng giới luật, đừng làm một cái điều tội lỗi rồi chúng ta phải trả cái nghiệp tội lỗi đó, cái nghiệp ác đó.
(22:57) Không gian tham trộm cắp, tức là Đức Buông Xả. Nhưng ở đây đức Phật dạy chúng ta biết buông xả là chúng ta không dính mắc, chứ không phải bảo chúng ta không làm việc. Cho nên Đức Buông Xả vẫn có cần lao, đó là cái đức của một con người. Vì mình sinh ra là người, mình không thể là cái chùm gởi, ăn bám người khác, phải làm để sống, đừng có nương tựa vào người khác, đừng có lừa đảo người khác, gạt người ta bằng cách này bằng cách khác để mà sống.
Thí dụ như Thầy đặt một vấn đề: Như người tu sĩ, bây giờ mình đặt điều ra, mình nói có linh hồn để cầu siêu cầu an, cho mạnh giỏi bình yên, xây chùa xây tháp có phúc báo lớn, nào là này kia nọ. Đó là cái lừa đảo người ta, để cho mình ngồi trên đống vàng, mình ngồi trong mát mình ăn, mình không lao động. Thì cái người đó là cái người không có xứng đáng, là cái người không tốt. Dù người đó là các bậc thầy Tổ, các vị Hòa thượng, Thượng tọa, làm những cái điều đó là làm cái điều thừa thãi.
Cho nên ở đây thì các con phải cố gắng biết buông xả, mà cố gắng lao động bằng sức mồ hôi nước mắt của mình, đừng khéo léo lừa đảo bằng cách này bằng cách khác. Ví dụ mấy con buôn bán, đồ xấu nói cho tốt, bán cho được, gạt người ta. Vải thì đo thiếu, còn cân đồ, đường bộng gì đó, cân thì cân non. Mấy con đừng làm những điều đó, làm những cái điều tội lỗi đó. Tùy theo giá cả, mình kiếm lời nhưng kiếm lời với cái vừa phải và cân thì phải cân đúng và đo thì không được đo non, và đồ tốt thì nói tốt, đồ xấu thì nói xấu.
Thầy thấy mấy ông nông dân cũng gian xảo ghê gớm lắm mấy con. Trái cà, trái bí xấu thì để ở dưới thúng, còn những trái tốt thì để lên trên, đó là cái gian xảo chứ. Vẫn là nông dân mà vẫn còn có cái tính xấu, huống hồ là những người buôn bán ngoài chợ, còn tệ hơn, còn gian xảo hơn.
Sách Đạo Đức Làm Người sẽ dạy những hành động này, không có làm những cái điều mà gian xảo như vậy được, đó là cách thức thiếu đạo đức. Sau khi những bộ sách đạo đức của Thầy ra đời, Thầy sẽ chỉ về cái vấn đề nghề nghiệp sống của họ. Đừng có làm những điều gian xảo mà thọ lãnh cái đời nhiều đau khổ và đói. Tiền vô đó rồi bệnh đau cũng hết, tiền vô đó trộm cướp lấy cũng sạch, không còn. Bởi vì mình gian tham thì có kẻ gian tham khác. Cho nên chúng ta làm phải thành thật, không gian tham. Đó là không gian tham, trộm cắp. Đó là cái Đức Buông Xả, mà nếu người còn gian tham trộm cắp thì sẽ gặp những tai họa.
(24:41) Và một người còn là cư sĩ thì phải chung thủy, tức là Đức Chung Thủy. Cho nên ở trong giới cấm tà dâm, nghĩa là không được dâm dục với người mà không phải là vợ con của mình, mình gian dâm, gian díu với kẻ khác, làm cho gia đình mình tan nát, làm cho gia đình người khác tan nát. Là một người cư sĩ đệ tử của Phật thì không được quyền làm điều đó. Đó là Đức Chung Thủy.
Mà Đức Chung Thủy không có, thì cái người đó là một loài thú vật. Các con thấy một bầy chó, một bầy gà, một bầy heo, một bầy dê, nó có cái chung thủy không? Không. Chúng ta đâu phải là con vật, cho nên chúng ta phải giữ gìn Đức Chung Thủy. Là một con người vậy mới xứng đáng là con người. Nếu mà nay gian díu người này, mai gian díu người kia, đó là con thú vật chứ không phải là con người. Cho nên vì vậy mà Thầy bảo mấy con, đạo Phật dạy chúng ta rất là đạo đức. Để con người thật sự là con người.
(25:42) Không nói dối, tức là Đức Thành Thật. Cái có chúng ta nói có, mà cái không nói không. Chứ không được nói cái có mà nói không, mà cái không mà nói có, do đó phải thành thật. Nhưng thành thật rất khó mấy con. Thầy nói phải cẩn thận, dè dặt, giữ gìn.
(26:02) Còn về uống rượu, hầu hết hiện giờ chúng ta thấy ở đất nước chúng ta, người nam hay uống rượu hơn là người nữ. Nhưng có một số người nữ hiện giờ đang tập tành uống rượu trong những cái nơi vui chơi, giải trí, những cái nơi quán lều. Mấy người nữ này cầm rượu uống một cách rất an nhiên. Còn cái người Tây phương thì khỏi nói, phụ nữ vẫn uống rượu như thường. Đó là cái sai mấy con. Người nam ở đất nước chúng ta, đạo Phật dạy chúng ta người nam cũng không uống rượu, bởi vì uống rượu là người không thông minh. Cho nên cái đức người mà không uống rượu là cái Đức Minh Mẫn, người sáng suốt.
Đem rượu vào thân là đem chất độc vào thân, làm cho căng thẳng thần kinh, làm cho kích động thần kinh, làm cho chúng ta mất bình tĩnh, làm chúng ta không còn sáng suốt, nói lảm nhảm một điều mà nói đớt, nói tới nói lui. Thậm chí vợ con mình mà còn lấy cây, lấy rựa, lấy dao mà rượt chém, đánh đập. Thì thử hỏi là những người thân của mình, mà say rượu rồi thì biết gì không? Đó là cái điên đảo, không sáng suốt.
Cho nên vì vậy trong năm cái đức thì cái Đức Minh Mẫn rất cần thiết. Một người mà uống rượu rồi thì như là người điên rồi, thì còn biết gì. Cho nên vì vậy mà chúng ta phải từ bỏ, không bao giờ uống rượu, dù một chút rượu nhỏ chúng ta không uống. Các con có thấy những người uống rượu không? Hiện bây giờ những người uống rượu là những người đang bệnh. Người nào uống rượu cũng bệnh hết, cho nên rất là khó mấy con. Hiện giờ mấy con không thấy bệnh của mấy con chứ trong thân mấy con đang có bệnh vì chất rượu đã ngầm ngấm, đã làm tiêu hoại sự sống của mấy con. Nếu mấy con không biết dừng thì cơ thể của mấy con sẽ bị men rượu hoại diệt từng phút từng giây, đem lại sự đau khổ cho mấy con. Chính mấy con không sáng suốt, minh mẫn, mà mấy con chịu lấy.
(27:57) Cho nên có “Năm tiêu chuẩn làm người”, đó là Đức Hiếu Sinh, Đức Buông Xả, Đức Chung Thủy, Đức Thành Thật và Đức Minh Mẫn. Vậy thì con thấy năm cái đức này là đem lại hạnh phúc cho đời sống của con, để xứng đáng làm một con người có năm tiêu chuẩn như vậy. Con thấy cần phải nương tựa vào năm cái đức này để hướng đến năm đức này, để nhập vào năm đức này, để nói lên được đạo đức đúng đắn của một con người, thì con hãy chắp tay lên trước tượng Phật mà xin cho con thọ năm giới này, nhận chịu năm giới này, suốt đời ráng cố gắng giữ gìn trọn vẹn.
Con lạy Phật một lạy để rồi nhận lấy năm đức hạnh. Sau khi nhận lấy năm đức hạnh rồi thì hiện giờ là cái buổi thọ Tam Quy Ngũ Giới đến đây chấm dứt. Và từ nay về sau, con là một người đệ tử của Phật, của Pháp, của Thầy thì phải cố gắng tu tập để giữ gìn tâm mình thanh thản, an lạc, vô sự. Đó là một cái chân lý giải thoát.
Từ đây về sau cố gắng giữ gìn, không để tâm tham, sân, si bừng bốc trong tâm hồn của con nữa. Và từ đây về sau cố gắng tu tập Tứ Niệm Xứ, để ngăn ác, diệt ác, để sinh thiện, tăng trưởng thiện, để giữ gìn bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp, không còn chướng ngại trên đó nữa. Đẩy lui tất cả những bệnh tật, làm chủ hơi thở khi sống khi chết, tự tại sanh tử.
(29:54) Đến đây thì Thầy gửi cho con cái điệp phái, trong đó Thầy ghi cho con cái pháp danh Thích Nữ Liễu Hạnh Huệ. Huệ là cái trí tuệ, hạnh là cái đức hạnh, liễu là liễu là ngộ được cái đức hạnh của một cái trí tuệ sáng suốt. Vậy thì con phải cố gắng, mặc dù tuổi đời cũng rất cao nhưng phải cố gắng làm, thực hiện sống một đời sống đúng với tên của mình mà Thầy đã dạy. Đây, Thầy gửi cho con.
Còn bây giờ con về đây con thăm Thầy. Lâu lắm, lúc mà Thầy ra Phước Hải, Thầy xây dựng ngoài đó, Thầy thường hay gặp con. Bây giờ con mới về nhưng cũng có cái duyên. Hôm này con về là gặp Thầy, thì bây giờ cũng lớn tuổi rồi, theo Thầy thì Thầy có cái lời khuyên: “Hãy nỗ lực tu để cứu lấy mình”. Nếu không, như hồi nãy Thầy nói, một thân con, con tạo ra nhiều nghiệp, có thiện có ác. (31:15) Thiện thì sinh làm người mà ác thì sanh làm chúng sanh. Một người con mà tạo cái nghiệp thiện, nghiệp ác, thì con phải sanh ra nhiều người, nhiều vật, rồi nhiều người, nhiều vật. Một mình con bây giờ khổ có một, nhưng khi mà con chết khổ nhiều người lắm con. Do cái nghiệp của con. (31:38) Và những loài vật khổ, con vật khổ.
Con cứ nhìn đi, ở trên cái mặt nền nhà của chúng ta, một con kiến bò lăng xăng. Thì các con thấy không? Nó đi tìm thực phẩm đó con. Nếu nó tìm, nó chạy lăng xăng mà tìm không được, thì đúng cái giờ nó đói, không có gì hết, nó sẽ chết. Cái loài vật nó chết liên tục, khổ lắm mấy con! Con người thì chúng ta biết làm ra thực phẩm chứ con vật không biết chạy đi tìm. Tìm gặp thì kêu với nhau, nó cũng thảo ăn lắm, nó cũng tốt bụng lắm. Nó kêu với nhau, mới đem rinh cái món vật đó đi về hang để dành ăn. Rồi ăn hết rồi. Tuy ăn chưa hết, chạy đi tìm, đi tìm mà nếu không có thì chạy vào hang ăn cái đó mà sống thêm, rồi chạy đi tìm, chứ đâu có làm ra được. Cho nên chúng ta bố thí cho chúng, mà gặp được một cục đường, hay hoặc là gặp một miếng dầu, chúng mừng lắm. Chúng ăn rồi chạy về kêu những người khác, những con kiến khác đang đói mấy con. Các con không có cái đôi mắt Tam Minh, các con không nhìn được cái sự đau khổ của chúng sinh trong khi cơn đói. Các con cứ nghĩ các con đói các con khổ.
(32:48) Cho nên khi mà xét như vậy, mà nếu mà mình chết đi, cái nghiệp của mình sinh ra những con kiến, con trùng như vậy thì mấy con nghĩ sao. Một cơn mưa, làm sao con kiến nó biết được mà nó làm nhà làm cửa nó núp con. Mưa gió bao giờ tạt nó, nước lôi nó ra, nó chết đuối không biết bao nhiêu. May gặp Thầy thì Thầy còn vớt lên được một hai con, mà không gặp được thì chết. Con thấy. Có bao giờ chúng ta bị ngộp chết đuối một lần không mấy con? Khổ lắm mấy con! Thật sự chúng ta chưa chết đuối nhưng mà chúng ta thấy những con kiến mà bơi trên nước, cố gắng để mà vươn lên mà sống. Rất là khổ! Một người sắp chết đuối mà được chúng ta nhảy xuống cứu họ, họ mừng dữ lắm con! Thấy cái người đó đưa cái cây mà họ gắng họ với, nắm lấy cái cây để chúng ta lôi vào, họ rất mừng! Họ sắp chết, cho nên được cứu sống, họ mừng lắm!
Cho nên ở đây mà chúng ta thấy, chúng ta biết cảm nhận những điều đó, cho nên chúng ta phải ráng tu, tu để chấm dứt bao nhiêu cái khổ, bao nhiêu người khổ kế tiếp chúng ta. Bao nhiêu người khác khổ chứ không phải riêng chúng ta. Cho nên vì vậy mà chúng ta thấy mọi người, bây giờ mấy con ngồi trước mặt Thầy, đó là những người trong nghiệp sinh ra. Thì trong nghiệp sinh ra thì các con đều khổ hết chứ có người nào không khổ. Nếu các con thấy mình khổ mình mới lo, còn người khác khổ thì kệ họ. Không ngờ đó cũng là anh em trong nghiệp mà ra, cũng chính cái nghiệp của mình mà ra họ chứ ai. (34:22) Các con hiểu chưa? Cho nên các con phải ráng tu, tuổi đời cũng không còn bao lâu nữa rồi, phải ráng, thời gian ngắn lắm! Thầy làm chủ được còn mấy con có làm chủ được không? Thầy thoát khỏi sự tái sinh luân hồi mấy con thoát khỏi được không? Mà mấy con không tu rồi ai tu cho mấy con đây? Phật không làm được giúp đỡ cho các mấy con, mà Thầy cũng không giúp đỡ được. Chính Thầy là người dạy mấy con mà mấy con không làm, mấy con không tu là mấy con phải chịu lấy.
(34:52)Cho nên ngày mai là cái khóa bắt đầu dạy mấy con làm chủ sự sống chết, chấm dứt luân hồi. Nếu mấy con tu chơi chơi thì mấy con ở lại, mấy con lên lớp không được. Và người nào tu siêng năng họ sẽ lên lớp và tới cuối cùng họ sẽ chứng đạt được sự giải thoát đó.
Thầy sẽ dẫn dắt họ để bảo đảm rằng Thầy sẽ có những người tu chứng đàng hoàng, chứ không phải nói đùa được. Thầy sẽ dạy mấy con cặn kẽ và kỹ lưỡng, hẳn hoi. Người nào tu được, được. Mà không được thì mấy con ở lại và mấy con phải bỏ cuộc mà thôi. Đó là cái quyết định của Thầy. Đào tạo là phải đào tạo cho tới nơi tới chốn, tạo con người tu hẳn hoi. Cũng như Thầy viết sách, phải nói thẳng, nói thật, nói mạnh, không nhân nhượng ai. Còn dạy thì phải dạy, phải đào tạo cho được, chứ không phải là dạy để người ta tu được hay không được cũng mặc.
(35:44) Từ lâu tới giờ Thầy bận, Thầy lo viết sách. Hiện giờ Thầy cũng bận nhưng mà Thầy thấy rằng cái thời gian mấy con tu như vậy không bao giờ đạt được. Thầy thử hỏi mấy con như thế này mấy con biết không? Thầy hỏi: “Thân mấy con vô thường, mấy con nói cho Thầy nghe hết sự vô thường của thân mấy con đi”. Mấy con nói hai ba cái là mấy con hết rồi, không biết đâu mà nói nữa. Như vậy mấy con có thấm nhuần được cái lý vô thường của thân mấy con chưa?
Rồi Thầy nói vạn pháp, cây cỏ, nhà cửa, và mọi người, mọi vật xung quanh chúng ta là vô thường. Mấy con nói cho Thầy nghe sự vô thường của nó đi, mấy con nói hết chưa? Chưa.
Thầy nói thời tiết vô thường, mấy con nói thời tiết vô thường cho Thầy nghe đi. Như vậy là rõ ràng mấy con chưa thông hiểu đâu. Cho nên xét lại, mấy con biết lam nham chứ chưa thông, mấy con nói sơ sơ chứ chưa nói hết được cái điều mấy con hiểu. Cho nên buộc lòng Thầy phải dạy cho mấy con hiểu rồi mấy con phải thấm nhuần cái hiểu đó, để cái lý đó nó sẽ nằm ở trong đầu của mấy con. Cho nên vì vậy mà có ác pháp đến tác động mấy con là mấy con thấy các pháp vô thường.
(36:47) Có vật gì của con đâu mà mình chấp dính nó làm gì đây. Mỗi lần có chuyện gì thì thấy buồn, thấy khổ, thấy rầu, thấy lo. Cái gì của mình mà rầu, cái gì của các con đâu mà lo? Toàn là của nhân quả chứ đâu phải là của mấy con. Tại sao mấy con lại dính mắc như vậy?
Nếu mà không thấm nhuần, không rõ được thấu suốt, thì mấy con muôn đời mấy con không xả được cái thân của mấy con, không xả được cái nghiệp của mấy con, thì mấy con làm sao giải thoát được.
Cho nên cái lớp này là cái lớp quyết định. Người nào tu được là xả được mà người nào tu không được xả không được. Mà xả được là người đó A La Hán, hết khổ. Một cuộc đời mà có cái lớp học như vậy, có một sự đào tạo rèn luyện như vậy thì mấy con sẽ đạt được.
(37:29) Tại sao mà phải đào tạo, rèn luyện? Một ông thầy giáo cho một cái bài luận, cho cái đề tài luận, thì mấy con phải làm bài nộp cho ông thầy giáo. Ông thầy giáo phải chấm bài của mấy con. Bài hay thì ông ấy chấm mấy con hay mà bài dở thì mấy con phải ở lại, không thể nào lên lớp được. Có phải không? Mấy con thấy, thì đào tạo của Phật giáo cũng vậy, nói Định Vô Lậu, không để các con quán có được chút nào hay chút nấy. Không. Bây giờ bắt buộc mấy con phải làm. Thầy kiểm điểm lại coi cái sự hiểu biết của mấy con có đến cái mức độ đúng không, hay là sai, hay là lạc đề. Mà mấy con không chịu làm bài thì mấy con cứ ra khỏi lớp học này đi, chứ còn không có, mấy con không tu hay không học gì được hết. Buộc lòng mấy con phải tu chứ. Chứ đâu phải tự mấy con tu được. Đầu óc mấy con có hiểu gì về các pháp vô thường. Làm sao mấy con hiểu được như nãy giờ, nhân quả Thầy nói một người làm sao mà sinh ra nhiều người, nhiều vật. Mấy con hiểu được không? Mấy con cứ tưởng tượng ở trong đầu mấy con, là chết là mình sinh ra người, còn không thì mình sinh ra con vật, con thú nào đó thôi. Điều đó mấy con nghĩ là mấy con có một chứ đâu phải mấy con.
(38:29) Bởi vì các pháp duyên hợp trùng trùng. Nó tương ưng là nó phải trùng trùng. Một hành động làm ác của mấy con mà nó tương ưng thì nó phải sinh ra biết bao nhiêu cái ác đó không? Bao nhiêu người để thọ lấy cái quả khổ đó không? Ghê gớm lắm. Cho nên vì vậy mà đôi mắt Tam Minh, đôi mắt trí tuệ của một bậc tu chứng, người ta nhìn suốt cái nhân quả, người ta quá sợ hãi. Bởi vì con người quá khổ. Mà không tu thì ai tu cho mấy con đây. Cho nên phải ráng lên.
Có duyên gặp Thầy từ lúc mà Thầy đi ra Phước Hải, Thầy còn khỏe mạnh, bây giờ Thầy già, nhưng có duyên còn gặp lại mà không tu thì ai tu cho con. Vợ con cũng không giúp con được đâu. Con chết, con phải chịu lấy nghiệp của mình. Đến đây Thầy chỉ khuyên con như vậy thôi và Thầy sẽ gửi cho con cuốn “Thọ Tam Quy Ngũ Giới”. Con sẽ về đọc để mà mình nương đúng Phật pháp để mà tu tập nha các con.
(39:28) Phật tử: Bạch Thầy, hôm nay con (nghe không rõ) về được gặp Thầy, con xin phát nguyện nương theo Thầy để tu học cho đến mức tối đa của con. Còn được đến chừng nào thì bạch Thầy con cũng chưa biết ạ.
Trưởng lão: Ừ, Thầy dạy là phải học, phải tu cho tới. Còn mà không chịu học, không chịu tu thì không tới. Có vậy thôi. Rồi còn con, sao đây. Hôm nay Thầy mới gặp con, phải đi về tu cho dữ nghe không.
(40:08) Thật sự ra thì Thầy nói như thế này. Nãy giờ thì Thầy đang soạn thảo cái phương án cho Trung tâm An dưỡng từ thiện Chơn Lạc. Bởi vì ở Hà Nội có một cái công ty, ông giám đốc đó, ông ấy gọi điện thoại cho Thầy hồi hôm, ông ấy xin Thầy phát ngay cho ông ấy cái phương án thành lập trung tâm an dưỡng. Ông ấy đứng tên công ty, ông ấy sẽ xin thành lập cái trung tâm an dưỡng ở Hà Nội. Nghĩa là ông này chắc có vốn rồi. Do đó, trước khi thành lập cái trung tâm an dưỡng, thì ít ra chúng ta phải có cái tài khoản. Nhưng mà người này họ có cái tài khoản, có thể họ xin phép là bằng chứng họ có cái tài khoản làm công việc đó giúp cho Thầy.
Do đó thì Thầy sẽ soạn thảo cái phương án. Trước kia thì cái phương án đó Thầy đã soạn thảo để thành lập Trung tâm An dưỡng từ thiện Chơn Lạc lúc mà Thầy đi ra ngoài đó rồi. Nhưng mà cái thời điểm đó thì cái phương án nó hiện giờ, nó có nhiều cái đoạn nó không có phù hợp như hiện giờ. Còn bây giờ Thầy phải soạn thảo lại cho phù hợp trong cái thời điểm này. Cho nên cái phương án bắt đầu Thầy soạn thảo lại cho nó đúng, rồi Thầy gửi, Thầy phát ra Hà Nội.
Nghĩa là gửi nó còn đi lâu nên ở ngoài đó họ muốn Thầy fax ngay liền. Nghĩa là xong rồi, Thầy chỉ đưa lên máy vi tính, Thầy đánh xong rồi, Thầy mới đưa cái tài liệu đó vô cái máy fax, ở trong này bấm cái số đó, thì ở ngoài kia nó sẽ fax cái tài liệu của Thầy, cũng như nó photo đi ra ngoài đó. Cái chữ ở trên cái máy này nó truyền ra ngoài đó. Họ lấy cái tài liệu ngay cấp tốc để họ đưa đi ra họ xin phép. Đó là họ muốn nhanh. Cho nên họ dặn Thầy là ngay đó phát liền cho họ. Cho nên Thầy đang làm công việc này mà vì mấy con xin Thầy quy y và mấy con gặp Thầy mà Thầy không nỡ bỏ mấy con.
(42:02) Chứ thời gian của Thầy hiện giờ đang làm việc rất là nhiều. Hiện giờ Thầy còn đang soạn thảo một cái bức tâm thư để gửi các hội từ thiện ở trong nước cũng như ở ngoại quốc. Phải xây dựng cái hội như thế nào. Trước kia Thầy chỉ gọi họ, gợi ý họ thành lập cái hội từ thiện, nhưng họ chưa biết cách, cho nên họ làm sai. Sau khi cái bức thư mà gửi rồi thì Thầy thấy những điều đó họ hiểu chưa đúng, Thầy sẽ gợi ý cho họ thêm về cách thức lập thành hội từ thiện để hỗ trợ, để bảo trợ cho cái trung tâm an dưỡng từ thiện ra đời. Đó là cách thức làm.
Bây giờ Thầy phải soạn thảo cái bức thư Thầy nói cách thức phải làm sao, hội từ thiện phải làm sao, như thế nào, như thế nào, để chúng ta có được một cái tài khoản, để chúng ta thành lập cái trung tâm an dưỡng, đem lại cái sự an dưỡng cho mọi người về tinh thần và vật chất. Cho nên Thầy cũng đang làm công việc rất nhiều, là vì phải soạn thảo thư, đánh vi tính, rồi in ra, rồi mới gửi đi.
(43:02) Rồi cái phương án thì cũng phải làm. Con hiểu không? Cho nên, vì vậy đó, rồi nhiều cái bức thư Thầy trả lời cho những người Phật tử. Họ đang đọc cái bức tâm thư của Thầy vừa rồi, họ có những cái hiểu lệch, Thầy muốn chỉnh lại cái hiểu lệch đó cho đúng. Cho nên vì vậy Thầy còn công việc rất nhiều. Cho nên mấy con ráng cố gắng.
Ngày mai Thầy còn phải mở lớp này, Thầy còn phải giảng dạy này, Thầy còn phải sắp lớp nữa. Rồi một tuần lễ sau mấy con gặp, Thầy kiểm điểm lại bài vở của mấy con, cách thức tu tập của mấy con nữa. Vậy cho nên mấy con thấy Thầy làm việc rất là nhiều. Vừa làm việc ở trong nội viện của chúng ta mà vừa làm việc ở ngoại viện, đứng trên cái phương diện tổ chức nữa. Mấy con thấy Thầy làm việc nhiều như vậy đó, thì mấy con biết rồi, Thầy phải là một sức thần rồi, chứ còn sức bình thường của con người thì làm không nổi đâu.
(43:50) Cái đầu óc vừa làm, mà đủ thứ mọi việc chứ không phải là một việc, mà còn viết sách, chứ không phải là không viết đâu. Còn chỉnh lại những cái kinh sách lại để cho nó có cái bộ sách mà dạy các con oai nghi tế hạnh. Tới đây Thầy dạy cho các con từ cái ăn, cái uống, cái đi, cái đứng của mấy con, chứ không phải là dạy cái cách thức để cho mấy con.
(44:13)Trong cái giờ mà dạy học, cái giờ mà oai nghi tế hạnh về cái ăn, là mấy con khất thực, mấy con sẽ ngồi hai hàng, Thầy ngồi giữa, Thầy ăn, Thầy chỉ từng cái muỗng múc cơm bỏ vào miệng, ăn, nhai và tỉnh thức như thế nào. Chứ không phải là gắp cứ lia lịa.
Một trái chuối, mấy con đừng có lột mà cắn ăn, mà các con phải lột xong cái chuối, bỏ vào bát, rồi các con mới xắn. Bởi vì ăn trong bát chứ không phải ăn ngoài bát. Thầy nói như thế này, các con thường ăn ngoài bát, là vì mấy con lấy cái bánh, các con bỏ trong miệng, các con nhai, các con ăn, đó là ăn ngoài bát. Còn Thầy ăn trong bát, Thầy lấy cái bánh, Thầy bỏ trong bát của Thầy, Thầy lấy cái muỗng Thầy múc Thầy ăn. Thì đó là Thầy ăn trong bát, còn mấy con ăn ngoài bát. Cho nên nó không có đúng cái hạnh.
Các con nhớ các con có cái lỗi này không? Chắc chắn là người nào cũng lỗi. Có cái bánh là lấy ăn, chứ không có bỏ trong bát đâu. Có phải không? Con thấy rõ mà. Ví dụ như trái chuối, mấy con lấy lột cái cắn ăn, đó là ăn ngoài bát, ăn như đời, ăn như vậy xấu quá. Phải không? Không có oai nghi tế hạnh chứ gì!
(45:16) Đó, Cho nên vì vậy, những cái hành động mà học về đức hạnh thì nó rất cần thiết cho một người có đạo đức. Đạo Phật dạy chúng ta giới luật chính là đức hạnh. Rất đầy đủ. Tại sao chúng ta từ cái ăn cái mặc mà chúng ta không học thì học cái gì bây giờ.
Những cái đó đều là dạy chúng ta tỉnh thức. Còn cầm cái bánh lấy bỏ vô miệng nhai mấy con có tỉnh thức nổi không. Mấy con tỉnh thức có một chút xíu. Còn bây giờ, Thầy bỏ cái miếng bánh vào cái bát của Thầy, rồi Thầy lần lượt lấy cái muỗng Thầy múc Thầy để vào miệng. Cái hành động Thầy làm như vậy đó, Thầy tỉnh thức từng chút mấy con. Rồi Thầy nhai từng chút từng chút, Thầy ăn, Thầy thấy cái bánh này ngon dở, Thầy biết. Nhưng Thầy nhắc tâm: “Đừng tham đắm nó, đó là dục, đó là ác pháp”.
Còn mấy con ăn cứ nuốt, ăn nghe ngon là nuốt nhiều thôi, chứ còn không có nhắc nó đây là tham đắm, đây là dục gì mấy con có nhắc không? Quên hết đấy chứ gì. Hồi đó quên, cứ ăn nuốt thôi chứ. Ăn cho no bụng thôi chứ mấy con có nhắc đâu. Nghe ăn ngon là nhắc: “Đây là dục, đây là tham đắm này, coi chừng dính mắc, cái tâm phải cẩn thận nghe”. Nhắc như vậy nó có tham đắm được nữa không mấy con?
(46:20) Ăn phải tỉnh giác chứ. Đức Phật dạy mình ăn trong mê mờ sao, ăn trong tham đắm sao? Thầy sẽ dạy mấy oai nghi này để cho mấy con biết. Có phải không? Nếu không dạy mấy con biết cái chỗ nào mấy con tu. Tu là tu vậy chứ sao. Nếu mà không có Thầy dạy thì mấy con sống theo cái kiểu nghiệp. Nghiệp tham của mình chứ. Ăn thì cứ tham ăn, thấy ngon thì cứ ăn lia lịa thôi. Ăn hết rồi lại còn thèm nữa chứ, còn muốn ăn thêm. Thì cái chuyện đó là cái chuyện của đời, của cái tâm tham, sân, si.
Còn cái người đạo ăn tỉnh giác lắm. Nhắc nhở, nghe ngon là nhắc liền: “Tâm tránh cái chỗ tham, cái ngon này là cái năm dục trưởng dưỡng đây, mày phải tránh”. Nhắc cái tâm mình vậy nó còn tham nữa không? Còn mấy con ăn, mấy con cứ nuốt, mấy con không nhắc, là nó sẽ tham, nó tích lũy cái tâm tham.
“Sao bữa nay cô Út không cho ăn thứ này nữa, nó thèm quá trời”. Hay là bữa nay: “Trời đất ơi! Sao cô Út không cho mình trái ớt ta?” Có phải không? Tức là nó còn dục. Cho nên mình ăn trái ớt vô, mình ăn cơm mình thấy nó ngon, đây là dục. Ớt cay chứ, nhưng mà có người thiếu cay ăn không có ngon chứ đâu phải không. Thầy nói thật mà các con. Cho nên khi mà ăn thấy nó ngon, có miếng ớt vô cay ngon rồi là bắt đầu coi chừng dục đó, mày phải cảnh giác, mai mốt không có ớt mày vẫn tự nhiên. Mai mốt các con ăn không có ớt, mấy con ăn tự nhiên mấy con. Chứ không nó nhắc ớt không. Thầy nói mấy con, đơn giản thôi, đó là cái tâm tham của mình, gọi là năm dục trưởng dưỡng. Khi nó tiếp xúc nhau thì coi chừng, không cảnh giác nó là nó dục đó, nó tăng. Mà dục tăng thì làm sao mấy con hết khổ mấy con? Từng cái hành động của chúng ta, từng cái, nhất là trên cái ăn cái ngủ, đều là cảnh giác nhắc hết.
(48:01) Cho nên cái lớp này Thầy dạy mấy con đạt được là được, chứng quả A La Hán là chứng, mà không chứng quả thì các con thôi về cày ruộng đi, tu học cái gì mà vậy. Các con hiểu không? Còn cái sự mà tu tập về Chánh Niệm Tỉnh Giác, Đi Kinh Hành. Thầy sẽ cảnh giác mấy con tu tập. Thầy sẽ sắp lớp cho mấy con tu. Đó là Thầy nói về cái sự quán, cái sự oai nghi tế hạnh. Rồi còn các cái khác nữa. Thôi giờ các con nghỉ để Thầy đi lo Thầy làm công việc, để rồi Thầy còn nhiều công việc. Thầy nói để cho các con biết.
Phật tử: Thưa Thầy, con mặc áo vàng được không ạ? Cái áo tu sĩ mà áo màu vàng thì con mặc được không Thầy?
Trưởng lão: Con cạo tóc thì mặc được như thường, không có sao. Nhưng mà mặc đồ vàng là cái sắc vàng là của Phật, là phải giữ gìn cho trọn vẹn, giới luật cho nghiêm chỉnh. Chứ không lơ mơ là mình mang tội đó, mang tội phỉ báng Phật. Con hiểu không? Mấy con cạo tóc rồi thì mấy con mặc được hết. Bởi vì thí dụ như mấy con xuất gia rồi, mấy con cạo tóc là mấy con đắp y vàng hết chứ đâu có mặc y đen y đỏ nữa đâu. Mà Thầy ở đây là Thầy muốn hóa giải cái tình trạng của Đại thừa cho nên Thầy mặc như thế này. Chứ lẽ ra một người tu sĩ của đạo Phật là đắp y vấn hết đó. Như mấy con mà xuất gia rồi thì đứa nào cũng phải mặc y vấn hết chứ không phải.
Rồi mấy con ra đi con, Thầy còn tiếp tục làm việc nữa. Thầy soạn thảo cái phương án cho mấy con. Ngày mai rồi mấy con sẽ tập trung học tập hết. Thầy dạy hết. Mấy con ra nghỉ đi con. Bữa nay là chuẩn bị chứ chưa. Ngày mai là vô gấp giờ giấc phải nghiêm chỉnh đó. Không có việc mà lơ mơ được đâu mấy con. Ngày mai, bất kỳ tất cả tu sĩ, cư sĩ đều tập trung hết, đến đây Thầy dạy hết. Mà Thầy chọn hai mươi người. Thầy đào tạo hai mươi người. Nếu mà người nào đức hạnh đàng hoàng mà tu tập tốt là Thầy lấy mấy người đó làm hai mươi người tu. Còn bao nhiêu thì Thầy cho ngoại trú tu, mà được hay không được cũng được, không sao hết. Rồi, mấy con đi ra đi mấy con.
HẾT
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [01:32:35]
Nghe pháp âm: https://youtu.be/wXi1HeQ0NoY
Tên cũ: Tam Quy Ngũ Giới 4
https://thuvienchonnhu.net/audios/tam-quy-ngu-gioi-04-chon-ton-giao-dung-tam-nguyen.mp3
Trưởng lão: Hôm nay Thầy sẽ làm lễ quy y cho các con. Nhưng mà trước khi muốn quy y thì Thầy sẽ giải thích để cho hiểu được ba ngôi Tam Bảo và năm cái điều thiện, năm cái đạo đức mà đức Phật đã truyền dạy cho người cư sĩ. Cái điều quan trọng nhất là một khi mình muốn mà theo một cái tôn giáo nào thì mình phải hiểu cái tôn giáo đó nó có phải nhằm cái ước nguyện của mình hay hoặc cái mong ước của mình, để mình đem hết cái cuộc đời của mình để thờ phụng, để kính trọng, tôn kính nó, để thực hiện cái hoài bão cho cuộc đời của mình.
Vì vậy mà trước khi bước chân vào mà cái tôn giáo nào, không riêng gì đạo Phật thì chúng ta phải tư duy rất kỹ, vì cuộc đời chúng ta khi bước vào đó rồi thì coi như mình phải làm tất cả những cái gì mà cái tôn giáo đó chỉ dạy cho mình. Mà nếu mà mình thấy rằng thà là mình đừng có vào tôn giáo, mà hễ vào tôn giáo thì hãy chọn lấy thật kỹ. Lỡ nó, mình chọn sai thì cái tâm của con người nó có cái chung thủy, trung thành với cái điều kiện mình đã học, lỡ mình đi vào cái tôn giáo sai thì mình phải trung thành với nó. Nhưng trung thành với nó thì nó thứ nhất là nó đem lại cái không lợi ích cho mình và nó cũng không đem lợi ích cho người khác.
Vì cái mục đích của mình mà có mặt ở trên cái hành tinh này, cái sự hiện hữu thì mình làm sao cho cái sự hiện hữu này có lợi ích cho mình, có lợi ích cho người khác, thì cái sự hiện hữu đó nó mới có giá trị. Còn nếu mà cái sự hiện hữu của mình chỉ luôn luôn lúc nào cũng bo bo cho mình, cho cá nhân của mình thì biết bao nhiêu người đã nằm ở ngoài cái gò mả kia mà đã được nói lên những gì lợi ích cho mình, cho người? Chúng ta thấy rõ ràng xung quanh cũng chỉ ăn rồi ngủ, rồi danh, rồi lợi chứ chẳng có gì ích lợi cho ai, mà lại còn làm đau khổ cho những người khác nữa.
(02:15) Cho nên vì vậy mà khi bước chân vào đạo Phật thì chúng ta phải suy tư về cái đạo Phật rất nhiều, đâu phải mỗi mỗi cái đều là đạo Phật hết sao? Trong cái đạo Phật nó có cái sai của đạo Phật, bởi vì đạo Phật ngày đầu tiên mà đức Phật ra đời thì nó còn đúng của đạo Phật. Nhưng vì cái thời gian dài thì nó phải có cái sự sai sót ở trong đó, mà có sự sai sót thì chúng ta phải cần cân nhắc, dù là ở trong góc độ của Phật giáo thì chúng ta cũng phải cần cân nhắc như vậy. Huống hồ là trong các cái tôn giáo khác, một cái tôn giáo nào nó cũng có cái đúng và cái sai của nó trong đó.
Nhưng mà cái đúng của nó là như thế nào? Và cái sai như thế nào? Làm sao chúng ta hiểu được? Cho nên vì vậy chúng ta phải nghiên cứu và suy tư rất nhiều, chứ không khéo rồi chúng ta sẽ bị tôn giáo nó lừa đảo mình. Cho nên hôm nay khi mà các con mới về đây, đừng có tin nơi Thầy, biết đâu chừng Thầy cũng là một cái tên bịp bợm, cũng lừa đảo người khác, nói ba hoa như vậy chứ sự thật ra cũng chẳng làm được những gì! Cho nên ở đây Thầy khuyên rằng đừng có nghe ai hết mà chỉ lắng nghe những cái gì đúng sự thật, đem lại lợi ích cho mình, cho người khác.
Thì những cái lời mà Thầy nói đem lại lợi ích thật sự cho mình, cho người khác thì mình phải tin nó và mình cố gắng mình làm theo. Thì trước khi mà Thầy giải thích để cho hiểu ba ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng như thế nào thì Thầy xin để quỳ trước đức Bổn sư, người đã chết cách đây hai ngàn năm trăm năm, nhưng ơn nghĩa của Người còn để lại chúng ta một đường đi, một giáo pháp giúp cho ta sống toàn thiện, biến từ một loài động vật như chúng ta để trở thành những con người thật sự là con người. Và biến chúng ta trở thành những bậc Thánh nhân vượt thoát ra khỏi con người, làm chủ được sự đau khổ của kiếp làm người, chấm dứt được sự tái sinh luân hồi, đó là cái mục đích của đạo Phật.
(04:35) Vì vậy hôm nay quý, Phật tử có duyên về đây tha thiết xin Thầy để quy y Tam Bảo, mặc dù đã từng có quy y với các thầy khác, đó là không quan trọng. Nhưng mà hôm nay muốn về đây để xin Thầy quy y Tam Bảo tức là có cái hướng về nơi Thầy. Thầy là người có xứng đáng hay không? Thì sau khi Thầy giải thích về Tăng Bảo thì mình sẽ xem xét cái người Thầy, cái người gương hạnh để dẫn dắt mình đi trên con đường giải thoát đó có đúng là mình chọn đúng hay là sai? Thế khi nghe xong rồi mình mới hiểu rõ và mình hiểu rõ, mình tin chắc rõ thì mình mới phát nguyện mình quy y Tam Bảo. Còn nếu không thì mình thôi, nghe rồi thôi không cần phải quy y Tam Bảo.
Bởi vì mình đã nghe, mình đã hiểu mà mình thấy rằng nó không hợp với mình thì ai bắt buộc mình được? Cho nên vì vậy mình xin thôi, không nguyện thì cũng không ai làm gì mình. Bởi vì một con người chúng ta sinh ra là chúng ta có cái quyền của chúng ta, chọn nó hay là không chọn nó mà thôi chứ không ai ép buộc chúng ta được. Cho nên mặc dù là vua chúa người ta cũng vẫn phải để cho mọi người dân có cái quyền tự do tín ngưỡng, không có một nhà vua nào bắt là phải theo tôn giáo này hoặc không theo tôn giáo, thì đó không ai dám làm điều đó hết.
Cho nên ở đây chúng ta có quyền nghe, hiểu biết rõ, đó là ước nguyện của mình, đúng như cái sở nguyện của mình thì mình theo, mà không đúng thì thôi, không có ai bắt buộc mình hết, và cũng không tội lỗi gì hết. Vậy hôm nay trước khi mà nghe Thầy giảng về ba ngôi Tam Bảo thì quý Phật tử suy tư rất kỹ rồi sau đó mới phát nguyện xin quy y Tam Bảo.
(06:50) Trưởng lão: Trước khi quy y Tam Bảo, các con hãy nghe tại sao gọi là Tam Bảo? Tam Bảo có nghĩa là ba ngôi báu: Ngôi thứ nhất là Phật Bảo, ngôi thứ nhì là Pháp Bảo, ngôi thứ ba là Tăng Bảo. Vậy Phật Bảo là gì? Phật Bảo là một con người như bao con người khác, cũng giống chúng ta, cũng có cha mẹ, cũng sanh đẻ, cũng nuôi lớn khôn rồi đi tu, rồi thành Phật. Người không phải là một bậc Thánh nhân ở cõi nào đến đây, mà chính Người là con người cũng sinh ra trong môi trường sống, trong nhân quả. Ngài có thân cũng như chúng ta. Ngài cũng có gia đình vợ con như mọi người trong chúng ta.
Rồi Ngài cũng thấy sự đau khổ như bao nhiêu người khác, Ngài cũng bệnh, Ngài cũng sống giận hờn, phiền não, ham muốn, Ngài cũng bất toại nguyện điều này, thế kia. Ngài cũng thấy người chết, Ngài cũng thấy cuộc đời nhiều điều đau khổ. Cho nên Ngài đi ra bốn cửa thành thì Ngài đã gặp những cái sự đau khổ của đời người, tức là: Sanh, Già, Bệnh, Chết.
(08:31) Sanh là gì? Ở trong bốn cái khổ này thì sanh là gì? Ngài đi ra một cửa thành Ngài thấy có một vị tu sĩ đi xin ăn, cho nên Ngài nghĩ đến cái đời sống của người cư sĩ như Ngài. Mặc dù là con vua, cháu chúa, sắp sửa lên làm vua, khi mà vua cha băng hà thì Ngài sẽ thay thế vua cha làm vua. Nghĩa là Ngài vinh hạnh và giàu sang hơn người ở trong nước Ngài rất nhiều, Ngài là chúa tể. Thế mà Ngài thấy cuộc sống của người cư sĩ như một vị vua còn chẳng hạnh phúc gì cả. Tức là nhìn cái đời sống của một người tu sĩ có giải thoát hơn Ngài nhiều: Ba y một bát đi xin ăn từng nhà, mà thảnh thơi, sung sướng hơn Ngài. Ngài làm vua thì lo cái này, lắng cái khác, đâu có yên ổn được như một vị tu sĩ! Cho nên thấy đời sống của vị tu sĩ trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không, Ngài thấy họ sung sướng hơn Ngài nhiều. Đó gọi là Sanh.
Người khác hiểu chữ “Sanh” ở đây là sanh đẻ thì nó nghĩa là sai. Đi ra bốn cửa thành ông Phật đâu có bao giờ mà gặp một người phụ nữ sanh đẻ bao giờ?! Mà chỉ gặp cái người tu sĩ chứ đâu gặp là cái người phụ nữ sanh đâu? Cho nên nói sanh là sanh đẻ thì không đúng, mà sanh đây có nghĩa là sanh y, là đời sống của chúng ta. Tại sao ở đây xác định được đời sống?
Vì thấy đời sống của tu sĩ nó so sánh lại đời sống của người cư sĩ, mà đời sống của một vua chúa thì phải hạnh phúc hơn là chúng ta nhiều, thế mà Ngài thấy không có hạnh phúc gì cả, khổ đau. Đúng vậy, đời sống của chúng ta nhiều bất toại nguyện. Người này mở miệng nói một lời nói thì người kia đã không an lòng, nhiều khi chúng ta còn giận hờn, nhiều khi chúng ta còn buồn tủi, nhiều khi chúng ta đau khổ. Tất cả những cái điều sống xung quanh chúng ta mọi vật, mọi người không thể nào mà được an ổn, an vui được. Đó là Sanh.
Ngài thấy cuộc đời quá khổ, do đó Ngài đi ra một cửa thành Ngài thấy một người chết, Ngài thấy người chết quá khổ. Ngài thấy một cái người bệnh, quá khổ; Ngài thấy một người già lụm cụm quá khổ. Sanh, lão, bệnh, tử, Ngài thấy đủ bốn cái khổ của kiếp người, Ngài mới nghĩ rằng chỉ có một người đi tu thì người ta mới giải thoát được bốn cái này. Cho nên Ngài ước ao, ước vọng của Ngài sẽ đi tu, có một ngày nào đó sẽ đi tu.
(11:52) Vì vậy mà Ngài nuôi cái mộng đó, Ngài nuôi cái hy vọng đó cho (đến) cuối cùng Ngài có một đứa con. Đứa con chào đời thì Ngài nghĩ một đứa con ra đời là một nỗi khổ thêm, cho nên Ngài không thể dừng bước lại đây được, nửa đêm Ngài lén Ngài ra đi, Ngài đi tìm con đường giải thoát bốn sự đau khổ này. Đó là hôm nay cái mục đích của chúng ta là đến đây, hướng đến với đạo Phật, đến với Thầy là mục đích chúng ta nhắm đến bốn sự đau khổ này để giải quyết, chứ không phải mục đích chúng ta đi tìm thần thông phép tắc, đi tìm những cái mầu nhiệm, siêu việt. Vốn mục đích tu theo đạo Phật là không đi tìm những cái siêu việt hơn người, mà đi tìm những cái thoát khổ, mà bản thân chúng ta đang thọ lấy những khổ đau đó.
Do đó Ngài bỏ đi. Ngài rời khỏi vua cha, Ngài bỏ cha, bỏ vợ con Ngài đi tìm đạo. Sáu năm trời, tất cả những pháp của ngoại đạo, pháp nào dạy thì Ngài cũng thực hiện tận cùng, Ngài cũng thực hiện cho đến nơi đến chốn những pháp đó. Thậm chí Ngài phải thực hiện đến khổ hạnh tận cùng, phải tiết thực tối đa, Ngài không còn đứng dậy nổi. Cuối cùng Ngài nhờ bát sữa dê của một người chăn dê ở nơi đó thấy Ngài sắp chết, thì người chăn dê mới vắt sữa dê mới đổ cho Ngài.
Ngài tỉnh lại Ngài mới nghĩ rằng: Trong cuộc đời Ngài đi tìm sự giải thoát mà đem hết sức lực của mình, bất kì pháp nào của ngoại đạo dạy Ngài, Ngài đều thực hiện tất cả rất là nhiệt tâm cho nên đến đỗi mà Ngài không còn cái sức lực mà đứng dậy nổi. Thế mà tìm lại cái sự giải thoát nơi cái chỗ khổ hạnh này thì Ngài chẳng tìm thấy được. Cuối cùng Ngài mới tư duy: Còn có một lộ trình nữa mà lúc bé Ta bảy, tám tuổi theo vua cha làm cái lễ hạ điền, thì Ta ngồi dưới cây Tamia, Ta nghĩ rằng mình ly dục ly ác pháp.
(13:54) Mình nghĩ rằng tức là tác ý đó, mình nghĩ rằng: “Ta ly dục ly ác pháp, thì lúc bấy giờ Ta thấy Ta rất an ổn”. Thì đức Phật lại lặp lại một lần nữa: “Nếu quả chăng cái lộ trình này mà giúp Ta được giải thoát, do ly dục sanh hỷ lạc, tại sao nó còn cái hỷ lạc này?”, thì đức Phật nói: “Ly dục sanh hỷ lạc chứ không phải hỷ lạc ở trong dục”. Do đức Phật lặp lại một lần như vậy đức Phật nói: “Lộ trình này Ta có thể thực hiện được sự giải thoát”. Rồi Ngài lại nói rằng: “Cơ thể của Ta bây giờ làm sao thực hiện được lộ trình này? Bây giờ Ta phải trở lại sống bình thường, chứ còn khổ hạnh như thế này sức khỏe đâu mà tu tập?”
Rồi Ngài trở lại sống bình thường ngày ăn một bữa, ăn no, không tiết thực như ngày trước nữa. Ngài không khổ hạnh đứng một chân hoặc là ngâm mình trong nước, hoặc là phơi nắng mình ngoài trời nắng, Ngài không làm những cái khổ hạnh đó nữa. Mà Ngài sống lại bình thường, ngồi chơi không cần phải ngồi kiết già nữa, thế mà người ta không hiểu. Bởi vì pháp môn ly dục ly ác pháp như chúng ta hiểu bây giờ đó thì nó không cần quan trọng chỗ chúng ta ngồi kiết già.
Chỉ chúng ta làm sao mà đẩy lui các chướng ngại pháp trên Thân - Thọ - Tâm - Pháp của nó, để rồi nó không còn chướng ngại trên đó thì tâm không phóng dật, là ly dục ly ác pháp, chấm dứt được sự luân hồi, làm chủ được sự sống chết, muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống, Ngài mãn nguyện: “Tôi đã thành tựu”. Vì vậy Ngài mới nhìn trời và nhìn đất, tức là người ta tượng trưng cho Ngài chỉ trời chỉ đất mà Ngài nói:
“Thiên thượng, thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế gian
Sanh, lão, bệnh, tử”.
Có nghĩa là: “Trên trời, dưới trời. Ta là người duy nhất. Thoát ra bốn sự đau khổ: Sinh, già, bệnh, chết”.
Đó là sau khi chứng đạo Ngài nói lên bài kệ đó, chứ không phải Ngài sanh ra mà đưa tay chỉ trời, chỉ đất mà nói rằng: “Thiên thượng, thiên hạ. Duy ngã độc tôn…” như các Tổ đã viết trong kinh.
(16:33) Bởi vì Ngài cũng còn đang đau khổ, làm sao một đứa bé mà sanh ra chỉ trời, chỉ đất mà đã biết rằng mình là vượt qua sinh, già, bệnh, chết được? Nếu đã biết như vậy thì làm sao mà Ngài còn đi tu khổ hạnh đến mức mà Ngài không đứng dậy nổi? Điều đó là điều người ta bịa đặt. Ngài cũng khổ đau, rồi Ngài cũng tu, cũng trật lên trật xuống, Ngài cũng không đúng con đường tu giải thoát. Cho nên cuối cùng thì Ngài tìm ra một cái lộ trình đúng là con đường giải thoát thật sự.
(17:08) Trưởng lão: Nếu mà trên bước đường tu hành mà Thầy không đạt được sự giải thoát thì Thầy cũng vẫn nghi ông Phật chỉ là nói láo mà thôi! Mình tu hết sức mình tu mà cuối cùng chẳng làm chủ được gì thì không phải là nói láo sao? Thầy cũng vẫn đang nghi. Cho nên có một người Phật tử ở Quy Nhơn họ gửi cho Thầy một bức thư họ nói như thế này: “Con cũng tu hành hết mình, nhưng đến bây giờ con cũng không tìm thấy được sự giải thoát, con nghi rằng ông Phật chỉ là một huyền thoại, và giáo pháp ông cũng chỉ là một cái giáo pháp lừa đảo chứ không thật có làm mình tu giải thoát được. Cho nên đến hôm nay con nghe Thầy tu thì con cũng chẳng nghĩ rằng Thầy làm được, Thầy cũng chỉ là một người lừa đảo mà thôi!”.
Cái người Phật tử ở Quy Nhơn họ gửi vài bức thư họ nói thẳng và nói thật, Thầy rất kính trọng ở cái bức thư thật tình, không thiên vị một người nào, dám nói thẳng, nói thật. Ngay cả ông Phật thì người Phật tử ấy người ta cũng vẫn hiềm nghi, huống hồ bây giờ Thầy có làm được, có tu được thì người ta cũng vẫn nghi, đó là một cái điều rất tốt. Thầy thấy điều mà chúng ta muốn đi vào con đường đạo Phật, chúng ta phải đặt câu hỏi và rất nghi nó. Bởi vì từ khi chúng ta ra đời, chúng ta biết được đạo Phật, cái lý thuyết thì rất hay, nhưng nhìn lại tất cả các bậc Hòa Thượng, Tôn túc, các thầy Tổ của chúng ta ai làm được? Ai thực hiện được điều đó? Chúng ta chưa thấy.
Thậm chí như cả cái giới luật, cái đức hạnh của một vị Thánh Tăng người ta còn không làm được thì thử hỏi ai làm được?! Vậy thì hôm nay một đức Phật đã làm được, Thầy muốn nói chúng ta phải tư duy, một đức Phật đã làm được, vậy thì có thật làm được hay không? Nếu không được thì chắc chắn hôm nay Thầy không làm được. Thầy quả quyết rằng: Thầy làm được thì chắc chắn đức Phật ngày xưa làm được. Tại sao vậy? Tại vì mọi người về đây người ta sống đúng giới luật người ta sống không được mà riêng Thầy sống được. Thầy ăn thậm chí như Thầy sống bằng lá cây, bằng rau, Thầy sống không cần cơm Thầy sống vẫn được mà.
(19:45) Với một tinh thần người quyết tu tìm giải thoát thì chỉ có sự giải thoát mà thôi! Cho nên vì vậy mà không còn tham đắm về cái ăn, cái ngủ thì người này sẽ làm được. Còn cái người mà còn tham ăn, còn tham ngủ thì chắc chắn con đường của đạo Phật không bao giờ được. Tại vì cái ăn, cái ngủ ở trong thân của chúng ta, không ăn thì thân chúng ta chết, không ngủ thì thân chúng ta bệnh, do đó hai cái này mà chúng ta không tham, không sợ nó thì chắc chắn chúng ta sẽ chiến đấu được nó.
Còn trái lại chúng ta còn tham ăn, tham ngủ thì chúng ta không thể làm được. Vì vậy ông Phật không tham ăn, tham ngủ, Thầy không tham ăn tham ngủ nên Thầy đã làm được, điều đó là điều chắc chắn. Thầy không tham vui, cho nên Thầy sống độc cư, Thầy không thích nói chuyện cùng ai cho nên Thầy đã đạt được. Còn quý vị về đây tu tập với Thầy mà thích vui nên nói chuyện này, chuyện kia, chuyện phải, chuyện trái, chuyện đúng, chuyện sai, chuyện người này, chuyện người nọ cho nên quý vị không tu được.
Pháp Phật dạy chúng ta rất rõ ràng: Sống trầm lặng, độc cư, ngày một bữa nuôi sống thân, phải ít ngủ không được ham ngủ nhiều. Cho nên cái giới trọng của Thầy đã dạy: Ăn, ngủ và độc cư là bí quyết thành công của sự tu tập theo đạo Phật. Thế mà ai đã làm được? Khó quá không ai làm được! Người ta ăn được thì người ta lại ngủ không chiến đấu nổi, người ta lại ăn ngủ được mà người ta chiến đấu sự vui thích nói chuyện người ta chiến đấu không nổi. Cuối cùng chỉ có ba cái điều kiện quan trọng của một đời tu, đó là ăn, ngủ và độc cư không ai làm nổi.
Trái lại ông Phật Ông sống Ông làm nổi, Thầy làm nổi cho nên những người đó đều là những người đã làm chủ được sự sống chết và chấm dứt luân hồi.
Vì vậy hôm nay các con thấy đức Phật ngày xưa cũng bằng xương, bằng thịt, cũng cha mẹ sanh; Thầy hôm nay cũng bằng xương, bằng thịt, cũng cha mẹ sanh, cũng biết thương, biết yêu, cũng biết đau khổ, cũng biết giận hờn y như mọi người, nhưng có một cái điều Thầy có nhiệt tâm, đức Phật dạy như thế nào Thầy làm y như thế nấy, không dám làm sai, có điều đó mà Thầy đã thành tựu.
(22:15) Vì vậy đức Phật có xa cách chúng ta không? Thầy có xa cách mấy con không? Không có, Thầy không xa cách mấy con chút nào hết. Thầy không phải là Phật, không phải A La Hán, không phải là ai hết, mà chỉ là một con người, một con người rất bình thường như mọi người khác nhưng vẫn làm chủ được sự sống chết của mình. Thầy khác hơn tại vì Thầy có nhiệt tâm, Thầy khác hơn Thầy biết cuộc đời quá khổ! Cuộc đời không có vui chút nào đâu, một cái sự vui của nó là một sự tạm bợ, Thầy hiểu rõ như vậy cho nên Thầy thực hiện được điều này.
Vì vậy ông Phật là con người thật chứ không phải con người giả, ông Phật là con người nói thật chứ không phải là con người lừa đảo chúng ta. Như người cư sĩ ở ngoài Quy Nhơn đã nói rằng: “Tôi vẫn nghi đức Phật là một huyền thoại chứ không có thật.” Nhưng sự thật ra trong lịch sử cũng có tên một người, người đó mà hôm nay chúng ta thấy đó là đức Phật Bổn sư Thích Ca. Ngài bằng xương bằng thịt, vì vậy là hôm nay Ngài đã làm được những điều Ngài giải thoát được, Ngài để lại cho chúng ta những cái gương hạnh giải thoát thật sự. Như vậy cái gương hạnh đó có xứng đáng cho chúng ta nương theo Ngài để thực hiện không?
(23:27) Trưởng lão: Hôm nay các con về đây thấy Thầy sống làm việc rất nhiều. Như các con cũng biết làm từng cái ngôi nhà bằng tầm vông, trúc, tre như thế này, Thầy ăn ngày một bữa Thầy vẫn làm bình thường, đâu có gì là khó khăn?! Thế mà người ta phải ăn nhiều người ta mới làm nổi, Thầy thiết nghĩ đâu có gì! Cho nên đối với Thầy, Thầy không tin rằng những lời của ông bác sĩ nói phải ăn mới đủ chất, điều đó điều sai, đối với Thầy Thầy cảm thấy sai.
Thầy ăn rau, ăn cỏ Thầy còn sống được kia mà, đâu phải cần đủ dưỡng chất, chín năm (tháng) trên Hòn Sơn Thầy sống bằng rau mà Thầy vẫn sống. Nếu mà chết thì hôm nay làm gì mà Thầy còn sống ở đây?! Cho nên nói ăn cái này, ăn cái kia cho đủ, điều đó sai. Thật sự tuy rằng con bò nó có ăn cái gì khác hơn là dầu, là mỡ, là này kia đâu?! Thầy vẫn thấy con bò vẫn khỏe, vẫn mạnh, vẫn cày ruộng được thì rõ ràng là những luận điệu của bác sĩ không đúng. Mặc dù là khoa học người ta chứng minh thân của chúng ta có chất này, chất kia, sự thật trong cỏ nó cũng đủ chất để cho chúng ta sống chứ, cho nên con bò nó cũng đủ chất chứ?
Nếu mà đem cái thịt bò ra chúng ta phân tích ra từng chút thì vitamin B om, B đơ, B đui, B gì cũng đầy đủ trong đó hết chứ, nếu không đầy đủ sao con bò sống được? Cho nên đức Phật nói chúng sanh có tứ đại, chúng ta cũng có tứ đại thì trong cỏ cũng có tứ đại để nuôi cái tứ đại bên trong. Thì Thầy ăn cơm cũng sống được, ăn rau cũng sống được, vì trong rau cũng có tứ đại để nuôi tứ đại trong này. Bởi vậy trong môi trường sống khi xuất hiện ra một loài vật nào, như Thầy đã nói thì nó phải có xuất hiện cái sự sống của một loài vật đó thì loài vật đó mới xuất hiện.
Như vậy thì rõ ràng là không phải vì thực phẩm mà tại vì tư tưởng của chúng ta ảnh hưởng thực phẩm, chạy theo dục lạc mà sanh tâm ăn uống thứ này, thứ kia tạo ra cái ngon, cái dở để rồi chúng ta chìm đắm trong ngon dở, dính mắc trong ngon dở. Chứ sự thật không có nghĩa lý gì! Ăn rồi sắc thân của quý vị, các cư sĩ cũng thấy rằng mỗi người đều là cái thân chúng ta toàn là bất tịnh, hôi thối, bẩn thỉu, thật sự không ai là có cái thân này mà sạch sẽ. Do con đường tu hành đúng đắn của đạo Phật đã xác định được điều này rõ ràng.
(25:56) Cho nên chúng ta từ tiếp nhận những vật bất tịnh bên ngoài để nuôi thân bất tịnh bên trong, thì toàn bộ những cái thân chúng ta không sạch sẽ chút nào. Vì thế một người tu sĩ đạo Phật có một cái trí tuệ sâu sắc, nhìn siêu suất qua mọi cái vật ở trong thế gian này, cho nên Người không dính mắc. Còn chúng ta có cái đôi mắt còn cạn, chúng ta còn chấp cái này, cái nọ, cái kia cho nên chúng ta không đi tới cái con đường rốt ráo của đạo Phật được. Đó, như vậy để xác định rằng: Chúng ta thấy rằng một con người bằng xương, bằng thịt, cũng thân tứ đại này mà đã làm được những cái điều gọi là siêu việt.
Chứ sự thật ra theo Thầy thiết nghĩ không siêu việt gì hết! Ngài đâu có thực hiện bay trên trời mà gọi là siêu việt?! Ngài đâu có thực hiện biến năm, bảy trăm người ngồi đây cho nên đâu gọi là siêu việt. Nhưng nếu mà có biến năm trăm, bảy trăm người, một triệu người ngồi đây hoặc bay lên trời ngồi cũng chỉ là một trò ảo thuật để lừa đảo người khác mà thôi! Nó có ích lợi gì?! Chỉ làm cho người ta kính phục những sự siêu việt đó thôi chứ chẳng ích lợi gì. Trái lại chúng ta sống đúng đạo đức làm người, không làm khổ mình, khổ người thì ngay đó có ích lợi thiết thực, cụ thể. Vì mình không khổ, người khác không khổ là hạnh phúc chứ sao? Là giải thoát chứ sao? Đó là cái thực tế.
Và đạo Phật mục đích ra đời là nhằm đem lại cho con người có một cuộc sống thanh thản, an lạc và vô sự, giải thoát thật sự. Như vậy đức Phật có xứng đáng là làm một cái người mà để chúng ta tu theo Người không? Chắc chắn chúng ta thấy rằng một con người thật sự như vậy, mà làm được như vậy là xứng đáng. Vì vậy mới gọi là Phật Bảo.
(27:33) Nếu mà người còn tham đắm, còn danh, còn lợi, còn như chúng ta, còn dính mắc ăn, uống, ngủ nghỉ, còn thích vui, nói chuyện, chắc chắn chúng ta không theo đâu. Bởi vì chúng ta cũng có những cái tâm, cũng có những cái thích như vậy thì chúng ta theo Ngài để làm gì? Ngài có hơn chúng ta chỗ nào đâu? Quý Phật tử suy nghĩ có phải không? Ngài hơn chúng ta là cái chỗ rất tầm thường, ai làm cũng được hết, nghĩa là ăn ngày một bữa, thì bây giờ ai ăn cũng được hết, đâu có sao?
Thế mà tại chúng ta không chiến thắng lại cái tâm tham dục của chúng ta để chạy theo cái ăn, vì vậy mà chúng ta sáng phải ăn, chiều phải ăn, thì như vậy chúng ta phải thua Ngài chứ sao! Vì vậy mà chúng ta phải nương theo Ngài chứ sao, để chúng ta thực hiện cho được cái sống như Ngài. Cho nên những cái giới mà ăn ngày một bữa là Ngài đã đặt ra tức là Ngài gọi là những bậc Thánh. Tại sao là những bậc Thánh lại có những Thánh hạnh như vậy? Tại vì mọi người làm không được, ăn ngày một bữa không được mà riêng Ngài ăn được thì có phải là Thánh không?
Nhưng mà ăn ngày một bữa có sao đâu! Thầy nghĩ rằng ai ăn cũng được hết. Nhưng mà chúng ta đừng có khởi tâm tham dục của chúng ta ăn thêm, ăn để mập, để béo, để cho tốt người thì cái điều đó là cái nghĩ tưởng của chúng ta.
Một người mà trên thế gian này họ xấu tận cùng như là ác quỷ, và một người đẹp như tiên nga thì hai người này vẫn thân xác cũng bẩn thỉu, hôi thối, không có người đẹp mà thơm tho, mà người xấu lại là hôi thối. Thân người xấu và thân người đẹp vẫn hôi thối, vẫn bất tịnh như nhau, không khác nhau. Cho nên đối với đôi mắt của đức Phật nhìn người đẹp cũng như người xấu, y như nhau không khác. Vì thế cho nên Người ăn ngày một bữa được, đó là những cái gương hạnh để chúng ta thực hiện được sự giải thoát, không bị dính mắc.
(29:43) Trưởng lão: Kế đó pháp của Phật rất thực tế, cụ thể, không dạy chúng ta ức chế tâm chúng ta để làm khổ chúng ta để rơi vào những cái định tưởng. Pháp của Phật dạy chúng ta hàng ngày sống xả ly, ngăn ác diệt ác như Thầy vừa nói:
“Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành”.
Nghĩa là tất cả các pháp ác thì chúng ta không làm mà chúng ta luôn luôn lúc nào cũng thực hiện các pháp lành. Pháp lành là pháp không làm khổ mình, khổ người, đó là cái nền đạo đức của đạo Phật mà mọi người không thấy được nơi cái pháp này. Người ta chửi mình thì người ta là người đau khổ trước tiên rồi, người ta có giận người ta mới chửi mình được. Người ta không giận, không thù oán mình làm sao người ta chửi mình được? Mà một người ôm tâm giận hờn, thù oán thì người đó có khổ không?
Chúng ta phải nghĩ mà thương họ chứ sao chúng ta lại giận để mà chửi mắng họ lại, đánh đập họ đó là chúng ta ngu si, chúng ta vô minh quá. Một người khổ mà rồi bây giờ chúng ta lại tạo thêm cho chúng ta thêm một người khổ nữa sao?
Cho nên đối với đạo Phật, cái pháp của đạo Phật dạy chúng ta ngăn ác diệt ác là như vậy, để chúng ta một người khổ, thì đã là khổ thì chúng ta không nên làm khổ thêm. Làm khổ thêm là làm khổ gì? Nếu người ta chửi mình mà mình giận tức là mình làm thêm một người thứ hai khổ nữa.
Và từ cái chỗ giận đó mình lại làm thêm một cái khổ thứ ba nữa là mình chửi mắng lại người ta, mình tạo thêm những ác pháp nữa, tức là làm cho cả gia đình mình khổ hết. Vì gia đình của mình phải bênh vực mình, do đó họ cũng lăn xả vào những ác pháp làm cho cả gia đình mình đau khổ. Thế rồi gia đình người khác cũng vậy, họ cũng lăn xả vào sự đau khổ đó.
Thế cho nên khi mà tu biết ngăn ác diệt ác thì ngay đó chúng ta thấy giải thoát không? Thật sự pháp của Phật vi diệu thật, giúp chúng ta giải thoát thật sự trong cuộc sống, không có lúc nào mà chúng ta không an ổn.
(31:43) Như vậy cái pháp đó có quý không? Bây giờ chúng ta hở hở chút là chúng ta buồn, chúng ta giận, chúng ta hờn, chúng ta lo lắng, chúng ta sợ hãi, lo đói lo no đủ thứ hết, lo giàu, lo nghèo, lo thua sút người ta đủ mọi mặt. Bây giờ phải làm cho có tiền, cất nhà cho đẹp thì mới bằng người ta, còn không thì thua sút. Những cái lo lắng đó nó có phải hạnh phúc cho mình không? Trong cuộc đời của chúng ta làm lương thiện, chúng ta siêng năng làm thì chắc chắn chúng ta phải có mà sống, chúng ta phải giàu sang, phải không?
Còn bây giờ chúng ta có làm biếng mà chúng ta lo đi nữa, mà chúng ta không làm thì chúng ta có giàu sang không? Chỉ có nước đi ăn trộm, ăn cướp người ta mà thôi. Cho nên ở đây chúng ta sinh ra đời chúng ta phải có sự lợi ích cho mình, cho người, thì chúng ta siêng năng làm ăn; rồi chúng ta biết làm ăn, thì tức là chúng ta không cầu mong sự giàu sang thì chúng ta vẫn giàu sang. Còn chúng ta làm biếng mà ngồi không mà bảo giàu sang thì chắc chắn không thể được rồi.
Cho nên trong cuộc đời tu hành theo đạo Phật, pháp của Phật dạy chúng ta không phải ngồi thiền để cầu thần thông, không phải niệm chú để có thần thông, không phải niệm Phật để cầu ngày mai này chúng ta chết về cõi Cực Lạc, chúng ta không cầu mong điều đó đâu. Nhưng mà chúng ta cầu mong nơi cuộc sống của chúng ta có một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự. Cho nên pháp của Phật dạy chúng ta thực tế không còn làm khổ mình, khổ người, như vậy cái pháp đó có quý không? Nó đem đến thực tế.
Còn bây giờ chúng ta ngồi đây mà cầu mình phải niệm Phật này, tụng kinh này, để cho gia đình mình bình an, có bình an không? Hay là mình ngồi đây mình tụng kinh, niệm Phật mà về nhà mình thì mọi thứ chuyện mình chửi, mình mắng, mình la, mình hét thì như vậy ông Phật, Bồ Tát có xuống phù hộ được cho gia đình mình yên ổn không? Không, không bao giờ có. Hoặc là mình vào chùa tụng kinh, niệm Phật để cầu cho trúng số, hay hoặc là làm ăn phát đạt này kia có được không? Nếu chúng ta cầu Phật được mà về nằm không đó mà tiền ở đâu đổ đến chắc chắn người ta sẽ niệm Phật, người ta đâu cần gì phải làm.
(33:53) Thế thì ở đây Phật bảo chúng ta phải siêng năng, cần mẫn lo làm ăn thì chắc chắn là điều đó là chúng ta phải có, nhưng chúng ta làm nhưng mà chúng ta đừng có ước vọng rằng mình phải làm giàu hơn thiên hạ. Sự ước vọng, sự ao ước đó quá tầm sức của mình thì mình không đạt được thì mình lại đau khổ. Cho nên ở đây chánh pháp đức Phật dạy để mà chúng ta tu tập, chúng ta:
“Quá khứ không truy tìm
Vị lai không ước vọng”.
Nghĩa là chúng ta không ước vọng những cái chuyện gì mà sắp tới, mà chúng ta chỉ hiện tại mà làm nó mà thôi. Cho nên hiện tại chúng ta làm tốt, làm thiện thì tương lai chúng ta sẽ tốt. Còn những gì mà đã qua rồi dù là trong cái đời chúng ta trước kia là vàng son, vua chúa, mà bây giờ chúng ta chỉ là thứ dân thì chúng ta đừng có nghĩ đến ngày kia, ngày rồi, ngày qua thì chúng ta là những người giàu sang, danh vọng, còn bây giờ chúng ta là những người thứ dân khổ sở. Nghĩ như vậy làm chúng ta đau khổ hơn.
Tốt hơn cái gì đã đi qua rồi thì thôi, cho nên chúng ta không suy nghĩ về chuyện đã qua, mà không ước vọng về chuyện tương lai, thì như vậy là giải thoát rồi chứ gì?! Chỉ có hiện tại chúng ta cần phải sống thiện, làm thiện, đừng làm khổ mình, khổ người thì tương lai chúng ta là một huy hoàng, một đẹp đẽ.
Cho nên dù là chúng ta có ở cõi thế gian cũng là Thiên đàng, mà bất kỳ đi ở cõi nào thì nơi đó cũng là Thiên đàng, Cực lạc. Cho nên chúng ta có cần gì để mà tụng kinh, cầu khẩn, để cầu vãng sanh về Cực lạc không? Để đi vào một cõi nào không? Không bao giờ có điều đó hết. Đạo Phật không dạy điều đó, chỉ có Bà La Môn Giáo mới dạy điều đó, dạy điều hy vọng, ước vọng một cái mơ hồ, trừu tượng, ảo giác.
Trái lại đạo pháp của Phật dạy quá thực tế, chúng ta sống trong hiện tại, làm tốt trong hiện tại, sống thiện trong hiện tại, tương lai chúng ta sẽ tốt đẹp. Và những gì quá khứ đã qua rồi thì chúng ta không cần nhớ nó nữa. Tại sao vậy? Tại vì khi ở trong quá khứ chúng ta đã chưa hiểu biết được Phật pháp, chưa hiểu biết được giáo pháp của Phật thì quá khứ chúng ta có nhiều lầm lạc, có nhiều sự đau khổ, bây giờ nhớ lại để làm gì đây? Có lợi ích gì? Chúng ta có giải quyết gì cho những sự đã qua không?
Giáo pháp của Phật tuyệt vời, chấm dứt cho chúng ta không còn suy nghĩ gì chuyện đã qua mà hãy nghĩ về hiện tại và sống trong hiện tại tốt thì tương lai sẽ tốt. Pháp như vậy thật sự là pháp quý báu vô cùng cho nên gọi là Pháp Bảo.
Về pháp như vậy chúng ta có cần theo tu tập không? Có cần thấy nó là một con đường sáng để chúng ta đi không? Đúng, chúng ta sẽ không làm khổ ai hết, chúng ta sẽ hoàn toàn được giải thoát bản thân của mình trong cuộc sống, không làm khổ mình, hoàn toàn mình được giải thoát. Như vậy chuyện này có làm được không? Được! Đâu có gì khó!
(36:58) Trưởng lão: Bởi vì đức Phật nói rằng chúng ta tu bằng cái sự hiểu biết, bằng trí tuệ; và cái sự hiểu biết của con người chúng ta có, mọi người chúng ta ai cũng có sự hiểu biết. Hiện giờ chúng ta biết rằng sáng chúng ta ăn là mất công, là khổ, là phải cực, phải nấu nướng, phải làm rồi mới ăn, vậy thì chúng ta không ăn sáng có chết đâu? Cho nên chúng ta không nấu nướng, không làm ăn, vậy thì cái người mà nghỉ ngơi mà không làm, mà chúng ta vẫn thấy sung sướng hơn là ngồi ăn, thì cái người nào sướng hơn?
Chắc chắn là chúng ta có trí tuệ chúng ta hiểu rằng: Một cái người không ăn sáng phải sướng hơn là cái người ăn sáng. Người ăn sáng phải cực khổ hơn nhiều và phải lo lắng hơn nhiều, phải làm nhiều, còn người không ăn sáng đã tiết kiệm được buổi ăn sáng, biết bao nhiêu tiền trong một bữa ăn không? Chúng ta đã phí mồ hôi để phục vụ, nô lệ cho sự ăn uống của chúng ta thì rõ ràng là chúng ta phải phục vụ cho tất cả những sự khác, làm cho đời sống của chúng ta không có phút thảnh thơi, an ổn.
Nếu chúng ta không ăn sáng, ăn chiều thì chúng ta tiết kiệm được số tiền đó. Nếu mà chúng ta thừa thì chúng ta giúp cho những người bất hạnh trong xã hội, còn nếu mà chúng ta không thừa thì chúng ta thấy mình cũng an ổn, không phải làm lụng quá nhiều để rồi vất vả chỉ vì phục vụ cho cái ăn mà thôi. Phải khi mà ăn rồi quí vị đi cầu, đi tiểu ra bằng vàng, bằng bạc thì cũng nên, mà toàn là đi bỏ ra, bài tiết ra toàn là những thứ bất tịnh, không ai dám nhìn, không ai dám ngó. Quá sợ! Vì vậy mà người ta phải làm những cái cầu xí để cho nó giữ những cái vệ sinh. Vì người ta rất sợ những cái mùi hôi thối đó, bất tịnh đó. Thế rồi chúng ta tham ăn để tạo ra những sự bất tịnh đó sao?
Cho nên ở đây Thầy nói thật sự đừng tham ăn! Mà đừng tham ăn là làm Phật rồi quí vị. Cho nên Pháp Bảo, pháp của Phật dạy chúng ta ly tham mà diệt ác pháp, có phải không? Mà cái nhỏ tham ăn mà chúng ta không ly thì còn ly được cái gì nữa? Cho nên ở đây chúng ta nên tập. Vì vậy mà đức Phật đã dạy chúng ta là người cư sĩ, chúng ta không nên sống ngay liền như Phật, luôn luôn lúc nào cũng ăn ngày một bữa.
(39:20) Mà đức Phật dạy chúng ta rất rõ ràng, đừng ức chế chúng ta, làm khổ chúng ta. Mà mỗi tháng chúng ta chỉ tập thọ Bát Quan Trai tập sống một ngày một bữa, sống như Phật để làm gì? Để thấy rằng chúng ta ly tham diệt ác pháp. Pháp như Phật dạy chúng ta rất thực tế, một tháng ba mươi ngày chỉ dạy chúng ta có một ngày tu tập để làm Phật, để được sự giải thoát. Rồi chúng ta suy ngẫm lại một ngày đó rồi chúng ta thấy rằng mình phải tập thêm ngày thứ hai. Và pháp dạy chúng ta lần lượt cuối cùng ba mươi ngày chúng ta đều làm Phật trọn vẹn.
Và ba mươi ngày chúng ta thấy rằng tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn, thì chừng đó chúng ta làm chủ sự sống chết rất cụ thể, và chấm dứt luân hồi vì chúng ta biết cách chấm dứt luân hồi, phải không? Nếu mà chúng ta thực hiện đúng cái pháp của Phật thì chúng ta ly dục ly ác pháp được, thì tất cả những thiền định mà tịnh chỉ hơi thở, ngưng hơi thở sống chết đâu còn khó khăn nữa, cho nên làm chủ toàn bộ nhân quả, làm chủ toàn bộ thân và tâm của chúng ta. Còn bây giờ tâm chúng ta chưa ly dục ly ác pháp thế mà chúng ta muốn làm chủ những điều này chắc chắn không bao giờ có được.
Đó, cái pháp quý báu như vậy, lợi ích như vậy, không tu thôi mà đã tu thì có giải thoát. Một tháng ba mươi ngày chúng ta chỉ có một ngày tu tập giống, thì chúng ta suy ngẫm coi ngày đó chúng ta có giải thoát không? Có thực tế không? Thực tế. Chúng ta làm đúng, ngày đó chúng ta không nói chuyện, không tạo những cái duyên ác, ngăn được các pháp ác, không có tiếp duyên, ăn ngày một bữa, chúng ta ly được cái tham. Rồi ngủ, chúng ta tập ít ngủ, chúng ta ly được cái tâm si của chúng ta, vì vậy mà càng ngày chúng ta càng sáng suốt, nhìn rõ được.
Như vậy pháp quá tuyệt vời! Sống thật, làm thật chứ đâu phải vô chùa gõ mõ tụng kinh, niệm Phật, niệm chú đâu?! Chúng ta chỉ cần sống đúng pháp như Phật đã dạy thì chắc chắn chúng ta thấy được một đời sống giải thoát. Pháp rất quý báu, vậy thì cái pháp như vậy có xứng đáng để mà chúng ta theo tu không? Hay là chúng ta thấy là cái pháp đó nó không hợp với mình? Mà mình chỉ hợp với cái pháp là vô chùa tụng kinh, niệm Phật để cầu vãng sanh nó hợp hơn, thì tùy theo ở nơi tâm của quý vị muốn chọn.
Quyền tự do tín ngưỡng là nơi quý vị, quý vị thấy cái nào lợi ích thì quý vị làm, còn cái nào không lợi ích thì quý vị thôi, đó là quyền của quí vị. Ở đây Thầy có bổn phận là giải thích để chúng ta hiểu được cái lợi ích thiết thực của pháp. Cái pháp ngồi đó gõ mõ tụng kinh nó có giải thoát được chúng ta không? Chắc chắn điều này (là) một hy vọng hão huyền, chắc chắn một giấc mơ chứ sự thật không thể nào là những người còn mang cái tâm tham, sân, si mà được đức Phật Di Đà rước về cõi Cực lạc. Cho nên pháp của Phật thực tế như vậy, xứng đáng là chúng ta quy y Pháp Bảo.
(42:20) Trưởng lão: Tăng Bảo là như thế nào? Tăng Bảo là một vị Tăng phải xứng đáng, một vị Thầy phải xứng đáng là phải sống đúng giới luật của Phật. Hai trăm năm chục giới, còn bên giới nữ ba trăm bốn mươi tám giới. Giới tức là thiện pháp, mỗi một cái giới luật là một thiện pháp. Một người tu sĩ giữ trọn được một giới luật không vi phạm là đẩy lui một ác pháp. Như vậy hai trăm năm chục giới của vị Tỳ kheo của một người nam mà đã giữ trọn thì người ấy đã ly ác pháp. Cho nên nếu mà đã ly được ác pháp thì tức là phải ly được cái tâm ham muốn của chúng ta.
Cho nên có người hỏi Thầy: “Tại sao có thầy lại nói rằng là mình nhập tới Tứ Thiền, Nhị Thiền mà tại sao họ còn không giải thoát hoàn toàn mà họ còn lại trở về đời, họ lại còn đắm đuối?” Sự thật ở đây đức Phật đã nói rằng chúng ta ly dục ly ác pháp chứ chưa phải chúng ta đoạn diệt dục và ác pháp. Phải không? Đức Phật nói ly mà, mà bây giờ mình ly mà mình tu mới có tới Tam Thiền mình nói xong rồi, mà bây giờ mình ra đời mình tiếp xúc với đời thì mình vẫn dễ bị người ta cám dỗ. Khi ở trong chỗ tu thì mình ly, nhưng mà ra đời mình có ly không?
Mình tiếp duyên mà làm sao mình ly được? Một ngày người ta ăn ba bốn bữa, rồi mình bây giờ ăn ngày một bữa, ra đó người ta ăn cái mình thấy mình thèm. Mình thèm quá, thì mình ly mà, vì vậy mà nó gợi cái tâm mình dục trở lại, sống dục trở lại, do đó mình sẽ bị nhiễm ô trở lại. Khi ở đây tu hành mà mình luôn luôn lúc nào cũng thanh tịnh, nhưng mà khi bước ra mà mình còn giữ được cái sự thanh tịnh nơi đây, ở nơi gia đình của mình thì đó là mình ly chứ chưa phải diệt. Diệt khi nào mà chúng ta thực hiện tới Lậu Tận Minh là mới diệt.
Bởi vì Lậu Tận Minh là lậu hoặc nó tận diệt rồi, nó hết khổ đau rồi, nó hết ác pháp rồi, nó hết dục rồi. Tức là Lậu Tận Minh nó mới diệt sạch. Như vậy con đường của đạo Phật, pháp của Phật nó cũng xác định được rõ ràng như vậy, cho nên khi mà chúng ta mà đi cho tới cái pháp tận cùng của nó là chúng ta phải đạt được Lậu Tận Minh. Chứ đừng nói tôi là nhập Tứ Thiền, tôi chứng quả A La Hán mà Tam Minh tôi chẳng biết gì hết thì người đó chưa phải là chứng quả A La Hán.
(44:13) Bởi vì một bậc A La Hán của đạo Phật là phải chứng tới Tam Minh, Lậu Tận Minh nó xác định được một cái trí tuệ giải thoát đó, cho nên nó mới có làm chủ hoàn toàn. Vì vậy mà lúc bấy giờ cái người mà đạt được Lậu Tận Minh, họ thõng tay họ vào chợ họ không nhiễm. Nghĩa là người ta ăn uống như thế nào họ không bị nhiễm, mà họ không nhiễm tức là họ không bị ăn uống. Chứ không phải như Tế Điên Hòa Thượng là khi thõng tay vào chợ thì ông ra đó ăn thịt uống rượu say sưa với mọi người như thường, gọi là mình tu xong. Người đó vẫn là cái người ô nhiễm. Người đó chỉ ly ở trong cái giai đoạn tu, nhưng mà ra đụng đời thì ngài bị nhiễm liền tức khắc. Người này không phải là Phật sống mà là một phàm phu tục tử tu chưa tới nơi tới chốn.
Còn trái lại, một người mà gọi là Thánh Tăng, một vị Thánh Tăng mà chúng ta chọn, người đó dù là ngồi giữa chợ, ai đem thịt cá người ta vẫn không ăn, đem rượu mời người ta vẫn không ăn. Người đó ăn ngày một bữa, đi đến đâu cũng vậy, người ta mời ba bữa nhất định không ăn, hoàn toàn không ăn. Bởi vì người ta biết cái gì giải thoát và cái gì không giải thoát. Đó là những bậc Thánh Tăng.
Những bậc Thánh Tăng chúng ta chỉ không phải nhìn ở chỗ họ có thần thông phép tắc, không phải nhìn ở chỗ những cái siêu việt, huyễn hóa của họ, cái ảo thuật của họ; mà hãy nhìn cái đời sống của họ có sống đúng giới luật của Phật hay không? Nếu là một bậc Thánh Tăng là luôn luôn phải sống đúng giới luật, không được vi phạm, và người mà vi phạm không phải là Thánh Tăng. Cho nên chúng ta chọn một bậc Thánh Tăng để mà chúng ta nương vào ba ngôi Tam Bảo này.
(46:11) Trưởng lão: Cái hạnh sống của đức Phật ngày xưa, thì cái hạnh sống đó nó thực hiện cho mọi người đều thấy được. Cho nên ngày xưa khi đức Phật, khi vua Ba Tư Nặc hỏi đức Phật: “Chúng con nhìn thấy năm vị tu sĩ đi ngang qua đây, biết ai là A La Hán, mà ai là không phải là A La Hán?”, Đức Phật nói: “Dễ lắm, không có khó khăn gì hết, khi đó chúng ta sống gần bên các vị đó trong một ngày thì chúng ta biết ai là A La Hán, ai là không A La Hán”. Nếu một ngày chúng ta chưa biết thì 1 tuần lễ, 1 tuần lễ chưa biết thì 1 tháng, 1 tháng chưa biết thì 1 năm, nghĩa là sống gần sẽ biết. Nếu quả A La Hán thì chắc chắn người ta sẽ giới luật nghiêm chỉnh, mà người không phải A La Hán thì chắc chắn là bị ô nhiễm, cho nên họ sẽ ăn lén, ăn lút hoặc là họ ngủ nghê không đúng giờ giấc. Tất cả các vị này đều là những con dê ở trong bầy bò chứ không thể nào là con bò được. Chúng ta sẽ lôi ra được, chúng ta sẽ thấy ra được.
Cho nên đức Phật xác định không phải dùng một cái trí tuệ gì cả hết, mà dùng cái kinh nghiệm sống gần bên những người đó là biết những người đó là A La Hán hay không phải A La Hán.
Đó là những cái điều kiện mà hôm nay Thầy nói lên cái Tăng Bảo để chúng ta chọn lấy một vị thầy xứng đáng mà chúng ta quy y Tam Bảo. Còn bây giờ đụng ông thầy phạm giới, phá giới mà bây giờ ông mang cái danh là Hòa thượng, Thượng tọa là một cái người thuyết giảng hay, là một thiền sư, là một chân sư một cái danh từ gán cho ông ta, nhưng cuối cùng thì cái sự sống của ông ta chẳng ra gì hết. Ăn uống phi thời, ngủ nghỉ không đúng, rồi giới luật tất cả những điều vi phạm. Một vị thầy mà lại nói chuyện với người phụ nữ một mình trong phòng thì còn nghĩa lý gì?
(47:57) Mình phải nghiêm chỉnh, mình phải giữ gìn, không làm khổ mình, khổ người, không chừng ông thầy này là Phật đi, ông không có tình cảm đi, thì ít ra cái người nữ kia người ta có Phật được sao? Lỡ người ta có thương yêu ông là như thế nào, tại sao ông không ngăn ngừa trước để khi mà người ta đã nhiễm ô, người ta thương ông, thì như vậy ông đã tự làm khổ người khác sao? Cho nên đối với một người tu sĩ đạo Phật, một người Thánh Tăng, người ta không bao giờ nói riêng với một người Phật tử nữ, người ta nói chung, nói tất cả với mọi người, nói nơi chỗ hẳn hòi, đàng hoàng chứ không phải trong cái phòng kín đáo, rồi hai vị một người nữ, một người nam ngồi nói chuyện riêng tư, thì điều đó là một cái điều không đúng cách của một người tu sĩ, đệ tử của đức Phật. Cho nên những người đó là không phải là Thánh Tăng.
Cho nên những hành động rất là đơn giản mà chúng ta là những người cư sĩ, chỉ cần để mắt là chúng ta đã biết những bậc đó là những bậc tu hay là những bậc danh, những bậc giả, chúng ta rất rõ. Và như vậy, những người mà không phải là Thánh Tăng như vậy, thì những người đó có đúng là Thầy của chúng ta không? Nếu chúng ta theo người đó để người đó quy y chúng ta, thì chúng ta sẽ lấy gương hạnh ở chỗ nào mà chúng ta tu? Vì người đó sống y như chúng ta, cũng ham muốn, cũng danh, cũng lợi, cũng ham tiền, ham bạc cũng tất cả những sự chùa to, Phật lớn cũng giống như chúng ta, cũng nhà lầu, nhà đài, tâm chúng ta ham muốn như thế nào thì cái vị tu sĩ này họ cũng ham muốn như vậy, thì họ hơn gì ở chúng ta ở chỗ nào đâu mà họ làm thầy chúng ta, để chúng ta nương vào họ mà chúng ta nhờ.
Cho nên ở đây chúng ta phải chọn một vị Tăng là một vị Thầy, một vị Thầy là một cái gương sống của giới luật, một cái gương sống của thiền định, một cái gương sống của trí tuệ. Thầy nói gương sống tức là cái người đó sống trong hành động của họ, để rồi chúng ta nương vào cái hành động đó mà chúng ta trở thành những con người tốt, những con người hạnh phúc, những con người giải thoát thật sự. Nếu chúng ta không có những bậc Thầy như vậy thì chúng ta nương vào đâu mà chúng ta được giải thoát? Cho nên Tăng Bảo rất quý như vậy đó.
Vì vậy mà trong cuộc đời của quý vị phải chọn một vị thầy xứng đáng, đừng có đụng ai, đừng có xu hướng theo người ta thấy có một người cũng quy y theo vị thầy đó, mà mình không xét vị thầy đó ra như thế nào hết, cũng a dua theo mà quy y, cuối cùng thì vị thầy đó mình phải trung thành, chung thủy. Bởi vì mình quy y với vị thầy đó rồi, mà vị thầy đó làm bậy không dám nói nữa, không dám nói ra, bởi vì thầy của mình mình nói ra thì coi như mình có tình có nghĩa không? Cho nên rất khổ, rất khổ tâm khi biết thầy mình không phải là bậc A La Hán thì mình rất khổ tâm chứ gì! Khi thấy Thầy mình không phải là Tăng Bảo thì mình rất khổ tâm chứ gì!
(50:43) Trưởng lão: Cho nên ở đây khi mà chọn một vị Tăng Bảo để mà chúng ta quy y với Người thì không phải là một chuyện đơn giản đâu, đừng có đụng đâu mà quy y đó, đừng có xu hướng theo một nhóm đông người ta quy y rồi mình cũng quy y, mà mình nên chọn kỹ lưỡng. Cho nên ở đây, dù một người đến đây xin Thầy mà làm lễ quy y, Thầy vẫn làm một cái lễ thuyết cho họ hiểu được cái điều kiện họ đã chọn lấy xứng đáng thì họ chọn, mà không xứng đáng thì thôi. Cũng như ở đây, quý Phật tử thấy Thầy xứng đáng là một vị Thầy thì quý Phật tử hãy theo, mà không xứng đáng thì Thầy không ép buộc phải theo Thầy đâu.
Thầy nói thật sự, cuộc đời mà nhận học trò mà nhiều là mình có trách nhiệm và bổn phận rất nhiều đối với nó, không thể bỏ nó được. Nó có điều gì gia đình của nó, nó đau khổ thì mình phải dạy cho nó từng chút, từng ly để nó đừng đau khổ. Gia đình nó xảy ra những điều gì nó không đủ trí tuệ, không đủ sức, khả năng của nó để nó đương đầu với nhân quả của nó, thì vị Thầy đó phải trợ giúp nó để làm cho nó hiểu, đặng cho nó cởi mở được tâm hồn của nó, nó sống được an ổn. Cái nhiệm vụ, bổn phận của vị Thầy như vậy.
Cho nên đối với Thầy, Thầy rất lo lắng khi nhận người ta làm đệ tử của mình, thì mình phải có trách nhiệm, phải suốt đời của mình phải an ủi họ, dù là họ có một cái điều gì, họ viết một bức thư, một lời kêu cứu với Thầy thì tức là một vị Thầy đó không bao giờ bỏ họ được. Cho nên Thầy phải bận tâm rất nhiều những bức thư mà hôm nay mà các con được đọc ở trong “Đường Về Xứ Phật” hầu hết là đệ tử của Thầy đã kêu gọi Thầy tha thiết để cứu khổ. Thầy chỉ còn an ủi họ, Thầy chỉ còn giúp họ đi trên con đường của Phật pháp để cứu họ, họ có nghe thì họ làm, họ không nghe thì họ chịu, nhưng bổn phận của Thầy là phải hết lời, hết ý để giúp họ, không thể bỏ lơ họ được. Còn nhiệm vụ thực hiện hay không thực hiện đó là nhiệm vụ của họ. Còn bổn phận của Thầy là phải hết lòng với họ, giúp cho họ.
Như hôm nay Thầy nhận hai con mà về đây thọ Tam Quy, Ngũ Giới ở đây, các con không báo cho Thầy hay điều gì thì thôi, nhưng mà khi mà hay những cái điều mà các con đang gặp phải sự khó khăn trong luật Nhân quả thì lúc bây giờ Thầy đứng trong luật Nhân quả, Thầy giải thích cho các con hiểu, để làm cho tâm hồn các con thanh thản, an lạc. Đó là nhiệm vụ của một vị Thầy để giúp các con từng giờ, từng phút sống trong nền Đạo Đức Nhân Quả, để làm cho các con sống một cuộc sống an ổn, giải thoát. Đó chính là một vị Thầy. Thầy không dạy các con phải cầu khẩn để chư Phật, để đức Phật Bồ Tát Quán Âm phù hộ cho các con, mà Thầy dạy cho các con phải tự lực cứu mình bằng những hành động thiện, bằng những điều mà các con phải cứu con ngay trong khi các con đang đau khổ. Đó là những điều mà chọn một bậc Thầy, một bậc Thánh Tăng xứng đáng.
(53:44) Trưởng lão: Hôm nay Thầy không biết các con có hiểu được Thầy không? Mà các con lại xin quy y với Thầy, điều này là điều rất quan trọng, mà khi đã làm đệ tử của Thầy, những lời nói của Thầy để giúp các con tu hành, thì các con phải vâng theo lời Thầy như một ông cha hiền, như một người Thầy giỏi luôn luôn lúc nào cũng muốn cho đệ tử của mình được an vui, được hạnh phúc, được làm chủ sự sống chết. Khi đã được Thầy quy y Tam Bảo, tức là nhiệm vụ, trách nhiệm của Tăng Bảo phải làm sao cho người đệ tử của mình thực hiện được con đường giải thoát. Vì vậy mà các con nhớ khi mà các con nhận Thầy là Thầy, là một Tăng Bảo của các con thì các con hãy thực hiện một tháng ít nhất phải có một ngày thọ Bát Quan Trai. Tại sao Thầy quan trọng đến mức độ như vậy? Tại vì các con phải hiểu: Một cái cây thì nó phải nghiêng về hướng nào, thì bóng nó phải ngả về hướng đó.
Vì vậy mà Thầy, nghĩa là Thầy nghĩ rằng: Các con đời nay chưa tu được, chưa giải thoát hoàn toàn, thì các con cũng nên gieo một cái nhân quyên để tạo cho cái bóng của các con sẽ ngả về hướng đó. Vì vậy thọ Bát Quan Trai là các con sẽ ngả về cái hướng của Phật pháp. Từ đó các con mới có sự giải thoát hoàn toàn. Nếu các con không thọ Bát Quan Trai, thì đương nhiên các con sẽ không có cái hướng ngả về đó và không có hướng ngả về đó thì Phật pháp ngày mai thân này các con gặp Thầy, thân sau các con không đủ duyên gặp nữa. Cho nên Tăng Bảo là lợi ích như vậy, các con thấy có xứng đáng thì các con sẽ ước nguyện quy y Phật – Pháp – Tăng, mà không xứng đáng thì thôi không ai ép các con, quyền tự do tín ngưỡng là nơi các con, có lợi ích cho các con, đem đến sự giải thoát an vui cho các con thì các con hãy phát nguyện mà quy y.
(55:36) Hôm nay các con đã được nghe Phật Bảo, rồi Pháp Bảo và Tăng Bảo nó thực tế và cụ thể như thế nào? Không phải nhìn một vị Tăng Bảo bằng thần thông phép tắc, mà bằng đạo đức của vị đó, bằng những lời an ủi của vị đó trên một nền Đạo Đức Nhân Bản – Nhân Quả. Thì đó là một cái điều để giúp cho các con được giải thoát. Các con có tin tưởng nó không? Nếu tin tưởng thì hãy phát nguyện. Trước đây hình ảnh của đức Phật. Tuy đức Phật đã tịch lâu rồi, nhưng hôm nay hình ảnh của đức Phật mà chúng ta thờ phụng tức là kính mến, tôn trọng, hình ảnh của đức Phật tượng trưng cho đức Phật ngày xưa và hình ảnh nãy giờ là những lời mà dạy, là những lời Pháp Bảo và Thầy là đại diện cho Tăng Bảo là một người tu giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh.
Thầy có xứng đáng, pháp Thầy nói có xứng đáng, hình ảnh đức Phật là con người bằng xương bằng thịt tu có xứng đáng, là nơi các con đã quy ngưỡng, đã quy y về nó. Thì các con hãy chắp tay lên mà hướng về tượng Phật, hướng về Pháp Bảo, hướng về Tăng Bảo mà xin: “Hôm nay con đủ duyên xin chư Phật mười phương chứng minh con sẽ quy y Tam Bảo”. Các con chắp tay, khi nào quy y Tam Bảo thì các con chắp tay lên xin.
(57:16) Trưởng lão: Sau khi đã thành tâm hướng về tượng Phật, xin quy y Tam Bảo, đời đời kiếp kiếp các con sẽ theo Phật, Pháp, Tăng để đem lại một sự giải thoát cho chính bản thân của mình. Bây giờ các con sẽ nghe Thầy giảng về năm đạo đức làm người tức là năm giới luật. Vậy năm cái đạo đức làm người này như thế nào?
Giới thứ nhất mà trong giới luật Phật dạy là: Không sát sanh, không xui người sát sanh, không vui theo người sát sanh. Vậy thì tại sao cái giới luật lại dạy như vậy? Nó là đạo đức gì đây? Đây là Đạo Đức Hiếu Sinh, hiếu cái sự sống, cái sự sống của muôn loài. Cho nên cái giới luật này nghe như chúng ta không có cầm dao giết con gà, con vịt, đập đầu con cá, không phải đâu. Cái giới luật còn rộng, còn rộng còn xa hơn nữa.
(58:15) Trưởng lão: Bởi vì với cái đôi mắt của đức Phật khi đã chứng đạo, đức Phật đã thấy: Con người từ đâu sinh ra và chết đi về đâu? Mà hầu hết các tôn giáo đều tự đặt câu hỏi đó ra, rồi đi tìm cái đó, để truy ra coi: Con người từ đâu sinh ra? Có phải có một cái linh hồn nơi đâu đến đây không?
Đức Phật thì quá đơn giản, Ngài đã thấy: Con người không có linh hồn, không có từ đâu sinh ra, nó chỉ từ trong môi trường sống. Ở đâu có môi trường sống thì ở đó có muôn loài vật sinh ra. Cho nên không có nghĩa là con người ở cõi nào đến đây được, mà chính con người ở trong môi trường sống của hành tinh này mà xuất hiện.
Đức Phật thấy, biết rất rõ, cho nên Ngài mới đưa ra có năm loại sanh.
Loại thứ nhất: Là thấp sanh, nơi ẩm ướt mà sanh ra. Một đống rác chúng ta ủ ẩm thì một thời gian đống rác mục vừa đủ để có thực phẩm cho loài động vật đó ăn, thì tức là chúng ta lật đống rác ra, chúng ta thấy những con vật ở dưới đó rất nhiều, có phải đúng là loài thấp sinh không? Loài sinh nơi ẩm thấp không? Đúng, đức Phật nói không sai.
Rồi kế đó thì cái loài mà sanh kế đó là loài noãn sanh, sanh bằng trứng. Cái loài chim, loài thú mà sinh trứng ra đời trước, không phải chỉ có loài chim mới sanh trứng mà còn có những loài rắn, rồi thằn lằn, kỳ đà, tắc kè hoặc là những loài bốn chân vẫn sinh trứng.
Rồi đến cái loài sinh thai như loài người, có những cái loài vật cũng sanh thai.
Rồi đến các loài hóa sanh.
Cho nên nó có bốn cái sự sanh. Vậy con người từ đâu sinh ra, chết đi về đâu? Rõ ràng là từ môi trường sống sinh ra chứ không có gì hết, và cái chết cũng đi trở về môi trường sống. Tại sao? Tại vì trong môi trường sống này nó có: Đất, nước, gió, lửa. Cho nên nó đủ các chất này nó hợp thì nó thành loài vật, mà nó tan thì nó trở về đất, nước, gió, lửa của nó.
(01:00:26) Cho nên một người chết chúng ta khi chôn 10 năm, 20 năm sau chúng ta đào cái mộ lên thì thân xác của chúng ta trở thành đất, không còn gì cả hết mấy con, thậm chí như xương của chúng ta cũng không còn, nó cũng thành đất hết, nó làm cho đất lại màu mỡ thêm, nó làm cho đất lại thêm một chất màu mỡ thêm. Cho nên một loài vật mà chết đi, nơi đất đó nó có màu mỡ, nó làm cho sung mãn thêm cho sự tốt của miếng đất. Cho nên nó làm thêm sự sống ở đó. Vì vậy mà chúng ta thấy khi mà con vật chết sau thời gian chết nó thành đất cát, thì nơi đó cỏ mọc rất xanh, rất tốt, nó làm thành một chất phân, có phải đó là môi trường sống không? Nó tạo cho một cái duyên khác để cho một cái loài vật khác sống trở nên thành tốt không?
Cho nên chúng ta biết rõ ràng là đức Phật đã xác định đúng là từ môi trường sống. Nhưng mà môi trường sống nó có minh không mấy con? Nó đâu có minh được, nó là vô minh, nó đâu biết thiện, biết ác đâu. Một cơn gió thổi qua, một cơn bão thổi qua nó có biết là thổi qua là tai hại, giết hại con người, con vật không; giết hại nhà cửa, nó làm tàn phá nhà cửa, cây cỏ không? Nó không biết đâu, nó vô minh lắm, nhưng mà nó hành, nó vẫn hành, nó gió, nó bão, nó vẫn hành nhưng nó không biết thiện ác đâu. Nhưng mà chúng ta đưa tay đánh người, chúng ta biết thiện ác chứ. Chúng ta mắng người chúng ta biết chứ, cơn gió nó không biết đâu. Vì vậy chỉ có con người mới giải thoát mấy con.
(01:01:57) Trưởng lão: Cho nên do vậy mà đức Phật đã biết được vì vậy mà mới dạy chúng ta: Đừng sát sinh. Đừng sát sinh tức là chúng ta thương yêu sự sống của muôn loài, là chính là chúng ta thương yêu sự sống của chúng ta. Tại sao chúng ta muốn sống mà chúng ta lại nỡ ăn thịt chúng sanh? Nỡ tâm nào các con? Sự sống của chúng sinh đau khổ lắm chứ! Thậm chí như Thầy hôm nay mà cô Út cho một bữa cơm bằng rau, tương dưa cải thôi, mà trong cái sự sống của cây cỏ nó là một sự sống mà các con, trong môi trường sống thì cây cỏ cũng vẫn có sự sống chứ, sao nỡ tâm mà mình ăn chúng các con!? Vì sự sống của mình không ăn thì mình làm sao mình sống được, cho nên mình phải ăn chứ, ăn, nhưng ăn không được phí bỏ các con. Các con ăn không hết, các con đổ một đống rau, các con biết cái đó là con phí sự sống không? Vì sự sống của nó, mà vì sự sống của mình mình mới ăn nó để sống, cho nên mình đừng có phí cái sự sống.
Vì vậy mà giới luật đức Phật dạy: Không sát sanh. Các con thấy không đức Phật dạy rất hay các con! Khi chúng ta đi mà chúng ta dậm cỏ mà héo úa, chúng ta nỡ đành nào mà chà đạp lên sự sống của người khác con, của vật khác các con, phải không các con? Các con thấy: Tại sao mình muốn sống ai lỡ làm cho mình một cánh tay mình đau nhức thì mình có chịu được không mà tại sao mình lại dẫm lên lá cỏ, để rồi cái lá cỏ đó bị héo úa đi, nó có đau đớn không? Đau đớn chúng ta không thấy, nhưng thấy cái hình ảnh héo úa của nó. Chúng ta làm người thương yêu sự sống thì chúng ta nỡ lòng nào thấy sự héo úa này!? Một cành cây kia chúng ta không nỡ lấy cái dao cắt nó kia mà, các con nhìn cái bình bông mà chưng cúng Phật đây, chúng ta thấy chúng ta có xứng đáng không các con? Chúng ta có xứng đáng cái giới sát sanh không?
(1:03:52) Trưởng lão: Giới sát sanh chúng ta cứ nghĩ rằng: Mình đừng có cắt cổ con gà, mình đừng có cắt cổ con vịt, mình đừng có ăn thịt chúng sanh là mình không sát sanh chứ gì? Không phải đâu các con! Các con đã cắt cái bông, mà cái bông là con của cái cây phải không các con? Bởi vì có cái bông thì nó mới có trái, thì cái bông trái tức là con của cái cây chứ gì? Thế mà bây giờ chúng ta cắt cái bông chúng ta chưng, chúng ta làm đẹp cho chúng ta gọi là cúng Phật, vậy thì chúng ta bắt con xa lìa mẹ, mẹ xa lìa con, thì cái cây kia nó có đau khổ không? Nếu nó là người mẹ như chúng ta thì chúng ta đau khổ lắm chứ! Thế mà chúng ta nỡ tâm, chúng ta thấy để mẹ con của một cái cây kia nó quấn quýt bên nhau, chúng ta nhìn xem chúng ta gợi một cái ý thấy mẹ con đang tha thiết bên nhau, đang ôm ấp nhau thì chúng ta hạnh phúc biết bao nhiêu các con! Ai nỡ tâm làm cho mẹ xa con, con xa mẹ mà gọi là cúng Phật mấy con!? Điều đó đúng không? Không đúng đâu mấy con.
Thực sự khi học giới Không sát sanh là chúng ta phải nghĩ: Sao ta nỡ sống trên sự đau khổ của người khác, làm đẹp cho mình bằng bông hoa như vậy? Có xứng đáng chúng ta là con người không? Chúng ta là con vật mấy con. Nên không có nghĩ đến sự đau khổ của người khác chỉ biết mình mà thôi, làm đẹp cho mình mà biết bao sự đau khổ của người khác. Chúng ta cùng cực lắm vì ăn mới sống, chúng ta mới ăn chúng sanh mà thôi, mới có làm cho sự chết của chúng sanh mà thôi. Một người tu sĩ đạo Phật là luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải thực hiện tâm từ bi, lòng thương yêu của chúng ta đối với muôn loài các con, chứ không phải một loài.
Cho nên cây cỏ chỗ nào đáng thì chúng ta nhổ, mà chỗ nào không đáng thì chúng ta đừng rớ tới chúng để làm khổ chúng tội lắm, ai cũng có sự sống. Trong môi trường sống này thì nó đủ duyên thì nó hợp lại thì nó có sự sống, mà hết duyên thì nó tan hoại.
(01:05:48) Cho nên giới thứ nhất dạy chúng ta thương yêu, dạy chúng ta lòng thương yêu chúng sanh, dạy không sát sanh tức là dạy chúng ta thương yêu chứ không phải dạy không sát sanh mà không có nghĩa là không cầm dao, không ăn thịt chúng sanh là chúng ta thương yêu. Con bò nó ăn cỏ, nó có thương yêu chúng sanh không mấy con? Phải không? Con bò ăn cỏ nó không có thương yêu chúng sanh đâu. Nhưng con người mà ăn chay, ăn rau cải là con người biết yêu thương chúng sanh, không những thương yêu loài động vật mà thương yêu loài thảo mộc.
Hôm nay Thầy nói như vậy các con thấy giới luật của Phật khó quá, khó quá! Không khó đâu các con, tạo cho chúng lòng thương yêu, để chúng ta có sự thương yêu, chúng ta mới không có sự đau khổ chứ. Còn chúng ta không thương yêu thì cái gì mà không vừa ý mình, thì mình vẫn tìm cách mình hại người ta mấy con. Còn mình thương yêu mình không hại ai nữa đâu. Tại sao cái người đó không thương yêu mình, hay cái người đó không vừa ý mình, tính tình không vừa ý thì mình ghét người đó mình tìm cách mình hại người đó, thì như vậy rõ ràng là mình thiếu lòng từ bi.
Cho nên mình tập thương yêu, tức là mình tập cái giới đức làm Thánh đấy các con. Thương yêu từ loài động vật, từ con vật nhỏ cho đến con vật lớn. Cho nên khi đi người ta nhìn xuống đất, người ta tránh từng con kiến dưới đất, người ta không dẫm đạp. Khi đi người ta tránh từng cây cỏ, người ta không dẫm đạp lên cây cỏ mấy con. Lòng thương yêu đó giúp chúng ta được thảnh thơi, được an ổn không làm khổ mình, khổ người, không tạo nhân ác, lòng thương yêu rất tuyệt vời.
Đạo đức như vậy có xứng đáng là chúng ta thọ một giới luật này không? Một đạo đức này không? Xứng đáng lắm mấy con! Tại sao? Tại vì từ khi mà chúng ta thọ giới này, chúng ta có nhiều, suy tư rất nhiều từ đó tất cả những loài vật mà sinh ra trong môi trường sống trên hành tinh này, chúng ta không hề vi phạm đến sự sống của chúng, không hề vô tình vi phạm nữa. Nghĩa là chúng ta luôn luôn tỉnh giác để mà chúng ta sống trong tình thương yêu của muôn loài.
Nếu phỏng chừng bây giờ đất đá không, toàn bộ không có cây cỏ, mà chúng ta sống thì thử hỏi chúng ta có thấy khô khan không? Có thấy khổ sở không? Nhờ cây cỏ mà làm cho chúng ta có một sự sống mát dịu, có sự sống nương tựa nhau, cho nên chúng ta thấy an ổn vô cùng. Phỏng chừng hành tinh của chúng ta bây giờ cây cỏ toàn bộ bị khô cằn rồi chết hết đi, chúng ta sống được không? Chắc chắn chúng ta sống không được đâu. Cho nên chúng ta phải bảo vệ tất cả sự sống của muôn loài, không những loài động vật.
(01:08:26) Hôm nay chúng ta chưa hoàn toàn chưa thực hiện được lòng thương yêu hoàn toàn sự sát hại chúng sinh hoàn toàn, thì ít ra chúng ta cũng phải tập (một) ngày, một tháng được một ngày. Cho nên khi mà lòng thương yêu mình như vậy, thì các con nghĩ rằng khi chúng ta ăn cơm rau thì trong hạt cơm đó có biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt của người nông dân làm ra. Rồi từ hạt cơm đó, biết bao nhiêu sự đau khổ của loài vật, chúng sinh trong đó, biết vì được hạt cơm thì biết bao nhiêu loài sâu rầy bị chết mấy con, chúng ta mới sống được hôm nay.
Cho nên chúng ta rất tiết kiệm, đừng phí nó các con. Riêng ai phí, riêng Thầy không dám phí, ai phí ai làm gì thì người ta thọ lấy nhân quả đó. Còn riêng Thầy, dù một hạt cơm rớt Thầy cũng lượm không bỏ đâu mấy con. Ai nói rằng nó sẽ không vệ sinh, thực sự ra vệ sinh hay không vệ sinh thì cơ thể của Thầy nó đủ sức đề kháng lại tất cả những điều đó. Thầy thấy một con chó nó ăn một cái vật dưới đất dơ bẩn, thế rồi nếu mà nó không có sự đề kháng chắc chắn nó phải bệnh. Nếu mà cứ theo các ông bác sĩ nói, thì như con chó nó luôn luôn nhiễm bệnh nó chết hết rồi, phải không các con?
Cho nên Thầy biết rằng: Giữ vệ sinh hay không vệ sinh là cơ thể của Thầy nó đủ sức để kháng lại, thì cái vệ sinh thì nó đỡ hơn, mà không giữ vệ sinh thì nó có thể nguy hại, nhưng mà sự tiết kiệm sự sống nó lại quan trọng hơn mấy con. Lỡ hột cơm chúng ta rớt dưới đất thì chúng ta lượm lên chúng ta rửa đi rồi chúng ta ăn đi, đừng phí các con. Đây là hột nó rớt đất. Nếu mà chúng ta giữ vệ sinh là chúng ta phải làm như vậy. Một giọt nước chúng ta uống, uống cho tận cùng, đừng có uống nửa chừng rồi chúng ta tạt phí bỏ, đó trong đó có sự sống mấy con. Bởi vì chúng ta vừa uống là uống sự sống của muôn loài, mà bây giờ còn thừa chúng ta lại tạt bỏ sự sống của kẻ khác, không được đâu mấy con, chúng ta rót vừa uống thôi. Cũng như giặt đồ, quần áo của chúng ta vì vệ sinh chúng ta phải giặt giũ cho sạch sẽ, do đó chúng ta vừa phải đừng có lãng phí nước các con, vì nước trong đó có những loài vật sống các con, nếu chúng ta đổ tạt ra bao nhiêu loài vật phải chết đi, lòng thương yêu không cho phép chúng ta làm điều đó các con, mặc dù mắt chúng ta không thấy những loài vật đó, nhưng ít ra cũng có. Vì sự sống chúng ta phải uống nước để mà sống cho nên chúng ta chấp nhận. Nhưng chúng ta không phí sự sống của chúng đâu, đó là người tu theo đạo Phật mấy con.
Cho nên đức Phật dạy chúng ta đâu có ăn chay mấy con, dạy chúng ta ăn mà phải có lòng thương yêu. Vì vậy mà lòng thương yêu thì chúng ta ăn không phải ăn chay như con bò, các con hiểu ý của đức Phật. Cho nên đức Phật dạy rất hay, rất tuyệt vời! Còn Bà La Môn dạy chúng ta ăn chay trường, ăn này ăn kia, ăn chay, lục trai, thập trai, rồi ăn chay trường để làm Phật, điều đó đều không có mấy con. Chắc chắn không có, nếu có thì con bò nó thành Phật hết rồi.
Do vì vậy mà chúng ta xác định được cái lý của đạo Phật. Cái lý của đạo Phật bằng trí tuệ của chúng ta, mỗi hành động chúng ta đều có sự hiểu biết sâu sắc, có tình thương yêu sâu sắc trong đó, có một đạo đức cao thượng trong đó, không phải như những người thấp hèn. Hôm nay về cái giới sát sanh các con hiểu rồi chứ, đó là rèn luyện, tu tập lòng thương yêu của chúng ta đối với loài vật, đối với sự sống của muôn loài trên hành tinh này. Vì đó mà giới sát sanh là giới thứ nhất của đạo Phật.
(1:11:57) Trưởng lão: Giới thứ hai là giới Không trộm cắp mấy con, giới Không tham lam. Tại sao không tham lam? Vì mình tham lam là sanh ra nhiều đau khổ mấy con, nếu mình tham ăn, nếu mình ăn nhiều thì bao tử của mình, thân thể của mình mệt. Mình tham ngon là ăn những chất độc các con, đem những chất độc vào thân con người; còn ăn đơn giản rau, muối nó không ngon, nhưng mà nó rất hiền các con, cơ thể rất khỏe, ăn rồi vẫn thấy nhẹ nhàng, tươi tốt. Đó là chúng ta không tham.
Còn bây giờ tham mà chúng ta nghe nói đừng trộm cắp, đừng lấy của người. Thì cái này là cái thô mấy con, về tham các con thấy có nhiều góc độ tham lắm các con. Sau này các con đọc sách đạo đức của Thầy các con sẽ thấy Thầy nói về cái vấn đề tham.
Một ông thầy giáo là một người tốt mấy con, là một nhà sư phạm mấy con, một gương hạnh cho trẻ con mấy con, thế mà ông thầy giáo cho bài học trò rồi ngồi đó lật cái tờ báo ra đọc thì ông thầy giáo đó là người ăn trộm giờ của học sinh các con, ăn cắp nữa. Một người thư ký làm trong văn phòng, người ta ngồi, người ta làm việc hết trong khi giờ chưa hết mà công việc xong, ngồi đó lấy báo ra đọc, thật sự ra người thư ký đó ăn cắp giờ trong văn phòng đó. Tất cả những cái điều kiện trộm cắp rất là lớn ở trong cái xã hội này. Một người công an ăn hối lộ là ăn cắp đó các con, ăn trộm đó các con, ăn cướp của người ta đó. Tất cả những hành động này đều là trộm cắp tất cả hết.
(01:13:36) Cho nên chúng ta phải biết rằng: Từng tâm niệm của chúng ta; từng sự suy nghĩ của chúng ta; từng hành động của chúng ta mà mình có một cái hành động tham lam, trộm cắp trong đó thì không tốt đâu mấy con. Chúng ta sẽ tạo một cái nhân nghèo khổ, cái nhân đau khổ của chúng ta.
Vì vậy mà cái đạo đức dạy chúng ta không tham lam, trộm cắp này là dạy chúng ta trở thành một con người biết trọng của mình, biết trọng của người. Lấy của người ta, người ta mất của người ta buồn, lấy của người ta, người ta mất của người ta đau khổ, thì phỏng chừng ai lấy của mình, mình có buồn không? Buồn chứ! Các con có một chiếc xe khi lơ đễnh các con để, không để ý người ta đẩy xe, các con buồn ngao ngán! Rồi các con chạy tới công an để mong bắt được người đó lấy xe lại, điều đó là một cái điều rất là khó hy vọng. Cho nên khi chúng ta biết khổ của người mất của thì không nên lấy của người. Vậy mà chúng ta nên xả, không tham lam trộm cắp mà còn biết san sẻ khi chúng ta làm có thừa thì chúng ta giúp cho những người đang đói khổ, an ủi sự bất hạnh của họ, thì điều đó là điều tốt. Chúng ta giàu để làm gì các con, để nói rằng mình hơn thiên hạ sao? So với nhà vua, với những nhà tài phiệt giàu có hàng tỉ tỉ đô la ở trên thế gian này chúng ta bằng họ sao?
Cho nên chúng ta chỉ tìm cái sống cái sống cho an ổn mà thôi, đừng tham giàu vì chúng ta chẳng giàu bằng ai cả hết. Vì chúng ta giàu còn có người giàu hơn, cho nên chúng ta đừng tham, tạm thời đủ sống. Chẳng hạn như bây giờ, đời của Thầy sống trong cái nhà bằng cái chùa bằng tầm vông trúc tre này mà phỏng chừng cách đây mười năm, hai chục năm Thầy cất nó bằng tường, bằng những sự kiên cố đẹp đẽ, thì từ ngày đó tới giờ nó có làm cho Thầy mập béo thêm đâu, mà lại làm cho Thầy cực khổ với nó hơn là một cái chùa bằng tầm vông trúc tre, các con sống thấy an ổn. Do sự suy tư, do trí tuệ giúp Thầy được an ổn cho nên Thầy không bị say đắm, Thầy không bị lầm lạc, cho nên Thầy không nô lệ cho sự giàu sang đó. Cho nên chúng ta là những người cư sĩ làm đủ sống và thừa khả năng chúng ta làm dư, làm thừa thì chúng ta hãy làm dư làm thừa, để làm gì? Để giúp cho những người, người ta nhân quả khổ đau hơn, bất hạnh hơn, chúng ta hãy giúp họ. Đó là những điều mà các con không tham lam mà còn cố gắng làm, làm để giúp cho xã hội, làm để giúp mọi người.
Chẳng hạn bây giờ các con có tiền bạc, có tài năng, có khả năng, các con mở ra công ty xí nghiệp, các con thu nhận một số người vào làm, các con trả lương cho họ đủ với cái sức làm lao động của họ thì cuộc sống của họ có được cơm ăn áo mặc giảm đi sự nghèo đói của họ. Thì đấy là các con không phải làm để làm giàu mà làm vì mọi người khác để giúp cho họ có công ăn việc làm, để làm có tiền giúp cho những người đang đói, đang trong cơn đói, đang trong bệnh mà không có tiền bạc. Thì như vậy các con là con người có mặt hiện hữu trong thế gian này, mà có lợi ích cho mọi người như vậy, thì cái sự sống của các con là sự sống hạnh phúc, sự sống có giá trị. Không tham lam mà còn làm cho người, mọi người xung quanh sống có hạnh phúc thì điều đó là điều rất tốt, mà đạo Phật đã dạy chúng ta trong giới luật: Không trộm cắp, tham lam.
(1:16:53) Trưởng lão: Giới thứ ba là giới Không vọng ngữ. Không vọng ngữ tức là không nói láo. Nói láo khó lắm mấy con, sơ suất là chúng ta sẽ nói láo, bởi vì nói láo không hại ai hết, nhưng chúng ta vẫn có nói láo. Cho nên điều kiện tiên quyết là một người đã theo đạo Phật, nhất định nói thật, không nói láo, chuyện gì không thêm bớt, chuyện gì thấy biết rất rõ mới nói không thêm bớt, thêm bớt cũng là một điều nói láo không tốt. Điều gì mà nói ra có hại người khác thì chúng ta không bao giờ nói, ai cạy miệng cũng không nói, làm thinh. Thà là như thế nào là mình chấp nhận chứ không nói điều đó, mặc dù nói điều đó là một sự thật, nhưng mà điều đó có hại người khác nhất định không nói.
Ví dụ một người làm chính trị, họ trốn trong nhà mình hay hoặc là họ trốn ở đâu đó, thì có một người khác đến hỏi mình, mình chỉ người đó để cho người khác bắt người đó, đánh đập người đó thì chúng ta hoàn toàn là chúng ta không nói thật. Họ hỏi biết là tôi biết đó nhưng điều kiện là tôi không nói, nhất định là hoàn toàn không nói, nói người ta sẽ bị bắt, người ta đau khổ. Cho nên có những điều mà chúng ta nói, mà có những điều mà chúng ta không nói, chúng ta làm thinh. Họ hỏi tại sao mình làm thinh thì lẽ ra mình nói mình không biết tức là mình có nói láo, cho nên mình nói: “Điều này tôi nói không được, xin anh, chị hoặc là ông hay anh gì đó điều này là điều không thể nói được, thì ông muốn hiểu như thế nào thì hiểu. Cái gì mà tôi nói được là tôi nói một sự thật, mà cái gì mà tôi nói không được là tại vì tôi là người thật mà tôi nói cái điều này, nó có một cái tai hại gì cho ai đó, cho nên tôi không nói thôi”. Cho nên mình phải dè dặt, cẩn thận khi thọ giới này đáng nói thì nói, mà không đáng nói là làm thinh, và tìm cách nói đi chuyện khác hơn là nhắc lại việc đó. Khi thọ giới rất khó vì cái giới này rất khó, khó mà chúng ta có thể giữ trọn được. Cho nên buộc lòng chúng ta phải nói thẳng, nói thật. Nhưng nói thẳng, nói thật có hại nhất định là chúng ta không nói, làm thinh.
(01:19:11) Thầy xin nhắc lại, ngày xưa trong cái thời đức Phật tu về hạnh nhẫn nhục, cho nên có một nhà vua đi săn nai, đuổi con nai chạy qua, và con nai chui vào cái bọng cây, cái hốc đá ở sau lưng của đức Phật nó trốn đó, thì nhà vua đến mới hỏi đức Phật: “Ông ngồi tu đây ông thấy con nai tôi đuổi nó chạy ngang qua đây không?” Đức Phật làm thinh, hỏi gì cũng không nói, nếu mà nói láo chỉ cho nhà vua đi khỏi thì mình bị mang tội nói láo, mà chỉ con nai nó chui vào đây thì con nai sẽ bị giết. Thì hai cái giới luật này thì đức Phật không làm sao được, cho nên đức Phật làm thinh; mà làm thinh thì phụ lòng người, làm cho người ta tức giận thì làm khổ người thì không thể được.
Cho nên đức Phật lại tu nhẫn nhục cho nên lại nhẫn nhục Ba La Mật theo như Đại Thừa, thì câu chuyện này là câu chuyện Đại Thừa. Cho nên vì vậy mà nhà vua tức giận: “Ông chê tôi, ông coi tôi không ra gì, tôi hỏi ông có thì ông nói có, không thì ông nói không, tại sao ông làm thinh? Ông coi tôi không ra gì”, cho nên nhà vua tức giận mới chặt tay và khoét mắt ông ra. Thì đó là cái điều mà tu về giới luật không nói dối. Cho nên đức Phật làm sao nói được, làm thinh. Làm thinh như vậy chúng ta thấy không hay đâu.
(1:20:24) Nhưng mà trái lại theo Thầy thiết nghĩ là tại vì đức Phật tu hạnh nhẫn nhục Ba La Mật theo kiểu Đại Thừa, cho nên nhẫn nhục, chịu đựng trong cái sự đau khổ đó. Trái lại Thầy nói thẳng, nói thật: “Thật sự tôi là một người tu sĩ là tôi giữ gìn hai cái giới luật: Một là cái giới không vọng ngữ, không nói dối; hai là cái giới không sát sanh. Bây giờ tôi chỉ cho nhà vua biết con nai ở đâu nhà vua sẽ giết con nai chết đi thì tôi là mang tội sát sanh. Mà tôi chỉ sai, tôi nói láo tôi chỉ sai cho nhà vua thì tức là tôi là người nói dối. Thì như vậy tôi phạm lỗi, như vậy tôi không xứng đáng là một tu sĩ, xin nhà vua hiểu và tha thứ cho tôi, làm sao mà tôi nói được”, phải không? Khi mà nói như vậy thì nhà vua thông cảm liền. Một người tu sĩ người ta bị kẹt trong hai cái giới này rồi, làm sao người ta nói thật cho mình được, thôi mình đi tìm. Ông vua không giận, đâu làm sao mà ông trở thành một người ác để chặt tay, móc mắt người khác. Chúng ta lại vô tình lại chúng ta tu tập nhẫn nhục Ba La Mật mà chúng ta tạo cho người khác trở thành một ác nhân, thì cái này không hay đâu.
Cho nên, cái nói vọng ngữ, cái nói láo khéo léo lắm mấy con. Khi mà chúng ta thọ giới này, chúng ta phải cẩn thận, phải trí tuệ lắm, chúng ta phải tập tỉnh giác, tỉnh thức hàng ngày để rồi từ tỉnh giác đó, chúng ta mới xuất hiện được trí tuệ mà đối đáp với những điều không nói vọng ngữ. Đó là cái giới mà chúng ta cần phải giữ gìn.
(1:21:48) Trưởng lão: Cái giới tà dâm, ở đây dạy người cư sĩ không tà dâm các con chứ không phải tu sĩ. Vì vậy các con thấy rằng dạy tà dâm tức là dạy đạo nghĩa, đạo nghĩa làm chồng, làm vợ phải chung thủy, phải có nghĩa với nhau, không có được nay người này, mai người khác. Đó là cái ý nghĩa đen của giới luật này. Nhưng mà nghĩa bóng của nó thì vô cùng vô lượng, cái tình nghĩa của chúng ta đối với cha mẹ, đối với con, con đối với cha mẹ phải có tình có nghĩa, phải có lòng thương yêu, bạn bè đối với nhau, học trò, thầy trò đối với nhau như thế nào có tình có nghĩa.
Chứ ở đây không có nghĩa là cái giới nó chỉ cô đọng lại có một chỗ là tình chồng nghĩa vợ không, không phải đâu, nhưng mà nói tà dâm có nghĩa là cái không đúng, đối xử với nhau không đúng chứ không phải riêng dâm dục. Thì hôm nay, phải hiểu cái nghĩa rộng là chúng ta sống trong cuộc đời phải có tình có nghĩa, đối xử với nhau cho tốt, chứ đừng có vô tình bạc nghĩa, đừng có đối xử với nhau như những người thiếu đạo đức. Cho nên cái giới mà dạy chúng ta là không tà dâm tức là dạy chúng ta đạo nghĩa. Đạo nghĩa, có tình có nghĩa, sống có chung có thủy với nhau.
Chẳng hạn như bây giờ mấy con là đệ tử của Thầy, thì mấy con phải nghĩ có tình đối với Thầy và Thầy có nghĩa đối với người đệ tử của mình, phải làm sao phải giúp đỡ sao cho các đệ tử của mình đi trên con đường đạo Phật có được những ngày giờ an ổn, thanh thản, an lạc. Bởi vậy cho nên các con không nhận thêm một vị thầy, thì các con không có rơi nước mắt, nhưng mà khi các con nhận một vị thầy, khi nghe một vị thầy mình tịch, chết đi, mình phải thương xót vị thầy chết. Các con không nhận một vị thầy thì các con không đau khổ, nhưng mà nhận thêm một vị thầy thì các con có sự đau khổ, mình đã nhận thầy thì như là một người cha của mình, mà khi người thầy, người cha của mình mất đi mình có đau khổ không? Có! Nhưng các con nên nhớ rằng: Khi mình thêm một cái gì thì mình có sự đau khổ. Nhưng mà thêm cái sự tu tập của đạo Phật thì chắc chắn mình nghĩ rằng: “Hàng ngày mình làm xứng đáng những lời mà Thầy dạy thì hôm nay Thầy mất đi là một hạnh phúc lớn”, mình không buồn khổ đâu mấy con, mình buồn khổ mình không xứng đáng với một vị Thầy đâu con.
Cho nên các đệ tử của Phật ngày xưa khi đức Phật tịch, một số người tu chưa chứng họ khóc mùi mẫn, họ đau khổ, họ vật vã rất nhiều, thậm chí như ông A Nan cũng còn buồn khổ, quá buồn khổ. Trái lại, có một số người tu chứng, họ thản nhiên, họ thấy họ xứng đáng trong khi Phật còn sống và Phật chết, họ luôn luôn họ ở trong cái đạo đức của đạo Phật không làm khổ mình, khổ người, cho nên luôn luôn lúc nào họ cũng thấy được Phật.
Các con nghĩ rằng: Một trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự là một điểm chung cho mọi người và chúng ta sẽ gặp nhau trên một một điểm chung đó. Do đó nếu mà Thầy mất đi, luôn luôn tâm Thầy cũng thanh thản, an lạc và vô sự thì lúc bấy giờ các con cũng thanh thản, an lạc, vô sự thì Thầy trò gặp nhau trên một trạng thái đó có đâu xa nhau đâu mà lại thương, lại khóc, lại mất mát chỗ nào đâu. Thân tứ đại là đất, nước, gió, lửa thì phải trở về đất, nước, gió, lửa có gì là buồn khổ?
(1:25:04) Cho nên ở đây Thầy nhắc nhở, đây cũng là một cái điều mà các con đã thọ những cái giới luật này thì các con cũng nên nhớ rằng: Khi một ngày nào đó Thầy sẽ mất đi, và mất đi để lại sự đau khổ nơi các con, vì vậy mà hôm nay nghe lời Thầy thì khi mà Thầy mất đi, các con thấy các con cũng đang được ở trong trạng thái như Thầy thì luôn luôn lúc nào cũng gần bên Thầy, có gì mà phải khóc thương? Trừ ra các con đang suy tư lo lắng làm giàu, làm có, làm thế này thế khác thì các con đã xa Thầy, dù các con có khóc bao giờ các con cũng không được ở gần bên Thầy.
Nhưng các con không khóc mà các con sống thanh thản, an lạc, vô sự; trước khi mất Thầy các con vẫn thấy tâm mình thanh thản, an lạc, vô sự. Vì các con đã hiểu đó là một vị thầy luôn luôn sống trong trạng thái đó, dù Thầy có bỏ thân tứ đại này thì Thầy trả về đất, nước, gió, lửa thì thân xác Thầy vẫn là đất, nước, gió, lửa. Cho nên vì vậy hôm nay Thầy bỏ nó, nhưng mà tâm Thầy thì luôn luôn thanh thản, an lạc, vô sự và đồng với một điểm với các con cũng thanh thản, an lạc, vô sự thì thầy trò chúng ta đã gặp nhau chứ còn gì mà phải khóc thương, có cách xa nhau đâu, có lìa nhau chỗ nào đâu phải không? Có mất mát gì đâu mà phải khóc thương! Đó là tình nghĩa của chúng ta đối với cái giới này.
(1:26:20) Trưởng lão: Còn nói về giới uống rượu, giới thứ năm, thì các con thấy rằng chúng ta là những người nữ thì chắc chắn chúng ta ít bị nghiện rượu, nhưng dù sao chúng ta cũng vẫn bị chứ đâu phải không, nhưng chúng ta phải biết nó là một thứ độc dược, nó ngấm dần, nó làm cho cơ thể chúng ta bệnh tật, nó tạo cho chúng ta trí tuệ, trí óc của chúng ta u tối, không có minh mẫn, không có sáng suốt. Cho nên các con thấy một người uống rượu họ về đánh vợ, đánh con họ, họ còn sáng suốt không? Vợ con là những người thân thương của họ, giúp họ từng bữa cơm manh áo, thế mà họ nỡ tâm nào say rượu rồi họ chẳng biết gì hết, họ lại chửi vợ, mắng con họ, họ làm cái gia đình họ như địa ngục, họ có thông minh nữa không? Họ hết trí tuệ rồi, họ trở thành một con ác thú chứ không phải là một con người.
Hôm nay, các con được nghe Thầy giảng, vì vậy mà những chất mà nghiện ngập, làm cho cơ thể chúng ta bệnh tật và đau khổ và không trí tuệ thì các con thấy như những chất như thế nào? Rượu là một, hai là thuốc lá, ba là cà phê, bốn là thuốc phiện. Tất cả những các loại nghiện ngập này… chúng ta phải tránh xa nó. Cho nên chúng ta có con cái chúng ta cũng cố gắng dạy chúng: “Các con hãy xa những thứ độc dược này, nó sẽ hại các con và nó làm buồn khổ cha mẹ, làm cho buồn khổ cả dòng họ nữa. Khi mà các con bị nghiện ngập say sưa không thể nào mà cai bỏ được, thì nó sẽ đem đến hậu quả là bao nhiêu người đau khổ. Cho nên các con vì thương yêu mẹ cha, vì thương yêu dòng họ, thương yêu những người thân thương thì các con đừng nên nhiễm nó”. Các con hãy dạy con của mình đừng nên nhiễm nó, nhiễm nó là các con đã làm cho bao nhiêu người đau khổ.
Hôm nay cái giới luật thứ năm là cái đạo đức không để cho chúng ta nghiện ngập những cái điều làm tai hại cho cơ thể, cho tinh thần của chúng ta. Cho nên đức Phật đã dạy chúng ta đừng có nên nghiện ngập. Vậy thì hôm nay các con đã thọ, đã nghe giảng về năm cái điều lành, năm cái giới luật làm người, vậy thì chúng ta muốn làm người hay là không muốn làm người? Nếu không muốn làm người thì chúng ta là một động vật. Cho nên chúng ta cố gắng từng phút giây khắc phục mình để giữ gìn năm cái điều này.
(1:28:46) Trưởng lão: Cho nên như Thầy đã nói, đức Phật đã dạy: “Được thân người là khó”, khó ở chỗ nào mà chúng ta thấy con người sinh ra đầy ở trên mặt đất này hết tại sao khó? Khó là khó chỗ năm điều, năm điều lành này mấy con. Thực sự con người thực sự mới là con người mới giữ gìn được năm điều lành này, mà con người không thực sự là một con thú vật thôi mấy con. Cho nên vì vậy chúng ta mặc dù là chúng ta giữ được bốn giới mà không giữ được một giới chúng ta cũng vẫn còn mang bản chất của loài động vật mấy con, chưa có ra khỏi loài động vật đâu. Cho nên chúng ta nhìn lại cái số người mà thoát ra được làm người hoàn toàn không còn mang loài động vật thì chúng ta thấy hiếm lắm các con.
Cho nên: “Được thân người là khó, khó như con rùa mù tìm bọng cây giữa biển các con”. Đức Phật nói lời nói không sai đâu các con, đừng nghĩ đức Phật nói lời nói là có lúc đúng, lúc sai đâu, không phải. Đức Phật nói lời nào, Thầy nghiệm lại Thầy thấy rất đúng. Bởi vì đức Phật đã xác định được cái tiêu chuẩn đó rồi.
Cho nên hôm nay các con đã thọ được, các con đã nghe được năm giới, thì các con hãy cố gắng, cố gắng mà giữ gìn. Không phải bắt buộc các con phải giữ gìn một ngày cho nó xong đâu, các con hãy tập suốt cuộc đời các con để làm người đấy các con, phải cố gắng; tới giờ phút cuối cùng mà các con sắp sửa bỏ xác thân này, thì các con nên giữ gìn trọn vẹn, lúc bấy giờ tâm hồn thanh thản; đừng vì lúc bấy giờ mà người ta bảo “phải ăn thịt để mà sống thêm”, các con đừng có ăn.
Cho nên các con nhớ rằng: Đừng có vì một cái lý do gì mà chúng ta sống mà phá năm cái giới này thì các con sẽ trở thành loài động vật tiếp tục các con. Cho nên các con nhớ kỹ những lời Thầy nói: Khi sắp sửa chết, mình biết rằng không thể sống được, thì nhất định thịt cá không nhét vào trong miệng mình được đâu, mình không ham sống nữa đâu các con. Sống mà làm đau khổ cho những loài vật khác, sống sao nỡ làm sống trên sự đau khổ của loài vật khác các con. Cho nên nhất định chúng ta chết để mà chết trong thanh tịnh; chết để mà xứng đáng làm người, thì cái đó là cái quan trọng của các con.
(1:30:50) Cho nên năm giới này các con phải nhớ kỹ, đến cái giờ phút cuối cùng mà các con chưa có đủ cái sức mà giải thoát thì các con phải giữ gìn trọn vẹn, không được vi phạm, thì như vậy các con mới có thể cứu các con và các con có sanh lên làm người, làm người rất thiện, hướng đến đúng con đường của đạo Phật, không bị giáo pháp của ngoại đạo lừa đảo các con được. Cho nên các con nhớ các con giữ đúng năm cái điều thiện này, có năm điều thôi mấy con, mà giờ phút cuối cùng của các con, con phải giữ cho thanh tịnh thì các con sẽ vượt qua những khó khăn. Các con nhớ lời Thầy hôm nay, Thầy không có đủ duyên mà để nói nhiều, để giảng nhiều, bởi vì sức khỏe của Thầy càng ngày càng kém và đồng thời Thầy còn phải để sức khỏe của Thầy để soạn thảo bộ sách “Đạo Đức Làm Người” để giúp cho mọi người trên hành tinh này đang tha thiết một nền đạo đức nhân bản.
Đến đây các con có thấy rằng năm cái giới này là những cái đức hạnh làm người, xứng đáng là làm con người, thì các con hãy xin chắp tay lên xin Phật: “Lần lượt từ đây về sau, con sẽ cố gắng lần lượt thực hiện, chứ không phải thực hiện được ngay bây giờ, lần lượt thực hiện tuần tự, con sẽ xin khắc phục để sống đúng những cái đạo đức, năm điều lành này. Mong Chư Phật chứng minh cho con”.
Tam quy nó cũng là cái giới luật sống đó mấy con: Phật giới, Pháp giới, …
HẾT BĂNG